19
1. Thc trng xut khẩu cá da trơn của Vit Nam Giá trxut khu thy sn ca Vit Nam (Triu USD) năm 2011, 2012 Theo sliu ca Tng cc Hi quan, giá trxut khu thy sn ca cnước trong tháng 2/2012 đạt 422 triệu USD, tăng 16,4% so với tháng 1/2012, nâng tng giá trxut khu thy sản trong hai tháng đầu năm 2012 lên 775 triệu USD, tăng 14,5% so vi cùng knăm 2011. EU, Mỹ và Nht Bn vẫn là 3 đối tác chính nhp khu hàng thy sn ca Vit Nam trong 2 tháng qua. Xut khẩu sang EU đạt 156 triu USD, gim 7,1%; Mđạt 142 triệu USD, tăng 18,2% và Nhật Bản đạt 130 triu USD, tăng 24,9% so với cùng knăm 2011. XUẤT KHẨU CÁ TRA - CÁ DA TRƠN Đơn vị: USD THỊ TRƯỜNG Tháng 8/2012 (GT) Nửa đầu T9/2012 (GT) % GT So với cùng kỳ 2011 (%) Từ 1/1 đến 15/9/2012 % GT So với cùng kỳ 2011 (%) EU 37,548 12,779 21,6 -35,7 304,343 25,1 -20,9 Tây Ban Nha 8,521 1,913 3,2 -64,3 65,709 5,4 -16,0

Quan tri rui ro tong hop (draft)

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

1. Thực trạng xuất khẩu cá da trơn của Việt Nam

Giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam (Triệu USD) năm 2011, 2012

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước

trong tháng 2/2012 đạt 422 triệu USD, tăng 16,4% so với tháng 1/2012, nâng tổng

giá trị xuất khẩu thủy sản trong hai tháng đầu năm 2012 lên 775 triệu USD, tăng

14,5% so với cùng kỳ năm 2011. EU, Mỹ và Nhật Bản vẫn là 3 đối tác chính nhập

khẩu hàng thủy sản của Việt Nam trong 2 tháng qua. Xuất khẩu sang EU đạt 156

triệu USD, giảm 7,1%; Mỹ đạt 142 triệu USD, tăng 18,2% và Nhật Bản đạt 130 triệu

USD, tăng 24,9% so với cùng kỳ năm 2011.

XUẤT KHẨU CÁ TRA - CÁ DA TRƠN

Đơn vị: USD

THỊ

TRƯỜNG

Tháng

8/2012

(GT)

Nửa

đầu

T9/2012

(GT)

% GT

So với

cùng

kỳ

2011

(%)

Từ 1/1

đến

15/9/2012

% GT

So với

cùng

kỳ

2011

(%)

EU 37,548 12,779 21,6 -35,7 304,343 25,1 -20,9

Tây Ban

Nha 8,521 1,913 3,2 -64,3 65,709 5,4 -16,0

Page 2: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Hà Lan 5,609 1,904 3,2 -30,2 51,224 4,2 -26,6

Đức 3,460 2,065 3,5 -13,3 38,235 3,1 -41,9

Italia 3,259 0,862 1,5 -29,6 25,757 2,1 -3,4

Mỹ 40,174 12,236 20,7 -6,2 266,656 22,0 +27,7

ASEAN 9,097 4,419 7,5 -11,8 77,378 6,4 +0,1

Singapore 2,703 1,443 2,4 +5,8 25,240 2,1 -1,9

Philippines 2,307 0,892 1,5 -27,9 18,968 1,6 +6,6

Malaysia 1,715 0,745 1,3 -17,9 15,234 1,3 +1,1

Mexico 8,343 3,011 5,1 +5,9 63,929 5,3 +2,1

TQ và HK 6,773 3,097 5,2 +34,5 49,763 4,1 +38,3

Hồng

Kông 3,593 1,693 2,9 +13,7 30,119 2,5 +10,2

Brazil 5,875 2,168 3,7 -26,0 34,356 2,8 +12,9

Colombia 5,090 2,115 3,6 -2,2 42,399 3,5 -11,57

Nga 6,900 2,880 4,9 -21,7 32,049 2,6 -23,9

Các TT

khác 43,694 16,479 27,8 +2,7 342,976 28,3 +1,4

Tổng cộng 163,494 59,184 100 -12,8 1,213,850 100 -1,2

Cơ cấu thị trường nhập khẩu cá tra 2 tháng đầu năm 2012

Page 3: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Cá tra đang có xu hướng giành lại ngôi vị của mình đối với mặt hàng tôm sau

khi bị tụt xuống vị trí thứ 2 vào năm 2011. Trong 2 tháng đầu năm 2012 xuất khẩu cá

tra đạt 148,4 triệu USD đưa tổng xuất khẩu 2 tháng lên 264,4 triệu USD, tăng 18,6%

so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 33,7% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng trong thời gian tới, xuất khẩu cá tra – cá da trơn

có nhiều điều kiện thuận lợi khi nhu cầu thế giới tiếp tục tăng trưởng tốt. Theo thông

tin từ FIS, tăng trưởng nhu cầu về tiêu dùng cá da trơn sẽ tăng khoảng 40-50%, trong

đó tăng trưởng của EU là 27%, Hoa Kỳ 30% và ASEAN dự kiến đạt 30-40%. Hiện

nay, Hoa Kỳ, EU và ASEAN vẫn là những nhà nhập khẩu chính của Việt Nam,

chiếm khoảng trên 59% tổng kim ngạch xuất khẩu cá da trơn của Việt Nam.

2. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của việc xuất khẩu cá da trơn.

2.1 Thuận lợi:

- Cá da trơn Việt Nam dễ nuôi, dễ đánh bắt cho năng suất cao, thịt thơm ngon,

sức sống cao và có tốc độ tăng trưởng cao.

- Điều kiện tự nhiên thuận lợi: với điều kiện tự nhiên thuận lợi về môi trường

nước, khí hậu, đồng bằng sông Cửu Long là một nơi lý tưởng để nuôi trồng cá tra cá

ba sa, đặc biệt là các tỉnh An Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp là nơi có năng suất nuôi

cá da trơn lớn nhất 300 – 400 tấn/ha với chất lượng thịt cá thơm ngon hơn các loại cá

da trơn khác trên thế giới.

Page 4: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

- Sự tiến bộ trong hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước đã mở ra cơ hội

lớn cho việc mở rộng thị trường cá da trơn của Việt Nam. Đặc biệt là sau hiệp định

thương mại Việt – Mỹ được kí kết vào ngày 13/7/2000 đã mở ra cơ hội cho các

doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta nói chung và với các doanh nghiệp xuất khẩu cá

da trơn nói riêng tại thị trường Mỹ, tạo cơ hội để nâng cao vị thế của thủy sản Việt

Nam.

- Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) là một kênh

quảng bá thương hiệu hiệu quả. Từ khi thành lập vào năm 1998, VASEP đã không

ngừng tổ chức các sự kiện nhằm đẩy mạnh kênh thông tin liên lạc giữa các thành

viên với các đối tác quốc tế.

- Năm 2002 vụ kiện chống bán phá giá của Hiệp hội các nhà nuôi cá da trơn Mỹ

đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra cá basa Việt Nam đã trở thành tiêu điểm

cho các báo chí quốc tế hơn một năm. Sau sự kiện này, Việt Nam đánh mất dần thị

phần cá da trơn tại thị trường Mỹ. Việc đánh mất thị phần đã thúc đẩy các doanh

nghiệp xuất khẩu cá da trơn Việt Nam chủ động tìm kiếm thị trường mới, nâng cao

năng lực cạnh tranh. Kết quả là kim ngạch xuất khẩu phục hồi nhanh chóng và tăng

trưởng với tốc độ nhanh hơn, thị trường cũng đa dạng hơn. Trong năm 2007, xuất

khẩu cá da trơn Việt Nam đã có mặt hơn 69 thị trường.

- Việt Nam có nguồn lao động rẻ, lành nghề, có kinh nghiệm sẽ giúp cho doanh

nghiệp giảm chi phí đáng kể trong việc thuê lực lượng lao động và đào tạo tay nghề.

- Chính sách ưu đãi thuế nhà nước: các doanh nghiệp chế biến cá da trơn xuất

khẩu được hưởng mức thuế thu nhập là 15% , vốn vay ưu đãi, chuyển đổi ngoại tệ để

gia tăng kim ngạch xuất khẩu.

2.2 Thách thức:

- Chính sách chống lạm phát của nhà nước đã gây khó khăn trong việc tiếp cận

nguồn vốn vay ngân hàng, làm cho các công ty chế biến thủy sản thiếu hụt nguồn

vốn lưu động và không thể hoạt động hết công suất để đáp ứng đầy đủ các đơn hàng.

- Nguồn nguyên liệu không ổn định.

- Rào cản thuế quan và phi thuế quan.

Page 5: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

- Các doanh nghiệp xuất khẩu cá da trơn hiểu biết pháp lí, môi trường kinh

doanh, thị hiếu người tiêu dùng, mức tiêu thụ của thị trường xuất khẩu còn thấp.

3. Rủi ro tỷ giá:

3.1 Tổng quan rủi ro tỷ giá

Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị qua một đồng tiền khác.

Trong kinh doanh thương mại quốc tế thì điều bắt buộc là hợp đồng được ký kết và

thanh toán bằng ngoại tệ. Giá trị hợp đồng thường là lớn. Chính vì vậy tỷ giá hối

đoái có ảnh hưởng vô cùng lớn tới hoạt động kinh doanh và doanh thu của doanh

nghiệp.

Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ

vọng trong tương lai. Những hoạt động mà dòng tiền thu vào và chi ra khác nhau

đều chứa đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá. Về cơ bản, rủi ro tỷ giá phát sinh trong ba hoạt

động chủ yếu của doanh nghiệp là hoạt động đầu tư, XNK và tín dụng. Rủi ro tỷ giá

trong XNK là thường xuyên gặp phải và đáng lo ngại nhất đối với các công ty hoạt

động XNK. Sự thay đổi tỷ giá khiến giá trị kỳ vọng của các khoản thu hoặc chi

trong tương lai bị thay đổi khiến cho hoạt động kinh doanh XNK ảnh hưởng đáng

kể. Sự biến động của tỷ giá khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn bất ngờ mà

không lường trước và tránh được khi ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.

Nhiều hợp đồng kinh doanh đã lỗ nặng khi tới thời điểm thanh toán tỷ giá tăng vọt

khiến doanh nghiệp phải điêu đứng.

Khi tỷ giá giữa ngoại tệ và nội tệ giảm. Giá thành sản phẩm sẽ tăng, dẫn đến khó

cạnh tranh với hàng hóa, sản phẩm nước ngoài.

Ví dụ: Một công ty xuất khẩu gạo của Việt Nam phải đối mặt với sự lên giá của

VND khi tỷ giá USD/VND giảm. Hai khả năng có thể xảy ra:

Thứ nhất, sau khi VND lên giá, nếu công ty duy trì giá gạo không đổi tính bằng

VND thì công ty phải bán với giá tính bằng USD tăng lên. Do giá tăng nên công ty

sẽ xuất được ít gạo hơn, nghĩa là thu nhập của công ty từ xuất khẩu cũng như lợi

nhuận tính bằng VND giảm xuống.

Thứ hai, sau khi VND lên giá, nếu công ty duy trì giá gạo không đổi tính bằng USD

thì thu nhập của công ty tính bằng VND sẽ giảm xuống.

Page 6: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Tuy nhiên, sự thay đổi của tỷ giá có ảnh hưởng đến giá cả, thu nhập và lợi nhuận

của nhà xuất khẩu và nhập khẩu hay không còn phụ thuộc vào sự thay đổi tỷ giá có

thực sự làm cho hàng hóa của công ty có thực sự trở nên rẻ hơn hay đắt hơn đối với

người nước ngoài, nghĩa là chúng ta phải đề cập đến tương quan trong tỷ lệ lạm

phát giữa các quốc gia là như thế nào.

Ví dụ: Khi tỷ giá USD/VND giảm như trên nhưng giá gạo trong nước cũng giảm

với một tỷ lệ nhất định nào đó đủ để làm cho giá gạo xuất khẩu tính bằng USD vẫn

không đổi. Điều này có nghĩa là, cho dù tỷ giá thay đổi, nhưng tương quan lạm phát

đã làm triệt tiêu hiệu ứng rủi ro tỷ giá đối với công ty (bằng chứng là giá gạo tính

bằng USD không đổi, nên không ảnh hưởng đến cầu từ phía nhập khẩu). Như vậy,

một vấn đề xa hơn là để xác định ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá, ta phải đề cập đến

yếu tố lạm phát và mối tương quan giữa lạm phát và thay đổi tỷ giá là như thế nào.

3.2 Thực trạng thị trường tiền tệ và rủi ro tỷ giá tại Việt Nam:

Vào thời điểm hiện nay tình hình tiền tệ trên thị trường có một số biểu hiện

như :

Thứ nhất: VND chưa phải là ngoại tệ mạnh và có khả năng chuyển đổi trên thị

trường tiền tệ, do vậy nó là đồng tiền không ổn định, lên xuống bất thường và phụ

thuộc sự biến động của các loại ngoại tệ mạnh khác chẳng hạn như USD và phụ

thuộc vào chính sách tiền tệ của Nhà nước ta trong từng thời kỳ.

Thứ hai: nền kinh tế của Việt Nam trong một vài năm gần đây tuy đã có sự phát

triển và tăng trưởng nhanh nhưng tính ổn định chưa cao mà đặc biệt là chỉ số giá tiêu

dùng (CPI) trong một vài năm gần đây tăng giảm thất thường. Sáu tháng đầu năm

2004 tăng 7.2% so với tháng 12 năm 2003, vượt mức được Quốc hội thông qua

(5%). Đây là một trong những nguyên nhân có thể xuất hiện việc biến động tỷ giá do

tâm lý của người dân thấy rằng đồng Việt Nam bị mất giá thì việc đầu tư vào ngoại

tệ có xu hướng tăng lên.

Thứ ba: Việt Nam vẫn là nước nhập siêu, dự trữ ngoại tệ còn thấp cho nên vào

những thời điểm đáo hạn thanh toán các khoản phải trả nợ cho nước ngoài nhu cầu

ngoại tệ tăng làm cho tỷ giá biến động mạnh.

Page 7: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Thứ tư: Chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái của nhà nước trong từng thời kỳ cũng

là nguyên nhân có thể xuất hiện rủi ro tỷ giá đối với bất kể thành phần kinh tế nào có

sử dụng ngoại tệ.

3.3 Phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong ngoại thương:

Thứ nhất, nâng cao năng lực dự báo sự biến động tỷ giá:

Nhà xuất khẩu sẽ ưu tiên được nhận thanh toán bằng đồng tiền có xu hướng lên giá,

còn nhà nhập khẩu sẽ ưu tiên thanh toán bằng đồng tiền có xu hướng giảm giá. Tuy

nhiên, trong thực tế, công tác dự báo tỷ giá là một công việc phức tạp, tốn kém và

khó đạt được độ tin cậy cao. Nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng không nên

thờ ơ; và các doanh nghiệp lớn trước hết phải tự phòng ngừa bằng cách thiết lập

một bộ phận chuyên trách và chuyên nghiệp để dự báo tỷ giá.

Thứ hai, chuyển hướng tới đa dạng hóa tiền tệ trong thanh toán quốc tế. Ví dụ, nếu

đồng thời duy trì trạng thái USD và EUR, thì khi USD giảm giá sẽ làm cho thu

nhập bằng VND giảm, nhưng bù lại việc EUR lên giá sẽ bù đắp cho phần thiệt hại

đó.

Thứ ba, sử dụng các công cụ tài chính phái sinh trong điều kiện đa ngọai tệ.

Do USD là đồng tiền được sử dụng chủ yếu trong thương mại, thanh toán và

đầu tư quốc tế đối với hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Việc

USD giảm giá nhanh và mạnh suốt thời gian qua đã tác động vừa tiêu cực vừa tích

cực đến những công ty xuất nhập khẩu, chủ nợ và con nợ bằng USD (những nhà

nhập khẩu và con nợ bằng USD thấy có lợi khi USD giảm giá; ngược lại, những

nhà xuất khẩu và chủ nợ thì thấy bị thiệt hại). Như vậy, tiềm ẩn rủi ro tỷ giá cho các

bên có thu chi bằng USD. Để phòng ngừa rủi ro tỷ giá USD, các doanh nghiệp cần

tự cân đối thu chi bằng ngoại tệ, đồng thời áp dụng các công cụ tài chính phái sinh

mà các NHTM đã cung cấp (hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi, tương lai, quyền

chọn,...),...

Đối với Việt Nam, ngoài việc chịu rủi ro tỷ giá khi USD biến động mạnh, còn bộc

lộ rủi ro do tập trung thanh toán quá mức bằng USD. Đứng trước thực tế tập trung

hóa thanh toán bằng USD và xu hướng tập trung thương mại với Mỹ đã, đang và sẽ

bộc lộ rủi ro kép khó lường: rủi ro về thị trường và rủi ro về tỷ giá. Rủi ro kép này

đang ngày càng bộc lộ sâu sắc khi mà nền kinh tế Mỹ đang lộ rõ những dấu hiệu

Page 8: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

của một cuộc suy thoái kinh tế. Để giảm bớt sự lệ thuộc vào nền kinh tế Mỹ và

đồng USD, cần phải thay đổi tập quán “thuần canh” bằng USD để chuyển dần sang

“đa canh” bằng các đồng tiền khác với phương châm XNK ở khu vực nào thì lựa

chọn sử dụng một đồng tiền mạnh của khu vực đó, đa dạng hóa thị trường xuất

nhập khẩu, đa dạng hóa cơ cấu tiền tệ trong thanh toán quốc tế, dự báo tỷ giá, chủ

động tích cực sử dụng các công cụ tài chính phái sinh,...

4. Rủi ro nguồn nguyên liệu

Thứ nhất, rủi ro về dịch bệnh.

Trong mấy năm gần đây, dịch bệnh đã phát sinh trên diện rộng và diễn biến hết sức

phức tạp đối với nhiều loài thủy sản, trong đó có cá ba sa, gây ra nhiều thiệt hại đối

với không chỉ người nuôi trồng mà còn ảnh hưởng đến nguồn cung của các doanh

nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản.

Theo Thạc sĩ Trần Minh Lâm (Viện Kinh tế - Quy hoạch thủy sản), nuôi cá ba sa cần

rất nhiều nước và phải thay đổi nước thường xuyên do khả năng lây nhiễm dịch bệnh

đối với cá nuôi là rất lớn. Trong khi đó, các yếu tố như nuôi với mật độ quá dày (dao

động từ 10 – 100 cá/ hay 30 – 150 cá/ ), lượng thức ăn cho cá quá nhiều... đã

khiến cho môi trường nuôi trồng bị ô nhiễm và gây ra tình trạng cá chết hàng loạt.

Thêm vào đó, vào các tháng mưa lũ, môi trường nước trong ao nuôi rất xấu do ảnh

hưởng của lũ đổ về mang đến nhiều chất thải lẫn mầm bệnh. Do đó, cá thường mắc

các bệnh như vàng thân, vàng da, bệnh gan, xuất huyết, đốm đỏ...gây ảnh hưởng

nghiêm trọng đến chất lượng cũng như sản lượng của nguồn nguyên liệu đầu vào cho

các nhà máy chế biến.

Thứ hai, rủi ro về thiếu vốn trong quá trình thu mua nguyên liệu.

Thời gian qua, một số doanh nghiệp tăng cường tự đầu tư vùng nguyên liệu nhưng

chỉ đáp ứng từ 30 đến 40% công suất nhà máy, còn lại phụ thuộc vào nguồn cá thu

mua bên ngoài. Thêm vào đó, thời gian vay ngắn hạn, lãi suất vay khá cao lại trở

thành gánh nặng đối với các doanh nghiệp thủy sản. Các doanh nghiệp không có đủ

vốn để thu mua nguyên liệu khiến nhà máy hoạt động cầm chừng, một số chỉ hoạt

động từ 30-40% công suất, thậm chí chỉ 10-20% công suất. Ví dụ như Công ty CP

Page 9: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Thủy sản An Phước ở xã An Phước, Vĩnh Long có nhà máy chế biến cá ba sa với

công suất 300 tấn nguyên liệu/ngày nhưng giờ chỉ còn hoạt động 10% công suất.

Thứ ba, rủi ro thiếu nguồn nguyên liệu

Hiện nay, sự liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ ở một số tỉnh chưa thực sự chặt chẽ;

hợp đồng cung cấp và thu mua sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân được kí

kết nhưng chưa hiệu quả. Nhiều hộ nuôi nhỏ lẻ không có hợp đồng bao tiêu sản

phẩm với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Thời điểm thu hoạch, nhiều doanh

nghiệp lại viện nhiều lý do để ép giá khiến người dân không còn mặn mà nuôi thả cá.

Chính những lý do trên đã khiến cho số lượng các hộ nông dân treo ao ngày càng

tăng.

Theo ông Nguyễn Hữu Dũng - Phó Chủ tịch VASEP, nguồn cung ứng nguyên liệu

trong nông dân chỉ còn 30% khiến nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản phải đóng

cửa dẫn đến hệ lụy dây chuyền là người lao động bị thất nghiệp và nguồn cung ứng

cho các đơn đặt hàng xuất khẩu cũng bị giảm sút. Dự kiến từ nay đến cuối năm, còn

phải sản xuất 800.000 tấn cá nguyên liệu nhưng doanh nghiệp chế biến có vùng nuôi

cá chỉ đáp ứng được khoảng 50% sản lượng.

Giải pháp:

- Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản cần phải tự xây dựng vùng

nguyên liệu cho mình để đảm bảo đủ nguồn nguyên liệu đầu vào. Trong trường hợp

nhà máy không tự tạo được 100% nguồn nguyên liệu thì cần phải liên kết với những

người nuôi có diện tích và vốn lớn. Việc liên kết trên nhằm chia sẻ rủi ro và giảm bớt

phần vốn mà doanh nghiệp phải bỏ ra, tạo được chuỗi liên kết giữa các bên trong bối

cảnh nguồn vốn vay ngân hàng lãi suất cao và không dễ vay như hiện nay.

- Các nhà máy thu mua nguyên liệu cần phải có sự liên kết chặt chẽ với những

hộ nuôi trồng để hướng dẫn họ cách phòng chống và điều trị dịch bệnh hiệu quả nhất

nhẳm hạn chế tối đa thiệt hại và đảm bảo chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào.

- Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ tài chính cần hỗ trợ

vốn hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi để hỗ trợ cho các doanh nghiệp chế biến cá ba

sa xuất khẩu nhằm duy trì hoạt động của nhà máy và cứu người nông dân.

5. Rủi ro pháp lý:

5.1 Rủi ro sử dụng tên thương hiệu

Page 10: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Tại Mỹ, catfish là từ được sử dụng để chỉ tất cả các loại cá da trơn và có râu. Cá tra,

cá ba sa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ được viết dưới tên catfish. Việt

Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ vào năm 1996. Năm 1998,

lượng cá lát catfish không xương đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới chỉ có

260 tấn. Nhưng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với giá thành rẻ

hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lượng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt

Nam đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là

tổng giá trị catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh,

từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dưới sự cạnh tranh

ngày càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động

nhằm đánh bật con cá của Việt Nam ra khỏi thị trường Mỹ.

9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối với

sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. CFA dựa vào

Luật Ngân sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam được

nhập vào nước này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc dùng

tên catfish cho các loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán lẻ, bán

sỉ, nhà hàng, thông tin, quảng cáo... trong vòng 5 năm. Chưa dừng ở đây, CFA vin

tiếp vào điều khoản 10806 của đạo luật An ninh nông trại và Đầu tư nông thôn mới

nhất để xác lập chủ quyền tuyệt đối trên thương hiệu catfish. Tháng 12/2001, bất

chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, Quốc hội Mỹ đã thông qua lệnh cấm tạm thời

(có hiệu lực tới ngày 30/9/2002), theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới được gọi là

catfish, còn cá của Việt Nam phải được gọi bằng tên basa hay tra.

5.2 Rủi ro bị kiện bán phá giá:

Cá da trơn của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ với giá thành rẻ hơn từ 0,08 đến

1USD/pound và chất lượng không thua kém catfish Mỹ, do đó, đã gây ảnh hưởng

không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ. Đây cũng là nguyên nhân khiến CFA

kiện Việt Nam bán phá giá.

Ngày 28/6/2002, CFA đã đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thương Quốc tế Mỹ (ITC).

Đơn kiện với hơn 200 trang kèm theo 37 phụ lục, trong đó phân tích chi tiết về tình

Page 11: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

hình thị trường cá nheo Mỹ, thị phần cá da trơn filê đông lạnh của Việt Nam tại Mỹ

cũng như ảnh hưởng của sản phẩm “rẻ tiền” (theo cách gọi của CFA) đối với ngành

sản xuất trong nước. Chưa dừng lại ở đó, CFA tiếp tục chiến dịch của mình bằng

cách nộp đơn lên Bộ Thương mại Mỹ (DOC) cho rằng, đã xuất hiện “tình trạng khẩn

cấp”. Để chứng minh điều đó CFA đã đưa ra các luận điểm:

Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá tra, cá basa filê đông lạnh bị bán phá giá.

Các nhà xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống phá giá đối với công ty

của mình với mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu của DOC.

Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã tăng số lượng hàng sang Mỹ sau khi CFA nộp

đơn yêu cầu điều tra chống phá giá .

Tính từ ngày 28/6/2002, số lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng ở mức 15%

hoặc cao hơn nữa so với thời gian trước ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá

giá.

Cần áp dụng hồi thuế chống phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống phá

giá sẽ được ban hành vào ngày 24/1/2003.

Tháng 11/2002, DOC đã kết luận Việt Nam là nước có nền kinh tế phi thị trường,

việc kết luận này dựa trên đánh giá theo các tiêu chí của Mỹ nó đặt cơ sở cho việc

xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá basa của

Việt Nam. Ngày 28/1/2003, DOC tạm thời xác định mức thuế chống bán phá giá đối

với cá tra, cá basa của Việt Nam trong khoảng từ 31,45% - 63,88% tuỳ theo nhóm

mặt hàng và doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của nước ta. Cụ thể như sau:

Tên công ty Mức thuế

Agifish 31,45%

Cataco 41,06%

Nam Việt 38,09%

Vĩnh Hoàn 37,94%

Các công ty khác có tham gia vụ kiện 36,76%

Các công ty không tham gia vụ kiện 63,88%

Page 12: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam để nghiên cứu điều tra

tình hình sản xuất cá tra, cá basa tại các tỉnh vùng DBSCL của Việt Nam để xác định

lần cuối mức thuế xuất chống bán phá giá. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng

đầy đủ các yêu cầu của đoàn điều tra và chứng minh năng lực cạnh tranh dựa trên

quy trình tổng hợp khép kín, từ sản xuất con giống, nuôi cá thương phẩm, đến chế

biến và xuất khẩu các sản phẩm cá tra, cá basa. Tuy nhiên, đoàn điều tra của DOC đã

bác bỏ các tài liệu từ phía các doanh nghiệp đưa ra và không công nhận quy trình

khép kín trong việc sản xuất cá tra, cá basa. Họ chỉ chấp nhận tính giá thành sản

phẩm này từ khâu chế biến và đem so sánh nó với nước thứ 3 là Bangladesh một

nước không có quy trình sản xuất khép kín như Việt Nam.

Đầu tháng 5, Bộ Thương mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thương mại hai bên sẽ tiến hành đàm

phán “ về một thoả thuận về đình chỉ vụ kiện” này. Từ 2-9/5/2003, hai bên đàm

phán, nhưng do quan điểm của hai bên rất khác nhau, cả về phương pháp luận và

mức độ tiếp cận thị trường Mỹ cho mặt hàng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt

Nam nên hai bên đã không đạt được thoả thuận cuối cùng.

Ngày 17/6/2003, ITC mở phiêu điều trần vể vụ kiện cá tra, cá basa . Trong buổi điều

trần này, đại diện của chính phủ Việt Nam và đại diện của VASEP đã phát biểu

trước ITC về vụ kiện này và yêu cầu Mỹ xem xét vụ kiện một cách khách quan. Tuy

nhiên, đến ngày 23/7/2003 ITC đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá

basa. Theo đó, cơ quan này đã khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam bán cá tra, cá

basa vào thị trường Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại tới ngành sản xuất cá da trơn

của Mỹ và ấn định mức thuế suất bán phá giá rất cao, từ 36.84-63.88%.Cụ thể như

sau:

Tên công ty Mức thuế

Agifish 44,76%

Cataco 45,55%

Nam Việt 52,90%

Vĩnh Hoàn 36,84%

Các công ty khác có tham gia vụ kiện 44,66%

Page 13: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Các công ty không tham gia vụ kiện 63,88%

5.3 Rủi ro từ quy định pháp luật tại nước nhập khẩu:

Cá tra, cá ba sa xuất khẩu sang các nước khác phải tuân theo các quy định pháp luật

của nước nhập khẩu. Đây sẽ là rủi ro cho các doanh nghiệp xuất khẩu nếu các quy

định này khác với Việt Nam hoặc không có trong quy định của luật pháp Việt Nam.

Ví du: khi xuất khẩu cá sang Mỹ, chúng ta phải tuân theo các điều luật: Luật nông

trại Farm Bill 2008, Luật thực phẩm, đạo luật chống khủng bố sinh học 2002,…

5.4 Giải pháp

- Có tên thương hiệu riêng: ngày 16-12-2004, hội nghị ở An Giang đã xác định

thương hiệu chính thức của cá tra, basa nói chung là Pangasius.

- Mở rộng thị trường: tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới, không tập trung

vào một thị trường là Mỹ như trước. Thực tế là: 4 năm sau ki bị Mỹ kiện bán phá

giá, cơ cấu thị trường thay đổi căn bản: Mỹ chỉ còn 6,9% (trước đó là 90%), EU cao

nhất với 48%, Nga 9,2%, các nước ASEAN 7,9%, Trung Quốc (kể cả Hongkong)

4%, Australia 3,9% và 20,1% các thị trường khác..

- Nẵm vứng luật để có thể chủ động xử lý khi bị kiện bán phá giá

DN cần đặc biệt lưu ý là tùy tính chất của vụ kiện mà đưa ra tòa án của Hoa Kỳ hay

WTO, thì sẽ có phán quyết có lợi hơn. Điều này xuất phát từ thực tế, nhiều quy định

của pháp luật Hoa Kỳ không phù hợp với các quy định của WTO.

- Các DN cần dành nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị kỹ lưỡng hồ sơ trước

khi khởi kiện. Trong đó, cần sự vào cuộc của các hiệp hội ngành hàng, nhằm thu

thập các bằng chứng đủ sức nặng và có hệ thống,

- Khi DN Việt Nam đề nghị Chính phủ đưa vụ kiện ra WTO hay hệ thống tòa án

Hoa Kỳ, các DN cần thường xuyên cập nhật thông tin, bằng chứng trung thực vào hồ

sơ vụ kiện cho các cơ quan Chính phủ, nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong quá

trình diễn ra vụ kiện.

6.

6.1 Thuế nhập khẩu

ột loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào

hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu.

Page 14: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Khi phương tiện vận tải (tàu thủy, máy bay, phương tiện vận tải đường bộ hay

đường sắt) đến cửa khẩu biên giới (cảng hàng không quốc tế, cảng sông quốc tế hay

cảng biển quốc tế, cửa khẩu biên giới bộ) thì các công chức hải quan sẽ tiến hành

kiểm tra hàng hóa so với khai báo trong tờ khai hải quan đồng thời tính số thuế nhập

khẩu phải thu theo các công thức tính thuế nhập khẩu đã quy định trước. Về mặt

nguyên tắc, thuế nhập khẩu phải được nộp trước khi thông quan để nhà nhập khẩu có

thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa, trừ khi có các chính sách ân

hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế, nên đây có thể coi là một trong những loại thuế dễ

thu nhất, và chi phí để thu thuế nhập khẩu là khá nhỏ.

Thuế nhập khẩu có thể được dùng như công cụ bảo hộ mậu dịch:

Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng

thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương

mại ).

Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng

phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.

Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế

đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương

mại.

Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như

các chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính

sách nông nghiệp chung của họ.

Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có

thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.

6.2 Thuế xuất khẩu

Nhà nước muốn hạn chế xuất

khẩu.

:

Nhằm bình ổn giá một số mặt hàng trong nước

Page 15: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Nhằm bảo vệ nguồn cung trong nước của một số mặt hàng

Nhạn chế xuất khẩu để giảm xung đột thương mại với nước khác,

(đối với nước chiếm tỷ

trọng chi phối trong sản xuất mặt hàng đó) việc hạn chế xuất khẩu có thể được

Nhà nước cân nhắc.

Trong các biện pháp hạn chế xuất khẩu, thuế xuất khẩu là biện pháp tương đối

dễ áp dụng. Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể sử dụng thuế xuất khẩu như một

biện pháp để phân phối lại thu nhập, tăng thu ngân sách.

Ví dụ về thuế xuất khẩu là thuế đánh vào một số nguyên liệu thô của Việt Nam

nhằm đảm bảo nguồn cung nguyên liệu cho sản xuất nội địa.

:

Việt Nam là một trong 178 nước dược hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập(

GSP) với mức thuế thấp hơn 3,5% so với mứ ờng. Được hưởng GSP,

thuế xuất khẩu thuỷ sản sang EU không những sẽ giảm, mà việc xem xét mức thuế sẽ

được thực hiện sau 3- 5 năm chứ không phải hàng năm như trước đây với số lượng

mặt hàng nhiều hơn. Hiện nay, tỷ lệ mặt hàng thuỷ sản được hưởng GSP lên tới 80%.

Bên cạnh đó, người tiêu dùng EU ngày càng tiêu dùng nhiều thuỷ sản hơn, vì họ cho

rằng thuỷ sản là loại thực phẩm sạch và bổ dưỡng. Đây là tín hiệu tốt cho xuất khẩu

thuỷ sản Việt Nam vào EU, hằng năm Việt Nam xuất khẩu hàng trăm nghìn tấn hàng

thuỷ sản gồm tôm, cá ngừ, nhuyễn thể hai mảnh vỏ và nhiều mặt hàng cá đông lạnh

các loại.

Ủy ban Châu Âu đang xem xét việc sẽ tăng thuế NK đối với nhiều loại thủy sản

từ năm 2013. Châu Âu sẽ xoá bỏ chế độ miễn thuế đối với nhiều mức thuế suất và

thay vào đó sẽ áp dụng các mức thuế suất thấp hơn thuế suất tiêu chuẩn đối với nhiều

hạn ngạch NK hiện không phải chịu thuế hoặc thuế suất gần như bằng không.

.

tăng

Page 16: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

.

.

Danh mục Biểu thuế xuất khẩu gồm 87 nhóm mặt hàng, chủ yếu là những mặt

hàng tài nguyên khoáng sản, như: quặng, đá, cát; mặt hàng kim loại, phế liệu kim loại,

như vàng, sắt, đồng và một số mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu khác.

.

6.3 , PA

Ông Trương Đình Hòe - Chủ tịch VASEP cho biết, các loại bao bì PE, PA là vật

liệu không thể thiếu trong chế biến xuất khẩu thủy sản. Các doanh nghiệp không chỉ

mua các sản phẩm này từ các cơ sở sản xuất trong nước, mà còn nhập khẩu từ nước

ngoài, hoặc được đối tác nhập khẩu thủy sản cung cấp theo yêu cầu của họ. Khoản chi

phí này trong giá thành thủy sản xuất khẩu tương đương 0,1USD/1 kg sản phẩm,

khoản phí này hiện đang chiếm khoảng 1.700 đến 1.900 đồng trong giá thành một kg

sản phẩm thủy sản, chiếm tỷ trọng không nhỏ trong giá thành xuất khẩu.

Theo tính toán, hằng năm, mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phải chi từ 2 đến

2,5 tỷ đồng, doanh nghiệp lớn phải chi bốn đến năm tỷ đồng cho khoản thuế này. Khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể suy giảm từ đó. Hiện,

Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang kiến nghị Bộ Tài chính xem

xét lại về đối tượng phải chịu khoản thuế này.

Cùng với sự tăng giá của các mặt hàng, dịch vụ khác đẩy giá thành sản phẩm

tăng vọt, làm giảm sức cạnh tranh của mặt hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường thế

giới.

6.4

Page 17: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

Mỹ sử dụng các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBTs) để làm giảm lượng

xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp từ Việt Nam.

Những tiêu chuẩn này cũng có thể tác động đến việc hạn chế thương mại. Các

tiêu chuẩn này có thể bao gồm các thông số, đặc điểm cho mỗi loại hàng hoá có thể do

các cơ quan chính quyền hoặc các tổ chức tư nhân đặt ra. Các tiêu chuẩn kỹ thuật có

thể đòi hỏi các sản phẩm phải đạt được những yêu cầu nhất định trước khi được đưa ra

thị trường. Các thông số kỹ thuật có thể đóng vai trò như các rào cản thương mại, đặc

biệt khi nó được quy định khác nhau giữa các nước. Đề phù hợp với các tiêu chuẩn

vừa khó khăn vừa tốn kém , nên xét về mặt kinh tế không thể vừa thực hiện vừa

duy trì được sức cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.

Hàng rào kỹ thuật trong thương mại có thể được chia làm 3 nhóm sau:

1. Các quy định về dịch tễ vệ sinh an toàn (Sanitary and phytosanitary): các quy định

này được các nước đưa ra để bảo vệ sức khoẻ cho người, vật nuôi và cây trồng.

2. Các biện pháp đối với người tiêu dùng: các biện pháp quy định về chất lượng và an

toàn thực phẩm bao gồm nhãn mác, đóng gói, dư lượng thuốc trừ sâu, hàm lượng dinh

dưỡng và tạp chất. Các quy định này có thể cho phép một quốc gia sử dụng các rào

cản nhằm đảm bảo hàng hoá an toàn.

3. Các biện pháp thương mại: các biện pháp được thực hiện nhằm ngăn chặn gian lận

thương mại bao gồm các chứng từ vận chuyển và tài chính, các tiêu chuẩn nhận dạng

và các tiêu chuẩn đo lường.

6.5

Các khuyến nghị đối với các nhà chế biến và xuất khẩu của Việt Nam

Vì các sản phẩm thuỷ sản phải đáp ứng tất cả các yêu cầu để qua được các điểm kiểm

tra ở cửa khẩu của Mỹ, các nhà xuất khẩu của Việt Nam cần biết các quy định và tiêu

chuẩn của Mỹ về chất lượng, kích cỡ, đóng gói, nhãn mác, v.v.. Các nhà chế biến của

Việt Nam cần chú trọng tăng cường các chương trình phòng chống rủi ro thông qua

việc đánh giá sự phù hợp với HACCP trong sản xuất và chế biến. Điều này sẽ giúp

các nhà xuất khẩu đảm bảo an toàn thực phẩm một cách hiệu quả hơn trong khâu chế

biến để có thể qua bất kỳ một điểm kiểm tra nhập khẩu tại cửa khẩu ở Mỹ. Đề cập đến

vấn đề nhãn mác, tất cả các thành viên của VASEP cần chú ý đầy đủ tới các quy định

Page 18: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

của Việt Nam hiện nay29 chẳng hạn như Thông tư số 03/2000/TT-BTS của Bộ Thuỷ

sản hướng dẫn thực hiện Quyết định 178/1999/QD-TTg quy định về dán nhãn mác đối

với các sản phẩm thuỷ sản để đảm bảo rằng tất cả các sản phẩm xuất khẩu của doanh

nghiệp Việt Nam đều phải có nhãn mác phù hợp.

Nhằm giúp các công ty thuỷ sản của Việt Nam chứng tỏ năng lực cạnh tranh của mình

và có được chỗ đứng vững vàng trên thị trường Mỹ, họ cần cân nhắc các cách để đảm

bảo chất lượng cao cho các sản phẩm của họ xuất sang Mỹ. Để đạt được mục tiêu này,

tất cả các công ty cần phải:

(1) Tiến hành các chương trình phòng ngừa nguy cơ lây nhiếm các hoá chất độc hại

đối với các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu.

(2) Lấy chứng nhận sản phẩm không có tạp chất, hoác chất và các vi sinh gây hại cho

tất cả các sản phẩm xuất khẩu.

(3) Chú trọng không buôn bán hoặc sử dụng các hoá chất độc hại trong chế biến thuỷ

hải sản.

(4) Tăng cường đầu tư các thiết bị hiện đại và đảm bảo chất lượng sản phẩm bằng

việc áp dụng ISO 9000, ISO 14000 và các tiêu chuẩn HACCP30.

(5) Thiết lập mối quan hệ gần gũi giữa các nhà cung cấp thuỷ hải sản và các công ty

chế biến và chủ động tiến hành ký kết hợp đồng thu mua với ngư dân vào đầu vụ

thu hoạch để đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu bền vững.

Bằng việc áp dụng các biện pháp này, cả các nhà xuất khẩu và chế biến có khả năng

hạn chế rủi ro thiếu nguyên liệu và đối phó một cách hiệu quả với các hàng rào được

dựng lên để ngăn cản dòng sản phẩm hải sản nhập khẩu có xu hướng tăng đều từ Việt

Nam từ những năm 2000 trở lại đây.

(6) Về .

ể là Basa.

Page 19: Quan tri rui ro   tong hop (draft)

(7) ầ

.

(8) Để tạo sự lành mạnh và công bằng trong môi trường kinh doanh, các DN cá tra

cho rằng, c

.