15
105 QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở TIÊN YÊN VÀ ĐẦM HÀ – QUẢNG NINH Hoàng Văn Thắng Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội Abstract Scientific surveys have demonstrated the richness in biodiversity of Tien Yen and Dam Ha districts, with a variety of ecosystems and species. The mangrove ecosystem of northeastern Quang Ninh province in general, and of Tien Yen and Dam Ha districts specifically, plays a very important role and generates great services to the socio-economy and the environment of the area. It performs a great role in coastal protection, protection from typhoons and storms and erosion prevention, especially in the context of climate change. It is home to many valuable aquatic species which local people heavily depend on. Nevertheless, the mangrove ecosystems there have been under great pressure from population growth and development activities as well as ineffective management measures. Community-based conservation management (CBCM) is a natural resource management process which involves those people who are dependent on the natural resources, with scientific and technical assistance from scientists, and mechanisms and financial support from the local authorities. The CBCM model has demonstrated its positive results in natural resource management and conservation in the coastal and estuarine area in the context of sustainable development and climate change. MỞ ĐẦU Theo các nghiên cứu mới đây của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển bị ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu với những điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn như hạn hán, lụt lội, cháy rừng..., sẽ làm tăng khả năng suy giảm hoặc biến mất của các hệ sinh thái và các loài (Trương Quang Học và Nguyn Đức Ng, 2009). Con người, kể cả các cộng đồng sinh sống tại các khu vực cửa sông, ven biển và đặc biệt là ở các nước đang phát triển, sống phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài nguyên thiên nhiên (đa dạng sinh học). Tuy nhiên, cũng chính con người đã và đang sử dụng một cách không bền vững các tài nguyên thiên nhiên của mình, trong đó, có các hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển và rừng ngập mặn. Nhiều hệ sinh thái rừng ngập mặn bị khai thác một cách quá mức, thậm chí khai thác hy diệt. Hậu quả là nguồn tài nguyên thủy sản cũng như các tài nguyên phi gỗ khác đã bị suy giảm một cách nghiêm trọng, nhiều cánh rừng ngập mặn đã bị chặt phá hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy, hải sản... Đây cũng chính là một trong những yếu tố gây nên biến đổi khí hậu.

QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

105

QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU

Ở TIÊN YÊN VÀ ĐẦM HÀ – QUẢNG NINH

Hoàng Văn Thắng

Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường,

Đại học Quốc gia Hà Nội

Abstract

Scientific surveys have demonstrated the richness in biodiversity of Tien Yen and Dam Ha

districts, with a variety of ecosystems and species. The mangrove ecosystem of northeastern

Quang Ninh province in general, and of Tien Yen and Dam Ha districts specifically, plays a

very important role and generates great services to the socio-economy and the environment of

the area. It performs a great role in coastal protection, protection from typhoons and storms

and erosion prevention, especially in the context of climate change. It is home to many

valuable aquatic species which local people heavily depend on. Nevertheless, the mangrove

ecosystems there have been under great pressure from population growth and development

activities as well as ineffective management measures. Community-based conservation

management (CBCM) is a natural resource management process which involves those people

who are dependent on the natural resources, with scientific and technical assistance from

scientists, and mechanisms and financial support from the local authorities. The CBCM

model has demonstrated its positive results in natural resource management and conservation

in the coastal and estuarine area in the context of sustainable development and climate

change.

MỞ ĐẦU

Theo các nghiên cứu mới đây của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là một trong những quốc gia

đang phát triển bị ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu với những điều

kiện khí hậu khắc nghiệt hơn như hạn hán, lụt lội, cháy rừng..., sẽ làm tăng khả năng suy giảm

hoặc biến mất của các hệ sinh thái và các loài (Trương Quang Học và Nguyễn Đức Ngữ,

2009).

Con người, kể cả các cộng đồng sinh sống tại các khu vực cửa sông, ven biển và đặc biệt là ở

các nước đang phát triển, sống phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài nguyên thiên nhiên (đa dạng

sinh học). Tuy nhiên, cũng chính con người đã và đang sử dụng một cách không bền vững các

tài nguyên thiên nhiên của mình, trong đó, có các hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển và rừng

ngập mặn. Nhiều hệ sinh thái rừng ngập mặn bị khai thác một cách quá mức, thậm chí khai

thác hủy diệt. Hậu quả là nguồn tài nguyên thủy sản cũng như các tài nguyên phi gỗ khác đã

bị suy giảm một cách nghiêm trọng, nhiều cánh rừng ngập mặn đã bị chặt phá hoặc chuyển

sang nuôi trồng thủy, hải sản... Đây cũng chính là một trong những yếu tố gây nên biến đổi

khí hậu.

Page 2: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

106

Rừng ngập mặn (RNM) Việt Nam nói chung, của khu vực miền Đông Quảng Ninh (Tiên Yên

và Đầm Hà) nói riêng, có ý nghĩa rất lớn về mặt môi trường, sinh thái và kinh tế, xã hội. Các

nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ rõ sự phong phú và đa dạng của hệ sinh thái RNM

với nhiều quần xã khác nhau. Ngoài ra, RNM còn có giá trị to lớn về phòng hộ ven biển chắn

sóng, gió bão và lũ lụt, xói mòn, bảo vệ nguồn hải sản vùng Đông Bắc của đất nước và cuộc

sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay. Tuy nhiên,

RNM tại khu vực này đang chịu sức ép rất lớn từ các hoạt động phát triển và sự gia tăng dân

số, quản lý và bảo tồn không hiệu quả.

Báo cáo tập trung vào việc phân tích và đánh giá mô hình quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng

trong bối cảnh biến đổi khí hậu được thử nghiệm tại hai xã Đông Hải – Tiên Yên và Đại Bình

– Đầm Hà trong khuôn khổ nhiệm vụ Nhà nước về bảo vệ môi trường “Triển khai áp dụng và

hoàn thiện mô hình quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng phục vụ phát triển bền

vững vùng cửa sông, ven biển xã Đông Hải – huyện Tiên Yên và xã Đại Bình – huyện Đầm

Hà, tỉnh Quảng Ninh” được thực hiện từ năm 2008 đến nay.

1. QUẢN LÝ BẢO TỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

1.1. Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng

Quản lý bảo tồn tài nguyên dựa vào cộng đồng là quá trình quản lý tài nguyên do những

người phụ thuộc vào nguồn tài nguyên đề xướng. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng

đồng là chiến lược toàn diện, nhằm xác định những vấn đề mang tính chất nhiều mặt, ảnh

hưởng đến môi trường ven biển, thông qua sự tham gia tích cực và có ý nghĩa của cộng đồng

ven biển. Quản lý bảo tồn tài nguyên dựa vào cộng đồng cũng là một quá trình, mà qua đó

những cộng đồng ven biển được tăng quyền lực về chính trị và kinh tế để họ có thể đòi hỏi và

giành được quyền kiểm, soát quản lý và tiếp cận một cách hợp pháp đối với nguồn tài nguyên

ven biển của họ. Sự vận động nhằm khởi xướng một vấn đề như thế tốt hơn hết phải được bắt

đầu từ bản thân cộng đồng. Tuy nhiên, do yếu về quyền lực nên hầu hết các cộng đồng đều

thiếu khả năng tự khởi xướng quá trình thay đổi.

Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng cần phải đảm bảo các thành tố: (i) cải thiện quyền hưởng

dụng các nguồn tài nguyên; (ii) xây dựng nguồn nhân lực; (iii) bảo vệ môi trường; và (iv) phát

triển sinh kế bền vững.

1.2. Cơ sở khoa học và thực tiễn đối với xây dựng và áp dụng thử nghiệm mô

hình

Rừng ngập mặn nói riêng và thiên nhiên của nước ta nói chung đã bị suy giảm đến mức độ

báo động do nhiều lý do khác nhau, trong đó khâu quản lý bảo tồn có tầm quan trọng đặc biệt.

Tuy nhiên, việc quản lý đến nay hầu như vẫn chưa có được những tiến bộ mang tính đột phá

là do chưa có sự tham gia “tích cực” của nhân dân nói chung và các cộng đồng địa phương

nói riêng. Hay nói một cách khác, cần có một sự thay đổi trong toàn bộ xã hội về quản lý bảo

vệ đa dạng sinh học và thiên nhiên. Heathcote (1998) cho rằng, quản lý thiên nhiên nói chung

là một tiến trình nhằm thiết lập một chương trình về thay đổi xã hội. Tác giả cho rằng: “Thay

đổi xã hội không thể có nếu những cộng đồng bị tác động không cho thay đổi là cần thiết”. Do

Page 3: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

107

đó, công việc quy hoạch bảo tồn không chỉ phải quan tâm đến sản phẩm cuối cùng, mà còn

phải quan tâm cả quá trình quy hoạch, để có được một quy hoạch đáp ứng nguyện vọng và

nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là những cộng đồng bị tác động. Bởi vậy, việc tham gia vào

quá trình quy hoạch bảo tồn rừng ngập mặn của các cộng đồng có liên quan (stakeholders) là

khâu then chốt. Đó cũng chính là vai trò của cộng đồng có liên quan trong việc bảo tồn rừng

ngập mặn và đa dạng sinh học, hay nói một cách khác là quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng

(community-based conservation management).

Thực tế ở Việt Nam cho thấy, công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng là

một công việc khá mới mẻ và còn nhiều thách thức. Bên cạnh việc đảm bảo các nguyên tắc,

thì việc quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng cần phải phù hợp với các thể chế, chính sách của

trung ương cũng như của địa phương. Sự ủng hộ và tham gia của chính quyền địa phương là

vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, áp dụng thử nghiệm mô hình này.

1.3. Tác động của biến đổi khí hậu đối với kinh tế-xã hội và các hệ sinh thái

Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP, 2007) đã chỉ ra rằng, Việt Nam nằm trong 5

nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất trước sự biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển

dâng cao lên 1 m, Việt Nam sẽ mất khoảng 5% diện tích tự nhiên, 11% số người mất nhà cửa,

giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% tổng thu nhập quốc nội (GDP). Và nếu nước biển

dâng lên 3-5 m, đồng nghĩa với thảm họa có thể xảy ra ở Việt Nam.

Ngân hàng Thế giới (WB) (Jeremy, 2008) nhận định rằng, hậu quả của mực nước biển dâng

sẽ là một thảm họa với Việt Nam. Các dự báo của Việt Nam với UNFCCC (2003) cho rằng,

nước biển sẽ tăng lên 9 cm vào năm 2010, 33 cm vào năm 2050, 45 cm vào năm 2070 và 1 m

vào năm 2100. Việt Nam có một đường bờ biển dài, và như vậy, khoảng 1.700 km (hay

khoảng 60%) đất ngập nước ven biển Việt Nam sẽ bị đe dọa do mực nước biển dâng và do đó

sẽ tác động xấu đến ngành thủy sản, cũng như các cộng đồng ven biển.

Với nhiệt độ tăng từ 1,5-2,5oC, dự kiến sẽ có những biến đổi về cấu trúc và chức năng của các

hệ sinh thái trên cạn và các loài sinh vật chủ đạo. Ở một số vùng, khi có sự biến đổi một cách

mạnh mẽ về khí hậu, có thể sẽ dẫn đến tình trạng suy thoái và tàn lụi của một số hệ sinh thái

và sự diệt chủng của một số loài động, thực vật. Nước biển dâng do biến đổi khí hậu có thể

làm mất đi nhiều khu rừng ngập mặn rất có giá trị của nhiều quốc gia. Biến đổi khí hậu sẽ gây

ra nguy cơ cháy rừng do nhiệt độ không khí tăng cao và giảm lượng mưa. Sự gia tăng khí nhà

kính, dẫn đến quá trình axit hóa nước biển và đại dương... Kết quả này tác động một cách

mạnh mẽ lên các hệ sinh thái dưới nước như các rạn san hô, thảm cỏ biển, các loài động vật

thân mềm...

Trên Trái đất, đại dương chiếm đến 70% bề mặt Trái đất. Trong khi đó, các vùng ven biển và

cửa sông có các hệ sinh thái đa dạng và có năng suất cao nhất, bao gồm các rạn san hô, rừng

ngập mặn, các thảm cỏ biển... Các hệ sinh thái biển và ven biển rất dễ bị tổn thương do tác

động của biến đổi khí hậu, kể cả những tác động của con người, bao gồm khai thác quá mức,

hủy hoại môi trường, ô nhiễm... Tác động của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng lên các

hệ sinh thái này thể hiện chủ yếu ở các mặt: gia tăng xói mòn ven biển, mở rộng vùng lũ lụt

ven biển, xâm nhập của nước biển vào đất liền tại các cửa sông, vùng đầm phá và các hệ sinh

Page 4: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

108

thái đất ngập nước khác, làm tan băng ở các vùng cực, ảnh hưởng đến thành phần và sự phân

bố của các loài (Lưu Đức Hải, 2009).

Tác động lên sản xuất lương thực, thực phẩm: Biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng tới tốc độ

tăng trưởng của cây trồng cũng như vật nuôi và góp phần làm lây lan dịch bệnh. Các tác động

này cũng sẽ dẫn đến thay đổi về chế độ chiếu sáng (nắng nóng) và lượng mưa (nước), gây suy

thoái đất, xói mòn đất màu, cháy... Bên cạnh đó, bản thân nền nông nghiệp cũng góp phần

làm thay đổi khí hậu, chẳng hạn như thay đổi mục đích sử dụng đất, cách thức canh tác (ngâm

nước trong các vùng trồng lúa, mía, đốt đồng sau thu hoạch, sử dụng phân bón và thuốc trừ

sâu... chính là nguồn khí thải nhà kính – ước tính nông nghiệp thải khoảng 20% lượng khí nhà

kính trên toàn cầu. Diện tích đất trồng lúa bị suy giảm (nhất là các vùng ven biển do bị ngập

mặn hoặc bị nhiễm mặn). Sản lượng lương thực cũng như thủy sản có nguy cơ bị suy giảm do

các hoạt động khai thác, sử dụng cũng như các tác động vật lý khác của tự nhiên.

Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu cũng sẽ gây nên những tác động không nhỏ lên vùng đới bờ –

nhất là các đảo và quốc đảo, tác động lên sức khỏe và cư dân vùng cửa sông, ven biển, nguồn

nước..., an ninh môi trường, an ninh quốc gia... (Trương Quang Học và Nguyễn Đức Ngữ,

2009). Bên cạnh đó, các hiện tượng thời tiết bất thường hoặc cực đoan sẽ xảy ra thường xuyên

hơn như bão, lũ, hạn hán, sóng thần...

2. ÁP DỤNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

Theo Phan Nguyên Hồng và cộng sự (1993), rừng ngập mặn xã Đông Hải, huyện Tiên Yên và

xã Đại Bình, huyện Đầm Hà nằm trong khu vực I: ven biển Đông Bắc, từ mũi Ngọc đến mũi

Đồ Sơn. Theo đó, khu vực nghiên cứu nằm trong tiểu khu 1 thuộc khu vực I – ven biển Đông

Bắc, từ Mũi Ngọc (Móng Cái, Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải Phòng).

Trước đây, khu vực này có diện tích rừng ngập mặn khá lớn – tới khoảng 5.000 ha – là một

trong những hệ sinh thái rừng ngập mặn điển hình của khu vực phía Bắc Việt Nam với chất

lượng rừng tốt, phong phú về chủng loại, đem lại nguồn thu nhập tốt cho người dân. Tuy

nhiên, do quá trình khai thác và sử dụng không hợp lý, nên diện tích RNM đã bị giảm nhiều,

chỉ còn khoảng 3.000 ha. Mặc dù vậy, diện tích rừng ngập mặn và tài nguyên đất ngập nước

vùng cửa sông, ven biển này vẫn đang tiếp tục bị đe dọa và có nguy cơ bị suy thoái nghiêm

trọng nếu không có những biện pháp kịp thời để bảo tồn và sử dụng một cách bền vững, mà

chủ yếu là do các nguyên nhân chính sau đây: (i) khai thác quá mức nguồn lợi lâm, thủy sản;

(ii) nuôi trồng thủy sản không bền vững; (iii) phá rừng phòng hộ; (iv) khai thác du lịch; (v) sử

dụng cho mục đích khác, kể cả việc chôn lấp rác thải không hợp lý.

2.1. Đặc điểm tự nhiên của khu vực

2.1.1. Vị trí địa lý

+ Xã Đông Hải, huyện Tiên Yên là một xã miền núi ven biển nằm ở phía Đông, cách huyện

lỵ Tiên Yên khoảng 17 km, có diện tích tự nhiên là 4.824,74 ha (số liệu kiểm kê đất đai

năm 2005).

+ Xã Đại Bình, huyện Đầm Hà là một xã miền núi ven biển nằm về phía Nam cách thị trấn

Đầm Hà khoảng 5 km, với tổng diện tích tự nhiên đất nổi là 3.022,17 ha.

Page 5: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

109

2.1.2. Địa hình

Nhìn chung cả Đông Hải và Đại Bình đều mang đặc điểm của địa hình vùng núi ven biển phía

Đông Bắc Bắc Bộ có tính đa dạng khá cao.

+ Xã Đông Hải có địa hình dốc thoải từ Bắc xuống Nam, phía Bắc đường 18A là vùng đồi

núi thấp có độ cao từ 25-350 m so với mực nước biển, đỉnh cao nhất 387,3 m. Phía Nam

đường 18A là vùng gò đồi xen lẫn các dải đất hẹp có độ cao từ 10-50 m, thoải dần ra phía

biển là vùng bồi tụ có độ cao từ 1,5-3 m. Vùng ven biển này được cải tạo thành đất canh

tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Đồi núi chiếm 70% diện tích tự nhiên của xã, sắp

xếp theo cánh cung Đông Triều – Móng Cái với độ dốc từ 15-25º. Địa hình đồi có mật độ

chia cắt trung bình từ 1-2,3 km.

+ Đại Bình cũng có địa hình đặc trưng của vùng núi và ven biển, với độ cao từ 1,5-78,5 m

và bị hệ thống sông, suối chia cắt mạnh. Vùng đất canh tác nông nghiệp (lúa) của Đại

Bình thuộc tiểu vùng phù sa cổ với độ cao từ 3,5-14 m so với mực nước biển. Địa hình

dốc thoải, lượn sóng, quá trình feralit mạnh, tạo thành kết von đá ong, đất lẫn nhiều sắt,

các vết vàng, đỏ loang lổ. Vùng đất bồi tụ ven biển có địa hình thoải dần ra biển với độ

cao từ 1,5-3 m. Khu vực này đã được người dân khai thác một phần cho nuôi trồng thủy

hải sản, phần lớn còn lại là các bãi sú vẹt, cồn cát ven biển bị ngập nước thủy triều.

2.1.3. Khí hậu

a) Nhiệt độ không khí:

Nhiệt độ trung bình năm của khu vực là 22,4oC, dao động từ 18-28

oC. Nhiệt độ trung bình cao

nhất là 28oC vào tháng 6 và tháng 7, nhiệt độ trung bình thấp nhất là 14,3

oC vào tháng 1 và 2

hàng năm. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối là 36,9oC và thấp nhất tuyệt đối là 1,5

oC, tổng tích ôn khí

khoảng 6.800-7.000oC.

b) Lượng mưa:

Hai xã nghiên cứu chịu ảnh hưởng của khí hậu Đông Bắc, nên lượng mưa trung bình là tương

đối lớn, vào khoảng 1.868 mm. Lượng mưa hàng năm cao nhất là 2.200 mm và thấp nhất là

1.400 mm. Lượng mưa phân theo hai mùa rõ rệt, mùa mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 9 hàng

năm, chiếm từ 75-80% tổng lượng mưa trong năm, mưa thấp nhất từ tháng 10 đến tháng 4

năm sau với tổng lượng mưa chiếm khoảng 20-25% lượng mưa hàng năm.

c) Lượng bốc hơi và độ ẩm không khí:

Đông Hải và Đại Bình là vùng có lượng bốc hơi lớn, lượng bốc hơi trung bình nhiều năm là

700-800 mm. Trong đó, lượng bốc hơi tháng cao nhất là 82 mm (tháng 4) và tháng thấp nhất

là 61 mm (tháng 1). Độ ẩm không khí trung bình 79-87%, tháng thấp nhất là 70-75% (tháng

10 và tháng 11) và tháng cao nhất là 92% (tháng 3 và tháng 4). Nhìn về tổng thể, đây là khu

vực có độ ẩm không khí trong năm tương đối cao, tuy nhiên ở các tháng 1 và tháng 12 hàng

năm, thường xảy ra hạn hán và sương muối, làm ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi.

d) Gió, bão:

Đông Hải và Đại Bình có hai loại gió chính thổi theo hướng Bắc và Đông Bắc, Nam và Đông

Nam:

Page 6: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

110

+ Mùa hè, gió thường thổi theo hướng Nam và Đông Nam từ biển vào từ tháng 5 đến tháng

9, mang theo nhiều hơi nước, dễ gây ra mưa lớn, nên lượng mưa hàng năm vào mùa này

cao hơn các vùng khác, chính vì vậy, khu vực này cũng thường chịu ảnh hưởng của bão

trong thời gian này.

+ Mùa đông, gió thường thổi theo hướng Bắc và Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau.

Tốc độ gió trung bình 3-4 m/s. Gió mùa Đông Bắc thường gây lạnh, giá rét, thời tiết khô

hanh, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp, thủy sản và gia súc, gia cầm.

+ Bão: Đây là hai xã miền núi ven biển, nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiều cơn bão.

Bão thường xuất hiện vào tháng 6 đến tháng 10 hàng năm. Tháng có nhiều bão là tháng 7

và tháng 8 hàng năm, với tốc độ gió từ 20-40 m/s, thường gây ra mưa lớn, gió mạnh,

lượng mưa trong bão đo đượn từ 100-200 mm.

2.1.4. Thủy văn

a) Xã Đông Hải:

Chế độ thủy văn của xã Đông Hải chịu ảnh hưởng của nhiều dạng địa hình. Hầu hết các khe

suối đều bắt nguồn từ các dãy núi phía Tây và phía Bắc chảy xuống sông Hà Thanh và một số

sông khác rồi đổ ra biển. Trên địa bàn, hiện có các hệ thống sông chính là: hệ thống sông

Chùa Sâu – Cái Mắm, là hai hệ thống sông cung cấp nước lợ chủ yếu cho nguồn lợi và nuôi

trồng thủy sản (sông Chùa Sâu là dòng sông chung với sông Cái Ruộng của Đại Bình cùng

chảy ra biển và gặp sông Cái Mắm). Sông Hà Thanh là nguồn sông nước ngọt chính cung cấp

nước cho sản xuất và sinh hoạt của xã. Về mùa mưa, từ các khu vực đồi núi phía Bắc và Tây

Bắc, lượng nước dồn nhanh về sông chính, tạo nên dòng chảy lớn và xiết gây lũ lụt và sạt lở.

Về mùa khô, mực nước các dòng sông thường rất thấp, đôi khi cạn kiệt.

b) Xã Đại Bình:

Sông Đồng Lốc là một trong hai con sông chính của huyện Đầm Hà, chảy theo hướng Tây

Bắc – Đông Nam. Các sông đều bắt nguồn từ các dãy núi cao ở phía Bắc và Tây Bắc, chảy ra

biển. Các sông đều ngắn và dốc, lưu lượng sông khá lớn (trên 900 m/s), đặc biệt là về mùa

mưa. Vào mùa mưa, thường xảy ra lũ lụt đột ngột, trong khi đó, mùa khô lại thường khô cạn.

Bên cạnh sông Đồng Lốc, Đại Bình còn có hệ thống sông chung với Đông Hải của Tiên Yên,

đó là sông Cái Ruộng (hay còn gọi là sông Chùa Sâu) ở phía Nam và sông Tài Giàu ở phía

Đông.

2.1.5. Hải văn

Khu vực phía Nam và Đông Nam của xã Đông Hải cũng như của xã Đại Bình chịu ảnh hưởng

của chế độ nhật triều thuần nhất (một lần nước lên và một lần nước xuống trong ngày). Về

mùa hè, nước thường lên vào buổi chiều, còn mùa đông, nước thường lên vào buổi sáng. Biên

độ triều dao động từ 3-4 m (Móng Cái là 4,25 m). Thủy triều mạnh trong năm vào các tháng

1, 2, 6, 7, 8 và 10. Trong một tháng mặt trăng, có hai kỳ nước cường xen lẫn hai kỳ nước kém

(biên độ dao động triều 0,5-1 m). Trong tháng 6-8, dòng triều chủ yếu song song với đường

bờ, tốc độ cực đại có thể lên đến 100 cm/s.

Page 7: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

111

2.2. Tài nguyên thiên nhiên

2.2.1. Tài nguyên đất

a) Xã Đông Hải:

Trên cơ sở kiến tạo địa chất, địa hình, có thể chia xã Đông Hải thành hai vùng chính là vùng

đồi núi và vùng đất bằng ven biển.

+ Vùng đồi núi: có thể chia thành 4 loại:

Đất lúa nước vùng đồi núi;

Đất feralit điển hình nhiệt đới ẩm (từ 25-175 m) được chia thành 2 loại;

Đất feralit trên núi (từ 175-400 m) gồm hai loại;

Đất feralit màu vàng nhạt trên núi cao (từ 400 m trở lên).

+ Đất bằng ven biển: Bao gồm các cồn cát, bãi cát và đất mặn. Do tác động của con người,

một phần đã được chuyển thành đất trồng lúa, trồng màu. Diện tích còn lại rất thuận lợi

cho việc nuôi trồng thủy sản.

b) Xã Đại Bình:

Nhìn chung, về cơ bản, Đại Bình cũng có các loại đất cơ bản giống với Đông Hải, với các loại

đất chính như sau:

+ Đất phèn có màu nâu, xám nâu: Thành phần cơ giới thịt nhẹ, có khả năng sử dụng cho sản

xuất nông nghiệp, nhưng hạn chế;

+ Đất feralit biến đổi do trồng lúa, đất dốc tụ, bạc màu: Có tầng sét loang lổ, đất glây chua.

Thích hợp cho phát triển cây trồng ngắn ngày hàng năm;

+ Nhóm đất cát ven biển và đất mặn: Phát sinh do sự xâm nhập của thủy triều, gây mặn bề

mặt hoặc mạch ngầm. Những vùng nhô cao lên khỏi các bãi bùn thường có một lớp muối

trắng. Đất có màu nâu xám, ít chua đến trung tính, thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt

nhẹ.

2.2.2. Tài nguyên nước

+ Nguồn nước mặt: Cả Đông Hải và Đại Bình đều có nguồn tài nguyên nước mặt khá phong

phú. Với lượng mưa trung bình hàng năm lớn, vào mùa mưa, nước mặt của khu vực là rất

dồi dào, chất lượng khá tốt, đảm bảo cung cấp đầy đủ cho sản xuất nông nghiệp cũng như

sinh hoạt. Bên cạnh đó, do hệ thống sông suối khá dầy đặc, nên nước mặt được cung cấp

cho các vùng dưới hạ lưu là khá tốt. Tuy nhiên, nước mặt của khu vực phân bố không đều

cả về thời gian và không gian, do đặc điểm thời tiết, khí hậu cũng như phân bố không đều

của các sông suối bị địa hình chia cắt. Vào mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, các

sông suối đều cạn và ít nước. Vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, các sông suối, ao hồ

đều đầy nước và nhiều khi gây ra ngập lụt.

+ Nguồn nước ngầm: Tổng trữ lượng nước ngầm của cả Đông Hải và Đại Bình là khá lớn,

có chất lượng tốt. Hiện tại, phần lớn cư dân của khu vực đều đang sử dụng nước giếng làm

nước sinh hoạt và ăn uống hàng ngày. Mực nước ngầm khá cao, nhiều nơi chỉ cách mặt

Page 8: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

112

đất vài mét, trung bình 3-4 m. Tuy nhiên, một số khu vực ven biển có hiện tượng nhiễm

mặn về mùa khô.

+ Tài nguyên nước mặn: Khu vực có diện tích mặt biển khá rộng với chất lượng nước biển

được đánh giá là tương đối tốt, ít chịu ảnh hưởng của các nguồn ô nhiễm có nguồn gốc tự

nhiên và nhân tạo. Mặt khác, do được các đảo ở phía Nam bao bọc như đảo Vạn Vược, núi

Cuống, Vân Đồn nên đã tạo ra một vùng vịnh ven bờ ít sóng, biên độ triều lớn, rất phù

hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của các loài sinh vật biển, kể cả hải sản.

2.2.3. Tài nguyên sinh học

a) Xã Đông Hải có 2.856,4 ha rừng (chiếm 59,20% diện tích đất tự nhiên), trong đó có 500 ha

rừng phòng hộ (chủ yếu là rừng ngập mặn). Ngoài ra, xã còn có khoảng 4.122 ha rừng sản

xuất như thông (mã vĩ), keo tai tượng (hoặc lai), bạch đàn..., hàng năm cung cấp sản lượng gỗ

khai thác các loại đạt 115 m3. Bên cạnh đó, Đông Hải còn nhiều các loại lâm sản ngoài gỗ

như tre, nứa, song, mây... và các loại cây dược liệu.

b) Xã Đại Bình có 1.105,68 ha đất rừng (tính năm 2005), chiếm 36,59% tổng diện tích tự

nhiên, trong đó có 77,8 ha rừng sản xuất và rừng trồng, 1.027,88 ha rừng phòng hộ – chủ yếu

là rừng phòng hộ ven biển (rừng ngập mặn).

Biển của Tiên Yên và Đầm Hà nói chung, Đông Hải và Đại Bình nói riêng là nơi sinh sống

của nhiều loài thủy, hải sản có giá trị bảo tồn và giá trị kinh tế cao. Hệ sinh vật biển ở khu vực

này đa dạng, là một tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biển. Bên cạnh các loài thủy sản có giá

trị kinh tế, khu vực này còn có nhiều loài chim di cư cũng như chim định cư sinh sống, là đối

tượng nghiên cứu khoa học cũng như du lịch sinh thái lý tưởng.

Hoàng Văn Thắng và cs. (2008) đã điều tra, xác định được tại khu vực có: 69 loài thực vật

nổi, 58 loài động vật nổi, 33 loài rong biển, 4 loài cỏ biển, 159 loài thực vật bậc cao (trong đó

có 25 loài ngập mặn chính thức), 240 loài động vật đáy, 112 loài côn trùng, 96 loài cá, 43 loài

lưỡng cư và bò sát, 77 loài chim và 13 loài thú. Trong đó, có 5 loài đặc hữu, 30 loài hiếm và 5

loài bị nguy cấp. Đây là những số liệu tương đối đầy đủ đầu tiên về các loài sinh vật đã được

xác định tại vùng cửa sông ven biển Đông Hải – Tiên Yên và Đại Bình – Đầm Hà, Quảng

Ninh.

2.2.4. Cảnh quan và môi trường ven biển

Khu vực nghiên cứu nhìn chung khá đa dạng, có các cảnh quan vùng cửa sông (cửa sông hình

phễu) ven biển, vịnh biển, các vụng nhỏ giữa các đảo. Tại những cảnh quan trên, có các hệ

sinh thái (HST) đặc trưng, có thể kể như: HST nước mặn, HST nước lợ cửa sông, HST đất

ướt ven biển, HST vùng triều, HST tùng áng (vũng vịnh nhỏ giữa các đảo), HST rừng ngập

mặn và HST đầm nuôi.

2.3. Tai biến thiên nhiên

Hàng năm, khu vực Tiên Yên và Đầm Hà chịu ảnh hưởng trực tiếp của 1-2 cơn bão và khoảng

tới 3-4 cơn bão ảnh hưởng gián tiếp. Tháng có nhiều bão đổ bộ vào Tiên Yên là tháng 7 và

tháng 8, sớm hơn các khu vực khác ở miền Bắc. Phần lớn các cơn bão đổ bộ vào Tiên Yên là

bão vừa và nhỏ (tốc độ gió từ cấp 8 đến cấp 10). Vào mùa bão, trung bình mỗi tháng có 1 cơn

bão, có tháng đến 3 hoặc 4 cơn. Ngược lại, nhiều tháng, nhiều năm không có cơn bão nào.

Page 9: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

113

Sản phẩm đi kèm với bão thường là mưa to gió lớn và gây ra lũ lụt tại nhiều khu vực. Tốc độ

gió lớn nhất khi có bão tới trên 20 m/s, thậm chí không hiếm những cơn bão tốc độ lớn hơn 40

m/s, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các khu vực nuôi trồng thủy sản. Bão kèm theo mưa lớn,

lượng mưa của các cơn bão đổ bộ trực tiếp ít nhất cũng trên 100 mm, có khi tới 300-400 mm,

gây ngọt hóa đột ngột hoặc lũ lụt phá vỡ các ao đầm nuôi trồng thủy sản. Cùng thời gian khi

mưa về, nhiệt độ không khí lại càng giảm nhanh, làm cho rủi ro của nuôi trồng thủy sản càng

cao.

2.4. Đặc điểm kinh tế-xã hội, nhân văn khu vực Đông Hải và Đại Bình

2.4.1. Tình hình sản xuất nông nghiệp

Diện tích đất nông nghiệp của cả 2 xã Đại Bình và Đông Hải không nhiều, tuy nhiên, ở đây có

đến khoảng 77-80% hộ dân làm nông nghiệp.

Xã Đại Bình có 288,43 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó, 180,16 ha là đất trồng lúa,

68,38 ha là đất trồng cây hàng năm như ngô, khoai lang, đậu tương, lạc, khoai tây và rau củ

các loại, còn lại 39,89 ha là đất trồng cây lâu năm.

Xã Đông Hải có 385,44 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó, 312,00 ha là đất trồng lúa,

38,54 ha là đất trồng cây hàng năm như ngô, khoai lang, đậu tương, lạc, khoai tây và rau củ

các loại, còn 34,90 ha là đất trồng cây lâu năm.

Tại khu vực nghiên cứu, người dân canh tác 2 vụ lúa: vụ chiêm và vụ mùa. Vụ chiêm bắt đầu

từ tháng 2 đến tháng 5, trong khi vụ mùa bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 10 (âm lịch). Tuy

nhiên, nhiều diện tích đất chỉ trồng được 1 vụ lúa do không đủ nước tưới, vụ còn lại người

dân phải trồng màu. Cây lương thực chính trong vùng là lúa. Cây màu ở đây chủ yếu là ngô,

khoai lang, khoai sọ, lạc, đỗ tương, đậu các loại, rau các loại và một số cây công nghiệp như

thanh hao hoa vàng.

Năng suất lúa trong vùng không cao, ở những chân ruộng tốt, năng suất là 100 kg/sào/vụ,

những ruộng khác có năng suất thấp hơn, trung bình khoảng 70-80 kg/sào/vụ. Năng suất ngô

đạt 39,5 tạ/ha, khoai lang có năng suất 57 tạ/ha, đậu tương 9 tạ/ha, lạc 9 tạ/ha.

2.4.2. Tình hình nuôi và khai thác thủy sản

a) Tình hình nuôi thủy hải sản:

Bờ biển dài, diện tích bãi triều lớn của hai xã Đại Bình và Đông Hải có nguồn lợi thủy sản tự

nhiên đa dạng và phong phú, nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Chất đáy tại các vùng bãi triều

ven biển trong khu vực rất phù hợp cho việc phát triển nuôi các loài nhuyễn thể có giá trị như

ngao, sò, khu vực nghiên cứu có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng thủy sản nước lợ.

Trước năm 1993, từ bờ ngăn đất làm nông nghiệp của các xã ra phía biển đều là các bãi triều.

Hưởng ứng chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện để nhân dân đầu tư đánh bắt và

nuôi trồng thủy hải sản của Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Yên và Đầm Hà, phong trào nuôi

trồng thủy sản đã được bắt đầu tại khu vực từ năm 1994. Trước năm 2003, chủ yếu dân trong

vùng tự ngăn đầm, đắp đập nuôi trồng thủy sản mà không có sự chỉ đạo của chính quyền các

cấp. Từ năm 2003, chính quyền các địa phương đã xây dựng quy hoạch nuôi trồng thủy sản

mặn lợ với mục đích khai thác lợi thế của địa phương mình. Chính quyền địa phương đã

Page 10: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

114

khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển nuôi thủy sản. Hình

thức nuôi chủ yếu là nuôi quảng canh cải tiến và bán thâm canh. Đối tượng nuôi bán thâm

canh chủ yếu là tôm sú, tôm he chân trắng Nam Mỹ và tôm he Nhật Bản. Đối tượng nuôi

quảng canh cải tiến bao gồm một số loài cá nước lợ như cá vược và cá song. Vùng nuôi trong

bãi được sử dụng để nuôi ngao, nghêu, sò theo hình thức quây lưới quanh khu vực nuôi. Vùng

nuôi biển (eo, vịnh, biển nông) nuôi cá bằng lồng, bè nổi và quây lưới chắn. Trong khu vực,

chưa có thâm canh cá nước ngọt.

Việc nuôi thủy hải sản những năm đầu đã thu hút một lực lượng lao động đáng kể, góp phần

giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận nhân dân trong khu vực. Tuy

nhiên, việc nuôi thủy hải sản tại khu vực đã không mang lại những kết quả như mong muốn.

Một số diện tích ao đầm nuôi không hiệu quả, bị vỡ đê do bão và triều cường. Việc nuôi thủy

sản tại khu vực chủ yếu mang tính tự phát, thiếu sự phối hợp đồng bộ với các giải pháp về con

giống, thức ăn, thị trường, bảo vệ môi trường, nguồn lợi... Do đó, sự phát triển nuôi trồng

thủy sản tại khu vực không ổn định và nhiều hộ làm ăn bị thua lỗ (Bảng 1).

Bảng 1. Tình hình nuôi trồng và khai thác thủy hải sản tại hai xã

Đại Bình và Đông Hải năm 2007-2008

Diện tích/sản lượng thủy hải sản

Xã Đại Bình Xã Đông Hải

Năm

2007

Năm

2008*

Năm

2007

Năm

2008*

A. Diện tích nuôi trồng thủy hải sản

- Diện tích nuôi tôm 18,4 ha 21,2 ha - -

- Nuôi lồng bè 20 ô lồng 28 ô lồng - -

- Nuôi nhuyễn thể - 227 ha - -

- Diện tích nuôi cá nước ngọt 6 ha 4,43 ha - -

B. Sản lượng nuôi trồng thủy hải sản 189,4 tấn 42 tấn 155 tấn 31,8 tấn

- Sản lượng tôm 30,4 tấn - 50 tấn -

- Sản lượng nuôi ô lồng 7 tấn - 48 tấn -

- Nuôi nhuyễn thể 140 tấn - 20 tấn -

- Sản lượng cá nước ngọt 12 tấn - 37 tấn -

C. Sản lượng khai thác hải sản tự nhiên 140,6 tấn 115 tấn 331 tấn 218,2 tấn

Nguồn: UBND xã Đại Bình và UBND xã Đông Hải, 2007, 2008.

Ghi chú: Năm 2008*: Chỉ tính 6 tháng đầu năm.

Tuy số liệu các năm và các loài nuôi chưa thật đầy đủ, nhưng có thể thấy số diện tích nuôi

tôm tuy không nhiều nhưng có tăng lên qua các năm, sản lượng tôm gần như không đổi. Điều

này cho thấy năng suất tôm bị suy giảm và cũng phù hợp với kết quả điều tra trong 44 hộ ở

thôn Làng Ruộng và 60 hộ ở thôn Cái Khánh. Không có hộ nào trong số 44 hộ ở Làng Ruộng

Page 11: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

115

có đầm tôm và chỉ có 2 hộ ở Cái Khánh có đầm tôm, nhưng không cho năng suất do tôm chết.

Số lượng ô lồng nuôi cá cũng không ổn định và có chiều hướng giảm sút. Riêng diện tích nuôi

cá nước ngọt và diện tích nuôi nhuyễn thể có chiều hướng gia tăng.

Ở xã Đại Bình, số hộ nuôi thủy hải sản tăng qua các năm. Năm 2008, số đầm nuôi cá nước

ngọt là nhiều nhất (57 đầm) của các thôn Đồng Mương, Làng Ruộng và Nhâm Cao; 9 đầm

nuôi tôm thuộc thôn Nhâm Cao và Xóm Khe; 3 đầm nuôi lồng bè thuộc thôn Làng Ruộng; 25

đầm nuôi ngao nằm ở Chương Cả.

Đa số các hộ có đầm vào các năm 2001 đến 2004. Chỉ có một vài hộ có đầm năm 2006-2007.

Trước đây, người dân nuôi cua, cá nước ngọt và tôm. Nhưng nay đối tượng nuôi chủ yếu tập

trung vào cá nước ngọt và ngao. Nuôi tôm không đúng kỹ thuật hoặc tại những khu vực điều

kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo ra nhiều rủi ro, không thích hợp với người nghèo, đã gây

nên một số hiệu quả tiêu cực và nguy hiểm, làm cho người nghèo trở nên nghèo hơn.

b) Tình hình khai thác hải sản:

Theo đánh giá của chính quyền địa phương, ở cả hai xã Đại Bình và Đông Hải, nghề đánh cá

khơi và bám khơi phát triển chậm, chưa có tàu đánh cá ở các ngư trường vùng khơi. Tuy

nhiên, sản lượng khai thác hải sản tự nhiên trong khu vực cao hơn nhiều so với sản lượng

nuôi. Năm 2008, xã Đại Bình có 27 hộ đánh bắt với 29 chiếc tàu công suất 6-20 CV và xã

Đông Hải có 19 hộ. Trong thời gian gần đây, một số hộ dân có trang bị thêm các ngư cụ khai

thác cá ngừ, cá song, sam biển, sứa…, nên sản lượng khai thác cũng như giá trị tổng sản

lượng cao hơn, góp phần tăng thu nhập cho các hộ dân.

Ngoài khai thác hải sản gần bờ, việc khai thác hải sản tại các bãi triều được phát triển mạnh

mẽ. Đây là nơi tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho các hộ trung bình và nghèo không chỉ của

hai xã Đại Bình và Đông Hải, mà còn của các xã lân cận. Có thể thấy điều này qua kết quả

điều tra tại 44 hộ thôn Làng Ruộng (Đại Bình) và 60 hộ thôn Cái Khánh (Đông Hải). Trong số

104 hộ điều tra, chỉ có 28 hộ không đi khai thác hải sản ngoài bãi triều (20 hộ của Ràng

Ruộng và 8 hộ của Cái Khánh).

Đối tượng khai thác rất đa dạng: các loại cá, tôm, vạng, ngán, sâu đất (còn gọi là bông thùa),

sá sùng, bạch tuộc, hà, ốc các loại, v.v... Trong số các sản phẩm trên, tôm, cá là những loài có

giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, một số động vật thân mềm khác cũng có giá trị cao như ngán

(50.000 đ/kg), sá sùng (40.000 đ/kg), ốc đĩa (90.000 đ/kg). Thông thường thì người dân chỉ

khai thác một số loài nhất định. Trung bình mỗi ngày một người bắt được 1,5-2 kg sâu, 10-15

kg vạng hay 1 kg ngán. Thu nhập trung bình cũng được 50.000 đ/ngày, có khi được hơn

100.000 đ/ngày hoặc nhiều hơn và hầu như họ không mất tiền đầu tư.

Các hoạt động khai thác mang tính chất hủy diệt nguồn lợi như dùng mìn đánh bắt cá gần đây

đã giảm, nhưng vẫn còn xuất hiện ở một số nơi trong địa bàn xã và huyện, phần lớn là do

những người từ nơi khác đến thực hiện. Những hoạt động này trong tương lai cần được ngăn

cấm hoàn toàn để bảo toàn nguồn lợi và đảm bảo an toàn tính mạng cho chính người dân.

Tóm lại, Nguồn thu nhập chính của người dân trong khu vực cửa sông ven biển xã Đại Bình,

huyện Đầm Hà và xã Đông Hải, huyện Tiên Yên là từ các nguồn lợi khai thác và nuôi trồng

thủy sản như tôm, cua và cá. Nguồn thu đứng thứ 2 là dựa vào canh tác đất nông nghiệp, lúa

Page 12: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

116

nước 1 vụ và 2 vụ. Tuy nhiên, diện tích trồng lúa nước 1 vụ và 2 vụ ở các thôn trong xã rất

nhỏ, sản lượng lương thực thu được trực tiếp từ trồng lúa còn thấp, chưa đảm bảo được an

toàn lương thực cho người dân.

2.5. Những tác động của biến đổi khí hậu đến khu vực

Trong những năm qua, do điều kiện thời tiết không thuận lợi, giá cả vật tư, phân bón tăng cao,

đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp trong khu vực.

Trong những năm gần đây, nhiều diện tích đất bị nhiễm mặn, ảnh hưởng đến diện tích canh

tác và năng suất cây trồng. Năm 1992, Đại Bình – Đầm Hà bị vỡ đê Đồng Bí sau cơn bão số

2. Hậu quả là khoảng 162 ha khu vực Đồng Bí đã bị ngập mặn, làm mất khoảng 30 ha diện

tích đất trồng lúa, nhiều chục ha bãi chăn thả và đầm nuôi thủy sản nước lợ. Trong những năm

gần đây, khoảng 5 ha của khu Tài Dàu – Đại Bình cũng bị nhiễm mặn do thủy triều tràn đê.

Năm 2004, khu vực Cái Khánh của Đông Hải – Tiên Yên cũng bị nhiễm mặn khoảng 2 ha do

triều cường thấm qua đê.

Có thể thấy, với diện tích đất trồng lúa rất hạn chế trong khu vực, thì sự nhiễm mặn đã ảnh

hưởng lớn đến đời sống của người dân. Theo kết quả điều tra 44 hộ của thôn Làng Ruộng

(Đại Bình) và 60 hộ thôn Cái Khánh (Đông Hải), có đến 10 hộ mất trắng vụ chiêm năm 2007.

Điều này ảnh hưởng lớn đến vấn đề an toàn lương thực của 2 xã. Số hộ thiếu thóc ăn trong 2-

3 tháng/năm vào những lúc giáp hạt tương đối nhiều, đặc biệt là tại thôn Cái Khánh, nơi có

nhiều hộ gia đình dân tộc thiểu số. Theo kết quả điều tra, có đến 45/60 hộ tại thôn Cái Khánh

thiếu thóc ăn, thậm chí có hộ thiếu thóc ăn trong 6 tháng.

Theo đánh giá của người dân địa phương, các loài tôm cá và các nhuyễn thể khác ít dần trong

những năm gần đây, đặc biệt là cua còn rất ít. Khối lượng các loại hải sản đánh bắt được cũng

ít đi. Tuy nhiên, giá cả các mặt hàng lại tăng lên, nên thu nhập của người dân từ nguồn hải sản

cũng tương đối cao, bổ sung được sự thiếu hụt thóc gạo do ít ruộng canh tác và đất xấu. Đặc

biệt, đối với các hộ gia đình chưa được cấp đất canh tác thì tiền bán hải sản khai thác được là

nguồn thu nhập chính cho cả gia đình.

Qua các phiếu điều tra, nhận thức của người dân về nguồn lợi hải sản của địa phương tương

đối rõ ràng. Mọi người đều nhận thức được vai trò của rừng ngập mặn đối với môi trường

sống của các loài hải sản. Hầu như toàn bộ số người được điều tra đều đề nghị cần có giải

pháp bảo vệ bền vững rừng ngập mặn của địa phương.

Trong năm 2008, Tiên Yên và Đầm Hà, nhất là Tiên Yên đã phải gánh chịu một trận lũ lịch

sử trong vòng 50 năm. Trong đó, Tiên Yên ước tính thiệt hại trên 26 tỷ đồng, Đầm Hà ước

tính thiệt hại trên 6 tỷ đồng. Đây là chưa kể huyện bên cạnh là Bình Liêu ước tính thiệt hại

trên 50 tỷ đồng cùng với nhiều người bị thiệt mạng.

2.6. Kết quả xây dựng và áp dụng thử nghiệm mô hình

1. Cộng đồng tham gia và đồng thuận trong việc thực hiện.

2. Kiến thức và nhận thức của cộng đồng về vai trò và giá trị của rừng ngập mặn, nhất là

trong bối cảnh biến đổi khí hậu được nâng cao.

Page 13: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

117

3. Quy chế phối hợp giữa hai xã cũng như quy chế quản lý và sử dụng tài nguyên thiên

nhiên của hai thôn được cộng đồng nhất trí thông qua và được chính quyền và đại diện các

đoàn thể, nhân dân cam kết, ban hành và triển khai.

4. Ban quản lý được thành lập để giám sát các hoạt động khai thác và bảo tồn hệ sinh thái

rừng ngập mặn.

5. Các công việc được triển khai: Cộng đồng được sự hỗ trợ về thể chế, chính sách, tài

chính và kỹ thuật, kể cả sự hỗ trợ về tài chính cho các mô hình sinh kế bền vững.

6. Rừng ngập mặn và các tài nguyên của rừng ngập mặn sẽ được quản lý và sử dụng hợp

lý hơn, đặc biệt là trong vấn đề chắn sóng, gió bão và xói mòn bờ biển.

7. Đây là mô hình quản lý, bảo tồn dựa vào cộng đồng được triển khai tại hai xã có hệ sinh

thái rừng ngập mặn tự nhiên điển hình tại miền Đông Quảng Ninh. Đây cũng có thể được coi

là một mô hình có sự kết hợp của các nhà: Nhà Quản lý, Nhà Khoa học và Nhà Nông, một mô

hình thích ứng với biến đổi khí hậu tại các vùng cửa sông, ven biển.

2.6.1. Hiệu quả về kinh tế-xã hội tại khu vực xây dựng mô hình

+ Việc cộng đồng tham gia quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên rừng ngập mặn sẽ hạn

chế được những bất cập mà chính quyền và các cơ quan chức năng đang gặp phải trong

quá trình quản lý và bảo vệ tài nguyên hệ sinh thái rừng ngập mặn.

+ Hạn chế được việc khai thác tài nguyên rừng ngập mặn và đất rừng một cách bừa bãi,

không hợp lý, gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường rất khó khắc phục cũng như sẽ rất

tốn kém trong quá trình hồi phục; giảm nhẹ được các tác động tiêu cực của biến đổi khí

hậu.

+ Tất cả các thành phần, hộ gia đình đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Tất cả mọi người

dân đều được quyền sử dụng, khai thác, quản lý và có trách nhiệm đối với tài nguyên của

hệ sinh thái rừng ngập mặn tại địa phương.

+ Tài nguyên rừng ngập mặn, đặc biệt là các loài thủy, hải sản sẽ được khai thác và sử dụng

hợp lý và bền vững, đảm bảo cho việc khai thác và sử dụng một cách lâu dài không làm

suy kiệt nguồn tài nguyên và hủy hoại môi trường.

+ Các mô hình sinh kế bền vững được giới thiệu và áp dụng tại địa phương.

+ Cộng đồng các dân tộc và lãnh đạo địa phương tại thôn Cái Khánh và thôn Làng Ruộng đã

hiểu biết hơn cũng như có kiến thức hơn về rừng ngập mặn, biến đổi khí hậu và phát triển

bền vững.

2.6.2. Hiệu quả về tổ chức quản lý tài nguyên RNM tại địa phương

a) Trước khi xây dựng mô hình:

+ Trước khi Dự án được triển khai, việc quản lý và sử dụng tài nguyên rừng ngập mặn tại

địa phương hoàn toàn theo cơ chế cũ và thụ động, chỉ dựa vào kiểm lâm địa phương và

chính quyền các cấp, người dân không tham gia vào công tác quản lý và bảo tồn nguồn tài

nguyên này, nên rất nhiều các hoạt động khai thác không hợp lý đã xảy ra.

Page 14: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

118

+ Việc quản lý không có sự tham gia của người dân địa phương còn dẫn đến một số mâu

thuẫn giữa chính quyền và nhân dân, giữa người làm đầm và nhân dân và đặc biệt là

không nhận được sự đồng thuận và tham gia của người dân địa phương.

b) Sau khi xây dựng mô hình:

+ Mô hình quản lý, sử dụng tài nguyên dựa vào cộng đồng không chỉ cung cấp các kiến

thức, hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật, mà còn cung cấp một công cụ hữu hiệu cho cộng

đồng trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên của họ. Trong quá trình triển khai mô hình,

chính quyền và nhân dân địa phương có thể đúc rút những kinh nghiệm, cải tiến, bổ sung

và chỉnh sửa những nội dung và cách thức mới để phù hợp với tình hình thực tiễn của họ.

+ Sau khi tham gia thực hiện mô hình, chính quyền cũng như nhân dân địa phương đã nắm

được các bước, nguyên tắc cũng như trình tự xây dựng và tổ chức thực hiện mô hình. Trên

cơ sở đó, họ có thể tự củng cố hoặc tổ chức xây dựng và nhân rộng mô hình qua các thôn

khác.

KẾT LUẬN

Khu RNM Đông Hải – Tiên Yên và Đại Bình – Đầm Hà còn giữ được tính chất tự nhiên còn

sót lại của RNM ở miền Bắc Việt Nam. RNM ở đây có giá trị to lớn trong việc chắn sóng,

bão, bảo vệ bờ biển, bảo vệ nguồn hải sản vùng Đông Bắc của đất nước và cuộc sống của

người dân ven biển.

Chính quyền và nhân dân các dân tộc ở Đông Hải và Đại Bình đã có nhiều nỗ lực trong việc

quản lý và sử dụng có hiệu quả rừng ngập mặn tại đây. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân và

những khó khăn khác nhau, kể cả về kiến thức, kỹ thuật và cơ sở vật chất, ở Đông Hải và Đại

Bình trước đây, hoạt động bảo vệ rừng chưa được quan tâm đầy đủ so với hoạt động nuôi

trồng thủy sản, nên RNM bị phá hại nhiều.

Mô hình quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng phục vụ phát triển bền vững đã

được xây dựng có kết quả và áp dụng thử nghiệm thành công đối với hệ sinh thái rừng ngập

mặn tại thôn Cái Khánh – xã Đông Hải – Tiên Yên và Làng Ruộng – xã Đại Bình – Đầm Hà,

Quảng Ninh. Mô hình là kết quả kế thừa kinh nghiệm trong nước và quốc tế, là mô hình có sự

kết hợp thành công giữa các nhà quản lý, nhà khoa học và cộng đồng. Mô hình có tính khả thi

và có thể nhân rộng và áp dụng cho các địa phương có điều kiện tương tự.

Việc xây dựng và triển khai thử nghiệm mô hình khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên

rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng đã nhận được sự tham gia và hưởng ứng tích cực của

chính quyền cũng như nhân dân các dân tộc tại xã Đông Hải – Tiên Yên và Đại Bình – Đầm

Hà. Mô hình đã được địa phương coi như là một giải pháp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn

trong việc quản lý, bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên rừng ngập mặn tại địa phương,

đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay.

Biến đối khí hậu đã có những tác động tiêu cực đến kinh tế-xã hội cũng như tài nguyên thiên

nhiên của khu vực, thể hiện ở việc giảm diện tích canh tác do bị nhiễm mặn, vỡ đê bao, năng

suất cây trồng giảm, sản lượng thủy sản ngày càng thấp...

Page 15: QUẢN LÝ BẢO TỒN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNGrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10206/1/10 Tien...sống của người dân ven biển, đặc biệt là trong bối cảnh

119

Việc cộng đồng cùng tham gia quản lý bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn sẽ góp phần tích

cực không chỉ vào việc bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, mà còn góp phần

tích cực vào việc giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu ở khu vực cửa sông, ven biển,

góp phần vào phát triển bền vững khu vực và đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lưu Đức Hải (Chủ biên), 2009. Biến đổi khí hậu Trái đất và giải pháp phát triển bền vững

ở Việt Nam. NXB Thống kê, Hà Nội, 130 trang.

2. Heathcote, Isobel W., 1998. Intergrated Watershed Management: Priciple and Practice.

School of Engineering University of Guelph.

3. Trương Quang Học và Nguyễn Đức Ngữ, 2009. Một số điều cần biết về biến đổi khí hậu.

NXB Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 154 trang.

4. Phan Nguyen Hong and Hoang Thi San, 1993. Mangroves of Vietnam. IUCN: 16-17.

5. Jeremy Carew-Reid, 2008. Rapid Assessment of the Extent and Impact of Sea Level Rise

in Vietnam. ICEM.

6. Hoàng Văn Thắng (Chủ trì) và cs., 2008. Triển khai áp dụng và hoàn thiện mô hình quản

lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng, phục vụ phát triển bền vững vùng cửa sông,

ven biển xã Đông Hải – huyện Tiên Yên và xã Đại Bình – huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng

Ninh. Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ Nhà nước về bảo vệ môi trường. Hà Nội.

7. UBND huyện Đầm Hà, 2007. Báo cáo thuyết minh tổng hợp quy hoạch sử dụng đất chi

tiết đến năm 2010, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đến năm 2010 xã Đại Bình, huyện Đầm

Hà, tỉnh Quảng Ninh. Quảng Ninh.

8. UBND xã Đại Bình, 2007. Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội

năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 2008. Huyện Đầm Hà, Quảng Ninh.

9. UBND xã Đại Bình, 2008. Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội

6 tháng đầu năm và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 6 tháng cuối năm 2008. Huyện

Đầm Hà, Quảng Ninh.

10. UBND xã Đông Hải, 2007. Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội

năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 2008. Huyện Tiên Yên, Quảng

Ninh.

11. UBND xã Đông Hải, 2008. Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội

6 tháng đầu năm và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 6 tháng cuối năm 2008. Huyện

Tiên Yên, Quảng Ninh.

12. UNDP, 2007. Báo cáo phát triển con người 2007/2008. Hà Nội.