26
ĐỀ TÀI THO LUN : PHÂN TÍCH MQH BIN CHNG GIA NHN THC VÀ THC TIN

Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN : PHÂN TÍCH MQH BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN

THỨC VÀ THỰC TIỄN

Page 2: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

1 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI

KHOA : THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ, K46

Thảo luận

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ-NIN I

LỚP HP : 1016MLNP0111

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN :

PHÂN TÍCH MQH BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN

Page 3: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

2 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN NHÓM 7 :

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn. Ý nghĩa

Phương pháp luận.

Lớp học phần : 1016MLNP0111

Thành viên nhóm 7:

1. Nguyễn Tài Nguyên (nhóm trưởng)

2. Nguyễn Thị Ngọc Ngà

3. Nguyễn Thị Thúy Ngân

4. Nguyễn Thị Nhung

5. Phạm Thị Hồng Nhung

6. Trần Trọng Phúc

7. Trịnh Hồng Phúc

8. Nguyễn Thu Phương

9. Đỗ Văn Phượng

Page 4: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

3 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

THỰC TIỄN VÀ TÍNH CHẤT THỰC TIỄN 4

NHẬN THỨC VÀ TÍNH CHẤT NHẬN THỨC 6

BẢN CHẤT MỐI QUAN HỆ THỰC TIỄN – NHẬN THỨC 13

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA THỰC TIỄN – NHẬN THỨC 17

Ý NGHĨA PHƢƠNG PHÁP LUẬN 24

Page 5: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

4 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Triết học là thành tựu nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo con người và

loài người nói chung. Quá trình hình thành và phát triển của triết học diễn ra quanh

co, phức tạp và lâu dài.

Vấn đề quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong

triết học xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ

biện chứng giữa nhận thực và thực tiễn là vô cùng quan trọng, cần thiết.

Nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Con người có khả năng nhận thức được thế giới

hay không?...là những vấn đề cơ bản của triết học mà mọi trào lưu, khuynh hướng

triết học khác nhau, đặc biệt là triết học truyền thống phải giải quyết. Sự tác động qua

lại giữa nhận thực và thực tiễn ra sao? Vai trò của chúng đối với nhau như thế nào?

1. THỰC TIỄN VÀ TÍNH CHẤT THỰC TIỄN

Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,có tính sáng tạo,

mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Khác với các loại hoạt động khác, hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con người

sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhất định,

làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng và bản

chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng

phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy hoạt động thực tiễn bao

giờ cũng có tính mục đích, mang tính sáng tạo, tính lịch sử, xã hội.

Thực tiễn có 3 hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị

xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

1. Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực

tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người dùng những công cụ lao động tác động

vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết để nhằm duy trì sự

tồn tại và phát triển của mình.

- Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động bằng : lao động phổ thông, (chân tay), lao

động trí óc, cộng với các phương tiện, dụng cụ lao động, máy móc kỹ thuật để sản

xuất và tái sản xuất mở rộng ra vật chất (sản phẩm, hàng hóa) phục vụ cho nhu cầu

tiêu dùng và xã hội.

Page 6: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

5 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Ví dụ hoạt động sản xuất ra lúa gạo, hoa màu, thức ăn, nước uống...SX kinh doanh

ra vải vóc, quần áo, hàng hóa tiêu dùng, xây dựng nhà cửa...Phát minh ra các loại xe

máy, ô tô, máy móc phục vụ cho công nghiệp...

2. Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các đoàn thể, tổ chức quần chúng,

các đảng phái chính trị trong xã hội. Được kết hợp giữa trí óc và các hoạt động xã hội

khác, có điều lệ, cương lĩnh, nguyên tắc, tổ chức....riêng.

Ví dụ hoạt động của các tổ chức : Mặt trận tổ quốc, Hội chữ thập đỏ, Đoàn thanh niên

CS Hồ Chí minh, Hội cựu chiến binh...

3. Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực

tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần

giống, giống hoặc lặp đi lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định

những quy luật biến đổi, phát triển của đối trượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này

có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng

khoa học và công nghệ hiện đại…

Ví dụ việc trồng rau trong nhà kính, xây dựng vườn bách thảo, các công viên quốc

gia, nuôi cấy mô, thực nghiệm sinh học, nghiên cứu vũ trụ trong môi trường không

trọng lượng, nghiên cứu thực nghiệm các môn khoa học tự nhiên…

Kết luận : Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan trọng

khác nhau. Không thể thay thế cho nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác

động qua lại lẫn nhau. Trong MQH đó, hoạt động sản xuất vật chất lại có vai trò quan

trọng nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi vì nó là

hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong

đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính

quyết định nhất với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản

xuất vật chất thì không thể hình thành được các hoạt động thực tiến khác. Các hình

thức hoạt động thực tiễn khác, suy cho cùng cũng bắt nguồn từ thực tiễn sản xuất vật

chất và nhằm phục vụ cho thực tiễn sản xuất vật chất.

Theo quan điểm của duy vật biện chứng, thực tiễn gồm 2 chức năng quan

trọng: thứ nhất là chuyển cái tinh thần thành cái vật chất, tức là khách quan hóa chủ

quan. Thứ hai là chuyển cái vật chất thành cái tinh thần, tức là chủ quan hóa khách

quan. Thực tiễn có vai trò đặc biệt to lớn đối với nhận thức, nó chính là cơ sở mục

đích, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.

Page 7: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

6 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

ANGGHEN đã viết: “từ trước tới nay Khoa học tự nhiên cũng như Tự nhiên hoàn

toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn

ấy, một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng, nhưng chính người ta

biến đổi tự nhiên… là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ

con người đã phát triển song song với việc người ta học cải biến tự nhiên”.

2. NHẬN THỨC VÀ TÍNH CHẤT NHẬN THỨC

Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình biện chứng của sự

phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và

không ngừng tiến đến gần khách thể.

Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản

ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích

cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.

Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát các

thành tựu khoa học, C. Mác và Ph. Angghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng

duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý

luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan điểm khoa học đúng đắn về bản

chất của nhận thức. Học thuyết này ra đời dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:

Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.

Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan; coi

nhận thức là sự phản ánh thê giới khách quan vào bộ óc con người, là hoạt động

khách quan của chủ thể; thừa nhận không có gì là không thể nhận thưc được mà chỉ

có cái con người chưa nhận thức được.

Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và

sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trinh tự từ chưa biết đến biết, tư biết ít

đến nhiều, tư chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu săc và toàn diện hơn,..

Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức và là tiêu chuẩn

để kiểm tra chân lý.

Theo quan điêm duy vật biên chứng, nhận thức là một quá trình. Đó là quá trình đi từ

trình độ nhận thức kinh nghiêm đến trình độ nhận thức lý luận; tư trình độ nhân thức

thông thường đến trình độ nhận thức khoa học. Dựa trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa

Page 8: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

7 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng tích cực,

tự giác và sang tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực

tiễn.

Nhận thức kinh nghiệm là nhận thức hình thành từ sự quan sát các sự vật

hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các hiện tượng nghiên cứu khoa học

.Kết qủa của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có 2

loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và nhưng tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai

loại tri thức đó có thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau.

Nhận thức lý luận là trính độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống

trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác

nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức

kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận; nó cung cấp chi nhận thức lý luận những

tư liệu phong phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn chăt với hoạt động thực tiễn, tạo thành cơ

sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát

và tông kết thành lý luận mới. Tuy nhiên nhận thưc kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ

nó chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan

sát và thí nghiệm trực tiếp. Do đó nó chỉ đem lại những mặt hiểu biết về các mặt riêng

rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được các bản chất, nhưng mối liên hệ mang tính

quy luật của các sự vật, hiện tượng. vì vậy nhận thức kinh nghiệm tự nó không bao

giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Ngược lại, mặc dù được hình thành

từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý luận không hình thành một

cách tự phát, trưc tiếp từ kinh nghiệm do tinh độc lập tương đối của nó, lý luận có thể

đi trước nhưng dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thúc kinh

nghiệm có giá trị, lựa chọn nhũng kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực

tiễn, góp phần lam biến đổi đời sống của con người, thông qua đó mà nâng những tri

thức kinh nghiệm từ cái là chỗ cụ thể, riêng lẻ đơn nhát thành cái khái quát, có tính

phổ biến.

Nhận thức thông thƣờng là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát,

trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện

tượng xảy ra với tất cả những đăc điểm,chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau

của sự vật. Vì vậy nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn

liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, Vì thế, nó có vai trò thường xuyên

và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.

Page 9: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

8 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và

gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng

nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới sự trừu tượng logic. Đó là các khái niệm,

phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tình khách quan, trừu

tượng, khái quát, lại vừa có tính hê thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận

dụng mọt hệ thống các phương phap nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông

thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sác bản chất và quy luật của đối tượng

trong nghiên cứu. Vi thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt

động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.

Nhận thức thông thƣờng và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau

về chất của quá trình nhận thức, nhằm đạt tới những tri thức chân thực. giữa

chung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức

thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xay dựng

nội dung của khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những tri

thức khoa học cần phải thông qua quá trinh tổng kết, trừu tượng, khái quát

đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trinh độ nhận thức khoa

học, nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, làm cho nhận thức

thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trinh con

người nhận thức thế giới.

Tính chất của nhận thức

1.1 Các giai đoạn của nhận thức

Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi

từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.

Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức

tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất

bên trong, như sau:

Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên của

quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động

vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:

Cảm giác: là hình thức nhận của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp

vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết

quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý

Page 10: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

9 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

thức. Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nếu dừng

lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật.

Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một cách

tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao

hơn".

Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật

đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các

cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú

hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có

tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là

thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật

ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy

nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.

Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật

do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các

giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố

gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các

giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng

phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật.

Giai đoạn này có các đặc điểm:

- Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.

- Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và

không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.

- Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản

chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai

đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.

Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh gián tiếp

trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán

đoán, suy luận.

- Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc

tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát,

tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì

vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối

quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.

Page 11: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

10 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình

thành các phán đoán và tư duy khoa học.

- Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để

khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.

Thí dụ: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán vì có sự

liên kết khái niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng". Theo trình độ

phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán

đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và

phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ

biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng.

Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa

cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán

đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ

giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các phán

đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì

giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác

nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận

thức suy luận.

- Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để

rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên

kết phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim loại" ta rút ra được

tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo

trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có

được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.

Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới

một cách nhanh chóng và đúng đắn.

Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:

- Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.

- Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý

tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự

vật.

Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói

cách khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Do đó, thực

Page 12: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

11 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích

cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới. Do

đó, sự nhận thức ở giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn.

1.2 Phân loại nhận thức

a) Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng

Nhận thức kinh nghiệm hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng

trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm là kết

quả của nó, được phân làm hai loại:

- Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ sự quan

sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và sản xuất. Tri thức này rất phong phú,

nhờ có tri thức này con người có vốn kinh nghiệm sống dùng để điều chỉnh

hoạt động hàng ngày.

- Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát các thí

nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở để hình thành

nhận thức khoa học và lý luận.

Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau để tạo nên

tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.

Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái

quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính

gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm.

Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản

chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận thể hiện

chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, có

quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận

thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể. Vì

nó gắn chặt với thực tiễn nên tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ

sung cho lý luận và cung cấp tư liệu để tổng kết thành lý luận. Ngược lại, mặc dù

được hình thành từ tổng kết kinh nghiệm, nhận thức lý luận không xuất hiện một cách

tự phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước

những sự kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành tri thức kinh nghiệm có giá trị,

lựa chọn kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Thông qua đó mà

Page 13: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

12 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái

khái quát, phổ biến.

Theo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững bản chất, chức năng của từng

loại nhận thức đó cũng như mối quan hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương

pháp luận quan trọng trọng việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và

bệnh giáo điều.

b) Dựa vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật

Nhận thức thông thường (hay nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức được hình

thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó

phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và

những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính

phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó

thường xuyên chi phối hoạt động của con người trong xã hội. Thế nhưng, nhận thức

thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở bề ngoài, ngẫu nhiên tự nó không thể

chuyển thành nhận thức khoa học được.

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp

từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các sự vật. Nhận thức

khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có

căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách hệ thống các phương pháp

nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả

sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có

vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và

công nghệ.

Hai loại nhận thức này cũng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhận thức thông

thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của

các khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động

trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập và làm cho nhận thức thông thường phát

triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.

1.3 Chân lý

- Khái niệm : Mọi quá trình nhận thức đền dẫn tới sự sáng tạo ra những tri thức, tức

là những hiểu biết của con người vê thực tại khách quan, nhưng không phải mọi tri

thức đều có nội dung phù hợp với thực tại khách quan, bởi vì nhận thức thuộc về sự

phản ánh của con người đối với thực tại khách quan đó. Thực tế lịch sử nhận thức

Page 14: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

13 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

của toàn nhân loại cũng như của mỗi con người đã chứng minh rằng, những tri thức

mà con người đã và đang đạt được không phải bao giờ cũng phù hợp với thực tế

khách quan; trái lại có nhiều trường hợp không phù hợp, thậm chí là đối lập với thực

tế khách quan.

Khái niệm chân lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế

khách quan; sự phù hợp đó được chứng minh bởi thực tiễn.

Theo Lê-nin “Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình : tư tưởng

(=con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng,một

bức tranh (=hình ảnh) đơn giản, lờ mờ, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận

động.

K. Marx: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lí khách quan

hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lí luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính

trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lí".

Ngoài ra, khi xem xét về các tính chất của chân lí, người ta đưa ra 4 tính chất: tính

khách quan, tính tƣơng đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Nói về mối quan hệ

thống nhất biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lí, Lenin viết:

"Chân lí tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lí tương đối đang phát triển;

chân lí tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập

với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lí khoa

học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lí tuyệt đối".

3. BẢN CHẤT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHẬN THỨC VÀ

THỰC TIỄN

Mối liên hệ giữa nhận thức và thực tiễn ra sao? Trước tiên ta cần phải hiểu Mối liên

hệ là phạm trù triết học như thế nào? Tính chất của nó ra sao?

Các mối liên hệ mang tính đa dạng, mỗi lĩnh vực khác nhau của thế giới và biểu hiện

những mối liên hệ khác nhau, rất phong phú và nhiều vẻ. Mỗi loại mối liên hệ khác

nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

có thể phân chia theo từng cặp như mối liên hệ bên ngoài và bên trong, chủ yếu và

thứ yếu, mối liên hệ gián tiếp và trực tiếp. sự phân chia này chỉ mang tính tương đối

vì mỗi cặp mối liên hệ chỉ là một mắt xích, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến,

chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy vào phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do

kết quả vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng. tuy nhiên sự phân chia này

Page 15: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

14 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

lại rất cần thiết vì qua đó sẽ xác định được vị trí và vai trò trong sự vận động và phát

triển của sự vật.

Từ việc nghiên cứu về mối liên hệ triết học Mác-Lênin đã rút ra quan điểm toàn diện

trong nhận thức, khi nhận thức thì chúng ta cần phải có một cái nhìn toàn diện, tránh

những quan điểm phiến diện chỉ xết sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ mà đã vội

vàn đưa ra kết luận về bản chất hay tính quy luật của chúng. Bên cạnh đó các sự vật

,hiện tượng còn có rất nhiều mối liên hệ, các mối liên hệ có vai trò, vị trí khác nhau

trong sự vận động, phát triển của sự vật. Do vậy khi nghiên cứu sự vận động và phát

triển của sự vật cần dựa vào thực tiễn cụ thể để tiến hành phân loại các mối liên hệ

để thấy rõ nội dung, vai trò, vị trí của từng mối liên hệ và từ đó có cách tác động phù

hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong các hoạt động của con người.

1. Bản chất của mối quan hệ

Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ nhận

thức là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mô hình nhận thức của đối tượng. Còn

kết quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn chỉ

có mặt ớ nơi có các hình thức hoạt động có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đối

tượng trên chực tế, chứ không phải là trong suy nghĩ. Do vậy hoạt động nhận thức

khoa học, giáo dục, tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ có

khả năng đem lại bức tranh lý tưởng về thế giới trong nhưng đặc trưng, bản chất của

nó. Vấn đề cũng không thay đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật chất

trực tiếp. Bởi khi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư cách là hình thức

được đối tượng hoá của khoa học, còn khoa học vân tiếp tục là hình chức hoạt động

tinh thần của con người, là sự phản ánh lý tưởng hiện thực.

2.Tính chất của mối quan hệ

Đúng là thực tiễn không thể thiếu nhận thức.Song luận điểm đó không chứng tỏ sự

đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là thực tiễn và nhận thức.

Thứ nhất cần lưu ý rằng tham gia vào thực tiễn chỉ gồm có các kết quả đã đạt được

trong quá trình nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động nhận thức có

một giá trí độc lập, còn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận, có giá trị

như là một mô hình của tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó ( mục đích, mô hình, lý

tưởng), trong trường hợp này, không có một giá trị độc lập, nó không có nhiệm vụ cải

biến đối tượng cảm tính của tự nhiên hay xã hội.

Page 16: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

15 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Thứ hai, đương nhiên là có một cơ chế (cho dù nó chưa được nghiên cứu đấy đủ) để

đưa các kết quả hoạt động nhận thức vào thực tiên. Chính cơ chế này đã chế định

một khuynh hướng nghiên cứu mới - nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới

mẻ, đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực to lớn. Song một điều hiển nhiên là thực

tiễn cải tạo xã hội do quần chúng tiến hành đòi hỏi phải hoạch định mục đích, chương

trình, phải nhận thức các nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy mà nó

không thể thiếu nhận thức lý luận, nhận thức được tiếp biến vào các mục đích và các

chương trình, phục tùng nhiệm vụ cơ bản của thực tiễn cải tạo xã hội.

Như vậy, giữa nhận thức và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ không thể

tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng nhận thức nhiều đến đâu đi chăng nữa,

thì thực tiễn và nhận thức vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực tương đối độc lập của

hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng (kết quả của hoạt động nhận thức)

cũng đi trước hoạt động thực tiên. Nói cách khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm

hai khâu cơ bản và mối liên hệ giữa chúng luôn mang tính lịch sử - cụ thể - đó là khâu

nhận thức (sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực ).

Mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức còn được làm sáng tỏ hơn và cụ thể hơn khi

chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thề - khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian cơ bản

giữa chủ thể và khách thề. Chủ thể ở đây không đơn giản là con người có tư duy

nhận thức, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tồng thể các đặc

trưng xã hội của nó, còn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách

thể. Thực tiễn có thề nói, là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể

tự đối tượng hoá bản thân, các ý định và mục đích của mình trong khách thề, phát

triển các năng lực của mình. Như vậy, ngoài thực tiễn, chủ thể không có một phương

thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang việc thực hiện nó trong thế

giới.

Nếu ở phần trên chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện thực,

thì thông qua quan hệ chủ thể - khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể

chuyển hoá cái ý mệnh mục đích, động cơ... thành cái vật chất, khách thể được cải

tạo phù hợp với mục đích. Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình

thống nhất: Từ cái ý niệm đến cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối hoá sự

cải tạo vật chất, thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất, và do vậy, thực

tiễn bị biến thành một hành vi máy móc, vô thức. Còn nếu tuyệt đối hoá sự sự chuyển

biến cái ý niệm thành cái vật chất, thì chúng ta không thể quan niệm thực tiễn là một

quá trình khách quan, và như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.

Page 17: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

16 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Từ đó suy ra rằng thực tiễn và nhận thức không thể là tuyệt đối đối lập với nhau. Tính

tương đối của sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: Quan hệ nhận thức

của con người với thế giới không bao giờ có thề là quan hệ tuyệt đối biệt lập với thực

tiễn. Hơn nữa, quan hệ nhận thức luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát

triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở quan hệ

thực tiễn với hiện thực. Đến lượt mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức và ý

chí, thực tiễn luôn bao hàm quan hệ nhận thức của chủ thể với khách thể với tư cách

là vòng khâu đặt mục đích của hoạt động thực tiễn.

Song, sự đối lập tuyệt đối đó không có nghĩa là không có sự đối lập tuyệt đối giữa

nhận thức và thực tiễn.Nhận thức do thực tiên chế định và phục vụ thực tiễn, song

chúng có tính độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng của hoạt động. Cả khi

tạo thành một thể thống nhất trong khuôn khổ của hoạt động xã hội, chúng vẫn là

những mặt khác nhau của hoạt động đó. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư

tưởng, nhận thức mới có thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức,

chúng không có khả năng cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tướng, tự

chúng, không phải là thực tiễn, mô hình lý tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo

vật chất chỉ là mô hình nhận thức.Cần phái nhấn mạnh tính đặc thù, tính độc lập của

nhận thức để không rơi vào chủ nghĩa thực dụng thiển cận, để phát hiện ra các quy

luật phát triển của riêng nhận thức, tính kế thừa lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã

hội khác nhau.

Song, cũng cần nhấn mạnh một điều khác là: Tính độc lập tương đối của nhận thức

là có tính chất tương đối. Thí dụ, nhận thức cách mạng hoàn toàn không phải là thực

tiễn cách mạng. Tuy nhiên vốn được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội,

nhận thức cách mạng trở thành một bộ phận cấu thành tất yếu của thực tiễn xã hội.

Khi tiên đoán tương lai, bản thân nhận thức bắt nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện

tại.Nhận thức hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải là ở ngoài

khuôn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.

Mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn, được vạch rõ cả trên các bình điện bản thể

luận lẫn nhận thức luận. Trước hết, cần phải phân biệt tính chất của mối liên hệ này

với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật chất có thể tồn tại thiếu ý

thức, song thực tiễn không thể tồn tại thiếu nhận thức, đương nhiên là hình thức vả

trình độ của nhận thức có thể rất khác nhau ( cho tới tư duy lý luận). Nếu các đặc tính

"thử nhất" và "thứ hai" áp dụng được vào quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì chúng

lại không áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức. ở đây chỉ có thể

nói tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống nhất. Nói cách khác, xét về

Page 18: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

17 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

phương diện bản thể luận, nhận thức và thực tiễn tạo thành một thể thống nhất trong

hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng trong khuôn khổ của sự thống nhất

này là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là các mặt đối lập tương đối về mặt bản

thể luận, song vật chất là tiên đề, là nguyên nhân phát sinh của ý thức, trong khi đó

thực tiễn không thể thiếu nhận thức.

Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối đối lập , thì

thực tiễn và nhận thức lại không tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến khác đều có nghĩa

rằng thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện đối chiếu tri thức về hiện thực

và bản thân hiện thực. Các nhà duy vật trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ

không biết đối chiếu tri thức với đối tượng và do vậy, họ đã bất lực trước các lý lẽ của

chủ nghĩa duy tâm và bất khả lý luận. Nếu tuyệt đối đối lập thực tiễn với nhận thức,

thì chúng ta cũng sẽ vấp phải vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý nhận thức

đến thực tiễn? Trong khi đó cuộc cách mạng được C.Mác thực hiện trong nhận thức

luận chính là ở chỗ: ông đã đưa thực tiễn vào nhận thức ở lĩnh vực mà ý thức tuyệt

đối đối lập với vật chất, Mác đã phát hiện ra khâu trung gian, bước chuyển từ cái ý

niệm đến cái vật chất và từ cái vật chất đến cái ý niệm. Thực tiễn xã hội hoàn thành

vai trò thước đo chân lý và cơ sở của nhận thức chính là do nó không đối lập tuyệt

đối mà đối lập tương đối với ý thức về mặt nhận thức luận và do nó luôn là hệ thống

những hoạt động nhằm đạt tới mục đích xác định. Do vậy, không nên tuyệt đối hoá cả

tính chủ quan lẫn tính khách quan của thực tiễn.

Quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ

thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng

của quá trình đó là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta luôn có được một lập

trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ

nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.

4. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA THỰC TIỄN VÀ

NHẬN THỨC

A. TÁC ĐỘNG CỦA NHẬN THỨC ĐẾN THỰC TIỄN

- Nhận thức khoa học vận dụng vào một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và

sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản

Page 19: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

18 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học ngày

càng có vai trò to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và

công nghệ hiện đại.

- Điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức là thực tiễn. Con người có nhu cầu tất yếu

khách quan là phải giải thích thế giời và cải tạo thế giới nên con người tác động vào

các sự vật hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho

các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối lien hệ và quan hệ khác

nhau giữa chúng, đme lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm

được bản chất các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Từ đó ta thấy nhận

thức đóng vai trò trong giải thích, phân tích, tư duy,tổng hợp cho những hoạt động

thực tiễn trong thế giới khác quan.

- Nếu nhận thức không có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới thì

chứng tỏ thực tiễn sai lệch. Nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn mà không có nhận

thức thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa.

- Thực tiễn mà không có lý luận khoa học, tư duy của nhận thức, cách mạng khoa

học soi sang thì nhất định sẽ biến thành mù quáng.

- Khi đã có những nhận thức đúng đắn từ thực tiễn ta đã đạt được những tiêu chuẩn

của chân lý.

- Nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý

thức con người, trên cơ sở thực tiễn. Nhận thức là nơi tổng kết, đúc kết thực tiễn ban

đầu. Nhưng đó chưa phải là điểm cuối cùng của quá trình nhận thức mà nhận thức

tiếp tục phải tiến tới thực tiễn.

- Để đi đến thực tiễn phải trải qua các giai đoạn của nhận thức. Đó là quá trình bắt

đầu từ nhận thức cảm tính tiến đến nhận thức lý tính. Cho thấy nhận thức là con

đường dẫn đến thực tiễn.

- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn:

+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu kỳ nhận

thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận

thức, song chúng có những chức năng nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính

gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khác thể cảm tính, thì nhận thức lý tính,

nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và

Page 20: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

19 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

phát triển sinh động của sự vật, giúp nhận thức cảm tính có được sự định hướng

đúng đắn và trở nên sâu sắc hơn.

+ Quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình vận động, phát triển của

nhận thức là : Từ thực tiễn đến nhận thức từ nhận thức – từ nhận thức trở về với

thực tiễn…quá trình này lặp đi lặp lại không có điểm dừng cuối cùng, trình độ nhận

thức và thực tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình

nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn và sâu sắc hơn về

thực tại khách quan.

- Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận

dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động

thực tiễn của mình. Thực tiễn phát triển nhờ sử dụng những nhận thức đúng đắn đạt

được trong hoạt động thực tiễn.

- Thực tiễn phát triển là nhờ những vận dụng đúng đắn những nhận thức chân lý mà

con người đã đạt được trong quá trình thực tiễn của mình.

B. TÁC ĐỘNG CỦA THỰC TIỄN ĐÊN NHẬN THỨC

Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích của nhận thức

và là tiêu chuẩn của chân lý,kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.Sở dĩ như

vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức;nó đề ra nhu cầu,nhiệm

vụ,cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.

1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức:

Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự

vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của

chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con

người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành.

Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác

quan ngày càng hoàn thiện hơn.

Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.

Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức vì xét đến cùng mọi tri thức của con người

đều có nguồn gốc từ thực tiễn do đó mà nói rằng thực tiễn là cơ sở của nhận thức.

Page 21: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

20 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Nhận thức ngay từ đầu đã xuất phát từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Do yêu cầu

sản xuất vật chất và đấu tranh cải tạo xã hội buộc con người phải nhận thức thế giới.

Nhờ có thực tiễn mà con người nhận thức ngày càng sâu sắc và đầy đủ thế giới xung

quanh.

Mọi sự hiểu biết của con người dù gián tiếp hoặc trực tiếp đều bắt nguồn từ

thực tiễn. Nhờ sự tiếp xúc, tác động vào sự vật hiện tượng mà con người phát hiện ra

các thuộc tính, bản chất của chúng.Về phương diện thực tiễn, trên cơ sở sự tương tự

về cấu trúc giữa các quá trình diễn ra trong giới tự nhiên vô sinh, sự sống và xã

hội(tư duy) người ta đã chế tạo ra hệ thống máy tự động, hoạt động theo cơ chế

tương tự bộ não và các giác quan con người.

Như vậy cả về phương diện lý luận và thực tiễn, khoa học hiện đại hay nói

cách khác hơn là nhận thức đóng vai trò nền tảng trong quá trình nhất thể hoá. Hơn

nữa, tư tưởng cấu trúc của khoa học còn phản ánh sâu sắc sự thống nhất vật chất

của thế giới. Về phương diện Toán học, sự thống nhất của toán học với thế giới quan

triết học biểu hiện ở chỗ chúng xác nhận những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy

vật: tư tưởng về sự thống nhất vật chất của thế giới và tính có thể nhận thức được

của thế giới đó. Các khoa học khác như vật lý học, sinh học đã có những đóng góp

quan trọng vào việc luận chứng cho sự thống nhất này. Có thể nói rằng cùng với sự

phát triển của khoa học và thực tiễn các lý thuyết toán học ngày càng có khả năng đi

sâu vào việc luận chứng cho tư tưởng về sự thống nhất vật chất của thế giới. Chẳng

hạn, cùng một phương trình có thể diễn tả sự phân huỷ chất phóng xạ, sự sinh sản

của vi khuẩn, sự tăng trưởng của nền kinh tế...

Như vậy, tư tưởng cấu trúc của toán học hiện đại góp phần quan trọng vào sự

nhận thức những cơ sở nền tảng của sự tổng hợp tri thức vốn chứa đựng nội dung

thế giới quan, phương pháp luận sâu sắc. Đồng thời nó là một trong những cơ sở

khoa học để luận chứng cho thế giới quan duy vật biện chứng về sự thống nhất vật

chất của thế giới.

Ví dụ: từ sự đo đạc ruộng đất, đo lường vật thể mà con người có tri thức về toán học.

Chính thông qua hoạt động thực tiễn nó luôn luôn nảy sinh nhu cầu mới thúc đẩy

nhận thức phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của nhận thức,chẳng hạn: từ

nhu cầu chữa trị các căn bệnh hiểm nghèo mà thúc đẩy nhận thức của con người

khám phá ra bản đồ gen người...,từ nhu cầu thực tiễn quan sát các vật bé nhỏ mà

thúc đẩy nhận thức con người sáng tạo ra các kính hiển vi.

Page 22: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

21 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Quá trình hoạt động thực tiễn là quá trình phát triển và hoàn thiện các giác quan của

con người. Nhờ đó khả năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc hơn.

Ví dụ: người thợ nhuộm do nhuộm nhiều quần áo nên có thể phân biệt được 12 màu

đen khác nhau…

Mọi nhận thức của con người đều có nhận thức từ thực tiễn, thực tiễn cung cấp

những tài liệu hiện thực khách quan làm cơ sở cho người nhận thức bằng hoạt động

thực tiễn con người tác động ở thế giới khách quan và phải bộc lộ ra những đặc

trưng, những thuộc tính, những quy luật vận động và phát triển để con người nhận

thức và thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn con người đã sáng tạo ra những

công cụ những phương tiện ngày càng tinh xảo để nhận thức thế giới và hoạt động

thực tiễn làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn.

2.Thực tiễn là động lực của nhận thức:

Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước

phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy

nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt

ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức.

Thực tiễn là động lực bởi thực tiễn đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ, phương hướng,

cho nhận thức phát triển. Thực tiễn còn tạo ra các tiền đề vật chất cần thiết cho nhận

thức.

Ví dụ: việc học tập phải đặt ra những yêu cầu học sinh phải giải và học những kiến

thức mới và khó… sau khi giải quyết những bài tập khó đó thì nhận thức của các em

sẽ được nâng cao hơn.

Như vậy, thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức (lý luận), mọi tri thức dù hình

thành ở trình độ nào, giai đoạn nào, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực tiễn.

3.Thực tiễn là mục đích của nhận thức :

Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn.

Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải

tạo hiện thức kháchquan , đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự

Page 23: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

22 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực

tiễn.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận thức là nhằm phục vụ hoạt

động thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân

lý vì các tri thức của con người đc khái quát, tổng kết chưa chắc đã đúng do vậy các

tri thức ấy phải đc kiểm tra đối chứngtrong thực tiễn nếu đó là đúng thì đó là chân lý.

Các tri thức khoa học chỉ có giá trị khi nó đươc vận dụng vào thục tiễn.

Ví dụ: Nhà bác học Điêzen đã viết giả thuyết về động cơ sử dụng chất thải công

nghiệp làm nhiên liệu và giả thuyết của ông đã được ứng dụng để chế tạo ra các loại

động cơ chạy dầu như hiện nay.

Thế giới vật chất luôn luôn vận động và phát triển do vậy nó luôn đặt ra những nhu

cầu những nhiệm vụ những xu hướng trong quá trình nhận thức đã thúc đẩy ra đời

mạnh mẽ, tự nhiên và xã hội ngày nay nhiều môn học mới, ngành học mới ra đời trên

cơ sở nhu cầu cuộc sống của con người (tin học, dân số học, bình đẳng giới, môi

trường học, hà nội học, Việt Nam học...) đều do thực tiễn con người đòi hỏi.

Vậy mục đích của quá trình nhận thức không chỉ để nhận thức mà để cải tạo hiện

thức khách quan theo nhu cầu lợi ích của con người do vậy thực tiễn vừa là động lực

vừa là mục đích của nhận thức.

4.Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức

Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó

phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.

Thực tiễn mang tính khách quan có tích lịch sử xã hội, thực tiễn là cơ sở là tiêu chuẩn

để kiểm tra nhận thức đúng sai.

Chỉ có đem những tri thức tu nhận được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới đánh giá

được tính đúng đắn hay sai lầm của chúng.

Ví dụ:- Bác Hồ đã chứng minh: “ Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

- Nhà bác học Ga-li-lê rất coi trọng thí nghiệm, ông thường dùng thí nghiệm để

chứng minh lập luận của mình.

Page 24: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

23 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

Một lần nghe người ta dạy cho học sinh: các vật nặng bao giờ cũng rơi nhanh hơn vật

nhẹ. Nhà bác học liền phản đối: làm gì có chuyện vô lí đấy? Ga-li-lê đã làm một thí

nghiệm thả hai hòn đá nặng, nhẹ khác nhau cùng từ trên một tháp cao xuống. kết quả

là ông dã phát hiện ra không khí có sức cản. khi thả rơi những vật trong ống đã rút

hết không khí thì quả nhiên tốc đọ rơi của các vật nặng, nhẹ là bằng nhau.

Như Lênin đã cho rằng: “quan điểm về đời sống,về thực tiễn, phải là quan điểm thứ

nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.

Thực tiễn là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm

cải tạo tự nhiện và xã hội. Phạm trù “thực tiễn” là một trong những phạm trù nền tảng,

cơ bản của triết học Mác- Lê nin nói chung và nhận thức mácxít nói riêng.

Như vậy,thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức,là yếu tố đóng vai trò

quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức

phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.

KẾT LUẬN VÈ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:

Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý

thức, là nguồn gốc sinh ra ý thức.Não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ

quan phản ánh để hình thành ý thức.Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh

của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh của thế giới

khách quan.Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức quyết định nội dung của ý

thức.

- Ý thức có tính độc lập tƣơng đối tác động trở lại vật chất.

Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất có tính năng động sáng tạo

nên có thể tác động trở lại vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông

qua hoạt động thực tiễn của con người.

Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động

thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.

Ý thức phản ánh ko đúng hiện thực khách quan ở mức độ nhất định có thể kìm

hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội

Page 25: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

24 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con

ngƣời.

Con người dựa trên những tri thức của mình về thế giới khách quan, hiểu biết

những qui luật khách quan từ đó đề ra mục tiêu phương hướng, biện pháp thực hiện

và ý chí thực hiện mục tiêu ấy.

Vai trò tích cực chủ động sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải tạo

thế giới hiện thực được phát triển đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa trên sự

phản ánh thế giới khách quan và các điều kiện khách quan.

5. Ý NGHĨA PHƢƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI QUAN

HỆ VẬT CHẤT – Ý THỨC

Hoạt động nhận thức trên cơ sở thực tiễn, vì thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn mô tả

khái quát bức tranh sinh động vì thực tiễn.

Không được đề cao quá thực tiễn hoặc tri thức lý luận.

Page 26: Phan Tich Moi Quan He Bien Chung Giua Nhan Thuc Va Thuc Tien 1691 (1)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

25 NHÓM 07

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức. Ý

nghĩa phƣơng pháp luận.

TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI

Khoa : TMQT, K46 -----------------------------------------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------*---------------

BIÊN BẢN THẢO LUẬN

Ngày 23/11/2010

Môn : Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin I

Lớp HP : 1016MLNP0111

Nhóm 07

1. Nguyễn Thị Ngọc Ngà : Tài liệu tham khảo

2. Nguyễn Thị Thúy Ngân : Những vấn đề liên quan đến nhận thức

3. Nguyễn Tài Nguyên : Tổng hợp bài thảo luận

4. Nguyễn Thị Nhung : Những vấn đề liên quan đến thực tiễn

5. Phạm Thị Hồng Nhung : Tác động của thực tiễn tới nhận thức

6. NguyễnThu Phương : Tác động của nhận thức tới thực tiễn

7. Trần Trọng Phúc : Bản chất, tính chất MQH Nhận thức – thực tiễn

8. Trịnh Hồng Phúc : Ý nghĩa Phương pháp luận

9. Đỗ Văn Phượng : Trình bày bài thuyết trình

Nhóm trưởng