10
Thương Ba Năm không chnhóm chiu, Nhà không người nim nhiu Nam Mô. Thây không lấp mà để phơi khô, Không nước mà uống Nam Mô đạo nào. Gp trn gió nim Pht ào ào, Chng tan giông gió Pht nào thy đâu. Khá chí tâm mài st dò sâu, Nên kim mi gii Pht đâu tc thi. Tu nht kiếp ngPht nht thời… (Kim CKQuan 4: 7, Ông Ba Nguyễn Văn Thới viết năm 1915) Tđây thức dy canh thâu, Ba Năm khc khnão su bi ai. Phật pháp đấng chuyn lay vô giá, Sp hành trình tan rã vô biên. Lc xong các bc tôi hin, Dâng lên cúng Pht ti trin bo châu. Pht ma qucanh thâu chìm đắm, Đừng có mê áo gm thêu hoa. Mê quan mê chc mê nhà, Tđây phải chu bin hà vùi chôn! (Quay VNgun Cội tr. 277, Đức Cu Bần Sĩ Vô Danh ứng khu thuyết ngày 18-7 Tân Mùi 1991 ti Ging Ring, Thin Tnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997) Cậu đờn bá tánh không no, Ba Năm khc khhng giò than van. Ba Năm biến ththành than, Ba Năm Cu thy xóm làng khđau. Ba Năm cô bác đồng bào, Giết đâm chết lon biết đâu mà tường. Ôi thôi nhiu nỗi đoạn trường, Ba Năm khc khbiết đường nào đi. Ba Năm chi xiết ai bi, NgMùi Thân Du vy thì bày khai. BA NĂM khslá lay, Ba Năm bá tánh trắng tay điêu tàn. BA NĂM mt ca mt vàng, Mt quan mt chc hhàng mt luôn. BA NĂM mt triu mt muôn, Nói đây rồi li thêm buồn thô sơ. Ngi bun lt bản đồ thơ, Thy trong thế shin gicòn nguy. Đờn kêu nhiu slâm li, Đờn kêu cu nói vic gì ngghê. Đờn kêu xiết đả Con Dê, Con Dê rơi rụng thành mê ráo ri! (Sm Ging Thất Sơn tr. 34-35, Đức Cu Bần Sĩ Vô Danh ng khu thuyết ti Tân Châu vào thp niên 80, Thin Tnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2003) Tđây náo nhiệt nước kit nhà tan, Tri Pht còn than Niết Bàn không n. Thì là nguy khn dân chúng ni trôi, Cu nói ri coi bn ti tan nát. Ráng vgii thoát mt lát ri xem, Thi thơ Cậu đem bên rèm Cậu tng. Nơi miền Cu nhn bin vng xa xôi, Nói chng thảnh thơi Ba Năm lon lc.* Vđi giải thoát tn dit gn k, Mùa Hè năm Dê Cu phê bút ch. Đó rồi niên ktt ctrng tay, Nghip qucó vay bđày ráng chịu. Anh em lo liu lên kiu mà v, Sóng ba tràn trbến mê rũ chí. Gần ngày trường thí Thy mđại khoa, Đạo min xa cùng TA trbước. đâu đói trước Cu chcho tường, Lc quốc nhà Vương từ đây gần lp. Thì là gió tp bão ti lin lin, Thay đổi Đài Tiên ai miền thế gi. Tđây phải rã lp quốc dân ơi, Mun thy ngôi Tri trung quân mi rõ. Knày cây cCu thấy cũng tiêu, ………………………………………….. Min Nam diu vi Thánh Chúa lập Đời, Phi chịu dân ơi, Ba Năm khc kh. Năm Thân lđổ không biết dường nào, Lp bnh lớp đau lớp gào lp thét.

T Ba Năm - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Ba Năm bá tánh trắng tay điêu tàn. BA NĂM mất của mất vàng, Mất quan mất chức họ hàng mất luôn. BA NĂM

Embed Size (px)

Citation preview

Thương Ba Năm không chợ nhóm chiều,

Nhà không người ở niệm nhiều Nam Mô.

Thây không lấp mà để phơi khô,

Không nước mà uống Nam Mô đạo nào.

Gặp trận gió niệm Phật ào ào,

Chừng tan giông gió Phật nào thấy đâu.

Khá chí tâm mài sắt dò sâu,

Nên kim mới giỏi Phật đâu tức thời.

Tu nhứt kiếp ngộ Phật nhứt thời… (Kim Cổ Kỳ Quan 4: 7, Ông Ba Nguyễn Văn Thới viết năm

1915)

Từ đây thức dậy canh thâu,

Ba Năm khắc khổ não sầu bi ai.

Phật pháp đấng chuyển lay vô giá,

Sắp hành trình tan rã vô biên.

Lọc xong các bậc tôi hiền,

Dâng lên cúng Phật tại triền bảo châu.

Phạt ma quỷ canh thâu chìm đắm,

Đừng có mê áo gấm thêu hoa.

Mê quan mê chức mê nhà,

Từ đây phải chịu biển hà vùi chôn! (Quay Về Nguồn Cội tr. 277, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng

khẩu thuyết ngày 18-7 Tân Mùi 1991 tại Giồng Riềng, Thiền

Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997)

Cậu đờn bá tánh không no,

Ba Năm khắc khổ hỏng giò than van.

Ba Năm biến thể thành than,

Ba Năm Cậu thấy xóm làng khổ đau.

Ba Năm cô bác đồng bào,

Giết đâm chết loạn biết đâu mà tường.

Ôi thôi nhiều nỗi đoạn trường,

Ba Năm khắc khổ biết đường nào đi.

Ba Năm chi xiết ai bi,

Ngọ Mùi Thân Dậu vậy thì bày khai.

BA NĂM khổ sở lá lay,

Ba Năm bá tánh trắng tay điêu tàn.

BA NĂM mất của mất vàng,

Mất quan mất chức họ hàng mất luôn.

BA NĂM mất triệu mất muôn,

Nói đây rồi lại thêm buồn thô sơ.

Ngồi buồn lật bản đồ thơ,

Thấy trong thế sự hiện giờ còn nguy.

Đờn kêu nhiều sự lâm li,

Đờn kêu cậu nói việc gì ngộ ghê.

Đờn kêu xiết đả Con Dê,

Con Dê rơi rụng thành mê ráo rồi! (Sấm Giảng Thất Sơn tr. 34-35, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh

ứng khẩu thuyết tại Tân Châu vào thập niên 80, Thiền

Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2003)

Từ đây náo nhiệt nước kiệt nhà tan,

Trời Phật còn than Niết Bàn không ổn.

Thì là nguy khốn dân chúng nổi trôi,

Cậu nói rồi coi bẩn tồi tan nát.

Ráng về giải thoát một lát rồi xem,

Thi thơ Cậu đem bên rèm Cậu tặng.

Nơi miền Cậu nhắn biển vắng xa xôi,

Nói chẳng thảnh thơi Ba Năm loạn lạc.*

Về đi giải thoát tận diệt gần kề,

Mùa Hè năm Dê Cậu phê bút chỉ.

Đó rồi niên kỷ tất cả trắng tay,

Nghiệp quả có vay bị đày ráng chịu.

Anh em lo liệu lên kiệu mà về,

Sóng bủa tràn trề bến mê rũ chí.

Gần ngày trường thí Thầy mở đại khoa,

Đạo ở miền xa cùng TA trở bước.

Ở đâu đói trước Cậu chỉ cho tường,

Lạc quốc nhà Vương từ đây gần lập.

Thì là gió tắp bão tới liền liền,

Thay đổi Đài Tiên ai miền thế giả.

Từ đây phải rã lập quốc dân ơi,

Muốn thấy ngôi Trời trung quân mới rõ.

Kỳ này cây cỏ Cậu thấy cũng tiêu, …………………………………………..

Miền Nam diệu vợi Thánh Chúa lập Đời,

Phải chịu dân ơi, Ba Năm khắc khổ.

Năm Thân lệ đổ không biết dường nào,

Lớp bịnh lớp đau lớp gào lớp thét.

Dân ơi mê chức tài cao,

Từ đây sắp đến tiêu hao mấy phần.

Ngọ Mùi mới rõ nghe dân,

Thân Dậu khắc khổ toàn thân rụng rời.

Ba Năm tàn khốc dân ôi,

Đổi đời lập đạo cơ trời gần ra.

Biến thiên biến thể kia mà,

Biến người thành thú thú mà thành nhơn.

Biến rồi bá tánh đừng hơn,

Biến thiên biến địa Thất Sơn hóa lầu.

Biến cho các nước châu Âu,

Rụng rời khổ sở về chầu Nam bang.

Biến thôi mất triệu mất vàng,

Biến thiên lập địa sảy sàng khổ đau.

Biến rồi dân chúng chắc hao,

Để chi cái thứ mâm cao cỗ đầy.

Quên ân bội Chúa phản Thầy,

Cơ Trời sắp đặt giờ này gần ra. (Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 12, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng

khẩu thuyết ở Phương Lâm thập niên 80, Thiền Tịnh Bửu Sơn

Sydney ấn tống năm 2002)

Ở tận nơi đất khách,

Khéo khai mở đạo mầu.

Ba Năm chẳng dài lâu,

Đáo về quê Nam Việt,

Kiến Phật tại Bích lầu. (Pháp Kệ Bí Truyền, tr. 38, Liên Hoa Tịnh Huệ kết tập lời

Bạch Y Đạo Sĩ, ấn tống tại Mỹ năm 1999)

Và trong những bài cầu cơ của Hội Trà Hoa

từ những năm trước và sau 1975, Vị Lớn {Phật

Thầy Tây An} về cơ cũng cho biết cuộc Tận Thế

Hội Long Hoa là Ba Năm.

Vậy cụm từ Ba Năm trong những đoạn sấm

giảng vừa nêu trên có nghĩa lí gì? Ba Năm phải

chăng là thuật ngữ thiên cơ ám chỉ tháng? Đặc

biệt Đức Cậu Bần Sĩ dùng cụm từ Ba Năm đi

kèm với cụm từ Ngọ Mùi Thân Dậu.

Nếu Ngọ Mùi Thân Dậu{Ngựa, Dê, Khỉ

Gà}, ám chỉ các tháng 5 âl tức tháng Mậu Ngọ,

6 âl {tháng Kỷ Mùi}, 7 âl {tháng Canh Thân}, 8

âl {tháng Tân Dậu}, thì Ba Năm ám chỉ cái gì?

Cụm từ Ba Năm là bài toán đố mẹo: 3 + 5 = 8,

ám chỉ tháng 8 âl tức tháng Tân Dậu năm Mậu

Tuất 2018 thế giới chịu cảnh chết chóc khủng

khiếp vì vũ khí nguyên tử. Tháng 8 âl có sự cố

quan trọng, nên cụm từ Ba Năm được chư vị Bồ

Tát lặp lại nhiều lần: 3 + 5 = 8 = tháng 8 âl. Vì

vậy từ năm 1915, Ông Ba Nguyễn văn Thới đã

cảnh báo:

Lớp thì ai vẹt vẹt ngút mù sa,

Năm Thân kia cà cửa nhà tan nát.

Vì ai ca hát giải thoát như vầy,

Vắng Cậu, vắng Thầy, Rồng Mây gần mở.

DẬU kia ráng nhớ Gà gáy canh thu,*

Thương đạo, khuyên tu mặc dù là khổ.

Long Hoa gần trổ cực khổ một giờ,

Vén ngút mây mờ về đi ấn dấu.

Hẹn trò Năm DẬU sẽ biết bí thơ,*

Cậu đợi Thầy chờ bên bờ sông bãi.

Nghe rồi đừng cãi ỷ lại không nên,

Lô tô dựng nền báo ân buổi trước.

Trò nghe rồi được hiểu được rất mầu,

Mình phải tìm sâu ở nơi huyệt đạo.*

Đừng nên xốc xảo tu giả bên ngoài,

Cốt nhục muôn loài rồi ta sẽ bỏ.

Nghe đi cho rõ rồi tỏ chớ gì,

Về hằng mau đi đạo tâm tia sáng.

Mặc ai nhạo báng trò ráng bồi công,

Kỳ này Biển Đông chập chồng nhuốm máu.

Thương thay TA bảo người đạo phải nghe,

Đúng năm Dê hè sợ e nguy hiểm.

Giữ thân hạnh kiểm cho vẹn đạo mầu,

Bốn biển năm châu thấy trong rùng rợn.

Nó chưa có tởn ham tỉ ham tiền,

Bị Phật Thánh Tiên buộc xiềng hết trọi.

Nó làm tôi mọi lịnh rọi Thiên Đình,

Đây phải thúi sình Hà Sa biết mấy.

Người đâu có thấy lừng lẫy chông gai,

Phạt ở nước ngoài bằng hai Nam Việt. Thôi rồi cách biệt từ giã đạo tâm,

Thi phú thì thầm đêm nay Cậu thuyết.

Cho người hiểu biết đời kiệt đời còn,

Đặng hiểu thon von đặng tròn ý nguyện.

Bây giờ phương tiện Cậu luận Lô tô,

Chúc chị chúc cô trên đường du học.

Thôi thôi trằn trọc cực nhọc đừng than,

Cậu chúc xóm làng cùng chung huyết thống.

(Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết ở Phú Lâm

ngày 23-2 Tân Mùi {1991}, kết tập sách Thượng Đế

Thưởng Phạt , Thiền Tịnh Bửu Sơn ấn tống năm 2001)

Cụm từ

“Năm

Dậu”,

chữ

“Năm”

ám chỉ

tháng 5

âl, chữ

“Dậu”

ám chỉ

tháng 8

âl., nói

tắt bốn

tháng 5,

6, 7, 8âl

Thương Ba Năm không chợ nhóm chiều,

Nhà không người ở niệm nhiều Nam Mô.

Thây không lấp mà để phơi khô,

Không nước mà uống Nam Mô đạo nào.

Vì lòng đại từ đại bi thương yêu nhơn loại, nên chư vị Bồ

Tát ra cơ bài toán đố không cao lắm, bài toán đố mẹo rất đơn

sơ dành cho lớp vỡ lòng, bài toán đố đó chỉ có một phép cộng

giản dị như sau: 3 + 5 = 8.

Lời truyền sấm như bài toán đố, Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ.

Ta khuyên tu dân cứ mãi ngờ,

Sợ gạt chúng kiếm xu kiếm cắc. (Giác Mê Tâm Kệ, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

GÀ cồ coi vậy thiệt là ngu,

Nòi giống không thương lại oán thù;

Chiến tích cạo đầu làm mặt lạ,

Chém đâm nhau chết máu lu bù! (Huỳnh Giáo Chủ ứng khẩu thuyết năm 1939 tại Hòa Hảo, Chuyện Bên Thầy, mẩu chuyện thứ 36)

Phải quy căn cùng nhau hội hiệp,

Ráng mau chơn mới kịp đạo mầu.

Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,

Thì sẽ được Tòa Chương dựa kế.

Chúng sanh thể như GÀ thất thế, 3 + 5 = 8 Phải nằm chờ tới nước bắt ra.

Thời kỳ này nhiều quỷ nhiều ma,

Trời mở cửa Quỷ Vương xuống thế.

Nên TA mới ra tay cứu tế,

Kẻo chúng sanh bị khổ quá chừng.

Sau Quỷ Vương đi đứng nửa lừng,

Thêm tên tuổi chúng sanh nó biết.

Làm đủ cách xuống lên tha thiết… (Giác Mê Tâm Kệ, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Thơ xướng:

Chắt chiu trong trứng mới nở ra,

DIỀU đâu bay lại xớt con GÀ; *

Mẹ kêu túc túc xè cánh đuổi,

Chủ nhà tiếc của vỗ tay la!

Thơ họa:

Nịnh gian hai dạ chuyện sanh ra,

Dòm ngó càng thương hại lũ GÀ;

Trở mặt dòm trời cao tuốt mịt,

Ức lòng thiếu cánh chớ nên la!

(Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Xà No năm 1940)

* Chữ DIỀU ám chỉ hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử có sức tàn phá thật khủng khiếp vào thời

điểm Ba Năm{Gà}cận kề. Coi chừng sự cố tới gấp chúng sanh trở tay không kịp! A Di Đà Phật.

Sydney, 22-5-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi

lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt

mù, Bồ Tát giáng trần không

có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống

trà run đùi ngâm thơ vịnh

nguyệt. Mỗi hành động, mỗi

lời nói của Đức Thầy Huỳnh

Giáo Chủ đều khế hợp với

thiên cơ đạo lý. Chữ GÀ trong

sấm của Đức Thầy có lý thiên

cơ diệu mầu: 3 + 5 = 8. “Lời

truyền sấm như bài toán đố”.

Bài pháp Đạo Bửu Sơn Kì Hương do Đức

Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết

trong băng tựa đề Đạo Bửu Sơn Kì Hương,

kết tập trong quyển sấm giảng Thiền Tịnh

Bửu Sơn tr. 71-77, Hội Cư Sĩ Thiền Tịnh

Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)

BỬU châu công luyện chốn non Tần,

SƠN thủy môn giang bảo giác dân.

Kỳ quái chờ nơi Thiên nhứt định,

HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân. (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ

viết năm 1939)

BỬU ngọc Nam bang pháp Phật Thầy,

SƠN hà xã tắc Hội Rồng Mây.

KỲ Quan Kim Cổ lời Thầy thuyết,

HƯƠNG trầm bay tỏa khắp Đông Tây. (Kỳ Vân Cư Sĩ cảm tác)

Sydney, 22-5-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Sydney, 22-5-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

BẦN thuyết người về dự Long Hoa,

SĨ hiền dốt chữ xuống Ta bà.

VÔ biên nói sấm đời Nguơn hạ,

DANH truyền pháp Phật cứu bá gia. (Kỳ Vân Cư Sĩ cảm tác)

Niên như điển, nguyệt như thoi,

Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi.

Có Người Thiện Nữ truyền lời,

Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh. ……………………………………………………………

Non đoài giữ dạ tín thành,

Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông.

Anh em ai có phục tòng,

Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe. (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109, lưu ở đình Tòng

Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Đức Thầy tái thế mượn xác Người Thiện Nữ học

hành chưa thông, dốt viết không rành văn tự, xưng Đức

Cậu Bần Sĩ Vô Danh dụng thần thông ứng khẩu thuyết

pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo

Ngài học đạo phải dùng tai nghe. Thời đại văn minh có

phương tiện máy ghi âm cassette, băng đĩa… Khi Bồ Tát

thuyết, bạn đạo dùng máy ghi âm đưa lên trang mạng

quảng bá rộng rãi cho bá tánh nghe. (Cuc Nguyen đăng

những mp3 trên youtube do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh

ứng khẩu thuyết)

Bài pháp Đạo Bửu Sơn Kì Hương do Đức Cậu

Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết trong băng tựa

đề Đạo Bửu Sơn Kì Hương, kết tập trong quyển

sấm giảng Thiền Tịnh Bửu Sơn tr. 71-77, Hội

Cư Sĩ Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm

2002)