Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, người khuyết tật là những người bất hạnh vì nhiều nguyên
nhân khác nhau như bệnh tật, tai nạn hay bẩm sinh…Họ không có khả năng lao
động chân tay hiệu quả như bao người khác. Áp lực tâm lý đối với những người
khuyết tật cũng là rất lớn, đó là những mặc cảm, tự ti về khiếm khuyết trên cơ thể
mình, là những gánh nặng mà họ đem đến cho gia đình và xã hội. Vì vậy, họ chính
là đối tượng cần được tạo điều kiện trong cuộc sống hơn bình thường. Để đảm bảo
quyền và lợi ích cho Người khuyết tật, việc hiểu thế nào cho đúng về khái niệm
Người Khuyết tật là hết sức cần thiết. Trong khuôn khổ bài tập nhóm tháng thứ
nhất môn Pháp luật Người Khuyết tật, chúng em xin đi sâu, làm rõ vấn đề này với
đề bài “Phân tích khái niệm Người khuyết tật. So sánh quy định của Pháp luật
Quốc tế với pháp luật Việt Nam về khái niệm Người khuyết tật”.
NỘI DUNG CHÍNH
1. Khái niệm Người khuyết tật
1.1 Cơ sở hình thành khái niệm Người Khuyết tật
Từ những thế kỷ trước đây người ta đã “rục rịch” để đưa ra một khái niệm về
người khuyết tật. Trong giai đoạn từ những năm 1940-1960, những văn bản pháp
luật quốc tế liên quan đến quyền con người đều không trực tiếp đề cập đến người
khuyết tật. Đến năm 1970 ở Hoa Kì, vấn đề người khuyết tật cũng như các hiệp hội
của họ đã xuất hiện và chứng mình sự tồn tại của người khuyết tật. Quan niệm về
người khuyết tật, cũng như khái niệm về người khuyết tật bắt đầu có “manh mún”.
Trong các văn bản quốc tế, hai từ tiếng Anh "disability" (khuyết tật hay tàn tật) và
"handicap" (không hội nhập được) thường được dung để nói về Người khuyết tật.
Tuy nhiên, hai từ "disability" và "handicap" thường được dùng không rõ ràng và
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
nhiều khi lẫn lộn với nhau, vì thiếu mà nhiều khi đã dẫn đến sự dẫn hướng chưa
được thích đáng cho phía hoạch định chính sách và thi hành chính sách. Cho đến
năm 1980, Tổ chức y tế thế giới đã thông qua sự phân loại trên phạm vi quốc tế về
các khái niệm "impairment" (khiếm khuyết), "disability"(khuyết tật hay tàn tật) và
"handicap" (không hội nhập được), nó cho thấy có một sự tiếp cận vấn đề chuẩn
xác hơn, nhằm sử dụng được một cách thỏa đáng trong nhiều lĩnh vực như phục
hồi chức năng, giáo dục, thống kê, chính sách, lập pháp, điều tra dân số, xã hội
học, kinh tế học và nhân học...
Đồng thời, những trải nghiệm thu nhận được từ việc thực hiện Chương trình hành
động thế giới về Người khuyết tật và rất nhiều cuộc thảo luận được mở ra trong
Thập kỉ Người khuyết tật của Liên hiệp quốc (1983-1992) đã khiến cho người ta có
được những kiến thức sâu hơn và sự hiểu biết rộng hơn về vấn đề Người khuyết tật
cùng những từ ngữ được dùng nói trên
1.2 Khái niệm Người khuyết tật
1.2.1 Khái niệm Người khuyết tật theo quan điểm của Pháp luật Quốc tế
Lịch sử phát triển của khái niệm Người khuyết tật cho thấy đã có các quan điểm
khác nhau về khái niệm Người khuyết tật. Hiện có hai quan điểm chính: Quan
điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã xã hội
Quan điểm khuyết tật cá nhân (cá thể) hay quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế
(y học): Cho rằng khuyết tật là do hạn chế cá nhân, là ở chính con người đó, chú
trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường vật
thể xung quanh người khuyết tật. Quan niệm này cho rằng người khuyết tật có thể
hưởng lợi từ phương pháp khoa học như thuốc điều trị và các công nghệ cải thiện
chức năng. Nhìn chung, mô hình cá nhân (cá thể) hay y tế nhìn nhận người khuyết
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
tật như những người có vấn đề về thể chất và cần phải chữa trị. Điều này đã đẩy
người khuyết tật vào thế bị động của người bệnh. Tiêu biểu cho quan điểm này là
một số quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Phillipines… Theo đó:( )
+ Trung Quốc: Điều 2 Luật của nước Cộng hòa nhan dân Trung Hoa về bảo vệ
Người khuyết tật ban hành năm 1990 quy định: “Người khuyết tật là một trong
những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng
tâm lý hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ
hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường”
+ Ấn Độ: Luật về Người khuyết tật ban hành năm 1995 định nghĩa khuyết tật bao
gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh phong; thị lực kém, suy giảm
khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm thần. Trong khi đó
định nghĩa về Người khuyết tật lại được nêu: “một người bị bất kì một khuyết tật
nào không dưới 40% theo xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền”
+ Phillipines: Đạo luật 7227 với tên gọi Đạo luật tạo nên sự phục hồi chức năng tự
phát triển và tự tin cho người khuyết tật vào xã hội và các mục đích khác quy định:
“Người Khuyết tật – là người có sự khác biệt về khả năng và hạn chế do khiếm
khuyết về giác quan, vận động, và tâm thần để thực hiện một hoạt động được coi là
bình thường”
Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: Trong mô hình xã hội, khuyết tật đươc
nhìn nhận là hệ quả bị xã hội loại trừ và phân biệt. Bởi vì xã hội được tổ chức
không tốt nên những người khuyết tật phải đối mặt với một số phân biệt đối xử về
thái độ, môi trường và thể chế. Mô hình xã hội về khuyết tật cho rằng nhiều người
bị khiếm khuyết ở các cách khác nhau nhưng chỉ xã hội biến họ thành khuyết tật.
Nói cách khác, mô hình xã hội huyết tật coi xã hội là vấn đề, giải pháp là phải thay
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
đổi xã hội. Tiêu biểu cho quan điểm này là một số quốc gia như Đức, Nam Phi,
Hoa Kỳ, Việt Nam…
+ Đức: sách số chín của Bộ luật xã hội định nghĩa người khuyết tật “là người có
các chức năng về thể lực, trí lực, hoặc tâm lý tiến triển không bình thường so với
người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là
nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội”
+ Nam Phi: Luật Bình đẳng về việc làm của Nam Phi định nghĩa “người khuyết tật
là người bị suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc
tiếp diễn nhiều lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc
phát triển trong nghề nghiệp”
+ Hoa Kỳ: Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans
with Disabilities Act of 1990) định nghĩa “Người khuyết tật là người có sự suy yếu
về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động
quan trọng trong cuộc sống”.
+ Bên cạnh đó, Khoản 1 Điều 1 Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng
lao động và việc làm của người khuyết tật năm 1983 quy định: “Người khuyết tật
dung để chỉ một cá nhân mà khả năng có một việc làm không phù hợp, trụ lâu dài
với công việc đó và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậy quả của một
khiếm khuyết về thể chất và tâm thần được thừa nhận”
+ Điều 1 Công ước về quyền của Người khuyết tật của Liên hợp quốc năm 2006
quy định: “Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần
kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng
loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của những người
khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
1.2.2 Khái niệm Người Khuyết tật theo quan điểm của Pháp luật Việt Nam
So với các nước trên thế giới, khái niệm Người Khuyết tật của Việt Nam nằm
trong nhóm theo Quan điểm khuyết tật xã hội. Trước khi Luật Người khuyết tật
năm 2010 có hiệu lực, pháp luật Việt Nam nhìn nhận người khuyết tật dưới góc độ
“Người tàn tật”. Theo quy định của Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998, “người tàn
tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay
nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau,
làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho culao động, sinh hoạt, học tập gặp
nhiều khó khăn.” Kế thừa các quy định của Pháp lệnh người tàn tật năm 1998,
ngày 17/06/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu
lực từ 01/01/2011 chính thức sử dụng khái niệm người khuyết tật thay cho khái
niệm người tàn tật, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về
vấn đề khuyết tật. Theo quy định tại khoản 1 điều 2 luật này, “Người khuyết tật là
người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng
được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.”
Như vậy, dựa theo định nghĩa về Người khuyết tật theo Luật người khuyết tật, ta
có:
Thứ nhất, thuật ngữ “người tàn tật” đã được thay thế bằng thuật ngữ “người khuyết
tật”. Đánh giá về mặt ngôn ngữ thì thuật ngữ “người tàn tật” nghe có vẻ mang lại
cảm giác nặng nề hơn thuật ngữ “người khuyết tật”, tuy nhiên thì xét về mặt bản
chất thì hai thuật ngữ này dường như đồng nhất. Sự thay đổi thuật ngữ này, như đã
nói ở trên, mặc dù không thay đổi bản chất nhưng có vẻ nó cũng có tác động nhất
định tới nhận thức của những người xung quanh.
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
Thứ hai, những người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận
cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật. Theo cách hiểu
này thì người khuyết tật bao gồm cả những người bị khuyết tật bẩm sinh, người bị
khiếm khuyết di bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh… Như vậy, luật người
khuyết tật Việt Nam đã đưa ra khái niệm người khuyết tật dựa vào mô hình xã hội,
tuy nhiên còn chung chung so với khái niệm trong Công ước về quyền của người
khuyết tật.
Thứ ba, lao động, sinh hoạt, học tập của người khuyết tật gặp khó khăn. Có thể
thấy, cả trong định nghĩa “người tàn tật” và “người khuyết tật”, các hoạt động “gặp
khó khăn” của người khuyết tật dường như bị giới hạn trong các hoạt động “lao
động, sinh hoạt, học tập”. Như vậy, có thể thấy các hoạt động “lao động, sinh hoạt,
học tập” nhìn chung đã bao quát đầy đủ các hoạt động của người khuyết tật gặp
khó khăn, nhưng trên thực tế, người khuyết tật gặp khó khăn trên tất cả các lĩnh
vực đời sống của xã hội chứ không chỉ riêng các hoạt động này.
Với cách tiếp cận đó, có thể đưa ra định nghĩa người khuyết tật theo quy định của
Pháp luật Việt Nam như sau: Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể
và lâu dài trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở
bình đẳng với những chủ thể khác.
1.3 Đặc điểm người Khuyết tật
Đặc điểm của người khuyết tật được xem xét dưới hai góc độ:
1.3.1 Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội:
Người khuyết tật là nhóm cư dân đặc biệt phải chịu thiệt thòi về mặt kinh tế - xã
hội và nhân khẩu học. Người khuyết tật và gia đình họ thường nghèo, học vấn
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
không cao, khó xin việc hoặc thất nghiệp nên ảnh hưởng điều kiện sống của họ. Do
khuyết tật nên người khuyết tật khó khăn trong việc sinh hoạt, học tập, kết hôn,
sinh con… Ngoài ra, quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu cực, dẫn
đến sự kì thị và phân biệt đối xử. Hơn nữa, hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật
còn rất hạn chế, thực tế, sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng mang tính từ thiện
nhiều hơn là phát triển con người.
1.3.2 Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức độ khuyết
tật:
Luật người khuyết tật Việt Nam quy định các dạng khuyết tật sau
Khuyết tật vận động: là người có cơ quan vận động bị tổn thương, gây khó khăn
trong hoạt động di chuyển, cầm nắm…
Khuyết tật nghe, nói: là những người khó khăn nghe, nói, hạn chế trong giao tiếp,
đọc viết, tiếp cận thông tin.
Khuyết tật nhìn: là những người có khuyết tật về mắt khiến họ không nhìn thấy
hoặc nhìn không rõ.
Khuyết tật trí tuệ: là những người có chức năng trí tuệ dưới mức trung bình: chỉ số
thông minh đạt gần 70 hoặc dưới 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân.
Họ bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất hai trong số những hành vi thích ứng
như giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ năng xã hội hoặc sử dụng tiện ích
trong cộng đồng…Ngoài ra, tật xuất hiện trước 18 tuổi.
Khuyết tật khác: rối loạn hành vi cảm xúc, rối loạn ngôn ngữ, người đa tật, tự kỉ…
1.4 Ý nghĩa của Khái niệm Người Khuyết tật
Có thể thấy, mỗi quan điểm có những điểm mạnh và điểm yếu nhất định. Quan
điểm khuyết tật cá nhân hoặc y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực cụ thể như
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
y tế phục hồi chức năng và bảo đảm xã hội. Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã
hội là công cụ quan trọng để giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của người khuyết
tật bị tách biệt khỏi cuộc sống chung. Nhìn chung, khái niệm người khuyết tật có ý
nghĩa là cơ sở pháp lý để công nhận ai là người khuyết tật và từ đó được bảo vệ
bằng hệ thống liên pháp luật liên quan. Thông qua quy định của các hệ thống pháp
luật khác nhau cho thấy để đưa ra khái niệm thuyết phục và thống nhất về người
khuyết tật là không dễ dàng. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng định nghĩa về
người khuyết tật dù tiếp cận dưới bất cứ góc độ nào, nhất thiết phải phản ánh thực
tế là người khuyết tật có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con
người khi tham gia vào mọi hoạt động của kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải được
đảm bảo rằng họ có quyền và trách nhiệm khi tham gia vào mọi hoạt động của đời
sống như bất cứ công dân nào với tư cách là quyền của con người.
2. So sánh quy định của pháp luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam về khái
niệm Người Khuyết tật
Khái niệm về người khuyết tật theo pháp luật quốc tế được quy định tại khoản 1
điều 1 Công ước 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và làm việc của
người khuyết tật năm 1983 và Điều 1 Công ước về quyền của người khuyết tật của
Liên hợp quốc năm 2006. Theo đó, “Người khuyết tật bao gồm những người bị suy
giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh
hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và
hiệu quả của những người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những
người khác”
2.1 Giống nhau
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
Thứ nhất, theo xu hướng chung của pháp luật về người khuyết tật thế giới, khái
niệm “người khuyết tật” của Việt Nam chính thức được ra đời theo quy định tại
khoản 1 điều 2 Luật người khuyết tật 2010. Pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc
tế hiện nay (định nghĩa tại khoản 1 điều 1 Công ước 159; Điều 1 Công ước về
quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc 2006) đều theo quan điểm xã hội –
thể hiện “khuyết tật là lát cắt ngang các vấn đề xã hội và chính sách cơ bản làm
thay đổi tình trạng và hoản cảnh mà người khuyết tật bị hạn chế hay ngăn cản
tham gia đầy đủ như công dân bình thường”
Thứ hai, dù khái niệm người khuyết tật theo quy định của Việt Nam và pháp luật
quốc tế có khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích là phản ánh thực tế là người
khuyết tật có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc do con người
khi tham gia vào mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Đồng thời khẳng định Họ
phải được đảm bảo rằng họ có quyền và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động
của đời sống như bất cứ công dân nào với tư cách là các quyền của con người hay
nói cách khác xây dựng khái niệm người khuyết tật thì bất cứ quốc gia, tổ chức nào
đều hướng tới việc bình đẳng cho những người khuyết tật.
2.2 Khác nhau
2.2.1 Khái niệm người khuyết tật theo quy định của pháp luật Việt Nam hẹp
hơn so với khái niệm người khuyết tật của quốc tế.
Có thể thấy khái niệm về người khuyết tật theo quy định của pháp luật quốc tế khá
rộng. Pháp luật quốc tế xác định người khuyết tật được xác định rất cụ thể: đầu tiên
người khuyết tật là người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan
trong thời gian dài. Và những khiếm khuyết này phải được thừa nhận. thứ hai,
những suy giảm này là rào cản cản trở người khuyết tật tham gia vào xã hội.
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật người khuyết tật. Với
cách hiểu này thì người khuyết tật bao gồm cả những người bi khuyết tật bẩm sinh,
người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh,…Pháp luật
quốc tế xác định sự suy giảm chức năng này gây cản trở cho việc người khuyết tật
tham gia vào xã hội còn theo định nghĩa người khuyết tật của Việt Nam chỉ xác
định người khuyết tật là người bị suy giảm chức năng gây khó khăn cho học tập,
sinh hoạt. Ta thấy khi xác định khả năng tham gia vào xã hội sẽ rộng hơn, bao quát
hơn rất nhiều.
2.2.2 Về tiêu chí xác định đối tượng theo quy định của pháp luật Việt Nam
chưa cụ thể so với quy định của pháp luật quốc tế
Pháp luật Việt Nam xác định người khuyết tật theo hai tiêu chí: người đó bị khiếm
khuyết bộ phận cơ thể hoặc là bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật.
Pháp luật Việt Nam quy định sáu dạng tật: khuyết tật vận động, khuyết tật nghe,
nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật
khác. Như vậy, nhìn chung pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá phù hợp
với pháp luật quốc tế đặc biệt với nội dung Công ước khi đề ra tiêu chí nhằm xác
định đối tượng người khuyết tật.
Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ thì có đưa ra ví dụ cụ thể về khuyết
tật bao gồm: khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh
thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh,
teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây lan và không lây lan như bệnh
lao và bệnh do HIV. Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện tại vẫn còn những quy định
khá chung chung và bó hẹp đối tượng người khuyết tật.
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
Thứ nhất, “Tự kỷ” chưa một lần được nhắc tên bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật
nào của Việt Nam từ trước đến nay, kể cả Luật Người khuyết tật 2010 mới ban
hành. Luật NKT chỉ quy định 6 dạng khuyết tật là vận động, nghe-nói, nhìn, trí tuệ,
thần kinh-tâm thần và khuyết tật khác. Dự thảo 3 Nghị định hướng dẫn thi hành có
quy định cụ thể hơn các dạng này, nhưng cũng không có khái niệm tự kỷ. Điều này
cũng dễ hiểu vì tự kỷ mới xuất hiện ở Việt Nam không lâu, mới chỉ tầm hơn 10
năm nay. Và trên thế giới, tuy tự kỷ đã xuất hiện đã được tầm dăm bảy chục năm
và được nghiên cứu rầm rộ, vẫn chưa ai tìm ra nguyên nhân hay cách thức chữa trị
dứt điểm.
Với bản chất là khiếm khuyết về giao tiếp, hành vi và xã hội, tự kỷ không giống
bất kỳ dạng khuyết tật nào trong 5 dạng đã được kể tên. Thậm chí, vẫn còn được
gọi là “bệnh tự kỷ”, tức là không phải mang tính suốt đời và không phải là khuyết
tật.
Trong khi đó pháp luật của nhiều nước, tự kỷ cũng nhanh chóng được ghi nhận là
một loại khuyết tật mới và riêng biệt, với định nghĩa rõ ràng, và có những chế độ
chương trình can thiệp, điều trị cụ thể và cực kỳ tinh vi và mạnh mẽ, với thời lượng
can thiệp lớn, tổng thể ở nhiều nếu không nói là toàn bộ lĩnh vực (tâm vận động,
điều hoà giác quan, điều chỉnh hành vi, xây dựng quan hệ xã hội, v.v.).
Thứ hai, về chứng nói lắp, ở Việt Nam đây không được nhắc đến với khái niệm là
một dạng tật nhưng trong pháp luật quốc tế đây có thể coi là một dạng tật vì nó dẫn
đến suy giảm chức năng khi người đó nói mà không ai hiểu. Trong khi quy định
của pháp luật Việt Nam chưa có những quy định cụ thế.
Như vậy, ta thấy so với sự tương thích pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế
thì khái niệm người khuyết tật Việt Nam còn chung chung so với pháp luật quốc tế.
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
Tuy nhiên, trong khi một số nước trên thế giới vẫn tiếp cận khái niệm người khuyết
tật dưới các góc độ về y tế (nhìn nhận người khuyết tật là những người có vấn đề
về thể chất và cần được chữa trị), thì pháp luật Việt Nam đã tiếp cận khái niệm này
dưới góc độ xã hội, đây là một tiến bộ lớn của Việt Nam so với các nước khác trên
thế giới. Theo đó, quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội phân biệt những rào
cản khuyết tật và khuyếm khuyết nên nó tạo điều kiện cho người khuyết tật chỉ tập
trung vào khả năng và những điều cần làm là loại bỏ yếu tố rào cản trợ giúp cho
yếu tố khiếm khuyết và được đối xử như những người khác. Mô hình xã hội giúp
người khuyết tật hiểu điều gì cần thực hiện để tiếp cận với công dân và quyền con
người. Ở đây, chính người khuyết tật cũng phải nhận thức được đầy đủ các nghĩa
vụ của mình với tư cách là công dân trong mọi đời sống kinh tế xã hội mà mình
tham gia. Đây là công cụ quan trọng để giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của
người khuyết tật bị tách biệt khỏi cuộc sống nói chung và vấn đề phân biệt đối xử
nói riêng.
KẾT LUẬN
Thông qua quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau cho thấy để đưa ra khái
niệm thuyết phục và thống nhất về người khuyết tật là không dễ dàng. Việc nghiên
cứu đưa ra định nghĩa quốc tế về người khuyết tật là thách thức do những mô hình
của khuyết tật chịu ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa, điều kiện kinh tế xã hội và các
tiêu chí khác xác định người khuyết tật ( các tiêu chí này thường phụ thuộc vào các
nước, các tổ chức khác nhau). Tuy nhiên, cần khẳng định rằng định nghĩa về người
khuyết tật dù tiếp cận dưới góc độ nào, nhất thiết phải phản ánh thực tế là người
khuyết tật có thể gặp rào cản do yếu tố xã hội môi trường hoặc con người khi tham
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA – DUONG GIA LAW COMPANY LIMITED No 2501, 275 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi City, Viet NamTel: 1900.6568 Fax: 04.3562.7716Email: [email protected] Website: http://www.luatduonggia.vn
gia vào mọi hoạt động kinh tế chính trị xã hội. Họ phải được đảm bảo rằng họ có
quyền và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động của đời sống.
Trên đây là toàn bộ nội dung chính trong bài tập nhóm tháng thứ nhất môn Luật
Người khuyết tật của nhóm chúng em với đề tài: ““Phân tích khái niệm Người
khuyết tật. So sánh quy định của Pháp luật Quốc tế với pháp luật Việt Nam về khái
niệm Người khuyết tật”. Vì khuôn khổ bài tập nhóm có hạn nên có thể bài làm của
chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm 7 – Lớp N02 chúng em rất
mong nhận được sự góp ý từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn./.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Người khuyết tật Việt Nam, Nxb
CAND, Hà nội 2011
2. Công ước về quyền của người khuyết tật 2006, Văn phòng điều phối các hoạt
động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam, Nxb Lao đông-xã hội 2008
3. Công ước 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và làm việc của người
khuyết tật năm 1983
4. Pháp lệnh người tàn tật 1998
5. Luật Người khuyết tật năm 2010 của nước CHXHCN Việt Nam
6. Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống
pháp luật ( Tài liệu hướng dẫn của Văn phòng ILO)
7. Các website:
- http://www.ilo.org
- http://www.nguoikhuyettat.org
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN 24/7: 1900.6568