Upload
others
View
13
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
RAMANA
MAHARSHI
SRI BHAGAVAN
( 1879 - 1950 )
TÔN-GIÁO THỰC-HIỆN
Tác-Giả Dịch Thuật :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
MỤC - LỤC
I._ Chúng Ta Có Hạnh-Phúc Không ? ............1
II._ Vô-Minh ( Avidya ) ................................11
III._ Thế-Giới ( Vũ-Trụ-Quan ) .....................27
IV._ Tiêu-Chuẩn Chân-Lý
Hay Thực-Tại .......................................33
V._ Tâm - Thân ( L'Ame ) .............................53
VI._ Trạng-Thái Vô-Ngã Vô-Tâm ................69
VII._ Sưu-Cầu ...............................................99
VIII._ Tịnh-Độ _ Sùng-Bái _ Thờ-Phụng ...133
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
CHÚNG TA CÓ HẠNH-PHÚC
KHÔNG ?
Chúng ta bước vào cuộc đời với ý-tưởng
người ta có thể tìm thấy hạnh-phúc ở trong đời
và nhờ vào đời. Nhiều người trong chúng ta, cả
đến suốt đời mình, không bao giờ tự hỏi cái ý-
tưởng ấy có đúng hay sai, thực ra họ không
dừng một phút nào để suy-nghĩ vào đấy nữa .
Nếu chúng ta không dừng lại được chút
thì giờ nào để suy-nghĩ là vì chúng ta luôn luôn
tưởng rằng, chúng ta đang hay sắp thu-hoạch
được ở đời điều mà chúng ta mong muốn. Và
cái tin-tưởng ấy chỉ bị giao-động khi nào chúng
ta thực-nghiệm bộ mặt bi-kịch của đời sống.
Một hiền-triết đã tuyên-bố, đấy là việc tự-nhiên
nhất, và ngài đã lấy giấc mộng để so-sánh : khi
chúng ta mộng một giấc mê êm-đềm thì chúng
ADPH RAMANA MAHARSHI
2
ta không tỉnh dậy, nhưng khi mộng thấy những
việc ghê-gớm, thì chúng ta liền cố thức dậy
ngay. Một cuộc đời hưởng-thụ tự-nhiên không
hợp cho những suy-nghĩ đứng-đắn. Nguyên-tắc
ấy, đối với tinh-thần tín-ngưỡng tôn-giáo cũng
như đối với người thường đều chính-xác cả .
Hễ chúng ta tìm nhìn bộ mặt thật của sự-
vật, chúng ta thấy ngay rằng chúng ta lao mình
theo đuổi cầu tìm hạnh-phúc mà chẳng thực
biết thực-tính nó cũng như phương-tiện để cầu
tìm .
Nay hãy xét xem hạnh-phúc tự-thân và
tìm xem nó cốt-yếu là gì ? Dĩ nhiên một trong
các tính-chất của nó là phải tồn-tại lâu dài vĩnh-
viễn, nó phải có thể mới-mẻ với ta suốt đời.
Nhưng đời sống chỉ đem lại cho ta cái gì khác
thế, cái gì vô-thường huyễn-ảo, nhất thời, gọi là
thích-thú. Thích-thú thì nhiều vô kể, chợt đến
chợt đi, trôi chảy như giòng nước, mà chúng ta
đã lầm là hạnh-phúc .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
Thích-thú chỉ là sự phản-ứng đối với tri-
giác về vật đối-tượng ở ngoài ta mà chúng ta ít
ảnh-hưởng được chúng. Có vật cho ta thích-
thú, có vật đem lại đau khổ, có khi cùng một
vật vừa làm cho ta vui thú lại cũng tạo cho ta
đau buồn, khiến chúng ta phải suy-nghĩ về lời
nói của Thánh-hiền :
" Hạnh-phúc không tìm thấy được ở
tại vật bên ngoài. Nếu thật có ở đấy thì
chúng ta càng có được nhiều vật bao
nhiêu sẽ càng thấy hạnh-phúc bấy nhiêu,
hay là người giầu-có hẳn là có nhiều
hạnh-phúc, và người nghèo khó tất nhiên
là đau khổ ? Sự thực không hẳn là như
thế, cho nên nhà hiến-triết Việt-Nam mới
có câu :
" Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi không sờn lòng đây ."
_ (Đồ-Chiểu )
ADPH RAMANA MAHARSHI
4
Giầu hay nghèo, cả hai đều thấy hạnh-
phúc lớn trong giấc ngủ say, và sẵn-sàng hy-
sinh tất cả để có được nó. Đủ thấy chúng ta đã
có quan-niệm sai lầm về hạnh-phúc và không
biết phương-pháp để cầu tìm .
Sớm muội chúng ta khám-phá ra rằng
hạnh-phúc có liên-hệ đặc-biệt tới bản-tính nội-
tại của chúng ta, và chúng ta có thể kiên-nhẫn
học hỏi thâm sâu giáo-lý hiền-triết cổ-truyền,
theo đấy thì thích-thú không có thực, biệt-lập
với hạnh-phúc tự-nhiên, vốn sẵn có ở người ta,
thường bị vô-minh che lấp. Con chó gặm cục
xương đến chảy cả máu miệng mà nó lại tưởng
là máu ở cục xương. Chúng ta cũng thế, nghĩ
lầm là thích-thú do vật bên ngoài đem lại, kỳ
thực là ở tại nơi ta cả. Chúng ta không tin
nhưng ít ra cũng phải công-nhận rằng thích-thú
và đau buồn lệ-thuộc vào ta nhiều hơn là do sự-
vật bên ngoài .
" Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ."
_ ( Kiều )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
Sự công-nhận ấy tự nó không đưa ta gần
với hạnh-phúc. Bất cứ sự ưa-thích cá-nhân của
chúng ta như thế nào, chúng ta vẫn bị hai kẻ-
thù chi-phối ấy là : tham-dục và sợ-hãi. Chính
sự tham-dục và sợ-hãi tự nó là tai-họa. Tham-
dục và sợ-hãi lớn bao nhiêu thì tại-họa càng
nặng bấy nhiêu. Đáng lẽ chúng ta phải tìm giải-
thoát khỏi chúng, chúng ta lại phục-tòng
chúng, để cho chúng sai khiến .
Mỗi khi dục-vọng bảo ta : " Hãy có cái
kia thì rồi người được sung-sướng ! " Chúng ta
tin vào đấy và nỗ-lực tranh-thủ lấy vật ấy bằng
được. Nếu không được hay chưa được đầy đủ
thì chúng ta đau khổ. Hễ được rồi thì lòng
tham-dục lại bảo hãy có được vật khác, và cứ
như thế lòng tham-dục lừa gạt ta, ru ngủ ta
hoài. Kinh Upanisads có nói : " Sự thật bụng
dục như lửa đốt, nó càng nung đốt mạnh bao
nhiêu khi người ta đổ dầu vào bấy nhiêu ! "
ADPH RAMANA MAHARSHI
6
Chừng nào chúng ta còn nô-lệ cho bụng
dục, chúng ta không bao giờ có được hạnh-
phúc :
" Nhân sinh nhi tĩnh Thiên chi tính dã, cảm ư
vật nhi động tính chi dục dã. Vật chí tri tri,
nhiên hậu hiếu ố hình yên. Hiếu ố bất tiết ư nội
trí dụ ư ngoại, bất năng phản cung Thiên lý
diệt hỹ .
" Phù vật chi cảm nhân vô cùng nhi nhân chi
hiếu ố vô tiết tắc thị vật chí nhi nhân hóa vật
dã. Nhân hóa vật diệt Thiên lý nhi cùng nhân
dục giả dã ."
_ ( Lễ Ký )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
( Người ta sinh ra vốn hồn nhiên, ấy là
bẩm tính Trời. Cảm-xúc với vật ngoài mà trở
nên vọng-động ấy là tính dục vậy. Ngoại vật đi
đến cơ-quan tri-giác, liền có tri-giác rồi sau sự
yêu ghét mới hiện lên. Sự yêu ghét không tiết-
chế điều-động tự bên trong, tri-giác bị dẫn ra
bên ngoài mà không có thể quay vào bản-thân
thì Thiên-lý tính Trời sẽ tắt mất .
( Vì ngoại vật cảm-xúc vào người ta thì
nhiều vô kể, mà người ta yêu ghét không biết
tiết-chế tự bên trong bởi Thiên-lý tính Trời thì
khi ngoại-vật đến, mà người ta hóa theo ngoại-
vật. Người đã hóa theo ngoại-vật thì Thiên-lý
trong lòng mờ tắt mà lòng dục của người ta đến
cùng cực vậy .)
Khi hỷ lạc, khi ái dục, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục .
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn
ADPH RAMANA MAHARSHI
8
Cầm kỳ thi tửu với giang san
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế ?
Ngã kim nhật tại tọa chi địa
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi .
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát ?
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
Chúng ta nhận thấy rằng, như vậy là
muốn thực sự và mãi mãi sung-sướng, chúng ta
phải vượt lên trên dục-vọng và sợ-hãi. Chừng
nào chúng ta còn lệ-thuộc vào chúng thì tự
nhiên chúng ta phải từ bỏ hy-vọng hạnh-phúc.
Nhưng làm sao từ bỏ được, vì yêu hạnh-phúc là
thành-phần bất phân của định-phận chúng ta .
Tới đây chúng ta cần phải được dẫn đạo
bởi một ai vừa biết mục-đích lẫn đường lối,
một người đã thắng được căn bệnh nó dầy vò
chúng ta, và đã chinh-phục được cho mình cái
hạnh-phúc mà chúng ta cầu tìm không thấy.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
Điều ấy ai cũng hiểu. Khi người ta thật cảm
thấy thiết-yếu phải chữa bệnh, người ta tìm đến
thày thuốc để được an ủi. Đấy là điều mà kinh
sách xưa nói rằng cái đức hiền-trí nó chữa bệnh
ấy không phải bằng lý-luận hay là kinh sách .
" Tận tín ư thư bất như vô thư _ ( Mạnh-Tử )
Trong quá-khứ từng có những người đã
chinh-phục được hạnh-phúc và đã giúp người
khác tìm thấy hạnh-phúc. Trong lịch-sử chúng
ta đã thấy có Đức Phật Thích-Ca và Đức Jésus
chẳng hạn. Nhưng Kinh sách của nhiều môn-
phái tự xưng là tông-đồ các Ngài đã ghi-chép
sau khi các Ngài tịch, thì có nhiều khuyết-
điểm. Chúng không có thể có hiệu-lực như là
chính lời từ miệng các Ngài thốt ra khi còn sinh
thời. Tuy nhiên chúng ta còn thấy trong Thánh-
kinh Cơ-Đốc một câu chứng-tỏ giáo-lý của
Jésus dạy : " Hãy biết Chân-lý và Chân-lý sẽ
giải-thoát cho ngươi ! " Lời nói ấy là toát-yếu
chính-xác đạo-lý Thánh-hiền xưa của Ấn-Độ,
ADPH RAMANA MAHARSHI
10
và có thể hiểu rõ-ràng với ánh-sáng của đạo-
học Ấn-Độ .
Giáo-lý được luôn luôn ấn-chứng bằng
thực-nghiệm cá-nhân của một dòng dài các
Thánh-nhân hiền-đức. Và một Thánh-nhân của
giáo-lý ấy mới đây là vị Thánh núi Arunachala,
được biết dưới danh hiệu :
RAMANA MAHARSHI
*******
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
VÔ MINH
( A V I D Y A )
Trước hết Thánh-hiền dạy chúng ta rằng
nguyên-nhân của tất cả đau khổ duy chỉ tại ở
nơi ta, chứ không phải ở bên ngoài. Người ta
kể lại lời nói của Đức Phật Thích-Ca :
" Các con đau khổ duy chỉ vì chính
các con, không gì bắt buộc các con cả !"
Ngài Ramana cũng nói thế. Có người đến
hỏi Ngài, một bữa kia, xem có gì là căn-bản sai
lầm trong cơ-cấu tạo nên thế-giới này ? Ngài
đáp rằng thế-giới như hiện-tại thì rất tốt đẹp,
chính chúng ta mới đáng chê-trách đã có quan-
niệm sai lầm. Tất cả điều chúng ta phải làm là
ngược trở về cho đến cái sai lầm nguyên-thủy
là nguồn phát-sinh ra tư-tưởng của chúng ta và
ADPH RAMANA MAHARSHI
12
bỏ hết căn-nguyên sai lầm kia đi. Rồi thì tất cả
sẽ tốt lành .
Phát-hiện và bỏ hết mê lầm cơ-bản của ta,
đấy là liều thuốc căn-bản duy-nhất. Tất cả các
thuốc khác chỉ là tạm thời, và có thể nói hơn
nữa, là chúng tùy từng thứ, đều dọn đường dẫn
chúng ta đến thứ thuốc chính thật. Đấy là giá-
trị duy-nhất của các giáo-lý và nghi-lễ tôn-giáo,
chúng phân chia thế-gian, thông thường làm
phấn-khởi và nhu-nhược tinh-thần và làm chậm
tiến đến giải-thoát. Bởi thế mà đối với tôn-giáo
tâm-linh, kẻ hoài-nghi thành-thật gần chân-lý
hơn là tín-đồ ngu-tín hẹp-hòi, cố-chấp, cho
rằng nhân-loại sống cho tôn-giáo chứ không
phải tôn-giáo có để cho nhân-loại. Khổng-Tử
nói :
( )
" Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân "
( Người hay mở-mang đạo, chẳng phải đạo mở-
mang người )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
Hãy không chấp kiến mà hỏi nhà hiền
xem sự sai lầm của ta ở tại đâu, khiến chúng ta
bị nhân-dục và sợ-hãi sai khiến. Ngài đáp rằng
chúng ta bị sai khiến vì chúng ta không tự biết
cho chính-xác. Chúng ta không phải là cái gì
chúng ta tưởng .
Mới xem lời giải đáp ấy có vẻ sai về hai
mặt. Một là thông-thường chúng ta nghĩ tự biết
mình lắm, và hai là chúng ta cho cái biết ấy là
thừa và chẳng ăn nhập gì với đời sống hàng
ngày và những vấn-đề của nó. Điều chúng ta
muốn biết là làm thế nào khuất-phục thế-giới
theo ý muốn, ngõ hầu khai thác triệt-để một
thế-giới sâu-xa. Ở đấy thì chúng ta không thấy
sự tự biết mình có thể giúp ta được gì .
Điểm này là để đề-cao giá-trị khoa-học
kỹ-thuật. Ở đây chúng ta tìm biết tất cả cái gì
hiện ra cho ta. Trong lịch-sử thế-giới có các
dân-tộc và những nhóm dân-tộc từng tích-chứa
được một lượng trí-thức lớn-lao, nào là sử-học,
địa-lý, thiên-văn, vật-lý-học, hoá-học, sinh-lý,
ADPH RAMANA MAHARSHI
14
xã-hội-học và triết-học. Nếu tất cả các môn ấy
thực là hiểu-biết thì càng ngày người ta càng
thu-lượm được chúng, tất nhiên người ta sẽ
càng làm tăng hạnh-phúc cho nhân-loại. Chỉ có
những kẻ vị-kỷ, được số-phận ưu-đãi mới dám
tuyên-bố như thế. Sự thực thì chúng ta càng
chinh-phục quyền-năng mù-quáng của thiên-
nhiên bao nhiêu, chinh-phục dành riêng cho
một thiểu-số, thì sự thất-vọng và sa-đọa càng
sâu rộng cho quần-chúng bấy nhiêu. Sự thất-
vọng và sa-đọa của quần-chúng ấy, có người
trong thiểu-số đó cũng đã để tâm lo-lắng,
nhưng không có thuốc chữa. Thiên-niên kỷ
Long-Hoa-Hội, Thánh Chúa ra đời do các bác-
học thời xưa tiên-đoán thì xã-hội mù mịt. Thực
ra khoa-học kỹ-thuật đã đưa thế-giới đến điểm
mà sinh-mệnh nhân-loại bị đe-dọa nặng-nề.
Bênh-vực cho những trí-thức ấy là họ nhằm
hạnh-phúc cho nhân-loại thì thực là điều mỉa-
mai không chính-đáng cho ai cầu tìm hạnh-
phúc thuần-túy. Và như thế thì những tri-thức
đáng cho ta ngờ là không phải tri-thức chân-
chính vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
Lão-Tử viết :
" Bất xuất hệ tri thiên hạ, bất khuy dũ
kiến thiên đạo. Kỳ xuất di viễn kỳ tri vi
thiểu, thị dĩ Thánh nhân bất hành nhi tri
bất kiến nhi danh bất vi nhi thành ."
( Không ra cổng để biết thế-giới, không
nhòm qua cửa sổ thấy đạo trời. Tinh-thần
càng phóng xa càng biết ít đi. Thế nên
Thánh-nhân không đi ra ngoài mà biết,
không nhìn thấy mà gọi được tên, không
làm mà nên .)
Một hôm, có một thanh-niên mới tốt-
nghiệp Đại-học ra, hỏi ngài Maharshi về cái
tướng vô-minh bất-khả xâm-phạm mà nhà bác-
học hiện-đại vấp phải trên đường khảo-cứu
chân-lý cùng-tột của vũ-trụ. Khoa-học về cực-
vi chưa cho phép ta giả-thiết này nọ về sự có
thực và vận-động của những cá-thể huyền-bí
mà chúng ta đặt tên là điện-tử ( électron ), chất-
ADPH RAMANA MAHARSHI
16
tử hay là nguyên-tử ( proton ), dương-tử
( positron ), trung-hòa-tử ( neutron )v.v...
nhưng chúng ta không có thể phát-lộ và biết
chúng trực-tiếp được. Mặt khác, khoa nghiên-
cứu về cực-đại, không đưa chúng ta đi quá
những tinh-văn, ngân-hà hay là đám bụi tinh-
tú, mà người ta giả-thiết là nguyên-chất của
tạo-vật. Và người ta cũng không giải-thích
được những nguyên-tố cơ-bản của thực-tại
khách-quan, nghĩa là thời-gian, không-gian .
Đức Thánh trả lời rằng sự học-hỏi ngoại-
giới đi đến và chỉ dẫn đến tối tăm mê muội.
Ngài nói khi người ta cầu tìm hiểu-biết tất cả
cái gì ngoài bản-thân, mà không lo tìm biết
chân-lý về tự-tính, tự-ngã, thì cái biết người ta
đạt được không có thể là cái biết chân thật .
Đấy có vẻ là một cớ lạ-lùng để miệt-thị
tất cả sự hiểu-biết của nhân-loại. Vậy mà nếu ta
chịu suy-nghĩ một chút, và khách-quan, chúng
ta sẽ thấy Thánh có lý. Chúng ta đã thấy cái
biết ấy đáng nghi-ngờ, chúng ta cũng nhận thấy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
không có sự đồng-tình nhất-trí trong giới bác-
học. Nhiều khi quan-điểm khác nhau giữa họ
không được công-bố cho đại-chúng được biết.
Bởi vì số đông bác-sĩ được coi như biết đều
đồng-tình với nhau, còn những người khác chịu
im-lặng. Nhưng có khi chính số ít người này có
lý, mà đa số thì sai lầm. Thường-thường đa số
có thể là hạng tầm-thường và hạng thật bác-học
thì lại hiếm. Người bình-thường tin rằng có cái
gì gọi là khoa-học thì độc-lập với người bác-
học. Nhưng cũng như trong tôn-giáo và triết-
học ở khu-vực " khoa-học " cũng có khác-biệt
về trí-thức, do tính-tình và văn-hóa khác nhau
tạo nên. Nhà văn người Anh, Bernard Shaw
bảo rằng Thiên-Chúa-giáo rửa-tội cho thằng
mọi, sự thực là, hiến Thiên-Chúa-giáo thành
dã-man, không phải thằng mọi một khi được
rửa-tội và thuộc lòng giáo-lý mà sẽ trở nên hết
là mọi. Sự theo-đuổi chân-lý đòi ở nhà khảo-
cứu những đức-tính trí-não và tâm-tình hiếm
có. Bởi thế nên cùng một dữ-kiện các cá-nhân
khác nhau đi đến kết-luận không giống nhau.
Phẩm-chất của kẻ muốn học hỏi là một yếu-tố
ADPH RAMANA MAHARSHI
18
tất nhiên trong sự hiểu-biết y thu-hoạch được.
Sự hiểu-biết ấy chỉ chân thật chừng nào học-sĩ
đủ tư-cách để cầu tìm. Điều ấy cho ta hiểu tại
sao khoa-học đã phạm bao nhiêu lỗi lầm. Với
thời-gian nó có từ bỏ đi nhiều, nhưng dĩ nhiên
nó đã phạm những lỗi khác nữa mà nó không
nhận và sẽ không bao giờ từ bỏ cả .
Nên biết rằng sự thất-bại của khoa-học là
do từ một sai lầm khởi-thủy, do giả-thiết của
nhà bác-học tưởng lầm y tự biết rõ mình hay là
y không cần đến sự tự biết mình trước hết. Cả
hai đàng y đều đi vào những khảo-cứu về thực-
tại khách-quan với một số ý-niệm sai về chân-
tính của mình .
Chúng ta có tự biết chúng ta chăng ?
Tri ngã giả bất tri ngã giả ?
Người có biết ta chăng thì chớ,
Chẳng biết ta ta vẫn là ta !
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
Ta là ai ? hẳn phải nói là không biết. Sự
vô-minh u-mê của chúng ta là một sự thực,
nhưng phải là một tinh-thần đã tiến-bộ lắm, và
tinh-khiết-hóa sâu rộng, mới tự thấy và công-
nhận. Người trung-bình rất tin chắc là biết
mình. Trái lại, các hiền-triết bảo chúng ta rằng
điều chúng ta biết về mình là một mớ nửa thực
nửa hư, hết sức hỗn-tạp mà chúng ta coi là
chân-thật .
Một hôm có mấy tín-đồ của một môn-
phái bài ngẫu-tượng kịch-liệt đến hỏi Thánh
Maharshi. Họ muốn Ngài thừa-nhận việc thờ-
phụng Thưọng-Đế trong một ngẫu-tượng là
xấu. Người đại-diện của họ hỏi :
_ " Thượng-Đế có hình-tướng không ?
Ngài đáp :
_ " Ai bảo Thượng-Đế có một hình-
tướng ? "
ADPH RAMANA MAHARSHI
20
Người khách lại hỏi vặn lại :
_ " Nếu Thượng-Đế không có hình-tướng
thì hẳn rằng thờ Ngài trong một ngẫu-
tượng là sai lầm tai hại ! "
Ngài Maharshi đáp lại :
_ " Hãy để Thượng-Đế yên đấy, trước hết
ông hãy nói cho tôi biết ông có hình hay
không ? "
Khách đáp ngay :
_ " Dĩ nhiên là tôi có một hình-thể, như
Ngài thấy đấy ."
_ " Sao, phải chăng ông là cái thân-thể
kia, cao độ hơn một thước, da ngăm ngăm
với râu ria ư ? "
_ " Lẽ tự nhiên ! "
_ " Phải chăng ông vẫn thế khi ông ngủ-
say, không mộng ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
_ " Hẳn đi. Khi tôi tỉnh dậy tôi nhận thấy
tôi không thay-đổi, vẫn như thế trước khi
ngủ ."
_ " Thế khi thân-thể kia chết đi ? "
_ " Thì vẫn còn như thế này ! "
Thánh Maharshi mới hỏi lại :
_ " Bấy giờ tại sao thi-thể của ông không
bảo cho người sửa-soạn đưa ông lên giàn
thiêu rằng không được khiêng tôi đi, cái
nhà này của tôi, tôi muốn ở lại đây ? "
Bấy giờ người khách mới tỉnh-ngộ mà
nhận mình đã lầm. Y bèn nói lại :
_ " Không tôi không phải là cái thân-thể
này, mà là sự sống ở tại trong thân-thể
này ! "
Thánh Maharshi trả lời :
_ " Hãy nghĩ xem, vừa rồi ông nhận-định
rất nghiêm-chỉnh là thân-thể này chính là
ADPH RAMANA MAHARSHI
22
ông, bây giờ ông lại thừa-nhận là không
phải. Nên hiểu rằng đấy là cái vô-minh
nguyên-thủy nó tất-nhiên sinh ra tất cả
vô-minh nô-lệ-hóa loài người. Chừng nào
còn cái vô-minh đầu tiên ấy, thì ông
quan-niệm Thượng-Đế vô-hình hay hữu-
hình không có gì là quan-trọng, một khi
cái vô-minh ấy mất đi thì tất cả đồng thời
sẽ biến mất ."
Xem đấy, nhà hiền-triết đã chẩn-bệnh _
bệnh nô-lệ vào sợ-hãi và nhân-dục _ như là
không biết chân-lý về chính chúng ta với hậu-
quả là sự khẳng-định : chúng ta là thân-thể. Vả
lại, quan-niệm ấy mà chúng ta nhận thấy đã
được xác-chứng là sự sợ-hãi và dục-tính sinh ra
do thân-thể là nguyên-nhân .
" Sủng nhục nhược kinh, quý đại hoạn
nhược thân " Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
vị ngô hữu thân, cập ngô vô thân ngô hữu
hà hoạn ? _ ( Lão-Tử )
( " Yêu ghét như kinh hãi, quý, lo lớn
như thân-thể ". Ta mà có cái lo lớn là vì ta
có cái thân-thể, đến khi ta không còn
thân-thể thì ta còn gì để lo ? )
Trần-Thái-Tông cũng dẫn :
" Không-Tử viết : _ Triêu văn đạo
tịch tử khả hỹ !
" Lão-Tử viết : _ Ngô sở dĩ hữu đại
hoạn giả vi ngô hữu thân. Thế Tôn cầu
đạo xả thân cứu hổ. Khởi phi tam Thánh
nhân khinh thân nhi trọng đạo giả tai ?"
( Khổng-Tử nói : _ Sớm được thấy
đạo, tối chết được rồi !
( Lão-Tử nói : _ Ta mà có lo-sợ lớn
là vì ta có cái thân-thể. Phật Thế-Tôn bỏ
ADPH RAMANA MAHARSHI
24
thân để cứu con hổ đói. Há rằng ba vị
Thánh chẳng trọng đạo hơn thân mình
sao ? ) .
Có triết-gia tưởng đã đạt tới triết-lý như
thế, nhưng không có thực-nghiệm về chân-lý
của Ngã. Cho nên cái vô minh nguyên-thủy của
họ vẫn còn rất nặng, những quan-niệm triết-học
của họ không làm thay đổi chút nào tính-cách
thực-tế của họ. Sự thực như Thánh Maharshi
đã cho biết, người đã nghiên-cứu triết-học
trong sách ở trong tình-trạng tồi hơn những
người khác. Lòng ích-kỷ của y được thổi phồng
lên bởi học-thức, tâm y thì bị vây hãm trong
vòng cố-chấp mới mà người vô-học không có.
Y không còn có thì giờ để cầu tìm chân-lý về
cái Ngã. Nhiều khi y không thấy cần sửa-soạn
tinh-thần cho công việc ấy bằng sự điều-hòa.
Kết-quả là kẻ nào chỉ có biết cái Ngã qua Kinh
sách thì không biết chi hơn những người kém
học-thức. Và Thánh Maharshi bảo rằng người
ấy chẳng khác gì cái máy hát. Chúng ta chớ
nên quên rằng Kinh sách chỉ là những cây cắm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
mốc chỉ đường, trên con đường chân-lý giải-
thoát. Chân-lý hiền-triết không chứa trong
Kinh sách, chúng bất quá chỉ dạy cho chúng ta
đủ để chúng ta lên đường .
Thánh bảo chúng ta rằng chính do cái vô
minh kia xuất-hiện sự rối loạn lớn lao trong
triết-học và tôn-giáo. Ai nấy tự tin rằng những
vấn-đề khúc-mắc nhất về thế-giới, linh-hồn và
Thượng-Đế có thể giải-thích xong-xuôi, hoàn-
toàn và thỏa-mãn bằng những lý lẽ rút trong
kinh-nghiệm nhân-loại phổ-thông. Do đấy mà
triết-gia và các nhà giáo-điều luôn luôn cãi cọ
về cái nguyên-nhân đầu tiên, về thực-tại cùng
tột, về tính-chất của thời-gian, sự mâu-thuẫn
giữa tự-do ý-chí và định-mệnh, về giải-thoát
v.v. Nhưng họ không đi tới một kết-luận cuối
cùng và không làm gì có cơ-hội để họ đi tới
được cả. Trái lại nhà hiền-triết không để ý vào
tất cả những tranh-biện ấy. Ngài có cách làm
biến mất những vấn-đề ấy, khiến cho những
cuồng-tín vào hệ-thống trí-thức, chủ-nghĩa
giáo-điều, ngạc nhiên và thất vọng. Đối với đệ-
ADPH RAMANA MAHARSHI
26
tử chân-thành, Thánh Maharshi dạy rằng người
ta có thể và phải gạt tất cả những vấn-đề ấy ra
một bên, rằng việc cần-thiết duy-nhất là phải
phát-hiện chân-lý về cái Ngã, và chân-lý ấy,
một khi được phát-hiện thì tất cả các vấn-đề
khác sẽ hết giá-trị .
*********
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
THẾ - GIỚI
( VŨ - TRỤ - QUAN )
Chúng Ta Cần Phải Phát - Hiện Chân - Lý
Về NGÃ
Tri ngã giả bất tri ngã giả
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
Cái chân-lý như chúng ta sẽ biết, tự biểu-
lộ ra khi nào tâm-thức được hợp-nhất và chảy
thành một giòng như nước chảy về cái Ngã, nó
được thúc đẩy bởi một quyết-định mạnh-mẽ để
biết cái Ngã chân thật. Thông thường tâm-thức
chảy theo chiều hướng thế-gian chứ không đi
về cái Ngã. Và cả đến khi tâm-thức hướng về
chiều cái Ngã, nó cũng bị tư-tưởng liên-hệ với
thân-thể và thế-giới bên ngoài làm cho đãng-trí.
ADPH RAMANA MAHARSHI
28
Tại sao các tư-tưởng hay đột-nhập vào
tâm-thức ( mental ), cả khi chúng không được
đòi hỏi. Thánh hiền bảo cho biết : đấy là vì
chúng ta tin vào thế-giới là thật. Vả lại, điều ấy
cũng hợp lý, tất cả cái gì chúng ta coi như là
thật đều có quyền, không thể chối cãi, nhập vào
tâm-thức chúng ta, chỉ một mệnh-lệnh đơn-
giản của tâm-thức thì không thể cấm ngăn
những tư-tưởng liên-quan đến thực-tại. Muốn
chống sự du-nhập của những tư-tưởng vào tâm-
thức chúng ta, các Thánh-hiền bảo phải tu-sửa
ở ta cái đức sáng để hiểu rằng thế-giới thực-sự
không phải như chúng ta biết, thế-giới như
chúng ta nhìn thấy thì không thật. Nhà sư Tây-
Tạng Tsong Khapa viết : " Le monde existe
mais n'est pas réel " ( Thế-giới có nhưng
không thật ) .
Nhà hiền núi Arunachala là Maharshi
chú-ý vào điểm ấy. Ngài đã tuyên-bố rằng sự
phát-hiện cái Chân Ngã thực ra sẽ rất giản-dị,
nếu ta không còn tin-tưởng thâm-sâu cho thế-
giới là thật. Theo Ngài không điều gì lạ bằng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
điều này : trong lúc ta đã là Chân-Ngã, ta nỗ-
lực để tìm kiếm nó. Một ngày kia ta sẽ cưòi
mỉa-mai những nỗ-lực đó ; và điều ngày ấy
chúng ta sẽ thực-hiện chính là cái Chân-lý ngay
từ bây giờ. Chúng ta không phải trở nên Chân-
Ngã, chúng ta hiện là Chân-Ngã .
Vì một lý cố khác nữa, chúng ta cần gấp
phải hiểu ngay cho minh-bạch vấn-đề thực-tại
của thế-giới. Thế-giới gồm có thân-thể ta, vậy
nên nếu thân-thể là thật thì khó mà từ-chối
không thừa-nhận nó cũng là cái Ngã. Thực vậy,
cái Chân-Ngã mà thực-tại là đương nhiên, kẻ
nào nghi-ngờ thực-tại của Ngã sẽ tự mình từ bỏ
mình. Chúng ta chỉ có thể đặt vấn-đề bằng bắt
đầu thừa-nhận thực-tại của cái Ngã. Thực-tại
của Ngã vậy là không có thể chối cãi, tự nó
hiển nhiên rồi .
Song nếu phải coi thế-giới cũng đương là
thật, thì cái Ngã phải đứng trong thế-giới, và
như thế thì bắt buộc phải đồng-nhất-hóa cái
Ngã với thân-thể. Hậu-quả là tư-tưởng và sự
ADPH RAMANA MAHARSHI
30
sống chỉ là thuộc-tính của thân-thể vật-lý, và
không tài nào có thể tưởng-tượng ra một cái
Ngã thật còn lại sau khi thân-thể chết đi .
Thánh Maharshi không đòi chúng ta thừa-
nhận một tín-ngưõng nào và đặc-biệt là tin thế-
giới này là không thật, ảo-ảnh. Ngài chỉ tìm
giải-phóng chúng ta những tin-tưởng ngoài
bằng-chứng chúng ta có được và do đấy chúng
cản-trở đường tới chân-lý. Các Thánh hiền bảo
chúng ta rằng thế-giới không thật theo nghĩa
của chúng ta tin-tưởng nó thật. Ý-niệm của
chúng ta về thế-giới tất nhiên là sai lầm vì
chân-lý về thế-giới mật-thiết liên-hệ với chân-
lý về Ngã. Chừng nào cái Ngã còn chưa biết thì
tất cả vấn-đề về thế-giới không có thể có giải-
đáp chính-xác cuối cùng .
Một hôm có một người nêu vấn-đề ấy với
nhà hiền núi Arunachala, và tìm cách để cho
Ngài thừa-nhận thực-tại của thế-giới. Nhà hiền
đáp : " Thế-giới mà ông muốn chứng-minh
thực-tại sẽ cười nhạo ông vì ông đi tìm biết
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
chân-lý thế-giới mà không tìm biết chính mình
là gì ."
Chính Ngài cũng dạy chúng ta rằng, nếu
để vấn-đề thế-giới một bên và hãy nỗ-lực cầu
tìm biết cái Ngã thì thế-giới có thật hay không
sẽ hết quan-trọng. Tổng chi vấn-đề ấy thực ra
là vô vị. Ngài nói : " Thật là uổng công mà
người ta cãi-cọ về thế-giới, và chủ-trương nó
thật, cụ-thể sung-sướng và trái lại, mục-tiêu mà
tất cả cầu tìm là trạng-thái tinh-thần không có
cái ta, và người ta chỉ đạt tới đấy bằng cách gạt
thế-giới đi và lặn chìm vào nội-giới . "
Muốn đạt tới cái Ngã, chúng ta phải sẵn-
sàng quên thế-giới, từ bỏ những kỳ-vọng vào
đấy. Chừng nào chúng ta còn chấp vào ý-niệm
thế-giới là có thật, thì tư-tưởng chúng ta
chuyên-chú vào đấy đến nỗi chúng ta bị nó
hấp-dẫn mỗi khi thử tìm chân-lý về Ngã .
Ngài Maharshi nói rằng chừng nào còn
vết-tích của ý-niệm thế-giới là thật thì chúng ta
ADPH RAMANA MAHARSHI
32
không có thể bắt đầu cầu tìm cái Ngã được.
Người cầu tìm chỉ đòi hỏi hạnh-phúc. Và
chừng nào y chưa hiểu rằng thế-giới là không
thật, thế-giới vẫn còn là cái nguồn độc-nhất về
hạnh-phúc có thể có được đối với y, dù hạnh-
phúc khiếm-khuyết, không chắc-chắn và không
được thỏa-mãn mấy đi nữa .
Trong những trường-hợp ấy, chúng ta
phải ôn lại những ý-tưởng của chúng ta về thế-
giới và hỏi xem quan-niệm về thực-tại của nó
có cơ-sở không. Như thế chúng ta phải định lấy
một tiêu-chuẩn về thực-tại và áp-dụng nghiêm-
chỉnh trong công việc xét hỏi tìm-tòi. Các vị
Thánh hiền mà chúng ta nghiên-cứu bằng-
chứng đã chỉ cho ta một tiêu-chuẩn ấy. Tự
nhiên còn có những tiêu-chuẩn khác của các
giáo-chủ lo bênh-vực những quan-niệm riêng
của họ, nhưng có thể chắc rằng cái tiêu-chuẩn
thực-tại nào kiên-cường nhất sẽ là tốt hơn hết .
*******
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
TIÊU - CHUẨN CHÂN - LÝ
HAY THỰC - TẠI
Thực-tại phải thỏa-mãn đầy đủ một số
điều-kiện, nó phải bất di bất dịch, thường tồn
và độc-lập, nghĩa là tự biểu-hiện, không nhờ
vào nguyên-nhân khác ở bên ngoài :
1._ Bất dịch ;
2._ Thường tồn ;
3._ Độc-lập .
Thế-Tôn-Ca ( Bhagavad - Gita ) Thánh-
kinh Ấn-độ-giáo nói : " Cái không thật thì
không có ; thật-tại không bao giờ không có ."
Và sư-phụ có uy-tín như Thánh Gaudapada nói
cách khác : " Cái gì không có trước kia và về
sau, thì hiện-tại cũng không có .". Kinh Dịch
viết : ( )" Sinh sinh chi vị dịch "
( Sống không dừng không gián-đoạn ). Và
ADPH RAMANA MAHARSHI
34
( )" Thành tính tồn tồn
đạo nghĩa chi môn " ( Nên được cái tính, cái
sinh-mệnh còn mãi vĩnh-cửu là cửa chung của
chân-lý và luân-lý ) .
Vậy là một tính-chất của thực-tại theo
đạo-học Đông-phương xưa nay là phải tồn-tại
siêu thời-gian. Sự tồn-tại đích thực vĩnh-cửu,
mặt khác không lìa với ý-nghĩa không biến-đổi,
bất dịch, vì vật gì thay-đổi, không mãi là nó,
tức là không thật. Một định-lý nữa không cần
phải chứng giải, ai cũng thừa-nhận là thực-tại
phải có độc-lập không do cái gì khác, phải tự-
nhiên, tự-thành, tự-tạo, ( ) " Tự
thành minh vị chi tính " ( Tự thành-thật sáng-
chiếu gọi là tính, thực-tại tối-cao ). Một cái lọ
là cái lọ, do sự công-nhận ước-lệ, sự thực nó là
đất sét. Sự có thật của cái lọ thì ảo-ảnh, tang-
thương ở vị-trí cái lọ, nhưng đất sét làm ra nó
mới thật, vì trước khi người thợ gốm nặn ra nó
thì nó là đất sét, và nó lại là đất sét khi nó vỡ.
Đấy là hình-danh sắc-tướng không có độc-lập
nên không thật .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
Bởi lý lẽ trên, Thánh hiền thực-hiện chân-
lý sống-động bảo thế-giới không thật và giải-
thích bằng ba mỹ-dụ điển-hình :
1._ Cái thừng lầm là con rắn ;
2._ Ảo-cảnh trong sa-mạc ;
3._ Cảnh mộng .
Khi lầm cái thừng là con rắn, thì con rắn
hiện ra cho ta trong sự vô mình của ta về thực-
chất của đối-tượng ; một khi ta biết chân-lý về
cái thừng thì ta hết thấy con rắn. Nhưng không
phải cũng như thế với thế-giới, theo một số
người ; " ảo-ảnh " của thế-giới không chấm-dứt
đối với ta, dù cả đến khi ta biết sự thật. Và để
chứng-minh điều ấy, Thánh-hiền đưa ra một
mỹ-dụ khác, ấy là ảo-cảnh ở sa-mạc. Nó là ảo-
cảnh không có thật và không biến đi, dù khi ta
biết không làm gì có ốc-đảo ( oasis ), thực chỉ
là cảnh ảo. Lại còn một nan-giải : ảo-cảnh hiện
ra trước mắt ta, nhưng không có khả-năng giải-
khát và ở điểm ấy nó phân-biệt với thế-giới vốn
có ích-dụng thực-tế. Thực-phẩm chúng ta ăn,
làm ta hết đói, do đấy có thể kết-luận là thế-
ADPH RAMANA MAHARSHI
36
giới có thật. Giải-đáp cho phản-thuyết này là
ích-dụng, không là một bằng-chứng cho thực-
tại, thực-phẩm có trong khi ta nằm mộng, ăn
trong mộng làm ta khỏi cơn đói chúng ta có
trong mộng, vậy mà ta không tin cái thực-phẩm
kia là có thực. Nhà hiền núi Arunachala, Thánh
Maharshi yêu cầu chúng ta giữ lấy trong tinh-
thần ba cái loại-tự ấy, nếu chúng ta không
muốn đi vào đường sai lầm .
Các Thánh hiền không dạy chúng ta rằng
thế-giới là hoàn-toàn hư-không, đối với Thánh
Maharshi thì cả hai khẳng-định có vẻ như mâu-
thuẫn _ thế-giới có thực và thế-giới không thực
_ đều xác-đáng cả hai, với điều-kiện là chúng
ta phải hiểu chúng đều có cùng một ý-nghĩa.
Chúng ta có thể giải-thích bằng mỹ-dụ cái
thừng làm ra con rắn, con rắn không thật ở
phương-diện rắn, nhưng thực ở phương-diện
thừng, cũng như thế-giới là thế-giới thì không
thật, nhưng thật như là nó hiện ra cho chúng ta
ở hình-ảnh thế-giới .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
" Le monde existe mais n'est pas réel "
( Thế giới có nhưng không thật )
_ ( Tsong Khapa )
( )
" Thiên địa dữ ngã tịnh sinh vạn vật dữ
ngã vi nhất " _ ( Trang-Tử )
( Trời Đất hiện ra cùng một lúc với ta,
vạn vật với ta là một thể ) .
Tiêu-chuẩn về sự độc-lập là thỏa-đáng
hơn cả. Khi ta áp-dụng nó thì chúng ta phải tự
hỏi : " Thế-giới hiện ra độc-lập căn cứ vào
chính sự có của nó hay là vào cái gì khác nữa ?
Ngài Maharshi trả lời hết sức đơn-giản : " Thế-
giới và tâm-thức cùng hiện ra và cùng biến đi,
nhưng thế-giới cần có tâm-thức để có thể xuất-
hiện, không cái nào một mình là thật cả ! Cái
Ấy một mình là thật, luôn luôn tự sáng, độc-lập
nhờ vào chính sự có của nó, ở nó mà thế-giới
và tâm-thức hiện ra và biến đi ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
38
Điều này nhắc cho ta cái thực-nghiệm
đơn-giản mà thường người ta hay nhãng quên :
thế-giới bắt đầu xuất-hiện với hoạt-động của
tâm-thức và biến đi khi tâm-thức ngừng hoạt-
động. Khi chúng ta ngủ-say, đem theo cả hoạt-
động của tâm-thức, thì thế-giới không xuất-
hiện, chợt tỉnh dậy thì thế-giới mới tái-hiện.
Trong giấc ngủ-say thì không có tâm-thức,
nhưng vẫn có ta hiện-diện chưa hẳn chết. Nếu
thế-giới có thật thì không gì cản-trở nó hiện ra
cho ta trong giấc ngủ-say. Người ta có thể vặn
lại rằng, trong giấc ngủ-say ta không có giác-
quan tác-dụng, nhưng cái Ngã tự-sáng có cần
gì đến giác-quan để nhìn cái gì thật có. Sự thực
là thế-giới không có một cách độc-lập, nó chỉ
có trong tâm-thức và vì tâm-thức. Tuy nhiên cả
sự biểu-hiện của thế-giới cũng không có khả-
năng nếu không có cái gì hoàn-toàn thật. Vì lý-
do ấy và cũng vì các Thánh hiền đã chứng-thực
ở bản-thân các Ngài, ta phải thừa-nhận một
thực-tại như thế, trong đó thế-giới và tâm-thức
hiện ra và biến đi .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
Chúng ta khó lòng tiếp nhận cái quan-
niệm ấy vì chúng ta vô-tình thừa-nhận thế-giới
có ngoài ta .
Lénine viết :
" La matière est la réalité qui existe
en dehors de toute conscience "
( Vật-chất là thực-tại có ở ngoài tất
cả ý-thức ) .
Chúng ta sẽ thấy rằng cái giả-định này
không căn-cứ vào một bằng-chứng rõ-rệt cụ-
thể, nhưng nó cứ lưu-hành, và nó đã ăn sâu
trong tư-tưởng chúng ta những rễ rậm dài làm
cho sự hiểu-biết về thế-giới bị sai lầm. Tất cả
cái gì có ngoài ta được coi như khách-quan, trái
lại chúng ta coi tư-tưởng như chủ-quan .
Các Thánh hiền chứng giải cái khách-
quan tính ấy là một giả-thuyết vu-khống, mà
thực ra thế-giới chỉ có một cách chủ-quan thôi .
ADPH RAMANA MAHARSHI
40
" Tam giới duy tâm vạn pháp duy thức "
_ ( Hoa-Nghiêm )
" Tâm ngoại vô biệt pháp. Tâm Phật cập
chúng sinh. Thị tam vô sai biệt ."
( Ba giới là cõi dục, cõi danh niệm, cõi
siêu hình, đều chỉ là tâm-thức chủ-quan,
tất cả hiện-tượng chỉ là ý-thức ) .
Thánh Maharshi, sau khi thực-nghiệm lại
cái chân-lý điển-hình của đạo-học Đông-
phương, giải-thích như sau :
" Nhân vì chỉ có tâm-thức nó ý-thức
cảm-giác :( Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc )
cấu-tạo nên ảo-ảnh thế-giới qua môi-giới
của năm giác-quan ( Thính, Thị, Khứu,
Vị, Thân ) thì làm thế nào người ta có thể
nói là thế-giới có ở ngoài tâm-thức
được ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
Maharshi gợi sự chú-ý của chúng ta vào
sự-kiện mà tất cả các học-phái triết-gia đều
thừa-nhận là cái mà chúng ta tri-giác không
phải là thế-giới chúng ta biện-luận thực-tại, mà
là một khối cảm-giác luôn luôn biến-chuyển,
đổi thay ( sắc, thanh, hương, vị, xúc ). Những
cảm-giác ấy không có ở ngoài chúng ta, chúng
ở trong tâm-thức và là biến-thái của tâm-thức.
Những cảm-giác ấy được kể như đã do những
vật đối-tượng ở thế-giới bên ngoài tạo nên,
nhưng phải chứng-minh điều ấy, và chúng ta
thấy không làm gì có bằng-chứng cả .
Chính người nào nhận cho thế-giới có
một thực-tại khách-quan, thì người ấy phải
chứng-minh rằng những cảm-giác để chúng ta
tự đấy xây-dựng thế-giới chủ-quan, thực là do
những đối-tượng ở ngoài ta tạo ra, nghĩa là
phải chứng-minh rằng, những đối-tượng ấy là
những thực-tại khách-quan .
Nếu họ không chứng-minh được điều họ
chủ-trương, nếu họ không đưa được ra một
ADPH RAMANA MAHARSHI
42
bằng-chứng cụ-thể rõ ràng tuyệt-đối, thì họ có
quyền gì đòi hỏi chúng ta bằng-chứng về sự
không có thế-giới khách-quan ?
Nói cách khác thì trách-nhiệm về bằng-
chứng rơi vào những ai khẳng-định có thế-giới
khách-quan hay là rơi vào người không tin có
cái thế-giới ấy ?
Nếu quả thế-giới thực có là thực-tại
khách-quan như Lénine đã khẳng-định thì phải
có bằng-chứng không thể nghi-ngờ. Nay hãy
xét xem những bằng-chứng ấy .
Chúng ta phải thừa-nhận rằng, nếu thế-
giới xuất-hiện bất thường, lúc có lúc không,
chứ không liên-tục như tiêu-chuẩn về thực-tại
đòi hỏi, thì có một sự đoán định chống với sự
thực-tại của nó. Nhà duy-vật tin có thực-tại
khách-quan của thế-giới liên-tục vì đối với
người ngủ nó có biến mất, gián-đoạn, thì đã có
người không ngủ làm chứng-nhân cho thế-giới
vẫn có liên-tục. Người ngủ dậy nếu nghi-ngờ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
về sự liên-tục ấy thì đã có người còn thức
chứng-nhận sự liên-tục cho y. Tuy nhiên lý ấy
không vững vì người thức làm cho người ngủ
dậy cũng thuộc về thế-giới khách-quan mà
người ta chứng-minh sự thực-tại. Và người ta
không có thể thừa-nhận trước, thực-tại của một
thành-phần của thế-giới kia để mà chứng-minh
thực-tại của thế-giới còn lại .
Tâm-thức tự nó nhờ có năng-khiếu tự dối,
tạo nên một thế-giới giả-thiết tương-ứng với
những cảm-giác của nó, và nó phóng ra bên
ngoài. Sự sáng-tạo ấy và phóng-chiếu ấy là vô-
ý-thức, cho nên tâm-thức không bao giờ nghi-
ngờ về cái ngoại-giới kia. Do chính kinh-
nghiệm bản thân chúng ta biết rằng tâm-thức
có cái khả-năng tự dối mình rất cao. Trong giấc
mộng chính cũng những cảm-giác ấy được đối-
tượng-hóa ra ngoài và tạo nên thế-giới mộng.
Cả đến lúc tỉnh mộng, tâm-thức tự huyễn-hoặc
bằng một loại trừu-tượng-hóa : khi chúng ta
xem diễn kịch, nếu vở kịch hay và khéo diễn,
chúng ta, trong một lúc, tin như thật điều ta
ADPH RAMANA MAHARSHI
44
xem. Cũng như thế đối với một tiểu-thuyết hay
của nhà văn có tài. Ở hai trường-hợp, nhân-vật
và sự-kiện đều không có ở ngoài tâm-thức, thế
mà chúng ta hết sức cảm-động, tùy theo tài của
nghệ-sĩ. Những thí-dụ trên đây cho ta thấy khả-
năng huyễn-hoặc và làm cho chúng ta tin vào
thực-tại khách-quan của tất cả cái gì mà tự tâm-
thức đã tạo. Khi huyễn-tưởng ấy nhất thời,
chúng ta phát-hiện ra bản-chất vào lúc nó kết-
thúc. Nhưng khi huyễn-tưởng liên-tục, mộng-
tưởng êm-đẹp chẳng hạn, không có gì đến làm
đứt đoạn, thì chúng ta không có khả-năng
khám-phá ra sự thật .
Chúng ta khó từ bỏ cái tín-ngưỡng vào
thực-tại của ngoại-giới, điều ấy còn do một giả-
thuyết khác nữa nó chi-phối tư-tưởng : chúng
ta tin rằng cái tâm-thức nhỏ bé quá không có
thể bao-hàm cả thế-giới vô cùng lớn, vô cực.
Bài kệ của Thiền-sư Khánh-Hỷ :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
" Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung "
( Hết cả vũ trụ thu lại trên đầu ngọn lông
Mặt-trời mặt-trăng chứa trọn trong hạt cải.)
Chúng ta cho đấy là tưởng-tượng của thi-
nhân mà không tin được. Chúng ta tin rằng
tâm-thức chứa trong óc là bộ-phận nhỏ đối với
thân-thể, thân-thể lại là một mảnh múng của
vũ-trụ tràn ngập không-gian vô cùng. Maharshi
bảo cho biết rằng cái giả-thiết ấy không có căn
cứ, không được chứng-thực và là nghịch lại sự
thật. Những mê-tín ấy, theo Ngài, và tất cả
những mê-tín khác nữa, đều dệt nên bởi tâm-
thức hướng ra ngoại-giới. Chúng là con đẻ của
vô-minh nguyên-thủy, theo đấy thì chỉ một
thân-thể làm nên Ngã và tất cả thân-thể khác là
Phi-Ngã. Vì cái vô minh ấy mà chúng ta không
nghi-ngờ sự sai lầm của cái tín-ngưỡng xuất ra
ở đấy. Vậy theo Ngài chân-lý của vấn-đề tâm-
thức thì vô-hạn và ở đấy có tất cả thế-giới, chư
thần và các thiên-đường. Khi chúng ta nhận ra
là chúng ta huyễn-tưởng về Chân-Ngã, để thừa-
ADPH RAMANA MAHARSHI
46
nhận thân-thể là Chân-Ngã, bấy giờ chúng ta
mới dễ thừa-nhận ý-tưởng cho thế-giới không
có ở ngoài chúng ta .
Để giúp ta nhìn thấy khả-năng vũ-trụ thế-
giới là do tư-tưởng đối-tượng-hóa ra ngoại-
giới, một ngoại-giới tưởng-tượng, các Thánh-
hiền bảo chúng ta chính thực như vậy xẩy ra
trong giấc mộng. Không có gì khác nhau giữa
trạng-thái mộng với trạng-thái thức. Đối với
người đang mộng thì thế-giới mộng có vẻ ở
ngoài người nằm mộng. Sự huyễn-tưởng còn,
chừng nào giấc mộng còn và người nằm mộng
không có khả-năng nghi-ngờ cái thực tại của
sự-vật nó thấy. Chỉ khi nào tỉnh mộng và thế-
giới mộng tan biến bấy giờ chúng ta mới nhận
ra huyễn-tưởng của chúng ta .
Vậy có thể kết-luận rằng không ai bênh-
vực cho vũ-trụ mộng có một thực-tại, trừ phi
những kẻ cuồng-tín về giáo-điều nào mới bênh-
vực đến cùng. Cái huyễn-tưởng chúng ta bị lệ-
thuộc trong giấc mộng là vì người nằm mộng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
tự đồng-nhất-hóa với một trong những thân-thể
nó thấy trong mộng, đến nỗi quên cả cái mình
hàng ngày. Đoạn văn sau đây của Trang-Chu
rất điển-hình :
" Xưa kia Trang-Chu mộng làm
bươm-bướm, bay vù vù như bướm, tự lấy
làm thích-chí lắm, không còn biết đến
Chu nữa. Chợt tỉnh dậy thì lù lù là Chu.
Không biết Chu mộng làm bướm hay
bướm mộng làm Chu. Chu với bướm tất
là có phân-biệt vậy. Thế là vật-hóa . "
_ ( Tề Vật Luận )
Chương sau sẽ thấy Ngài Maharshi thực-
nghiệm ba bình-diện sinh-tồn quen-thuộc trong
đời sống hàng ngày của chúng ta : thức, mộng
và ngũ-say, cả ba tự đặt bên trong một giấc ngủ
khác lâu bền hơn, ấy là giấc ngủ vô-minh về
Chân-Ngã, Chân-Nhân .
( )
" Chân nhân tầm nhi bất mộng kỳ giác vô
ưu ." _ ( Trang-Tử )
ADPH RAMANA MAHARSHI
48
( Người thật, người ngủ không mộng, tỉnh
giấc hết lo âu ) .
Như vậy thì trạng-thái thức và ngủ đều là
mộng cả, nếu chúng ta đem so-sánh với cách
sinh-tồn riêng của chúng ta, không ngẫu-nhiên,
trong đó chúng ta thực là ta, nghĩa là Chân-
Ngã, Chân-Nhân .
( )
" Tri ngã giả bất tri ngã giả ? "
Người có biết ta chăng hay chớ,
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta .
Linh khâm bảo hợp thái hòa,
Sạch không trần lụy ấy là Thần Tiên.
" Ngang tàng lạc ngã Tính Thiên .
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
Cái Tính Thiên của nho-sĩ Công-Trứ
cũng như Chân Nhân của Trang-Tử hay là Bản-
lai Diện-mục của Lục-tổ Thiền-tông, là trạng-
thái mà ý-thức không nổi lên hay là ý-thức
thuần-túy nói ở Duy-thức của Thế-Thân
( Vasubandhu ) :
" Ý thức thường hiện khởi,
Trừ sinh vô tưởng thiên,
Cập vô tâm nhị định,
Thụy miên dữ muộn tuyệt ."
(Ý-thức thường nổi lên,
Trừ khi vào cõi không tư-tưởng suy-tư.
Cùng thiền-định thần-hóa an-tĩnh cấp hai
trong bốn cấp,
Và khi ngủ-say hoặc chết-giấc bất-tỉnh
nhân-sự .)
ADPH RAMANA MAHARSHI
50
Còn một điểm đối với chúng ta rất ý-
nghĩa là, khi ta mộng chúng ta không ý-thức
được sự bắt đầu đi vào mộng, chúng ta cho
rằng vũ-trụ mộng vẫn có từ bao giờ đến nay và
suốt cả không-gian vô-hạn. Cái tư-tưởng ấy về
thời-gian, không-gian vô-hạn chắc hẳn là nhờ
vào khả-năng sáng-tạo của tâm-thức .
Và điều này nêu lên vấn-đề khác : thời-
gian và không-gian có thực-tại khách-quan
không ? Phải nói là chúng ta không có bằng-
chứng và rất có thể chúng ta đều chủ-quan.
Maharshi bảo chúng ta rằng, những quan-niệm
ấy do vô minh nguyên-thủy xuất ra : " Ta là
thân-thể này " hay là : " Thân-thể này của ta ".
Ngài thêm rằng những quan-niệm ấy không có
đối với nhà Hiền. Bởi vì trong trạng-thái mộng
cũng như thức, chúng ta bị lệ-thuộc vào vô
minh cho nên chúng ta có huyễn-tưởng về thời-
gian và không-gian .
Kết-quả của sự khảo-cứu này là chúng ta
đã có thể thoát dần phần nào sự chi-phối của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
huyễn-tưởng về thế-giới. Sự giải-thoát hoàn-
toàn và cuối cùng khỏi tất cả ảo-tưởng chỉ phải
chờ khi nào tiêu-trừ hết hoàn-toàn cái vô minh
nguyên-thủy. Và người ta đạt tới đấy bằng cách
tuân theo con đường của Thánh-Hiền thực-hiện
đã vạch ra, như sẽ trình-bày ở mục " Trạng-
thái vô ngã " sau đây. Sở dĩ duy-thức là vì chấp
vào cá-nhân hay ngã tâm và vật-chất hay
ngoại-vật là có thật .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
TÂM - THÂN
( L' AME = LINH - HỒN )
Phần nhiều người có suy-nghĩ thấy trong
Tâm-hồn ( Moi = Chân Ngã ) mình là người
tri-giác thế-giới và tư-duy những tư-tưởng chạy
qua trong tâm-thức ( mental ) chúng ta. Cái
quan-niệm ấy chính-xác đến mức nào ?
Nếu cái Ngã Cá-nhân là một cá-thể giả-
thiết có thể nhìn rõ và tri-giác thì đồng-nhất với
tâm-thức. Vậy tâm-thức là gì ?
Chúng ta phải đáp, tâm-thức là một vật
không sờ thấy, ở đấy tư-tưởng diễn ra kế-tiếp
nối đuôi nhau. Song những tư-tưởng ấy biến-ảo
và thường thù-địch với nhau. Vậy có vẻ khó
mà quan-niệm một vật duy-nhất, thuần-nhất và
bền-vững mà gọi là tâm-thức được .
ADPH RAMANA MAHARSHI
54
Thánh Maharshi khuyên chúng ta ngược
giòng tư-tưởng cho đến tận nguồn, đến cái tư-
tưởng khởi đầu và từ đấy các tư-tưởng khác
nẩy sinh, và tự hòa-nhập vào đấy. Cái tư-tưởng
đầu tiên ấy là yếu-tố chung cho tất cả tư-tưởng
chúng ta suy-tư. Và Ngài bảo ta tự hỏi : " Tất
cả tư-tưởng kia thuộc về ai ? " Chúng ta dĩ
nhiên đáp : " Chúng thuộc về tôi ". Nó chứa
đựng cái bí-quyết của sự nô-lệ và sự giải-
phóng. Chúng ta mệnh-danh cho cái tư-tưởng
ấy là Ego : Ngã. Và chúng ta sẽ nhận thấy cái
mà chúng ta thường gọi là Tâm-thần ( Âme )
thì chỉ là cái Ngã : Ego ấy thôi, không là cái gì
khác .
Đấy là giải-thích nguyên-lai của sự nô-lệ :
Khi cái tư-tưởng " Ngã " " Tôi " hiện lên thế-
giới bắt đầu có, khi nó dứt hết thì không có thế-
giới nữa. Do đấy mà " Duy-thức " mở đầu :
" Vấn :_ Nhược duy hữu thức, vân hà thế
gian cập chư Thánh giáo,
thuyết hữu Ngã Pháp ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
" Đáp :_ Do giả thuyết Ngã Pháp hữu
chủng chủng tướng chuyền.
Bỉ ỷ sở biến ."
_(Thế Thân : Duy Thức_Tam Thập Luận)
Nghĩa :
( Hỏi : _ Nếu trong vũ-trụ chỉ có Thức
(Vijnana) thì sao thế-gian và Tiểu-thừa-giáo
nói có Ngã (chủ-quan) và Pháp (khách-quan),
Nội-giới và Ngoại-giới ?
( Đáp : _ Nguyên do vì hai giả-thuyết có
Ngã tâm và Ngoại vật, chủ-quan và khách-quan
đối-đãi, lưỡng-nguyên, liền các hình-tướng
hiện-tượng mới biến-chuyển thành thiên-hình
vạn-tượng . )
Chúng đều hết thảy nương vào Thức
( Vijnana ) biến hóa biểu hiện .
ADPH RAMANA MAHARSHI
56
Vị Thánh núi Arunachala mới giáng-thế
( 1879-1950 ), Maharshi đã chứng-giải với
thực-nghiệm bản-thân, với thực-kiện sống-
động, cái triết-thuyết Duy-thức rất siêu-hình
trừu-tượng trên đây .
Vậy thì chỉ vì người ta không có cái "Tôi"
cái Ngã Cá-nhân và tất cả thực-tại, và nếu
người ta giải-thoát, rũ sạch hết cái cố-chấp vào
" Tôi có thật " mà phát-hiện thấy cái " Chân
nhân ngủ không mộng " của Trang-Tử, hay là
cái " Linh khâm bảo hợp Thái Hòa " của
Nguyễn-Công-Trứ, cái Ngã Chân-thật, cái
" Thiên Địa chi tâm " _ ( Dịch ), thì người ta
được giải-thoát khỏi toàn-thể thế-giới .
Chính đấy là đời sống dạy chúng ta nếu
chúng ta có thể quan-sát đứng-đắn. Cái Ngã
Cá-nhân có ở trạng-thái thức và mộng, trong đó
chúng ta có tâm-thức và thế-giới. Đến khi cái
Ngã Cá-nhân tạm mất trong giấc ngủ-say
" thụy-miên hay muộn-tuyệt " không mộng thì
tất cả đều mất. Như thế có nghĩa là thế-giới
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
( Pháp ) không có thật, ngoài cái Tôi Cá-nhân
( Ngã ). Nhà Hiền kết-luận không lưỡng-lự
rằng sự thực thế-giới và Ngã Cá-nhân chỉ là
một, và nếu cái Ngã Cá-nhân tắt đi trong sự cầu
tìm cái Chân Ngã thì thế-giới ( Pháp ) không
biểu-hiện nữa. Như vậy thì cái " Ta " ( Ngã Cá-
nhân ) là nguyên-nhân của sự nô-lệ, hệ-lụy của
chúng ta, và nó tắt thì hết hệ-lụy, giải-thoát .
Làm thế nào mà hệ-lụy lại do cái Ngã Cá-
nhân tạo ra ? Thánh Maharshi giải-đáp câu hỏi
ấy bằng sự nẩy sinh chính cái Ngã ấy như thế
nào :
" Cái Tôi hay Ngã Cá-nhân hiện ra
bằng cách, chấp vào một hình-tướng
chính, vì giữ lấy cái hình-thể ấy mà nó có
được sự liên-tục của đời sống. Rồi nó lại
cướp lấy, chiếm hữu các hình-thể khác,
( những đối-tượng của thích-thú ), nó
thỏa-mãn và phát-triển thành lực-lượng
và diện-tích. Mỗi khi một hình-thể thoát
tay nó, nó liền cướp lấy cái khác. Khi
người ta cầu tìm chân-lý về cái Tôi ấy, cái
ADPH RAMANA MAHARSHI
58
Ngã Cá nhân ấy, cái " Chẳng biết Ta, Ta
vẫn là Ta " ấy thì nó lẩn trốn như con ma,
không có hình-thể riêng của nó . "
Hãy suy nghĩ về câu nói đó. Trong giấc
ngủ-say thì không có cái Ta, cái Ngã Cá-nhân,
nó chỉ có trong giấc mộng hay trong khi thức
thôi. Ở hai trạng-thái này, cái Ngã ấy hiện ra
trong tư-tưởng : " Tôi là thân-thể này ". Vậy
trước hết là tri-giác về một thân-thể đặc-thù,
được coi là " Tôi " ( Ngã ), rồi các thân-thể và
vật đối-tượng khác được xem như là " Không
phải Tôi " ( Phi-Ngã ), phân-biệt với Ngã
( Tôi ). Không có cái Ngã ( Tôi ) ở trong giấc
ngủ-say vì lúc ấy không có thân-thể, vậy cũng
không có Phi-Ngã và không có thế-giới. Sự
liên hợp thường xuyên giữa cái Tôi, cái Ngã
cá-nhân với một thân-thể là một thực-kiện rất
ý-nghĩa. Khi chúng ta phân tách thế-giới thành
Ngã và Phi-Ngã, chúng ta có hai ý-niệm " Tôi "
và " của Tôi ". Tôn-giáo cũng như triết-học bắt
đầu dạy chúng ta rằng chính những tư-tưởng ấy
là bản-chất của sự nô-lệ .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
Nhưng bấy giờ phải biết ở đâu ra cái ý-
niệm Tôi. Có cái gì biện-minh cho quan-niệm
ấy không ? Nếu có thì phải chăng sự nô-lệ do
đấy mà ra ? Bằng không thì sự nô-lệ ở đâu ra ?
Đây là giải-đáp người ta đưa ra :
" Thân-thể không nói : “ Tôi, Ngã ”.
Cái Chân-Ngã, Chân-Nhân, cái Ta vẫn là
Ta, thì ở ngoài thời-gian, nó không biết
bắt đầu và chung-kết, vô-thủy vô-chung.
Nhưng giữa thân-thể bất-động và cái
Chân Ngã, là thuần-túy ý-thức xuất-hiện
cái Ngã Cá-nhân-giả nó chiếm hình-
tướng và diện-tích của toàn-thể. Cái giả
Ngã ấy chỉ là một ảo-tưởng do sự lẫn lộn
giữa Chân Ngã và thân-thể. Và đấy là nô-
lệ hệ-lụy, Tâm-hồn cá-nhân chính là giả
Ngã kia, nó là thân-thể vi-tế . "
Cái Ngã, vì nó cốt ở trong cái ý-thức
" Tôi là thân-thể ", thì ngụ ý có một cá-thể biết
cảm-xúc. Các Thánh Hiền bảo cái cá-thể ấy
ADPH RAMANA MAHARSHI
60
vượt ra ngoài thời-gian. Nó thường còn và tự
sáng .
" Tự minh thành vị chi giáo ;
Tự minh thành vị chi tính
_ ( Trung Dung _ )
" Tri nhân giả trí tự tri giả minh "
_ ( Lão Tử _ )
Trái lại cái giả Ngã thì không còn mãi, nó
hiện ra trong khi thức và mộng, biến mất trong
giấc ngủ-say, nó chia sẻ những khuyết-điểm
của thân-thể, vậy là nó hữu-hạn, giới-hạn trong
thời-gian và không-gian. Vì thế nên giả Ngã
( Ego ) không phải là cái thể linh-cảm như
Chân Ngã, cũng không phải là thân-thể bất-
động, mà là sản-phẩm ảo-tưởng của sự lẫn lộn
giữa thân-thể và Chân Ngã. Bởi thế nên cả khi
người ta biết mình không phải là thân-thể,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
người ta cũng vẫn không có khả-năng tự thoát
khỏi những hạn-chế của thân-thể .
Nay ta có được giải-đáp cho câu hỏi " Ai
bị nô-lệ ? " Không làm gì có ai từng đã tự-do
trước kia mà lại bị nô-lệ-hóa. Cái Chân Ngã,
Chân nhân vẫn luôn luôn tự-do, thân-thể vẫn
luôn luôn liên-hệ vào thời-gian, không-gian và
nhân-quả. Phải nói, nếu có một người nào bị
nô-lệ thì phải thừa-nhận đấy là giả Ngã ( Ego ).
Nói cách khác thì giả-Ngã vừa là hệ-lụy vừa là
người đau khổ vì hệ-lụy .
Sự lẫn lộn và trà-trộn những thuộc-tính ấy
của hai vật hoàn-toàn khác nhau : Chân-Ngã
với thân-thể bất-động là bản-thể của vô minh
và người ta phải rũ sạch, bởi vì vô minh là
nguồn của tất cả đau-khổ trong cuộc đời chúng
ta. Vậy chúng ta thấy cái Chân-Ngã không mãi
mãi tự-do mà còn mãi mãi hiền-triết. Nó không
từng bao giờ mất bản-tính của nó là tự minh,
không bao giờ bị sa-đọa cả .
ADPH RAMANA MAHARSHI
62
Có người hỏi Thánh Maharshi :
_ " Nếu tôi vĩnh-cữu và hoàn-toàn
thì tại sao tôi lại vô minh ? "
Thánh đáp :
_ " Ai đau phiền về vô minh ấy ?
Chân Ngã không phàn-nàn vì bị vô minh
ấy che lấp. Chính giả Ngã ở ông nó phàn-
nàn. Chân Ngã không đặt vấn-đề và thân-
thể cũng không. Chính cái giả Ngã nó đặt
vấn-đề, và cái giả Ngã thì không phải là
Chân Ngã hay là thân-thể, mà là cái gì
chen vào giữa hai cái này. Trong giấc
ngủ-say không có giả Ngã thì bấy giờ
không làm gì có ý-niệm về sự khuyết-
điểm hay là vô minh. Nếu ông khám-phá
ra cái giả Ngã ấy là cái gì, ông sẽ thấy
không có vô minh . "
( )
" Tự tri giả minh "_ ( Lão-Tử )
( Tự biết thì hết vô minh )
" Connais-toi toi-même " _ ( Socrate )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
Tính-chất ảo-tưởng của giả Ngã còn có
hậu-quả mà Thánh Maharshi giải-thích như
sau :
" Khi có cái " Tôi " ( Je ) thì cũng
có cái " Anh ", cái " Nó " đồng thời xuất-
hiện. Nếu sự khảo-sát cầu tìm chân-lý
làm hết cái " Tôi ", thì bấy giờ cái "Anh",
cái " Nó " cũng hết. Cuối cùng sự cứu-xét
còn lại là cái Một không Hai và đấy chính
là Chân Ngã. Những tiếng " Tôi ", "Anh",
" Nó ", không có nghĩa gì đối với Thánh
Maharshi, bậc Chân-Nhân đã thực-hiện
tinh-thần vô ngã, không giả-Ngã nữa. Và
chúng ta có thể tin được lời nói của Ngài,
nếu chúng ta nghĩ rằng những quan-niệm
ấy không có trong giấc ngủ-say, trong đó
không có giả Ngã và thân-thể vật-lý.
Chúng ta có thể hiểu rằng những danh-từ
ấy ứng vào các vật-thể chúng ta nhìn
thấy, vì không nghĩ chút nào đến Chân
Ngã. Chân-nhân là cái tính đại-đồng phổ-
biến ở tại con người ta và ở tại tất cả vật-
thể trong vũ-trụ. Vì lý do ấy mà mỗi
ADPH RAMANA MAHARSHI
64
người tự gọi mình, nghĩa là gọi các thân-
thể thấy ở ngoài : Tôi, Anh, Nó, với ý-
nghĩa phân-biệt nhau, kỳ thực chỉ là Một
Thể, hoặc Phật-tính, hoặc Thiên-tính,
Thiên-mệnh, hoặc Tự-tính v.v. Cái " Tôi "
chân thật, vậy là cái Ngã, Chân-Nhân,
duy-nhất ở tại tất cả " :
" Vạn vật giai bỉ ư ngã giả "
( )
" Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn "
gán cho Thích-Ca khi mới ra đời, tay chỉ lên,
tay chỉ xuống đã tuyên-bố .
Thánh Maharshi cũng bảo phải để ý đến
điều là cái Chân Ngã không ở trong thời-gian,
mọi người bất cứ vô minh đến độ nào cũng
không được coi trọng sự chết. Trong tiềm-thức,
càng ngày chúng ta càng tin rằng cái chết
không tới được mình, chỉ khi nào thân-thể bị
đe-dọa thì người ta lo sợ cái chết. Lúc nào cũng
có một người chết trong thế-giới này, nhưng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
điều ấy không làm ai bối rối cả. Người ta tự tin
là tồn-tại vĩnh-cửu. Và đấy là chân-lý tự khẳng-
định chính-xác, mặc dù có vô minh trong ấy
làm ta tin rằng Chân-Ngã là thân-thể . "
Nên để ý Kinh Vedas Upanisads không
nói gì về cái vật giả-thiết, gọi là tâm-hồn cá-
nhân mà triết-gia cận-đại rất bận tâm. Giáo-lý
cổ-truyền ấy chỉ biết có Đại-ngã Brahman
đồng-nhất với Atman, là Brahman ở cá-nhân
theo công-thức điển-hình truyền-thống Tat-
tvam-asi : Cái Ấy mi là ( ) " Bỉ
chi sinh đảng ư tồn " , và Maharshi cũng như
Thích-Ca xưa đã thực-nghiệm lại và thực-hiện .
Ngài giải-thích ý-nghĩa thâm-thúy và
thân-mật cái nguyên-tắc cổ-truyền là người ta
phải cầu tìm một sư-phụ Chân-tri để hầu cận,
ngõ hầu sư-phụ khải-ngộ cho cách tiếp-xúc.
Cho nên sư-phụ thử-thách đệ-tử xem cá-tính có
còn chấp không, còn chấp vào giả-ngã, giả-
pháp, chủ-quan và khách-quan thì chưa đủ sức
để khải-ngộ, để cho vào được siêu-thức tam-
ADPH RAMANA MAHARSHI
66
muội, thần-hóa tâm-linh, không phải bằng lý-
thuyết mà bằng tiếp-xúc, hay là như trường-
hợp Maharshi, bằng mắt nhìn vào mắt " Tứ
mục tương cố " ( )_ ( Trần-Thái-
Tông ). Vậy hầu-hạ sư-phụ không phải là làm
cho sư-phụ, mà là để quên mình, cái mình giả-
ngã cá-nhân và đồng thời phá cái tin-tưởng vào
giả-pháp, thế-giới khách-quan có thực, cả hai
đều là tuồng ảo-hóa ( Maya ). Lịch-trình phá
chấp kiến ấy là nhờ sống bên cạnh bậc đắc đạo
như Ramakrishna, Maharshi, Aurobindo v.v.
Khi nào sư-phụ thấy sự tòng phục của đệ-tử đã
hoàn-toàn, nghĩa là đệ-tử đã được biến-hóa khí-
chất, sẵn-sàng tiếp-nhận Thực-tại Chân-Ngã để
vượt lên bình-diện Ý-thức Bất-Nhị, tức là Siêu-
thức, trong đó " Vật Ngã câu vong "
( )_(Pháp-Hiền trong núi Tiên-Du),
bấy giờ chỉ một khích-động của sư-phụ là đệ-tử
khải-ngộ .
( )
" Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư "
_ ( Nguyễn-Trãi )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
Và như Maharshi nói :
" Như là những con sông chảy vào
đại-dương và hòa-nhập vào đấy cả tên lẫn
hình, đồng thời hòa với đại-dương cũng
như bậc đắc đạo, không còn tên tuổi và
hình-thể, đồng-nhất-hóa với Thực-thể
Tối-cao, siêu thời-gian và không-gian ."
Và Ngộ-Ấn Thiền-Sư thời Lý ở Việt-
Nam ( 1088 ) cũng đã thực-hiện cái ý-nghĩa
đại-đồng của Thực-tại siêu thời-gian, không-
gian trên đây ở Maharshi :
" Hữu nhân vấn : Như hà thị Phật như hà thị
Pháp như hà thị Thiền ?
Ngộ-Ấn đáp : Vô thượng pháp vương tại thân
vi Phật, tại khẩu vi Pháp, tại tâm vi
ADPH RAMANA MAHARSHI
68
Thiền. Tuy thị tâm ban kỳ quy tắc nhất.
Dụ : như tam giang chi thủy tùy xứ lập
danh, danh tuy bất đồng thủy tính vô dị ."
_ ( Thiền Uyển Truyền-Đăng tập-lục )
Nghĩa là :
( Có người hỏi : Như thế nào là Phật, như thế
nào là Pháp, như thế nào là Thiền ?
( Ngộ-Ấn đáp : Pháp tối-cao ở thân người ta là
Phật, ở miệng là Pháp, ở tâm là
Thiền, tuy là ba hạng cùng về một
thể, thí-dụ như nước ở ba sông, tùy
nơi đặt tên gọi. Tên gọi khác nhau
mà tính nước không khác vậy . )
Thực-nghiệm mới đây của Maharshi-
Ramana đã xác-chứng lời nói của Thiền-sư thời
Lý trên đây, là Thực-tại Tối-cao tuyệt-đối siêu
thời-gian không có thực ở tại bản thân ta mà
thực-nghiệm gọi là Thiền, lý-thuyết gọi là
Pháp, ba phương-diện cùng Một Thể .
********
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
TRẠNG - THÁI
VÔ - NGÃ VÔ - TÂM
Mục-đích của Đạo-học là thực-hiện tinh-
thần Vô-Ngã, Vô-Tâm, vì như các Thánh-Hiền
xưa dạy, hệ-lụy chỉ là đời sống phục-tòng cái
Ngã-giả, vì thế mà sự giải-thoát là sống Vô-
Ngã hay là Vô-Tâm .
Chúng ta tự hỏi : " Có một đời sống Vô-
Vgã không ? Và nếu có thì nó có phải là điều
nên cầu mong không ? "
Không những người thường và cả hạng
thông-minh học-thức cũng rất sợ-hãi mất cái
ADPH RAMANA MAHARSHI
70
Ngã, cái Tôi. Và sự sợ-hãi ấy khiến họ tìm các
cách để từ-chối chứng-nghiệm của các Thánh-
Hiền xưa và nay. Thánh Maharshi, núi
Arunachala, tự-thân là giải-đáp cho câu hỏi
trên, chính Ngài là bằng-chứng của cái Chân-
Ngã, Ngài là Chân-Nhân sống, Hoạt-Phật. Và
chúng ta có thể học hỏi được nhiều về Chân-
Ngã ấy, bằng sự quan-sát và thông-hiểu Ngài là
một bằng-chứng cụ-thể. Có cả một truyền-
thống dài những Thánh-Hiền mà Maharshi là
tỉ-dụ mới đây ( 1950 ) đã chứng-minh có một
Chân-Ngã " còn lại ", người ta đều có thể thực-
hiện bằng cách trừ-diệt cái Giả-Ngã đi, và cái
Chân-Ngã ấy thì vô-hạn và cực-lạc, sự thành-
tựu của tất cả dục-vọng .
Để giúp-đỡ người đệ-tử do-dự, Thánh
cũng gọi đến lý-trí. Ngài bảo rằng không làm gì
có ảo-ảnh, nếu không có cái gì khả-dĩ khoác
lấy cái ảo-ảnh ấy. Chúng ta, khả dĩ có được
quan-niệm về Giả-Ngã thì ắt là phải có Chân-
Ngã. Vả lại chính bản-tính của cái Chân-Ngã là
một thực-tại không thể nghi-ngờ, chúng ta có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
thể khẳng-định hay phủ-định thế-giới, đồng-
bào hay Thượng-Đế , mà không thể tự phủ-
nhận mình. Không ai có thể nói : " Tôi không
có thật ", vì để có thể khẳng hay phủ nhận thì
phải có người khẳng hay phủ nhận. Vì thế mà
phải có cái Chân-Ngã, thì mới có Giả-Ngã
xuất-hiện được .
Để tạm thời chứng-minh có một Chân-
Ngã không phải là Giả-Ngã, Thánh-Hiền đòi
chúng ta hãy cứu xét ba trạng-thái sinh-tồn
trong đời sống là : Thức, Mộng, và Ngủ-say
không mộng ; các người bảo ta nhận-thức ở
một trong ba trạng-thái, là trong trạng-thái
Ngủ-say không mộng thì không thấy Giả-Ngã.
Vậy mà chúng ta tin chắc rằng trong trạng-thái
ấy còn một Chân-Ngã .
Trạng-thái Thức đặt ta liên-hệ với ngoại-
giới giả-định. Trong Mộng chúng ta sống một
thế-giới khác. Ở cả hai, Thức và Mộng, chúng
ta tự đồng-nhất-hóa với một thân-thể, vì thế mà
ở cả hai trạng-thái đều có một Giả-Ngã. Trong
ADPH RAMANA MAHARSHI
72
giấc Ngủ-say thì không có Giả-Ngã, vì thế mà
không có vũ-trụ. Trong ba trạng-thái, chỉ trạng-
thái sau cùng này cho ta biết một hạnh-phúc
thuần-túy. Đặc-chất của trạng-thái này là vô-
tri-giác về thế-giới và hạnh-phúc, chúng
chứng-thực rằng trạng-thái vô-ngã là mục-tiêu
chúng ta phải đi tới .
Người ta có khi hiểu sai về trạng-thái
Ngủ-say không mộng. Có người bạch Thánh
Maharshi rằng Ngủ-say hình như là một trạng-
thái rỗng không và bất-động. Ngài đáp : " Ông
đặt câu hỏi lúc này, đang khi ông Thức, ông đã
không đặt ra trong khi ông Ngủ-say. Chính
tâm-thức ( mental ) nó nói lúc này, nhưng
trạng-thái Chân-Ngã trong giấc Ngủ-say thì ở
ngoài tâm-thức." Không có khả-năng cho tâm-
thức phán-đoán đứng-đắn một trạng-thái mà
mình không ở đấy. Có thể nói rằng không
chính-đáng được phán-đoán một trạng-thái khi
mình ở trong trạng-thái khác. Vậy chúng ta
không thể phán-đoán về các Mộng trong khi
chúng ta đang Thức, và cũng sẽ không chính-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
đáng mà phán-đoán giấc Ngủ-say hay là về cái
gì chúng ta nhớ lại như là Ngủ-say, trong khi
chúng ta Mộng hay Thức. Để có thể phán-đoán
công-bằng về ba trạng-thái kia, chúng ta phải
đứng ra ngoài chúng. Các Thánh-hiền đã làm
thế và sống trạng-thái chân-thật hiện-thân
chân-lý, mới có thể chỉ được sai lầm của chúng
ta ở đâu thôi .
Người ta cũng còn nghi-ngờ sự tồn-tại
của Chân-Ngã trong giấc Ngủ-say. Cái nghi-
ngờ ấy là do thực-nghiệm hạn hẹp về Chân-
Ngã. Chúng ta đều ý-thức nó khi nó tri-thức
các đối-tượng trong khi Thức hay Mộng. Khi
không có tri-thức về đối-tượng là vì công-cụ
nhận-thức, nghĩa là tâm-thức ( giả ngã ) vắng
mặt, chúng ta giả-định là Người Biết, tức là
Chân-Ngã cũng vắng mặt. Điều ấy là do sự vô
minh của ta mà ra, và nó giải-thích sự bất-lực
của ta để nhớ lại sự có mặt của Chân-Ngã trong
giấc Ngủ-say không mộng .
ADPH RAMANA MAHARSHI
74
Chúng ta, mặt khác, còn có bằng-chứng
tích-cực về Chân-Ngã vẫn còn ở trong giấc
Ngủ-say. Người ngủ tỉnh dậy với kỷ-niệm về
hai vật : Y hết lo sợ và không còn biết chi nữa.
Y tự nói : " Tôi đã ngủ ngon, tôi đã sung-
sướng, tôi không còn ý-thức chi hết." Nhà
hiền-triết nói rằng : Kẻ nào nhớ lại là cái tâm-
thức giả-ngã, và vì rằng không ai có thể nhớ lại
cái gì mà nó không từng thấy, như vậy thì cái
giả-ngã đã phải có mặt ở trong giấc Ngủ-say,
trong hình-thức rất vi-tế và yếu-ớt, ví như cây
đa trong hạt đa, trong cái hạt nhỏ có mầm của
một cây lớn. Bởi thế nên Giả-Ngã nhớ lại đặc-
chất của giấc Ngủ-say .
An-lạc trong giấc Ngủ-say dĩ nhiên khác
với thích-thú, vậy mà hiền-triết bảo với chúng
ta rằng chính thích-thú do cùng những nguyên-
nhân với an-lạc thấy trong giấc Ngủ-say. Các
ngài bảo chúng ta quan-sát sự thích-thú cao-độ
nhất chúng ta biết được là thích-thú giao-cấu,
mà một đoạn Kinh Thánh cổ Ấn-độ-giáo ví với
lạc-thú của Ngủ-say, trong đó hoạt-động tâm-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
thức tạm ngừng đến mức người chủ-động mất
ý-thức về mọi vật, về ý-nghĩa cũng như về đối-
tượng. Thích-thú bị giảm đi bởi tất cả ý-thức,
mà người ta có thể quan-sát một đối-tượng hay
một trạng-thái nào. Điều ấy cho ta thừa-nhận
lạc-cảnh Ngủ-say như một thực-kiện. Bấy giờ
thì giải-thích duy-nhất có khả-năng về lạc-cảnh
chính là bản-tính của Chân-Ngã vậy. Do đấy
mà lạc-cảnh không có thể rời Chân-Ngã, mặc
dầu có khi Chân-Ngã bị che phủ, mà chúng ta
thường thấy đau khổ ở trạng-thái Thức và
Mộng .
Ngủ-say thực-tế là Vô-Ngã, chúng ta nay
hiểu rằng trong sự giải-thoát, sự mất hoàn-toàn
và mãi mãi cái Giả-Ngã cá-nhân đúng ra thì
không phải là một sự mất-mát, mà là " sự mất
một cái mất ". Thực ra nếu chúng ta gọi đến
bằng-chứng thực-nghiệm của các vị Thánh
sống, thì lạc-cảnh, hạnh-phúc, hoàn-toàn chính
là bản-tính của Chân-Ngã, vậy mất cái giả-ngã
sẽ được lợi lớn về Chân-Ngã. Và bởi thế nên
ADPH RAMANA MAHARSHI
76
kỹ-thuật cứu-xét cầu tìm Chân-Ngã chỉ có
mục-đích tiêu-diệt Giả-Ngã vậy .
Tại sao sự mất Giả-Ngã tâm-thức trong
giấc Ngủ-say không dẫn đến giải-thoát. Thực
thế, khi tỉnh dậy sau giấc Ngủ-say chúng ta lại
thấy tất cả hệ-lụy như trước khi ngủ. Người ta
bảo rằng bậc Thánh đạt đạo tới trạng-thái Vô-
Ngã, thì không còn bị hệ-lụy nô-lệ nữa, các
Ngài vượt quá vật-dục và sợ-hãi. Tại sao người
ngủ-say không giữ được trạng-thái vô-ngã,
cảnh an-lạc ấy, mà đạo-sĩ đắc đạo thì còn mãi
trong trạng-thái hạnh-phúc ấy. Vậy cái gì phân-
biệt trạng-thái vô-ngã của đạo-sĩ với trạng-thái
ngủ-say của người thường ?
Vấn-đề đã được giải-quyết ở trong Kinh
Thánh xưa và được Thánh Ramana Maharshi
mới chứng-thực. Ngài giải-đáp rằng giữa hai
trạng-thái Ngủ-say Vô-Ngã của người thường
và siêu-thức thần-hóa của Thánh thành đạo, có
sự khác-biệt cơ-bản. Muốn nhập vào trạng-thái
Vô-Ngã và giải-thoát khỏi hết dục-vọng và sợ-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
hãi thì phải rũ sạch sự vô minh về Chân-Ngã.
Vô-minh ấy là nguồn-gốc của tất cả hệ-lụy .
" Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tây tận nhân gian kiếp kiếp trần ."
_ ( Nguyễn-Trãi )
Trong trạng-thái Ngủ-say, người thường
tuy đồng nhất với Chân-Ngã và hưởng-thụ
hạnh-phúc an-lạc, nhưng y chưa hề tẩy sạch
được vô minh, là Giả-Ngã. Trong khi ngủ-say,
Giả-Ngã không hiện ra vì không có thân-thể,
nhưng nó vẫn tiềm-tàng, là chủng-tử mầm-
mống để tái hiện khi tỉnh dậy, vì thân-thể lại
hiện ra. Chúng ta đã thấy chính sự tồn-tại của
giả-ngã ở hình-thức chủng-tử trong giấc Ngủ-
say giải-thích sự người ta còn nhớ đã ngủ một
giấc ngon lành sung-sướng. Trường-hợp của
Thánh thì khác. Ngài nhập vào trạng-thái vô-
ngã thẳng từ trạng-thái Thức, không phải qua
trạng-thái mất ý-thức như trong giấc Ngủ-say.
ADPH RAMANA MAHARSHI
78
Ngài trở thành một với Chân-Ngã của trạng-
thái vô Giả-Ngã, vô-tâm cá-nhân, nhờ chính cái
ý-thức về Chân Ngã, đấy là tất cả khác biệt
giữa Thánh và phàm. Ở trường-hợp các Thánh
thì không còn mầm-mống vị-kỷ để cho Giả-
Ngã cá-nhân có thể từ đấy tái-hiện. Ngài đã ra
khỏi vòng luẩn-quẩn của Thức, Mộng, Ngủ-
say, vì thế Ngài không còn trở lại trạng-thái ấy
nữa .
Trạng-thái Vô-Ngã, Vô-Tâm, vậy là một
một trạng-thái rất khác với Ngủ-say, Thụy-
miên, gọi là trạng-thái siêu-nhân của Thực-tại
thuần-túy. Nó còn được gọi là trạng-thái thứ
bốn ( 4 ) : Turya, mà Upanisads tượng-trưng
bằng một tiếng O M : A U M. trong ấy :
_ A : đại-diện cho trạng-thái Thức ( Vicva )
_ U : ..................................... Mộng ( Tayana )
_ M: ........................Ngủ-say (Prajña)(Sunyata)
đọc lên thành âm-thanh vũ-trụ. OM là trạng-
thái thứ bốn (4), bao-hàm cả ba trạng-thái trên,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
biểu-hiện của Tự-tính Tối-cao mà nhân-loại
kinh-nghiệm qua ý-thức Thức về thể thô ;
Mộng, thể tinh và thể nguyên-nhân trong trạng-
thái Ngủ-say. Trạng-thái ý-thức thuần-túy là
trạng-thái thứ bốn (4), tức siêu-hình ngoài
ngôn-ngữ :
( )
" Vô danh thiên địa chi thủy "
_ ( Lảo Tử )
Về trạng-thái Vô-Ngã, Vô-Tâm chúng ta
không có chứng-nghiệm nào khác hơn là
chứng-nhân của các Thánh-Nhân Đạo-sĩ.
Chúng ta phải tìm-hiểu chính các Ngài, vì trí-
thức không đạt tới được nên Thánh-nhân chỉ có
thể dùng phép phủ-định ( Neti, Neti ) ( không
cái gì là trạng-thái ấy và khác với các trạng-thái
kia thế nào ). Vì ở trong trạng-thái thứ bốn (4)
( Turya - Samadhi ), trí-thức không tác-dụng,
bởi thế mà ngôn-ngữ không còn thích-dụng
nữa. Thánh-nhân bảo chỉ có yên-lặng, vô-ngôn
là tiếng nói chân-chính của Chân-Ngã, đúng
như truyền-thuyết Thiền-tông nói Phật Thích-
ADPH RAMANA MAHARSHI
80
Ca, khi từ trong tam-muội ra, chỉ yên-lặng dơ
cành hoa lên trước quần-chúng tín-đồ .
Thánh-nhân dạy, trạng-thái thứ bốn (4)
mới là trạng-thái Thức thật, còn ba trạng-thái
kia là ngủ vì vô-minh về Chân-Ngã. Cũng như
các Mộng hiện ra trong giấc ngủ, thì trạng-thái
Thức trong đời sống ở thế-gian hiện ra như một
giấc mộng trong giấc ngủ, quên mất chân-thân
trong vô-minh. Do vô-minh cơ-bản ấy mà cái
gọi là trí-thức bác-học về sự-vật của chúng ta ở
trạng-thái Thức, thì không phải là Chân Tri-
thức. Tỉnh dậy hay là giác tỉnh giấc ngủ cơ-bản
này là trở nên giải-thoát, tự-do ; thực thế, nhờ
sự giác tỉnh ấy, chúng ta lấy lại " bản lai diện
mục ", như Đức Phật Thích-Ca đã giác vậy . _
( Buddha : Bodhi : Bồ-Đề : Giác ) .
Thánh-nhân trụ tại trong trạng-thái vô-
ngã, vô-tâm cá-nhân, là giác-ngộ Chân-lý, giác-
ngộ Chân-Ngã, là " Chân-Nhân ngủ trong
mộng ", do đấy mà Ngài ngủ đối với thế-gian
ảo-hóa của vô-minh, của tâm-thức. Đối với bậc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
giải-thoát thường-trụ trong trạng-thái siêu-
nhiên thì chỉ có Chân Ngã là có thật, không có
chi khác nữa. Và chúng ta được dạy rằng :
" Chân-Ngã thì vô-tướng, vô-thời-gian, vô-thủy
vô-chung, bất-sinh bất-tử." Đấy là ý-nghĩa
cách-ngôn : " Thánh-nhân thì ngủ đối với tất cả
cái gì đối với người thường là Thức." Trạng-
thái ấy vì thế cũng gọi là Ngủ - Thức, nó giống
như giấc ngủ của chúng ta biết về mặt thế-gian,
và Giả-Ngã không có ở cả hai đàng, nhưng
khác với Ngủ-say về điểm nó đã giải-thoát khỏi
vô-minh về Chân-Ngã tiềm-tại trong giấc Ngủ-
say.
Thánh-nhân tuyên-bố, sự thực trạng-thái
ấy thì vô-thủy, nếu không thế thì nó cũng sẽ
không có chúng. Nó ở ngoài tầm luận-lý
( logique ) và luận-lý tự mâu-thuẫn với chính
nó, nếu nó tìm cách lý-luận. Trí-thức phải
nhượng-bộ cho giáo-lý thực-hiện của Thánh-
nhân vì nó bị huyễn-tưởng bủa vây, nhất là khi
nó tìm-hiểu cái gì ở ngoài tầm tâm-thức, cái gì
ADPH RAMANA MAHARSHI
82
quan-hệ đến cái nguồn phát-xuất ra tất cả sự-
vật, gồm cả trí-thức .
Thời-gian, chính nó cũng là một huyễn-
tưởng từ trong tâm-thức phát-sinh, tâm-thức
tưởng-tượng thời-gian vô-hạn, kỳ thực không
có chứng-cớ. Trong giấc Mộng chúng ta cũng
có cảm-tưởng thời-gian vô-hạn. Khi chúng ta
bắt đầu Mộng, chúng ta không ý-thức được
giấc Mộng bắt đầu. Chúng ta tưởng rằng giấc
Mộng thì vô-thủy cô-chung. Và chỉ khi tỉnh
Mộng, bấy giờ chúng ta mới hiểu rằng quan-
niệm ấy là huyễn-tưởng. Trong khi đang Mộng
chúng ta không có thể biết được. Thánh-nhân
bảo rằng trạng-thái Thức là một giấc Mộng ở
trong giấc Ngủ-say mà quên cái Chân-Ngã.
Chúng ta không có thể đòi bằng-chứng cho
tính-chất ảo-tưởng của thời-gian, chừng nào
chúng ta đang Mộng trong sự vô minh về Chân
Ngã. Muốn hiểu sự sai lầm thì phải giác tỉnh về
Chân Ngã trong trạng-thái vô Giả-Ngã, vô-tâm
cá-nhân .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
Nhân vì trạng-thái Thức chân-thật là ở tại
trong trạng-thái vô-tâm và không ở đâu hết,
nên chỉ kẻ nào tin vào thiên-đường này nọ,
trong cái đó Giả-Ngã còn mãi, kẻ ấy không tự
giác tỉnh, mà chỉ muốn những giấc Mộng đẹp,
và y chấp nặng vào đời sống Giả-Ngã. Do đấy
mà sự mất Giả-Ngã ấy đối với y là một sự chết
cứng. Song, sự thực Thánh-nhân bảo là sự mất
Giả-Ngã cá-nhân không phải là chết, mà là chết
của cái chết, sinh vào trong đời sống chân-thật
không có chết. Đấy mới thật là sống, còn các
đời sống khác đều dẫn đến chỗ chết. Thánh
Maharshi bảo chúng ta rằng : " Chỉ kẻ nào sinh
trong trạng-thái do ở công-trình Tìm-Cứu
nguốn-gốc của bản-tính, mới là kẻ thực sinh.
Nó sinh ra chỉ có một lần thay vì nhiều lần mà
luôn luôn mới hoài .
Như vậy không có ai thực sinh và không
một ai thật chết. Tìm thấy Chân-Ngã thì trái lại
là vừa sinh ra vừa chết đi, đấy là sự sinh thật vì
không còn chết nữa, và cũng là sự chết thật,
nhân vì tâm-thức Giả-Ngã chết rồi thì không
ADPH RAMANA MAHARSHI
84
thể có gì sinh ra nữa. Bởi vậy, Thánh Maharshi
gọi là " chết không chết " .
Tuy nhiên nhiều người không thể tưởng-
tượng được đời sống không cá-tính, họ không
ham trạng-thái vô-ngã vì là cá-tính mất, đó là
điều họ rất lo sợ. Họ chờ mong một trạng-thái
trong ấy cá-tính với những sự khác biệt còn
nguyên mãi. Ở trong cảnh-giới ấy họ tính
hưởng-thụ tất cả thích-thú mà không chút đau
khổ. Chân-lý Thiên-khải bảo rằng họ lầm, sự
sợ-hãi sẽ không hết chừng nào còn tính khác
biệt giữa một Giả-Ngã, một tâm-thức cá-nhân,
với cái Ấy, cái Chân-Ngã là Toàn-thể, " Tat
tvam asi " ( Cái Ấy ngươi là ) " Bỉ chi sinh
đảng ư tồn " ( Sự sống của anh là sự tồn tại ) .
Tất cả Thánh-nhân cho tới nay đều bảo
chúng ta rằng trong sự hoàn-toàn chí-thiện thì
không còn sót lại chi khác ngoài cái Một không
hai. Ngài Maharshi nói : " Thực thấy Thượng-
Đế là bị Ngài xé nát ", nghĩa là hết là cá-nhân,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
thị-thực sự thị-hiện cuối cùng về Thượng-Đế ,
vì Thượng-Đế là Chân-Ngã không là gì khác .
Chân-Ngã ở trong trạng-thái Vô-Ngã, Vô-
Tâm, thường được gọi là " Siêu-Ngã " ( Sur-
Moi ) hay Đại-Ngã phân-biệt với cái Tiểu-Ngã
nghèo-nàn mà ta biết qua ba trạng-thái : Thức,
Mộng, Ngủ-say. Nhưng Ngài Maharshi giải-
thích cho chúng ta sự khác nhau thật sự như
sau :
" Cái " Siêu-Ngã " ấy là cái Chân-Ngã
của chúng ta còn tất cả cái Ngã khác đều là
Giả-Ngã do vô minh tạo nên. Chúng ta nói về
hai Ngã, một cái cao và một cái thấp, nhưng sự
thực cái gọi là Ngã thấp thì không có thật, và
cái Ngã cao là thật ; nói cách khác cái Ngã cao
không bao giờ có thể chiếm địa-vị của cái Ngã
thấp được ."
Còn một vấn-đề : " Nếu chúng ta đạt tới
trạng-thái Vô-Ngã, Vô-Tâm, liệu chúng ta có
được hạnh-phúc hoàn-toàn và lâu dài không ? "
ADPH RAMANA MAHARSHI
86
Trước hết hạnh-phúc như đã nói phải từ
bên trong bản-tính nội-tại của chúng ta, mà
không ở vật bên ngoài đưa tới. Và kẻ nghèo
cũng như kẻ giầu đều thấy hạnh-phúc trong
giấc Ngủ-say vì ở đấy hết dục-cầu và sợ-hãi.
Nhưng trong giấc Ngủ-say, chúng ta không ý-
thức chi hết, cả đến không ý-thức về chính
mình nữa. Trạng-thái Vô-Ngã hay Vô-Tâm cá-
nhân thì khác, nó là trạng-thái ý-thức hoàn-toàn
thức-tỉnh. Và nhân vì chúng ta thấy sung-sướng
trong giấc Ngủ-say, mặc dầu sự khuyết-điểm
của nó, do đấy trong trạng-thái Vô-Ngã chúng
ta phải được thấy hạnh-phúc hoàn-toàn. Bởi thế
mà Thánh Maharshi nói : " Kẻ biết giá-trị của
giấc Ngủ-say sẽ không bao giờ bảo rằng y sẽ
không thỏa-mãn với trạng-thái Vô-Ngã." Đấy
là điều Nguyễn-Trãi đã khao-khát :
" Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ
Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm ? "
( Ngày dài tựa ghế quên cả nói,
Mây trắng với ta ai có tâm ? )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
Trong trạng-thái ấy, như bạch vân trên
trời hẳn Nguyễn-Trãi không còn tiếc nhớ đến
cá-tính riêng của mình, cũng như trong giấc
Ngủ-say, người ta đã mất hẳn cái Tôi. Vậy mà
chẳng ai sợ-hãi giấc Ngủ-say. Ngủ-say người ta
không có cái " Tôi " đủ tỏ cá-tính là một trở-
ngại cho lạc-thú chân-chính, hạnh-phúc thật .
Nhưng người ta có thể nghi-ngờ về khả-
năng đạt được trạng-thái vô-ngã, vô-tâm, mà
Thánh Maharshi bảo rằng tất cả chúng ta ai
cũng mong muốn và sốt-ruột đạt đến trạng-thái
ấy, là sinh-tồn toàn-diện, thuần-túy vô-hạn.
Thánh Maharshi hiện-tại là một thực-chứng của
trạng-thái Vô-Ngã. Ai đã sống bên Ngài, thân-
mật với vị Thánh núi Arunachala, đều nhận
thấy ngay Ngài là một nhân-vật hoàn-toàn khác
với người thường phàm-tục và khác cả với tu-sĩ
đã tiến-bộ nhiều rồi. Một sự khác-biệt đặc-
trưng là Ngài hoàn-toàn thản-nhiên đối với lời
khen hay chê, đủ chứng tỏ ở Ngài cái " tôi ",
cái " ngã ", cái tâm cá-nhân đã hết hẳn .
ADPH RAMANA MAHARSHI
88
Nay xét về ý-kiến cho rằng Ngài còn cái
tâm-thức tinh-vi và có khả-năng thần-linh. Các
vị Thánh-nhân và Ngài Maharshi đã chứng-
minh điều ấy mà nói rằng : không phải thế,
nghĩa là các Ngài không còn Giả-Ngã nữa.
Vấn-đề đã đặt ra với Thánh Maharshi, và Ngài
luôn luôn trả lời là không còn Giả-Ngã, tâm-
thức nữa. Một hôm có người hỏi : " Thánh
nhìn thế-giới có giống mọi người không ? "
Ngài đáp rằng : " Vấn-đề đó không có đối với
Thánh-nhân, mà chỉ có đối với người ngu-mê
vì vô-minh mới đặt ra vấn-đề ấy, bởi cái Giả-
Ngã, tâm-thức cá-nhân của mình. Giải đáp cho
hạng người này là : Trước hết hãy tìm ra câu
hỏi ấy đặt cho ai ? Vấn-đề ấy không cần kíp,
và nó tự giải khi nào người ta thấy Chân-Ngã,
Tính Nhiên .
" Ngô hà ái ? Ái duy miên !
Ái vi an thư thích tính nhiên ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
( Ta thích gì ? Thích ngủ thôi !
Thích vì an-nhàn, thư-thái, hợp Tính
Tự-nhiên .)
_(Lão-Tiều núi Na_Thánh-Hóa, thời Hồ )
Đạt tới trạng-thái vô-tâm, ví như Ngủ-say
của bậc Chân-nhân sẽ thấy, vấn-đề và người
hỏi cả hai đều biến mất và giải-đáp không còn
cần-thiết nữa. Ngài Maharshi hỏi thế-giới có
không ? Người nhìn thấy thế-giới nói thế-giới
có. Song, để có thể nói thế-giới được nhìn thấy,
thì phải có một người nhìn. Hãy tìm thấy người
ấy. Tại sao phải bận tâm, bấy giờ, với cái gì sẽ
đến khi nào người ta biết thật-biết về Chân-
Ngã. Có gì quan-hệ nhìn thấy hay không nhìn
thấy thế-giới. Ta có mất gì khi nhìn thấy thế-
giới khi ta Thức ; ta được gì khi ta Ngủ không
thấy thế-giới ? Điều ấy không có gì quan-trọng.
Anh đặt câu hỏi vì anh thấy Thánh-nhân hoạt-
động như các người khác, nhưng Thánh nhân
không nhìn thế-giới như họ. Hãy xem chiếu-
bóng, những hình-ảnh hoạt-động trên màn-bạc,
nhưng nếu đi tới màn-bạc để sờ vào các hình-
ADPH RAMANA MAHARSHI
90
ảnh thì chỉ thấy có màn-bạc thôi, các hình-ảnh
đều biến mất. Thế-giới cũng tương-tự như thế .
Ở một dịp khác, Ngài Maharshi cởi mở
hơn, tuyên-bố rằng Thánh-nhân Vô-Ngã, Vô-
Tâm-Thức, và không tin-tưởng mình là tác-giả
của hành-vi, tức vô-vi. Theo đấy thì thực ra
Ngài không có thân-thể, cái thân-thể chúng ta
nhìn thấy và gán cho Ngài là một ảo-tưởng,
một thành-phần của tuồng ảo-hóa, là thế-giới
vũ-trụ. Để giảng cho người ta sự có cái tình-
trạng ấy, Ngài bảo chúng ta rằng, bậc người
Vô-Ngã cũng ví như người ngủ trong một cỗ
xe, thân-thể là cái xe và giác-quan là những
con ngựa. Ngựa đóng vào xe là thân-thể ví như
trong trạng-thái tỉnh thức, hay là tháo ra ví như
trong giấc ngủ. Khi nào giác-quan đóng vào xe
( thân-thể ) thì Thánh-nhân có vẻ hoạt-động,
khi nào chúng bị tháo ra thì bảo Ngài ngủ. Có
khi người ta bảo Ngài ở trạng-thái trung-gian
thần-hóa trong ấy giác-quan còn đóng buộc vào
thân-thể, mà thân-thể thì bất-động. Sự thực, ba
trạng-thái ấy trong con mắt Thánh-nhân không
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
có chi khác nhau, cũng như đối với người ngủ
trong xe, y thản-nhiên dù xe chạy hay ở yên
bất-động hay là ngựa bị tháo ra. Thánh-nhân
ngủ đối với thân-thể và thế-giới vì Ngài thức-
tỉnh về thực-tại, nghĩa là giác về Chân-Ngã. Do
thế đối với Ngài, thế-giới không biểu-hiện nữa,
nó chỉ là ảo-giác của Chân-Ngã .
Một lần khác, Maharshi đã ví Thánh-nhân
với đứa trẻ ngủ, nuốt vô-ý-thức những thực-
phẩm mẹ nó cho. Sáng hôm sau, đứa trẻ tỉnh
dậy phàn-nàn không ai cho nó ăn, dù mẹ nó
giải-thích nhưng nó không tin vì nó đã không
nhớ được là nó đã ăn. Vậy chúng ta phải thừa-
nhân Thánh-nhân sống ở đời như người mộng-
du .
Nhân vì Thánh-nhân không còn tâm-thức
( mental ) trạng-thái Vô-Ngã không chứa trong
thời-gian, nó cũng không phải ở trên mây hay
trong không-gian của các nhà thần-học gọi là
Thiên-đường mà " Trong gang tấc đủ thiên-
đường địa-ngục " của nhà Phật tâm-linh. Để đạt
ADPH RAMANA MAHARSHI
92
tới đấy, chẳng phải đi đâu cả mà chỉ là diệt tắt
cái Ngã-giả, là giải-thoát tại đây và ở ngay đời
này, như Thiền-sư Việt là Phù-Vân bảo với vua
Trần-Thái-Tông khi Ngài vào núi cầu tìm Phật,
giải-thoát :
" Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm. Tâm
tịch nhi tri thị danh chân Phật. Kim Bệ hạ
thử nhược ngộ thử tâm tắc lập địa thành
Phật, vô khổ ngoại cầu dã ."
_ ( Thiền-tông chỉ nam tự )
( Trong núi không có Phật, chỉ ở tại nơi
tâm. Tâm lặng mà biết ấy là Phật thật.
Nay nhà Vua, nếu giác-ngộ được cái tâm
ấy thì liền thành Phật tại đây, không phải
mệt khổ tìm cầu ở đâu bên ngoài tâm
mình . )
Thánh Maharshi cũng không nói gì khác
hơn với chúng ta ngày nay. Trước hết, có vẻ
ngụ-ý Chân-Ngã tựa như một nguyên-tử chứa
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
trong một không-gian cực nhỏ, trong lỗ hổng
của tim " không lớn hơn đốt ngón tay " theo
một vài Kinh sách cổ. Nhưng không nên hiểu
theo nghĩa đen câu mỹ-dụ ấy. Người ta nói
trong khoảng không-gian ấy có cái Chân Ngã
duy-nhất vô-hạn " Bé không trong mà lớn
cũng không ngoài ". Tại nó có tất cả các thế-
giới, nên hiểu đấy là ý-thức thuần-túy .
( )
" Linh khâm bảo hợp thái hòa "
(Tâm-linh bảo-hợp hòa-điệu vũ-trụ )
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
cái Tâm Thiên Địa ( ) ở Kinh
Dịch .
Cái ý-thức thuần-túy người ta thực-hiện
như Thánh Ramana Maharshi bằng công-phu
diệt tắt nơi mình cái ngã tâm sau khi nội-hướng
vào cái ý-thức Chân-Ngã trong tim. Cái ý-thức
ấy không ở không-gian và thời-gian .
ADPH RAMANA MAHARSHI
94
" Bé không trong mà lớn cũng không
ngoài ."
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
Người ta bảo trái tim là sở-tại của Chân-
Ngã để chuyển-hướng tâm-thức hay là tinh-
thần của người tầm-cứu xa rời thế-giới sở-tri
bên ngoài và tư-tưởng bên trong. Sự thực, tâm
không phải vị-trí của Chân-Ngã, chính nó là
Chân-Ngã. Chính tự nó xuất ra Giả-Ngã, tâm-
thức và tất cả thế-giới ; chính ở nó mà chúng tự
lập nên và tự biến đi .
Vì lý do ấy mà Thánh Maharshi không
thấy thực sự thế-giới thiên-hình vạn-tượng
khác đa tính. Đối với Ngài tất cả hình-ảnh trên
màn-bạc đã hết hiện ra, chỉ còn lại có màn-bạc,
nghĩa là Chân-Ngã. Bởi vậy Ngài nói với
chúng ta rằng :
" Tứ đại giả hợp, bốn yếu-tố cấu-tạo
nên thế-giới, nghĩa là ( Mana Rupa ),
Hình, Danh, Sắc, Tướng, là những hình-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
ảnh chiếu-bóng, khán-giả màn-bạc và
ánh-sáng của trí-tuệ không là gì khác, là
Chân-Ngã . "
Thế-giới và khán-giả như thế, ví như một
tràng hình-ảnh trên màn-bạc chiếu-bóng, sự
khác nhau độc-nhất là ở Cinéma khán-giả đứng
biệt-lập với cảnh-tượng, còn ở đây, trong Duy-
thức-quan, khán-giả là một thành-phần của
cảnh-tượng. Điều ấy cho ta hiểu rằng thế-giới
chỉ là một ảo-ảnh, cũng như con rắn ở chỗ cái
thừng. Cũng như cái thừng, chỉ có Chân Ngã là
có thật. Và kẻ nào đã nhìn thấy cái thừng thì
không còn thấy rắn nữa. Cũng thế mà Thánh-
nhân đã thực-nghiệm Chân-Ngã ở trong tim thì
không nhìn thấy thế-giới nữa, vậy nên Ngài
vượt ra ngoài dục-cầu và sợ-hãi, hưởng-thụ an-
lạc vĩnh-cửu .
Từ những bài-học thực-nghiệm của
Thánh Maharshi về trạng-thái Vô-Ngã, chúng
ta có kết-luận quan-trọng này, là muốn có thực-
nghiệm về Chân-Ngã chúng ta phải ra khỏi
ADPH RAMANA MAHARSHI
96
vòng luẩn-quẩn của ba trạng-thái : Thức ;
Mộng ; Ngủ-say, và chúng ta không thể vượt
chúng một cách kế-tiếp mà phải ra khỏi cả ba
cùng một lúc. Thực-nghiệm Chân-Ngã không
phải thuộc về trí-thức hay vật-lý, nó là thực-
nghiệm siêu-nhiên, hình nhi thượng .
Tất cả ba trạng-thái và tất cả các vũ-trụ
đều thuộc về Giả-Ngã cá-nhân, thuộc phạm-vi
vô-minh. Ở trạng-thái Thức chúng ta bị Giả-
Ngã cá-nhân hay tâm-thức chi-phối, và nguồn
nhận-thức duy-nhất chúng ta có được là trí-
thức ( intellect ), công-cụ do Giả-Ngã tự tạo
nên để sáng-tạo và điều-khiển những vật đối-
tượng sở-tri và những tư-tưởng. Vì thế mà ở
trạng-thái Thức chúng ta có thể hiểu theo cách
phân-định ra năng-tri và sở-tri của trí-thức về
Chân-lý của trạng-thái Vô-Ngã, thế thôi không
hơn. Với trí-thức đối-đãi như thế, chúng ta
không thể có thực-nghiệm trực-tiếp về Chân-
Ngã .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
Theo Ngài Maharshi là hiện-thân của
Chân-Ngã, thì trí-thức không thể làm gì khác
hơn là tưởng-tượng Chân-Ngã, Chân-tâm như
là tầm-vóc của thân-thể, dù cả đến khi nó
không phải là thân-thể. Vậy trí-thức không dẫn
ta đến trạng-thái Vô-ngã hay Vô-tâm. Và hai
trạng-thái Mộng, Ngủ-say càng không có khả-
năng đưa chúng ta đến đích ấy. Trạng-thái Vô-
ngã, như Thánh Maharshi núi Arunachala nói,
chỉ có thể chinh-phục bằng công-trình tầm-cứu
Chân-lý về Đại-Ngã, con đường trực-tiếp và
chắc-chắn duy-nhất để đạt tới trạng-thái Vô-
ngã, nó là :
KHOA ĐẠI ĐẠO-DẪN ( MAHAYOGA )
***************
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
SƯU - CẦU
Nay chúng ta biết rằng cái Ngã hay Tôi
chính nó là nô-lệ. Chính cái Ngã cá-nhân ấy đã
làm cho ta rời khỏi hạnh-phúc hoàn-toàn, vốn
là của ta tự-nhiên. Chúng ta cũng biết rằng
trạng-thái Vô-ngã là trạng-thái giải-thoát, và nó
chỉ có thể chinh-phục được bằng sự tiêu-trừ cái
Ngã cá-nhân đi. Tất cả các tôn-giáo đều đồng-
tình thừa-nhận đấy là Đạo, nhưng tự nhiên
chúng khác nhau về cách mà người ta phải rũ
sạch cái Ngã, và về bản-chất của mục-đích mà
người ta đạt tới. Vậy hình như chúng có là để
reo rắc rối-loạn và chia rẽ loài người thành
phe-phái thù-địch, những sự khác-biệt của
chúng là do tính-tình khác nhau giữa các người
mà chúng truyền-giáo. Một hôm có người hỏi
Thánh Maharshi quan-niệm nào trong hai
quan-niệm là chính-xác : " Thượng-Đế và tâm-
hồn nhân-loại là hai cá-thể khác nhau, hay chỉ
là một thể ? " Thánh đáp : " Hãy lo về yếu-tố
ADPH RAMANA MAHARSHI
100
mà người ta đồng-tình ". Ở đấy Ngài hiểu rằng
những ý-kiến của ta về mục-đích ( ta sẽ trở nên
đồng-nhất với Thượng-Đế hay là sẽ còn phân-
biệt ) đều không quan-trọng, miễn là chúng ta
đều khẩn-thiết để đạt tới đích ấy. Nhưng tiêu-
trừ cái Ngã không phải là việc dễ. Xảo-trí của
chúng ta không đủ để phát-minh một phép
chắc-chắn duy-nhất và trực-tiếp để thi-hành.
Các tín-đồ theo đuổi các đường rất khác nhau
và không kết-quả. Chỉ có một vị Thánh-nhân
mới có thể chỉ-dẫn chúng ta phương-pháp
chính-xác .
Một hôm Ramana Maharshi nói : " Cái
Ngã cá-nhân, cái Tôi ví như cái bóng, tự nó thì
không có thật, nhưng nó là hiện-diện của cái
hình có thực theo cái bóng ấy. Giả thừ có một
người nhìn thấy một cái bóng cứ theo mình
hoài và nó rất bực mình, nó làm đủ các cách để
rũ đi nhưng không được. Sau cùng nó nghĩ ra
một mẹo. Nó đào một cái hố lớn để chôn lấp
bóng. Đào xong hố, nó dẫn bóng xuống và lấp
hố đi, nhưng bóng lại hiện lên trên mặt hố và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
tiếp-tục theo nó. Điều nó phải làm là so-sánh
bóng với mình và thấy rằng bóng thì phi chất
và không thực-thể. Cũng thế cái Ngã thì không
có thực-thể, nhưng chúng ta có thể tỉnh-ngộ
rằng khi nào chúng ta rời mắt khỏi nó để xét
xem cái Chân-Ngã ở tim chúng ta, thì như thế
là tìm về nguồn của cái Ngã, cái Tôi cá-nhân
vậy ."
Tất cả ai cầu tìm giải-thoát, sự hoàn-toàn
hạnh-phúc hay là danh-từ nào khác để chỉ-định
mục-đích của họ, đều như người trong ngụ-
ngôn chôn bóng trên đây. Họ dùng phương-
pháp sai, vì không biết rằng cái Ngã cá-nhân
không có thật. Họ coi nó như họ tưởng. Phần
nhiều vô lý đến nỗi muốn chống đối với sự mất
cái Ngã, họ sợ mất cá-tính. Và sự lo mất cá-
tính ấy cản-trở họ đáp tiếng gọi của Chân-Ngã.
Bởi vậy, phương-pháp của họ áp-dụng thực ra
có hiệu-quả kéo dài Giả-Ngã và làm chậm
mục-tiêu giải-thoát .
ADPH RAMANA MAHARSHI
102
Người ta thường ví cái Giả-Ngã như một
bóng mây che lấp mặt-trời, một bóng mây nhỏ
do chính mặt-trời tạo ra mà có thể cho chúng ta
không thấy mặt-trời. Cũng thế mà cái tiểu-ngã
cá-nhân nhỏ bé thực đã do Chân-Ngã sinh ra có
thể che lấp hoàn-toàn cái Chân-Ngã kia. Có
người hỏi nhà sư Cảm-Thành ( 860 ) ( ) :
( )
" Như hà thị Phật tâm .
( : )
" Sư vân : Bất tằng phú tàng "
( Như thế nào là tâm Phật ?
Sư đáp : Không từng có che phủ và
ẩn-náu .)
Tâm Phật là " Bản lai diện mục ", là cái
Chân-Ngã, theo Thánh Maharshi. Vậy chúng ta
phải hiểu cho thấu cái chân-lý, mất cái Ngã cá-
nhân không phải là mất cái gì mà là được cả cái
lợi lớn là Tâm-Phật, bởi vì sự thực không có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
Ngã cá-nhân ( giả-ngã ) vì vô minh nên đã chấp
Ngã. Đấy là bước đầu trên đường tìm kiếm .
Bước sau cốt tìm ra trong Giả-Ngã yếu-tố
chân-lý đã trà-trộn vào đấy. Thực là điều vô lý
mà tin rằng cái Ngã cá-nhân là hoàn-toàn giả-
dối hư-ảo, nó giả như là Ngã cá-nhân nhưng nó
chứa đựng một yếu-tố thật, một yếu-tố của cái
Chân-Ngã, khiến cho người ta lầm với Chân
Ngã. Giả-Ngã không thật về mặt tâm-hồn cá-
nhân như nó tự xưng, nhưng nó thực về mặt, là
một hình-thức ánh-sáng của ý-thức, là Chân-
Ngã .
Ngài Maharshi, một hôm, ví ngưòi cầu-
tìm Chân-Ngã như một con chó lạc đi tìm chủ.
Con chó không có gì hướng-dẫn ngoài cái hơi
của chủ. Con chó theo dấu, đánh hơi rút cục
thấy lại được chủ nó. Yếu-tố ý-thức là Ngã-giả
cá-nhân ví như hơi của chủ đối với con chó.
Đấy là chỉ-điểm độc-nhất của người tầm-cứu
để có thể thấy lại Chân-Ngã, là " Bản lai diện
mục " của Phật-tử. Vậy phải nắm chặt lấy,
ADPH RAMANA MAHARSHI
104
không buông ra nữa, theo đuổi cái ý-thức ấy
đến tận nguồn là Chân-Ngã, Ý-thức vũ-trụ,
" Thiên địa chi tâm ". Đạt tới đấy thì phải
quan-sát Giả-Ngã, ý-thức cá-nhân trực-tiếp
" Dĩ tâm quán tâm " ( ) để khai-phóng
yếu-tố ý-thức đại-biểu cho cái nguồn kia .
Giả-Ngã cá-nhân, nguyên động-lực chung
cho tất cả tư-tưởng, thì chỉ là tư-tưởng : " Tôi là
thân-thể đặc-thù này ". Vậy thì nó không phải
là một tư-tưởng đơn-giản, mà là hợp-nhất hai
tư-tưởng. Chúng ta thấy có hai phần : " tôi là "
và " thân thể ". Ở một chương trên chúng ta đã
thấy ý-nghĩa của chữ Ngã là kết-quả của sự lẫn
lộn giữa hai vật cực khác nhau : Ý-thức thuần-
túy và bất-dịch, biểu-hiện ra " tôi là " ( Chân-
Ngã ) và thân-thể vô tri-giác. Yếu-tố thứ nhất
chắc-chắn là thật còn mãi, mà thực-tại của
thân-thể thì đáng ngờ. Cái tư-tưởng hợp-thành
kia thì không thật, giả-tạo, bởi vì hai yếu-tố
hợp-thành không bao giờ có thể thành một thể
được, vì thế mà không có Ngã cá-nhân. Nhưng
không vì thế mà phải trừ bỏ toàn-thể cái tư-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
105
tưởng hợp thành kia, chỉ phải tách riêng và giữ
lấy phần chân-thật ở trong và trừ bỏ phần còn
lại là giả-dối hư-huyễn. Chân-lý là phần bất-
dịch, " Tôi tồn-tại " ( Je suis ). Nó tồn-tại bất-
dịch, vì thật ra những biến-đổi ảo-ảnh của nó là
những biến-đổi của thân-thể luôn luôn thay-
đổi, không bao giờ y-nhiên là nó. Chính thực-
tại của nó bất-nhất, bởi vì nó không tự tỏ ra, mà
chỉ tỏ bằng ánh-sáng của " Tôi tồn tại ". Vả lại
nó không tỏ ra liên-tục, nhân vì nó là thành-
phần thế-giới, nó hiện ra lúc thức và biến mất
trong giấc ngủ. Và người ta có thể nói như thế
đối với thể-tính, gọi là thần-thức hay tâm-thức .
Tôi không phải là thân-thể vật-chất, bởi vì
khi tôi Mộng thì thân-thể này nằm bất-động
trên giường và một kẻ khác đã đến thay-thế tôi.
Tôi cũng chẳng phải thần-thức (mental, mind),
tâm-thức, bởi vì trong giấc Ngủ-say tôi vẫn
tồn-tại mà không có thần-thức ( tâm-thức ) và
sau khi tỉnh dậy tôi nhớ lại hai đặc-trưng của
Ngủ-say : một tích-cực ( lạc-thú hoàn-toàn ) và
một tiêu-cực ( không thấy thế-giới ). Thực sự
ADPH RAMANA MAHARSHI
106
tâm-thức không bao giờ có mà không có một
phần thân-thể, cho nên người ta gọi là thể-tính
( thể phách đối với thể hồn ). Vậy là tôi không
phải cái kia tích-cực hay cái này tiêu-cực của
thân-thể, hợp thành hai thân phân-biệt, hay là
một thân có tác-dụng khác nhau, hay là
phương-diện khác nhau, tinh và thô. Vậy phải
vứt bỏ các thân ấy đi như là không có Ngã.
Còn lại là thuần-túy " Tôi tồn tại " ( Je suis )
và không thể bỏ đi được, vì chính nó bỏ đi
những thân kia, hay ít ra thì bởi nó và ngoài nó
mà sự bỏ đi mới làm được. Vậy thì tôi chỉ đơn-
giản là cái " Tôi tồn tại " ( Je suis ), tất cả còn
lại là do vô minh đã thêm vào, nó là những
yếu-tố bất-định và luôn luôn thay-đổi. Cái " tôi
tồn tại " là chỉ-điểm độc-nhất chúng ta có được
để tìm thấy cái Chân-Ngã. ( Không nên lầm cái
" Je suis " ở đây với triết-lý " Je pense donc je
suis " " Cogits ergasum " " Tôi tư duy vậy tôi
tồn tại " của Descartes, tổ triết-học Tây-phương
cận-đại ) .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
107
Đến đây, chúng ta đã nắm được cái gì có
vẻ như một trừu-tượng thuần-túy về tâm-thức,
một yếu-tố rất khó giữ, nay phải nắm lấy thực-
tại đầy đủ của nó. Chúng ta đã thấy điều ấy đòi
phải dứt đoạn với cái vòng luẩn-quẩn của ba
trạng-thái Thức, Mộng, Ngủ-say, cái nọ kế-tiếp
cái kia làm cho lấp mất trạng-thái vô-ngã của
cái " tôi tồn tại " một mình sáng-tỏ không mây
mờ. Vậy phải tìm ra một phương-pháp thực-
tiễn, thoát ra khỏi cái vòng luẩn-quẩn để đạt tới
trạng-thái vô-ngã. Vị Thánh núi Arunachala
dạy chúng ta phương-pháp ấy cũng như các
Thánh-hiền xưa. Ví dụ vị Thánh sáng-lập ra
Phật-giáo, cũng đã làm đúng lời dạy của
Maharshi. Với bản-năng thần-linh, các Thánh-
hiền không cần đến Kinh sách, đã tìm ra
phương-pháp kia và đã đồng-nhất-hóa với
Chân-lý .
Phương-pháp truyền-thống trình-bày
trong Kinh-điển xưa gồm ba trình-độ phổ-
thông : học-hỏi Chân-lý ( Chân Ngã không
phải cái này, không phải cái kia v.v. ), rồi suy-
ADPH RAMANA MAHARSHI
108
nghĩ vào đấy và sau cùng là tập-trung tinh-thần
Thiền-định vào cách-ngôn " Tôi là cái Ấy ".
Ngài Maharshi công-nhận giá-trị của phương-
pháp ấy để thanh-khiết và củng-cố tâm-thức
thành một công-cụ tốt cho công việc tầm-cứu
chính .
Ngài nói với chúng tôi : " Phương-pháp
trực-tiếp để ý-thức Chân-Ngã cốt ở sự lặn vào
trong tim để tìm cái nguồn xuất-phát ra " Tôi
tồn tại ". Thiền-định vào : " Tôi không phải cái
này, tôi là cái Ấy ", dĩ nhiên là có ích, nhưng
không phải là phương-pháp phát-hiện Chân
Ngã." Ngài còn chế riễu những kẻ chỉ muốn
cậy vào phương-pháp truyền-thống : " Nếu anh
có ý-tưởng anh là thân-thể này, thì nghĩ điều
anh không phải là thân-thể này mà là cái Ấy sẽ
có ích cho anh. Nhưng tại sao định-niệm hoài
về câu : " Tôi là cái Ấy " ? Một người có định-
niệm : " Tôi là một người " không ? Thực-thể
tối-cao luôn luôn chiếu sáng trong tim như là
Chân-Ngã ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
109
Nói với một người khách, Maharshi bảo :
" Người ta bảo ông rằng Ngã Cá-nhân không
phải Chân-Ngã của ông, nếu ông công-nhận,
thì ông còn đi tìm để thấy cái gì, thực thế, mà
cái Ngã cá-nhân lại chỉ là một ảo-ảnh. Tại sao
ông định-niệm vào " Tôi là cái Ấy " ? Điều ấy
chỉ để đem đến cho cái Ngã cá-nhân một đời
sống mới. Bằng chính sự-kiện cố tránh một tư-
tưởng, người ta đã làm cho nó đến. Cần phải
tím thấy nguồn-gốc và chân-lý về cái Ngã cá-
nhân, không ích lợi gì mà định-niệm về nó, vì
định-niệm thuộc về tâm-thức hay thần-thức
( mental ), còn Chân-Ngã ( Chân tâm ) thì ở
ngoài tầm tâm-thức. Khi người ta cầu tìm xem
thực-tại của nó là gì thì cái Ngã cá-nhân tự biến
đi, đấy là phương-pháp đi thẳng, trực-tiếp
( Đốn ). Trong các cách khác, cái Ngã cá-
nhân được bảo-trì còn lại, cho nên nổi lên biết
bao sự ngờ-vực và vấn-đề chính vẫn không bao
giờ được giải-quyết. Chừng nào người ta không
nhìn thẳng vào vấn-đề thì cái Ngã cá-nhân
không kết-thúc. Vậy tại sao không theo phép
ADPH RAMANA MAHARSHI
110
trực-tiếp đi thẳng vào đề mà còn dùng đến các
phương-pháp khác ? "
Theo Kinh Thánh, ngay khi chúng ta có
được thực-thể thuần-túy như thực-tại của
chúng ta, chúng ta sẽ nhận thấy đồng thời
Thực-thể vô lượng chính là ta " Thiên mệnh
chi vị tính " ( ), " Ngang tàng lạc
ngã tính thiên " ( ). Như vậy
chúng ta sẽ tìm thấy lại cá-tính thật, hoàn-toàn
đồng-nhất-hóa với Thực-thể và giải-thoát khỏi
hết dục-cầu và sợ-hãi. Trong Cựu-Ước, Đấng
Vĩnh-Cửu nói với Moise : " Je Suis Ce Que Je
Suis ", " Chẳng biết Ta Ta vẩn là Ta "_
( Nguyễn-Công-Trứ ) và Thánh Maharshi bảo
chúng ta xem, đấy là một câu Kinh độc-nhất
được viết hoa. Đối với sự tầm-cứu của Thanh
Maharshi dạy chúng ta, thì không tất nhiên
phải cần một tín-ngưỡng tích-cực nào để cầu
tìm Chân Ngã .
( )
" Vô vi nhi vô bất vi "
_ ( Lão-Tử )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
111
Nghĩa là con đường tiêu-cực, phủ-định
hết cái gì không phải là Ngã, cái còn lại là Ngã,
vì trong thế-giới chỉ có Bất-nhị-pháp là thực-tại
thôi. Bất-nhị-pháp là Tuyệt-đối, ở trên cả Có,
Không, tức là Siêu-Ngã, Siêu-Thức .
Sự tầm-cứu cái Chân-Ngã cốt tập-trung
tất cả năng-lực sinh-lý và tư-tưởng, bài trừ tất
cả những ý-tưởng ngoại lai và hướng tất cả
năng-lực thành một luồng, quyết chí tìm giải
đáp cho câu hỏi : " Ta là Ai ? " Câu hỏi ấy
cũng có thể đổi là : " Từ đâu ta đến ? " Câu hỏi:
" Ta là Ai ? " có nghĩa " sự thật về cái Ta là
gì ? " Câu hỏi : " Từ đâu ta đến ? " có nghĩa là
" nguồn phát xuất ý-nghĩa cái Ta trong cái Ngã
là gì ? " Trong việc cầu tìm ấy phải hiểu
" nguồn " không phải là con người bản-sơ trong
thời-gian, một tổ-tiên xa-xăm trên lịch-trình
tiến-hóa, hay là một thể có trước khi thân-thể ta
sinh ra, mà là cái nguồn hiện-thực .
Có người muốn hỏi về tiền kiếp của
mình, làm thế nào người ta có thể biết được.
ADPH RAMANA MAHARSHI
112
Thánh đáp : " Tại sao ông bận tâm về tiền-
kiếp ? Trước hết hãy phát-hiện xem nếu lần
này có phải ông đã thực sinh ra chưa." Trong
câu hỏi này cũng như các câu hỏi viển-vông
khác, Thánh đã trả lời bằng cách cho cái Ngã
cá-nhân tự lẩn trốn và tìm cách chuyển hướng
vào sự cầu tìm chân-lý .
Sự cầu tìm, xét cứu ấy là phương-tiện
chắc-chắn duy-nhất để dứt đoạn cái vòng luẩn-
quẩn của ba trạng-thái Thức, Mộng, Ngủ-say ;
không những nó làm an-tĩnh tâm-giác tư-duy
mà còn ngăn-cản nó ngủ gật và mất hết ý-thức.
Người ta mô-tả nó như " tỉnh-ngủ " ( sommeil
vigilant ). Không phải ở trạng-thái thức bình
thường trong ấy tâm-thức bay nhẩy từ tư-tưởng
này sang tư-tưởng khác. Cũng chăng phải Ngủ-
say, trong đó ý-thức cơ-bản " tôi tồn tại " tự nó
lặn chìm, mà có thể ra khỏi vòng luẩn-quẩn.
Tuy nhiên có một khoảnh-khắc, khi người ta từ
tinh-thần lông-bông của trạng-thái Thức, tịch-
tĩnh hoàn-toàn của Ngủ-say, trong đó ý-thức
đạt tới sự tinh-khiết của " tôi tồn tại " vô tướng.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
113
Với sức mạnh của sự quyết-định của chúng ta
trong việc cầu tìm cứu-xét ấy, ý-thức được kéo
về trạng-thái vô tướng ấy, và an trụ ở đấy.
Chính như thế mà vòng luẩn-quẩn Thức,
Mộng, Ngủ bị phá vỡ, và trạng-thái Vô-Ngã
được đạt tới .
Thánh Maharshi rút ở kinh-nghiệm bản-
thân, mô-tả phương-pháp cầu tìm tham-cứu
như sau :
" Đúng như một ngưòi lặn trong hồ
nước tìm một vật rơi chìm, người tìm
kiếm phải lặn vào tận tim, nhất quyết tìm
xem từ đâu xuất ra ý-nghĩa của cái Ngã,
nó nhịn thở và ngậm miệng, không nói ."
Điều ấy bộc-lộ phương-diện hiến mình
cho việc cầu tìm. Người lặn xuống nước cũng
hiến mình cho sứ-mệnh của mình _ thấy lại vật
đã rơi _ bằng sự nhịn thở để lặn chìm với tất cả
trọng-lượng của nó. Cũng thế mà người tìm
chân-lý phải hiến thân mình cho sự phát-hiện
cái Chân-Ngã ( nguồn của cái " tôi tồn tại "
ADPH RAMANA MAHARSHI
114
trong cái Ngã cá-nhân ) bằng cách thu hết tất cả
năng-lực tinh-thần và sinh-lý hướng cả về tim .
Sự quyết-chí nhất-định tìm thấy Chân-
Ngã là động-lực của việc tầm cứu, và không có
nó người ta không có thể lặn vào trong tim
được. Thánh Maharshi bảo chúng ta rằng,
người nào lặn như thế thì chắc-chắn thành-
công, vì bấy giờ có một sức-mạnh huyền-bí
choán lấy tinh-thần và dẫn thẳng vào tim. Nếu
người cầu tìm có tinh-thần tinh-khiết và không
bị lệ-thuộc vào tình-yêu bản-ngã riêng của
mình, nó tự phó hoàn-toàn cho cái năng-lực ấy,
và nó đạt được phần thưởng cao quý nhất trong
tất cả mọi phần thưởng. Khi nào một người tự
hiến thân hoàn-toàn cho vật gì y sẽ được vật
ấy, và không còn gì cao quý hơn là Chân-Ngã.
Người nào không hiến thân hoàn-toàn sẽ phải
tập-luyện thường-xuyên khoa tầm cứu, cầu tìm
cho đến khi nào thần-thức hay tâm-thức trở nên
tinh-khiết và cường-kiện. Nên để ý là cách
truy-cứu, tra-tầm này của Thánh Maharshi có
hình-thức một câu hỏi chứ không phải là một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
115
khẳng-định theo phương-pháp đinh-niệm
truyền-thống. Nhà Hiền-triết núi Arunachala
không khuyên-nhủ sự khẳng-định cổ-điển
" Tôi là Thượng-Đế ", " Ta là Phật " Ngài nói :
" Người ta đã nhảy múa như điên do vị-ngã
điều-động, nếu người ta bảo nó là Thượng-Đế,
là Phật, thì nó sẽ nhảy điên-cuồng hơn nữa ".
Thực-nghiệm cho thấy tâm-thức nhân-loại dễ
mất thăng-bằng khi người ta dạy nó giáo-lý cổ-
điển mà không biện-biệt, nó có thể không còn
biết phân-biệt điều thiện, điều ác nữa. Lý do là
vì sự khẳng-định " Tôi là Phật " mô-tả ở hình-
thức giáo-điều thực-chất của trạng-thái Vô-
Ngã, và điều ấy không thật, chừng nào còn
Giả-Ngã tâm-thức ngự-trị. Cái Chân-lý ấy thì
không tâm-thức, không suy-tư được, vì ngôn-
ngữ không có thể diễn-tả. Cung-hiến ngụ sự từ
bỏ, như Thánh Hiền dạy chúng ta. Người nào
cung-hiến thâm-sâu cho một vật gì thì tương-
đương lạnh-nhạt đối với tất cả vật còn lại.
Người nào tự hiến mình cho Chân-Ngã ở nội-
tâm thì lãnh-đạm với thế-giới bên ngoài tùy
theo với trình-độ cung-hiến, thành-tâm đến
ADPH RAMANA MAHARSHI
116
mức nào. Cung-hiến hay hiến thân và từ bỏ hỷ-
sả là hai mặt của một đồng tiền, chúng đi với
nhau, không rời nhau. Từ bỏ, hy-sinh củng-cố
cho tinh-thần và bảo-đảm sự thành-công cho sự
cầu tìm nghiên-cứu của chúng ta như thực-
nghiệm của đời sống hàng ngày chứng tỏ.
Người nào tự cung hiến cho mục-tiêu gì ở
trong đời thì tự ý từ bỏ tất cả cái gì làm cản-trở
sự nỗ-lực của mình và y đạt tới đích. Sự từ bỏ
dĩ nhiên là tất-yếu để đạt tới đích tối cao là
trạng-thái ý-thức Vô-Ngã, Vô-tâm. Nhưng phải
hiểu rõ ý-nghĩa từ bỏ ; đấy là một sự tinh-khiết-
hóa tinh-thần, một sự tập-trung hài-hòa và
hướng-dẫn tinh-thần vào mục-đích, chứ không
phải tuân theo hình-thức bề ngoài của sự từ bỏ
hy-sinh .
Người ta bảo phải chế-ngự lời nói và
sinh-khí, nhưng Ngài Maharshi giải-thích
không cần phải chế-ngự sinh-khí, miễn là phải
quyết-chí, hoạt-bát và bền-bỉ. Trong trường-
hợp này thì tự nhiên ngừng thở. Những năng-
lực cho tới nay điều-động thân-thể đều bị thu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
117
vào trong và hợp vào tâm-thức, làm cho nó có
khả-năng lặn vào trong tim. Sự thiết-yếu không
có thể được là sự thu thập vào những sinh-khí ;
thực thế, chừng nào chúng ta hợp-nhất với
thân-thể vật-chất, thì tâm-thức không rời khỏi
được thân-thể và ngoại-giới để lặn chìm vào
tim. Khi nào sức mạnh của sự quyết-chí của ta
làm ngừng hơi thở, tâm-thức không còn ý-thức
về thân-thể nữa hay về thế-giới nữa, thì thân-
thể trở nên gần như một xác chết .
Nếu nhà tầm cứu không có sức mạnh
cung hiến cần thiết và hơi thở vì thế mà chưa
ngừng, thì nên làm ngừng hơi thở bằng
phương-pháp giản-dị là quan-sát nó. Nếu sự
quan-sát được liên-tiếp thì hơi thở chậm lại và
sau cùng dừng lại. Bấy giờ tâm-thức trở nên
an-hòa, thoát khỏi tư-tưởng làm cho đãng-trí,
và như thế nó có thể tự hiến thân cho việc tầm
cầu cứu xét .
Trong khoa cứu xét tìm kiếm ấy cũng như
bất cứ khoa định-niệm nào, những tư-tưởng
ADPH RAMANA MAHARSHI
118
phức-tạp lạ lùng có thể nổi lên, làm đãng-trí
tâm-thức, và người ta hay cảm thấy chán-nản
và thất-vọng. Thánh Maharshi bảo rằng những
tư-tưởng ấy hiện lên chỉ để cho người ta dẹp đi,
vậy nên không vì lý-do gì mà người tầm cứu
nản lòng và chịu thất-bại. Nếu sự thành-công
có vẻ còn lâu mới đạt được, thì nó phải chống
ý-tưởng ấy và nhớ rằng chính thời-gian không
có thật và Chân-Ngã không ở trong thời-gian .
Trong một kinh sách cổ nhất có nói rằng
kẻ cầu tìm Chân-Ngã phải có sự kiên-nhẫn và
bền-chí nhẫn-nại như kẻ tát khô đại-dương
từng giọt nước một. Trong một kinh sách khác,
người ta thấy ngụ-ngôn : " Một tổ trứng chim
yến bị nước bể lôi đi. Chim nhất-quyết lấy lại
trứng của chúng và chúng liền lặn xuống bể,
rồi lên bờ rũ những hạt nước trên lông chúng.
Thiên-thần cảm-động thấy sự hết lòng của
chúng, và kết-cục trả lại trứng cho đôi chim
yến khốn-nạn kia ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
119
Ngài Maharshi bảo tất cả tư-tưởng nổi
hiện trong công việc tầm cứu tìm kiếm và bị
diệt tắt, chỉ càng làm cho tâm-thức thêm mạnh
và người cầu tìm mỗi lần càng tiến gần tới
đích .
Trong những tư-tưởng nổi lên và tìm phá-
hoại công việc tầm-cứu cầu-tìm của chúng ta là
tư-tưởng sợ-hãi. Cái tư-tưởng sợ-hãi nổi lên
chính vào lúc mà năng-lực huyền-bí là ân-điển
của Bề trên bắt đầu chiếm lấy tâm-thức để kéo
về nguồn của nó. Nhà sùng-bái còn một chút
dấu-vết yêu cá-tính thì không tránh khỏi được
tư-tưởng sợ-hãi ấy vào lúc mà cá-tính sắp bị
hủy-diệt ; vậy nên cần có sự phấn-đấu chống
với ân-điển và tự giải-thoát khỏi sự chi-phối.
Và như thế, Ngã-Giả là tất cả cá-tính từng có
để phục-hồi một đời sống mới. Điều này có thể
xẩy ra cả khi nhà tầm cứu tìm cầu đã quyết-
định trước sự phó-thác tất cả cho thế-lực thần-
linh ( Fiat _ Cơ-Đốc-giáo ). Cái thế-lực ấy vấp
phải sự kháng-cự, có thể lâu không trở lại, cho
đến chừng nào lòng yêu cá-tính ( chấp ngã ) bị
ADPH RAMANA MAHARSHI
120
hoàn-toàn chinh-phục. Liều thuốc chữa bệnh ấy
cốt tự đặt cho mình câu hỏi : " Ai có sự sợ-hãi
này ? " và trở lại với việc cầu tìm chính. Thực-
hành sùng-bái Thượng-Đế không chút vị kỷ
cũng giúp ta nhiều lắm .
Một tư-tưởng khác xuất-hiện là : " Không
có hạnh-phúc " . Có người phàn-nàn với Thánh
Maharshi rằng khi y phân-tích tự-thân như
được chỉ-định, y nhận thấy vượt khỏi giới-hạn
tri-thức và y chẳng thấy hạnh-phúc gì hết.
Thánh Maharshi đáp : " Cái cảm-tưởng sung-
sướng chỉ là một tư-tưởng. Cái Ngã cá-nhân
chỉ là một tư-tưởng. Chân-Ngã là hoan-lạc
thuần-túy và giản-đơn, và ông là cái ẤY.
Nhưng ông nói không có hạnh-phúc. Người
nào nói điều ấy không có thể là Chân-Ngã, phải
là Phi-Ngã, và phải rũ sạch cái Phi-Ngã để
thực-hiện hoan-lạc của Chân-Ngã. Người ta chỉ
có thể đạt tới bằng cách tìm về nguồn cái Giả-
Ngã cá-nhân. Mỗi khi các tư-tưởng hiện lên thì
có cái Giả-Ngã cá-nhân cũng như lưỡng-tính,
Ngã và Phi-Ngã, Tâm và Vật. Khi người ta tìm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
121
nguồn-gốc của Ngã cá-nhân thì lưỡng-tính mất,
chỉ còn lại Chân-Ngã ". Trong trường-hợp này,
Ngài Maharshi cũng nói : " Không có tiến-bộ
trong sự thực-hiện Chân-Ngã, vì Chân-Ngã
luôn luôn như nhiên. Nhưng có tiến-bộ trong
sự cất trở-ngại đi, những tư-tưởng hiện lên và
cản-trở việc cầu tìm ". Ngài cũng giải-thích
rằng : " Nghi-ngờ cũng là tư-tưởng và phải gạt
đi " .
Khi nào người cầu tìm xét cứu đã chuyên-
cần khá lâu trong sự nỗ-lực của nó, khi năng-
lực nội-tâm đã cao và choán lấy tâm-thức, thì
người ta mau đạt tới tim, nghĩa là tâm-thức
được dẫn về trạng-thái thuần-túy và bắt đầu
sáng chiếu, chuyên nhất trong hình-thể thuần-
túy của nó, cái " Tôi " vô tướng. Nhà Hiền núi
Arunachala gọi cái ý-thức vô tướng ấy là " Tôi
là Tôi " để phân-biệt với cái ý-thức của Ngã cá-
nhân có hình-tướng " Tôi là cái thân-thể này ".
Cái ý-thức kia ngụ sự tịch-diệt cái Ngã hữu-
tướng này. Cái Ngã hữu-hạn bị thu vào trong
cái Ngã vô-hạn. Và khi cái Ngã mất rồi thì tất
ADPH RAMANA MAHARSHI
122
cả khuyết-điểm và giới-hạn bủa vây đời sống
của chúng ta, dục-vọng và sợ-hãi cáo-chung,
chúng thuộc về cái Ngã cá-nhân và sau nó
không thể còn nữa .
Trong trạng-thái không Ngã cá-nhân, cái
Chân-Ngã trụ tại trong chính hào-quang của
nó. Nhà Hiền đã tìm thấy Chân-Ngã như thế,
đã mất hẳn Ngã cá-nhân, không còn là Ngã cá-
nhân nữa, tuy Ngài có thể tiếp-tục tỏ ra cho các
đệ-tử và thế-gian như một cá-nhân .
Một nhà Hiền như thế mới có khả-năng
chứng-thực cho trạng-thái vô Ngã, vô Tâm, và
con đường đạo dẫn tới đấy. Và kẻ nào đã biết
nhận ra một nhà Hiền như thế, một đạo-sĩ
chân-thật như thế mới có thể hiểu được giáo-lý
của Ngài .
Chúng ta muốn biết Thánh Maharshi
hiện-diện trong thế-giới như thế nào ; nếu ta
biết chắc, ta có thể tránh khỏi lỗi lầm làm lùi
bước tiến của chúng ta. Điều chính thứ nhất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
123
chúng ta phải biết là Thánh không còn Nghiệp-
báo, không bị lệ-thuộc vào định-luật Karma.
Nghiệp ( Karma ) chi-phối thân-thể và tâm-
thức, nhưng Thánh không còn ở đấy nữa.
Thánh đã thành đạo thì ở trong trạng-thái tự-
nhiên riêng, Ngài không phải là chủ-động hay
không chủ-động. Nghiệp ( Karma ) là kết-quả
của hành-động, và hành-động mà ngụ là tác-giả
của chúng thì có cảm-tưởng là chủ-động, điều
này lại ngụ có Ngã cá-nhân. Song người nào
không có Ngã thì không có thể có cảm-tưởng là
tác-giả của hành-động được ; do đấy mà nó
không có thể là chủ-động. Bất cứ nó có vẻ làm
cái gì, sự thực cũng không phải việc làm của
nó, bởi thế nên không đẻ ra phản-ứng theo sau
gọi là Nghiệp .
" Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên,
Đem bẩm Trời, Trời cũng phải khuyên ."
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
Vì hành-động của thiên-nhiên, như nước
chảy, như mây bay, như mưa nắng thì không
ADPH RAMANA MAHARSHI
124
thể có nghiệp-báo được. Nghiệp-báo chỉ có
thân-thể vật-chất và tâm-thức cá-nhân bị lệ-
thuộc thôi. Chân-Ngã siêu-thức vượt lên trên
Nghiệp-báo cá-nhân, thân-thể và tâm-thức .
" Nhất nhật vô thường đáo,
Phương tri mộng lý nhân .
Văn ban tương bất khứ,
Duy hữu nghiệp tùy thân . "
( Vô thường tới một khi,
Mới hay người trong mộng.
Muốn thử đem chẳng đi,
Theo mình chỉ có nghiệp .
Chỉ niệm Phật A Di,
Nhất định sinh Cực lạc .)
_ ( Thiền-sư Chân-Nguyên " Tịnh-
Độ Yếu-Nghĩa " )
Vậy là tâm-thức mang theo Nghiệp-báo
đi, sau khi bỏ lại thể xác lúc tắt thở. Nó mang
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
125
đi Khẩu-Nghiệp và Ý-Nghiệp. Ngôn-ngữ và ý-
chí còn ở bình-diện ý-thức Mộng, tuy vượt qua
giác-quan vật-lý nhưng vẫn còn cái Ngã cá-
nhân, nó chỉ mất trong lúc Ngủ-say thôi .
Như thế mà con đường sùng-bái thành-tín
của Tịnh-Độ-Tông ( Bhakti ) dạy chỉ niệm
danh-hiệu A-Di-Đà-Phật mà có thể giải-thoát
hết Nghiệp-báo. Là vì chủ-động chính của tất
cả hành-vi là Phật A-Di-Đà mà tín-đồ sùng-bái
đã hồi-hướng, tự nó đã như là ủy-quyền cho
Phật, tự mình không còn ý muốn riêng. Với sức
mạnh của tình yêu sùng-bái Phật A-Di-Đà, tín-
đồ hoàn-toàn hòa-nhập vào Phật, cái gì mình
làm, nói hay muốn đều là của A-Di-Đà cả, nên
tất cả phản-ứng của hành-động, tức Nghiệp-báo
đã có A-Di-Đà gánh chịu cho. " Que Ta
volonté soit faite ! " ( Ý muốn của Chúa hãy
thi-thố ! )_ ( Thánh Kinh Thiên-Chúa ) .
Sau đây là đề-tài nói về Sùng-bái
( Dévotion ) tiếp theo ở chương sau .
ADPH RAMANA MAHARSHI
126
Trở lại phưong-pháp cầu tìm cái Chân
Ngã của Thánh Maharshi độc-đáo ở núi
Arunachala. Ngài nói : " Cái Ngã-Giả cá-nhân
không thể có mà không có Chân-Ngã, nhưng
Chân-Ngã có thể có mà không cần đến Giả-
Ngã cá-nhân ." Giả-Ngã cá-nhân chỉ là Chân-
Ngã thêm cá-tính, nếu cá-tính mất thì còn lại là
Chân-Ngã. Vô-tâm mà Hữu-tâm " Vô cực nhi
Thái cực " ( )_ ( Chu-Liêm-Khê )
đấy là điểm phân-biệt rất tế-nhị nhưng cơ-bản
giữa Thánh-nhân và mọi người khác .
" Vô danh thiên địa chỉ thủy, hữu danh
vạn vật chi mẫu. Cố thường vô dục hữu
quan kỳ diện, thường hữu dục nhi quan kỳ
khiếu ." _ ( Lão-Tử )
( Vũ-trụ bắt đầu không có tên gọi, có tên
gọi là mẹ đẻ ra vạn vật đa-nguyên. Cho
nên thường không nói, muốn xét chỗ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
127
huyền-diệu của nó, thường nói lý luận
muốn để xét giới hạn của mọi vật .)
Sự khải-ngộ cái Chân-Ngã vô danh do sự
cứu xét cầu tìm đưa đến không ở trong thời-
gian. Nhìn ở cá-tính sai lầm bị xóa đi, thì có thể
coi sự xuất-hiện trạng-thái Vô-Ngã như ở vị-trí
trong thời-gian ; nhưng quan-niệm ấy thuộc
phạm-vi của Giả-Ngã cá-nhân-hóa, không phù-
hợp với thực-trạng kia. Nhân vì trạng-thái tự-
nhiên của ta vốn vô-thủy, vô-chung. Do đấy mà
khi người ta hỏi Thánh : " Từ bao giờ Ngài trở
nên tự-do ?" Maharshi không trả lời thẳng, chỉ
có thể nói : " Không có gì đến cho tôi ; tôi vẫn
là tôi ! " Tự-do, tâm nhàn, có nghĩa đúng là ở
trong trạng-thái tự-nhiên, tự-do, hết sai lầm :
" Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên
pháp đạo, đạo pháp tự nhiên ."
_( Lão-Tử )
ADPH RAMANA MAHARSHI
128
( Người theo không-gian, không-gian
theo thời-gian, thời-gian theo đường lối,
đường lối theo tự nhiên .)
Cái trạng-thái sống tự-nhiên ấy, tự-do,
nhàn-tản của Nguyễn-Trãi thường ao-ước.
Nguồn cảm-hứng sáng-tạo thi-ca của Nguyễn-
Công-Trứ, được biểu-lộ do phép tầm cứu cái
Chân-Ngã theo Maharshi thì khác với trạng-
thái thích-thú của đạo-sĩ Yoga ( Đạo-Dẫn ) gọi
là Samadhi = Tam-Muội. Trạng-thái Tự-nhiên
của Thánh ở đây gọi là Sahaja - Samadhi
( Tam-muội liên-tục không cần thần-hóa, mà
có đầy đủ năng-khiếu nhân-tính. Trạng-thái
Jnani = Giác ), nghĩa là tại gia trong Chân Ngã
tự-tại. Những trạng-thái Tam-muội của đạo-sĩ
Yoga không ngụ có sự tiêu-diệt vĩnh-viễn cái
Ngã cá-nhân. Đạo-sĩ trụ tại trong hoan-lạc ít
lâu để rồi lại trở về bình-diện ý-thức phổ-thông
của Ngã cá-nhân. Trường-hợp của Thánh
Maharshi thì khác. Đối với Ngài cái Ngã cá-
nhân đã mất hẳn và không còn gì để trở lại
bình-diện thế-gian. Ngài thường-trụ mãi mãi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
129
trong trạng-thái Vô-Ngã, Vô-Tâm, là trạng-thái
an-lạc thật : ( ) " Lạc thiên tri
mệnh " . Sự hoạt-động của Ngài bề ngoài
không hàm ngụ gì cả. Ngài không còn trong
trạng-thái Vô-Ngã. Và bởi thế mà Thánh
Maharshi có khoa Yoga độc-đáo, cao cả nhất
trong các Yoga, gọi là Mahayoga, khiến Ngài
vượt khỏi tương-đối và trụ thật sự trong ý-thức
Chân-Ngã hay là Siêu-thức .
Làm thế nào để điều-hòa sự hiến-thân
hoàn-toàn cho việc tầm cứu Chân-Ngã ấy với
đời sống hàng ngày của chúng ta ? Người ta đã
đặt câu hỏi ấy cho Ngài Maharshi. Người này
từ xa đến bằng xe-lửa. Ngài hỏi : " Tại sao ông
lại nghĩ rằng ông đã hoạt-động ? Hãy lấy việc
hành-trình của ông đến đây làm tỉ-dụ. Ông từ
nhà ra đi bằng một chiếc xe, ông lên ngồi trong
xe-lửa, xuống ga Tiruvannamalai rồi sang xe
đến đây. Khi người ta hỏi, ông đáp là chính ông
đã từ nhà đi đến. Có phải thực thế không ? Sự
thực, trước sau ông vẫn là ông, chỉ có phương-
tiện chuyên-chở đã đổi khác chỗ. Ông đã coi
ADPH RAMANA MAHARSHI
130
vận-động của chúng là của ông, các hoạt-động
khác cũng thế. Chúng không phải của ông, đấy
là hoạt-động của Thượng-Đế ". Người khách
vặn lại là, một thái-độ như thế chỉ đưa đến hư-
vô tinh-thần và dừng hết hoạt-động. Thánh
đáp : " Trước hết hãy đi nhìn xem cái hư-vô kia
đã, rồi về đây nói cho tôi hay ông nghĩ gì về
đấy ."
Chúng ta có thể kết-luận : Chừng nào
chúng ta " thực-hiện " rằng Chân-Ngã không
phải người chủ-động, thì người cầu tìm, tầm
cứu Chân-Ngã không cần phải ngừng hoạt-
động trong thế-gian, đi ẩn nơi hẻo-lánh để theo
đuổi việc tầm cứu, cầu tìm kia. Chỉ cần để mặc
cho cái tâm-thức và giác-quan thành-tựu công
việc của nó, đồng thời nhớ rằng không phải
mình là tác-giả chủ-động các hành-động. Và
chúng ta có thể liên-tiếp theo đuổi tích-cực việc
tầm cứu của mình, cũng như người ta có thể
vừa đi vừa suy-nghĩ. Không những, từ bỏ
những hoạt-động nhập-thế hàng ngày và vào
nhà tu-kín, hay nơi tịch-mịch, là vô ích. Theo
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
131
như Thánh Maharshi thì tốt hơn hết là tiếp-tục
hoạt-động của mình để sửa-soạn cho việc tầm
cứu. Người ta phải hủy được tâm-thức, không
phải bằng con đường thần-hóa tam-muội của
đạo-sĩ Yoga, mà bằng nuôi dưỡng có phương-
pháp cái ý-tưởng rằng tâm-thức chỉ là ảo-ảnh
của Chân-Ngã. Và điều ấy có thể thực-hành
trong khi theo đuổi hoạt-động đã quen. Khi nào
chúng ta đã tạo-lập vững mạnh nơi mình cái
hiểu-biết là Ngã cá-nhân chỉ là ảo-ảnh của
Chân-Ngã, bấy giờ ta sẽ thấy dễ theo đuổi
công-trình cứu xét tầm cầu kia với nỗ-lực và
tinh-tiến cho đến kết-thúc của nó .
Phải chăng đấy cũng là con đường
Thượng-Thừa Thiền của Nguyễn-Trãi :
" Lâm kỳ ngã diệc Thượng Thừa Thiền "
_ ( Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn )
ADPH RAMANA MAHARSHI
132
( Từ biệt nhau rồi Ta cũng sẽ theo đạo
Thiền Thượng-Thừa )
_ ( Tiễn sư Đạo Khiêm về núi )
Đạo Thiền này của Nguyễn-trãi gọi là
Ẩn-Cả, tức ( ) " Đại ẩn, ẩn triều
thị " (Ẩn-cả, ẩn nơi triều-đình và đô-thị với cái
tâm nhàn, tự-do :
" Ta nếu ở đâu vui thú đấy ,
Người xưa Ẩn-cả lọ lâm tuyền ."
_ ( Tự-Thán )
*********
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
133
TỊNH-ĐỘ SÙNG-BÁI
THỜ-PHỤNG
Chúng ta đã thấy sự hiến thân là điều-
kiện chính của giải-thoát. Các Hiền-triết chỉ
cho chúng ta trạng-thái vô-tâm vô-ngã như là
sự giải-thoát chân thật độc-nhất, đòi chúng ta
tự hiến thân cho Chân Ngã, Chân Tâm ở tại
đấy. Các Thánh-nhân chỉ định một hình-thức
cúng hiến khác, thích-hợp hơn cho hạng người
không có khả-năng tầm cứu cái Chân Ngã. Và
các Hiền-triết đồng tình với các hình thức khác
ấy .
Cung hiến cho Chân Ngã ngụ-ý từ bỏ,
đoạn-tuyệt các liên-hệ tinh-thần với vật đối-
tượng hữu-hạn. Những liên-hệ ấy đã dần dần
xâm-nhập nơi ta suốt cuộc đời sống tự-kỷ.
Chúng đâm rễ sâu trong tinh-thần chúng ta và
ADPH RAMANA MAHARSHI
134
chống-đối mạnh những nỗ-lực tiến tới trạng-
thái vô-ngã, vô-tâm. Vì chúng mà tinh-thần tựa
như một ngôi nhà phân chia, trái-nghịch với
chính nó. Chừng nào hòa-điệu chưa được thiết-
lập trong tinh-thần, thì sự trừ bỏ tuần-tự những
khuyết-điểm kia, chừng nào tinh-thần chưa
thống-nhất tập-trung vào khát-vọng chân-lý, thì
không có thể chuyên-chú, thành-công trong
việc tầm cứu chân-lý để cầu tìm Chân Ngã. Bởi
thế nên hầu hết mọi người đều thấy, thực-tế,
con đường tầm cứu rất khó-khăn. Chính điều
ấy Thánh Kinh xưa nói _ về con đường ấy
cũng sắc bén như lưỡi dao cạo._ Trong điều-
kiện người đệ-tử tin-tưởng vào trạng-thái Vô
Ngã là mục-đích thì phải nỗ-lực tinh-tiến thế
nào ?
Nó phải trau-dồi và củng-cổ tinh-thần
bằng các phương-tiện khác .
Người làm sao hành-động làm vậy. Và
trái lại, một người hành-vi thế nào rút cục nó sẽ
trở nên thế ấy. Nhân-cách đạt tới phi-nhân-cách
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
135
bằng việc điều-động lấy chính sự biểu-thị của
mình trong cử-chỉ. Bởi vậy nên, người nào
khao-khát điều chí-thiện, phải hoàn-toàn quy-
định cử-chỉ hành-vi. Trong Kinh-điển cổ xưa
chúng ta thấy nói : " Kẻ nào muốn thấy chân-lý
phải đã tiêu-trừ hoàn-toàn tất cả hành-vi xấu,
chinh-phục được đam-mê và thực-hiện được
hòa-điệu tinh-thần ". Điều chân và điều thiện
cốt-yếu là đồng-nhất như nhau. Điều có lý là
các tôn-giáo đều chú-trọng vào điều thiện. Một
người hạnh-kiểm xấu có thể là một nhà toán-
học giỏi và một bác-học lớn, nhưng chỉ có
người tốt và trong sạch tinh-thần mới có thể
hiến thân cho sự vật ở trên thế-gian .
" Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế ! "
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
Những hành-vi xấu đều do cảm-tình của
chúng ta với Ngã cá-nhân, và nhân vì Vô Ngã
là mục-tiêu chân thật của tất cả các tôn-giáo,
chúng ta phải giữ giới, không làm điều ác, làm
tất cả mọi hành-vi để tạo nên bản-tính tốt, như
ADPH RAMANA MAHARSHI
136
Phật-giáo dạy " Bát-Chánh-đạo " hay Cơ-Đốc-
giáo có " Thuyết-pháp trên núi " ( Sermon sur
la montagne ). Tất cả những đức-tính phản-ảnh
Chân Ngã ngự tại trong tim chúng ta đều để
sửa soạn cho cái Phi Ngã cá-nhân, nhưng cá-
nhân thuộc về đức tính không phải đức tính
thuộc về cá-nhân. Điều thiện không phải là của
sở-hữu mà là sở-hữu chủ. Chính-trực và tốn-
nhượng là hai đức tính chiếm chín phầm mười
tôn-giáo, chúng bảo-đảm sự thành-tựu trạng-
thái Vô-Ngã, Vô-Tâm. Tất cả giới-luật là cung
hiến cho Chân Ngã, nó phải được ý-thức nuôi-
dưỡng. Việc cung hiến sẵn có ở tất cả mọi
người, nó chỉ cần tu sửa và hướng vào một đối-
tượng thích-đáng thôi. Khi nào nó bị hướng
vào đối-tượng không chích-đáng, người ta gọi
là chấp, hệ-lụy. Khi nào người ta đổi chiều-
hướng và hướng nó về các đối-tượng, hay mục-
tiểu Thánh-linh, thì sự cung hiến trở nên sùng-
bái. Người ta tự nhiên cảm thấy sùng-bái đối
với một nhân-vật, nhân-vật càng tốt bao nhiêu
thì sự sùng-bài càng hay bấy nhiêu. Các Thánh-
hiền lợi-dụng khuynh-hướng ấy đem lại cho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
137
chúng ta một kiểu nhân-vật tối hảo, chí-thiện
đặc-biệt, độc-đáo, ấy là Thượng-Đế, Thiên-
Chúa, Phật Quan-Thế-Âm ... Và những kẻ đối
với Ngài có thái-độ quan-hệ đến mức nào thì
trở nên tín-đồ sùng-bái của Ngài vậy .
Sùng-bái không có gì ép-buộc, nó phải tự
nhiên không cố-gắng. Chỉ khi nào nó tự nhiên
thì mới thực là sùng-bái. Thượng-Đế không ra
lệnh cho chúng ta yêu Ngài, chúng ta yêu vì
không thể đừng được. Không những chúng ta
phải sùng bái Thượng-Đế, mà sự sùng-bái
không được quan-niệm như phương-tiện đưa
đến một cái đích. Nó phải hoàn-toàn vô-tư,
trong sạch, không chút mặc-cả bán mua, buôn
Thần bán Thánh. Chỉ bấy giờ nó mới đưa lại
phần thưởng cao-quý phong-phú nhất .
Thực có một Thượng-Đế chăng ? Làm
sao chúng ta có thể sùng-bái Thượng-Đế sau
khi đã qua tất cả công-trình tầm cứu như đã
trình-bày trên kia, sau khi đã nhận-thức rằng
Thượng-Đế, tâm-hồn cá-nhân và thế-giới
ADPH RAMANA MAHARSHI
138
khách-quan không có thật mà chỉ là những
biểu-hiện chủ-quan từ trong Ngã tâm-thức và
do đó xuất-hiện ra. Chúng ta đã thấy rằng ba
yếu-tố ấy hợp thành tam tài bất-phân, và chúng
ta phải bỏ đi cả ba như không có thật hay là
công-nhận như có thật cả ba. Nếu Thượng-Đế
phải là đối-tượng sùng-bái của ta thì Ngài phải
có thật, và như thế thì tâm-hồn cá-nhân và thế-
giới cũng phải đồng thời có thật .
Ngài Maharshi chứng-minh cho chúng ta
rằng chừng nào chúng ta chưa tới Nguồn, nghĩa
là chưa đạt tới trạng-thái vô-ngã, vô-tâm cá-
nhân thì lưỡng-nguyên tính vẫn còn ( thế-giới,
cá-nhân, Thượng-Đế ) dù nó có huyền-ảo mấy
đi nữa. Một hôm Ngài nói về sự sùng-bái : _
Chừng nào nó phân chia ( vibhakti ) thì phải có
sùng-bái ( Bhakti ), chừng nào có sự cách-biệt
( viyoga ) thì phải có một phương-tiện hợp-
nhất ( Yoga ), chừng nào còn lưỡng-nguyên,
lưỡng-tính đối-đãi, thì cũng có Thượng-Đế và
người tôn-thờ sùng-bái. Cả đến trong việc tầm
cứu cũng có lưỡng-tính cho đến khi nào đạt tới
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
139
Nguồn mới hết. Khi người tín-đồ đạt tới đối-
tượng Thượng-Đế thì không còn lưỡng-tính
nhị-biên nữa, cả đến lúc ấy Thượng-Đế cũng
không khác-biệt, vì Thượng-Đế được Chân
Ngã tư duy bên trong và do Chân Ngã, đủ tỏ
rằng sự thật Ngài đồng-nhất với Chân Ngã.
Nếu người nào được lệnh chứng-minh sự sùng-
bái đối với Thượng-Đế, người ấy làm ngay
không đặt câu hỏi chi hết, thì tất cả đều tốt
lành, y sẽ tự-nhiên là một với Thượng-Đế. Một
người như thế là thành-thực phát-hiện Chân
Ngã. Nhưng có một hạng tín-đồ khác, trả lời
mệnh lệnh : " Thượng-Đế với tôi là hai. Trước
khi tôi biết được Thượng-Đế ở xa tôi, thì trước
hết tôi muốn biết Thượng-Đế gần tôi nhất, tức
là chính tôi đã. Chính đối với hạng người này
mà tôi đòi hỏi tới khoa tầm cứu. Sự thực khoa
tầm cứu ấy và khoa sùng-bái chỉ là một ."
Nhân vì lưỡng-tính còn cho tới khi người
ta đạt tới Nguồn, và cho tới đấy, người ta
không tin mình là một người, một cá-nhân, và
đối với người nào tin mình là một cá-nhân, thì
ADPH RAMANA MAHARSHI
140
Thượng-Đế đủ có thực để thực-hành sùng-bái.
Chính cho người ấy mà Thánh Maharshi bảo :
" Thượng-Đế cũng có thực như anh ". Điều ấy
không ảnh-hưởng gì vào chân-lý Thượng-Đế
cả. Thượng-Đế không là gì khác hơn là Chân
Ngã ở trạng-thái Vô ngã. Ngay khi người ta đạt
tới trạng-thái ấy, thì không còn cá-thể gì biệt-
lập có thể gọi là Thượng-Đế. Thượng-Đế trong
trạng-thái tinh-thần ấy không còn là Thượng-
Đế, chẳng khác gì ông quan-tòa không còn là
quan-tòa tại nhà ông nữa. Điều ấy không có gì
thay đổi đối với những ai còn lệ-thuộc vào Ngã
cá-nhân. Cái Ngã tâm-thức hay tinh-thần
( mental ego ) giới-hạn cái Ta vào một thân-thể
độc-nhất, tất cả biểu-hiện khác là Phi Ngã đối
với nó. Và cái lưỡng-tính ấy giữa một cái Ngã
và một Phi Ngã vô-hạn bắt buộc nó phải tưởng-
tượng ra một thể vũ-trụ bao-hàm lấy cả hai, và
cái thể ấy là Thượng-Đế .
Vì lý do ấy, người còn lệ thuộc vào Ngã
cá-nhân không được nói :" Tôi là Thượng-Đế ".
Giáo-lý cổ-điển bảo, người cầu tìm chân-lý là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
141
" Tat tvam asi " " Người là cái Ấy " " Bỉ chi
sinh đẳng ư tồn " không phải là nói cho người
lệ-thuộc vào Ngã cá-nhân. Ý-nghĩa câu Kinh
ấy là cái Chân Ngã ( Chân Nhân ) còn lại sau
khi Ngã cá-nhân đã bị diệt-trừ, Giả Ngã mất đi
thì đồng-nhất với Thượng-Đế, Thực-tại cùng
tột của vũ-trụ. Thế không có nghĩa là tâm-hồn
cá-nhân hư-ảo là Thượng-Đế, trái lại nó phải
biến đi để cho Chân Ngã, Chân Tâm là
Thượng-Đế biểu-hiện .
Vậy không có gì mâu-thuẫn giữa chân-lý
Thượng-Đế như Hiền-nhân biểu-lộ là chân-lý
tuyệt-đối của bản-thể Ngài và nhân-cách của
Thượng-Đế làm đối-tượng mục-tiêu sùng-bái.
Người phụng-thờ thực ra đứng trong vòng
tương-đối .
_ ÂN ĐIỂN .
Tuy nhiên, vì Thượng-Đế sự thực là Chân
Ngã ngự trong nội tâm của người phụng-thờ,
Ngài là nguồn của cái gọi là ân-điển, và điều
ADPH RAMANA MAHARSHI
142
ấy, đối với người biết Ngài là Chân Ngã, cũng
như đối với người không biết. Hậu-quả thực-tế
của ân-điển rất là trọng-đại cho nên tất cả các
tôn-giáo đều đề cao. Nếu không có ân-điển ấy
thì không có giải-thoát được. Những nỗ-lực lớn
lao của một cá-thể hữu-hạn không bao giờ tạo
sinh kết-quả vô-hạn. Người sùng-bái phụng-thờ
gọi cái ấy là ân-điển, còn triết-gia được Hiền-
nhân chỉ-dẫn gọi là năng-lực chân-lý thắng mê-
lầm, biến-hóa khí-chất .
Cũng phải chỉ-dẫn rằng, người tầm cứu
không tin vào Thượng-Đế, chuyên tâm vào
triết-học như đã trình-bày ở các Chương trên
đây, và đi đến tin-tưởng vào trạng-thái Vô Ngã
của Thánh-hiền đã vạch rõ, nhưng nó bị những
bệnh nhu-nhược và bất-hòa trong tinh-thần
cản-trở, nên có thể phải công-nhận tín-ngưỡng
vào Thượng-Đế và thực-hành sùng-bái Thượng
Đế, ngõ hầu có thể đạt được trạng-thái Vô Ngã
nhờ ân-điển của Ngài. Những tín-đồ không tin
vào khả-năng tự-lực để phát-hiện Chân Ngã có
thể trông vào tha-lực, tin vào Thưọng-Đế mà
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
143
sùng-bái phụng-thờ ngõ hầu cầu được ân-điển
trong tinh-thần phục-tòng, nhẫn-nhục .
Sự cung hiến cốt ở một chuyển hướng
bồng bột của tư-tưởng về Thượng-Đế. Nó chỉ
có thể nẩy sinh khi nào người ta thấy hạnh-
phúc trong tư-tưởng về Thượng-Đế. Và hạnh-
phúc ấy thường khoác hình-thức Thần-hóa mà
trí nhớ làm cho sùng-bái trở nên nhiệt-thành và
tiến-bộ tâm-hồn chặt-chẽ hơn với đối-tượng
phụng-thờ. Người ta thực-nghiệm Thần-hóa
( Extase mystique ) thì trở nên một vị Thánh ;
tinh-thần của y hoàn-toàn rời khỏi các đối-
tượng đem lại thích-thú cho người thường.
Người đã được Thánh-hóa như thế, cầu-nguyện
Thượng-Đế ban cho lòng sùng-bái thâm sâu
hơn. Sự thực các vị Thánh coi sùng-bái như là
cứu-cánh tự-thân. Theo họ thì nó quý giá đến
nỗi Thượng-đế có thể ban phát rộng-rãi sự giải-
thoát, nhưng mà chỉ ban sùng-bái cho ai là đối-
tượng ân-điển của Ngài .
ADPH RAMANA MAHARSHI
144
Vì thế mà sùng-bái là một hình-thức xúc-
động, một cách tình cảm. Nó có nhiều trình-độ:
âm-thầm hay bồng-bột. Một vị đại Thánh cũng
là một vị Hiền-triết ; nói rằng tâm-hồn vị
Thánh ví như sông Jamuna nước chảy không
đều, còn tâm-hồn Hiền-nhân thì như sông Hằng
chảy bình-thản và trang-nghiêm. Bởi thế nên
Thánh-nhân thông-thường là các thi-sĩ và thi-ca
của các Thánh-nhân để lại qua các thời-đại rất
nhiều. Cũng như thi-ca thì truyền-nhiễm, nhiều
người trở nên người phụng-thờ sùng-bái chỉ vì
nghiện những thi-ca ấy, và sau đấy trở nên
sùng-bái điên cuồng như chỉ có thi-sĩ mới thế
thôi. Thi-ca kia đối với họ như ăn uống. Có khi
chỉ hát đến danh-hiệu Thần-linh là họ say mê
sùng-bái .
Dĩ nhiên tất cả sùng-bái không có hiệu-
năng. Một khúc ca của một vị đại Thánh-nhân,
Ngài Krishna nói Chaïtanya bảo : " Kẻ nào
khiêm-tốn hơn cả ngọn cỏ hèn, nhẫn-nại hơn cả
cái cây, không bao giờ đòi hỏi sự tôn-kính ở
người khác, mà chứng-tỏ sự tôn-kính đối với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
145
tất cả chúng-sinh, kẻ ấy phải được mang danh
là Thượng-Đế " .
Nhân vì người sùng-bái thờ-phụng cốt-
yếu là một thi-sĩ, nó có tất cả nhược-điểm lẫn
tất cả sức-mạnh của thi-sĩ ; nó thường phạm tội
điên cuồng, nhưng nó cũng có linh-cảm, và
như thế nó cũng có khuynh-hướng thành Hiền-
nhân kỳ lạ. Sự thực người sùng-bái thờ-phụng
vì một lý do huyền nhiệm thì rất gần Chân Ngã
và sẵn-sàng tiếp-thụ giáo-lý của Chân Ngã hơn
là người em của nó là triết-gia. Về vấn-đề này
tự nhiên có sự phân-biệt lớn giữa người bắt đầu
thờ-phụng sùng-bái với người đã tiến-bộ. Nói
chung người sùng-bái đã tiến bộ thì vượt qua
các phương-diện thấp hèn và hẹp-hòi mà người
bắt đầu làm xuyên-tạc ý-nghĩa vì thiếu kinh-
nghiệm. Nhưng thực ra thì tín-đồ có thể tùy ý
chọn lấy biểu-tượng. Kết-quả là các tôn-giáo
căn-cứ vào phụng-thờ chứa đựng những sai
lầm của tín-đồ không kinh-nghiệm. Kẻ cuồng-
tín thường gạt bỏ những trực-giác linh-cảm của
những người sùng-bái thờ-phụng " thuần thục "
ADPH RAMANA MAHARSHI
146
hơn, và như thế là các tôn-giáo bị xuyên-tạc,
làm chia rẽ nhân-loại hơn là hợp-nhất chúng .
_ THÁNH-NHÂN VỚI HIỀN-NHÂN .
Điều này dẫn tới sự phân-biệt chính giữa
Thánh-Nhân với Hiền-Nhân. Thánh-nhân còn
có một chút tự-ngã phải vứt đi, Hiền-nhân
không còn nữa. Vậy nên Thánh-nhân còn có
một tâm-thức ( mental ) và cố-chấp vào một
học-thuyết, còn Hiền-nhân thì không còn tâm-
thức nữa và cũng không có giáo-điều. Thánh-
nhân có thể trở nên thiện-tín và đàn-áp, nhân-
danh tôn-giáo của mình, còn Hiền-nhân không
có khả-năng. Tự-nhiên thì Hiền-nhân có thể trở
nên Thánh-nhân. Đã từng có và có thể còn có
Thánh-nhân giống như Hiền-nhân vì tinh-thần
đại-đồng và hết cuồng-tín .
Sự thực, nhà thờ-phụng không có tín-điều
nhất-định và đấy là lợi điểm cho tất cả những
người quan-hệ, nếu người sùng-bái không tự
liên-hệ vào những tín-điều nhất-định. Các tín-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
147
ngưỡng thật ra là phải thay đổi dần dần tùy
theo tinh-thần tinh-tiến. Một tín-điều chun giãn
sẽ vô hại, nhưng người sùng-bái thì bất-lực để
tạo nên một tín-điểu, họ phải nhờ đến sức của
Hiền-nhân, lý do là vì sự sùng-bái tự bản-chất
là thi-ca, và nó sẽ phạm vào sai lầm nguy-hiểm
khi nó đi vào văn xuôi .
Hiền-nhân có thể là một vị Thánh, nhưng
rất khó mà một vị Thánh cũng là vị Hiền.
Trong trạng-thái Vô Ngã, thực ra tiềm-tàng tất
cả mầm thiện, nhưng ai còn giữ lấy cái Ngã thì
tất nhiên còn khuyết-điểm, không hoàn-hảo.
Thánh Ramakrishna là một vị Thánh đồng thời
cũng là một vị Hiền, nhưng không mấy khi
Ngài biểu-lộ hiền-đức của mình ra. Ở nhà Hiền
núi Arunachala, chúng ta thấy trái lại, đức tính
Thánh ở Ngài thì che phủ, nhưng tiềm-tàng đầy
đủ như biểu-thị ở bài : " Ca tụng núi Aruna-
chala " .
Có trường-hợp sự sùng-bái thành-thực đã
trở nên tình-yêu tâm-linh huyền-bí, không khác
ADPH RAMANA MAHARSHI
148
mấy với trạng-thái Vô Ngã. Văn-chương của
Thánh Ramakrishna và tất cả thi ca sùng-bái
lưu-truyền có thể dạy chúng ta nhiều về vấn-đề
này. Thánh Maharshi chỉ-dẫn cho chúng ta sự
khác-biệt rất ít giữa vị Thánh thành-thực và
một nhà Hiền. Ngài nói : " Chính cái siêu-ngã
tốn-tại ở tại trong tim của mỗi người và của tất
cả như là ý-thức thuần-túy. Cho nên khi tim tan
vào tình-yêu, khi người ta vào tới cái lỗ hổng
trong đó nó chiếu sáng con mắt ý-thức hay
Thần-nhân mở ra và người ta thực-hiện Nó, cái
Siêu-Ngã như là Chân Ngã ". Khi nào tình-yêu
hoàn-toàn thì Thánh trở nên Hiền .
Cách-thức sùng-bái thay đổi tùy theo
trình-độ tinh-thần ( tâm thức ) của người thờ-
phụng đã đạt tới. Thánh Maharshi và Thánh
Kinh xưa chỉ-dẫn cho chúng ta hai cấp khác
nhau. Người mà tinh-thần trần-tục không thể
hiểu đủ về lý-thuyết cái giáo-lý chủ-trương
Thượng-Đế cuối cùng phải được thực-hiện như
là Chân Ngã ; họ thờ Thưọng-Đế với tinh-thần
tự phân-biệt với Thượng-Đế và thần-phục. Đối
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
149
với họ thì Thượng-Đế là Chúa-tể đại-đồng mà
họ phải phụng-sự trung-thành để được ân-điển
của Ngài. Để có đặc-ân của Thượng-Đế, tín-đồ
thờ-phụng thực-hiện tất cả giới-điều đức-hạnh
ghi trong Kinh-Thánh và quan-niệm của y về
Thượng-Đế là nhân-cách-hóa. Y tưởng-tượng
Ngài như một bậc người tối cao-thượng. Y cố
thực-hiện tất cả việc thiện đối với tất cả chúng-
sinh, vì y tin Thượng-Đế, Chủ-tể muôn loài đòi
y điều ấy. Cái loại sùng-bái ấy tất-nhiên là vị-
kỷ, tín-đồ thờ-phụng chờ đợi một phần-thưởng
cá-nhân. Y thừa-nhận như dĩ nhiên là cá-tính
của y tiếp-tục tồn-tại mãi mãi. Cái loại sùng-bái
đem lại cho cái Ngã một đời sống mới .
Tín-đồ thuần-thục cách này cách khác thế
nào cũng đi đến nhận-thức cái tôn-giáo nhân-
cách-hóa ấy không thể là chân-lý được. Y tập
quen quan-niệm Thượng-Đế khác-biệt với
mình không phải là thực-tại mà chỉ là ảo-ảnh
bề ngoài về hình-thức. Và y biết rằng cả sự
khác-biệt ảo-ảnh ấy cũng có thể biến đi nhờ
năng-lực chắc chắn ở ân-điển của Ngài. Y
ADPH RAMANA MAHARSHI
150
không chút sợ-hãi, vì y không còn ý muốn bảo-
trì cá-tính mình nữa. Y tiến mau lẹ gần tới
trạng-thái Vô Ngã. Trong trường-hợp ấy, tự
nhiên ân-điển chảy dồi-dào, nhân vì cái Ngã
cá-nhân không còn cản trở dòng ân-điển ban
xuống cho y nữa .
Mục-đích của tín-đồ sùng-bái thờ-phụng
là tạo nên một quan-hệ cá-nhân giữa mình và
Chúa, để thấy Thượng-Đế trong những thị-hiện
ảo-giác, để nói và nghe Ngài nói ... Có khi ý-
muốn của y được thỏa-mãn vì y cảm thấy vui
sướng nồng-nàn. Ngài Maharshi bảo, những
hình-tướng Thượng-Đế được thấy trong những
thị-hiện kia đều thuần-túy là tinh-thần tâm-thức
không có thật, nên chúng không tồn-tại. Vậy
nên chừng nào còn di-tích vị-ngã thì chúng ta
không thấy Thượng-Đế như thực-tại. Thấy
Ngài chân-như, không là gì khác hơn là trụ tại
trong trạng-thái Vô-Ngã, trong đó chỉ cái
Chân- Ngã tồn-tại .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
151
" Ngã bất dĩ sở trụ nhi trụ ; bất y vô trụ
nhi trụ ; _ Vạn-Hạnh "
Tức là trụ ở siêu-ngã trên cả thân-thể vật-
lý lẫn tâm-thức tinh-thần. Vậy nên không có
khác biệt giữa mục-đích cuối cùng của tín-đồ
sùng-bái và của người tầm cứu Chân-Ngã.
Tiếng gọi của Chân-Ngã bằng cách khác nhau
đều được người yêu chân-lý và người sùng-bái
điều thiện nghe thấy cả. Nhà triết-gia nửa vời
không thừa-nhận điều ấy vì họ muốn bảo-tồn
cá-tính của mình mãi mãi. Sự mê-lầm của họ
đã được Thánh Maharshi minh-chứng khi Ngài
nói về sự phục-tòng Thượng-Đế .
Mục-đích đạt được của người tầm cứu
chân-lý theo phương-pháp của Thánh Maharshi
" Ta là Ai ? " thì tín-đồ sùng-bái cũng đạt tới
nhờ sự hàng-phục cái Ngã. Điều này sinh ra
bởi sự thấu hiểu kết-quả của cái gọi là ân-điển,
thế-lực mà Thượng-Đế hấp-dẫn tâm-hồn về
ADPH RAMANA MAHARSHI
152
Tự-tại. Nhà sùng-bái càng ngày càng nhận ra
cái Ngã cá-nhân là số không ( Je me réduis à
zéro _ Gandhi ) và chỉ có Thượng-Đế đáng
được cầu tìm, và người ta có thể đạt tới bằng
cách từ bỏ toàn-thể thế-giới. Sự từ bỏ xuất thế
ấy đặt nhà sùng-bái vào tình-thế sẵn sàng từ bỏ
cái Ngã .
Danh-từ ân-điển ( grâce ) dĩ nhiên không
lấy gì làm triết-lý lắm, nhưng nó chỉ-định cho
cái gì có thật và hiệu-nghiệm : chân-lý
Thượng-Đế ngay đây là Chân-Ngã. Cái chân-lý
ấy tự thực-hiện khá huyền-bí, nhưng người thờ-
phụng sùng-bái không có thể cho nó một danh-
hiệu khác hơn là " ân-điển " .
Ân-điển có ba giai-đoạn, ở bước đầu,
chân-lý cùng tột có vẻ như là Thượng-Đế xa
xôi không có khả-năng tới được. Nhờ thờ-
phụng Thượng-Đế, người ta đi tới bước thứ
hai, ở đây Thượng-Đế tự gần lại ở hình-thức
Sư-phụ, nghĩa là một nhà Hiền đắc đạo dạy cho
chúng ta biết Chân-Ngã là gì ; sự sùng-bái sư-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
153
phụ thay-thế cho sự thờ-phụng Thượng-Đế, và
sự thờ-phụng sùng-bái ấy biểu-hiện ân-điển tối
cao, thực-nghiệm Chân Ngã trong trạng-thái
Vô-tâm, Vô-Ngã, đấy là bước thứ ba và cuối
cùng .
Sự hàng-phục của Giả-Ngã cá-nhân là
điều-kiện cho ân-điển có thể hoàn-toàn hành-
động. Sự hàng-phục ấy có thể từng phần hay
toàn-thể, nhưng dù sao nó cũng dẫn đến sự
biến-hóa Giả-Ngã, biến-hóa khí-chất và tiên-
phong đến mức độ là tất cả sự tốt lành của
trạng-thái Vô-Ngã. Kẻ nào hàng-phục thì phải
lo sợ về những hành-động quá-khứ của mình,
xấu hay tốt ; những phản-ứng nghiệp-báo y sẽ
không cảm-thấy bất lợi cho mình, vì ân-điển sẽ
chuyển hướng chúng, khiến chúng trở thành có
lợi .
Ân-điển không phải riêng biệt, nó có tính-
cách đại-đồng, nó là năng-lực lương-thiện độc-
nhất, và tất cả, không phân-biệt riêng ai đều
tham-gia vào thiện-quả của nó. Sự hàng-phục
ADPH RAMANA MAHARSHI
154
của Giả-Ngã giảm đi dần hiệu-quả của sự can-
thiệp ấy, và tác-dụng của ân-điển càng thêm
hiệu-nghiệm .
Có người hỏi Thánh Maharshi, chúng tôi
phải làm gì để xứng-đáng được ân-điển ? Ngài
đáp : " Anh sẽ có đặt câu hỏi ấy không, nếu anh
không từng đã có ân-điển ? " Ân-điển có ở
bước đầu, ở giữa và lúc hết, vì ân-điển là Chân-
Ngã ( Bản lai diện mục ). Nhưng vì sự vô-minh
của chúng ta về Nó, chúng ta trông-đợi ân-điển
từ ở một người ngoài đem đến " .
Và đây, Thánh Maharshi giải-thích thế
nào là sự hàng-phục chân thật của Giả-Ngã cá-
nhân : " Tất cả điều thiết-yếu là chúng ta phải
hàng-phục cho nguồn suối tự-tính của chúng ta.
Không cần phải làm lộn-xộn thêm mà gọi cái
nguồn ấy là Thượng-Đế và giả-thiết nó ở tại
đâu bên ngoài bản-thân ta. Nguồn của chúng ta
ở tại nơi ta ( Le royaume des Cieux est en nous
_ Thiên-Chúa-giáo ) ( Gia trung hữu bảo hưu
tầm mịch _ Trần-Nhân-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
155
Tông ) . Và chúng ta phải tòng-phục chính cái
Nguồn ấy. Như thế là chúng ta phải tìm về
Nguồn ấy, và nhờ chính năng-lực của sự cầu
tìm chúng ta lặn vào Nó. Vấn-đề hỏi " Nguồn ở
đâu ? " chỉ có thể đặt ra nếu người ta tin rằng
Chân-Ngã khác với Nguồn. Nếu Ngã cá-nhân
chìm trong Nguồn thì không còn Ngã cá-nhân
nữa, không còn linh-hồn cá-nhân, nghĩa là
người cầu tìm chỉ còn làm một với Nguồn thôi.
Trong trường-hợp ấy còn có thể có sự hàng-
phục nào nữa ? Ai tự hàng-phục, và hàng-phục
ai ? Còn gì để hàng-phục ? Sự mất cá-tính _
nó ngay từ giờ đây không thực có _ Sự mất cá-
tính là sùng-bái, hiền-triết và là tầm cứu cầu
tìm " .
Đối với một thanh-niên đến tìm Ngài
trong trạng-thái tinh-thần hết sức vọng-động.
Maharshi, một bữa kia đã cho ta một chỉ-dẫn
thực-tập về tính-chất của sự hàng-phục của ta.
Người thanh-niên tin đã có đưọc một thị-hiện,
trong đó Thượng-Đế hứa cho y nhiều vật nếu y
tự hàng-phục hoàn-toàn. Y bảo đã hàng-phục
ADPH RAMANA MAHARSHI
156
rồi mà Thượng-Đế không giữ lời hứa. Và
người thanh-niên nói với Maharshi rằng :
" Ngài hãy chỉ cho tôi Thượng-Đế, tôi sẽ cắt
đầu ông ấy đi hay là chính ông ta sẽ cắt đầu
tôi ! " Nhà Hiền bảo một người đọc cho y một
lời bình-giải của ông viết bằng tiếng Tamul, và
Ngài nhận-xét như sau : " Nếu sự hàng-phục
chân-thật thì còn ai có thể nghi-ngờ việc làm
của Thượng-Đế nữa ? " Điều này đã mở mắt
cho anh chàng thanh-niên kia, y tự thú-nhận là
mình lầm và từ-biệt Thánh với tinh-thần bình-
an. Sự hàng-phục của cái Ngã cá-nhân phải thật
hoàn-toàn và không điều-kiện, ở đấy không có
sự mặc cả mua bán .
%%%%
*