75
BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 - 2015 Trường Chính trị tỉnh Bình Phước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy và UBND tỉnh, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Phước. Trường có nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật, quản lý Nhà nước và một số lĩnh vực khác như đào tạo Trung cấp Luật, trung cấp Hành chính. Đồng thời phối hợp đào tạo Cao cấp Lý luận Chính trị - Hành chính; mở các lớp Đại học chuyên ngành theo yêu cầu đào tạo cán bộ của địa phương. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và đạt những kết quả quan trọng cả về quy mô, số lượng và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Nhà trường xác định nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng luôn là mục tiêu hàng đầu trong mọi hoạt động của nhà trường nhằm góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có kiến thức về lý luận chính trị - hành chính và chuyên môn, có kỹ năng lãnh đạo, quản lý, có tư duy đổi mới với tầm nhìn xa và có khả năng đoàn kết tập hợp lực lượng nhằm tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của địa 1

Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng

góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 - 2015

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy và UBND tỉnh, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Phước. Trường có nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật, quản lý Nhà nước và một số lĩnh vực khác như đào tạo Trung cấp Luật, trung cấp Hành chính. Đồng thời phối hợp đào tạo Cao cấp Lý luận Chính trị - Hành chính; mở các lớp Đại học chuyên ngành theo yêu cầu đào tạo cán bộ của địa phương.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và đạt những kết quả quan trọng cả về quy mô, số lượng và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.

Nhà trường xác định nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng luôn là mục tiêu hàng đầu trong mọi hoạt động của nhà trường nhằm góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có kiến thức về lý luận chính trị - hành chính và chuyên môn, có kỹ năng lãnh đạo, quản lý, có tư duy đổi mới với tầm nhìn xa và có khả năng đoàn kết tập hợp lực lượng nhằm tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của địa phương trên từng địa bàn. Đó là nhiệm vụ quan trọng và nặng nề của nhà trường, nhiệm vụ đó đã được tập thể cán bộ, giảng viên nhà trường tập trung thực hiện với những kết quả cụ thể như sau:

Về thực hiện nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng: Bám sát hướng dẫn, quy định của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và Ban Tuyên giáo Trung ương. Trong từng nội dung chương trình chú trọng truyền tải đến học viên những kiến thức lý luận và thực tiễn, kỹ năng lãnh đạo, quản lý phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Đồng thời, cọi trọng việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và phong cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý cho học viên của nhà trường.

Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng Trường Chính trị đã quan tâm đổi mới phương pháp giảng dạy, coi trọng đối thoại giữa người dạy và người học; thường xuyên yêu cầu học viên phải nỗ lực tự học và chú trọng vào bài giảng. Đội ngũ giảng viên của nhà trường từng bước áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực gắn với phương pháp truyền thống; sử dụng, phối hợp linh hoạt các phương pháp thuyết trình, phát vấn, xử lý tình huống…nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người

1

Page 2: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

học. Việc tổ chức thao giảng, dự giờ, thi giảng viên giỏi được nhà trường quan tâm tổ chức thường xuyên.

Công tác nghiên cứu khoa học được nhà trường triển khai tích cực nhằm hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Các đề tài khoa học cấp khoa, cấp trường, cấp tỉnh đều tập trung vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và giải quyết một số vấn đề thực tiễn đặt ra ở địa phương gắn với nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng.

Đội ngũ giảng viên của nhà trường phát triển không ngừng về số lượng và chất lượng. Hiện nay trường có 49 cán bộ, giảng viên, nhân viên; trong đó có 21 giảng viên chuyên trách và 4 giảng viên kiêm chức chiếm 53%. Có 12 giảng viên có trình độ thạc sỹ, 01 giảng viên đang chuẩn bị bảo vệ luận văn thạc sỹ và 01 giảng viên mới thi tuyển đầu vào nghiên cứu sinh đạt kết quả tốt; 02 giảng viên đã hoàn thành học tập ngoại ngữ đang chờ đi học theo đề án 165 của Trung ương; 22/25 giảng viên đã được bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy tích cực. Tất cả các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên ngành, tập huấn chương trình, tài liệu mới do Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và Bộ Nội vụ tổ chức nhà trường đều cử giảng viên đi dự. Đồng thời để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nhà trường thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu giảng viên cập nhật đường lối, chủ trương, chính sách mới, kiến thức mới, kiến thức thực tiễn vào bài giảng, gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình giảng dạy. Đối với các chuyên đề, bài giảng có tính chất chuyên ngành hoặc đòi hỏi người giảng viên phải có kinh nghiệm thực tiễn, nhà trường phân công cho các đồng chí trong Ban Giám hiệu và mời báo cáo viên của các ngành tham gia giảng dạy.

Về quản lý đào tạo, bồi dưỡng, nhà trường đã cụ thể hóa các quy chế, quy định của Trung ương, Học viện, của Tỉnh ủy thành các quy chế, quy định, hướng dẫn cụ thể để quản lý chặt chẽ quá trình dạy và học. Việc tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên được đổi mới từng bước theo hướng qua bài thi, kiểm tra phải đánh giá được kiến thức lý luận, thực tiễn của học viên, sự liên hệ, vận dụng vào thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Nhất là việc viết tiểu luận cuối khóa của chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính đã giúp cho học viên biết phân tích, đánh giá, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn và đề xuất các giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể thực tiễn đặt ra ở ngay cơ quan, địa phương, đơn vị.

Về hình thức mở lớp: Nhà trường kết hợp cả hình thức đào tạo tập trung và tại chức, tổ chức mở lớp tại trường và ở các huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc; tạo điều kiện cho cán bộ cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc vừa học vừa làm và khắc phục khó khăn về đi lại cho học viên. Đối với các lớp mở cho các doanh nghiệp, nhà trường vận dụng linh hoạt tổ chức học ngoài giờ hành chính để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo đảm công tác chuyên môn của mình.

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một khâu quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng và đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cấp, nhiều ngành. Trường Chính trị tỉnh luôn phối hợp chặt chẽ với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ - hai cơ quan chuyên trách tham mưu về công tác cán bộ của tỉnh; phối hợp với các ban Đảng

2

Page 3: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

tỉnh; các sở ngành, đoàn thể liên quan khác; các huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc, trung tâm Bồi dưỡng chính trị để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, duyệt sinh, chuẩn bị về cơ sở vật chất, tổ chức giảng dạy. Đồng thời, nhà trường cũng phối hợp với các Học viện, các trường Đại học để tổ chức học tập, quản lý học viên đối với các lớp Cao cấp LLCT – HC và Đại học chuyên ngành đặt tại Trường chính trị tỉnh. Sự phối hợp đó là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng ở Trường Chính trị còn một số khó khăn, vướng mắc và hạn chế; trong đó có cả những tác động của yếu tố khách quan và chủ quan. Đó là:

Thứ nhất, chương trình đào tạo Trung cấp LLCT - HC chậm được đổi mới và cập nhật những kiến thức mới, chủ trương, đường lối, chính sách mới trên nhiều lĩnh vực. Giảng viên tự cập nhật lại tùy thuộc vào trách nhiệm, trình độ, năng lực của mỗi người nên không bảo đảm sự thống nhất về kiến thức chung trong cả nước. Hiện nay có bài trong chương trình phải thay đổi, cập nhật từ 30 đến 40 % kiến thức.

Các chương trình bồi dưỡng theo chức danh do Bộ Nội vụ biên soạn quá chậm, các chương trình bồi dưỡng khác còn thiếu. Vì vậy, nội dung một số lớp bồi dưỡng mở tại trường chủ yếu do nhà trường phối hợp với các đơn vị liên quan chọn và biên soạn theo yêu cầu công việc phối hợp liên kết với các đơn vị khác mở lớp.

Thứ hai, về phương pháp giảng dạy trong nhà trường vẫn còn nặng về thuyết trình, chưa áp dụng một cách thực sự hiệu quả phương pháp giảng tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên. Một số giảng viên chưa biết cách tổ chức thảo luận cho thật sự hiệu quả, chưa đưa ra được những bài tập tình huống về kỹ năng lãnh đạo, quản lý phù hợp với yêu cầu hiện nay. Trong khi đó, nhiều học viên còn rất thụ động trong quá trình lên lớp cũng như thảo luận. Một số học viên chưa xác định đúng động cơ, mục đích học tập, có biểu hiện học để đủ điều kiện đề bạt, bổ nhiệm; học cho có bằng cấp để chuyển ngạch, lên lương. Điều đó cũng tác động không nhỏ đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường.

Thứ ba, đội ngũ giảng viên nhà trường - lực lượng quyết định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng thiếu về số lượng, đa số còn trẻ, hạn chế về kiến thức thực tiễn, kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy…còn khoảng 50% giảng viên trẻ chưa được đào tạo về Cao cấp LLCT - HC. Một số giảng viên chưa thật sự chuyên tâm, tận tuy, trách nhiệm đầu tư cho nghiên cứu, soạn giáo án và rèn luyện kỹ năng, phương pháp sư phạm; chưa thường xuyên cập nhật kiến thức thực tiễn, đường lối, chính sách mới, chủ trương mới vào bài giảng.

Thứ tư, hoạt động nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ bắt buộc đối với giảng viên để bổ trợ kiến thức cho bài giảng, góp phần tổng kết thực tiễn và giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc ở địa phương. Điều đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, giảng viên Trường Chính trị phải không ngừng nâng cao nhận thức về trách nhiệm của bản thân đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, không ngừng nâng cao chất lượng đề tài nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào bài giảng.

3

Page 4: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

Tuy nhiên, việc tham gia của giảng viên chưa đồng đều, chất lượng nghiên cứu khoa học còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.

Thứ năm, về hình thức đào tạo, bồi dưỡng, do yêu cầu của nhiều huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc, nhà trường mở nhiều lớp hệ B đặt tại các địa phương, đơn vị; số lớp đào tạo tập trung tại Trường còn ít. Do đó, việc quản lý quá trình học tập của học viên gặp nhiều khó khăn, ở một số nơi chưa có biện pháp phối hợp quản lý tích cực, hiệu quả nên ảnh hưởng không nhỏ đến cả chất lượng dạy và chất lượng học.

Thứ sáu, về chế độ, chính sách đối với cán bộ, giảng viên Trường chính trị tỉnh, thành phố chưa thỏa đáng, còn nhiều vướng mắc và bất hợp lý do các quy định của Trung ương và Chính phủ dẫn đến tình trạng: Phụ cấp ưu đãi ngành 45% không còn đúng với ý nghĩa ưu đãi; bộ phận cán bộ, nhân viên ở các phòng của Trường Chính trị ngoài phần hỗ trợ của nhà trường không có bất cứ một chế độ nào khác trong khi vẫn phải thực hiện mọi nhiệm vụ như một công chức bình thường ở các cơ quan khác. Cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường chưa thật sự yên tâm và tự bươn chải, tự lo thêm cuộc sống phần nào cũng chi phối đến hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập vừa thiếu, vừa lạc hậu, xuống cấp, thư viện nhà trường chưa được đầu tư tương xứng.

Thứ bảy, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành liên quan có lúc, có nơi, có việc thiếu chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất; còn chồng chéo do chưa phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Việc phối hợp trong công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm vừa chậm, vừa chưa đồng bộ và thống nhất dẫn đến bị động trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cũng như chất lượng công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng. Một số cơ quan, đơn vị có cán bộ đi học chưa kết hợp chặt chẽ với nhà trường trong quản lý học viên.

Để giải quyết những khó khăn, vứng mắc và hạn chế yếu kém nêu trên; tại Hội thảo này tôi đề nghị các đại biểu tập trung làm rõ một số nội dung theo các nhóm vấn đề sau:

1. Về phương pháp giảng dạy: làm rõ những yêu cầu và biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng theo hướng: Áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, phát huy vai trò của người thầy và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên, gắn lý luận với thực tiễn, học với hành.

2. Về xây dựng nguồn nhân lực: Việc xây dựng đội ngũ giảng viên cần có những giải pháp gì để xây dựng đội ngũ giảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phong cách đạo đức cách mạng trong sáng, có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, có kiến thức thực tiễn và có kỹ năng, phương pháp giảng dạy tốt.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên các phòng, khoa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

3. Các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.

4

Page 5: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

4. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng trong nhà trường: Đề xuất các biện pháp tổ chức thực hiện các quy chế, quy định; các hình thức mở lớp, cách thức quản lý giảng viên và học viên trong quá trình giảng dạy và học tập để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.

5. Công tác phối hợp: Đánh giá, đề xuất các giải pháp tăng cường công tác phối hợp giữa Trường Chính trị tỉnh với các cấp, các ngành trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng.

6. Từ nhiều góc độ khác nhau, tập trung phân tích rõ các nguyên nhân chủ quan, khách quan, bên trong, bên ngoài dẫn đến những khó khăn vướng mắc, hạn chế về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như đã nêu ở phần trên. Đồng thời, cần đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền về nội dung, chương trình, chế độ chính sách, cơ chế để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc hiện nay trong công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, góp phần thực hiện thắng lợi chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đề ra là nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay; nhất là trong điều kiện số lượng cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Bình Phước đang cần được chuẩn hóa chiếm tỷ lệ cao và trong bối cảnh Đảng bộ tỉnh Bình Phước đang cùng với toàn Đảng triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.

Hội thảo của chúng ta là một hoạt động thiết thực và có ý nghĩa quan trọng. Tôi đề nghị mỗi đại biểu dự Hội thảo hãy tích cực phát huy tinh thần trách nhiệm và trí tuệ của mình, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh nhà ngày càng vững mạnh; có đủ sức, đủ tầm, đủ năng lực và uy tín lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao; góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC HỘI THẢOHIEÄU TRÖÔÛNG

ThS. Nguyễn Thị Lan Hương

5

Page 6: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨCVÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỈNH GIAI ĐOẠN 2011-2015

Người viết tham luận: Lê Ngọc Mừng - Phó Trưởng phòng Đào tạo Sở Nội vụ tỉnh Bình Phước

Kính thưa quý vị đại biểu!

 Kính thưa Hội nghị !

Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức là công việc mà đòi hỏi các cấp, các ngành phải thực hiện thường xuyên và liên tục, nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của từng ngạch công chức và chức danh cán bộ quản lý; trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nhà nước nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, có trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước; tiếp tục thực hiện có chất lượng, hiệu quả chương trình cải cách hành chính nhà nước.

 Kính thưa Hội nghị!

Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh lần thứ IX về đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, cấp ủy đảng các cấp đã tập trung chỉ đạo và đẩy mạnh tổ chức thực hiện trong toàn tỉnh. Từ đó tạo được những chuyển biến tích cực trong công tác quy hoạch cán bộ gắn với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức. Để cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành hàng loạt văn bản như: Chương trình đột phá số 12-CTr/TU ngày 02/8/2011 của Tỉnh ủy về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực; Quyết định số 2728/QĐ-UBND ngày 07/12/2011 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh giai đoạn 2011-2015; Quyết định thành lập Ban Chủ nhiệm đề tài đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực; Nghị quyết số 25/2011/NQ-HĐND ngày 16/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức; thu hút và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 73/2011/QĐ-UBND ngày 21/12/2011 về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức; thu hút và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh.

 Kính thưa Hội nghị!

Trong 5 năm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh giai đoạn 2006-2010 thì tổng số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng là 11.979 lượt người, trong đó:

- Cấp tỉnh là 4.569 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị là 654, Quản lý nhà nước là 1.618, Chuyên môn nghiệp vụ là 641, ngoại ngữ 44, kỹ năng 1.612);

6

Page 7: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

- Cấp huyện là 1.802 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị là 510, Quản lý nhà nước là 259, Chuyên môn nghiệp vụ là 300, kỹ năng là 733);

- Cấp xã là 5.246 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị là 456, Quản lý nhà nước là 797, Chuyên môn nghiệp vụ là 1.559, tin học 112, kỹ năng 2.322);

- Các đơn vị ngành dọc của TW đóng trên địa bàn tỉnh và cán bộ các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh là 362 lượt cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị là 50, Quản lý nhà nước là 43, Chuyên môn nghiệp vụ là 107, kỹ năng 162).

Theo kết quả trên cho thấy, trong 5 năm qua tỉnh chú trọng vào hai đối tượng chính là cán bộ, công chức hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ công chức cấp xã, việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực hoạt động của hai đối tượng này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.

 Kính thưa Hội nghị!

Trong quá trình thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011-2015, theo tôi cần bám sát một số quan điểm sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt những quan điểm cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ theo Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII. Đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Phát triển nguồn nhân lực vừa là nhân tố quyết định, đồng thời cũng là động lực phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, cần đầu tư cho Giáo dục - đào tạo để đáp ứng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, nhằm từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đảm bảo tính kế thừa và liên tục, đáp ứng yêu cầu đối với các chức danh chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở.

Thứ ba, công tác đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị. Thực hiện đầy đủ, công bằng, hợp lý chính sách thu hút nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, xây dựng kế hoạch, quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức một cách khoa học, bồi dưỡng một cách có hệ thống đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở.

Thứ tư, xã hội hóa công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó cán bộ, công chức là đảng viên phải là những người tiên phong đi trước để cán bộ, công chức noi theo.

 Kính thưa Hội nghị!

Để thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011-2015, tôi xin đề xuất một số giải pháp như sau:

7

Page 8: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

Một là, phải xác định rõ nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp;

Hai là, khi xây dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cần phải bám sát với quy hoạch cán bộ;

Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng phải gắn liền với việc sử dụng sau đào tạo;

Bốn là, việc đào tạo, bồi dưỡng phải theo quy hoạch, không chạy theo số lượng, thành tích;

Năm là, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan, liên kết với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng;

Sáu là, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức phụ trách công tác đào tạo, bồi dưỡng của các sở, ngành tỉnh, UBND các huyện, thị xã;

Bảy là, kiện toàn, cũng cố hệ thống các trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng (cơ sở đào tạo, bồi dưỡng) ở địa phương.

Trên đây là một số ý kiến tham luận về kết quả đào tạo, bồi dưỡng giai đoạn 2006-2010 và những quan điểm, giải pháp công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011-2015 mà tôi đang công tác. Trong bài tham luận của tôi vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những lời góp ý của các đồng nghiệp phụ trách lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng.

Cuối cùng, một lần nữa tôi xin kính chúc các quý vị đại biểu sức khỏe, chúc hội thảo thành công tốt đẹp.

 Xin chân thành cảm ơn./.

8

Page 9: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÌNH PHƯỚC

Nguyễn Văn Hậu - Phó Hiệu trưởng

Trường Chính trị tỉnh có chức năng, nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ công chức ở địa phương về lý luận Chính trị - Hành chính, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước. Đồng thời tổ chức nghiên cứu khoa học tổng kết thực tiễn, cập nhật những vấn đề mới bổ sung vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của trường chính trị tỉnh là cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở; trưởng phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng phó phòng của các sở, ban ngành đoàn thể cấp tỉnh, cán bộ dự nguồn của các chức danh trên và đội ngũ cán bộ công chức cơ sở và một số các đối tượng khác theo nhu cầu thực tế.

Trong những năm qua Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã bám sát chức năng, nhiệm vụ, quán triệt nghị quyết của Tỉnh ủy và sự chỉ đạo của UBND tỉnh về nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh; căn cứ hướng dẫn của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh để xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Phối hợp với các ban ngành chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt được kết quả rất khả quan.

Sau 15 năm thành lập, trường đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng được 54 lớp trung cấp Chính trị; trung cấp Hành chính; trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính với tổng số gần 7000 học viên; liên kết đào tạo được 17 lớp đại học và Cao cấp Lý luận Chính trị - Hành chính với gần 2000 học viên; tổ chức bồi dưỡng 57 lớp chuyên viên và một số lớp bồi dưỡng chức năng nghiệp vụ khác theo yêu cầu thực tế của nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn với trên 6000 học viên.

Chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Trường đã tuân thủ nghiêm túc những quy định, hướng dẫn về nội dung, thời gian và đối tượng của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, đồng thời nhà trường cũng đã xây dựng được một bộ quy chế theo thẩm quyền để bảo đảm công tác quản lý và tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ ngày một tốt hơn. ông tác kiểm tra, thi đánh giá chất lượng, công nhận tốt nghiệp được tiến hành nghiêm túc theo đúng quy định của Học viện

Trên cơ sở giáo trình chuẩn của Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, đối với các lớp Trung cấp Lý luận Chính trị- Hành chính, và các lớp bồi dưỡng chuyên viên; nhà trường luôn quan tâm bổ sung những vấn đề mới vào quá trình giảng dạy, nhất là các quan điểm đường lối, nghị quyết của Đảng, những quy định của nhà nước

9

Page 10: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

mới ban hành; cập nhật những kiến thức thực tế; tình hình kinh tế xã hội của địa phương phục vụ quá trình đào tạo, bồi dưỡng của trường.

Phương pháp giảng dạy có những đổi mới đáng kể, đã từng bước tiếp cận với phương pháp giảng dạy mới, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Ban Giám hiệu nhà trường đã rất quan tâm đến chất lượng bài giảng của giảng viên. Thông qua Hội đồng khoa học của nhà trường, công tác thao giảng, dự giờ, đánh giá kết quả giảng dạy của giáo viên được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc nhờ đó đã có những điều chỉnh kịp thời, chính xác bổ sung những vấn đề mới, nâng cao chất lượng bài giảng của giảng viên.

Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng và công nhận tốt nghiệp có nhiều tiến bộ, từng bước chặt chẽ, chính xác, không để xẩy ra những tiêu cực.

Công tác quản lý học viên ngày một tốt hơn. Đã có sự phối hợp giữa nhà trường; cơ quan quản lý cán bộ và đơn vị công tác của học viên trong công tác quản lý theo giõi học viên trong quá trình học tập tại trường.

Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Chính trị vẫn còn những hạn chế, bất cập.

Nội dung trong các chương trình còn nặng về lý luận, kiến thức thực tế và kỹ năng hoạt động còn hạn chế. Việc bổ sung cập nhật những vấn đề mới kể cả về lý luận và thực tiễn có được tiến hành nhưng còn khiêm tốn. Hạn chế này vừa mang tính khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan là nội dung trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị phụ thuộc cơ bản vào giáo trình chuẩn của Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Tuy nhiên theo đánh giá chung, giáo trình của Học viện phát hành vẫn cần điều chỉnh một số nội dung, nhất là trong chương trình trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính. Bên cạnh đó, sự thay đổi nhanh chóng của quá trình phát triển kinh tế xã hội, hiện thực ở cơ sở còn nảy sinh nhiều vấn đề mới cần có sự tổng kết, bổ sung vào lý luận và kiến thức thực tiễn phục vụ cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhưng quá trình này được tiến hành chậm, chưa kịp thời. Trên thực tế để thay đổi nội dung của các chương trình là một quá trình đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức. Về yếu tố chủ quan, là sự chủ động nắm bắt những vấn đề mới sâu sát thực tế của mỗi cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy còn thụ động.

Phương pháp giảng dạy và học tập ở Trường Chính trị về cơ bản vẫn theo phương pháp truyền thống, chú trọng về thuyết giảng một chiều, chưa tạo được sự chủ động nhận thức về phía học viên; vận dụng phương pháp dạy học mới chưa toàn diện.

Số lượng học viên ở một số lớp đào tạo và bồi dưỡng còn đông, ảnh hưởng đến chất lượng chung; sự phối hợp giữa nhà trường, cơ quan quản lý cán bộ, cơ quan sử dụng cán bộ trong quản lý học viên chưa thực sự thường xuyên.

Thái độ học tập của một bộ phận học viên thiếu tích cực, thụ động có những biểu hiện đối phó, chưa có sự tập trung cao cho học tập. Nội dung đào tạo chưa đi sâu được với từng đối tượng khác nhau, còn chung chung.

Từ đánh giá khái quát một số thực trạng trên. Xin đề xuất một số giải pháp sau:

10

Page 11: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng ở Trường Chính trị cần tăng cường cập nhật những quan điểm chủ truơng của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước mới ban hành; những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đã được tổng kết; những kinh nghiệm tốt trong quá trình hoạt động của hệ thống chính trị. Thực hiện tốt mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Đối với nội dung của các lớp bồi dưỡng nên tăng cường hơn nữa về kỹ năng hoạt động, giảm bớt phần lý luận, đặc biệt là tránh trùng lặp kiến thức, cụ thể như trong chương trình bồi dưỡng các lớp chuyên viên.

Về phương pháp giảng dạy, cần đổi mới theo hướng tăng cường tính chủ động của người học, tạo điều kiện để người học tham gia nhiều hơn vào quá trình giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình nhận thức.

Không ngừng nâng cao chất lượng chuẩn bị bài giảng, làm tốt công tác thao giảng, dự giờ đối với giảng viên, nhất là các giảng viên mới. Đổi mới công tác đi thực tế của giảng viên theo hướng khoa học, thiết thực, hiệu quả.

Tăng cường công tác quản lý học viên phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, cơ quan quản lý cán bộ và cơ quan chủ quản của học viên, để quản lý học viên trong quá trình học tập tại Trường Chính trị.

Số lượng học viên của mỗi lớp nên duy trì ở mức 70 - 80 học viên, không nên tổ chức những lớp quá đông (trừ những lớp có tính đặc thù). Nâng cao chất lượng đầu vào của học viên, hạn chế tối thiểu tình trạng học viên không đủ chuẩn tham gia các lớp đào tạo.

Tăng cường các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tạo sự giao lưu lành mạnh giữa học viên với học viên, học viên với giảng viên. Xây dựng môi trường sư phạm tốt xứng đáng là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh.

11

Page 12: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÌNH PHƯỚC

ThS. Nguyễn Văn Quyết - Phó Hiệu trưởng.

Bài tham luận này là nhằm trao đổi kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy lý luận chính trị của Trường, góp phần định hướng cho công tác giảng dạy cho những năm tới bảo đảm cho yêu cầu về chất lượng giảng dạy; đồng thời thông qua bài tham luận, có thể giúp cho đội ngũ giảng viên Trường Chính trị tỉnh Bình Phước nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng của việc đòi hỏi phải đổi mới tích cực về phương pháp giảng dạy trong thời gian tới. Qua đó, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường.

Để thực hiện tốt yêu cầu trên, đòi hỏi đội ngũ làm công tác nghiên cứu và giảng dạy của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước phải có kiến thức, biết vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy (chủ yếu là hai phương pháp: Phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại) và kết hợp giữa các phương pháp một cách hợp lý để đem lại chất lượng trong từng bài giảng.

Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại là một vấn đề đã được đặt ra từ khá lâu đối với ngành Giáo dục- Đào tạo ở nước ta nói chung, với hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy tích cực cho giảng viên thuộc các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Trong bài tham luận “Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Bình Phước”, tôi xin tập trung trao đổi một số nội dung về việc sử dụng và sự kết hợp giữa hai phương pháp giảng dạy: Phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại (phương pháp tích cực), làm rõ mặt tích cực và hạn chế của từng phương pháp giảng dạy; đề xuất một số giải pháp thực hiện phương pháp truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại trong hoạt động giảng dạy của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước.

I. Khái niệm về phương pháp và phương pháp dạy học:1.1. Khái niệm phương pháp:Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện đạt

tới những mục đích nhất định trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

1.2. Khái niệm phương pháp dạy học:Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của giảng viên và của học viên

trong sự phối hợp thống nhất với sự chỉ đạo, điều hành của người giảng viên, nhằm làm cho học viên tự giác, tự lực và tích cực đạt tới mục đích học tập - lĩnh hội được những nội dung tri thức của người giảng viên truyền đạt.

- Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học (2 phương pháp này hoạt động khác nhau về đối tượng nhưng thống nhất với nhau về mục

12

Page 13: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

đích. Trong sự thống nhất này, phương pháp dạy học đóng vai trò chủ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương đối nhưng chịu sự chi phối của phương pháp dạy).

- Phương pháp dạy và phương pháp học đều có 2 chức năng:

+ Phương pháp dạy có 2 chức năng là truyền đạt và chỉ đạo.

+ Phương pháp học có 2 chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.

Trong thực tế để học tốt, xét về mặt phương pháp thì phải có sự thống nhất của dạy với học, đồng thời cũng là sự thống nhất của 2 chức năng riêng của mỗi hoạt động: truyền dạy và chỉ đạo của giảng viên; tiếp thu và tự chỉ đạo của học viên.

II. Nội dung cơ bản của phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại (Phương pháp giảng dạy tích cực)

2.1. Nội dung cơ bản của phương pháp giảng dạy truyền thống - ưu điểm và hạn chế.

- Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp truyền tải trí thức đến người học bằng cách diễn giảng, thuyết trình, trong đó người giảng viên đóng vai trò trung tâm của toàn bộ quá trình đào tạo.

Theo cách hiểu như trên thì phương pháp giảng dạy truyền thống dựa chủ yếu vào phương pháp thuyết trình thông báo - tái hiện. Đây là phương pháp giảng dạy phổ biến và lâu đời nhất.

Qua kinh nghiệm của quá trình giảng dạy, vai trò lời nói của giảng viên trong phương pháp thuyết trình có sức mạnh vô cùng to lớn, nó là công cụ để diễn đạt nội dung các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Lời nói cũng là nhân tố mạnh mẽ và hiệu quả nhất trong giáo dục tư tưởng, tình cảm…nó có thể khiến người học biết yêu, biết ghét, có thể tạo thành ý chí, niềm tin, tư tưởng cho người học.

- Những giá trị của phương pháp giảng dạy truyền thống: Phương pháp này cho phép giảng viên truyền đạt và xử lý một cách có hệ thống, nhất quán, chính xác ngay từ đầu những nội dung tương đối khó, phức tạp - giảng viên dùng ngôn ngữ để diễn đạt một vấn đề khoa học sao cho chính xác, rõ ràng và súc tích, qua đó giúp học viên nắm bắt tri thức, phát triển trí tuệ. Về mặt tư tưởng và tình cảm, qua sự tiếp xúc trực tiếp và sức truyền cảm mạnh của ngôn ngữ cùng với toàn bộ nhân cách của giảng viên sẽ giúp người học hình thành những tư tưởng và tình cảm cao đẹp, lành mạnh, những niềm tin và hoài bão trong cuộc sống và công tác, phương pháp thuyết trình có thể được sử dụng trong nhiều điều kiện khác nhau, nó không cần phải có nhiều công cụ hỗ trợ phức tạp đắt tiền.

- Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy truyền thống có những mặt hạn chế

Phương pháp giảng dạy truyền thống chỉ đòi hỏi ở học viên một quá trình nhận thức có tính thụ động, ép buộc, nên học viên thiếu tính chủ động, sáng tạo trong học tập, dễ tạo cảm giác nhàm chán, ức chế, mệt mỏi đối với học viên. Phương pháp truyền thống thường thì chỉ tạo cho học viên đạt tới trình độ tái hiện của sự lĩnh hội tri thức, ít

13

Page 14: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

giúp cho sự phát triển tư duy, sáng tạo, tính tự lực và kỹ năng thực hành những nội dung tri thức được tiếp nhận.

2.2. Nội dung, giá trị và hạn chế của phương pháp giảng dạy hiện đại (tích cực).

Phương pháp giảng dạy hiện đại là phương pháp định hướng tri thức cho người học bằng nhiều cách thức làm việc đa dạng và phong phú. Trong đó người học trở thành trung tâm của quá trình đào tạo. Có những phương pháp giảng dạy hiện đại được sử dụng trong giảng dạy những môn khoa học khác nhau. Tôi xin nêu một số phương pháp phù hợp nhất trong giảng dạy các bộ môn lý luận chính trị như: Phương pháp hỏi - đáp; phương pháp làm việc theo nhóm; phương pháp tình huống; phương pháp phỏng vấn chuyên gia; phương pháp đặt và giải quyết vấn đề; phương pháp lấy ý kiến ghi trên bảng; phương pháp trực quan…

Các phương pháp giảng dạy nêu trên có những đặc trưng chung giống nhau:

- Giảng dạy thông qua các hoạt động của học viên;

- Chú trọng việc rèn luyện phương pháp tự học;

- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác;

- Kết hợp đánh giá của giảng viên với sự tự đánh giá của học viên.

Như vậy, các phương pháp giảng dạy nêu trên có liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Do đó, giảng viên có thể vận dụng đồng thời các phương pháp đó trong quá trình giảng dạy.

2.2.1. Ý nghĩa và tác dụng của phương pháp giảng dạy hiện đại.- Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, giảng viên đóng vai trò là

người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập nên rút ngắn được thời gian giảng bài, giảng viên có nhiều thời gian đầu tư cho nghiên cứu khoa học, nghiên cứu các vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, mở rộng kiến thức phục vụ cho việc giảng dạy.

- Với phương pháp giảng dạy này, học viên sẽ chủ động, sáng tạo hơn trong tiếp thu và xử lý các tri thức. Học viên vừa nắm được kiến thức, vừa nắm được phương pháp nắm bắt kiến thức đó để tự rèn luyện và phát triển cách tư duy và hành động độc lập, sáng tạo.

- Trong phương pháp giảng dạy này thì mọi người cùng tham gia, cùng chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trên tinh thần phân công và hợp tác chặt chẽ. Làm việc với phương pháp này còn có ý nghĩa là sự chuẩn bị năng lực thích ứng với công việc, với đời sống xã hội (Phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề…)

Có thể nói, phương pháp giảng dạy hiện đại là cơ sở để phát huy tinh thần tự học và từng bước thực hiện chủ trương biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo.

14

Page 15: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

2.2.2. Một số hạn chế của phương pháp giảng dạy hiện đại.Phương pháp giảng dạy hiện đại đòi hỏi nhiều kỹ năng, nhiều thao tác trong

giảng dạy, dễ dẫn đến sự ngắt quảng thiếu liên tục trong trao đổi thông tin. Điều này, gây khó khăn không nhỏ trong việc thay đổi phương pháp của giảng viên.

Thực hiện đúng các yêu cầu của phương pháp giảng dạy tích cực, đòi hỏi phải có trang thiết bị, phòng học đúng quy cách và khá tốn kém.

Tâm lý học viên thường có thói quen ỷ lại vào giảng viên; thiếu tính chủ động và ngại phát biểu ý kiến, ngại tranh luận. Đối với các lớp chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính, Trung cấp Hành chính thì đối tượng học viên đa số là cán bộ chủ chốt ở cơ sở cho nên việc thực hiện một số phương pháp giảng dạy tích cực sẽ gặp khó khăn cho cả hai phía giảng viên lẫn học viên…

Thông tin trao đổi mang tính nhỏ, lẻ, cụ thể, thiếu tính hệ thống ngay từ đầu, người học có thể tiếp thu dễ dàng nhưng gặp khó khăn trong liên kết thông tin, tính hệ thống của vấn đề.

Phương pháp giảng dạy này giảm lượng thời gian giảng bài của giảng viên, nhưng nếu không tổ chức, điều khiển tốt sẽ rất mất thời gian cho các thao tác phụ như chia nhóm, gợi ý, chờ ý kiến phát biểu của học viên…Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng bài giảng.

* Cần chú ý những phương tiện được sử dụng trong phương pháp giảng dạy hiện đại:

Những phương pháp này bao gồm: Giấy khổ lớn, máy vi tính xách tay, máy chiếu hắt, máy 3M, màn chiếu, máy projector, các thiết bị khác,…mỗi loại có những ưu điểm và hạn chế riêng, nhưng nhìn chung khi sử dụng cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau đây:

- Nội dung bài giảng được cấu trúc rõ ràng, tập trung vào những thông tin cốt lõi, hạn chế hiểu sai chủ đề.

- Có thể sắp xếp lại bài giảng một cách dễ dàng và xem toàn bài trên màn hình, có cả âm thanh, màu sắc, hình ảnh sống động, thu hút được sự chú ý của học viên, có khả năng thực hành một kỹ năng cho đến khi học viên nắm vững vấn đề.

Hỗ trợ cho buổi học trên lớp làm sáng tỏ những điều cần trình bày của giảng viên và trực quan hóa nội dung giảng dạy, giúp học viên tiếp thu dễ dàng và tham gia học tập một cách chủ động, tích cực.

Tuy nhiên, khi sử dụng các phương tiện trên, giảng viên cần chú ý:

- Phải có nguồn điện ổn định, cũng như nguồn dự trữ bóng và cầu chì.

- Máy tính, máy chiếu projector rất đắt tiền, cho nên cần được bảo quản, bảo dưỡng tốt.

- Khi sử dụng các phương tiện nêu trên, giảng viên phải cơ cấu nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa, số liệu chứng minh cho phù hợp. Không được lạm dụng

15

Page 16: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

hình ảnh, âm thanh quá nhiều khi không thực sự cần thiết vì chính nó sẽ làm cho học viên không chú ý vào nội dung chính của bài giảng.

III. Một số giải pháp có tính tham khảo để giảng viên nghiên cứu trong quá trình giảng dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng ở trường Chính trị tỉnh Bình Phước.

Trước hết, tôi xin khái lược về đặc điểm học viên của Trường Chính trị và kết quả bước đầu của việc áp dụng phương pháp giảng dạy mới của giảng viên trường ta.

* Đối tượng học viên của Trường không đồng đều về lứa tuổi, trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác.

Học viên của Trường không thuần nhất cả về lứa tuổi, tâm lý, nghề nghiệp, trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác, khả năng nhận thức. Đa số họ chưa quen nhiều với cách học tập độc lập, ngại đọc sách. Các đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu bài giảng, đến sự cộng tác giữa học viên và giảng viên trong quá trình thực hành phương pháp giảng dạy hiện đại.

Học viên thường là cán bộ chủ chốt ở cơ sở, là những người lớn tuổi có gia đình, vừa học vừa làm, hoặc là cán bộ trẻ hiểu biết về thực tiễn còn hạn chế. Tâm lý ngại phát biểu, tranh luận trước đám đông của hầu hết học viên là trở ngại lớn khi áp dụng giảng dạy bằng phương pháp, phương tiện hiện đại, đó là nguy cơ có thể xuất hiện sự bất hợp tác trong quá trình giảng dạy và học tập. Các lớp đào tạo ở tuyến huyện sẽ gặp khó khăn hơn về phương tiện hiện đại hỗ trợ.

* Kết quả việc áp dụng phương pháp giảng dạy mới của giảng viên:

Hiện nay, giảng viên của Trường đã từng bước đưa phương pháp giảng dạy hiện đại vào bài giảng của mình theo hướng kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với phương pháp giảng dạy hiện đại.

Nhìn chung, trong một bài giảng của giảng viên đã có sự vận dụng một số phương pháp và đã tránh được lỗi thuyết trình theo dạng độc thoại hay “thầy nói trò nghe, thầy đọc trò ghi” như trước đây. Chính sự đổi mới phương pháp này đã và đang góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong những năm gần đây.

3.1. Tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của toàn thể giảng viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng kết hợp phương pháp truyền thống với phương pháp hiện đại.

Để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn thể giảng viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, theo tôi thì cần thực hiện một số việc sau đây:

Thứ nhất, cần tiến hành rà soát, kiểm tra lại để biết rõ số giảng viên chưa học tập về phương pháp giảng dạy hiện đại, chưa có chứng chỉ về phương pháp giảng dạy. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch đưa các giảng viên này dự các lớp học, lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,

16

Page 17: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

hoặc các cơ sở đào tạo khác; đồng thời có kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên cho tất cả giảng viên nhằm từng bước chuẩn hóa và nâng cao trình độ về phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên. Cho đến nay, đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã có 21/22 giảng viên đã được tập huấn bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy tích cực tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác.

Thứ hai, thường xuyên phát động phong trào thi đua, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu và thi giảng về phương pháp giảng dạy trong giảng viên. Có thể coi hoạt động thi giảng về phương pháp như thi giảng viên giỏi, được tổ chức chặt chẽ, có đánh giá khen thưởng và như một nội dung thi đua hàng năm.

Thứ ba, các khoa trong Trường và bản thân mỗi giảng viên có kế hoạch thường xuyên nghiên cứu tiếp cận, nắm bắt và vận dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại.

Bản thân mỗi giảng viên cần cố gắng nhiều hơn, quyết tâm hơn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Coi việc đổi mới phương pháp giảng dạy chính là xây dựng và xác định uy tín, vị trí của người giảng viên. Từ đó mà có kế hoạch thường xuyên nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng dạy, dự giờ học hỏi kinh nghiệm, tham gia tốt các cuộc thi tìm hiểu về giảng dạy, về phương pháp.

Thứ tư, cần tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm chuyên đề về phương pháp giảng dạy. Việc tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, không thể chỉ dựa vào các hoạt động chính thức, hoặc dựa hẳn vào sự quyết định chính thức của Ban Giám hiệu vì nó sẽ gây ra khó khăn về cả mặt kinh phí và thời gian hành chính của Trường. Vì vậy, Ban Giám hiệu có thể cho chủ trương, tạo điều kiện để phòng Khoa học - Thông tin - Tư liệu đứng ra thành lập câu lạc bộ giảng viên; động viên, khuyến khích giảng viên gia nhập câu lạc bộ theo cách thức tự nguyện. Tại câu lạc bộ, mọi giảng viên có thể trao đổi tất cả những vấn đề thuộc về chuyên môn và chính kiến, kinh nghiệm của mình trong công tác giảng dạy, qua đó đại diện câu lạc bộ có thể đề đạt ý kiến với HĐKH Trường về những vấn đề chuyên môn để được giải đáp và học tập thêm.

3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, thường xuyên sơ, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy.

Ban Giám hiệu thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá chất lượng bài giảng của các khoa và giảng viên thông qua việc thành lập tổ chức dự giờ trên lớp (Trong năm học vừa rồi, trường ta đã làm việc này), quy định chế độ trách nhiệm báo cáo của các phòng, khoa về hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy (có thể quy định định kỳ phải báo cáo). Các Phó Hiệu trưởng trực tiếp theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện và báo cáo với Hiệu trưởng.

Lãnh đạo các khoa, phòng coi việc dự giờ, theo dõi, đốc thúc, quản lý hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên là việc làm thường xuyên và có trách nhiệm báo cáo với Ban Giám hiệu về tiến độ và kết quả tổ chức thực hiện. Thực hiện kiểm tra hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên cần phải bắt đầu ngay từ khâu nghiên cứu chuẩn bị tài liệu, soạn bài, thực hành giảng bài trên lớp. Thực hiện kiểm tra bằng hình thức kiểm tra giáo án, kiểm tra chéo giáo án của giảng viên

17

Page 18: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

trong khoa, dự giờ trên lớp qua hoạt động của tổ dự giờ hoặc cá nhân, kiểm tra thông qua báo cáo của giảng viên trong việc thực hiện kế hoạch đổi mới phương pháp giảng dạy mà khoa đã phân công.

Hoạt động sơ, tổng kết việc đổi mới phương pháp giảng dạy phải thực hiện từ các phòng, khoa, nhất là phòng đào tạo và các khoa. Các khoa thực hiện sơ kết qua cuộc họp sinh hoạt chuyên môn theo từng tháng và quý để làm cơ sở cho việc tổng kết hoạt động đổi mới phương pháp ở cấp Trường.

Ban Giám hiệu Trường xây dựng kế hoạch tổng kết hoạt động đổi mới phương pháp, trong đó không chỉ yêu cầu về sự tổng kết của các khoa mà còn chú trọng các bài tham luận của giảng viên về cách thức, nội dung và những kinh nghiệm thực hiện kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với phương pháp giảng dạy hiện đại. Qua tổng kết, phải có kết luận của Hiệu trưởng hay Chủ tịch Hội đồng khoa học về những kinh nghiệm có giá trị và được phổ biến đến toàn thể giảng viên để tiếp tục triển khai áp dụng.

3.3. Nâng cao tinh thần, trách nhiệm học tập và hướng dẫn các phương pháp học tập cho phù hợp với yêu cầu của phương pháp giảng dạy mới cho học viên.

Thực hiện giải pháp này qua những công việc cụ thể sau:

Một là, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh về phương pháp giảng dạy và học tập.

Đối với giảng viên, cần xác định đúng đối tượng học viên, nội dung cần truyền đạt và phương pháp phù hợp; phổ biến thấu đáo về phương pháp giảng dạy và học tập, nghiên cứu trong từng môn, phần học cho học viên.

Đối với học viên, cần có sự tiếp cận, nắm bắt về phương pháp giảng dạy và học tập, nghiên cứu trong từng môn học, phần học một cách nghiêm túc như sự tìm tòi tri thức khoa học; nắm bắt đối tượng của môn học từ đó tìm ra phương pháp học tập, nghiên cứu phù hợp của mình.

Hai là, quản lý giờ học và nghiên cứu của học viên. Quản lý giờ học tập và nghiên cứu của học viên là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao trách nhiệm, ý thức tự giác trong học tập, nghiên cứu của học viên.

Để nâng cao trách nhiệm, ý thức tự giác trong học tập, nghiên cứu của học viên, cần phải quản lý hiệu quả của giờ học tập, nghiên cứu. Cách quản lý này hết sức cần thiết, giúp giảng viên nắm bắt những yếu tố thuộc phẩm chất và năng lực cá nhân của học viên, đánh giá được hiệu quả hoạt động dạy và học, để hướng đến việc điều chỉnh và cải tiến về mặt phương pháp. Đồng thời cách quản lý này cũng nhằm phát huy tính chủ động, độc lập, sáng tạo và tự giác, phát huy vai trò trung tâm của học viên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống và hiện đại trong quá trình dạy học.

Ba là, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của học viên qua các công việc, cụ thể như sau:

18

Page 19: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

- Xác định mục đích và động cơ học tập đúng đắn. Mục đích và động cơ học tập là một trong những nhân tố cơ bản tạo sự hưng phấn, say mê và tự giác có tác dụng thúc đẩy hoạt động học tập đạt kết quả cao. Việc xác định mục đích, động cơ học tập thực chất là hiểu biết và nắm chắc vai trò, tác dụng của việc học tập và về mặt lợi ích của người học.

- Mục đích học tập là dự kiến về kết quả của hoạt động học tập sẽ đạt được trong tương lai; còn động cơ học tập là ý chí quyết tâm hành động để đạt đến kết quả đó.

- Tự giác, chủ động, sáng tạo và độc lập trong hoạt động học tập, nghiên cứu. Tự học, tự nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc học, tiếp thu kiến thức, mà phải hướng đến giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức của bản thân người học, tức giải quyết mâu thuẫn giữa cái biết và cái chưa biết, biểu hiện cụ thể trong từng nội dung kiến thức mà người học tiếp thu.

- Xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập phù hợp với phương pháp giảng dạy mới, qua các bước như:

+ Thực hiện tốt việc chuẩn bị trước khi nghe giảng: Đọc giáo trình; chuẩn bị trả lời các câu hỏi nhanh hay bài giảng trước.

+ Hoạt động tích cực trong giờ giảng: Tích cực trao đổi, thảo luận trong tổ, lớp và với giảng viên.

+ Ôn tập và củng cố kiến thức có hiệu quả: Đây là khâu quan trọng nhất trong quy trình học tập.

3.4. Tiếp tục trang bị và nâng cao hiệu quả sử dụng các trang thiết bị, tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập.

Trong phạm vi bài tham luận này, tôi đề cập một số công việc sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ hiểu biết và sử dụng các trang thiết bị, tài liệu phục vụ cho phương pháp giảng dạy mới. Điều này cần thiết đối với chủ thể trang bị và chủ thể sử dụng.

Thứ hai, trang bị các phương tiện giảng dạy điện tử và các phương tiện khác, cần hiểu rõ những ưu điểm cũng như hạn chế của nó để tìm các phương tiện hiệu quả nhất và cũng là để chủ động hơn trong việc lắp đặt, bảo trì, sữa chữa và thay thế nó.

Thứ ba, có kế hoạch từng bước hình thành thư viện điện tử, lập kho tư liệu phim, ảnh về các lĩnh vực có liên quan đến nội dung giảng dạy của nhà trường; làm phong phú thêm các loại tài liệu, sách, báo, bảo đảm có thể tra cứu dễ dàng, phục vụ tốt hơn cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập của giảng viên và học viên.

Thứ tư, để nâng cao hiệu quả sử dụng các trang thiết bị giảng dạy, giảng viên phải có kế hoạch sử dụng các phương tiện cho mỗi buổi giảng trên các nguyên tắc như:

- Trên cơ sở điều kiện hoàn cảnh thực tế; nội dung bài giảng, đối tượng học viên mà đề ra yêu cầu về phương tiện.

19

Page 20: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

- Phân tích đặc điểm đối tượng học viên trong từng khóa học như trình độ, nghề nghiệp, tuổi đời…và căn cứ vào nội dung định trình bày mà chuẩn bị yêu cầu về phương tiện cho phù hợp.

- Nội dung bài giảng có nhiều phần, mỗi phần sử dụng phương pháp nào và phương tiện gì, kèm theo phương án dự phòng phương tiện.

Như vậy, để đạt được phương pháp giảng dạy tốt nhất chỉ có thể thực hiện bằng sự thống nhất biện chứng của phương pháp dạy với phương pháp học, mà điều đó được thể hiện rõ trong sự kết hợp giữa phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại, tức là sự thống nhất biện chứng giữa vai trò truyền dạy tri thức, tổ chức, hướng dẫn việc học tập cho học viên của người giảng viên với vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo, tự giác học tập của học viên. Đây cũng chính là nội dung cốt lõi mà bài tham luận này mong muốn đạt được. Nếu được cụ thể hóa hơn và tổ chức thực hiện tốt có thể góp phần thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường.

20

Page 21: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ ĐẦU TƯ TRANG THIẾT BỊ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA CÔNG TÁC GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

Viên Thị Hoa - TP. TC - HC - QT

Cán bộ là nhân tố hàng đầu có ý nghĩa quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị, cán bộ luôn đóng vai trò quan trọng và là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”; “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”. Đặc biệt là việc giáo dục lý luận cho cán bộ, nhất là đối với cán bộ chủ chốt.

Vấn đề quan tâm hiện nay của Trường Chính trị đó là cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, vì vậy việc xây dựng trường lớp, tăng cường trang thiết bị sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và hoạt động của cán bộ, giảng viên nhà trường cũng sẽ được hiện đại hoá. Từ yêu cầu thiết thực nhằm đáp ứng việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng theo kịp với các trường bạn trong khu vực về cơ sở vật chất và trang thiết bị, phục vụ tốt nhất cho công tác đào tạo, bồi dưỡng của trường trong giai đoạn hiện nay.

Trong thời gian vừa qua nhà trường tiến hành lập dự án nâng cấp sửa chữa và xây dựng mới cơ sở hạ tầng gồm: khu làm việc, phòng học, khu kí túc xá và phòng khách, do nhu cầu đầu tư một lúc nhiều hạng mục, kinh phí đầu tư cao do đó nguồn đầu tư chỉ đáp ứng được nhu cầu sửa chữa mỗi năm một phần dành cho từng hạng mục, kinh phí cấp cho công tác sửa chữa sẽ tiến hành vào năm 2013. Việc đầu tư xây dựng thêm phòng học, phòng khách và chỗ ở cho học viên rất cần nhưng vẫn chưa được tiến hành vì đang trong thời gian thực hiện Chỉ thị 11 của Chính phủ về tiết kiệm chi tiêu và giảm đầu tư công.

I. Thực trạng cơ sở vật chất:1. Về phòng học: hiện nay nhà trường có 6 phòng học, trong đó 4 phòng 80 chỗ

ngồi và 2 phòng trên 100 chỗ ngồi, hàng ngày nhà trường có từ 6 đến 7 lớp học, có tuần đến 8 lớp học, mỗi lớp có từ 90 học viên trở lên, vì vậy việc lớp không có phòng để học, phòng học không đủ chỗ ngồi cho học viên là chuyện thường ngày của nhà trường, các lớp học phải chấp nhận ngồi chèn thêm người nếu không thì chỉ còn cách nghỉ học nếu đến lớp trễ hơn những học viên đến trước mình, những lớp không có phòng học nếu mượn được phòng học thì thực hiện theo lịch học nếu không thì dời lớp sang những tuần ít lớp học hơn. Hàng ngày, trường đều sử dụng hội trường 300 chỗ làm phòng học cho lớp 150 học viên, tuy giải quyết được phòng học, chỗ học cho 1 lớp nhưng không phù hợp trong quá trình giảng dạy hàng ngày đối với giảng viên do phòng quá rộng.

21

Page 22: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

2. Về kí túc xá (KTX): hiện nay trường có 50 phòng ở cho học viên, xây dựng cấp 4, đưa vào sử dụng từ năm 2002 nên đã xuống cấp cả hệ thống điện, nước, khu vệ sinh, la phông và mái lợp, có một số phòng không còn sử dụng vì dột, la phông sập, nhà vệ sinh xuống cấp, số phòng còn lại nhà trường tiến hành sửa chữa thường xuyên để duy trì chỗ ở cho học viên cũng như giảng viên về giảng tại trường nhưng cũng chỉ là giải pháp tình thế trước mắt .

3. Về phương tiện phục vụ cho công tác của nhà trường:* Xe ô tô: Nhà trường có 03 xe ô tô, 2 xe 4 chỗ ngồi đều là xe cũ của cơ quan

khác đưa về trường, 1 xe 16 chỗ được mua từ năm 2002 hiện các xe đã quá cũ, trong quá trình sử dụng phục vụ công tác của lãnh đạo trường và đưa đón giảng viên không đảm bảo, thường hay bị hư hỏng dọc đường .

* Máy móc trang thiêt bị: là những phương tiện cần thiết sử dụng phục vụ các phòng học và các phòng làm việc. Máy chiếu được trang bị cho các phòng học sử dụng mỗi ngày, đến nay bóng đèn chiếu của các máy đều bị mờ, không được trang bị mới, nhưng nếu thay bóng đèn chiếu thì giá tương đương máy mới, kinh phí khoán của nhà trường không thể đáp ứng kịp.

Hệ thống mạng và các máy vi tính phục vụ cho công tác chuyên môn của các phòng, khoa do không được nâng cấp và trang bị thay thế các máy cũ nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác chuyên môn hàng ngày của nhà trường.

Năm 2012 được sự chấp thuận của UBND tỉnh cho Trường tiến hành sửa chữa nâng cấp hệ thống phòng học, kí túc xá và khu làm việc tuy nhiên đây mới chỉ là bước khắc phục những chỗ hư hỏng xuống cấp, còn việc xây dựng thêm phòng học, kí túc xá và phòng khách để đáp ứng nhu cầu dạy và học đồng thời để Trường Chính trị xứng tầm với một trường đào tạo cán bộ, công chức cho tỉnh trong những năm tới cần có sự đầu tư xứng đáng và kịp thời.

II. Nhu cầu về đầu tư cơ sở vật chất và phương tiện :Khó khăn về cơ sở vật chất của trường là do ngay từ ban đầu công tác quy

hoạch tổng thể của nhà trường không phù hợp, phòng học chỉ đáp ứng đủ chỗ ngồi cho các lớp có từ 80 học viên trở lại, đặc biệt các phòng học không có nhà vệ sinh. Đặc biệt là trong dự án xây dựng trường không có xây dựng phòng khách để bố trí nơi nghỉ cho giảng viên nên trong suốt những năm qua giảng viên các Học viện về giảng tại trường đều phải ở tại kí túc xá. Quá trình đưa vào sử dụng cho thấy cơ cấu phòng học tính theo cơ cấu chung của hệ thống giáo dục, vì vậy không phù hợp với các loại hình đào tạo tại chức của Trường Chính trị. Phương tiện phục vụ cho nhu cầu công việc và nhu cầu giảng dạy cần được bổ sung, nâng cấp để đáp ứng với nhu cầu của thời điểm hiện tại.

Để phục vụ tốt công tác đào tạo cán bộ, công chức của tỉnh trong những năm tới cần có sự đầu tư xây dựng thêm phòng học, kí túc xá, phòng khách đồng thời thay thế nâng cấp các trang thiết bị và phương tiện phục vụ đáp ứng nhu cầu của công tác đào tạo bồi dưỡng trong những năm tới như sau:

22

Page 23: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

1. Về phòng học: Với số lượng lớp mở hàng năm đều tăng theo nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức trong tỉnh, vì vậy số phòng học của trường ít nhất phải có từ 8 phòng học, cơ cấu từ 120 chỗ ngồi trở lên phải có từ 4 phòng thì mới đủ để bố trí nơi học cho các lớp, để có số phòng học đáp ứng nhu cầu phục vụ các lớp thì nhà trường cần kinh phí đầu tư xây dựng thêm ít nhất từ 4 phòng học 120 đến 150 chỗ ngồi để cho các lớp hiện tại có phòng học và đủ chỗ ngồi cho học viên của lớp.

2. Về kí túc xá: Đã hư hỏng và xuống cấp tuy nhà trường vẫn phải thường xuyên tu sửa khắc phục để sử dụng, hiện nay đã có chủ trương cho phép sửa chữa để tiếp tục sử dụng nhưng cũng chỉ trong một thời gian nhất định, nên việc xây dựng thêm phòng ở cũng phải được tiến hành với số lượng lớp như hiện nay thì phải có thêm ít nhất 70 đến 100 chỗ ở .

3. Về phòng khách: Vì Nhà trường hàng tuần đều có giảng viên của các Học viện và các trường đại học ở thành phố về giảng bài các lớp cao cấp lý luận chính trị và các lớp đại học chuyên ngành, vì vậy nhu cầu hiện tại phải có từ 5 phòng khách mỗi phòng 2 chỗ ở thì mới đápp ứng đủ chỗ nghỉ qua đêm cho giảng viên (hiện nay nhà trường phải bố trí phòng ở KTX của học viên cho giảng viên ở, gây rất nhiều bất tiện trong sinh hoạt hàng ngày cho giảng viên nhất là đối với giảng viên nữ).

4. Trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho nhu cầu hoạt động của nhà trường:

* Máy chiếu: Để phục vụ tốt cho công tác dạy và học của các lớp, nhu cầu về máy chiếu trang bị cho mỗi lớp học là phương tiện phục vụ cho việc giảng của giảng viên và việc học của học viên tại lớp vì vậy để có số máy chiếu đủ đáp ứng cho các lớp học và có độ sáng rõ đảm bảo khi sử dụng ở các lớp, học viên nhìn thấy được hình ảnh và chữ trong quá trình nghe giảng, những máy chiếu đã mờ bóng chiếu cần được thay máy mới đây là nhu cầu thiết thực phục vụ cho hàng trăm cán bộ ngồi trong lớp học mỗi ngày .

* Máy vi tính: Hiện nay mỗi cán bộ, giảng viên đều có nhu cầu về máy tính để làm việc và giảng dạy, vì vậy máy phải đảm bảo thì công việc mới trôi chảy, kịp tiến độ công việc, các máy quá cũ cần được thay thế, song song đó trang bị thêm cho mỗi phòng, khoa thêm ít nhất 1 dàn máy vi tính mới để cán bộ, giảng viên có máy chủ động trong công việc hàng ngày.

* Về phương tiện: Xe ô tô là phương tiện rất cần phục vụ nhu cầu công tác của Ban Giám hiệu, đồng thời hàng ngày đưa đón giảng viên từ thành phố Hồ Chí Minh về Bình Phước nên nếu cứ sử dụng xe cũ không đảm bảo mỗi khi lưu thông trên đường và ảnh hưởng rất lớn đến sự an toàn của người ngồi trên xe, vì vậy hiện nhà trường cần được trang bị thêm 2 xe ô tô để thay thế xe cũ, trước mắt trong năm 2012 rất cần được trang bị 1 xe 4 chỗ ngồi để phục vụ cho nhu cầu công tác của lãnh đạo nhà trường, hiện nay dù các xe thường xuyên được sửa chữa, đại tu nhưng xe cũ vẫn không đảm bảo, vì xe của trường không chỉ phục vụ cho công tác của Ban Giám hiệu mà hàng ngày đều phải đưa đón giảng viên do đó xe phải hoạt động rất nhiều so với các đơn vị trong tỉnh. Đồng thời khi nhà trường điều xe đi đưa, đón giảng viên cũng thể hiện rất rõ

23

Page 24: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

sự quan tâm của tỉnh với công tác đào tạo nguồn nhân lực, nguồn cán bộ cho tỉnh trong tương lai.

5. Thư viện: Hiện trường đang tận dụng phòng làm việc của phòng Nghiên cứu Khoa học - Thông tin - Tư liệu, trang bị một số đầu sách thuộc các bộ giáo trình của chương trình Trung cấp, Cao cấp Chính trị - Hành chính và bồi dưỡng chương trình Chuyên viên cũng như một số thông tin, báo chí hàng ngày, hàng tuần cho phòng thư viện. Để cán bộ, giảng viên và học viên được trau dồi thêm kiến thức ngoài kiến thức được truyền đạt tại lớp thì nhu cầu xây dựng một thư viện có phòng đọc và được trang bị đầy đủ tài liệu tham khảo là một nhu cầu thiết yếu trong giai đoạn hiện nay .

III. Giải pháp :Để đáp ứng nhu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường tạo thuận

lợi cho việc dạy và việc học của các lớp, Trường luôn xác định đi đôi với việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng thì nhu cầu về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho công tác này là cơ sở quyết định hàng đầu vì vậy cần tập trung;

1. Tiếp tục tăng cường về cơ sở vật chất, xây dựng thêm 4 phòng học lầu từ 120 đến 150 chỗ ngồi, trang bị máy chiếu, bàn học, bảng và các trang bị khác đủ đáp ứng cho nhu cầu của phòng học, đồng thời xây dựng phòng ở cho giảng viên, trang bị đầy đủ các trang thiết bị hiện đại như máy điều hoà, máy mước nóng, giường nệm, tủ đồ, bàn uống nước, bàn làm việc để giảng viên soạn giáo án …, xây dựng kí túc xá 70 đến 100 chỗ ở đáp ứng nhu cầu về chỗ ở cho học viên và để thay thế dần kí túc xá đã xuống cấp, trang bị thêm máy tính phục vụ cho nhu cầu làm việc của cán bộ giảng viên, trang bị thêm 1 xe ô tô loại 4 chỗ ngồi phục vụ cho nhu cầu công tác của Ban Giám hiệu và đưa đón giảng viên hàng ngày. Phấn đấu trong 2 năm tới nhà trường đủ số phòng học, phòng học đủ chỗ ngồi đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng mà Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và Hội đồng đào tạo tỉnh giao cho nhà trường.

2. Thư viện là nhu cầu thiết yếu đối với một trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh, là nơi trang bị thêm kiến thức cho cán bộ, giảng viên và học viên trong nhà trường, vì vậy đầu tư xây dựng một thư viện có phòng đọc và có đủ tài liệu tham khảo là đầu tư bổ sung mở rộng thêm kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức trong tỉnh.

3. Nhà trường sẽ tiếp tục duy trì và thực hiện thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao, coi công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường là nền móng là cái gốc tạo nguồn nhân lực chủ chốt cho tỉnh nhà, xây dựng mô hình trường lớp khang trang sạch sẽ, giảng viên đảm bảo đủ chuẩn về kiến thức chuyên môn của môn được phân công giảng dạy và có kiến thức, kinh nghiệm thực tế, có khả năng sư phạm, là những thầy, cô gương mẫu, nghiêm túc, học viên chuyên cần, tự giác. Duy trì thực hiện nghiêm túc quy chế giảng viên, quy chế học viên và quy chế hoạt động của nhà Trường.

IV. Kiến nghị đề xuất: Để khắc phục những thiếu thốn về cơ sở vật chất của nhà trường, đồng thời xây

dựng mô hình Trường Chính trị xứng đáng là một cơ sở đào tạo của tỉnh, từng bước

24

Page 25: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

tương xứng với các Trường Chính trị lân cận trong những năm tới, xin đề xuất một số kiến nghị sau:

1. Tỉnh uỷ, UBND cần có một cơ chế linh hoạt hơn ưu tiên cho Trường Chính trị trong việc đầu tư xây dựng bổ sung thêm phòng học, kí túc xá và phòng khách để đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng hiện nay của tỉnh nhà .

2 Xin đề nghị Tỉnh uỷ, UBND tỉnh cho phép trường đươc đầu tư xây dựng thư viện nhà trường có 50 chỗ ngồi đọc và đủ đầu sách tham khảo các chương trình trung cấp, cao cấp chính trị - hành chính cũng như các loại sách chuyên ngành: đại học hành chính, đại học chuyên ngành quản lý văn hoá, đại học chuyên ngành luật, đại hoc chuyên ngành báo chí, xây dựng Đảng … để học viên cũng như cán bộ giảng viên có nhu cầu tham khảo, vào thư viện trường được phục vụ đầy đủ. Về lâu dài nâng cấp trang thiết bị để nhà trường có một thư viện điện tử phục vụ cho nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng và nhu cầu tra cứu kiến thức của học viên.

3. Phương tiện làm việc, phương tiện phục vụ cho nhu cầu học của các lớp và phương tiện đi lại phục vụ công tác của Ban Giám hiệu là những phương tiện thiết yếu phục vụ cho nhu cầu công việc hàng ngày ; đề nghị Tỉnh uỷ, UBND tỉnh cho chủ trương để Trường Chính trị hàng năm được phép trang bị thay thế dần các máy móc cũ, đồng thời trang bị cho trường 1 xe ô tô 4 chỗ ngồi mới trong năm 2012 để nhà trường có xe phục vụ nhu cầu công tác của Ban Giám hiệu.

Trường Chính trị tỉnh mong muốn được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh trong quá trình sửa chữa nâng cấp và xây dựng bổ sung thêm cơ sở vật chất cho trường trong những năm tới để nhà trường có đủ cơ sở thiết yếu phục vụ trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời từng bước hoàn thiện trường, lớp và trang thiết bị nhà trường theo mô hình hiện đại và khang trang hơn .

Rất hy vọng trong thời gian tới Trường Chính trị tỉnh Bình Phước sẽ trở thành một trường khang trang trong khu vực, phục vụ tốt nhất cho cán bộ trong thời gian được cử đi học tại Trường Chính trị của tỉnh nhà.

25

Page 26: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

TĂNG CƯỜNG SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN THAM MƯU TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

Đỗ Tất ThànhPhó Trưởng khoa Xây dựng Đảng

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Quán triệt các Nghị quyết của Đảng và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận thức được tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, ngay từ khi tái lập tỉnh, Đảng bộ tỉnh Bình Phước đã giành nhiều sự quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Phước lần thứ VI nêu rõ “Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện cán bộ Tỉnh, huyện theo quy hoạch”(1), Đại hội VII khẳng định “nâng cao trình độ cán bộ các cấp về chuyên môn, lý luận chính trị, năng lực quản lý Nhà nước và công tác vận động quần chúng… đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng” (2) và được Đại hội VIII, IX đưa vào một trong những chương trình đột phá của tỉnh “chương trình đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực”(3). Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tham mưu trong công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Ngay sau khi tái lập tỉnh, cùng với các cơ quan tham mưu trong công tác đào tạo, bồi dưỡng của tỉnh : Sở Nội Vụ, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Tài chính, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị các huyện, thị, ngày 06/01/1997 Trường chính trị Bình Phước được thành lập và đi vào hoạt động theo Quyết định số 88-QĐ/TW, ngày 05/9/1994 và Quyết định 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư (khóa VII, X) “là đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ; Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác”.

Trường Chính trị có nhiệm vụ : “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ sở và một số đối tượng khác về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; về nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước và một số lĩnh

1, 2, 3 Tỉnh ủy Bình Phước : Văn kiện Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, tr 46; lần thứ VII, tr 60; lần thứ VIII, tr 73; lần thứ IX, tr 153.2

3

26

Page 27: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

vực khác; đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; CB, CC, VC ở địa phương; Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở; Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đại biểu HĐND cấp xã, cấp huyện; đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng chuyên viên và các chức danh tương đương; phối hợp với ban tuyên giáo tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên của TTBDCT cấp huyện; Tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ giảng dạy, học tập và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương, cơ sở; Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngoài các đối tượng đã nêu trên theo chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương”. Đồng thời, Nghị định số 18/2011 của Chính phủ cũng quy định trường chính trị có nhiệm vụ tổ chức, bồi dưỡng chương trình chuyên viên chính.

Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn về tổ chức bộ máy và biên chế; chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ, Ban cán sự đảng Bộ Tài chính, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ quan Trung ương có liên quan quy định về tiêu chuẩn, giá trị văn bằng; hướng dẫn chế độ học tập đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở; bổ sung hướng dẫn chế độ, chính sách đối với trường chính trị tỉnh, thành phố; Ban Tuyên giáo Trung ương hướng dẫn, kiểm tra về phương hướng chính trị tư tưởng trong giảng dạy lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh, thành phố; Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với các cơ quan Trung ương có liên quan hướng dẫn và thống nhất quản lý việc thực hiện chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng; phương pháp giảng dạy và học tập; nghiên cứu khoa học; quy chế quản lý đào tạo; đào tạo, bồi dưỡng giảng viên cho trường chính trị tỉnh, thành phố; Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh hướng dẫn chính sách có liên quan (phong chức danh khoa học, phong danh hiệu nhà giáo…) đối với trường chính trị tỉnh, thành phố; Các tỉnh uỷ, thành uỷ trực tiếp lãnh đạo thực hiện nội dung, chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; về tổ chức bộ máy và biên chế; về chế độ, chính sách đối với cán bộ, giảng viên và học viên của trường chính trị tỉnh, thành phố. UBND tỉnh, thành phố thực hiện quy chế quản lý đào tạo; đầu tư, cấp kinh phí hoạt động và quản lý cơ sở vật chất của trường chính trị tỉnh, thành phố.(4).

Trong những năm qua, Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Báo chí và tuyên truyền tham mưu cho Tỉnh ủy mở 8 lớp Cao cấp lý luận chính trị, với 966 học viên; 01 lớp Đại học Báo chí, với 59 học viên, 01 lớp Đại học xây dựng Đảng và Chính quyền cơ sở, với 111 học viên; 8 lớp Trung cấp lý luận chính trị (nay là Trung cấp Chính trị - Hành chính), với 718 học viên; 03 lớp Trung cấp hành chính,với 210 học viên. Phối hợp với Trường quân sự địa phương, Hội phụ nữ, Tỉnh đoàn mở 7 lớp Trung cấp Lý luận chính trị và Quân sự địa phương xã, phường, thị trấn, nghiệp vụ Phụ vận, Thanh vận với, 554 học viên; với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị các huyện

4 Quyết định 184-QĐ/TW ngày 3/9/2008 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

27

Page 28: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

thị mở 24 lớp Trung cấp lý luận chính trị, cho 2.425 học viên; với Sở Lao động thương binh và xã hội thành phố Hồ Chí Minh, cục V26 Bộ Công An, Công an Tỉnh, Công ty Cao su Phú Riềng, Bình Long mở 06 lớp Trung cấp lý luận chính trị, cho 508 học viên; 04 lớp Sơ cấp lý luận chính trị, cho 376 học viên là cán bộ, công nhân, viên chức của Trung tâm cai nghiện Phú Văn, Trại giam An Phước, Công an tỉnh, Công ty Cao su Phú riềng, Công ty Cao su Bình Long.

Trường phối hợp với Sở Nội vụ, Học Viện Hành chính quốc gia, Học viên Báo chí và tuyên truyền, trường Đại học Văn hóa, Đại học Luật Hà Nội, Luật thành phố Hồ Chí Minh, Trường Văn thư - Lưu trữ, Sở y tế tỉnh mở 4 lớp Đại học hành chính, cho 487 học viên; 2 lớp Đại học Luật, cho 226 học viên; 01 lớp Đại học báo chí, cho 59 học viên; 01 lớp Đại học Văn hóa, cho 92 học viên; 01 lớp Văn thư - Lưu trữ, cho 90 học viên, 01 lớp Trung cấp Luật, 04 lớp Trung cấp hành chính, cho 38 học viên; 21 lớp Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước ngạch Chuyên viên, cho 1.697 học viên; 02 lớp cán sự, cho 131 học viên.

Ngoài ra, hàng năm trường còn phối hợp với các Sở, Ban, ngành của tỉnh, UBND các huyện thị mở các lớp Bồi dưỡng tập huấn, trong lĩnh vực tôn giáo, Hội CCB, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân; báo cáo viên cấp huyện, thị, báo cáo viên đại biểu HĐND... cho cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh, huyện và cấp cơ sở.

Trong suốt quá trình đó, nhà trường luôn nhận được sự phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi của Sở Tài chính về kinh phí mở lớp cũng như kinh phí hoạt động của cơ quan, mua sắm trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy. Trường cũng luôn nhận được sự phối hợp của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trong lĩnh vực công tác tư tưởng của nhà trường cũng như định hướng nội dung trong một số chương trình giảng dạy.

Sự phối hợp giữa Trường với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Tài chính, Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện thị trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh từ khâu chiêu sinh, mở lớp đến việc xét duyệt kinh phí, chế độ trợ cấp cho người đi học khá chặt chẽ... Vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng đã bám sát được nhiệm vụ, mục tiêu, đối tượng; quy mô đào tạo, bồi dưỡng được mở rộng, thực hiện đa dạng hóa chương trình, các loại hình đào tạo, bồi dưỡng; tổ chức, bộ máy của trường từng bước được kiện toàn. Đội ngũ giảng viên tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Cơ sở vật chất được nâng cấp, bổ sung và từng bước hiện đại hóa... đó là kết quả đáng tự hào về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho một tỉnh sau 15 năm tái lập.

Nhưng qua thực tiễn, nhà trường cũng thấy những hạn chế trong công tác tham mưu, phối hợp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh. Cụ thể như sau :

- Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm ban hành muộn (thường ban hành trong quí 2 hàng năm) nên việc liên kết mở một số lớp không thực hiện được do hết chỉ tiêu, phải chuyển sang năm sau và thường mở dồn vào cuối năm.

- Việc mở lớp đôi khi còn bị động, không có trong kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hàng năm của tỉnh.

28

Page 29: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

- Số lượng lớp hàng năm không đồng đều, học viên của hầu hết các lớp còn quá đông. Có những lúc tại trường có 7, 8 lớp cùng học, mỗi lớp cả 100 học viên. Trong khi đó, nhà trường mới có 3 phòng học trên 100 chỗ và 4 phòng học dưới 80 chỗ ngồi.

- Học viên của mỗi lớp không đồng đều về trình độ, độ tuổi nhất là các lớp Trung cấp lý luận chính trị liên kết với các Trung tâm bồi dưỡng chính trị mở tại các huyện thị có sự chênh lệch lớn về độ tuổi (hơn 30 tuổi) và trình độ (có học viên đã tốt nghiệp đại học, thậm chí là thạc sỹ, có học viên chưa tốt nghiệp PTTH lại là đồng bào các dân tộc thiểu số)

- Có những học viên, sau khi được đi đào tạo đã bố trí vào vị trí mới, không được bố trí, quá tuổi theo quy định phải bố trí công việc khác (như công tác đoàn), bố trí không đúng với công việc đã được đào tạo... nên phải đi đào tạo lại.(Có những học viên gắn bó với trường gần 10 năm với 2 lớp trung cấp, 1 lớp đại học và sẽ tiếp tục 3 năm ở các lớp Cao cấp lý luận chính trị, chuyên viên...).

- Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chưa được thống nhất, còn chồng chéo về nội dung nên học viên phải học lặp lại nhiều lần một số nội dung ở các lớp khác nhau.

- Chế độ trợ cấp đi học của học viên không đồng đều, mặc dù Sở Tài chính đã tham mưu cho UBND tỉnh giải quyết chế độ trợ cấp đi học theo Quyết định số 93, 159, Quyết định số 73 nhưng các đơn vị có cán bộ cử đi học có sự áp dụng khác nhau.

- Một số học viên, trong cùng một lúc được cử đi học 2 lớp khác nhau hoặc đi học vẫn phân công công tác nên học viên vừa đi học, vừa đi làm nên vắng mặt trong các buổi học hay “chạy sô" trong học tập.

- Có nhiều đầu mối cùng chỉ đạo, hướng dẫn chương trình, nội dung và quy chế quản lý đào tạo, bồi dưỡng. Sự thực hiện song song các đơn vị cùng thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đã dẫn đến việc tổ chức đào tạo còn phân tán.

- Sự phối hợp giữa Trường chính trị với các cơ quan, ban ngành của tỉnh, các huyện, thị và nhất là Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thị... mang tính “mùa vụ" khi có lớp được mở.

- Đội ngũ cán bộ, giảng viên của trường còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng và thường xuyên không ổn định nên chưa đảm đương hết chương trình; Cơ sở vật chất còn thiếu, nhiều hạng mục công trình đã xuống cấp nên không đảm bảo được điều kiện tốt nhất khi cán bộ về học tại trường.

- Một số nội dung trong quy chế của Học viện ban hành nhưng chưa thực hiện được (đi thực tế ở địa phương của giảng viên trẻ ít nhất 1 năm) do chưa có quy chế phối hợp.

Trong thời gian tới, để khắc phục những hạn chế trên đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực không riêng gì Trường Chính trị, mà của cả hệ thống các cơ quan trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh:

1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự quan tâm lãnh đạo, quản lý trực tiếp của Tỉnh ủy, UBND tỉnh tới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Tỉnh

29

Page 30: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

ủy, UBND tỉnh ban quy chế phối hợp giữa các cơ quan tham mưu và có kế hoạch định kỳ làm việc, kiểm tra hoạt động của các cơ quan tham mưu từ đó có những giải pháp khắc phục những khó khăn, vướng mắc.

2. Để tránh chồng chéo, bảo đảm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của Trường Chính trị tỉnh, tạo sự tập trung thống nhất trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, không nên tổ chức các lớp bồi dưỡng các chức danh theo Nghị định 18/NĐ-CP của Chính phủ đã phân cấp cho Trường Chính trị vì các sở, ban, ngành - Các cơ quan này không có chức năng trực tiếp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

3. Các Học viện và Bộ Nội vụ “Đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương pháp dạy đối với cán bộ cơ sở theo hướng đào tạo cơ bản, bồi dưỡng theo chức danh, bảo đảm tính thiết thực”(5) để cán bộ không phải học những chương trình trùng lặp, sau khi đi đào tạo phải đào tạo lại mất nhiều thời gian.

Xây dựng nội dung, chương trình riêng cho từng lớp, từng loại đối tượng "đào tạo cơ bản" và "bồi dưỡng theo chức danh" cho cán bộ bảo đảm tính cơ bản, thiết thực, không có sự trùng lắp, rút ngắn thời gian đối với những cán bộ đã qua đào tạo các chương trình khác, lớp giành riêng cho cán bộ là người dân tộc ít người... tham mưu cho Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ... ban hành, thực hiện.

4. Với cơ chế như hiện nay, cán bộ không ai có thể giữ một công việc, chức danh suốt đời. Nên, cán bộ phải được đào tạo, bồi dưỡng qua nhiều lớp; các địa phương có tính đặc thù phải mở lớp cho đối tượng là cán bộ người dân tộc ít người… và công tác đào tạo, bồi dưỡng là một việc làm thường xuyên, liên tục và chỉ là một khâu trong công tác cán bộ. Các khâu đó luôn có sự liên quan, ràng buộc lẫn nhau, nên mỗi cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng cũng có mối liên liên hệ với nhau. Vì vậy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ cần phải xây dựng một kế hoạch quy hoạch chiến lược cán bộ chi tiết không những cho hiện tại mà cho cả tương lai thể hiện rõ đối tượng, chức danh (kể cả đương chức và dự nguồn), loại hình và nội dung cần đào tạo, bồi dưỡng... Từ đó, hàng năm tiến hành mở lớp.

5. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng và có sự phối hợp chặt chẽ giữa trường với các đơn vị trong suốt quá trình trước, trong và sau khi có cán bộ được cử đi học tại trường; Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ dứt khoát không tham mưu, bổ nhiệm những chức danh không có trong quy hoạch và chưa được cử đi đào tạo, bồi dưỡng.

6. Cần có sự thống nhất trong chỉ đạo hoạt động của các trường chính trị tỉnh, thành phố từ trung ương đến địa phương về xây dựng và thực hiện chế độ chính sách đối với học viên, giảng viên, cán bộ, công chức cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Ban Tuyên giáo Trung ương để đảm bảo cho mọi hoạt động của nhà trường, tránh trình trạng bất hợp lý trong quy định cũng như thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, giảng viên trường chính trị tỉnh, thành phố như hiện nay.

5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Các nghị quyết của TW 2001 - 2004, Nxb Chính trị quốc gia, H.2004, tr.113.

30

Page 31: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010 - 2015 của tỉnh đề ra chương trình đột phá “Đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực”. Với sự phối hợp chặt chẽ của các quan tham mưu trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Phước sẽ thực hiện thành công chương trình này góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và của đất nước nói chung trên con đường sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

31

Page 32: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

DẠY CÁCH HỌC - MỘT GIẢI PHÁP CẦN THIẾT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

ThS. Nguyễn Thanh ThuyênTrưởng khoa Nhà nước - Pháp luật

Làm việc nói chung và học tập nói riêng đòi hỏi phải có phương pháp tốt và phù hợp. Phương pháp học (cách học) là chìa khóa cho chất lượng tiếp thu của học viên. Trong Trường Chính trị, với đa số đối tượng học viên lớn tuổi, điều đó lại càng quan trọng. Trong khi quá chú tâm vào nội dung, phương pháp giảng dạy của giảng viên, tập trung vào việc truyền đạt kiến thức, nhà trường cũng cần nhìn nhận đúng vai trò của việc trang bị phương pháp học tập cho học viên.

Ở một khía cạnh khác, mục tiêu của giáo dục lý luận chính trị cũng khác xa mục tiêu giáo dục phổ thông hay đào tạo chuyên môn nghiệp vụ. Trong đó, mục tiêu củng cố niềm tin, rèn luyện kỹ năng làm việc của cán bộ rất cần được hỗ trợ bởi một phương pháp học khác với phương pháp học phổ thông.

Từ khâu soạn giáo án cho đến các bước lên lớp của giảng viên, cả việc đánh giá học viên thông qua thi, kiểm tra, đều có những yêu cầu đòi hỏi học viên phải đáp ứng thì mới được công nhận là đã tích lũy đủ kiến thức và kỹ năng. Tuy nhiên, toàn bộ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong Trường Chính trị đều không có phần nội dung nào về hướng dẫn phương pháp học hay phương pháp tự học. Điều này cho thấy học viên chưa được trang bị phương pháp để học tập, rèn luyện trong môi trường, điều kiện và nội dung hoàn toàn khác với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn khác.

Tâm lý học tập của học viên nói chung hiện nay khá phổ biến là thụ động, chờ nghe giảng và ghi chép từ giảng viên là chính. Điều này càng đúng khi học viên là người lớn tuổi. Thay đổi phương pháp học vì vậy gặp phải khó khăn là sức ỳ từ thói quen của học viên. Điều quan trọng cần làm là thay đổi quan niệm về cách học của học viên, để học viên nhận thức rằng cách học thích hợp giúp họ học tập dễ dàng hơn, thú vị hơn, kết quả tốt hơn.

Những thay đổi về cách học nói trên gắn liền với việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên nhưng không đồng nhất, không thể chỉ coi đó là công việc của giảng viên. Nói cách khác, khi giảng viên được tập huấn và thực hiện lên lớp bằng các phương pháp giảng dạy tích cực thì học viên cũng cần phải được trang bị kiến thức, được hướng dẫn về phương pháp (cách) học tích cực.

Cách học tích cực đòi hỏi học viên phải đọc trước tài liệu, giáo trình. Đây cũng là yêu cầu đối với học viên mà hầu hết các giảng viên lên lớp đều mong muốn. Tuy nhiên, kết quả thực tế rất ít, thậm chí là quá hiếm học viên lớn tuổi thực hiện điều này. Do đó, để thực hiện được yêu cầu này, giảng viên cần có thông tin trước về yêu cầu học viên đọc trước tài liệu, giáo trình như sau:

- Đủ sớm (đủ thời gian cho học viên chuẩn bị)

- Đủ chi tiết (đọc phần nào trọng tâm, phần nào sơ lược)

32

Page 33: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

- Đủ hấp dẫn (giới thiệu sơ lược bài học sẽ mang lại bổ ích gì)

- Đủ điều kiện kiểm tra ( yêu cầu tóm tắt ngắn gọn phần đọc vào vở ghi chép)

Quá trình học tập tại lớp cần học viên phát biểu xây dựng bài cùng giảng viên; thảo luận, trao đổi (làm việc nhóm) cùng bạn học. Đây chính là cách để phá vỡ sự thụ động của học viên, để học viên phát huy năng lực và trao đổi kinh nghiệm. Cách học này cần các điều kiện gợi ý sau đây:

- Lớp ít học viên (20-30 học viên)

- Câu hỏi không quá khó, không quá dễ

- Sự định hướng tốt của giảng viên trong thảo luận

- Học viên tự rút ra kết luận, giảng viên chỉ dẫn dắt, động viên, điều chỉnh.

Cách học tích cực cũng liên quan mật thiết với phương pháp đánh giá (thi, kiểm tra) của nhà trường. Hình thức thi viết ( không được phép sử dụng tài liệu ) cũng có ưu điểm nhưng chưa đủ để tạo động lực cho học viên thay đổi cách học. Vì vậy cần đa dạng hóa các hình thức thi, kiểm tra, phù hợp vói từng môn học, phần học:

- Thi viết, không được phép sử dụng tài liệu

- Thi viết, được phép sử dụng tài liệu

- Thi vấn đáp

- Thi trắc nghiệm

- Viết luận (tóm tắt tài liệu, bài kiểm tra về nhà hoặc tiểu luận)

- Cho điểm phát biểu trên lớp.

Tương ứng với mỗi hình thức thi khác nhau, nhà trường đã gián tiếp định hình cho học viên cách học tập tích cực, giảm thiểu cách học tập máy móc, sáo rỗng và cả những tiêu cực trong thi cử.

Quá trình dạy và học đòi hỏi sự nỗ lực của cả thầy và trò cho mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Phương pháp dạy học và phương pháp học cũng có mối quan hệ mật thiết, tác động tương hỗ lẫn nhau. Cùng với việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, thiết nghĩ nhà trường rất cần quan tâm đúng mức đến việc trang bị, hướng dẫn cho học viên cách học tích cực. Với một vài thiển ý chưa đầy đủ, tác giả chỉ hy vọng mở ra một mảng tranh luận, trao đổi góp phần cho mục tiêu định hướng lớn, đó là việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường.

33

Page 34: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNGTHAO GIẢNG - DỰ GIỜ Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÌNH PHƯỚC.

Nguyễn Văn Cộng - TP. NCKH-TT-TL

Theo Quyết định 268/QĐ-HVCT-HCQG của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh ngày 3/2/2011 về việc “Ban hành các Qui chế, Qui định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Học viện đã Ban hành 08 Qui chế và 01 Qui định. Trong đó Qui chế giảng viên, Qui định về tổ chức thao giảng, dự giờ là hai văn bản quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc đào tạo, chất lượng đào tạo của Nhà trường.

Qua hơn 02 năm tổ chức thực hiện các Qui chế và Qui định trên, Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã đạt được một số thành tích nhất định. Tuy nhiên, để đáp ứng với yêu cầu của cuộc sống, đặc biệt là thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng bộ tỉnh về “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011-2015”.

Vì vậy, tại Hội thảo Khoa học của Trường Chính trị, tôi xin phép nêu một số giải pháp để nâng cao chất lượng thao giảng - dự giờ và nghiên cứu thực tế ở Trường Chính trị tỉnh Bình Phước hiện nay.

Trước hết, chúng ta biết rằng, Trường Chính trị Tỉnh là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trong toàn bộ hệ thống chính trị từ tỉnh xuống cơ sở. Học viên hầu hết đã, đang công tác với nhiều trình độ, môi trường, hoàn cảnh điều kiện công tác khác nhau. Vì vậy, các lớp đào tạo hầu hết là hình thức tại chức, vừa học vừa làm.

Hiện nay trường có 49 cán bộ, giảng viên, nhân viên; trong đó có 21 giảng viên chuyên trách và 4 giảng viên kiêm chức. Có 12 giảng viên có trình độ thạc sỹ, 01 giảng viên đang chuẩn bị bảo vệ luận văn thạc sỹ và 01 giảng viên mới thi tuyển đầu vào nghiên cứu sinh đạt kết quả tốt; 02 giảng viên đã hoàn thành học tập ngoại ngữ đang chờ đi học theo đề án 165 của Trung ương; 22/25 giảng viên đã được bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy tích cực. Nhìn chung, đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị còn trẻ, có bằng cấp học vị, đảm nhận hầu hết các bộ môn, các phần học trong chương trình Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính, trừ một số phần học như: Quốc phòng - An ninh, Dân vận, tư tưởng Hồ Chí Minh.... Nhà trường sử dụng đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm, có kinh nghiệm trong công tác để giảng dạy.

Kính thưa các đ/c!Thao giảng - dự giờ là hoạt động chuyên môn của quá trình giảng dạy. Nhằm

tạo điều kiện cho giảng viên nắm sâu sắc, phong phú thêm nội dung giảng dạy, đổi mới phương pháp, tăng cường trao đổi kinh nghiệm học tập, giúp đỡ lẫn nhau nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Để thực hiện tốt việc thao giảng - dự giờ chúng ta cần phải thực hiện nghiêm túc Qui định về thao giảng - dự giờ của Học viện đã ban

34

Page 35: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

hành. Từ việc xây dựng kế hoạch của từng Khoa và Nhà trường, đến việc tổ chức thao giảng. Mỗi bước đi phải có trình tự cụ thể từ thấp đến cao. Các đồng chí lãnh đạo Khoa, thành viên Ban Giám hiệu phụ trách Khoa phải xây dựng và nắm kế hoạch để điều hành công việc. Kế hoạch phải được thông qua, phê duyệt của Hiệu trưởng trên cơ sở đó các Phòng, Khoa, Tổ chức - Hành chính theo dõi, nắm tiến độ thực hiện hàng tháng, hàng quí... Thực tế việc này hiện nay chúng ta làm chưa tốt, chưa rõ ràng, cụ thể, chưa có những giải pháp đồng bộ chưa phát huy tính sáng tạo, nhằm nâng cao chất lượng thao giảng - dự giờ.

Vì vậy, để nâng cao chất lượng thao giảng - dự giờ, trong thời gian tới theo tôi cần thực hiện một số giải pháp sau đây:

Về thao giảng: Các Khoa phải có kế hoạch thao giảng - dự giờ ngay từ đầu năm cho từng giảng

viên, từng tháng, từng quí và kế hoạch này phải được thông qua Ban Gián hiệu phê duyệt. Căn cứ vào nội dung, kế hoạch thao giảng của từng giảng viên Khoa phải có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt. Đặc biệt là việc tổ chức thao giảng trực tiếp trên lớp. Ngoài việc thao giảng trước Hội đồng Khoa học phải lấy ý kiến học viên để tham khảo về kiến thức, về mức độ nhận thức, về phương pháp truyền thụ, về tư thế tác phong, giọng nói, trình bày bảng ....(có mẫu phiếu tham khảo). Sau buổi thao giảng Hội đồng Khoa học hoặc Khoa, phải tổ chức họp, đánh giá rút kinh nghiệm, chấm điểm cụ thể bằng phiếu nhận xét.

Công tác thao giảng là trách nhiệm của giảng viên và Nhà trường nhưng để có nhận xét khách quan, toàn diện, gắn lý luận với thực tiễn thì Khoa hoặc nhà trường nên mời những đ/c, đồng nghiệp đã từng tham gia giảng dạy hoặc đã tham gia công tác thực tiễn trên lĩnh vực công tác phù hợp với nội dung bài giảng. Sau đó xin ý kiến nhận xét của đại biểu đã tham dự thao giảng. Ngoài việc thao giảng trực tiếp trên lớp, việc tổ chức thao giảng trước Hội đồng Khoa học tức là học viên “giả định”. Đây là việc làm thường xuyên của Trường Chính trị. Theo tôi hình thức này là quan trọng nhưng không nhất thiết giảng viên phải trình bày như một bài giảng trên lớp, mà nên để cho giảng viên trình bày tóm tắt toàn bộ bài giảng và nói rõ từng nội dung, hướng giải quyết trình bày từng phần.... sau đó các thành viên Hội đồng Khoa học trực tiếp đặt các câu hỏi có liên quan đến bài học. Như vậy, buổi thao giảng mới có sinh động hấp dẫn, thiết thực hơn khắc phục hiện tượng giảng viên thao giảng một bài từ 05 đến 10 tiết, nhưng Hội đồng Khoa học chỉ nghe giảng viên trình bày từ 30 phút đến 40 phút sau đó nhận xét đánh giá chung chung, không đi sâu vào từng nội dung, khía cạnh của vấn đề.

Và để có chất lượng cao, Hội đồng Khoa học có thể mời một số giảng viên có kinh nghiệm thực tiễn, hay một số chuyên gia về lĩnh vực này tham dự, nhận xét đánh giá, đây là một kênh thông tin quan trọng để tham khảo.

Vấn đề cuối cùng có liên quan tới thao giảng của giảng viên là sự chủ động nghiên cứu, sáng tạo làm phong phú nội dung bài giảng. Chỉ có bản thân giảng viên, tự nghiên cứu sâu, nghiên cứu kỹ nội dung bài giảng, tập dượt nhiều lần, và thường xuyên nắm bắt thông tin kịp thời những nội dung liên quan đến bài giảng thì chất lượng bài giảng mới tốt, phù hợp hơn với thực tiễn. Nội dung bài giảng chủ yếu là lý luận, để

35

Page 36: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

học viên nghe, hiểu và vận dụng được còn là cả một quá trình thao tác của giảng viên, đòi hỏi giảng viên phải có phương pháp, hình thức phù hợp với từng đối tượng, từng chuyên đề, từng chương trình học mà học viên thực hiện. Phương pháp trình bày, phương pháp tiếp cận nội dung bài giảng, là công cụ mà người giảng viên cần phải truyền thụ cho học viên.

Về dự giờ:

Dự giờ là hoạt động bắt buộc đối với mỗi giảng viên. Trong quá trình giảng dạy, để tổ chức tốt dự giờ đạt yêu cầu, từng giảng viên, ở các Khoa, phải chủ động xây dựng kế hoạch dự giờ. Ngoài ra, giảng viên phải luôn luôn chủ động khi có thời cơ phải tranh thủ đi dự giờ (đối với cá nhân) hoặc là dự giờ tập thể đối với Khoa, Hội đồng Khoa học.

Dự giờ chủ yếu là trách nhiệm của từng giảng viên để lắng nghe, nắm bắt nội dung thông tin, phương pháp xử lý thông tin bổ sung cho nội dung bài giảng của mình. Do vậy, mà giảng viên phải chủ động, có sổ sách ghi chép, nhật ký rõ ràng qua một buổi dự giờ mình rút ra những nội dung, kinh nghiệm gì bổ ích và qua đó mình phải khắc phục những mặt nào hạn chế, yếu kém....

Đối với Hội đồng Khoa học (dự giờ tập thể) thì sau buổi dự giờ, Hội đồng Khoa học có thể phát phiếu cho học viên nhận xét về nội dung bài giảng, phương pháp, phương tiện, tư thế, tác phong của giảng viên. Đây là một kênh thông tin quan trọng để giúp cho Hội đồng Khoa học nhận xét, đánh giá khách quan Khoa học đối với giảng viên.

Dự giờ, giảng viên không phải chỉ đi dự giờ những bài giảng của giảng viên có liên quan tới bài giảng của mình mà có thể đi dự giờ cả những giờ giảng khác của các giảng viên khác để học hỏi, phương pháp trình bày, cách giới thiệu, văn phong, sư phạm của người giảng viên....Đây cũng là một vấn đề quan trọng đối với giảng viên khi giảng bài vì thực tế, cùng một bài giảng, cùng một thời lượng giảng, nhưng có giảng viên nói hay, nói tốt, phong phú hấp dẫn, có giảng viên còn hạn chế về phương pháp, cách thức truyền đạt...

Tóm lại, công tác thao giảng, dự giờ là trách nhiệm của người giảng viên, giảng viên phải chủ động trong công việc. Phải xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch một cách năng động, sáng tạo. Đây là yêu cầu cấp bách hiện nay, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nâng lực của Tỉnh nhà, góp phần vào sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Khoa, Ban Giám hiệu nhà trường là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định đến chất lượng giảng dạy của giảng viên. Nhà trường nên có chế độ, chính sách động viên cụ thể, kịp thời, cho những cán bộ, giảng viên có thành tích xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời cũng phải có những biện pháp cụ thể phê bình, nhắc nhở, uốn nắn những giảng viên còn có những hạn chế trong công tác chuyên môn giảng dạy, chưa chủ động sáng tạo đổi mới trong công tác chuyên môn...

Bài viết của tôi xin tạm dừng tại đây, xin kính chúc sức khỏe các đ/c và các bạn đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn!

36

Page 37: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

PHÁT HUY HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Th.S Nguyễn Thị Ninh

P. Trưởng Khoa CN Mác - Lênin, TTHCM

Thông báo số 181-TB/TW, ngày 03/9/2008, của Ban Bí thư Trung ương về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của trường chính trị cấp tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; có nội dung về “Tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập, lấy hoạt động của người học làm trung tâm, tăng cường đối thoại, hướng dẫn bài tập xử lý tình huống, thực hành lãnh đạo, quản lý nhằm trang bị cho người học vừa nắm được lý luận cơ bản, vừa nắm vững kỹ năng thực hành”.

Trên tinh thần đó Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã xây dựng chương trình Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính mới với nhiều điểm cải tiến hướng đến việc phát huy vai trò chủ động, tích cực của người học, trong đó có việc tăng cường hoạt động thảo luận trên lớp.

Quán triệt tinh thần ấy, trong thời gian qua cùng với các trường Chính trị trong hệ thống trường chính trị cả nước, trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục.

Trong một thời gian dài, tại trường Chính trị Bình phước do điều kiện khách quan và chủ quan như thiếu giảng viên cơ hữu, hầu hết các lớp tổ chức tại các huyện, Trường đã giảm thời lượng thảo luận của chương trình Trung cấp lý luận chính trị - Hành chính đến mức tối thiểu. Hiện nay, quán triệt sâu sắc sự chỉ đạo về đổi mới phương pháp dạy học tại trường chính trị, lãnh đạo nhà trường đã quyết định thực hiện đầy đủ thời lượng thảo luận của các lớp TCLLCT - HC. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với việc không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo của lãnh đạo nhà trường và đội ngũ giảng viên trong trường.

Thảo luận là một hình thức dạy và học tích cực thông qua trao đổi một cách tự giác giữa giảng viên với học viên về một vấn đề nào đó trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Thảo luận giúp giáo viên nắm bắt tình hình học tập của từng học viên, của từng nhóm học viên và của cả lớp trên cả ba phương diện: thái độ, kiến thức và phương pháp. Đối với học viên buổi thảo luận là môi trường tốt để rèn tư duy lôgíc, khả năng khái quát vấn đề, vận dụng lý luận để lý giải một số vấn đề của thực tiễn một cách tương đối độc lập, có tính sáng tạo. Đây cũng là một bước trong quá trình chuyển hóa từ kiến thức chung tới quan điểm độc lập, tới niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin. Như vậy, tùy theo đối tượng thảo luận để mở rộng hay thu hẹp mức độ nông sâu của nội dung thảo luận.

37

Page 38: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

Yêu cầu cụ thể của một buổi thảo luận phụ thuộc vào nhiều yếu tố như hình thức, nội dung, đối tượng, thời lượng…Ở đây, tôi chỉ đề cập tới những vấn đề chung nhất của một buổi thảo luận.

Một là, lựa chọn nội dung và xây dựng giáo án thảo luận

Nội dung thảo luận có vị trí, vai trò rất quan trọng, quyết định mức độ thành công của một buổi thảo luận. Vì vậy, cần phải có sự cân nhắc khi lựa chọn nội dung thảo luận. Nội dung thảo luận hướng học viên phát biểu dưới dạng phân tích, tiếp cận vấn đề và đưa ra ý kiến cá nhân, chứ không phải trả lời như kiểm tra kiến thức cơ bản hay cố phân tích một kết luận nào đó là đúng.

Nên giao tất cả các nội dung thảo luận và yêu cầu cần đạt được cho các nhóm học từ trước để các nhóm và từng cá nhân chủ động tự tìm hiểu, nghiên cứu và chuẩn bị trước. Trong duy trì thảo luận trên lớp, giảng viên cần dành một khoảng thời gian nhất định cho các thành viên trong nhóm thống nhất với nhau về nội dung và cách trình bày, đồng thời cử người sẵn sàng tranh luận, bảo vệ ý kiến của nhóm mình trước các nhóm khác.

Giảng viên không nên giao cụ thể từng nội dung cho mỗi nhóm chuẩn bị trước, mà nên giao tất cả các nội dung buộc các nhóm phải phân công nhau tìm hiểu và chuẩn bị. Khi lên lớp giảng viên mới chỉ định các nhóm trình bày từng nội dung cụ thể. Làm như vậy sẽ khắc phục được tình trạng các nhóm chỉ quan tâm đến nội dung của nhóm mình mà không biết được các nội dung khác. Khi lên lớp, mỗi nhóm có thể tranh luận, nhận xét kết quả học tập, nghiên cứu của các nhóm khác.

Nên tổ chức xây dựng giáo án và có sự thống nhất cao giữa các giáo viên bộ môn với giáo viên thảo luận về giáo án thảo luận. Trong giáo án thảo luận cần thiết kế cụ thể với: mục đích, yêu cầu, những nội dung cần đạt được, phân chia thời gian và nội dung cụ thể của từng nhóm, dự kiến những tình huống nảy sinh ….Chuẩn bị giáo án thảo luận càng tỷ mỷ, khả năng thành công của một giờ thảo luận sẽ càng cao hơn. 

Hai là, thái độ của giảng viên

Trong quá trình thảo luận, có thể có nhiều tình huống xảy ra như học viên phát biểu chung chung, lạc đề, có quan điểm phi thực tế, sai trái thì giảng viên cần điều chỉnh và uốn nắn giúp học viên quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước. Từ đó học viên có thể phân tích những sự kiện, hiện tượng thực tế bằng lý luận đã học được. Giảng viên cần tôn trọng ý kiến của học viên và hướng họ tự kết luận vấn đề. Phần tổng kết giảng viên nên chỉ ra được ưu điểm và hạn chế của buổi thảo luận và biểu dương những ý kiến phát biểu sâu sắc. Đồng thời xâu chuỗi, hệ thống lại vấn đề trên cơ sở phát biểu của học viên.

Ba là, phát huy tính tích cực của học viên.

Để tạo điều kiện cho học viên tích cực phát biểu ý kiến, giảng viên nên cụ thể hóa nội dung thảo luận bằng dàn bài và gợi ý thảo luận với phương pháp quy nạp dần dần thông qua cách đặt câu hỏi nhỏ. Chia lớp học thành nhiều nhóm, một nhóm trình bày, các nhóm khác đóng vai trò phản biện. Sau buổi thảo luận giảng viên thu bài theo

38

Page 39: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

nhóm để đánh giá, qua đây sẽ nắm được phần nào mức độ tiếp thu bài của học viên đồng thời buộc học viên phải chuẩn bị bài chu đáo. Tránh tình trạng học viên chép lại giáo trình để đem ra đọc trước lớp khi được gọi lên trình bày nội dung thảo luận.

Bốn là, về hình thức thảo luận

Đặc thù của đối tượng người học ở hệ Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở) là đa dạng về trình độ học vấn, đa dạng về tuổi tác, về kinh nghiệm công tác và về kinh nghiệm sống. Vì vậy thảo luận là một hình thức tích cực, giúp học viên học hỏi lẫn nhau, trao đổi thông tin một cách hiệu quả. Thông qua buổi thảo luận giúp học viên gắn lý luận với thực tiễn, nhận dạng lý luận trong thực tiễn, khái quát lý luận nắm bắt lý luận một cách tương đối hệ thống nhằm hướng đến giải quyết những vấn đề thực tiễn ngay trong lĩnh vực mình công tác, từ đó học viên có cơ sở để làm việc tốt hơn, khoa học hơn. Thảo luận còn là dịp để giảng viên thu nhận ý kiến phản hồi một cách kịp thời nhằm có được cơ sở điều chỉnh cách truyền đạt bài giảng sát với đối tượng người học.

Vì vậy, có thể sử dụng cả hai hình thức thảo luận: lồng thảo luận trong giờ giảng dạy lý thuyết và thảo luận sau mỗi bài học, môn học.

 Trong nội dung lý thuyết được giảng, giảng viên lồng ghép nội dung thảo luận, tức là nêu ra những tình huống có vấn đề, hoặc là những vấn đề mang tính thời sự, thực tiễn để học viên vận dụng luận giải. Thực hiện điều đó, giúp học viên sẽ hiểu sâu hơn những nội dung lý thuyết.

- Đối với các buổi thảo luận khi đã học xong môn học, nội dung thảo luận nên là những vấn đề mang tính khái quát và gắn thực tiễn cuộc sống. Khi giải quyết vấn đề đó sẽ rèn luyện cho học viên khả năng tổng hợp kiến thức để luận giải những vấn đề thực tiễn. Đồng thời cũng xuất phát từ thực tiễn, sử dụng vốn kiến thức thực tiễn có được trong công tác nhằm làm phong phú bài học. Qua thảo luận giúp người học có thể phát hiện ra những hạn chế, vướng mắc cần tháo gỡ trong công việc. Kịp thời đề xuất những giải pháp thiết thực, khả thi từng bước nâng cao hiệu quả công tác của bản thân và góp phần nâng cao hiệu quả công tác của đơn vị.

Như vậy, thảo luận là một hoạt động học tập rất bổ ích trong đó vai trò chủ động, tích cực của người học được phát huy tối đa. Tuy nhiên để hoạt động thảo luận được tiến hành một cách đúng hướng, có hiệu quả cao thì giảng viên phải có sự đầu tư, chuẩn bị về nội dung và hình thức thảo luận thật sự nghiêm túc, chu đáo.

39

Page 40: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

TÍCH CỰC NGHIÊN CỨU THỰC TẾ - BIỆN PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG

VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

Th.S Lương Thị Hồng VânPhó Trưởng khoa Dân Vận

Trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước và của tỉnh nhà, yêu cầu về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng và Nhà nước được đặt ra ngày càng cao để đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển của xã hội. Nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường Chính trị, các trung tâm bồi dưỡng chính trị được xem là một trong những giải pháp có tính cốt lõi để góp phần đào tạo những đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chất lượng giảng dạy của một cơ sở đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ giảng dạy được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu. Là những cán bộ giảng dạy của một đơn vị đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị và nghiệp vụ công tác Đảng, đoàn thể của Đảng và Nhà nước ở cấp tỉnh, bên cạnh những khối lượng kiến thức chuyên môn, kiến thức lý luận chính trị… được đào tạo một cách cơ bản thì yêu cầu về việc trang bị, tích lũy thêm những khối lượng kiến thức thực tế của đội ngũ giảng viên Trường chính trị Bình Phước là một yêu cầu thường xuyên và quan trọng. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên của Trường đa số là giảng viên trẻ, tuổi nghề còn ít, “kém về kiến thức thực tiễn” là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy của nhà trường. Vì vậy, công tác nghiên cứu thực tế là một vấn đề được đặt ra rất cấp thiết đối với đội ngũ giảng viên của Trường.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam đã từng căn dặn:

“Huấn luyện lý luận có hai cách:Một cách là chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ rồi bày cho họ viết

những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích.

Một cách là trong lúc học lý luận, phải có nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị, có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực, có ích.” [2, tr. 272]

Để làm cho việc “huấn luyện lý luận” không trở thành việc “khô khan”, “nhồi nhét” và để việc học tập lý luận trở nên “thiết thực, có ích”, vai trò, trách nhiệm và năng lực nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn của người làm công tác giảng dạy có một ý nghĩa quyết định.

Vậy, thực tế mà giảng viên trường Chính trị cần nghiên cứu là gì?Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, “thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu

thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta phải giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó

40

Page 41: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới. .” [5, tr. 497 - 498]. Cách hiểu này cho thấy, “thực tế” rất rộng. Thực tế không những là những gì đang tồn tại và đang diễn ra, mà còn bao hàm cả những kinh nghiệm trong lịch sử và những xu hướng vận động và phát triển của xã hội. Theo PGS, TS. Phan Thanh Khôi, trong bài viết “Nâng cao tính thực tiễn trong bài giảng lý luận chính trị” trên tạp chí Thông tin Công tác Trường Chính trị, số 01 năm 2010, thực tế có khuynh hướng cách mạng, tiến bộ nhằm cải tạo khách quan mà Hồ Chí Minh nêu ra ở trên chính là hoạt động thực tiễn.

Với cách tiếp cận ấy, thực tế có thể chia thành các cấp độ khác nhau: - Thực tế trực tiếp, sinh động, thời sự diễn ra hàng ngày trong xã hội.- Thực tế đa chiều đã được phản ánh có chọn lọc, bình luận trên các phương tiện

thông tin đại chúng.- Thực tế mang tính chính thống trong các văn bản của Đảng và Nhà nước.Quá trình nghiên cứu thực tế giúp giảng viên, nhất là những giảng viên trẻ có

cơ hội mở rộng, đào sâu thêm kiến thức chuyên môn. Qua hoạt động nghiên cứu thực tế, giảng viên phải tìm hiểu, phải đọc, phải suy ngẫm, phải chắt lọc, phải giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, đối chiếu giữa những kiến thức lý luận học tập từ sách vở và kiến thức thực tiễn thu nhận được trong thực tế. Những hoạt động tư duy đó làm cho trình độ nhận thức của giảng viên được nâng cao giúp cho giảng viên có được những bài giảng hấp dẫn, khúc chiết, rõ ràng, mạch lạc và phong phú. Đồng thời, quá trình nghiên cứu thực tế cũng giúp giảng viên cập nhật những kiến thức mới, tích lũy kiến thức thực tiễn, nhìn thấy được những hạn chế trong tri thức của mình để kịp thời bổ sung. Hơn thế nữa, qua nghiên cứu thực tế, giảng viên sẽ dần khẳng định được bản thân, hoàn thiện phong cách, bản lĩnh của một giảng viên khi đối diện với những tình huống sư phạm nảy sinh trong quá trình giảng dạy.

Nhận thức được vai trò, ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu thực tế, trong những năm qua, dưới sự quan tâm, chỉ đạo của Ban Giám hiệu trường, nhiều giảng viên nhà trường đã nghiêm túc thực hiện công tác nghiên cứu thực tế, trong đó có các hoạt động nghiên cứu thực tế qua học tập, nghiên cứu chủ trương chính sách của Đảng, Pháp luật Nhà nước; Nghiên cứu thực tế qua các phương tiện thông tin đại chúng và nghiên cứu thực tế qua việc đi thực tế ở cơ sở. Từ các hoạt động nghiên cứu thực tế này, đội ngũ giảng viên của nhà trường đã dần trưởng thành, việc đưa kiến thức thực tế đã thu nhận được trong quá trình nghiên cứu thực tế vào bài giảng bước đầu đã có những tín hiệu khả quan.

Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, trong những năm qua công tác này vẫn chưa được thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả. Những kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ giảng viên và chưa đáp ứng được những đòi hỏi của việc nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.

Để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu thực tế của đội ngũ giảng viên trường Chính trị Bình Phước, cần tập trung chú ý những vấn đề sau:

Đối với công tác chỉ đạo, kiểm tra giám sát của Ban Giám hiệu:

41

Page 42: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

- Cần làm cho cán bộ, giảng viên nhận thức rõ: nghiên cứu thực tế là trách nhiệm bắt buộc của giảng viên ở tất cả các chức danh (từ giảng viên tập sự cho đến giảng viên cao cấp) đã được quy định rõ tại Quy chế Giảng viên của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, hơn nữa, nghiên cứu thực tế là con đường ngắn nhất và duy nhất giúp cho giảng viên khắc phục được việc thiếu kiến thực thực tiễn, nâng cao chất lượng giảng dạy. Ngoài ra, cần định hướng cho giảng viên những nội dung nghiên cứu thực tế; làm cho giảng viên hiểu được nghiên cứu thực tế có nhiều hình thức, phải sử dụng nhiều phương pháp và những kỹ năng cần thiết khi nghiên cứu thực tế, đặc biệt là đi nghiên cứu thực tế ở cơ sở.

- Đầu tư đầy đủ các trang thiết bị phục vụ yêu cầu nghiên cứu thực tế của giảng viên như: máy vi tính, máy quay phim, chụp ảnh, máy ghi âm; đầu tư mua sắm các loại sách, tạp chí, tài liệu cần thiết để nguồn tài liệu của thư viện ngày càng phong phú và đa dạng phục vụ nhu cầu đọc sách, nghiên cứu tài liệu của giảng viên.

- Đưa vấn đề nghiên cứu thực tế thành yêu cầu bắt buộc trong nội dung công tác hàng năm của giảng viên, coi đó là một trong những yếu tố để đánh giá, xếp loại và xem xét bình chọn thi đua hàng năm đối với cán bộ, đảng viên và đối với cả khoa chủ quản.

- Để tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao hiệu quả công tác đi nghiên cứu thực tế ở cơ sở của giảng viên, lãnh đạo nhà trường có thể xem xét việc kết nghĩa với một địa phương (xã, phường) trong tỉnh. Nhà trường sẽ hỗ trợ địa phương những vấn đề về mặt lý luận như: hướng dẫn, tập huấn các mặt công tác mà cán bộ địa phương còn hạn chế, hỗ trợ việc cập nhật các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho cán bộ… Quá trình đó chính là cơ hội để giảng viên của Trường củng cố vững chắc hơn về mặt lý luận, đồng thời qua cọ xát với thực tiễn, những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình hoạt động công tác sẽ được bộc lộ. Thiết nghĩ, đó chính là những bài học bổ ích từ thực tế mà giảng viên có thể thu nhận được.

- Lãnh đạo nhà trường tranh thủ sự ủng hộ của Thường trực Tỉnh ủy để cử các giảng viên tham gia đầy đủ các Hội nghị (hội nghị sơ - tổng kết, hội nghị chuyên đề…), hội thảo, tập huấn trong và ngoài tỉnh… của các ban, ngành, đoàn thể về các vấn đề có liên quan đến công tác giảng dạy của các giảng viên.

- Sớm có đề án về việc cử cán bộ giảng viên của Trường đi nghiên cứu thực tế dài hạn (01 năm) tại cơ sở để trình Thường trực tỉnh ủy xem xét, phê duyệt và triển khai thực hiện.

Đối với việc thực hiện công tác nghiên cứu thực tế của đội ngũ giảng viên:

- Nghiên cứu thực tế là nhiệm vụ của giảng viên, tuy nhiên, để công tác nghiên cứu thực tế được diễn ra thuận lợi, hiệu quả thì cần có phối hợp chặt chẽ giữa các khoa, phòng trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác nghiên cứu thực tế.

- Các khoa phải là người chủ trì công tác nghiên cứu thực tế của giảng viên trong khoa, chịu trách nhiệm trước Ban Giám hiệu về vấn đề nghiên cứu thực tế của giảng viên.

42

Page 43: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

- Các phòng chức năng phối hợp tạo điều kiện thuận lợi, đồng thời tham gia giám sát việc nghiên cứu thực tế của giảng viên.

- Giảng viên là chủ thể của công tác nghiên cứu thực tế, nghĩa là giảng viên phải là người có ý thức trách nhiệm cao nhất, đóng vai trò chủ động trong công tác nghiên cứu thực tế từ việc đăng ký đi nghiên cứu thực tế, xây dựng kế hoạch, tiến hành thực hiện kế hoạch và báo cáo kết quả nghiên cứu thực tế cho lãnh đạo khoa, Ban Giám hiệu nhà trường. Trong thời gian nghiên cứu thực tế, đặc biệt là đi nghiên cứu thực tế tại cơ sở, giảng viên phải nghiêm túc học tập, nghiên cứu thực tế, chịu sự phân công, chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo cơ sở. Đồng thời, giảng viên cũng cần có một phong thái tự tin, khiêm tốn, giản dị, hòa đồng và cầu thị để tạo được mối quan hệ tốt đối với cán bộ và nhân dân các địa phương khi tham gia nghiên cứu thực tế tại cơ sở.

Công tác nghiên cứu thực tế là một nhiệm vụ quan trọng của giảng viên trường Chính trị, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của từng cá nhân giảng viên và chất lượng giảng dạy của nhà trường. Việc thực hiện công tác nghiên cứu thực tế không khó khăn, phức tạp nhưng để hoạt động này đi vào nề nếp, đòi hỏi có sự nghiêm túc của mỗi giảng viên, sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo nhà trường và sự phối hợp, tổ chức mang tính khoa học của các bộ phận trong Truờng để việc nghiên cứu thực tế ngày càng trở thành một hoạt động thường xuyên, tự giác của mỗi giảng viên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 20002. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, Hà Nội, 20003. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, Hà Nội, 20004. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb. CTQG, Hà Nội, 20005. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb. CTQG, Hà Nội, 20006. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb. CTQG, Hà Nội, 20007. Phan Thanh Khôi, Nâng cao tính thực tiễn trong bài giảng lý luận

chính trị, Thông tin công tác Trường Chính trị, số 1 năm 2000 8. Quyết định số 268/QĐ-HVCT-HCQG ngày 03/02/2010 về việc

ban hành các Quy chế, Quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

9. Thông báo Kết luận số 181-TB/TW ngày 03/09/2008 của Ban Bí thư (khóa X) về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của trường chính trị cấp tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.

10. Quyết định số 184-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

43

Page 44: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ Ở TRƯỜNG CHÍNH

TRỊ TỈNH BÌNH PHƯỚC

Đàm Thị Kim Hương

Phòng NCKH - TT - TL

Công tác nghiên cứu khoa học là một hoạt động không thể thiếu trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trường Chính trị tỉnh Bình Phước là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho hệ thống chính trị ở địa phương. Nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, giảng viên là vừa làm công tác giảng dạy, công tác tham mưu tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, vừa nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn phục vụ cho công tác giảng dạy của nhà trường. Nghiên cứu khoa học (NCKH) đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình nghiên cứu, tích lũy kiến thức của cán bộ, giảng viên và có ý nghĩa vô cùng thiết thực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường.

Hoạt động nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu, chất lượng giảng dạy của giảng viên. Giúp giảng viên mở rộng, tìm hiểu sâu kiến thức chuyên môn để giảng dạy tốt hơn. Để có một bài giảng hấp dẫn, đòi hỏi người giảng viên phải có chuyên môn vững, kiến thức nền rộng. Do đó, để giảng dạy tốt, giảng viên phải tự bồi dưỡng kiến thức cho mình thông qua họat động NCKH. Với hoạt động NCKH, buộc giảng viên phải đọc, suy ngẫm và tìm tòi cái mới, phải giải thích, phân tích, chứng minh vấn đề đặt ra. Những hoạt động tư duy đó làm cho trình độ nhận thức, năng lực nghiên cứu, giảng dạy của giảng viên ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của người học.

Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, kiến thức cũ sẽ rất nhanh chóng bị lạc hậu, nếu giảng viên không tham gia NCKH sẽ khó có thể cập nhật, bổ sung những kiến thức mới, bài giảng sẽ thiếu tính thực tiễn. Chỉ thông qua hoạt động NCKH, buộc giảng viên phải tự tìm tòi, đọc nhiều tài liệu để tìm ra những tri thức mới. Khi giảng viên tích cực tham gia NCKH, kiến thức thường xuyên được cập nhật thì khi đứng trước học viên sẽ tự tin, chững chạc thực hiện tốt bài giảng của mình. Điều đó, sẽ tạo được niềm tin, uy tín của người giảng viên đối với học viên. Có thể nói, uy tín của giảng viên phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực và chất lượng giảng dạy của người giảng viên.

Hoạt động NCKH là một lĩnh vực rất tốt để giảng viên tự khẳng định mình. Thông qua những thành quả NCKH của cán bộ, giảng viên sẽ góp phần quan trọng nhằm khẳng định uy tín của nhà trường. Mỗi bài viết tham gia hội thảo được đánh giá cao, mỗi công trình NCKH ở các cấp Khoa, Trường, Tỉnh được triển khai thực hiện thành công, mỗi bài viết được đăng trên báo, tạp chí chuyên ngành với tên cán bộ, giảng viên của nhà trường sẽ tạo được niềm tin, uy tín của nhà trường. Uy tín của nhà

44

Page 45: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

trường không phải là cái gì đó chung chung, trừu tượng mà nó phải được thể hiện thông qua thành tích đóng góp của từng cán bộ, giảng viên, thành tích của mỗi cá nhân sẽ góp phần làm nên thành tích của tập thể.

Sở dĩ phần trên tác giả đề cập, nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng của hoạt động NCKH, là để chúng ta nhận thấy vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân và tập thể trong việc góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường.

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước được thành lập từ ngày 6/01/1997, tính đến nay đã hơn 15 năm nhưng thực tế hoạt động NCKH của nhà trường chỉ mới được tiến hành từ năm 2010 đến nay. Được sự quan tâm của Ban Giám hiệu, năm 2010 đã triển khai thực hiện thành công 02 đề tài khoa học cấp Trường của Thạc sỹ Nguyễn Thanh Thuyên về vấn đề “Thủ tục chứng thực tại UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Phước - Thực trạng và giải pháp" và đề tài của ThS. Vũ Công Thương: “Nâng cao năng lực của Bí thư Đảng bộ xã ở tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay” được nghiệm thu vào tháng 6 năm 2011 và kết quả được đánh giá xếp loại khá; năm 2012 triển khai thực hiện 02 đề tài cấp Trường. Đề tài: “Công tác nghiên cứu thực tế của đội ngũ giảng viên trường Chính trị tỉnh Bình Phước - Thực trạng và giải pháp” của ThS. Lương Thị Hồng Vân đã được nghiệm thu và kết quả xếp loại khá; đề tài: “Giáo dục pháp luật về phòng chống ma túy cho học sinh, sinh viên các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Phước” của ThS. Lê Văn Quyến đang tiếp tục triển khai nghiên cứu, dự kiến nghiệm thu vào cuối tháng 12 năm 2012.

Trong năm 2012, triển khai nghiên cứu 01 đề tài khoa học cấp tỉnh, hoàn thành thuyết minh 03 đề tài khoa học cấp cơ sở và đang chờ Sở KH&CN tiến hành thẩm định và xét duyệt kinh phí.

Có thể nói, trong những năm qua hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường đã được chi ủy, Ban Giám hiệu nhà trường quan tâm, chỉ đạo sâu sát, đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường như đẩy mạnh triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học cấp tỉnh, cấp trường, cấp khoa; tăng cường tổ chức hội thảo khoa học, phát hành nội san, biên soạn kỷ yếu, tài liệu học tập các môn chưa có giáo trình… Về nội dung, nhìn chung các hoạt động nghiên cứu khoa học đã góp phần nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác nghiên cứu khoa học của nhà trường vẫn còn những hạn chế nhất định.

Thứ nhất, một số cán bộ, giảng viên chưa thật sự quan tâm và nhìn nhận vai trò quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với nhiệm vụ của người giảng viên. Theo quy chế của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, hằng năm, mỗi giảng viên phải đảm bảo số lượng công trình NCKH thì giảng viên mới được đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của người giảng viên, nhưng hiện nay giảng viên của nhà trường chỉ mới thực hiện định mức giờ giảng, chưa thực hiện định mức công trình nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, một số cán bộ, giảng viên chưa nhận thức đúng trách nhiệm đối với nhiệm vụ NCKH. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ

45

Page 46: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

Chí Minh đưa ra định mức công trình NCKH cho giảng viên là nhằm mục đích bắt buộc giảng viên ngoài nhiệm vụ giảng dạy phải tham gia NCKH.

Thứ hai, một số cán bộ, giảng viên chưa có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học nên còn nhiều lúng túng trong việc triển khai nghiên cứu và chưa thật mạnh dạn trong việc đề xuất các đề tài nghiên cứu; chất lượng các bài viết nội san, hội thảo khoa học của một số cán bộ, giảng chưa cao, chủ yếu tập trung vào việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, các hoạt động chuyên môn của nhà trường, chưa mở rộng nội dung nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.

Thứ ba, chưa phát huy được vai trò tham mưu trong công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, trình độ, năng lực phòng tham mưu Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu còn nhiều hạn chế, chưa có kinh nghiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về công tác quản lý khoa học cho nên không tránh khỏi những hạn chế, vướng mắc trong quá trình tham mưu, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học.

Từ những nguyên nhân trên, Ban Giám hiệu nhà trường cần có những định hướng, giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế nhằm đẩy mạnh hoạt động NCKH trong thời gian tới.

Thứ nhất, Ban Giám hiệu nhà trường cần chú trọng hơn nữa hoạt động NCKH, xác định đây là một nhiệm vụ rất quan trọng của nhà trường để từ đó thực hiện những biện pháp hữu hiệu vừa bắt buộc, vừa khuyến khích giảng viên NCKH; cần có các biện pháp giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên về vai trò, tầm quan trọng của công tác NCKH đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của nhà trường; có chủ trương, định hướng, mở rộng nhiều nội dung và hình thức nghiên cứu, tạo thành diễn đàn thi đua nghiên cứu và xem hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động thường xuyên, liên tục để đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường.

Thứ hai, Ban Giám hiệu quan tâm, xem xét hỗ trợ thêm nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học theo định mức kinh phí tương đối phù hợp với khả năng nguồn kinh phí hoạt động của nhà trường trên cơ sở Quyết định số 52/2007/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh ký ngày 18/10/2007 và Quyết định số 45/2010/QĐ-UBND về Ban hành Quy chế quản lý hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Trên cơ sở đó, các phòng, khoa, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu đề xuất, phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu phối hợp với kế toán tham mưu cho Ban Giám hiệu lập dự toán kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Kinh phí hoạt động nghiên cứu khoa học đảm bảo trên cơ sở xây dựng dự toán và phân bổ từ nguồn kinh phí được cấp cho hoạt động thường xuyên của nhà trường. Ngoài kinh phí dự toán từ nguồn kinh phí hoạt động hàng năm của nhà trường, Ban Giám hiệu tranh thủ sự quan tâm, đề xuất với sở Khoa học và công nghệ tỉnh để được hỗ trợ nguồn kinh phí từ ngân sách sự nghiệp khoa học của tỉnh.

Thứ ba, phát huy vai trò tham mưu của phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu trong quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện để cán bộ, giảng viên, đặc biệt là cán bộ phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn về phương pháp nghiên cứu

46

Page 47: Tải nội dung Báo cáo đề dần và 10 Báo cáo tham luận tại đây

khoa học, công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; phát huy vai trò tham mưu của Hội đồng khoa học nhà trường trong việc xây dựng các nội dung, chương trình, kế hoạch hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm định hướng cho cán bộ, giảng viên trong việc viết bài nội san, hội thảo, đề xuất các đề tài khoa học phù hợp với chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy của nhà trường, phù hợp với những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra ở địa phương.

Thứ tư, nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy của cán bộ, giảng viên nhà trường, đặc biệt là giảng viên trẻ cần tích cực tìm hiểu, trau dồi phương pháp nghiên cứu khoa học để tiếp cận và bắt tay vào việc nghiên cứu khoa học vừa rèn luyện kỹ năng nghiên cứu, vừa bổ sung kiến thức, tư duy khoa học hỗ trợ cho bài giảng thành công và có tính thuyết phục cao, tự tin, chủ động trong công tác giảng dạy. Vì vậy, mỗi cán bộ, giảng viên cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về ý nghĩa, vai trò của công tác nghiên cứu khoa học; nhận thức rõ trách nhiệm, nhiệm vụ của mình để tự thân có những nỗ lực, mạnh dạn hơn, đầu tư đúng mức cho hoạt động nghiên cứu khoa học.

Nghiên cứu khoa học là một trong những nội dung hoạt động quan trọng, cơ bản bên cạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường. Đồng thời là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng bên cạnh nhiệm vụ giảng dạy của giảng viên. Chính vì vậy, cần có sự quan tâm, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của nhà trường.

47