45
- 1- Quan điểm của C. Mác, PH. Ăngghen, V.I. Lênin về dân chủ và vận dụng quan điểm đó vào thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay : Luận văn ThS / Phạm Quang Tùng ; Nghd. : TS. Nguyễn Thúy Vân . - H. : ĐHKHXH & NV, 2006 . - 140 tr. + CDROM+tóm tắt 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong lịch sử loài người, dân chủ vừa là chế độ xã hội, một vấn đề chính trị mang bản chất giai cấp; đồng thời là một trong những giá trị xã hội mang tính phổ biến, tính nhân loại to lớn. Quá trình phát triển của lịch sử chính trị nhân loại theo xu hướng tiến bộ cũng chính là quá trình phát triển của các nền dân chủ. Xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về dân chủ và quyền con người càng trở thành đòi hỏi cấp bách. Trong thời đại ngày nay, thực hiện dân chủ là biện pháp quan trọng để các nước đang và chậm phát triển hội nhập và phát triển, nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Dân chủ là một trong những đảm bảo cho xã hội phát triển nhanh, giàu có hơn, phong phú và đa dạng hơn; vì thế, hạn chế hoặc chậm mở rộng dân chủ là kìm hãm sự phát triển.

Quan điểm của C. Mác, PH. Ăngghen, V.I. Lênin về dân chủ và vận …tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37886/1/... · 2012-06-04 · Thứ nhất, phân

  • Upload
    others

  • View
    11

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

- 1-

Quan điểm của C. Mác, PH. Ăngghen, V.I. Lênin về dân chủ và vận dụng quan điểm đó vào thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay : Luận văn ThS / Phạm Quang Tùng ; Nghd. : TS. Nguyễn Thúy Vân . - H. : ĐHKHXH & NV, 2006 . - 140 tr. + CDROM+tóm tắt

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong lịch sử loài người, dân chủ vừa là chế độ xã hội, một vấn đề chính trị mang bản chất giai cấp; đồng thời là một trong những giá trị xã hội mang tính phổ biến, tính nhân loại to lớn. Quá trình phát triển của lịch sử chính trị nhân loại theo xu hướng tiến bộ cũng chính là quá trình phát triển của các nền dân chủ. Xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về dân chủ và quyền con người càng trở thành đòi hỏi cấp bách.

Trong thời đại ngày nay, thực hiện dân chủ là biện pháp quan trọng để các nước đang và chậm phát triển hội nhập và phát triển, nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Dân chủ là một trong những đảm bảo cho xã hội phát triển nhanh, giàu có hơn, phong phú và đa dạng hơn; vì thế, hạn chế hoặc chậm mở rộng dân chủ là kìm hãm sự phát triển.

- 2-

Với các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, dân chủ là vấn đề quan trọng trong quá trình hình thành một quan niệm mới về CNXH. Trong bối cảnh hiện nay những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Việc nghiên cứu quan niệm của các ông về vấn đề dân chủ cho phép chúng ta hiểu sâu sắc hơn bản chất của dân chủ XHCN và qua đó, xác định các biện pháp hiện thực để đưa nó vào thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Trong những năm qua, việc thực hiện dân chủ ở nước ta đã có những bước tiến quan trọng. Nhờ biết xây dựng và phát huy dân chủ trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó lấy việc thực hiện dân chủ về kinh tế và ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất làm nền tảng, dân chủ chính trị làm trung tâm, kết hợp tốt và đảm bảo hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trên cơ sở giữ vững kỷ luật, kỷ cương và tôn trọng pháp luật... đã tạo cho đất nước những thay đổi cơ bản với những thế và lực mới.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay cũng đang diễn ra trong những bối cảnh rất phức tạp.

Một mặt, các thế lực thù địch luôn đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, hòng gây mất ổn định với mưu đồ bạo loạn, lật đổ... Vấn đề dân chủ, nhân quyền được họ coi là một bộ phận quan trọng của chiến lược đó, nhằm mục tiêu lật đổ chế độ XHCN và phá hoại độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia của ta. Dưới chiêu bài bảo vệ “dân chủ”, “nhân quyền”, họ tiến hành hoạt động phá hoại tư tưởng, tuyên truyền cho nền dân chủ tư sản và giá trị phương Tây. Họ đang tìm mọi cách khoét sâu những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót của ta trên con đường xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN, nhằm làm giảm niềm tin của nhân dân ta vào Đảng, vào chế độ.

- 3-

Mặt khác, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình thực hiện dân chủ, tình trạng thực hiện dân chủ và kỷ cương ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Bộ máy nhà nước cồng kềnh; hiệu quả quản lý, điều hành của nhà nước còn thấp, kỷ cương phép nước còn bị xem thường... Những hạn chế trên đã dẫn tới tình trạng ở nhiều nơi, quyền dân chủ của nhân dân bị vi phạm. Không khắc phục có hiệu quả những nhận thức phiến diện về vấn đề này, chúng ta không thể loại trừ tình trạng quan liêu của nhà nước làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền làm chủ của nhân dân.

Vì những lý do trên, việc khảo cứu những tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ là vấn đề quan trọng và cần thiết. Nó vừa cung cấp cho chúng ta một thế giới quan, phương pháp luận khoa học, đúng đắn nhằm chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề dân chủ, đồng thời cho ta những nhận thức đúng đắn nội dung của vấn đề dân chủ trong nhà nước kiểu mới, trên cơ sở đó vận dụng đúng đắn và sáng tạo những quan điểm này vào thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, khắc phục những hạn chế và yếu kém còn tồn tại. Vì thế, tôi chọn vấn đề “Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về dân chủ và vận dụng quan điểm đó vào thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Dân chủ hiện đang là vấn đề rất được quan tâm của giới nghiên cứu bởi tính lý luận và thực tiễn cấp bách của nó, nhất là trong quá trình thực thi dân chủ ở nước ta hiện nay. Có thể chia những nghiên cứu này theo hai mảng vấn đề chủ yếu sau đây:

- 4-

- Mảng nghiên cứu về tư tưởng của các nhà kinh điển Mác-Lênin về dân chủ: Có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Bàn về dân chủ trong quản lý xã hội” của Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý - Bộ tư pháp. Tác phẩm này bao gồm những đoạn trích trong các trước tác của V.I.Lênin về vấn đề dân chủ. “Tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ”, là kết quả đề tài nghiên cứu khoa học do khoa Triết học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì nghiên cứu và tổng kết, “CNXH và dân chủ qua việc C.Mác, Ph.Ăngghen phê phán quan điểm chính trị của chủ nghĩa cấp tiến tư sản Đức” của Trần Băng Thanh đăng trên Tạp chí Triết học số 2, tháng 4 năm 1999, “Quan điểm của V.I.Lênin về sự kết hợp tất yếu hữu cơ giữa dân chủ và CNXH” của Đặng Hữu Toàn đăng trên Tạp chí Triết học số 2, tháng 4 năm 2000, “Vấn đề dân chủ trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng của V.I.Lênin” của tác giả Lê Xuân Huy đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9 năm 2005…

- Về vấn đề thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Lý luận về dân chủ và thực hiện dân chủ hóa ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới” của Hoàng Chí Bảo, “Xây dựng nền dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền” của Đỗ Nguyên Phương và Trần Ngọc Đường, “Quy chế dân chủ ở cơ sở - Vấn đề lý luận và thực tiễn” của Vũ Văn Hiền, “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của Đỗ Trung Hiếu. Đề tài cấp Nhà nước như: Đề tài KX 05-05 “Cơ chế thực hiện dân chủ trong hệ thống chính trị ở nước ta”. “Mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ và sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước ta hiện nay” Luận án tiến sĩ của NCS Nguyễn Tiến Phồn; “Dân chủ hoá trong thời kỳ quá

- 5-

độ lên CNXH” của Hồ Tấn Sáng. “Biện chứng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam với phát huy dân chủ của nhân dân” của NCS Nguyễn Trọng Thóc..v.v.

Trong các công trình khoa học trên, các tác giả đã làm rõ nhiều vấn đề lý luận chung về dân chủ và dân chủ XHCN. Như: khái niệm dân chủ, một số nội dung trong quan điểm về dân chủ của các nhà triết học Mác-Lênin, những cơ sở kinh tế - xã hội của sự hình thành dân chủ, những nhu cầu và đòi hỏi về dân chủ của nhân dân, cũng như bản chất, đặc trưng và những chức năng cơ bản của dân chủ trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.

Tuy nhiên, còn ít công trình tìm hiểu một cách có hệ thống quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ cũng như việc vận dụng những quan điểm đó vào thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây là hướng nghiên cứu chính mà luận văn muốn đi sâu nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là trình bày một cách hệ thống và khái quát những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ và sự vận dụng những quan điểm đó vào thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.

Để đạt được mục đích đó, luận văn có những nhiệm vụ như sau:

Thứ nhất, phân tích những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ và ý nghĩa của những quan điểm này trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.

- 6-

Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay theo tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng của luận văn đó là những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về dân chủ và thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nước ta.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn chỉ nghiên cứu những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về dân chủ và đánh giá thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nước ta theo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trong giai đoạn từ đổi mới đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài là: lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, về dân chủ. Đồng thời luận văn kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan.

- Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ trên, tác giả vận dụng tổng hợp những phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó đặc biệt chú ý phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm thực tiễn trong việc đặt và giải quyết những vấn đề liên quan đến đề tài.

6. Đóng góp của luận văn

- Trình bày một cách có hệ thống và khái quát một số nội dung cơ bản trong quan niệm về dân chủ của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và chỉ ra việc vận dụng

- 7-

những tư tưởng đó vào việc thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay như thế nào.

- Nêu ra một số giải pháp mang tính định hướng nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn góp phần chứng minh tính đúng đắn của các quan điểm lý luận của các nhà kinh điển Mác- Lênin trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan với vấn đề lý luận có liên quan mật thiết đến quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Đó là vấn đề dân chủ.

- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề có liên quan trong các môn lý luận chính trị.

8. Kết cấu của luận văn

Phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và lôgíc nghiên cứu, luận văn gồm: Lời mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

CHƯƠNG 1 QUAN NIỆM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ

V.I.LÊNIN VỀ DÂN CHỦ 1.1. Những nội dung cơ bản trong quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ

Trong kho tàng lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, các ông đã giành một vị trí quan trọng cho những quan niệm về dân chủ. Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu những nội dung cơ bản trong quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ

1.1.1. Quyền làm chủ của nhân dân

- 8-

Nội dung cốt lõi của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân hay sự kiểm soát của nhân dân đối với toàn bộ quá trình ban hành và thực thi các quyết định chung của chính thể nhà nước. Tiền đề của nó không phải cái gì khác hơn là việc coi công dân là cơ sở, là nguồn gốc của mọi quyết định, của các thiết chế quản lý. Đây là điều vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng một cơ chế nhằm đảm bảo những lợi ích công dân. Nguyên tắc nền tảng của dân chủ là mọi công dân đều có quyền quyết định trong quá trình quản lý, điều hành xã hội của nhà nước, có quyền quyết định một cách gián tiếp hoặc trực tiếp đối với tất cả những vấn đề chung của xã hội; có quyền được hưởng những lợi ích từ những quyết định ấy hay việc hưởng thụ những quyền ấy phải là cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi công dân. Theo C. Mác, con người và sự tôn trong những quyền của con người là điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng để đánh giá một chế độ là dân chủ hay chuyên chế. Chỉ có trong chế độ dân chủ, con người mới là mục đích, là chủ thể của xã hội. Dân chủ không chỉ đem lại sự bình đẳng về mặt chính trị, mà còn đem lại cả sự bình đẳng về mặt xã hội. Đây cũng là điều mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định ngay từ thế kỷ XIX, khi các ông viết: “Yêu cầu bình đẳng không còn giới hạn trong những quyền chính trị nữa, mà đã mở rộng ra đến cả địa vị xã hội của mỗi cá nhân”

Quyền dân chủ thực chất là những yêu sách về sự bình đẳng chính trị và xã hội của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước, nhằm đảm bảo cho cá nhân có được khả năng hành động theo ý mình, tự quyết định và làm chủ ý chí của mình mà không làm hại đến người khác mà do đó, đem lại khả năng giải phóng toàn diện những năng lực, bản chất của mỗi cá nhân. Ph.Ăngghen

- 9-

khẳng định: “Từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách là một con người rút ra quyền có một giá trị ngang nhau về chính trị, xã hội cho tất cả mọi người, hay ít ra là cho mọi công dân trong một nước, hay cho mọi thành viên trong một xã hội” [52, 149]

Vào thời kỳ chuyển tiếp tư tưởng (1841 – 1844), C.Mác tìm hiểu dân chủ từ góc độ giá trị, xem nó như sự chiến thắng của lý trí trước cái phi lý, sự khẳng định của nhân tính trước cái phi nhân tính, sự khắc phục “tha hóa” chính trị, vốn là yếu tố bản chất dưới chế độ phong kiến. C.Mác ngay lúc ấy đã đưa ra tuyên bố chính trị của mình: một nền dân chủ thực sự phải gắn liền với sự nghiệp của nhân dân. Tuyên bố đó làm nổi bật sự khác biệt rõ ràng đầu tiên giữa C.Mác và phái Hêghen trẻ trong quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân và vĩ nhân trong lịch sử. Nếu phái Hegghen trẻ đổ lỗi thất bại của các cuộc cách mạng cho “sự tham gia không thành công” của “đám đông”, thì ngược lại, C.Mác và Ph.Ăngghen xem quần chúng nhân dân là lực lượng tích cực không thể thiếu trong các biến cố lớn lao của lịch sử. Ngay trong quá trình cách mạng tư sản sơ kỳ (ngụ ý cách mạng tư sản ở thế kỷ XVII – XVIII), sự tham gia của quần chúng nhân dân chính là sự đảm bảo thắng lợi của nó.

VI.Lênin đã phát triển và vận dụng sáng tạo có hiệu quả những tư tưởng về dân chủ, về chủ nghĩa nhân đạo mácxít vào thực tiễn cách mạng Nga. năng giải quyết thỏa đáng, triệt để về quyền làm chủ của nhân dân. Một trong những tiêu chí cơ bản nói lên mức độ cao hay thấp, nhiều hay ít của các nền dân chủ khác nhau, theo Lênin, là mức độ tham gia của quần chúng nhân dân lao động vào công việc của nhà nước, vào các hoạt động chung của xã hội. Trong ý nghĩa này, V.I.Lênin cho rằng: Phát

- 10-

triển dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là làm sao cho toàn thể quần chúng nhân dân lao động tham gia thật sự bình đẳng và thật sự rộng rãi vào mọi hoạt động của nhà nước. Bằng những hình thức dân chủ gián tiếp không ngừng được tăng cường, củng cố sẽ là điều kiện, động lực to lớn nhằm thúc đẩy sự nhanh chóng tiêu vong của nhà nước - cũng là trở lại những giá trị đích thực về chủ quyền cá nhân.

Quyền dân chủ trước hết là quyền con người, trong đó, quyền về chính trị như là khả năng và điều kiện tiên quyết để thực hiện đầy đủ các quyền con người cơ bản khác. Nói cách khác, quyền về chính trị (tự do bầu cử, ứng cử, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí…), một mặt, là tiền đề cho việc hiện thực hóa các quyền khác; mặt khác, là sự phản ánh về mức độ giải phóng “Năng lực bản chất người” của mỗi cá nhân. Về vấn đề này V.I.Lênin đã chỉ rõ “Yêu sách khẩn cấp nhất của công nhân và nhiệm vụ trước tiên để giai cấp công nhân có thể ảnh hưởng đến công việc của nhà nước là phải giành được tự do chính trị, nghĩa là: tất cả mọi công dân đều được pháp luật (hiến pháp) đảm bảo cho họ trực tiếp tham gia vào việc quản lý nhà nước, tất cả mọi công dân đều có quyền tự do hội họp, bàn bạc công việc của mình, kinh qua các hội của mình và báo chí mà ảnh hưởng đến công việc của nhà nước. Giành lấy tự do chính trị trở thành “một việc làm khẩn cấp đối với công nhân” bởi vì không có tự do chính trị thì công nhân không có và không thể có ảnh hưởng gì đến công việc của nhà nước được và như vậy thì tất nhiên họ vẫn cứ là một giai cấp không có quyền, bị lăng nhục và không được bày tỏ ý kiến của mình”

1.1.2. Bản chất giai cấp của vấn đề dân chủ

- 11-

Tính giai cấp của dân chủ được phản ánh trong các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề đặt ra là dân chủ cho giai cấp nào, tầng lớp nào, hạn chế dân chủ và chuyên chính với ai. Đó chính là cốt lõi của vấn đề dân chủ và C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp cận dân chủ dưới góc độ là một hình thức nhà nước gắn với một giai cấp cầm quyền nhất định.

Trong tác phẩm: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen C.Mác đã phê phán quan điểm của Hêghen về xã hội công dân và nhà nước. Theo C.Mác, dưới hình thức hợp lý mà ta có thể chấp nhận được, gia đình và xã hội công dân là những bộ phận của nhà nước. C.Mác đã chỉ ra cả cơ chế của sự tha hóa nhà nước đối với xã hội công dân, mà chế độ quân chủ “là biểu hiện hoàn chỉnh của sự tha hóa ấy”. C.Mác còn gọi đó là “chế độ dân chủ của sự không tự do, là sự tha hóa đến mức độ hoàn thiện”. Quá trình tha hóa diễn ra mạnh mẽ trong điều kiện của quân chủ chuyên chế, bằng con đường biến “các đẳng cấp chính trị thành các đẳng cấp xã hội”.

Từ chỗ không thừa nhận đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, không công nhận học thuyết về nhà nước và cách mạng XHCN của chủ nghĩa Mác, nên các học giả tư sản, đặc biệt là thái độ của những kẻ cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác đã quan niệm một cách sai lệch vấn đề nhà nước, biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước tư sản, của chế độ dân chủ tư sản mà Látxan là tiêu biểu. C.Mác đã vạch rõ thực chất tư tưởng cải lương, thỏa hiệp của phái Látxan, cho rằng đó là một cương lĩnh thiếu căn cứ, không thể áp dụng trong thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, bởi lẽ cái cương lĩnh mà Látxan đưa ra với những ý kiến như trên nó đã né tránh cuộc đấu tranh đang sục sôi ở các

- 12-

nước châu Âu thời đó. Cũng từ chỗ tránh né quan điểm đấu tranh giai cấp, coi nhà nước tư sản Phổ lúc bấy giờ là chế độ dân chủ tối cao, một kiểu nhà nước đứng trên xã hội, cho nên phái Látxan coi dân chủ như một sự nới lỏng, kiểu ban ơn của giai cấp tư sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chứ tuyệt nhiên không đả động gì đến việc phải đập tan cái bộ máy chính quyền áp bức, nhà nước tư sản ấy bằng cách nào.

Nếu theo quan niệm như phái Látxan trong cương lĩnh Gôta thì dân chủ chỉ được coi như những đồ “trang sức” và những lời khẩn cầu bởi sự chiếu cố của giai cấp tư sản với giai cấp công nhân. Như vậy, do không thấy rõ bản chất giai cấp của nhà nước, của chế độ dân chủ trong xã hội TBCN, phái Látxan và phái dân chủ tầm thường đã “coi chế độ cộng hòa là triều đại nghìn năm của Chúa và tuyệt nhiên không ngờ rằng chính dưới cái hình thức nhà nước cuối cùng này của xã hội tư sản” Theo C.Mác, so với chế độ phong kiến trước đó, dân chủ tư sản là một bước tiến quan trọng trong lịch sử. Tuy nhiên đó vẫn là nền dân chủ xây dựng trên sự tước đoạt tự do chính đáng của giai cấp khác, nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của giai cấp tư sản. Do đó, dân chủ tư sản không phải là mục đích mà loài người vươn tới. Dân chủ chỉ được thực hiện đầy đủ trong điều kiện của CNXH, mà thực chất đó là quyền tham gia ngày một rộng rãi và bình đẳng, thiết thực của nhân dân lao động vào công việc quản lý xã hội của nhà nước.

Cũng như C.Mác và Ph.Ăngghen, khi tiếp cận dân chủ dưới góc độ là một hình thức nhà nước gắn với một giai cấp cầm quyền nhất định, V.I.Lênin luôn nhấn mạnh tính giai cấp của dân chủ và phê phán quan điểm dân chủ “thuần túy”, dân chủ nói chung, ông nhắc nhở, đòi hỏi

- 13-

những người mácxít chân chính không bao giờ được quên mà không hỏi rằng, đó là dân chủ cho giai cấp nào.

Trên cơ sở phân tích sâc sắc luận điểm duy vật lịch sử trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta của C.Mác, V.I.Lênin khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa Mác mới đưa ra được lời đáp khoa học và đúng đắn cho câu hỏi thế nào là nhà nước, nguồn gốc và bản chất của nhà nước là gì, đồng thời dân chủ là một hình thức nhà nước và quyền lực thuộc về nhân dân phải được lý giải như thế nào cho xác thực.

Theo V.I.Lênin, chế độ dân chủ được coi như là một hình thức nhà nước đã mang bản chất giai cấp, vì thế không thể tách rời vấn đề nhà nước với vấn đề giai cấp. Do vậy, nhà nước dân chủ - một kiểu nhà nước tiến bộ hơn chế độ quân chủ chuyên chế - cũng có hai chức năng cơ bản là trấn áp lực lượng chống đối nó và quản lý xã hội.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác, vạch trần sự lừa bịp về bản chất phi giai cấp và tính phổ biến tuyệt đối của dân chủ tư sản, Lê-nin đã chỉ ra rằng, ngay ở giai đoạn phát triển nhất của dân chủ tư sản trong chế độ cộng hòa dân chủ, thì chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư sản và do đó, thực ra nó luôn chỉ là chế độ dân chủ đối với thiểu số mà thôi. Chế độ dân chủ ấy bị chi phối bởi nhà nước, các nhóm lợi ích và các phương tiện thông tin đại chúng. Trong khi ấy, nhà nước tư sản chỉ là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản đối với quảng đại quần chúng nhân dân; nó chỉ là thiết chế chính trị bảo vệ lợi ích của các nhà tư sản. Các lợi ích đó lại luôn bị chi phối bởi nhóm chóp bu chính trị.

- 14-

V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng: trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, chế độ dân chủ trong nhà nước tư sản đã chuyển sang một chế độ phản động chính trị. Thực tế hiện nay có hai hình thức dân chủ đối lập nhau là: dân chủ tư sản, là thứ dân chủ giả hiệu, bị cắt xén, và dân chủ vô sản. Dân chủ vô sản, dân chủ nhân dân, dân chủ XHCN là những khái niệm đồng nghĩa, phản ánh cùng một nội dung, cùng một bản chất. Đó là chế độ dân chủ của nhân dân do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi quốc gia, dân tộc và do nội dung của cuộc cách mạng ở những giai đoạn cụ thể mà vận dụng những tư tưởng trên cho phù hợp.

1.1.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ

Nguyên tắc tập trung dân chủ đã được C.Mác và Ph.Ăngghen vạch ra và thực hiện trong đồng minh những người cộng sản và sau đó trong Quốc tế I. Bởi lẽ theo các ông, đảng cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân có nhiệm vụ hết sức nặng nề, to lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng người lao động khỏi mọi hình thức áp bức bất công và xây dựng một xã hội mới, văn minh, có năng suất lao động cao hơn xã hội tư bản. Để làm tròn sứ mệnh là một bộ tham mưu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân thì trong quá trình xây dựng và phát triển, tập trung dân chủ là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.

Mục đích cao nhất và duy nhất của Đảng mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra là Đảng phải lãnh đạo “giành lấy dân chủ và phát triển nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên”. Đó là một sự nghiệp vĩ đại, là công việc khó khăn, là sứ mạng chính trị của Đảng, là lý do

- 15-

tồn tại cuả Đảng. Đảng chỉ có thể làm tròn sứ mạng ấy khi Đảng “là bộ phận tiên tiến nhất”, là tổ chức mạnh mẽ, chặt chẽ và có kỷ luật. Đảng phải biết xây dựng và bảo vệ mình theo những nguyên tắc thích ứng, hữu hiệu.

C.Mác chỉ ra mối quan hệ giữa Đại hội của từng cấp với ban chấp hành của các cấp ấy. Đại hội là cơ quan quyền lực của từng cấp. Ban chấp hành từng cấp do Đại hội cấp ấy bầu ra và là cơ quan chấp hành. Đại hội Liên đoàn là cơ quan quyền lực cao nhất có quyền lập pháp (điều lệ). Việc sửa đổi Điều lệ theo nguyên tắc đề nghị dân chủ từ dưới lên, cuối cùng do Đại hội quyết định. “Đại hội cũng thay mặt Đảng ra bản tuyên ngôn”. Trong hoạt động, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, bộ phận phải phục tùng toàn thể, Ban Chấp hành Trung ương phải phục tùng Đại hội.

Dân chủ vừa là điểm xuất phát vừa là đích đến, còn tập trung là để giải quyết các ý kiến khác nhau trong một xã hội dân chủ để bảo đảm dân chủ cho đa số. Giống như C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin rất quan tâm đến nguyên tắc tập trung dân chủ, chú trọng sự sáng tạo của các địa phương, tôn trọng tính phong phú, đa dạng của hoạt động thực tiễn và phê phán lối gò bó khô cứng từ trên ban xuống. V.I.Lênin nói rằng: Sự rập khuôn cứng nhắc và ý định gò theo một khuôn mẫu từ trên ban xuống không dính dáng gì đến nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự thống nhất trong những vấn đề cơ bản, căn bản chủ yếu chẳng những không làm tổn hại mà trái lại còn được đảm bảo bởi những chi tiết muôn hình vạn trạng của những đặc điểm của từng địa phương, bởi cách đề cập vấn đề, bởi các biện pháp thực hành, giám sát. Nguyên tắc tập trung dân chủ đã được V.I.Lênin phát triển sáng tạo phù

- 16-

hợp với những điều kiện lịch sử mới – phù hợp với thời đại cách mạng vô sản.

Tư tưởng về nguyên tắc tập trung dân chủ của V.I.Lênin là chế độ tổ chức và nguyên tắc tổ chức của Đảng. Hai mặt dân chủ và tập trung trong nguyên tắc tập trung dân chủ đều có nội dung xác định là những người lãnh đạo của Đảng đều phải được bầu ra và có thể bị bãi miễn, thay thế; tập trung thảo luận để xây dựng nghị quyết cho toàn Đảng; trước khi nghị quyết được thông qua phải tổ chức cho đảng viên thảo luận rộng rãi, cho đảng viên tự do phê bình trong Đảng, đảm bảo quyền bảo lưu ý kiến và quyền tự do bảo vệ ý kiến của phái thiểu số; xây dựng và kiện toàn chế độ giám sát trong Đảng; định kỳ triệu tập hội nghị công khai của cơ quan lãnh đạo Đảng.

Nguyên tắc tập trung dân chủ của V.I.Lênin là sự kết hợp hữu cơ hai mặt dân chủ và tập trung, là sự thống nhất của hai mặt đối lập đó. Hai mặt dân chủ và tập trung liên hệ, hòa nhập với nhau, mặt này là tiền đề và điều kiện cho mặt kia. Cả hai mặt cùng tạo thành một bộ phận không thể thiếu được của nguyên tắc tổ chức của chính đảng vô sản; dân chủ là cơ sở của tập trung mà tập trung lại là điều kiện bảo đảm dân chủ.

1.1.4. Sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và CNXH

Dân chủ là phạm trù phản ánh một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã hội khách quan. Nội dung cốt lõi của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Như đã phân tích ở trên chỉ có trong chế độ nhà nước dân chủ XHCN thì tự do, bình đẳng và quyền con người mới được tôn trọng, được ghi nhận bằng pháp luật, chính sách và được bảo đảm trong thực tiễn và quyền lực mới thực sự thuộc

- 17-

về nhân dân. Dân chủ và CNXH có mối quan hệ biện chứng. Trong đó dân chủ là phương thức để nhận biết bản chất của CNXH, còn CNXH là hình thức tồn tại cao của dân chủ chân chính.

Dân chủ là giá trị chung của nhân loại. Sự phát triển của dân chủ đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã hội loài người. Dân chủ tư sản tuy có những tiến bộ nhưng C.Mác không xem dân chủ tư sản là đỉnh cao, là nấc thang cuối cùng trong lịch sử xã hội, mà chuyên chính vô sản, nhà nước dân chủ kiểu mới sẽ thay thế nền dân chủ tư sản trong hiện thực.

Trong tác phẩm Ngày 18 tháng Sương mù của LuiBônapáctơ C.Mác phê phán trò chơi dân chủ như phương thức duy trì đặc quyền của tầng lớp thống trị. Bên cạnh đó lịch sử từng chứng kiến những nhà tư tưởng có thiên hướng dân chủ, nhưng lại không nhận thức đúng ngay chính khái niệm “nhà nước dân chủ” và sự thể hiện nó trong thực tiễn, mà Ph.M.Vônte và G.G.Rútxô là những trường hợp điển hình.

Chỉ có giành được dân chủ, giành được chính quyền giai cấp vô sản mới có điều kiện tiến hành cách mạng triệt để - xoá bỏ giai cấp tư sản, xoá bỏ mọi ách áp bức bóc lột, xoá bỏ giai cấp nói chung, xây dựng một xã hội mà trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Khi đưa ra quan điểm “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người” C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra sự khác biệt căn bản giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ XHCN.

Khi tiến hành luận chứng một cách duy vật cho đường lối cách mạng của mình và phân tích bản chất của tư sản Đức, C.Mác đã đi tới kết luận rằng giai cấp vô sản

- 18-

cần phải chống lại sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và bọn phản động phong kiến. Vì mục đích giành dân chủ, những người cộng sản, theo C.Mác, cần phải hợp nhất mọi lực lượng theo khuynh hướng dân chủ và trong cuộc đấu tranh vì dân chủ phải luôn có ý thức rằng đấu tranh vì các quyền công dân và các quyền tự do dân chủ khác chỉ là tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh tiếp theo của CNXH và những người cộng sản chính là các chiến sỹ tiên phong trên mặt trận đấu tranh vì dân chủ.

Từ kinh nghiệm của Công Xã Pari năm 1871, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra nội dung thực chất của chế độ dân chủ vô sản và xem đó như là hình thức chính trị linh hoạt đến cao độ. Khái niệm dân chủ đã được hai ông quan niệm như là một quyền lực xã hội, một chính quyền nhà nước, một thể chế chính trị mà nhờ đó giai cấp vô sản mới có thể sử dụng dân chủ như là một phương tiện để tiến hành sự nghiệp cải biến cách mạng, cải biến xã hội theo hướng nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Chỉ có giành được dân chủ, giành được chính quyền giai cấp vô sản mới có điều kiện tiến hành cách mạng triệt để - xoá bỏ giai cấp tư sản, xoá bỏ mọi ách áp bức bóc lột, xoá bỏ giai cấp nói chung, xây dựng một xã hội mà trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Trong thực tiễn xây dựng CNXH, V.I.Lênin đã kế thừa và vận dụng sáng tạo những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về CNXH, về dân chủ XHCN. Chính V.I.Lênin đã phân tích, làm rõ quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và CNXH.

Để CNXH thực sự là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân thì quá trình xây dựng nó phải được tiến hành bằng phương pháp dân chủ. Điều đó đã trở thành

- 19-

một tất yếu xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ và CNXH.

Có thể nói quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN, xây dựng XHCN luôn gắn liền, tất yếu với quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội. Chính mục đích, bản chất của CNXH, của dân chủ XHCN đã quy định tính chất quá trình này.

Trên cơ sở lý luận của V.I.Lênin ta thấy, dân chủ là một quá trình gắn liền với nhà nước. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, không thể có dân chủ thực sự. Chỉ có dưới chế độ XHCN nhân dân mới thực sự được hưởng quyền làm chủ của mình. Cùng với sự tiêu vong của nhà nước, sự đối kháng giai cấp vì dân chủ sẽ không còn nữa.

Kế thừa và phát triển những tư tưởng về dân chủ của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nghiên cứu và làm sáng tỏ con đường phát triển biện chứng của dân chủ trong lịch sử: “từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa” Đó chính là con đường “tiến hóa” của dân chủ, là phép biện chứng của dân chủ trong lịch sử.

Để có được đỉnh cao trong sự tiến bộ của dân chủ, V.I.Lênin cũng nhấn mạnh quan niệm về sự cần thiết, tất yếu phải kết hợp cuộc đấu tranh cho dân chủ, bản chất của dân chủ theo V.I.Lênin đó là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, với cuộc đấu tranh cho thắng lợi của CNXH. Ông đã khẳng định, chỉ có như vậy mới thúc đẩy sự chín muồi của những tiền đề khách quan và chủ quan cho thắng lợi cách mạng vô sản và sự ra đời của một nền dân chủ mới – dân chủ XHCN.

- 20-

1.2. Ý nghĩa những quan điểm dân chủ của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đối với việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay

Tư tưởng về dân chủ của là di sản vô giá cho các Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng tổ chức Đảng, xây dựng nền dân chủ vô sản và xây dựng CNXH. Các chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về vấn đề dân chủ là thế giới quan và phương pháp luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn xây dựng nền dân chủ XHCN và dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay. Từ sự phân tích các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ nêu trên, chúng ta có thể rút ra ý nghĩa sau:

- Dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp. Dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước gắn trực tiếp với một giai cấp cầm quyền nhất định dựa trên một quan hệ sản xuất thống trị nên dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, không bao giờ có thứ dân chủ thuần túy cho mọi giai cấp.

- Dân chủ XHCN là bước phát triển cao nhất trong sự phát triển của dân chủ. Dân chủ XHCN là thành quả của quá trình cách mạng XHCN và xây dựng CNXH, ở đó có sự kết tinh toàn bộ những giá trị dân chủ đã đạt được trong lịch sử và nảy sinh những tính quy định mới về chất, làm cho dân chủ trở thành một giá trị phổ biến thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Cuộc đấu tranh vì dân chủ và cuộc đấu tranh vì CNXH là hai giai đoạn có mối liên hệ không thể tách rời của một tiến trình thống nhất - tiến trình đưa cách mạng vô sản tới thắng lợi triệt để.

- Dân chủ là một phạm trù phản ánh một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã hội khách

- 21-

- Nguyên tắc tập trung dân chủ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở, là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh họat và hành động của Đảng.

Kết luận, Trong thời đại ngày nay, dân chủ trở thành một trong những giá trị cao cả nhất, đồng thời là một đòi hỏi nội tại của bản thân đời sống kinh tế - xã hội trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ đang xã hội hóa cao độ lực lượng sản xuất và các giá trị tinh thần. Đảng ta đã nhận thức nhất quán tầm quan trọng của phát huy dân chủ để xây dựng xã hội mới, coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Chúng ta nhận thức rõ rằng, ngày nay, dân chủ vẫn luôn luôn là yêu cầu nóng bỏng của đời sống nhân loại tiến bộ, là lợi ích và nguyện vọng sâu sắc của nhân dân lao động toàn thế giới, và cũng là lợi ích và nguyện vọng cơ bản của nhân dân lao động cùng dân tộc Việt Nam ta.

Nhờ được trang bị chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đưa ra được những quyết sách chính trị đúng cho quá trình đổi mới. Chính đó là cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân; phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN.

CHƯƠNG 2 THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN,

V.I.LÊNIN: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay

- 22-

Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của dân, đặt mình dưới sự kiểm tra giám sát của nhân dân.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, chưa bao giờ người ta thành công khi đem áp dụng một mô hình dân chủ nào đó chung cho mọi quốc gia, bất chấp đặc điểm riêng của họ bởi vì dân chủ là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân loại, nó mang tính giai cấp và lịch sử cụ thể, vì thế không thể áp đặt nền dân chủ của xã hội này đối với xã hội khác. Với ý nghĩa đó, quá trình xây dựng nền dân chủ mới ở Việt Nam cũng cần phải tuân theo những đặc điểm riêng có ở nước ta. Đó là:

Một là, nền dân chủ vô sản biểu hiện tập trung trước hết là giai cấp vô sản phải lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, trở thành giai cấp thống trị; sử dụng chính quyền, mà cụ thể là bộ máy nhà nước, xây dựng một nền dân chủ mới, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Ở Việt Nam, đó là quá trình xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Hai là, quá trình xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam là quá trình đấu tranh, khẳng định và bảo vệ quyền lãnh đạo của Đảng CSVN, chống mọi quan điểm đa nguyên, đa đảng. Ở Việt Nam, quyền lãnh đạo của Đảng CSVN chính là cơ sở để bảo đảm sự thống nhất về mặt lợi ích giữa các tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự ổn định về mặt chính trị - xã hội. Nếu thiếu sự lãnh đạo của Đảng CSVN sẽ không tránh khỏi tình trạng tự do vô chính phủ và tất

- 23-

yếu sẽ dẫn đến rối loạn. Bảo vệ Đảng CSVN là đồng nghĩa với bảo vệ chế độ dân chủ.

Ba là, kết hợp đồng bộ giữa đổi mới và hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước ở trung ương và tăng cường thực thi dân chủ ở cơ sở.

Bốn là, quá trình thực thi dân chủ ở nước ta là quá trình gắn kết giữa nâng cao nhận thức về văn hóa dân chủ với cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, bè phái, cục bộ, thoái hóa, biến chất, xa rời quần chúng, tham nhũng và các loại tệ nạn đang cản trở quá trình xây dựng nền dân chủ. Ở Việt Nam quá trình thực hiện dân chủ chưa trải qua dân chủ tư sản.

Năm là, kết hợp giữa bảo đảm tính định hướng XHCN và nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần là nhân tố đòn bẩy của quá trình thực thi dân chủ trong kinh tế ở Việt Nam. Dân chủ về kinh tế chính là hạt nhân của dân chủ chính trị. Đến lượt nó, dân chủ về chính trị lại là hạt nhân và động lực của toàn bộ quá trình xây dựng nền dân chủ nói chung. Do đó bảo đảm dân chủ về kinh tế là bảo đảm trên thực tế quyền dân chủ.

Sáu là, thực hiện tốt chính sách kinh tế với chính sách xã hội – một động lực của dân chủ. Thực hiện tốt hai chính sách trên là nhân tố bảo đảm sự kết hợp hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế với bình đẳng và công bằng xã hội. Tuy nhiên phát triển xã hội mới là mục đích, kinh tế chỉ là phương tiện. Nhưng sẽ không có công bằng xã hội và dân chủ nếu không có tăng trưởng kinh tế và ngược lại, tuy nhiên công bằng và dân chủ phải tương thích với trình độ và năng lực hiện có của nền kinh tế. Quá trình thực hiện đồng bộ cả hai loại hình chính sách này sẽ là cơ sở thực hiện nền dân chủ ở nước ta hiện nay.

- 24-

Tuân theo những đặc điểm riêng có ở nước ta đã nêu trên, chúng ta có thể đánh giá khái quát thực trạng của việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay theo tư tưởng của các nhà triết học Mác-Lênin trên các nội dung cơ bản sau:

2.1.1. Về sự thống nhất giữa dân chủ và CNXH

Xuất phát từ quan điểm của V.I.Lênin: Không có chế độ dân chủ thì không thực hiện được CNXH, ở nước ta hiện nay nội dung của quá trình thực hiện dân chủ gắn liền, tất yếu với quá trình xây dựng CNXH.

Ở nước ta vấn đề nhà nước, dân chủ, giai cấp, nhân dân, dân tộc không mâu thuẫn nhau mà hòa quyện, thống nhất với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó cho phép nền dân chủ XHCN có khả năng khắc phục được những khuyết tật của những hình thức dân chủ đã từng tồn tại trước đây, mở ra triển vọng đổi mới nền chính trị XHCN, nền dân chủ XHCN.

Không thể có dân chủ vô bờ bến, không giới hạn nhưng cũng không thể chỉ thực hiện dân chủ hình thức. Cho nên mọi công dân, mọi tổ chức và không có ngoại lệ đều phải tuân thủ pháp luật và đều bình đằng trước pháp luật. Không thể có bình đẳng và tự do nếu mất dân chủ. Bởi vậy mà Đảng ta chủ trương bên cạnh việc cần phát huy dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân còn cần đồng thời chống mọi khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, mọi âm mưu lợi dụng dân chủ. Thực hiện dân chủ thực sự nhưng có nguyên tắc, có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước pháp quyền sẽ tạo điều kiện cho từng người và cho cả cộng đồng có thêm sức mạnh, có thêm động lực thúc đẩy sự hoạt động và sự sáng tạo trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

- 25-

Dân chủ và CNXH có mối quan hệ biện chứng. Trong đó dân chủ là phương thức để nhận biết bản chất của CNXH, còn CNXH là hình thức tồn tại cao của dân chủ chân chính. Chính vì vậy ở nước ta hiện nay, nội dung của quá trình thực hiện dân chủ gắn liền, tất yếu với quá trình xây dựng CNXH. Dân chủ XHCN được phát huy trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng.

Thực hiện dân chủ trong kinh tế là biểu hiện sinh động của quá trình dân chủ, phản ánh bản chất của xã hội và mục tiêu của Đảng cầm quyền.

- Dân chủ trong kinh tế trước hết là tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của các giai tầng trong xã hội.

Chính phủ đã tập trung cải cách thể chế và thủ tục hành chính, nhất là trong các lĩnh vực trực tiếp liên quan đến sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân. Các thủ tục và quy trình giải quyết công việc hành chính trong nhiều lĩnh vực như thành lập doanh nghiệp, nhà đất, thuế, hải quan, đầu tư, xuất - nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh đã được cải tiến. Chính phủ đã triển khai việc thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo và ban hành Nghị định về Quy chế dân chủ, công khai ở các loại cơ sở, tạo thêm cơ sở pháp lý cho việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân và tăng cường mối liên hệ giữa chính quyền với nhân dân, góp phần làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiểu đúng hơn về yêu cầu chung của dân chủ nhờ đó mà việc thực thi dân chủ trong những năm gần đây được tốt hơn.

- Mặt tiếp theo thể hiện dân chủ trong kinh tế đó là dân chủ trong tổ chức và quản lý sản xuất. Thực chất tổ chức và quản lý sản xuất đã bộc lộ ba yếu tố của nền móng dân chủ. Thứ nhất, khả năng lựa chọn các phương án tiến hành hoạt động kinh tế để đem lại hiệu quả cao

- 26-

nhất, tối ưu. Thứ hai, quản lý để có cơ sở xác định mức độ thu nhập bằng hiệu quả đạt được và năng lực thể hiện trong quá trình sản xuất. Thứ ba, nắm chắc khâu quản lý để kiểm soát trình độ tự giác của người lao động, từ đó có cơ sở điều chỉnh thu nhập thực tế, thực hiện phân công theo lao động. Trong hoạt động kinh tế chúng ta đã làm tốt công tác dân chủ trong quản lý, các công trình, dự án kinh tế đều được công khai cho mọi người biết, tổ chức đấu thầu để ai có đủ điều kiện đều được tham gia, công khai tài chính một cách minh bạch rõ ràng.

- Mặt cuối cùng của dân chủ trong kinh tế đó là phải phân phối sản phẩm lao động cho công bằng. Ở nước ta hiện nay, phân phối lao động được căn cứ vào sự đóng góp sức lao động của người sản xuất, căn cứ vào chất lượng lao động để làm thước đo phân phối kết quả sản xuất kinh doanh, hình thành thu nhập cá nhân cho người lao động. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Chính điều đó đã tạo ra sự công bằng trong phân phối sản phẩm lao động, thúc đẩy người lao động hăng say lao động làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.

Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng trong việc xây dựng Hiến pháp và các bộ luật, ở việc bầu cử dân chủ các cơ quan dân cử, ở chất lượng các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động điều hành của Chính phủ, hoạt động của Viện kiểm sát và toà án các cấp, cũng như tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật... Trên tinh thần dân chủ cùng thảo luận và biểu quyết công khai thật sự trên mọi diễn đàn và hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ.

- 27-

Dân chủ về tư tưởng – văn hóa, không chỉ giữ vững được định hướng XHCN, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và mọi âm mưu thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, mà còn bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu tinh hoa văn hóa tiên tiến của nhân loại. Đảng và Nhà nước ta đã tạo cho các tầng lớp nhân dân có quyền tự do hưởng thụ thành tựu văn hóa tiến bộ và tự do tư tưởng. Nhà nước bảo đảm cho công dân quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do sáng tạo, quyền thảo luận và biểu quyết những vấn đề quan trọng trong việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần xã hội...

2.1.2. Về việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở nước ta.

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là một nội dung quan trọng trong quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay. Để bảo đảm hiệu lực dân chủ của đa số, thì nền dân chủ đó phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Mọi hoạt động của Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ là một biểu hiện của nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực của đa số, ý chí của đa số. Như thế, dân chủ trong chế độ ta tự nó đã bao hàm kỷ luật, kỷ cương, phép nước, quyền lực của đa số, tự nó đã bác bỏ kiểu “dân chủ vô chính phủ”. Nền dân chủ ấy tất yếu gắn liền với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng CSVN, bảo đảm mục đích, lực lượng và phương pháp thực hiện dân chủ.

Không tách rời giữa dân chủ và tập trung, sự tác động qua lại giữa dân chủ và tập trung, sự cần thiết tất yếu của dân chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của Ðảng. Ở đâu có hoạt động của số đông, ở đó cần đến

- 28-

tổ chức, cần đến sự phân công, phối hợp, cần đến vai trò điều khiển, chỉ huy của người nhạc trưởng như Mác nói.

Đảng CSVN do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện theo học thuyết về đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác -Lênin, trong hoạt động của Đảng thì tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản và quan trọng nhất. Trước đây cũng như hiện nay, việc nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ luôn được Đảng ta quán triệt trong quá trình thực hiện.

Với tính cách là một nguyên tắc, tập trung dân chủ cần được cụ thể hóa thành các quy chế, quy định, kèm theo các chế tài cần thiết, càng cụ thể càng tốt để dễ thực hiện và kiểm tra. Trong những năm qua, chúng ta đã chú trọng xây dựng và hoàn thiện các quy chế: tạo điều kiện để đảng viên tìm hiểu sâu và tham gia nhiều hơn vào các công việc của Ðảng; quy chế về đại hội đại biểu (dân chủ đại diện) của Ðảng; quy trình, quy chế xây dựng và thông qua các quyết định; quan hệ công tác giữa bí thư, ban thường vụ và ban chấp hành đảng bộ ở từng cấp; quy chế về chế độ bầu cử trong Ðảng; chế độ thông báo tình hình, cung cấp thông tin nội bộ đảng; chế độ báo cáo; quy chế về bảo lưu ý kiến và xem xét ý kiến bảo lưu; v.v. Bản thân mỗi quy chế ấy đã quán triệt đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và Ðiều lệ Ðảng, bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ, được thảo luận rộng rãi trước khi ban hành.

2.1.3. Về quyền làm chủ của nhân dân.

Nội dung cốt lõi của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân hay sự kiểm soát của nhân dân đối với toàn bộ quá trình ban hành và thực thi các quyết định chung của chính thể nhà nước. Tiền đề của nó không phải cái gì khác hơn là việc coi công dân là cơ sở, là nguồn gốc của mọi quyết định, của các thiết chế quản lý. Quán triệt

- 29-

những tư tưởng về dân chủ XHCN của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm làm rõ những nhược điểm, thiếu sót trong xây dựng nhà nước và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong những năm qua và đề ra phương hướng nhiệm vụ trong giai đoạn mới: “Xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”

Bản chất nền dân chủ của chế độ ta chính là do nhân dân làm chủ. Ở nước ta “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.

Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin: Chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước, Đảng ta chủ trương dân chủ là dân chủ với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, và như Bác Hồ dạy bao nhiêu lợi ích và quyền hạn đều thuộc về nơi dân. Đảng ta xác định: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết

- 30-

hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Chúng ta thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhân dân là người quyết định mọi công việc và Nhà nước là của dân, do dân, vì dân

Có thể nói quá trình thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống chính trị, xã hội của nhân dân theo đường lối đổi mới của Đảng, dù còn có những điều chưa thực sự đáp ứng lòng mong muốn của nhân dân, nhưng những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đạt được qua 20 năm đổi mới đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta. Đó là điều không ai có thể phủ nhận được. Đạt được những thành tựu rất quan trọng trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, do Đảng và Nhà nước đã nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ trong điều kiện cụ thể của nước ta. Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành năng động của Chính phủ và sự cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đó còn là do tác động tích cực của những cơ chế, chính sách đã được ban hành.

Thứ hai, ngay từ những ngày đầu khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã xem quan liêu, xa rời quần chúng là một trong hai nguy cơ lớn của Đảng. Trước lúc “đi xa”, trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi” [69, 503]. Thấm nhuần sâu sắc những chỉ dẫn đó, Đảng ta đã luôn chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng trên cơ sở thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.

- 31-

Thứ ba, Quần chúng nhân dân luôn tin tưởng và đi theo con đường cách mạng của Đảng, họ không cam chịu đói nghèo và dù có gặp phải những khó khăn gian khổ nào, thì quần chúng nhân dân vẫn là chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Thứ tư, trong quá trình thực hiện dân chủ, Đảng luôn nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng đảng là then chốt; đồng thời chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị hướng vào phục vụ nhân dân. Nhờ đó mà phát huy được trí tuệ của toàn dân trong xây dựng và phát triển đất nước.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém, tiêu cực, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.

Một là, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay đang gặp phải những trở ngại từ phía Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ của nhân dân. Những trở ngại đó được bắt nguồn từ việc xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, dẫn đến xuất hiện xu hướng dân chủ XHCN như một tất yếu khách quan.

Hai là, một số tổ chức và cấp ủy đảng còn có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quan liêu, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, không chấp hành nghiêm nghị quyết, không thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình trong Ðảng.

Ba là, xuất phát từ quan niệm không đúng về mở rộng dân chủ và tôn trọng nhân quyền, trong đó có quyền tự do kinh doanh nên nhiều nơi, nhiều lúc đã xem nhẹ, hoặc buông lỏng sự quản lý của Nhà nước, nên dẫn đến

- 32-

vi phạm pháp luật mà vẫn không dám tiến hành kiểm tra, kiểm soát.

Bốn là, tính khả thi của một số văn bản pháp luật còn yếu nên pháp luật đã không đi vào được cuộc sống. Nhiều quy định của pháp luật được xây dựng trên mong muốn chủ quan, duy ý chí, tuy là với mục đích tốt đẹp nhưng không có tiền đề để thực hiện.

Năm là, việc tổ chức, chỉ đạo bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp còn có những khiếm khuyết rất nghiêm trọng. Tình trạng một người đi bầu thay cho cả nhà và hàng xóm 5-7 người, thậm chí cả chục người mà các tổ bầu cử vẫn cho qua, nếu không sẽ ảnh hưởng đến thành tích của cấp uỷ đảng và chính quyền cơ sở. Mặt khác, việc tổ chức tiếp dân, tiếp xúc cử tri còn có tính hình thức, ít hiệu quả thiết thực.

Sáu là, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nặng nề; hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ; thực hiện cải cách hành chính còn chậm trễ gây nhiều phiền hà cho nhân dân.

Bảy là, một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ của Ðảng, Nhà nước và các đoàn thể còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ cán bộ sa sút về phẩm chất chính trị, về đạo đức lối sống, lợi dụng chức quyền dẫn đến quan liêu, tham nhũng, sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Tám là, trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của quần chúng nhân dân trong những năm đổi mới, tuy đã được nâng lên một bước, nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện non yếu. Sự hiểu biết về các quy định của pháp luật, về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm công

- 33-

dân, nhìn chung còn chưa đầy đủ, còn cảm tính, xuôi chiều. Tình trạng coi thường pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, quy tắc sinh hoạt xã hội vẫn còn tiếp tục diễn ra.

Sở dĩ có những yếu kém, bất cập trên là do rất nhiều nguyên nhân. Có thể kể ra các nguyên nhân chính sau:

- Quá trình thực hiện dân chủ là cả một quá trình được duy trì lâu dài, thường xuyên, liên tục. Do vậy phải từng bước xây dựng, thực hiện, sơ kết, bổ sung để hoàn thiện. Việc này có liên quan tới nhiều chủ trương và văn bản pháp luật, nhiều việc cụ thể nảy sinh chưa thể hình dung khi triển khai chỉ đạo.

- Thực hiện Quy chế dân chủ trong điều kiện các chủ trương triển khai ở cơ sở khá nhiều, trình độ dân trí, điều kiện về cơ sở vật chất, thông tin, kinh phí còn nhiều bất cập. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn như : phát huy dân chủ và chế độ thủ trưởng của cơ quan; thực hiện công khai, dân chủ và cạnh tranh trong sản xuất kinh đoanh của cơ chế thị trường v.v... còn phải tiếp tực nghiên cứu, tổng kết. Sự chỉ đạo của hệ thống chính trị trong cơ quan, doanh nghiệp nhiều nơi chưa đồng bộ.

- Nhận thức trong chỉ đạo của các ngành, các cấp về ý nghĩa, tác dụng của dân chủ nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng chưa thật sâu sắc, đầy đủ..

- Sự phối hợp chỉ đạo của các ngành, các cấp chưa đồng bộ, cụ thể, rành mạch; chưa phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và ban thanh tra nhân dân. Quy chế phối hơp chỉ đạo của các ban, ngành, đoàn thể chưa thật cụ thể khi triển khai trách nhiệm và quyền hạn không rõ ràng; lúc có vướng mắc thì nhiều tổ chức cơ sở đều lúng túng.

- 34-

- Việc cụ thể hoá chủ trương của Trung ương Đảng và các nghị định của Chính phủ vào việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đòi hỏi nhiều công phu, qua nhiều bước. Các ngành và địa phương dựa vào quy chế ban hành phải cụ thể hoá thành quy chế, quy ước, hương ước cho từng đơn vị, cơ sở. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm, thiếu đồng bộ, làm cho cơ sở lúng túng.

- Thiếu hướng dẫn và rút kinh nghiệm cụ thể về chế độ tự quản ở tổ dân phố, khu đân cư, hoạt động của ban thanh tra nhân dân. Cơ chế giám sát của đân đối với các công trình đầu tu tại địa phương, chức trách cán bộ, công chức cơ sở còn bất cập.

- Năng lực về tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là ở thôn, áp, bản, tô dân phố, vẫn còn nhiều hạn chế. Quy chế dân chủ có liên quan tới nhiều quy định của Nhà nước. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ thôn chưa được đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu của chức năng, nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ còn có tư tưởng sợ nảy sinh phức tạp, thiếu mạnh dạn trong triển khai.

2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay

Để phát huy dân chủ của nhân dân, khắc phục và hạn chế tiêu cực, tiếp tục phấn đấu đạt những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

2.2.1. Hệ giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phát triển mọi mặt đời sống xã hội nhằm làm cơ sở nâng cao việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.

- 35-

Dân chủ hoá đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới. Nhưng chúng ta chưa tìm được những giải pháp tốt nhất để xác lập vững chắc quan điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, không đa nguyên về chính trị, không tổ chức quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, chưa tìm được những cơ chế và hình thức thực hiện dân chủ thích hợp với truyền thống văn hoá chính trị, với trình độ dân trí, trình độ văn hoá chung của nhân dân. Dân chủ trong Đảng, trong xã hội và ở cơ sở tuy đã được nhấn mạnh trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước, nhưng kết quả đạt được trên thực tế còn nhiều hạn chế. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Chưa có cơ chế để bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, vai trò giám sát thực hiện quyền kiểm tra của nhân dân đối với chính quyền và cán bộ, Đảng viên còn mờ nhạt

Vì vậy, vấn đề là làm thế nào để bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản - một đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo như ở nước ta hiện nay? Để làm được điều đó chúng ta phải thực hiện các công việc sau:

Một là, Đảng CSVN - bộ phận ưu tú nhất và có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng XHCN ở nước ta. Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối nền kinh tế-xã hội của đất nước. Để thực hiện vai tò to lớn đó, Đảng cần xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, thật sự vì lợi ích của dân, xứng đáng là Đảng cách mạng chân chính

Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, thực sự là của dân, do dân và vì dân.

- 36-

Để thực hiện được điều đó cần phải đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới cơ chế lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị; đồng thời cải cách bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật thể hiện đúng ý chí của dân. Dân chủ phải được đảm bảo bằng pháp luật, làm cho xã hội sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, xử lý nghiêm các hành vi phạm pháp. Dân chủ còn gắn với việc nâng cao dân trí, nâng cao văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, ý thức trách nhiệm của nhân dân cũng như văn hóa dân chủ và năng lực thực hành dân chủ…

Ba là, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhưng phải có sự lãnh đạo và bước đi vững chắc, phù hợp với trình độ dân trí và kinh tế, xã hội và văn hoá... thực hiện tốt dân chủ cơ sở. Thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra đối với mọi đường lối, chính sách, cũng như hoạt động của các cơ quan Đảng và chính quyền các cấp. Xây dựng hoàn thiện hệ thống tổ chức, kiểm tra các cấp và cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Khắc phục tình trạng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng sự lãnh đạo sẽ dẫn đến mất dân chủ.

Bốn là, cùng với yêu cầu tăng cường mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp, Nhà nước pháp quyền XHCN không hề coi nhẹ việc củng cố hoàn thiện, nâng cao chất lượng dân chủ đại biểu. Để thực hiện điều đó, Nhà nước pháp quyền XHCN cần phải hoàn thiện chế độ bầu cử để nhân dân có thể thực hiện đúng quyền của mình trong việc “chọn mặt gửi vàng” vào những đại biểu ưu tú nhất, vì dân nhất. Cho nên các đại biểu khi được dân bầu ra trở nên người có chức có quyền, càng phải phấn đấu tránh tệ

- 37-

quan liêu xa rời lợi ích của dân; hoặc vun vén cá nhân, mất dân chủ với dân, đi ngược lại lợi ích của dân, tự mình thủ tiêu tư cách đại biểu của dân, dẫn đến thủ tiêu quyền dân chủ gián tiếp của dân.

Năm là, muốn phát huy dân chủ phải phát huy đầy đủ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp…

Sáu là, phát huy dân chủ còn được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin đúng và kịp thời, có tổ chức, quản lý và lãnh đạo tốt sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra mọi công việc của Đảng và Nhà nước. Để làm được điều đó, Nhà nước pháp quyền XHCN phải tăng cường lãnh đạo, quản lý và nâng cao chất lượng thông tin đại chúng, luôn chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công tác thông tin.

2.2.2. Hệ giải pháp tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân nhằm nâng cao việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.

Trong CNXH, Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nền tảng của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước của dân, do dân và vì dân chính là Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Toàn bộ hoạt động của Nhà nước nhằm từng bước xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.

- 38-

Nhà nước pháp quyền XHCN “của dân” là một nhà nước luôn dựa trên nền tảng tư tưởng tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

Nhà nước pháp quyền XHCN “do dân” tức là mọi vấn đề trong xã hội phải do dân tự làm, tự thu xếp, tự giải quyết - “dân tự làm, dân tự lo, dân tự cứu mình”. Còn Nhà nước chỉ can thiệp khi có hiện tượng trái pháp luật.

Nhà nước pháp quyền XHCN “vì dân” là Nhà nước luôn lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu cho mọi hoạt động của mình, luôn bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích nhà nước, lợi ích bộ phận và lợi ích công dân. Các cơ quan chính quyền nhà nước các cấp, cũng như đội ngũ cán bộ phải hết lòng, hết sức làm việc cho dân. Nhà nước XHCN vì dân, tức là mọi qui định của pháp luật nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, không gây phiền hà cho dân, mục tiêu của bộ máy nhà nước là phục vụ nhân dân và bộ máy nhà nước không có đặc quyền đặc lợi. Để thực hiện được những mục đích đó, chúng ta phải giải quyết tốt những vấn đề trọng yếu sau đây:

Một là, đảm bảo mọi lợi ích và quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, phải kiên quyết đấu tranh chống lại các hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn và gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho nhà nước và nhân dân. Đó chính là tâm tư, nguyện vọng và cũng là đòi hỏi của nhân dân đối với nhà nước và thông qua nhà nước.

Hai là, giải quyết mối quan hệ công dân và nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản để xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân và nhà nước trong Nhà nước pháp

- 39-

quyền XHCN là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong đó nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người; nhà nước đề ra pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân được chống lại chính sự tùy tiện của nhà nước.

Ba là, xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với đường lối, chủ trương, chính sách, cũng như mọi công việc của Đảng và Nhà nước; đồng thời nhân dân “được hưởng” tất cả những thành tựu kinh tế, chính trị và văn hoá - xã hội của đất nước. Cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân được hưởng” được thể hiện thông qua đại diện là các cơ quan dân cử và các đoàn thể, là làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước làng xã, cũng như thiết chế dân chủ ở cơ sở phù hợp với luật pháp của Nhà nước. Qua đó để nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ của mình trong các mối quan hệ xã hội khác nhau dựa trên cơ sở của tinh thần pháp luật.

Bốn là, tăng cường xây dựng và củng cố quyền lực nhà nước. Thực chất của việc xây dựng, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước chính là giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực với pháp luật. Trong đó, pháp luật là cơ sở để duy trì quyền lực nhà nước, bản thân nhà nước vừa là công cụ tổ chức của giai cấp, lại vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội công khai. Vì vậy, nhà nước chỉ có thể biểu hiện ý chí phổ biến và quyền lực công khai của mình đối với xã hội, với mọi công dân thông qua pháp luật. Xây dựng quyền lực nhà nước là xây dựng một hệ thống pháp luật trên nền dân chủ thực sự, xuất phát từ nhân dân và vì nhân dân. Pháp luật phải định

- 40-

hướng mọi công dân và mọi tổ chức xã hội vươn tới cái chân, thiện, mỹ, vươn tới tự do đích thực của con người. Để đạt được mục tiêu đó, pháp luật phải khách quan, công bằng, bình đẳng và dân chủ, lấy quyền con người và giải phóng con người làm trung tâm để xây dựng quyền lực nhà nước.

2.2.3. Hệ giải pháp phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện quyền làm chủ của mình ở nước ta hiện nay

Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân đòi hỏi phải phát huy tối đa nội lực và do đó việc đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa đã trở thành một yêu cầu tất yếu. Quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội là quá trình nhận thức và hiện thực hóa dân chủ trên mọi lĩnh vực của xã hội. Đó cũng là quá trình tạo lập, xây dựng những tiền đề, khẳng định những nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa của chế độ dân chủ mà nội dung cơ bản của nó là quyền lực thuộc về nhân dân. Để quá trình dân chủ hóa theo định hướng XHCN được giữ vững, trước tiên chúng ta phải thực hiện dân chủ hóa trong đời sống kinh tế và tiếp theo là dân chủ hóa đời sống chính trị, tư tưởng… nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện quyền làm chủ của mình ở nước ta hiện nay. Để làm được điều đó chúng ta phải:

- Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế. Phải thực hiện dân chủ trong kinh tế. Dân chủ hóa phải gắn liền với sự phát triển kinh tế, dân chủ hóa để phát triển kinh tế. Để dân chủ hóa kinh tế có tính hiện thực chúng ta nên tập trung vào hai vấn đề cơ bản sau:

- 41-

Thứ nhất, phải quan tâm lợi ích của người lao động, trước hết là lợi ích vật chất.

Thứ hai, sản xuất phải đáp ứng nhu cầu tạo việc làm, nâng cao mức sống và thực hiện công bằng xã hội cho người lao động

- Để phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện quyền làm chủ của mình ở nước ta hiện nay chúng ta cần phải công khai, minh bạch thông tin trong một số lĩnh vực công. Ngày nay chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, người dân được quyền tự do kinh doanh tất cả những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Phương châm hành động là quy luật cung cầu, phản ánh qua giá và cạnh tranh theo luật pháp. Để đảm bảo sự vận hành tốt cho nền kinh tế này cần có sự cân bằng về thông tin giữa những bên tham gia. Cần cung cấp cho nhân dân những thông tin chân thật về đất nước và về thời cuộc, nghĩa là thực hiện quyền bình đẳng về thông tin, quyền dân chủ trong lĩnh vực thông tin. Từ lẽ đó, tính minh bạch và công khai được đưa lên như những nguyên tắc hàng đầu.

- Cần phải thiết lập một hệ thống thông tin đầy đủ trong đó quy định rõ ràng về quyền và trách nhiệm của người dân. Đây là một điều kiện vô cùng cần thiết để chống lại căn bệnh “nhũng nhiễu”, “làm phiền có mục đích” của các cơ quan công quyền đối với nhân dân. Ngoài ra còn cần những cơ quan chức năng làm công tác “Bao Công” giúp người dân có thể đảm bảo quyền công dân của mình như tạo một hệ thống thông tin hai chiều giữa lãnh đạo quản lý với người dân bằng cách công khai số điện thoại, địa chỉ email, thông tin liên lạc, tổ chức tiếp dân theo định kỳ,…

- Nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện quyền làm chủ của mình ở nước ta hiện nay, phải

- 42-

chăng Đảng ta nên đề ra nhiệm vụ “phản biện xã hội” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân về tính khoa học; tính nhân dân; tính khả thi đối với các chủ trương của cấp ủy, Đảng ở Trung ương và địa phương và đối với pháp luật, kế hoạch, chương trình, chính sách cụ thể của nhà nước về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại.

Phản biện xã hội nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật và chính sách cụ thể của nhà nước, góp phần hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với thực tiễn của đời sống xã hội, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, thông qua hoạt động phản biện xã hội, sẽ góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

- Cần phải không ngừng nâng cao học vấn, nâng cao văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật cho nhân dân. Trình độ học vấn nói chung và nhất là văn hóa dân chủ có ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu dân chủ và sự thể hiện nhu cầu dân chủ của cá nhân cũng như của cộng đồng. Có một thực tế rất dễ nhận ra là không phải nhân dân ta ai cũng đều hiểu, đều biết đầy đủ khả năng sử dụng các quyền dân chủ mà mình được hưởng. Vì vậy, trước hết, như Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, phải làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình. Để làm được như vậy cần có sự hiểu biết, có trình độ học vấn nhất định. Sự kém hiểu biết hoặc trình độ học vấn quá thấp sẽ dẫn đến trình trạng tự mình

- 43-

vô tình làm mất các quyền mà mình đáng được hưởng, trở thành mất tự do.

- Cần sớm nghiên cứu, đưa luật Trưng cầu ý dân vào đời sống. Hình thức dân chủ trực tiếp quan trọng này dù đã được quy định ở các bản Hiến pháp nhưng vẫn còn xa lạ với đời sống chính trị - pháp lý ở nước ta. Đó là điều mà cuộc sống đang đòi hỏi và một văn bản pháp luật cụ thể cần được xây dựng và ban hành để thực sự phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện quyền làm chủ của mình đối với các sự việc trọng đại của đất nước. Để kết quả trưng cầu ý dân phản ánh trung thực nhất ý chí, nguyện vọng của dân cần phải có sự khai thông dân trí, vấn đề trưng cầu cần được thông báo rộng rãi thực sự tới các đối tượng thi hành. Phát động cuộc trình bày, tranh luận công khai rộng rãi một cách dân chủ bình đẳng các quan điểm khác nhau về vấn đề cần trưng cầu từ đó người dân sẽ được trang bị, hiểu biết qua các nhà nghiên cứu chuyên sâu, đây là cơ sở để họ sàng lọc.

KẾT LUẬN

Dân chủ là một giá trị nhân văn chung của nhân loại. Vấn đề dân chủ chỉ nẩy sinh khi xuất hiện sự cùng nhau tồn tại, cùng nhau chung sống của các thành viên trong một cộng đồng, tại đó mỗi người đều có quyền thực hiện quyền làm chủ của mình trong khuôn khổ của các luật định. Do đó mà quyền càng cao thì mọi quy định về nó càng phải chặt chẽ. Thực chất của vấn đề dân chủ là giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích chung của xã hội với các lợi ích riêng của từng cá nhân, hay của các cộng đồng, đồng thời nó cũng chỉ được thực hiện có chừng mực và luôn đòi hỏi phải có trình độ về dân chủ.

- 44-

Vấn đề dân chủ là một trong những vấn đề được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác rất quan tâm chú ý đến. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những yếu tố hợp lý trong quan niệm về nhà nước và quyền lực nhà nước cũng như các vấn đề về dân chủ của các nhà tư tưởng trước đó. Kết hợp những yếu tố hợp lý với thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản ở thời đại mình, hai ông đã đưa ra những quan điểm về dân chủ và V.I.Lênin kế thừa, phát triển và đặc biệt là đã thể nghiệm những tư tưởng dân chủ vô sản trong quá trình tiến hành cách mạng XHCN ở Nga năm 1917 và những năm sau của chính quyền Xô viết.

Ngày nay, những tư tưởng về dân chủ của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn còn nguyên giá trị. Những tư tưởng đó, trải qua những thử thách của thực tiễn đời sống và sự thẩm định khắt khe của lịch sử, vẫn đang được hiện thực hóa sinh động trong đời sống chính trị thế giới, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng dân chủ của các ông tiếp tục thể hiện sức sống của mình – một sức sống, không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học mà còn có tác dụng cải tạo thế giới, bất chấp những biến cố chính trị đối với mô hình CNXH xơ cứng tại Liên Xô và các nước Đông Âu vào đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 cũng như trước sự phê phán, đả kích của các thế lực thù địch đối với lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân lao động trên toàn thế giới và sự tiến bộ của nhân loại, dưới chiêu bài “Dân chủ”; cùng những toan tính áp đặt cái gọi là “Dân chủ” đối với các quốc gia, các dân tộc trên các châu lục, vì lợi ích của họ.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, trong công cuộc đổi mới đất nước,

- 45-

Đảng CSVN chủ trương cùng với việc: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa”, nhằm xây dựng nước ta “thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,… đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc”, phải xây dựng, phát triển hoàn thiện hệ thống pháp luật và nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân, vì dân; “thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân”. Rõ ràng, cả về lý luận và thực tiễn vấn đề dân chủ luôn vẫn là vấn đề triết học - chính trị - xã hội căn bản và nhạy cảm. Nó quan hệ không chỉ đến sự tồn vong của chế độ, quốc gia, dân tộc mà còn ảnh hưởng đến số phận, cuộc sống và lợi ích của chính người lao động. Nó vừa có tính chiến lược lâu dài, vừa có tính thời sự cấp bách.

-----------------