44
1 CHƯƠNG I LÝ THUYT PHÁT TRIN CNG ĐỒNG PTCĐ là mt tiến trình tăng trưởng kinh tế cùng vi tiến bcng đồng theo hướng hoàn thin các giá trchân, thin, mca cng đồng. PTCĐ tphát và PTCĐ tgiác là hai trình độ khác nhau, vi tác động ca yếu tkhoa hc trong các chiến lược, quy hoch tng th, dán, có tchc thiết chế qun lý sphát trin. Các nguyên lý PTCĐ gm : tính tương đối, tính đa dng tính bn vng. Vi tchc xã hi là đồng thun, tqun tham gia, hành động xã hi ca cng đồng đồng biến, tbiến hip biến. Lý thuyết PTCĐ có 6 quan đim : tdưới lên; đồng b, tham d; chuyn biến xã hi; phát tri n năng lc; chú trng nghiên cu và 4 mc tiêu : ci thin cht l ượng sng; to sbình đẳng trong tham gia; cng cthiết chế, tchc; thu hút ti đa. Triết lý tham dlà cơ squan trng ca lý thuyết PTCĐ, trong đó, nghiên cu tham dlà mt dng tham gia có cht lượng, vi nhiu kthut khác nhau. I. Lch shình thành và din tiến ca phát trin cng đồng 1- Lch s: PTCĐ (Community Development) xut hin vào nhng năm 1940 ti các cu thuc đị a đầu tiên ca Anh. Ghana, mt người Anh tt bng ny ra sáng ki ến giúp dân tci thin đời sng bng các nl c chung ca chính quyn và người dân địa phương. 2- Di n tiến : Kinh nghim tích cc ny được lan rng hu hết các cu thuc đị a châu Á và châu Phi. Năm 1950 LHQ công nhn khái nim PTCĐ vàkhuyến khích các quc gia sdng PTCĐ như mt công cđể thc hin các chương trình phát tri n quc gia. Thp k1960-1970 được chn là thp kphát tri n thnht vi nhng chương trình vin trquy mô l n vkthut, phương pháp, vn liếng. Năm 1970 LHQ l ượng giá thp kphát tri n, rút ra mt sphương hướng : Stham gia ca qun chúng là yếu tcơ bn. Nghèo Trình độ văn hóa kém Sc khe kém Sn xut kém PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

Pht trin-cng-ng3651

  • Upload
    cnn

  • View
    173

  • Download
    6

Embed Size (px)

Citation preview

1

CHƯƠNG I LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG PTCĐ là một tiến trình tăng trưởng kinh tế cùng với tiến bộ cộng đồng theo hướng

hoàn thiện các giá trị chân, thiện, mỹ của cộng đồng. PTCĐ tự phát và PTCĐ tự giác là hai trình độ khác nhau, với tác động của yếu tố

khoa học trong các chiến lược, quy hoạch tổng thể, dự án, có tổ chức thiết chế quản lý sự phát triển.

Các nguyên lý PTCĐ gồm : tính tương đối, tính đa dạng và tính bền vững. Với tổ chức xã hội là đồng thuận, tự quản và tham gia, hành động xã hội của cộng đồng là đồng biến, tự biến và hiệp biến.

Lý thuyết PTCĐ có 6 quan điểm : từ dưới lên; đồng bộ, tham dự; chuyển biến xã hội; phát triển năng lực; chú trọng nghiên cứu và 4 mục tiêu : cải thiện chất lượng sống; tạo sự bình đẳng trong tham gia; củng cố thiết chế, tổ chức; thu hút tối đa.

Triết lý tham dự là cơ sở quan trọng của lý thuyết PTCĐ, trong đó, nghiên cứu tham dự là một dạng tham gia có chất lượng, với nhiều kỹ thuật khác nhau.

I. Lịch sử hình thành và diễn tiến của phát triển cộng đồng 1- Lịch sử : PTCĐ (Community Development) xuất hiện vào những năm 1940 tại các

cựu thuộc địa đầu tiên của Anh. Ở Ghana, một người Anh tốt bụng nảy ra sáng kiến giúp dân tự cải thiện đời sống bằng các nỗ lực chung của chính quyền và người dân địa phương.

2- Diễn tiến :

Kinh nghiệm tích cực nầy được lan rộng ở hầu hết các cựu thuộc địa ở châu Á và châu Phi.

Năm 1950 LHQ công nhận khái niệm PTCĐ vàkhuyến khích các quốc gia sử dụng PTCĐ như một công cụ để thực hiện các chương trình phát triển quốc gia.

Thập kỷ 1960-1970 được chọn là thập kỷ phát triển thứ nhất với những chương trình viện trợ quy mô lớn về kỹ thuật, phương pháp, vốn liếng.

Năm 1970 LHQ lượng giá thập kỷ phát triển, rút ra một số phương hướng : Sự tham gia của quần chúng là yếu tố cơ bản.

Nghèo

Trình độ văn hóa kém

Sức khỏe kém

Sản xuất kém

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

2

Yếu tố tổ chức là quan trọng : cần hỗ trợ sự hình thành và củng cố tổ chức của chính người dân.

Không đặt nặng chương trình, dự án từ bên trên hoặc bên ngoài đưa vào mà chú trọng các công trình vừa tầm do người dân đề xướng và thực hiện với sự hỗ trợ từ bên ngoài.

Tạo được sự chuyển biến xã hội mới là quan trọng. Đó là sự thay đổi nhận thức, hành vi của người dân nhằm mục đích phát triển. Tạo được sự chuyển biến trong tổ chức, cơ cấu và các mối tương quan lực lượng trong xã hội.

PTCĐ chỉ có hiệu quả khi nằm trong một chiến lược phát triển quốc gia đúng đắn.

Phát triển cấp làng xã phải đặt trong kế hoạch phát triển cấp vùng. Huấn luyện để trang bị cho dân và những người có trách nhiệm kỹ năng tổ

chức, lãnh đạo là một bộ phận không thể thiếu. Từ thập kỷ 80 cho đến nay, PTCĐ được biết đến một cách rộng rãi qua các chương

trình viện trợ phát triển của nước ngoài tại Việt Nam trong đó yếu tố tham gia của người dân là một trong những nhân tố quyết định.

Bộ môn PTCĐ và tổ chức cộng đồng được giảng dạy trong một số trường đại học phía Nam.

Tuy nhiên, PTCĐ vẫn là khoa học mới hình thành ở nước ta, cần có những tổng kết lý thuyết và thực tiễn để hoàn chỉnh nó.

Phát triển cộng đồng và tổ chức cộng đồng : PTCĐ xuất phát từ các nước đang phát triển. TCCĐ là phương pháp giúp các CĐ dân cư nghèo đô thị (ở các nước công nghiệp

phát triển) biến chuyển, đoàn kết và tổ chức tốt hơn để giải quyết các vấn đề và nhu cầu của mình.

Thực chất PTCĐ và TCCĐ rất gần gũi và trùng lắp. Phát triển cộng đồng : một bộ môn khoa học. PTCĐ là một phương pháp vận động, giáo dục và tổ chức quần chúng nên triết lý

và phương pháp của nó được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như : khuyến nông, giáo dục sức khỏe, xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cộng đồng, kế hoạch hóa gia đình, phát triển kinh tế gia đình, tín dụng tiết kiệm, xây dựng nếp sống đô thị, cải tạo khu nhà ổ chuột…

PTCĐ vận dụng nhiều ngành khoa học khác như : tâm lý học, nhân chủng học, xã hội học, CTXH, quản trị học, kinh tế học, chính trị học, tổ chức học…

II. Cơ sở lý thuyết phát triển cộng đồng 1- Khái niệm phát triển cộng đồng - thực chất và phạm vi Phát triển cộng đồng: PTCĐ thực chất là quá trình tăng trưởng kinh tế cộng

đồng cùng với tiến bộ cộng đồng theo hướng hoàn thiện các giá trị chân, thiện, mỹ. Định nghĩa của Liên Hiệp Quốc (1956) :

“ PTCĐ là những tiến trình qua đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của các cộng đồng và giúp các cộng đồng nầy hội nhập đồng thời đóng góp vào đời sống quốc gia”

Theo Murray và Ross :

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

3

“ Tổ chức cộng đồng là một diễn tiến qua đó một cộng đồng nhận rõ nhu cầu hay mục tiêu của mình, sắp xếp các nhu cầu và mục tiêu nầy, phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng, tìm kiếm tài nguyên (bên trong và bên ngoài) để giải quyết nhu cầu hay mục tiêu ấy. Thông qua đó sẽ phát huy những thái độ và kỹ năng hợp tác với nhau trong cộng đồng”.

“Đó là một chiến lược phát triển nhằm vận động sức dân trong các cộng đồng nông thôn cũng như đô thị để phối hợp cùng với những nỗ lực của Nhà nước để cải thiện hạ tầng cơ sở và tăng khả năng tự lực của cộng đồng”1

Phát triển cộng đồng sẽ bao gồm một số hoạt động chủ yếu sau : Cộng đồng xác định các vấn đề cần giải quyết của cộng đồng (Nhu cầu và mục

tiêu). Chọn lựa các vấn đề ưu tiên bằng các phân tích định lượng và định tính (Nhu

cầu và mục tiêu ưu tiên). Xây dựng các chương trình hành động trên cơ sở phối hợp các nguồn lực bên

trong và bên ngoài. Triển khai, bao gồm cả điều chỉnh các chương trình hành động. Lượng giá các chương trình hành động không chỉ trên cơ sở nguyên lý là

chúng phải tạo ra những chuyển biến xã hội hơn là một số hiệu quả trước mắt hoặc mang tính hình thức, không căn bản.

2- Lý thuyết phát triển cộng đồng Nguyên lý PTCĐ dựa trên nguyên lý phát triển xã hội, còn nguyên lý phát triển xã hội dựa vào nguyên lý phát triển phổ quát, thực chất đó là các nguyên lý biện chứng. Phép biện chứng là cơ sở chung của lý thuyết phát triển. Biện chứng của sự phát triển coi tồn tại khách quan phải bao gồm 4 nguyên lý tổng quát :

(1) Tồn tại (2) Tương đối (3) Biến hóa mâu thuẫn (4) Thống nhất đa dạng.

Các nguyên lý nầy khi áp dụng vào xã hội được diễn đạt cũng bằng 4 nguyên lý cơ bản như : (1) Sinh tồn (2) Hình thái kinh tế-xã hội (để tổ chức và thiết chế xã hội) (3) Tiến bộ văn hóa – văn minh (vai trò của lực lượng sản xuất, của khoa học công

nghệ) (4) Phát triển bền vững (thể hiện mối quan hệ giữa xã hội người với môi trường).

Ba khía cạnh chủ yếu của nguyên lý tổng quát của phát triển cộng đồng :

Tính tương đối : người ta đề cập tới những quan niệm rất khác nhau về PTCĐ, nên không tuyệt đối hóa một sự vật, một hiện tượng nào cả. Tuân Tử

1 Pratt, Brian & Jo Boyden, The Field Director’s Handbook, Oxfam Manual for Development Worker.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

4

đã nhận định : Có cái riêng thấy thì đương nhiên có cái riêng khác bị che. Ví dụ, cái gọi là phát triển và kém phát triển là những quy ước theo một hệ quy chiếu, với một hệ quy chiếu khác, ta lại có cách nhìn khác, không nên tuyệt đối hóa. Phát triển và kém phát triển là trong mối quan hệ tương đối với nhau, bởi vì có thể phát triển cái này thì kém phát triển cái kia và ngược lại. LêNin nói đấy là phát triển không đều của các tổ chức và thiết chế xã hội, của cộng đồng xã hội nói riêng.

Tính đa dạng : cộng đồng là một tính nhưng biểu hiện rất phong phú, rất đa dạng.

Tính bền vững : cộng đồng có tính bền vững, loài người dựa trên tính cộng đồng làm căn bản để tồn tại và phát triển.

Tóm lại, cơ sở riêng của lý thuyết phát triển cộng đồng bao gồm 3 nguyên lý, tạo nên tam vị nhất thể như sau : (1) Nguyên lý tương đối của phát triển cộng đồng. (2) Nguyên lý tính đa dạng của phát triển cộng đồng. (3) Nguyên lý tính bền vững của phát triển cộng đồng.

Lý thuyết phát triển cộng đồng cũng đề cập đến mối quan hệ giữa các thể chế

xã hôi, chủ yếu là ba thể chế xã hội cơ bản tham gia vào sự phát triển cộng đồng. - Thứ nhất là tự quản cộng đồng. - Thứ hai là sự quản lý của nhà nước. - Thứ ba là sự can thiệp của thị trường Triết lý tham dự hay tham gia (participation) là một trong những quan điểm

quan trọng của phát triển cộng đồng. Tham dự là tham gia ở mức thấp, còn tham gia là tham dự là ở mức cao. Triết lý này thể hiện như sau : để cho cộng đồng phát triển tốt đẹp, bền vững thì phải có sự hợp tác của tất cả các lực lượng xã hội, của các tổ chức và thíết chế xã hội, mà ta tạm hình dung có 4 lực lượng chủ chốt sau đây tham gia vào phát triển cộng đồng :

- Thứ nhất là bản thân cộng đồng. - Thứ hai là Nhà nước. - Thứ ba là thị trường. - Thứ tư là các nhân tố xã hội. Vấn đề phát triển :

Nguyên lý đa dạng

Nguyên lý bền vững Nguyên lý tương đối

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

5

Thế nào là phát triển và kém phát triển ? Phát triển : Phát triển là quá trình biến đổi về chất và lượng. Về số lượng thì đó là sự tăng trưởng, về phẩm chất thì nhất định phải có sự biến đổi về mặt chất lượng theo hướng tiến bộ.

Phát triển xã hội : phát triển xã hội là sự tăng trưởng, đặc biệt là tăng trưởng kinh tế cùng với sự biến đổi xã hội theo chiều hướng tiến bộ xã hội, nghĩa là đúng hơn, tốt hơn và đẹp hơn.

Kém phát triển : Kém PT thể hiện ở chỗ các nhu cầu cơ bản không được đáp ứng đầy đủ : thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nước sạch, thiếu điện, nhà ở tồi tàn, thiếu cầu đường, lưu thông khó khăn, thiếu thuốc chữa bệnh,... Các nhu cầu sinh hoạt tinh thần, giải trí yếu kém, mù chữ cao, thiếu trường lớp và giáo viên, thiếu thông tin, lạc hậu về khoa học kỹ thuật. Tâm lý thiếu tự tin, trông chờ, ỷ lại.

Mục đích của phát triển : “ Mục đích và mục tiêu của phát triển là nâng cao chất lượng đời sống của

người dân và nhằm cung cấp cho con người những cơ hội để phát triển toàn diện các tiềm năng. Phát triển không thể chỉ định nghĩa như tăng số thu nhập đầu người của một quốc gia, tăng các chỉ số sản phẩm sản xuất của địa phương, của vùng, hoặc tăng tiết kiệm của cá nhân hay nhóm. Phát triển không chỉ hàm ý sự tăng lên về tài nguyên và thêm kỹ năng, mà còn là tạo ra những thay đổi, cải tiến tích cực.

Phát triển cần giúp những người dân thiệt thòi trước đây có thể cải thiện các

điều kiện sống của họ và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản như việc làm, nhà ở, môi trường an toàn.

Phát triển có nghĩa là người dân thiệt thòi trong cộng đồng ngày nay có khả

năng trả tiền học phí cho con cái, trả y tế phí và mở mang kiến thức về xã hội hiện đang sống.

Phát triển ngụ ý rằng đường sá, cầu cống được xây dựng, lưu thông được cải

tiến và mạng lưới thông tin hữu hiệu được thiết lập. Phát triển cũng có nghĩa là người dân trong cộng đồng có thể đạt được

nhiều mặt cải thiện nêu trên thông qua những cố gắng của họ, và sẽ tham gia vào những quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của họ. Điều nầy được xem như yếu tố chủ yếu để quyết định xem phát triển cộng đồng đúng nghĩa có xảy ra hay không.

Cuối cùng Phát triển tùy vào sáng kiến khởi sự của người dân trong cộng đồng, và Phát triển chỉ có thể xem như đúng nghĩa đích thực nếu nghèo đói và thất nghiệp giảm đi, nhân quyền và công bằng xã hội được củng cố”2

2 Định nghĩa của United Nations Center for Regional Development, 1988 Trung tâm phát triển vùng của Liên Hiệp Quốc.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

6

Các chỉ báo phát triển : Các nhà nghiên cứu và các nàh lãnh đạo cho rằng không thể đồng nhất

phát triển với tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế không có nghĩa là phát triển xã hội. Tăng trưởng kinh tế là một chỉ số của sự phát triển chứ không phải là tòan bộ các chỉ số của sự phát triển. Phát triển xã hội hiện nay được hiểu theo nghĩa toàn diện gồm có rất nhiều chỉ số. Trong báo cáo phát triển hằng năm của Ngân hàng Thế giới (WB) ta thấy có hơn 200 chỉ số về sự phát triển xã hội để so sánh giữa các nước về sự phát triển, giữa các khu vực, trong đó nếu gom lại thì có các nhóm chỉ số cơ bản :

Nhóm chỉ số tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là chỉ số về bình quân thu nhập đầu người so sánh giữa các cộng đồng và các khu vực.

Nhóm chỉ số phát triển xã hội : người ta quan tâm rất nhiều đến nhiều đến chỉ só phát triển xã hội, đặc biệt là chỉ số phát triển dịch vụ xã hội, trong đó có 2 dịch vụ cơ bản nhất là dịch vụ giáo dục và dịch vụ y tế. Chỉ số phát triển con người HDI – Human Development Index là chỉ số tổng hợp kinh tế xã hội của sự phát triển, bao gồm :

Thu nhập bình quân đầu người Tuổi thọ trung bình Trình độ học vấn trung bình

Ngoài hai chỉ số phát triển kinh tế và xã hội nói trên, người ta quan tâm đến một nhóm chỉ số quan trọng nữa :

- Chỉ số phát triển cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm) - Chỉ số phát triển bền vững : Đây là một quan niệm hiện đại. Lâu nay chúng

ta mới chỉ quan tâm đến những chỉ số phát triển kinh tế, xã hội, con người, văn hóa... nhưng ít đề cập tới quan hệ giữa con người và xã hội với tự nhiên. Đó là những quan niệm mở rộng, có một loạt các chỉ số có liên quan như : chỉ số bảo vệ môi trường, phát triển con người. Phát triển kinh tế-xã hội mà khong bảo vệ môi trường thì có nguy cơ sẽ dẫn tới mặt trái của nó, tức là suy thoái mà thế giới hiện đại đã có quá nhiều bài học.

3- Quan điểm, mục tiêu và quy tắc hành động 3.1 Các quan điểm định hướng

1) Phát triển cộng đồng dựa trên phương pháp luận từ dưới lên (Bottom-up) xuất phát từ nhu cầu của chính người dân. Muốn tự phát triển, chính người dân phải tự ý thức cũng như tự tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình.

2) Phát triển phải đồng bộ trên mọi khía cạnh của đời sống xã hội : kinh tế, xã hội, văn hóa…phải cùng được nâng lên.

3) Sự tham gia của quần chúng là hết sức quan trọng, là yếu tố then chốt. Sự tham gia của chính quyền được coi như là một nhân tố bên trong, nó không phải là một lực lượng đứng bên ngoài hoặc bên trên cộng đồng mà là một thành phần quan trọng của cộng đồng.

4) Tạo được chuyển biến xã hội mới là quan trọng. Đó là sự thay đổi nhận thức, hành vi của người dân nhằm mục đích phát triển; là tạo được chuyển biến trong cơ cấu tổ chức, các mối tương quan lực lượng trong chính cộng đồng đó.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

7

5) Phát triển năng lực trên cơ sở không “làm thay”, “làm cho” người dân. Người dân không thể hành động nếu thiếu năng lực. Họ cũng không thể hành động đơn phương, riêng lẻ mà phải kết hợp với các cá nhân, tổ chức cùng một chí hướng và quyền lợi để tạo thành quyền lực chung. Muốn cho người dân tự làm thì tổ chức thông qua huấn luyện là then chốt.

6) Các nghiên cứu làm nền tảng cho việc triển khai các dự án phải đặt ngang tầm với vị trí cần có của nó trong công tác phát triển cộng đồng. Hoạt động đánh giá, lượng giá (Evaluation) là một bước “đo lường” hiệu quả xã hội của các dự án và mở ra những vấn đề mới cho cộng đồng. Chúng tăng tính hiệu quả của các dự án.

3.2 Mục tiêu của phát triển cộng đồng: Mục tiêu bao trùm của Phát triển cộng đồng là góp phần mở rộng và phát triển các nhận thức và hành động có tính chất hợp tác trong cộng đồng, phát triển năng lực tự quản cộng đồng. Mục tiêu tổng quát trên đây được thể hiện dưới 4 khía cạnh sau đây :

1) Hướng tới cải thiện chất lượng sống của cộng đồng, với sự cân bằng về vật chất và tinh thần, qua đó, tạo những chuyển biến xã hội trong cộng đồng.

2) Tạo sự bình đẳng trong tham gia của mọi nhóm xã hội trong cộng đồng, kể cả các nhóm thiệt thòi nhất đều có quyền nêu lên nguyện vọng của mình và được tham gia vào các hoạt động phát triển, qua đó, góp phần đẩy mạnh công bằng xã hội.

3) Củng cố các thiết chế/tổ chức để tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển biến xã hội và sự tăng trưởng.

4) Thu hút sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình phát triển.

Hai khái niệm then chốt của PTCĐ hiện nay là “xây dựng năng lực” (capability building) và tạo sức mạnh (empowerment). Để tạo được điều nầy, PTCĐ phải là một quá trình luôn luôn tiếp diễn. Mục tiêu cuối cùng của một chương trình PTCĐ là giúp cho cộng đồng đi từ một tình trạng kém phát triển, không tự mình giải quyết các vấn đề của riêng mình tiến tới tự lực. Tiến trình phát triển cộng đồng Thức tỉnh : việc làm đầu tiên là phải giúp CĐ hiểu về chính mình thông qua

các hoạt động nhận diện (assessment) và chẩn đoán (diagnosis) cộng đồng, gồm các hoạt động trao đổi, thảo luận, điều tra các nhu cầu và vấn đề khó khăn cũng như tiềm năng và thuận lợi, xác lập những vấn đề ưu tiên, xây dựng các dự án để giải quyết các vấn đề của CĐ, lượng giá tính hiệu quả của chúng.

Tăng năng lực : CĐ cần được hỗ trợ bên ngoài (kiến thức chuyên môn, tín dụng, đầu tư, cơ quan viện trợ…) và thông qua quá trình huấn luyện cộng đồng để khác phục những hạn chế và tăng cường kiến thức và kỹ năng để hành động. Các hoạt động tăng độ liên kết, khả năng tổ chức, lãnh đạo và quản lý để hành động tập thể có hiệu quả hơn.

Tự lực : mục đích quan trọng nhất là thông qua thay đổi và tăng trưởng, cộng đồng sẽ trở nên tự lực. Mục đích cuối cùng không phải là mọi khó khăn, khủng

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

8

hoảng không còn nữa mà mỗi lần gặp khó khăn, cộng đồng có thể tự huy động nguồn lực bên trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề. Điều nầy chỉ có thể có nếu biết xử lý đúng các tình huống trong quá trình phát triển, qua đó, cộng đồng sẽ tăng trưởng và tự lực hơn như con người phải trải qua khủng hoảng mới trưởng thành được. Thông qua các dự án phát triển cộng đồng như là những phương pháp “kích hoạt”, các mục tiêu trên từng bước triển khai trong thực tiễn.

Sau đây là một mô hình về quá trình làm PTCĐ4

3.3 Quy tắc hành động: Phát triển cộng đồng tin tưởng rằng mọi công dân và các cộng đồng hoàn toàn có

khả năng quản lý cuộc sống và các vấn đề của mình ngoại trừ khi họ bị đè nặng bởi mối lo âu để sống còn. Năng lực tự quản (governance) là một năng lực tự có và tiềm ẩn trong các cộng đồng, vấn đề của phát triển cộng đồng là cần đánh thức hoặc củng cố năng lực đó.

Phát triển chỉ có thể thành công trên cơ sở xuất phát từ ý chí và nội lực từ bên trong. “Làm thay”, “nghĩ hộ” là những tư duy và hành động xa lạ với phát triển cộng đồng.

Mọi chương trình hành động phải do cộng đồng tự quyết nhằm bảo đảm tính tự chịu trách nhiệm của cộng đồng.

Dân chủ là một nguyên tắc mà mọi chương trình phát triển cộng đồng phải hướng tới vì chúng đảm bảo rằng lợi ích chung sẽ được tôn trọng. Nhưng dân chủ đòi hỏi một quá trình làm quen và không nên quên rằng tính tổ chức, kỷ luật là hình thức dân chủ nhất.

4 Giáo trình PTCĐ, Nguyễn thị Oanh, 1994

CĐ còn yếu kém

CĐ thức tỉnh

CĐ tăng năng lực

CĐ tự lực

Tự tìm hiểu và phân tích

Phát huy tiềm năng

Huấn luyện

Hình thành các nhóm liên

kết

Tăng cường động lực tự nguyện

Hành động chung có lượng giá (từ thấp đến cao)

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

9

Không đặt nặng chương trình, dự án (nghĩa là những ý đồ có sẵn của tổ chức nhà nước, cơ quan phát triển, tổ chức xã hội …) từ bên trên hoặc bên ngoài đưa vào mà là hướng tới các công trình vừa tầm do người dân đề xướng và thực hiện với sự hỗ trợ từ bên ngoài.

Các hoạt động phát triển cộng đồng là các hoạt động mang tính nhân-quả, muốn tạo ra hiệu quả mang tính tổng thể phải có một chuỗi các hoạt động liên quan và phụ thuộc lẫn nhau.

Ưu tiên các hoạt động mang tính đột phá khẩu, các mục tiêu ưu tiên nhưng chúng phải được đặt trong một cái nhìn phát triển mang tính tổng thể.

Đối tượng ưu tiên của PTCĐ là người nghèo và người thiệt thòi. Nghèo, dân trí thấp… là các vấn đề của phát triển cộng đồng.

Công bằng xã hội không chỉ là một khẩu hiệu mà phải dẫn tới sự tái phân phối các nguồn lực ở cấp vi mô cũng như vĩ mô. Điều nầy rất quan trọng vì không ít chương trình phát triển đã tạo ra khoảng cách giàu-nghèo.

Các hình thức hợp tác là cơ sở để phát huy tinh thần trách nhiệm và tinh thần cộng đồng. Xây dựng và củng cố khả năng hợp tác là những vấn đề của phát triển cộng đồng.

Sự hỗ trợ bên ngoài từ chuyên môn (xã hội và kỹ thuật) đến các nguồn lực vật chất-tài chính là rất cần thiết nhưng chỉ là chất xúc tác. Tiền của cũng quan trọng nhưng quan trọng hơn là “cách nghĩ”, “cách làm”.

Đây là các hoạt động xúc tiến (promotion) của bên ngoài với sự nỗ lực và quyết tâm của bản thân cộng đồng.

Các hoạt động phát triển cộng đồng có trình tự về mặt phương pháp, cần có sự huấn luyện cho các tác viên phát triển cộng đồng và người dân tại chỗ.

III. Cơ sở thực tiễn phát triển cộng đồng 1- Từ sáng kiến của cộng đồng, gia tăng tính năng động xã hội vi mô và giảm trừ độc quyền Nhà nước vĩ mô. Nhu cầu phát triển của các cộng đồng nhỏ ở nông thôn đòi hỏi phải có những cách

đặt vấn đề mới xuất phát từ những nhu cầu được thức tỉnh từ chính họ. Tính bền vững của các hoạt động phát triển cần phải có những nguyên tắc làm việc mới, những phương pháp mới đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Quá trình xác định nhu cầu, lập kế hoạch can thiệp đã dựa trên một tư duy mới là : thay vì bên ngoài làm hộ, người dân ở mỗi cộng đồng phải tự mình đứng ra giải quyết những vấn đề riêng của mình, sự giúp đỡ của bên ngoài chỉ có tính chất hỗ trợ, không mang tính quyết định.

Thiếu hụt sự hưởng ứng, ý chí và nỗ lực của người dân là một trong những nguyên

nhân cho sự thất bại của nhiều chương trình phát triển cộng đồng. Ngoài nguyên nhân chú trọng đến biện pháp hỗ trợ mang tính cấp cứu, từ thiện là cách đặt vấn đề mang tính áp đặt từ trên xuống (Top-down) thay vì cần có một kế hoạch từ dưới lên (Bottom-up).

Cho dù thể chế đã cởi mở rất nhiều nhưng xã hội ta chưa biết nhiều đến các tổ

chức tự nguyện từ sáng kiến của người dân, của các tổ chức phi chính phủ. Hệ thống

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

10

giáo dục chưa tạo cho con người Việt Nam khả năng tự chủ, sáng tạo, biết thích ứng trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Tinh thần làm việc theo nhóm còn xa lạ với chúng ta.

Phát triển cộng đồng khuyến khích sáng kiến từ dưới lên, với sự kết hợp với chính

người dân để giải quyết vấn đề của cộng đồng. Sự tin tưởng tuyệt đối, vô điều kiện vào khả năng vươn lên của người nghèo, của những thành phần xã hội thấp kém nhất là một giá trị nhân bản, là một cách đặt vấn đề mới. Thói quen áp đặt, bao biện và làm thay dân là sản phẩm của cách giáo dục và quản lý không thích hợp với tư duy phát triển cộng đồng. Triết lý phát triển cộng đồng có sự tham gia tích cực của người dân đòi hỏi một sự đổi mới về nhận thức và tư duy hành động.

Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mang tính bước ngoặt. Nhiều

hình thức hợp tác tự nguyện mới, nhiều mô hình do người dân địa phương tự liên kết để giải quyết nhu cầu của mình hay tham gia vào các chương trình từ bên ngoài đưa vào, một số mô hình đã chứng minh tính hiệu quả của nó. Trong công cuộc Đổi mới, chúng ta có thể lấy các tư tưởng của Bác Hồ “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” cũng như các tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” làm cơ sở tư tưởng cho phát triển cộng đồng. Truyền thống tình làng nghĩa xóm, tương thân tương trợ, lá lành đùm lá rách cũng là những cơ sở xã hội-lịch sử quan trọng cho hoạt động nầy.

2- Quá trình chuyên môn hóa phát triển cộng đồng Ơ cấp Nhà nước cần có sự công nhận phát triển cộng đồng như là một phương

thức tạo điều kiện cho cho phát triển kinh tế, xã hội toàn diện, và phải được áp dụng trong các chương trình quốc gia như phát triên nông thôn, xóa đói giảm nghèo, dân số và sức khỏe…

Cán bộ các chương trình kể trên cần được tập huấn về phương pháp phát triển cộng đồng.

Cần xây dựng phát triển cộng đồng như một bộ môn khoa học ứng dụng tại các trường đại học.

IV. Triết lý tham dự phát triển cộng đồng

Cộng đồng là một nhóm người sống trong cùng một địa vực hay có những lợi ích và mối quan tâm chung mà không bị quy định bởi các giới hạn địa lý. Họ xây dựng các tổ chức và thiết chế nhằm đáp ứng một số nhu cầu chung của cộng đồng. Tham dự là một quá trình của quần chúng cùng tham gia các hoạt động có mục đích chăm sóc cộng đồng.

Oakley trích dẫn các thí dụ về cách biểu thị khái niệm tham dự cộng đồng :

Quá trình tham dự, theo nghĩa rộng, là quá trình tạo ra khả năng nhậy cảm của

quần chúng và do vậy làm tăng khả năng tiếp thu và năng lực của quần chúng

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

11

nông thôn nhằm đáp ứng các chương trình phát triển cũng như khích lệ các sáng kiến của địa phương.

Liên quan đến vấn đề phát triển, tham dự bao hàm việc thu hút quần chúng vào quá trình ra quyết định, thực hiện sự phân chia lợi ích trong các chương trình phát triển và lôi cuốn họ vào quá trình đánh giá chương trình.

Quá trình tham dự hướng tới những nỗ lực có tổ chức nhằm tăng cường kiểm soát các nguồn lực và các tổ chức điều hành trong những hoàn cảnh xã hội nhất định, kiểm soát các nhóm, các phong trào mà từ trước đến giờ vẫn nằm ngoài sự kiểm soát như vậy.

Susan Rifkin cho rằng để hiểu sự tham dự cộng đồng phải đặt các câu hỏi sau : Tại sao lại tham dự ? Ai tham dự ? Quần chúng tham dự như thế nào ? Để đo sự tham dự, Rifkin đưa ra một khung đánh giá quá trình tham gia gồm 5 yếu tố : Đánh giá nhu cầu, sự lãnh đạo, hoạt động quản lý, tổ chức và huy động nguồn lực. Mọi sự tham dự tốt phải thể hiện trên 5 chiều cạnh nầy.

Mc. Call phân biệt ba mức độ tham dự : Tham dự như là một phương tiện để tạo ra các điều kiện dễ dàng cho việc thực

hiện các can thiệp từ bên ngoài vào. Tham dự như là một phương tiện để dung hòa trong quá trình ra quyết định và

tạo lập chính sách cho các can thiệp từ bên ngoài vào. Tham dự như là mục đích tự thân – trao quyền cho các nhóm xã hội và kiểm

soát nguồn lực và ra quyết định. 1- Các hình thức tham gia cộng đồng Trong xã hội hiện đại, tầm ảnh hưởng của Nhà nước trong xã hội đã được mở

rộng một cách to lớn. Nhà nước ngày nay là người cung cấp chính yếu các dịch vụ phát triển xã hội. Nhà nước là người hợp tác, một lực lượng quan trọng trong phát triển cộng đồng. Vai trò của Nhà nước trong phát triển cộng đồng bao hàm cả hai tư cách : là cơ quan có thẩm quyền cho phép các hoạt động phát triển tại cộng đồng và là một trong các lực lượng có tiềm lực tham gia vào quá trình này. Không thể coi nhẹ vị trí của Nhà nước đóng góp có hiệu quả vào việc xúc tiến tham gia cộng đồng, thể hiện trên một số phương diện sau :

Tạo hành lang pháp lý/hệ thống chính sách cho các hoạt động hướng vào các

chương trình phúc lợi công cộng chung, các chính sách miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp, các nhóm xã hội trong cộng đồng tham gia các dự án phát triển cộng đồng.

Cung cấp/điều chỉnh các nguồn lực của chính phủ cho các chương trình phát triển cộng đồng, kêu gọi hoặc tạo điều kiện cho c ác dự án do các NGO nước ngoài vào cộng đồng.

Là lực lượng điều chỉnh các mâu thuẫn trong cộng đồng, giữa các cộng đồng với nhau với tư cách là người đại diện cao nhất lợi ích chung của cộng đồng quốc gia.

Các tổ chức phi chính phủ cung cấp các cơ hội có hiệu quả hơn cho việc thực

hiện các ý tưởng tham gia cộng đồng, và hình thức tham gia thường là thiết thực hơn

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

12

là Nhà nước do hoạt động của NGO thường nhỏ, ngừơi dân dễ thấy ngay tính hiệu quả của nó. Tính quan liêu của hệ thống Nhà nước cũng không phải lúc nào cũng thích hợp với vai trò là lực lượng tham gia trực tiếp vào phát triển cộng đồng. NGO linh hoạt hơn vì họ không bị hạn chế trong hoạt động của mình ở lĩnh vực công tác chuyên biệt như các cơ quan chính phủ. Các mối quan hệ tốt với cơ quan công cộng sẽ là điều kiện và nguyên tắc để các NGO có thể thực hiện được tốt chức năng của mình.

Là người trực tiếp xây dựng , triển khai và đánh giá các chương trình phát triển

cộng đồng bởi nhu cầu của các hoạt động phát triển là rất đa dạng, do đó mỗi một NGO với tôn chỉ và mục tiêu của mình thường bó gọn vào một số lĩnh vực, với một số hoạt động có tính truyền thống.

Tính gọn nhẹ của một tổ chức là một lợi thế trong việc nắm bắt nhu cầu, xây dựng kế hoạch, triển khai các hoạt động phát triển cộng đồng. Tính quan liêu ít được biết đến trong các hoạt động phát triển của NGO.

Do ngay từ đầu nhiều tổ chức NGO xây dựng tôn chỉ, mục tiêu của minh theo triết lý tham dự nên những mâu thuẫn của quá trình phát triển cộng đồng vốn là sự hợp lực của các lực lượng bên ngoài và bên trong ít xảy ra hoặc có thì cũng dễ có thể điều hòa được.

Các NGO đã đóng góp vai trò chính trong việc thúc đẩy tham gia cộng đồng, song không thể không nói tới một số vấn đề về khả năng hợp tác với hệ thống chính quyền, trong đó có chính quyền cơ sở, nhiều khi gây ra những phản ứng tại cộng đồng. Vấn đề thứ hai dễ găp phải là các NGO thường quá chú trọng đến một số lĩnh vực hoặc hoạt động nào đó, thường ít có những hoạt động mang tính hệ thống nên có khi trùng lặp tại một thời điểm hoặc một khu vực, hoặc ít có hiệu quả hệ thống.

Vai trò của các tổ chức xã hội tại cộng đồng trong sự tham gia cộng đồng là một vấn đề nội bộ của quá trình tham gia cộng đồng. Các tổ chức xã hội tại cộng đồng thường có những vai trò nhất định bởi đó là các tổ chức do người dân tự nguyện lập nên nhằm đáp ứng các nhu cầu đã xác định cụ thể nào đó, nó thường bền vững do có cơ sở tại chỗ.

Trong mỗi cộng đồng nông thôn, các tổ chức, nhóm lập ra bởi rất nhiều nhu cầu, từ các vấn đề kinh tế, tín dụng, các dịch vụ xã hội cơ bản như nước sạch, học hành, y tế và chăm sóc sức khỏe, cho đến các nhu cầu văn hóa tinh thần như thờ cúng, cố kết cộng đồng… Điểm chung của các tổ chức nầy là chỉ lập ra khi người dân thấy cần thiết, người lãnh đạo hay các thành viên đều là những người tự nguyện, hào hứng tham gia các hoạt động của địa phương. Trong các cộng đồng đô thị, vốn là người tứ xứ nên các tổ chức ở đây thường không có cơ sở thân tộc hay láng giềng thân thiết mà lấy mục đích công việc làm hạt nhân tập hợp, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức xã hội, những cá nhân là các nhà hoạt động xã hội, các doanh nghiệp, các nhà từ thiện.

Tính tại chỗ của các tổ chức tại chỗ ở các cộng đồng tham gia vào các chương

trình phát triển cộng đồng vừa là điểm thuận lợi vừa là điểm bất lợi. Sự hợp tác chặt chẽ giữa ba bộ phận : chính quyền cơ sở, các NGO và các tổ chức xã hội tại chỗ là cách tốt nhất để khắc phục những điểm mạnh và yếu của từng bộ phận. Trong thực

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

13

tiễn, sự thành công hay thất bại của các chương trình phát triển cộng đồng phụ thuộc vào việc có xác lập được cơ chế phối hợp giữa ba lực lượng này hay không.

2- Nghiên cứu tham dự như một cách tham gia

Nghiên cứu (Research) có thể được hiểu như một quá trình phân tích những vấn đề, những mâu thuẫn, xung đột của đối tượng, có liên hệ với hoàn cảnh, môi trường xung quanh, nhằm tìm ra những giải pháp hiệu quả cho phát triển. Các chương trình nghiên cứu của các tổ chức quốc tế tại cộng đồng thường áp dụng phương pháp luận tham dự với niềm tin rằng bằng triết lý tham dự, các chương trình phát triển cộng đồng có thể thu hút được sự tham gia của mọi lực lượng xã hội, mọi nguồn lực vào quá trình phát triển, phần nào khắc phục những hạn chế của các phương pháp nghiên cứu không tham dự. Phương pháp luận tham dự dựa trên triết lý như sau :

Tham dự là từ người dân và trả lại cho người dân, đấy là thực chất của phương

pháp luận tham dự. Nhiều tổ chức quốc tế hiện nay cho rằng phương pháp luận tham dự là phương pháp luận đi từ dưới lên, chứ không phải là phương pháp nghiên cứu không tham dự là đi từ trên xuống. Đi từ người dân trở thành khoa học, chứ không phải đi từ tháp ngà khoa học rồi áp đặt cho người dân những khái niệm, những phạm trù mà tự mình đặt ra.

Nói một cách lý tưởng, nghiên cứu tham dự là cùng người dân, vì người dân và

không phải là đứng trên dân. Điều nầy có nghĩa là các đại diện của quần chúng phải có đủ năng lực để tham gia như là các nhóm hướng dẫn trong nghiên cứu tham dự, tham gia ở mọi thời điểm của quá trình nghiên cứu cho đến khi các kết quả được công bố và thông tin được đưa trở lại tới quần chúng theo đường khác nhau.

Có sự khác biệt rõ nét giữa nghiên cứu thông thường (không tham dự) và nghiên

cứu tham dự. Sự khác biệt quan trọng nhất trong nghiên cứu tham dự là các câu hỏi nghiên cứu và các vấn đề ưu tiên được dựa trên cơ sở các nhu cầu của cộng đồng và được hình thành bởi chính cộng đồng.

Giai đoạn 1: xác lập các ưu tiên và ấn định các mục tiêu Giai đoạn 2 : Triển khai đề cương nghiên cứu tại cộng đồng. Trong nghiên cứu

tham dự muốn đạt được sự tham dự tối đa của cộng đồng trong việc chẩn đoán vấn đề, nâng cao nhận thức và tự tin để cải thiện hoàn cảnh thì các phương pháp được lựa chọn cần : Tương đối đơn giản Ngăn ngừa được sự nản lòng và thờ ơ của người tham dự Chỉ hướng vào sự hiểu biết những gì thực sự cần thiết Tổ chức những cuộc họp để nâng cao nhận thức và trách nhiệm chung.

Việc thu thập số liệu thực tế cũng có thể được thực hiện theo phương pháp tham dự. Trong trường hợp này, thực chất là các thành viên cộng đồng tự mình thực hiện nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu cần phải thích hợp để trả lời các câu hỏi nghiên cứu của họ.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

14

Quá trình tìm ra các kết quả nghiên cứu theo phương pháp thông thường (không tham dự) vẫn cần phải chuyển giao cho cộng đồng, trong khi đó, kết quả do chính các thành viên cộng đồng tìm ra (có sự tham dự) thì không cần phải chuyển giao.

Phương pháp làm báo cáo cũng là điểm khác biệt cơ bản giữa nghiên cứu thông thường và nghiên cứu tham dự :

Các nhà nghiên cứu thông thường có thể báo cáo ngay đến đồng nghiệp và các nhà tài trợ nghiên cứu của họ. Đôi khi họ không được đào tạo viết báo cáo một cách toàn diện. Những báo cáo của họ thường khó đọc, dùng các thuật ngữ chuyên môn.

Nghiên cứu tham dự là dạng nghiên cứu trong đó các kết quả được trình bày theo cách những người không có chuyên môn khoa học có thể tham dự vào các buổi thảo luận. Điều này có thể có ít uy tín về mặt khoa học nhưng lại thỏa mãn nhu cầu và đó là phương pháp kiểm tra tốt nhất về giá trị và tính thỏa đáng của kết quả.

Trong nghiên cứu tham dự, nhiều phương pháp và thủ tục được kết hợp với nhau để hệ thống hóa tri thức mới theo trình độ nhận thức và khả năng hiểu được các dạng văn bản có lời hoặc hình ảnh.

Cho đến nay có một số loại hình nghiên cứu tham dự chủ yếu như sau : 1 DRP Chẩn đoán nông thôn có sự tham gia Diagnosis with rural participation 2 FPR Nghiên cứu có sự tham gia của trang

chủ Farmer participation research

3 MARP Phương pháp nghiên cứu được tăng tốc có sự tham dự

Method of accelerated research with participation

4 PALM Phân tích tham dự và giáo học pháp Participatory Analysis and learning methods

5 DDP Chẩn đoán và quyết định có sự tham dự

Diagnosis and Decision with participation

6 PAR Nghiên cứu hành động tham dự Participatory Action Research 7 PRAP Lập kế hoạch và đánh giá nông thôn

tham dự PRA and planning

8 PRA Đánh giá nhanh tham dự Participatory Rapid Appraisal 9 REAP Đánh giá nhanh dân tộc học tham dự Rapid Ethnic Appraisal with

participation

Phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (Rapid Rural Appraisal – RRA) được đưa ra vào những năm cuối thập niên 1970 và đã được sử dụng để đưa ra các thông tin nhanh và chính xác cho việc nhận dạng và đánh giá các chương trình phát triển nông thôn.

Gần đây, dựa trên kinh nghiệm có được ở An độ, RRA đã nhanh chóng trở thành

phương pháp tham dự và dẫn đến một khái niệm mới là đánh giá nhanh tham dự (Participatory Rapid Appraisal- PRA). Khái niệm nầy mô tả các cách tiếp cận và phương pháp tạo ra khả năng cho dân chúng địa phương được chia sẻ và nâng cao kiến

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

15

thức của họ về cuộc sống và phân tích các điều kiện nhằm tạo cho họ khả năng lập kế hoạch và hành động. Một ưu thế lớn nhất của PRA là khả năng trong việc huy động các thiết chế cộng đồng giải quyết các vấn đề nhằm tăng khả năng bảo đảm đời sống. PRA cũng làm nâng cao nhận thức của nhóm dân cư địa phương, kể cả các nhóm phụ nữ về các công việc cần làm, phương pháp và khả năng thực hiện chúng.

Như vậy, triết lý tham dự phát triển cộng đồng được quán triệt vào hai quan điểm

và phương pháp tham dự cơ bản : (1) Phát triển cộng đồng có sự tham dự tích cực của người dân và (2) Phát triển cộng đồng dựa trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu tham dự. Nhìn chung, hai hình thức tham gia này thực chất là một vì đều dựa trên yêu cầu thu hút tối đa các thành viên cộng đồng vào quá trình phát triển cộng đồng. V. Tìm hiểu cộng đồng 1. Các phương pháp tìm hiểu cộng đồng

a. Điều tra xã hội học b. Tìm hiểu cộng đồng qua thông tin tư liệu c. Phỏng vấn các lãnh đạo địa phương và những người am hiểu vấn đề d. Lân la với người dân e. Tổ chức thảo luận trong dân f. Điều tra từng mảng vấn đề với sự tham gia chủ động của người dân

2. Tìm hiểu những gì ở cộng đồng a. Tổng quan về cộng đồng, bao gồm :

Địa lý : vị trí, đất đai, tài nguyên thiên nhiên Dân số : tổng số dân, giới tính, độ tuổi, độ tuổi lao động, số trẻ em, người

già, thanh niên... Kinh tế : cơ cấu ngành nghề (công – nông – thương mại dịch vụ), khoa

học kỹ thuật phục vụ kinh tế, tiềm năng phát triển... Văn hóa xã hội, y tế (trình độ dân trí, vấn đề mù chữ, bỏ học, lớp phổ

cập, cơ sở trường học, bệnh viện, đời sống giáo viên, sức khỏe , môi trường, phong tục tập quán, tín ngưỡng....)

b. Nhu cầu và các vấn đề của cộng đồng Nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, việc làm, thu nhập.... Các vấn đề nổi cộm khác : trẻ thiếu chăm sóc, bị lạm dụng, gia đình rạn

nứt, tệ nạn xã hội... c. Tiềm năng và hạn chế của cộng đồng d. Các mối quan hệ trong cộng đồng

VI. Phát hiện, phát huy và tổ chức tiềm năng của cộng đồng 1. Phát hiện tiềm năng của cộng đồng như thế nào ?

a. Tiềm năng cộng đồng là gì ? Khả năng, năng lực, tài nguyên còn tiềm ẩn, bị bỏ quên hay bị gạt ra

ngoài Đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ xưởng, trình độ văn hóa

tay nghề, khả năng tổ chức, kinh nhgiệm, sức khỏe, tuổi trẻ, hay các tổ chức phi chính thức tích cực; là sức mạnh tinh thần như nền văn hóa, ước vọng, tấm lòng, sự nhiệt tình, tinh thần hợp tác, ý chí vươn lên của một cộng đồng.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

16

Tiềm năng quan trọng nhất là con người. b. Phát hiện tài nguyên như thế nào ?

Thông qua quá trình “tìm hiểu cộng đồng”, cuộc điều tra tổng hợp ban đầu.

Qua lân la thăm dò, tác viên sẽ phát hiện những người có uy tín, những lãnh tụ tự nhiên, các nhóm phi chính thức...

Qua các buổi thảo luận nhóm phát hiện người có ý kiến tốt, sáng tạo... 2. Phát huy tiềm năng của cộng đồng

Đào tạo, huấn luyện là hoạt động cơ bản để xây dựng năng lực cho cộng đồng.

Kỹ năng tổ chức, quản lý

VII. Mâu thuẫn trong cộng đồng 1. Mâu thuẫn là bình thường Giữa bất cứ cá nhân, nhóm hay cộng đồng nào cũng có những điểm tương đồng

hay bất đồng về mục đích, quyền lợi, sở thích... Không có sự tăng trưởng nào mà không trải qua khủng hoảng. Nền văn hóa VN có xu hướng tránh né sự va chạm, che giấu mâu thuẫn. Cần đưa ra ánh sáng những ý kiến chưa tương đồng để đạt chân lý cao hơn. 2. Những khó khăn gặp phải trong phát triển cộng đồng trong bối cảnh hiện nay. Không tổ chức xã hội nào là hoàn hảo, không cá nhân nào là hoàn thiện. Có người đặt nặng tư lợi trên lợi ích chung.

PTCĐ là phương pháp còn mới mẽ ở nước ta. 3. Phải có thái độ nào và làm gì đối với khó khăn, mâu thuẫn. Trước tiên phải xem đó là chuyện bình thường, có mâu thuẫn và xử lý mâu thuẩn

mới có tăng trưởng. Phải làm cho mâu thuẫn tự bộc lộ để có cách xử lý. 4. Nguyên nhân của mâu thuẫn : Tranh giành quyền lợi với ý muốn thống trị, kiểm soát người khác. Tranh giành quyền lợi, tài nguyên với mục đích đạt đến sự thỏa mãn nhu cầu nhiều

hơn. Do quan điểm, nhận thức, nhân cách, cá tính khác nhau. Mâu thuẫn torng trường

hợp nầy nhằm đạt đến cái tôi. 5. Các cách và cấp độ giải quyết mâu thuẫn và vai trò của tác viên. Các cách và cấp độ giải quyết mâu thuẫn và vai trò của tác viên PTCĐ Tùy tính chất của mâu thuẫn mà hai bên có thể

Cách làm Hình thức can thiệp của tác viên và kết quả

Tương tác tạo sự thay đổi Tham vấn cung cấp thêm thông tin xoa dịu, giáo dục, tác động. Từ đó tạo điều kiện cho hai bên thương lượng.

Hợp tác

Các bên cùng tham gia bàn bạc tìm giải pháp

Đề ra giải pháp tốt nhất để cùng hợp tác.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

17

Dù có nhiều bất đồng nhưng cố gắng tìm giải pháp tốt nhất để hợp tác.

Cả hai bên cùng thấy mình thắng lợi.

Có vài mục tiêu tương đồng Tham vấn, cải tiến mối quan hệ, hòa giải hay thương lượng để bàn bạc các quyền lợi.

Thương lượng

Có sự đấu tranh đòi lợi ích, ngấm ngầm xuyên tạc nhau, che dấu ý đồ đè bẹp bên kia.

Hình thành sức mạnh mỗi bên để đưa ra người đại diện chung của tổ chức, mỗi bên đều cảm thấy thắng lợi một ít.

- Hai bên phân định rõ bên đối đầu, không thể thỏa hiệp.

- Xuyên tạc nhau mạnnh và âm mưu phá nhau.

Tác viên làm trung gian phân xử, hòa giải, phân tích mâu thuẫn, ngăn chặn bạo lực.

Có biểu hiện mất bình tĩnh, thiếu sự tự chủ.

Một bên thắng thế, nắm quyền – một bên xuống nước nhượng bộ – cuối cùng có kẻ thua người thắng.

Đối đầu

Mỗi người đều có ý quyết thắng, không còn quan tâm đến giải pháp tốt.

VIII. Giáo dục cộng đồng Giáo dục cộng đồng không chỉ đơn thuần là giáo dục công dân hay không chỉ gây ý thức cho những cá nhân riêng lẻ. GDCĐ là giúp cho một cộng đồng được trang bị đầy đủ để hành động chung, hành động như một cộng đồng, để giải quyết những vấn đề của mình. Hai khái niệm chủ yếu trong GDCĐ là xây dựng năng lực (capacity building) và tạo sức mạnh (empowerment) cho người dân. GDCĐ là để biến đổi CĐ, biến đổi xã hội. 1. Trong giáo dục tráng niên, GDCĐ, học không chỉ để biết, để nâng cao kiến thức

suông, mà để giải quyết một vấn đề của cuộc sống. Do đó nội dung xuất phát từ nhu cầu cụ thể của một địa phương, của một nhóm đối tượng cụ thể.

2. Đối tượng học là bất cứ ai tham gia vào chương trình phát triển, nhưng học viên cần được chọn lọc và triệu tập đúng với yêu cầu của chương trình. Có những lớp cho thanh niên, cho các bà mẹ, phụ lão, các lãnh tụ cộng đồng...

3. Mấy thập kỷ giáo dục phi chính quy đã rút ra các kết luận quan trọng về tâm lý học tập.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

18

Chúng ta nhớ Những gì chúng ta 10% Đọc 20% Nghe 30% Thấy 50% Nghe và thấy 80% Nói 90% Nói và làm

4. Học là hành, học bằng hành

CHƯƠNG II IX. THIẾT KẾ DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG Dự án PTCĐ là một kế hoạch hành động có sự phối hợp của nhiều lực lượng xã

hội nhằm huy động các nguồn lực, phân bổ chúng một cách hợp lý để tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ xã hội, từ đó, tạo ra những chuyển biến xã hội tại cộng đồng.

Quy trình thiết kế được đi theo một lôgích gồm 5 bước : Nhận diện cộng đồng, xác định nhu cầu, xác định nguồn lực và trở ngại, xây dựng kế hoạch hoạt động.

Với sư tham gia của người dân trong quá trình thiết kế, không những dự án có được những căn cứ thực tiễn màcòn là cơ hội để người dân có thể sở hữu ngay từ đầu dự án. Cộng đồng phải là tác giả tập thể của bản dự án.

DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG LÀ MỘT LOẠI DỰ ÁN ĐẶC BIỆT 1- Các vấn đề chung a) Các dự án PTCĐ được ra đời sau thế chiến thứ hai trong các cộng đồng dân định

cư ở đô thị châu Au. Vào thập kỷ 50, 60 , tại đây thường xảy ra xung đột nên các dự án PTCĐ được xây dựng hướng vào các khu dân cư thiệt thòi, huy động người dân, sự tham gia của giới nghiên cứu nhằm tìm hiểu và hỗ trợ các hoạt động tập thể tại chính các nhóm thiệt thòi đó.

b) Dự án là một danh từ được dùng tương đối rộng rãi ở nuớc ta trong những năm gần đây. Có nhiều loại dự án và cấp làm dự án (dự án cấp xã, huyện, tỉnh, quốc gia; dự án do cá nhân, tổ chức xã hội, chính phủ, chính quyền các cấp…thực hiện).

c) Nhìn chung, dự án được hiểu như một kế hoạch can thiệp để giúp một cộng đồng dân cư hoặc cá nhân cải thiện điều kiện sống trên một địa bàn nhất định.

d) Dự án PTCĐ là một loại dự án hướng vào đối tượng là các cộng đồng với mục đích cuối cùng là tạo ra những chuyển biến xã hội tại cộng đồng. Đây là một kế hoạch hành động có sự phối hợp của nhiều lực lượng xã hội bên trong và bên ngoài vì mục tiêu phát triển. Mục tiêu của dự án không phải là mang tiền bạc vật chất đến cho cộng đồng mà nhằm phát huy sự tham gia của người dân trong cộng đồng, giúp cho cộng đồng xác định những nhu cầu đích thực của họ cần giải quyết, giúp họ tự lực, gây ý thức, nghĩa là mang lại cho họ quyền lực để tự giải quyết những vấn đề của cộng đồng.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

19

e) Phải làm cho cộng đồng “sở hữu dự án ngay từ đầu đến cuối”, bởi vì khi dự án kết thúc, chính cộng đồng sẽ duy trì và phát huy hơn nữa những thành quả dự án. Tính bền vững của dự án được đo bằng kết quả là khi kết thúc dự án, năng lực tổ chức và duy trì các hoạt động tiếp theo bằng nguồn lực tại chỗ. Mang lại sự biến đổi xã hội theo hướng tích cực là mục tiêu

f) Dự án PTCĐ được hình thành nhằm tạo ra những điều kiện về kinh tế và xã hội cho cộng đồng, chú trọng đến tầm quan trọng của việc tham gia của quần chúng, biết định hướng nhu cầu, tự lực nâng cao ý thức. Loại dự án này xuất phát từ nhu cầu của cơ sở, qua đó, tăng quyền lực cho cộng đồng. Trọng tâm của các dự án PTCĐ làm tăng tính hội nhập và bền vững. Một cách lý tưởng, dự án là nơi các thành viên trong cộng đồng tự tổ chức lại một cách dân chủ để xác định nhu cầu, các khó khăn và vấn đề, xây dựng kế hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu này, với sự tham gia tối đa của cộng đồng.

g) Dự án PTCĐ có mục tiêu nhằm giải quyết một hay một vài vấn đề hay đáp ứng các nhu cầu có thực của cộng đồng. Nếu bên ngoài (Chính phủ, tổ chức xã hội, cá nhân trong và ngoài nước) có ý định đầu tư và bên trong có nhu cầu nhưng lại không có khả năng về nguồn lực tài chính, nhân lực, vật lực thì không thể xây dựng được một dự án. Do đó dự án PTCĐ phải là điểm hội tụ giữa ý định, nhu cầu và khả năng. Đây là một điểm khác biệt cơ bản giữa dự án PTCĐ và các loại dự án khác, đặc biệt là so với các dự án mang tính cứu trợ, giải quyết tình huống khẩn cấp. Sự gặp nhau vì mục tiêu phát triển, sự thống nhất về triết lý và phương pháp hành động, đó là cơ sở quan trọng để cho các dự án PTCĐ có thể triển khai tại cộng đồng. Sơ đồ sau đây minh họa cho các vấn đề nói trên.

Ở hầu hết các cộng đồng tại các nước đang phát triển, PTCĐ là một trong những chiến lược cơ bản để cải thiện điều kiện sống của người dân, nhất là những nhóm bị thiệt thòi. Nỗ lực PTCĐ ở những nước nầy thường do các tổ chức có mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau khởi xướng, đỡ đầu hay khuyến khích, thuộc 4 nhóm chủ yếu sau :

Y định của chúng ta

Nhu cầu của người dân

Khả năng của chúng ta

DỰ ÁN

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

20

Các cơ quan thuộc Trung ương, tỉnh, thành phố hoặc địa phương. Các tổ chức phát triển quốc tế hay các tổ chức tài trợ ở các nước phát triển. Các tổ chức từ thiện tư nhân bản xứ hoặc các tổ chức phi chính phủ. Các tổ chức cộng đồng hoặc các nhóm cộng đồng địa phương. Hoạt động PTCĐ rất đa dạng về hình thức : Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng chủ yếu là hệ thống giao thông nông thôn, điện,

thủy lợi, chuyển giao công nghệ thích hợp. Phát triển hệ thống thiết chế xã hội cơ bản như giáo dục, y tế và chăm sóc sức

khỏe (chăm sóc sức khỏe ban đầu, dinh dưỡng, nước sạch và vệ sinh môi trường, sức khỏe sinh sản… là những vấn đề ưu tiên).

Phát triển năng lực quản lý. Xây dựng hệ thống tín dụng nông thôn. Xóa đói giảm nghèo. Bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa, phát triển các loại hình nghệ thuật. Mục tiêu của các can thiệp do dự án đem lại là tạo ra sự thay đổi trong nhận thức và hành động tập thể của cộng đồng, nhờ đó, các lực lượng xã hội bên trong và bên ngoài cộng đồng quyết tâm thực hiện các kế hoạch hành động nhằm nag lại sự thay đổi về điều kiện/môi trường sống. Từ đó, nhận thức, năng lực và kỹ năng tổ chức các hoạt động được nâng cao, tạo cơ sở cho việc hình thành những dự án mới, nhờ vậy tình trạng xã hội của CĐ lại được cải thiện ở mức cao hơn. Hệ quả có tính liên tục của dự án phát triển cộng đồng.

Hạ tầng cơ sở

Dinh dưỡng

Giáo dục CD và xóa mù

chữ

Tạo việc làm

Tín dụng & xoá đói giảm nghèo

Chăm sóc sức khoẻ ban đầu

(PHC)

Phát triển năng lực quản

lý Bảo vệ nguồn

tài nguyên

An sinh xã hội

Bảo tồn di sản văn hóa

Nước sạch vệ sinh môi trường

Chuyển giao công nghệ

DỰ ÁN

PHÁT TRIỂN

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

21

2- Định nghĩa : Dự án là gì ? 2.1 Từ điển Xã hội học của David Jary và Julia Jary đưa ra định nghĩa như sau :

Những kế hoạch của địa phương được thiết lập với mục đích hỗ trợ các hành động cộng đồng và phát triển cộng đồng.

2.2 Theo Nguyễn thị Oanh : Dự án là sự can thiệp một cách có kế hoạch nhằm đạt một hay một số mục tiêu

cùng hoàn thành những chỉ báo thực hiện đã định trước tại một địa bàn và trong một khoảng thời gian nhất định, có huy động sự tham gia thực sự của những tác nhân và tổ chức cụ thể.

Dự án là một tổng thể có kế hoạch những hoạt động (công việc) nhằm đạt một số mục tiêu cụ thể trong một khoảng thời gian và trong khuôn khổ chi phí nhất định. Dự án nhánh (sub-project) là những dự án nhỏ nằm trong một dự án, và

thường được thực hiện trên một địa bàn hay với một cộng đồng. Chương trình (program) là tổ hợp các dự án có cùng một mục đích hay

chủ đề. Chương trình là một loạt những dự án làm cùng một việc tại một nơi và trong một khoảng thời gian nhất định. Chương trình cũng có thể chỉ ra một số mục tiêu và tiêu chuẩn chung, con các dự án được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau (trong phạm vi một vùng, một nước hay cả thế giới) vào những thời điểm khác nhau. Chương trình có thể bao gồm nhiều dự án có liên quan với nhau và lồng ghép trong một tổng thể.

Tình trạng

xã hội

chậm phát triển

Bên ngoài

Bên trong

Tình trạng

xã hội được cải

thiện

Nhận thức về các hành động tập thể được nâng cao hơn

Năng lực và kỹ năng tổ chức các hoạt động tập thể được

nâng lên

Tình trạng

xã hội được cải

thiện hơn nữa

DỰ ÁN

DỰ ÁN MỚI

DỰÁN MỚI

CAN THIỆP

CÁC HỆ QUẢ CỦA DỰ ÁN PTCĐ

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

22

Ví dụ : tổ chức X lo về an sinh trẻ em có chương trình “Hỗ trợ trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn”, chương trình này có một số dự án như dự án “trẻ đường phố”, dự án “trẻ mại dâm”, dự án “phòng chống trẻ bị lạm dụng tình dục”, dự án “hỗ trợ thu nhập cho gia đình của một hoặc cả ba nhóm trẻ nói trên”, v.v…

2.3 Định nghĩa : Dự án PTCĐ là một loại dự án phát triển nhằm giải quyết một hay một số các vấn đề của cộng đồng với sự tham gia tích cực của nhiều lực lượng xã hội (bên trong và bên ngoài, chính thức và phi chính thức), thể hiện bằng một kế hoạch can thiệp hay một chương trình hành động được xác định bởi một khung thời gian, nhân lực, tài chính và các vấn đề quản lý khác. THIẾT KẾ DỰ ÁN

Xây dựng dự án PTCĐ có nhiều mô hình khác nhau. Mô hình sau đây hỗ trợ những người làm công tác phát triển, những người lãnh đạo cộng đồng và những người tham gia có thể dựa vào đây để xây dựng kế hoạch thực hiện hoặc lượng giá những dự án quy mô nhỏ trong các lĩnh vực khác nhau. Trình tự có thể thay đổi hay điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.

Có ba giai đoạn chủ yếu của một chu trình dự án :

Giai đoạn 1 : Thiết kế dự án - Nhận diện cộng đồng - Xác định nhu cầu - Xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể - Đánh giá nguồn lực và các cản trở - Hoạch định các hoạt động

Giai đoạn 2 : Thực hiện Giai đoạn 3 : Đánh giá (lượng giá)

1- Giai đoạn 1 :

1.1. Nhận diện cộng đồng : Nhận diện cộng đồng là bước khởi động đầu tiên. Hiểu biết có hệ thống tình trạng hiện nay của CĐ sẽ giúp xác định và làm cơ sở cho quá trình xây dựng một dự án phản ánh đúng tình hình thực tiễn, có tính khả thi. Quá trình tìm hiểu cộng đồng có thể có nhiều tên gọi như chẩn đoán cộng đồng, nhận diện cộng đồng, phân tích cộng đồng…. Nhưng nhìn chung đều phải bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống cộng đồng. Đó là :

Các hoạt động kinh tế Kết cấu cơ sở hạ tầng Cơ cấu chính trị hiện hành Đặc điểm dân số – lao động Sự phân tầng xã hội và các mối tương quan quyền lực Các tổ chức trong cộng đồng, chức năng, nhiệm vụ và các hoạt động Phương thức lãnh đạo và ảnh hưởng của phương thức này Những khía cạnh văn hóa hay truyền thống

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

23

Tình trạng sức khoẻ, vệ sinh và dinh dưỡng Các vấn đề về giáo dục, các vấn đề xã hội, tệ nạn xã hội Những vấn đề cấp thiết và những vấn đề cần phải xử lý, giải quyết.

Đây là các thông tin chung mà mỗi dự án cần phải thu thập. Tùy vào mục tiêu, nội dung và phạm vi can thiệp mà mỗi dự án sẽ chọn một hướng thu thập thông tin riêng, ví dụ, một dự án văn hóa cộng đồng ngoài việc phải thu thập một số thông tin chung ở trên, có thể cần phải thu thập thêm các thông tin sau : Các sinh hoạt văn hóa cộng đồng Các sinhhoạt văn hóa tại gia đình : cưới, tang ma, các lễ kỷ niệm, các hình thức

thờ tự… Các thiết chế văn hóa cổ truyền : đình, chùa, miếu… Phong tục tập quán cổ truyền, hệ giá trị, chuẩn mực hiện đại… Các chuyển đổi văn hóa Quan hệ trong gia đình Quan hệ họ tộc Quan hệ láng giềng Quan hệ với cộng đồng khác Hệ thống thiết chế truyền tải văn hóa Hệ thống tổ chức và quản lý văn hóa Các hình thức sáng tạo văn hóa nghệ thuật Các nhóm sáng tạo văn hóa nghệ thuật Nguồn văn hóa được hưởng thụ Các hình thức hưởng thụ nghệ thuật : thời gian, địa điểm, loại hình … Các nguồn lực tại chỗ Các nhóm xã hội liên quan tới công việc của dự án Các mạnh thường quân. Việc phân tích tình hình có thể là một công việc phức tạp đòi hỏi nhiều thời gian. Các dự án lớn thường tiến hành một cuộc nghiên cứu, có thể là điều tra định lượng, có thể là nghiên cứu định tính. Việc phân tích tình hình ở giai đoạn này có một ý nghĩa : Phân tích tình hình giúp xác định bối cảnh hoạt động của dự án, hiểu biết về điều

kiện kinh tế xã hội, văn hóa, chính trị của CĐ. Giúp CĐ nhận diện được những vấn đề ảnh hưởng tới người dân và thấy được nhu

cầu cần phải được hành động để đem lại những thay đổi như mong muốn. Tạo cơ hội ban đầu huy động người dân trong CĐ tham gia xác định những khó

khăn và những vấn đề cần phải giải quyết, là cơ hội thúc đẩy sự hướng tới các hoạt động tập thể bên trong CĐ.

Cung cấp cơ sở dữ liệu xây dựng nội dung cũng như hoạt động giám sát, lượng giá tác động cuối cùng của dự án.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

24

1.2. Đánh giá nhu cầu Đánh giá nhu cầu là một trong những khâu quan trọng trong tiến trình xây

dựng dự án. Đánh giá nhu cầu có hệ thống là một vấn đề tương đối mới trong hoạt động phát triển. Nhu cầu là một hiện tượng cần được đáp ứng hay nguyện vọng, lợi ích của người dân. Nhu cầu được định nghĩa là sự cách biệt giữa tình trạng thực và tình trạng mong muốn đạt được. Từ góc độ của dự án, chúng ta coi việc đánh giá nhu cầu là tiến trình đánh giá và đo lường những cách biệt giữa “tình trạng thực” và “tình

Nhận diện cộng đồng

Xác định nhu cầu

Xác định mục tiêu tổng quát & mục tiêu

cụ thể

Xác định nguồn lực và trở ngại

Hoạch định các hoạt động

Địa điểm Thời gian Trách nhiệm Các bảo đảm hậu cần

Kế hoạch hành động

Tổ chức thực hiện

Giám sát Phối hợp Quản lý dự án

ĐÁNH GIÁ

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

25

trạng mong muốn đạt được”, xét xem những tình trạng nào cần được ưu tiên giải quyết trước.

Có nhiều kỹ thuật đánh giá nhu cầu, từ đánh giá không chính thức đến đánh giá

chính thức và đánh giá một cách có hệ thống. Cơ sở của việc đánh giá có hệ thống như sau :

Xác định nhu cầu Sắp xếp thứ tự ưu tiên các nhu cầu Cân đối các nhu cầu Xem xét những nhu cầu nào có thể đáp ứng được

Những kỹ thuật giúp xác định nhu cầu : Điều tra khảo sát (survey) Quan sát (observation) Bảng câu hỏi (questionnaire) Dự các cuộc họp của người dân, lắng nghe họ thảo luận Hội thảo chuyên đề có sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng và của

các người lãnh đạo (chính thức và không chính thức) Nắm bắt quan điểm của các tổ chức Tham khảo ý kiến các viên chức nhà nước Phỏng vấn Đơn xin của cộng đồng, đơn xin thỉnh cầu Tiếp xúc cá nhân với những nhân vật trong cộng đồng (cả tích cực và không

tích cực) Trưng bày áp phích, hình ảnh

Đánh giá nhu cầu

Xác định nhu cầu

Sắp xếp thứ tự ưu tiên trong nhu cầu

Cân đối nhu cầu

Quyết định sẽ đáp ứng nhu cầu nào

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

26

Mời cộng đồng tham dự và lắng nghe một buổi nói chuyện của chuyên gia về phát triển và tổ chức thảo luận về nhu cầu của cộng đồng

Xác định nhu cầu sau một buổi chiếu phim làm cơ sở để thảo luận Các buổi họp khi tình hình có vấn đề dưới hình thức động não (brainstorm) Báo cáo chuyên đề hay báo cáo tổng hợp từ các đợt nghiên cứu cộng đồng Các ý kiến của đại biểu Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân các cấp.

1.3. Xây dựng mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể

a) Mục tiêu tổng quát (overall objectives hay goal) là mục đích cuối cùng của

dự án, là phương hướng tổng thể cần vươn tới của tất cả các hoạt động của dự án.

b) Mục tiêu cụ thể (specific objectives) có tính đặc thù hơn mục tiêu tổng quát, nói cách khác là sự giải thích mục tiêu tổng quát. Khi xây dựng mục tiêu cụ thể phải đáp ứng được 4 yêu cầu sau đây : - Cái gì ? làm cái gì ? - Khi nào làm ? - Có thể làm được hay không (với thới gian, tiền bạc và nhân sự sẵn có) - Có thể đo lường được, nghĩa là sau đó có thể đo đếm mục tiêu cụ thể đã đạt được hay chưa ?

Mục tiêu cụ thể phải : (SMART) Đặc thù không được chung chung (specific) Đo lường được (measurable) Có thể đạt được (attainable) Thực tế (realistic) Đạt được trong một thời gian nhất định (time-bound)

CÂY MỤC TIÊU

Về mặt lý thuyết, việc xác định đúng mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể

theo logich thống nhất sẽ là điều kiện cho các hoạt động của dự án không đi chệch

MỤC TIÊU TỔNG QUÁT

Mục tiêu cụ thể Mục tiêu cụ thể Mục tiêu cụ thể Mục tiêu cụ thể

Mục tiêu CT Mục tiêu CT Mục tiêu CT Mục tiêu CT Mục tiêu CT Mục tiêu CT

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

27

hướng. Các mục tiêu cụ thể chịu sự chi phối của mục tiêu tổng quát, cụ thể hóa mục tiêu tổng quát. Dựa trên các nhu cầu mà sắp xếp thứ tự ưu tiên để xác định mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể là khâu quan trọng khi lên kế hoạch cho một dự án PTCĐ. Mục tiêu tổng quát xác định cái người ta mong đợi từ một dự án, dưới dạng một

tuyên bố chung nhất bao trùm và tổng hợp một loạt những kết quả có được từ dự án. Một mục tiêu tổng quát được cấu tạo từ nhiều mục tiêu cụ thể.

Mục tiêu cụ thể biểu thị kết quả bằng những cụm từ mang tính hành động nhiều hơn.

1.4. Lượng định nguồn lực và trở ngại

Sau khi xác định mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể trên cơ sở sắp xếp những nhu cầu ưu tiên thì điều quan trọng là liệt kê những nguồn lực sẵn có và cần có, dự kiến những trở ngại có thể gặp trong quá trình đạt tới những mục tiêu cụ thể. Việc thẩm định các nguồn tài nguyên giúp cho việc hiểu rõ được thế mạnh của CĐ để đạt được những mục tiêu cụ thể đã xác định. Công việc nầy cũng giúp xác định tài nguyên của CĐ và những gì cần huy động từ bên ngoài.

Những trở ngại là nhân tố có thể cản trở bước tiến triển của dự án. Việc thẩm định những trở ngại là cần thiết để nhận diện những khó khăn, đề ra những chiến lược khắc phục những trở ngại trước khi chúng xuất hiện và biến những trở ngại thành nguồn tài nguyên.

Kiểm tra/ đánh giá các điều kiện thực thi dự án, đặc biệt là các vấn đề về đối tác và

quan hệ đối tác, cơ chế hợp tác, khả năng tham gia của cộng đồng vào dự án có một tầm quan trọng đặc biệt.

Trước khi thành lập một dự án, chúng ta phải xem xét các vấn đề thuộc bối

cảnh ra đời, xác lập các vấn đề về cơ chế làm việc, cơ chế phối hợp. Khi dự án được chính thức triển khai, cần có các hoạt động nhằm xác định lại

những thỏa thuận, các cam kết, thậm chí điều chỉnh cho phù hợp tình hình.

Trong dự án PTCĐ, các hoạt động bên ngoài chỉ đóng vai trò xúc tác (thông qua nguồn tài chính, vật chất, kỹ năng…), cộng đồng phải tự xác định vấn đề cần giải quyết, nhu cầu nào phải đáp ứng, lên kế hoạch và triển khai. Nhưng quá trình này cần phải có sự lãnh đạo, xây dựng các tổ chức, cơ chế kiểm tra kiểm soát hoạt động. Vì thế khi dự án được triển khai cần xem xét một loạt các vấn đề sau :

Các điều kiện triển khai dự án : tình trạng kinh tế-xã hội tác động đến việc

triển khai dự án, sự cộng tác giữa cộng đồng với dự án, cơ chế làm việc… Tính khả thi của quá trình triển khai dự án : nhân lực, tài chính, cơ chế làm

việc, tổ chức bộ máy, về khả năng hợp tác bên trong cộng đồng, giữa cộng đồng với nhóm làm việc….

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

28

Điều chỉnh kế hoạch : chính xác hóa thời gian, địa điểm, nguồn nhân lực, tài chính và các vấn đề có liên quan khác để có một kế hoạch hành động có tính khả thi, sát hợp với thực tiễn.

Xác định lại cơ chế làm việc, cơ chế phối hợp, cơ chế kiểm tra, kiểm soát trên cơ sở các cam kết, các thỏa thuận giữa các đối tác.

Khi lên kế hoạch một dự án PTCĐ điều quan trọng là phải biết rõ :

Các nguồn lực cần thiết Các nguồn lực sẵn có ở cộng đồng Cần nguồn lực cần huy động thêm từ bên ngoài Các phương thức tận dụng tối đa các nguồn lực đó

Các nguồn lực chính trong cộng đồng gồm :

Nguồn lực vật chất. Ví dụ : nước, đường sá, đất đai, cây cối. Khả năng tài chính của chính quyền, của các tổ chức và người dân tham gia

dự án. Nguồn lực là các thiết chế/tổ chức như trường học, trung tâm y tế, các hội đoàn, tổ chức xã hội tại cộng đồng…

Nguồn nhân lực : những lãnh đạo chính thức ở cộng đồng, nhân viên y tế, giáo viên, những nông dân năng động trong cộng đồng, những người có kinh nghiệm (vídụ: các "lão nông tri điền", đội ngũ công chức về hưu, phụ nữ, thanh niên…).

1.5. Xây dựng kế hoạch hoạt động Xác định các hoạt động Lập trình tự cho các hoạt động Lên khung thời gian cho các hoạt động Phân công trách nhiệm thực hiện các hoạt động Lượng định những phương tiện, thiết bị, dịch vụ cần phải có Chuẩn bị kinh phí

1.5.1. Xác định các hoạt động của dự án: là bước quan trọng nhất trong giai

đoạn lên kế hoạch dự án. Việc xác định kế hoạch hoạt động phải thực hiện trong dự án phải có sự tham gia của tất cả các bên có liên quan. Khi xác định các hoạt động phải dựa trên các mục tiêu cụ thể của dự án, kể cả các nguồn lực và những trở ngại. Phải liệt kê những hoạt động chính và những đề mục trong từng hoạt động.

1.5.2. Lên trình tự các hoạt động : Phải thiết lập một trình tự đúng đắn cho các hoạt động ngay trong giai đoạn lên kế hoạch sẽ tránh được lãng phí thời gian và nguồn lực. Một số hoạt động phải hoàn thành trước khi tiến hành những hoạt động khác (Tìm kiếm đối tác, tìm kiếm nguồn lực tài chính…) và cũng có một số những hoạt động tiến hành song song với các hoạt động khác (Thành lập ban quản lý dự án, xây dựng tổ chức, nghiên cứu thăm dò…).

1.5.3. Lên khung thời gian : Xác định khi nào tiến hành các hoạt động trên là việc tiếp theo cần làm, vạch kế hoạch về thời gian cho cả hoạt động chính và phụ sẽ giúp cho việc dự đoán được mỗi hoạt động sẽ khởi sự và hoàn tất trong khuôn khổ tài

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

29

nguyên sẵn có và những trở ngại đã dự kiến. Điều nầy cũng giúp giám sát các hoạt động của dự án trong quá trình thực hiện, kiểm tra xem công việc có tiến triển theo đúng thời gian không. GANTT và PERT là hai công cụ chính triển khai một khung thời gian cho dự án.

PERT là một cung cụ quản lý được dùng để xác định và phối hợp những gì cần làm để đạt được mục tiêu cụ thể của một chương trình trong một thời gian nhất định. Đây là công cụ để lên kế hoạch, thời gian biểu và giám sát việc thực hiện một chương trình hay dự án. Đối với mục đích cụ thể của chương trình một biểu đồ PERT căn bản bao gồm một mạng lưới dạng đồ thị cho thấy một trình tự của các hoạt động và sự kiện phải diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định.

1.5.4. Phân công trách nhiệm : Lên kế hoạch dự án sẽ không hoàn chỉnh

nếu không phân công trách nhiệm cho từng cá nhân thực hiện những hoạt động khác nhau. Việc nầy cũng phải làm có phương pháp để bảo đảm cộng đồng cùng tham gia.

1.5.5. Các vấn đề hậu cần : Việc tiến hành các hoạt động của dự án đòi hỏi nhiều loại phương tiện, thiết bị, nguyên vật liệu và dịch vụ khác nhau. Các thành viên trong cộng đồng phải tự xác định những thứ này cho từng hoạt động.

1.5.6. Chuẩn bị kinh phí : Việc chuẩn bị ngân sách rất quan trọng trong việc lập kế hoạch dự án. Ngân sách nói chung là xác định các khoản thu và khoản chi. Trong những dự án PTCĐ có thể lập ngân sách dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong một số dự án người ta ưu tiên ước tính chi phí cho những hoạt động dự án bởi vì tiến hành sẽ do một tổ chức tài trợ. Nếu một dự án không có nguồn tài trợ thì nên ước tính số tiền cần thiết và làm thế nào để vận động trước khi bắt đầu dự án. Kinh phí có thể huy động từ các thành viênt rong cộng đồng, các nhà hảo tâm, các tài trợ của chính phủ trung ương, chính quyền địa phương, các tổ chức phi chính phủ (NGO). Cần phân định các nguồn lực tài chính từ bên ngoài và bên trong theo tinh thần dân chủ, công khai. Đặc biệt là nguồn tiền quyên góp từ dân. Sự thảo luận công khai, chi tiêu hợp lý, tiết kiệm, quyết toán rõ ràng sẽ là một động lực thu hút sự tham gia của người dân hơn nữa vào các hoạt động của dự án. Nếu có những vấn đề nảy sinh, cần thảo luận trực tiếp với ngừơi dân hoặc đại diện của họ./.

CHƯƠNG 3 TRIỂN KHAI VÀ ĐÁNH GIÁ DỰ ÁN TRIỂN KHAI DỰ ÁN Thực hiện dự án là quá trình triển khai những gì đã được hoạch định trong văn bản dự án, bao gồm các hoạt động phối hợp nhằm đảm bảo việc tham gia của các lực lượng vào quá trình triển khai dự án, các hoạt động giám sát và cuối cùng là các hoạt động quản lý. 1. Các hoạt động phối hợp : Dự án PTCĐ là một loại dự án có tính chất đặc biệt,

là kết quả của sự phối hợp giữa các lực lượng bên ngoài và bên trong, giữa các lực

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

30

lượng tại cộng đồng nên hoạt động phối hợp phải được đặt lên hàng đầu của quá trình thực hiện. Trong giai đoạn nầy, nhiệm vụ của dự án là nắm vững nguyên tắc tham gia của CĐ vào công cuộc phát triển, bảo đảm sự tham gia của mỗi người vào quá trình thực hiện.

Tái khẳng định những cam kết ghi trong văn bản dự án. Hình thức tái cam kết là rất sinh động, từ trong các diễn văn khai mạc, bằng văn bản ghi nhớ qua các cuộc họp, các công văn hành chính, hợp đồng, các hình thức tuyên truyền tại CĐ….

Điều chỉnh những hoạt động không còn phù hợp với thực tiễn (về thời gian tiến hành, nhân lực, số lượng đơn vị và tỏ chức tham gia, tài chính và vấn đề hậu cần).

Phân công, theo dõi, đôn đốc các hoạt động để tránh trùng lắp công việc, nang cao hiệu quả, giảm chi phí, nhân lực và thời gian.

Tuyên truyền cho CĐ thấy rằng lợi ích không thể đo bằng lợi ích của một nhóm thiểu số mà là của toàn cộng đồng, đó là lợi ích vật chất và phi vật chất. Các lợi ích phi vật chất thường mang tính bền vững.

2. Hoạt động giám sát : Giám sát là một bộ phận của quá trình quản lý, kiểm soát việc thực thi các hoạt động dự án trên cơ sở các mục tiêu, nội dung và nguồn lực đã đề ra trong kế hoạch. GS không chỉ chấn chỉnh sai lầm mà còn là hỗ trợ và đào tạo tại chỗ. Giám sát là hình thức quản lý trực tiếp trong đó người giám sát xem xét tại chỗ các vấn đề, cùng với bộ phận (người) được giám sát và các bộ phận liên quan tìm cách giải quyết vấn đề đó.

Một cách chung nhất, cả hoạt động giám sát và đánh giá đều phải trả lời câu hỏi : đã và chưa làm được những gì ? tại sa làm được và chưa làm được ? Những gì cần phải chấn chỉnh hoặc tiếp tục thực hiện trong thờig ian tới ?

Các hoạt động giám sát có chức năng : Đảm bảo chắc chắn các mục tiêu của dự án được thực hiện. Tìm ra những gì đã hoạt động tốt. Giúp những người được giám sát xác định rõ nội dung công tác. Giúp đỡ thúc đẩy lòng nhiệt tình với các hoạt động của dự án. Cải thiện kỹ năng công tác của đội ngũ triển khai dự án. 3. Quản lý : Quản lý là tiến trình tổ chức và sử dụng nguồn lực nhằm đạt được mục

tiêu. Đối với một dự án, quản lý là sử dụng các nguồn lực, từ tài chính, vật chất cho đến nhân lực. Quản lý liên quan tới một loạt các kỹ năng nắm bắt, giải quyết vấn đề, các mâu thuẫn nẩy sinh của một dự án. Các quan hệ công tác vì một mục tiêu chung cần có sự quản lý thống nhất, nếu không, sẽ không đạt được mục tiêu. Quản lý dự án là tiến trình tổ chức và sử dụng những nguồn lực nhằm đạt mục tiêu tổng quát và những mục tiêu cụ thể đề ra cho một dự án.

Hoạt động quản lý là rất đa dạng, có thể được hệ thống hóa bằng một số hoạt động chủ yếu sau : Xây dựng cơ chế quản lý : xây dựng hệ thống tổ chức từ cơ quan lãnh đạo cho đến

các bộ phận chuyên môn và hành chính , xác định quyền hạn và trách nhiệm của chủ nhiệm dự án, các tác viên dự án, các bộ phận chuyên môn. Thành lập một cơ chế tổ chức thực hiện dự án với việc lập ra ban điều hành, chọn lãnh đạo, xây dựng chức năng nhiệm vụ, quy định mẫu biểu tài chính, báo cáo, yêu cầu về giám sát,

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

31

đánh giá. Thành lập nhóm lãnh đạo nòng cốt là bước tiếp theo. Họ đại diện cho dân, có ý thức tiến bộ nhất trong cộng đồng. Cần huấn luyện cho họ về công tác lãnh đạo, công tác tổ chức nhóm để họ có thể huấn luyện lại các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cộng đồng. Xây dựng và triển khai kế hoạch : Để tổ chức các nguồn lực cần có kế hoạch thực

hiện làm cơ sở theo dõi tiến độ dự án, làm cái gì trước, làm cái gì sau. Kế hoạch không được quá cứng nhắc. Kế hoạch có nhiều dạng : KH ngân sách, thời biểu tiến độ càng chi tiết càng tốt. Thời biểu tiến độ dự án là trình tự hợp lý các công việc, thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc mọi công việc.

Tuyển chọn nhân lực : Tuyển chọn nhân lực ho dự án bao gồm cả tác viên phát triển cộng đồng. Có nhiều loại nhân lực : Nhân viên làm việc chính thức (full-time) hay nhân viên làm việc bán thời gian (part-time)… Khuynh hướng phát triển hiện nay nhấn mạnh sự tham gia của người dân trong quá trình quản lý. Một cách lý tưởng, các nhân viên của dự án phải là các tác viên phát triển cộng đồng. Tác viên PTCĐ có các nhiệm vụ (vai trò) sau đây : Người tạo thuận lợi Nhà nghiên cứu Nhà huấn luyện Người vạch kế hoạch Xúc tác

Với các nhiệm vụ nặng nề như vậy, tác viên PTCĐ phải có các phẩm chất sau đây : Năng lực chuyên môn Hòa đồng Trung thực Kiên trì, nhẫn nại Khiêm tốn, cầu thị Khách quan, vô tư Lối sống có đạo đức ĐÁNH GIÁ DỰ ÁN Đánh giá hay lượng giá (evaluation) liên quan đến việc đo lường, đánh giá hay đưa ra nhận định. Đây là một quá trình nhằm đánh giá mức độ đạt được những mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đã đề ra, tương ứng với chúng là hệ thống các hoạt động, các nguồn lực đã được triển khai và hoạt động như thế nào. Trong mô hình triển khai dự án, hoạt động đánh giá là khâu cuối cùng. Thực ra đó là đánh giá tổng thể. Các đánh giá từng phần hoặc một vấn đề nào đó đôi khi được hiểu là giám sát. Điều quan trọng là tiến hành đánh giá có sự tham gia của các bên có liên quan mà quan trọng nhất là những ngừơi thụ hưởng. Hoạt động đánh giá thường do một chuyên gia hay một nhóm chuyên gia tiến hành để thẩm định những kết quả đạt được của một dự án. Đánh giá thường do những người

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

32

nằm ngoài dự án tiến hành, gọi là đánh giá độc lập (independent evaluation) hay do chính chương trình thực hiện bởi cấp cao hơn đánh giá cấp thấp hơn. Giám sát và đánh giá quan trọng ở chỗ nó giúp chúng ta có được những cơ sở quan trọng và cần thiết để đi đến những quyết định chính xác. Hoạt động đánh giá phải trả lời hai câu hỏi “đã đạt được cái gì” nghĩa là xác định kết quả đạt được của dự án và đã “tiêu tốn bao nhiêu nhân lực, tài lực và vật lực để có được kết quả đó”, nghĩa là nó phải xem xét các chi phí về thời gian, nhân lực, tiền của cho các hoạt động của dự án. Có thể đánh giá vào những thời điểm sau : - Đánh giá trước khi thực hiện dự án (đánh giá tiền dự án) : là thẩm định tính chất

thích đáng và khả năng của dự án, của mục tiêu cụ thể và của kế hoạch công việc. - Đánh giá trong tiến trình thực hiện dự án là thường xuyên phân tích và đánh giá

một dự án. Điều nầy có thể giúp đưa ra những biện pháp để sủa chữa kịp thời. - Đánh giá tổng kết khi kết thúc dự án là nhằm đánh giá sản phẩm làm ra có nghĩa là

xem xét có đạt được những mục tiêu cụ thể đề ra không. - Đánh giá tác dụng hay hiệu quả của dự án là thẩm định kết quả của dự án sau khi

dự án đã hoàn tất một thời gian. Trong đánh giá phải xem xét các vấn đề về số lượng lẫn chất lượng. Phải căn cứ vào những mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể với những chỉ báo đo lường kèm theo. Ví dụ : số tiền huy động được, số ngày công mà cộng đồng góp thêm vào dự án, tần số tham gia của người dân, số thành viên cộng đồng tiếp thu được những kỹ năng qua quá trình tham gia dự án, các sản phẩm v.v...Hệ thống chỉ báo đầu vào (input indicators) được coi như những căn cứ quan trọng để thấy được những kết quả cụ thể của dự án. Có hai loại đánh giá : Đánh giá mục tiêu (objective based evaluation) : xem xét dự án có đạt được mục

tiêu đã định không. Nó tập trung phân tích các chỉ số đo đạc hiệu quả tác động thu được (outcomes).

Đánh giá tiến trình (open-ended evaluation) : mở rộng diện đánh giá hơn so với loại đánh giá trên, sử dụng tri thức và sự hiểu biết của nhiều người để xem xét nhiều vấn đề của dự án.

Các phương pháp có thể dùng để đánh giá vẫn là các phương pháp : điều tra khảo sát (survey), phỏng vấn sâu (indepth interview), thảo luận nhóm tiêu điểm (focus group), bảng hỏi (questionnaire), họp với những người thụ hưởng (meeting), nhật ký theo dõi dự án (project monitoring diary), tranh ảnh, đóng kịch, sắm vai, bài hát.... Một hoạt động đánh giá được chia làm 4 giai đoạn : Thiết kế đánh giá : Xây dựng mục tiêu và phạm vi đánh giá: Quyết địnhliệu xem tại sao chúng ta

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

33

cần đánh giá dự án; xác định nguồn tài chính, thời gian cho đánh giá; xác định nhân lực và phương thức sử dụng họ, xác định loại đánh giá.

Xem xét mục tiêu tổng thể và các mục tiêu cụ thể: xem xét tại sao dự án lại có mục tiêu như vậy; kiểm tra liệu chúng có thể đánh giá được một cách thực tế hay không; nếu cần thiết, phải xem xét mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể hoặc các kế hoaoch đã thay đổi trong thực tiễn.

Xác định câu hỏi đánh giá và các chỉ báo : đề ra bảng danh mục các câu hỏi chính trong đánh giá; xác định các chỉ báo; xác định các câu hỏi nghiên cứu cho các thành viên/nhóm cộng tác; xác định có cần thêm thông tin nào khác để hoàn chỉnh quá trình đánnh giá.

Kế hoạch hóa các hoạt động đánh giá : sau khi thiết lập các chỉ báo đánh giá, cần thu thập các hoạt động của dự án theo mỗi chỉ báo; xác định cácc hoạt động đánh giá nào là cần thiết đối với dự án, thu thập và phân tích cácc thông tin cho mỗi câu hỏi đánh giá.

Ví dụ : Trong một dự án về huy động người dân bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các chỉ báo đầu vào và đầu ra được xác định như sau : 1. Chỉ báo đầu vào : - Ngân sách của dự án - Thời gian, vật tư, thiết bị, và quỹ đóng góp từ phía cộng đồng 2. Chỉ báo đầu ra : - Số lượng người tham gia vào các hoạt động của dự án - Lịch trình triển khai dự án - Các tài liệu, hội thảo mà dự án đã triển khai - Tính trạng các di sản văn hóa sau khi được bảo tồn 3. Các chỉ báo đo hiệu quả tác động : - Các mối quan tâm, tình cảm của những người tham gia dự án (người làm thuê, các

tình nguyện viên, các nhà quản lý). - Những biến chuyển trong năng lực quản lý di sản văn hóa. - Những biến chuyển trong tâm thức của người dân đối với di sản. - Sự thu hút của người ngoài cộng đồng (du khách trong nước và quốc tế) đối với di

sản của cộng đồng. Thu thập thông tin : khi đã chắc chắn xác định được câu hỏi đánh giá và các chỉ

báo, bước tiếp theo là phải lên kế hoạch một cách chi tiết quá trình thu thập thông tin, gồm các thông tin chung về bối cảnh mà dự án đang triển khai, qua các kho lưu trữ, thư viện, chính quyền địa phương, các nhà lịch sử địa phương; các thông tin về bản thân dự án đang triển khai thông qua văn phòng dự án (desk study) và các cuộc nghiên cứu điền dã, với các thông tin định lượng (quantitative) và thông tin định tính (qualitative) và các thông tin chung về hoạt động của dự án.

Phân tích thông tin : Đối với các thông tin định lượng : sử dụng các chương trình phân tích số liệu

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

34

bằng máy tính, các phép tính xác suất thống kê để phân tích. Y nghĩa của các kết quả phân tích định lượng phụ thuộc vào tri thức và kỹ năng của người đánh giá.

Các thông tin định tính khi phân tích và tổng hợp hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực cá nhân người đánh giá; tùy thuộc vào nhãn quan và khả năng phân tích của mỗi người, do đó cần thảo luận, trao đổi để tránh thiên kiến, chủ quan.

Sử dụng các kết luận : Cần thận trọng khi đưa ra những kết luận trong đánh giá. Các kết luận của một

cuộc đánh giá phải xuất phát từ quá trình triển khai kế hoạch của dự án. Trên cơ sở xem xét lại một cách cẩn thận bản kế hoạch, trù liệu một giai đoạn mới hay một dự án mới, chúng ta có thể đưa ra những kết luận đánh giá sát hợp. Các kết luận có được từ việc chia xẽ suy nghĩ với các thành viên trong nhóm và với nhóm khác.

Kết quả đánh giá cần được ghi lại dưới hình thức một bản báo cáo. Báo cáo đánh giá thường ngắn gọn, người đọc dễ hiểu; sử dụng minh họa như bảng biểu, sơ đồ, biểu đồ, đồ thị.

Kết quả đánh giá phảiđược thông tin cho mọi bên tham gia dự án như những người thụ hưởng, những người không thụ hưởng, nhân viên dự án, tổ chức đứng ra thực hiện dự án, tổ chức tài trợ, những tổ chức khác có liên quan và quần chúng nói chung. Thông tin đơn giản, dễ hiểu, không nên sử dụng các thuật ngữ quá chuyên môn.

Một dự án phát triển cộng đồng thành công khi : - Khi dự án đạt được các mục tiêu đã xây dựng từ đầu - Khi người dân trong cộng đồng được tăng cường năng lực tự giai quyết vấn đề - Khi người dân có kiến thức chuyên môn và kỹ năng quản lý - Khi những thành quả đã được chấp nhận và được duy trì - Khi cộng đồng đã biết tự tổ chức lại một cách hiệu quả Một dự án phát triển cộng đồng thất bại vì : - Không đáp ứng đúng nhu cầu của người dân - Thiếu sự tham gia của người dân - Sự chuẩn bị và phác thảo kém - Điều hành kém trong thời gian thực hiện dự án - Giám sát kém - E-kíp quản lý yếu - Không biết vận dụng những kết quả lượng giá của các dự án tương tự, điều nầy

dẫn đến lập lại các sai lầm. Thế nào là một dự án PTCĐ bền vững ? - Hệ thống quản lý hiệu quả - Nhân sự có chuyên môn - Được đào tạo thường xuyên - Sự tham gia của cộng đồng - Vận dụng được tài nguyên bên trong và bên ngoài cộng đồng - Lấy con người làm trọng tâm (nhất là phụ nữ và trẻ em) ./.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

35

********************************************************************* Tài liệu tham khảo : - Tô Duy Hợp - Lương Hồng Quang, Phát triển cộng đồng : Lý thuyết và vận dụng,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000. - Nguyễn thị Oanh, Phát triển cộng đồng, Khoa Phụ Nữ Học, Đại học mở-bán công

TP.HCM, 1995. - Stanley Gajanayake và Jaya Gajanayake, Nâng cao năng lực cộng đồng, Nxb Tre,

1997.

CHƯƠNG 4 TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG PTCĐ được mô tả là một tiến trình : 1. Tiến trình phát triển của CĐ đi từ tình trạng yếu kém đến tự lực tự cường. 2. Tiến trình hành động gồm những hoạt động chủ đạo như tổ chức CĐ, xây dựng và

quản lý những dự án CĐ và công tác liên kết các nguồn lực sẵn có để hỗ trợ cho sự phát triển của CĐ.

TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG là một tiến trình bao gồm từ việc lựa chọn và tìm hiểu CĐ, bồi dưỡng cán bộ nòng cốt đến việc xây dựng và phát triển các tổ chức hợp tác trong CĐ, Tiến trình nầy được cụ thể hóa qua các công việc sau :

Lựa chọn cộng đồng Hội nhập cộng đồng, nhận diện những người tích cực, có khả năng trong cộng đồng.

Xây dựng vàbồi dưỡng / Tập huấn nhóm lãnh đạo nòng cốt Thực hiện việc tìm hiểu phân tích tình hình cộng đồng Lên kế hoạch hành động /Thực hiện các kế hoạch hành động Vận động nhóm và củng cố tổ chức nhóm Rút kinh nghiệm, lượng giá các hoạt động và sự phát triển của tổ chức/ nhóm Mở rộng các mối liên kết với các nhóm khác trong và ngoài CĐ Rút lui

Các bước hành động trên không phải hoàn toàn tách biệt nhau, làm xong công việc nầy rồi mới đến công việc khác mà tùy trường hợp, hai hay ba hành động có thể tiến hành cùng lúc. Thí dụ, vào CĐ bạn có thể vừa hội nhập, vừa nghiên cứu, vừa nhen nhóm hình thành các nhóm hành động... Trình tự của các công việc trên cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. Thí dụ : có thể ngay sau khi lựa chọn CĐ, việc tập huấn được thực hiện ngay để sau đó nhóm nầy có thể tự tìm hiểu và phân tích về tình hình CĐ của họ, đồng thời cùng tác viên cộng đồng (TVCĐ) lên kế hoạch hành động và tổ chức các nhóm hành động...

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

36

I. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH CÔNG TÁC TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG Bước 1 : Chọn cộng đồng (BT10) Việc lựa chọn cộng đồng được bắt đầu từ phạm vi rộng và hẹp dần đến khi phù hợp với tiêu chuẩn và khả năng đáp ứng của cơ quan phát triển. Thông thường công việc nầy được bắt đầu từ việc lựa chọn khu vực (thí dụ khu vực đồng bằng hay miền núi, khu vực nông thôn hay thành thị...), đến việc lựa chọn tỉnh, thành và quận, huyện. Ở bước nầy, TVCĐ có thể căn cứ trên các nguồn thông tin đại chúng, từ số liệu thống kê công khai của các địa phương hoặc qua sự giới thiệu hay tham khảo ý kiến của đồng nghiệp hoặc các cơ quan xã hội có kinh nghiệm liên quan đến các địa phương nầy. Từ một cộng đồng rộng cấp quận huyện, đi đến việc lựa chọn CĐ cấp xã phường và ấp hay khu phố, tổ dân phố... công việc phức tạp hơn vì cần có nhiều thông tin hơn mà thông tin chính thức (qua báo cáo thống kê) ở các cấp nầy thường là ít, thiếu, hạn chế hoặc chỉ cung cấp những thông tin chung chung, do đó đòi hỏi tác viên phải trực tiếp phỏng vấn các lãnh đạo và dân địa phương, kết hợp với quan sát đời sống, sinh họat của người dân ở các khu vực nghèo để có những thông tin chính xác hơn. TVCĐ có thể tham khảo vài tiêu chuẩn chọn địa bàn sau đây : Đa số là người nghèo và nhu cầu của họ phù hợp với lĩnh vực họat động, khả năng đáp ứng của cơ quan bạn.

CĐ có từ 150 – 250 hộ (hoặc một ấp, một khu phố) là lý tưởng. Các lãnh đạo địa phương tương đối cởi mở hoặc hiểu và chấp nhận phương pháp

PTCĐ. Các bước công việc trên áp dụng cho trường hợp TVCĐ là người từ bên

ngoài đến làm việc tại một CĐ. Việc lựa chọn CĐ sẽ đơn giản hơn khi tác viên là cán bộ hay là người đang sống tại địa phương (chẳng hạn TVCĐ là cán bộ hay tình nguyện viên của các chi hội Chữ thập đỏ ở cơ sở ), hoặc cơ quan PT hay TVCĐ được chính quyền hay một ban ngành, đoàn thể địa phương mời đến giúp địa phương làm công tác PTCĐ.

Bước 2 : Hội nhập CĐ, nhận diện những người có khả năng, tích cực trong CĐ (Bài tập 11) Khi địa bàn đã chọn, TV (thông thường là vài tác viên) chính thức bắt đầu đi vào CĐ với tác phong “tam cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân). Việc đầu tiên của bước hội nhập CĐ là trở lại thăm viếng các cán bộ lãnh đạo địa phương để thông báo công khai mục đích, nhiệm vụ công tác của bạn trong CĐ. Và thường chính quyền địa phương giới thiệu cho tác viên một số cán bộ trực tiếp cộng tác với tác viên hoặc đóng vai hướng dẫn, giới thiệu tác viên với cộng đồng.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

37

Trong một vài tháng đầu bạn thường xuyên xuống CĐ, “lân la”, tìm hiểu, trao đổi với người dân, với lãnh đạo hay những người có uy tín trong CĐ. Qua thu thập những thông tin ban đầu nầy, tác viên phát hiện ra những tiềm năng, nhất là tiềm năng về con người để chuẩn bị cho bước hình thành nhóm nòng cốt. Đi vào CĐ, cách hay nhất để có thể có được mối quan hệ tốt với người dân và hiểu sâu hơn về CĐ là tham dự những sinh họat, công việc của CĐ chẳng hạn tham gia các họat động kinh tế như đi lưới cá, làm ruộng, chăn nuôi, tham gia đan, thêu, làm việc nhà khi ở trong gia đình người dân. Tóm lại có nhiều cách để sống gần gũi với ngừơi dân và hòa nhập với lối sống của họ nhưng người TVCĐ cần luôn giữ phẩm chất, đạo đức của mình. Điều nầy có nghĩa là sống chung với họ và chia sẻ những kinh nghiệm sống như họ. Kết quả cần đạt là tạo được mối quan hệ tin cậy, hiểu biết giữa tác viên và CĐ. Bước 3: Xây dựng và bồi dưỡng/ Tập huấn nhóm lãnh đạo nòng cốt Qua sự bàn bạc với cán bộ địa phương cùng cộng tác với tác viên, nhóm nòng côt được lựa chọn và thành hình. Nhóm nầy gồm người thật sự đại diện cho dân, có ý thức tiến bộ trong CĐ (có thể bao gồm những cán bộ chính quyền, ban ngành, đoàn thể địa phương, những người dân hay lãnh đạo nhóm phi chính thức trong CĐ, lãnh đạo tôn giáo nhiệt tình, có uy tín). Vài tiêu chuẩn để nhận diện người nòng cốt :

Thuộc gia đình có thu nhập thấp hoặc vừa trong CĐ Có uy tín và có ảnh hưởng tích cực trong CĐ Suy nghĩ có ý thức đối với môi trường chung quanh Đáp ứng được với những thay đổi mới Có kỹ năng truyền thông, giao tiếp tốt Có khả năng phát biểu, nói lên tiếng nói thay cho người dân trong CĐ Vì lợi ích của người nghèo trong CĐ Có kỹ năng truyền thông, giao tiếp tốt Có dũng khí nói lên tiếng nói thay cho người dân trong CĐ

Sau khi nhóm nòng cốt được hình thành (lý tưởng là khoảng 10 người), việc lên kế họach và tổ chức tập huấn được bàn bạc để thực hiện. Chương trình tập huấn căn bản và phương pháp PTCĐ lồng ghép một số kỹ năng như năng động nhóm, truyền thông, lãnh đạo ... vì đây là mấu chốt để có thể triển khai các chương trình theo đúng phương pháp PTCĐ. Hướng dẫn viên của khóa tập huấn là nhóm tác viên và có thể có thêm vài đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm tập huấn được mời hỗ trợ. Tập huấn nên được tổ chức liên tục từ 4 buổi đến một tuần lễ. Kinh phí tổ chức tốt nhất nên do địa phương lo, nếu địa phương khó khăn thì hai bên cùng lo.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

38

Những loại hình sinh động của phương pháp “Giáo dục chủ động” 5 cần được vận dụng tối đa và các minh họa cho lý thuyết PTCĐ cần được gắn với tình hình thực tế của địa phương. Cuối khóa tập huấn, việc lập một kế hoạch giúp nhóm nòng cốt tự tìm hiểu và phân tích tình hình CĐ cần được chuẩn bị. Nếu thuận lợi có thể bầu tạm thời một Ban CĐ hay Tổ phát triển CĐ gồm 3 – 5 người (tốt nhất là nên có sự tham gia của một vài thường dân có uy tín, chẳng hạn tổ trưởng dân phố). Số người còn lại trong nhóm nòng cốt sẽ là những người cùng Ban PT tiến hành bước tìm hiểu CĐ, và những chương trình hành động sau đó. Việc bồi dưỡng nhóm nòng cốt được tiếp tục trong suốt các hoạt động sau này. Bước 4 : Tìm hiểu và phân tích về CĐ (bài tập 12) Việc tìm hiểu và phân tích về CĐ cần được tổ chức theo phương thức có sự tham gia của Ban PT và tất cả thành viên của nhóm nòng cốt (kỹ thuật này đã được tập huấn sơ bộ trong lớp học), và nhóm tác viên tiếp tục làm nhiệm vụ tư vấn thêm về chuyên môn kỷ thuật nghiên cứu và phân tích. Thông thường với một cộng đồng nhỏ phương pháp thu thập thông tin được phối hợp từ cả 3 cách : khảo sát dựa vào một bảng câu hỏi soạn sẵn, la cà phỏng vấn sâu và thu thập số liệu từ các báo cáo, hồ sơ, bài báo có sẵn của các cơ quan chức năng. Thông tin cần tìm hiểu gồm : (1) số liệu về dân số, địa lý, kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, an ninh trật tự của CĐ, (2) các tổ chức có sẵn và các chương trình, mục đích hành động của họ, số lượng hội viên, cách tiếp cận, (3) nhận thức, kỳ vọng của người dân và lãnh đạo địa phương về các vấn đề của họ, (4) các nguồn tiềm năng và lực cản, (5) các mối quan hệ tương tác trong CĐ, (6) một điều khá quan trọng nữa là việc ghi chép những kinh nghiệm, cảm xúc, ấn tượng, những suy nghĩ của người đi thu thập thông tin. Những ghi chép này rất bổ ích cho việc đánh giá phân tích tình hình cộng đồng. Điều quan trọng của tác viên trong bước này là cùng với nhóm khảo sát tổng hợp và phân tích thông tin. Yêu cầu cần đạt ở bước này là CĐ nhận ra những vấn đề, nhu cầu, tiềm năng của họ, và sắp xếp ưu tiên các vấn đề cần giải quyết. Bước 5 : Chính thức hình thành ban điều hành / ban phát triển CĐ và lập kế họach các chương trình PT. Căn cứ những kết quả đạt được trên, Ban PT cùng nhóm nòng cốt sẽ nhận thấy cần có những chương trình hành động cụ thể để giải quyết vấn đề của CĐ. Đây là lúc tác viên giúp hình thành một cơ chế ban điều hành quản lý, thí dụ Ban Phát Triển Làng, Ban điều hành dự án, với các quy định, điều lệ hoạt động chính thức. Một cơ chế quản lý

5 Nguồn : “Giáo dục chủ động”, Nguyễn Thị Oanh, Hội TL-GDH TP. HCM – Phòng NC.CTXH, 1994.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

39

có sự tham gia của đại diện người dân thường sẽ là cơ hội tốt để giúp tăng nhận thức và năng lực của người dân. Nên bắt đầu bằng một chương trình nhỏ, liên quan đến một lĩnh vực và vừa với điều kiện về tài nguyên và nhân sự của CĐ và nhắm vào việc đáp ứng những nhu cầu thiết thực nhất của người dân (thí dụ như Tín dụng tiết kiệm). Khi chương trình ban đầu này đã đi vào nền nếp, tác viên bàn bạc với Ban PT để lên kế hoạch lồng ghép thêm các chương trình liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn sức khỏe, giáo dục, vui chơi giải trí ... Thành lập các nhóm hành động khác nhau theo lĩnh vực chuyên môn như nhóm vệ sinh môi trường, nhóm người gì neo đơn, nhóm nuôi heo, nhóm PN buôn bán nhỏ v.v... để phát huy tối đa sự tham gia của người dân vào các chương trình hành động của CĐ. Nhóm nòng cốt là nhân lực chủ yếu của các nhóm hành động này. Bước 6 : Vận động, phát huy tiềm năng nhóm – Củng cố tổ chức (Bài tập 13). TVCĐ sẽ thường xuyên củng cố tổ chức của các nhóm và phát huy những sáng kiến, kinh nghiệm của địa phương thông qua việc hỗ trợ Ban PT và các nhóm thụ hưởng về quản lý dự án và giải quyết mâu thuẫn trong các hoạt động của họ. Thông qua huấn luyện đào tạo, tham quan, rút kinh nghiệm thường kỳ, Thông qua bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tính sáng tạo, và dân chủ trong tổ chúc nhóm. Tránh ý nghĩ rằng họ sẽ không thể làm tốt nếu không có TV. Hãy để người dân rút ra bài học làm thế nào để nhận diện và giải quyết vấn đề. Hãy để họ đề ra những hoạt động mà họ có thể cùng làm chung với nhau để đạt mục đích chung. Bước 7 : Rút kinh nghiệm – Lượng giá các chương trình hành động và sự phát triển của các nhóm. Rút kinh nghiệm công tác tổ chức, lãnh đạo nhóm và việc thực hiện các hoạt động dự án là việc làm thường xuyên thông qua các buổi họp họp định kỳ hàng tuần, tháng hoặc qúy. Lượng giá là hoạt động xem xét có hệ thống và khoa học, thường lượng giá giữa kỳ hoặc cuối kỳ của một dự án. Lượng giá là công việc rất cần thiết mà nhiều chương trình PT ít quan tâm hoặc nếu có quan tâm cũng chưa phát huy hết tác dụng của công việc này. Tác viên CĐ cần hỗ trợ cho Ban Phát Triển CĐ / Ban điều hành, các nhóm hành động trong CĐ thường xuyên lượng giá các chương trình hành động một cách khoa học và nghiêm túc, cũng như giúp cho CĐ (Ban PT, nhóm hành động, người thụ hưởng cũng như không thụ hưởng) nhìn lại tiến trình hoạt động, cách thay đổi, các mục tiêu đạt được, các ảnh hưởng, mặt

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

40

mạnh yếu của tổ chức nhóm. Quy trình “Hành động – Suy ngẫm rút kinh nghiệm – Hành động mới” là tiến trình học hỏi hữu hiệu nhất đối với CĐ và cả với tác viên. Phương pháp lượng giá có sự tham gia của CĐ là một phương pháp rất hữu hiệu nhằm giúp các nhóm nhận ra các mục tiêu nêu trên. Ngoài ra hình thức lượng giá có sự tham gia còn tạo cơ hội để những người dân tộc tập cách lượng giá và có thêm cơ hội để cùng làm việc chung và cũng là dịp giúp nhóm nhận ra sự phát triển hay yếu kém mình về nhiều mặt : Về tổ chức, phân công trong nhóm, truyền thông, bầu không khí, sự tương tác, mối quan hệ trong nhóm ... (CTXH nhóm). Sự lượng giá các mặt này giúp cho nhóm lớn mạnh, có kinh nghiệm hơn trong giải quyết những tình huống, trở lực xảy ra trong cũng như ngoài nhóm, tăng cường động lực tự nguyện trong nhóm, và nhóm cũng chính là nhân tố thúc đẩy động lực tự nguyện trong cộng đồng. Bước 8 : Liên kết các nhóm hành động. Hoạt động của những nhóm hành động trong CĐ dù độc lập về mặt sở thích, nguyện vọng, ngành nghề nhưng cùng đặt dưới sự phối hợp của Ban PT và cần có cơ hội ngồi chung lại để chia sẻ kinh nghiệm hoặc phối hợp hoạt động. Ngoài hình thức liên kết hành động bên trong cộng đồng, việc liên kết với các nhóm khác cùng lĩnh vực hoạt động ở ngoài CĐ là cần thiết vì hình thức này ngoài việc giúp cho các nhóm có thêm cơ hội học tập kinh nghiệm lẫn nhau (tăng năng lực) các nhóm còn mở rộng sự hợp tác, hỗ trợ nhau, giúp cho hoạt động phát triển ngày càng rộng dần và tiến đến việc có thể có những thiết chế lớn hơn đáp ứng cho nhu cầu phát triển trên diện rộng (tăng sức mạnh). Thí dụ liên kết với các nhóm có hoạt động tương tự ở các khu vực, địa phương khác. Bước 9 : Giai đoạn rút lui. Cùng với sự phát triển năng lực, sức mạnh, động lực tự nguyện và tinh thần tự lực của CĐ, người tác viên rút dần sự tham gia, hỗ trợ, tư vấn của mình cho CĐ để đi đến những CĐ mới. Trường hợp TV là người trong CĐ cũng rút dần sự tham gia nhưng đóng vai trò tư vấn khi CĐ cần. Tóm lại, tổ chức cộng đồng vừa là một chiến lược, vừa là tiến trình để giúp CĐ / người thiệt thòi tăng năng lực, quyền lực. Nghĩa là nâng cao nhận thức của họ về tình hình địa phương, khả năng giải quyết vấn đề và bồi dưỡng năng lực lãnh đạo trong CĐ. Mối quan hệ giữa người tác viên và cộng đồng / nhóm người thiệt thòi là mối quan hệ hợp tác, học hỏi, hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, và phát huy tối đa tiềm năng sẵn có của CĐ./.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

41

CHƯƠNG V

NGƯỜI TÁC VIÊN CỘNG ĐỒNG VAI TRÒ CỦA TÁC VIÊN CỘNG ĐỒNG Nhân viên làm việc trong chương trình PTCĐ đóng vai trò là người tổ chức, lập kế hoạch, người tổ chức và xúc tác cho quá trình hợp tác, người bồi dưỡng nâng cao nhận thức, kỹ năng của người dân về điều kiện sống và quyền an sinh và phát triển, đồng thời cũng là cầu nối giữa nhóm người nghèo, thiệt thòi với những nguồn lực sẵn có.

Người xúc tác: nhiệm vụ đầu tiên của tác viên là tập hợp quần chúng vào các nhóm để chia sẻ với họ những thông tin cuộc sống mới. Là người tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi để người dân tăng dần khả năng bàn bạc, chọn lựa, lấy quyết định và cùng hành động để giải quyết những vấn đề của ho. Là người tạo bầu không khí thân tình cởi mở và đối thoại, khuyến khích sự tham gia của người dân vào tiến trình trưởng thành và phát triển của họ và CĐ.

Người biện hộ : tác viên với tư cách là người đại diện cho tiếng nói của nhóm/CĐ đề đạt đến cơ quan công tác, các cấp thẩm quyền những vấn đề bức xúc của các nhóm/CĐ và kêu gọi người khác hưởng ứng nhằm tạo ra một chuyển biến về nhận thức, hoặc một sự hỗ trợ tích cực hơn cho các đối tượng thiệt thòi, thí dụ, biện hộ cho việc chăm sóc bảo vệ trẻ em bị lạm dụng lao động.

Người nghiên cứu : tác viên là người cùng với những người nòng cốt trong CĐ thu thập, tìm hiểu, và phân tích các thế mạnh, thế yếu, vấn đề, tiềm năng sẵn có trong CĐ. Tác viên giúp CĐ chuyển những phân tích đó thành những chương trình hành động cụ thể, thí dụ, CĐ chăm sóc trẻ mồ côi trong CĐ.

Người huấn luyện : trước tiên là bồi dưỡng các nhóm trong CĐ hiểu biết về mục đích, chiến lược phát triển của dự án / chương trình hành động. Bồi dưỡng kỹ năng làm việc chung trong nhóm, kỹ năng tổ chức và quản lý. Đặc biệt chú ý đến bồi dưỡng những giá trị, thái độ hợp tác và tôn trọng sự tham gia, sự tự quyết của người dân. Với tinh thần cởi mở, học hỏi và phát huy những kinh nghiệm tốt của CĐ, tác viên sẽ là người huấn luyện song hành với CĐ chứ không phải là thầy giáo của CĐ.

Người lập kế hoạch : các chương trình hành động cần được bàn bạc, và sắp đặt một cách có hệ thống, có tính toán, có chỉ bảo để đo lường được những mục đích mong muốn . Trao đổi lẫn nhau sẽ học hỏi được các tiến trình hoạch định và thi hành những quyết đinh do chính cộng đồng đề ra.

Trong thực tế, tác viên sẽ cảm thấy khó mà tránh khỏi việc “cho ý kiến”, bạn hãy cẩn thận khi được hỏi ý kiến bởi vì cách trả lời và câu trả lời của bạn dễ đẩy bạn vào vai trò chủ động, làm thay, “làm cho” chứ không phải “làm với” cộng đồng. Theo từng bước phát triển của CĐ, tác viên sẽ giảm dần thế chủ động của mình trong các vai trò trên để rút lui dần ra khỏi CĐ.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

42

CÁC ĐIỀU CHỈ DẪN DÀNH CHO TÁC VIÊN CĐ

Làm việc với người nghèo/thiệt thòi, chứ không làm cho họ : hãy giúp họ thấu hiểu, phân tích, hoạch định, thực hiện, đừng làm thay. Họ có quyền phản bác ýkiến tác viên, có quyền sai; sự phát triển xuất phát từ sự tự hiểu biết về chính nhu cầu và quyền lợi của họ.

Phát triển là một tiến trình thức tỉnh, ý thức về chính hoàn cảnh của mình/CĐ. Người dân có nhiều kinh nghiệm sống quý giá. Hãy lắng nghe họ.

Hãy để dân chúng có cơ hội lớn lên/trưởng thành : trưởng thành là kết quả của một kinh nghiệm được lựa chọn, quyết định cái phải làm, phát triển phải bắt đầu từ tiềm năng/nội lực từ đó tiến lên và tăng trưởng. Thật vậy chương trình kinh tế xã hội nhỏ không chỉ mang lại thành tích tăng thu nhập mà cả niềm tin và sự tự trọng của cá nhân và cả cộng đồng.

Tạo sự liên đới trách nhiệm trong dân chúng : phát triển sẽ xảy ra khi cùng hành động với người khác trong tinh thần đoàn kết, vì thế, chia sẻ, chămsóc cho nhau và cùng tiến về xã hội mới, trong đó tính nhân bản của chúng ta được đảm bảo đầy đủ.

Xây dựng và củng cố những tổ chức hợp tác trong cộng đồng : tổ chức có mạnh thì tiếng nói của người nghèo/thiệt thòi mới có cơ hội thương lượng, đối thoại với những thành phần xã hội có thế lực khác trong cộng đồng.

PHẨM CHẤT CẦN CÓ CỦA TÁC VIÊN CỘNG ĐỒNG

Năng lực: Tác viên CĐ phải qua huấn luyện, có đủ năng lực chuyên môn để thực hiện tốt vai trò của mình, để tự tin và tạo niềm tin nơi dân.

Hòa đồng : phong cách sống, làm việc phù hợp với người dân, biết lắng nghe và đồng cảm với người dân.

Trung thực : Tác viên CĐ phải trung thực với dân và trong sáng với chính mình.

Kiên trì, nhẫn nại : để không nóng vội, thiếu kiên nhẫn ngã lòng hay làm thay, áp đặt, thúc ép người dân...

Khiêm tốn : không khoe khoang, dám nhận những hạn chế của mình và sẵn sàng lắng nghe, học tập những cái hay của dân.

Khách quan, vô tư : trong nhận diện, phân tích, đánh giá tình hình, con người. Khách quan là điều quan trọng trong việc giải quyết mâu thuẫn trong CĐ và làm tốt vai trò xúc tác, liên kết các nhóm.

Đạo đức : Tác viên CĐ phải có cuộc sống đạo đức phù hợp với các giá trị, mẫu mực của xã hội.

NHỮNG YẾU TỐ TÂM LÝ-VĂN HÓA ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾN TRÌNH VẬN ĐỘNG SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN

1. Yếu tố bản thân

Chúng ta ai cũng biết khá rõ về những mặt mạnh và yếu của mình. Nhìn nhận mình là ai và là người như thế nào sẽ có một ảnh hưởng khá quyết định đối với

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

43

hành vi giao tiếp của cá nhân với người xung quanh. Là một tác viên CĐ, việc thiết lập những mối quan hệ chân tình – tin cậy với CĐ là rất quan trọng. Qua tương tác, cộng đồng biết rất rõ tác viên có thật sự hiểu, quan tâm, tôn trọng, dân chủ và vì người nghèo không. Những điểm mạnh như thái độ lắng nghe, kiên nhẫn, bình tĩnh, khích lệ và cởi mở sẽ khơi gợi sự cố gắng bày tỏ ý kiến hay tranh luận. Tuy nhiên, có lúc do nhiệt tình, nôn nóng sợ thất bại của tác viên, người dân sẽ che dấu ý kiến, khả năng riêng của mình, hoặc chờ đợi, ỷ lại tác viên sẽ làm thay. Mặt khác tác viên cũng có những “cố tật”, yếu điểm không kiểm soát được có thể ảnh hưởng đến những cố gắng tham gia hoặc tự trọng của người dân, thí dụ, lấn lướt ý kiến người khác, hay phê phán, hay cho lời khuyên, hay hứa hẹn, châm biếm, hoặc “tiếu lâm” v.v... Luôn ý thức về hành vi và tình cảm của mình trong từng hoạt động giao tiếp với người dân sẽ giúp tác viên xử lý đúng đắn trong mọi tình huống xảy ra. Hiểu biết CĐ là một tiến trình HỌC HỎI hai chiều của tác viên và người dân để hợp tác và giúp đỡ CĐ tốt hơn.

2. Yếu tố giáo dục Mỗi người đánh giá sự vật, sự việc theo quan điểm riêng của mình. Quan điểm cá nhân được quy định bởi thang giá trị riêng dưới ảnh hưởng văn hóa, giáo dục gia đình, tự giáo dục của bản thân, thí dụ : quan điểm về trinh tiết, về bình đẳng giới, về người nghèo, về người nhiễm HIV... rất khác nhau trong xã hội; vì thế có rất nhiều hành vi, thái độ xã hội khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau trước một vấn đề xã hội của CĐ. Thái độ cá nhân phản ảnh thang giá trị của cá nhân hoặc giá trị văn hóa của CĐ.

Thay đổi thang giá trị rất lâu rất khó. Thang giá trị cá nhân đôi lúc khác với thang giá trị của nhóm/CĐ. Vì thế trong công tác giáo dục, vận động xã hội người tác viên cần chú ý đến văn hóa địa phương, kiên nhẫn và dân chủ để truyền bá những giá trị mới.

Tác viên cần xây dựng và truyền bá về giá trị chung về công tác phát triển : “Phát triển thiên về vì lợi ích của người nghèo/thiệt thòi” hoặc “Phát triển phải xuất phát từ nhu cầu và tiềm lực của người dân” v.v...

3. Yếu tố văn hóa Văn hóa thể hiện qua những giá trị tinh thần truyền thống, chuẩn mực đạo đức và lối sống của CĐ.

Hiểu người, hiểu ta trăm trận trăm thắng

Chúng ta không nhìn sự việc theo như bản chất của chúng. Chúng ta nhìn sự vật theo như bản chất của chúng ta. (ANAIS NIN)

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com

44

Tinh thần yêu nước, “lá lành đùm lá rách”, “tình làng nghĩa xóm”, “uống nước nhớ nguồn” của văn hóa VN là nền tảng của phương pháp PTCĐ, là phương châm để hòa giải, giải quyết những khó khăn trong cộng đồng. Một số những chuẩn mực đạo đức đã thay đổi dần như “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “tam tòng, tứ đức”... dưới ảnh hưởng của xã hội phát triển. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của những tư tưởng phong kiến này cũng có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của trẻ gái và phụ nữ, đến sự phát huy tính sáng tạo của lớp trẻ, lớp người dân bình thường trong cộng đồng. Lối sống cần kiệm, “tình làng nghĩa xóm” được khuyến khích, đề cao nhưng cũng dễ dẫn đến cục bộ, ích kỷ nếu không xây dựng được tinh thần liên kết, chia sẻ vì quyền lợi chung của tất cả người nghèo, của cả CĐ/đất nước. Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của văn hóa địa phương nói riêng, văn hóa VN nói chung tiềm ẩn trong bản thân mỗi chúng ta, vì thế chúng ta không dễ gì kiểm soát hết được. Luôn ý thức, cởi mở, học hỏi, tìm kiếm phản hồi ở người khác là cách giúp tác viên củng cố mối quan hệ tin cậy và hợp tác với cộng đồng. Thảo luận nhóm : Hãy phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của văn

hóa Việt Nam trong công tác vận động sự tham gia của cộng đồng. Ảnh hưởng tích cực Ảnh hưởng tiêu cực 1. Tinh thần yêu nước, yêu quê hương là nền tảng cho tinh thần CĐ

2. Tinh thần “lá lành đùm lá rách” giúp người dân dễ ngồi lại.

Có lúc vì tinh thần “tập thể” cá nhân không dám có ý kiến riêng, quyết định riêng.

Ảnh hưởng tích cực Ảnh hưởng tiêu cực 3. Tinh thần hiếu học thúc đẩy nhu cầu tiến bộ, áp dụng kỹ thuật mới.

4. Tôn ti trật tự dẫn đến kỷ luật cao trong tổ chức

Kính lão đắc thọ làm giới hạn tính năng động, sáng tạo của lớp trẻ, hạn chế lănh đạo trẻ.

Trọng nam khinh nữ hạn chế sự phát triển của phụ nữ.

Dễ dẫn đến tính gia trưởng, độc đoán trong lãnh đạo nhóm.

Hạn chế sáng tạo, chống cái mới 5. Cần cù, chịu thương chịu khó An phận thủ thường 6. Đặc điểm sản xuất nhỏ tạo tính chắt chiu, tiết kệm.

Bảo thủ, cục bộ, địa phương là cản trở lớn cho tinh thần hợp tác.

7. Phụ nữ VN rất yêu thương chồng con PN gánh vác toàn bộ công việc nội trợ trong gia đình, hy sinh thời giờ tự học tập và hoạt động xã hội.

PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com