32
Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng. Đạt Ngoã Tang Đổ dịch từ Tiếng Phạn ra tiếng Tây Tạng Từ Tấn Phu dịch từ tiếng Tây Tạng ra tiếng Hán {Phần trên}: Trung Ấm Lâm Chung và Thực Tướng Trung Ấm. Những điều dạy bên dưới là phương pháp nhân lúc cảnh giới trung ấm hiện ra liền quán thật tướng: Pháp môn đại giải thóat nhờ vào nghe lời hướng dẫn "giáo lý đạt được thần thức tự tại nhờ vào quán tưởng các vị bổn tôn trong trạng thái lạc và nộ" (Kệ Quy Kính) Quy mạng thần thánh, pháp thân sạch: quang minh không lường, không thể nói; Quy mạng thần thánh, báo thân tròn: Liên Bộ cùng các bậc hỷ nộ; Quy mạng đức thầy Liên Hoa Sanh: người thâu nhiếp tất cả hữu tình; Quy mạng các bậc thầy nhiều đời: Con đều quy mạng ba thân Phật. Phần thứ nhất: Lời dẫn Bộ sách này là một pháp lớn giúp cho người phàm phu, tại gia khi đối mặt với cảnh giới trung ấm lúc lâm chung có thể đạt được tâm linh hoặc tinh thần giải thóat qua sự hướng dẫn, đơn giản gồm ba phần: đầu tiên, bài tựa; kế, chánh văn; thứ ba, lời kết. Ở phần tựa, bộ sách này là một "sách hướng dẫn" giúp đỡ những chúng sanh tự cầu giải thóat, tương ưng với sự do tu tập mà đạt được yếu chỉ này. Phần thứ hai: Chuyển di tâm thức (sự ra đi của thần thức) Những người thượng căn, nếu nương theo "sách hướng dẫn" mà tu tập, mười phần hết chín là đã được độ thóat; giả sử chưa được đi nữa, thì trong lúc cảnh giới trung ấm hiện ra trước mắt lúc chết tu tập pháp chuyển di tâm thức (Phowa), cũng do lúc cận tử mà nhớ nghĩ đến pháp này mà tự được độ. Cũng thế những người phàm phu, có tín tâm, nếu tu pháp này thì mười phần cũng hết tám chín được sự giải thoát; nếu chưa được như thế, thì khi cảnh giới thật tướng trung ấm hiện ra trước mắt nắm chặt không buông, một lòng chăm chú lắng nghe pháp này, vừa nghe hướng dẫn xong liền đạt được pháp lớn. Đầu tiên người có lòng tin phải y theo "phương pháp tự độ do quán sát đặc trưng của sự chết" (Quán Sát Tử Vong Đặc Trưng Tự Độ Pháp) mà theo dõi các diễn biến của sự chết từ từ xuất hiện, nắm bắt ngay, sau khi các dấu hiệu chết xuất hiện hòan toàn, lập tức dùn pháp chuyển di tâm thức, chỉ cần nhớ nghĩ đến quá trình của nó liền được giải thóat. Phần thứ ba: Phương pháp đọc tụng 1 Vô Thức Tỳ Kheo – Thích Hạnh Tấn dịch

Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

  • Upload
    lyanh

  • View
    214

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.Đạt Ngoã Tang Đổ dịch từ Tiếng Phạn ra tiếng Tây Tạng

Từ Tấn Phu dịch từ tiếng Tây Tạng ra tiếng Hán

{Phần trên}: Trung Ấm Lâm Chung và Thực Tướng Trung Ấm.

Những điều dạy bên dưới là phương pháp nhân lúc cảnh giới trung ấm hiện ra liền quán thật tướng: Pháp môn đại giải thóat nhờ vào nghe lời hướng dẫn "giáo lý đạt được thần thức tự tại nhờ vào quán tưởng các vị bổn tôn trong trạng thái lạc và nộ"

(Kệ Quy Kính)

Quy mạng thần thánh, pháp thân sạch: quang minh không lường, không thể nói;Quy mạng thần thánh, báo thân tròn: Liên Bộ cùng các bậc hỷ nộ;Quy mạng đức thầy Liên Hoa Sanh: người thâu nhiếp tất cả hữu tình;Quy mạng các bậc thầy nhiều đời: Con đều quy mạng ba thân Phật.

Phần thứ nhất: Lời dẫn

Bộ sách này là một pháp lớn giúp cho người phàm phu, tại gia khi đối mặt với cảnh giới trung ấm lúc lâm chung có thể đạt được tâm linh hoặc tinh thần giải thóat qua sự hướng dẫn, đơn giản gồm ba phần: đầu tiên, bài tựa; kế, chánh văn; thứ ba, lời kết.

Ở phần tựa, bộ sách này là một "sách hướng dẫn" giúp đỡ những chúng sanh tự cầu giải thóat, tương ưng với sự do tu tập mà đạt được yếu chỉ này.

Phần thứ hai: Chuyển di tâm thức (sự ra đi của thần thức)

Những người thượng căn, nếu nương theo "sách hướng dẫn" mà tu tập, mười phần hết chín là đã được độ thóat; giả sử chưa được đi nữa, thì trong lúc cảnh giới trung ấm hiện ra trước mắt lúc chết tu tập pháp chuyển di tâm thức (Phowa), cũng do lúc cận tử mà nhớ nghĩ đến pháp này mà tự được độ.

Cũng thế những người phàm phu, có tín tâm, nếu tu pháp này thì mười phần cũng hết tám chín được sự giải thoát; nếu chưa được như thế, thì khi cảnh giới thật tướng trung ấm hiện ra trước mắt nắm chặt không buông, một lòng chăm chú lắng nghe pháp này, vừa nghe hướng dẫn xong liền đạt được pháp lớn.

Đầu tiên người có lòng tin phải y theo "phương pháp tự độ do quán sát đặc trưng của sự chết" (Quán Sát Tử Vong Đặc Trưng Tự Độ Pháp) mà theo dõi các diễn biến của sự chết từ từ xuất hiện, nắm bắt ngay, sau khi các dấu hiệu chết xuất hiện hòan toàn, lập tức dùn pháp chuyển di tâm thức, chỉ cần nhớ nghĩ đến quá trình của nó liền được giải thóat.

Phần thứ ba: Phương pháp đọc tụng

1 Vô Thức Tỳ Kheo – Thích Hạnh Tấn dịch

Page 2: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Nếu ứng dụng hữu hiệu được pháp chuyển di tâm thức thì không cần phải sử dụng phương pháp đọc tụng ở đây; Nếu bằng chưa đạt được, thì nên ở gần nơi di thể người chết mà đọc tụng phương pháp nghe hướng dẫn trung ấm mà được độ, đọc thì cần nên chính xác và thật rõ ràng.

Giả sử di thể không có trước mặt đi nữa, người đọc cũng nên ngồi nơi người mất trước đây thường nằm, thường ngồi mà trình bày pháp lực của chân lý. Kêu gọi vong linh trở về tưởng như đang ở trước mặt lắng nghe, sau đó theo phương pháp mà đọc tụng. Ngay tại lúc này không nên cho phép người thân và bạn thân người mất khóc than to tiếng làm ảnh hưởng không tốt đến vong linh, phải hạn chế các việc để cho được đúng pháp.

Giả sử có di thể phía trước, liền khi vừa mới tắt hơi thở, do một vị (từng là thầy của người mất ) đạo sư, hoặc một vị từng là người đồng tu mà người mất tin cậy, hoặc một người bạn thật tốt của người mất, kề một bên tai, nhưng đừng đụng đến di thể, theo pháp đọc tụng bộ đại pháp này.

Phần thứ tư: Thực hiện phương pháp tụng

Phần này giải thích nội dung của "Nghe Pháp Được Độ":

Nếu có khả năng thì nên chuẩn bị rộng cúng dường tam bảo, nên tận lực mà cúng dường. Nếu như không có khả năng, thì cũng nên gom góp tất cả đồ tế nhuyễn mà quán tưởng là những đồ cúng dường tối thắng.

Sau đó đọc tụng "Thỉnh Chư Phật Bồ Tát Gia Bị Kệ" từ ba đến bảy lần.

Sau nữa đọc tụng "Hộ Miễn Trung Ấm Kinh Khủng Thiện Nguyện Kệ" (Kệ giúp cho thân trung ấm không kinh qua các trạng thái dễ sợ), "Khẩn Cầu Hộ Miễn Trung Ấm Hiểm Nạn Thiện Nguyện Kệ" (Kệ cầu nguyện thân trung ấm không trải qua các hiểm nạn) cùng với "Lục Lọai Trung Ấm Cảnh Giới Căn Bản Cảnh Sách Kệ" (Văn khuyến dạy sáu lọai cảnh giới căn bản của thân trung ấm), khi tụng thì chữ cần nên rõ ràng, âm thanh cần phải vừa phải.

Sau nữa đem "Đắc Độ Đại Pháp" này đọc tụng ba hoặc bảy lần, cứ theo tình thế mà định số lần. Trước hết là khiến cho vong linh quán sát các triệu chứng hiện ra trong khi chết, sau đó khiến vong linh áp dụng những lời khuyến bảo vĩ đại này, ở nơi cảnh giới trung ấm trước mắt mà nhập vào quán thật tướng, sau hết nói rõ cho thân trung ấm phương pháp để đóng chặt cửa đi đầu thai để được sự tái sanh tốt đẹp hơn.

Phần I: Cảnh giới trung ấm lúc sắp chết.

1. Giai đọan một; triệu chứng lâm chung hay còn gọi là Trung Ấm Lâm Chung: Ánh Sáng đầu tiên.

2 Tây Tạng Độ Vong Kinh

Page 3: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Đầu tiên khi cảnh giới trung ấm lâm chung xuất hiện thì có ánh sáng nhập vào:

Nếu từng được nghe chánh pháp nhưng chưa có hiểu, hay có hiểu nhưng chưa thấu đáo, nhưng dầu người thế nào đi nữa, đã từng tu tập theo sự hướng dẫn hay chưa, mà khi đã sử dụng pháp này liền có thể mau chứng vào ánh sáng căn bản, do đây mà "đi thẳng vào đạo lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần phải trải qua những giai đoạn của thân trung ấm.Pháp này như vầy:

Tốt nhất là nên thỉnh mời những vị Sư đã từng có kinh nghiệm hộ niệm, nếu không có các bậc Thầy khả kính thì có thể mời những vị thiện hữu tri thức hay đồng môn huynh đệ cùng tu tập, nhưng nếu không mời được ai cả, thì phải nhờ một người đọc tụng cho thật chính xác, rõ ràng đọc tụng nhiều lần. Sau khi vong linh được nghe qua những lời khuyến răn của bản văn này, liền có thể nhớ lại những phương pháp tu tập trước đây đã từng áp dụng, liền lập tức nhập vào ánh sáng căn bản mà được giải thóat.

Sau khi người chết thở ra hơi cuối cùng thì năng lực hậu sinh mệnh hay còn gọi là linh lực (thần thức) liền đi vào luân xa trí huệ liền nhận thức được ánh sáng căn bản tự nhiên. Nhưng nếu sinh mệnh lực hay linh lực lại thóat loạn ra phía sau mà phóng qua hai bên phải trái của luân xa, lúc ấy cảnh giới trung ấm liền nương nơi ấy mà xuất hiện.

Sự hướng dẫn bên trên thích hợp với sinh mệnh lực hay linh lực đi về phía sau luân xa rồi nhảy vào mạch bên trái để thóat đi.

Thời gian mà sinh mệnh lực hay linh lực này cần chính là khoảng giữa khi người mất hít vào hơi thở cuối cùng và chưa thở ra lại hoàn toàn, nó cũng dài như một bữa ăn của người thường.

Khi đó thì dùng phương pháp như sau:

Ở khoảng mà sự hô hấp sắp dừng mà chưa dừng hẳn, nếu có thể vận dụng pháp Chuyển Di Tâm Thức (Phowa) thì đây là lúc đúng đắn nhất. Nếu không có một phương pháp hữu hiệu để áp dụng thì hãy nói với người mất:

Này "họ tên pd người mất" tôn quý, giờ cầu đạo của người đã tới. Hơi thở của người sẽ ngưng. Thầy của người cũng đã giúp người nhập vào cảnh giới ánh sáng; Người sẽ ở nơi đó mà nhận biết nó là cảnh giới chân thật: Trong đó tất cả mọi thứ đều như bầu trời trong sáng không bợn mây, tánh của nó là trí tuệ không một tỳ vết hay bị ngăn ngại, tức là một chân không không có giới hạn hay trung điểm nào cả. Ngay lúc này, người hãy mau nhận biết được tự tâm của mình rồi an trụ trong cảnh giới này. Lúc này tôi sẽ giúp người chứng nhập vào trong đó.

Sau khi đối trước người hấp hối đọc xong đoạn văn này, đến kế bên tai người đó mà lập đi lập lại nhiều lần, Cho đến khi người mất ngừng hẳn hơi thở, thì ý nghĩa của đoạn văn này có thể đã đi vào tâm thức của người mất.

3 Vô Thức Tỳ Kheo – Thích Hạnh Tấn dịch

Page 4: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Như thấy người mất gần ngưng thở, liền giúp người mất nằm nghiêng qua phải để thở ra nhẹ nhàng, thành ra thế nằm của sư tử. Nếu cảm thấy hai bên cổ có sự biến động thì phải dùng ngón tay mà ấn vào.

Người mất như có dấu hiệu thiếp đi hoặc mê mang, thì phải đánh thức, tăng sức đè của ngón tay, có thể thả lỏng nhưng đừng buông ra. Như vậy có thể làm cho linh lực không chạy ngược trở vào trung mạch và có thể theo "Phạm Huyệt" mà thóat ra. Hiện tại là đã làm đúng được phương pháp nhập quán.

Bởi vì tất cả chúng hữu tình đều có thể tại lúc này nhận biết một cách chớp nhoáng thật tướng quang minh của cảnh giới trung ấm, mà cái thực tướng quang mình này chính là "cái tâm của pháp thân vô lậu" đó.

Lúc mà hơi thở ra vào dừng lại là lúc mà linh lực dừng lại ở trung mạch.

Người bình thường thì lúc này rơi vào trạng thái thần trí hôn mê và thời gian kéo dài cũng không giống nhau, quan sát kỹ sẽ biết được tình huống của khí mạch hay linh lực người mất còn hay mất hẳn. Đối những người "đã từng tu tập thiền định có sự thành tựu, người đã kiện tòan khí mạch" mà nói thì trạng thái này phần lớn được duy trì rất lâu.

Phương pháp tụng đọc lời hướng dẫn kể trên để hộ tử người hấp hối cần phải được duy trì liên tục không ngừng nghỉ cho đến khi từ các khiếu (lỗ) của người mất chảy ra một loại nước màu vàng thì có thể dừng.

Đối với "người sống bình thường thiếu sự thanh tịnh và khí mạch cũng không kiện toàn" mà nói thì trạng thái duy trì kể trên chỉ dài như "khảy móng tay" mà thôi. Tuy nhiên cũng có trường hợp lâu chừng "thời gian bữa ăn" như đã nêu.

Y theo các sách "Giảng dạy Mật Tông" nói, thì trạng thái hôn mê này kéo dài liên tục trong khoảng ba ngày rưỡi. Các kinh luận khác thì khuyên phải trong vòng bốn ngày không ngừng nghỉ ở bên người mất mà hộ niệm để giúp người mất chứng nhập vào loại ánh sáng này.

Ứng dụng phương pháp như sau:

Giả sử người mất có thể tự mình theo dõi các trạng thái xảy ra lúc mất, thì phải áp dụng phương pháp này trước khi rơi vào trạng thái hôn mê. Giả sử người mất không có khả năng tự mình theo dõi các trạng thái này, thì phải nhờ vào vị thầy bổn sư, người thân quyến, hay người có quan hệ mật thiết với người mất đến bên người mất để hướng dẫn lần lượt các triệu chứng bằng cách lập đi lập lại nhiều lần vào trong tâm linh người mất, đầu tiên là: "Hiện tại đã xuất hiện trạng thái đại địa đang chìm vào nước lửa...."

Đợi đến lúc cái chết sắp hoàn toàn chiếm lĩnh liền ở bên người chết dùng lời nói êm dịu mà nói vào tai: "này 'tên họ pháp danh người mất' (nếu là tăng sĩ 'thầy, cô....) tôn kính, đừng có chạy theo sự lôi kéo của tâm..."Nếu người chết là một vị huynh đệ đồng môn hay người cùng thời, thì cứ kêu thẳng tên họ mà nói như sau:

4 Tây Tạng Độ Vong Kinh

Page 5: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Này "tên họ người mất" tôn quý, cái mà thế gian gọi là chết hiện đang xảy ra trên chính bản thân của người, ngươi hãy quyết định như vầy: "Ah, đây chính là thời khắc của sự chết. Tôi quyết nhân cơ hội này, vì sự lợi ích của vô lượng chúng hữu tình trong thế gian mà chứng ngộ viên mãn phật đạo, do đó tôi nguyện dùng hết sức mình để phát tâm từ ái, để cùng tất cả chúng sanh chứng được bồ đề, đạt được cảnh giới cao tột." Người hãy suy nghĩ như thế rồi, đặc biệt là hướng về pháp thân ánh sáng mà trụ sau đó vì lợi lạc tất cả chúng hữu tình mà chứng đắc nhất định sẽ giúp người khế nhập cảnh giới kia và đạt được Đại Thủ Ấn với lợi lạc tột cùng, cũng nên phát tâm kiên cố như sau: "cho dầu ta không có khả năng thân chứng đi nữa thì ta cũng sẽ thấu rõ được cảnh giới trung ấm này, tại cảnh giới trung ấm việc thích ứng với đại thân rõ ràng nằm trong lòng tay, nương theo tất cả các hiện tượng xuất hiện ở đời sau mà làm lợi ích lớn cho tất cả hữu tình chúng sanh: Tôi muốn phục vụ tất cả hữu tình chúng sanh cho đến tận hư không thế giới".

Phàm phát nguyện này, quyết không buông bỏ, với nổ lực của toàn tâm sánh được với kết quả của sự tu tập các lọai pháp môn.

Trong lúc đọc tụng như vậy, người đọc cần áp môi mình vào tai người chết mà nói, một cách trong sáng mà rõ ràng nhiều lần dặn dò, để những lời này đi sâu vào tâm người mất, để tâm người mất một sát na không rời khỏi tâm ấy.

Đợi cho đến lúc hơi thở hoàn toàn chấm dứt, liền dùng tay ấn chặt vào mạch ngủ của người mất; nếu người mất là một vị Đạo Sư hay người có địa vị, hay là người có tu dưỡng, thì hãy đổi lại mà cầu nguyện như sau: " 'pháp tự người mất' kính yêu, sư trưởng, ngài lúc này đang thể nghiệm ánh sáng căn bản, chắc chắn là ngài đang ở trong cảnh giới thể nghiệm ấy."

Lại như người mất bất luận là người gì khác, thì người đọc nên như sau mà tuyên đọc để giúp người ấy chứng nhập:"tên người mất" tôn quý, chăm chú nghe, chăm chú nghe! Người đang thể nghiệm thực tướng qua những tia sáng của ánh quang minh thanh tịnh. Ngươi hãy như vậy mà chứng biết. "tên người mất" tôn quý, cái trí tánh hiện tại của người là tánh của chân không, không có màu sắc, không có hình tướng, vốn tự không tịch, tức là thực tướng chân không, cảnh giới căn bản của ngài Phổ Hiền.

Chính cái trí tánh này của người, chính là thức thanh tịnh của bổn thân, chính là Phổ Hiền Vương Phật. Mà cho là bản không, cũng không phải là cái không ngơ của không, mà là cái không của sự không chướng ngại, quang minh tỏa rạng, tùy duyên phó cảm, cái trí tánh bản thân tràn ngập hỉ lạc.

Chính cái tánh bản không tự kỷ này của người, tịnh thức của không sắc không tướng cùng tỏa rạng ánh sáng, cái trí tánh tràn ngập hỷ lạc, hai thứ không thể tách biệt, cả hai nương nhau mà hòa hợp, chính là viên giác pháp thân cảnh giới.

Chính cái ánh sáng chói lọi này của ngươi, với tánh căn bản là không, cũng là thân quang minh lớn không thể tách rời với tịnh thức, vốn là không sanh, cũng là không diệt, tức là Vô Lượng Quang -- A Di Đà Phật.

5 Vô Thức Tỳ Kheo – Thích Hạnh Tấn dịch

Page 6: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Người có thể nhận thức được như vậy, tức là đã đầy đủ. Xem như cái trí tánh của người đã thành tựu được không tánh của Phật, cũng coi như đó là tịnh thức của người, tức có thể làm cho chính người an trú trong cảnh giới thánh tâm của đại giác.

Phải tuyên đọc như trên nhiều lần, ba lần cho đến bảy lần, phải trong sáng và rõ ràng, như vậy làm cho người chết có thể nhớ lại những pháp môn chứng đắc do học hỏi với bổn sư từ trước, thứ hai có thể làm cho người chết từ trong cái vô minh mà nhận biết được ánh sáng căn bản của tịnh thức, thứ ba có thể làm cho người mất có thể nhận rõ bản lai diện mục và pháp thân vĩnh cửu của mình mà có thể bảo đảm sự giải thóat.

2. Giai đoạn thứ hai của Trung Ấm Lâm Chung: Sau khi chết sự phát sáng liên tục trước mắt.

Như trên đã kể, ở giai đoạn đầy có thể giải thoát được nhờ vào chứng ngộ ánh sáng qua sự lắng nghe. Thế nhưng, giả sử không thể chứng đắc ánh sáng ban đầu, thì liền đó ánh sáng liên tục khác liền hiện ra -- ước chừng sau khi chết khoảng một bữa ăn thì xuất hiện.

Linh lực sẽ do nơi nhân duyên thiện nghiệp hay ác nghiệp của người chết mà đi vào mạch bên phải hay bên trái, sau đó thì theo một huyệt khiếu nào đó mà thóat ra. Tiếp theo liền có một ánh sáng trong vắt của tâm xuất hiện.

Cái ánh sáng ban đầu đã nói sẽ duy trì liên tục trong khoảng thời gian một bữa ăn, khoảng cho đến khi người chết khí mạch hoàn toàn tắt và với người lúc sống chưa từng tu tập pháp môn quán tưởng đều không nhất thiết giống nhau cả.

Sau khi thần thức thoát khỏi thân, nó liền tự nghĩ rằng: "ta thật sự đã chết rồi ư?" nhưng nó không có cách nào để xác định được việc này. Nó có thể thấy thân bằng quyến thuộc của mình, giống như lúc còn sống không khác. Nó thậm chí còn nghe được tiếng khóc than của họ. Lúc ấy những huyễn ảnh kinh khủng của nghiệp lực chưa xuất hiện, những huyển ảnh có quỹ vương, có tràng điện v.v. cũng chưa hiện ra trước mắt.

Trong gia đoạn ở giữa này, vị Thầy chủ trì pháp sự hoặc người đọc tụng có thể áp dụng sự hướng dẫn như sau:

Lấy đây mà nói, người chết có thể có hai loại, thứ nhất người đã chấm dứt hoàn tòan mạng mạch, thứ hai người còn đang trong giai đoạn tu trì. Như loại thứ nhất liền kêu tên ba lần, lập lại nhiều lần lời hướng dẫn bên trên để chứng nhập ánh sáng; như loại thứ hai thì hướng về người ấy mà đọc bản hướng dẫn quán tưởng của vị bổn tôn bảo hộ, sau đó tuyên đọc:

"tên người mất" tôn quý, hãy quán tưởng vị bổn tôn bảo hộ của chính ngươi đã đến (nơi đây người đọc xưng danh hiệu của vị bổn tôn), một lòng không rối, thành tâm thành ý mà quán niệm vị bổn tôn của người. Quán tưởng ngài như hình trăng trong nước, tuy có hình tướng mà không có một thực thể. Quán tưởng ngài hiện hữu như là một vị thánh tôn có sắc thân.

Đọc tụng như trên để in sâu vào tâm thức của người mất.

6 Tây Tạng Độ Vong Kinh

Page 7: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Nếu người mất là một người thường có tu tập dầu pháp gì thì cũng hướng đến người ấy mà nói: "Hãy quán tưởng ngài Đại Bi Thánh Thủ đi"

Tu quán như vậy, cho dầu người thật sự không chứng cảnh giới trung ấm đi nữa cũng có thể nhận thức được.

Người đã được vị thầy hướng dẫn tu tập thực tướng công phu nhưng chưa thuần thục, chỉ bằng vào tự lực sẽ không cách nào hiểu rõ được cảnh tướng của thân trung ấm. Lúc này cần nhờ vào một vị thầy, một vị đồng đạo hay một vị thiện hữu tri thức, dùng lời nói sống động mà đưa vào tâm thức của người mất.

Người mặc dầu từng thành thạo trong các pháp tu nhưng trong lúc lâm chung mang bệnh trầm trọng làm cho tâm linh không thể chịu đựng được các lọai ảo ảnh, thì sự hướng dẫn ban đầu này vô cùng thiết yếu.

Còn có những người dầu từng có học qua các loại pháp môn, nhưng vì không giữ trọn những lời phát nguyện, hay không tinh tấn tu tập và thực hành các thời khóa một cách nghiêm túc thì sự hướng dẫn này mang lại lợi ích không nhỏ.

Như có thể kịp thời nắm lấy cơ hội ở giai đoạn cảnh tướng trung âm ban đầu là điều tốt nhất, Nhưng nếu như không được như vậy, liền có thể ở giai đoạn cảnh giới trung ấm thứ hai này dùng sự đọc tụng mà hướng dẫn trí tánh của người mất, khiến cho người ấy có thể chứng nhập vào cảnh giới giải thóat.

Bởi vị ở giai đoạn cảnh giới trung ấm thứ hai này, thân thể của người chết chính là cái được gọi là Quang Minh Huyễn Thân.

Lúc này tuy người mất không tự biết được mình thật sự có chết hay chưa, nhưng có một loại cảnh giới trong sáng hiện ra ở trước mắt người ấy. Như có thể hướng dẫn một cách đúng đắn kịp thời, liền có thể làm cho thật tướng nương đó mà hiện hành và làm cho nghiệp lực mất đi ảnh hưởng. Lúc này, ánh sáng chiếu đạo làm vô hiệu hóa nghiệp lực giống như ánh sáng của mặt trời xua tan bóng tối.

Cái này gọi là Hệ Hiện Vu Ý Sanh Thân của cảnh giới trung ấm giai đọan thứ hai. Lúc bấy giờ cái tâm có thể biết bị trói buộc chung quanh nơi mà không rời khỏi được nhưng nơi mà người ấy từng sinh họat trước đây; nếu có thể áp dụng phương pháp hướng dẫn đặc biệt này thì có thể đạt được mục đích tốt đẹp, bởi vì lúc này huyễn ảnh của nghiệp chưa xuất hiện, người chết tự nhiên đã không tập trung vào sự tu tập trước đây thậm chí bỏ hẳn mục tiêu cầu giác ngộ.

7 Vô Thức Tỳ Kheo – Thích Hạnh Tấn dịch

Page 8: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Phần II: Thời gian thể nghiệm thực tướng của cảnh giới trung ấm.

(1.) Thể nghiệm thực tướng lúc giai đoạn thứ ba trung ấm thật tướng nghiệp huyễn hiện tiền.

Bất quá, cho dầu không thể chứng ngộ được minh quan trung ấm ban đầu, chỉ cần chứng đắc được ánh sáng của trung ấm tái phát thì liền được giải thóat. Mà dầu không thể do nơi đó được giải thóat, thì còn có cảnh giới trung ấm giai đoạn thứ ba tên là "Thực Tướng Trung Ấm" xuất hiện.

Cho đến tận lúc cảnh giới trung ấm thứ ba này các huyễn ảnh của nghiệp mới lập tức thoáng hiện. Lúc này quan trọng hơn hết là đọc tụng phần phương pháp quán tưởng thực tướng trung ấm này: nó có công năng lớn mang lại lợi ích lớn.

Lúc bấy giờ người mất có thể thấy những đồ ăn cúng cho mình bị dọn xuống, những áo quần của mình bị lột ra (vì ở Tây Tạng điểu táng, nên cởi bỏ toàn bộ y phục), có thể thấy được nơi ngủ nghỉ của mình bị quét dọn; ngoài ra người mất còn có thể nghe người thân của mình khóc than, nhưng mặc dù nghe được tất cả người mất không làm sao nói cho người thân của mình biết là mình đang có mặt, bởi vậy người mất chán nản không vui và bỏ đi.

Ngay trong lúc ấy xuất hiện ba thứ, các loại âm thanh, các loại tia sáng, các loại khói lửa mà người mất đều phải chịu đựng. Việc này làm cho người mất cảm thấy sợ hãi, khiếp đảm, ghê rợn, mà lại làm cho người mất cảm thấy mệt mõi vô cùng. Chính ngay lúc này cần phải áp dụng ngay phương pháp quán tưởng thực tướng trung ấm. Người đọc kêu to tên người chết, hướng về người chết mà đọc tụng thật chính xác và rõ ràng, như sau:

"tên người chết" tôn quý, hãy chăm chú lắng nghe, không nên phân tâm: Trung ấm gồm có tất cả sáu loại cảnh tướng, tức gồm: lúc ở nơi bào thai là Bản Nhiên Trung Ấm; lúc thấy các cảnh tượng trong giấc mơ là Chiêm Bao Trung Ấm; lúc nhập định là Đẳng Trì Trung Ấm; lúc lâm chung là Mệnh Tận Trung Ấm; lúc thể nghiệm thực tướng là Thực Tướng Trung Ấm; cùng với lúc đi vào vòng luân hồi sanh lại là Đầu Thai Trung Ấm.

"tên người chết" tôn quý, người sắp thể nghiệm ba loại trung ấm này: Lâm Chung Trung Ấm, Thực Tướng Trung Ấm cùng với Đầu Thai Trung Ấm. Ở nơi ba loại trung ấm này, người đã thể nghiệm qua cảnh tượng của Lâm Chung Trung Ấm, mà nó mới chấm dứt ngày hôm qua. Mặc dầu ánh sáng thực tướng từng xuất hiện ngay trước mặt người, nhưng người không thể ở nơi đó mà lập tức nắm bắt, đến nỗi vẫn phải đang ngưng lại ở nơi đây. Từ đây về sau, người còn phải kinh qua hai cảnh tượng trung ấm khác nữa: Thực Tướng Trung Ấm và Đầu Thai Trung Ấm.

Người hãy nên một lòng không hoảng hốt, chú tâm mà lắng nghe - Tôi sẽ vì người mà nói rõ các việc đang hiện ra trước mặt, xin hãy ghi nhớ cho kỹ vào lòng.

"tên người mất" tôn quý, cái việc mà gọi là chết đã đến rồi. Người đã thoát ly khỏi cái thế gian này, nhưng người cũng không phải là người duy nhất đâu, có sanh thì có chết, mọi người đều cũng như thế cả. Không nên chấp chặt vào cái sinh mạng này; dầu cho người có

Page 9: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

chấp chặt không muốn đi nữa, thì người cũng không thể ở lại thế gian mãi; trừ khi vượt ra ngoài vòng lưu chuyển của luân hồi, không có cách nào khác hơn được. Không nên lưu luyến đó! Không nên sợ sệt nghe! Hãy trở lại nhớ nghĩ đến Tam Bảo đi!

"tên người mất" tôn quý, ở nơi cảnh tướng của thật tướng trung ấm, bất luận có việc đáng sợ, đáng ghê gì xảy ra ở nơi trước mặt của người, người đừng quên những câu kệ được nói sau đây, và hãy ghi nhớ nội dung quan trọng của nó, bởi vì cần phải nhận ra và nắm chặt cái yếu quyết trong đó:

Nay đây thực tướng trung ấm hiện trước ta,Các cảnh sợ hãi dầu hiện ta đều không quản, Nguyện tôi biết rõ đều là ảnh hiện thần thức,Nguyện tôi hiểu rõ đây là huyễn ảnh trung ấm,Ở đây biết rõ cơ hội lớn nhất đã tới,Nguyện tôi không sợ các vị thần hỷ nộ - đó là cái hiện ra từ thức của tôi.

"tên người mất" tôn quý, người nên ôn tập những lời kệ này, nhớ rõ yếu lĩnh của nó, đồng thời hãy can đảm đi tới, bất luận có cảnh tượng gì đáng sợ đáng gớm xuất hiện, cũng không nên nhận biết sai lầm; vì vậy người hãy nhớ kỹ cái bí mật vi diệu trong đó, đừng có quên mất.

"tên người mất" tôn quý, khi mà thần thức của người rời khỏi xác thân, lúc đó người thoáng thấy một thứ ánh sáng chói lọi, không thể tưởng được, khiến người sợ kính chính là pháp thân thanh tịnh, cũng giống như cảnh trên mặt đường hiện ra huyễn cảnh của mặt nước không ngừng lưu chuyển. Đó chính là hào quang của chính chơn tánh người, chứng thực nó đi!

Trong hào quang ấy, sẽ phát sinh những âm thanh giống như thật, như tiếng sấm sét của thiên lôi. Đó chính là âm thanh do chân ngã của người phát ra. Người không cần phải run sợ, không cần phải hoảng hốt, không cần phải giật mình.

Thân thể của người lúc này biến hóa thành một lọai thân ý thức. Người đã không còn có thân thể vật chất bằng xương bằng thịt, vì vậy dầu cái gì - bất luận là âm thanh hay ánh sáng, thậm chí ngọn lửa - cả ba thứ đều không thể nào làm hại người được: người đã là người chết rồi kia mà. Hiện tại người chỉ cần biết rõ: tất cả những hiện tướng này đều là do ý thức của chính người biến hiện ra, thế là đủ. Hãy nương theo đó mà nhận rõ cái thân trung ấm của người đi!

"tên người mất" tôn quý, nếu như người bây giờ còn không nhận rõ chính người là hiện cảnh của ý thức, nếu như người còn chưa chịu thích nghi với giáo pháp này, dầu bạn lúc còn sống có thuần thành cỡ nào đi nữa, cũng đều uống phí thôi -- những tia sáng kia hợp lại làm người khủng hoảng, những âm thanh kia họp lại làm người sợ hãi, những ngọn lửa kia họp lại làm người khiếp đảm. Nếu như bây giờ người còn không nhận rõ cái điều then chốt vô cùng trọng yếu này -- nếu như người không thể nhìn thấu những âm thanh này, những tia sáng này, những ngọn lửa này, người chỉ có thể ở mãi trong vòng luân hồi sanh tử mà thôi!

(2.) Tuần thứ nhất: Ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy. Các vị thánh tôn hỷ lạc hiện ra.

Page 10: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Giả sự người mất là một cư sĩ chưa chứng đắc sự thành tựu phật pháp, bị ràng buộc bởi nghiệp lực, mặc dầu liên tục tu tập quán tưởng theo sự hướng dẫn, nhưng vẫn chưa đạt giải thóat, tức phải trải qua những cảnh tượng trung ấm trong vòng bốn chín ngày của bảy tuần thất. Bên dưới sẽ nói đến những điều nguy nan người mất phải đối diện và khắc phục bằng được trong kỳ thất thứ nhất. Theo trong kinh điển ghi lại thì tuần đầu tiên ngày thứ nhất được tính từ lúc người mất sau khi biết thật mình đã chết liền có ý muốn sống trở lại ở nhân gian, hay nói khác hơn là ba ngày rưỡi hoặc bốn ngày sau khi chết.

1. Tuần đầu, ngày thứ nhất

"tên người mất" tôn quý, ở tại nơi đây khoảng giữa thời gian ba ngày rưỡi, người vẫn bị vây khốn trong trạng thái hôn mê. Đợi đến lúc thần trí của người bỗng nhiên trong sáng, người liền hoảng kinh tự hỏi, chuyện gì đã xảy ra?!

Kể từ lúc đó, người liền nhận rõ mình đang ở trong cảnh giới trung ấm. Lúc đó thì bánh xe luân hồi cũng lập tức khởi động; trong khoảng đó, người theo đó mà thấy các loại hiện tượng, bao gồm các loại hào quang cùng các bộ thánh tôn. Khi đó toàn bộ bầu trời đều hiện ra một mảnh màu xanh đậm.

Khi đó dường như có người thân màu trắng tay cầm bánh xe tám căm ngồi trên tòa sư tử, có Hư Không Phật Mẫu ôm ngài Tỳ Lô Giá Na Phật, do vậy gọi là "Chủng Tử Bá Tát" (gieo rắc mầm móng) tại nơi phía giữa trước mặt người mà hiện ra.

Đây chính là sự dung hợp giữa các trạng thái bản nhiên của Sắc Uẩn tạo thành màu xanh kia vậy.

Có cảnh giới trí quang của màu xanh, trong suốt, xán lạn huyền diệu, từ nơi giữa tâm của ngài Tỳ Lô Giá Na Phật phóng ra một luồng hào quang đến nơi người, ánh sáng của hào quang này mạnh vô cùng làm người hầu như không thể nhìn thẳng vào đó được.

Cùng một lúc với ánh hào quang trên cũng có một đạo hào quang từ cõi trời màu trắng dịu hướng về phía người phóng tới.

Bởi quan hệ của nghiệp lực, người cảm thấy hoảng sợ và muốn trốn tránh luồng hào quang màu xanh của Pháp giới trí quang, mà đối với ánh sáng trắng dịu kia mang lòng thích mến.

Trong lúc này, người nên chấn chỉnh lại tâm mình đừng để tâm sợ hãi phát sanh đối với ánh sáng thần thánh màu xanh, càng không nên để nó hù dọa. Cái đó có tên là Như Lai Uy Quang của Pháp Giới Trí Quang. Người phải đối với hào quang đó mà phát lòng tin vững chắc không thay đổi, và hướng về đó khẩn thiết cầu xin, một lòng quán tưởng: đó là hào quang ân huệ phát ra từ tâm của ngài Tỳ Lô Giá Na Phật, là vì thân trung ấm của ngươi rơi vào hiểm nạn mà hiện đến để phóng quang nhiếp hộ người. Đó chỉ là ánh từ quang của đức Tỳ Lô Giá Na Phật.

Không nên mang tâm yêu thích ánh sáng trắng dịu của cõi trời; không nên chấp vào nơi đó; không nên khiếp nhược. Nếu mà người yêu thích nó, thì sẽ bay vào cảnh trời, lại rơi vào trong dòng xoáy của sáu nẽo luân hồi. Đó là một thứ trở ngại ngăn cách người với đạo giải

Page 11: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

thóat. Không nên nhìn nó. Người nên dùng tâm thuần thành ngước nhìn rõ ánh sáng màu xanh chói rạng. Người nên tinh tấn và thật lòng quán tưởng ngài Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn và theo tôi mà cùng tụng để cầu xin:

Sanh Tử thay nhau đều do ác nghiệp ngu vô minh có,Lúc Pháp Giới Trí Quang chiếu rạng soi con đường đen tối:Xin nguyện đức Tỳ Lô Giá Na Phật dẫn đường phía trước,Xin nguyện đức Hư Không Phật Mẫu bảo hộ theo sau;Xin nguyện khiến con an qua đường hiểu trung ấm đáng sợ,Xin nguyện khiến con an trụ tất cả viên mãn phật cảnh.

Sau khi cầu nguyện chân thành nhiệt tình như vậy, người có thể nương vào giữa luồng hào quang mà nhập vào ngực của đức Bạt Già Phạm Tỳ Lô Giá Na để chứng được quả vị báo thân phật, an trú tại Phật tịnh độ Mật Nghiêm.

2. tuần đầu, ngày thứ hai

Mặc dầu đã khiến cho nhập quán tưởng như bên trên, nhưng do sân tâm hoặc nghiệp lực vô minh của người chết lôi kéo, đến nỗi dầu có cầu khẩn xin giúp đỡ, cũng không thể làm cho đừng sợ Phật quang mà chạy trốn, hoặc do bị các ảo ảnh làm mê phục, như vậy thì đến ngày thứ hai có ngài Kim Cang Tát Đỏa được hộ tống bởi các vị quyến thuộc, đồng thời cũng có những ác nghiệp địa ngục cũng hiện ra trước mặt người mất mà tiếp rước.

Ngay trong lúc này cái pháp quán tưởng cần làm là: do người đọc kêu tên người mất và theo như bên dưới mà hướng dẫn:

"tên người mất" tôn quý, hãy một lòng chăm chú nghe, đừng hoảng hốt. Ở nơi ngày thứ hai này, nương nơi sắc thanh tịnh của thủy đại mà hiện ra một vùng ánh sáng màu trắng. Ngay trong lúc ấy, xuất hiện hào quang màu xanh đậm của Diệu Lạc Phật Độ ở phương đông, có thân màu xanh tay cầm chày kim cang năm cạnh ngồi trên tòa voi có ngài Mã Ma Cơ Phật Mẫu đang ôm đức Phật Kim Cang Tát Đỏa, ở nơi ngài Địa Tạng Bồ Tát và ngài Di Lặc Bồ Tát cùng với các quyến thuộc có hai vị nữ bồ tát (Trì Kính và Trì Hoa) làm bạn, đều hiện ra phía trước của người. Đấy là sáu vị thánh tôn trí tuệ đều hiện ra trước mặt của người.

Thức Uẩn của sự thanh tịnh (cái này là Đại Viên Kính Trí), nương theo một thứ ánh sáng trắng chói rọi, xán lạn cực kỳ chói mắt làm cho người hầu như không thể nhìn kỹ được sự trong suốt của ánh sáng đó; từ nơi tâm của ngài Kim Cang Tát Đỏa phóng thẳng đến người. Mà đồng thời với ánh sáng của Đại Viên Kính Trí còn có một thứ sương mù màu tối cũng phóng theo đến trước mặt người.

Trong lúc này bởi nghiệp lực của tâm sân dẫn dắt làm người sanh tâm sợ hãi và muốn lẫn tránh nó, trái lại đối với cảnh sương mù ẩm đạm đến từ địa ngục lại sanh tâm vui mừng ưa thích, lúc này người phải tích cực chóng chọi lại để người không ngu si sợ hãi thứ ánh sáng chói lọi màu trắng kia. Người nên biết rằng, đó là ánh sáng trí tuệ, người nên với lòng khiêm hạ mà thành tâm cần cầu tín thọ. Đó là hào quang từ bi của đức Bạt Già Phạm Kim Cương Tát Đỏa. Người nên khởi lòng tin mà nhớ nghĩ: "tôi nên nương nơi Ngài mà cầu che chở", và với tâm khẩn cầu.

Page 12: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Đó là đức Kim Cương Tát Đỏa Thế Tôn đến đây để tiếp dẫn người, giúp người thoát khỏi cảnh sợ hãi của trung ấm, người nên tin nơi Ngài, bởi vì móc câu ánh sáng từ bi của ngài Kim Cang Tát Đỏa có khả năng đưa người ra khỏi cảnh hiểm nghèo của trung ấm.

Không nên mê luyến cái sương mù mờ ảo của cảnh giới địa ngục; đó là hướng để dẫn người đi vào đường địa ngục; nếu không nói rõ, người sẽ theo nghiệp dữ sân giận tích lũy mà bị dắt vào cảnh giới của nó, rơi vào địa ngục; nếu một ngày mà rơi vào địa ngục thì chắc phải chịu cái khổ thống khổ vô cùng, cũng không có ngày chắc chắn để rời khỏi nơi đó. Đó là một chướng ngại ngăn trở người với con đường giải thoát; bởi vậy người ngàn vạn lần đừng nhìn đến nó, đồng thời cũng đừng để cho tâm sân giận khởi lên. Ngàn vạn lần đừng để nó lôi cuốn; ngìn vạn lần đừng coi nhẹ mình. Ngươi nên phát lòng tin với ánh hào quang trắng chói chang, hướng tâm về đức Kim Cang Tát Đỏa Thế Tôn và phát nguyện như vầy:

Sanh tử thay nhau đều do ác nghiệp sân nhuế mà có,Lúc Đại Viên Kính Trí chiếu rạng soi con đường tối này:Xin nguyện Kim Cang Tát Đỏa Thế Tôn dẫn đường ở trước,Xin nguyện Thánh Mã Ma Cơ Phật Mẫu bảo hộ phía sau;Xin nguyện khiến con an qua đường hiểm trung ấm đáng sợ,Xin nguyện khiến con an trụ tất cả viên mãn Phật Địa.

Sau khi khấn nguyện khiêm hạ nhiệt thành như vậy rồi, người có thể ở nơi ánh hào quang tiến nhập vào ngực của Kim Cang Tát Đỏa Thế Tôn mà chứng quả Phật Báo Thân, vào cảnh giới Đông Phương Diệu Lạc Phật Độ.

3. Tuần đầu, ngày thứ ba

Nhưng dầu có làm việc quán tưởng như trên, cũng có từ quang được phóng đến để hấp dẫn, nhưng có một số người bởi ác nghiệp kiêu căng ngạo mạn sâu nặng đến nỗi bản tâm bị che chắn nên không thể chứng thực được, thậm chí còn chạy trốn nữa. Gặp phải tình huống này, thì trong ngày thứ ba có đức Phật Bảo Sanh Như Lai cùng với các vị quyến thuộc, cũng như hào quang màu vàng của cõi người đồng thời cùng đến trước người chết mà lôi cuốn.

Lúc này nên trở lại giúp vong linh quán tưởng, kêu thẳng tên người mất mà tuyên đọc:

"tên người mất" tôn quý, một lòng chăm chú nghe. Ngày thứ ba có hào quang màu vàng của bản sắc thủy đại hướng đến người chiếu rọi. Đồng thời, từ Chúng Bảo Trang Nghiêm Phật Độ có Phật Bảo Sanh Như Lai kim thân màu vàng, tay Diệu Bảo ngồi trên tòa ngựa đang ôm trong lòng Phật Nhãn Phật Mẫu, cũng đến phóng hào quang về phía người.

Cũng có Hư Không Tạng Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát cùng với hai vị nữ Bồ Tát Niệm Châu và Trì Hương -- với hai vị trước tổng cộng là sáu vị tự thân Bồ Đề cùng nương ánh sáng cầu vòng mà hiện đến phía người. Đây chính là bản sắc của Xúc Uẩn hóa hiện ra hào quang màu vàng của bình đẳng tánh trí vậy, hào quang này sáng chói, trong đó có những chòm sáng sáng lạn hình cầu, vô cùng chói lọi, hầu như không có mắt thịt nào có thể nhìn thẳng vào được. Rồi cùng với hào quang này đến có ánh sáng mờ ảo màu vàng lam từ cõi nhân loại cũng hướng đến người mà chiếu rọi.

Trong khi đó bởi do nghiệp kiêu mạn làm cho người đối với ánh hào quang màu vàng chói

Page 13: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

lọi này cảm thấy sợ hãi và muốn trốn tránh. Nhưng đối với ánh sáng mờ ảo màu vàng lam từ nhân đạo thì người lại cảm thấy vui thích thú và bị nó thu hút.

Đây chính là lúc người chẳng những không nên sợ hãi đối với hào quang trong suốt màu vàng chói lọi kia mà còn phải biết rõ nó chính là ánh sáng của trí tuệ; Ở trong tình huống này người phải giữ đừng cho bị phân tâm, có lòng khiêm hạ mà phát lòng tin chắc đối với nó. Chỉ cần người hiểu rõ nó chính là ánh sáng từ trí tánh của chính người, và chỉ cần người thành kính khẩn cầu thì chư Phật cùng với hào quang các ngài sẽ khiến người hợp cùng các ngài làm một thể mà chứng quả vị Phật.

Giả sử người không thể chứng nhận được cái ánh sáng từ trí tánh của chính mình, cũng đừng ngại mà hãy một lòng tin tưởng quán như thế này: "hào quang này là ánh sáng từ bi của Bảo Sanh Như Lai Thế Tôn, tôi phải nương vào đó để cầu được che chở"; do đây mà hướng đến ngài cầu gia bị. Nó chính là móc câu hào quang từ bi của đức Bảo Sanh Như Lai Thế Tôn vì người mà được phóng ra để tiếp dẫn, vì vậy người phải phát lòng tin sâu chắc.

Không nên đối với ánh sáng màu vàng lam từ cõi người đến mà sanh tâm mến thích. Đó là ánh sáng do lòng kiêu mạn huân tập mà thành, đến để mê hoặc người. Người mà bị nó lôi cuốn một lần, thì phải sanh vào cõi người, chịu cảnh khổ sanh già bệnh chết, đánh mất cơ hội thóat khỏi thế giới ta bà. Đây là một loại chướng ngại có thể làm người không vào được con đường giải thoát. Bởi vậy cho nên, người không những không nên quan tâm đến nó, mà còn cần phải bỏ đi tập khí ngã mạn; không nên tự khinh mình nhỏ bé, không nên để nó thu hút. Người nên phấn khởi vực dậy, tin tưởng vào ánh hào quang sáng chói. Người nên một lòng quán tưởng Bảo Sanh Như Lai Thế Tôn cùng phát tâm như sau:

Sanh tử thay nhau đều do ác nghiệp ngạo mạn mà có,Lúc mà Bình Đẳng Trí chiếu soi xua màn mù đen tối:Xin nguyện Bảo Sanh Như Lai Thế Tôn dẫn đường phía trước,Xin nguyện Thần Thánh Phật Nhãn Phật Mẫu che chở phía sau;Xin nguyện khiến con an qua đường hiểu trung ấm đáng sợ,Xin nguyện khiến con an trụ tất cả viên mãn phật cảnh.

Sau khi phát tâm tha thiết thành tâm khẩn cầu, người nương nơi ánh sáng cầu vòng mà tiến nhập vào thân cha mẹ thanh tịnh tức là biển tâm của Bảo Sanh Như Lai Thế Tôn mà chứng được quả vị báo thân phật, an trụ ở Chúng Bảo Trang Nghiêm Phật Độ phương nam.

4. Tuần đầu, ngày thứ tư

Y theo sự quán tưởng nói trên mà làm thì dầu tâm trí có yếu ớt thế nào thì cũng đã được giải thóat. Nhưng một số người do vì đã làm quá nhiều ác nghiệp, hoặc là phá các lời thệ nguyện cùng phá giới luật, hoặc sanh ra không nhằm lúc để có thể tu trì thiện nghiệp, cho nên hôm nay dầu có quán tưởng vẫn chưa có thể ngộ nhập được; cũng bởi vô minh do lòng tham lam keo kiệt khở lên làm cho họ sanh tâm sợ hãi với ánh hào quang mà khinh hoàng trốn tránh. Nếu người chết thuộc loại người này thì trong ngày thứ tư sẽ có đức Phật A Di Đà cùng các quyến thuộc đến tiếp dẫn, đồng thời do lòng tham chấp ảnh hiện cõi ngạ quỹ nên cũng phóng ánh sáng đến dụ dẫn.

Phương pháp quán ở đây cũng như trước, kêu tên người chết mà đọc lời khai thị như sau:

Page 14: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

"tên người mất" tôn quý, tĩnh tâm chăm chú nghe. Nay là ngày thứ tư nên có cầu vòng vốn là bản sắc của thủy đại phóng tới. Đồng thời từ phương tây Cực Lạc Thế Giới có đức Phật A Di Đà kim thân màu đỏ, tay cầm hoa sen diệu bảo ngồi tòa khổng tước ôm trong lòng Bạch Y Phật Mẫu cùng với Quan Âm Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát cùng hai vị nữ Bồ Tát Trì Cầm và Trì Đăng -- tổng cộng sáu vị thân Bồ Đề, nương theo cầu vòng tỏa ánh sáng chiếu đến trước mặt người.

Đây chính là ánh sáng Diệu Quang Sát Trí của bản sắc Thụ Uẩn, phát ra từ nơi tâm của đức A Di Đà Phật chiếu thẳng đến tâm của người, hào quang này màu đỏ, chói lọi sáng suốt, trong đó có những tia sáng hình cầu chói lọi vô cùng lóe mắt hầu như khó có thể nhìn thẳng vào được, nhưng người đừng vì thế mà sợ hãi.

Cùng với hào quang trí tuệ này cùng đến từ cõi ngạ quỹ là một đạo ánh sáng màu đỏ mờ ảo cũng nhằm người mà chiếu. Nhưng người đừng nên mến thích loại ánh sáng này, cũng nên mạnh dạn buông bỏ tâm trạng chấp nhất cùng nhu nhược.

Trong lúc này bởi sự ảnh hưởng của lòng tham chấp kiên cố người đối với hào quang màu đỏ chói mắt sẽ có lòng khiếp đảm sợ hãi mà muốn trốn tránh. Đồng thời người đối với ánh sáng màu đỏ mờ đến từ cõi ngạ quỹ lại sanh lòng ưa thích.

Trong lúc này, người không những không nên sợ hãi luồng hào quang màu đỏ trong suốt và chói lọi kia mà nên chứng biết đó là ánh sáng của trí tuệ; người chỉ cần để tâm đừng vướng mắc chỗ nào cả liền có thể hòa mình vào đó mà chứng quả Phật.

Giả sử người không thể chứng nhập được thì hãy nên quán tưởng như vầy: "nó chính là ánh sáng từ bi của đức Phật A Di Đà Thế Tôn, ta nên nương nơi đó mà cầu che chở", sau khi suy nghĩ như vậy liền khởi lòng thành kính tin sâu mong muốn được đi vào trong đó. Đó là móc câu hào quang từ bi của đức Phật A Di Đà phóng đến để tiếp dẫn người, người nên khiêm hạ mà đón nhận không nên trốn tránh. Ngay cả người có chạy nó cũng sẽ đuổi theo không dứt, người cũng đừng nên sợ. Ngàn vạn lần đừng để cho ánh sáng đỏ nhạt từ cõi ngạ quỹ đến dẫn dụ. Đó là do sự tích tụ của lòng chấp chặt mà tạo thành ánh sáng của nghiệp, vì để trói buộc người vào luân hồi mà đến. Nếu người bị nó dẫn đi, người sẽ sanh vào cảnh giới ngạ quỹ, phải chịu đủ các loại khổ đói khát khó nhịn, đánh mất cơ hội được giải thóat hôm nay. Cái ánh sáng màu đỏ nhạt là một chướng ngại có thể làm người không đến được với đạo giải thóat. Không những người cần phải có tâm bỏ nó mà còn phải bỏ thói quen tham lận nữa. Tỉnh táo lại đi, đừng có như vậy mà chịu. Hãy có lòng tin với hào quang màu đỏ chói chang kia. Một lòng quỳ lạy đức Phật A Di Đà Thế Tôn cùng hết lòng hết ý cầu nguyện như sau:

Sanh tử thay nhau đều do nghiệp ác tham lận mà có,Lúc Diệu Quang Sát Trí này chiếu sáng xua tan mờ tối:Xin nguyện A Di Đà Phật Thế Tôn dẫn đường phía trước,Xin nguyện Thần Thánh Bạch Y Phật Mẫu che chổ phía sau;Xin nguyện khiến con an qua đường hiểm trung ấm dễ sợ,Xin nguyện khiến con an trụ tất cả viên mãn phật địa.

Sau khi người với lòng tin sâu thắm thiết cầu khẩn như vậy thì có thể đi vào tâm của đức

Page 15: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Phật A Di Đà đang ngự giữa ánh sáng cầu vòng mà chứng đắc quả vị báo thân phật, an trụ ở Cực Lạc Thế Giới Phật Độ phương tây.

5. Tuần đầu, ngày thứ năm

Nếu quán tưởng như trên mà không chứng nhập được điều này không thể có. Tuy nhiên lại có hữu tình chúng sanh tuy cũng đã quán tưởng như pháp nhưng khó bỏ được những thói quen đã nhiễm lâu ngày, lại do ác nghiệp của lòng ganh ghét ảnh hưởng mà sanh tâm sợ hãi đối với loại hào quang nên cứ như thế mà luân chuyển đến ngày thứ năm. Giả sử người chết thuộc loại hữu tình này thì sẽ có đức Bất Không Thành Tựu Như Lai Thế Tôn cùng với quyến thuộc thánh tôn phóng hào quang đến mà tiếp dẫn. Đồng thời cũng sẽ có ánh sáng của A Tu La do lòng đố kỵ phiền não cảo thọ ra phóng đến mà câu nhiếp.

Đây là lúc cần hướng dẫn nhập quán, nên kêu tên người chết và khuyến khích như sau:

"tên người mất" tôn quý, một lòng chăm chú nghe. Đến lúc này là ngày thứ năm, nương theo bản sắc của phong đại mà có ánh sáng màu xanh lục (xanh lá cây) sẽ chiếu đến người. Lúc này từ Phật Độ phương bắc Vô Thượng Diệu Hạnh Thành Tựu thế giới có phật Bất Không Thành Tựu Như Lai Thế Tôn kim thân màu lục, tay cầm chày kim cang mười nhánh ngồi trên tòa chim Ưng có sừng ôm trong lòng Trinh Tín Độ Mẫu Phật Mẫu cùng với hai vị Bồ Tát Kim Cương Thủ và Trừ Cái Chướng cũng như hai nữ Bồ Tát Phún Hương và Trì Đường -- sáu vị bồ tát trí thân bồ đề -- đều trong ánh sáng cầu vòng hướng về người mà phóng hào quang.

Loại hào quang màu lục này là bản chất của Hành Uẩn tạo thành Thành Sở Tác Trí, nó trong suốt, huy hoàng mà lại đáng nể sợ, nó từ trong tâm của Bất Không Thành Tựu Như Lai phóng ra với vô số tinh cầu chói rạng, hào quang này vô cùng sáng làm người hầu như không thể nhìn thẳng vào được. Đó chính là sức mạnh trí tuệ vốn có của người mà ra. Người không cần phải sợ hãi, hãy nên an trụ tại cái cảnh giới đại an ổn không thiên lệch kia.

Cùng với hào quang màu lục này xuất hiện có một đạo ánh sáng đến từ cảnh giới A Tu La màu xanh lá cây mờ, do bởi ác nghiệp đó kỵ cảm ứng mà thành. Người nên dùng thái độ bình thản không thiên lệch mà nhìn nó, không nên mến thích nó; giả như lòng của người có mềm yếu cũng đừng lưu luyến nó.

Lúc bấy giờ cũng bởi tác động của tâm đố kỵ người cảm thấy sợ hãi hào quang màu lục chói rạng mà muốn chạy trốn, nhưng lại đối với ánh sáng màu lục mờ của cõi A Tu La thì ngược lại sanh tâm yêu thích. Trong lúc này người cũng đừng có hãi sợ cái hào quang màu lục chói mắt trong suốt kia mà còn phải nhận rõ nó chính là ánh sáng trí tuệ cũng như để tâm trí của người an trụ nơi cảnh giới đó. Hoặc ở trong tâm nhớ nghĩ: "Nó chính là hào quang từ bi tiếp dẫn của đức Bất Không Thành Tựu Như Lai Thế Tôn, chính là ánh sáng trí tuệ của Thành Sở Tác Trí". Cùng có lòng tin nhận với nó, không cần trốn tránh.

Cho dù người có lẫn tránh nó cũng sẽ đuổi sát theo người. Không cần sợ nó. Nhưng người nghìn vạn lần cũng đừng mến thích ánh sáng màu lục mờ của cõi A Tu La. Đó là ánh sáng mê hoặc tạo thành bởi ác nghiệp đố kỵ mạnh mẽ tác động mà đến. Một khi người bị nó dụ đi thì sẽ rơi vào cõi A Tu La chịu sự khốn khổ đấu tranh không ngừng. Đó là một thứ chướng ngại làm người khó đến được với đạo giải thóat. Người không nên để nó lôi kéo, mà

Page 16: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

còn nên buông bỏ lòng đố kỵ của người, nghìn vạn lần đừng xem thường bản thân. Người nên tòan tâm hết lòng tin nhận hào quang chói mắt màu lục kia, nhất tâm quán tưởng đức Bất Không Thành Tựu Như Lai Thế Tôn mà phát lời nguyện như sau:

Sanh tử thay nhau đều do ác nghiệp đố kỵ làm nên,Lúc Thành Sở Tác Trí này chiếu soi rõ đường mờ tối:Xin nguyện Bất Không Thành Tựu Như Lai dẫn đường phía trước,Xin nguyện Trinh Tín Độ Mẫu Phật Mẫu che chở phía sau;Xin nguyện khiến con an qua đường hiểm trung ấm dễ sợ,Xin nguyện khiến con an trụ tất cả thành tựu phật độ.

Sau khi thành tâm hết lòng như vậy khẩn cầu người có thể tiến nhập vào trong tâm của đức Bất Không Thành Tựu Như Lai đang ở trong cầu vòng ánh sáng chứng đắc quả vị báo thân phật, an trụ ở thế giới Vô Thượng Diệu Hạnh Phật Độ phương bắc.

6. Tuần đầu, ngày thứ sáu

Sau khi trải qua các giai đoạn quán liên tiếp như trên, dầu thiện duyên có yếu cỡ nào đi nữa thì cũng đã quán nhập được một hai phần trong đó, mà sau khi đã nhập vào bất cứ cảnh giới nào trong đó, thì không có thể nào không được giải thoát cả. Nhưng dầu quán tưởng như pháp liên tục mà do có người lâu ngày bám chặt nơi tập khí ác nghiệp, cũng không hiểu biết gì về chánh trí, lại thiếu tâm vui vẻ, dầu có được hướng dẫn như trước liên tục, vẫn không khỏi bị sự dẫn dắt của khuynh hướng tà ác tự thân mà thối lui. Họ bởi vì không thể được hào quang từ bi của chư Phật tiếp dẫn mà bị đọa, người chết đối với hào quang từ bi câu dẫn này phát sanh một nỗi sợ hãi vô căn cứ.

Đến lúc này lại có Ngũ Phương Phật Thiền cùng đến để phóng quang trợ niệm, hiệp lực gia trì. Nhưng đồng thời cũng có các loại ánh sáng của lục đạo luân hồi hiện ra để câu dẫn.

Lúc này cần phải lại làm pháp quán, cũng là kêu tên người chết mà tuyên đọc:

"tên người mất" tôn quý, cho đến ngày hôm qua chư Phật ở năm hướng đã lần lượt hiện đến phóng quang tiếp dẫn, mà người cũng đã tùy theo từng thứ mà quán tưởng, nhưng bởi vì ác nghiệp của người quá nặng, lại sanh tâm sợ hãi đối với chư Phật, cho nên đến giờ vẫn còn ở trong cảnh giới này.

Người nên hiểu rõ hào quang của năm vị Phật ở năm hướng chính là do nơi tịnh thức của người mà hiển lộ ra, vậy người hãy mau theo đó mà vào bất cứ với vị Phật nào, hãy vào trong cầu vòng ánh sáng mà chứng quả báo thân phật. Hiện nay người hãy lắng lòng chú ý. Ở đây có cái gọi là "Tứ Trí Khế Hợp Quang" của Ngũ Phương Phật Quang phóng đến phía trước người. Người hãy nhân đó mà biết rõ.

"tên người mất" tôn quý, hôm nay trong ngày thứ sáu có bốn màu do bản cảnh của tứ đại đồng thời chiếu rọi đến đây. Lúc bấy giờ các nước phật ở trung ương, có đức Phật Tỳ Lô Giá Na cùng các vị quyến thuộc, đến phía trước người mà phóng quang; phương trên Tối Thắng Lạc Độ có đức Phật Kim Cang Tát Đỏa cùng các vị quyến thuộc, đến phía trước người phóng quang; nam phương Chúng Bảo Trang Nghiêm Phật Độ có đức Phật Bảo Sanh cùng quyến thuộc, đến phía trước người mà phóng quang; Tây phương Cực Lạc Thế Giới

Page 17: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Liên Hoa Phật Độ có đức Phật A Di Đà cùng quyến thuộc, đến trước người mà phóng quang; Bắc phương Vô Thượng Thành Tựu Diệu Hạnh Phật Độ có đức Phật Bất Không Thành Tựu và quyến thuộc, ở nơi vòng ánh sáng cầu vòng đến trước người phóng quang.

"tên người mất" tôn quý, ở nơi chung quanh năm vị Phật Thiền và Phật Mẫu này có bốn vị Thủ Môn Phẫn Nộ Thánh Tôn: Đắc Thắng Lợi Giả, Hoại Tử Chủ Giả, Mã Cảnh Vương Giả, Cam Lộ Bình Giả cùng với bốn vị nữ thủ môn: Trì Thứ Bổn Giả, Trì Sáo Sách Giả, Trì Tỏa Liệm Giả, và Trì Linh Đạc Giả; lại có chư Phật sáu đường: đức Phật Vô Thượng Uy Quyền của cõi trời, đức Phật Kiên Cố Giáp Trụ của cõi A Tu La, đức Phật Thích Ca Mâu Ni Sư Tử của cõi người, đức PHật Bất Khả Động Dao Sư Tử của cõi súc sanh, đức Phật Diệm Hỏa Chi Khẩu Giả của cõi ngạ quỹ và cùng đức Phật Pháp Vương của cõi địa ngục -- lại cùng tám vị phụ mẫu Hộ Môn Giả, sáu vị Đại Đạo Đạo Sư cùng với vô địch thánh tôn -- cùng nhau đến trước người mà phóng quang.

Lại có Phổ Hiền Phật Phụ cùng Phổ Hiền Phật Mẫu: vị tổ tiên vĩ đại của tất cả chư Phật là Phổ Hiền Vương Như Lai (cùng Phổ Hiền Vương Phật Mẫu) -- các vị Phật Phụ và Phật Mẫu thanh tịnh đều cùng hướng đến người mà phóng quang.

Như trên đã nêu lên bốn mươi hai vị thánh tôn tòan năng -- đều từ trong tâm của người mà biến hiện ra; chính là cái tâm từ ái của tự người -- và đồng hướng về người phóng quang, người nên nhiếp niệm mà hiểu rõ.

"tên người mất" tôn quý, ở trên đã nói về các cảnh của chư Phật, lại cũng không phải từ bên ngoài tâm của người mà có -- đều từ nơi bốn phần trong tâm người mà hiện ra, lại ở trên bốn bộ phận này còn có bộ phân trung ương, chính là quốc độ của ngũ phương phật. Chúng đều từ nơi nội tâm của người mà hiện ra, cùng đều hướng đến người mà chiếu rọi hào quang. Mà tất cả các vị thánh tôn đã nêu ra đều không phải từ nơi nào bên ngoài mà đến cả. Tất cả từ trước đến giờ đều nằm trong công năng trí tánh của tự thân người, vì thế người nên biết rõ ràng như thế.

"tên người mất" tôn quý, những vị Thánh Tôn này không có một bản thể lớn nhỏ, chỉ là do sự cảm ứng của người mà hiện ra theo đó, nên hình như là có tướng lớn nhỏ. Các ngài đều mỗi vị có các lọai trang sức khác nhau, có các lọai màu sắc khác nhau, có các tư thế ngồi khác nhau, có các bảo tòa khác nhau, mỗi mỗi đều có sự hiện ra khác nhau.

Những vị thánh tôn này năm hợp làm một tổ, mỗi tổ đều có năm đối lại, ở chung quanh nơi đó có một đạo hào quang năm loại xoay tròn, trong đó những vị Bồ Tát nam tạm gọi là Phật Phụ, những vị Bồ Tát nữ tạm gọi là Phật Mẫu. Cái mật thất của những vị thánh tôn này tạo thành một Đàn Tràng Lớn viên mãn, cùng một lúc đến phía trước người phóng quang. Các ngài chính là những vị Thánh Tôn Bảo Hộ của chính người. Người hãy đối với các vị ấy mà nhận biết rõ ràng như vậy.

"tên người mất" tôn quý, đang khi ấy có ánh sáng tương ưng với tứ trí vô cùng trong sáng đẹp tuyệt, giống như những sợi chỉ nhỏ, lại giống như những tia mặt trời, từ nơi tâm của năm vị Phật ở ngũ phương phật độ phóng xạ ra chiếu đến tâm người.

Tại trên đường hào quang này có Trí Quang Pháp Giới Bổn Tánh, phát ra các loại quang cầu màu lam chiếu rọi bốn phía những tia hào quang, mỗi mỗi đều giống như một cái chén ngọc

Page 18: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

úp ngược; đường kính của những quang cầu này có cái lớn nhỏ, nhưng đều trong suốt sáng ngời mà lại ánh lên sặc sỡ lóa mắt; Những quang cầu nhỏ hơn này lại có năm quang cầu nhỏ bên trong, những quang cầu nhỏ này lại có 5 vòng hào quang nhỏ tương tự vây quanh làm tăng thêm vẻ sáng lạn, do sự chiếu sáng lẫn nhau của những tinh cầu và các tinh cầu vây quanh làm tăng hào quang màu lam này có thể chiếu rọi rất xa vượt ngoài sự nhận biết của lý trí, có thể hòan toàn làm cho tất cả được hiển bày một cách rốt ráo.

Có ngài Kim Cang Tát Đỏa từ nơi tâm phóng ra luồng hào quang Đại Viên Cảnh Trí, hào quang đó màu trắng sáng suốt, chói lòa, khiến người kính sợ, lại do chung quanh có các loại quang cầu nhỏ trong suốt theo nhau, tất cả đều giống như những tấm gương che chắn cho nhau, chiếu rọi lẫn nhau làm thêm sáng rực lên.

Có ngài Bảo Sanh Như Lai từ nơi tâm phóng ra luồng hào quang Bình Đẳng Tánh Trí, hào quang đó màu vàng, lại có những quang cầu màu vàng vây quanh, ở bên ngoài những quang cầu này lại có các quang cầu nhỏ khác vây quanh; mà bên ngòai những quang cầu nhỏ này lại có những quang cầu nhỏ hơn màu vàng vây quanh, mỗi mỗi đều giống như cái chum vàng úp ngược chiếu rọi lẫn nhau sáng chói dị thường.

Có đức Phật A Di Đà từ trong tâm phóng ra luồng hào quang Diệu Quan Sát Trí, hào quang đó màu đỏ trong suốt, chói rạng, lại có các quang cầu nhỏ hơn màu đỏ vây quanh, tất cả đều như những chén san hô úp ngược, đều phát ra ánh sáng trí tuệ, cực kỳ sáng lạn chói mắt; những quang cầu này lại có những quang cầu nhỏ hơn màu đỏ vây quanh soi sáng, cực kỳ sáng; bên ngoài lại có các quang cầu nhỏ hơn màu đỏ vây quanh soi sáng, tất cả đều nằm ngoài sự nhận biết của lý trí, và đều có thể soi rõ các vật thể.

Có những thứ như vậy đều cùng đến trước người mà chiếu vào tâm người.

"tên người mất" tôn quý, tất cả những thứ này đều là ánh sáng trí năng của chính người hiện đến để chiếu rọi, đều không phải từ nơi nào bên ngòai mà đến cả. Người đừng nên rụt rè đối với chúng, không cần e ngại, không cần sợ hãi, người chỉ cần giữ một lòng tĩnh định vô niệm thì những hình dáng, những hào quang kể trên đều hòa nhập vào tự tánh của người khiến cho người chứng được quả vị phật.

Sở dĩ ánh sáng màu lục của Thành Sở Tác Trí không hướng đến người mà chiếu soi là bởi vì trí tuệ của người chưa có thể khai phá một cách viên mãn, vì vậy không cách nào làm nó cảm ứng hiện ra được.

"tên người mất" tôn quý, cái hào quang đã kể bên trên gọi là Tứ Trí Khế Hợp, còn gọi là đạo bí mật của Kim Cang Tát Đỏa, tức là do đây mà đến.

Trong lúc này người nên nhớ lại những sự hướng dẫn của bậc thầy trước đây mà khơi dậy các điều quan trọng của sự quán tưởng, thì liền hiểu rõ những hào quang ấy đều biến hiện từ nội tâm trong sáng của người ra, sau khi người có thể coi chúng là những người thân cận, người rốt lại sẽ tin cậy chúng, hiểu rõ chúng, giống như con cái hiểu rõ cha mẹ vậy.

Người chỉ cần tín giải cái "chân lý" của các thần thánh này, với tâm không thay đổi, sẽ có một lọai tịnh niệm tam muội định lực tương tục phát sanh; mà khi người dung nhập hoàn toàn rồi sẽ ở trong cái trí thể giác tỉnh mà chứng đức quả phật, từ nay về sau không còn thối

Page 19: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

đọa nữa.

"tên người mất" tôn quý, cùng đến với những hào quang trí tuệ bên trên lại có sáu đạo ánh sáng hư huyễn bất tịnh. Nếu hỏi "ánh sáng ấy thế nào?" thì kể: đến từ cõi trời là ánh sáng màu sáng mờ, đến từ cõi A Tu La thì ánh sáng màu lục mờ, đến từ cõi người là ánh sáng màu vàng mờ, đến từ cõi súc sanh là ánh sáng màu lam mờ, đến từ cõi ngạ quỹ là ánh sáng màu đỏ mờ, đến từ địa ngục là một loại sương mù ảm đạm. Sáu loại ánh sáng này cùng các đạo hào quang kể trên đồng thời chiếu rọi đến; khi đó người đừng nao núng cũng đừng đón mừng với bất cứ loại nào chỉ cần người giữ tâm ở cảnh giới vô niệm là được.

Giả sử nếu người đối với các đạo hào quang trí tuệ mà sợ hãi liền bị sáu đạo ánh sáng kia dắt dẫn khiến người nương đó mà đầu thai vào sáu đường, dầu là sanh vào đường nào cũng chỉ là chịu khổ luân hồi, chìm trôi trong biển sanh tử, chưa biết khi nào mới có thể thoát ra được. "tên người mất" tôn quý, nếu người chưa đạt được yếu quyết của vị thầy, hẳn là người sẽ sợ hãi các đạo hào quang trí tuệ cũng những hào quang của chư Phật mà bị dẫn vào dòng sanh tử luân hồi. Hãy nhớ rõ, đừng để xảy ra như vậy. Người nên hãy có lòng tin với hào quang sáng chói kia. Nên với tâm vững ý thành mà suy nghĩ không ngừng: "Ánh hào quang trí tuệ của Ngũ Phương Phật vì để nhiếp hộ ta mà chiếu đến, ta nên nương nơi đó mà cầu che chở."

Người không những đừng để sáu đạo ánh sáng huyễn ảo dụ đỗ mà còn thành tâm thành ý một lòng hướng về Ngũ Phương Phật Phụ, Phật Mẫu mà kính tin phát nguyện như sau:

Sinh tử thay nhau đều do ác nghiệp ngũ độc nương sanh,Lúc Tứ Trí Khế Hợp Quang sáng soi con đường mù tối:Xin nguyện Ngũ Phương Chứng Thắng Phật Phụ phía trước dẫn đường,Xin nguyện Ngũ Phương Thanh Tịnh Phật Mẫu phía sau che chở,Xin nguyện khiến con thóat khỏi sáu đạo ánh sáng bất tịnh,Xin nguyện khiến con an qua đường hiểm trung ấm đáng sợ,Xin nguyện khiến con an trụ Ngũ Phương Phật Thanh Tịnh Phật Độ.

Sau khi khấn nguyện như vậy rồi người theo đó mà chứng được ánh sáng nội tại của mình, mà hòa vào tự tánh của chính người rồi chứng quả phật: Chỉ cần thành tâm toàn ý tin nhận, cho dầu những người đi đường bình thường, đều nhân nơi liễu ngộ tự tánh mà được giải thóat; cho đến người thấp hèn nhất đều có thể nương nơi lực khẩn cầu thanh tịnh làm ngưng lại sáu đường tái sanh, mà tại nơi chân ý của Tứ Trí Khế Hợp mà ngộ bản tâm nhờ vào đạo lý chân không của ngài Kim Cang Tát Đỏa mà thành chánh giác.

Thông qua những sự hướng dẫn quán tưởng bên trên, nhờ vào đó mà đã có rất nhiều người được cứu giúp, qua đó mà liễu ngộ chân lý rồi được giải thoát.

Về phần những người do vì ác nghiệp sâu dày, không có tâm yêu thích chánh pháp, hay phạm những điều thệ nguyện, phá giới sẽ do nơi nghiệp huyễn dẫn dắt mà không thể chứng nhập, dầu đứng trước chân lý nhưng không thể nương vào đó mà nắm được điều thiết yếu, lầm lẫn chánh đạo mà bị đọa lạc.

7. Tuần đầu, ngày thứ bảy

Page 20: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Đến ngày thứ bảy này có các vị thuộc Trì Minh Bộ theo trước các vị của Thánh Lạc Độ để tiếp cận. Đồng thời, do vô minh ngu si cảm thọ nên cảnh súc sanh cũng đến mà dụ dẫn. Phương pháp quán lúc này, cũng kêu tên người chết mà nói:

"tên người mất" tôn quý, một lòng chăm chú nghe. Cho đến ngày thứ bảy này theo những tập khí mà hóa hiện ra một loại ánh sáng màu sắc lẫn lộn chiếu rọi đến. Đồng thời cũng có các vị Bổn Tôn của Trì Minh Bộ và các vị thần của Thánh Lạc Độ đến đây để tiếp độ.

Có Vô Lượng Trì Minh Liên Hoa Vũ Chủ Tôn, chính là do nghiệp quả thành thục mà thành vị Trì Minh Chủ Tôn này, thân phóng ra hào quang năm màu, tay cầm bảo đao hình mặt trăng khuyết cùng với một sọ người đầy máu, tay phải giơ cao kiết ấn hàng phục, nương nơi ánh sáng cầu vòng tay ôm vị thiên nữ mà đến, ở nơi giữa cầu vòng ở nơi trung ương Đại Mãn Tướng (hay Mạn Đà La), trên đường múa nhảy đến trước người phóng quang chiếu rọi.

Lại có thánh tôn tên Địa Cư Trì Minh thân màu trắng, mặt mang nụ cười rạng rỡ, tay cầm bảo đao hình trăng khuyết cùng với sọ người đầy máu, tay phải giơ cao kiết ấn hàng phục, có Đạt Kiết Ni Thiên Nữ màu trắng ôm chặt, ở nơi phía đông của Mạn Đà La, trên đường múa nhảy đến trước người phóng quang chiếu rọi.

Lại có thánh tôn tên Chưởng Thọ Uy Quyền thân màu vàng, mặt mang nụ cười rạng rỡ, tay cầm bảo đao hình trăng khuyết cùng với sọ người đầy máu, tay phải giơ cao kiết ấn hàng phục, có Hư Không Hành Thiên Nữ màu vàng ôm chặt, ở nơi phía nam của Mạn Đà La, trên đường múa nhảy đến trước người phóng quang chiếu rọi.

Lại có thánh tôn tên Đại Thủ Ấn Trì Minh thân màu đỏ, mặt mang nụ cười rạng rỡ, tay cầm bảo đao hình trăng khuyết cùng với sọ người đầy máu, tay phải giơ cao kiết ấn hàng phục, có Không Hành Thiên Nữ màu đỏ ôm chặt, ở nơi phía tây của Mạn Đà La, trên đường múa nhảy đến trước người phóng quang chiếu rọi.

Lại có thánh tôn tên Tự Ngã Thành Tựu Trì Minh thân màu lục, mặt mang nụ cười rạng rỡ, tay cầm bảo đao hình trăng khuyết cùng với sọ người đầy máu, tay phải giơ cao kiết ấn hàng phục, có Không Hành Thiên Nữ màu lục ôm chặt, ở nơi phía bắc của Mạn Đà La, trên đường múa nhảy đến trước người phóng quang chiếu rọi.

Chính nơi vòng ngoài Mạn Đà La này chung quanh năm vị Đại Trì Minh nói trên lại có vô lượng vô số các Không Hành Thiên Nữ vây quanh -- các Không Hành Nữ ở Bát Đại Trà Tỳ Trường, bốn chủng loại lớn hoặc bốn giai tầng Không Hành Nữ, những vị Không Hành Nữ ở ngoài Tam Đại, những vị Không Hành Nữ ở nơi ba mươi thánh địa và ở nơi hai mươi bốn nơi bên ngoài chỗ lễ lạy -- lại có vô lượng vô số đại lực sĩ nam nữ, các binh tướng cõi trời, cùng với những vị thần hộ pháp nam nữ, tất cả đều đeo sáu loại trang sức bằng xương, mang cầm trống lớn, kèn lệnh bằng xương đùi, trống nhỏ bằng xương sọ, cờ da la sát, lộng bằng da người, cờ nhỏ da người, hương cao mở người, cùng với vô số lượng những loại nhạc khí, cùng hòa hợp tấu lên, với âm thanh có thể làm cho tòan bộ vũ trụ chấn động kịch liệt, làm người hư tai bể đầu, mà tùy theo từng loại giai điệu múa vũ, -- một đường thẳng đến để đón người có chánh tín cùng trừng phạt những người thiếu chánh tín.

"tên người mất" tôn quý, có tập khí tịnh hóa mà thành Câu Sanh Trí Quang, do nơi tâm của

Page 21: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

năm vị Trì Minh Chủ Tôn phóng ra hướng về tâm người phóng tới, ánh sáng đó năm màu, lóe lên rung động, như những sợi tơ màu trong suốt mà lại sáng chói, khiến người kính sợ, mà mạnh đến nỗi mắt người khó có thể chịu đựng được.

Lại có một loại ánh sáng màu lam khác đến từ cõi súc sanh, cùng vào lúc với Câu Sanh Trí Quang xuất hiện mà chiếu ra. Lúc nay do vì nghiệp thức hư vọng sai khiến, người đối với hào quang trí tuệ năm màu có cảm giác sợ hãi mà muốn trốn đi, nhưng lại đối với ánh sáng mù mờ của súc sanh lại vui thích mà hướng đến. Trong lúc này người không nên có sự sợ hãi đối với hào quang năm sắc mà còn phải biết rõ đó chính là ánh sáng trí tuệ của chính người.

Nương theo trong hào quang năm sắc này lại có âm thanh của thật tướng, như tiếng sấm sét của thiên lôi đồng phát ra đập núi lật biển nổ ra, làm cho toàn bộ vũ trụ đều chấn động không ngừng, mà ở trong tiếng nổ đó lại còn có tiếng dễ sợ "Giết Ah! Giết Ah!", xen lẫn cùng với âm thanh mật chú khiến người phát sợ. Đừng có khinh hoảng, không nên sợ hãi, không nên trốn chạy. Phải biết những thứ âm thanh này chỉ là công năng của trí tánh quang minh trong chính người phát ra.

Không nên nhút nhát, không nên tự khinh mình, không nên để ánh sáng màu lam mờ của cõi súc sanh dẫn dụ. Một khi người bị dẫn đi thì lập tức rơi vào cảnh giới súc sanh, do vô minh ngu si kềm hãm, chịu đủ khổ nô dịch cùng trải qua rất nhiều số kiếp rất khó cơ hội mà thóat ra được. Nghìn vạn lần đừng để nó hấp dẫn. Người nên theo ánh sáng năm màu chói lọi mà tòan tâm tòan ý hướng đến vị Trì Minh thánh tôn này, hãy phát tâm cầu xin như vầy: "Chư vị Trì Minh Thánh Tôn, các vị anh hùng mạnh mẽ, các vị Không Hành Nữ, đặc biệt theo các vị thánh tôn của Thánh Lạc Độ đến đây tiếp dẫn con, mà con vẫn không thể được cứu độ! Con ngu dốt như vậy, thật đáng buồn thay! Xin nguyện chư vị Trì Minh đừng để con bị đọa xuống, lại vì thương xót mà tiếp dẫn con, mang cong về cõi tịnh độ an vui".

Cầu như trên rồi, lại phát nguyện như sau:

Trì Minh chư tôn xin đóai thương nghe con mà cứu thoát,Thỉnh bậc Đại Bi thương con đem đến chánh đạo bồ đề;Nay con vì nghiệp thức hư vọng mà lạc vào luân hồi,Tưởng con mang đến Quang Minh Hoảng Diệu Câu Sanh Trí Đạo.Xin nguyện các vị Dõng Kiện Trì Minh dẫn đường phía trước,Xin nguyện Không Hành Thiên Mẫu Phật Mẫu che chở phía sau;Xin nguyện khiến con an qua đường hiểm trung ấm đáng sợ,Xin nguyện khiến con an trụ Thanh Tịnh Cực Lạc Phật Độ.

Sau khi thành tâm thành ý mà tín thành phát nguyện như trên người nhất định có thể nơi cầu vòng ánh sáng mà nhập vào các vị Trì Minh mà vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Vốn có tất cả các giai cấp ở giai đoạn này mà chứng đắc giải thoát; dầu là người mang nhiều nghiệp thâm trọng cũng có thể ở thời điểm này đến bờ giải thóat.

Đọc tụng đến đây, thì chấm dứt bộ phận liên quan đến sự quán tưởng "Thực Tướng Trung Ấm" thuộc chư tôn của Hỷ Lạc Bộ và quán tưởng bộ phận hào quang của "Lâm Mạng Chung Trung Ấm".

Page 22: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

(3.) Tuần thứ hai, từ ngày thứ tám đến ngày thứ mười bốn. Các Vị Bổn Tôn Phẫn Nộ hiện đến.

[lời dẫn]

Đến lượt nói đến hiện tượng về sự xuất hiện của các vị Bổn Tôn Phẫn Nộ ở bên dưới rồi. Phía trước đã nói về cảnh tượng trung ấm với sự xuất hiện của các vị Bổn Tôn Hỷ Lạc, kế lại nói đến bảy giai đoạn nguy hiểm, tại mỗi một giai đoạn đều có phương pháp thiết yếu để quán tưởng, đều có thể khiến người mất do đó mà chứng bản tâm để được giải thóat.

Số người chứng thật tướng mà được giải thoát có rất đông, nhưng dầu nhiều người nhờ vào pháp môn này được giải thóat cũng có nhiều người do ác nghiệp sâu nặng, vô minh bền chắc, huân tập các chủng tử lâu ngày làm cho bánh xe ngu vọng không ngừng quay, mà cũng không mau mắn, mà còn cứ theo lẽ thường tình chúng sanh đắm vào hữu tình. Nay đây mặc dầu theo đúng phương pháp khiến cho quán tưởng nhưng còn có vô số lượng người do thọ ác nghiệp khiến cho chưa giải thoát được mà lạc vào các cõi dưới.

Do việc như vậy, từ đây về sau những vị bổn tôn của Bộ Hỷ Lạc và Bộ Trì Minh sẽ không xuất hiện nữa để tiếp dẫn, sẽ có năm mươi tám vị Nộ Bổn Tôn thân ở trong vòng khói lửa uống máu hiện ra mà tiếp triệu. Các vị Bổn Tôn Phẫn Nộ này cũng không phải ai khác, chỉ là những vị Bổn Tôn của Hỷ Lạc Bộ nói trên tùy nơi mà thay đổi một hình dạng hiện ra, dầu vậy, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau.

Điều bên dưới diễn đạt là cảnh tượng trung ấm trong đó có các vị Bổn Tôn Phẫn Nộ hiện ra, nó liên quan đến các cảnh khinh khủng đáng sợ làm cho sự nhận thức của người chết càng thêm khó khăn mà quán tưởng. Chưa đạt được sự tâm thức tự chủ thì liền liên tiếp rơi vào trạng thái hôn mê. Thế nhưng người chết chỉ cần hơi có nhận biết thì ở giai đoạn này cũng được giải thóat cũng là điều không khó. Tại sao vậy? Bởi vì nơi đây phát sanh sự hiện diện của khủng bố, sợ hãi cùng với tâm kính sợ làm cho tâm trí đến lúc này có thể tập trung chuyên chú.

Cho đến lúc này nếu không nương theo sự hướng dẫn của phương thức này thì dầu có nghe kinh như biển rộng cũng không có tác dụng. Cho đến lúc này dầu là thần thức của những vị sư trụ trì (hoặc tỳ kheo) chuyên nghiêm trì giới luật cùng những vị sư bác học thường làm những bộ luận vi diệu cũng điều khó tránh khỏi bị rối ren, cho đến không kịp nhận thức đúng lúc để rồi lạc vào cảnh giới luân hồi sanh tử.

Cho đến giống như một người thế tục, thì cũng lại dễ bị trói buộc! Bởi bọn họ hơn phân nửa nhân vì kinh khủng, sợ hãi đến nỗi chạy trốn sảng lên, cho nên té xuống ghềnh cao vách đá mà rơi vào trong cõi ác thú chịu đủ thống khổ. Nhưng những hành giả đã từng quen thuộc với giáo lý bí mật thì trừ một số ít trong một số ít -- thấy những vị Bổn Tôn Uống Máu hiện ra liền nhận ra đó là những vị bảo hộ của chính mình, giống như ở nhân gian mà gặp lại những người bạn lâu ngày vậy. Họ không những có sự tin cậy với các ngài mà còn cùng các ngài hợp làm một do đó chứng quả phật.

Những vị hành giả mật thừa, nhờ khi còn sống đã từng tu tập nghi thức quán tưởng những vị Bổn Tôn Uống Máu, cùng đã từng lễ bái tán thán các ngài, ít ra, đã từng được chiêm ngưỡng họa tượng hay cốt tượng của các ngài, nay đây khi thấy các ngài xuất hiện ở giai

Page 23: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

đoạn này liền nhận chứng được mà vào giải thóat, đây chính là diệu dụng của pháp môn này.

Lại nữa, những vị trụ trì nghiêm giữ giới luật cùng với các vị sư bác học thường dạy các pháp nhiệm mầu, khi còn sống thì giảng dạy làm thế nào để tu tập tinh cần, giải thích khéo léo các giáo lý bất luận là khó cỡ nào (nếu chưa học qua loại "Trung Ấm Văn Giáo Đắc Độ Mật Pháp" này) thì sau khi hỏa táng rồi, không có các tướng cầu vòng xuất hiện, sau khi thiêu xong, cũng không tìm thấy chút xá lợi nào. Điều này do vì khi còn tại thế không hề có quan tâm mà tập học giáo lý bí mật nghi quỹ, mà còn ngang ngược miệt thị, lại chưa thọ lễ quán đảnh mà biết được những vị Bổn Tôn Mật Giáo này, cho nên đến trong cảnh giới trung ấm thấy mà không nhận biết được. Các ngài nếu đột nhiên thấy những hình tượng chưa bao giờ thấy này, rớt vào kinh hoàng, vả lại các ngài cũng tự nơi mình mang hại mà nghĩ rằng đó là kẻ địch; vì vậy các ngài ở đó mà phát khởi một ý nghĩ đối địch để rồi rơi vào hoàng cảnh bi thảm. Vì cớ sự như vậy mà những vị chuyên trì giới luật hay luận sư bác học nếu không có tu tập những pháp môn bí mật này thì sau khi hỏa táng không có cảnh tượng cầu vòng hay xá lợi xuất hiện là điều hiển nhiên.

Đối với hành giả mật thừa, ngọai trừ một số ít ngoại lệ -- như có thái độ thô lỗ, lười biếng giải đãi, khiếm khuyết thiện xảo, lời nói và hành động không hợp với những thệ nguyện, tập khí ác liệt, những người không có thể thật sự tu tập để đạt thành tựu -- chẳng những không nên khinh thị, không nên hoài nghi đối với mật pháp mình đang tu tập mà còn tăng sự kính trọng nữa. Bởi vì mỗi người chỉ có như thế thì mới có thể ở giai đoạn này mà được đến bờ giải thóat.

Những vị kính trọng mật pháp, mặc dầu lúc còn tại thế từng có nhiều hành vi không đúng đắn, sau khi chết rồi, tối thiểu cũng gặp được một cảnh lành, như là cầu vòng, cốt tướng cùng với xá lợi. Ích lợi này chính là cảm ứng vi diệu bất khả tư nghì của mật pháp.

Trên là nói về những vị tu tập mật thừa bình thường, thường từng nương theo pháp quán tưởng và trì tụng những loại tâm chú, sau khi chết đều không vướng mắc cho tới giai đoạn Thật Tướng Trung Ấm mà liền chứng đắc. Những vị như vậy, một khi ngừng thở, liền có những vị nam nữ kiện thần trong Hỷ Lạc Bộ tiếp dẫn về cảnh giới thanh thinh lạc độ. Ngay trong lúc đó, có thể có những điềm lành xuất hiện, ví như bầu trời trong sáng không mây, vong linh tan vào ánh sáng cầu vòng; mặt trời phóng ra muôn vạn tia sáng, mùi thơm lạ lùng nức mũi, nhạc trời văng vẳng trên không, tường quang bắn ra bốn phía; sau khi hỏa thiêu thu nhặt được xá lợi, cốt tướng vân vân.

Do vậy nên biết, bộ "Trung Ấm Đắc Độ" này đối với những vị tu giới, tu kinh, thậm chí đối với những vị đã từng phát thệ tu tập mật thừa, cũng như đại chúng phổ thông đều không thể không biết. Duy chỉ người đã tu trì mật pháp Đại Viên Mãn (Dzogchen) hay Đại Thủ Ấn (Maha Mudra) sau khi chết cũng không cần có người đọc tụng cứu độ mật pháp này, bởi vì những vị này có thể trong khi chết chứng nhập quang minh mà được thành tựu pháp thân. Đồng thời các vị ấy cũng có thể trong lúc chết do chứng nhập quang minh mà lúc ở tại trước cảnh giới thật tướng trung ấm chứng nhập hình tướng của các vị Bổn Tôn trong Hỷ Lạc Bộ mà đạt được sự thành tựu báo thân; lại các vị này trong lúc ở cảnh giới Nhập Thai Trung Ấm chứng nhập quang minh mà đạt được sự thành tựu hóa thân, muốn được tái sanh tốt đẹp, và ở đời sau liện gặp loại mật pháp này, hưởng được sự tương tục của các thiện báo.

Page 24: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Cái chức năng ở đây là phương pháp "Đắc Độ" mật này không cần phải nhờ vào thiền định mà chứng được quả Phật; chính là một loại pháp môn chỉ cần lắng nghe mà liền được giải thóat; chính là pháp môn mật thừa đại đạo mà có khả năng chuyển hóa ác nghiệp của chúng sanh; chính là một loại pháp môn mà gồm thâu những người khế hợp và không khế hợp với những quan điểm khác nhau: lại là một loại pháp môn có thể khiến người lập tức triệt ngộ. Những hữu tình chúng sanh mà gặp được pháp này, tức đều không đến đỗi bị đọa lạc vào trong những thú ác thê thảm.

Loại giáo pháp này như được kết hợp với pháp "Đáp Độ" thì sẽ hình thành một loại Mạn Đà La bằng vàng khảm ngọc, chắc chắn hiệu nghiệm tăng gấp nhiều lần.

Bên trên đã nói những đặc tính mà mật pháp cứu độ này không thể thiếu; Bên dưới sẽ hướng dẫn phương pháp quán tưởng những vị Bổn Tôn Phẫn Nộ uống máu trong cảnh giới trung ấm.

1. Thất thứ hai, ngày thứ tám

Giống như trước lại kêu tên người mất mà nói như vầy:

"Tên người mất" tôn quý, bởi vì người ở nơi cảnh giới trung ấm trước không thể chứng nhập cảnh giới các vị Bổn Tôn của Hỷ Lạc Bộ, nên vẫn phải quanh quẩn mãi đến nay. Nay đến ngày thứ tám, nhân có những vị Bổn Tôn Phẫn Nộ uống máu đến đây để phóng quang, người nên nhất tâm chứng nhập đừng để tán loạn.

"Tên người mất" tôn quý, hiện có đức Phật Đại Quang Vinh Hách Nộ Gia thân màu nâu sậm, ba mặt sáu tay, bốn chân đứng thẳng; mặt bên phải màu trắng, bên trái màu đỏ, ở giữa màu nâu sậm; toàn thân đều phát lửa hào quang; chín mắt mở to, trợn mắt nhìn trừng trừng; lông mi lóe ra như là tia sét; nhe răng lập lòe ánh sáng, cùng giao chéo nhau; trong miếng phát ra âm thanh lanh lãnh "Ah -- La -- La" và "Ha -- Ha" cùng với tiếng rít bén nhọn. Tóc ngài màu vàng đỏ dựng đứng trên đầu, phát sanh ánh lửa lập lòe; ngài đội trên đầu trang sức bằng nắp sọ của những tội nhân, cùng với biểu tượng của mặt trời và mặt trăng; trên thân quấn một con rắn đen có đeo chuỗi đầu người, mà làm vòng hoa; Bên phải cánh tay phía trên cầm bánh xe, tay ở giữa cầm kiếm, tay bên dưới cầm búa; Bên trái cánh tay phía trên cầm chuông, tay giữa cầm cái bát bằng xương sọ, tay dưới cầm cái cày; ngài ôm trong lòng vị Đại Lực Phẫn Nộ Phật Mẫu; tay phải của vị này ôm cổ ngài, tay trái cầm một cái vỏ sò màu đỏ đựng máu, để nơi khóe miệng của ngài, trong miệng thì phát ra âm thanh nhai nuốt ngấu nghiến, và trong cuốn họng thì phát ra tiếng ù ù như tiếng vọng của sấm; trên thân cả hai vị đều phát ánh lửa của trí tuệ, trong mỗi lỗ chân lông đều phát ra ngọn lửa nóng cháy sáng, trong mỗi một ngọn lửa đều sẵn sàng làm ra "Kim Cang Bảo Chử", hai vị này một chân co một chân duỗi thẳng, đứng sừng sững trên một tòa đàn đài do chim ưng có sừng nâng giữ; hai vị trong tư thế như vậy từ trong giữa biển não của chính người mà hiện ra, trở lại hướng về người phóng ánh sáng như thật. Không nên kinh hãi, không nên sợ sệt. Mà phải biết rằng đó là do từ trong chính trí tánh của người hiện ra. Bởi đó chính là vị Bổn Tôn bảo hộ của người, vì vậy đừng sợ, đừng khiếp, bởi trên thực tế đây là hai vị Phật Phụ và Phật Mẫu Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn. Người chỉ cần chứng nhập các ngài, hòa nhập vào trong đó, cùng họ hợp làm một, từ đó có thể được giải thóat chứng quả vị Phật.

Page 25: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

2. Thất thứ hai, ngày thứ chín

Mặc dầu đã làm như trên hướng dẫn, nhưng người chết quả như nơi tâm sanh sợ hãi mà chạy trốn, thì sẽ đến ngày thứ chín, có Bổn Tôn Phẫn Nộ của Kim Cang Bộ Ẩm Huyết hiện ra mà tiếp dẫn. Trong lúc này hãy dùng pháp quán tưởng, cần phải kêu tên người mất mà nói như sau:

"Tên người mất" tôn quý, một lòng lắng nghe. Có vị chủ bộ của Kim Cang Ẩm Huyết Bộ tên là Kim Cang Hách Nộ Gia Thế Tôn có thân màu xanh dương đậm, ba mặt sáu tay, bốn chân đứng thẳng; Bên phải tay trên cầm chày, tay giữa cầm cái bát sọ người, tay dưới cầm búa; Bên trái tay trên cầm chuông, tay giữa cầm bát sọ người, tay dưới cầm cái cày; có đức Kim Cang Khắc Lợi Mã Phật Mẫu ôm ngài; tay phải của vị này bá cổ của ngài, tay trái cầm một vỏ sò màu đỏ chứa máu cúng dường Phật; cả hai ngài đều từ nơi trong biển não phía đông của chính người mà đến, hướng về người phóng quang. Không nên kinh hoàng, không nên sợ hãi, không nên hoảng loạn. Nhưng nên biết là các ngài từ trong trí tánh của chính người biến hiện ra. Bởi vì đó là Bảo Hộ Bổn Tôn của chính người nên không cần phải sợ hãi. Thật tướng mà nói thì hai ngài chính là Phật Phụ và Phật Mẫu Kim Cang Tát Đoả Thế Tôn. Hãy tin nhận các ngài đi. Nếu người mà chứng nhập các ngài liền có thể được độ thoát. Người nên ở đây mà chứng nhập các ngài là Bảo Hộ Bổn Tôn của chính mình, hợp với các ngài làm một liền chứng được quả Phật.

3. Thất thứ hai, ngày thứ mười

Giả sử người chết có quá nhiều ác nghiệp hay chướng nạn quá lớn đến nỗi vì sợ hãi mà trốn chạy nên không chứng đắc được liền sẽ đến ngày thứ mười, thì sẽ có các vị Bổn Tôn từ Bảo Sanh Ẩm Huyết Bộ đến đây tiếp dẫn. Trong lúc này phải vì người mất mà hướng dẫn phương pháp quán tưởng, kêu tên và nói rõ như sau:

"Tên người mất" tôn quý, chăm chú lắng nghe! Chăm chú lắng nghe! nay đến ngày thứ mười có vị bộ chủ của Bảo Sanh Ẩm Huyết Bộ tên là Bảo Sanh Hách Nộ Gia Phật thân màu vàng, ba mặt sáu tay, bốn chân đứng thẳng; mặt bên phải màu trắng, bên trái màu đỏ, ở giữa màu vàng sẫm; ở giữa vòng lửa chói sáng; Bên phải cánh tay trên cầm bảo châu, tay giữa cầm xoa ba mũi, tay dưới cầm gậy; Bên trái cánh tay trên cầm chuông, tay giữa cầm bát sọ người, tay dưới gậy tam xoa; có Phật Mẫu Bảo Khắc Khạc Thiết Tú Lợi Mã ôm ngài, tay phải của vị này bám vào cổ ngài, tay trái cầm vỏ sò màu đỏ chứa đầy máu dâng cúng Phật; Hai vị này đều từ biển não phía nam của chính người mà hiện đến, lại hướng đến người mà phóng quang. Không nên sợ hãi, không nên kinh hoảng. Mà phải biết rằng hai vị này là ánh sáng trí tánh của chính người lưu hiện ra. Bởi vì hai vị này là bảo hộ bổn tôn của người nên không cần khiếp đảm. Thật tướng của các ngài chính là phật phụ và phật mẫu Bảo Sanh Phật Thế Tôn hai vị. Hãy tin nhận các vị đi! Một khi người chứng nhập các ngài, liền có thể được vào cảnh giới giải thoát.

Người nên như vậy mà chứng nhập các ngài, bởi các ngài là Bảo Hộ Bổn Tôn của chính người, hãy hoà nhập vào các ngài do đó mà liền chứng được phật quả.

4. Thất thứ hai, ngày thứ mười một.

Mặc dầu đã hướng dẫn quán tưởng như bên trên rồi, nhưng nếu người chết do tập khí dẫn

Page 26: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

dắt làm cho tâm sanh sợ hãi không thể chứng nhập mà hoảng loạn trốn chạy thì sẽ đến ngày thứ mười một, có các vị Bổn Tôn Uống Máu của Liên Hoa Bộ hiện đến mà tiếp dẫn. Trong lúc này hãy hướng dẫn phương pháp quán tưởng, nên kêu tên người mất mà nói như vầy:

"Tên người mất" tôn quý, nay là ngày thứ mười một, có bộ chủ của Ẩm Huyết Liên Hoa Bộ tên là Liên Hoa Hách Nộ Gia Thế Tôn thân màu đỏ sẫm, ba mặt sáu tay, bốn chân duỗi thẳng; mặt bên phải màu trắng, bên trái màu lam, ở giữa màu đỏ thẩm; Bên phải tay ở trên cầm hoa sen, tay giữa cầm kích ba mũi, tay dưới cầm gậy; Bên trái tay ở trên cầm chuông, tay giữa cầm bát sọ người đầy máu, tay dưới cầm trống; lại có Liên Hoa Khắc Lạc Thiết Tú Lợi Mã Phật Mẫu ôm ngài, tay phải của vị này bám vào cổ ngài, tay phải cầm vỏ sò màu đỏ đầy máu đưa đến bên miệng ngài; hai vị đối mặt nhau hoà hợp thành Phật Phụ và Phật Mẫu, đều từ nơi biển não phía tây của chính người xuất hiện đến rồi hướng người mà phóng quang. Không nên sợ hãi, không nên kinh hoảng. Hãy vui vẻ lên đi. Người nên biết các ngài là sản phẩm của chính trí tánh người; bởi vì chính họ à Bảo Hộ Bổn Tôn của người nên không cần phải sợ hãi. Thật tế hai vị này chính là Phật Phụ và Phật Mẫu A Di Đà Phật Thế Tôn hoá hiện ra. Hãy tin nhập các ngài đi. Một khi chứng nhập liền được giải thoát. Người nên nương đây mà chứng nhập các ngài, xác định các ngài chính là Bảo Hộ Bổn Tôn của chính người, cùng với các ngài hoà làm một thể, liền có thể chứng được quả vị phật.

5. Thất thứ hai, ngày thứ mười hai

Mặc dầu đã như sự hướng dẫn ở trên mà làm phép quán tưởng, vẫn xảy ra trường hợp bởi bị ác nghiệp liên lụy nên tâm người mất sinh ra sợ hãi, trốn tránh chạy hoảng loạn không có thể chứng nhập. Đến giờ là ngày thứ mười hai, các vị Bổn Tôn Ẩm Huyết của Yết Ma Bộ cùng với nữ thần Khải Lỵ Mã, Mang Quắc Mã và Uông Thu Mã đồng đến để tiếp dẫn. Rất có thể là người mất sẽ sanh tâm sợ hãi không thể chứng nhập được.

Trong lúc này hãy hướng dẫn phương pháp quán tưởng, kêu tên người mất mà nói như vầy:

"Tên người mất" tôn quý, ngày hôm nay là ngày thứ mười hai rồi, có bộ chủ của Ẩm Huyết Yết Ma Bộ tên là Yết Ma Hách Nộ Gia Phật thân màu lục sẫm, ba mặt sáu tay, bốn chân đứng thẳng; mặt bên phải màu trắng, bên trái màu đỏ, ở giữa màu lục sậm, tướng đứng mạnh mẽ trang nghiêm; Bên phải cánh tay ở trên cầm kiếm, tay giữa chĩa ba, tay dưới cầm gậy; Bên trái cánh tay trên cầm chuông, tay giữa cầm bát sọ người, tay dưới cầm cái cày; lại có Phật Mẫu Yết Ma Khắc Lạc Thiết Tú Lợi Mã ôm ngài; tay phải của vị này ôm chặt cổ ngài, tay trái cầm vỏ sò màu đỏ chứa đầy máu dâng hiến bên miệng ngài; Hai vị này kết làm một thể từ trong hãi não phía bắc của người hiện đến rồi hướng đến ngừơi mà phóng quang. Không nên sợ hãi, không nên kinh hoàng, không nên khiếp đảm, phải biết chính các vị là Bảo Hộ Bổn Tôn của người, nên người không cần phải sợ. Thật tướng của các ngài chính là do Phật Phụ và Phật Mẫu Bất Không Thành Tựu Như Lai Thế Tôn hoá hiện ra. Ngươi không những nên tin nhận mà nên với lòng khiêm hạ mến yêu các ngài. Một khi chứng nhập được sẽ được độ thoát. Người nên như vậy mà chứng biết, rõ biết các ngài chính là Bảo Hộ Bổn Tôn của người, một khi hoà nhập làm một với các ngài thì sẽ chứng đắc quả phật. Một người có thể đã nhận được sự hướng dẫn đặc biệt của vị thầy sẽ nhận ra được hình tướng các ngài phát sanh trong ý thức nhận biết cảu mình. Ví như có người bất chợt nhận ra một tấm da sư tử chỉ là một tấm da sư tử chứ không phải là con sư tử thật, liền không còn sợ hãi nữa; Mặc dầu nó chỉ là một món đồ để chưng bày, nhưng trừ khi người thật sự nhìn ra đó chỉ là tấm da thì người vẫn sanh tâm sợ hãi. Nếu có người khác vì người mà nói rõ đó chính

Page 27: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

là bộ da sư tử thôi thì người cũng sẽ không còn lo sợ nữa. Giống như vậy, hôm nay có một đoàn Bổn Tôn Ẩm Huyết thân thể to lớn không thể tưởng được lại tráng kiện vô cùng, chân tay đều đầy ngập hư không, khi thấy hình tượng như vậy hiện ra trước mắt người sẽ cảm thấy rất ư sợ hãi. Thế nhưng nếu người đã được nghe phương pháp quán tưởng, thì người sẽ biết rõ các ngài là Bảo Hộ Bổn Tôn của chính mình lại cũng từ trong ý thức của chính mình mà biến hiện ra. Nhờ đó mà khi người nhìn thấy các ngài thì cũng chứng nhập quang minh của phật; một thứ hào quang không gián đoạn liền do đó phóng ra, như mẹ con gặp nhau, lại giống như bạn thân gặp lại hoà nhập không tách rời được. Vì vậy ở nơi đó liền có hào quang của sự giải thoát tự ngã xuất hiện đến, mà kết quả tự ngộ tự chứng này chính là sự được độ.

6. Thất thứ hai, ngày thứ mười ba

Giả sử pháp này không thể chứng được, thì người thiện sĩ sẽ có thể từ nay về sau thối đoạ vào luân hồi, lưu lạc trong sanh tử. Khi đó liền có tám vị Bổn Tôn Phẫn Nộ là Khải Lỵ Mã và tám vị nữ thần ăn đầu thây thú với búi tóc màu mã não từ trong biển não của người mà sanh ra, đến phía trước mặt mà phóng quang. Trong lúc này nên theo pháp quán tưởng mà kêu tên người mất nói như vầy:

"Tên người mất" tôn quý, ngày hôm nay là ngày thứ mười ba rồi, nên có tám vị Khải Lỵ Mã từ trong biển não phía đông của người mà ra toả ánh sáng hướng về người mà chiếu. Người cũng không nên sợ hãi.

Vị Khải Lỵ Mã màu trắng đến từ biển não phía đông của người, tay phải cầm gậy thây người chết, tay trái cầm một bát sọ người đầy máu, đến trước mặt người mà phóng hào quang. Không nên sợ hãi.

Vị Tu Lỵ Mã màu vàng đến từ biển não phía nam của người cầm trong tay cung tên chuẩn bị bắn ra; vị Lạp Ma Cáp màu đỏ đến từ biển não phía tây của người cầm trong tay cờ hải sư; vị Bùi Đại Lệ màu đen đến từ biển não phía bắc của người tay cầm chày kim cang và bát sọ người đầy máu; vị Bồ Tạp Ti màu đỏ đến từ phương đông nam của biển não người tay phải ôm bụng tay trái ngậm trong miệng; vị Cát Ti Mã Lệ thân màu lục sẫm đến từ não bộ phương tay nam của người tay trái cầm bát sọ người đầy máu tay phải cầm chày mà khuấy cùng vui mừng uống; vị Hương Đa Lị thân màu vàng đậm đến từ não bộ phương tây bắc của người, kéo theo bên dưới một cái xác mà đến, tay phải cầm trái tim còn tay trái thì đưa thi thể vào miệng mà cắn xé; vị Thi Mã Hạ thân màu lam đậm đến từ biển não phía đông bắc của người, mang theo một cái xác ăn từ trên đầu ăn xuống. Đấy là tám vị Khải Lỵ Mã uống máu từ tám hướng tám nơi thuộc về năm bộ Bổn Tôn Ẩm Huyết đến trước người mà phóng quang chiếu rọi. Nhưng người không nên sợ hãi.

"Tên người mất" tôn quý, phía bên ngoài của những vị đó lại có tám vị khác với đầu tóc mã não từ trong tám khu vực trong não hải của người đến trước mặt mà phóng quang hướng về phía người: từ phía đông đến là vị đầu sư tử thân màu nâu sậm, hai tay đang chéo nhau phía trước trong miệng ngậm một xác chết ngậm chặt ở nơi đầu; từ phía nam tới là vị đầu hổ màu đỏ, hai tay vén bụng, giương mắt mở to nhe răng cả ra mà nhìn; từ phía tây tới là vị đầu chồn màu đen, tay phải cầm dao cạo, tay trái ôm bụng, vừa ăn vừa uống; từ phía bắc tới là vị đầu sói màu xanh dương đậm, hai tay vừa xé thây chết hai mắt lại mở to đảo quanh như đang tìm kiếm; từ phía đông nam tới là vị đầu chim ưng màu vàng sậm, trên vai mang một

Page 28: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

thây chết, trong tay cầm một bộ xương; từ phía tây nam tới, là vị đầu chim kênh kênh màu đỏ thẩm, trên vai cũng mang một thây chết; từ phía tây bắc tới là vị đầu chim quạ màu đen tay trái cầm bát sọ người tay phải cầm kiếm đang mổ tim và phổi; từ phía đông bắc đến là vị đầu chim cú màu lam sậm tay phải cầm chày, tay trái cầm bát sọ người vừa ăn vừa uống.

Những vị từ tám khu vực này cùng với những vị Bổn Tôn Uống Máu đầu tóc mã não đều từ trong biển não của người mà đến, hướng đến người mà phóng hào quang. Không nên sợ, mà phải biết rõ các vị đó đều là ý thức hình tượng của trí năng người làm ra.

7. Thất thứ hai, ngày thứ mười bốn

"Tên người mất" tôn quý, ngày hôm nay là ngày thứ mười bốn rồi, nên có bốn vị Thủ Vệ Nữ Thần từ trong biển não của người mà ra, toả ánh sáng hướng về người mà chiếu. Người hãy nhân cơ hội này mà chứng nhập nữa đi. Từ phía đông não hải của người đến phóng quang chiếu xạ là vị Trì Bổng Nữ Thần đầu hổ màu trắng, tay trái cầm một cái đầu lâu còn nhỏ máu; từ trong biển não phía nam của người đến là vị Trì Tác Nữ Thần đầu heo màu vàng; từ trong biển não phía tây của người đến là vị Trì Liên Nữ Thần đầu sư tử màu đỏ; từ trong biển não phía bắc của người đến là vị Trì Linh Nữ Thần đầu rắn màu lục. Bốn vị thủ vệ nữ thần này đều từ trong não hải của người hiện đến mà phóng quang chiếu về phía người; người nên mau nhận rõ các vị là Bảo Hộ Bổn Tôn của người.

"Tên người mất" tôn quý, lại có ba mươi vị Bổn Tôn Phẫn Nộ thuộc ngoại quyến của Hách Nộ Gia và có hai mươi tám vị đại lực nữ thần, mỗi vị đều tay cầm vũ khí, đều từ trong não hải của người mà hiện ra để đến đây phóng quang chiếu vào người. Không nên sợ hãi, nếu là tướng hào quang thì bất luận như thế nào cũng đều phải nhận biết rõ đó là bản năng trí tánh của chính người hoá hiện ra. Tại thời điểm trọng yếu này người hãy mau nhớ lại những lời hướng dẫn đặc biệt của đạo sư mà đem ra để đối trị.

"Tên người mất" tôn quý, từ trong biển não phía đông của người xuất hiện vị nữ la sát goá đầu trâu màu nâu sậm, trong tay cầm chày kim cang và sọ người; có vị nữ thần phạm thiên đầu rắn màu cam cầm trong tay một đóa hoa sen; có vị nữ thần vĩ đại đầu báo màu lục tay cầm kích ba chấu; có vị nữ thần tài phán đầu khỉ màu lam, tay cầm pháp luân; có vị nữ thần đồng trinh đầu gấu tuyết màu đỏ tay cầm mâu ngắn; có đế thích nữ thần đầu gấu trắng tay cầm một sợi dây dài; sáu vị này chính là từ não hải phía đông của người thuộc Bộ Du Chi Ni phía đông mà hiện ra, theo đó toả hào quang chiếu đến người, không nên sợ hãi.

"Tên người mất" tôn quý, từ nơi não hải phía nam của người xuất hiện vị nữ thần khoái lạc đầu dơi màu vàng trong tay cầm dao cạo; có vị nữ thần hỉ lạc đầu hải sư màu đỏ tay cầm một cái chum; có vị nữ thần cam lộ đầu hạt màu đỏ tay cầm hoa sen; có vị nữ thần ánh trăng đầu diều hâu màu trắng cầm trong tay một cái chày; có vị nữ thần chấp bổng đầu cáo màu lục nhạt tay khua một cây gậy ngắn; có vị nữ thần la sát đầu hổ màu vàng đen trong tay cầm một bát sọ người chứa đầy máu; sáu vị nữ thần bên trên đều từ trong biển não phía nam của chính người thuộc Bộ Du Chi Ni mà hiện ra, đều để đây để phóng hào quang chiếu đến người. Không cần sợ hãi.

"Tên người mất" tôn quý, từ trong biển não của người ở phía tây có vị thần nữ Lão Tham đầu chim đại bàng màu lục trong tay cầm gậy ngắn; có thần nữ Du Khoái đầu ngựa màu đỏ tay cầm một cái xác người; có vị nữ thần Đại Lực đầu chim ưng màu trắng cầm trong tay

Page 29: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

một cây gậy; có vị nữ thần La Sát đầu chó màu vàng cầm trong tay một chày và một cây đao, lấy đao mà khứa; có vị nữ thần Dục Vọng đầu chim đầu rìu màu đỏ tay cầm cung tên đang nhắm bắn; có vị nữ thần Khán Tài đầu nai màu lục tay cầm một cái chum; như vậy có sáu vị từ trong não hải của chính người ở phương tây thuộc Tây Bộ Du Chi Ni hiện đến hướng về phía người mà phóng hào quang; ngưỡi đừng nên sợ hãi.

"Tên người mất" tôn quý, từ trong biển não của chính người xuất hiện ra có vị thần nữ Ti Phong đầu sói màu lam trong tay ve vẩy một lá cờ tam giác hình đuôi én; có vị nữ thần Phụ Nhân đầu dê núi màu đỏ, cầm trong tay một cây dũa gỗ nhọn; có vị nữ thần Mẫu Trư đầu heo màu đen tay cầm một chuỗi răng nanh; có vị nữ thần Lôi Đình đầu quạ màu đỏ cầm trong tay xác chết của một em bé; có vị nữ thần Đại Tỵ đầu voi màu xanh lá cây đậm tay cầm một xác chết, tay khi thì cầm đầu lâu của xác mà uống máu; có vị nữ thần Thuỷ Trung đầu rắn màu lam cầm trong tay sợi dây đầu rắn; tất cả có sáu vị như vậy đều từ trong biển não của chính người phía bắc thuộc Bắc Bộ Du Chi Ni hiện đến phóng hào quang về phía người; người cũng nên đừng sợ hãi.

"Tên người mất" tôn quý, có bốn vị Thủ Môn Du Chi Ni từ trong não người hiện đến phóng quang về hướng người: đến từ phía đông có nữ thần bí mật đầu chim Quyên màu đen cầm trong tay một câu liêm; đến từ phía nam có nữ thần bí mật đầu dê màu vàng cầm trong tay một dây thòng lọng; đến từ phía tây có nữ thần bí mật đầu sư tử màu đỏ tay cầm dây xích sắt; đến từ phía bắc có nữ thần bí mật đầu rắn màu lục; bốn vị nữ thần Thủ Hộ Du Mân Ni như thế đều từ trong đầu chính người hiện ra phóng hào quang chiếu rọi đến người.

Do nơi hai mươi tám vị thần nữ đại lực này đều do nơi chính thần lực của Bảo Sanh Phật mà hoá hiện ra, và ngay cả sáu vị Hách Nộ Gia Thánh Tôn của ngài, người nên như vậy mà chứng biết các ngài.

"Tên người mất" tôn quý, những vị Bổn Tôn của Hỷ Lạc Bộ đều hiện ra từ trong Pháp Thân Không Tánh (không tánh của pháp thân) của chính người; những vị Bổn Tôn của Phẫn Nộ Bộ đều hiện ra từ trong Pháp Thân Quang Diễm (hào quang của pháp thân); người hãy nên do đây thấy các ngài như thật mà chứng biết.

Trong lúc này nơi năm mươi tám vị Bổn Tôn Ẩm Huyết này mà người có thể chứng biết thật sự họ chính từ trong não của chính người xuất hiện để phóng hào quang, họ chính là hào quang của chính trí tánh của người thì người có thể nhập vào thân của các vị Bổn Tôn Ẩm Huyết, cùng với các ngài hoà làm một mà chứng quả vị phật.

"Tên người mất" tôn quý, giả như người do sợ hãi mà chạy trốn các vị Bổn Tôn, đến độ không thể nhận biết để mà chứng nhập, người sẽ phải lại chịu sự ràng buộc của cái khổ luân hồi. Đối với các vị Bổn Tôn Ẩm Huyết sanh tâm sợ hãi đến nỗi khinh hoàng khiếp đảm mà quên đi quá khứ, đều do không rõ một điều: sự tưởng tượng hư vọng sở dĩ hình thành hình tướng đều do ý thức của một người, người đó rồi sẽ rơi vào luân hồi; một người như nếu không sanh tâm hãi sợ thì đã không bị lưu lạc vào sanh tử nữa rồi. Lại nữa những vị Bổn Tôn Hỷ Nộ đều có thân tướng rất lớn, lớn nhất thì lấp đầy cả hư không, trung bình thì cũng lớn bằng núi tu di, nhỏ nhất thì cũng lớn hơn người mười tám lần. Nhưng người không cần sợ hãi, không cần kinh hoảng. Cho dầu tất cả sum la vạn tượng đều hiện thành hình tướng của các vị Bổn Tôn mà đồng đến phóng quang, chỉ cần nơi những ánh lửa đó mà nhận biết là đều từ trong trí tánh của chính người mà hiện ra, khi đã chấp nhận như vậy rồi thì liền đó

Page 30: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

mà chứng nhập phật quả. Gọi là "trong khoảng sát na đốn chứng Viên Giác", chính là điều này đây. Chỉ cần không quên điểm này, liền do đây mà cùng với ánh hào quang và với ba thân hoà hợp làm một mà chứng phật đạo.

"Tên người mất" tôn quý, dầu người có nhìn thấy những cảnh tượng dễ sợ thế nào đi nữa cũng phải nhân nơi đó mà nhận biết đó chỉ là hình tượng từ trong ý thức của chính người hoá hiện ra.

"Tên người mất" tôn quý, nếu như người không thể chứng biết, thậm chí bị những lời nói doạ dẫm làm sợ hãi, thì rồi sao!, dầu có tất cả các vị Bổn Tôn của Hỷ Lạc Bộ đều dùng hình tướng của ngài Maha Kala (trời đại hắc) mà đến phóng hào quang, dầu có tất cả các vị Bổn Tôn của Phẫn Nộ Bộ cũng đều dùng hình tướng của Diêm La Pháp Vương mà đến phóng hào quang, đều là hình tướng từ ý thức của chính người hoá hiện ra, nếu sẽ trở thành tưởng tượng sai lệch hoặc là ma quỷ thì người cũng sẽ rơi lạc vào luân hồi.

"Tên người mất" tôn quý, một người nếu như không thể biết rõ về những hình tượng từ ý thức của mình, dầu có tinh thông hai bộ kinh tạng hiển mật, mà tu hành cả một kiếp thời gian cũng không thể chứng được phật quả. Một người nếu như nhận biết được hình tượng từ ý thức của chính mình, lo gì chỉ có một pháp môn này, cho đến một quyết tự, cũng chứng đắc được quả phật.

Một người nếu như không thể biết rõ tướng trạng của ý thức của chính mình, một khi chết đi, hình tướng của Diêm La Pháp Vương sẽ hiện đến trước mặt mà phóng hào quang, chiếu rọi thực tướng trung ấm. Diêm La Pháp Vương có rất nhiều thân tướng, lớn thì trùm khắp hư không, vừa thì bằng núi Tu Di, nhỏ thì cũng lớn bằng mười tám lần thân người, khi hiện đến thì đều tràn ngập thế giới. Khi các ngài đến thì nghiến răng nghiến lợi, ánh mắt sáng quắc, tóc buộc trên đỉnh đầu, eo nhỏ bụng lớn, tay cầm sổ ghi lại những việc làm của người mất, trong miệng không ngừng la hét kêu lớn "đánh! giết!", một mặt dùng lưỡi liếm óc, dùng miệng uống máu: các ngài đều như thế đi đến ngợp trời tràn đất.

"Tên người mất" tôn quý, khi mà hình tướng của ý thức xuất hiện dưới dạng như vậy, người có thể không cần sợ hãi, không cần kinh hoảng; bởi vì thân thể hiện tại của người chính là một loại thân do ý thức huân tập các nghiệp mà sinh ra, dầu có băm dầm chém chặt thế nào, cũng không thể chết được. Thật tình mà nói, cái thân thể này chính là thân của không tánh, vì vậy không gì phải sợ hãi. Thân của Diêm Quân cũng thế thôi, đều từ nơi ánh sáng trí tuệ của chính người biến hiện ra mà thành, đều không phải là thứ vật thể gì cả; lấy cái không hại cái không, việc này không thể có. Ngoài ra đều là do từ cái trí năng của chính người chiếu hiện ra bên ngoài mà thôi, dầu có tất cả Bổn Tôn của Hỷ Nộ Bộ, của Ẩm Huyết Bộ, những vị đầu thú, các loại hào quang cầu vòng, cho đến tất cả các hình tướng đáng nể của Diêm Quân, đều hiện cả ra trước thì cũng không phải là tự thể chân thật: đối với việc này hoàn toàn không nên nghi ngờ. Nếu có thể biết rõ như vậy, tất cả kinh khủng sợ hãi lập tức tự nhiên lui mất; đồng thời, như nếu có thể chứng nhập cảnh giới bất nhị, sự thành tựu phật đạo liền có thể thỏng tay mà thành. Người nếu có thể hiểu rõ chứng nhập được như vậy, phát tâm tin nhận đối với những vị Bảo Hộ Bổn Tôn, tin tưởng các ngài vì tiếp dẫn người mà hiện đến trong cảnh trung ấm hung hiểm và hãy nghớ những lời này trong tâm: "Ta nên ở nơi các ngài cầu được sự che chở". Rồi nhớ nghĩ đến Tam Bảo với tâm hỷ lạc và cung kính. Mặc kệ những vị Bổn Tôn trong cảnh trung ấm hung hiểm là ai mà một lòng nhớ niệm Tam Bảo đi. Sau đó người hãy xưng niệm thánh danh mà phát nguyện như sau:

Page 31: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

Con nay phiêu bạt cảnh trung ấm,Cầu nguyện mau mắn đến cứu con!Cầu ban ân từ cứu độ con,Thần Thánh Bảo Hộ các Thánh Tôn!

Tiếp theo, xưng danh hiệu vị bổn sư của chính người, rồi như sau mà khẩn nguyện:

Con nay phiêu bạt cảnh trung ấm,Cầu nguyện mau mắn đến cứu con!Cầu ban cứu độ chớ bỏ con,Bậc thầy kính quý, bậc bổn sư!

Tiếp theo, kính tín các vị thánh tôn của Ẩm Huyết Bộ mà phát lời khấn nguyện:

Sanh tử thay nhau đều do ác nghiệp huyễn vọng sanh ra,Con nay đạp bước trên đường sáng xả bỏ trừ sợ hãi,Xin nguyện chư Phật Hỷ Nộ chư Tôn dẫn đường phía trước,xin nguyện các bộ Phẫn Nộ Phật Mẫu che chở phía sau;Xin nguyện kiến con an qua đường trung ấm đáng sợ,Xin nguyện khiến con an trụ tất cả thành tựu phật độ!Nay con bỏ lìa bạn lành chí thân một mình phiêu bạt,Chỉ có ánh sáng phát ra từ chính không tướng ý thức,Xin nguyện chư Phật đại phát từ bi gia bị cho con,Khiến con trong cảnh trung ấm miễn khỏi khổ của sợ hãi!Nếu hào quang sáng chói của ngũ trí chiếu đến nơi này,Khiến con nhận rõ chứng biết miễn phải kinh hoàng sợ hãi!Nếu hào quang Hỷ Nộ Chư Tôn Thánh Thể chiếu rạng đây,Khiến con miễn khỏi sợ hãi mà chứng đắc nơi trung ấm!Nếu gặp lúc bị ác nghiệp dẫn đi mà thọ hành hình,Xin nguyện Bảo Hộ Bổn Tôn khiến con gặp dữ hoá lành!Nếu có tiếng pháp biến hiện sấm lớn đồng thời đánh mạnh,Xin nguyện những âm thành này biến thành Lục Tự Đại Minh!Hôm nay túc nghiệp không rời như hình với bóng liền nhau,Xin nguyện thánh tôn Đại Bi Thế Tôn cứu khổ cứu nạn!Nếu như các nghiệp đã tạo đồng đến cảm trên thân con,Xin nguyện hào quang đến trước con, chiếu sáng con an lạc!Xin nguyện ngũ đại đừng đến làm tăng sự thù địch trong con!Nguyện con được đến Phật Độ Ngũ Phương Đại Giác Thế Tôn!

Sau khi khấn nguyện ân cần như trên rồi, tất cả những sợ hãi kinh hoảng trước dầy đều tiêu tán mà chứng quả báo thân phật, quyết định không nghi ngờ: đây là pháp môn tối thắng. Người nên một lòng không loạn mà tụng như vậy từ ba đến bảy lần.

Dầu ác nghiệp có nặng cỡ nào, bất luận dư nghiệp (thiện nghiệp, vô ký nghiệp) nhỏ nhít thế nào, nếu có thể như pháp nhận rõ chứng biết mà không được độ, điều này không thể có. tuy nhiên, dầu ở giai đoạn cảnh giới trung ấm này mà làm tất cả những việc được hướng dẫn trong pháp môn này nhưng vẫn không thể đắc chứng được điều đã nói, thì lại có thêm một

Page 32: Phương Pháp Độ Vong của Tây Tạng.sachbaoluutru.viengiac.de/ThichHanhTan/TayTangDoVong/01_PhuongPhapDo... · lớn", chứng thẳng "pháp thân vô sanh" mà không cần

tầng nguy hiểm -- dây dưa tới kỳ cảnh hiểm trung ấm thứ ba, đó là cái gọi là "Đầu Thai Trung Ấm cảnh giới." Pháp môn để hành trì quán tưởng ở cảnh giới này sẽ được trình bày ở phần dưới.

(4.) Lời kết: nội dung căn bản quan trọng của pháp môn trung ấm.

Bất luận là ai, dầu đã tu tập bất kỳ pháp môn này -- bất luận tu rộng hay tu chuyên -- khi mà cái chết đến nơi, sẽ không tránh khỏi thấy được những huyễn cảnh dẫn dụ hiện đến; do đó có thể biết, bộ giáo pháp "Đắc Độ" này thật không thể bỏ qua được. Đối với những vị tu thiền nhẹ nhàng, một khi thần thức ra khỏi thân xác thịt, hào quang của chơn tánh liền hiện ra trước mắt. Những kinh nghiệm thế này tốt nhất là lúc còn tại thế nên đã đạt được: cần phải biết rõ chân tánh của bản thân lúc còn sinh thời, hoặc người từ đó mà đạt được những kinh nghiệm tương tợ, đợi đến khi minh quang của cảnh giới trung ấm hiện ra trong lúc chết sẽ giúp ích được rất nhiều.

Lại nữa, lúc còn sống thành tựu được các pháp tu quán của chơn ngôn bí mật cùng hành những pháp quán tưởng các Bổn Tôn, đến khi hình tượng của các vị Bổn Tôn của Hỷ Nộ Bộ hiện ra trong cảnh giới thật tướng trung ấm, liền sản sanh ra ảnh hưởng trọng đại. Lại nữa, lúc sống tu tập pháp môn quán trung ấm này vô cùng quan trọng, thế nên lãnh thọ, đọc tụng, suy nghĩ, ghi nhớ. Chánh thức đọc qua ba lần, rồi thì ghi nhớ những câu cú và ý nghĩa trong đó, dầu có bị trăm người đuổi giết cũng không quên mất.

Pháp này sở dĩ gọi là "Văn Tức Đắc Độ" (Nghe liền được độ) bởi vì dầu người đã từng phạm năm tội vào địa ngụ vô gián, một khi đã nghe lọt vào tai liền được giải thoát. Do việc như vậy, chúng ta cần nên ở giữa chúng mà đọc tụng, giải thích ý nghĩa. Sau khi đã nghe pháp một lần rồi, dầu không giải thích được ý nghĩa, cũng có thể khi ở trước cảnh giới trung ấm mà nhớ lại, cho đến một chữ không sót, việc này là do lúc người ở trong cảnh giới thân trung ấm, trí tánh trong sáng, hơn trước chín lần. Do việc như vậy, chúng ta cần nên ở bên tai của tất cả người sống mà đọc nó, nên tại đầu giường tất cả người bệnh mà đọc nó, nên tại bênh cạnh người chết mà đọc nó: Nói một cách ngắn gọn, chúng ta cần nên truyền bá pháp này rộng rãi ra.

Nếu người gặp được pháp này, đều nên cảm thấy may mắn; ngoài những vị đã tích tụ công đức sâu rộng thì những người khác cũng như những người đã làm nhiều tội chướng đều rất khó gặp được pháp này; cho dầu có gặp đi nữa, cũng khó mà lý giải. Chỉ cần nghe qua mà không nghi ngờ liền có thể được độ thoát. Vì vậy tôi luôn đặc biệt trân trọng pháp môn này: nó là tinh hoa của tất cả giáo nghĩa.

Phương pháp quán tưởng sự thể hội thực tướng trong cảnh giới trung ấm này gọi là "Văn Tức Đắc Độ, Bội Tức Giải Thoát." {{Kiền Biên}} đến đây là hết.