Upload
vankien
View
278
Download
19
Embed Size (px)
Citation preview
Tạp chí Khoa học và Công nghệ
SỐ ĐẶC BIỆT CHÀO MỪNG 1O NĂM NGÀY THÀNH LẬP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Mục lục Trang
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên: 10 năm xây dựng và trưởng thành (2004 -2014) 3
Trần Chí Thiện - Vai tro của các nước lớn đôi với sự phát triển của khoa học công nghệ thế giới đến năm 2020 7
Nguyễn Thị Thu Hương, Đỗ Thị Bắc, Nguyễn Thị Ngọc Dung - Phát triển hồng Gia Thanh ở tỉnh Phú Thọ theo
hướng sản xuất hàng hóa 13
Đỗ Quang Quý - Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam 19
Nguyễn Thị Gấm, Phạm Thị Thu Hằng, Hoàng Văn Giáp, Ngô Thị Vân, Trần Văn Thọ - Những yếu tô ảnh
hưởng tới việc tạo động lực làm việc cho cán bộ tại các chi cục thuế thuộc cục thuế tỉnh Vĩnh Phúc 25
Hoàng Thị Thu - Những yếu tô quyết định đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 31
Nguyễn Thanh Minh, Phạm Thị Nga - Một sô giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác
khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên 39
Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Thị Thu Hằng - Tính ổn định của nghiệm kỳ dị của mô hình
tăng trưởng solow 45
Đỗ Thị Thúy Phương - Hoàn thiện công tác kiểm tra thuế tại cục thuế tỉnh Bắc Cạn 49
Nguyễn Thị Lan Anh, Đỗ Thùy Ninh - Vai tro của doanh nghiệp trong tổ chức lại sản xuất ngành chè tỉnh Thái
Nguyên, tầm nhìn 2020 55
Trần Đình Tuấn, Nguyễn Thị Châu, Trần Thị Ánh Nguyệt - Phát triển thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa ở tỉnh Bắc Kạn 61
Vũ Thị Hậu, Mai Văn Tân - Phân tích môi quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế của
thành phô Hồ Chí Minh giai đoạn (1991-2012) 69
Trần Quang Huy, Trần Xuân Kiên - Xuất khẩu nông sản hàng hóa Việt Nam – Trung Quôc: Bất cập và những giải pháp 75
Trần Văn Quyết, Nguyễn Ngọc Lý, Lê Chí Vinh - Sử dụng mô hình phân tích nhân tô khám phá (EFAM) trong
đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ tại ngân hàng nhà nước: Trường hợp nghiên cứu tại chi nhánh Thái Nguyên 83
Phạm Văn Hạnh, Hoàng Thị Huệ - Ảnh hưởng của chuẩn mực xã hội đến hành vi phàn nàn và ý định thay đổi nhà cung cấp của khách hàng 91
Phạm Thị Ngọc Vân - Phát triển xuất khẩu lao động Việt Nam 97
Tạ Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Phương Hoa - Thực trạng hoạt động khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế công
lập trực thuộc sở y tế tỉnh Thái Nguyên và đề xuất giải pháp 103
Nguyễn Thị Phương Hảo - Kết quả thực hiện chương trình 135 trong phát triển kinh tế xã hội ở huyện Võ Nhai,
tỉnh Thái Nguyên 109
Ngô Thị Tân Hương, Phạm Thị Nga, Đào Thị Tân - Bàn về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam 115
Ngô Thị Kim Quy – Phương pháp đơn điệu xây dựng các nghiệm cực trị giải các bài toán giá trị biên tuần hoàn
cấp hai 119
Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Tiên Phong, Hoàng Chí Thanh, Phí Thị Hồng Vân, Trần Thị Tiệp - Một sô bài tập bổ trợ chuyên môn chạy trong giảng dạy và huấn luyện thể thao 125
Journal of Science and Technology
124(10)
N¨m 2014
Phạm Thị Nga, Ngô Thị Tân Hương - Mâu thuẫn trong thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam 131
Nguyễn Việt Dũng, Dương Thanh Tình - Phân tích sự cân bằng tài chính tại doanh nghiệp ngành xi măng niêm
yết tại Việt Nam 137
Đồng Văn Đạt, Lê Thị Bích Ngọc - Hoàn thiện hoạt động marketing – mix tại công ty cổ phần gang thép Thái
Nguyên 143
Nguyễn Quỳnh Hoa, Trần Thị Mai, Nguyễn Thị Thu Hường - Một sô giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo môn toán cao cấp cho sinh viên năm thứ nhất của trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh 151
Thái Thị Thái Nguyên - Lựa chọn và sử dụng phương pháp phân bổ chi phí sản xuất kết hợp tại công ty cổ phần
xi măng Thái Bình 157
Phạm Thị Thanh Mai, Nguyễn Vĩnh Thụy - Nghiên cứu một sô phương án sử dụng nguồn năng lượng tái tạo
cho phát điện ở Việt Nam 165
Ngô Thị Mỹ, Nguyễn Thị Lan Anh - Giải pháp cho hoạt động xuất khẩu chè của Việt Nam 173
Nguyễn Thị Nội, Đàm Thị Hạnh, Lê Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Thủy - Vấn đề bình đẳng giới - qua tìm hiểu dân tộc H’Mông ở Việt Nam 177
Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Một sô vấn đề về thực thi pháp luật chông bán phá giá ở Việt Nam 181
Bùi Thị Thu Hương, Đỗ Đình Long, Lê Ngọc Nương, Đặng Phi Trường, Hà Thị Hoa, Mai Việt Anh - Các
nhân tô ảnh hưởng đến kết quả học tập môn học quản trị học của sinh viên trường Đại học Kinh tế và Quản trị
kinh doanh Thái Nguyên 189
Trần Nhuận Kiên - Nghiên cứu so sánh ảnh hưởng của thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài đến việc làm
tại Hàn Quôc và Việt Nam 195
Nguyễn Khánh Doanh, Phạm Thùy Linh - Tác động của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đôi với xuất khẩu hàng hóa của nhật bản: Phương pháp ước lượng Hausman - Taylor 201
Nguyễn Quang Hợp, Tạ Việt Anh, Nguyễn Thị Phương Thúy - Cải cách chế độ phê duyệt hành chính Hoa Kỳ
và Trung Quôc - Một sô đề xuất cho Việt Nam 207
Ngô Thị Hương Giang – Chuỗi cung ứng mặt hàng chè Thái Nguyên - Những tồn tại và khuyến nghị 213
Nguyễn Việt Phương – Ba ánh xạ phân hình từ Cm vào PN (C) chung 2N + 1 siêu phẳng 219
Nguyễn Vân Thịnh, Tạ Thị Mai Hương, Nguyễn Hiền Lương - Viễn thông Việt Nam trên trường quôc tế -
Triển vọng hay xu thế tất yếu 225
Trần Văn Nguyện,Trần Văn Quyết, Trần Văn Dũng - Đo lường sự tác động của nhân tô trung gian đến môi
quan hệ giữa lực lượng lao động và giá trị sản xuất công nghiệp theo các tỉnh và thành phô, Việt Nam 231
Vũ Thị Loan, Hà Mạnh Tuấn - So sánh việc vận dụng cơ sở kế toán tiền mặt và kế toán dồn tích trong phân tích
báo cáo tài chính 237
Nguyễn Thị Tuân - Điều chỉnh mức lương tôi thiểu vùng – Chặng đường 20 năm chưa về đích 243
Nguyễn Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Thu Hường, Phạm Hồng Trường - Bài toán cây Steiner với khoảng cách
chữ nhật 251
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 3 - 5
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH – ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN: 10 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH (2004 -2014)
Thai Nguyên Economics and Business Administration University: 10 years of
establishment and development (2004 – 2014)
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh,
thuộc Đại học Thái Nguyên được thành lập theo
Quyết định số 136/2004/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8
năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở sáp
nhập và tổ chức lại hai khoa Kinh tế Nông nghiệp
thuộc trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và
Khoa Kinh tế Công nghiệp thuộc trường Đại học
Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên.
Sứ mệnh của Trường là đào tạo nguồn nhân lực
trình độ đại học và trên đại học với chất lượng cao,
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và
hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, kinh doanh và quản lý nhằm phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt ở vùng núi và trung du Bắc Bộ.
Ra đời trong bối cảnh hệ thống giáo dục quốc dân đã có nhiều trường đại học trong lĩnh vực kinh
tế, trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh đã tự tìm cho mình một hướng đi riêng, tạo sự
khác biệt với các cơ sở đào tạo khác về sản phẩm đào tạo và nghiên cứu. Trường kiên định lấy
chất lượng làm mục tiêu hàng đầu, không đào tạo theo diện rộng tất cả các lĩnh vực kinh tế mà
tập trung phát triển những ngành mà xã hội đang cần để góp phần đáp ứng yêu cầu của công
nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Từ ngày thành lập đến nay,
Trường đã không ngừng phát triển và trưởng thành, khẳng định vị trí trọng điểm số một trong
việc đào tạo cung cấp nguồn nhân lực trong lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh có trình độ
cao cho khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ. Ngày đầu thành lập, năm 2004, từ 5 chuyên
ngành đại học, 01 chuyên ngành thạc sĩ ở thời điểm năm 2004, Trường đã xây dựng và phát triển
thêm 12 chuyên ngành ở bậc cử nhân, 2 chuyên ngành ở bậc thạc sĩ và 1 chuyên ngành ở bậc tiến
sĩ. Hiện nay, Nhà trường có 17 chuyên ngành đào tạo bậc đại học, đó là: Kinh tế nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Quản trị kinh doanh thương mại, Tài chính - Ngân hàng, Ngân hàng, Kinh
tế đầu tư, Quản lý kinh tế, Kế toán tổng hợp, Kế toán doanh nghiệp công nghiệp, Tài chính ngân
hàng, Thương Mại quốc tế, Quản trị Marketing, Quản trị kinh doanh tổng hợp, Quản trị doanh
nghiệp công nghiệp, Quản trị Khách sạn du lịch, Luật kinh doanh, Luật kinh doanh quốc tế, Kinh
tế y tế; có 03 chuyên ngành thạc sĩ là: Kinh tế nông nghiệp, Quản lý kinh tế, Quản trị kinh doanh
và có 2 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ là Kinh tế nông nghiệp và Quản lý kinh tế. Bên cạnh đó Nhà
trường còn xây dựng 3 chương trình đại học chất lượng cao, trong đó có 40% số môn dạy bằng
tiếng Anh. Ngoài ra, Nhà trường còn có 3 chuyên ngành đào tạo đại học, 2 chuyên ngành thạc sĩ
và 2 chuyên ngành tiến sĩ liên kết với các trường Đại học uy tín trên thế giới. Các chương trình
đào tạo của Nhà trường thường xuyên được đổi mới theo hướng đảm bảo chuẩn đầu ra và hướng
tới kiểm định chất lượng quốc gia.
Số lượng sinh viên của Nhà trường hiện nay là 11.366 sinh viên. Công tác đào tạo hệ chính quy
theo học chế tín chỉ đã đi vào nề nếp, sinh viên đã chủ động, tự giác trong học tập.
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 3 - 5
4
Quy mô đào tạo trình độ thạc sĩ ngày càng được mở rộng, đặc biệt đối với chuyên ngành Quản lý
kinh tế và Quản trị Kinh doanh. Năm 2013-2014, Nhà trường tuyển sinh được 492 học viên cao
học và 16 NCS nâng tổng số học viên cao học hiện tại lên là 1.399 người, số nghiên cứu sinh là
49 người, trong đó có 277 học viên cao học và 26 nghiên cứu sinh liên kết đào tạo quốc tế. Quy
mô đào tạo SĐH tăng lên nhanh chóng cho thấy uy tín và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cao
cho xã hội của Trường ngày một được khẳng định và nâng cao. Năm học 2013-2014 có thêm 02
NCS bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, 03 NCS khác đang chuẩn bị bảo vệ luận án tại Trường.
Cho đến nay, đã có tổng số 4.879 học viên và sinh viên đã tốt nghiệp (479 thạc sỹ và tiến sỹ,
4400 cử nhân) - những nhà quản lý kinh tế có chất lượng cho khu vực. Lực lượng cán bộ được
đào tạo tại Trường đã và đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và giữ gìn
an ninh quốc phòng ở các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ.
Để đáp ứng với nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực, Nhà trường luôn đổi mới nội dung và phương
pháp đào tạo gắn với yêu cầu của thực tiễn. Nhà trường rất quan tâm và đầu tư thích đáng để biên
soạn, cập nhật và in ấn giáo trình đại học và giáo trình sau đại học. 100% giáo trình giảng dạy và
tài liệu tham khảo đã được cập nhật các thông tin mới nhất. Nhiều cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ nghiên cứu và học tập đã được chú trọng, đáp ứng qui mô đào tạo ngày càng tăng.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, Nhà trường đổi mới cách thức
quản lý, tạo môi trường, cơ chế khuyến khích cán bộ, giảng viên nghiên cứu, sáng tạo, tập trung
nguồn lực đầu tư cho các chương trình nghiên cứu trọng điểm. Từ năm 2004 đến nay, Trường đã
và đang nghiên cứu hàng trăm đề tài khoa học và dự án các cấp, trong đó có 9 dự án quốc tế, 41
đề tài cấp Bộ, cấp Tỉnh, Đại học Thái Nguyên, 296 đề tài cấp cơ sở, tổ chức được 12 hội thảo
khoa học quốc tế với tổng kinh phí hơn 11 tỷ đồng. Trong 10 năm Trường đã công bố hơn 490
bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín trong nước và quốc tế, trong đó có 51 bài
nghiên cứu được công bố trên tạp chí nước ngoài, xuất bản được 5 số tạp chí Kinh tế và QTKD
có mã số ISSN (International Standard Serial Number) bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Nhà trường
cũng đã tổ chức được nhiều cuộc hội thảo khoa học trong nước, thu hút sự quan tâm đông đảo
các cơ quan hoạch định chính sách của Chính phủ, các cơ quan nghiên cứu, các bộ, ngành như:
năm 2008, Trường đã phối hợp với Đoàn Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Thái Nguyên tổ chức Hội
thảo về “Suy giảm kinh tế, từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam”; năm 2012, cùng Đại học Quốc
gia Hà Nội đồng tổ chức “Tọa đàm góp ý cho Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2012”; năm
2013, Nhà trường đã tổ chức thành công 02 Hội thảo quốc tế “Hơp tác kinh tế Việt Nam - Hàn
Quôc: lý thuyết kinh tế và thực tiễn”, và Hội thảo “Hơp tác Kinh tế ASEAN - Hàn Quôc”; tham
gia tư vấn cho Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội về Bảo hiểm Y tế. Năm 2014, tham gia
nghiên cứu “Tổng kết đường lôi đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quôc tế” do Ban Kinh tế Trung ương đặt hàng; tích cực tham gia nghiên cứu 6 đề tài về
“Đổi mới Y tế Việt Nam và kinh tế xã hội các vùng dân tộc thiểu sô phía Bắc” do Ban Tuyên
giáo Trung ương đặt hàng. Những thành tựu này bước đầu đã chứng tỏ uy tín khoa học cũng như
vai trò kết nối của Nhà trường.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, Nhà trường đã rất thành công trong việc mở rộng mối quan hệ
hợp tác quốc tế với các trường đại học có trình độ khoa học tiên tiến trên thế giới như các trường
ở các nước phát triển: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc .v.v. Nhà trường luôn coi phát triển mạnh
các chương trình liên kết đào tạo với các đại học nước ngoài là một giải pháp quan trọng nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo và quốc tế hóa các chương trình đào tạo trong nước. Các chương
trình liên kết đào tạo từ cử nhân đến tiến sĩ với các đại học danh tiếng của New Zealand, Hàn
Quốc, Philipines và Trung Quốc, … trong các lĩnh vực quản trị kinh doanh, quản lý công và kế
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 3 - 5
5
toán đã và đang triển khai đã mang lại cơ hội tiếp nhận công nghệ đào tạo hiện đại, chương trình
và giáo trình tiên tiến, phát triển đội ngũ giảng viên, nâng cấp được cơ sở vật chất của Trường.
Nhà trường luôn coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cả về số lượng và chất
lượng, qui hoạch lâu dài và cân đối hợp lý cơ cấu cán bộ giữa hai khối giảng dạy và phục vụ
giảng dạy. Khi mới thành lập, tổng số CBVC của Nhà trường là 129 người, trong đó có 97 giảng
viên và 32 cán bộ phục vụ. Đến nay, Nhà trường đã có 489 cán bộ viên chức với 349 giảng viên,
trong đó có 6 PGS, 38 tiến sỹ các ngành (nếu tính cả giảng viên kinh tế cơ hữu thuộc Đại học
Thái Nguyên là 7 PGS, 36 tiến sĩ) và 178 thạc sỹ (trên 60% giảng viên có trình độ sau đại học) và
55 giảng viên đang làm nghiên cứu sinh ở trong và ngoài nước.
Bên cạnh sự thành công trong xây dựng đội ngũ, đào tạo, nghiên cứu khoa học, Hợp tác quốc tế,
Nhà trường cũng rất chú trọng tới xây dựng cơ sở vật chất. Hiện nay, Nhà trường đã có 7 tòa nhà
5 tầng đã được đưa vào sử dụng, 2 thư viện là thư viện tại giảng đường GK2 và thư viện ANHE
với tổng số đầu sách là 36.543 cuốn, trong đó số đầu sách gắn với các ngành đào tạo có cấp bằng
của nhà trường: 29.000 cuốn. Đặc biệt gần 1.000 cuốn sách trong thư viện ANHE do tổ chức
Mạng lưới Giáo dục đại học Châu Á (ANHE) tài trợ là các giáo trình mới nhất bằng tiếng Anh
về kinh tế, kinh doanh và quản lý đang được sử dụng trên thế giới, là nguồn học liệu quan trọng
cho các chương trình quốc tế, chương trình chất lượng cao và cho nghiên cứu khoa học.
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh là một tập thể đoàn kết, luôn khắc phục mọi khó
khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được được giao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban giám
hiệu,với thành tích đạt được trong nhiều lĩnh vực, Nhà trường đã nhận được các danh hiệu thi đua
cao quý; cờ đơn vị thi đua xuất sắc của Tỉnh năm 2012- 2013, của Bộ GD&ĐT năm 2013- 2014
và hàng chục bằng khen của Bộ, ngành Trung ương và UBND các tỉnh.
Nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập, xin gửi tới bạn đọc một số bài viết công bố các công
trình nghiên cứu tiêu biểu của giảng viên Nhà trường trong những năm gần đây. Tuyển tập này là
một trong những đóng góp tích cực của Nhà trường cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của cả
nước nói chung và vùng miền núi, trung du Bắc Bộ nói riêng.
PGS.TS. Trần Chí Thiện Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 3 - 5
6
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 7 - 11
7
VAI TRO CỦA CÁC NƯỚC LỚN ĐÔI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ THẾ GIỚI ĐẾN NĂM 2020
Trần Chí Thiện*
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Khoa học và công nghệ là một trọng tâm trong chính sách kinh tế của các nước lớn trong những
thập niên đầu thế kỷ 21. Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn là những đầu tầu khoa học-công nghệ quan
trọng nhất. Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ cũng đã nổi lên như những trung tâm lớn của thế giới
về khoa học công nghệ. Bài báo phân tích tình hình phát triển khoa học công nghệ ở một số nước
lớn và vai trò của các nước này đối với sự phát triển khoa học-công nghệ của thế giới trong thời
gian tới; sự cạnh tranh trong đầu tư cho khoa học công nghệ giữa các trung tâm truyền thống Mỹ,
EU và Nhật Bản với các nước mới nổi Châu Á, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc.
Từ khóa: Vai trò, khoa học-công nghệ, nước lớn, xu hướng đổi mới và phát triển, năm 2020
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Từ lâu, sự phát triển của khoa học công nghệ
thường được khởi đầu và dẫn dắt bởi các
nước thuộc Châu Âu (Pháp, Đức, Anh) và
Mỹ. Sang thế kỷ 20, Mỹ trở thành nước dẫn
đầu; Nhật Bản cũng nổi lên là nước có trình
độ khoa học và công nghệ phát triển cao.
Trong những thập kỷ gần đây, các hoạt động
KH-CN đang nhanh chóng mở rộng ra các
nước Châu Á. Trong đó, sự phát triển KH-CN
chủ yếu được thực hiện bởi Hàn Quốc, Trung
Quốc, Ấn Độ. Với bối cảnh toàn cầu hóa và
tự do hóa thị trường tiếp tục diễn ra mạnh mẽ,
hầu hết các quốc gia đang phát triển đều
nhanh chóng tận dụng thời cơ nhằm từng
bước mở cửa thị trường đối với thương mại
và đầu tư, phát triển hạ tầng khoa học kỹ
thuật, khuyến khích đầu tư cho nghiên cứu và
phát triển. Bài viết này tập trung nghiên cứu
thực trạng và phân tích những xu hướng chính
đối với phát triển khoa học- công nghệ ở một
số nước lớn trên thế giới.
VAI TRÒ CỦA CÁC NƯỚC LỚN ĐẾN SỰ
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
THẾ GIỚI
Sự phát triển khoa học công nghệ tại các
nước lớn
Mỹ luôn có ưu thế vượt trội về KHCN và
luôn đi đầu trong phát triển công nghệ mới.
* Tel: 0989 291958
Gần đây, chính quyền Obama tiếp tục ưu tiên
đầu tư mạnh cho nghiên cứu và triển khai các
lĩnh vực khoa học công nghệ. Cụ thể, ngân
sách dành cho nghiên cứu và phát triển
(R&D) chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) với 2,7% năm 2000 và 2,8%
năm 2011, tương ứng với 415,2 tỷ USD
(2011) (Bảng 1). Mỹ có gần 10 nhà nghiên
cứu/ 1 nghìn người trong độ tuổi lao động.
Nhờ đó, số lượng bằng phát minh, sáng chế
được đăng ký tăng lên từ 157,5 nghìn cái lên
đến trên 224,5 nghìn cái. Số lượng bằng phát
minh, sáng chế/nghìn người dân đạt mức 0,72
vào năm 2011.
Năng lượng sạch được coi như là một công cụ
quan trọng để chấn hưng nền kinh tế Mỹ. Bộ
Năng lượng Mỹ cũng phấn đấu đến 2020, nhu
cầu điện trung bình giảm 15%, cắt giảm khí
thải nhà kính xuống 20% vào năm 2020 và 83
% vào giữa thế kỷ này. Chính phủ Mỹ đặt
mục tiêu đến năm 2025 sẽ giảm 1/3 lượng dầu
nhập khẩu và tăng tỷ lệ điện tạo ra từ các
nguồn năng lượng sạch (năng lượng hạt nhân,
khí đốt tự nhiên, than sạch và năng lượng tái
sinh như gió và mặt trời) lên tới 80% vào năm
2035 (CEA, 2012). Để thực hiện mục tiêu
này, Mỹ sẽ chi 150 tỷ USD để kích thích đầu
tư vào các nguồn năng lượng sạch trong 10
năm tới.
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 7 - 11
8
Bảng 1. Một sô chỉ tiêu về khoa học và công nghệ
Chỉ tiêu Năm Trung
Quốc
Nhật
Bản
Hàn
Quốc EU-27 Mỹ
GDP (tỷ USD) 2000 1192,8 4731,2 533,4 8477,8 9898,8
2011 7203,8 5870,4 1116,2 17590,6 14991,3
Dân số (triệu người) 2000 1246,8 125,7 46,0 482,4 282,5
2011 1324,4 126,5 48,4 502,4 313,1
Bằng sáng chế (nghìn cái) 2000 13,1 125,9 35,0 61,3 157,5
2011 172,1 238,3 94,7 50,4 224,5
Tốc độ tăng trưởng BQ bằng
sáng chế (%)
2000-
2011 26.42 5,97 9,49 -1,76 3,28
Bằng sáng chế/1000 dân 2000 0,01 1,00 0,76 0,13 0,56
2011 0,13 1,88 1,96 0,10 0,72
Số nhà nghiên cứu/ nghìn lao
động (người)
2000 1,0 9,9 5,1 5,2 9,3
2011 1,6 10,4 11,1 7,0 9,5(*)
Chi phí cho đầu tư và phát triển
(% của GDP)
2000 0,9 3,0 2,3 1,9 2,7
2011 1,8 3,3 3,7 2,0 2,8
Chú ý: (*) - số liệu năm 2007. Nguồn: UNSD, 2013; OECD, 2013; WIPO, 2013.
Từ cuối thế kỷ 19, Nhật Bản đã thực hiện cải
cách, phát triển khoa học công nghệ. Đến đầu
thế kỷ 20, Nhật Bản đã nằm trong nhóm các
nước có nền kinh tế phát triển với trình độ
phát triển khoa học công nghệ tiên tiến. Nhật
Bản là một trong những nước có mức đầu tư
cho R&D lớn nhất. Mặc dù có mức tăng
trưởng bình quân giai đoạn 2000-2013 rất
thấp (nhỏ hơn 2%/năm), chi phí cho R&D của
Nhật Bản tăng từ 3% của GDP năm 2000,
tương ứng với khoảng 142 tỷ USD lên 3,3%
của GDP năm 2011, tương ứng với 191 tỷ
USD (OECD, 2013). Với việc chú trọng vào
đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, số lượng
bằng phát minh, sáng chế của Nhật Bản tăng
từ 125,9 nghìn cái lên đến 238,3 nghìn cái
trong giai đoạn 2000-2011, tương ứng với tỷ
lệ 1,88 bằng sáng chế/1000 dân. Trong các
chính sách phát triển hiện nay, KHCN được
coi là bộ phận quan trọng. Kế hoạch 5 năm
2011 – 2015 về KHCN của Nhật Bản đã đề
cập một cách hệ thống và toàn diện đến
những chính sách thúc đẩy khoa học công
nghệ quốc gia với những mục tiêu chính sau:
(1) theo đuổi tăng trưởng bền vững và phát
triển xã hội chất lượng cao trong tương lai;
(2) tiên phong trong giải quyết các vấn đề
toàn cầu; (3) tạo ra những tri thức mới nhất
cho thế giới. Nhật Bản sẽ tiếp tục đẩy mạnh
nghiên cứu cơ bản và phát triển nguồn nhân
lực khoa học công nghệ, với mức đầu tư R&D
kết hợp cả khu vực tư và khu vực công sẽ
vượt 4% GDP vào năm 2020, trong đó đầu tư
R&D chính phủ đạt 1% GDP, ước tính là 25
nghìn tỷ yên Nhật (MEXT, 2012).
Liên minh Châu Âu (EU) vốn là cái nôi về
khoa học công nghệ của thế giới. Với 27 nước
thành viên, EU đạt mức GDP là 17,6 nghìn tỷ
USD vào năm 2011. Chi phí cho đầu tư và
phát triển dao động trong khoảng 2% GDP
của EU (khoảng 357 tỷ USD năm 2011). Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, số lượng
bằng phát minh, sáng chế có dấu hiệu giảm
dần từ mức 0,13 cái/1000 dân năm 2000
xuống 0,1 cái/1000 dân vào năm 2011. Số
lượng tuyệt đối bằng phát minh, sáng chế
cũng giảm xuống, từ hơn 61 nghìn xuống
khoảng 50 nghìn cái trong giai đoạn 2000-
2011. EU nỗ lực đạt mức chi cho R&D đạt
mức 3% của GDP trong toàn khối vào năm
2020 (European Commission, 2011). Trong
thời gian qua, EU cũng đã chuyển hướng sang
nền kinh tế tri thức với sự thay đổi về cơ cấu
dịch vụ cũng như trình độ giáo dục và kỹ
năng của lực lượng lao động. Cũng theo đuổi
mục tiêu tăng trưởng bền vững, EU cũng đưa
ra những chính sách năng lượng mới. Trong
“Chiến lược Châu Âu 2020”, Uỷ ban châu Âu
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 7 - 11
9
khuyến khích các nước Châu Âu chuyển đổi
sang nền kinh tế bền vững, cạnh tranh, đổi
mới và cởi mở hơn với 3 ưu tiên đổi mới về
công nghệ, kinh tế xanh, tạo việc làm và gắn
kết xã hội. Trong ưu tiên về kinh tế xanh:
mục tiêu là đạt được “ba lần 20”: giảm 20%
lượng khí thải nhà kính, giảm 20% tiêu thụ
năng lượng, và tăng sử dụng 20% năng lượng
tái tạo vào năm 2020. Ngoài ra, EU sẽ phải
tăng lực lượng lao động có trình độ nhằm
ngăn chặn sự sụt giảm về năng suất, đặc biệt
cần tăng thêm khoảng 1 triệu nhà nghiên cứu
trong khu vực tư nhân. Các nước Đức, Pháp
và Đan Mạch là những quốc gia đi đầu trong
phát triển năng lượng sạch.
Bắt đầu từ những năm 1980, Trung Quốc đã
bắt đầu cải cách và phát triển lĩnh vực KHCN
bằng việc khởi xướng 4 chương trình lớn, đó
là: nghiên cứu và triển khai những công nghệ
then chốt (1982); Tia sáng (1986); nghiên cứu
và phát triển công nghệ cao (1986) và Ngọn
đuốc (1988). Chính việc nhận ra giá trị của
khoa học, công nghệ và giáo dục như cỗ máy
chiến lược đối với tiến trình phát triển kinh tế
đã mang đến những thành tựu vô cùng to lớn
cho Trung Quốc trong những thập kỷ qua.
Chi phí cho đầu tư và phát triển tăng từ 0,9%
của GDP năm 2000 lên đến 1,8% của GDP
năm 2011, gần bằng mức của EU. Số bằng
phát minh, sáng chế/1000 dân đạt mức 0,13,
cao hơn so với khối EU. Kết quả của việc đầu
tư kinh phí và nguồn lực vào nghiên cứu khoa
học công nghệ đã mang lại cho Trung Quốc
những kết quả quan trọng. Số lượng bằng
phát minh sáng chế tăng từ mức khiêm tốn 13
nghìn cái lên đến 172 nghìn cái trong giai
đoạn 2000-2013, tương ứng với mức tăng
trưởng bình quân hàng năm 26,4% (Bảng 1).
Mặc dù đã vươn lên trở thành một trong
những trung tâm khoa học công nghệ lớn của
thế giới, Trung Quốc vẫn không ngừng nỗ lực
đầu tư mạnh vào lĩnh vực này với những
khoản tiền khổng lồ và kế hoạch phát triển
trong dài hạn. Trung Quốc đặt mục tiêu tăng
đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D)
lên tới 2,2% GDP trong giai đoạn 2011 –
2015, và 2,5% cho đến năm 2020 (World
Bank, 2012). Để trở thành một nền kinh tế tri
thức, đến năm 2030, Trung Quốc kỳ vọng sẽ
nâng số người tốt nghiệp cao đẳng/đại học lên
tới 200 triệu người (World Bank, 2012).
Tương tự như Trung Quốc, Hàn Quốc là một
trong những nền kinh tế Châu Á đã đạt được
những thành công lớn trong việc phát triển
khoa học công nghệ thông qua những khoản
đầu tư lớn và liên tục vào R&D cũng như
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chi phí
cho R&D tăng rất nhanh trong giai đoạn
2000-2011 từ 2,3% lên 3,7% của GDP. Số
lượng nhà nghiên cứu tăng hơn gấp 2 lần.
Kết quả là số lượng bằng phát minh, sáng chế
tăng lên nhanh, từ 35 nghìn chiếc lên 95
nghìn chiếc. Chính phủ Hàn Quốc đặt mục
tiêu nâng cao hiệu quả và tăng quy mô đầu tư
R&D lên mức 5% GDP vào năm 2020
(European Commission, 2011). Chính phủ
Hàn Quốc vào tháng 1/2009 đã nêu ra 17
động lực tăng trưởng mới sẽ góp phần thúc
đẩy kinh tế của quốc gia này trong thời gian
tới, bao gồm: 6 lĩnh vực công nghệ xanh như
công nghệ năng lượng tái sinh mới, công
nghệ xử lý nước thải; 5 ngành có giá trị gia
tăng cao như y tế, giáo dục và 6 lĩnh vực công
nghệ cao như công nghệ thông tin, truyền
thông, rô-bốt thông minh, công nghệ thực
phẩm…(MKE, 2011).
Như vậy, các nước lớn đều đã rất chú trọng
đến hoạt động khoa học công nghệ, coi đây là
nền tảng để tạo động lực mới cho tăng trưởng
kinh tế.
Cạnh tranh Mỹ-Trung về phát triển khoa
học công nghệ
Từ nay đến năm 2020, thế giới sẽ chứng kiến
cuộc chạy đua quyết liệt về KHCN giữa các
nước lớn cũ như Mỹ, Nhật Bản, EU và các
nước mới nổi như Trung Quốc, Hàn Quốc,
Ấn Độ đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc.
Liệu Mỹ có tiếp tục duy trì được vị trí hàng
đầu về khoa học-công nghệ trên thế giới đến
năm 2020? Theo “Báo cáo sức cạnh tranh
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 7 - 11
10
toàn cầu 2008-2009” do Diễn đàn Kinh tế Thế
giới công bố, hiện nay Mỹ vẫn đứng đầu nền
kinh tế có sức cạnh tranh nhất toàn cầu. Mỹ
vẫn chiếm vị trí dẫn đầu thế giới về số lượng
bài báo khoa học (chiếm 35% tổng số bài báo
khoa học toàn cầu), về số bằng phát minh
sáng chế, Mỹ vẫn có số bằng phát minh sáng
chế lớn hơn nhiều so với Trung Quốc. Về
phương diện giáo dục, đầu tư bình quân trên
đầu người trong giáo dục cao đẳng của Mỹ
gấp 2 lần các quốc gia công nghiệp hoá khác,
đại học xếp hạng tốp 20 đầu và tốp 40 đầu
toàn cầu- Mỹ đều chiếm 75%, đại học xếp
hạng tốp 100 đầu- Mỹ chiếm 58%. Về
phương diện nhân tài, Hoa Kỳ có cán bộ
nghiên cứu bằng 37% các quốc gia OECD,
Mỹ có khả năng thu hút những người giỏi
nhất và thông minh nhất đến từ các nước khác
trên thế giới...
Đến 2020, Mỹ vẫn là trung tâm khoa học-
công nghệ và đổi mới toàn cầu. Khi đó, Mỹ
vẫn là nơi tập trung các trường đại học tốt
nhất, đội ngũ nhân tài lớn nhất, các bằng phát
minh có giá trị cao nhất. Ngân sách của chính
phủ chi cho KH-CN và công nghệ xanh giai
đoạn 2011-2020 rất lớn. Dự báo của RAND
(Mỹ) về viễn cảnh công nghệ toàn cầu vào
năm 2020 đã chỉ rõ: Mỹ thuộc vào số 24,1% số
nước có trình độ khoa học tiên tiến nhất, đủ
năng lực để thâu tóm tất cả 16 công nghệ hàng
đầu, trong khi đó, Trung Quốc chỉ thuộc vào số
13,8% nước thành thạo về khoa học, có điều
kiện để đạt được 12 ứng dụng quan trọng.
Về Trung Quốc, nước này đã bắt đầu cải cách
hệ thống khoa học và công nghệ quốc gia từ
những năm 1980. Trong tương lai, Trung
Quốc vẫn không ngừng nỗ lực đầu tư mạnh
vào KH-CN với những khoản kinh phí khổng
lồ và kế hoạch phát triển trong dài hạn. Trung
Quốc đang phấn đấu trở thành nhà sản xuất
lớn, nhà xuất khẩu công nghệ xanh trên thế
giới. Về bằng phát minh và sáng chế, theo dự
báo, Trung Quốc: đến năm 2020, số lượng
cấp bằng phát minh sáng chế hàng năm và số
bài báo khoa học quốc tế được trích dẫn của
người Trung quốc sẽ đứng trong tốp 5 đầu
tiên, tăng sử dụng CN nội địa lên trên 60% và
hạn chế sự phụ thuộc hoàn toàn vào công
nghệ nước ngoài xuống dưới 30%, tiếp thu
các CN cốt lõi về chế tạo và truyền thông, gia
tăng phát triển CN vũ trụ và CN biển, phấn
đấu trở thành cường quốc về CN được bắt đầu
từ việc sử dụng CN của nước ngoài được thay
đổi theo các tiêu chuẩn nội địa của Trung
Quốc (Hoàng Xuân Long, 2012).
Trung Quốc đang phấn đấu đến 2020 trở
thành cường quốc về công nghệ xanh cũng
như về bằng phát minh sáng chế trên thế giới.
Tuy nhiên, năm 2011-2012, về độ mở và sẵn
có của công nghệ, Trung Quốc chỉ đứng thứ
77 trong số 142 quốc gia (Diễn đàn Kinh tế
thế giới, 2012). Về giáo dục, mặc dù số lượng
các trường đại học và số sinh viên tốt nghiệp
ở Trung Quốc đang tăng lên, nhưng Trung
Quốc chưa có một trường đại học nào đứng
trong tốp đầu của thế giới nên Trung Quốc rất
khó có thể trở thành trung tâm thu hút nhân
tài và sáng tạo như Mỹ. Do vậy, Trung Quốc
đến năm 2020, chưa thể là quốc gia dẫn đầu
thế giới về khoa học-công nghệ
KẾT LUẬN
Khoa học và công nghệ là trọng tâm của
chính sách phát triển trên thế giới, là giải
pháp quan trọng nhằm giải quyết các thách
thức toàn cầu đang nổi lên như biến đổi khí
hậu, an ninh năng lượng, an ninh lương thực.
Các nước lớn vẫn đóng vai trò chính đối với
phát triển khoa học công nghệ ở trên thế giới.
Mỹ vẫn là đầu tầu quan trọng nhất trong việc
dẫn dắt, phát triển khoa học công nghệ trên
thế giới. Tuy vậy, thế giới sẽ chứng kiến cuộc
chạy đua quyết liệt về KH-CN giữa các nước
lớn cũ như Mỹ, Nhật Bản, EU và các nước
mới nổi như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ
đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc. Từ nay
đến năm 2020, có thể thấy một số xu hướng
chính của phát triển KH-CN trên thế giới như:
nhiều công nghệ cao quan trọng sẽ được tiếp
tục đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng; tiếp
tục đổi mới chính sách phát triển KH-CN,
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 7 - 11
11
trong đó nhấn mạnh đổi mới hệ thống nghiên
cứu và phát triển của Nhà nước; tăng cường
hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động KH-CN trong
doanh nghiệp; đổi mới chính sách về phát
triển nhân lực KH-CN; tăng cường hợp tác
quốc tế về KH-CN; vai trò của KH-CN là
động lực của sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu;
với sự phát triển của KH-CN, chiến lược phát
triển được điều chỉnh ở cả cấp quốc gia và
doanh nghiệp; sự cách biệt về KH-CN giữa
các nước ngày càng gia tăng.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Bộ KH-CN Trung Quốc (2009), Báo cáo phát
triển KHCN quôc tế 2009, Nxb Khoa học Trung
Quốc.
2. Council of Economic Advisers – CEA (2012),
Economic Reports of the President, White House.
3. European Commission (2011): Innovation
union competitiveness report.
4. International Monetary Fund- IMF (2011), Báo
cáo triển vọng kinh tế thế giới tháng 9/2011.
5. Hoàng Xuân Long (2012), Những xu hướng cơ
bản của KH-CN thế giới trong 10 năm qua và 10
năm tới, Báo cáo cho Hội thảo khoa học “Tác
động của các nước lớn đến nền kinh tế-chính trị
toàn cầu”, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới,
tháng 10/2012.
6. MEXT (2012): The 4th science and technology
basic plan (FY 2011 – FY 2015),
http://www.mext.go.jp/component/english/icsFiles
/afieldfile/ 2012/02/22/1316511_01.pdf.
7. Ministry of Knowledge Economy-MKE, Korea,
http://www.mke.go.kr/language/eng/
policy/Ipolicies_05.jsp#
8. OECD (2013), OECD Statistics Database, ngày
truy cập 22/3/2013, địa chỉ:http://stats.oecd.org/
9. Đức Thắng (2009). Xu hướng phát triển khoa
học công nghệ trong thế kỷ 21, Báo Giao thông
Vận tải, ngày 11/1/2009.
10. United Nation Statistics Division – UNSD
(2013), National Accounts Main Aggregates, ngày
truy cập: 21/3/2013, địa chỉ:
http://unstats.un.org/unsd/ snaama/selbasicFast.asp
11. World Bank (2012): China 2030: Building a
modern, harmonious, and creative high – income
society, truy cập tại địa chỉ: http://www.World
Bank.org/ en/news/2012/02/27/china-2030-
executive-summary
12.World Economic Forum (2008), Global
Competitiveness Report 2008-2009, Geveva,
Switzerland
13. World Intellectual Property Organization –
WIPO (2012), WIPO Statistics Database.
Switzerland.
SUMMARY
THE ROLE OF BIG COUNTRES
IN THE WORLD’S SCIENCE AND TECHNOLOGY UNTIL 2020
Tran Chi Thien* College of Economics and Business Administration - TNU
Science and technology development is usually a central points in economic policies of big
countries during some early decades of the XXI century. USA, EU and Japan have been being
among most important science and technology vehicles. China, South Korea and India are
emerging centers of the world in terms of sciences and technologies.This paper aims to analyze the
science and technology development in some big countries and the role of these countries in the
world’s science and technology development in the coming period; the competition in science and
technology investment between the conventional centers of USA, EU and Japan with the newly
emerging Asian countries, especially between USA and China.
Key words: role, science, technology, big countries, innovation and development, year 2020
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đỗ Đình Long – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0989 291958
Trần Chí Thiện Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 7 - 11
12
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 13 - 18
13
PHÁT TRIỂN HỒNG GIA THANH Ở TỈNH PHÚ THỌ
THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Nguyễn Thị Thu Hương1, Đỗ Thị Bắc2*, Nguyễn Thị Ngọc Dung2 1Trường Đại học Hùng Vương
2Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Phát triển hồng Gia Thanh ở tỉnh Phú Thọ theo hướng sản xuất hàng hóa là hướng đi tích cực, chủ
động nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh về sản phẩm nông nghiệp có tính đặc trưng cao của địa
phương. Tuy nhiên, việc triển khai các hoạt động để phát triển gặp nhiều khó khăn như điều kiện
đất đai manh mún, diện tích trồng phân tán chủ yếu ở quy mô hộ gia đình. Nhận thức của người
dân hạn chế nên trở ngại lớn cho việc ứng dụng khoa học công nghệ mới cho việc trồng, chăm sóc,
phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch và bảo quản, chế biến sản phẩm. Ngành hàng hồng Gia Thanh chưa
phát triển, các mối quan hệ giữa các tác nhân còn lỏng lẻo, chịu sức ép cạnh tranh lớn từ thị
trường. Để giải quyết phần nào các hạn chế đã nêu, theo nhóm tác giả cần thực hiện tốt các giải
pháp chính để phát triển hồng Gia Thanh ở tỉnh Phú Thọ theo hướng sản xuất hàng hóa: Quy
hoạch vùng sản xuất, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, các biện pháp kỹ thuật đến quản lý ngành hàng, không
ngừng phát triển sản xuất hàng hóa bằng tổ chức tốt liên kết sản xuất-tiêu thụ, nâng cao chất lượng
sản phẩm hồng Gia Thanh theo tiêu chuẩn VietGap, GlobalGap và sử dụng các kênh phân phối
thuận tiện nhất tới tay người tiêu dùng.
Từ khoá: Phát triển, hồng Gia Thanh, sản xuất, hàng hóa, Phú Thọ
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi, cách
thủ đô Hà Nội 80 km, có diện tích tự nhiên là
353.342,5 ha, đất nông nghiệp chiếm 27,99
%. Dân số năm 2012 là 1.340.813 người,
trong đó dân số nông thôn chiếm tới 80,12%.
Phú Thọ có 362.442 hộ nông thôn, trong đó
hộ nông nghiệp chiếm 77,56%. Tổng giá trị
sản xuất 47.233.746 triệu đồng, ngành nông
nghiệp chiếm 22,09% [1]. Trong những năm
qua cây hồng Gia Thanh theo hướng sản xuất
hàng hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã phát
triển nhưng còn chậm, chưa ổn định, đời sống
người dân nông thôn cần được cải thiện. Vì
vậy, phát triển cây hồng Gia Thanh theo
hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ nhằm tăng hiệu quả, nâng cao mức
sống của nông hộ, khai thác được thế mạnh.
Cần thực hiện tốt các giải pháp phát triển
hồng Gia Thanh ở tỉnh Phú Thọ theo hướng
sản xuất hàng hóa.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Trong đề tài tác giả sử dụng các phương
pháp tiếp cận chủ yếu theo cách tiếp cận phát
* Tel: 0912 741895; Email: [email protected]
triển nông thôn gồm: Tiếp cận có sự tham gia.
- Chọn điểm nghiên cứu: Đề tài chọn huyện
Phù Ninh, với xã Gia Thanh làm địa điểm
nghiên cứu với 303 hộ trồng hồng Gia Thanh
chọn ra 70 hộ theo hệ thống..
- Mẫu điều tra trung gian: Bán buôn trong
tỉnh: 2 mẫu, bán buôn ngoài tỉnh: 5 mẫu điều
tra, bán lẻ: 65 mẫu, đại lý thu mua, người tiêu
dùng: 48 mẫu.
- Phương pháp phân tích: Bao gồm phân tích
bằng phương pháp thống kê mô tả, thống kê so
sánh, phương pháp phân tích ngành hàng,
phương pháp hội thảo và lấy ý kiến chuyên gia.
- Nhóm chỉ tiêu thể hiện phát triển sản xuất
bưởi, hồng theo chiều rộng:
Diện tích đất/hộ, lao động/hộ, tốc độ tăng,
giảm diện tích, lao động qua các năm, diện
tích trồng bưởi, hồng, sản lượng bưởi, hồng
hằng năm, tổng giá trị sản xuất (GO - Gross
Output), chi phí trung gian (IC - Intermediate
Cost), giá trị gia tăng (VA - Value Added),
thu nhập hỗn hợp (MI - Mix Income), tốc độ
tăng, giảm diện tích, sản lượng, chi phí và giá
trị sản xuất bưởi, hồng qua các năm...
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 13 - 18
14
- Nhóm chỉ tiêu thể hiện phát triển sản xuất
hồng Gia Thanh theo chiều sâu:
+ Năng suất, chất lượng, giá bán hồng Gia Thanh
+ Hiệu quả sử dụng chi phí trung gian, chi phí
lao động, tổng chi phí: GO/IC, VA/IC, MI/IC,
GO/công, VA/công, MI/công, GO/ TC,
VA/TC, MI/TC....
+ Cơ cấu diện tích trồng hồng Gia Thanh...
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỒNG GIA
THANH Ở TỈNH PHÚ THỌ THEO HƯỚNG
SAN XUẤT HANG HÓA
Thực trạng sản xuất, tiêu thụ hồng Gia
Thanh theo hướng sản xuất hàng hóa ở
tỉnh Phú Thọ
Diện tích, năng suất, sản lương hồng Gia
Thanh của tỉnh Phú Thọ
Hồng Gia Thanh tại huyện Phù Ninh là một
trong sáu giống hồng được trồng tại Phú Thọ.
Quả hồng không hạt Gia Thanh to, dạng quả
chia thành bốn múi rất vuông vắn, không lõm
sâu mà vuông thành, khi gọt không phải lẹm
sâu vào phần lõm của quả như hồng Hạc Trì.
Khi xanh quả có màu xanh vàng, khi chín có
màu vàng sáng bóng. Rốn quả có một cái gai
nhỏ. Khi ăn có độ ròn đều, thơm, ngọt mát.
Tỉnh Phú Thọ và địa phương rất chú trọng
khai thác đầu tư giống hồng không hạt Gia
Thanh Phù Ninh qua nhiều dự án trồng và
phát triển sản xuất, đến năm 2012 hiện có
81,35 ha, trong đó cho sản phẩm thu hoạch
29,43 ha. Hồng Gia Thanh phải được nhân
giống bằng hom rễ theo đúng quy trình mới
cho năng suất cao và ổn định.
Về năng suất, năm 2012 tương ứng với loại
tuổi cây hồng Gia Thanh khác nhau, cho sản
lượng quả khác nhau với tổng sản lượng là
4.135,56 tạ và năng suất đạt 140,52 tạ/ha.
Lượng hồng quả phần lớn tại huyện Phù Ninh
đạt 35% tổng sản lượng và vùng lân cận
huyện như Phú Hộ 15%, sau đó xuống tới
thành phố Việt Trì 20%. Điều này cho thấy
thị trường trong tỉnh vẫn đóng vai trò quan
trọng trong việc tiêu thụ hồng quả Gia Thanh
do người dân ưa thích hồng Gia Thanh.
Bảng 1. Diện tích, năng suất, sản lương hồng Gia Thanh của tỉnh Phú Thọ năm 2012
(Phân theo tuổi cây)
Tuổi cây Diện tích
(ha)
Diện tích cho
sản phẩm
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tạ)
Tổng số 81,35 29,43 140,52 4.135,56
- Từ 6 - 10 năm 36,43 5,66 73,45 415,73
- Từ 11 - 20 năm 28,22 17,52 166,5 2.917,08
- Trên 20 năm 16,70 6,25 128,44 802,75
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ số liệu điều tra [2], [3]
Bảng 2. Giá trị sản xuất hồng Gia Thanh của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2008-2012
ĐVT: Triệu đồng
Sản
phẩm 2008 2009 2010 2011 2012
Tốc độ phát triển (%)
2009/
2008
2010/
2009
2011/
2010
2012/
2011
BQ 2008
- 2012
Hồng 5.654,98 6.367,68 5.732,42 7.682,66 9.193,55 112,60 90,02 134,02 119,67 112,92
Loại A 2.387,53 2.875,01 2.771,63 4.043,38 5.865,48 120,42 96,40 145,88 145,06 125,20
Loại B 2.071,42 2.508,87 2.126,73 2.890,22 2.731,4 121,12 84,77 135,90 94,51 107,16
Loại C 1.196,03 983,807 834,067 749,059 596,661 82,26 84,78 89,81 79,65 84,04
Nguồn: Cục Thông kê Phú Thọ [1] và phiếu điều tra [2]
Giá trị sản phẩm tăng lên cả về mặt chất lượng được biểu hiện thông qua số lượng quả loại C (loại
quả phẩm cấp thấp nhất) đã giảm đi rõ rệt năm 2008-2012 bình quân đạt 84,04 %.
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 13 - 18
15
Bảng 3. Tỷ lệ chất lương quả trong giá trị sản phẩm hồng Gia Thanh hàng hóa
của tỉnh Phú Thọ năm 2008-2012 ĐVT: %
Sản phẩm
loại 2008 2009 2010 2011 2012
A 42,22 45,15 48,35 52,63 63,8
B 36,63 39,40 37,10 37,62 29,71
C 21,15 15,45 14,55 9,75 6,49
Nguồn: Tổng hơp từ phiếu điều tra [2]
Giá trị sản phẩm hàng hóa hồng Gia Thanh đã tăng qua từng năm với tốc độ phát triển bình quân
năm 2008-2012 hồng loại A đạt 135,22 %, trong đó năm 2012 tăng mạnh nhất tăng 58,82% so
với năm 2011, được thể hiện qua bảng 4.
Bảng 4. Giá trị sản phẩm hàng hồng Gia Thanh của tỉnh Phú Thọ năm 2008-2012
ĐVT: Triệu đồng
Sản
phẩm 2008 2009 2010 2011 2012
Tốc độ phát triển (%)
2009/
2008
2010/
2009
2011/
2010
2012/
2011
BQ
2008 –
2012
Hồng 3.728,79 3.603,14 3.996,8 5.609,48 7.700,46 96,63 110,93 140,35 137,28 119,88
Loại A 1.660,77 1.890,89 2.223,4 3.496,31 5.552,85 113,86 117,58 157,25 158,82 135,22
Loại B 1.010,85 914,48 984,04 1.368,23 1.592,41 90,47 107,61 139,04 116,38 112,03
Loại C 1.057,17 797,77 789,36 744,94 555,19 75,46 98,95 94,37 74,53 85,13
Nguồn: Tổng hơp từ phiếu điều tra [2]
Hồng Gia Thanh là loại quả có giá trị sản phẩm hàng hóa tăng mạnh với tốc độ phát triển bình
quân qua 5 năm đạt 119,88%. Điều này cho thấy sự tác động của các dự án trồng hồng và mở
rộng diện tích hồng Gia Thanh đã bước đầu có hiệu quả nhất định.
Bảng 5. Tỷ suất quả hàng hóa của hồng Gia Thanh ở tỉnh Phú Thọ năm 2008-2012
ĐVT: %
Sản phẩm 2008 2009 2010 2011 2012
Tốc độ phát triển (%)
2009/
2008
2010/
2009
2011/
2010
2012/
2011
BQ
2008 –
2012
Hồng 56,59 56,59 69,73 73,01 83,76 100,00 123,22 104,70 114,72 119,39
Loại A 69,56 65,77 80,22 86,47 94,67 94,55 121,97 107,78 109,48 108,01
Loại B 48,80 36,45 46,27 47,34 58,30 74,69 126,94 102,30 123,17 104,55
Loại C 88,39 81,09 94,64 99,45 93,05 91,74 116,72 105,07 93,57 101,29
Nguồn: Tổng hơp từ phiếu điều tra [2], [3]
Tỷ suất hàng hóa của quả hồng Gia Thanh cũng tăng đều qua từng năm với tốc độ bình quân năm
2008-2012 tăng 19,39%. Quả hồng loại A cũng có tỷ suất hàng hóa cao nhất tăng bình quân
8,01%. Điều đó khẳng định chất lượng của các loại quả điều tra tăng lên thì tỷ suất hàng hóa cũng
tăng lên.
Kết quả và hiệu quả của hộ trồng hồng Gia Thanh của tỉnh Phú Thọ
Tương tự với hồng Gia Thanh việc tính toán cũng áp dụng với từng giai đoạn tuổi cây trong hộ
trồng hồng Gia Thanh.
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 13 - 18
16
Bảng 6. Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất hồng Gia Thanh của các hộ điều tra
(Tính cho 100 kg hồng quả theo giá tài chính năm 2012)
Diễn giải ĐVT
Hồng Gia Thanh So sánh
(%)
III/I
6 - 10 năm
(I)
11 - 20 năm
(II)
Trên 20 năm
(III)
1. Giá bán (P) 1000đ 5,5 6,5 8,5 154,55
2. Doanh thu (TR) 1000đ 550 650 850 154,55
3. Chi phí trung gian (IC) 1000đ 135,93 104,3 75,5 55,54
4. Giá trị gia tăng (VA) 1000đ 414,07 545,7 774,5 187,05
5. Thu nhập hỗn hợp (MI) 1000đ 394,57 526,2 755 191,35
6. TR/IC Lần 4,05 6,23 11,26 278,24
7. VA/IC Lần 3,05 5,23 10,26 336,76
8. MI/IC Lần 2,90 5,05 10,00 344,50
Nguồn: Tổng hơp từ sô liệu điều tra [2], [3]
Năm 2012 với hồng 6-10 tuổi, một đồng chi
phí bỏ ra mới thu được 2,9 đồng thu nhập hỗn
hợp, và giá trị gia tăng trên chi phí trung gian
bỏ ra mới chỉ đạt 5,23 lần, mức này quá thấp
so với các cây trồng hàng năm và lao động
làm thuê phổ thông. Vì vậy, nếu không có sự
đầu tư quan tâm phát triển thành vùng sản
xuất hàng hóa mà chỉ sản xuất manh mún nhỏ
lẻ thì nhiều hộ trồng hồng Gia Thanh sẽ
không gắn bó với cây hồng do thu nhập hỗn
hợp và giá trị gia tăng rất thấp, người dân
không thể đủ trang trải và sống được nhờ cây
hồng Gia Thanh.
Hồng quả Gia Thanh chủ yếu được tiêu thụ
tại thị trường trong tỉnh, còn đem đi nơi khác
tiêu thụ chỉ khoảng 10% tới các tỉnh Vĩnh
Phúc, Hà Nội.
GIAI PHÁP PHÁT TRIỂN HỒNG GIA
THANH Ở TỈNH PHÚ THỌ THEO HƯỚNG
SAN XUẤT HANG HÓA ĐẾN NĂM 2020
Quy hoạch phát triển cây hồng theo hướng
sản xuất hàng hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- Quy hoạch nguồn lực đất đai: Diện tích
trồng cây ăn quả trong toàn tỉnh năm 2020 đạt
11.350ha, tăng 3.153,1 ha so với năm 2010
Giá trị sản xuất cây ăn quả toàn tỉnh đạt
khoảng 544,999 tỷ đồng năm 2020, trong đó
giá trị của cây bưởi và cây hồng tương ứng
486,75 tỷ đồng, chiếm 89,3% tổng giá trị sản
xuất thu được.
- Quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho sản
xuất cây hồng Gia Thanh của tỉnh Phú Thọ:
Mở rộng các hình thức đào tạo kỹ thuật nghề.
- Nâng cao năng lực tổ chức quản lý kinh
doanh cho người trồng hồng Gia Thanh.
Hoàn thiện chính sách đầu tư công, dịch vụ
công, khuyến nông và xúc tiến thương mại
nhằm tạo ra vùng trồng cây hồng trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ
- Hoàn thiện chính sách dầu tư công, dịch vụ
công của tỉnh, đảm bảo các chính sách về đầu
tư công theo hướng sản xuất hàng hóa một
cách ổn định. Chính sách đầu tư đạt hiệu quả
sẽ cho thấy sự thay đổi tương ứng về cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn.
- Coi trọng đầu tư công, khuyến nông và xúc
tiến thương mại. Phát triển và nâng cao trình
độ của các cán bộ làm công tác khuyến nông
ở các xã và thôn bản, thông qua mở các lớp
bồi dưỡng ngắn ngày và thường xuyên đổi
mới kiến thức. Đồng thời có chế độ chính
sách thoả đáng để đảm bảo đời sống cho các
cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến
công tại cơ sở.
Tổ chức các tác nhân phân phối sản phẩm
quả trong phát triển hồng Gia Thanh theo
hướng sản xuất hàng hóa ở tỉnh Phú Thọ
Từ việc phân tích sự tham gia của các chủ thể
tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu thụ.
Các nhà cung ứng đầu vào của sản xuất; các
nhóm hộ trồng hồng Gia Thanh; các thương
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 13 - 18
17
lái thu mua hồng Gia Thanh đem đi tiêu thụ,
bảo quản; các nhà bán buôn, bán lẻ và cuối
cùng là người tiêu dùng. Để nâng cao giá trị
gia tăng trong chuỗi, các chủ thể này phải liên
kết với nhau vì lợi ích của mình và tôn trọng
lợi ích của các chủ thể khác trong chuỗi.
- Thiết lập thêm các hình thức thành viên
thương mại trong phân phối hồng Gia Thanh.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước, công ty
cổ phần, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
không chỉ bảo đảm việc tiêu thụ sản phẩm
cho nông dân, HTX, các trang trại mà còn
hướng dẫn nông dân thực hiện theo quy trình
VietGAP, tiến tới GlobalGap.
Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất
hồng Gia Thanh ở tỉnh Phú Thọ
- Nâng cao vai trò của hình thưc hơp tác xã,
hiệp hội hồng Gia Thanh, xây dựng cơ chế
quản lý phù hợp, tìm kiếm và chủ động hơn
trong cung ứng nguồn vật tư đầu vào, hỗ trợ
bao tiêu sản phẩm đầu ra cho các hộ xã viên
hợp tác xã. Trong sản xuất, tạo điều kiện để
các hộ chủ động đầu tư cải tạo, chăm sóc
vườn hồng Gia Thanh tốt hơn.
- Hình thưc hộ gia đình: Cần được tập huấn,
đào tạo nhằm cải tiến kỹ thuật trong trồng,
chăm sóc phòng trừ sâu bệnh hại hồng Gia
Thanh nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Hình thưc trang trại: Cần khuyến khích phát
triển các hình thức trang trại có quy mô sản
xuất lớn, quan tâm đặc biệt đến hình thức
trang trại gia đình trồng hồng Gia Thanh.
Hoàn thiện một số chính sách kinh tế vĩ mô
nhằm phát triển sản xuất hồng Gia Thanh
ở tỉnh Phú Thọ
Tỉnh Phú Thọ nói riêng trong sản xuất hồng
Gia Thanh trọng điểm, trước hết cần phải xây
dựng và hoàn thiện một số chính sách sau:
Chính sách đất đai, chính sách vốn, chính
sách phát triển khoa học, công nghệ.
Phát triển hồng quả Gia Thanh theo hướng
liên kết ngành hàng ở tỉnh Phú Thọ
Giải pháp chung để quản lý ngành hàng hồng
quả Gia Thanh của tỉnh Phú Thọ: Quản lý
diện tích vườn hồng, đã cho thu hoạch ổn
định thông qua hệ thống hồ sơ sổ sách ghi
chép của hộ và bản đồ giải thửa. Chuẩn hoá
các qui trình chăm sóc cho từng nhóm cây
phân theo các độ tuổi và hình thức canh tác
khác nhau. Xây dựng các tiêu chí đánh giá
chất lượng hồng Gia Thanh. Hoàn thiện các
quy trình quản lý chất lượng hồng Gia Thanh
đồng bộ từ sản xuất - tiêu thụ. Giải pháp đối
với từng tác nhân ngành hàng hồng quả Gia
Thanh của tỉnh Phú Thọ: Hộ trồng hồng Gia
Thanh của tỉnh, người bán buôn, người bán
lẻ, thị trường đầu ra cho phát triển sản xuất
hồng Gia Thanh của tỉnh Phú Thọ
TÀI LIỆU THAM KHAO 1. Cục Thống kê Phú Thọ (2012), Niên giám
thông kê tỉnh Phú Thọ năm 2013, Phú Thọ.
2. Nguyễn Thị Thu Hương, Kết quả điều tra
nghiên cưu phát triển cây hồng Gia Thanh ở tỉnh
Phú Thọ năm 2008 - 2012.
3. UBND huyện Phù Ninh (2012), Báo cáo dự án
phát triển hồng Gia Thanh của huyện giai đoạn
2008-2012.
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 13 - 18
18
SUMMARY
DEVELOPMENT OF GIA THANH PERSIMMON IN PHU THO PROVINCE
TOWARDS COMMODITY PRODUCTION
Nguyen Thi Thu Huong1, Do Thi Bac2*, Nguyen Thi Ngoc Dung2 1Hung Vuong University
2College of Economics and Business Administration - TNU
Development of Gia Thanh persimmon in Phu Tho province towards commodity production is a
positive and initiative direction in order to exploit the potentials and advantages of agricultural
products that have highly speciality of the local. However, the implementation of development
activities has met many difficulties such as fragmented soil conditions and scattered planting
acreage that primarily in household scale. Reorganization of people is limited and this is a major
obstacle to the application of science and technology for cultivation, care, pest control, harvest and
storage, process of product. The sector of Gia Thanh persimmon has not developed yet,
relationships between actors loose, suffer big competition pressure from market. To address partly
these mentioned limitations, according to the authors, it is necessary to well perform key solutions
for Gia Thanh persimmon development towards commodity production: Production area planning,
infrastructure facility support, technical measures and category anagement, continuous
development of commodity production linked by well-organized production-consumption,
improvement of product quality of Gia Thanh persimmon towards VietGap standard, GlobalGap
standard and use the most convenient distribution channels to consumers.
Keywords: Development, Gia Thanh persimon, production, commodity, Phu Tho
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Đỗ Quang Quý – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 741895; Email: [email protected]
Đỗ Quang Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 19 - 24
19
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Đỗ Quang Quý*
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho
một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng được thống nhất giữa các quốc gia
đưa và nhận lao động. Ba giai đoạn xuất khẩu lao động Việt Nam cho thấy số người xuất khẩu lao
động và thu ngoại tệ đều gia tăng qua các năm. Tuy nhiên, xuất khẩu lao động Việt Nam vẫn còn
những hạn chế: Từ người lao động, chi phí môi giới cao, bị lừa đảo. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu
lao động Việt Nam: 1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về xuất khẩu lao động và chuyên
gia; 2. Nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương trong quản lý hoạt động
của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động; 3. Các doanh nghiệp cần có các biện pháp tích cực để
gia tăng số lượng và nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu; 4. Bồi dưỡng và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động; 5. Doanh nghiệp cần đầu tư
vốn, cơ sở vật chất phục vụ cho xuất khẩu lao động; 6. Triển khai có hiệu quả mô hình liên kết về
xuất khẩu lao động; 7. Nâng cao hơn nữa hiệu quả dịch vụ xuất khẩu lao động; 8. Tăng cường và
nâng cao hiệu quả công tác quản lý lao động trong thời gian lao động làm việc ở nước ngoài.
Từ khóa: Xuất khẩu lao động, Xuất khẩu lao động Việt Nam, Giải pháp xuất khẩu lao động Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Cho tới nay, Việt Nam có khoảng 500.000 lao
động và chuyên gia đang làm việc ở trên 40
nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm
ngành nghề. Số lao động này hàng năm đã gửi
về nước một lượng ngoại tệ đáng kể (gần 2 tỷ
USD/năm). Nguồn thu nhập cao từ hoạt động
xuất khẩu lao động đã góp phần cải thiện đời
sống của chính họ, giúp nhiều gia đình trở
nên khá giả, nhiều lao động sau khi về nước
đã trở thành các nhà đầu tư và chủ doanh
nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao
động khác, đóng góp vào sự phát triển và ổn
định kinh tế xã hội. Xuất khẩu lao động còn là
công cụ để chuyển giao công nghệ tiên tiến từ
nước ngoài, giúp đào tạo đội ngũ lao động có
chất lượng, nâng cao tay nghề và rèn luyện
tác phong công nghiệp cho người lao động,
đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác Quốc tế
giữa nước ta với các nước trên thế giới. Vì
vậy, xuất khẩu lao động hiện đang được coi là
một trong những ngành kinh tế đối ngoại
mang lại nhiều lợi ích to lớn cả về mặt kinh tế
và xã hội, là giải pháp tạo việc làm quan trọng
và mang tính chiến lược của nước ta.
* Tel: 0912 290326; Email: [email protected]
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
Xuất khẩu lao động
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về định
nghĩa xuất khẩu lao động. Nếu như trước đây
với thuật ngữ "Hợp tác Quốc tế lao động",
xuất khẩu lao động được hiểu là sự trao đổi
lao động giữa các quốc gia thông qua các
Hiệp định được thoả thuận và ký kết giữa các
quốc gia đó; hay là sự di chuyển lao động có
thời hạn giữa các quốc gia một cách hợp pháp
và có tổ chức. Trong hành vi trao đổi này,
nước đưa lao động đi được coi là nước xuất
khẩu lao động, còn nước tiếp nhận sử dụng
lao động thì được coi là nước nhập khẩu lao
động. Tóm lại, có thể hiểu: Xuất khẩu lao
động là hoạt động kinh tế của một quôc gia
thực hiện việc cung ưng lao động cho một
quôc gia khác trên cơ sở những Hiệp định
hoặc hơp đồng có tính chất pháp quy đươc
thông nhất giữa các quôc gia đưa và nhận lao
động[2],[7].
Ý nghĩa của xuất khẩu lao động
- Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh
tế: Ở nhiều nước trên thế giới, xuất khẩu lao
động đã là một trong những giải pháp quan
trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng
Đỗ Quang Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 19 - 24
20
lên của nước họ và thu ngoại tệ bằng hình
thức chuyển tiền về nước của người lao động
và các lợi ích khác. Xuất khẩu lao động luôn
đem lại lợi ích kinh tế của cả ba bên: Tăng
nguồn thu nhập ngoại tệ cho Nhà nước, tổ
chức hoạt động xuất khẩu lao động thu được
lợi nhuận từ các chi phí dịch vụ xuất khẩu lao
động. Đặc biệt, người lao động tăng được thu
nhập của mình, giúp cho cuộc sống gia đình
được đầy đủ và cải thiện hơn. Vì vậy, việc
quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật
phải luôn luôn bám sát đặc điểm này của hoạt
động xuất khẩu lao động, làm sao để mục tiêu
kinh tế phải là mục tiêu số một của mọi chính
sách pháp luật về xuất khẩu lao động.
- Xuất khẩu lao động là hoạt động mang tính
xã hội: Bởi vì đó là một trong những chủ
trương, biện pháp nhằm thực hiện chính sách
xã hội. Khi một người lao động đi xuất khẩu
lao động không những giải quyết việc làm của
riêng họ mà với mức thu nhập từ lao động ở
nước ngoài sẽ là nguồn hỗ trợ có hiệu quả cho
gia đình họ để đầu tư, giải quyết việc làm cho
những người lao động trong nước. Trong xu
hướng hội nhập Quốc tế hiện nay, xuất khẩu
lao động còn có tác dụng tích cực trong việc
mở rộng quan hệ hợp tác giữa các quốc gia
với nhau.
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
CỦA VIỆT NAM
Các hình thức xuất khẩu lao động của Việt Nam
- Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài, bao gồm: Đi theo Hiệp định
Chính phủ ký kết giữa hai nhà nước; hợp tác
lao động và chuyên gia; thông qua doanh
nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng
công trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm
ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài; thông
qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ
cung ứng lao động; người lao động trực tiếp
ký hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức
nước ngoài.
- Xuất khẩu lao động tại chỗ, là hình thức các
tổ chức kinh tế của Việt Nam cung ứng lao
động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở
Việt Nam bao gồm: Các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài; khu chế xuất, khu công
nghiệp, khu công nghệ cao; tổ chức, cơ quan
ngoại giao, văn phòng đại diện…của nước
ngoài đặt tại Việt Nam.
Các giai đoạn xuất khẩu lao động của Việt Nam
- Giai đoạn từ 1980 đến 1990. Việt Nam bắt
đầu xuất khẩu lao động từ năm 1980, đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài với hình thức
chủ yếu là hợp tác sử dụng lao động thông
qua các Hiệp định Chính phủ trực tiếp ký kết.
Trong giai đoạn này, gần 245.000 lao động và
chuyên gia đang làm việc tại các nhà máy, xí
nghiệp trong nước được đưa đến 4 nước Xã
hội chủ nghĩa (Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp
Khắc và Bungari). Bên cạnh đưa người đi lao
động, Việt Nam còn ký kết về hợp tác chuyên
gia trong các lĩnh vực: y tế giáo dục, nông
nghiệp với một số quốc gia châu Phi (Libya,
Angeri, Angola,Mozambique,Congo, Madaga
sca), số người đưa sang là 7.200 người; Trung
Đông (Iraq) khoảng 18.000 người. Bên cạnh
đó, gần 24.000 thực tập sinh và học sinh học
nghề tại các nước Đông Âu đã chuyển sang
lao động trong những năm thập niên 80. Tổng
số lao động được đưa đi trong thời kì này gần
300.000 người[1],[4].
Theo thống kê của cơ quan chuyên trách, từ
năm 1980 đến 1989, ngân sách nhà nước đã
thu được khoảng 800 tỷ đồng và hơn 300
triệu USD, một khoản tiền lớn tại thời điểm
lúc đó. Ngoài giảm bớt số người thất nghiệp
trong nước, người lao động được tiếp cận với
công nghệ mới và gửi về nước một khối
lượng hàng hóa tiêu dùng có giá trị hàng ngàn
tỷ đồng.
- Giai đoạn 1991 đến 2001. Kinh tế Việt Nam
đang trong thời kỳ đổi mới dẫn đến những
thay đổi về cơ chế hoạt động xuất khẩu lao
động. Ngày 9/11/1991 Nghị định về đưa
người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài ra
đời[6]. Cụ thể, các tổ chức doanh nghiệp
được cấp phép kinh doanh dịch vụ xuất khẩu
lao động thông qua hợp đồng ký với nước
ngoài. Cơ chế này đã đẩy mạnh hoạt động
Đỗ Quang Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 19 - 24
21
xuất khẩu lao động Việt Nam, mở rộng thị
trường xuất khẩu. Số lao động đưa đi nước
ngoài tăng đều mỗi năm. Tổng lao động xuất
khẩu trong giai đoạn này gần 160.000
người[1],[4].
- Giai đoạn 2001 đến nay. Xuất khẩu lao
động diễn ra trong một môi trường cạnh tranh
gay gắt vì xuất khẩu lao động mang lại lợi ích
kinh tế khá lớn. Hơn nữa, xuất khẩu lao động
diễn ra trong môi trường suy giảm kinh tế khu
vực: Nhiều nước trước đây thu nhận nhiều lao
động nước ngoài như: Hàn Quốc, Nhật Bản,
Thái Lan…cũng đang phải đối đầu với tỉ lệ
thất nghiệp ngày càng gia tăng. Điều này hạn
chế rất lớn đến việc tiếp nhận lao động và
chuyên gia nước ngoài trong thời gian từ 5
đến 10 năm đầu của thế kỷ 21. Từ năm 2006
đến 2008, trung bình mỗi năm có hơn 83.000
lao động xuất khẩu sang nước ngoài, chiếm
khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết
việc làm trong cả nước. Năm 2008, Hàn Quốc
nhận thêm 12.000 lao động Việt Nam mới và
tái tuyển dụng 6.000 lao động, tăng số lao
động Việt Nam tại quốc gia này lên gần
50.000 lao động. Đến năm 2011, Việt Nam
có khoảng 60.000 lao động tại Hàn Quốc và
85.650 tại Đài Loan - giữ vị trí thứ 2 về tổng
số lao động nước ngoài tại Đài Loan. Năm
2011, riêng số lao động Việt Nam đang có
mặt tại bốn thị trường lớn nhất là Đài Loan,
Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản là hơn
200.000 người (40% tổng số lao động Việt
Nam tại nước ngoài). Năm 2013 người Việt
Nam lao động ở ngoại quốc tăng lên hơn
88.000, vượt con số chỉ tiêu của Nhà nước.
Và đến nay, Việt Nam đã có hơn 500.000 lao
động đang làm việc ở các quốc gia[1],[4].
Đánh giá chung về xuất khẩu lao động Việt Nam
Về lợi ích
- Giải quyết việc làm. Mặc dù nền kinh tế của
Việt Nam đã phục hồi và tiếp tục tăng trưởng,
phần lớn người Việt Nam vẫn trong tình trạng
nghèo đói, thất nghiệp, trình độ giáo dục chưa
cao. Mong muốn cải thiện đời sống là nguyên
nhân chính thúc đẩy người lao động Việt
Nam đi làm việc tại nước ngoài. Theo thống
kê năm 2009, Việt Nam có 46,7 triệu lao
động, chiếm hơn 50% dân số, trong đó 90%
hoạt động ở khu vực kinh tế ngoài nhà
nước[2],[8]. Bên cạnh đó, mỗi năm có thêm
hơn 1 triệu người đến tuổi lao động. Thêm
vào đó, mức độ gia tăng của lực lượng lao
động trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị và tỷ lệ thời gian nhàn rỗi ở nông thôn
tương đối cao đặt ra những vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động. Trong đó, xuất
khẩu lao động được xem là một giải pháp hữu
hiệu để giảm tỷ lệ thất nghiệp tại Việt Nam.
- Tạo nguồn thu ngoại tệ. Lao động xuất khẩu
của Việt Nam qua đào tạo ngày càng tăng,
người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về
nước lượng kiều hối trung bình mỗi năm từ
1,6 tỷ đến 2 tỷ USD. Trong đó từ Hàn Quốc
trên 700 triệu USD, Nhật Bản hơn 300 triệu
USD[8]. Năm 2010, Việt Nam đứng thứ 16
trong 30 quốc gia có lượng kiều hối chuyển
về nhiều nhất, là một trong 10 quốc gia có thu
nhập lớn từ xuất khẩu lao động [2].
- Lơi ích khác. Xuất khẩu lao động còn tạo
điều kiện thay đổi đời sống của người dân.
Tại một số làng xã tỉ lệ xuất khẩu lao động
cao, nhiều người từ nghèo trở nên giàu có,
ước tính trung bình số tiền gửi về hằng năm
có thể đạt từ 40 đến 100 tỷ đồng. Thêm vào
đó, nhiều người trở về nước đã trở thành các
nhà đầu tư, gây dựng doanh nghiệp, tạo việc
làm cho lao động địa phương. Một lợi ích
khác là xuất khẩu lao động giúp một bộ phận
lao động tiếp cận với máy móc và công nghệ
tiên tiến, cơ chế quản lý hiện đại, tác phong
công nghiệp, nâng cao trình độ và tay nghề.
Mặt hạn chế
- Từ người lao động: Mặc dù tỷ lệ lao động
được đào tạo tăng gần 35% nhưng trình độ và
kỹ năng của nhiều lao động Việt Nam chưa
thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động
trong và ngoài nước, dẫn đến chất lượng lao
động chưa cao. Một số lao động ở nước ngoài
thiếu ý thức, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng
không tốt đối với lao động Việt Nam tại nước
Đỗ Quang Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 19 - 24
22
ngoài; bỏ trốn và lưu trú bất hợp pháp: điển
hình tại Hàn Quốc (40%), Nhật Bản (30%)
và Đài Loan (10-15%)[3]. Tại châu Âu cũng
có tình trạng nhiều lao động Việt Nam tự ý
phá vỡ hợp đồng và lưu trú bất hợp pháp.
Ứng phó với tình trạng này, Nhật Bản tuyên
bố sẽ mạnh tay hơn trong việc kiểm soát
người lao động nước ngoài, nếu bỏ trốn khi
bắt được sẽ trục xuất ngay về nước. Về phía
Hàn Quốc, chính quyền đã cân nhắc đến biện
pháp hạn chế việc tổ chức kỳ kiểm tra tiếng
Hàn hoặc cắt giảm chỉ tiêu tiếp nhận lao động
Việt Nam, đồng thời thực hiện các giải pháp
truy quét tình trạng lao động nước ngoài cư
trú bất hợp pháp.
- Chi phí môi giới cao: Mặc dù theo luật định,
mức trần tiền môi giới cho các thị trường cứ
mỗi năm của hợp đồng không vượt quá một
tháng lương của người lao động, tuy nhiên
trong thực tế, nhiều công ty xuất khẩu đòi hỏi
người lao động phải đóng phí môi giới cao
hơn. Theo sự tính toán lao động làm việc ở
Đài Loan: Mức lương tối thiểu người lao
động được hưởng là 15.840 Đài tệ/tháng, sau
khi trừ các chi phí, người lao động chỉ tiết
kiệm mỗi tháng khoảng 2.876 Đài tệ (số tiền
này chỉ bằng 1/2 số tiền chi cho môi giới)
tương ứng khoảng 87 USD/tháng. Như vậy,
người lao động làm việc quần quật trong 1
tháng chủ yếu chỉ để trả cho các loại phí.
- Bị lừa đảo: Đã có nhiều hiện tượng lừa đảo
xuất khẩu lao động từ cá nhân tự phát đến có
tổ chức tại Việt Nam. Điều này xuất phát một
phần từ nhu cầu muốn được xuất khẩu lao
động từ phía người dân trong nước. Như năm
2011, kỳ thi tiếng Hàn đạt kỷ lục về lượng thí
sinh tham dự với gần 67.000 người, gấp hơn 2
lần so với năm 2010 và hơn 8 lần so với năm
2009, trong khi số lượng hồ sơ phía Hàn
Quốc đăng kí lựa chọn là 15.000 và chỉ nhận
tuyển khoảng 13.000 người. Theo số liệu của
công an Thành phố Hà Nội, riêng khoảng thời
gian từ đầu năm 2006 đến giữa 2007, tại Hà
Nội có hơn 2.000 nạn nhân bị lừa đảo xuất
khẩu lao động sang Đài Loan và Hàn Quốc,
tổng lợi nhuận chiếm đoạt là hơn 52 tỷ đồng.
Nhiều lao động Việt Nam tại Malaysia[5] bị
lừa đảo hợp đồng lao động và bị ngược đãi,
đánh đập, bỏ đói, tìm kiếm sự can thiệp để về
Việt Nam. Đối với việc xuất khẩu lao động
sang Nga, người lao động rất dễ bị lừa và
không thể kiếm được chỗ làm hợp pháp nếu
không qua doanh nghiệp xuất khẩu lao động
đã được cấp phép. Từ 2004 đến 2008, khoảng
5.400 người phải chấp nhận vay mượn tiền để
đi lao động tại các thị trường như Hàn Quốc,
Nhật Bản, Đài Loan và Úc nhưng không đi
được vì bị lừa…
GIAI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Từ những ưu điểm, hạn chế, đồng thời để
nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu
lao động Việt Nam. Theo chúng tôi, từ phía
Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động
cùng đồng bộ thực hiện tốt các giải pháp:
1, Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về
xuất khẩu lao động và chuyên gia, bổ sung và
sửa đổi những cơ chế, chính sách còn thiếu
hoặc không phù hợp, như chính sách đầu tư
mở thị trường; chính sách hỗ trợ đào tạo và
tín dụng cho người lao động đi xuất khẩu,
chính sách tín dụng cho người đi làm việc ở
nước ngoài, chính sách bảo hiểm xã hội,
chính sách khuyến khích chuyển tiền và hàng
hóa về nước, chính sách tiếp nhận trở lại sau
khi hoàn thành nhiệm vụ.
2, Nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các Bộ,
ngành và địa phương trong quản lý hoạt động
của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và
chuyên gia: Trong trường hợp cần thiết có thể
hỗ trợ về vốn, cơ sở vật chất cho các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động; tăng cường công
tác thông tin, kiểm tra, kiểm soát hoạt động
của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và
chuyên gia; ngăn chặn và xử lý kịp thời các
hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong xuất khẩu
lao động; xử lý nghiêm khắc những người đi
xuất khẩu lao động tùy tiện.
3, Các doanh nghiệp cần có các biện pháp
tích cực để gia tăng số lượng và nâng cao chất
Đỗ Quang Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 19 - 24
23
lượng lao động xuất khẩu nhằm đáp ứng tốt
nhu cầu thị trường lao động nước
ngoài. Trước mắt, các doanh nghiệp một mặt
vẫn phải tập trung vào việc xuất khẩu lao
động phổ thông cho các thị trường Đài Loan,
Malaysia... nhằm giải quyết vấn đề việc làm
cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong nước. Mặt khác, phải tìm mọi
giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động
xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị
trường, tiến tới phấn đấu để có đủ khả năng
và điều kiện xuất khẩu lao động có kỹ thuật.
4, Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu
lao động. Đội ngũ này cần phải được chuyên
môn hoá, được đào tạo một cách cơ bản về
nghiệp vụ xuất khẩu lao động, phải có những
kiến thức, kỹ năng và hiểu biết tốt về Luật lao
động, Luật hình sự, Luật dân sự... và các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về xuất khẩu lao động và chuyên gia.
5, Doanh nghiệp cần đầu tư vốn, cơ sở vật
chất phục vụ cho xuất khẩu lao động, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động.
Cần đầu tư cơ sở vật chất, nguồn vốn xây
dựng cơ sở đào tạo, bổ sung đội ngũ giáo viên
có trình độ cao. Định hướng cho người lao động
để một mặt chủ động được nguồn lao động, mặt
khác nâng cao chất lượng đào tạo trên cơ sơ
hoàn thiện chương trình, nội dung và phương
pháp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu.
6, Triển khai có hiệu quả mô hình liên kết về
xuất khẩu lao động nhằm giảm phiền hà và
tốn kém cho người lao động. Thông qua mô
hình liên kết, doanh nghiệp đến với người lao
động có sự giám sát hỗ trợ của chính quyền
địa phương. Các doanh nghiệp kết hợp chặt
chẽ với chính quyền địa phương để tuyển lao
động; doanh nghiệp công khai minh bạch với
chính quyền địa phương và người lao động về
các điều kiện của hợp đồng, đặc biệt là các
khoản đóng góp của người lao động, qua đó
giúp cho người lao động giảm được các chi phí
không cần thiết, tạo điều kiện làm các thủ tục
hành chính và vay vốn trang trải cho những chi
phí ban đầu tại các Ngân hàng địa phương.
7, Nâng cao hơn nữa hiệu quả dịch vụ xuất
khẩu lao động, trước hết là phải rút ngắn thời
gian từ khi người lao động có nhu cầu đi làm
việc ở nước ngoài đến khi họ được xuất cảnh,
đặc biệt là giảm thiểu thời gian làm thủ tục và
thời gian chờ đợi của người lao động. Đây là
một trong các giải pháp góp phần giảm chi
phí phát sinh ban đầu của ngươi lao động
nhằm thu hút đông đảo người lao động đi xuất
khẩu lao động.
8, Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác
quản lý lao động trong thời gian lao động làm
việc ở nước ngoài. Với mỗi thị trường, cần có
các giải pháp thích hợp nhằm giảm thiểu các
rủi ro có thể xảy ra do việc quản lý lao động
gây nên. Cần xử lý kiên quyết những trường
hợp lao động vi phạm hợp đồng, yêu cầu phải
bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp theo
các điều khoản của hợp đồng đã ký. Đồng
thời, Nhà nước phải mạnh tay xử lý nghiêm
những doanh nghiệp để xảy ra những tiêu cực
trong xuất khẩu lao động./.
TAI LIỆU THAM KHAO
1. Báo Hà Nội mới (2011), Hiệu quả từ xuất khẩu
lao động, CTTĐT, 15.1
2. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (2009),
Việc làm và xuất khẩu lao động – những vấn đề
đặt ra, 3.6
3. Báo điện tử Tầm Nhìn (2011), Những vấn đề
bất cập khi xuất khẩu lao động, 20.3
4. Cục Quản lý lao động nước ngoài (2005),Tình
hình xuất khẩu lao động của Việt Nam, Bản gốc
lưu trữ, 7.4
5. Hiệp hội Xuất khẩu Lao động Việt Nam (2011),
Tình hình thị trường lao động Malaysia
6. Hội đồng Bộ trưởng (1991), Ban hành quy chế
về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có
thời hạn ở nước ngoài, NĐ số370/HĐBT, 9.11
7. TS. Tạ Đức Khanh (2010), Giáo trình kinh tế
lao động, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội, NXB Giáo dục Hà Nội.
8. Thời báo Kinh tế Việt Nam (2007),
VnEconomy, Báo điện tử 3 .8
9. Trang website liên quan:
http://hoptaclaodong.vn,
xuatkhaulaodongnhatban.org…
Đỗ Quang Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 19 - 24
24
SUMMARY
SOLUTION TO PROMOTE THE VIETNAMESE LABOR EXPORT
Do Quang Quy* College of Economics and Business Administration - TNU
Export of labor are economic activities of a country that implement the labor supply to an other
country on the basis of contractual agreements in regulations which is agreed between the nations
to give and receive. The three stages of Vietnamese labor export showed that amount the labor
export and foreign exchange earnings have increased over the years. However, Vietnamese labor
export still be restricted: From the employee; High brokerage costs; Fraud. Solution to promote the
Vietnamese labor export: 1. perfect the systems of legislation on labor export and experts; 2. To
improve the accountability of Ministries, branches and localities in managing of the business
operations of labor export; 3. They should have positive measures to increase the quantity and
improve the quality of labor export; 4. To foster and enhance the quality of the staffs who service
in labor export; 5. The enterprises need the invested capital, facilities to serve the labor export; 6.
Implement effective of link models of labor export; 7. Promoting more efficient of labor export
services; 8. Strengthen and improve the efficiency of the management of labor during the time of
working in overseas.
Keywords: Labor Export, Export Vietnam labor, labor export solution Vietnam
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Trần Chí Thiện – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 290326; Email: [email protected]
Nguyễn Thị Gấm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 25 - 30
25
NHỮNG YẾU TÔ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CHO
CÁN BỘ TẠI CÁC CHI CỤC THUẾ THUỘC CỤC THUẾ TỈNH VĨNH PHÚC
Nguyễn Thị Gấm*, Phạm Thị Thu Hằng,
Hoàng Văn Giáp, Ngô Thị Vân, Trần Văn Thọ Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Đề tài được thực hiện nhằm mục đích xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc tạo động lực làm
việc của cán bộ tại một số Chi cục Thuế thuộc Cục Thuế Tỉnh Vĩnh Phúc. 234 cán bộ của 4 chi
cục đã được lựa chọn để nghiên cứu. Trong đó, 207 mẫu hợp lệ được sử dụng để phân tích. Mô hình
nghiên cứu bao gồm 6 yếu tố (lương và phúc lợi, đào tạo và thăng tiến, mối quan hệ với cấp trên, mối
quan hệ với đồng nghiệp, tính chất công việc và điều kiện làm việc) đã được kiểm định nhằm xác định
các nhân tố ảnh hưởng tới việc tạo động lực làm việc của nhân viên các Chi cục Thuế.
Kết quả kiểm định mô hình hồi quy cho thấy các yếu tố cơ hội đào tạo và thăng tiến, điều kiện làm
việc và tính chất công việc có ảnh hưởng tích cực đối với tạo động lực làm việc của nhân viên của
các Chi cục Thuế. Trong đó, điều kiện làm việc có ảnh hưởng mạnh nhất. Căn cứ vào những kết
quả nghiên cứu thực tế trên, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm tạo động lực làm việc cho cán bộ
của Cục Thuế Vĩnh Phúc.
Từ khóa: Yếu tô ảnh hưởng, tạo động lực làm việc, lương và phúc lơi, đào tạo và thăng tiến, môi
quan hệ với cấp trên, môi quan hệ với đồng nghiệp, điều kiện làm việc và tính chất công việc.
MỞ ĐẦU*
Tạo động lực cho ngườі lаo động đаng ngày
càng được quаn tâm và là chìa khóa dẫn đến
thành công của mỗi tổ chức, mỗi đơn vị trong
nền kinh tế thị trường. Để sử dụng hợp lý và
hiệu qủa nguồn nhân lực trong tổ chức của
mình, giúp cho nhân viên phát huy tối đa
năng lực của bản thân, tạo động lực làm việc
cho người lao động là một trong những yếu tố
quan trọng quyết định sự thành công của một
tổ chức.
Tạo động lực làm việc giúp con người được
thoả mãn, yên tâm làm việc lâu dài với tổ
chức, giúp tổ chức tiết kiệm được thời gian và
chi phí, vì việc tuyển dụng hay điều động
người lao động mới nắm bắt được công việc,
có năng lực để bổ sung vào vị trí bỏ trống là
một quá trình tiêu tốn thời gian và chi phí đào
tạo. Ngoài ra, họ còn mất một thời gian dài để
hoàn thiện các kỹ năng cũng như các mối
quan hệ cần thiết đáp ứng yêu cầu công việc,
giảm các sai sót, tạo niềm tin và tinh thần
đoàn kết trong nội bộ đơn vị. Người lao động
sẽ phát huy năng lực của mình, giúp cho tổ
* Tel: 0912 805980
chức hoạt động hiệu quả hơn, tạo được sự gắn
bó của người lao động đối với tổ chức.
Làm gì để tạo động lực làm việc? Những yếu
tố nào ảnh hưởng đến động lực làm việc của
nhân viên đối với tổ chức? Làm thế nào để
nhân viên hài lòng với công việc và tạo động
lực làm việc cho họ? Làm thế nào để nhân
viên có tinh thần làm việc nhiệt tình hăng
say? Đây là điều mà nhà quản trị luôn quan
tâm và trăn trở. Khi đã có được động lực làm
việc, người lao động sẽ làm việc tích cực hơn
và yên tâm làm việc lâu dài với tổ chức, từ đó
dẫn đến hiệu suất và hiệu quả công việc cao
hơn. Nhân viên không có động lực làm việc
sẽ dẫn đến năng suất lao động của họ thấp.
Nhân viên có động lực làm việc sẽ thỏa mãn
hơn trong công việc, sẽ ít đổi chỗ làm, ít nghỉ
việc và làm việc có hiệu quả cao hơn.
Ngành thuế Vĩnh Phúc là đơn vị hành chính
sự nghiệp mang đặc thù của một đơn vị quản
lý nhà nước về lĩnh vực quản lý thuế. Các đơn
vị Nhà nước thường ít năng động và kém hấp
dẫn đối với người lao động. Hiệu quả kinh tế
và khả năng cạnh tranh thấp, khả năng tạo
việc làm, thu nhập hạn chế,......đang là thực tế
hiện nay tại phần lớn các đơn vị Nhà nước.
Nguyễn Thị Gấm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 25 - 30
26
Từ thực tế của đơn vị, trong thời gian gần đây
tình trạng cán bộ thuế có thời gian công tác đã
lâu trong ngành Thuế xin chuyển công tác
hoặc ra ngoài làm có xu hướng tăng lên, hay
một số thí sinh tham gia thi tuyển công chức
thuế có kết quả thi cao, trúng tuyển nhưng lại
không lựa chọn ngành thuế mà lựa chọn
ngành khác điều đó làm cho Lãnh đạo Cục
Thuế và lãnh đạo các Chi cục thuế cũng
không khỏi trăn trở.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu liên quan đến tạo động lực làm việc
(Nguyễn Thị Mai, 2004; Trần Kim Dung,
2005; Vũ Hữu Uyên, 2008; Châu Văn Toàn,
2009; Ngô Thị Bích Ngọc, 2012; Phạm Việt
Hồng, 2013;...) Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới
việc tạo động lực cho cán bộ các chi cục thuế
thuộc Cục Thuế Tỉnh Vĩnh Phúc.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến
hành đề tài nghiên cứu “Những yếu tố ảnh
hưởng tới việc tạo động lực làm việc cho cán
bộ tại các chi cục thuế thuộc Cục Thuế
Tỉnh Vĩnh Phúc”.
MỤC ĐÍCH, NỘI DUNG, THỜI GIAN VA
PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU
* Mục đích nghiên cưu Đề tài được thực
hiện nhằm mục đích xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến việc tạo động lực làm việc của cán
bộ công chức, viên chức thuế tại một số Chi
cục Thuế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, để từ
đó giúp cho ngành thuế thực hiện tốt hơn mục
tiêu phát triển chiến lược con người và nâng
cao vị thế cạnh tranh, cũng như đáp ứng đòi
hỏi ngày càng cao của cán bộ công chức, viên
chức thuế trong chiến lược cải cách hệ thống
thuế giai đoạn từ nay đến năm 2020.
* Nội dung nghiên cưu của đề tài là những
yếu tố ảnh hưởng tới việc tạo động lực làm việc
cho cán bộ của ngành thuế Vĩnh Phúc, bao
gồm: lương và phúc lợi, đào tạo và phát triển,
quan hệ công việc (cấp trên và đồng nghiệp),
tính chất công việc và điều kiện làm việc.
* Thời gian nghiên cưu: Đề tài tiến hành thu
thập số liệu điều tra thực tế tháng 1-2/2014.
* Địa điểm nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu
được thực hiện tại các Chi cục Thuế thuộc
Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc.
* Phương pháp thu thập sô liệu
- Lựa chọn địa điểm nghiên cứu: Để đảm bảo
tính đại diện, chúng tôi đã lựa chọn 4 chi cục
Thuế thuộc Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc, đại
diện cho các chi cục thuế của tỉnh Vĩnh Phúc
bao gồm: Chi cục Thuế TP Vĩnh Yên, Chi cục
Thuế huyện Bình Xuyên, Chi cục Thuế thị xã
Phúc Yên và Chi cục Thuế huyện Tam Đảo.
Đây là các chi cục lớn, có thể đại diện cho các
chi cục khác trong Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu: Đề tài
được thực hiện điều tra chọn mẫu tổng thể 4
chi cục được lựa chọn.
- Đối tượng nghiên cứu và tiêu chí chọn mẫu
nghiên cứu của đề tài là toàn bộ cán bộ công
chức, viên chức công tác tại 4 chi cục từ 1
năm trở lên.
Phiếu điều tra đã được gửi cho 234 cán bộ
thuộc 4 chi cục (Chi Cục Thuế thành phố
Vĩnh Yên 83 phiếu, Chi cục Thuế huyện
Bình Xuyên 45 phiếu, Chi cục Thuế Thị xã
Phúc Yên 62 phiếu và Chi cục Thuế Huyện
Tam Đảo là 44 phiếu). Số phiếu thu về 210
phiếu và phiếu hợp lệ để tiếp tục phân tích là
207 mẫu, đảm yêu cầu của nghiên cứu
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH
Mô hình hồi quy được sử dụng để xác định
các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo động lực
làm việc cán bộ các chi cục thuế, thuộc Cục
Thuế tỉnh Vĩnh Phúc. Phân tích nhân tố được
thực hiện để gộp biến, hệ số Cronbach’s
Alpha được sử dụng để kiểm độ tin cậy của
dữ liệu và ma trận tương quan được kiểm
định để kiểm định tính hợp pháp của dữ liệu.
Kết quả kiểm định cho thấy các biến đủ độ
tin cậy để đưa vào mô hình hồi quy.
Biến phụ thuộc là yếu tố “tạo động lực làm
việc” và các biến độc lập bao gồm “lương và
phúc lơi”,”cơ hội đào tạo và thăng
tiến”,”môi quan hệ với cấp trên”,”môi quan
hệ với đồng nghiệp”, “đặc điểm công việc”
Nguyễn Thị Gấm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 25 - 30
27
và “ điều kiện làm việc”. Mô hình có dạng:
Yi = B0 + B1X1i + B2 X2i +B3 X3i + … Bk Xki + εi,
Trong đó:
Yi= biến phụ thuộc (tạo động lực làm việc)
Xk= các biến độc lập (các nhân tố ảnh hưởng tới tạo động lực làm việc, bao gồm: X1
(Lương và phúc lợi); X2 (Cơ hội đào tạo và Phát triển); X3 (Mối quan hệ với cấp trên);
X4 (Mối quan hệ với đồng nghiệp) X5 (Đặc điểm công việc) và X6 (Điều kiện làm việc).
B0 = hằng số, Bk = các hệ số hồi quy (i > 0), và εi = sai số
Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Có mối quan hệ tích cực giữa
lương và phúc lợi với động lực làm việc của cán bộ các Chi cục Thuế thuộc Cục Thuế
Vĩnh Phúc.
Giả thuyết 2: Có mối quan hệ tích cực giữa cơ
hội đào tạo và thăng tiến với động lực làm việc của cán bộ các Chi cục Thuế thuộc Cục
Thuế Vĩnh Phúc.
Giả thuyết 3: Có mối quan hệ tích cực giữa
mối quan hệ với cấp với động lực làm việc
của cán bộ các Chi cục Thuế thuộc Cục Thuế
Vĩnh Phúc.
Giả thuyết 4: Có mối quan hệ tích cực giữa
mối quan hệ với đồng nghiệp với động lực
làm việc của cán bộ các Chi cục Thuế thuộc
Cục Thuế Vĩnh Phúc
Giả thuyết 5: Có mối quan hệ tích cực giữa
đặc điểm công việc với động lực làm việc của
cán bộ các Chi cục Thuế thuộc Cục Thuế
Vĩnh Phúc.
Giả thuyết 6: Có mối quan hệ tích cực giữa
điều kiện làm việc với động lực làm việc của
cán bộ các Chi cục Thuế thuộc Cục Thuế
Vĩnh Phúc.
KẾT QUA VA THAO LUẬN
Mô hình hồi quy đã được kiểm định nhằm
xác định các nhân tố ảnh hưởng tới tạo động
lực làm việc của cán bộ các chi cục thuế
thuộc Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc với các biến
như lương và phúc lợi, cơ hội đào tạo và
thăng tiến, mối quan hệ với cấp trên, mối
quan hệ với đồng nghiệp và tính chất công
việc. Kết quả kiểm định bằng phần mền SPSS
cho kết quả như sau:
Bảng 1: Kết quả mô hình hồi quy
Model Summaryb
Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Durbin-
Watson
1 0.880a 0.775 0.768 0.47911617 2.057
a. Predictors: (Constant), 1. Lương và phúc lợi, 2. Cơ hội đào tạo và thăng tiến, 3. Mối quan hệ với
cấp trên, 4. Mối quan hệ với đồng nghiệp, 5. Tinh chất công việc, 6. Điều kiện làm việc
b. Dependent Variable: Động lực làm việc
(Nguồn: Kết quả phân tích sô liệu điều tra)
Kết quả bảng 1 cho thấy R2 = 0,775 có nghĩa là các biến độc lập trong mô hình có thể giải thích
được 77,5% sự thay đổi của biến phụ thuộc (động lực làm việc của cán bộ), còn lại là phụ thuộc
vào các biến khác không nằm trong mô hình.
Nhìn vào kết quả bảng 2, ta thấy hệ số F = 113,997 và Sig = 0.000 (< 0.05), mô hình hồi quy có ý
nghĩa và kết quả hồi quy có thể sử dụng được.
Bảng 2: ANOVAb (Phân tích phương sai)
ANOVAb
Model Sum of Squares df Mean Square F Sig.
1
Regression 157.010 6 26.168 113.997 0.000a
Residual 45.681 199 0.230
Total 202.691 205
a. Predictors: (Constant), 1. Lương và phúc lợi, 2. Cơ hội đào tạo và thăng tiến, 3. Mối quan hệ với
cấp trên, 4. Mối quan hệ với đồng nghiệp, 5. Tinh chất công việc, 6. Điều kiện làm việc
b. Dependent Variable: Động lực làm việc
Nguyễn Thị Gấm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 25 - 30
28
Bảng 3 đưa ra kết quả hệ số của mô hình hồi quy. Hệ số VIF trong bảng hồi quy có kết quả dao
động từ 1-5 vì vậy không có hiện tượng đa cộng tuyến. Mô hình có ý nghĩa và có thể tiếp tục
phân tích.
Bảng 3: Coefficientsa (Hệ sô phóng đại phương sai)
Coefficientsa
Model
Unstandardized
Coefficients
Standardized
Coefficients t Sig.
Collinearity
Statistics
B Std.
Error Beta Tolerance VIF
(Constant) 0.001 0.033 0.033 0.974
1. Lương và phúc lợi 0.103 0.062 0.103 01.656 0.099 0.293 3.409
2. Cơ hội đào tạo và thăng
tiến 0.187 0.071 0.187 2.616 0.010 0.222 4.506
3. Mối quan hệ với cấp
trên 0.085 0.078 0.085 1.085 0.279 0.187 5.353
4. Mối quan hệ với đồng
nghiệp 0.096 0.055 0.096 1.741 0.083 0.374 2.677
5. Tinh chất công việc 0.171 0.077 0.172 2.210 0.028 0.187 5.354
6. Điều kiện làm việc 0.332 0.066 0.331 5.016 0.000 0.260 3.850
a. Dependent Variable: Động lực làm việc
Bảng kết quả hồi quy đa biến cho thấy 3 trong
6 nhân tố thuộc mô hình có quan hệ tuyến
tính với tạo động lực làm việc của nhân viên
với mức ý nghĩ Sig. < 0,05. Bao gồm: điều
kiện làm việc, cơ hội đào tạo và thăng tiến,
tính chất công việc . Điều này có nghĩa là
chúng ta có cơ sở để bác bỏ giả thuyết H0
rằng không có mối quan hệ tuyến tính nào
giữa cơ hội đào tạo và thăng tiến (giải thuyết
2), điều kiện làm việc (giải thuyết 6), và Tính
chất công việc (giải thuyết 5) với tạo động
lực làm viêc; chấp nhận H1 (giả thuyết thay
thế) - có mối quan hệ giữa tích cực giữa các
yếu tố này với tạo động lực làm việc.
3 biến Lương và phúc lơi (giả thuyết 1), Môi
quan hệ với đồng nghiệp (giả thuyết 4) và
Môi quan hệ với cấp trên (giả thuyết 3) có
mức ý nghĩa Sig. > 0,05. Vì vậy, có cơ sở để
bác bỏ giả thuyết H1, chấp nhận giả thuyết H0
rằng không có mối liên hệ tuyến tính với việc
tạo động lực làm việc của nhân viên với 3 yếu
tố trên.
Các hệ số B đều lớn hơn 0. Theo bảng kết quả
hệ số hồi quy đa biến, phương trình hồi quy
có dạng như sau:
Y1 = 0.001 + 0.103 X1 + 0.187 X2 (*) + 0.085
X3 + 0.096X4 + 0.172X5(*) + 0.331X6
(*)
(*) ý nghĩa ở mức 0.05
Khi các yếu tố khác không đổi, nếu Cơ hội
đào tạo và thăng tiến thêm 1 đơn vị, động
lực làm việc bình quân của nhân viên tăng
thêm 0,187 đơn vị và ngược lại.
Khi các yếu tố khác không đổi, nếu Tính chất
công việc tăng thêm 1 đơn vị, động lực làm
việc bình quân của nhân viên ltăng thêm
0,171 đơn vị và ngược lại.
Yếu tố Điều kiện làm việc có hệ số B cao
nhất là 0,332. Khi các yếu tố khác không đổi,
nếu Điều kiện làm việc tăng thêm 1 đơn vị,
động lực làm việc bình quân của nhân viên
tăng lên 0,332 đơn vị và ngược lại.
Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu thực tế
trên, đề tài đề xuất một số giải pháp được
trình bày ở phần sau.
Giải pháp nhằm tạo động lực làm việc cho
nhân viên các chi cục thuế thuộc Cục Thuế
Tỉnh Vĩnh Phúc
Căn cứ vào kết quả phân tích và nghiên cứu
mô hình ở mục trên, một số các giải pháp sau
được đề xuất.
Nâng cao cơ sở vật chất tạo điều kiện làm việc
của cán bộ công chức. Mặc dù, đã được Cục
thuế quan tâm trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất
như: trang thiết bị, máy móc làm việc có thể nói
là rất tốt. Tuy nhiên, điều kiện làm việc của các
Chi cục cần được cải thiện hơn như:
Nguyễn Thị Gấm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 25 - 30
29
- Có bếp ăn tập thể cho cán bộ ở lại buổi trưa
- Có chỗ nghỉ trưa cho những cán bộ nhà ở xa.
- Quan tâm, tạo điều kiện về chỗ ở cho cán bộ
công chức cụ thể: Xây nhà ở công vụ cho cán
bộ mới chuyển công tác hoặc những cán bộ
chưa có nhà ở. Cấp đất cho những cán bộ có
thời gian công tác lâu năm trong ngành để ổn
định cuộc sống, yên tâm công tác.
- Các Chi cục thuế cần được chủ động trong
việc mua sắm tài sản, các trang thiết bị thay
vì được trang bị từ Tổng cục Thuế như hiện
nay, để giảm lãng phí trong trang bị và sử
dụng trang thiết bị.
Chính sách đào tạo và thăng tiến. Kết quả
nghiên cứu cho thấy cơ hội đào tạo và thăng
tiến có ảnh hưởng đến mức độ tạo động lực
làm việc của nhân viên. Vì vậy, cần
- Đổi mới công tác đào tạo và chính sách sử
dụng cán bộ, công chức: Thực hiện khảo sát,
đánh giá thực trạng và nhu cầu nhân lực của
đơn vị; áp dụng các chương trình bồi dưỡng
công chức tiên tiến; xây dựng hệ thống chức
danh vị trí việc làm cán bộ, công chức, quy
định rõ và cụ thể về quyền hạn, chức năng,
nhiệm vụ gắn với trách nhiệm, quyền lợi.
- Xây dựng mô hình chuẩn về đào tạo cán bộ
thuế, trong đó quy định rõ cách thức đào tạo
cho từng loại cán bộ, công chức. Xây dựng
các hình thức đào tạo như đào tạo tập trung,
đào tạo theo chuyên môn công việc...để tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuế.
- Nâng cao tính chủ động trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng tại chỗ, xem công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ thường xuyên
của đơn vị. Tăng cường hợp tác quốc tế về
đào tạo chuyên sâu tại các nước tiên tiến, mời
các chuyên gia nước ngoài tổ chức các khóa
bồi dưỡng chuyên sâu các chức năng quản lý
thuế cho các chuyên gia, giảng viên kiêm
chức và cán bộ trể có năng lực.
- Phân loại cán bộ theo trình độ, chuyên
ngành đào tạo để áp dụng cơ chế tuyển dụng
và đào tạo phù hợp.
- Tổ chức thí điểm thi tuyển một số chức danh
lãnh đạo chi cục thuế; chú ý đào tạo, tuyển
chọn được nguồn nhân lực có chất lượng
bằng các hình thức khác như có chính sách
thu hút nhân tài về làm việc tại các Chi cục
Thuế thuộc Cục thuế Tỉnh Vĩnh Phúc.
- Cơ cấu lại nguồn nhân lực theo chức năng
quản lý, đảm bảo giảm dần tỷ trọng cán bộ,
công chức làm ở các bộ phận gián tiếp để
tăng cường nguồn nhân lực cho những chức
năng quản lý thuế chính, đặc biệt là chức
năng, kiểm tra thuế đảm bảo yêu cầu quản lý
thuế theo chức năng.
- Hàng năm thực hiện tốt công tác đánh giá,
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý; xây dựng
kế hoạch và triển khai thực hiện có chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức theo nhu cầu đào tạo đối với công chức
- Có chính sách khuyến khích nhân viên vươn
lên trong công việc, như nếu làm tốt sẽ được
khen thưởng, nâng lương trước hạn, thăng
chức lên đội trưởng, đội phó các đội thuế.
Chính sách liên quan tới tính chất công việc
Kết quả nghiên cứu cho thấy tính chất công
việc có ảnh hưởng tới mức độ tạo động lực
làm việc của nhân viên, mức ảnh hưởng này
có độ mạnh thứ 3 sau Điều kiện làm việc và
cơ hội đào tạo và thăng tiến. Vì vậy:
- Cần tiếp tục quan tâm chăm lo nhiều hơn
đến nhân viên, chú trọng bố trí nhân viên làm
đúng người đúng việc giúp họ phát huy được
trình độ, năng lực, phát huy thế mạnh của
từng nhân viên, họ sẽ yêu công việc của họ
hơn, khi ấy công việc sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
- Khuyến khích để cán bộ nhân viên tham gia
lao động sáng tạo đóng góp ý kiến mạnh dạn
đề xuất phương thức làm việc tốt hơn.
Các giải pháp khác
- Các chi cục cần tiếp tục quan tâm chăm lo
nhiều hơn đến đời sống của cán bộ, công
chức; thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên và
sử dụng từ nguồn kinh phí tiết kiệm chi
thường xuyên của đơn vị để tăng bổ sung thu
nhập cho cán bộ công chức, giúp cải thiện
mức thu nhập của cán bộ.
Nguyễn Thị Gấm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 25 - 30
30
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao
nhận thức cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ, công
chức về văn hóa công sở. Cán bộ, công chức
phải có tác phong tốt. Tác phong của người
công chức có văn hóa ở công sở thể hiện cách
giải quyết công việc dứt khoát, có nguyên tắc,
tôn trọng người giao tiếp.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho
Ban lãnh đạo Chi cục Thuế có cái nhìn tổng
quan về công tác quản trị nguồn nhân lực nói
chung và hoạt động nhằm tạo động lực nói
riêng của Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc, để từ đó
đề xuất các chính sách liên quan đến công tác
này phù hợp với điều kiện ngành thuế, xứng
tầm với nền kinh tế đang chuyển mình để hội
nhập với quốc tế.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Nguyễn Thị Mаі (2004), Luận văn “Tạo động
lực cho ngườі lаo động tạі công ty Tư vấn thіết kế
Xây dựng trực thuộc Bộ Xây dựng”
2. Trần Kim Dung (2005), “Đo lường mưc độ thỏa
mãn đôi với công việc trong điều kiện của Việt
Nam”, Tạp chí Phát triển Khoa học Công nghệ,
Đại học Quốc Gia TP.HCM, tập 8 (số 12).
3. Trần Kіm Dung (2009), Quản trị Nhân sự, Nhà
xuất bản Thống kê, Hà Nộі.
4. Ngô Thị Ngọc Bích (2012). Đo lường sự thoả
mãn công việc người lao động tại Công ty TNHH
MTV cấp thoát nước Kiên Giang. Luận văn Thạc sĩ
5. Đіnh Tіến Dũng (2000), Hіệu quả hoạt động
củа lаo động quản lý, Nhà xuất bản Lаo động - Xã
hộі, Hà Nộі
6. Nguyễn Vân Đіềm & Nguyễn Ngọc Quân chủ
bіên (2007), Gіáo trình Quản trị nhân lực, Nxb
Đạі học Kіnh tế Quốc dân, Hà Nộі
7. Nguyễn Hữu Thân (2010), Quản trị Nhân sự.
Nxb Lаo động - Xã hộі
8. Vũ Thị Uyên (2008), Luận án Tіến sỹ "Tạo
động lực cho lаo động quản lý trong các doаnh
nghіệp nhà nước ở Hà Nộі đến năm 2020”
9. Xà Thị Bích Thủy (2010), Luận văn Thạc sỹ
"Hoàn thіện công tác tạo động lực lаo động tạі
Ngân hàng TMCP Ngoạі thương Vіệt Nаm Chі
nhánh Đăk Lăk".
10. Châu Văn Toàn (2009), Các nhân tô ảnh
hưởng đến sự thỏa mãn công việc của nhân viên
khôi văn phòng ở Tp. Hồ Chí Minh. Luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.
11. Phạm Việt Hồng (2013). Ảnh hưởng của quản trị
nguồn nhân lực tới mưc độ thỏa mãn công việc của
cán bộ Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh. Luận văn Thạc
sĩ, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh.
SUMMARY
FACTORS INFLUENCING WORK MOTIVATION
OF EMPLOYEES WORKING AT THE SELECTED TAX DIVISION,
DEPARTMENT OF TAXATION, VINH PHUC PROVINCE
Nguyen Thi Gam*, Pham Thi Thu Hang,
Hoang Van Giap, Ngo Thi Van, Tran Van Tho College of Economics and Business Administration - TNU
The study was conducted to identify factors that influenced work motivation of staffs at the
selected tax divisions, Department of Taxation, Vinh Phuc Province. 234 staffs of the 4 selected
tex department were surveyed. Of which 207 questionnaires were returned and valid for the further
analysis. A regression model of 6 factors (salary and benefits, training and development,
relationship with supervior, relationship with colleagues, job characteristics and working
condition) were tested to identify the influencing factors. The research findings showed that
training and development, job characteristics and working condition were possitively influenced
work motivation of the staffs working at the tax devisions, Departments of Taxation. Especially,
working condition had a stronggest influence on work motivation. Based on these findings, some
recommendations were proposed.
Key words: Factors, work motivation, salary and benefits, training and development, relationship
with supervisor, relationship with colleagues, working condition and work characterisitics
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:06/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Bùi Nữ Hoàng Anh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 805980
Hoàng Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 31 - 37
31
DETERMINANTS OF ECONOMIC GROWTH IN VIETNAM
Hoang Thi Thu*
College of Economics and Business Administration - TNU
SUMMARY This study explores factors that determine the economic growth in Vietnam by using time-series
model in 1988-2013. The study shows that there are strong and positive effects of domestic
investment and foreign direct investment on Vietnamese economic growth as a channel of
increasing the stock of capital. Exchange rate and Asian financial crises also determine the
economic growth. However, human capital and trade in Vietnam are not yet the channels that
increase Vietnam’s economic growth.
Keywords: determinant, economic growth, FDI, domestic investment, Vietnam
INTRODUCTION*
Recognized as a premier target for the
economic development, economic growth and
its determinants have attracted increasing
attention in both theoretical and applied
research. Literature on economic growth
showed that there are a several partial theories
discussing the role of various factors in
determining economic growth. In neoclassical
growth model, such as Solow’s growth
model, investment and labor are emphasized
as important determinants of economic
growth. The endogenous growth theory of
Romer (1986, 1990) and Lucas (1988) added
human capital and innovation as the new
factors for explaining economic growth.
Besides, labor, human capital, domestic
investment, openness and some non economic
factors showed both insignificant and
significant effects on economic growth in
several empirical researches.
Since the launch of market-oriented economic
reforms in 1986, Vietnam move towards trade
liberalization. Market orientation, open-
economy and competition for foreign direct
investment with other regional and global
markets were important policies to
Vietnamese government restructuring the
economy. Economic growth increased
dramatically in Vietnam over time. In 2013,
the GDP value was nearly seven times that of
* Tel: 0989 910591
1986. Nearly three decades since 1986, the
Vietnamese economy has grown at a rate of
7.5 percent annually. So what are the major
factors that determine high economic growth
in Vietnam since its economic reform in
1986? What useful policy implications can
the country apply to increase its economic
growth in the long run? This study intends to
address these specific questions.
The structure of the study is organized as
follows. Section 2 presents the model, data
and research methodology. Section 3 presents
the findings and interpresentation. The final
section deals with conclusions and policy
implications.
METHODOLOGY AND DATA
Model specification
The purpose of this research is to examine the
determinants of economic growth in Vietnam
over the 1988-2013 period. Based on the
theoretical models of the neoclassical and
endogenous growth and some empirical
analysis models such as Romer (1990) and
Markiw-Romer-Weil (1992), the research has
developed the model to identify the most
important determinants of economic growth
in Vietnam. The econometric model is
derived from a production function in which
economic growth is the dependent variable.
Foreign direct investment, domestic capital,
labor, human capital, trade, exchange rate and
some dummy variables are independent
Hoàng Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 31 - 37
32
variables. The augmented production function
will have the following form:
Y = A Lβ1 Fβ2 Iβ3 Hβ4Tβ5Eβ6 (1)
where Y represents output or gross domestic
production (GDP), L is labor. H denotes
human capital as a skilled labor. I is domestic
investment. F stands for foreign direct
investment (FDI). T presents the country’s
international trade. A is an overall efficiency
factor, capturing the control and policy
variables that are not accounting for increase
in factor inputs I, F, L, T, E and H and
frequently included as determinants of growth
in cross-host-area studies (see in Barro and
Sala-i-Martin, 1995, chapter 12).
Assuming the production function to be linear
in logarithms, the research takes the natural
logarithm, and then time derivatives of this
production function. Also, the use of 1st
differences in econometric studies facilitates
the results explanation, since the first
differences of logarithms of initial variables
represent the rate of change of these variables.
The determinants of economic growth in
Vietnam are presented as folows:
DLnGDPt = 0 + 1 DLnFDIt + 2 DLnDIt +
3 DLnHKt + β4 DLnTRADEt + β5 DlnLt + β6
DLnEXCHANGE +Rj + εt (2)
The dependent variable GDP is the value of
GDP at current price in the year t. The
independent variables are constructed by a set
of annual factors capturing various aspects of
endowments relevant to the determinants of
economic growth. L is the population density
in the year t, present the labor factor in the
model. HK is the number of upper secondary
school pupils per 10000 inhabitants, proxy
human capital in the host country. TRADE is
the value of international trade (exports plus
imports) over each year. DI presents the value
of domestic investment at current price and
FDI is the total registered capital of FDI
inflow. Rj is dummy variable, taken into
account to present the national effects on the
economic growth. In the model, D that
presented in front of each variable denotes the
first differences of these variables. βi is the
individual effect which assumed to be
constant over time t while error εt is a
stochastic disturbance.
Hypotheses
The empirical growth literature has identified
a number of variables that are typically
correlated with economic growth. Like many
existing studies, this research expects the
effect of each determinant on economic
growth of Vietnam as follows:
Through capital accumulation, domestic
investment (DI) and foreign direct investment
(FDI) bring financial resources to host
countries. Output growth can additionally
result from a wider range of goods in FDI and
domestic investment related production.
Moreover, FDI is considered an important
source of technological change and human
capital augmentation. Therefore, FDI and DI
are expected to have positive effects on
economic growth in the nation.
Human capital (HK) is an important element
of economic growth. The greater the level of
human capital development leading to
expansion of its physical capital to match a
high endowment of human capital, the faster a
country grows. Moreover, as a production
input, a change in HK is correlated with the
change in economic growth. Well developed
labor force, in terms of better education and
health, is likely to be able to produce more
production from a given resource base than
less-skilled workers. In this research, I
hypothesize a positive relationship between
economic growth and human capital in
Vietnam.
Labor force is one of the important factors of
economic growth. Increasing labor force
could gain in total factor productivity and
economic growth. However, if the labor force
is growing, then a share of the economy’s
investment is used to provide capital for new
workers, rather than to raise capital per
worker. The research assumes that labor helps
increasing economic growth in Vietnam.
Hoàng Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 31 - 37
33
How does international trade affect economic
growth? The literature shows that trade leads
to higher specialization and, thus to gains in
total factor productivity and economic growth
by allowing countries to exploit their areas of
comparative advantage. Moreover, it expands
potential markets, which allows domestic
firms to take advantage of economies of scale,
exposure to competition and the diffusion of
technological innovations and improved
managerial practices through stronger
interactions with foreign firms and markets.
These could result in both higher overall
efficiency and possibly a higher level of
investment. Based on the discussions, the
study expects that international trade is the
factor promoting economic growth.
The exchange rate does not traditionally
occupy a central role in growth regressions
because it only recently entered theoretical
models of economic growth. However, there
has been a gradual recognition of the real
exchange rate’s role in the growth process. In
fact, the disastrous effects of overvaluation on
economic growth are widely documented in
the undervaluation reduces growth. In contrast,
Rodrik (2008) states that the growth-driven
channel are the tradable sector, which
contributes to innovations and productivity
increases. For Vietnam, maintaining an
undervalued currency could serve to subsidize
its manufacturing industries, the driving force
behind that country’s growth.
There are some national dummy variables
(Rj) to describe how the effects of different
designations on economic growth. Rj takes
the value of 1 if the observation belongs to a
particular timeline and 0 if it does not belong
to that catalog. It is expected that Vietnam
that has more economics relationship with
other nations or international economic
groups in the world, it will see greater effect
on economic growth than the other non-
openness nation.
Data
The empirical analysis was presented by time
series model. Annual data on all variables for
the period from 1986 to 2013 were collected
and calculated from various issues of the
Statistical Yearbook of Vietnam, Vietnam
General Statistics Office. Since the data of
FDI and international trade are in US dollars,
they are converted into Vietnam Dong (VND-
Vietnamese currency) using yearly average
USD/VND exchange rate obtained from the
socio-economic data indicators in the Vietnam
– 20 years of renovation and development,
General Statistics Office, Vietnam.
EMPIRICAL FINDINGS
Stylized fact on Vietnamese economic
growth since its economic reform
Vietnam has been in transition from a
centrally planned to a market oriented
economy since December 1986. From that
time up to the present, Vietnam had seen
amazing economic achievements in growth of
gross domestic product (GDP), GDP per
capita, foreign direct investment, and
important trade and economic agreements
signed with major partners.
The economic growth rate of Vietnam
dramatically increased since 1986 (table 1).
From 4.4 per cent of average GDP growth
rate in 1986-1990, it went up to 8.18 per cent
in 1991-1995, decreased its annual economic
growth rate to 6.95 per cent in 2006-2010 and
5.64 per cent in the 2011-2013 period due to
the global economic crises since 2008.
Although the country decreased its annual
growth rates in some recent years, the average
annual growth rate of GDP in Vietnam still
presents at high growth rate (about 6.61 per
cent). This helped the country increase its
national income per capita over time. In 2013,
the GDP per capita of Vietnam was US$1908,
three times of that in 2005 and more than
twenty times that of 1986 (GSO, 2013).
This achievement and the stable
development of the society showed that the
chosen reforms of Vietnamese leaders were
going in the right way, and the contents and
implemented measures at the macro level
were ensuring growth.
Hoàng Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 31 - 37
34
Table 1: Average annual growth rates of GDP in Vietnam
Period Annual GDP growth
rate (%)
Of which
Agriculture, forestry
and fishery
Industry
Services
1986-1990 4.44 2.72 4.82 5.84
1991-1995 8.18 4.12 12.02 8.60
1996-2000 6.98 4.40 10.64 5.72
2001-2005 7.48 3.84 10.24 7.04
2006-2010 6.95 3.45 7.85 7.67
2011-2013 5.64 3.11 5.95 6.43
1986-2013 6.61 3.61 8.59 6.88
Source: Vietnam statistical Yearbook, various issues
The reason behind the achievements was the
fast development of all economic sectors,
especially the industrial sector. At the end of
1988, the regulation 217/HDBT gave the
state-owned enterprises (SOEs) autonomy to
do business and stated that the government
would no longer subsidies them. The SOEs
stopped receiving capital from the
government budget for their activities and are
now required to obtain bank loans and pay
interest. During the adaptation period, the
industrial and construction sector grew at an
average rate of 4.8 per cent during the period
1986-1990. However, after adaptation, the
industrial sector expanded quickly, about
12.02 per cent in 1991-1995 and about 8.59
per cent during the 1986-2013 period.
Eventually it became the main source of
economic growth (Table 1). The development
was the result of increasing inflows of foreign
capital in heavy industries of gas, electricity,
cement, steel, paper and agriculture
processing. Some key products of Vietnam’s
industries are crude oil, gas, aquaculture
processing, paper, garment, coal, textiles,
chemical, fertilizers, cement, iron and steel.
The service sector has been continuously
increasing since 1988 and had a high growth
rate (about 8.6 per cent) during the first half
of the 1990s. This was due to open economic
policies of the government. The rise was
mainly from the improvement in
administration, banking reform, trade
liberalization and tourism.
Besides the increase in GDP growth rates,
Vietnamese economic structure has also
shifted in the direction of industrialization and
modernization. Vietnam's economy
transformed itself from being a primary sector
dependent economy to a more industry and
services sector oriented one (Table 2). During
1986-1990, agriculture, forestry and fishing
factor accounted for 41 per cent of total GDP
output, and it decreased to 22.29 per cent in
2001-2005. Industry and services sectors have
higher shares of GDP - 39.44 per cent and
38.27 per cent respectively in the first five
years of the 21 century. Even though the
share of the services sector decreased during
2001-2005, several sub-sectors such as
banking and finance, communication, import
trade, insurance and tourism grew faster than
previously. The change in the economic
structure was in the right direction and
suitable with the industrialization and
modernization policy announced by the
government.
With an objective to develop a socialist-
oriented market economy under the State’s
management, the Vietnamese government
kept the central leading role of the state sector
while facilitating the development of other
economic sectors. As a result, the number of
state owned enterprise declined, while the
GDP’s shares of the state sector did not
change much overtime. The number of the
foreign owned and non-state enterprises is
growing. However, the GDP’s share of the
foreign investment sector increased, from
1.14 per cent in 1986-1990 period to 18.56
per cent in 2011-2013 and the proportion of
the non-state sector in GDP decreased from
63.6 per cent in 1986-1990 to 48.95 per cent
in 2011-2013.
Hoàng Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 31 - 37
35
Table 2: Structure of GDP in Vietnam (%)
Period Share of GDP by sector Share of GDP by ownership
Tota
l
Agricultur
e forestry
and
fishery
Industry
Services
Tota
l
State
Non-
State
Foreign
investment
1986-1990 100 41.15 25.36 33.49 100 35.26 63.60 1.14
1991-1995 100 31.78 27.52 40.70 100 33.78 57.54 5.68
1996-2000 100 25.85 33.10 41.05 100 39.54 49.82 10.40
2001-2005 100 22.29 39.44 38.27 100 38.68 46.54 14.60
2006 -2010 100 20.55 40.27 39.18 100 35.48 46.64 17.89
2011-2013 100 19.38 38.28 42.34 100 32.48 48.95 18.56
1986-2013 100 26.83 33.99 39.17 100 35.87 52.18 11.38
Source: calculated from Vietnam statistical year book 2006
Table 3: Empirical results on economic growth Effect of FDI in Vietnam
Dependent variable: Economic growth (GDP)
Variable (1) (2) (3) (4)
Intercept 0.0787 0.1441 0.1696 0.1229
(2.3043)** (3.5623)*** (2.5497)** (1.3574)
Foreign direct investment (FDI) 0.0811 0.0847 0.0836 0.0693
(2.3913)** (2.4762)** (2.3415)** (1.8156)*
Domestic investment (DI) 0.3757 0.3246 0.3052 0.3539
(6.0968)*** (3.8275)*** (3.1197)*** (2.9745)***
Human capital (HK) 0.0454 -0.0127 -0.0198 0.1777
(0.3271) (-0.0784) (-0.1179) (0.7393)
Labor force (L) 0.3707 -0.8968 -1.1931 -2.2068
(0.1853) (-0.5018) (-0.6172) (-1.0911)
International Trade (TRADE) -0.0468 -0.0778 -0.0817 0.0004
(-0.2466) (-0.4061) (-0.4194) (0.0022)
Exchange rate (USD_VND) 0.3588 0.3581 0.3449 0.4526
(2.1694)** (2.0551)** (1.8270)* (2.4682)**
Asian financial crises (D1998) -0.0407 -0.0381 -0.0821
(-1.5052) (-1.4142) (-2.1945)**
ASEAN -0.0206 -0.0166
(-0.4666) (-0.3304)
US 0.0807
(1.4431)
R-square 0.8621 0.8663 0.8673 0.8826
Adj. R-square 0.8162 0.8113 0.8009 0.8122
DW statistics 1.8990 2.0180 2.0413 2.2775
No. of Obs. 25 25 25 25
Note: (1) The coefficient of the variable is shown first, followed by the t statistic is in parentheses
(2) *, **, and *** indicate significance levels of 10, 5 and 1 percent, respectively
(3) All variables are in first differences of natural log form except dummy variables
(4)Method of regression: Ordinary Least Squares with White heteroskedasticity-consistent standard errors
& covariance
Hoàng Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 31 - 37
36
In short, after nearly thirty years of Doi Moi
in 1986, Vietnam has recorded relatively high
growth rates, which have increased from year
to year. The annual average GDP growth rate
in the 2001-2006 period of about 7.5 per cent
satisfied the planned targets. The economic
structure has gradually shifted along the lines
of industrialization and modernization,
closely tied to the market for better efficiency.
Although the economic growth is increasing
in volume in Vietnam, the main determinant
factors of economic growth is still in
question. This will be addressed in the
following parts of the research.
Empirical results
Table 3 presents the estimation results of the
main determinants of economic growth in
Vietnam. The results from the column (1)
present effects of original determinant factors
on economic growth. It shows that foreign
direct investment, domestic investment and
exchange rate are positive and have
significant relations with the country’s
economic growth. As a result, if the growth
rate of domestic investment, foreign direct
investment inflow and exchange rate goes up
by 1 per cent, on average, the economic
growth rate increases by about 0.37 per cent,
0.08 per cent and 0.36 per cent, respectively.
This means that although both depend on the
foreign financial development and the
exchange rate, the economic growth rate of
Vietnam is much more dependent on its
domestic financial development. The
significant and positive coefficient of FDI
suggests that FDI has a positive effect on
Vietnamese economic growth. This result is
consistent with the proponent of the FDI-led
growth hypothesis such as Romer (1990) and
Markiw-Romer-Weil (1992) and Zhang
(2001).
From Table 3, the exchange rate presents the
positive and significant effect on economic
growth of Vietnam. This means that the
depreciation of Vietnamese currency have
expansionary effects on economic growth.
The result could be explained that the
devaluation of Vietnamese currency causes
local goods to be cheaper abroad and this will
enhance the cost competitiveness of
Vietnamese exports which are a component
gross domestic product, leading to an increase
in exports and improve the country’s
economic growth.
In order to assess whether human capital and
labor force are major determinant factors of
economic growth in Vietnam, the human
capital variable (presented skilled labors) and
labor force variable (presented less-skilled
labor factor) are included in the model. I
assume that human capital and labor force
have a positive relationship with economic
growth in Vietnam. However, the results
show that the coefficients of HK and L do not
enter significantly and are negative;
representing that those factors are not yet
major determinant factors of economic
growth in Vietnam.
The model also includes some dummy
variables in the model. I believed that Asian
financial crises in 1997-1998 effects
negatively on economic growth of Vietnam
and the economic relationship of Vietnam
with ASEAN and American since their signed
trade agreements could help the economic
growth in Vietnam. The econometric results
present that the coefficients of ASEAN and
US are insignificant; representing that those
factors are not greater effect on economic
growth of Vietnam at the time of research.
The Asian financial crises factor has negative
effect on economic growth in Vietnam. This
could explain the situation that due to the
Asian financial crises in 1997-1998, the GDP
growth rates of Vietnam declined to 5.8 per
cent in 1998 and went down further to 4.8 per
cent in 1999.
CONCLUSIONS AND POLICY IMPLICATIONS
Vietnam’s economic growth has increased
dramatically since its renovation. The study
aims to examine the determinant factors of
Hoàng Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 31 - 37
37
economic growth in Vietnam by using time
series model over the 1986-2013 period. This
study concludes that the foreign direct
investment inflow, domestic investment and
exchange rate are major and positive
determinants of economic growth in Vietnam.
The financial crisis such as Asian financial
crises is a dummy variable that effects
negatively on economic growth in Vietnam.
This find that even though Vietnam is a
crowded population and human capital and
openness to trade, many factors such as labor,
human capital and international trade, do not
exert independent determinants on Vietnamese
economic growth.
From the conclusions of the study, for Vietnam
to increase economic growth, the policy of
depreciation to increase exports and
employment in the economy might be the best
policy for Vietnam. Moreover, the policies that
attract more foreign direct investment inflow
into Vietnam and promote the domestic
investment in the country are still need to apply
to enhance its economic growth. Policies that
encourage both foreign direct and domestic
investments in physical capital as well as human
capital, labor training and flexible international
trade development would boost both short and
long term growth of Vietnamese economy.
REFERENCES 1. Barro, R. J. and Sala-i-Martin, X., 1995.
Economic growth. McGraw-Hill, Cambridge, MA.
2. General Statistical Office (GSO), 1995-2013.
Vietnamese Statistical Yearbook. Statistical
Publishing House, Hanoi.
3. GSO (2005). Vietnam – 20 years of renovation
and development. Statistical Publishing House,
Hanoi.
4. Makiw, N.G., Romer, D. and Weil, D.N.
(1992). A contribution to the empirics of
economic growth. The quarterly journal of
economics 107, 407-37
5. Romer, D. (1990). Endogenous technological
change. Journal of Political Economy 98, S71-102
6. Zhang, K. H. (2001). How does foreign direct
investment affect economic growth in China?
Economics of Transition / European Bank for
Reconstruction and Development 9, 3, 679-693.
TÓM TẮT
NHỮNG YẾU TÔ QUYẾT ĐỊNH ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
CỦA VIỆT NAM
Hoàng Thị Thu* Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
Bài báo nghiên cứu các nhân tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam bằng việc sử
dụng mô hình chuỗi thời gian trong giai đoạn 1988-2013. Nghiên cứu chỉ ra rằng đầu tư trong
nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài là những nhân tố có tác động tích cực và mạnh mẽ đến tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Ngài ra, tỷ giá hối đoái và khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
cũng là các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra
rằng, nguồn nhân lực và ngoại thương chưa phải là kênh giúp cho Việt Nam tăng trưởng kinh tế
trong giai đoạn nghiên cứu.
Từ khóa: nhân tô quyết định, tăng trưởng kinh tế, FDI, đầu tư trong nước, Việt Nam
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Nhuận Kiên – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0989 910591
Hoàng Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 31 - 37
38
Nguyễn Thanh Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 39 - 44
39
MỘT SÔ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thanh Minh*, Phạm Thị Nga Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Thái Nguyên là một tỉnh giầu nguồn tài nguyên khoáng sản đứng thứ 2 trong cả nước. Đây là tiền
đề để phát triển ngành Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, đóng góp tích cực vào sự
phát triển Kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên. Trong những năm qua tỉnh Thái Nguyên đã làm
khá tốt công tác quản lý Nhà nước về khai thác khoáng sản như: Công tác quy hoạch (quy hoạch
thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản); Công tác tổ chức quản lý (thành lập Ban chỉ
đạo quản lý, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quản lý, thẩm định, cấp
phép hoạt động khoáng sản trên địa bàn, tổ chức thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý
các vi phạm...). Hoạt động khai thác khoáng sản làm thay đổi diện mạo của tỉnh. Về giá trị khai
thác khoáng sản tại các doanh nghiệp tăng từ 636,3 tỷ đồng năm 2008 lên 2.308,5 tỷ đồng năm
2011 và nộp ngân sách với tổng số tiền trên 377,310 tỷ đồng, ngoài ra còn hỗ trợ địa phương nâng
cấp, sửa chữa, xây dựng cơ sở hạ tầng với trị giá trên 36 tỷ đồng và thực hiện ký quỹ bảo vệ môi
trường với tổng số tiền trên 17 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc quản lý và khai thác tài nguyên khoáng
sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế, bài viết đưa ra 5 giải pháp với
mong muốn nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên.
Từ khóa: khoáng sản, quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản, giá trị sản xuất, nộp ngân sách.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Tài nguyên khoáng sản là nguồn của cải vật
chất nguyên khai, được hình thành, tồn tại
trong tự nhiên và tất cả những gì thuộc về
thiên nhiên mà con người có thể khai thác, sử
dụng thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển
của mình [4]. Theo Luật Khoáng sản năm
2010 thì Khoáng sản là khoáng vật, khoáng
chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể
lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt
đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở
bãi thải của mỏ [4].
Hiện nay, Thái Nguyên đã phát hiện trên 250
mỏ và điểm quặng (gồm 24 loại khoáng sản
rắn, trong đó có một số khoáng sản có trữ
lượng lớn như: Wonfram khoảng trên 100
triệu tấn, Than khoảng 80 triệu tấn, Sắt
khoảng 40 triệu tấn, Titan khoảng 8 triệu tấn;
Chì-Kẽm khoảng 0,5 triệu tấn, Đá vôi khoảng
200 triệu tấn)[1]. Với nguồn tài nguyên phong
phú, dồi dào cho phép ngành Công nghiệp
khai thác và chế biến khoáng sản của tỉnh có
nhiều điều kiện để phát triển, đóng góp tích
* Tel: 0912 735565
cực cho sự phát triển Kinh tế - xã hội của tỉnh
Thái Nguyên. Tuy nhiên, việc quản lý và khai
thác tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên trong những năm qua còn bộc lộ
nhiều điểm hạn chế như việc cấp giấy phép
thăm dò, khai thác khoáng sản còn nhiều bất
cập, chồng chéo, tình trạng khai thác khoáng
sản trái phép, tranh chấp mỏ, tàn phá môi
trường đang diễn ra khá phổ biến...
Vấn đề đặt ra là phải tiến hành đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước về khai thác khoáng
sản ở tỉnh Thái Nguyên đồng thời tìm ra
nguyên nhân của những hạn chế bất cập trong
công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này, từ
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác
khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên.
TAI NGUYÊN KHOÁNG SAN CỦA TỈNH
THÁI NGUYÊN
Thái Nguyên được đánh giá là tỉnh giầu
khoáng sản đứng thứ 2 trong các tỉnh thành cả
nước. Tài nguyên khoáng sản của tỉnh Thái
Nguyên có trữ lượng lớn, phong phú về
chủng loại và được phân bố khắp trong tỉnh.
Cụ thể như:
Nguyễn Thanh Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 39 - 44
40
* Than mỡ (trữ lượng trên 15 triệu tấn), than
đá (trữ lượng khoảng 90 triệu tấn) được phân
bố tập trung ở 2 huyện Đại từ và Phú Lương
[8],[7].
* Khoáng sản kim loại
Quặng Sắt: Có 47 mỏ và điểm quặng trong đó
có 2 cụm mỏ lớn: Cụm mỏ sắt Trại Cau có trữ
lượng khoảng 20 triệu tấn có hàm lượng Fe
58,8% - 61,8%. Cụm mỏ sắt Tiến Bộ nằm
trên trục đường ĐT 259 có tổng trữ lượng
quặng khoảng 30 triệu tấn [8],[7].
Thiếc: Có ở 3 mỏ thuộc huyện Đại từ: Các
mỏ Phục Linh, Núi Pháo, Đá Liền. Tổng trữ
lượng của 3 mỏ này khoảng 13.600 tấn;
Vonfram ở Núi Pháo, Đại Từ: trữ lượng:
110.260.000 tấn.[8],[7]
Chì kẽm: Tập trung ở Lang Hít ( Đồng Hỷ),
Thần Sa, Cúc Đường ( Võ Nhai) qui mô
không lớn.
Vàng: vàng sa khoáng ở khu vực Thần Sa,
dãy núi Bồ Cu ( Võ Nhai), khu vực Ngàn Me,
Cây Thị ( Đồng Hỷ), khu vực phía tây của
huyện Phổ Yên. Trữ lượng về vàng mới được
thăm dò, khảo sát và chưa đánh giá đầy đủ trữ
lượng hiện có. Ngoài ra còn có đồng, thủy
ngân...trữ lượng quặng nhỏ, mức độ điều tra
sơ bộ.
* Khoáng sản phi kim loại: Có pyrit, barít,
photphorit... trong đó đáng chú ý là photphorit
ở một số điểm quặng: Núi Văn, Làng Mới, La
Hiên. Tổng trữ lượng khoảng 60.000 tấn
[8],[7].
* Khoáng sản vật liệu xây dựng trong đó đáng
chú ý là đất sét xi măng ở 2 mỏ Cúc Đường
và Khe Mo, trữ lượng khoảng 84,6 triệu tấn.
Đá Cacbônat bao gồm đá vôi xây dựng, đá
vôi xi măng, Đôlômit tìm thấy ở nhiều nơi
(trữ lượng khoảng 109,3 triệu tấn). Riêng đá
vôi xây dựng có trữ lượng xấp xỉ 100 tỷ m3.
Ngoài ra gần đây mới phát hiện mỏ sét cao
lanh tại xã Phú Lạc, Đại Từ có chất lượng tốt,
hàm lượng AL2CO3 cao, trữ lượng dự kiến 20
triệu m3. Đó là vùng nguyên liệu dồi dào cho
sự phát triển ngành vật liệu xây dựng, trong
đó có xi măng và đá ốp lát [8],[7].
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUAN LÝ
NHA NƯỚC VỀ KHAI THÁC KHOÁNG
SAN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
Công tác quy hoạch
Công tác quy hoạch (thăm dò, khai thác, chế
biến và sử dụng khoáng sản) đã được triển
khai nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu
khoáng sản cho các ngành sản xuất trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên và phù hợp với quy
hoạch chung của cả nước. Xác định cụ thể các
vùng thăm dò, khai thác, chế biến; các vùng
cấm, hạn chế và đấu thầu đối với khoáng sản
đảm bảo cho hoạt động khoáng sản thực hiện
đúng quy định pháp luật[5],[2].
Công tác tổ chức quản lý
UBND tỉnh Thái Nguyên, Ban chỉ đạo quản
lý tài nguyên khoáng sản Tỉnh, Sở Tài nguyên
và môi trường đã kịp thời ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật và các văn bản quản
lý, chỉ đạo, đôn đốc các ngành và UBND các
huyện, thành phố, thị xã thực hiện công tác
quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản,
đặc biệt trong việc kiểm tra, xử lý, ngăn chặn
các hoạt động khoáng sản trái phép. Công tác
triển khai, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật được quan tâm thực hiện: phổ biến
pháp luật về tài nguyên khoáng sản đến các
ngành chức năng ở Tỉnh, các huyện, thành
phố, thị xã, các tổ chức cá nhân tham gia hoạt
động khoáng sản; thông qua chuyên mục Tài
nguyên và Môi trường của Đài phát thanh và
truyền hình Tỉnh, qua trang Website của Sở
Tài nguyên và Môi trường ...
Công tác lập, điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch
thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng
khoáng sản được đẩy mạnh. Ngoài ra, để đáp
ứng nguồn nguyên liệu cho các cơ sở chế
biến, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội trên
địa bàn, UBND tỉnh Thái Nguyên đã trình và
được Thủ tướng Chính phủ cho phép điều
chỉnh, bổ sung nhiều khu vực quặng titan và
sét cao lanh vào Quy hoạch thăm dò, khai
thác, chế biến và sử dụng khoáng sản của cả
nước. Đến nay, về cơ bản các loại khoáng sản
Nguyễn Thanh Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 39 - 44
41
trên địa bàn tỉnh đã được lập quy hoạch, làm
cơ sở cho công tác quản lý khoáng sản theo
quy định của pháp luật.
Công tác thẩm định, cấp phép hoạt động
khoáng sản trên địa bàn được thực hiện chặt
chẽ, đúng trình tự theo quy định của pháp luật
và chủ trương của tỉnh. Gắn khai thác với chế
biến, ưu tiên cấp mỏ cho các doanh nghiệp có
năng lực, kinh nghiệm, có cơ sở chế biến
nhằm tăng hiệu quả khai thác, sử dụng
khoáng sản, đảm bảo việc khai thác và sử
dụng nguồn tài nguyên khoáng sản hợp lý, tiết
kiệm, gắn với bảo vệ môi trường.
Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát từng
bước được tăng cường: Các ngành chức năng
ở tỉnh và UBND cấp huyện theo chức năng
quản lý và nhiệm vụ được phân công trong
Đề án đã chủ động nắm tình hình, tổ chức
thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử
lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động
khoáng sản.
Đánh giá hoạt động quản lý Nhà nước về
khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên
Kết quả đạt đươc: Ban Chỉ đạo quản lý tài
nguyên khoáng sản, tổ chuyên viên giúp việc
Ban Chỉ đạo và Đội kiểm tra liên ngành của
Tỉnh và 04 huyện có nhiều khoáng sản (Đồng
Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ và Phú Lương) đã được
thành lập, kiện toàn và hoạt động theo quy
chế. Tại các địa phương có ít khoáng sản
(huyện Phú Bình, Phổ Yên, Định Hóa, Thành
phố Thái Nguyên và Thị xã Sông Công) đã
thành lập tổ công tác liên ngành để tham mưu
và giúp UBND Tỉnh trong công tác quản lý nhà
nước về tài nguyên khoáng sản trên địa bàn.
Trong 5 năm từ 2006-2010, Sở Tài nguyên và
Môi trường và Đội kiểm tra liên ngành của
Tỉnh đã thực hiện hàng trăm cuộc thanh tra,
kiểm tra, kiểm soát các hoạt động khoáng sản
trên địa bàn. Qua đó đã phát hiện và xử phạt
38 trường hợp với tổng số tiền 199, 5 triệu
đồng, kiến nghị xử phạt 8 trường hợp với
tổng số tiền 144,25 triệu đồng, tịch thu, tạm
giữ chuyển giao cơ quan chức năng xử lý trên
1.647 tấn quặng các loại [6]. Đồng thời, qua
kiểm tra đã đôn đốc, hướng dẫn các doanh
nghiệp thực đúng các chế độ chính sách và
quy định của pháp luật trong hoạt động
khoáng sản.
Trên địa bàn Tỉnh có 60 tổ chức, doanh
nghiệp được cấp giấy phép thăm dò, khai thác
khoáng sản. Trong đó có 18 doanh nghiệp nhà
nước, 02 công ty liên doanh, 16 công ty cổ
phần, 14 công ty TNHH, 6 doanh nghiệp tư
nhân và 4 hợp tác xã; có 43 giấy phép thăm
dò đã được cấp (gồm 06 giấy phép do Bộ Tài
nguyên và Môi trường cấp và 37 giấy phép do
UBND Tỉnh cấp), trong đó hiện có 14 giấy
phép còn hiệu lực, các doanh nghiệp đang
triển khai thực hiện theo đề án; có 113 mỏ đã
cấp giấy phép khai thác gồm: 47 mỏ khoáng
sản kim loại, 12 mỏ than, 06 mỏ khoáng chất
công nghiệp, 07 mỏ khoáng sản làm nguyên
liệu xi măng, 37 mỏ vật liệu xây dựng thông
thường và 01 mỏ nước khoáng [7]. Kết quả
chi tiết được tổng hợp trên bảng 01.
Bảng 01: Kết quả khai thác khoáng sản giai đoạn 2008 – 2011
STT Loại khoáng
sản ĐVT
Sản lượng khai thác
2008 2009 2010 2011 Tổng cộng
ư
1 Than
T
Tấn 1.159.257 1.196.032 1.344.915 1.416.240 5.116.444
w
2
Khoáng sản
kim loại
T
Tấn 677.804 639.134 463.142 559.253 672.665
3
3
Khoán sản
phi kim loại
T
Tấn 0 86.177 2.011 301.701 389.889
4
4
Khoáng sản vật
liệu xây dựng
T
Tấn 335.062 335.251 458.571 248.649 486.715
5
5 Vật liệu xây dựng
M
m3 680.095 596.375 1.005.83 500.816 142.634
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên
Nguyễn Thanh Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 39 - 44
42
Về giá trị sản xuất (GTSX) các doanh nghiệp khai thác khoáng sản giai đoạn 2008 – 2011 của
tỉnh Thái Nguyên được tổng hợp trên bảng 02.
Bảng 02: Giá trị sản xuất theo giá thực tế
Chỉ tiêu ĐVT 2008 2009 2010 2011
I. GTSX toàn tỉnh Tỷ đồng 20.694,2 25.206,0 29.685,4 37.362,6
1. GTSX các DN khai khoáng Tỷ đồng 636,3 777,0 1.281,2 2.308,5
- Khai thác than Tỷ đồng 403,0 557,7 964,5 1.072,0
- Khai thác quặng kim loại Tỷ đồng 122,8 101,7 190,3 954,9
- Khai khoáng khác Tỷ đồng 109,5 99,0 103,3 242,1
- Dịch vụ Tỷ đồng 1,0 18,6 23,1 39,5
2.GTSX các lĩnh vực khác Tỷ đồng 20.057,9 24.429,0 28.404,2 35.054,1
II. Cơ cấu toàn tỉnh % 100 100 100 100
1.Các DN khai khoáng % 3,07 3,08 4,32 6,18
- Khai thác than % 63,33 71,78 75,28 46,44
- Khai thác quặng kim loại % 19,30 13,09 14,85 41,36
- Khai khoáng khác % 17,21 12,74 8,06 10,49
- Dịch vụ % 0,16 2,39 1,80 1,71
2.Các lĩnh vực khác % 96,93 96,92 95,68 93,82
Nguồn: Niên giám thông kê tỉnh Thái Nguyên năm 2011
Bảng 03: Thông kê hoạt động nộp ngân sách
ĐVT: Triệu đồng
Loại khoáng sản Năm
2008 2009 2010 2011
Than 27.788,30 32.247,90 57.071,60 120.505,00
Khoáng sản kim loại 5.980,51 14.499,85 33.160,11 39.543,21
Khoáng sản phi kim loại 0 0 0 20.69
Khoáng sản vật liệu xây dựng 460,15 688,89 1.669,48 1.640,06
Vật liệu xây dựng 3.236,14 18.502,65 13.986,30 6.309,12
Tổng cộng 37.465,10 65.939,29 105.887,49 168.018,08
Nguồn: Cục Thuế tỉnh Thái Nguyên năm 2011
Qua số liệu trên bảng 02 chúng ta thấy GTSX
các doanh nghiệp có xu hướng tăng qua các
năm. Tuy nhiên, GTSX của các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản còn chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng GTSX của toàn tỉnh ở từng năm.
Từ năm 2008-2011, các đơn vị hoạt động
khoáng sản đã nộp ngân sách với tổng số tiền
trên 377.309,96 triệu đồng. Kết quả chi tiết
được phản ánh trên bảng 03. Ngoài việc nộp
ngân sách nhà nước, nhiều doanh nghiệp đã
thực hiện tốt chính sách bảo hộ quyền lợi của
nhân dân nơi có khoáng sản được khai thác,
chế biến thông qua việc tuyển dụng lao động
tại địa phương, hỗ trợ địa phương xây dựng,
sửa chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng... [6]
Tính đến cuối năm 2010, các đơn vị hoạt
động khoáng sản trên địa bàn đã sử dụng trên
8.000 lao động tại địa phương nơi có hoạt
động khoáng sản; đóng góp, hỗ trợ địa
phương nâng cấp, sửa chữa, xây dựng cơ sở
hạ tầng với trị giá trên 36 tỷ đồng; 90% số mỏ
đang hoạt động đã được phê duyệt Dự án cải
tạo phục hồi môi trường, 51 lượt các doanh
nghiệp thực hiện ký quỹ bảo vệ môi trường
với tổng số tiền trên 17 tỷ đồng [6]
Để xem xét sự đánh giá của các doanh nghiệp
về hoạt động quản lý nhà nước trong khai
thác khoáng sản, chúng tôi đã xây dựng mẫu
phiếu điều tra, khảo sát với 7 tiêu chí; tiến
hành điều tra khảo sát 18 doanh nghiệp (2
phiếu khảo sát/doanh nghiệp gồm: giám đốc
và phó giám đốc) với 36 phiếu phát ra, thu về
35 phiếu. Sau khi thu thập thông tin từ phía
doanh nghiệp, chúng tôi tiến hành nhập dữ
liệu và xử lý thông tin trên phần mềm
Microsoft Office 2007 và phần mềm xử lý số
liệu SPSS version 19. Kết quả phân tích cho
thấy các hoạt động quản lý của Nhà nước đối
Nguyễn Thanh Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 39 - 44
43
với hoạt động khoáng sản được các doanh
nghiệp đánh giá ở mức khá phù hợp và phù
hợp một phần (giá trị trung bình của các tiêu
chí nằm trong khoảng từ 1,77 – 2,74). Cá biệt
còn có tiêu chí 5 (Mức độ tận thu khoáng sản,
bảo vệ tài nguyên khoáng sản) bị đánh giá là
hoàn toàn không phù hợp. Qua kết quả phân
tích trên cho thấy còn nhiều vấn đề cần phải
bàn trong công tác quản lý của Nhà nước đối
với hoạt động khai thác khoáng sản ở tỉnh
Thái Nguyên.
Hạn chế, tồn tại
Thứ nhất, hoạt động quản lý khoáng sản của
một số địa phương cấp xã còn kém hiệu quả,
chưa tổ chức thực hiện đầy đủ các chức năng,
quyền hạn trong công tác quản lý nhà nước.
Thứ hai, hoạt động quy hoạch, phê duyệt quy
hoạch các khu vực cấm hoạt động khoáng sản
trên địa bàn tỉnh còn chậm dẫn đến tình trạng
khai thác khoáng sản trái phép, nguy cơ tạo
điểm nóng về khai thác khoáng sản còn tiềm ẩn.
Thứ ba, các đơn vị hoạt động khai thác chế
biến khoáng sản còn chậm lập Dự án cải tạo,
phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo môi
trường, phục hồi môi trường theo quy định
của Nhà nước.
Thứ tư, nhận thức của một bộ phận cán bộ ở
các cấp còn chưa được nâng cao dẫn đến tình
trạng tổ chức, quản lý, bảo vệ tài nguyên
khoáng sản chưa tốt, tình trạng vi phạm trong
hoạt động khai thác khoáng sản đặc biệt là
hoạt động khai thác trái phép còn xảy ra trên
địa bàn tỉnh.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát, hướng dẫn các ngành, các đơn vị khai
thác khoáng sản được tăng cường nhưng chưa
tập trung vào các vấn đề liên quan đến trách
nhiệm của các đơn vị khai thác khoáng sản.
MỘT SỐ GIAI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUA QUAN LÝ NHA NƯỚC VỀ
KHAI THÁC KHOÁNG SAN TRÊN ĐỊA
BAN TỈNH THÁI NGUYÊN
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên cần tập trung vào một số giải pháp:
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về khoáng sản (phương tiện
thông tin, thời lượng, tài liệu có liên quan).
2. Kiện toàn Ban chỉ đạo quản lý khoáng sản
các cấp (tỉnh, huyện, xã).
3. Kịp thời rà soát, ban hành và tổ chức thực
hiện các văn bản quản lý về khoáng sản thuộc
thẩm quyền UBND tỉnh.
4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và
xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động
khoáng sản của các tổ chức, cá nhân được cấp
phép và công tác quản lý nhà nước về khoáng
sản của UBND cấp huyện, cấp xã.
5. Nâng cao năng lực quản lý cho bộ máy
chuyên ngành về khoáng sản từ cấp tỉnh đến
cấp xã.
KẾT LUẬN
Quản lý tài nguyên khoáng sản là một trong
những nội dung lớn của quản lý nhà nước.
Hiệu quả trong hoạt động quản lý khoáng sản
là thước đo hiệu quả của quản lý kinh tế và
quản lý nhà nước nói chung. Yêu cầu trong
quản lý tài nguyên khoáng sản đạt ra như một
trụ cột của cải cách hành chính và thể chế nhà
nước. Qua phân tích, đánh giá thực trạng quản
lý nhà nước về khai thác khoáng sản ở tỉnh
Thái Nguyên, bài viết đưa ra nhóm giải pháp
với kỳ vọng góp phần nâng cao hiệu quả công
tác quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản
nhằm thúc đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH
đất nước.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên (2011);
2. Hội đồng Nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2009),
Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử
dụng khoáng sản trong nhóm khoáng chất công
nghiệp tỉnh thái nguyên giai đoạn 2009 - 2015, có
xét đến 2020;
3. Bùi Thị Nga (2008), Giáo trình Cơ sở khoa học
môi trường, Đại học Cần Thơ;
4. Quốc hội khóa XII (2010), Luật Khoáng sản 2010;
5. UBND tỉnh Thái Nguyên (2006), Quy hoạch
thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng sắt,
quặng titan trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, giai
đoạn 2007 - 2015, có xét đến 2020;
Nguyễn Thanh Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 39 - 44
44
6.UBND tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo tình hình
phát triển kinh tế - xã hội các năm 2008 - 2009 -
2010 và 2011;
7. UBND tỉnh Thái Nguyên (2012), Đề án "Tăng
cường công tác quản lý nhà nước về khoáng sản trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011 - 2015";
8. Ủy Ban thường vụ quốc hội (2012), Báo cáo kết
quả giám sát "Việc thực hiện chính sách, pháp luật
về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ
môi trường".
SUMMARY
SOME SOLUTIONS TO IMPROVE THE EFFECTIVENESS OF STATE
MANAGEMENT ON MINING IN THAI NGUYEN
Nguyen Thanh Minh*, Pham Thi Nga College of Economics and Business Administration - TNU
Thai Nguyen is rich of mineral resources, which is ranked as 2nd in Vietnam. It is very useful in
development of Mining and Mineral processing industry and contribute positively to the economic
development of the province. In recent years, Thai Nguyen has done fairly well in the
managements of mining such as: Planning ( Planning on the exploration, mining, processing and
using mineral resources), the management organization (establishing the management steering
commitee, issuing legal and management documents, evaluating and licensing mineral activities in
the area, inspecting, testing, control, detecting and handling violations)Mining activities have
changed the face of Thai Nguyen. For the mineral value of the enterprises, it has been increased
from 636.3 billion VND in 2008 to 2308.5 billion VND in 2011. Those enterprises have
contributed over 377310 billion VND to the state budget. In addition, they have helped the locality to
upgrade, repair and build infrastructure costing 36 million VND and signed to the enviroment
protection fund costing 17 million VND. However, the mineral management and exploitation in Thai
Nguyen province still remains a lot of limitations. The paper gives five solutions in the hope that the
state management of mineral sources in Thai Nguyen province will be remarkablely improved.
Key words: mineral, state management of mineral exploitation, production value, state budget
contribution.
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:28/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Quang Huy – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 735565
Nguyễn Văn Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 45 - 47
45
TÍNH ỔN ĐỊNH CỦA NGHIỆM KỲ DỊ CỦA MÔ HÌNH
TĂNG TRƯỞNG SOLOW
Nguyễn Văn Minh1*, Nguyễn Văn Thảo2 Nguyễn Thị Thu Hằng1 1Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
2Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Mô hình Solow nghiên cứu sự tăng trưởng kinh tế được mô tả bởi bài toán Cauchy của phương
trình vi phân Bernoulli có nghiệm kỳ dị. Bài toán này với điều kiện ban đầu (0) 0y luôn luôn
cho hai nghiệm, trong đó có một nghiệm kỳ dị. Người ta chỉ quan tâm tới nghiệm thường của bài
toán. Việc nghiên cứu sâu hơn về nghiệm kỳ dị chưa được quan tâm. Trong bài báo này chúng tôi
nghiên cứu về tính ổn định của các nghiệm, kể cả nghiệm kỳ dị, của mô hình Solow.
Từ khóa: Bài toán Cauchy, phương trình vi phân, tăng trưởng kinh tế, mô hình kinh tế, mô hình
tăng trưởng Solow, trạng thái ổn định
MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG SOLOW*
Mô hình tăng trưởng Solow được mô tả bởi
bài toán Cauchy sau đây
0
(1.1)( ) . ( ( )) . ( )
(1.2)(0)
k t s f k t k t
k k
Với ( )
( )( )
K tk t
L t là tỷ số vốn/lao động. Biến
này biểu thị hàm lượng vốn tính bình quân
trên một đơn vị lao động. s là hằng số dương
nhỏ hơn 1, biểu thị tiết kiệm cận biên. là
hệ số tăng trưởng lao động. 0
(0)
(0)
Kk
L là
điều kiện ban đầu, biểu thị tỷ số vốn/lao động
tính tại thời điểm ban đầu.
Nghiên cứu về định tính của bài toán (1.1)-
(1.2) đã được trình bày trong hầu hết các tài
liệu về toán kinh tế.
Trong bài báo này ta quan tâm phân tích định
lượng và đặc biệt là tính không ổn định của
nghiệm kỳ dị của bài toán (1.1)-(1.2).
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG
Xét trường hợp hàm sản xuất là hàm Cobb-
Douglas có dạng
1( ) ( ) ( ) ( 0;0 1)Q t aK t L t a
Khi đó bài toán (1.1)-(1.2) được viết lại:
* Tel: 0912 119767, Email: [email protected]
0
(2.3)( ) . ( ) . ( )
(2.4)(0)
k t k t s ak t
k k
Phương trình (1.3) là phương trình Bernoulli.
Phương trình này luôn luôn có hai nghiệm,
trong đó một nghiệm là nghiệm tổng quát,
một nghiệm là nghiệm kỳ dị:
Nghiệm tổng quát
1
1(1 ). t sa
y c e
,
ở đây c là hằng số tích phân.
Nghiệm kỳ dị 0.y
Bài toán Cauchy (2.3)-(2.4) tùy theo giá trị
của 0k mà bài toán có duy nhất nghiệm hay
hai nghiệm, có hai trường hợp xảy ra:
Trường hợp 1. Nếu 0 0k , bài toán (2.3)-
(2.4) cho nghiệm duy nhất là:
1
11 (1 )
0
. .( ) ts a s a
k t k e
Trường hợp 2. Nếu 0 0k , bài toán (2.3)-
(2.4) có hai nghiệm là:
1
1 11
1 1(1 ) (1 ) 1
2
( ) 0 (2.5)
. .( ) 1 (2.6)t t
k t
s a s a sak t e e
Nguyễn Văn Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 45 - 47
46
Từ ý nghĩa của điều kiện ban đầu
0
(0)
(0)
Kk
L , ta thấy khi 0 0k , dẫn tới
K(0)=0.
Ta xét giới hạn của (2.5) và (2.6)
1lim ( ) 0 (2.7)t
k t
1
1(1 )
2
1
1
. .lim ( ) lim
as(2.8)
t
t t
s a s ak t e
Từ hai giới hạn ở trên xuất hiện một vấn đề:
mô hình tăng trưởng Solow với điều kiện ban
đầu không có vốn, trạng thái của nền kinh tế
có thể rơi vào (2.7) hoặc (2.8). Một câu hỏi
được đặt ra: khi thời gian đủ lớn, k(t) tiến tới
đâu? Tiến tới (2.7) hay (2.8)?
Để trả lời cho câu hỏi trên, ta phải xét tính ổn
định theo nghĩa Liapunov của mỗi nghiệm
1 2( ); ( ).k t k t
ỔN ĐỊNH LIAPUNOV
Để dễ theo dõi, chúng tôi nhắc lại một số
khái niệm cơ bản về lý thuyết ổn định.
Trong mục này chúng ta xét phương trình
( )( ( ), ) (3.1)
dy tY y t t
dt
Định nghĩa 3.1 a) Nghiệm không của phương trình (3.1) đươc
gọi là ổn định theo nghĩa Liapunov nếu với
0; 0 sao cho từ bất đẳng thưc
|| (0) ||y , suy ra bất đẳng thưc
|| ( ) || 0y t t ; ở đây, y(t) là ký hiệu
một nghiệm bất kỳ của (3.1), xác định bởi
điều kiện y(0).
b) Nghiệm không đươc gọi là ổn định tiệm
cận theo nghĩa Liapunov, nếu nó ổn định và
lim || ( ) || 0t
y t
Định lý 3.1
Nếu tất cả các nghiệm của phương trình đặc
trưng của xấp xỉ thư nhất có phần thực âm thì
nghiệm không của hệ ổn định tiệm cận.
ij 1
1
( ,... ), 1,...,n
ij i n
j
dya y Y y y i n
dt
Nếu trong sô các nghiệm của phương trình
đặc trưng của xấp xỉ thư nhất tồn tại dù chỉ
một nghiệm có phần thực dương thì nghiệm
không của hệ không ổn định.
ij 1
1
( ,... ), 1,...,n
ij i n
j
dya y Y y y i n
dt
ỔN ĐỊNH CỦA MÔ HÌNH SOLOW
( ) . ( ) . . ( )k t k t s a k t
Đặt
( ) . . (4.1)f k k s a k
Tính đạo hàm cấp 1 và cấp 2, ta được 1
2
'( ) . .
''( ) . . ( 1)
f k s a k
f k s a k
Vì 0 1, ''( ) 0 0f k k , do đó
'( )f k là hàm nghịch biến theo k. Mà phương
trình 1'( ) . . 0f k s a k có nghiệm
1
1
*sa
k k
.
Từ lập luận trên ta thấy '( ) 0f k với
(0;1)k và (0) 0; '(0)f f .
Sau đây ta phân tích định tính bằng phương
pháp mặt phẳng pha, muốn vậy, ta dựng hệ
trục tọa đồ đề các vuông góc Okf, trên mặt
phẳng tọa độ này ta vẽ đồ thị của hàm (4.1).
Định lý 4.1 Nghiệm 1( ) 0k t là trạng thái
không ổn định của mô hình tăng trưởng Solow.
Tiếp theo, ta khảo sát tính ổn định của trạng
thái (2.6), muốn vậy, ta xét dấu của '
2( )f k :
' 1
2 2
11
11
(1 ) 1
(1 ) 1
( ) . . .
. . 1
(1 )
t
t
f k s a k
sas a e
e
Nguyễn Văn Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 45 - 47
47
Chuyển qua giới hạn ' (1 ) 1
2lim ( ) lim( (1 ) ) ( 1) 0t
t tf k e
Điều này chứng tỏ '
2( )f k sẽ âm với t đủ lớn.
Từ hình vẽ trên cho ta hình ảnh trực quan về
tính ổn định của trạng thái k2(t) và tính không
ổn định của trạng thái k1(t)
Định lý 4.2. Trạng thái
1
11
(1 ) 12 ( ) 1 tsa
k t e
là trạng thái ổn định.
Kết luận: Mô hình tăng trưởng Solow được
mô tả bởi phương trình vi phân dạng
Bernoulli (2.3). Phương trình này luôn luôn
cho hai nghiệm: một nghiệm tổng quát và một
nghiệm kỳ dị. Bài toán Cauchy của phương
trình (2.3) với điều kiện ban đầu (0) 0y
luôn luôn có hai nghiệm, trong đó nghiệm
(2.5) luôn là nghiệm không ổn định theo
nghĩa Liapunov. Còn nghiệm (2.6) luôn luôn
là nghiệm ổn định theo nghĩa Liapunov.
Từ đó ta rút ta khẳng định: mặc dù ban đầu
doanh nghiệp không có vốn nhưng sau một
khoảng thời gian nào đó sẽ thoát khỏi trạng
thái tĩnh, và khi đó tỷ số đơn vị vốn trên một
đơn vị lao động k(t)=K(t)/L(t) sẽ dần đến một
giá trị gọi là giá trị tới hạn, đó là
1
1sa
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Hoàng Hữu Đường (1975), Lý thuyết phương
trình vi phân, Nxb ĐH và THCN.
2. E. A. Barbasin (1973), Mở đầu Lý thuyết ổn
định, Nxb KHKT.
3. I. V. Matveev (1978), Các phương pháp tích
phân phương trình vi phân, Nxb Mir.
4. Kevin Lee, M. Hashem Pesaran, Ron Smith
(1077), Growth and convergence in a multy-
country empirical stochastic Solow mode;,
Applied Econometrics, vol 12
SUMMARY
STABILITY OF SINGULAR SOLUTION IN SOLOW GROWTH MODEL
Nguyen Van Minh1*, Nguyen Van Thao2, Nguyen Thi Thu Hang1
1College of Economics and Business Administration - TNU
2College of Technology - TNU Solow model researches the economic growth which is described by Cauchy problem of Bernoulli
difference equation has the singular solution. This proplem always has two solutions including a
singular solution, in the case initial condition as y(0) = 0. Usually, the regular solution of the
problem is only concerned. In this paper, however, we research stability of solutions, including
singular solution of Solow model.
Keywords: Cauchy problem, differential equation, economic growth, model economy, Solow
growth model, steady state
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:3/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Hồng Trường – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 119767, Email: [email protected]
Nguyễn Văn Minh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 45 - 47
48
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 49 - 54
49
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TRA THUẾ TẠI CỤC THUẾ TỈNH BẮC CẠN
Đỗ Thị Thúy Phương*
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, nộp thuế thuế theo qui định của pháp luật là
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân. Công tác kiểm tra thuế là một chức năng cơ bản
và quan trọng trong công tác quản lý thuế. Thực hiện tốt công tác kiểm tra thuế là một biện pháp
hữu hiệu nhằm phát hiện, ngăn ngừa vi phạm, giúp doanh nghiệp nhận thấy luôn có sự kiểm tra
giám sát của cơ quan thuế hiệu quả và kịp thời để phát hiện vi phạm nếu có. Từ đó, nâng cao tính
tuân thủ, trung thực trong việc kê khai thuế, đảm bảo công bằng trong việc thực hiện chính sách
thuế của Nhà nước.
Từ khóa: Thuế, kiểm tra, thanh tra, doanh nghiệp, người nộp thuế.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà
nước, nộp thuế theo qui định của pháp luật là
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá
nhân. Luật quản lý thuế có hiệu lực thi hành
từ ngày 1/7/2007 đã tạo hành lang pháp lý
trong công tác quản lý thuế. Theo đó, công
tác quản lý thuế chuyển từ hình thức cơ quan
thuế trực tiếp quản lý người nộp thuế sang
hình thức người nộp thuế thực hiền quyền,
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước thông qua
qui trình tự tính, tự khai, tự nộp, tự chịu trách
nhiệm. Cơ quan thuế thực hiện chức năng tuyên
truyền hỗ trợ và thanh tra kiểm tra việc chấp
hành pháp luật thuế của người nộp thuế.
Công tác kiểm tra thuế tại Cục thuế Tỉnh Bắc
Cạn trong những năm qua đã nâng cao hiệu
quả công tác quản lý thuế, chống thất thu
ngân sách trên địa bàn. Tuy nhiên, vẫn còn
tiềm ẩn nhiều rủi ro do người nộp thuế trên
địa bàn ngày càng có nhiều thủ đoạn trốn thuế
tinh vi, liên kết với nhau gây khó khăn cho cơ
quan thuế trong công tác quản lý thuế. Mặt
khác, đội ngũ cán bộ thuế làm công tác kiểm
tra thuế cũng còn những bất cập, chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý trong giai đoạn
hiện nay như thiếu vế số lượng, từng lúc từng
nơi, vẫn còn công chức thuế chưa có tinh thần
* Tel: 0912 551551, Email: [email protected]
trách nhiệm cao trong công tác quản lý thuế.
Do vậy, đánh giá thực trạng công tác kiểm tra
thuế và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác kiểm tra thuế tại Cục Thuế Bắc Cạn
là việc làm có ý nghĩa thực tiễn cao.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM TRA
THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BAN TỈNH BẮC CẠN
* Công tác lập kế hoạch kiểm tra thuế
Công tác xây dựng kế hoạch kiểm tra luôn là
công tác quan trọng được Cục thuế Bắc Cạn
quan tâm hàng đầu, bởi việc lựa chọn đối
tượng kiểm tra có ý nghĩa quyết định đến hiệu
quả của công tác kiểm tra thuế.
Chỉ đạo các phòng và các chi cục thuế tiến
hành lựa chọn các đối tượng đưa vào kế
hoạch kiểm tra thuế hàng năm trình lãnh đạo
Cục phê duyệt, bao gồm: Kế hoạch kiểm tra
tại trụ sở cơ quan thuế và kế hoạch kiểm tra
tại trụ sở người nộp thuế.
Việc lập kế hoạch kiểm tra được các Phòng,
các Đội thực hiện theo quy trình, thông qua
đánh giá rủi ro, phân tích thông tin về đối
tượng nộp thuế trên tờ khai thuế hàng tháng,
báo cáo tài chính doanh nghiệp và cơ sở dữ
liệu của cơ quan thuế.
Căn cứ vào nhiệm vụ kiểm tra thuế mà Tổng
cục Thuế giao hàng năm; số liệu phân tích
đánh giá rủi ro, quy mô quản lý doanh nghiệp
và nhân lực của từng phòng và chi cục thuế
đề ra quyết định giao nhiệm vụ kiểm tra thuế.
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 49 - 54
50
Bảng 1: Kế hoạch kiểm tra thuế tại Cục Thuế Bắc Cạn năm 2011 - 2013
STT Đơn vị thực hiện Kế hoạch kiểm tra So sánh (%)
2011 2012 2013 2012/2011 2013/2012
1 Phòng kiểm tra thuế 56 52 54 92,8 103,8
2 Các Chi cục thuế 43 47 46 109,3 97,8
Tổng cộng 99 99 100 100,0 101,0
(Nguồn: Cục thuế Bắc Cạn)
Qua số liệu trên có thể thấy, cùng với các
hành vi gian lận thuế, trốn thuế, tránh
thuế…của người nộp thuế ngày càng tinh vi,
khó phát hiện hơn như trong giai đoạn hiện
nay thì nhiệm vụ kiểm tra thuế của Cục thuế
Bắc Cạn càng những năm về sau lại càng trở
nên nặng nề hơn, đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ
lực của toàn thể đội ngũ cán bộ kiểm tra của
toàn ngành thuế mới có thể hoàn thành được.
*Kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế
Khi kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ
quan thuế, cán bộ kiểm tra thuế của các phòng
và các đội thường vận dụng các kiến thức về
chế độ kế toàn, cơ chế tài chính, pháp luật
thuế và sử dụng các phương pháp đối chiếu,
so sánh, phân tích để nhận dạng các dấu hiệu
rủi ro, xác định các sai phạm chủ yếu trên hồ
sơ khai thuế, trên cơ sở đó, các phòng và các
chi cục thuế thực hiện theo đúng quy trình
kiểm tra thuế:
- Ra thông báo yêu cầu người nộp thuế giải
trình bổ sung thông tin tài liệu đối với
trường hợp không ghi chép hoặc phản ánh
đầy đủ các chỉ tiêu trên hồ sơ khai thuế
hoặc căn cứ xác định số thuế đã khai có
nhiều nội dung nghi vấn.
- Ra quyết định ấn định thuế hoặc quyết định
kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế (trong
trường hợp đã ra thông báo lần 2 nhưng người
nộp thuế không giải trình bổ sung được hoặc
đã giải trình bổ sung nhưng không chứng
minh được số thuế đã khai là đúng).
Vận dụng các kiến thức về chế độ kế toán và sử
dụng các phương pháp đối chiếu, so sánh, phân
tích để nhận dạng các dấu hiệu rủi ro, xác định
các sai phạm chủ yếu trên hồ sơ khai thuế, trên
cơ sở đó, các phòng và các Chi cục Thuế thực
hiện theo đúng qui trình kiểm tra thuế.
Trong năm 2013, thực hiện kiểm tra đối với
8.216 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Trong
đó, chấp nhận 8.212 hồ sơ, đề nghị điều chỉnh
2 hồ sơ; 02 hồ sơ chờ giải trình.
* Kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế
Công tác kiểm tra thuế đã được triển khai khá
toàn diện trên cơ sở phân tích, nghiên cứu hồ
sơ khai thuế, phân tích thông tin, dữ liệu và
áp dụng nguyên tắc rủi ro vào hoạt động kiểm
tra thuế. Theo đó, đã tập trung vào các doanh
nghiệp có dấu hiệu rủi ro cao, doanh nghiệp
lỗ nhiều năm liên tục vẫn tiếp tục mở rộng
sản xuất kinh doanh…
Qua công tác kiểm tra thuế đã phát hiện kịp
thời các hành vi vi phạm về pháp luật thuế,
thực hiện kiến nghị xử lý truy thu về thuế, xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế,
kiến nghị sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách
về thuế…góp phần tích cực trong việc chống
thất thu ngân sách nhà nước, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của người nộp thuế.
Hàng năm, căn cứ vào kế hoạch kiểm tra đã
được phê duyệt và quyết định điều chỉnh, bổ
sung kế hoạch kiểm tra (nếu có), Cục Thuế
Bắc Cạn thực hiện kiểm tra tại trụ sở người
nộp thuế. Kết quả thực hiện kiểm tra cho thấy
Cục Thuế Bắc Cạn đã nỗ lực trong việc bố trí
nguồn lực cho công tác kiểm tra. Kết quả
kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế từ năm
2011 đến năm 2013 như thể hiện ở bảng 2.
Về thực hiện kế hoạch kiểm tra Tổng cục
Thuế giao, Cục Thuế Bắc Cạn luôn hoàn
thành vượt chỉ tiêu đề ra, năm 2011 thực hiện
vượt 5 % so với kế hoạch, năm 2012 thực
hiện vượt 15% so với kế hoạch, năm 2013
thực hiện vượt 13 % so với kế hoạch. Nếu so
sánh các doanh nghiệp đã được kiểm tra với
số doanh nghiệp hoạt động đang quản lý còn
đạt tỷ lệ thấp.
Năm 2013, toàn ngành thực hiện kiểm tra tại
113 đơn vị, doanh nghiệp hoàn thành 113%
chỉ tiêu nhiệm vụ được giao. Kết quả: truy
thu: 2.502 triệu đồng; phạt là: 772 triệu đồng;
giảm khấu trừ 900 triệu đồng, giảm lỗ: 2.471
triệu đồng.
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 49 - 54
51
Bảng 2: Tổng hơp kết quả kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế giai đoạn 2011 - 2013
Đơn vị tính: 1.000 đồng
Chỉ
tiêu Kế hoạch
Số đơn vị
đã kiểm tra
Tỷ lệ
(%)
Kết quả xử lý thu
Truy thu, Phạt Giảm khấu trừ Giảm lỗ
2011 99 104 105 738.000 6.000 6.105.113
2012 99 114 115 718.300 6.218.000 1.793.100
2013 100 113 113 772.347 900.063 2.471.823
Tổng 298 331 111 2.228.647 7.124.063 10.370.036
(Nguồn: Cục thuế tỉnh Bắc Cạn)
* Phân tích tình hình kiểm tra thuế đối với
các doanh nghiệp
Hàng năm, Cục Thuế mới kiểm tra bình quân
được 12,7% số lượng doanh nghiệp hiện có
trên địa bàn tỉnh. Theo quy định của Tổng cục
Thuế thì số lượng cán bộ làm công tác thanh
tra, kiểm tra tại cơ quan thuế phải đạt 30%,
nhưng do số lượng cán bộ còn thiếu, tại Cục
Thuế Bắc Cạn số lượng cán bộ làm công tác
thanh tra, kiểm tra thì các chức năng chuyên
môn khác sẽ thiếu cán bộ, ảnh hưởng đến
công tác quản lý thu của ngành.
Tỷ lệ kiểm tra trên tổng số doanh nghiệp hiện
có đạt thấp, chưa đạt được mức quy định của
Tổng cục thuế là hàng năm phải thực hiện
kiểm tra đạt 25% số lượng doanh nghiệp hiện
đang quản lý. Đây cũng là một vấn đề đặt ra
không chỉ riêng đối với Cục Thuế Bắc Cạn
mà các Cục Thuế khác cũng gặp phải tình
trạng như trên. Kết quả kiểm tra cho thấy:
năm 2012 có 77,2% cuộc kiểm tra có vi
phạm, năm 2013 có 87,6% cuộc kiểm tra có
vi phạm.
Kết quả kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp
thuế của Cục Thuế Bắc Cạn cho thấy, các sai
phạm chủ yếu mà các doanh nghiệp thường
mắc phải (hay nói cách khác, các rủi ro về
thuế thường gặp) là:
Thuế GTGT
- Kê khai thiếu doanh thu và thuế GTGT đầu
ra: ghi nhận doanh thu không đúng trong kỳ
tính thuế, không xuất hóa đơn và kê khai thuế
GTGT đầu ra đối với khối lượng công việc
xây dựng đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn
giao, không xuất hóa đơn và kê khai thuế
GTGT đầu ra đối với hàng hóa, dịch vụ dùng
để trao đổi, biếu tặng…
- Xác định sai đôi tương chịu thuế và không
chịu thuế: kê khai đối tượng không chịu thuế
đối với hàng hóa dịch vụ chịu thuế (tiền bản
quyền, nhượng bán các khoản đầu tư…) và
ngược lại, kê khai đối tượng không chịu thuế
nhưng không bổ sung thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ tương ứng…
- Xác định sai sô thuế GTGT đươc khấu trừ:
kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào chậm
quá thời gian quy định (6 tháng), kê khai khấu
trừ thuế GTGT đầu vào đối với các hóa đơn
không phục vụ sản xuất kinh doanh, kê khai
khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hóa đơn
mua vào từ 20 triều đồng trở lên nhưng không
thực hiện thanh toán qua ngân hàng…
- Xác định sai thuế suất: hàng hóa, dịch vụ
thuế thuộc đối tượng không chịu thuế nhưng
lại ghi thuế suất là 5% hoặc 10%...
Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Xác định sai doanh thu chịu thuế TNDN:
hàng khuyến mãi, hàng bán trả lại, giảm giá
hàng bán, không đảm bảo thủ tục quy định,
không ghi nhận doanh thu tài chính đối với các
khoản đầu tư tài chính, chuyển nhượng vốn…
- Xác định sai doanh thu và thu nhập khác:
thanh lý tài sản cố định, bán phế liệu, phế
phẩm không ghi nhận doanh thu (hạch toán
giảm chi phí); chênh lệch đánh giá lại tài sản
không ghi nhận thu nhập khác để tính thuế
thu nhập doanh nghiệp…
- Xác định sai các khoản chi phí đươc trừ khi
xác định thu nhập chịu thuế: không hạch toán
giảm giá vốn đối với hàng bán bị trả lại hoặc
đối với chi phí nguyên vật liệu vượt định mức;
trích khấu hao tài sản cố định không đúng theo
quy định (khấu hao đối với tài sản đã khấu hao
hết giá trị, khấu hao nhanh không đúng đối
tượng, không đảm bảo điều kiện quy định)…
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 49 - 54
52
- Xác định sai các khoản chi phí khác: ghi nhận
vào chi phí các khoản thuế bị truy thu và phạt…
- Xác định sai ưu đãi thuế: đăng ký ngành
nghề thuộc diễn ưu đãi thuế nhưng không
thực hiện đứng ngành nghề như đã đăng ký; áp
dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho cả
các khoản thu nhập khác (thu nhập hoạt động
tài chính, các khoản hoàn nhập dự phòng)…
GIAI PHÁP HOAN THIỆN CÔNG TÁC
KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BAN TỈNH BẮC CẠN
* Xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán
bộ làm công tác kiểm tra
- Về phẩm chất chính trị
Xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ
làm công tác kiểm tra có đủ phẩm chất chính
trị, yêu nghề, tâm huyết với nghề nghiệp, biết
đặt lợi ích của quốc gia, của tập thể lên trên
lợi ích cá nhân, nói và làm theo đúng chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, Chấp
hành nghiêm quy chế của ngành, của cơ quan
đề ra.
Tổ chức bộ máy quản lý thuế hiện đại, hiệu
quả phù hợp với yêu cầu thực thi nhiệm của
cơ quan thuế. Đội ngũ cán bộ công chức
chuyên nghiệp, chuyên sâu, liêm chính. Tăng
cường kiểm tra giám sát việc thực thi công vụ
của cán bộ, công chức thuế.
- Về trình độ chuyên môn
Ngoài việc theo tiêu chuẩn ngạch bậc theo
quy định của nhà nước, cần xây dựng các
chương trình đào tạo cho lực lượng kiểm tra
thuế có trình độ chuyên môn cao, nắm chắc
các kỹ năng chuyên ngành và các kiến thức
bổ trợ cho công tác kiểm tra thuế.
- Thay đổi lề lôi làm việc, nâng cao ý thưc
trách nhiệm và đạo đưc nghề nghiệp
Phòng kiểm tra cục thuế và đội kiểm tra chi
cục thuế phải quản lý hoạt động công vụ của
công chức thông qua quy chế giám sát hoạt
động của đoàn kiểm tra và sự hỗ trợ của công
nghệ máy tính.
Xây dựng cơ chế phối hợp chia sẻ thông tin,
trao đổi nghiệp vụ giữa các đơn vị kiểm tra
trong ngành từ các Cục thuế, các chi cục thuế
trong và ngoài tỉnh.
Đào tạo đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm
công vụ cho cán bộ kiểm tra thuế.
- Kiện toàn và nâng cao chất lương đội ngũ
cán bộ làm công tác kiểm tra thuế
Nâng cao vai trò chỉ đạo hướng dẫn của Cục
thuế đối với Chi cục thuế trong công tác kiểm
tra thuế thông qua quy chế, qui trình, qua chế
độ kiểm tra giám sát chế độ báo cáo, thông
qua chế độ kiểm tra, giám sát.
Đôi với Cục Thuế: Cơ chế tổ chức cần đi sâu
vào các chuyên ngành, hoặc đối tượng kiểm
tra, giao cho một phòng (hoặc một tổ) làm
chức năng tổng hợp và thẩm định, phúc tra
kết quả của các đoàn kiểm tra.
Đôi với các Chi cục Thuế: Cơ cấu tổ chức cần
đi sâu vào đối tượng kiểm tra, giao cho một
đội làm chức năng tổng hợp và thẩm định,
phúc tra kết quả của các đoàn kiểm tra.
Xây dựng mối liên kết, phối hợp trong công
tác hướng dẫn chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ
kiểm tra giữa các cấp trong ngành, tạo ra một
cơ cấu thống nhất, đồng bộ và gắn kết trong
hệ thống kiểm tra toàn ngành.
Thực hiện việc tổ chức sát hạch kiến thức và
kỹ năng kiểm tra thuế đối với công chức làm
công chức kiểm tra thuế 2 năm/lần.
Xây dựng cơ chế đánh giá hiệu quả công việc
kết hợp với bố trí, sử dụng luân phiên, luân
chuyển cán bộ làm công tác kiểm tra thuế.
* Xây dựng và hoàn thiện quy trình kiểm tra
của ngành thuế theo cơ chế và kỹ thuật
quản lý rủi ro
- Xây dựng và áp dụng mô hình tuân thủ của
người nộp thuế vào công tác kiểm tra thuế
trên cơ sở phân loại người nộp thuế theo hành
vi tuân thủ, thực hiện phân tích, đánh giá lựa
chọn đối tượng kiểm tra thuế áp dụng kỹ thuật
quản lý rủi ro và lập kế hoạch kiểm tra thuế
hàng năm.
- Hoàn thiện cơ chế cho hoạt động kiểm tra
theo quy định của Luật quản lý thuế.
* Phát triển ứng dụng công nghệ tin học vào
công tác kiểm tra thuế
Trên cơ sở hệ thống quản lý thuế tích hợp với
cơ sở dữ liệu tập trung cần xây dựng các phần
mềm ứng dụng để phân tích hiệu quả cho
công tác kiểm tra thuế từ khâu thập cơ sở dữ
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 49 - 54
53
liệu của doanh nghiệp, chuyển đổi dữ liệu
doanh nghiệp để phân tích, đánh giá mức độ rủi
ro phục vụ công tác kiểm tra người nộp thuế.
* Đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán bộ làm
công tác kiểm tra thuế
Cần tăng cường đào tạo cho lực lượng kiểm tra
thuế các kỹ năng chuyên ngành và các kiến thức
bổ trợ cho các công tác kiểm tra thuế.
- Kỹ năng kiểm tra nâng cao theo ngành, lĩnh
vực kinh doanh như: Xây dựng cơ bản, kinh
doanh bất động sản, ngân hàng, bảo hiểm,
chứng khoán…
- Đào tạo kiến thức bổ trợ như: Phân tích báo
cáo tài chính, hạch toán kế toán chuyên
ngành, các ứng dụng tin học phục vụ phân
tích, hỗ trợ công tác kiểm tra.
- Coi trọng đào tạo đạo đức công vụ, văn hóa
ứng xử cho lực lượng kiểm tra khi tiếp xúc
với người nộp thuế.
* Tăng cường kỷ luật, kỷ cương với công
chức thuế nói chung và công chức làm công
tác kiểm tra thuế nói riêng
- Quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ công chức,
xây dựng đoàn kết nội bộ và kỷ luật kỷ
cương. Thực hiện nghiêm 10 điều kỷ luật của
ngành; nghiêm túc xử lý những cán bộ công
chức gây phiền hà, nhũng nhiễu người nộp
thuế, đồng thời xem xét trách nhiệm của lãnh
đạo đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ công chức
để xử lý theo quy định.
- Hàng năm tiếp tục thực hiện quy chế luân
phiên, luân chuyển, điều động cán bộ theo qui
định của Bộ Tài chính tại Quyết định số:
675/QĐ-BTC ngày 16/4/2008 về việc quy
định danh mục vị trí công tác cần định kỳ
chuyển đổi đối với cán bộ, công chức, viên
chức tại các tổ chức, đơn vị thuộc Bộ Tài
chính và Kế hoạch luân phiên, luân chuyển,
điều động của Cục thuế.
- Tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “học tập,
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
- Thực hiện khẩu hiệu “trách nhiệm - kỷ
cương” do ngành thuế phát động và quán triệt
việc tuân thủ các quy định về giờ giấc làm
việc, tác phong kỷ luật, văn minh công sở,
tăng cường thời gian làm việc tại cơ quan
thuế, tập trung cho hoạt động thanh tra, kiểm
tra thuế.
- Thực hiện tốt pháp lệnh thực hành tiết kiệm
chống lãng phí, luật phòng chống tham nhũng
và quy chế khoán chi của ngành. Quan tâm
đến đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ
công chức, tạo điều kiện cho cán bộ công
chức được học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, trình độ lý luận, xem xét, giải quyết chế
độ về tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ kịp
thời, đúng qui định.
KẾT LUẬN
Công tác kiểm tra thuế là một chức năng cơ
bản và quan trọng trong công tác quản lý
thuế. Bên cạnh việc tôn trọng kết quả tự tính,
tự khai, tự nộp của doanh nghiệp, cơ quan
thuế cần phải thực hiện các biện pháp giám
sát hiệu quả việc tự tính, tự khai, tự nộp của
doanh nghiệp, vừa đảm bảo khuyến khích sự
tuân thủ tự nguyện pháp luật thuế, vừa đảm
bảo pháp hiện ngăn ngừa kịp thời các trường
hợp vi phạm pháp luật thuế. Làm tốt công tác
kiểm tra thuế là một biện pháp hữu hiệu nhằm
phát hiện, ngăn ngừa vi phạm, giúp doanh
nghiệp nhận thấy luôn có sự kiểm tra giám sát
của cơ quan thuế hiệu quả và kịp thời để phát
hiện vi phạm nếu có. Từ đó, nâng cao tính
tuân thủ, trung thực trong việc kê khai thuế,
đảm bảo công bằng trong việc thực hiện chính
sách thuế.
TAI LIỆU THAM KHAO
1. Cục thuế Bắc Cạn (2012), Báo cáo tổng kết
công tác thuế năm 2011.
2. Cục thuế Bắc Cạn (2013), Báo cáo tổng kết
công tác thuế năm 2012.
3. Cục thuế Bắc Cạn (2014), Báo cáo tổng kết
công tác thuế năm 2013.
4. Học viện Tài chính (2010), Giáo trình Quản lý
thuế, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
5. Thanh Mai (2012), “Hà Nội đổi mới phương
pháp thanh tra, kiểm tra thuế”, Tạp chí thuế Nhà
nước số 6.
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 49 - 54
54
SUMMARY
IMPROVING TAX INSPECTION IN BAC CAN PROVINCE
Do Thi Thuy Phuong* College of Economics and Business Administration - TNU
Tax is the main source of the State budget; and payment of tax under the law is the rights and
obligations of all organizations and individuals. Tax inspection is a basic and important function in
the management of tax. Implementing this activity well is effective ways to detect and prevent
violations, making businesses realize the regularly effective and timely control and supervision of
the tax authorities to detect any violations. As a result, improving the compliance and honesty in
tax declaration helps ensure fairness in the implementing tax policy.
Keywords: tax, inspection, businesses, taxpayers.
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Đình Tuấn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 551551, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59
55
VAI TRO CỦA DOANH NGHIỆP TRONG TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT NGÀNH
CHÈ TỈNH THÁI NGUYÊN, TẦM NHÌN 2020
Nguyễn Thị Lan Anh*, Đỗ Thùy Ninh Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thái Nguyên là tỉnh có diện tích trồng chè lớn thứ hai của Việt Nam (sau tỉnh Lâm Đồng) [1]. Cây
Chè Thái Nguyên có nhiều ưu thế do được thiên nhiên, thổ nhưỡng ưu đãi, người dân địa phương
có nhiều kinh nghiệm trong trồng, chăm sóc hay sơ chế chè; đã có một số thương hiệu chè đặc sản
Tân Cương, La Bằng, Trại Cài… Tuy nhiên, ngành chè của tỉnh Thái Nguyên qua nhiều phân tích
(2008-2013) được đánh giá chưa phát huy được tiềm năng lợi thế sẵn có. Tập trung một số nguyên
nhân:(i) Chưa có vùng nguyên liệu đủ lớn để đáp ứng cho các nhà máy chế biến công suất lớn hình
thành;(ii) Kỹ thuật canh tác/ thu hái/ sơ chế chè phụ thuộc thói quen tập quán;(iii) Mức độ ứng
dụng tiến bộ Khoa học - Kỹ thuật chưa cao. Thông qua bài viết này, nhóm tác giả muốn phân tích
vai trò, sứ mệnh của doanh nghiệp trong hình thành và tạo động lực cho tổ chức lại sản xuất ngành
chè tỉnh Thái Nguyên với mục tiêu quy hoạch sản xuất, thúc đẩy phát triển, tạo dòng sản phẩm
chất lượng cao, tăng giá trị gia tăng cho các tác nhân ngành chè.
Từ khóa: Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngành chè, tỉnh Thái Nguyên, liên kết “bôn
nhà”, chuỗi giá trị, giá trị gia tăng
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Chè Thái Nguyên đang bộc lộ nhiều bất cập ở
ba công đoạn trồng, chế biến và tiêu thụ. Diện
tích dành cho khai thác chè chủ yếu do tư
nhân sở hữu nhỏ, manh mún (chiếm 70% tổng
diện tích trồng chè của cả tỉnh), khó triển khai
áp dụng tiến bộ kỹ thuật và không kiểm soát
được quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn sản
xuất sạch/ an toàn thực phẩmVietGAP,
UTZ,... dẫn đến chất lượng không đồng đều.
Doanh nghiệp sẽ là tác nhân quan trọng nhất
trong chuỗi ngành chè có thể đảm nhận được
yêu cầu này. Doanh nghiệp đầu tư công nghệ,
giống, tập huấn kỹ thuật cho nhóm tác nhân
đầu vào của ngành (nông dân, HTX, nông
trường trồng chè); Doanh nghiệp đầu tư hạ
tầng, công nghệ chế biến đáp ứng nhu cầu đa
dạng về sản phẩm của thị trường; Doanh
nghiệp tìm kiếm thị trường phân phối tiêu thụ
sản phẩm, định hướng nhu cầu thị trường
hoặc tư vấn lại cho nông dân để đưa ra những
sản phẩm thị trường cần.
Số lượng doanh nghiệp DNNVV ngành chè
Thái Nguyên
Theo thống kê của Sở kế hoạch & Đầu tư
Tỉnh hiện nay loại hình doanh nghiệp nhỏ và
vừa chiếm 100% trên địa bàn [2][3].
* Tel:
Trong số nhữngDN sản xuất, chế biến chè ở
Thái Nguyên hiện nay chỉ rất ít DN sản xuất
sử dụng nguyên liệu đầu vào búp lá chè tươi,
số DN còn lại chủ yếu thu mua chè sơ chế
trong dân rồi chế biến lại, đóng gói và đưa
tiêu thụ.
Năng lực tài chính và nguồn vốn của các
DNNVV ngành chè Thái Nguyên
Vốn không chỉ là một yếu tố đầu vào quan
trọng đối với các DN sản xuất mà còn đề cập
tới sự tham gia của vốn trong DN, trong cả
quá trình sản xuất kinh doanh liên tục trong
suốt thời gian tồn tại của DN.
Lao động trong các DNNVV ngành chè
Thái Nguyên
Xác định người lao động là yếu tố cốt lõi tạo
nên thành công, nâng cao hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, những năm gần đây, nhiều
DN chè đã chú trọng việc cải thiện môi trường làm việc, thu hút được lực lượng lao
động tham gia vào quá trình sản xuất, đóng gói và chế biến chè.
Từ bảng trên, ta thấy cơ cấu lao động trong DNNN và công ty TNHH chiếm tỷ lệ nhiều
nhất, đây là cơ sở để tăng được số lượng sản phẩm chè thành phẩm cung cấp kịp thời cho thị
trường nội địa và xuất khẩu. Các lao động tham gia trực tiếp trong quá trình sản xuất là người
dân địa phương.
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59
56
Biểu đồ 1: Sô lương DNVVN ngành chè Thái Nguyên từ năm 2008-2013
(Nguồn: Sở kế hoạch - Đầu tư Thái Nguyên)
Biểu đồ 2: Tỷ trọng vôn sản xuất kinh doanh của DNVVN ngành chè Thái Nguyên năm 2013
(Nguồn: Sở KH-ĐT Thái Nguyên)
Bảng 1: Lao động trong sản xuất kinh doanh của DNNVV ngành chè Thái Nguyên năm 2013
STT Loại hình doanh nghiệp Lực lượng lao động
Số lượng (người) Cơ cấu (%)
1. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) 946 45,26
2. Công ty cổ phần (CTCP) 285 13,63
3. Công ty TNHH 610 29,19
4. Doanh nghiệp tư nhân 182 8,71
5. DN có vốn đầu tư nước ngoài 67 3,21
Tổng 2090 100
(Nguồn: Sở KH-ĐT Thái Nguyên và tính toán của tác giả)
Bảng 2: Một sô chỉ tiêu kết quả và hiệu quả đạt đươc do phát triển sản xuất chè
ở Thái Nguyên giai đoạn 2010 - 2012
STT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
1 Tổng sản lượng chè (búp tươi) Tấn 145.710 161.322 185.000
2 Giá trị hàng hóa của chè Tr. đồng 2.267.115 2.689.322 2.945.658
3 Giá trị hàng hóa xuất khẩu USD 9.943.000 10.484.000 11.890.000
4 Giá trị sản lượng chè/ 1 ha TrĐ/ha 107 120 134
5 Thu nhập bình quân của người trồng chè 1000 đ 1.790 1.820 1.890
6 Tạo thêm việc làm cho người lđ mới Người 657 733 890
(Nguồn: Niên giám thông kê năm 2012)
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59
57
VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG SAN
XUẤT, CHẾ BIẾN CHÈ TỈNH THÁI NGUYÊN
Khả năng đóng góp của các doanh nghiệp
ngành chè Thái Nguyên
Hiệu quả kinh doanh các sản phẩm từ chè
được thể hiện qua các chỉ tiêu: giá trị tổng sản
lượng, giá trị hàng hóa, giá trị xuất khẩu, thu
nhập bình quân của người trồng chè… được
thể hiện ở trong bảng 2.
Ngoài các chỉ tiêu đã được lượng hóa như
trên ta còn có thể thấy phát triển sản xuất chè
có tác động to lớn đến việc nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người dân, giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và
bảo vệ môi trường sinh thái.
Doanh nghiệp giữ vai trò kết nối các tác
nhân trong chuỗi giá trị ngành chè
Kết quả điều tra cho thấy, về hình thức cấu
trúc tổ chức liên kết có có 34,88% doanh
nghiệp chè Thái Nguyên áp dụng hình thức
hạt nhân trung tâm, xung quanh hạt nhân đó
có các nhà khoa học, nhà nước, doanh nghiệp
và nông dân, hỗ trợ hoạt động đan xen cùng
nhau giúp đỡ đảm bảo cho chuỗi giá trị chè
được tạo ra với chất lượng sản phẩm tốt nhất
và sự đồng đều.
Ưu điểm của hình thưc đa thành phần là sự
phối hợp đồng bộ giữa các bên nên có thêm
sức mạnh tổng hợp để có bước đột phá trên
các lĩnh vực như chuyển giao khoa học kỹ
thuật nuôi trồng do có sự tham gia trực tiếp
của nhà khoa học, quản lý thu mua sản phẩm
và hỗ trợ các chính sách ưu đãi do có sự quan
tâm quản lý của nhà nước.
Nhươc điểm của hình thưc đa thành phần là
sự phức tạp trong công tác quản lý phối hợp
giữa các thành phần tham gia và khả năng nhân
rộng, kéo dài rất hạn chế.
Việc thực hiện mối liên kết này vẫn còn tồn
tại khá nhiều khó khăn như: tình trạng người
trồng chè tự sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè
trong khi có nhiều doanh nghiệp, nhà máy sản
xuất chè không có vùng nguyên liệu riêng
phải thu mua thông qua các cơ sở thu gom
dẫn đến việc chênh lệch giá; nhiều nhà máy
chỉ sản xuất đạt 60-70% công suất vì thiếu
nguyên liệu, trong khi đó có một số lượng lớn
người nông dân phải tự tìm thị trường tiêu
thụ; một số trường hợp các ban ngành địa
phương còn lúng túng, chưa có chế tài phù
hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp giữa
doanh nghiệp và người nông dân.
Tăng giá trị sản phẩm
Doanh nghiệp tận dụng những lợi thế có kỹ
thuật, công nghệ, vốn, hạ tầng,...tạo ra những
sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn.
Các doanh nghiệp liên kết với nhau sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đồng bộ
nhóm ngành hàng hỗ trợ lẫn nhau. Sức cạnh
tranh phụ thuộc vào việc các doanh nghiệp sử
dụng những tài sản hiện có của mình và có
được phương thức tiếp cận với những nguồn
mới hiệu quả như thế nào thông qua hợp tác
với các bạn hàng liên quan khác. Vấn đề hợp
tác ngành nghề trong từng lĩnh vực ngành
hàng sẽ trở thành một nhân tố quan trọng cho
việc tăng giá trị cho sản phẩm.
Doanh nghiệp có điều kiện và khả năng
thích ứng nhanh nhạy với thị trường nên
đầu tư bài bản và chuyên nghiệp vào kỹ
thuật công nghệ
Đầu tư kỹ thuật công nghệ trong ngành chè
thường có thời gian thu hồi vốn đầu tư dài
hơn các ngành khác, bởi chè là loại cây công
nghiệp dài ngày, chu trình sinh trưởng khá
lâu, nên chu kỳ hoạt động kinh tế kéo dài.
Thông thường đầu tư cho chè phải trải qua
các giai đoạn phát triển sinh học, nên từ khi
trồng đến khi bắt đầu được thu hái phải mất
thời gian 3 năm, và thời gian kinh doanh có
thể từ 30 đến 50 năm. Cho nên, vốn đầu tư
phải phân bổ trong khoảng thời gian kéo dài và
theo thời vụ của cây chè. Thêm vào đó, hiệu
quả thu hoạch cây chè trong những năm đầu
kinh doanh là rất thấp, hiệu quả chỉ được tăng
dần trong thời gian sau. Do đó, thời gian để
hoàn đủ vốn đầu tư xây dựng cơ bản là khá lâu.
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59
58
Đầu tư cho ngành chè diễn ra trong một địa
bàn không gian rộng lớn, trên các vùng đồi
trung du, miền núi. Điều này làm tăng tính
phức tạp trong quản lý và điều hành các công
việc để khai thác đầu tư có kết quả
Đầu tư ngành chè đòi hỏi phải có hệ thống hạ
tầng cơ sở tối thiểu như các viện nghiên cứu,
các trung tâm khảo nghiệm, hệ thống thuỷ lợi,
mạng lưới giao thông, hệ thống điện tương
thích, các phương tiện thiết bị phù hợp... Đây
là điều kiện chưa được quan tâm thích đáng
trong vùng chè. Trong khi đó, các khu công
nghiệp chế biến có điều kiện hạ tầng phát
triển hơn lại xây dựng xa vùng nguyên liệu,
gây tốn kém về chuyên chở và làm giảm chất
lượng chè thành phẩm; vì chè búp tươi hái về
phải chế biến ngay, nếu chậm sẽ làm giảm
mạnh chất lượng chè nguyên liệu và chè
thành phẩm.
Đầu tư các vườn chè, phần lớn giao cho các
hộ gia đình quản lý chăm sóc. Khâu chăm sóc
đòi hỏi vốn đầu tư lớn, nhưng thường các hộ
nông dân không đủ vốn, vì thế các cơ sở sản
xuất kinh doanh thường phải đầu tư loại vốn
này, ứng trước vật tư kỹ thuật cho người
trồng; và khả năng thu hồi nguồn vốn này là
rất khó khăn.
Trong hoạt động đầu tư ngành chè cần chú
trọng đầu tư nâng cao chất lượng hàng hoá và
đầu tư phát triển thị trường, kể cả thị trường
trong nước và thị trường nước ngoài; bởi
phần lớn sản lượng chè của nước ta (70 -
80%) là dành cho xuất khẩu - một thị trường
cạnh tranh khắc nghiệt. Để phát triển thị
trường, các doanh nghiệp cần chú trọng công
tác marketing, để tìm hiểu hướng thị trường,
đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trong và
ngoài nước.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Mục tiêu của ngành chè Thái Nguyên là cần
xây dựng một chuỗi giá trị ngành hàng theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
bền vững, thay vì chỉ chú trọng đến những
tăng trưởng về lượng. Do vậy, cần quan tâm
và khuyến khích sự hình thành, phát triển của
các mô hình tổ chức sản xuất mới nhằm xây
dựng những quan hệ sản xuất mới, mở đường
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
nông nghiệp, đặc biệt là mô hình “bốn nhà”.
Trong ba yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất
nông nghiệp (ruộng đất, lao động, vốn) thì
ruộng đất vẫn là yếu tố quyết định. Việc qui
hoạch tạo vùng sản xuất nông nghiệp hàng
hóa lớn, qui mô sản xuất nông trại lớn, có
chính sách tích tụ ruộng đất, hạ tầng, quản trị
nông nghiệp,…khác hẳn các vùng sản xuất
nông hộ qui mô nhỏ. Có thể bắt đầu bằng các
sản phẩm có chuỗi giá trị xuất khẩu mạnh như
thủy sản, cà phê, cao su.
Cần nghiên cứu và có chính sách hình thành,
hỗ trợ phát triển các hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp chứ không chỉ là hợp tác xã dịch vụ,
và cần tách riêng hai loại hình hợp tác xã này.
Có chính sách đảm bảo hình thành các hiệp
hội các chủ nông trại qui mô nhỏ, lớn, thậm
chí một vùng, quốc gia, đảm bảo để hiệp hội
các chủ nông trại tổ chức nông dân theo
ngành nghề, bảo vệ sản xuất, đàm phán với
doanh nghiệp.
Có chính sách khuyến khích đối với các tổ
chức sản xuất áp dụng khoa học công nghệ
cao…Tập trung mọi nguồn lực để khai thác
có hiệu quả, bền vững tiềm năng và lợi thế
của cây chè, đưa sản phẩm chè Thái Nguyên
có vị thế cao trên thị trường trong nước và thế
giới. Một số gợi ý khuyến nghị đối với tỉnh
Thái Nguyên có phương hướng đối với phát
triển sản xuất chè giai đoạn 2010 - 2015, định
hướng đến năm 2020:
+ Hình thành vùng sản xuất chè hàng hóa tập
trung nhằm tạo tính ổn định cho ngành hàng.
+ Phát triển sản xuất chè trên cơ sở đầu tư thâm
canh, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ
trong khâu sản xuất giống, chế biến nhằm tăng
năng suất, chất lượng cho sản phẩm.
+ Khai thác, phát huy nội lực, tận dụng tối đa
ngoại lực để đưa sản phẩm tiếp cận những thị
trường khó tính như Nhật Bản, châu Âu…
+ Phát triển sản xuất đi đôi với mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm khuyến khích các
hình thức liên kết kinh tế trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm, liên kết giữa các thành
phần kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59
59
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Diện tích chè Thái Nguyên là 18.600 ha; diện
tích chè Lâm Đồng là 25.000 ha; Diện tích chè của
cả nước trên 70.000 ha.
2. Hội nông dân tỉnh Thái Nguyên (2013), Đánh
giá hiện trạng cây chè
3. Điều 3, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày
30/6/2009 của Chính phủ
4. PGS.TS Trương Đình Chiến (2012), Quản trị
Marketing, Nhà xuất bản kinh tế quốc dân
5. Phillip Kotler (2012), Quản trị Marketing, Nhà
xuất bản Thống kê, Hà Nội
6. Nguyễn Hải Sản (2007), Quản trị doanh
nghiệp, Nhà xuất bản Tài chính, T.P Hồ Chí Minh
7. Michael Poter, Chuỗi giá trị và lơi thế cạnh
tranh, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội
8. PGS.TS Ngô Kim Thanh (2011), Giáo trình
Quản trị chiến lươc, Nhà xuất bản Đại học kinh tế
quốc dân, Hà Nội.
SUMMARY
ROLE OF CORPORATE REORGANIZATION
IN MANUFACTURING SECTOR TEA THAI NGUYEN, VISION 2020
Nguyen Thi Lan Anh*, Do Thuy Ninh College of Economics and Business Administration - TNU
Thai Nguyen tea growing area of Vietnam's second largest (after Lam Dong) [1]. Thai Nguyen tea
tree has many advantages due to natural soil incentive locals have a lot of experience in planting,
tending or primary processing of tea; had some specialty tea brand Xinjiang, La Bang ... Camp Set.
However, Thai Nguyen tea industry through statistics analysis (2008-2013) is assessed not to
promote the availability of potential advantages. Is due to several reasons: (i) do not focus so no
material area large enough to accommodate the high-capacity processing plant form; (ii) technical
practices, tending, processing of tea for farmers harvest; (iii) scientific and technical progress in the
tea-growing region from planting, care to provide for the processing market. Through this article, the
authors wanted to analyze business and create incentives for organizations the production of Thai
Nguyen tea industry with the goal of production planning, promoting, creating high-quality product
line, increase the value added to the tea industry agents.
Keywords: enterprise, small and medium enterprises, the tea industry, Thai Nguyen, the "four"
links,value added.
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:03/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Quang Huy – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel:
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59
60
Trần Đình Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 61 - 67
61
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ NÔNG SẢN HÀNG HÓA
Ở TỈNH BẮC KẠN
Trần Đình Tuấn*, Nguyễn Thị Châu, Trần Thị Ánh Nguyệt Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Bắc Kạn có thế mạnh về kinh tế là phát triển sản xuất nông lâm nghiệp. Nhiều nông sản phẩm của
tỉnh đã có thương hiệu trên thị trường, được người tiêu dùng ưa chuộng. Tuy nhiên, tình hình tiêu
thụ sản phẩm đang gặp rất nhiều khó khăn trong đó có nguyên nhân của thị trường. Mặc dù tỉnh đã
quan tâm đầu tư để phát triển thị trường thương mại, dịch vụ phục vụ cho sản xuất và đời sống của
người dân, nhưng mức độ phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu. Sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ
được, gây thiệt hại không nhỏ cho người sản xuất. Qua nghiên cứu thực trạng, các tác giả đã đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường tiêu thụ hàng hóa nói chung và nông sản
phẩm nói riêng cho tỉnh Bắc Kạn, góp phần giải quyết khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Từ khóa: Thị trường nông sản phẩm ở Bắc Kạn; Thương mại, dịch vụ ở Bắc Kạn
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Bắc Kạn là tỉnh thuộc khu vực trung du, miền
Núi phía Bắc Việt Nam, có thế mạnh về phát
triển kinh tế nông lâm nghiệp. Trong những
năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp
của tỉnh đang có sự chuyển dịch dần theo
hướng sản xuất hàng hóa. Nhiều nông sản
phẩm của tỉnh đã có thương hiệu trên thị
trường, được người tiêu dùng ưa chuộng. Tuy
nhiên, trên thực tế tình hình tiêu thụ sản phẩm
gặp rất nhiều khó khăn trong đó có nguyên
nhân do thị trường phát triển ở mức độ chậm,
chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, dẫn
đến hiện tượng sản phẩm làm ra không tiêu
thụ được, gây thiệt hại cho người sản xuất. Vì
vậy cần thiết phải tìm ra các giải pháp để thị
trường phát triển ổn định, đẩy mạnh tiêu thụ
sản phẩm, đem lại thu nhập cao cho người sản
xuất và tăng thu cho ngân sách địa phương.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG THƯƠNG MẠI, DỊCH VỤ Ở
BẮC KẠN GIAI ĐOẠN 2008 -2013
Đánh giá chung
Quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phát
triển thương mại, dịch vụ, du lịch giai đoạn
2008 - 2013 trên địa bàn tỉnh diễn ra trong bối
cảnh có nhiều yếu tố thuận lợi như tình hình
chính trị - xã hội ổn định. Sản xuất nông lâm
* Tel:
nghiệp hàng hóa với các lĩnh vực như trồng
cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi đại
gia súc…; ngoài ra tỉnh còn có tiềm năng về
khoáng sản chì, kẽm, sắt... phục vụ cho phát
triển các ngành công nghiệp khai thác, chế
biến sâu, tạo sức cạnh tranh trên thị trường.
Bên cạnh đó, tỉnh còn có nhiều danh lam,
thắng cảnh đẹp; có tiềm năng về du lịch đa
dạng, phong phú. Điều đó đã tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển du lịch và các loại
hình thương mại, dịch vụ, góp phần tiêu thụ
nông sản phẩm.
Tuy nhiên, việc phát triển thương mại, dịch
vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều
khó khăn như địa hình chia cắt, giao thông
giữa các vùng không thuận tiện, gây trở ngại
cho quá trình vận chuyển, giao lưu hàng hoá,
tiếp thị du lịch, làm giảm sức cạnh tranh của
hàng hoá, không hấp dẫn các nhà đầu tư vào
lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch. Thu
nhập của người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo
còn cao… Những khó khăn đó đã tác động
không nhỏ tới phát triển thị trường thương
mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh.
Những kết quả cụ thể
Thực trạng phát triển thương mại, dịch vụ
Trong những năm qua, mạng lưới bán buôn,
bán lẻ, đặc biệt là hệ thống chợ và các hộ kinh
doanh bán lẻ phát triển khá nhanh. Thị trường
được mở rộng với sự tham gia của nhiều
Trần Đình Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 61 - 67
62
thành phần kinh tế nên hàng hoá ngày càng
phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu sản
xuất, tiêu dùng của nhân dân, góp phần ổn
định giá cả thị trường, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển.
Năm 2008 có 5.940 công ty, hợp tác xã, hộ
kinh doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, trong đó có 72 doanh
nghiệp, hợp tác xã, 5.868 hộ kinh doanh cá
thể. Năm 2012 có 6.112 tổ chức, cá nhân,
trong đó có 621 doanh nghiệp, hợp tác xã và
5.491 hộ kinh doanh cá thể. Về mạng lưới bán
buôn, bán lẻ và hạ tầng thương mại, hiện nay
trên địa bàn tỉnh có 2 siêu thị (siêu thị điện
máy Lan Kim, siêu thị Hapromart) và 65 chợ
trong đó có 15 chợ được đầu tư xây mới, cải
tạo, nâng cấp với tổng số vốn đầu tư phát triển
là 85 tỷ đồng (nguồn vốn chương trình 135 là
18,5 tỷ đồng, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
là 14 tỷ đồng, nguồn khác là 52,5 tỷ đồng).
Thực trạng phát triển Trung tâm thương
mại và Siêu thị trên địa bàn tỉnh
Trên địa bàn tỉnh hiện có 01 Trung tâm
thương mại hạng 3, 01 Siêu thị hạng 2 (Siêu
thị tổng hợp Lan Kim) và 01 Siêu thị hạng 3
(Siêu thị Hapromart). Tất cả các trung tâm
thương mại và siêu thị đều thuộc địa bàn Thị
xã Bắc Kạn.
Nhóm hàng kinh doanh chính tại các siêu thị
là kinh doanh tổng hợp. Các nông sản phẩm
qua chế biến đã được tiêu thụ tại Trung tâm
thương mại và Siêu thị.
Thực trạng mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh
Trên địa bàn tỉnh hiện có 65 chợ đang hoạt
động, tỉnh chưa có chợ hạng I, chỉ có 06/65
chợ hạng II, còn lại 59/65 chợ hạng III (bao
gồm cả chợ tạm). Cơ sở vật chất nhiều chợ
hiện đã xuống cấp, đặc biệt là các chợ hạng
III, chợ tạm.
Các chợ hạng III tập trung chủ yếu tại địa bàn
nông thôn, đa phần không được xây dựng
kiên cố, chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán
hàng hóa của nhân dân trong xã và địa bàn
phụ cận.
Lưu lượng hàng hóa lưu chuyển qua chợ:
Theo tổng hợp báo cáo từ phòng Công
Thương các huyện, Phòng Kinh tế thị xã, tỷ
trọng hàng hóa và dịch vụ lưu thông qua các
chợ trung bình đạt khoảng 40-60% so với
tổng lượng hàng hóa, dịch vụ lưu thông qua
các loại hình phân phối. Mạng lưới chợ trên
địa bàn tỉnh là nơi cung cấp chủ yếu các mặt
hàng thuộc nhu cầu tiêu dùng hàng ngày cho
nhân dân và là nơi thực hiện việc trao đổi
mua bán cho các hộ sản xuất nhỏ. Các loại
hàng hóa lưu thông qua chợ chủ yếu gồm:
Hàng tạp hóa, thực phẩm tươi sống, các loại
nông sản phẩm sản xuất của hộ, tiếp theo là
hàng nông sản khô đã qua sơ chế, hàng may
mặc, giầy dép, hàng nông cụ, vật tư nông
nghiệp và một số ít các loại hàng hóa như
hàng kim khí, điện máy, điện tử điện lạnh…
Bảng 1. Sô lương Trung tâm thương mại và Siêu thị hiện có trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
T
T Tên siêu thị Địa chỉ DN quản lý
Hạng
siêu
thị
Nhóm
hàng KD
Diện
tích
XD
(m2)
Diện
tích KD
(m2)
Năm
KD
1 TT thương
mại Lan Kim
Phường Phùng
Chí Kiên, TX Bắc
Kạn
Công ty TNHH
Lan Kim
3
KD tổng
hợp
2.466
10.000
2012
2 Siêu thị
Hapromart
Phường Đức
Xuân, TX Bắc
Kạn
Tổng công ty
TM Hà Nội
3
KD tổng
hợp
500
500
2008
3 Siêu thị tổng hợp Lan Kim
Phường Phùng Chí Kiên, TX Bắc
Kạn
Công ty TNHH Lan Kim
2
KD tổng hợp
1.400
2.290
2012
(Nguồn: Sở Công Thương Bắc Kạn và tổng hơp của tác giả)
Trần Đình Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 61 - 67
63
Bảng 2. Tình hình mạng lưới chơ hiện có trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
STT
Loại chợ
Địa chỉ
Mô hình
quản lý
Diện tích
XD (m2)
Năm
KD
I Chợ hạng I
II. Chợ hạng II
1 Chợ Đức Xuân P. Đức Xuân - thị xã Bắc Kạn DN 11.032 2008
2 Chợ Bắc Kạn P. Phùng Chí Kiên-TX Bắc Kạn DN 2.176 2011
3 Chợ TT huyện Pác Nặm Xã Bộc Bố - huyện Pác Nặm Ban QL 3.604 2008
4 Chợ TT Phủ Thông TT Phủ Thông - huyện Bạch Thông Ban QL 9.450 2003
5 Chợ TT Bằng Lũng TT Bằng Lũng - huyện Chợ Đồn Ban QL 6.890 2008
6 Chợ ĐMNS huyện Na Rì TT Yến Lạc - huyện Na Rì Ban QL 11.000 2007
III Chợ nông sản, đầu mối
1 Chợ Trâu bò Nghiên Loan Xã Nghiên Loan - huyện Pác Nặm Tổ QL 5.000 2005
2 Chợ Gia súc xã Bộc Bố Xã Bộc Bố - huyện Pác Nặm Tổ QL 11.961 2005
3 Chợ ĐMNS huyện TT Yến Lạc - huyện Na Rì Ban QL 11.000 2007
(Nguồn: Sở Công Thương Bắc Kạn và tổng hơp của tác giả)
Các loại hình hạ tầng thương mại khác
Hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có các loại
hình kết cấu thương mại khác như Trung tâm
Hội chợ triển lãm thương mại, TT Thông tin
và Xúc tiến thương mại, Trung tâm logistic,..
Đánh giá những hạn chế và nguyên nhân
trong phát triển thị trường ở Bắc Kạn
Những mặt hạn chế
Hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên
địa bàn tỉnh giai đoạn 2008 - 2013 chưa thực
sự phát triển, tốc độ phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng. Thị trường hàng hoá và
số người kinh doanh, buôn bán có tăng nhưng
chỉ mang tính tự phát, phân tán, quy mô nhỏ
lẻ, mua bán qua nhiều nấc trung gian. Chưa
thiết lập được mối quan hệ lâu dài giữa sản
xuất với lưu thông, đặc biệt là các sản phẩm
nông lâm nghiệp của địa phương.
Hệ thống hạ tầng thương mại hiện còn những
bất hợp lý về khoảng cách, bán kính phục vụ
và qui mô dân số. Một số chợ được hình
thành thiếu sự thống nhất hoá, tiêu chuẩn hoá
và thiết chế cơ bản như nhà vệ sinh, thiết bị
phòng cháy chữa cháy và nơi để xử lý rác
thải,... Đã và đang xảy ra tình trạng mất an
toàn giao thông trên nhiều tuyến đường có
điểm họp chợ.
Việc hình thành trung tâm thương mại ở thị
xã Bắc Kạn, hệ thống bán lẻ hiện đại ở các
khu tập trung dân cư chưa được quan tâm
đúng mức, công tác xã hội hoá trong đầu tư
phát triển hạ tầng thương mại còn thấp.
Việc tổ chức hội chợ thương mại, hội chợ
triển lãm tại địa phương còn đơn điệu, chưa thực sự hiệu quả.
Lĩnh vực xuất - nhập khẩu phát triển không ổn định, chưa xây dựng được mặt hàng chiến
lược, hàng xuất khẩu chủ lực.
Lĩnh vực dịch vụ còn nhiều hạn chế, chất
lượng dịch vụ chưa cao.
Còn thiếu quy hoạch tổng thể, lâu dài trên cơ
sở tiềm năng của tỉnh nên chưa có định hướng rõ nét trong phát triển thương mại, dịch vụ.
Nhất là thiếu quy hoạch chi tiết phát triển trên địa bàn tỉnh. Thiếu vốn để đầu tư, xây dựng,
cải tạo, nâng cấp hạ tầng du lịch. Một số dự án hạ tầng thương mại, dịch vụ đã hoàn thành
đưa vào sử dụng nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao.
Việc xã hội hoá, thu hút đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và du lịch còn hạn chế.
Dịch vụ nghèo nàn, đơn điệu, ít chủng loại sản phẩm, mẫu mã và chất lượng sản phẩm
chưa đáp ứng được nhu cầu cũng như thu hút du khách đến tham quan, du lịch tại địa
phương. Công tác marketing còn yếu.
Nguyên nhân của các hạn chế
Nguồn vốn ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp,
chưa thu hút được đầu tư vào lĩnh vực thương
Trần Đình Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 61 - 67
64
mại, dịch vụ, du lịch. Năng lực tài chính của
các doanh nghiệp địa phương hoạt động trong
lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch còn
thấp, thiếu sự liên kết với nhau trong hợp tác
đầu tư nên việc phát triển thương mại, dịch
vụ, du lịch còn gặp nhiều khó khăn.
Công tác cải cách hành chính chưa đồng bộ
nên việc xử lý, tháo gỡ các khó khăn vướng
mắc không kịp thời. Sự phối kết hợp giữa các
ngành, các cấp trong việc nghiên cứu phát
triển thị trường, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động
thương mại, dịch vụ, du lịch còn hạn chế.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật tuy đã được tăng
cường, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội nhất là
hạ tầng về giao thông, công nghệ thông tin và
các dịch vụ phụ trợ... Việc quy hoạch đất và
dành quỹ đất cho phát triển các công trình kết
cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, du lịch còn
chậm hoặc chưa được quan tâm là một trong
những trở ngại quan trọng trong việc phát
triển các loại hình này.
GIAI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
TIÊU THỤ NÔNG SAN HANG HÓA TỈNH
BẮC KẠN ĐẾN NĂM 2020
Giải pháp chung
Thị trường là yếu tố quan trọng trong sản xuất
hàng hóa, có tác động thúc đẩy sản xuất hàng
hóa phát triển và vì vậy giải pháp cho thị
trường tiêu thụ hàng hóa nói chung và tiêu
thụ nông sản phẩm nói riêng đến năm 2020
tập trung vào những vấn đề dưới đây:
- Phát triển hệ thống thông tin thị trường, hệ
thống thương mại điện tử để thường xuyên
cặp nhật thông tin, mới nhất về thị trường tiêu
thụ nông sản để cung cấp cho người sản xuất,
tiến tới lắp đặt hệ thống vi tính và nối mạng
đến các xã để người sản xuất cập nhật thông
tin hàng ngày.
- Tổ chức tuyên truyền quảng bá giới thiệu
sản phẩm, xây dựng thương hiệu hàng hóa có
uy tín, chất lượng trên thị trường, tiến tới có
chứng chỉ chất lượng sản phẩm. Tăng cường
kiểm tra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ để giữ
chất lượng.
- Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói
chung và cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng.
Trục giao thông quan trọng là quốc lộ 3 chạy
qua tỉnh Bắc Kạn, phía Bắc nối với Cao Bằng
ra cửa khẩu biên giới với Trung Quốc, phía
Nam nối với Thái Nguyên, Hà Nội và các tỉnh
khác. Quốc lộ 3 đã và đang được Chính phủ
đầu tư cải tạo nâng cấp. Đầu tư nâng cấp các
tuyến đường giao thông giữa Bắc Kạn với các
tỉnh biên giới (Lạng Sơn, Cao Bằng) tạo điều
kiện để vận chuyển sản phẩm nông lâm nghiệp
đến cửa khẩu để xuất khẩu sang Trung Quốc.
Quốc lộ 279 (đường vành đai II) là tuyến giao
thông nối Bắc Kạn với Lạng Sơn và Tuyên
Quang đang từng bước được nâng cấp.
Về mạng lưới đường bộ trong tỉnh chất lượng
nhìn chung tuy có được cải thiện song vẫn
thấp so với nhu cầu, còn nhiều tuyến chưa
được nâng cấp trải nhựa, đặc biệt là những
tuyến nằm ở miền núi và các tuyến đường
huyện xã.
- Đẩy mạnh đa dạng hóa các hình thức tiêu
thụ sản phẩm phù hợp như: bán lẻ, bán buôn,
hợp đồng tiêu thụ, sản phẩm, liên kết giữa sản
phẩm và tiêu thụ, trong đó hình thức tiêu thụ
nông lâm sản thông qua hợp đồng là hình
thức liên kết có tính bền vững nhất. Đó là
hình thức gắn lợi ích giữa người sản xuất và
doanh nghiệp chế biến tiêu thụ sản phẩm, có
vai trò của Nhà nước và nhà khoa học trong
việc hỗ trợ trong sự liên kết đó, cụ thể đã
được thể chế hóa trong Quyết định 80/TTg
ngày 24/06/2002 của Thú tướng Chính phủ về
“khuyến khích sản xuất và tiêu thụ nông sản
hàng hóa thông qua hợp đồng’’.
- Tăng cường đầu tư vào khâu xúc tiến
thương mại, trong đó có các hoạt động: Mở
và tham gia các hoạt động triển lãm, quảng
cáo trong và ngoài nước để phát triển thêm
các thị trường tiêu thụ.
Hiện tại, tỉnh đã hoàn thành quy hoạch phát
triển mạng lưới cơ sở bán buôn, bán lẻ trên
địa bàn tỉnh đến năm 2020; quy hoạch phát
triển mạng lưới chợ, trung tâm thương mại và
siêu thị đến năm 2015 và 2020; quy hoạch phát
triển mạng lưới bưu chính viễn thông, công
nghệ thông tin phục vụ thương mại, dịch vụ…
Trần Đình Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 61 - 67
65
Quy hoạch mạng lưới Trung tâm thương
mại và Siêu thị
Trong những năm tới, cùng với triển vọng phát triển kinh tế - xã hội và khả năng tăng
cường giao lưu kinh tế trên địa bàn tỉnh và với các tỉnh khác trong nước, các hoạt động
thương mại của Bắc Kạn ngày càng phải mở rộng cả về qui mô, phạm vi không gian cũng
như sự đa dạng hoá các hình thức kinh doanh. Vì vậy, các loại hình kinh doanh hiện đại như
Trung tâm thương mại (TTTM), Siêu thị... sẽ được hình thành và phát triển để đáp ứng các
yêu cầu đó và phù hợp với xu hướng chung của cả nước, tỉnh Bắc Kạn xây dựng quy
hoạch cụ thể như sau (xem bảng 3):
- Về số lượng: Xây mới 1 Trung tâm thương
mại, 06 Siêu thị trên địa bàn toàn tỉnh.
- Về vị trí: Sẽ hình thành chủ yếu ở các khu
vực đô thị, thị xã và các thị trấn.
- Về qui mô: Sẽ phát triển chủ yếu các loại
hình TTTM, siêu thị quy mô vừa và nhỏ phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, với
các tiêu chuẩn về qui mô đô thị, qui mô dân số và mức sống dân cư của các thành phố, thị
xã, một số thị trấn của tỉnh trong thời kỳ từ nay đến năm 2015 và 2020.
Quy hoạch mạng lưới chợ tỉnh Bắc Kạn
đến năm 2020
Thực hiện theo định hướng và quy hoạch đã
được duyệt như sau(xem bảng 4):
- Về số lượng chợ: Tổng số chợ trên địa bàn
tỉnh sẽ tăng lên, đặc biệt ở khu vực nông thôn.
Quy hoạch đến năm 2020, trên địa bàn tỉnh có
84 chợ, trong đó có 02 chợ hạng I (Chợ Đức
Xuân, chợ TT Phủ Thông), 12 chợ hạng II, 62
chợ hạng III và 8 chợ đầu mối.
- Về vị trí của các chợ: Hạn chế xây dựng mới
các chợ khu vực nội thành, nội thị, lựa chọn
cải tạo một số chợ trung tâm của tỉnh và
huyện với quy mô hạng I. Tập trung chủ yếu
xây dựng, cải tạo mạng lưới các chợ ở khu
vực nông thôn, tập trung đầu tư các chợ trung
tâm cụm xã, các điểm dân cư tập trung, duy
trì tốt chế độ chợ phiên để tăng lượng nông
sản phẩm tiêu thụ thường xuyên đáp ứng nhu
cầu “đầu vào” và “đầu ra” cho sản xuất.
- Về quy mô chợ: Số lượng chợ sẽ gia tăng
chủ yếu ở các chợ hạng III, trong khi các chợ
hạng I và II sẽ thấp hơn. Số chợ đầu mối tăng
lên tại Thị xã Bắc Kạn và các huyện Pác
Nặm, Na Rì, Chợ Đồn, Bạch Thông là các địa
phương có điều kiện tự nhiên thích hợp với
việc trồng các loại cây ăn quả, lúa gạo có sản
lượng lớn và thế mạnh chăn nuôi đại gia súc.
Về tính chất kinh doanh trên chợ: Bao gồm cả
kinh doanh bán buôn và bán lẻ hàng hoá, tuy
nhiên kinh doanh bán lẻ hàng hóa sẽ phát
triển nhanh hơn.
Bảng 3. Quy hoạch mạng lưới Trung tâm thương mại và Siêu thị tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020
STT
Loại hình
Địa chỉ
Hạng
siêu
thị
Diện
tích
XD
(m2)
Diện
tích
sàn
(m2)
Vốn
đầu
tư
(tr.đ)
Năm đầu tư
2011-
2015
2016-
2020
I TT Thương mại
TTTM Bắc Kạn Phường Đức Xuân 2 10.000 50.000 x x
II Hệ thống Siêu thị
1 Trung tâm mua sắm
huyện Bạch Thông
TT Phủ Thông,
Bạch Thông
3 5.000 5.000 10.000 x x
2 TT mua sắm Ba Bể Khu du lịch Ba Bể 3 5.000 5.000 10.000 x x
3 Siêu thị tổng hợp
huyện Chợ Đồn
TT Bằng Lũng,
huyện Chợ Đồn
3 2.000 2.000 2.000 x x
4 Trung tâm mua sắm
huyện Chợ Mới
Xã Yên Đĩnh,
huyện Chợ Mới
3 10.000 10.000 10.000 x x
5 Trung tâm mua sắm
huyện Chợ Mới
Khu CN Thanh
Bình, Chợ Mới
3 10.000 10.000 10.000 x x
6 Siêu thị tổng hợp
huyện Na Rì
TT Yến Lạc,
huyện Na Rì
3 2.000 2.000 2.000 x x
(Nguồn: Sở Công Thương Bắc Kạn)
Trần Đình Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 61 - 67
66
Bảng 4. Quy hoạch chơ hạng I, II và chơ nông sản đầu môi đến năm 2020
STT
Loại chợ
Địa chỉ dự kiến
Diện tích xây
dựng (m2)
Hướng đầu tư
(Mở rộng,
nâng cấp)
I Chợ hạng I
1 Chợ Đức Xuân P. Đức Xuân- TX Bắc Kạn 11.032 X
2 Chợ TT Phủ Thông TT Phủ Thông - Bạch Thông 9.450 X
II Chợ hạng II
1 Chợ TT huyện Pác Nặm Xã Bộc Bố - Pác Nặm 3.604 X
2 Chợ TT huyện Ba Bể TT Chợ Rã -Ba Bể 1.598 X
3 Chợ Pác Co - TT Chợ Rã TT Chợ Rã - Ba Bể 4.500 X
4 Chợ TT Nà Phặc TT Nà Phặc - Ngân Sơn 4.000 X
5 Chợ xã Vân Tùng Xã Vân Tùng - Ngân Sơn 3.000 X
6 Chợ TT Bằng Lũng TT Bằng Lũng - Chợ Đồn 6.890 X
7 Chợ xã Nam Cường Xã Nam Cường - Chợ Đồn 4.000 X
8 Chợ TT Chợ Mới TT Chợ Mới -Chợ Mới 6.160 X
9 Chợ xã Thanh Mai Xã Thanh Mai - Chợ Mới 7.000 X
10 Chợ Tinh xã Yên Hân Xã Yên Hân -Chợ Mới 6.000 X
11 Chợ xã Yên Đĩnh Xã Yên Đĩnh - Chợ Mới 5.000 X
12 Chợ Bắc Kạn P. Phùng Chí Kiên- TX Bắc Kạn 2.176 X
III Chợ nông sản đầu mối
1 Chợ đầu mối Xuất Hoá Xã Xuất Hoá – TX Bắc Kạn 30.000 X
2 Chợ Gia súc xã Bộc Bố Xã Bộc Bố - Pác Nặm 11.961 X
3 Chợ Trâu bò xã Nghiên Loan Xã Nghiên Loan - Pác Nặm 5.000 X
4 Chợ đầu mối lúa gạo Xã Phương Viên - Chợ Đồn 15.000 X
5 Chợ đầu mối huyện TT Yến Lạc - Na Rì 11.000 X
6 Chợ đầu mối Lam Sơn Xã Lam Sơn - Na Rì 30.000 X
7 Chợ đầu mối RQ Quang Thuận Xã Quang Thuận - Bạch Thông 30.000 X
8 Chợ Trâu bò Công Bằng Xã Công Bằng - Pác Nặm 10.000 X
(Nguồn: Sở Công Thương Bắc Kạn)
- Về loại hình chợ: Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
đến năm 2020 vẫn sẽ tồn tại phổ biến là các
chợ kinh doanh tổng hợp, với nhiều ngành
hàng kinh doanh phục vụ nhu cầu dân sinh và
tiêu thụ các loại nông sản phẩm, đặc biệt là
khu vực thị trường nông thôn.
- Dự kiến khối lượng hàng hóa lưu thông qua
chợ chiếm khoảng 85-90% tổng mức lưu
chuyển hàng hóa bán lẻ. Phạm vi hoạt động
của các chợ hạng I, hạng II và chợ đầu mối
nông sản mang tính chất liên tỉnh, liên vùng.
Quy hoạch các loại hình hạ tầng thương
mại khác
Hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có quy hoạch
các loại hình kết cấu thương mại khác. Đến
năm 2020 sẽ phấn đấu để xây dựng kết cấu hạ
tầng thương mại như Trung tâm Hội chợ triển
lãm thương mại, Trung tâm thông tin và xúc
tiến thương mại, Trung tâm logistic,...
KẾT LUẬN
Thị trường là yếu tố quan trọng trong sản xuất
hàng hóa, có tác động thúc đẩy sản xuất hàng
hóa phát triển. Qua đánh giá thực trạng phát
triển thị trường thương mại, dịch vụ, du lịch
trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2008 - 2013 còn
chậm, tốc độ phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng, chưa đáp ứng được với yêu cầu
của sản xuất và đời sống của nhân dân. Thị
trường hàng hoá và số người kinh doanh,
buôn bán tăng nhanh nhưng chỉ mang tính tự
phát, phân tán, quy mô nhỏ lẻ, mua bán qua
nhiều nấc trung gian.
Trình độ quản lý còn yếu, chưa kết hợp được
với các công ty lớn bên ngoài tạo thành
những kênh lưu thông ổn định, chi phối thị
trường, tác động tích cực vào phát triển sản
xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong tỉnh; chưa thiết lập được mối quan hệ
lâu dài giữa sản xuất với lưu thông, đặc biệt là
Trần Đình Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 61 - 67
67
các sản phẩm nông lâm nghiệp của địa
phương. Vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ
tầng thương mại dịch vụ còn thấp, chưa thực
hiện được xã hội hóa và nhất là lôi cuốn được
các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực hoạt
động này do đó tốc độ phát triển còn chậm.
Nghiên cứu để thực hiện các giải pháp đề xuất
trong việc thực hiện quy hoạch phát triển hệ
thống thương mại dịch vụ của tỉnh trong giai
đoạn tới sẽ góp phần đẩy mạnh tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa của địa phương. Có thể nói đây
là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho
quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nói chung
và kinh tế nông lâm nghiệp trong thời gian tới
của tỉnh Bắc Kạn đạt hiệu quả cao hơn.
TAI LIỆU THAM KHAO
1. Cục Thống kê Bắc Kạn, Niên giám thông kê
tỉnh Bắc Kạn các năm 2008-2013.
2. Sở Công thương Bắc Kạn, Báo cáo tình hình
phát triển Thương mại, dịch vụ và du lịch tỉnh Bắc
Kạn các năm 2008-2013.
3. Sở Công thương Bắc Kạn, Báo cáo quy hoạch
phát triển thương mại, dịch vụ tỉnh Bắc Kạn đến
2020.
4. UBND tỉnh Bắc Kạn, Qui hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Kạn đến năm
2020.
5. UBND tỉnh Bắc Kạn, Báo cáo Tổng kết phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn các năm 2010 -
2013
SUMMARY
AGRICULTURAL PRODUCTS SALE MARKET DEVELOPMENT
IN BAC KAN PROVINCE
Tran Dinh Tuan*, Nguyen Thi Chau, Tran Thi Anh Nguyet College of Economics and Business Administration - TNU
The strength of Bac Kan’s economy is the development of agricultural and forestry productions.
There are many agricultural productions of province having brand on the market, and those of
popular with consumers. However, in fact the product sale situation is encountered many
difficulties including the causes of the market. Although, it can be clearly seen that the province
has interested in investment in the past of few years, and that lead to the development of the
commercial market, services for production and people's lives, but that has not satisfied
requirements of society. The products could not sale due to a significant affect to not only the
production development but also producers. By research on situations, the authors have suggested
some of basic solutions to promote the development of commodity markets in general and
agricultural products in Bac Kan province, to contribute solving problems for producers.
Keywords: Agricultural products market in Bac Kan; Trade, Services in Bac Kan
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:28/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đỗ Thị Thúy Phương – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
*
Trần Đình Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 61 - 67
68
Vũ Thị Hậu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 69 - 73
69
PHÂN TÍCH MÔI QUAN HỆ GIỮA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA THÀNH PHÔ HỒ CHÍ MINH
GIAI ĐOẠN (1991-2012)
Vũ Thị Hậu1*, Mai Văn Tân2 1Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên,
2Kiểm toán Nhà nước khu vực XIII
TÓM TẮT Dựa trên những lý thuyết cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế và mối quan
hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tăng trưởng kinh tế, bài viết tập trung phân tích mối quan
hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế của Tp.Hồ Chí Minh giai đoạn 1991 -
2012. Đồng thời, trên cơ sở định hướng, bài viết trình bày một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế theo
hướng bền vững trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
Từ khóa: Cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, tăng trưởng kinh tế, mô hình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, môi quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VA KHUNG NGHIÊN CỨU*
Với mục tiêu nghiên cứu là phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) tác động đến tăng trưởng kinh tế, từ đó đưa ra định hướng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Thành
phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) trong thời gian tới, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp thực hiện nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong dài hạn. Để đạt được
mục tiêu đó, cần hệ thống hóa các cơ sở lý thuyết và mô hình thực nghiệm về cơ cấu ngành kinh tế, mối quan hệ và cơ chế tác động giữa CDCCKT và tăng trưởng kinh tế, từ đó đưa ra
đánh giá thành tựu và hạn chế, phân tích môi trường phát triển trong dài hạn và định hướng phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian tới. Có thể tóm tắt quá trình nghiên cứu
theo khung nghiên cứu sau đây:
Hình 1. Khung nghiên cưu môi quan hệ giữa CDCCKT và tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Đề xuất của nhóm tác giả
* Tel: 0912 373777, Email: [email protected]
Cơ sở lý luận về quan hệ giữa
CDCCKT và Tăng trưởng kinh tế
Số liệu
Phân tích định tính: CDCCKT, tăng trưởng
kinh tế; so sánh, đối chiếu. Phân tích định lượng: Phương pháp véc tơ;
mô hình kinh tế lượng
Đánh giá tính phù hợp
Đánh giá mức độ tác động
Cơ sở thực tiễn
Mô hình thực nghiệm
Thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân
Môi trường và điều kiện
Mục tiêu tăng
trưởng bền
vững
Định hướng, giải pháp
Kiến nghị
Vũ Thị Hậu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 69 - 73
70
Hình 2. Cơ chế tác động giữa CDCCKT và tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Đề xuất của nhóm tác giả
Quan hệ giữa CDCCKT và tăng trưởng kinh
tế thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố đầu
vào, tạo nên tính chất, sự vận động của các
chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh hưởng lan tỏa của
nó đến các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội,
môi trường. Một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu
quả cần phải đảm bảo đáp ứng các tiêu chí chất
lượng tăng trưởng. Trong điều kiện tăng trưởng
kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý cần thỏa
mãn các yêu cầu như sau [1], [5], [6]:
Thư nhất, phản ánh đúng các quy luật khách
quan bao gồm các quy luật tự nhiên, kinh
tế-xã hội, nhất là các quy luật kinh tế thị
trường như: quy luật cung cầu; quy luật
cạnh tranh; quy luật lưu thông tiền tệ; các
quy luật của tái sản xuất (quy luật năng suất
lao động, quy luật tích lũy)…;
Thư hai, đảm bảo khai thác tối đa các tiềm
năng, nguồn lực của cả nước, các ngành các
địa phương và lãnh thổ qua các phương án
sản xuất kinh doanh;
Thư ba, sử dụng được ngày càng nhiều lợi
thế tuyệt đối và lợi thế so sánh giữa các
nước, các vùng và các khu vực. Vai trò này
gắn liền với việc hình thành “cơ cấu kinh tế
mở”. Ở góc độ vĩ mô phải gắn với việc xây
dựng chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu,
đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt
hàng trong nước sản xuất không hiệu quả,
gắn với sự phân công lao động và thương
mại quốc tế.
Thư tư, phản ánh được xu hướng phát triển
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu
hướng quốc tế hóa và khu vực hóa;
Thư năm, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm
thước đo kết quả cuối cùng của một cơ cấu
kinh tế tối ưu.
MỤC TIÊU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cưu là hệ thống hóa trên
phương diện lý luận và nghiên cứu thực
nghiệm mối quan hệ giữa CDCCKT với tăng
trưởng kinh tế của Tp.HCM. Tập trung phân
tích thực trạng tác động của CDCCKT đến
tăng trưởng kinh tế của Tp.HCM bằng phân
tích định lượng. Từ đó trình bày khuyến nghị
và đề xuất giải pháp thực hiện CDCCKT
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả và bền vững trên địa bàn Tp.HCM.
Phương pháp nghiên cưu áp dụng là
phương pháp thống kê, phân tích; phương
pháp hệ số véc tơ và phương pháp định
lượng tác động của CDCCKT đến tăng
trưởng kinh tế thông qua ước lượng mô
hình kinh tế lượng.
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG
CỦA CDCCKT ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ CỦA TP.HỒ CHÍ MINH GIAI
ĐOẠN 1991 - 2012
Để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa CDCCKT
và tăng trưởng kinh tế của TP.HCM, nhóm
tác giả nghiên cứu sự tác động của CDCCKT
Số lượng:
- GDP;
- GDP/người;
Chất lượng: - NSLĐ, ICOR
- Cơ cấu ngành
-Cấu trúc tăng
trưởng
Cơ cấu
kinh tế
Tăng trưởng
kinh tế
Cơ cấu
xuất khẩu
Cơ cấu
lao động
Cơ cấu
GDP
Vũ Thị Hậu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 69 - 73
71
làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế giai
đoạn (1991-2012). Yêu cầu đặt ra, cần so
sánh tương tác giữa chúng thông qua phương
pháp véc tơ phân tích động thái của
CDCCKT theo từng thời kỳ ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế, ta có:
Thời kỳ (1991-1995) có tỷ lệ CDCCKT 2,9%;
thời kỳ (1996 - 2000), giá trị Cosφ = 0,997,
tương ứng tỷ lệ CDCCKT là 4,86%; thời kỳ
(2001-2005), với giá trị Cosφ = 0,9987 tương
ứng CDCCKT là 3,12% và thời kỳ (2006 -
2012) với Cosφ = 0,9977 thì tương ứng
CDCCKT 4,3%.
Bảng 1. So sánh tỷ lệ CDCCKT và
tôc độ tăng trưởng
Thời kỳ Tỷ lệ
CDCCKT
Tốc độ tăng
trưởng kinh tế
1991 - 1995 2,9% ----
1996 - 2000 4,86% 10,3%
2001 - 2005 3,12 % 11,0%
2006 - 2012 4,3% 10,4%
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Qua bảng trên cho thấy quá trình tăng trưởng
của TP.HCM cũng chịu tác động của
CDCCKT trong thời kỳ trung hạn. Thời kỳ
(1991 -1995), chuyển dịch cơ cấu thấp (2,9%)
dẫn đến tăng trưởng kinh tế thời kỳ sau đạt
thấp (10,3%); đến thời kỳ (1996 -2000),
chuyển dịch cơ cấu nhanh hơn nên tạo tăng
trưởng cao hơn (11%); giai đoạn (2001-
2005), chuyển dịch cơ cấu chậm (3,12%) dẫn
đến tăng trưởng ở giai đoạn (2006 -2012) đạt
thấp (10,4%). Như vậy về cơ bản, mối quan
hệ giữa CDCCKT và tăng trưởng của
TP.HCM tuân theo quy luật chung [3].
Để minh chứng cho mối quan hệ giữa
CDCCKT và tăng trưởng kinh tế của
TP.HCM, trên cơ sở nghiên cứu của
M.Peneder (2002), nhóm tác giả đề xuất mô
hình phân tích định lượng các nhân tố đầu vào
cơ bản truyền thống bao gồm: Yt là GDP của
thành phố (tỷ đồng); It là tổng vốn đầu tư (tỷ
đồng); Lt là số lao động (nghìn người); ARt là
tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP (%),
là biến đại diện cho cơ cấu ngành. Xt là tỷ lệ
xuất khẩu sản phẩm thô trong tổng giá trị xuất
khẩu (%). Yếu tố tài nguyên thiên nhiên khi
khai thác sẽ được bổ sung vào vốn đầu tư; yếu
tố công nghệ không được đo lường trực tiếp
mà sẽ tính gián tiếp. Dạng hàm hồi quy cụ thể
như sau:
ln GDPt = α + β1 lnIt + β2 lnLt + β3lnARt +
β4lnXt + ut (1)
Trong đó: GDPt - Tổng Sản phẩm nội địa
của thành phố năm t; lnIt là tăng trưởng vốn
đầu tư năm t; lnLt là tăng trưởng lực lượng lao
động năm t; lnARt là tỷ trọng ngành nông
nghiệp trong GDP của thành phố; lnXt - Tỷ lệ
xuất khẩu sản phẩm thô trong giá trị xuất khẩu.
Khi hồi quy mô hình cho TP.HCM, số liệu sử
dụng là số liệu thống kê của Thành phố trong
giai đoạn (1993-2012) được lấy từ nguồn Cục
Thống kê TP.HCM. GDP được lấy theo giá
cố định 1994 (tỷ đồng); Lực lượng lao động
là số lao động thực tế tham gia hoạt động kinh
tế trong năm (nghìn người); Hệ số giảm phát
đầu tư lấy hệ số giảm phát GDP thay thế; Vốn
đầu tư xã hội giá cố định được tính bằng cách
lấy vốn đầu tư xã hội giá hiện hành / hệ số
giảm phát đầu tư (tỷ đồng); Tỷ lệ xuất khẩu
thô được tính trên tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng năm của thành phố (%); Tỷ trọng ngành
nông nghiệp trong GDP (%). Quy trình phân
tích được tiến hành theo hai bước:
Bước 1: Phân tích hồi quy để xác định hệ số
co dãn và thực hiện các kiểm định;
Bước 2: Xác định đóng góp của từng yếu tố
đối với tốc độ tăng trưởng GDP.
Phân tích hồi quy: Phương pháp ước lượng
α, β, γ, θ từ phương trình (1), lấy Logarith hai
vế ta sẽ có phương trình tương đương:
LnY=LnA+ αln I + βlnL + γlnAR+ θln (2)
Sử dụng phương pháp bình phương bé nhất
(Ordinary Least Square, OLS) trong kinh tế
lượng để ước lượng α, β, γ và θ (sử dụng phần
mềm SPSS để ước lượng). Mô hình ước
lượng có dạng Logarit-tuyến tính:
LnY = LnA+ αln I + βlnL + γlnAR + θlnX
+ Ut (3)
Vũ Thị Hậu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 69 - 73
72
Hệ thống kiểm định: Để mô hình hồi quy
đảm bảo khả năng tin cậy và hiệu quả, ta cần
thực hiện các kiểm định chính bao gồm: kiểm
định tương quan từng phần của các hệ số hồi
quy, mức phù hợp của mô hình, hiện tượng đa
cộng tuyến, hiện tượng phương sai phần dư
thay đổi. Sử dụng phần mềm SPSS 18.0 để
chạy mô hình ta có kết quả hồi quy, trên cơ sở
đó phân tích về mức độ quan trọng ảnh hưởng
của các biến độc lập tác động đến tăng trưởng
kinh tế như sau:
(1). Về mưc độ giải thích của các biến sô: Kết
quả nghiên cứu cho thấy R2 hiệu chỉnh
(Adjusted R Square) là 0,986. Như vậy, bốn
biến độc lập giải thích được 98,6% sự thay
đổi của tăng trưởng kinh tế (Yt).
(2). Phân tích ý nghĩa các hệ sô hồi quy: Kết
quả hồi quy chưa được chuẩn hóa
(Unstandardized Coefficients) ta có hệ số co
dãn của hàm Cobb-Douglas. Đối với vốn đầu
tư (It), hệ số là 0,479; biến lao động (Lt), hệ
số là 0,238; đối với biến CDCCKT (ARt), hệ
số là -0,276; đối với biến Tỷ lệ xuất khẩu thô
(Xt), hệ số là - 0,033. Xét về dấu của các hệ
số hồi quy cho thấy, quan hệ giữa Vốn đầu tư,
Lao động, Tỷ trọng nông nghiệp và Tỷ lệ xuất
khẩu thô trong GDP là phù hợp. Vốn và lao
động có quan hệ thuận còn tỷ trọng nông
nghiệp và tỷ lệ xuất khẩu thô có quan hệ
nghịch với tăng trưởng GDP.
(3). Phân tích kiểm định (Kiểm định hồi quy):
Xét mức ý nghĩa (Sig.) cho thấy: Biến It có
Sig. < 0,01. Do đó, biến It tương quan có ý
nghĩa đối với biến Yt, với độ tin cậy là 99%;
Biến Lt có Sig. <0,01. Do đó, biến Lt tương
quan có ý nghĩa đối với biến Yt, với độ tin
cậy là 99%; Biến ARt có Sig. <0,01. Do đó,
biến ARt tương quan có ý nghĩa đối với biến
Yt, với độ tin cậy là 99%; Biến Xt có Sig.
>0,05. Do đó, biến Xt tương quan không có ý
nghĩa đối với biến Yt (loại khỏi mô hình).
(4). Mưc độ phù hơp: Xét kết quả kiểm định,
ta có Sig.<0,01, có thể kết luận rằng mô hình
đưa ra phù hợp với dữ liệu thực tế. Hay nói
cách khác các biến độc lập có tương quan
tuyến tính với biến phụ thuộc với mức độ tin
cậy là 99%.
(5). Hiện tương cộng tuyến: Kết quả nghiên
cứu cho thấy độ phóng đại phương sai (VIF)
đều nhỏ hơn 10. Như vậy, các biến độc lập về
cơ bản không có tương quan với nhau, không
có hiện tượng đa cộng tuyến. Sau khi loại
biến tỷ lệ xuất khẩu thô (Xt) ra khỏi mô hình,
căn cứ kết quả kiểm định với mô hình còn lại
3 biến độc lập (It, Lt và Art) với giá trị của
R2 hiệu chỉnh, hệ số co dãn của các biến, Sig.
và VIF của mô hình mới đều phù hợp và đáp
ứng các điều kiện của kiểm định hồi quy đa
biến ta, từ đó ta rút ra nhận xét về mức độ
quan trọng của các biến như sau:
(6). Về mưc độ quan trọng của các biến: Từ
kết quả hồi quy ta có kết luận về đóng góp
của từng biến độc lập tới tăng trưởng như sau:
Biến Vốn đầu tư (It) đóng góp 48,24%, biến
Lao động (Lt) đóng góp 23,05% và biến
Chuyển dịch cơ cấu (Art) đóng góp 28,71%
vào tăng trưởng kinh tế của TP.HCM trong
giai đoạn (1993-2012).
Như vậy, trong mô hình nghiên cứu ban
đầu, nhóm tác giả đưa ra 4 biến độc lập
trong đánh giá tác động đến tăng trưởng
kinh tế. Sau khi phân tích độ tin cậy và
nhân tố, kết quả quả chỉ còn 3 biến. Trong
đó, nhân tố vốn đầu tư có tác động mạnh
nhất đến tăng trưởng kinh tế của TP.HCM
rồi đến CDCCKT và cuối cùng là lao động.
Điều này cũng đã phản ánh khá đúng thực
trạng vì CDCCKT của TP.HCM đang
chuyển sang xu hướng chuyển dịch từ chiều
rộng sang chuyển dịch theo chiều sâu.
Bảng 2. Vị trí quan trọng của các yếu tô (hệ sô
hồi quy chuẩn hóa)
Biến độc lập Giá trị
tuyệt đối
Phần trăm
(%)
It .494 48,24
Lt .236 23,05
ARt ASB(-.294) 28,71
Tổng số 1,024 100
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ kết quả
chạy mô hình
Vũ Thị Hậu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 69 - 73
73
MỘT SỐ GIAI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU NGANH KINH TẾ NHẰM THÚC
ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TP. HỒ
CHÍ MINH [2], [4]:
Cùng với các chính sách và giải pháp đã và
đang được Đảng, Nhà nước và TP.HCM
triển khai, từ thực tiễn hoạt động kinh tế
trên địa bàn TP.HCM, nhóm tác giả đề xuất
và nhấn mạnh đến 5 nhóm chính sách và
giải pháp nhằm tăng cường thúc đẩy
CDCCKT, đổi mới mô hình tăng trưởng
nhằm góp phần tăng trưởng bền vững trên
địa bàn TP.HCM như sau:
Thư nhất, cần đổi mới tư duy về chức năng
quản lý kinh tế của Nhà nước thông qua việc
sử dụng công cụ kế hoạch hóa phù hợp với sự
vận hành của cơ chế thị trường.
Thư hai, sử dụng hiệu quả công cụ chính sách
kinh tế - tài chính để thúc đẩy quá trình
CDCCKT và tái cấu trúc nội bộ các ngành
kinh tế.
Thư ba, sử dụng các tổ chức kinh tế của Nhà
nước như công cụ để khắc phục và hạn chế
những khuyết tật của thị trường.
Thư tư, chuyển từ cơ cấu kinh tế địa phương
sang cơ cấu kinh tế vùng.
Thư năm, đổi mới tổ chức hoạt động của
chính quyền đô thị trong khuôn khổ tổ chức
hệ thống chính quyển địa phương theo
phương mở rộng tính tự chủ và chịu trách
nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình kinh tế
phát triển, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội.
2. Mai Văn Tân (2014), “Một số giải pháp nhằm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô
hình tăng trưởng tại Thành phố Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Tài chính - Bộ Tài chính, số 593.
3. Mai Văn Tân (2014), “Quan hệ giữa chuyển
dịch cơ cấu với tăng trưởng kinh tế của Thành phố
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cưu khoa học kiểm
toán – Kiểm toán Nhà nước, số 77.
4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đột phá từ cơ chế
chính sách, http//:www.muasamcong.vn/.
5.Trần Thọ Đạt, Nguyễn Quang Thắng, Chu
Quang Khởi (2005), Sources of Vietnam’s
Economic Growth, 1986-2004, Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội.
6. Barro, R.J. and sala-i-Martin. X(1995).
Economic Growth, Cambridge, MA: MIT Press.
SUMMARY
STUDY ON THE RELATIONSHIP BETWEEN ECONOMIC RESTRUCTURING
AND ECONOMIC GROWTH OF HOCHIMINH CITY
IN THE PERIOD OF 1991 – 2012
Vu Thi Hau*, Mai Van Tan
College of Economics and Business Administration - TNU,
Regional State Audit Office No VIII
Based on literature on economic restructuring, economic growth and the relationship between
economic restructuring and economic growth, this paper aims to investigate this relationship in the
context of Hochiminh city in the period of 1991-2012. According to the analysis results, this study
presents some recommendations for economic restructuring in order to enhance the
industrialization and modernization process for economic sustainability development in
Hochiminh city for the near future.
Keywords: economic structure, industrial structure, economic growth, economic restructuring
model, relationship between economic restructuring and economic growth
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:28/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đỗ Thị Thúy Phương – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 373777, Email: [email protected]
Vũ Thị Hậu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 69 - 73
74
Trần Quang Huy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 75 - 82
75
XUẤT KHẨU NÔNG SẢN HÀNG HÓA
VIỆT NAM – TRUNG QUÔC: BẤT CẬP VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
Trần Quang Huy*, Trần Xuân Kiên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong giai đoạn vừa qua đã có
những kết quả đáng ghi nhận như nông sản hàng hóa xuất khẩu tăng cả về số lượng và chất lượng,
cơ cấu nông sản xuất khẩu đa dạng và mang lại giá trị thặng dư cho đất nước, tốc độ tăng trưởng
và phát triển trong xuất khẩu nông sản hàng hóa có tính ổn định tương đối. Cùng với kết quả được
thì xuất khẩu nông sản đã và đang đối mặt với thách thức mới trong hoạt động xuất khẩu sang thị
trường Trung Quốc như nông sản xuất khẩu chủ yếu là xuất thô, sản phẩm có tính cạnh tranh thấp,
hàm lượng khoa học công nghệ còn thấp và chịu nhiều áp lực từ hàng rào kỹ thuật... Từ cơ sở phân
tích thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc, tác giả đề
xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trong xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam
đối với thị trường Trung Quốc để vượt qua những thách thức và duy trì tăng trưởng ổn định trong
thời gian tiếp theo.
Từ khóa: Xuất khẩu nông sản, Nhập khẩu nông sản, Nông sản hàng hóa, Xuất nhập khẩu hàng hóa
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Sau gần 30 năm tiến hành đổi mới, tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam đạt được có
phần đóng góp rất lớn của xuất khẩu. Chiến
lược định hướng xuất khẩu được xem là một
trong những trụ cột của công cuộc cải cách
kinh tế. Trong giai đoạn 2001 – 2013, kim
ngạch xuất khẩu tăng mạnh, đạt trung bình
20,39%/năm, năm 2013 đạt 132,033 tỷ USD,
tương đương gần 75% so với GDP. Cùng với
sự phát triển của kinh tế, hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam sang Trung Quốc đạt nhiều
thành tựu, giá trị thương mại hai chiều Việt
Nam – Trung Quốc liên tục tăng trưởng
nhanh chóng. Theo số liệu thống kê năm
2013, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
Trung Quốc đạt 13,1 tỷ USD, chiếm 9,92%
trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam
trong năm 2013 (giá trị xuất khẩu nông sản
hàng hóa năm 2013 của Việt Nam sang Trung
Quốc đạt 4,14 tỷ USD). Tuy nhiên, giá trị
nhập khẩu từ Trung Quốc trong năm 2013 của
Việt Nam đạt 36,8 tỷ USD, tăng 26,7% so với
năm 2012 (tương ứng với 7,8 tỷ USD). Có thể
thấy, thương mại Việt Nam – Trung Quốc
đang tăng trưởng không cân bằng với tình
* Tel: 0912 132025, Email: [email protected]
trạng Việt Nam nhập siêu ngày càng lớn.
Hoạt động thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong thời gian vừa qua đã đạt
được những kết quả đáng ghi nhận với số
lượng hàng hóa trao đổi qua lại giữa hai quốc
gia ngày càng tăng về số lượng và giá trị
trong trao đổi, đặc biệt đối với các mặt hàng
nông sản của Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động
xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã và đang
có những thách thức như nông sản xuất khẩu
chủ yếu là xuất thô, sản phẩm có tính cạnh
tranh thấp, hàm lượng khoa học công nghệ
còn thấp và chịu nhiều áp lực từ hàng rào kỹ
thuật… Từ nghiên cứu thực tiễn và phân tích
hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam
trong thời gian vừa qua, bài viết đề xuất một
vài giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn
trong quá trình xuất khẩu nông sản trong thời
gian tới.
HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
VIỆT NAM VA XUẤT NHẬP KHẨU
VIỆT NAM – TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN
2008 – 2013
Để rõ hơn về hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam trong thời gian vừa qua, bài viết
tổng hợp và giới thiệu một số công trình
nghiên cứu đã công bố về hoạt động xuất
nhập khẩu Việt Nam – Trung Quốc:
Trần Quang Huy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 75 - 82
76
- Nghiên cứu của Trung tâm Thương mại
Quốc tế UNCTAD/WTO (ITC) và Cục Xúc
tiến Thương mại Việt Nam (VIETTRADE)
với nội dung Đánh giá tiềm năng xuất khẩu
của Việt Nam (8/2005) đã đánh giá tổng quan
tiềm năng xuất khẩu của khoảng 40 ngành
hàng tại Việt Nam. Báo cáo so sánh và xếp
hạng ngành hàng theo nhiều khía cạnh khác
nhau, tình hình xuất khẩu tại Việt Nam và các
điều kiện cung cấp nội địa của các ngành
hàng. Báo cáo đã xác định tiềm năng xuất
khẩu và các mặt hàng gặp giới hạn đối với các
mặt hàng của Việt Nam. Đánh giá tiềm năng
xuất khẩu các mặt hàng đối với các khu vực
kinh tế, nền kinh tế và các quốc gia. Tuy
nhiên, báo cáo này so với thời điểm hiện nay
thì số liệu không còn tính thời sự, chính sách
đã thay đổi nhiều nên các khuyến nghị không
còn phù hợp, bên cạnh đó báo cáo không
phân tích và đánh giá riêng cho nhóm ngành
hàng nông sản.
- Quỹ Châu Á (The Asia Foundation – TAF)
và Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM) với Báo cáo nghiên cứu năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
trong ba ngành may mặc, thủy sản và điện tử
ở Việt Nam (2011). Báo cáo đã tổng hợp và
phân tích tổng quan thực trạng xuất khẩu của
Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 với các nội
dung như: Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu;
Độ mở của nền kinh tế đã rất lớn, trong khi
tiềm năng xuất khẩu còn dồi dào; Cơ cấu xuất
khẩu; Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam; Đầu vào, nguyên liệu phụ liệu cho
sản xuất xuất khẩu; Cơ cấu thị trường xuất
khẩu và cơ cấu mặt hàng. Nội dung đã đề cập
báo cáo đã chỉ ra hoạt động xuất khẩu của
Việt Nam và Trung Quốc về số lượng mặt
hàng, giá trị và kim ngạch xuất khẩu. Tuy
nhiên, báo cáo đề cập nhiều đến các nhóm
ngành hàng để so sánh với ba nhóm ngành
may mặc, thủy sản và điện tử; báo cáo chưa
phân tích các nội dung chuyên sâu về kim
ngạch xuất nhập khẩu nông sản của Việt Nam –
Trung Quốc trong giai đoạn từ 2008 đến nay.
- Nghiên cứu của Dự án hỗ trợ Thương mại
đa biên – EU _ VIET NAM MUTRAP III
(MUTRAP - 2011) với Báo cáo tác động của
cam kết mở cửa thị trường trong WTO và các
hiệp định khu vực thương mại tự do (FTA)
đến hoạt động sản xuất, thương mại của Việt
Nam và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều
hành xuất khẩu nhập khẩu của Bộ Công
thương giai đoạn 2011 – 2015. Báo cáo đã đề
cập đến hệ thống chính sách và cam kết của
Việt Nam khi tham gia WTO, FTA và các
hiệp định khác (trong đó có hiệp định
CAFTA); phân tích và đánh giá của báo cáo
đã chỉ ra cơ hội và thách thức đối với Việt
Nam trong hoạt động xuất khẩu – nhập khẩu
đối với các nước trên thế giới, trong đó có
hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam –
Trung Quốc; Báo cáo đã đánh giá diễn biến,
tác động đối với nền kinh tế và xuất nhập
khẩu của Việt Nam đối với các thị trường, các
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, báo cáo
phân tích mang tính tổng quan, chưa phân
tích và chỉ rõ được những hạn chế của thương
mại Việt Nam – Trung Quốc, đặc biệt là hoạt
động thương mại (xuất nhập khẩu) nông sản
hàng hóa.
Với một số nghiên cứu đã trình bày ở trên, bài
viết này phân tích và đánh giá mang tính
chuyên sâu và đề cập sát hơn tới tình hình
thực tế trong hoạt động xuất nhập khẩu nông
sản giữa Việt Nam – Trung Quốc trong thời
gian gần đây.
Hoạt động xuất nhập khẩu và thương mại hai
chiều giữa Việt Nam với các nước trên thế
giới nói chung và Trung Quốc nói riêng trong
giai đoạn 2008 – 2014 có xu hướng liên tục
tăng với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định,
trong thời gian tới với hệ thống các hiệp định
Việt Nam đã ký kết với các tổ chức thương
mại, các quốc gia, vùng lãnh thổ và khu vực,
dự báo sẽ tiếp tục có những bước tăng trưởng
cả về số lượng và chất lượng.
Trần Quang Huy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 75 - 82
77
Biểu đồ 1. Giá trị xuất nhập khẩu Việt Nam (2008 – 2014)
Nguồn: Tổng Cục thông kê Việt Nam, 2008 – 2014
Biểu đồ 2. Cán cân thương mại với một sô quôc gia (giai đoạn 1995 – 2011)
Nguồn: Tổng Cục Thông kê Việt Nam, 1995 – 2011
Trong giai đoạn 2008 – 2014, giá trị xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng trưởng
bình quân khá cao đạt giá trị 17,06%/năm; giá
trị xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc tăng trưởng bình quân đạt
25,5%/năm, trong đó giá trị xuất khẩu nông
sản hàng hóa tăng trung bình 24,4%/năm
(Biểu đồ 1.1). Tuy nhiên, khi xem xét về xuất
nhập khẩu của Việt Nam đối với các nước
trên thế giới và Trung Quốc cho thấy: giai
đoạn từ 2000 đến 2011, Việt Nam luôn trong
xu hướng nhập siêu và cán cân thương mại
thâm hụt (Biểu đồ 1.2); giai đoạn từ 2012 đến
6 tháng đầu năm 2014, Việt Nam có xu
hướng xuất siêu và cán cân thương mại có sự
ổn định tương đối (Năm 2012, xuất siêu đạt
trên 780 triệu USD; Năm 2013 xuất siêu đạt
trên 9,8 triệu USD và 6 tháng đầu năm 2014
đạt trên 1,5 tỉ USD).
Cán cân thanh toán của Việt Nam với các
quốc gia và Trung Quốc trong mối tương
quan về thương mại có thể thấy: thâm hụt
thương mại của Việt Nam và Trung Quốc là
lớn và có xu hướng gia tăng; Việt Nam có xu
hướng xuất siêu sang một số quốc gia phát
triển (EU, Hoa Kỳ) nhưng lại nhập siêu từ các
nước trong khu vực (Nhật Bản, Hàn Quốc,
ASEAN, Trung Quốc). Vấn đề này đang đặt
ra thách thức cho Việt Nam trong hoạt động
Trần Quang Huy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 75 - 82
78
xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu, nếu cán
cân thương mại không được cải thiện, hoạt
động xuất khẩu không được cơ cấu lại sẽ dẫn
đến tình trạng nhập siêu trong thương mại đối
với các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung
Quốc sẽ ngày càng trầm trọng hơn.
Trong giai đoạn 2008 – 2013 và 6 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu nông sản hàng hóa của
Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là các mặt hàng như: hải sản, hàng rau quả, hạt điều,
cà phê, chè, gạo, sắn, cao su (trong đó gạo và sắn chiếm giá trị lớn nhất, khoảng 55% tổng
giá trị nông sản xuất khẩu). Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc
luôn trong trạng thái nhập siêu (giá trị nhập khẩu cao gấp 2,8 lần so với giá trị xuất
khẩu), trong đó giá trị hàng hóa xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam chiếm tỉ
trọng trung bình khoảng 35,03% trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc.
Mặc dù, trong giai đoạn 2008 – 2014, giá trị
xuất khẩu có tốc độ phát triển trung bình
khoảng 25,54%/năm, cao hơn tốc độ tăng của
nhập khẩu (đạt 19,01%/năm) nhưng tốc độ
tăng không đảm bảo cho Việt Nam có thể
giảm tỷ trọng giữa nhập khẩu và xuất khẩu,
không làm cán cân thương mại có thể dịch
chuyển theo hướng ngược lại. Đây chính là
bài toán cho các nhà quản lý, các đơn vị sản
xuất kinh doanh (doanh nghiệp) như: việc
hoạch định các chính sách xuất khẩu các hàng
hóa của Việt Nam đối với thị trường Trung
Quốc, tận dụng thời cơ và cơ hội trong các
hiệp định đã ký kết giữa Trung Quốc với các
nước ASEAN, hiệp định song phương về
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc,
định hướng và dịch chuyển phương thức xuất
khẩu từ tiểu ngạch sang chính ngạch, nâng
cao chất lượng hàng hóa nông sản và đầu tư
công nghệ chế biến cho xuất khẩu nông sản.
Mặc dù giá trị xuất khẩu nông sản sang thị
trường Trung Quốc của Việt Nam luôn có xu hướng tăng về giá trị cũng như về số lượng
các mặt hàng nông sản xuất khẩu, tuy nhiên trong hoạt động xuất khẩu nông sản sang thị
trường Trung Quốc, chính phủ cũng như các đơn vị sản xuất kinh doanh (đơn vị xuất khẩu)
còn nhiều điểm bất cập ở những vấn đề sau:
Thư nhất, hoạt động xuất khẩu nông sản qua Trung Quốc đa phần xuất theo đường tiểu
ngạch, luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với đơn vị xuất khẩu (doanh nghiệp), không thu được
tiền hoặc thu tiền chậm, thậm chí doanh nghiệp (thương nhân) Trung Quốc chỉ ký
nhận hàng, tiền trả sau nhưng thực tế doanh nghiệp Trung Quốc không trả tiền. Theo Hiệp
hội Lương thực Việt Nam (VFA) trong năm 2013, Trung Quốc nhập khẩu khoảng hơn 1,5
triệu tấn gạo theo đường tiểu ngạch trong tổng khoảng 3,7 triệu tấn gạo được Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Thư hai, sự phụ thuộc hoặc tập trung xuất
khẩu vào thị trường Trung Quốc dẫn đến tình
trạng thương nhân bị ép giá hoặc phải hạ giá
mới có thể bán hàng. Mặc dù thị trường
Trung Quốc là thị trường lớn, lượng tiêu thụ
luôn có xu hướng tăng nhưng tính ổn định của
thị trường thấp, dẫn đến tình trạng khi cung
vượt quá cầu, việc xuất khẩu lập tức gặp khó
khăn. Thị trường xuất khẩu luôn trong tình
trạng bị động, việc điều tiết hoạt động nhập
khẩu nông sản do phía Trung Quốc chi phối
(chủ động). Theo báo cáo của Bộ Công
thương, trong thời gia qua, Trung Quốc chiếm
40% thị phần xuất khẩu về gạo; 80 – 90% thị
phần xuất khẩu cao su, thanh long, bột sắn
trong tổng lượng xuất khẩu của Việt Nam.
Việc ép giá đối với nông sản Việt Nam đơn
cử như vải quả sấy khô, đầu vụ thương nhân
Trung Quốc mua với giá từ 8 – 9 NDT/kg
(tương đương 24.000 – 29.0000 đồng/kg)
nhưng khi các doanh nghiệp (thương nhân)
Việt Nam nhập hàng về nhiều để xuất khẩu
sang thị trường Trung Quốc thì giá bị dìm
xuống còn 4 – 6 NDT/kg.
Thư ba, yêu cầu về chất lượng nông sản của
thị trường Trung Quốc không cao, làm ảnh
hưởng đến tư duy của thương nhân Việt Nam
là “chất lượng nào cũng bán được”, điều này
dẫn đến tình trạng thương nhân, doanh nghiệp
xuất khẩu nông sản chất lượng thấp, không có
sự đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm nông
sản, hệ lụy xảy ra khi thị trường Trung Quốc
tạm thời ngừng nhập khẩu hoặc không nhập
khẩu nông sản sẽ dẫn đến tình trạng nông sản
mất giá, không bán được cho bất kỳ thị
trường nào ngoại trừ thị trường Trung Quốc.
Trần Quang Huy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 75 - 82
79
Biểu đồ 3. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quôc (2008 – 6/2014)
Nguồn: Tổng Cục Thông kê Việt Nam, 2008 – 2014
Biểu đồ 4. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ thị trường Trung Quôc (2008 – 6/2014)
Nguồn: Tổng Cục Thông kê Việt Nam, 2008 – 2014
Bảng 1. Giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Trung Quôc (2008 – 2014)
Chỉ tiêu
Giá trị XK
sang thị trường
Trung Quốc
(1000 USD)
Giá trị NK
từ thị trường
Trung Quốc
(1000 USD)
Giá trị XK nông sản
sang thị trường
Trung Quốc
(1000 USD)
2008 4.535.669,500 15.652.126,284 1.535.916,378
2009 4.909.025,328 16.440.951,800 1.752.500,244
2010 7.308.800,253 20.018.827,001 2.468.839,730
2011 11.125.034,000 24.593.719,000 3.696.194,168
2012 12.388.226,959 28.785.857,913 4.337.011,465
2013 13.259.368,352 36.954.336,742 4.128.945,629
6/2014 7.383.719,023 19.869.778,841 1.947.821,089
Nguồn: Tổng Cục Thông kê Việt Nam, 2008 – 2014
Trần Quang Huy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 75 - 82
80
Thư tư, thiếu thông tin về nhu cầu thị trường
Trung Quốc trong ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn của các doanh nghiệp (thương nhân) dẫn
đến tình trạng không có dự trữ để bù đắp khi
thị trường thiếu hụt (mất giá khi sản phẩm
nông sản được mùa), không tính toán được
quy mô sản xuất dẫn đến tình trạng cơ cấu
nông sản mất cân đối. Thiếu thông tin thị
trường dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam
hoàn toàn mù mờ về thị trường và bị động
trong giao dịch với Trung Quốc, thiếu thông
tin để lại nhiều bài học nhưng đến nay vẫn
chưa tìm được biện pháp khắc phục hiệu quả.
Thư năm, sự thay đổi trong chính sách thương
mại biên mậu của Trung Quốc gây khó khăn
cho xuất khẩu nông sản của Việt Nam, đặc
biệt là các doanh nghiệp cũng như thương
nhân Việt Nam. Khi cơ quan quản lý Trung
Quốc thay đổi quy định trong nhập khẩu nông
sản hàng hóa, quy định về chất lượng sản
phẩm, quy định về thủ tục hành chính tại các
cửa khẩu, tình trạng đóng cửa khẩu không
thông báo trước đã tác động không nhỏ tới
hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam, nhiều nông sản của Việt Nam bị kẹt tại
các cửa khẩu mà không thể xuất hàng sang
Trung Quốc mặc dù hợp đồng giữa doanh
nghiệp Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết.
Thư sáu, ảnh hưởng từ hoạt động chính trị
giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian
vừa qua (đặc biệt là sự căng thẳng trên biển
Đông) cũng đã phần nào tác động tới xuất
khẩu nông sản, hoạt động trao đổi nông sản
giữa hai nước có sự giảm sút và gặp một số
khó khăn.
GIAI PHÁP THÁO GƠ KHÓ KHĂN
TRONG XUẤT KHẨU NÔNG SAN HANG
HÓA CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI THỊ
TRƯỜNG TRUNG QUỐC TRONG THỜI
GIAN TỚI
Một là, tiếp tục duy trì xuất khẩu sang thị
trường Trung Quốc (đây là thị trường lớn với
hơn 1,3 tỷ dân, nhu cầu sử dụng các mặt hàng
nông sản lớn, yêu cầu chất lượng ở mức độ
vừa phải), đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực của Việt Nam (Gạo, Cao su, Sắn và
các sản phẩm từ sắn…) với chất lượng cao
hơn đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn của
Trung Quốc.
Hai là, đẩy mạnh xuất khẩu qua đường chính
ngạch thông qua các hiệp định ký kết giữa
chính phủ Trung Quốc và chính phủ Việt
Nam, hiệp định song phương về thương mại
giữa hai nước, hiệp định CAFTA giữa Trung
Quốc và các nước ASEAN như: thành lập
Văn phòng xúc tiến thương mại tại mỗi nước;
thúc đẩy xây dựng khu hợp tác kinh tế biên
giới Việt – Trung; đẩy nhanh quá trình thành
lập nhóm công tác hỗn hợp hỗ trợ các Doanh
nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam.
Ba là, cập nhật thông tin về hệ thống chính
sách để nắm rõ những thay đổi về chính sách
trong hoạt động xuất nhập khẩu của Trung
Quốc, đặc biệt là chính sách biên mậu. Nắm
vững hệ thống quy định về thủ tục thông quan
hàng hóa; quy định về kiểm dịch thực vật
nhập khẩu của Trung Quốc; xây dựng hệ
thống trao đổi thông tin giữa cơ quan quản lý
nhà nước của Việt Nam với các doanh
nghiệp, thương nhân và bên liên quan trong
hoạt động xuất nhập khẩu vào Trung Quốc.
Bôn là, đảm bảo chất lượng nông sản đáp ứng
yêu cầu về hàng rào kỹ thuật, chủ động sản
xuất theo hướng thực hành nông nghiệp tốt
(VietGap), xây dựng và bảo vệ thương hiệu
nông sản cho các sản phẩm thế mạnh, sản
phẩm chủ lực của Việt Nam. Tổ chức thu thập
thông tin, cập nhật và phân tích, xử lý và cung
cấp thông tin về tình hình thị trường, giá cả
các loại nông sản hàng hóa của tại thị trường
Trung Quốc, đồng thời tiến hành tham chiếu
với giá cả trên thế giới và các nước trong khu
vực. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
cho công nghệ chế biến nông sản để nâng cao
hơn nữa chất lượng hàng hóa khi xuất khẩu
sang thị trường Trung Quốc.
Năm là, chủ động tìm kiếm các đối tác tin
cậy, có tiềm lực tài chính và liên kết theo
hướng bền vững. Chủ động tham gia và tìm
kiếm đối tác thông qua các hội chợ triển lãm
Trần Quang Huy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 75 - 82
81
tổ chức tại Trung Quốc, đồng thời quảng bá
và giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ. Đồng
thời, chủ động xây dựng chương trình hợp tác
với các doanh nghiệp và các nhà nhập khẩu
nông sản Trung Quốc, đồng thời mời tham
gia các hoạt động xúc tiến thương mại, giới
thiệu sản phẩm tại Việt Nam, tạo mối quan hệ
giao thương song phương giữa các doanh
nghiệp hai nước.
Sáu là, chủ động xây dựng mối liên kết giữa
doanh nghiệp (sản xuất và xuất khẩu) với các
cơ quan quản lý nhà nước, người sản xuất
(nông dân) trong xuất khẩu nông sản, tránh
tình trạng “mạnh ai đấy làm”. Xây dựng hệ
thống doanh nghiệp thu mua tại khu vực mậu
dịch biên giới để nhận lệnh thu mua từ các
doanh nghiệp nhập hàng thực sự của Trung
Quốc (doanh nghiệp này thường nằm sâu
trong nội địa) để hạn chế khâu trung gian
(thương lái trung gian), từ đây hình thành
mạng lưới các doanh nghiệp trong nước liên
kết với nhau trong việc xuất khẩu nông sản.
Xây dựng mối liên kết sẽ hạn chế bất cập
trong xuất khẩu nông sản như: không xác
định được kết cấu và sức mua cũng như kênh
tiêu thụ của thị trường; tìm được đến người
tiêu thụ cuối cùng; hạn chế được việc chúng
ta chỉ biết bán nông sản đến biên giới còn ai
làm trung gian và ở đâu chúng ta không biết.
Bảy là, xây dựng chính sách hỗ trợ các doanh
nghiệp Việt Nam thành lập chi nhánh hoặc
công ty tại Trung Quốc. Vận dụng và áp dụng
các chính sách về thuế, các chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp theo các hiệp định đã ký kết giữa
hai nước để các doanh nghiệp Việt Nam có thể
thâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc, ký
kết và liên kết với các doanh nghiệp Trung
Quốc trong hoạt động nhập khẩu nông sản.
Tám là, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn
tại các tỉnh giáp biên giới với Trung Quốc,
cán bộ phụ trách xuất nhập khẩu tại các doanh
nghiệp, cán bộ tại các cơ quan quản lý nhà
nước thành thạo tiếng Trung Quốc, tiếng bản
địa để từ đó có thể giao dịch trực tiếp, hiểu
tập quán buôn bán, văn hóa giao tiếp… đây là
tiền đề quan trọng để tránh được những khó
khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt
Nam vào thị trường Trung Quốc.
KẾT LUẬN
Việt Nam đã, đang và sẽ ngày càng hội nhập
sâu rộng về kinh tế với các nước trên thế giới,
đặc biệt là thị trường Trung Quốc. Đây là xu
thế khách quan, không thể đảo ngược, quan
hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc trong
nhiều năm đã phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Trung Quốc là một thị trường trọng
điểm của Việt Nam trên nhiều phương diện,
đồng thời là đối tác thương mại lớn trong thời
gian qua. Xét về tổng thể Trung Quốc hiện là
nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, là láng giềng
với tập quan sinh hoạt, cấp độ tiêu dùng, sức
mua và khả năng tiêu thụ lớn, hàng hóa có
tính bổ sung. Đây là điều kiện cho Việt Nam
tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc,
nhưng để xuất khẩu đạt hiệu quả cao hơn cần có
sự đầu tư của nhà nước, sự chủ động của các
doanh nghiệp và mối liên kết giữa các bên liên
quan trong hoạt động xúc tiến thương mại.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Tổng Cục thống kê Việt Nam (2008 đến 2014),
Niên giám thông kê Việt Nam, Hà Nội
2. Tổng cục Hải quan Việt Nam (2008 đến 2014),
Báo cáo tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa
của Việt Nam, Hà Nội
3. The Asia Foundation – CIEM (2011), Báo cáo
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
trong ba ngành May mặc, Thủy sản và Điện tử ở
Việt Nam, Hà Nội
4. Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP –
EU – Vietnam Mutrap III) (2011), Báo cáo tác
động của cam kết mở cửa thị trường trong WTO
và các hiệp định khu vực thương mại tự do (FTA)
đến hoạt động sản xuất, thương mại của Việt Nam
và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều hành xuất
nhập khẩu của Bộ Công thương giai đoạn 2011 –
2015, Hà Nội
5. Tổng cục Hải Quan, Công bố thông tin Hải
quan,
http://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQu
an/CongBoThongTin.aspx?&Group=C%C3%B4n
g%20b%E1%BB%91%20th%C3%B4ng%20tin
Trần Quang Huy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 75 - 82
82
6. Tổng cục Hải quan, Thống kê hải quan,
http://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQu
an/SoLieuThongKe.aspx?&Group=S%E1%BB%9
1%20li%E1%BB%87u%20th%E1%BB%91ng%2
0k%C3%AA
7. Cục Xuất nhập khẩu,
http://www.arid.gov.vn/default.aspx?page=news&
do=detail&category_id=232&news_id=3611
8. Cục Xúc tiến Thương mại,
http://www.vietrade.gov.vn/tin-tuc/20-tin-
tuc/3971-gi-m-c-hi-xut-khu-nong-sn-vao-trung-
quc.html
SUMMARY
EXPORT OF COMMERCIAL AGRICULTURAL PRODUCTS FROM VIETNAM
TO CHINA: SHORTCOMINGS AND SUGGESTED SOLUTIONS
Tran Quang Huy*, Tran Xuan Kien
College of Economics and Business Administration - TNU Agricultural exports from Vietnam to Chinese market in the recent period have had remarkable
results as both quantity and quality of agricultural products for export have increased, export
agricultural product structure have been diversified, bringing added value to the country, and the
growth rate and development of export agricultural commodities have been relatively stable.
However, agricultural exports have been facing new challenges in export activities to Chinese
market such as the export of agricultural products are mainly raw products with low
competitiveness, low science and technology content and subject to the pressure from technical
barriers and so on. From the analysis of the current status of agricultural exports from Vietnam to
Chinese market, the author proposes some solutions to solve difficulties in exporting agricultural
products of Vietnam to Chinese market, to overcome such challenges and maintain the stable
growth in the next period.
Keywords: Agricultural product export, agricultural product import, commercial agricultural
products, product im-export
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:03/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Văn Hạnh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 132025, Email: [email protected]
Trần Văn Quyết và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 83 - 89
83
SỬ DỤNG MÔ HÌNH PHÂN TÍCH NHÂN TÔ KHÁM PHÁ (EFAM) TRONG
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC:
TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI CHI NHÁNH THÁI NGUYÊN
Trần Văn Quyết1*, Nguyễn Ngọc Lý2, Lê Chí Vinh2
1 Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên 2Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh Thái Nguyên
TÓM TẮT Từ những đặc điểm về các hoạt động của hệ thống ngân hàng nhà nước (NHNN) ở Việt Nam và
những mô hình nghiên cứu về chất lượng cán bộ, nhân viên trong ngành ngân hàng ở trong và
ngoài nước, bài viết xây dựng mô hình đánh giá chất lượng cán bộ của NHNN. Với kết quả nghiên
cứu thực nghiệm tại chi nhánh tỉnh Thái Nguyên, bài viết cũng thực hiện kiểm định và hiệu chỉnh
mô hình thông qua: Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, Phân tích nhân tố khám phá, Phân tích nhân
tố khẳng định. Qua đó, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ đang làm việc tại
Chi nhánh từ đó nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng.
Từ khóa: chất lương cán bộ, Mô hình phân tích nhân tô, ngân hàng nhà nước
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
khách hàng thường xuyên tiếp xúc giao dịch
với nhân viên, mọi thái độ, phong cách làm
việc của nhân viên có ảnh hưởng quyết định
đến hình ảnh và uy tín của ngân hàng. Vì vậy,
với kiến thức, kinh nghiệm, thái độ phục vụ,
khả năng thuyết phục khách hàng, ngoại hình,
trang phục nhân viên… có thể làm tăng thêm
chất lượng dịch vụ hoặc cũng có thể sẽ làm
giảm chất lượng dịch vụ. Hiện nay, với sự
xuất hiện của nhiều ngân hàng trong và ngoài
nước, trình độ công nghệ, sản phẩm gần như
không có sự khác biệt, các ngân hàng chỉ có
thể nâng cao tính cạnh tranh bằng chất lượng
phục vụ của đội ngũ nhân viên. Chất lượng
nhân viên càng cao thì lợi thế cạnh tranh của
ngân hàng càng lớn. Nhận thức được tầm
quan trọng đó, thời gian qua, NHNN Việt
Nam nói chung, NHNN Chi nhánh Thái
Nguyên nói riêng đã không ngừng thực hiện
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ. Tuy nhiên trình độ, chất lượng
của đội ngũ cán bộ vẫn còn một số tồn tại,
chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình
mới. Trên thực tế, đã có nhiều phương pháp
đánh giá chất lượng cán bộ như: thống kê mô
tả, thống kê so sánh, hồi quy tương
* 0966 553579; Email:[email protected]
quan...Tuy nhiên trong bài báo này, tác giả sẽ
sử dụng một phương pháp mới, phương pháp
của thống kê đa chiều – Phân tích nhân tố
khám phá (EFA – Explore Factors Analysis)
để đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ làm
việc tại NHNN Chi nhánh Thái Nguyên qua
đó nhận định những hạn chế và nguyên nhân
ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ cán bộ làm
việc tại làm việc tại Chi nhánh ngân hàng.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VA MÔ HÌNH
NGHIÊN CỨU
Cơ sở khoa học của mô hình
Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên
những cơ sở lý thuyết nền tảng về dịch vụ,
chất lượng dịch vụ và một số mô hình chất
lượng dịch vụ của Gronroos, Parasuraman và
đặc biệt là mô hình chất lượng dịch vụ của
Gi-Du Kang & Jeffrey James. Ở Việt Nam,
cũng đã có những đề tài nghiên cứu về chất
lượng của nhân viên trong ngành ngân hàng
của các tác giả Nguyễn Văn Hân (2008) và
Nguyễn Thị Phương Châm (2008). Mục tiêu
của bài viết này là giới thiệu mô hình đánh
giá mức độ hài lòng của khách hàng đối với
chất lượng cán bộ và nhân viên trong các
ngân hàng thương mại thông qua sử dụng
phương pháp phân tích nhân tố nhằm tìm ra
những nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của
khách hàng, những nhân tố ảnh hưởng đến
Trần Văn Quyết và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 83 - 89
84
chất lượng cán bộ, nhân viên trong ngân
hàng, đề ra những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ tại ngân hàng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ là khái niệm tổng
hợp bao gồm những nét đặc trưng về trạng
thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo
đức, lối sống và tinh thần của đội ngũ cán bộ.
Nói cách khác là trình độ học vấn, trạng thái
sức khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ
cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội… của đội
ngũ cán bộ, trong đó trình độ học vấn là quan
trọng bởi vì đó là cơ sở để đào tạo kỹ năng
nghề nghiệp và là yếu tố hình thành nhân
cách và lối sống của một con người. Ngoài ra
chất lượng đội ngũ cán bộ còn chịu chi phối
bởi các yếu tố khách quan bên ngoài tổ chức
như: những yếu tố thuộc về truyền thống, sự
vận động của xã hội nhưng chủ yếu là do quá
trình giáo dục, đào tạo, việc làm, thu nhập,
năng suất lao động, quan hệ xã hội mà hình
thành nên. Cụ thể mô hình phân tích sẽ được
sử dụng trong nghiên cứu này như miêu tả
trong sơ đồ 1.
Các giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết H1: Qui mô dân số có ảnh hưởng
cùng chiều đối với chất lượng của đội ngũ cán
bộ trong chi nhánh ngân hàng nhà nước tại
tỉnh Thái Nguyên.
Giả thuyết H2: Sự phát triển KT-XH có ảnh
hưởng cùng chiều đối với chất lượng của đội
ngũ cán bộ trong chi nhánh ngân hàng nhà
nước tại tỉnh Thái Nguyên.
Giả thuyết H3: Trình độ phát triển GD&ĐT
có ảnh hưởng cùng chiều đối với chất lượng
của đội ngũ cán bộ trong chi nhánh ngân hàng
nhà nước tại tỉnh Thái Nguyên.
Giả thuyết H4: Chính sách Vĩ mô của nhà
nước có ảnh hưởng đến chất lượng của đội
ngũ cán bộ trong chi nhánh ngân hàng nhà
nước tại tỉnh Thái Nguyên.
Giả thuyết H5: Trạng thái thể lực có ảnh
hưởng cùng chiều đối với chất lượng của đội
ngũ cán bộ trong chi nhánh ngân hàng nhà
nước tại tỉnh Thái Nguyên.
Giả thuyết H6: Trí tuệ của đội ngũ cán bộ có
ảnh hưởng cùng chiều đối với chất lượng của
đội ngũ cán bộ trong chi nhánh ngân hàng nhà
nước tại tỉnh Thái Nguyên.
Giả thuyết H7: Phẩm chất chính trị và đạo
đức có ảnh hưởng cùng chiều đối với chất
lượng của đội ngũ cán bộ trong chi nhánh
ngân hàng nhà nước tại tỉnh Thái Nguyên.
Sơ đồ 1. Mô hình phân tích chất lương nguồn nhân lực/chất lương đội ngũ cán bộ trong ngân
hàng nhà nước chi nhánh tỉnh Thái Nguyên
CHẤT
LƯỢNG
NGUỒN
NHÂN LỰC
Trạng Thái thể lực
Trí tuệ của đội ngũ cán
bộ
Phẩm chất chính trị,
đạo đức
Qui mô dân số
Sự phát triển kinh tế - XH
Trình độ phát triển GD và
ĐT
Chính sách Vĩ mô của nhà
nước
Các nhân tố bên ngoài Các nhân tố bên trong
H1
H2
H4
H5
H6
H7
H3
Trần Văn Quyết và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 83 - 89
85
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguồn số liệu và phương pháp chọn mẫu
Để xác định, đo lường và phân tích các yếu tố
cấu thành lên chất lượng đội ngũ cán bộ cũng
như các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cán
bộ (nguồn nhân lực) trong Chi nhánh, nghiên
cứu này sử dụng số liệu phỏng vấn nhận thức
của các nhà quản lý, các cán bộ và các khách
hàng (các ngân hàng thương mại trên địa bàn
tỉnh Thái nguyên) về chất lượng cán bộ của
Chi nhánh. Để chọn ra số lượng mẫu nghiên
cứu tác giả sử dụng công thức thống kê chọn
mẫu của Sevilla, et.al/,(1998)
n=N/(1+N*e2)
Ở đây n là cỡ mẫu (số người được lựa chọn để
phỏng vấn);
N là tổng thể (tổng số nhà quản lý, nhân viên
của NHTM có liên quan tới cán bộ của NHNN
chi nhánh Thái Nguyên).. e là sai số mong
muốn (5%);
Áp dụng công thức trên chúng ta sẽ xác định
được số lượng cán bộ cần phỏng vấn của
NHTM là 195 người.
Phương pháp phân tích số liệu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp chính là phân
tích khám phá (EFA) và phân tích hồi quy.
Các nhân tố chung có thể được diễn tả như
những kết hợp tuyến tính của các biến số
quan sát. Mô hình có dạng:
Fi= Wi1X1 + Wi2X2 + …+WikXk-1 + WikXk
Trong đó: Fi: ước lượng trị số của nhân tố chung
thứ i hay nhóm i (i=1,2,3,…, n-1,n)
Wij: là quyền số hay trọng số của biến quan
sát Xj (j=1.2.3….,k-1,k)
k: số biến quan sát
Điều kiện áp dụng mô hình phân tích nhân tố:
- Các biến số có quan hệ tương quan.
- Hàm số phải đồng thời thỏa mãn hai điều
kiện là:
+ Kiểm định Bartlett được dùng để kiểm định
xem có sự tương quan hay không giữa các biến.
+ Chỉ số Kaiser-Mayer-Olkin (KMO) dùng để
kiểm định xem mẫu có đủ lớn để có thể áp
dụng phương pháp Phân tích Nhân tố được
hay không. Để có thể áp dụng được công cụ
phân tích nhân tố thì các giá trị tương quan
phải lớn hơn 0,5.
KẾT QUA NGHIÊN CỨU VA THAO LUẬN
Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ tại
NHNN chi nhánh Thái Nguyên
Chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc tại
NHNN chi nhánh Thái Nguyên được đánh giá
theo các tiêu chí như: độ tuổi; kinh nghiệm
công tác; chính sách trẻ hóa, quy hoạch cán
bộ; ngạch công chức; trình độ chuyên môn,
chính trị; chuyên ngành đào tạo; trình độ
ngoại ngữ, tin học.
Tính đến thời điểm 31/12/2013, hầu hết
CBCC trong Chi nhánh có trình độ Đại học
với 33 người (chiếm 67.34%), CBCC có trình
độ Thạc sỹ là 4 người (chiếm 8.16%), CBCC
có trình độ Cao đẳng và Trung cấp là 5 người
(chiếm 10.2%), còn lại là lao động chưa qua
đào tạo với 7 người (chiếm 14,28%). Phòng
Hành chính – Nhân sự có 7 người là lao động
phổ thông chưa qua đào tạo, đây là số lao
động thực hiện các công việc không liên quan
đến chuyên môn nghiệp vụ như lái xe, bảo
vệ…..Nói chung trình độ chuyên môn của
CBCC làm việc tại Chi nhánh hầu hết là phù
hợp và đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn
nghiệp vụ tác nghiệp. Tuy nhiên để đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ hội nhập mới đòi hỏi
CBCC phải tiếp tục nâng cao trình độ thong
qua việc học chuyển tiếp lên các cấp đào tạo
cao hơn. Cụ thể hiện nay số CBCC có trình
độ Thạc sỹ vẫn còn khiêm tốn (chỉ có 4/49 lao
động tương đương 8.16%). Do đó thời gian
tới Chi nhánh cần tiếp tục tạo điều kiện để
CBCC có điều kiện học tập nâng cao trình độ
chuyên môn phục vụ công tác góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý điều hành lĩnh vực tiền
tệ, ngân hàng trên địa bàn.
Kết quả phân tích nhân tố về chất lượng cán
bộ tại NHNN chi nhánh tỉnh Thái Nguyên
Theo mô hình nghiên cứu có 07 nhóm nhân tố
với 32 biến quan sát ảnh hướng đến chất
lượng đội ngũ cán bộ của chi nhánh NHNN
Trần Văn Quyết và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 83 - 89
86
tỉnh Thái Nguyên. Sau khi khảo sát, dùng
phương pháp phân tích nhân tố khám phá
EFA với phép quay Varimax để phân tích 32
biến quan sát. Sử dụng phương pháp kiểm
định KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) và Bartlett
để đo lường sự tương thích của mẫu khảo sát
(bảng 2).
Hệ số KMO là 0,822 (> 0,5) và sig = 0,000 <
0,05 nên giả thuyết Ho trong phân tích này
“Độ tương quan giữa các biến quan sát bằng
0 trong tổng thể” sẽ bị bác bỏ, điều này có
nghĩa là các biến quan sát có tương quan với
nhau trong tổng thể và phân tích nhân tố EFA
là thích hợp.
Bảng kết quả phân tích nhân tích cho thấy có
tất cả 32 nhân tố nhưng chỉ có bảy nhân tố có
Eigenevalue lớn hơn 1. Bảy nhân tố này sẽ
được giữ lại tiếp tục phân tích. Ta cũng thấy
được với bảy nhân tố này sẽ giải thích được
65.47% biến thiên của dữ liệu (phần trăm của
phương sai). Tỉ lệ này là khá cao trong phân
tích nhân tố.
Bước tiếp theo ta tiến hành xây dựng phương
trnh hồi quy tuyến tính. Dựa vào cơ sở lý
thuyết và kết quả phân tích hệ số tương quan
Pearson ở trên, ta sẽ đưa tất cả các biến độc
lập trong mô hình hồi quy đã điều chỉnh bằng
phương pháp đưa vào cùng một lúc (Enter).
Phần mềm xử lý số liệu cho ra kết quả hồi
quy như trong bảng trên.
Từ việc kiểm định ý nghĩa thống kê của các
hệ số hồi quy (quan sát giá trị sig ta thấy
những biến nào có giá trị sig>0,05 thì sẽ bị
loại ra khỏi mô hình) ta viết được mô hình hồi
quy tuyến tính bội với 6 biến độc lập như sau:
Yi = 1,21+ 0,15F1+ 0,31 F2 + 0,08F3 + 0,24F4 +
0,29F5 + 0,07F6+ ei
Trong đó:
F1 là nhân tố phản ánh Qui mô dân số
F2 là nhân tố phản ánh Sự phát triển KT –XH
F3 là nhân tố phản ánh Trình độ phát triển giáo
dục và đào tạo
F4 là nhân tố phản ánh Trạng thái thể lực của
người lao động
F5 là nhân tố phản ánh Trí tuệ của người lao động
F6 là nhân tố phản ánh Phẩm chất chính trị, đạo
đức và thái độ với công việc của người lao động.
Bảng 2: Kiểm định của KMO và Bartlett KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .822
Bartlett's Test of Sphericity Approx. Chi-Square 254.972
df 207
Sig. .000
Bảng 3: Mô hình hồi quy bội
Mô hình
Hệ số hồi quy
chưa chuẩn hóa
Hệ số
hồi quy
chuẩn hóa
t
Sig.
Collinearity
statistic
B Std. Error Beta
Toleranc
e
VIF
Hằng số 1,21 0,32 3,78 ,000
Qui mo dan so 0,15 0,22 0,68 0,50 0,15 0,71 1,41
Su phat trien kinh te XH 0,31 0,04 0,35 7,23 0,00 0,68 1,48
Trinh do phat trien GD va DT 0,08 0,04 0,11 2,10 0,04 0,53 1,89
Trang thai the luc 0,24 0,05 0,26 4,51 0,00 0,67 1,48
Tri tue cua nguon nhan luc 0,29 0,06 0,26 5,14 0,00 0,76 1,31
Pham chat chinh tri và dao duc 0,07 0,03 0,11 2,24 0,03 0,71 1,41
Chinh sach vi mo 0,03 0,04 0,04 0,81 0,42 0,71 1,41
Nguồn: Kết quả phân tích hồi quy
Trần Văn Quyết và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 83 - 89
87
Mô hình hồi quy bội lúc này cơ bản đã đáp
ứng được các điều kiện như hệ số phóng đại
phương sai VIF bé hơn 10 nghĩa là không xảy
ra hiện tượng đa cộng tuyến. Và lần lượt sig
của 6 biến còn lại đều nhỏ hơn 0,05 (ngoại trừ
biến chính sách vĩ mô của nhà nước) chứng tỏ
các biến độc lập có mối tương quan với biến
phụ thuộc. Nhìn vào mô hình hồi quy ta thấy
biến ảnh hưởng mạnh nhất đến biến phụ
thuộc ở đây là nhân tố Sự phát triển kinh tế xã
hội với hệ số hồi quy là 0,31. Còn biến tác
động ít nhất tới chất lượng đội ngũ cán bộ là
biến Phẩm chất chính trị và đạo đưc với hệ số
hồi quy là 0,07.
Kết quả kiểm định đã chỉ ra rằng, có 6/7 giả
thuyết đã được chấp nhận và các nhân tố đều
có ảnh hưởng tích cực tới chất lượng đội ngũ
cán bộ trong chi nhánh ngân hàng. Ngoài
những nhân tố có tác động nhiều tới chất
lượng đội ngũ cán bộ thì có hai nhân tố tổng
hợp đó là “phẩm chất chính trị, đạo đức và
thái độ với công việc” và “trình độ giáo dục
và đào tạo” còn ảnh hưởng rất thấp. Điều này
phản ánh thực trạng chất lượng giáo dục nghề
nghiệp ở Thái Nguyên còn hạn chế. Giáo dục
chuyên môn, kỹ năng và phẩm chất đạo đức
vẫn chưa thực sự được đào tạo chuyên
nghiệp, bài bản. Vì vậy đây cũng là một vấn
đề mà các nhà quản lý giáo dục cũng cần
quan tâm. Như ta biết, gắn đào tạo với thực tế
sẽ nâng cao chất lượng lao động, kỹ năng
nghề nghiệp. Bên cạnh đó người lao động có
phẩm chất chính trị vững vàng, trung thực,
làm việc nhiệt tình sẽ góp phần không nhỏ tới
hiệu quả công việc được giao.
Thảo luận và đánh giá kết quả
Những hạn chế gặp phải của chất lượng đội ngũ
cán bộ tại chi nhánh NHNN tại Thái Nguyên
Mặc dù chất lượng CBCC làm việc tại NHNN
chi nhánh Thái Nguyên có một số ưu điểm,
tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế sau:
Một là, CBCC có trình độ Sau đại học còn ít,
chủ yếu là cán bộ quản lý mà chưa có các
chuyên gia hàng đầu chuyên ngành tài chính
ngân hàng tại Chi nhánh. Một số bộ phận cần
CBCC có trình độ chuyên môn cao như thanh
tra, giám sát….nhưng chưa có cán bộ có trình
độ Sau đại học theo chuyên ngành này. Bên
cạnh đó các CBCC có trình độ Sau đại học lại
là các cán bộ quản lýị, điều đó chưa thể khẳng
định là chuyên gia đầu ngành của lĩnh vực đó
vì những vị trí này thiên về chức năng quản lý
và điều hành hơn là chuyên gia. CBCC có
trình độ thạc sỹ không đúng chuyên ngành tài
chính ngân hàng mà là các chuyên ngành như
Quản lý kinh tế, Kinh tế chính trị,..
Hai là, còn thiếu những cán bộ trẻ có trình độ
nghiệp vụ, năng lực và phẩm chất tốt ở những
lĩnh vực hoạt động trọng yếu, như xây dựng
chính sách, thanh tra - giám sát, xây dựng
chiến lược, nghiên cứu... Nhiều cán bộ làm
công tác chuyên môn, nghiệp vụ có văn bằng
đại học nhưng trình độ thực sự không tương
xứng, đặc biệt có sự khoảng cách lớn giữa lý
thuyết và thực tiễn trong đào tạo của các trường
đại học ngân hàng, nên số cán bộ mới ra trường
thường phải mất nhiều thời gian để tham gia
đào tạo lại. Số CBCC có kỹ năng sâu về kinh
tế và luật pháp không nhiều
Ba là, kỹ năng nghề nghiệp của một số CBCC
chưa đạt được mức mong muốn, số cán bộ xử
lý công việc theo cách truyền thống vẫn còn;
nhất là những công chức có thời gian công tác
lâu năm. Về kinh nghiệm công tác của công
chức, hiện còn thiên về kinh nghiệm trong
một lĩnh vực hẹp, thiếu năng động và dẫn đến
hạn chế chất lượng công tác. Còn nặng tính
công chức hành chính trong tư duy và tác
nghiệp thiếu khả năng giải quyết vấn đề một
cách tự chủ cũng như khả năng kết hợp làm
việc theo nhóm chưa mạnh.
Bôn là, số CBCC có trình độ ngoại ngữ cao
còn quá ít chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển của hệ thống TCTD trong thời kỳ mới.
Năm là, một số CBCC còn yếu kém về lề lối
làm việc, tác phong chậm chạp và vẫn còn
một bộ phận CBCC còn chưa thực hiện đầy
đủ tinh thần trách nhiệm trong thực thi công
vụ, vẫn để xảy ra các tiêu cực trong hoạt động
tiền tệ ngân hàng.
Trần Văn Quyết và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 83 - 89
88
Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng đội
ngũ cán bộ tại NHNN chi nhánh Thái Nguyên
Một là, thiếu một chiến lược phát triển đội
ngũ cán bộ hoàn chỉnh, các mục tiêu ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn; kèm theo đó là các
bước thực hiện với kinh phí và giải pháp cụ
thể cần thiết. Các chiến lược vẫn phụ thuộc
vào NHNN Việt Nam và nếu có thì các chiến
lược này chỉ là ngắn hạn do đó không tránh
khỏi bị động
Hai là, giữa tuyển dụng, đánh giá, sử dụng
cán bộ cũng như đào tạo nhân sự chưa có sự
gắn kết chặt chẽ làm ảnh hưởng mục tiêu cuối
cùng là nâng cao năng lực và trình độ cho
nhân sự. Mặt khác nó cũng làm ảnh hưởng
đến chất lượng từng chức năng quản trị phát
triển nhân sự, ví dụ việc bố trí sử dụng độc
lập với qui hoạch đào tạo, nên qui mô đào tạo
mở rộng hàng năm mà mặt bằng kỹ năng và
năng lực của công chức không được nâng cao
như mong muốn. Đào tạo còn xuất phát từ
nhu cầu cá nhân dẫn đến tự phát, như "cao
học hóa", chưa có định hướng chuyên môn
cho các đối tượng tham gia đào tạo dài hạn,
chưa kết hợp nghiên cứu khoa học và đào tạo
sau đại học; hiện tượng đào tạo không đúng
đối tượng và lệch chuyên ngành vẫn còn.
Ba là, công tác đánh giá, xếp loại cán bộ
nhiều khi còn mang tính hình thức, chưa
khuyến khích công chức phát huy hết tiềm
năng trong thực thi nhiệm vụ và phấn đấu
trưởng thành. Thiếu căn cứ khoa học để đánh
giá một cách đúng đắn mức độ hoàn thành
nhiệm vụ chuyên môn. Do hiệu quả đánh giá
không sát thực, còn nặng về định tính, nên
chưa phải là cơ sở tham chiếu cho sử dụng và
phát triển công chức. Việc đánh giá xếp loại
hàng năm tại Chi nhánh còn chung chung,
chưa có tiêu chí cụ thể rõ rang.
Bôn là, công tác tuyển dụng hầu hết phụ
thuộc vào NHNN Việt Nam. Hiện nay đối với
công chức loại A đến loại C đều do NHNN
Việt Nam tổ chức thi tuyển, NHNN chi nhánh
Thái Nguyên chỉ tiếp nhận. Điều này làm cho
Chi nhánh không tuyển được nhân sự theo
yêu cầu như chuyên ngành đào tạo, ngoại
hình…NHNN chi nhánh Thái Nguyên chỉ tổ
chức xét tuyển đối với công chức loại D, việc
xét tuyển còn dựa chủ yếu vào các thông số
đầu vào của cá nhân (bằng cấp, chứng chỉ,
tuổi đời…) mà chưa có khung chuẩn về chất
lượng nhân sự để đánh giá chính xác khả
năng phù hợp của đối tượng tuyển chọn.
Năm là, chế độ đãi ngộ (tiền lương, khen
thưởng, ưu đãi…) hiện còn thiếu công bằng,
mang tính bình quân, không gắn với khối
lượng, chất lượng và hiệu quả của công việc,
nên không có hiệu quả trong việc khuyến
khích người tích cực và giáo dục người chậm
tiến. Chưa có biện pháp hữu hiệu hướng và
động viên công chức tham gia nghiên cứu
khoa học, thông qua các nghiên cứu triển khai
tại nơi làm việc để nâng cao trình độ chuyên
môn, tăng năng lực nghiên cứu và ứng dụng
tri thức khoa học vào công việc.
Sáu là, chính sách đào tạo, đã có chính sách
hỗ trợ, khuyến khích công chức nâng cao
trình độ, nhưng mới dùng ở mức độ động viên
đi học mà chưa định hướng cho phát triển sau
đào tạo. Thiếu sự gắn kết giữa sử dụng, đãi
ngộ và đào tạo dễ dẫn đến thiếu động lực
phấn đấu của cá nhân, làm ảnh hưởng đến kết
quả hoàn thành nhiệm vụ chung của tổ chức.
KẾT LUẬN
Thời gian qua, NHNN Việt Nam nói chung,
NHNN Chi nhánh Thái Nguyên nói riêng đã
không ngừng thực hiện các biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng CBCC. Tuy nhiên trình
độ, chất lượng của CBCC vẫn còn một số tồn
tại, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình
mới. Thời gian tới, trước xu hướng hội nhập
ngày càng sâu rộng trong lĩnh vực tiền tệ,
ngân hàng thì NHNN Việt Nam cần tiếp tục
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ làm việc trong hệ thống. Để nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc trong
hệ thống NHNN thì ngoài các biện pháp từ
phía cơ quan chủ quản là NHNN Việt Nam,
NHNN chi nhánh các tỉnh, thành thì cần sự
vào cuộc từ phía các cơ sở giáo dục nhất là
Trần Văn Quyết và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 83 - 89
89
các cơ sở đào tạo nhân lực các chuyên ngành
tiền tệ, ngân hàng. Đặc biệt, để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ làm việc tại hệ thống
NHNN thì bản thân đội ngũ cán bộ cần luôn
nâng cao ý thức tự học tập, trau dồi kỹ năng,
kiến thức nghề nghiệp để có thể đáp ứng yêu
cầu công việc trong giai đoạn hội nhập.
TAI LIỆU THAM KHAO
Tiếng Việt
1. Chính phủ (2003), Quyết định sô 161/2003/QĐ-
TTg ngày 4/8 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chưc,
Hà Nội.
2. Chính Phủ (2003), Nghị định sô 117/2003/NĐ-
CP ngày 10/10 “Về tuyển dụng, sử dụng và quản
lý cán bộ, công chưc trong các cơ quan nhà
nước”, Hà Nội.
3. Chính Phủ (2008), Quyết định sô 770/2008/QĐ-
TTg ngày 23/6 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt chương trình xây dựng, nâng cao chất lương
đội ngũ cán bộ, công chưc hành chính nhà nước
giai đoạn 2008-2010, Hà Nội.
4.Nguyễn Văn Huân (2008), Nâng cao chất lượng
đội ngũ nhân viên tại ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam, Tạp chí khoa học và công nghệ,
ĐH Đà Nẵng, sô 6(29)
5. NHNN chi nhánh Thái Nguyên (2010, 2011,
2012, 2013), Báo cáo tổng kết hoạt động Ngân
hàng Nhà nước tỉnh
7. Thang Văn Phúc - Nguyễn Minh Phương
(2005), “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chưc”, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
8.Nguyễn Thị Phương Trâm (2008), Chất lượng
dịch vụ ngân hàng điện tử: So sánh giữa mô hình
SERVQUAL và GRONROOS, Luận văn thạc sĩ
kinh tế, Trường Đại Kinh tế TPHCM.
Tiếng Anh
1. Gi-Du Kang & Jeffrey James (2004), Service
quality dimensions: An examination of Gronroos’s
service quality model, Emerald Group Publishing
Limited, managing service quality, Volume 14 –
Number 14.2004, pp 266-277.
2. Gronroos (1984), A Service Quality Model and
Its Marketing Implications, European Journal of
Marketing
SUMMARY
USING EXPLORATORY FACTOR ANALYSIS MODEL (EFAM) IN ASSESSING
QUALITY OF STATE BANK STAFF: THE CASE STUDY OF STATE BANK OF
VIETNAM - THAI NGUYEN BRANCH
Tran Van Quyet1*, Nguyen Ngoc Ly2, Le Chi Vinh2
1Thai Nguyen university of Economics and Business Aministration 2Senior Official, State Bank of Vietnam, Thai Nguyen provice Branch
From the characteristics of the activities of State Bank systems in Vietnam and the research
models on staff quality of domestic and international banks, this article builds up the model of
assessing State Bank personnel quality. With empirical research results at Thai Nguyen branch,
this article also carries out the testing and adjusting model through: Reliability
coefficient Cronbach’s Alpha, Exploratory Factor Analysis, Confirmatory Factor Analysis.
Thereby, solutions to improve the quality of staff working at the branch are suggested to improve
customer's satisfaction.
Key words: staff quality, Factor Analysis Model, State Bank
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:03/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Quang Huy – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* 0966 553579; Email:[email protected]
Trần Văn Quyết và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 83 - 89
90
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 91 - 95
91
ẢNH HƯỞNG CỦA CHUẨN MỰC XÃ HỘI ĐẾN HÀNH VI PHÀN NÀN VÀ
Ý ĐỊNH THAY ĐỔI NHÀ CUNG CẤP CỦA KHÁCH HÀNG
Phạm Văn Hạnh*, Hoàng Thị Huệ
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Hiểu được hành vi phàn nàn của khách hàng có thể giúp các hãng dịch vụ giảm rủi ro của việc mất
những khách hàng hiện tại, nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc tiếp nhận thông tin phản
hồi từ những phàn nàn của khách hàng. Bài viết này nghiên cứu ảnh hưởng của chuẩn mực xã hội
đến hành vi phàn nàn và xu hướng chuyển đổi nhà cung cấp, đồng thời giải thích nguyên nhân
khách hàng bực mình lại không phàn nàn trên giác độ hành vi kiểm soát cảm xúc của họ. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng, khách hàng nhận thức áp lực xã hội cao sẽ tham gia nhiều hơn vào hành vi
kiểm soát cảm xúc và có xu hướng ít phàn nàn với nhà cung cấp so với những khách hàng nhận
thức áp lực xã hội thấp. Tuy nhiên, khách hàng không phàn nàn thường có xu hướng chuyển sang
những nhà cung cấp khác.
Từ khóa: chuẩn mực xã hội, kiểm soát cảm xúc, hành vi phàn nàn, ý định chuyển đổi nhà cung
cấp, xu hướng phàn nàn.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Các nghiên cứu trước đây đã nghiên cứu mối
liên hệ giữa cảm xúc tiêu cực và hành vi phàn
nàn của khách hàng, tuy nhiên, từ khi trải qua
cảm xúc tiêu cực đến việc thực hiện hành vi
phàn nàn là một quá trình. Hành vi phàn nàn
cũng bị ảnh hưởng bởi áp lực xã hội. Khi
khách hàng nhận thấy áp lực xã hội là lớn thì
họ có xu hướng ít phàn nàn. Mặc dù các
nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng hành vi phàn
nàn bị ảnh hưởng bởi áp lực xã hội, không có
nghiên cứu nào nghiên cứu sâu ảnh hưởng
của áp lực xã hội lên hành vi phàn nàn và từ
đó ảnh hưởng đến việc khách hàng tìm kiếm
nhà cung cấp mới. Khi khách hàng không
phàn nàn họ có xu hướng chuyển sang nhà
cung cấp khác. Nhận biết được hành vi không
phàn nàn và tìm hiểu rõ nguyên nhân của việc
không hài lòng sẽ giúp cho các hãng dịch vụ
nâng cao được chất lượng dịch vụ để đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của khách hàng, hạn chế việc
khách hàng rời bỏ hãng dịch vụ. Theo như
nghiên cứu cho thấy, chi phí đế giữ một
khách hàng hiện tại sẽ rẻ hơn 5 lần so với việc
phải tìm một khách hàng mới. Bài viết này
nghiên cứu ảnh hưởng của chuẩn mực xã hội
tới hành vi phàn nàn, ý định chuyển đổi nhà
* Tel: 01234 292293, Email: [email protected]
cung cấp của khách hàng thông qua việc làm
rõ cơ chế kiểm soát cảm xúc của họ và lĩnh
vực nghiên cứu tập trung chủ yếu trong lĩnh
vực nhà hàng và khách sạn.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VA GIA THUYẾT
NGHIÊN CỨU
Hành vi phàn nàn của khách hàng
Khi khách hàng không hài lòng với dịch vụ
họ có xu hướng phản ứng lại với với sự không
hài lòng đó. Landon (1980) [4] định nghĩa
hành vi phàn nàn như là một sự thể hiện sự
không hài lòng bởi một khách hàng riêng lẻ
đối với một bên có trách nhiệm trong kênh
phân phối hoặc đại lý xử lý phàn nàn. Các
nghiên cứu gần đây xem xét hành vi phàn nàn
trên giác độ động. Tronvoll (2007) [8] coi
hành vi phàn nàn như là một quá trình sẽ xuất
hiện nếu những gì xảy ra vượt ra ngoài vùng
chịu đựng trong quá trình tương tác dịch vụ
hoặc/và trong việc đánh giá giá trị sử dụng.
Theo như Tronvoll, hành vi phàn nàn chỉ xảy
ra khi mà sự không hài lòng vượt ra ngoài
ngưỡng chịu đựng hay tầm kiểm soát cảm xúc
của khách hàng. Rõ ràng rằng không phải
khách hàng nào cũng phàn nàn vì nếu hành vi
phàn nàn nằm trong giới hạn chịu đựng khách
hàng sẽ không thể hiện cảm xúc.
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 91 - 95
92
Hành vi chuyển đổi nhà cung cấp
Ý định rời bỏ nhà cung cấp đề cập đến việc
khách hàng chuyển sang mua hàng của một
hiệu khác, chọn một thương hiệu khác vì sự
không hài lòng khi quá trình dịch vụ lỗi diễn
ra. Ý định chuyển nhà cung cấp bị ảnh hưởng
bởi loại lỗi dịch vụ và cảm xúc tiêu cực mà
khách hàng trải qua. Nếu lỗi dịch vụ được
kiểm soát, hoặc nguyên nhân từ bản thân dịch
vụ, xảy ra không thường xuyên khách hàng ít
có xu hướng chuyển đổi nhà cung cấp hơn so
với việc lỗi dịch vụ không được để ý, hoặc do
lỗi từ nhân viên, và thường xuyên xảy ra. Khi
khách hàng hài lòng với nhà cung cấp thì họ
có xu hướng quay lại nhà cung cấp đó cho lần
mua tiếp theo. Ngược lại, khi họ không hài
lòng và không nhận được sự khắc phục hoặc
đền bù hợp lý, họ sẽ tìm kiếm nhà cung cấp
khác khi tiêu dùng dịch vụ lần tới.
Việc điều chỉnh cảm xúc của khách hàng
Trong một số dịch vụ, khách hàng nhận thấy
rằng cảm xúc của họ có thể ảnh hưởng tới
chất lượng dịch vụ hoặc họ có thể nhận được
dịch vụ tốt hơn nếu họ thể hiện những cảm
xúc phù hợp, họ sẽ chủ động điều chỉnh cảm
xúc của họ và không biểu hiện những cảm
xúc không mong muốn. Khách hàng có thể
không hài lòng hoặc thất vọng về dịch vụ,
nhưng biểu hiện cảm xúc của họ có thể làm
cho dịch vụ trở nên tệ hơn. Có hai chiến lược
mà khách hàng có thể sử dụng để điều chỉnh
cảm xúc của họ đó là: thay đổi nhận thức và
che giấu cảm xúc.
Thay đổi nhận thưc
Đây là việc khách hàng giải thích các nguồn
tác động cảm xúc theo góc độ khác để giảm
nhẹ sự ảnh hưởng. Thông qua việc thay đổi
cách nghĩ về vấn đề xảy ra hoặc đánh giá lại
theo một hướng ít tiêu cực hơn sẽ làm giảm
tác động của cảm xúc tiêu cực. Ví dụ: một
khách hàng đến một hiệu làm tóc và họ không
hài lòng với dịch vụ, họ có thể nghĩ rằng đây
là một tai nạn còn chủ cửa hiệu đã cố gắng
hết sức. Khi khách hàng áp dụng chiến lược
này họ có xu hướng suy nghĩ ôn hòa hơn với
những lỗi nảy sinh và ít phàn nàn về chất
lượng dịch vụ.
Che giấu cảm xúc
Che giấu cảm xúc là việc khách hàng biểu
hiện thái độ hoặc nét mặt khác với những gì
mà họ thực sự trải qua. Che giấu cảm xúc đề
cập đến việc kiềm chế biểu hiện cảm xúc
bằng cách kiểm soát hành vi cảm xúc để điều
khiển việc biểu hiện cảm xúc. Nói theo cách
khác, che giấu cảm xúc là một dạng che đậy
có ý thức của hành vi thể hiện cảm xúc trong
khi cảm xúc xuất hiện.
Vai trò của chuẩn mực xã hội
Nếu khách hàng nhận thấy ảnh hưởng của
chuẩn mực xã hội cao hơn, họ sẽ tham gia
nhiều hơn vào điều chỉnh cảm xúc. Khi khách
hàng nhận thức được rằng cảm xúc của họ có
thể làm cho những người khác chú ý, họ sẽ cố
gắng che giấu và giảm ý định phàn nàn. Vì
thế, chuẩn mực xã hội sẽ làm tăng khả năng
và xu hướng khách hàng tham gia vào thay
đổi nhận thức và che giấu cảm xúc. Khách
hàng càng nhận thức áp lực từ phía xã hội, họ
càng tham gia nhiều hơn vào việc điều chỉnh
cảm xúc. Nếu khách hàng nhận thức áp lực từ
phía người khác khi họ phàn nàn, họ có thể cố
gắng kiểm soát cảm xúc của họ và cố gắng
duy trì trạng thái cảm xúc đến cuối của quá
trình dịch vụ. Một số giả thuyết được đưa ra
như sau:
H1: Khi khách hàng nhận thưc cao hơn về
chuẩn mực xã hội họ sẽ tham gia nhiều hơn
vào chiến lươc thay đổi nhận thưc khi lỗi dịch
vụ xảy ra.
H2: Khi khách hàng nhận thưc cao hơn về
chuẩn mực xã hội họ sẽ tham gia nhiều hơn
vào việc che giấu cảm xúc của mình khi lỗi
dịch vụ xảy ra.
Vai trò của việc kiểm soát cảm xúc và hành
vi phàn nàn
Lỗi dịch vụ có xu hướng tạo ra cảm xúc tiêu
cực của khách hàng. Khi khách hàng trải qua
lỗi dịch vụ, họ không phàn nàn ngay với
người cung cấp dịch vụ. Có hai quá trình xảy
ra trong quá trình dịch vụ: Đầu tiên, khách
hàng thường có xu hướng đánh giá lại khả
năng của họ để kiểm soát tình huống hoặc
đánh giá những hành động thay thế có thể.
Thay đổi nhận thức được coi như là một chiến
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 91 - 95
93
lược hữu ích để thay đổi tâm trạng. Thứ hai,
mặc dù khách hàng cảm thấy tức giận khi trải
qua lỗi dịch vụ, không phải tất cả họ sẽ thể
hiện đúng cảm giác trong quá trình dịch vụ.
Trước khi tiến hành hành vi phàn nàn, khách
hàng cũng tham gia vào chiến lược che giấu.
Để có được sự che đậy, khách hàng cần phải
tham gia vào quá trình kiểm soát phản ứng hiện
thời của họ, so sánh phản ứng cảm xúc của họ
với tình trạng mong muốn và cố gắng tiến sát
tình trạng mong muốn. Từ những thảo luận trên,
hai giả thuyết được đề xuất bao gồm:
H3: Khách hàng tham gia vào chiến lươc
thay đổi nhận thưc sẽ ít phàn nàn hơn so với
khách hàng không sử dụng chiến lươc này.
H4: Khách hàng sử dụng chiến lươc che giấu
cảm xúc sẽ ít phàn nàn hơn so với khách hàng
không tham gia vào chiến lươc này.
Kiểm soát cảm xúc, hành vi phàn nàn và ý
định chuyển đổi nhà cung cấp
Khi khách hàng kiểm soát cảm xúc, họ có xu
hướng ít phàn nàn về chất lượng dịch vụ khi
lỗi xảy ra. Tuy nhiên, do không hài lòng với
dịch vụ và lại không được nói ra nên khách
hàng cảm thấy ấm ức và họ có xu hướng tìm
kiếm nhà cung cấp khác thay vì mua của nhà
cung cấp hiện tại. Các khách hàng hài lòng
với dịch vụ thường có xu hướng quay lại tiêu
dùng dịch vụ mà họ cảm thấy thỏa mãn.
Trong khi đó, những khách hàng không hài
lòng và không nói ra sự không hài lòng đó sẽ
có xu hướng rời bỏ hãng hiện tại. Từ những
vấn đề trên, giả thuyết được đưa ra như sau:
H5: Khách hàng không phàn nàn thường có
xu hướng chuyển đổi nhà cung cấp lớn hơn so
với những người phàn nàn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế kịch bản và quy trình
Một kịch bản về lỗi dịch vụ thông thường
được thiết kế để tạo phản hồi cảm xúc. Dịch
vụ được chọn ở đây là dịch vụ thuộc lĩnh vực
nhà hàng khách sạn. Trong đó, những người
tham gia sẽ đọc một kịch bản về tình huống
lỗi dịch vụ trong một nhà hàng. Tình huống
này mô tả lỗi dịch vụ gây ra bởi nhân viên
trong đó khách hàng bị đối xử không công
bằng. Người tham gia sẽ được hỏi thành
nhóm từ 30-40 người. Họ sẽ tham gia vào
tình huống đóng vai mà ở đó họ tưởng tượng
rằng họ là những khách hàng đi ăn trong một
nhà hàng và trải qua dịch vụ lỗi. Sau đó họ
trả lời câu hỏi liên quan đến nhận thức của họ
về chuẩn mực xã hội, hành vi kiểm soát cảm
xúc của họ, hành vi phàn nàn, và ý định mua
sắm lần tiếp theo. Đối tượng điều tra là những
người đã từng trải qua các tình huống gặp
phải dịch vụ lỗi. Nghiên cứu này được tiến
hành tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị
Kinh doanh thuộc Đại học Thái Nguyên.
Tổng số 260 sinh viên tham gia, đa phần
trong số họ tuổi từ 19-22. Cỡ mẫu được xác
định dựa trên số lượng biến phân tích trong
mô hình và đảm bảo ý nghĩa các chỉ số trong
mô hình cấu trúc động (SEM)[3].
Đo lường
Năm mục hỏi được dùng để đo lường chiến
lược thay đổi nhận thức và ba mục dùng để đo
lường việc che giấu cảm xúc (thang đo Likert
7-điểm) được điều chỉnh từ những mục thuộc
nghiên cứu của Gross và John [2] và Gabbott
[1]. Bốn mục hỏi được dùng để đo lường ý
định phàn nàn được trích và điều chỉnh từ
nghiên cứu của Singh [5]. Hai mục hỏi được
dùng để đo lường nhận thức về chuẩn mực xã
hội được trích từ nghiên cứu của Rimal [5].
Ba mục hỏi để đánh giá xu hướng chuyển đổi
nhà cung cấp được trích và điều chỉnh từ
nghiên cứu của Lin[9]. Sau quá trình xử lý,
một vài mục bị loại do thiếu ý nghĩa thống kê,
một vài mục khác bị loại sau khi tiến hành
phân tích nhân tố kiểm định vì hệ số điều
chỉnh mô hình.
PHÂN TÍCH SỐ LIỆU VA KẾT QUA
Kết quả cho thấy giá trị t-value của tất cả giá
trị truyền tải ước lượng đều có ý nghĩa ở mức
p<0,01. Mô hình đo lường cho các biến thể
hiện độ phù hợp hợp lý với χ2 =356.38,
GFI=.90, CFI=.95, RMSEA=.058. Giá trị
AVE đều vượt qua hệ số tương quan bình
phương của các cặp biến (LISREL 8.7). Kết
quả thể hiện các biến là phân biệt.
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 91 - 95
94
** mức ý nghĩa p<0,01
Hình 1: Mô hình nghiên cưu
Giả thuyết 1 và 2 cho rằng khách hàng nhận
thức về áp lực xã hội cao sẽ tham gia vào việc
kiểm soát cảm xúc nhiều hơn khi xảy ra lỗi
dịch vụ so với những khách hàng nhận thức
áp lực xã hội thấp hơn. Kết quả phân tích số
liệu đã chỉ ra chuẩn mực xã hội có mối quan
hệ thuận chiều với việc khách hàng áp dụng
chiến lược thay đổi nhận thức (β=0,27;
p<0,01) và chiến lược che giấu cảm xúc
(β=0,25; p<0,01). Giả thiết 1 và 2 được chứng
minh. Việc khách hàng áp dụng chiến lược
thay đổi nhận thức và che giấu cảm xúc có
mối quan hệ ngược chiều với ý định phàn nàn
mới mức ý nghĩa p<0,01. Giả thiết 3 và 4 đã
được chứng minh. Kết quả này khẳng định,
khi khách hàng áp dụng hai chiến lược này họ
xu hướng ít phàn nàn. Tuy nhiên, kết quả
phân tích số liệu thực nghiệm cũng cho thấy,
khách hàng kiểm soát cảm xúc và ít phàn nàn
nhưng sẽ tham gia nhiều hơn vào việc chuyển
đổi nhà cung cấp. Vì vậy, có quan hệ ngược
chiều giữa việc ý định phàn nàn và ý định
chuyển đổi nhà cung cấp. Giả thuyết 5 (β=-
0,21, p<0,01) được chứng minh. Hình 1 thể
hiện các giả thuyết và kết quả nghiên cứu.
THAO LUẬN
Nghiên cứu này đã đề cập đến một vấn đề đó
là ảnh hưởng của chuẩn mực xã hội lên hành
vi phàn nàn và chuyển đối nhà cung cấp. Mặc
dù các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra nguyên
nhân việc khách hàng kiểm soát cảm xúc nên
họ có xu hướng không phàn nàn. Tuy nhiên,
nghiên cứu này đi xa hơn khi tìm ra ảnh
hưởng chuẩn mực xã hội đến hành vi kiểm
soát cảm xúc của khách hàng và từ đó ảnh
hưởng đến ý định phàn nàn và chuyển đổi nhà
cung cấp của họ
Khi lỗi dịch vụ xảy ra và tùy thuộc vào mức
độ tức giận, khách hàng có thể phàn nàn hoặc
không. Nếu khách hàng chủ động kiểm soát
cảm xúc của bản thân, sẽ rất khó cho các hãng
dịch vụ có thể phát hiện phát hiện liệu rằng
khách hàng hài lòng hoặc không. Trong thực
tế, lỗi dịch vụ xảy ra thường xuyên và mỗi
giai đoạn trong quá trình dịch vụ luôn chứa
đựng những rủi ro gây ra lỗi. Khi khách hàng
không hài lòng mà không nói ra thì họ có xu
hướng rời bỏ nhà cung cấp đó và tìm kiếm
nhà cung cấp khác. Chi phí để tìm kiếm khách
hàng mới cao hơn nhiều so với việc duy trì
những khách hàng cũ. Chính vì thế, các hãng
dịch vụ cần hạn chế việc khách hàng chuyển
đổi nhà cung cấp bằng cách giúp khách hàng
giải tỏa sự không hài lòng. Từ kết quả của
nghiên cứu này, một số gợi ý cho các hãng dịch
vụ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua
việc khuyến khích khách hàng tham gia nhiều
hơn vào việc phàn nàn như sau:
Các hãng dịch vụ có thể nhận được phản hồi
từ khách hàng không hài lòng bằng cách giảm
ảnh hưởng của áp lực xã hội lên hành vi kiểm
soát cảm xúc của khách hàng và ý định phàn
Thay đổi
nhận thức
Chuẩn mực
xã hội Ý định
chuyển đổi
nhà cung cấp
Che giấu
cảm xúc
Ý định
phàn nàn
0,27**
0,25**
-0,14**
-0,60** -0,21**
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 91 - 95
95
nàn. Nếu các hãng dịch vụ có thể định hướng
khách hàng với những hướng dẫn để khuyến
khích họ phàn nàn, họ sẽ cảm thấy thoải mái
hơn với việc đưa ra những gợi ý với người
cung cấp dịch vụ. Khi khách hàng nói ra
những điều họ không hài lòng họ sẽ giảm ý
định chuyển sang những nhà cung ứng khác.
Các hãng dịch vụ cũng nên khuyến khích
nhân viên thể hiện sự thân thiện khi nhận
được những góp ý từ khách hàng. Các doanh
nghiệp cũng nên đưa ra quy định đối với nhân
viên trong việc kiểm soát thái độ và hành vi
của mình khi nhận được phàn nàn từ phía
khách hàng. Các công ty có thể tổ chức các
buổi tập huấn để nhân viên hiểu về vai trò của
việc kiểm soát cảm xúc cá nhân đối với sự hài
lòng của khách hàng. Thông qua các chương
trình này nhân viên sẽ học được cách kiểm
soát cảm xúc của bản thân mỗi khi có khách
hàng thể hiện thái độ khi lỗi dịch vụ xảy ra, từ
đó góp phần nâng cao độ hài lòng của khách
hàng và hạn chế việc họ chuyển sang nhà
cung cấp khác.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Gabbott, M., Y. Tsarenko, and W. H. Mok
(2010), “Emotional Intelligence as a Moderator of
Coping Strategies and Service Outcomes in
Circumstances of Service Failure,” Journal of
Service Research, 14 (2) 234-248.
2. Gross, J. J. and O. John (2003), “Individual
Differences in Two Emotion-Regulation
Processes: Implications for Affect, Relationships,
and Well-being,” Journal of Personality and
Social Psychology, 85, 348-362.
3. Kerlinger F. N. and Lee, B. H. (2000),
“Foundations of Behvioral Research, Fourth
Edition, Harcout College Publisher, 2000.
4. Landon, E. L. (1980), “The Direction of
Consumer Complaint Research,” Advances in
Consumer Research, 7, 335-338.
5. Rimal, R. N. and K. Real (2003), “Understanding
the Influence of Perceived Norms on Behaviors,”
Communication Theory, 13, 184–203.
6. Singh J. (1988), “Consumer Complaint Intentions
and Behavior: Definitional and Taxonomical Issues,”
Journal of Marketing, 52, 93-107.
7. Stephens N. and K. P. Gwinner (1998), “Why
Don't Some People Complain? A Cognitive-
Emotive Process Model of Consumer Complaint
Behavior,” Journal of the Academy of Marketing
Science, 26 (3), 172-189.
8. Tronvoll, B. (2007a), “Complainer
Characteristics When Exit Is Closed,”
International Journal of Service Industry
Management, 18 (1), 25-51.
9. Wen-Bao Lin (2012), The Determinants of
Consumers’ Switching Intentions after Service
Failure, Total Quality Management, Vol. 23, No.
7, July 2012, 837–854.
SUMMARY
THE EFFECT OF SOCIAL NORM ON CUSTOMER COMPLAINT BEHAVIOR
AND SWITCHING INTENTION
Pham Van Hanh*, Hoang Thi Hue
College of Economics and Business Administration - TNU
Understanding customer complaint behavior can help service firms reduce the risks of losing
current customers, improve service quality through receiving feedback from customer complaint.
This paper studies the effect of social norm on complaint behavior and negative word-of-mouth. It
also explains the reasons why angry customers do not complain in perspective of emotion
regulation behavior. The results showed that customers who perceive highly social pressure
engage more on emotion regulation and less complain to providers than those who perceive low
social pressure. However, customers who do not complain intend to switch service providers.
Key words: social norm, emotion regulation, complaint behavior, switching intention, complaint
intention
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Gấm – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 01234 292293, Email: [email protected]
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 91 - 95
96
Phạm Thị Ngọc Vân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 97 - 101
97
PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Phạm Thị Ngọc Vân*
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam đã được coi là giải pháp quan trọng trong việc giải
quyết nhu cầu bức xúc về việc làm trước mắt cho một bộ phận nguồn nhân lực trong nước, vì mục
tiêu xã hội: Xoá đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp. Không chỉ mang lại một nguồn thu nhập
cho người lao động, tạo ra nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước mà hoạt động xuất khẩu lao
động còn là công cụ để tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ tiên tiến nước ngoài, thông qua đó đào
tạo một đội ngũ lao động có chất lượng cao về chuyên môn, ngoại ngữ và tác phong lao động công
nghiệp, mang tính chiến lược trong quá trình phát triển & hội nhập kinh tế thế giới,.
Từ khóa: Lao động, Xuất khẩu lao động, Nguồn lao động, Việt Nam
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
VIỆT NAM*
Về số lượng
Xuất khẩu lao động Việt Nam là hoạt động
kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt
Nam ra nước ngoài theo hợp đồng có thời hạn,
phục vụ cho nhu cầu nhân công lao động của
doanh nghiệp nước ngoài. Hoạt động này bắt
đầu từ năm 1980 dưới hình thức hợp tác lao
động với các nước Xã hội chủ nghĩa.
Từ khi cơ chế thay đổi năm 1991, hoạt động
xuất khẩu lao động phát triển mạnh mẽ, mở
rộng thị trường ra nhiều quốc gia và vùng
lãnh thổ. Bước sang thế kỷ 21, có sự tăng đột
biến lượng lao động Việt Nam xuất khẩu sang
nước ngoài, nhiều nhất tại ba thị trường Đài
Loan, Malaysia và Hàn Quốc.
Tính đến 2011, Việt Nam có khoảng 500.000
lao động làm việc tại nước ngoài, trong đó
85.650 tại Đài Loan, giữ vị trí thứ 2 về tổng
số lao động nước ngoài tại Đài Loan.
Hiện nay Việt Nam đã đưa lao động làm việc
trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với trên 30
nhóm ngành khác nhau, thu nhập hàng năm
của người lao động khoảng 1,7-2 tỷ USD,
trong đó 2 thị trường được đánh giá là kỳ
vọng nhất sử dụng chủ yếu lao động công
nghiệp là Hàn Quốc hàng năm gửi về khoảng
700 triệu USD và Nhật Bản trên 300 triệu
USD. Một số thị trường mới được tiếp cận và
hợp tác thành công như Trung đông và UAE,
* Tel: 0906 066799, Email: [email protected]
Pháp, Úc, Mỹ…đều đã có những đoàn lao
động của Việt Nam đến làm việc.
Theo số liệu tổng hợp từ 58 tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương thì 4 tỉnh có trên 20
nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài; 10
tỉnh, thành phố có từ 5.000 đến 12.000 người,
16 tỉnh có từ trên 1.000 đến 4.000 và 2 tỉnh
chỉ có dưới 100 người là Lai Châu (72 người)
và Bà Rịa - Vũng Tàu (11 người). Lao động
các tỉnh, thành phố khu vực miền Bắc, miền
Trung chiếm 95%; phía Nam chiếm 5%. Đa
số ngành, nghề, việc làm theo yêu cầu của
nước ngoài thường đòi hỏi trình độ không cao
nên phù hợp với khả năng lao động nông thôn
Việt Nam như: xây dựng; giày da, may mặc;
giúp việc gia đình, chăm sóc người bệnh hoặc
người già yếu, tàn tật; nông nghiệp; lắp ráp
điện tử…
Về chất lượng
Hiện nay, nhà nước đã và đang có những
chính sách hỗ trợ về đào tạo nghề cho lao
động xuất khẩu như vốn vay ưu đãi cho một
số đối tượng người nghèo, vùng sâu vừng xa,
đối tượng chính sách, tới đây có thể nhà nước
tiếp tục xem xét các chính sách hỗ trợ cho các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho lao
động xuất khẩu, điều đó càng cho thấy mục
tiêu của nhà nước là nâng caochất lượng
nguồn lực đáp ứng cho nhu cầu cung ứng lao
động làm việc ở thị trường ngoài nước, cạnh
tranh với các quốc gia XKLĐ có cùng thị
trường với chúng ta.
Phạm Thị Ngọc Vân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 97 - 101
98
Bảng 1. Sô lương lao động xuất khẩu phân theo thị trường trọng điểm
Đơn vị tính: Người
TT
Năm
Tổng số
Nước tiếp nhận
Đài Loan Nhật Bản Hàn Quốc Malaysia Nước khác
1 2001 36.168 7.782 3.249 3.910 23 21.204
2 2002 46.122 13.191 2.202 1.190 19.965 9.574
3 2003 75.000 29.069 2.256 4.336 38.227 1.112
4 2004 67.447 37.144 2.752 4.779 14.567 8.205
5 2005 70.594 22.784 2.955 12.102 24.605 8.148
6 2006 78.855 14.127 5.360 10.577 37.941 10.850
7 2007 85.020 23.640 5.517 12.187 26.704 16.972
8 2008 87.000 33.000 5.800 16.000 7.800 24.400
9 2009 73.028 21.677 5.456 7.578 2.792 35.525
10 2010 85.546 28.499 4.913 8.628 11.741 31.765
Cộng 704.780 230.913 40.460 81.287 184.365 167.755
Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước
Bảng 2: Cơ cấu ngành nghề của lao động xuất khẩu
Đơn vị: %
Ngành nghề xuất khẩu lao động Cơ cấu theo thời kỳ
2000-2004 2005-2009
Số lao động đi làm việc ở nước ngoài 256.237 394.487
Trong đó (%) 100,00 100,00
- Nhà máy công nghiệp 53,58 56,62
- Xây dựng 18,32 22,92
- Nông, lâm nghiệp 2,93 1,78
- Giúp việc gia đình, khán hộ công 14,26 8,83
- Sỹ quan, thuyền viên 8,52 5,92
- Ngành nghề khác 2,39 3,93
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa vào sô liệu của Bộ LĐ, TB và XH
Cơ cấu lao động của Việt Nam theo trình độ
tay nghề thời gian qua có những chuyển biến
tích cực tăng cả về số lượng và tỷ lệ đối với
chuyên gia, lao động có tay nghề và giảm về
số lượng và tỷ lệ đối với lao động phổ thông,
điều này phản ánh xu hướng thay đổi cơ bản
trong XKLĐ của Việt Nam trong những năm
gần đây. Nếu xét cơ cấu lao động được đưa đi
làm việc ở nước ngoài năm 2003 và năm
2009 thì số lượng lao động phổ thông giảm từ
77.98% xuống còn 55,39%, trong khi lao
động đã qua đào tạo đã tăng từ 22,02% lên
44,61% trong khi đó đặc biệt là chuyên gia kỹ
thuật và lao động lành nghề tăng từ 2,44% lên
đến 12,49%.
Như vậy, thời gian qua từ chỗ chủ yếu XKLĐ phổ thông, tay nghề thấp. Chúng ta đã tăng dần số lượng cũng như tỷ lệ chuyên gia, lao động có chuyên môn kỹ thuật, góp phần chuyển dịch cơ cấu và chất lượng lao động xuất khẩu theo hướng tăng khả năng cạnh
tranh của lao động Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Cơ cấu lao động xuất khẩu theo ngành nghề
cũng có nhiều thay đổi theo ngành nghề và
những thay đổi này có lợi cho người lao
động. Lao động Việt Nam hiện nay làm việc
ở nước ngoài trong môi trường đa dạng với
30 nhóm nghề thuộc cả 4 khu vực: nông,
lâm, ngư nghiệp; công nghiệp; xây dựng và
dịch vụ. Cơ cấu ngành nghề được phản ánh
qua bảng 2.
Cơ cấu ngành nghề có sự chuyển dịch dần từ
khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp, giúp việc
gia đình là công việc nặng nhọc và cho thu
nhập thấp, nhiều rủi ro sang công việc ít rủi
ro, ổn định và thu nhập cao hơn đó là công
việc dịch vụ.
Hiệu quả kinh tế của lao động xuất khẩu
Hiệu quả kinh tế của người lao động khi đi làm việc ở nước ngoài phụ thuộc vào thu nhập bình quân và khả năng tích lũy theo từng thị trường như sau:
Phạm Thị Ngọc Vân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 97 - 101
99
Bảng 3: Thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động tại một sô thị trường
Đơn vị tính: USD
Nước Tiền lương
theo hợp đồng
Các khoản
đóng góp
Tiền thưởng,
làm thêm
Chi tiêu cho
bản thân
Tích lũy theo
tháng
Hàn Quốc 800-900 0 300 250 850-950
Nhật Bản 600-800 60-80 400 300 640-820
Đài Loan 600-800 40-60 300 200 660-840
Malaysia 160-250 30 100 100 130-220
Lào 150-200 30 70 50 140-190
Libya 200-400 20 150 100 230-430
Trung Đông 200-400 15 150 100 235-435
Đông Âu 400-600 30-50 400 300 470-650
Úc, Bắc Mỹ 2000-2500 200-250 200 500 1500-1950
Bình quân 660 54 228 211 623
Nguồn: Trung tâm lao động người nước ngoài thuộc Bộ Lao động TB & XH
HẠN CHẾ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
TRONG THỜI GIAN QUA
Hạn chế từ thị trường lao động: Thị trường
XKLĐ của nước ta thời gian qua phát triển
chưa ổn định, phụ thuộc vào nhiều biến động
của thị trường lao động nước ngoài. Thị
trường XKLĐ hiện nay còn hạn hẹp, đặc biệt
là thị trường có thu nhập cao, việc mở rộng các
thị trường tiềm năng đang gặp nhiều khó khăn
và có chiều hướng chững lại, công tác thông tin
và dự báo thị trường còn thiếu và yếu.
Hạn chế từ quản lý nhà nước về xuất khẩu lao
động: Quản lý nhà nước về xuất khẩu lao
động chưa theo kịp đòi hỏi của thực tế. Chúng
ta đang thiếu bộ máy quản lý đồng bộ, một cơ
chế quản lý hợp lý, bài bản và có hiệu qủa
nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia trong xuất khẩu lao
động và Nhà nước khi tham gia vào thị
trường lao động quốc tế.
Hạn chế từ quản lý lao động làm việc ở nước
ngoài: Tình hình lao động Việt Nam ở nước
ngoài đang rất phức tạp, lao động bỏ trốn ở
các thị trường trọng điểm chiếm tỷ trọng lớn
so với các nước xuất khẩu lao động khác, tỷ lệ
lao động phải về nước trước thời hạn còn cao so
với số lượng lao động đưa đi hàng năm, xuất
hiện các băng đảng tội phạm có lao động Việt
Nam tham gia, số vụ việc phức tạp liên quan
đến người lao động Việt Nam gia tăng.
Hạn chế từ nguồn lao động: Chất lượng lao
động của ta thấp, trình độ tay nghề, trình độ
ngoại ngữ còn nhiều hạn chế, sức cạnh tranh
và thu nhập của người lao động không cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao
của thị trường tiếp nhận lao động, đặc biệt là
thị trường có thu nhập cao. Một bộ phận lao
động xuất khẩu còn có tác phong, kỷ luật lao
động, ý thức chấp hành pháp luật tại nước sở
tại còn kém, vi phạm hợp đồng lao động, vi
phạm pháp luật đã làm ảnh hưởng đến khả
năng duy trì và phát triển thị trường lao động.
Hạn chế từ doanh nghiệp xuất khẩu lao động:
Đội ngũ doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam vừa
thiếu lại vừa yếu, thời gian qua chúng ta mới
chú trọng phát triển về số lượng mà thiếu sự
quan tâm về chất lượng, chưa là lực lượng xung
kích của hoạt động XKLĐ, chưa thực sự trở
thành “người bạn chí cốt” của người lao động,
chưa làm tròn sứ mệnh Nhà nước giao phó.
Hạn chế từ hiệu quả kinh tế – xã hội của xuất
khẩu lao động: Xuất khẩu lao động thời gian
qua tuy đã đạt được một số thành tựu nhất
định nhưng hiệu quả kinh tế do XKLĐ mang
lại còn thấp, ở thị trường có thu nhập cao như:
Hàn Quốc, Nhật Bản, Bắc Mỹ...
NNGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ TRONG
THỜI GIAN QUA
Thư nhất, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các
cơ quan quản lý nên việc ban hành và thực
hiện các chính sách, quy định hướng dẫn về
XKLĐ còn chậm so với yêu cầu phát triển đất
nước và thị trường lao động quốc tế.
Phạm Thị Ngọc Vân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 97 - 101
100
Thư hai, đầu tư của Nhà nước cho hoạt động
XKLĐ, nhất là đầu tư phát triển thị trường,
đầu tư cho doanh nghiệp XKLĐ, đào tạo
nguồn lao động xuất khẩu chất lượng cao
chưa được quan tâm đúng mức, chưa tương
xứng với mục tiêu nhiệm vụ và quy mô
XKLĐ và nhu cầu của thị trường ngoài nước.
Thư ba, quản lý nhà nước về xuất khẩu lao
động từ Trung ương đến địa phương chưa
chặt chẽ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của
xuất khẩu lao động theo cơ chế mới, chưa xử
lý nghiêm những vi phạm quy định của pháp
luật về xuất khẩu lao động. Công tác kiểm tra,
thanh tra nhằm phát hiện và xử lý các vi phạm
chưa thường xuyên và còn nhiều hạn chế.
Thư tư, thị trường lao động ngoài nước đang
có những thay đổi căn bản về nhu cầu, chất
lượng và cơ cấu lao động nhập khẩu dẫn đến
sự cạnh tranh hết sức gay gắt giữa các nước
XKLĐ, trong số đó có nhiều nước trong khu
vực có điều kiện tương đồng với nước ta như:
Trung Quốc, Thái Lan, Inđônexia, Philippin... là
những nước có nhiều năm kinh nghiệm về
XKLĐ, đã có quan hệ hợp tác lao động lâu dài
với một số nước tiếp cận lao động.
Thư năm, phần lớn lao động xuất khẩu có
chất lượng thấp, một bộ phận chưa ý thức
được về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia
XKLĐ, thiếu ý thức về danh dự và cộng
đồng, nhiều lao động còn thụ động trong việc
xác định nghề nghiệp và công việc.
Thư sáu, công tác thông tin, tuyên truyền về
XKLĐ còn nhiều hạn chế và bất cập, đơn
giản và sơ sài, chưa có sự phối hợp đồng bộ
và còn mang nặng tính hành chính và sự vụ,
thiếu những nội dung cụ thể hấp dẫn người
lao động và làm cho người lao động hiểu rõ
được mục đích của việc đi XKLĐ.
Thư bảy, chính sách hậu XKLĐ chưa tạo
được sự an tâm cho người lao động làm việc ở
nước ngoài cũng như phát huy hiện quả vốn, tay
nghề, kinh nghiệm của người lao động thu lượm
được trong thời gian ở nước ngoài.
GIAI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG
Giải pháp 1: giải pháp về thị trường xuất
khẩu lao động, Nhà nước và doanh nghiệp
xuất khẩu lao động phải chủ động mở rộng và
phát triển thị trương lao động, bằng cách thiết
lập các quan hệ chính thức về hợp tác lao
động với các quốc gia và vùng lãnh thổ có
nhu cầu tiếp nhân lao động Việt Nam, tranh
thủ vai trò của các tổ chức quốc tế để phát
triển thị trường XKLĐ.
Giải pháp 2: giải pháp về nguồn lao động,
trong đó Nhà nước chủ động nâng cao chất
lượng lao động xuất khẩu, tăng cường đào tạo
nghề, dạy ngoại ngữ và giáo dục định hướng,
nâng cao ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp, nhận thức về quan hệ chủ thợ, ý nghĩa
và mục đích đi làm việc ở nước ngoài của
người lao động, thường xuyên theo dõi sự rèn
luyện và tu dưỡng của người lao động trong
quá trình đào tạo.
Giải pháp 3: Quản lý và hỗ trợ của nhà nước
về xuất khẩu lao động thông qua việc hoàn
thiện bộ máy và cơ chế quản lý nhà nước về
xuất khẩu lao động, ban hành kịp thời các văn
bản pháp lý và điều chỉnh các nội dung của
các bộ luật khác có liên quan đến XKLĐ, hài
hòa hóa luật về XKLĐ của Việt Nam với luật
tiếp nhận lao động nước ngoài của các nước
nhập cư, tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra nhà nước về XKLĐ.
Tăng cường vai trò của hiệp hội xuất khẩu lao
động Việt nam, nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của hội viên.
Giải pháp 4: Quản lý người lao động làm việc
ở nước ngoài, quốc hội cần sớm phê duyệt
các công ước có liên quan đến XKLĐ, chính
phủ cần đàm phán với các nước có lao động
Việt Nam làm việc, để đi đến sự công nhận
tính pháp lý các văn phòng đại diện quản lý
lao động của doanh nghiệp XKLĐ và tạo điều
kiện cho doanh nghiệp trong việc thực hiện
quy định quản lý lao động ở nước ngoài.
Phạm Thị Ngọc Vân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 97 - 101
101
Các doanh nghiệp cần những cán bộ giỏi về
ngoại ngữ, có trình độ nghiệp vụ, có quan hệ
tốt với môi giới và chủ sử dụng lao động, có
tâm huyết với người lao động làm đại diện ở
nước ngoài.
Giải pháp 5: đối với doanh nghiệp và tổ chức
xuất khẩu lao động càng phải củng cố, xây
dựng đội ngũ doanh nghiệp mạnh, trụ cột
trong XKLĐ, nâng cấp doanh nghiệp thuộc
mức trung bình, các doanh nghiệp đang hoạt
động có kết quả tuy hiệu quả chưa cao, sắp xếp,
tổ chức lại các doanh nghiệp kém hiệu quả.
Giải pháp 6: Đảm bảo công tác thông tin,
tuyên truyền về XKLĐ, cần quán triệt các
phương tiện thông tin đại chúng thông tin
đúng, chọn lọc, đưa các điển hình đi làm việc
tại nước ngoài, tổ chức định kỳ các hội trợ
việc làm, hội trợ xuất khẩu lao động, sàn giao
dịch lao động, các hội thảo chuyên đề XKLĐ
để đưa thông tin đến được người lao động.
Giải pháp 7: vấn đề tài chính cho XKLĐ,
khuyến khích các doanh nghiệp giảm tiền phí
dịch vụ cho người lao động hoặc tạo điều kiện
để người lao động được khấu trừ dần từ thu
nhập khi ra nước ngoài làm việc.
Giải pháp 8: Về hậu XKLĐ, đối với người
lao động về nước trước hạn cần phân biệt
nguyên nhân về nước để có quy định hỗ trợ
cụ thể nhằm tạo điều kiện cho người lao động
sớm hòa nhập vào cộng đồng.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Bộ Chính trị, chỉ thị số 41-CT/TW (22/9/1998),
Về xuất khẩu lao động và chuyên gia.
2. Trường Đại học Lao động-Xã hội, (2005), Giáo
trình nguồn nhân lực, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội
3. Cục thông kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám
thống kê tỉnh Thái Nguyên 2010, Thái Nguyên
4. http://xuatkhaulaodong.wordpress.com
SUMMARY
DEVELOPING LABOR EXPORT IN VIETNAM
Pham Thi Ngoc Van*
College of Economics and Business Administration – TNU
Labor export activities in Vietnam was considered an important solution in addressing the pressing
needs for immediate employment for a human resources department in the country, because social
goals: alleviation poverty and reduce unemployment. Not only a source of income for workers,
creating a significant source of foreign exchange for the country where labor export activities are
also tools to receive the transfer of foreign advanced technology, through that training a workforce
with high quality professional language and behavior of industrial labor, strategic in the
development & integration of the world economy, while enhancing relationships between Vietnam
and the international community to raise a step management of the state and central agencies as
well as local authorities.
Keywords: labor, labor export, labor resources, Viet Nam
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:02/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Quang Hơp – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0906 066799, Email: [email protected]
Phạm Thị Ngọc Vân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 97 - 101
102
Tạ Thị Thanh Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 103 - 107
103
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHÁM CHỮA BỆNH
TẠI CÁC CƠ SỞ Y TẾ CÔNG LẬP TRỰC THUỘC SỞ Y TẾ
TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Tạ Thị Thanh Huyền*, Nguyễn Thị Phương Hoa Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Bài viết đã sử dụng các tài liệu, số liệu thứ cấp, phương pháp thống kê mô tả, phương pháp so sánh
nhằm đánh giá một cách toàn diện hoạt động khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập trực
thuộc Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên từ nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, ứng dụng kỹ thuật trong khám
chữa bệnh, tình hình tài chính, tình hình khám chữa bệnh.…, nhằm kiến nghị một số giải pháp tăng
cường hoạt động và giảm tải cho các cơ sở khám chữa bệnh thuộc Sở Y tế Thái Nguyên.
Từ khóa: Khám chữa bệnh, phòng khám, giường bệnh, Sở y tế Thái Nguyên, bệnh viện Thái Nguyên
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Hệ thống các cơ sở khám chữa bệnh (KCB)
thuộc Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên đã và đang
đóng góp tích cực vào việc cải thiện sức khoẻ
nhân dân trên địa bàn tỉnh. Một số chỉ số cơ
bản đạt ở mức cao hơn mục tiêu quốc gia đến
năm 2015 và 2020 như tỷ suất chết trẻ em
dưới 1 tuổi, tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ
lệ trẻ mới đẻ nặng dưới 2.500g, tỷ lệ chết
mẹ/100.000 trẻ đẻ ra sống.... Chỉ tiêu giường
bệnh hàng năm tại các bệnh viện thường vượt
kế hoạch, điều này cho thấy nhu cầu khám
chữa bệnh của người dân trong tỉnh rất cao,
nhiều bệnh viện luôn trong tình trạng quá tải,
một số bệnh viện quá tải trầm trọng. Câu hỏi
nghiên cứu đặt ra cho vấn đề này là: tình
trạng quá tải tại các bệnh viện công lập trực
thuộc Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên hiện nay như
thế nào?, phải chăng là do hoạt động KCB của
các cơ sở y tế này chưa tốt?... cần có những kiến
nghị gì nhằm tăng cường hoạt động cho các cơ
sở KCB thuộc Sở Y tế Thái Nguyên?
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhóm tác giả sử dụng cách tiếp cận từ trên
xuống và tiếp cận mở, nghĩa là phân tích một
cách toàn diện hoạt động của hệ thống cơ sở
KCB thuộc Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên từ cơ
sở vật chất, tình hình tài chính, trang thiết bị,
đầu tư cho con người… nhằm nghiên cứu,
đánh giá thực trạng hoạt động các cơ sở KCB
thuộc Sở Y tế Thái Nguyên.
* Tel:
Bài viết thu thập thông tin thứ cấp từ các
Nghị định, thông tư hướng dẫn của bộ Y tế,
báo cáo tài chính, báo cáo tình hình thực hiện
các nhiệm vụ chuyên môn, báo cáo đánh giá
thực hiện NĐ 43/NĐ - CP, các văn bản quản
lý của Sở Y tế Thái Nguyên từ năm 2010 đến
năm 2013. Sau đó, sử dụng các phương pháp
phân tích như phương pháp thống kê mô tả,
phương pháp so sánh nhằm đánh giá các kết
quả đạt được và những hạn chế của hệ thống
KCB thuộc Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên.
KẾT QUA NGHIÊN CỨU
Hệ thống các cơ sở KCB thuộc Sở Y tế Thái
Nguyên quản lý hiện nay, bao gồm 08 bệnh
viện tuyến tỉnh, trong đó có 03 bệnh viện đa
khoa là Bệnh viện A, bệnh viện C, bệnh viện
Gang thép và 05 bệnh viện chuyên khoa là
bệnh viện Y học cổ truyền, bệnh viện Lao và
bệnh phổi, bệnh viện Điều dưỡng và phục hồi
chức năng, bệnh viện Tâm thần, bệnh viện
Mắt và 01 Khu điều trị phong Phú Bình, cùng
09 bệnh viện đa khoa tuyến huyện, thành phố,
thị xã.
Nguồn nhân lực: Tổng số cán bộ viên chức
trong các bệnh viện là 2.593 người, trong đó
thạc sỹ là 23 người, bác sỹ chuyên khoa cấp I
là 185 người, bác sỹ chuyên khoa II là 22
người, bác sỹ và dược sỹ đại học là 343
người. Tỷ lệ phân bổ cán bộ, viên chức giữa
các bộ phận: lâm sàng chiếm 78,26%; cận
lâm sàng và dược 12,91%; quản lý, hành
chính 8,83%. Tỷ lệ phân bổ tương đối phù
hợp với qui định về định biên nhân lực Bộ
Tạ Thị Thanh Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 103 - 107
104
Nội vụ đã ban hành, đáp ứng được yêu cầu
các nhiệm vụ trọng tâm của các cơ sở KCB.
Cơ sở vật chất: từ nguồn ngân sách, nguồn
vốn trái phiếu Chính phủ và nguồn xã hội
hóa, các bệnh viện đã được trang bị đủ những
thiết bị y tế theo phân tuyến kỹ thuật của Bộ y
tế qui định, ngoài ra một số bệnh viện đa
khoa, chuyên khoa tuyến tỉnh còn được trang
bị thêm một số máy hiện đại như: Máy chụp
256 dãy, máy chụp CT Scanner, máy cộng
hưởng từ, máy siêu âm 4 chiều, hệ thống máy
nội soi phẫu thuật và chẩn đoán, máy xét
nghiệm sinh hóa tự động nhiều module, máy
định danh vi khuẩn, PCR, máy phẫu thuật mổ
pha co, máy xạ phẫu Gamma Knife, SPECT,
thiết bị dây truyền thụ tinh trong ống nghiệm...
Quy mô giường bệnh thuộc Sở Y tế Thái
Nguyên hiện nay là 2.795 giường bệnh đã
tăng 150 giường bệnh so với năm 2013,
không kể tuyến xã. Phân bố giường bệnh như
sau: tuyến tỉnh là 1.790 giường bệnh tại 3
bệnh viện đa khoa, 5 bệnh viện chuyên khoa
và khu điều trị phong; tuyến huyện là 1.005
giường bệnh tại 9 bệnh viện huyện, trong đó
có 60 giường tại 11 phòng khám đa khoa khu
vực. Các bệnh viện huyện thường có quy mô
nhỏ và trung bình từ 75-150 giường bệnh.
Số giường bệnh công/10.000 dân tăng từ 17,5
giường bệnh năm 2010 lên 20,9 giường bệnh
năm 2013. Nếu tính cả giường bệnh thuộc
tuyến trung ương, giường bệnh tư nhân, số
này tăng lên đến 29 giường bệnh/10.000 dân.
Trang thiết bị trong KCB: Các bệnh viện đa
khoa tuyến tỉnh đã ứng dụng các kỹ thuật cao
và chuyên sâu trong khám chữa bệnh như
chụp cắt lớp, phẫu thuật máu tụ trong sọ não
do chấn thương sọ não kín, kỹ thuật nội soi
trong lĩnh vực tai mũi họng, phụ khoa, tiết
niệu, phẫu thuật thoát vị đĩa đệm, gai đôi....
Các bệnh viện đa khoa huyện thực hiện thành
thạo các kỹ thuật như mổ cấp cứu ổ bụng,
chửa ngoài dạ con, cắt tử cung, truyền máu tại
chỗ, một số xét nghiệm chuyên khoa sâu và
không phải gửi lên tuyến trên, như Bệnh viện
C Thái Nguyên đã ứng dụng tốt dao Gamma
thế hệ 5 hiện đại nhất Việt Nam trong việc
chữa trị ung thư. Bệnh viện A Thái Nguyên
là 1 trong những bệnh viện vệ tinh của Bệnh
viện Phụ sản Trung ương và BV Bạch Mai.
Bệnh viện bắt đầu triển khai thụ tinh nhân tạo
bằng phương pháp lọc rửa tinh trùng và bơm
vào buồng tử cung (kỹ thuật IUI). Bệnh viện
đang từng bước đầu tư thiết bị, các phòng kỹ
thuật để triển khai kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm… Chất lượng khám chữa bệnh tại các
bệnh viện được nâng cao rõ rệt.
Khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền đã
được chú ý. Ngoài bệnh viện y học cổ truyền,
các bệnh viện đa khoa tỉnh đều có khoa y học
cổ truyền hoạt động tốt. Các bệnh viện đa
khoa huyện có khoa y học cổ truyền hoặc bộ
phận y học cổ truyền lồng ghép với khoa Nội,
nhi, lây hoặc khoa khám chữa bệnh. Hầu hết
các tuyến y tế xã có cán bộ y học cổ truyền
hoặc cán bộ y tế biết về thuốc nam, châm cứu,
đã có 66,5% các tuyến y tế xã thực hiện điều
trị bằng phương pháp y học cổ truyền. Tuy
nhiên, tỷ lệ tuyến y tế xã sử dụng thuốc y học
cổ truyền để khám chữa bệnh >20% còn rất
thấp chỉ đạt 10,3%.
Nhiều cơ sở khám chữa bệnh như Bệnh viện
C, bệnh viện Gang thép, bệnh viện y học cổ
truyền, Lao các bệnh viện huyện như Võ Nhai,
Đồng Hỷ, Đại từ, Phú Bình... đã ứng dụng hiệu
quả công nghệ thông tin trong quản lý.
Tình hình tài chính: Các bệnh viện thuộc Sở
Y tế Thái Nguyên duy trì các hoạt động khám
chữa bệnh chủ yếu dựa vào 02 nguồn thu
chính: ngân sách nhà nước cấp, viện phí và
Bảo hiểm y tế. Ngoài ra, nguồn viện trợ và
một số nguồn thu xã hội hóa khác do bệnh
viện triển khai theo cơ chế tự chủ tài chính
cũng góp phần đáng kể vào nguồn thu của các
Bệnh viện.
Nguồn kinh phí thường xuyên do NSNN cấp
hàng năm có tỷ trọng tăng nhưng chỉ là tăng
chi cho con người, nguồn kinh phí này chỉ
đáp ứng khoảng 30% nhu cầu của Bệnh viện
trong khi Bệnh viện luôn đối mặt với tình
trạng quá tải bệnh nhân. Chi cho giường bệnh
từ nguồn NSNN thấp. NSNN chủ yếu là chi
cho con người và các hoạt động phí, còn chi
cho bệnh nhân chủ yếu lấy từ nguồn thu viện
phí và BHYT thu được.
Tạ Thị Thanh Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 103 - 107
105
Bảng 01: Tổng hơp các nguồn thu của các cơ sở KCB thuộc Sở Y tế Thái Nguyên từ năm 2011 – 2013
ĐVT: Triệu đồng
STT Các chỉ tiêu
Năm
2011 2012 2013
Số tiền Tỷ trọng
(%) Số tiền
Tỷ trọng
(%) Số tiền
Tỷ trọng
(%)
1 NSNN cấp 104.810 36,98 112.590 28,40 145.050 32,95
2 Thu viện phí và
BHYT 168.687 59,52 264.668 66,75 274.546 62,37
3 Thu viện trợ 7.700 2,72 16.200 4,09 15.600 3,54
4 Thu khác 2.205 0,78 3.030 0,76 5.027 1,14
Tổng số 283.402 100 396.488 100 440.223 100
(Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính của Sở Y tế Thái Nguyên từ năm 2011 đến 2013)
Bảng 02: Công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở KCB thuộc Sở Y tế Thái Nguyên
Đơn vị KH năm 2013
(GB)
TH năm 2013
(GB)
Công suất
SDGB (%)
Số lượt người
điều trị nội trú
Số lượt khám
bệnh
Tuyến tỉnh 1.790 2.368 139,90 80.797 1.402.869
Tuyến huyện 1.005 1.552 154,42 79.964 683.129
Nguồn: Phòng Kế hoạch Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên năm 2013
Thực tế định mức kinh phí cấp trên giường
bệnh của các cơ sở KCB thấp, bệnh viện đa
khoa tuyến tỉnh, bệnh viện Lao, Tâm Thần,
khu điều trị phong, bệnh viện đa khoa huyện
Võ Nhai là 45 triệu đ/giường bệnh, các bệnh
viên chuyên khoa tuyến tỉnh và đa khoa tuyến
huyện là 44 triệu đ/giường bệnh, phòng khám
đa khoa khu vực là từ 30 triệu đến 35 triệu
đ/giường bệnh. Định mức trên tính theo tiền
lương tối thiểu 730.000 đồng, khi nhà nước
thay đổi chính sách tiền lương (hiện nay tiền
lương cơ sở là 1.150.000 đồng) thì đơn vị
phải dành 35% từ nguồn thu sau khi trừ các
yếu tố trực tiếp như: thuốc, máu, hóa chất,
dịch truyền, vật tư tiêu hao, vật tư thay thế để
tạo nguồn cải cách tiền lương, số còn thiếu
ngân sách nhà nước mới cấp bù.
Công tác KCB: Số lượt khám bệnh tại các
cơ sở y tế công đã tăng rõ rệt, từ trên 1,7 triệu
lượt khám trong các năm 2010 tăng lên trên
2,1 triệu vào các năm 2013 trong đó gần 50%
được thực hiện ở tuyến xã, khoảng 30% ở
tuyến huyện và trên 20% tại tuyến tỉnh. Bình
quân số lần khám bệnh/người/năm tăng từ
1,52 năm 2010 lên 1,94 năm 2013, tuy nhiên
vẫn thấp hơn so với trung bình của cả nước là
2,09 lần năm 2013.
Các bệnh viện thường thực hiện vượt
kế hoạch chỉ tiêu giường bệnh hàng năm.
Công suất sử dụng giường bệnh rất cao ở cả 2
tuyến tỉnh và huyện năm 2013 đạt 146,22%,
trong đó tuyến tỉnh: 139,90%; tuyến huyện:
154,42%. Đến 6 tháng đầu năm 2014, tỷ lệ
này tăng lên đến 171,8% (tuyến tỉnh:
172,38%; tuyến huyện: 171,22%); một số nơi
vượt quá 200% như Bệnh viện C, Bệnh viện
Lao và bệnh phổi, các bệnh viện đa khoa
huyện Đại Từ , Phổ Yên. Điều này cho thấy
nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân tại các
bệnh viện rất cao, các bệnh viện luôn trong
tình trạng quá tải, một số bệnh viện quá tải
trầm trọng.
Số ngày điều trị trung bình/1 bệnh nhân nội
trú tại Thái Nguyên cao hơn trung bình của cả
nước, năm 2013 là 9,97 ngày, cao hơn trung
bình của cả nước 2 ngày, năm 2012 là 9,8 ngày
cao hơn trung bình của cả nước 2,6 ngày.
BÀN LUẬN
Vấn đề lớn nhất cần giải quyết hiện nay là
tình trạng quá tải trầm trọng tại phần lớn các
bệnh viện. Một trong những nguyên nhân quá
tải là do quy mô các bệnh viện nhỏ, không đủ
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân
trong tỉnh. Vì vậy, nâng cấp và mở rộng quy
Tạ Thị Thanh Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 103 - 107
106
mô các bệnh viện tỉnh và huyện là những vấn
đề cần được giải quyết trong quy hoạch phát
triển y tế Thái Nguyên đến năm 2015 và các
năm tiếp theo.
Việc sử dụng phương pháp khám chữa bệnh
bằng y học cổ truyền còn hạn chế, tỷ lệ sử
dụng thuốc y học cổ truyền trong khám chữa
bệnh còn thấp, trong khi tỉnh Thái Nguyên là
địa phương có thế mạnh về dược liệu.
Nhu cầu khám chữa bệnh của người dân tăng
cao, cơ sở vật chất ở các cơ sở khám chữa
bệnh tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng
chưa đáp ứng được các nhu cầu cơ bản trong
khám chữa bệnh và chăm sóc cho bệnh nhân.
Mô hình bệnh tật thay đổi, các bệnh truyền
nhiễm diễn biến phức tạp, bệnh nhiễm trùng,
bệnh mạn tính tăng, dẫn đến tăng gánh nặng
và tăng chi phí y tế. Trong khi đó, nguồn
nhân lực cho hoạt động của ngành y tế còn
thiếu, đặc biệt là bác sỹ, dược sỹ đại học.
Thực tế hiện nay, các yếu tố cấu thành giá
dịch vụ y tế chưa bao gồm tiền lương, do đó
định mức kinh phí/đầu giường bệnh chỉ đủ
chi lương và các khoản phụ cấp theo lương,
không còn hoặc rất ít kinh phí để chi hoạt
động thường xuyên của đơn vị. Trong khi đó,
giá cả các dịch vụ công cộng tăng, chính sách
viện phí, bảo hiểm y tế đang trong lộ trình đổi
mới. Giá dịch vụ y tế hiện nay mới chỉ bao
gồm 3/7 yếu tố cấu thành nên bao gồm: (1)
tiền thuốc, hóa chất, vật tư tiêu hao, vật tư
thay thế để thực hiện dịch vụ; (2) tiền điện,
nước, nhiên liệu, xử lý chất thải, vệ sinh môi
trường trực tiếp để thực hiện dịch vụ; (3) duy
tu bảo dưỡng thiết bị, mua, thay thế công cụ
dụng cụ trực tiếp để thực hiện các dịch vụ, mà
chưa tính thêm 4 yếu tố còn lại là (1) chi phí
về tiền lương, chi phí nhân công thuê ngoài;
(2) khấu hao tài sản cố định; (3) chi phí chi
trả lãi tiền vay theo các hợp đồng vay vốn huy
động vốn để đầu tư, mua sắm trang thiết bị để
thực hiện dịch vụ; (4) chi phí gián tiếp như
các chi phí hợp pháp để vận hành, bảo đảm
hoạt động bình thường của Bệnh viện và chi
phí đào tạo, nghiên cứu khoa học để ứng dụng
các kỹ thuật mới. Do đó giá thu dịch vụ y tế
hiện nay vẫn chưa đủ chi nên ngân sách nhà
nước vẫn phải cấp bù.
KẾT LUẬN
Mặc dù các cơ sở KCB trực thuộc Sở Y tế
Thái Nguyên đã được đầu tư khá lớn về trang
thiết bị, đội ngũ y bác sỹ đảm bảo. Tuy nhiên,
quy mô các bệnh viện nhỏ, cơ sở hạ tầng của
các bệnh viện còn hạn chế, chỉ tiêu giường
bệnh hàng năm thường vượt kế hoạch, công
suất sử dụng giường bệnh rất cao. Nguyên
nhân sâu xa của tình trạng quá tải tại bệnh
nhân tại các bệnh viện hiện nay là do ngành y
tế nói chung và Sở Y tế Thái Nguyên nói
riêng chưa tính đủ các yếu tố cấu thành giá
dịch vụ y tế, trong khi ngân sách nhà nước
mới chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu của các
Bệnh viện, dẫn đến đầu tư chưa thỏa đáng cho
hoạt động KCB tại các bênh viện.
KIẾN NGHỊ
Về tổ chức quản lý thực hiện đề án giảm tải
của Bộ y tế, thành lập các bệnh viện vệ tinh
của các bệnh viện đầu ngành Trung ương,
tăng cường thực hiện đề án số 1816 của Bộ Y
tế để phát triển nguồn lực tại chỗ.
Cần tăng định mức chi cho công tác khám
chữa bệnh để đơn vị có điều kiện nâng cấp cơ
sở vật chất, trang thiết bị y tế, cụ thể như sau:
tăng định mức kinh phí/giường bệnh lên 85
triệu đ/giường bệnh; tăng định mức kinh
phí/giường bệnh tại các phòng khám đa khoa
khu vực từ 70 triệu đến 80 triệu đ/giường
bệnh; Các bệnh viện chuyên khoa đặc thù như
Bệnh viện Tâm Thần, Bệnh viện Lao, khu
điều trị phong Phú Bình cần được tính theo
loại hình đơn vị được nhà nước đảm bảo toàn
bộ chi phí hoạt động hoặc thực hiện theo đơn
đặt hàng của nhà nước.
Tiến tới tính đúng, tính đủ các chi phí cấu
thành giá dịch vụ y tế (đủ 7/7 yếu tố).
Cần thay đổi chính sách tạo nguồn cải cách
tiền lương từ nguồn thu giá dịch vụ y tế.
Cần đẩy mạnh xã hội hóa công tác y tế, như:
phát triển Bảo hiểm y tế toàn dân về cả chiều
rộng và chiều sâu; tăng cường liên doanh, liên
kết, mở rộng các loại hình dịch vụ y tế; thực
hiện phát triển nguồn nhân lực tại chỗ.
Tạ Thị Thanh Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 103 - 107
107
TÀI LIỆU THAM KHAO 1. Nguyễn Thị Kim Chúc (2011), Báo cáo chuyên
đề: Kinh tế y tế và ưng dụng trong quản lý tài
chính bệnh viện, Dự án hỗ trơ đổi mới hệ thông y
tế Việt Nam, Bộ Y Tế, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Phương Hoa (2013), Thực hiện
quyền tự chủ trong quản lý tài chính tại các bệnh
viện công lập thuộc Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên,
Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Đại học Thái Nguyên.
3. Vũ Xuân Phú (2008), Giáo trình Kinh tế Y tế,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
4. Ngành Y tế tỉnh Thái Nguyên (2013), Đánh giá
tình hình thực hiện nghị định 43 giai đoạn 2011-
2013 và phương án tự chủ về tài chính giai đoạn
2014-2016.
5. Ngành Y tế tỉnh Thái Nguyên (2013), Báo cáo
tổng kết 2011, 2012, 2013.
SUMMARY
CURRENT SITUATION OF HEALTH CARE IN PUBLIC HEALTH FACILITIES
UNDER THE DEPARTMENT OF HEALTH
OF THAI NGUYEN AND PROPOSE SOLUTIONS
Ta Thi Thanh Huyen*, Nguyen Thi Phuong Hoa College of Economics and Business Administration – TNU
The article uses material, secondary data, descriptive statistical method, comparative method to
evaluate a comprehensive health care activities in the public health facilities under ThaiNguyen
province Health Department from human resources, infrastructure, engineering applications in the
medical, financial status, medical status. ..., to propose some solutions to enhance operations and
reduce the load for the clinics of the Department of Health ThaiNguyen.
Keywords: Medical Treatment, clinic, hospital beds, Department of Health in ThaiNguyen,
ThaiNguyen hospital
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:04/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Hồng Hải – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel:
Tạ Thị Thanh Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 103 - 107
108
Nguyễn Thị Phương Hảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 109 - 114
109
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH 135 TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI Ở HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Phương Hảo* Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Chính phủ Việt Nam luôn coi giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt quá trình đổi mới của nền kinh tế
nước nhà. Để thực hiện mục tiêu này đã có rất nhiều chương trình, chính sách, giải pháp được đưa
ra, nhiều chương trình mục tiêu quốc gia đã, đang và sẽ được tiếp tục đẩy mạnh thực hiện. Võ
Nhai là huyện còn nhiều xã đặc biệt khó khăn về kinh tế và đói nghèo lại tập trung chính ở các xã
này. Vì lẽ đó, chỉ có phát triển kinh tế ở các xã đặc biệt khó khăn này, đưa các xã này cùng hòa
nhập với sự phát triển chung của các địa phương khác thì mới có thể thực hiện thành công chương
trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo. Điều này đã trở thành lý do cho chương trình 135 -
phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn tại Võ Nhai ra đời. Bài viết này đề cập đến kết
quả thực hiện chương trình 135 trong phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh
Thái Nguyên.
Từ khóa: Chương trình 135, Kinh tế - Xã hội, Giải pháp, Giảm nghèo, Võ Nhai.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Võ Nhai là một huyện vùng cao của tỉnh Thái
Nguyên và cũng là huyện khó khăn nhất của
Tỉnh. Chính vì vậy, đây là nơi được thụ
hưởng nhiều chính sách ưu đãi của Chính phủ
để phát triển kinh tế xã hội, đưa nền kinh tế
của huyện đi lên cùng các huyện khác trong
tỉnh. Từ năm 1999 chương trình 135 được áp
dụng tại huyện đến nay đã được 15 năm.
Trong thời gian gần đây bộ mặt kinh tế xã hội
của huyện đã có nhiều thay đổi đáng kể, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
từng bước cải thiện, cơ sở hạ tầng đã có nhiều
bước phát triển… có được điều này thì đóng
góp của chương trình 135 là không nhỏ. Tuy
nhiên bên cạnh những thành công thì chương
trình vẫn còn có những vấn đề cần lưu ý quan
tâm và cần có biện pháp để nâng cao hiệu quả
sử dụng chương trình. Trên cơ sở đó, bài viết
này tập trung đề cập đến vấn đề tình hình thực
hiện chương trình 135 ở huyện Võ Nhai với
mong muốn có cái nhìn tổng thể về những
đóng góp của chương trình đến phát triển
kinh tế xã hội của Huyện và về tình hình giảm
nghèo trên địa bàn nghiên cứu.
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VA NGHIÊN CỨU
Cách cách tiếp cận như tiếp cận theo vùng,
tiếp cận theo tình trạng kinh tế hộ, tiếp cận
* Tel: 0913 079111, Email: [email protected]
theo đầu tư công và tư, tiếp cận từ dưới lên,
tiếp cận có sự tham gia... được vận dụng trong
nghiên cứu để đánh giá những kết quả đạt
được trong phát triển kinh tế xã hội và tình
hình giảm nghèo trên địa bàn huyện Võ Nhai
do chương trình 135 đem lại.
Các số liệu sử dụng trong nghiên cứu là các
số liệu thứ cấp được thu thập từ các văn bản
báo cáo, sách, tạp chí, mạng internet và các
tài liệu văn bản khác liên quan đến vấn đề
nghiên cứu. Nghiên cứu sử dụng phương
pháp thống kê mô tả, thống kê so sánh, thống
kê phân tổ để tổng hợp và phân tích số liệu
đánh giá đặc điểm địa bàn nghiên cứu và kết
quả thực hiện chương trình 135 trong phát
triển kinh tế xã hội tại địa phương.
KẾT QUA NGHIÊN CỨU VA THAO LUẬN
Những thuận lợi và khó khăn của huyện
Võ Nhai khi thực hiện chương trình 135
Dân cư ở các xã đặc biệt khó khăn phần lớn là
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và gắn bó lâu dài. Mỗi dân tộc có những phong tục tập
quán khác nhau nhưng các dân tộc có tinh thần đoàn kết phấn đấu xây dựng quê hương
đất nước, góp sức cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp đổi mới cuộc sống của
chính mình. Nhân dân tin tưởng vào chính sách của Đảng và đường lối lãnh đạo của nhà
nước, nên khi triển khai thực hiện được sự
Nguyễn Thị Phương Hảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 109 - 114
110
ủng hộ đồng tình của nhân dân rất cao. Đây là một thuận lợi lớn cho những người thực hiện
chương trình trong việc tuyên truyền ý nghĩa thực hiện các nội dung của chương trình đồng
thời lôi kéo đồng bào cùng tham gia thực hiện chương trình, đội ngũ cán bộ thực hiện từ
huyện đến xã đoàn kết, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Bên
cạnh những thuận lợi trên, Võ Nhai cũng gặp phải không ít khó khăn khi thực hiện chương
trình 135 đó là: Đặc điểm địa hình của huyện gây nhiều khó khăn cho việc phát triển kết
cấu hạ tầng ở một số địa phương trong địa bàn (nhất là các xã thuộc tiểu vùng II và III),
dẫn đến hạn chế khả năng thu hút đầu tư đối với các địa bàn khó tiếp cận và gây ra sự
chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng. Có sự chênh lệnh lớn về trình độ dân trí
giữa các vùng trong huyện, giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng trung du, thị trấn với
các vùng sâu, vùng xa. Việc tồn tại nhiều dân tộc với nhiều phong tục tập quán khác nhau
cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề dân tộc và xã hội gay gắt. Hiệu lực chỉ đạo, điều hành của
các ngành chuyên môn của huyện, của các xã, thị trấn còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, việc
tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, dự án còn chậm, thiếu cụ thể; đội ngũ cán bộ
quản lý, nhất là ở cấp xã vừa thiếu và vừa yếu về trình độ, năng lực, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của Võ Nhai.
Thuận lợi thì ít khó khăn lại nhiều điều này
đặt ra không ít thách thức cho những người thực hiện chương trình trên địa bàn huyện.
Nhưng với quyết tâm của mình nhân dân các dân tộc cùng các ngành các cấp trong huyện
đã cùng nhau nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt mục tiêu của chương trình mà Đảng và Nhà
nước đã đề ra.
Kết quả đạt được trong phát triển KTXH
của huyện Võ Nhai từ chương trình 135
Theo Quyết định số 2405/QĐ-TTg ngày
10/12/2013, tính đến năm 2015, Võ Nhai có
13 xã đặc biệt khó khăn thuộc diện đầu tư của
chương trình 135 gồm các xã: Dân Tiến, Lâu
Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá, Bình Long,
Cúc Đường, Liên Minh, Nghinh Tường,
Phương Giao, Sảng Mộc, Thần Sa, Thượng
Nung và Vũ Chấn. Trong những năm qua,
Chương trình 135 đã được các cấp ủy Đảng,
chính quyền ở huyện Võ Nhai quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện đã giúp cho bộ mặt
kinh tế - xã hội trên địa bàn Huyện có bước
phát triển nhanh hơn.
Về phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của huyện
Đối với phát triển kinh tế: GDP của huyện
tăng qua các năm với tốc độ tăng bình quân là
25,82%. Năm 2006 với mức đầu tư từ dự án
là 11,193 tỷ đồng thì GDP của huyện là
270,508 tỷ đồng, đến năm 2007 vốn đầu tư từ
dự án là 170,036 tỷ đồng thì GDP của huyện
là 333,85 tỷ đồng tăng 23.42% so với năm
2006; năm 2008 vốn đầu tư từ dự án là 17,181
tỷ đồng thì GDP của huyện là 439,393 tỷ
đồng tăng 31,61% so với năm 2007; đến năm
2009 vốn đầu tư từ dự án là 13,331 tỷ đồng
thì GDP của huyện tăng 538,784 tỷ đồng tăng
22,62% so với năm 2008. Tốc độ phát triển
bình quân đạt 106%.
Như vậy có thể thấy vốn đầu tư từ chương
trình 135 có mối quan hệ tỷ lệ thuận với GDP
của huyện, vốn đầu tư từ dự án tăng thì giá trị
tổng sản phẩm của huyện cũng tăng theo vì
vậy trong thời gian tới cần có chính sách để
nâng cao hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ dự
án từ đó phát triển kinh tế huyện một cách
nhanh chóng và bền vững, bắt kịp các địa
phương phát triển khác trong tỉnh.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: cơ cấu
ngành kinh tế có sự chuyển dịch dần theo
hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ,
trong đó chuyển dịch mạnh nhất vẫn là ngành
công nghiệp. Tỷ trọng ngành công nghiệp
trong GDP toàn ngành kinh tế là 43,6%;
ngành nông nghiệp là 38,3% và ngành dịch
vụ là 18,1%.
Chuyển dịch cơ cấu vùng: Theo kết quả thống
kê của Ban quản lý các dự án chương trình
135 huyện Võ Nhai về các xã hưởng trực tiếp
từ dự án bao gồm 13 xã. Kết quả cho thấy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng đã đạt
được ở mức cao, các chỉ tiêu thực hiện hầu
hết vượt so với kế hoạch. Tỷ trọng GDP của
các xã 135 trong tổng GDP năm 2012 là
53,17% đạt 126,085% so với kế hoạch, năm
2013 là 65,17% đạt 120,663% KH.
Nguyễn Thị Phương Hảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 109 - 114
111
Bảng 01: Vôn đầu tư từ chương trình 135 và Giá trị sản phẩm của huyện Võ Nhai
ĐVT: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm
2011
Năm
2012
Năm
2013
Tốc độ phát triển (%)
2012/2011 2013/2012 BQ
Vốn đầu tư từ dự án 17.036 17.181 13.331 100.85 77.59 88.45
GO huyện 333.85 439.393 538.784 131.61 122.62 125.82
- Công nghiệp 128.53 176.285 234.91 137.15 133.26 133.28
- Nông nghiệp 144.89 180.854 206.354 124.82 114.10 119.57
- Dịch vụ 60.43 82.254 97.52 136.11 118.56 124.46
(Nguồn: BQL các dự án chương trình 135 huyện Võ Nhai)
Biểu đồ 01: Cơ cấu kinh tế theo vùng của huyện Võ Nhai
Bảng 02 phản ánh kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các xã thực hiện chương trình 135 trên
địa bàn nghiên cứu. Bảng số liệu cho thấy sự đóng góp không nhỏ của chương trình 135 vào việc
hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của huyện Võ Nhai qua các năm. Tỷ lệ hộ nghèo đều
giảm vượt kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được những kết quả đáng phấn khởi,
hầu hết chỉ tiêu này đều tăng qua các năm. Chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên,
thu nhập bình quân đầu người tăng qua các năm. Chỉ tiêu giảm tỷ suất sinh thô qua các năm hầu
như đều chưa đạt kế hoạch đề ra vì trình độ dân trí còn thấp, công tác tuyên truyền về pháp lệnh
dân số, các biện pháp tránh thai tới người dân chưa đáp ứng nhu cầu thực tế vì địa hình phức tạp,
kinh phí dành cho chương trình còn quá ít. Hầu hết các chỉ tiêu về sử dụng điện lưới, tỷ lệ trẻ em
đi học,… đều đạt kế hoạch đề ra.
Bảng 02: Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các xã thực hiện chương trình 135
Chỉ tiêu
Năm 2012 Năm 2013
KH TH TH/KH
(%) KH TH
TH/KH
(%)
Tỷ trọng trong tổng GDP huyện (%) 42.17 53.17 126.08 54.01 65.17 120.66
Tỷ lệ CNH nông thôn (%) 35 39.3 112.29 40.1 40.5 100.99
Số hộ sử dụng máy móc vào sản xuất (hộ) 1907 2149 112.69 2430 2672 109.95
(Nguồn: BQL các dự án chương trình 135 huyện Võ Nhai)
Nguyễn Thị Phương Hảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 109 - 114
112
Về thực hiện các mục tiêu của chương trình 135
Bảng 03: Tình hình thực hiện các mục tiêu của chương trình 135 tại Võ Nhai
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2012 Năm 2013
KH TH TH/KH(%) KH TH TH/KH(%)
1.Giảm tỷ lệ hộ nghèo % 39.04 31.18 79.87 26.18 25.2 96.26
2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế % 13 13.26 102.00 13 12.6 96.92
3. Thu nhập BQ/đầu người Tr.đ 5.3 6.739 127.15 8.383 8.425 100.50
4. Số hộ có điện lưới quốc gia % 83.8 82.8 98.81 86.8 84 96.77
5. Số hộ được sử dụng nước
hợp vệ sinh % 73.49 73 99.33 74.5 75 100.67
6. Giảm tỷ suất sinh thô %o 0.3 0.25 - 0.3 +1.14 -
8. Tỷ lệ đi học ở cấp tiểu học % 99 99.1 100.10 100 100 100.00
9. Tỷ lệ đi học ở cấp trung học
cơ sở % 82 81.5 99.39 83 83.4 100.48
10. Số xã ĐBKK được hỗ trợ
tư pháp % 100 100 100.00 100 100 100.00
11. Số xã có đường ô tô đến
trung TT xã 15 15 100.00 15 15 100.00
(Nguồn: BQL các dự án chương trình 135 huyện Võ Nhai)
Biểu đồ 02: Cơ cấu các loại công trình đầu tư trên địa bàn huyện Võ Nhai
Về kết quả thực hiện các dự án trong
chương trình 135
Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng: Đây là dự án
quan trọng trong chương trình 135, Võ Nhai
là huyện đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên được
thụ hưởng chương trình từ năm 1999 do vậy
toàn bộ vốn chương trình 135 của tỉnh (4.635
triệu đồng) được dùng để đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng tại 13 xã đặc biệt khó khăn của
huyện. Loại công trình được chủ yếu đầu tư
xây dựng là trường học chiếm 51,02%, tiếp
đó là thủy lợi chiếm 22,45%, giao thông
chiếm 12,24%, trạm y tế chiếm 10,30%, còn
lại là chợ với 4,08%.
Dự án phát triển sản xuất: Đây là dự án bắt đầu thực hiện từ năm 2007, nội dung chủ yếu
dự án bao gồm hỗ trợ các hoạt động khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công; hỗ trợ xây
dựng và phổ biến nhân rộng các mô hình sản xuất mới; hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, vật
tư sản xuất; hỗ trợ mua sắm trang thiết bị,
máy móc, công cụ chế biến bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Trên cơ sở mục đích đó
đã tiến hành hỗ trợ với tổng số vốn là 15,890 triệu đồng, trong đó cụ thể đã xây dựng được
02 mô hình sản xuất; cung ứng được 2.180.280 cây giống lâu năm và chè, 3.915
con giống vật nuôi, 1.437 bộ máy nông nghiệp phục vụ sản xuất và chế biến.
Dự án đào tạo xây dựng năng lực: Với dự án
này Ủy ban dân tộc miền núi đã chủ trì, phối
hợp với các bộ ngành biên soạn tài liệu tổ
chức tập huấn ở các vùng cho đội ngũ ban chỉ
đạo chương trình của tỉnh, ban quản lý dự án
của huyện; cán bộ chuyên trách về đào tạo
của tỉnh, huyện và cán bộ chủ chốt, cán bộ
chuyên môn, trưởng các đoàn thể ở xã và các
hộ dân được thụ hưởng chương trình 135.
Nhằm nâng cao nhận thức về công tác tổ
chức, thực hiện; đào tạo kiến thức và kỹ năng
kỹ thuật cơ bản và đào tạo nghề cho các đối
tượng tham gia.
12,24%
22,45%
51,02%
4,08%10,20%
Giao thông
Thủy lợi
Trường học
Chợ
Trạm y tế
Nguyễn Thị Phương Hảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 109 - 114
113
Bảng 04: Kết quả thực hiện dự án bồi dưỡng, nâng cao năng lực
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2011 Năm 2012
Năm
2013
KH TH TH/KH(%) KH TH TH/KH(%) TH
1. Số lớp tập huấn Lớp 29 29 100.00 29 29 100.00 24
2. Số lượt người được
đào tạo, bồi dưỡng Người 2715 2023 74.51 2750 2503 91.02 2150
3. Số kinh phí thực
hiện chương trình Tr.đ 730 727.65 99.68 820 813.43 99.20 565
(Nguồn: BQL các dự án chương trình 135 huyện Võ Nhai)
Dự án cải thiện đời sông: Dự án cải thiện đời sống là dự án được thực hiện từ đầu năm 2008; với 4 nội dung gồm: hỗ trợ cho học sinh nghèo, hỗ trợ cải thiện vệ sinh môi trường, hỗ trợ hoạt động văn hóa và trợ giúp pháp lý. Dự án được thực hiện trên phạm vi 13 xã đặc biệt khó khăn với tổng số vốn thực hiện từ năm 2008 đến nay là 2755,38 triệu đồng. Nguồn vốn thực hiện dự án này là hoàn toàn từ ngân sách nhà nước vì đây đều là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống điều kiện kinh tế rất khó khăn, số tiền họ có thể tham gia vào các hoạt động trên là rất ít hoặc không có. Dự án này được thể hiện ở các kết quả: năm 2013 có 1373 em học sinh được hỗ trợ với số tiền 512, 68 triệu đồng; 100% các hộ được hỗ trợ cải thiện nước sạch; 177 xóm được hỗ trợ hoạt động văn hóa và trợ giúp pháp lý với tổng số tiền hỗ trợ 159,5 triệu đồng.
Những kết quả đạt được về văn hóa xã hội
Công tác giáo dục - đào tạo và dạy nghề phát triển cả về quy mô và chất lượng, các loại hình giáo dục đào tạo từng bước được xã hội hóa và đa dạng. Mạng lưới trường, lớp cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của con em các dân tộc trong huyện. Năm học 2012 - 2013 toàn huyện có 64 trường với 17.033 học sinh. Tỷ lệ huy động học sinh đến lớp trong độ tuổi ở các cấp học, bậc học hàng năm đều tăng, tỷ lệ học sinh lên lớp, tốt nghiệp đạt cao. Trước năm 2005 là 95% tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đi học, đến năm 2013 là 98%. Cơ sở vật chất được từng bước hoàn thiện, huyện đã đạt và giữ vững chuẩn giáo dục phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập THCS, đến năm 2013 toàn huyện có 09 trường đạt trường chuẩn quốc gia.
Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân được quan tâm ngay từ tuyến cơ sở. 100% số trạm y tế có bác sỹ, toàn huyện có 155 giường bệnh, có 10 xã đạt chuẩn quốc
gia về y tế. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm, mức giảm tỷ suất sinh thô bình quân hàng năm đạt 0,5%.
Chất lượng của các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, truyền thanh - truyền hình được nâng lên rõ rệt. Năm 2013 toàn huyện có 72% số gia đình đạt gia đình văn hóa, 85% cơ quan, làng bản văn hóa, 100% số xã có điểm bưu điện văn hóa xã.
Đánh giá chung những kết quả đạt được của chương trình 135
Với những khó khăn mà đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn nói riêng và của người dân trong huyện nói chung đang gặp phải thì chương trình 135 đến với huyện Võ Nhai có vai trò cực kỳ quan trọng để khơi dậy sự phát triển kinh tế xã hội của bà con dân tộc huyện nhà. Thực hiện chương trình sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội trong từng xã, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân, nâng cao mức sống của đồng bào địa phương. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường giao thông ở các xã sẽ giúp đồng bào giao lưu kinh tế với các vùng khác nhau trong huyện, trong tỉnh, giải quyết việc làm tăng thêm thu nhập từ các việc làm mới... Từ đây sẽ đưa hộ gia đình ra khỏi đói nghèo, đưa xã ra khỏi kém phát triển góp phần phát triển nền kinh tế huyện nhà song hành cùng các huyện khác trong tỉnh.
135 là chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn giúp các xã thoát nghèo, thực hiện không phải vì mục tiêu lợi nhuận. Chính vì vậy, để đánh giá hiệu quả của chương trình mang lại nghiên cứu này không dùng các chỉ tiêu lợi nhuận mà chỉ đánh giá thông qua các tác động của chương trình đến phát triển kinh tế xã hội của huyện về mặt kinh tế, xã hội, môi trường thông qua các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế, mức sống
Nguyễn Thị Phương Hảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 109 - 114
114
dân cư, giảm tỷ lệ hộ nghèo, trình độ dân trí để thấy được đóng góp của chương trình đến kinh tế xã hội của huyện.
Chương trình 135 tại huyện Võ Nhai đã mang
lại kết quả đáng khích lệ, đạt được các mục
tiêu mà chương trình đề ra, các kết quả to lớn
đạt được trong phát triển kinh tế xã hội của
huyện bám sát theo các mục tiêu ban đầu mà
chương trình đặt ra. Đến hết năm 2013 các
tiêu chí trong chương trình gần như đã được
hoàn thành cơ bản. Sau 15 năm thực hiện
chương trình, những nội dung trong chương
trình 135 trên địa bàn huyện đã góp phần
không nhỏ đến sự phát triển kinh tế của địa
bàn nghiên cứu.
Trước đây giao thông đi lại giữa các vùng của
huyện Võ Nhai rất khó khăn, nhưng từ khi
thực hiện chương trình 135 giao thông không
còn là nỗi lo của cán bộ và nhân dân các dân
tộc trên địa bàn huyện. với 2 công trình cầu
tràn, 36 km đường nhựa và cấp phối đã thực
hiện trong giai đoạn II đã góp phần làm chất
lượng giao thông trên địa bàn huyện được
nâng lên. Năm 2009 có 74,8% hộ gia đình có
điện lưới quốc gia, đến năm 2013 tỷ lệ này là
84%. Tỷ lệ hộ nghèo năm 209 là 46,53% đến
năm 2013 là 25,2%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng tích cực, giá trị sản
phẩm ngành công nghiệp và dịch vụ tăng cao
hơn so với ngành nông lâm nghiệp. Các
ngành dịch vụ có bước phát triển tích cực đáp
ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân.
KẾT LUẬN
Với mục tiêu là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa tạo điều kiện để nông thôn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. Chương trình 135 đã thực sự trở thành chương trình mang ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo của nước nhà nói chung và của huyện vùng cao Võ Nhai nói riêng. Để thực hiện hoàn thành các chương trình, dự án theo kế hoạch đề ra trong Chương trình 135, huyện Võ Nhai sẽ tiếp tục củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo Chương trình 135 ở các cấp; tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nội dung của Chương trình. Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các ngành hữu quan, tăng cường tuyên truyền giáo dục, động viên đồng bào các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, đoàn kết xóm, ấp để vươn lên trong phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo.
TAI LIỆU THAM KHAO
1. Ban Quản lý các dự án chương trình 135
(2010), Báo cáo tổng kết thực hiện chương trình
135 huyện Võ Nhai giai đoạn 2005 - 2010.
2. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên (2013), Niên
giám thông kê tỉnh Thái Nguyên 2013.
3. Phòng Thống kê huyện Võ Nhai (2013), Niên
giám thông kê huyện Võ Nhai 2013.
4. UBND huyện Võ Nhai (2013), Báo cáo tổng kết
tình hình KTXH huyện Võ Nhai 2013.
5. UBND huyện Võ Nhai (2010), Dự án quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của huyện
Võ Nhai đến năm 2020.
SUMMARY
RESULTS OF 135 PROGRAM IN VO NHAI DISTRIC
OF THAI NGUYEN PROVINCE
Nguyen Thi Phuong Hao* College of Economics and Administration – TNU
Poverty reduction is considered to be the target of process innovation economy of Viet Nam. To
accomplish this goal, so many programs, policies and solutions are given. Vo Nhai has many
specially difficult communes which is invested of 135 program. This article mentions to results of
135 program in Vo Nhai distric to have overview of the program's contribution to socio-economic
development of the district.
Keywords: 135 program, economy - society, solution, poverty reduction, Vo Nhai
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:03/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Anh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0913 079111, Email: [email protected]
Ngô Thị Tân Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 115 - 118
115
BÀN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Ngô Thị Tân Hương*, Phạm Thị Nga, Đào Thị Tân
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trong xã hội hiện nay, có không ít quan điểm cho rằng, đã thực hiện mô hình kinh tế thị trường
(KTTT) là thực hiện con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN) chứ không thể là định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) và hoang mang về sự định hướng này là không tưởng. Trong phạm vi bài viết,
chúng tôi luận giải về tính hợp lý, hiện thực của mô hình này và chỉ ra một số vấn đề nảy sinh cần
khắc phục trong quá trình thực hiện.
Từ khóa: kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG*
Cho đến nay, lịch sử loài người đã thực hiện
hai kiểu tổ chức sản xuất là sản xuất tự cấp -
tự túc và sản xuất hàng hoá, với hai mô hình
kinh tế đại diện cho chúng là mô hình kinh tế
tự nhiên và mô hình kinh tế hàng hoá.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao
của kinh tế hàng hoá, nó bao gồm các cấp độ
phát triển là kinh tế thị trường cổ điển và kinh
tế thị trường hiện đại. Nếu trong nền kinh tế
thị trường cổ điển, các quan hệ kinh tế được
hình thành một cách tự phát và hoạt động
tuân theo sự tác động khách quan của cơ chế
thị trường với các quy luật cơ bản vốn có của
nó như: Quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,
quy luật cung - cầu, quy luật lưu thông tiền
tệ… với những ưu điểm, khuyết tật vốn có,
thì trong nền kinh tế thị trường hiện đại, bên
cạnh việc tuân theo sự tác động của cơ chế thị
trường, nền kinh tế còn chịu sự điều tiết, chỉ
huy của chính phủ. Kinh tế thị trường hiện đại
là hình thức phát triển tất yếu của chính bản
thân kinh tế, bởi nhà nước với những công cụ
hữu hiệu của mình sẽ sửa chữa, giảm thiểu
được những khiếm khuyết của cơ chế thị
trường, đồng thời, cơ chế thị trường buộc
những công cụ điều tiết của các chính phủ
phải phù hợp với yêu cầu của thị trường, nên
nó sẽ sửa chữa được tính chủ quan dễ có của
chính phủ.
* Tel: 0974 055252, Email: [email protected]
Từ đây, với mô hình kinh tế thị trường hiện
đại, mỗi quốc gia sẽ lựa chọn cho đất nước
mình một định hướng phát triển kinh tế,
chẳng hạn, nền kinh tế của Mỹ theo mô hình
kinh tế thị trường tân tự do với chủ trương “thị
trường nhiều, nhà nước ít”; hay mô hình kinh tế
thị trường xã hội của Thuỵ Điển, Đức…
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, mô hình kinh tế thị trường
(KTTT) theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) đã được Đảng ta chính thức lựa chọn
và chỉ đạo tổ chức thực hiện từ Đại hội Đảng
lần thứ VI năm 1986. Cho đến nay, sau gần
30 năm thực hiện đổi mới đất nước, mô hình
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đã
phát huy sức mạnh. Song, trong quá trình
thực hiện mô hình này, một số vấn đề lý luận
nảy sinh cần có sự nhận thức và đưa ra giải
pháp khắc phục.
Trước hết, cần luận giải về sự không đối lập
giữa KTTT với định hướng XHCN, bởi trong
thực tế, có nhiều ý kiến cho rằng, đã thực hiện
mô hình KTTT là thực hiện con đường kinh
tế tư bản chứ không thể là định hướng
XHCN, sự định hướng này là không tưởng.
Luận giải về vấn đề này, chúng tôi xin trình
bày như sau: Như phần trên đã đề cập tới,
theo đúng nguyên lý của sự phát triển là sự
phát triển tự thân, cho thấy, mô hình KTTT
hiện đại là sản phẩm tất yếu của sự phát triển
bản thân kinh tế, bởi thế, KTTT không phải là
Ngô Thị Tân Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 115 - 118
116
sản phẩm của chủ nghĩa tư bản (CNTB), bởi
CNTB không phải là một thể chế kinh tế mà là
một thể chế chính trị - xã hội. Đồng thời, phải
phân biệt KTTT với tư cách là một thể chế kinh
tế chứ không phải là một chế độ kinh tế. Bởi:
Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của
hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên cạnh các
bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế
giáo dục… Thể chế kinh tế nói chung là một
hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều
chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản
xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Thể
chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao
gồm các bộ quy tắc, luật lệ và hệ thống các
thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm
điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên
thị trường. Còn chế độ kinh tế là hệ thống các
nguyên tắc, quy định điều chỉnh những quan
hệ trong lĩnh vực kinh tế nhằm thực hiện
những mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội nhất
định, thể hiện trình độ phát triển kinh tế của
nhà nước, bản chất của một nhà nước, một
chế độ xã hội. Bởi vậy không thể liên hệ một
cách chiết trung giữa thể chế KTTT với chế
độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Vấn đề là, CNTB
sớm sử dụng KTTT như một công cụ để thực
hiện duy trì, bảo vệ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa, nhằm phát triển xã hội theo con đường
TBCN. Như thế, các quốc gia phát triển đất
nước theo con đường XHCN sử dụng KTTT
làm công cụ để phát triển xã hội theo con
đường XHCN cũng là lẽ tự nhiên. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền
kinh tế vừa tuân theo các quy luật của kinh tế
thị trường vừa chịu sự chi phối của các yếu tố
đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do đó, thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được hiểu là thể chế kinh tế
thị trường, trong đó các thiết chế, công cụ và
nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và
sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, cải
thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh. Nói cách khác, thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công
cụ hướng dẫn cho các chủ thể trong nền kinh
tế vận động theo đuổi mục tiêu kinh tế - xã
hội tối đa, chứ không đơn thuần là mục tiêu
lợi nhuận tối đa.
Bởi vậy, vấn đề đặt ra ở đây không phải là sự
đối lập giữa KTTT và định hướng XHCN, mà
là việc chúng ta trả lời hai câu hỏi: thứ nhất,
chúng ta triển khai mô hình này với những
cách thức, bước đi, nội dung như thế nào?
Thứ hai, trong quá trình thực hiện, những vấn
đề thực tiễn xã hội nào nảy sinh, yêu cầu lý
luận phải nhận thức và vạch ra hướng giải
quyết như thế nào?
Về câu hỏi thứ nhất, chúng tôi nhất trí với
cách thức, bước đi, nội dung triển khai thực
hiện mô hình KTTT định hướng XHCN đã
được Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo thực
hiện, thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết
qua các kỳ Đại hội, Hội nghị.
Về câu hỏi thứ hai, chúng tôi nhận thấy, trong
quá trình thực hiện mô hình KTTT định
hướng XHCN, với cơ chế thị trường đã đặt ra
những vấn đề cần giải quyết sau:
- Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với môi
trường tự nhiên bị xuống cấp;
- Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với
khoảng cách thu nhập trong xã hội gia tăng;
- Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với vấn
đề ý thức đạo đức xã hội với lối sống thực
dụng, chạy theo lợi ích vật chất, nạn tham
nhũng trở thành căn bệnh phổ biến;
- Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với vấn
đề mất an toàn về sức khoẻ, tính mạng con
người trong xã hội;
- Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với sức
sản xuất chưa thực sự được phát huy hết năng
lực (tài dân, sức dân, vốn trong dân… chưa
thực sự được khơi thông).
Những vấn đề này đang chứng tỏ sự quản lý
của Nhà nước chưa giải quyết, sửa chữa được
những khuyết tật của cơ chế thị trường, chưa
phát huy hết được những thế mạnh vốn có của
nó. Bởi vậy, vấn đề cơ bản đặt ra ở đây là giải
quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu quản lý trình
độ cao với thực tiễn quản lý còn yếu kém của
Nhà nước trong thực hiện KTTT định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Ngô Thị Tân Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 115 - 118
117
GIAI PHÁP THỰC HIỆN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
Trong mô hình KTTT hiện đại nói chung và
mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam nói riêng, Nhà nước gián tiếp điều tiết
nền kinh tế thông qua cơ chế thị trường. Theo
chúng tôi, để phát huy ưu điểm, sửa chữa
được những khuyết tật của cơ chế thị trường,
điều tiết nền kinh tế phát triển đạt mục tiêu
kinh tế - xã hội tối đa, theo định hướng
XHCN, Nhà nước cần: (1) Nắm được toàn bộ
thông tin về hoạt động kinh tế - xã hội một
cách chính xác, kịp thời; (2) Phải thực hiện
nguyên tắc trung tính hoá phương hướng lợi
ích trong thực thi nhiệm vụ; (3) Hệ thống nhà
nước vận hành với hiệu suất, hiệu quả cao.
Thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới, những vấn
đề lý luận này được chúng tôi rút ra từ những
sở cứ thực tiễn sau:
(1) Theo đúng nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, để điều tiết chính xác nền
kinh tế - xã hội, Nhà nước phải nắm được
chính xác thông tin từ thị trường, từ nền kinh
tế - xã hội, từ đó mới ra được những quyết
sách đúng đắn, phát huy được thế mạnh, sửa
chữa được những khiếm khuyết của thị
trường và những bất cập trong kinh tế - xã
hội. Theo chúng tôi, Nhà nước ta đã ngày
càng đạt được yêu cầu này, song trong thực tế
vấn đề thu thập, xử lý thông tin của chính phủ
còn tồn tại không ít khó khăn như: Độ chính
xác của thông tin được cung cấp? Tính thời sự
của thông tin bị lạc hậu, tính chủ quan trong
xử lý thông tin, chi phí cao trong xử lý thông
tin…. Đã dẫn đến một số các quyết sách và biện
pháp điều tiết của Nhà nước được định ra trong
điều kiện thông tin chưa hoàn toàn chuẩn xác,
nên giải quyết những vấn đề mà thị trường
không thể giải quyết được gặp khó khăn.
(2) Để điều tiết chuẩn mực nền kinh tế, Nhà
nước phải vượt qua những rào cản về mặt lợi
ích, Nhà nước phải trung tính trong hoạt động
của mình. Khi nắm vững được các thông tin
thị trường, thông tin về kinh tế - xã hội, Nhà
nước cần vượt qua được những hạn chế của
lợi ích ngắn hạn, lợi ích của địa phương, lợi
ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân…, phải quan
tâm triệt để tới mục tiêu phát triển bền vững
của cả xã hội. Song, trong thực tiễn, Nhà
nước vẫn chưa thể hiện được nguyên tắc
trung tính hoá phương hướng lợi ích. Nguyên
nhân của vấn đề này là trong thực tiễn hoạt
động quản lý, bản thân Nhà nước cũng chịu
sự ràng buộc của quan hệ lợi ích.
(3) Để định hướng XHCN nền kinh tế theo
thể chế KTTT, hệ thống nhà nước phải vận
hành với hiệu suất, hiệu quả cao. Song, trong
thực tế, hệ thống nhà nước đang vận hành với
hiệu suất thấp, với những biểu hiện cụ thể
như: Hệ thống luật pháp chưa thực sự toàn
diện, chặt chẽ, nghiêm minh, hiệu lực chưa
cao, còn lỗ hổng; Cơ cấu tổ chức còn cồng
kềnh; Việc xây dựng và sử dụng các công cụ
quản lý, định hướng XHCN còn yếu, rõ nét là
hệ thống các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế nhà nước có hiệu quả thấp (hệ số
ICOR toàn bộ nền kinh tế giai đoạn 2011-
2013 là khoảng 5,5, ICOR của các doanh
nghiệp nhà nước ≈ 7, trong khi đó ICOR của
các nước kinh tế phát triển chỉ là 2).
Trong Chương trình Dân hỏi Bộ trưởng trả lời
ngày 15/12/2013, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư Bùi Quang Vinh đã khẳng định “Nền
kinh tế Việt Nam trong những năm qua dựa
nhiều vào yếu tô tài nguyên cũng như yếu tô
vôn. Trong những năm qua những nhân tô tác
động đến tăng trưởng GDP của Việt Nam, lao
động chiếm 25,5%, vôn chiếm tới 57,54% và
chỉ tiêu về chất lương là năng suất tổng hơp
(TFP) chỉ chiếm 16,25%. Nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào vôn, tài nguyên”[8].
Đưa ra con số so sánh, Bộ trưởng cho rằng
các nước khác, trong cùng thời kỳ 2001-2010,
tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc có tới
51,32% là do TFP mà TFP đó là năng suất
tổng hợp, thể hiện tiến bộ khoa học kỹ thuật,
công nghệ hiện đại, quản trị hiện đại góp phần
tăng GDP, trong khi đó cùng thời điểm đó
Việt Nam TFP chỉ có 19,5%. “Có nghĩa là
Ngô Thị Tân Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 115 - 118
118
nền kinh tế của chúng ta dựa quá nhiều vào
tài nguyên và vốn như vậy sức cạnh tranh và
chất lượng tăng trưởng rất thấp”, Bộ trưởng
khẳng định thêm một lần nữa.
Tóm lại, KTTT định hướng XHCN là mô
hình kinh tế xuất hiện và phát triển tất yếu
trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, cụ
thể là ở các nước xây dựng theo con đường
CNXH mà trước hết là Việt Nam. Đây là mô
hình kinh tế mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch
sử, bởi vậy, việc nảy sinh những mâu thuẫn là
xu thế khó tránh khỏi trong quá trình phát
triển. Vấn đề ở đây là, yêu cầu các chủ thể
trong quá trình thực hiện cần phát hiện mâu
thuẫn, tôn trọng mâu thuẫn và tìm ra những
giải pháp phù hợp nhất để giải quyết mâu
thuẫn, tạo động lực cho sự phát triển. Việc
giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu quản lý
trình độ cao với thực tiễn quản lý còn yếu
kém của Nhà nước trong thực hiện KTTT
định hướng XHCN, nhằm giải phóng sức sản
xuất, là từng bước thực hiện thành công tiến
trình định hướng XHCN của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHAO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI,VII, VIII, IX, X,XI, Nxb
CTQG, Hà Nội.
2. PGS.TS Nguyễn Cúc, Đổi mới và sự hình thành
thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nxb Lý luận chính trị.
3. Đặng Xuân Kỳ: Sự nghiệp đổi mới – thành tựu
và bài học kinh nghiệm, những vấn đề đặt ra hiện
nay, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000.
4. PGS.TS Tô Huy Rứa – GS.TS Hoàng Chí Bảo,
PGS.TS Trần Khắc Việt, PGS. TS Lê Ngọc Tòng :
Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng 1986 - 2005, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005.
5. GS.TS Lê Hữu Tầng – GS. Lưu Hàm Nhạc
(đồng chủ biên): Nghiên cưu so sánh đổi mới kinh
tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quôc,
Nxb CTQG, 2002.
6. Nguyễn Phú Trọng: Đặc trưng cơ bản của kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2003.
7. Uỷ ban Kinh tế Quốc hội, năm 2013, Bản tin
kinh tế vĩ mô. Số 8 – Quý I/2013.
8. Bùi Quang Vinh - Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư , Chương trình Dân hỏi Bộ trưởng trả lời
ngày 15/12/2013.
Các trang website:
9.Dân trí.com.vn
10. Nguyentandung.org
SUMMARY
DISCUSSION ON THE MARKET ECONOMY SOCIAL
ORIENTATION DEFINITION HOME IN VIETNAM
Ngo Thi Tan Huong*, Pham Thi Nga. Dao Thi Tan College of Economics and Business Administration – TNU
In today's society, there are many views that have made the market economy model is performed
path capitalist can not be a socialist orientation and confusion about the direction this is not ideal.
Within the scope of the article, our interpretation of the reasonableness and realism of this model
and point out some problems to overcome in the implementation process.
Keywords: market economy, market economy socialist orientation, Vietnam
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Tạ Thị Thanh Huyền – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0974 055252, Email: [email protected]
, , 0,2 ,,t t u u tu f t
(0) (2 ), (0) (2 )u u u u
PHƯƠNG PHÁP ĐƠN ĐIỆU XÂY DỰNG CÁC NGHIỆM CỰC TRỊ
GIẢI CÁC BÀI TOÁN GIÁ TRỊ BIÊN TUẦN HOÀN CẤP HAI
Ngô Thị Kim Quy*, Nguyễn Thị Thu Hường
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
,,, ,,, 222 ,,, ttt ttt uuu uuu ttt
000 (((
, , , 0,2 ,u t f t u u t t
TÓM TẮT
Bài báo này trình bày phương pháp xây dựng hai dãy đơn điệu hội tụ tới các nghiệm cực trị
của bài toán giá trị biên:
000,,, ,,, uuu fff ttt
(((000))) (((222 ))),,, ((( ))) 222 )))uuu uuu uuu uuu
, , , 2 ,u t f t u u t t
sử dụng nghiệm trên
0,
(0) (2 ), (0) (2 )u u u u
, ,f t u v
và nghiệm dưới
000,,,
ttt vvv
với
2: 0, 2 Rf R
.
2: 0, 2 Rf R
2, ,u v R
Từ khóa: Bài toán giá trị biên tuần hoàn, tồn tại, nghiệm trên và dưới, kỹ thuật lặp đơn
điệu.
1. Giới thiệu và kết quả chính
Trong bài báo này, chúng tôi nghiên cứu
kỹ thuật lặp đơn điệu giải bài toán giá trị biên
tuần hoàn cấp 2. Xét bài toán giá trị biên tuần
hoàn dạng:
,,, ,,, ,,, 222 ,,, uuu ttt fff ttt uuu uuu ttt ttt
(((000))) ((( ,,, (((000))) uuu
,,, ,,,fff
222::: 000fff
(1.1)
222 ))) (((222 )))uuu uuu uuu
ttt uuu vvv
,,,222
, ,t f t u v
ở đây ,,,
0,2/
là hàm Caratheodory.
0 RRR
Hàm RRR
222,,, ,,,uuu vvv RRR
,0, 2t
được gọi là
hàm Caratheodory nếu nó thỏa mãn 3 điều
kiện sau:
i) Với
hàm ,,, ,,, ttt fff ttt uuu vvv
,,,
, , ,u v f t u v
là đo
000,,,222
được ///
,,,ttt
2R
0N
.
,,, 222
Ng t
ii) Với hầu hết 000
,,, ,,, ,,,uuu vvv fff ttt uuu vvv RRR
NNNggg ttt
hàm
222
là liên tục trên
000NNN
0,2/
, ,N
f t u v g t
.
0, 2t
iii) Với mỗi ttt
ttt , 222ttt
,
,,,
, .u v N
2,10,2W
là hàm khả tích
000,,,222
,,,uuu vvv
0,2, ( ), ,t f t t t t
Lebesgue xác định ///
fff ,,, ,,, NNN
ttt ggg 000
,,,ttt
0 2 , 0 2 .
sao cho:
uuu vvv ttt 222
((( fff
0 2 , 0 2 .
2,10,2W
với
vvv
000,,,222
222 , t
0,2, ( ), ,t f t t t t
, ở đây
... NNN
222 ,,,111WWW
000,,,((( , fff
,,, t
Để phát triển phương pháp đơn điệu, ta
cần khái niệm các nghiệm trên và dưới.
Ta nói
222)))
000 000 222 ...
222 ((( ))),,, ,,,
0 2 , 0 2 .
là nghiệm trên
của bài toán (1.1), nếu thỏa mãn:
,,, ,,, ttt ttt ttt ttt
222 ,,,
WWW
2,10,2Wu
t t
(1.2)
,,,111 000,,,222
000
t t
222 Hàm
,,,((( ))),,, ,,,ttt fff ttt ttt ttt
111
ttt
, , ,f t u v kv F t u
là nghiệm dưới
của bài toán (1.1), nếu thỏa mãn:
000 ttt
000 222 ,,, 000 222 ...
000WWW
,,, ,,,fff kkkvvv FFF
(1.3)
222,,, ,,,222uuu
ttt ttt
,,, ttt uuu vvv ttt uuu ,F t u
Ta gọi hàm 111
ttt
,F t u
t t
là nghiệm của
bài toán (1.1) nếu nó là nghiệm trên và
nghiệm dưới của (1.1).
Với giả định cổ điển rằng ttt ttt
kkkvvv
.t t
,
một số tác giả khác đã nghiên cứu sự tồn tại
phương pháp nghiệm dưới và trên hoăc
phương pháp lặp đơn điệu (xem 1, 3-6, 8-
11,12,13]). Chỉ một vài tác giả nghiên cứu
trường hợp ngược lại ttt
,,, ,,,ttt uuu vvv FFF ttt uuu
...
(xem
[1,2]]). Gần đây, Wang [14] nghiên cứu
trường hợp đặc biệt của (1.1) (ở đây
,,,FFF ttt uuu
u t
.t t
và ,,,
ttt
...
u t
là hàm
tăng theo u) với sự có mặt của nghiệm dưới
ttt
ttt và nghiệm trên
ttt
.u tt t
với
ttt
uuu ttt
ttt
Hơn nữa, gần đây,
Rachunkova [15] chứng minh bài toán (1.1)
có ít nhất một nghiện
ttt ttt
trong trường hợp
uuu ttt
...
Tuy nhiên, chứng minh kết quả
trong [15] không thể đảm bảo rằng
uuu
thỏa
tttmãn ttt ttt
Ngô Thị Kim Quy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 119 - 123
119
, 0, 2C
/ 0, 2t t 0 A B
2 1 2 1 2 1, , , ,A v v f t u v f t u v B v v
Phát triển phương pháp đơn điệu, ta cần
các giả thiết sau:
(H1) Với mỗi 000 CCC
ttt
2 1 2 1 2 1, , , ,B v v f t u v f t u v A v v
với
000 000 AAA
vvv 222
,,, ,,,vvv fff ttt uuu vvv fff ttt uuu vvv BBB vvv vvv
222 1 2 1 2 1
thì BBB
111 222 111 222 111,,, AAA
1 2 1 20,2 , , , ,t t u t v v R v v
sao cho
,,,
111 222 111 222 111,,, ,,, ,,,vvv vvv fff ttt uuu vvv fff ttt uuu vvv AAA vvv vvv
111,,,ttt t t v v v v
(1.4)
,,, BBB
222222
2
2 1 2 1, , , ,4
Af t u v f t u v u u
hoặc
111 222222 ,,, ,,, ,,, ,,,
222
222 111 2 1444
AAA
0,2 ,t
1 2
, .t u u t v R
(1.4’)
000 ttt uuu ttt vvv vvv RRR vvv vvv
ttt
t
với
,,,
222 111,,, ,,, ,,, ,,, fff ttt uuu vvv fff ttt uuu vvv uuu uuu
,
t
.
111
000,,,222 ,,,
111 222
...uuu uuu ttt
(H2) Bất phương trình:
,,,ttt vvv RRR
ttt ttt
t t
với 0,2 ,t
111 222
...
ttt ttt
ttt
Mục đích của bài báo này là chỉ ra sự tồn
tại nghiệm của (1.1) với giả sử rằng tồn tại
nghiệm dưới
u t .t t tu
nghiệm trên
của
ttt
t
(1.1) với
uuu ttt
t
. Bài báo này phát triển
phương pháp lặp đơn điệu để xấp xỉ nghiệm
cực trị của (1.1) và chứng minh rằng nghiệm
... ttt ttt uuu
của (1.1) thỏa mãn ttt
/ 0,2t t , ,f t u v
Kết quả này mở rộng, bổ sung cho kết quả
trong [14, 15].
Dưới đây là kết quả chính của bài
báo:
Định lý 1. Giả sử tồn tại nghiệm dưới ttt
j
và
000 222 ,,, ,,,
nghiệm trên ttt
/// ,,, ttt ttt
của (1.1) sao cho
,,, ,,, fff ttt uuu vvv và
jjj j
0
0,
/ 0,2, : 0, 2 :u C t u t t
là hàm
Caratheodory thỏa mãn giả thiết (H1) và (H2)
thì tồn tại hai dãy jjj
000
1,10,2Wy
và
WWW
0y t My t L y t
tương ứng
không giảm và không tăng, với
000,,,
y 0t My t L y t 0,2t
0 2y y
và
000,,,000
111 111 000,,,
0
000 222
hội tụ dều và đơn điệu tới nghiệm cực
trị của bài toán (1.1) trong đoạn:
/// 222,,, ::: ,,,222 :::uuu CCC ttt uuu ttt ttt
,,, 222yyy
000ttt
0,M L
2. Nguyên lý cực đại, cực tiểu
Để chứng minh tính hiệu lực của kỹ thuật
lặp đơn điệu, ta sử dụng nguyên lý cực đại,
cực tiểu dưới đây:
Bổ đề 2.
yyy ttt MMMyyy LLL yyy ttt
Giả sử
yyy
,MMM L
và thỏa mãn:
ttt 000ttt
222
,,,
với ,,,222
yyy
LLL 0 / 0,2 ,tMy
0M y t
.
t
ở đây 000 /// 222
MMM
thì 000 000,,, ,,,tttMMMyyy
000
0M y t
nghĩa là khi yyy ttt
t
cực tiểu của
MMM yyy t
t
không
000 t
t t
âm, khi yyy ttt
/ 0,2t t
cực đại của
222ttt ttt
không
, ,f t u v
, ,
dương.
3. Chứng minh định lý 1
Trong mục này, ta giả sử ttt
,,, ,
2 4
A B ABu t u t u t
, , , 0,2 ,2 2 4
A A ABg t t u t u t t t t
0 2 , 0 2 ,u u u u
và ttt
/// ,,,
222
uuu t uuu
uuu u u u
tương ứng là nghiệm trên và nghiệm dưới của
bài toán (1.1), 000
,,, ,,, fff ttt uuu vvv
,,,
AAA ttt
,,,222 ,,,
, , , ,2
A Bg t u v f t u v v
và
AAA BBB BBB ttt
,,,222 ,,,222 444
AAAttt ttt uuu ttt uuu ttt ttt ttt ttt
222
là hàm Caratheodory thỏa mãn giả
thiết (H1) và (H2).
Ta sẽ chỉ xét trường hợp thỏa mãn (1.4’), còn
trường hợp trường hợp (1.4) có thể xử lý
tương tự.
Với mỗi
AAA
uuu
,,, ,,, ,,, 222
AAA BBBggg
000 222 ,,, 000 222 ,,, uuu uuu uuu
ta xét bài toán giá
trị biên tuần hoàn dạng:
444uuu ttt
000AAA
u t
:2
Av t u t u t
(3.1)
:::
, , ,2 2 4
B A ABv t v t g t t v t t t
0,2 , 0 2 .t v v
ở đây ,,, ,,, ,,, ,,, AAA BBB
ggg ttt uuu vvv fff ttt uuu vvv vvv
,,, ,,, ,,,BBB AAA AAABBB
222 ,,,ttt vvv vvv
2
0
, , , .2 4
B
A ABv t G t s g s s v s s s ds
(3.2)
222
000
B s
Giả sử uuu ttt
222
AAAvvv ttt ttt
BBB
exp B/2 2, 0 2
exp B 1,
exp B/2, 0 2 .
exp B 1
B
s ts t
G t ss t
t s
là nghiệm của (3.1) và
uuu ttt uuu
,,, ,,,222 222 444
AAA AAABBBvvv ttt vvv ttt ggg ttt ttt vvv ttt ttt ttt
000 000 222 ... vvv vvv
,,,
BBB ,,,
/// , 000 222 ...
ttt t
ttt ttt
ttt sss
v t
thì ta có:
,,,
...BBB
sss
ppp 222
t
(3.3)
Bài toán trên tương đương phương trình tích
phân:
,,, ,,, ,,, 222 444
AAA AAAvvv ttt GGG ttt sss ggg sss sss vvv sss sss sss ddd
eeexxx BBB///
xxx
eeexxx BBB ,,,
xxx
sss sss
GGG sss sss
(3.4)
ppp 222 222 000 222
eee ppp BBB 111
ppp 222 ...
eee ppp BBB 111
ttt ttt
sss
vvv
trong đó:
ttt
Giả sử ttt là nghiệm của bài toán (3.4) thì:
Ngô Thị Kim Quy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 119 - 123
120
2
0
: , , 0,2A
u t G t s v s ds t
,
2,1.0,2Wu
(3.5)
,,,
là nghiệm của bài toán (3.1).
Liên quan đến bài toán (3.1), ta có thể đưa
ra bổ đề sau:
Bổ đề 3. Với mỗi
, / 0,2 ;t B t t t
cố định,
111 ... 000 222 WWW
,,, ,,, ;;;
bài
toán (3.1) có nghiệm duy nhất,,,
,,,
/// 000 222ttt ttt ttt ttt
/ , ,
Bổ đề 4. Ánh xạ
,,, ,,,
thỏa mãn các tính chất:
///
1 2/ 0, 2t t
i) /// 0,,,2 ;;; BBB ttt ttt ttt
1 2, ,
ii) ,,, ,,,
111 1 2/ 0,2 .t t
là hàm đơn điệu tăng ///
///
///
j
nghĩa
111 222 ,,, 222ttt ttt
222,,, ,,,
j
là:
000
111 111
000,,,222
jjj
1j jt t
khi 222
jjj
111ttt 1j j
t t
và 222
...ttt ttt
jjj jjjttt
0 0, .
Ta định nghĩa dãy
jjj
ttt
000
j
và
jjj
j
sao cho:
jjj ttt 111 jjj
ttt
jjj
1 1 12 4
n n n
A B ABt t t
1 1, , ,
2 2 4n n n n n
A A ABg t t t t t t
1 1 1 10,2 , 0 2 , 0 2 .
n n n nt
và
...
222
AAA ABBBttt
,,, ,,,222 222 444
AAA AAA AAABBB
111nnn
:2
n n n
Av t t t
với 000
,,,
444nnn
BBB ttt ttt
111 111 111 nnn nnn nnn
2
1 1
0
, [ ( , ( ), ( )n B n n
v t G t s g s s v s
Theo bổ đề 4, ta có
111
AAA
222
000
((( ,,, ,,,nnn nnn nnn
vvv ttt GGG ttt sss g vvv
không giảm và
111 111nnn nnn
BBB BBB
,,, ,,, 222 444
nnn nnn nnn
AAA AAABBBggg ttt ttt ttt ttt ttt ttt
000,,,222 ,,, 000 222 ,,, 000 222 ...
)))
( )) ( )]2 4
n n
A ABs s ds
1 2, 0,2 :v v C
2 1 2 1, , , , .
2
B Ag t v g t v v v
không tăng.
Từ (3.1) ta có:
111 444
nnn ttt ttt
111 111
nnn nnn
111 111 111
nnn nnn nnnttt
nnn
AAAvvv ttt ttt ttt
111 111,,, ((( ,,, ((( ggg
)))
2,,, ,,, :::
111 222 111,,, ,,, , , .ttt ggg ttt vvv
2
1 1
0
, [| ( , ( ), ( )n B n n
v t G t s g s s v s
( / 2) ( )) ( , ( ), ( / 2) ( )) |n n n
A s g s s A s
( , ( ),( / 2) ( )) / 4 ( ) ]n n n
g s s A s AB s ds
2
1 1
0
,2
n B
B Av G t s ds C
1 1n
B Av C
B
(3.6)
Giả sử nnn
::: 222
nnn
((( ,,, )))
nnn nnnttt GGG ttt sss vvv
((( )))))) ((( ]]]222 444
AAA AAABBBsss sss dddsss
111 000
vvv
222
000
[[[
)
2
1 1
0
,2
n B
B A v G t s ds C
1 1n
B A v C
B
0,2 .t
thì ta có:
[[[ )))BBB
sss sss sss
)))nnn nnn
222 ,,, ,,, ...
222
BBBggg vvv
sss
)))
222
000
,,,222
nnnBBB
(3.7)
222 ,,,222 :::vvv vvv CCC
111 222 111
AAA ttt vvv
/// ///ggg AAA
Theo (H1) và (3.2) ta có, với
vvv
[[[ sss
((( 222 ((( )))))) ((( ,,, ((( ))),,, ((( 222))) ((( ))) |||nnn nnn nnn
AAA sss sss sss sss
,,, ((( ))),,,((( /// 222))) ((( )))))) /// 444 ((( ))) ]]]nnn nnn nnn
sss sss AAA sss AAABBB sss dddsss
111 111nnn BBB
BBB vvv ttt dddsss CCC
111 111
BBB AAA vvv CCC
Do đó, ta có:
111 111,,, ||| ((( ,,, ((( ))),,, ((( )))
nnn BBB nnn nnnvvv ttt GGG ttt sss ggg sss vvv sss
/// ))) ///
ggg AAA
ggg (((
AAA GGG sss
000,,,222
f
0 0max : 0,2 .
nt t t t
với ... ttt
000x : 0,2 .
1 2.
nCv
(3.8)
fff
000xxx
.nnn
Ở đây ta sử dụng giả thiết
mmmaaa
111 222
.1 3
t Cn
41.
nt C
là hàm
::: 000,,,222 ...nnn
ttt ttt ttt ttt
...
CCCvvv
.1 3
t Cn
41 .
n t C
*:lim jj
t t
Caratheodory và
0 0max : 0,2 .
nt t t t
111 222nnn
nnn
Do đó, ta có:
...
CCCvvv
...ttt CCC
...
*:lim jj
t t
0,2
Suy ra 111 333
nnn ttt CCC
* t
Tương tự có:
444111 ...
t
iiimmm
*** * t
Theo lí luận tiêu chuẩn, (xem chẳng hạn [8])
có:
***:::lll jjjjjj
ttt ttt
***:::iiimmm ttt ttt
ttt
,u
và lll jjj
jjj
000,,,222
uuu
đều và dơn điệu trên
ttt
,,,
, 0,1, 2,jt u t tj j
.
Theo (3.4) và (3.5) ta có cả
ttt uuu t t
* *, .u
và ***
,,,jjj jjj
* t
đều là nghiệm của (3.1), và do đó là nghiệm
của (1.1).
Hơn nữa, nếu
,,, ,,,uuu ttt ttt
*** ***
ttt * t
là nghiệm của
,,, 000,,,111 222 jjj jjj
, .
(1.1) thì ta thu được:
jjj
*** ,,, ... uuu
ttt
,,, ...
Do đó:
Điều này chỉ ra rằng
*** ***
và
, 0,2 ,,t ku t F t uu t
(0) (2 ), (0) (2 )u u u u
,F t u
tương ứng là nghiệm cực
tiểu và nghiệm cực đại của bài toán (1.1) trên
,,,FFF 0k
Chứng minh xong định lý 1.
,,, 000,,,222 ,,, ttt kkkuuu ttt FFF ttt uuu
000 ((( ))) (((000 (((222 uuu
ttt uuu 000
4. Ví dụ
Trong mục này ta xét bài toán giá trị
biên tuần hoàn đối với phương trình:
,,, uuu ttt
((( ))) 222 ,,, ))) ))) uuu uuu uuu (4.1)
Ở đây ttt uuu 000là hàm Caratheodory, kkk
1k
, 0,2 ,,t u t F t uu t
.
Giả sử xét bài toán trên với 111kkk
,,,
(0) (2 ), (0) (2 )u u u u
.
Khi đó bài toán (4.1) trở thành:
,,, 000 222 ,,, ,,, ttt uuu ttt FFF ttt uuu uuu ttt
(((000))) (((222 ))),,, (((000))) (((222 ))) uuu uuu uuu uuu (4.2)
Ngô Thị Kim Quy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 119 - 123
121
2,10,2W
0,2, ( ) ,Ft t t t t
0 2 , 0 2 .
2,10,2W
0,2, ( ) ,Ft t t t t
Ta nói 222 ,,,
,,,222 WWW
000
000 222 ...
000,,,222 WWW
,,,222,,, ((( ))) ,,,FFFttt ttt ttt ttt ttt
0 2 , 0 2 .
, 0, 2C
là nghiệm trên của
bài toán (4.2) nếu thỏa mãn:
,,,222 ,,, ((( ))) ,,, FFF ttt ttt ttt ttt ttt
000 222 ,,,
222 ,,, 111
000
0 2 , 0 2 .
, 0, 2C
/ ,0, 2t t
(4.3)
,,,111 000,,,222 WWW
,,,
.
,,, 2CCC
, 2ttt
2 1 2 1
1, ,
4F t u F t u u u
222 Tương tự, hàm
,,,222 ((( ))) ,,,FFFttt ttt ttt ttt ttt
,,,
,,,
111
444
0,2 ,t
là nghiệm
dưới của bài toán (4.2) nếu thỏa mãn:
000
000 222 ,,, 000 222 ...
000
///
2 ttt
(4.4)
Phát triển phương pháp đơn điệu ta cần các
giả thiết sau:
(H) Với mỗi 222
000 ttt
2
1 2
, .t u u t v R
1,A B
:
,,, 222
222 111 222 111
000 222 ,,,
,BBB
bất phương trình:
FFF ,,, ,,, ttt uuu FFF ttt uuu uuu uuu
...
,,,
với ,,,
111 222
,,, ttt uuu uuu ttt vvv RRR
AAA
trong đó
111 Giả sử thì (H1) và (H2) thỏa mãn,
do đó định lý 1 thỏa mãn.
Tài liệu tham khảo
[1] A. Cabada, (1994), “The method of
lower and upper solutions for second, third,
fourth, and higher order boundary value
problems”, J. Math. Anal. Appl, 185, 302-320.
[2] A. Cabada, (1992), “The monotone
method for boundary value problems”,
Doctoral Thesis, Universidad de Santiago de
Compostela (in Spanish).
[3] A. Cabada, J.J. Nieto, (1990) “A
generalization of the monotone interative
technique for linear second order periodic
boundary value problems”, J. Math. Anal,
151, 181-189.
[4] A. Cabada, J.J. Nieto, (1990),
“Extremal solutions of second order nonlinear
periodic boundary value problems”, Appl.
Math. Comput. 40, 135-145.
[5] W.J. Gao, J.Y. Wang, (1995), “On a
nonlinear second order periodic boundary
value problem with Caratheodory functions”,
Ann. Polon. Math.Pitman, Boston, 62, 283-
291.
[6] D.Q. Jiang, J.Y. Wang, (1997), “A
generalized periodic boundary value problem
for the one-dimeasional p-Laplacian”, Ann.
Polon. Math, 65, 265-270.
[7] Daqing Jiang, Meng Fan, Aying Wan,
(2001), “A monotone method for constructing
extremal solutions to second-order periodic
boundary value problems”, Journal of
Computational and Applied Mathematics,
136, 189-197.
[8] G.S. Ladde, V. Lakshmikantham, A.S.
Vatsala (1985), “Monotone Iterative
Techniques for Nonlinear Differential
Equations”, Pitman, Boston.
[9] J.J. Nieto, (1989), “Nonlinear second-
order periodic boundary value problems with
Caratheodory functions”, Appl. Anal, 34, 111-
128.
[10] J.J. Nieto, A. Cabada (1992), “A
generalized upper and lower solution method
for nonlinear second order ordinary
differential e quations”, J. Appl. Math.
Stochastic Anal, 5, 157-166.
[11] P.Omari, (1986), “A monotone
method for constructing extremal solutions of
second order scalar BVPs”, Appl. Math.
Comput, 18, 257-275.
[12] V. Seda, J.J. Nieto, M. Gera, (1992),
“Periodic boundary value problems for
nonlinear higher order ordinary differential
equations”, Appl. Math. Comput, 48, 71-82.
[13] M.X. Wang, A. Cabada, J.J. Nieto,
(1993), “Monotone method for nonlinear
second-order periodic boundary value
problems with Caratheodory functions”, Ann.
Polon. Math, 58, 221-235.
[14] C.G. Wang, (1997), “Generalized
upper and lower solution method for the
forced doffing equation”, Proc. Amer. Math.
Soc, 125, 397-406.
[15] I. Rachunkova, (1997), “Upper and
lower solutions satisfying the inverse
inequality”, Ann. Polon. Math, 65, 235-244.
Ngô Thị Kim Quy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 119 - 123
122
, , 0,2 ,,t t u u tu f t
(0) (2 ), (0) (2 )u u u u
SUMMARY
A
M
NNN
OOO
T
E
MET
H
O
D
FOR
CCC
O
NS
RU
TTT
I
N
G
EEE
X
TR
M
A
L
S
OOO
LU
T
I
N
S
TO
SECOND
O
RRR
D
E
PE
R
III
OD
C
BO
U
N
D
A
R
Y
VAL
UE
PR
O
B
L
E
M
S
Ng
o
Th
i
Ki
m
Qu
y
,
Ng
u
y
e
n
Th
i
Th
u
Huong
TN
un
v
e
r
s
iii
t
y
of
E
ooo
n
mi
ccc
s
an
d
Bu
sss
i
ne
s
Ad
miii
n
s
ttt
r
a
i
on
–
TN
U
Thi
s
ppp
a
er
d
eee
s
cr
i
b
a
on
s
ttt
r
u
ccc
i
ve
me
t
h
o
d
wh
i
c
h
yi
el
ds
tw
o
mn
ooo
t
o
n
e
sss
qu
eee
n
c
hattt
conv
eee
r
g
uni
f
or
ml y
to
ext
r
em
al
sss
oool
ut
i
n
to
th
e
pe
r
iii
od
c
bou
nda
r
y
val
ue
pr
ob
l
em
,
,
0,
2
,
,
t
t
u
u
t
u
f
t
(
0)
(
2
),
(
0)
(
2
)
u
u
u
u
in the presence of an upper solution and a lower solution with .
Key words: Periodic boundary value problem; existence; upper and lower solution;
monotone iterative technique.
Ngô Thị Kim Quy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 119 - 123
123
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện: 30/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Văn Minh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0989 291958; Email: [email protected]
Nguyễn Tiến Lâm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 125 - 129
125
MỘT SÔ BÀI TẬP BỔ TRỢ CHUYÊN MÔN CHẠY
TRONG GIẢNG DẠY VÀ HUẤN LUYỆN THỂ THAO
Nguyễn Tiến Lâm*, Nguyễn Tiên Phong,
Hoàng Chí Thanh, Phí Thị Hồng Vân, Trần Thị Tiệp Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Chạy là một trong những nội dung chính và hết sức quan trọng trong các môn thể thao nói chung
của môn Điền kinh nói riêng. Chạy, không chỉ có tác dụng tích cực nâng cao sức khoẻ mà còn là
môn thể thao được nhiều người yêu thích. Do đó môn này thường được các giảng viên, huấn
luyện viên khai thác, đưa vào trong giáo án huấn luyện của mình. Các bài tập rất phong phú, đa
dạng mà không đòi hỏi điều kiện đặc biệt, tốn kém về đường chạy, trang thiết bị dụng cụ…Cái khó
là huấn luyện viên và vận động viên phải nắm vững và lựa chọn, thực hiện đúng các bài tập, đáp
ứng được các yêu cầu của nhiệm vụ huấn luyện, giảng dạy và phù hợp với trình độ, đặc điểm của
sinh viên và vận động viên..
Từ khoá: Bài tập chạy, bổ trơ chuyên môn, thể lực chung
Với hầu hết các môn thể thao, bài tập chạy
thường được dùng để nâng cao thể lực chung
- trước hết là sức bền chung. Chạy là một hoạt
động theo chu kỳ, khi chạy hai chân luân
phiên chạm đất và có giai đoạn cả hai chân
không chạm đất (cơ thể bay trên không),
không có thời điểm nào hai chân cùng chạm
đất, có thể điều khiển lượng vận động dễ
dàng, chính xác (cự ly chạy, tốc độ chạy,
thậm chí có thể yêu cầu chính xác đến độ dài
của từng bước chạy và tần số bước chạy…).
Do các lượng vận động khác nhau, có tác
dụng đối với cơ thể vận động viên khác nhau,
nên với một nhiệm vụ cụ thể nào đó, huấn
luyện viên không thể lựa chọn và xác định
được các bài tập cụ thể một cách chính xác;
hoặc khi huấn luyện viên đã đề ra được bài
tập chính xác nhưng vận động viên lại không
thực hiện bài tập đúng với yêu cầu đã đề ra,
thì dù tập luyện có vất vả, nhưng kết quả cũng
không được chú ý.*
Chạy bước nhỏ
Chính là tập chạy nhanh với các bước ngắn -
rất ngắn, mỗi bước chỉ cần dài xấp xỉ ½ độ
dài bàn chân. Cần phối hợp động tác hai tay
với động tác hai chân (so le) nhịp nhàng,
không ảnh hưởng tới nhịp điệu động tác, cần
vượt cự ly bằng tăng tần số bước chứ không
* Tel: 0912 145298; Email: [email protected]
phải tăng độ dài bước. Ngoài tác dụng thoàn
thiện sự phối hợp toàn thân khi chạy, bài tập
này có thể dùng để phát triển tần số động tác
tay, chân khi chạy.
Chạy nâng cao đùi
Tốc độ chạy được quyết định bằng hai thành
phần chủ yếu: Tần số bước chạy (thường tính
bằng số bước chạy trong 1 giây) và độ dài
trung bình của bước chạy. Thường thi khi
chạy nếu đùi nâng được cao thì chân mới với
xa được về phía trước và bước chạy mới dài.
Nâng cao đùi là nâng để khi ở vị trí cao nhất,
đùi của chân phía trước song song với mặt
đường chạy. Thực tế cho thấy, nếu bước dài
tất nhiên sẽ ảnh hưởng tới tần số bước. Do
vậy khi tập nâng cao đùi vẫn phải cố gắng
thực hiện với tần số tối đa. Tập nâng cao đùi
cũng có thể dùng như bài tập để phát triển sức
mạnh các cơ tham gia động tác nâng cao đùi.
Người ta cũng tập nâng cao đùi tại chỗ vì vừa
tập nâng cao đùi vừa có thể thực hiện với tần
số lớn hơn, do không phải di chuyển.
Chạy đạp sau
Trong khi chạy chỉ có đạp sau mới tạo ra lực
đẩy chủ yếu để đưa cơ thể về trước, nâng cao
đùi cũng chỉ là cách tận dụng lực có do đạp
sau. Khi chạy cần đạp sau mạnh (tích cực)
đúng góc độ (góc đạp sau: góc giữa cẳng chân
với mặt đường chạy; để chạy càng nhanh, góc
độ đạp sau càng phải nhỏ) và đúng hướng
Nguyễn Tiến Lâm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 125 - 129
126
(hướng thẳng về trước không phải là hướng
sang hai bên hoặc khép vào trong). Bài tập
này cường điệu hoá động tác đạp sau trong
khi chạy – không phải ai khi chạy cũng đã có
thói quen đạp sau tích cực và đạp đúng. Kết
thúc đạp sau, cơ thể bay về trước ở tư thế
chân sau duỗi thẳng hết các khớp (gối và cổ
chân), đùi chân trước song song với mặt
đường chạy, 2 tay đánh so le với chân. Bài tập
này cũng được dùng để phát triển sức mạnh
đạp sau. Có sức mạnh đạp sau tốt sẽ hạn chế
được sự giảm sút độ dài bước chạy khi cơ thể
đã mệt mỏi.
Chạy hất gót chân chạm mông
Là động tác thu cẳng chân về sát đùi, chủ
động hất cẳng chân ra sau - lên cao để gót
chân chạm mông cùng bên. Động tác trên cần
thành thói quen ở vận động viên vì nhờ đó
chân sau đưa về trước được nhanh, giảm lực
cản và đặc biệt là tạo điều kiện cho các cơ
vừa tham gia động tác đạp sau tích cực có
điều kiện thả lỏng, nghỉ ngơi để rồi lại tiếp tục
tham gia đạp sau ở bước tiếp. Bài tập này rất
cần với các vận động viên chạy (ở mọi cự ly),
nhất là với các vận động viên chạy các cự ly dài
– do chân phải hoạt dộng liên tục trong thời
gian dài, nếu không tạo điều kiện để cơ bắp
được thả lỏng, thì không thể có thành tích cao.
Chạy tốc độ cao
Đây là bài tập mà khối lượng vận động luôn
lớn hơn thực tế người chạy hoặc vận động
viên đã thực hiện; bởi vì nhiệm vụ chỉ giao cự
ly cần chạy với tốc độ cao (tốc độ tối đa so
với khả năng chạy) còn đoạn chạy đà trước
khi vào đoạn quy định và đoạn chạy tiếp khi
đã qua đích đều không được tính. Người chạy
phải điều chỉnh để chạy đoạn quy định với tốc
độ cao nhất, tốt nhất là chạy đà và đạt tốc độ
tối đa trước khi tới vị trí bắt đầu của cự ly quy
định và chỉ giảm tốc độ sau khi đã qua đích
(kết thúc cự ly quy định).
Chạy tốc độ cao cũng là bài tập để hoàn thiện
kỹ thuật chạy giữa quãng trong chạy cự ly
ngắn. Khi chạy cự ly ngắn người ta mắc sai
lầm khi tin rằng có thể tăng tốc độ cho tới khi
về tới đích. Thực tế thì không ai có thể chạy
như vậy – kể cả các vận động viên chạy 100m
hàng đầu thế giới. Sau khi tăng tốc độ nhờ
chạy lao sau xuất phát 15 – 25m đạt được tốc
độ tối đa, người ta chuyển sang kỹ thuật chạy
giữa quãng – duy trì tốc độ đã đạt được để
chạy về đích, gần tới đích (gần 10m cuối) thì
huy động hết sức còn lại để rút về đích. Các
vận động viên xuất sắc cũng không tăng được
tốc độ khi rút về đích, mà chỉ là hạn chế sự
giảm sút đang ngày càng tăng mà thôi. Tập
chạy tốc độ cao nhiều, người tập sẽ quen với
tăng tốc độ đến tối đa rồi chuyển sang chạy
giữa quãng. Bài tập này thường được dùng
với mục đích phát triển tốc độ nói chung
(dùng các cự ly 15 – 30m, sau khi nghỉ hết
mệt mới chạy lần tiếp), sức bền tốc độ cho
vận động viên chạy cự ly ngắn (dùng các cự
ly dài hơn 50m – 100m). Chạy tốc độ cao
cũng là bài tập được dùng làm test để đánh
giá khả năng tốc độ của con người.
Tuy nhiên việc xác định thời gian chạy tốc độ
cao chỉ thực sự chính xác nếu dùng thiết bị
điện tử tự động: tại điểm bắt đầu và kết thúc
cự ly quy định đều đặt đèn hồng ngoại hoặc tế
bào quang điện. Khi có người chạy qua ngắt
tia thì đồng hồ điện tử bắt đầu chạy và dừng
tự động, kết quả mới chính xác, không có sai
sót do người làm nhiệm vụ báo hiệu và bấm
đồng hồ bằng tay.
Chạy nhịp điệu
Đây là một bài tập nhằm củng cố kỹ thuật
chạy. Khi chạy, nhiệm vụ chạy đúng kỹ thuật
là chính, tốc độ chạy không cao đến mức cần
phải nỗ lực và cũng không chậm đến mức
phải kìm hãm, làm giảm nhịp điệu chạy; nói
cách khác là chạy trong điều kiện thấy hoàn
toàn thoải mái, tưởng như có thể chạy mãi
như vậy.
Các bài tập chạy trong điều kiện địa hình tự
nhiên: các loại đường giao thông, công viên,
đường đồi núi, rừng, đồng lầy, ruộng cầy , bãi
cát, sông, suối, xuôi và ngược gió…Thực chất
là học kỹ thuật chạy việt dã, nhưng cũng đồng
Nguyễn Tiến Lâm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 125 - 129
127
thời để rèn luyện sức bền chung nếu chạy liên
tục trong thời gian dài. Khi là bài tập thể lực,
với các điều kiện tập thay đổi sẽ là người tập
hưng phấn hơn, tập luyện hiệu quả hơn. Mặt
khác, do điều kiện tập thay đổi nên các tác
động lên cơ thể cũng luôn thay đổi, giá trị rèn
luyện cũng tốt hơn so với chạy trên đường
của sân vận động đơn điệu, dễ gây nhàm
chán, ức chế cho người tập. Tuy nhiên, vì là
điều kiện tự nhiên nên không thể loại trừ
được các yếu tố bất ngờ; do vậy người tập
chạy phải chú ý vị trí đặt chân của từng bước
chạy để đề phòng các tai nạn, chấn thương có
thể xảy ra…
Các bài tập chạy rèn luyện, phát triển các hệ
thống cung cấp năng lượng: “thiếu ôxy có tạo
axit lactic”, “thiếu ôxy không tạo axit lactic”
và “đủ ôxy” (còn được gọi là “yếm khí lactic”,
“yếm khí alactic”, và “ái khí” hoặc “anaerobic
lactic”, “anaerobic alactic” và “aero – bic”).
Việc sử dụng năng lượng nào tùy theo thời gian
(đồng nghĩa với cự ly chạy).
Người ta thấy rằng:
- Nếu chạy với chế độ mạch từ 150lần/phút
trở xuống là chạy theo chế độ cung cấp năng
lượng aerobic.
- Nếu chạy với mạch 160 – 180 lần/phút là
chạy ở chế độ hỗn hợp.
- Nếu chạy với mạch từ 180 – 190 lần/phút –
chế độ anaerobic.
Cho dù được mang nhiều tên gọi khác nhau,
nhưng loại các bài tập này có thể quy về 2
loại theo hai đặc tính chạy liên tục với tốc độ
ổn định và chạy không liên tục (có gián đoạn,
hoặc chạy với tốc độ thay đổi).
Bài tập chạy “biến tốc”
Cự ly phải chạy thường chia thành các đoạn
ngắn (thường là 2 đoạn, có cự ly bằng nhau),
có đoạn phải chạy nhanh, có đoạn được chạy
chậm. Tuy nhiên, chạy nhanh hay chạy chậm,
cũng đều phải theo quy định chặt chẽ từ
trước. Đoạn chạy nhanh thường phải chạy với
tốc độ dùng trong thi đấu (hoặc nhanh hơn).
Trong sự tiến bộ của người tập (cùng với sự
đóng góp của các bài tập khác và của các yếu
tố khác), cự ly của đoạn phải chạy nhanh
được kéo dài dần với tốc độ chạy được yêu
cầu nâng tăng dần, trong khi cự ly đoạn chạy
chậm được rút ngắn dần và tốc độ chạy các
đoạn đó được tăng dần; sao cho cuối cùng vận
động viên có thể chạy hết cự ly thi đấu với tốc
độ cao, để đạt một đẳng cấp vận động viên
nào đó, hoặc giành được thứ hạng cao trong
thi đấu. Bài tập “biến tốc” chính là mức cao
hơn của chạy ¨ lặp lại”; ở đây đoạn nghỉ giữa
quãng ở chạy “lặp lại” được thay bằng đoạn
chạy chậm. Trong huấn luyện thì kiểm tra và
thi đấu cũng là một dạng bài tập. Trong số các
bài tập chạy, có nhiều bài tập được chọn làm
bài kiểm tra hoặc là nội dung thi đấu.
Các chỉ số Anaerobic Alactic Anaerobic lactic Aerobic
Thời gian chạy 0 – 10” Từ > 10” đến 1 phút Từ 1 phút đến 1h và hơn
Cự ly chạy Từ 20m đến 80m Từ > 80m đến 400m 400m – 15km và lâu hơn
Cường độ Tối đa 90% - 100% 50% - 70%
Số lần lặp lại 3 - 4 1 - 5 3 – 20
Thời gian nghỉ giữa 2 lần chạy 90” – 3 phút 2 – 10 phút 1 – 3 phút
Số tổ (nhóm) lặp lại 1 - 4 1 - 4 1 - 4
Thời gian nghỉ giữa 2 tổ (nhóm) 8 – 10’ 10 – 20’ 5 – 8’
Nguyễn Tiến Lâm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 125 - 129
128
Bài tập kiểm tra
Chạy cự ly ngắn, chạy tốc độ cao – để đánh
giá khả năng tốc . Các cự ly dài hơn để đánh
giá khả năng sức bền tốc độ và dài hơn nữa –
để đánh giá sức bền chung. Cũng có khi lại là
xác định cự ly chạy được trong một khoảng
thời gian nhất định. Hiện nay trên thế giới,
người ta thường dùng test Cooper – chạy 12
phút để đánh giá sức bền chung. Tại Việt
Nam, viện khoa học thể dục thể thao đã dùng
test chạy 5 phút (hoặc di chuyển tùy sức) để
đánh giá sức bền, dùng trong điều tra trình độ
thể chất của người Việt Nam.
Bài tập thi đấu
Ngày nay trong thi đấu chạy quốc gia và quốc
tế người ta đã quy định một số nội dung thi
đấu sau:
- Cự ly ngắn: 100m, 200m và 400m.
- Cự ly trung bình: 800m và 1500m
- Cự ly dài: 3000m, 5000m, 10.000m và
Marathon (42,195km).
Trong các cuộc thi chạy của cấp cơ sở người
ta có thể tùy ý chọn các cự ly thi khác mà
không theo các cự ly đã được quy định như
nêu ở trên, tùy theo địa điểm thi đấu và trình
độ của những vận động viên tham gia thi đấu.
Ngoài ra, trong huấn luyện các môn chạy,
việc nâng cao cảm giác cho vận động viên
cũng là một nhiệm vụ không thể bỏ qua; cụ
thể là giúp cho vận động viên có cảm giác tốc
độ chính xác để trong tập luyện có thể chạy
các đoạn đúng với thời gian huấn luyện viên
đã yêu cầu, hoặc chạy đúng tốc độ theo kế
hoạch đã định trong thi đấu, để chủ động
trong chiến thuật chạy. Để rèn luyện năng lực
này, ban đầu khi vận động viên chạy, huấn
luyện viên đọc rõ thời gian để vận động viên
biết tốc độ mình đã hoặc đang chạy. Khó hơn,
sau khi vận động viên chạy, vận động viên
phải tự đoán thời gian mình đã chạy trước rồi
huấn luyện viên mới cho vận động viên biết
chính xác thời gian mình đã theo dõi bằng
bấm giờ.
Xét cho cùng, sử dụng các bài tập chạy trong
huấn luyện chuyên môn là việc lựa chọn
chính xác để giải quyết thỏa đáng quan hệ
giữa các yếu tố:
- Các cự ly (các đoạn) cần pahỉ chạy.
- Tốc độ phải chạy khi chạy mỗi đoạn hoặc
thời gian để chạy hết cự ly đó (có khi với
cùng một cự ly nhưng tốc độ chạy ở các lần
khác nhau lại phải khác nhau).
- Thời gian nghỉ giữa quãng giữa hai lần chạy,
giữa 2 tổ (nhóm) bài tập chạy và thậm chí
thời gian giữa 2 buổi tập chạy.
- Hình thức nghỉ giữa các lần chạy. Tùy thuộc
vào trình độ vận động viên, tùy thuộc vào
nhiệm vụ buổi tập mà hình thức nghỉ có thể là:
nghỉ đến hết mệt; nghỉ hoàn toàn trong một
khoảng thời gian quy định; nghỉ tích cực (đi bộ
hoặc chạy chậm trở lại vạch xuất phát để chạy
tiếp, hoặc chạy 1 cự ly với tốc độ quy định…)
- Số lần chạy lặp lại cự ly đó trong một buổi tập.
Thí dụ: Trong một buổi tập, vận động viên
phải thực hiện 3 nhóm bài tập chạy sau:
+ 5 x 150m
+ 5 (200m + 100m)
+ 4 x 100m
Nếu chỉ ghi như vậy, nhất định vận động viên
sẽ không biết phải chạy như thế nào và chắc
chắn dù vận động viên có chạy đủ nội dung quy
định có lẽ cũng không có được kết quả như
huấn luyện viên mong muốn. Nếu tập với mục
đích phát triển sức bền tốc độ, cần nghi rõ:
- lặp lại 5 x 100m với 20 – 22 giây/150m;
nghỉ giữa 2 lần chạy bằng đi bộ 150m.
- Nghỉ (đến khi mạch còn 110 – 120
lần/phút).
- Biến tốc 5 (200m + 100m); 28 – 30
giây/200m; 100m chạy chậm, không quy định
tốc độ nhưng phải là chạy không phải đi bộ
hay đúng nghỉ tại chỗ. Phải nhớ rằng các bài
tập này vận động viên phải chạy liên tục
1500m theo trình tự: 200m chạy nhanh lại có
100m chạy chậm, toàn bộ là 1000m chạy với
thời gian 28 – 30 giây và 500m chạy chậm.
Nguyễn Tiến Lâm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 125 - 129
129
Hoàn toàn không phải chạy lặp lại 5 lần tổ bài
tập 200m + 100m – nếu là chạy lặp lại thì
phải quy định cách nghỉ giữa 2 tổ và ít nhất
phải có 4 lần nghỉ.
- Nghỉ (đến khi mạch còn 110 – 120 lần / phút).
- Lặp lại 4 x 100m – chạy 100m với 85 – 90%
sức; nghỉ giữa 2 lần chạy là đi bộ về vạch
xuất phát.
Nếu buổi tập có nhiệm vụ phát triển tốc độ thì
các cự ly chạy phải ngắn hơn, nhưng phải
chạy với tốc độ cao hơn và việc nghỉ giữa hai
lần chạy phải đủ để hết mệt. Nếu với nhiệm
vụ phát triển sức bền chung: các đoạn chạy
cần dài hơn và chạy với tốc độ chậm hơn.
Thời gian nghỉ giữa 2 lần chạy thường không
đủ để hồi phục hoàn toàn.
Các huấn luyện viên và vận động viên có thể
theo dõi việc tập luyện có đúng kế hoạch hay
không trên cơ sở theo dõi cự ly chạy – với các
mốc có sẵn trên sân. Dùng đồng hồ bấm giây
(với đồng hồ điện tử có thể theo dõi chính xác
đến 1% giây) và cũng có thể theo dõi nhịp tim
của vận động viên (nếu có dụng cụ chuyên
dụng để theo dõi được từ xa là tốt nhất). Huấn
luyện viên cũng có thể theo dõi mức độ mệt
mỏi của vận động viên thông qua các biểu
hiện bên ngoài: sắc mặt mức độ ra mồ hôi,
mức độ biến dạng của kỹ thuật chạy (do mệt
mỏi không duy trì được kỹ thuật chạy chính
xác, không phối hợp được hoạt động của các
bộ phận cơ thể một cách nhịp nhàng), nhịp
thở (khi mệt vận động viên thường thở nông,
không theo nhịp điệu…).
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Nguyễn Huy Bích (1999), Tự kiểm tra sưc khỏe
trong tập luyện. Nxb TDTT Hà Nội
2. Vũ Thị Thanh Bình, Nông Thị Hồng, Lê Quý
Phượng, Vũ Chung Thuỷ (1998), Vệ sinh và Y học
TDTT, Nxb TDTT Hà Nội
3. Điền kinh và Thể dục (2010), Nxb GD
4. Luật Điền kinh (2012), Nxb TDTT Hà Nội
5. Sách giáo khoa Điền kinh dùng cho sinh viên
Đại học TDTT (2011), Nxb TDTT Hà Nội
6. Sinh lý học Thể dục thể thao (2003), Nxb TDTT
7. Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn (2006), Lý luận và
Phương pháp thể dục thể thao, Nxb TDTT Hà Nội
SUMMARY
IMPLEMENTATION OF RUNNING EXERCISES IN
SPORTS TEACHING AND TRAINING
Nguyen Tien Lam*, Nguyen Tien Phong,
Hoang Chi Thanh, Phi Thi Hong Van, Tran Thi Tiep College of Economics and Business Administration - TNU
Running is one of the main subjects and plays an important role in athletics. Not only does it have
a positive effect on improving people’s health but it is also a sport preferred by lots of people;
therefore, it is highly recommended by athletic coaches to apply in training courses. In addition,
running exercises are very plentiful and varied without requiring costly and special conditions on
tracks and facilities, etc. However, the challenge is that the coach and athletes have to master,
select and implement assignments correctly, meet the training requirements and be appropriate to
the levels and characteristics of the athletes.
Key words: running execises, complemetary speciality, general physical strength.
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:30/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Lê Hải Bằng – Trường Đại học Khoa học - ĐHTN
* Tel: 0912 145298; Email: [email protected]
Nguyễn Tiến Lâm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 125 - 129
130
Phạm Thị Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 131 - 135
131
MÂU THUẪN TRONG THỰC HIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Phạm Thị Nga*, Ngô Thị Tân Hương
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Sau gần 30 năm tiến hành đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa cũng nảy sinh không ít những mâu thuẫn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Việc phát hiện
và giải quyết những mâu thuẫn này có ảnh hưởng lớn đến tiến trình thực hiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa: hoặc kìm hãm sự phát triển – nếu không phát hiện kịp thời và
giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn; hoặc thúc đẩy sự phát triển – nếu được phát hiện kịp thời và giải
quyết triệt để mâu thuẫn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích mâu thuẫn giữa
mục tiêu phát triển nhanh với mục tiêu phát triển bền vững.
Từ khóa: mâu thuẫn, động lực, kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Qua gần 30 năm xây dựng và phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, bên cạnh những thành tựu đạt
được đã nảy sinh mâu thuẫn giữa mục tiêu
phát triển nhanh với mục tiêu phát triển bền
vững trên các lĩnh vực cơ bản: kinh tế, xã hội
và môi trường. Mâu thuẫn giữa mục tiêu
phát triển nhanh với mục tiêu phát triển bền
vững thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thư nhất, tính thiếu bền vững của cân đôi
bên ngoài: Xét trên khía cạnh bền vững, cân
đối bên ngoài của Việt Nam còn nhiều điều
bất cập.
Một là, trong cơ cấu xuất khẩu, xuất siêu
thuộc về khu vực đầu tư nước ngoài (FDI),
khu vực đầu tư trong nước vẫn nhập siêu:
năm 2012, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài xuất siêu gần 12 tỷ USD, doanh
nghiệp trong nước nhập siêu gần 11,7 tỷ
USD [3, tr.9]. Bên cạnh đó, tỷ trọng của khu
vực kinh tế trong nước trong cơ cấu xuất
khẩu hàng hóa năm 2000 là 52,98%, giảm
xuống còn 36,93 % năm 2012. Tỷ trọng này
của khu vực FDI tăng lên tương ứng từ 47,02
năm 2000 lên 63,07% năm 2012. Điều này
cho thấy năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước còn thấp.
* Tel: 0962 260638, Email: [email protected]
Hai là, sự thâm hụt của cán cân thương mại
dịch vụ kéo theo sự thâm hụt của cán cân
hàng hóa và dịch vụ: năm 2012, cán cân
thương mại hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam
đã thâm hụt 3,1 tỷ USD, tăng 8,3% so với
mức cùng kỳ năm trước[3, tr.11]. Thêm vào
đó, thâm hụt tài khoản vãng lai liên tục tăng
từ mức 0,3% GDP năm 2006 lên 9,85% năm
2007 và 12,85% năm 2008, vượt xa so với
chuẩn an toàn của thế giới (dưới 5% GDP).
Thứ hai, tính thiếu bền vững của cân đối
bên trong
Tính bền vững của cân đối bên trong thể
hiện qua chất lượng tăng trưởng, năng suất,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Cụ thể:
Một là, chất lương tăng trưởng còn thấp,
chủ yếu dựa vào các yếu tô phát triển theo
chiều rộng: tăng trưởng kinh tế trong những
năm qua bị chi phối chủ yếu bởi yếu tố vốn.
Riêng năm 2013, những nhân tố tác động
đến tăng trưởng GDP của Việt Nam gồm:
vốn chiếm tới 57,54%, cao gấp hơn 2 lần
đóng góp của nhân tố lao động (chiếm
25,5%).
Ở Việt Nam, đóng góp của yếu tố năng suất
tổng hợp (TFP) còn thấp (nếu giai đoạn 2000
– 2006, hệ số này đóng góp vào tăng trưởng
khoảng trên 25% thì đến giai đoạn 2006 –
Phạm Thị Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 131 - 135
132
2012, con số này đã giảm đáng kể chỉ còn
dưới 10%). Năm 2013, TFP chiếm
16,25%[7].
Đưa ra con số so sánh, có thể thấy các nước
khác, trong cùng thời kỳ 2001-2009, tỷ lệ
đóng góp của nhân tố TFP vào tăng trưởng
GDP của Việt Nam (20%) thấp hơn rất nhiều
so với Hàn Quốc (32,2%), Đài Loan (35%),
Inđônêxia (28%), Thái Lan (36%). Ở các
nước phát triển, tỷ lệ đóng góp của TFP vào
tăng trưởng GDP thường rất cao, khoảng 60 –
75% [4, tr.25].
Tăng trưởng kinh tế chưa dựa nhiều vào tri
thức, khoa học và công nghệ. Chỉ số tri thức
(Knowledge Index - KI) và chỉ số kinh tế tri
thức (Knowledge Economy Index - KEI) (do
Viện Nghiên cứu Ngân hàng Thế giới đưa
ra) của Việt Nam năm 2008 là 3,02, xếp thứ
102 trong 133 quốc gia được phân tích. So
với các nước trong khu vực, chỉ số KEI của
Việt Nam chưa bằng 1/2 của nhóm nền kinh
tế công nghiệp mới (NIEs) (gồm Hàn Quốc,
Singapo, Đài Loan, Hồng Kông).
Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Nợ
xấu còn cao (đến cuối tháng 8/2013, tỷ lệ nợ
xấu trong tổng dư nợ tín dụng là 4,64%). Tuy
nhiên, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia
đưa ra con số tỷ lệ nợ xấu là 11,8% tương
đương với khoảng 270.000 tỷ đồng [5, tr.34].
Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động
còn lớn: Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, đến cuối năm 2012 có tới 55.000
doanh nghiệp giải thể hoặc dừng hoạt động.
Đây là năm có số lượng doanh nghiệp giải thể
hoặc dừng hoạt động cao nhất từ trước tới
nay. Bước sang năm 2013, trong 2 tháng đầu
năm, cả nước có 8.600 doanh nghiệp ngừng
hoạt động, trong khi số doanh nghiệp mới
thành lập chỉ đạt ở mức 8.000[8].
Hai là, hiệu quả đầu tư thấp. Hiệu quả đầu
tư được xác định thông qua hệ số ICOR. Hệ
số ICOR xác định hiệu quả sử dụng vốn trong
nền kinh tế.
Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ
đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm
2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến 43.1%, đến
hết tháng 8 năm 2009 tỷ lệ này là 43,9%. Dù
đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng
chỉ từ 6 - 8.5%, năm 2009, mức tăng trưởng
của Việt Nam cũng chỉ dừng ở 5,2%, do đó,
hệ số ICOR luôn ở mức cao.
Ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng
tăng lên tức là khi kinh tế càng phát triển thì
để tăng thêm một đơn vị liên kết sản xuất cần
nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và
nhân tố vốn nói riêng và khi đó đường sản
lượng thực tế gần tiệm cận với đường sản
lượng tiềm năng. Như vậy, việc hệ số ICOR
của Việt Nam tăng lên qua các năm một phần
cũng là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, điều
đáng nói là hệ số này của Việt Nam tăng quá
nhanh trong những năm gần đây.
Bảng 1: ICOR Việt Nam qua các giai đoạn
Giai đoạn ICOR
1991 – 1995 3,5
1996 – 2000 4,8
2001 – 2003 5,24
2004 – 2006 5,04
2007 – 2008 6,15
2008 – 2010 6,7
2011 – 2013 5,6
Nguồn: Gso.gov.vn và xử lý của tác giả
Về mặt lý thuyết, các nước phát triển (do sử
dụng nhiều vốn mà thực chất là máy móc
thiết bị, công nghệ) thì hệ số ICOR thường
cao hơn các nước đang phát triển (do sử dụng
nhiều lao động). Tuy nhiên, so sánh ICOR
của Việt Nam với các nước trong khu vực
Đông Nam Á và Trung Quốc cho thấy, các
nước này có hệ số ICOR của nhiều thập kỷ
gần đây phổ biến là từ 3 – 4, như vậy là hệ số
ICOR của Việt Nam luôn cao gấp rưỡi hoặc
gấp đôi so với những nước này.
Ba là, sưc cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt
Nam còn thấp và chậm được cải thiện: chỉ số
năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global
Competitiveness Index - GCI) của Việt Nam
liên tục giảm: xếp hạng 61 năm 2004/2005,
hạng 64 năm 2006/2007, hạng 68 năm
Phạm Thị Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 131 - 135
133
2007/2008, hạng 70 năm 2008/2009 và hạng
75 năm 2009/2010. Năm 2011/2012, Viêt
Nam đã vươn lên xếp hạng thứ 65 nhưng
ngay lập tức bị tụt 10 bậc từ hạng 65 xuống
hạng 75 năm 2012/2013 [2, tr.3] và hiện là
nước có thứ hạng thấp thứ hai trong số 8
thành viên ASEAN được khảo sát trong đó,
Việt Nam xếp hạng thấp nhất về môi trường
kinh tế vĩ mô, đứng ở vị trí thứ 106.
Trong khi đó, Inđônêxia hiện đang trong
cùng giai đoạn phát triển như Việt Nam
nhưng năng lực cạnh tranh cao hơn 25 bậc so
với Việt Nam, Thái Lan cao hơn Việt Nam
37 bậc, Malaysia cao hơn Việt Nam 50 bậc.
Thậm chí xét về chỉ số cạnh tranh kinh
doanh (năng lực cạnh tranh ở tầm vi mô) của
Việt Nam cũng thấp hơn khá nhiều (thấp hơn
Inđônêxia 40 bậc, Trung Quốc 19 bậc và
Thái Lan 39 bậc).
Điều này cho thấy những yếu kém xét cả từ
phía doanh nghiệp và Nhà nước, từ góc độ
chiến lược kinh doanh và môi trường kinh
doanh. Đây là những dấu hiệu “cảnh báo”
rằng nếu không có những giải pháp tăng
cường hiệu quả hơn, nền kinh tế Việt Nam có
thể sẽ tiếp tục bị tụt hậu xa hơn và ảnh hưởng
đến sự phát triển bền vững trong dài hạn.
Qua phân tích trên cho thấy, ổn định kinh tế
vĩ mô phải trở thành mục tiêu thường xuyên
của chính sách. Điều này tạo ra điều kiện cần
cho cải cách cơ cấu kinh tế - động lực quan
trọng và có tính quyết định đối với sự phát
triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam
trong dài hạn.
Bảng 2: Tăng trưởng GDP và ICOR một sô quôc gia Đông Nam Á
Quốc gia Giai đoạn Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) Đầu tư/GDP (%) ICOR
Hàn quốc 1961 – 1980 7,9% 23,3 3,0
Đài Loan 1961 – 1980 9,7% 26,2 2,7
Indonesia 1981 – 1995 6,9% 25,7 3,7
Thái Lan 1981 – 1995 8,1% 33,3 4,1
Trung Quốc 2001 – 2006 9,7% 38,8 4,0
Việt Nam 2001 – 2006 7,6% 39,1 5,1
Nguồn: World Bank
Bảng 3: Một sô nước Đông Nam Á đươc xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2012 – 2013
và có so sánh với năm trước đó
Quốc gia Thứ hạng GCI 2012-2013 Thứ hạng GCI 2011 -2012
Singapo 2 2
Malaysia 25 21
Brunây 28 28
Thái Lan 38 39
Inđônêxia 50 46
Philipin 65 75
Việt Nam 75 65
Campuchia 84 97
Timor Leste 136 131
Nguồn: The Global Competitiveness Index 2012–2013,World Economic Forum, 2013
Phạm Thị Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 131 - 135
134
VỀ MÔI TRƯỜNG
Môi trường hiện nay của Việt Nam tiếp tục
bị xuống cấp, ô nhiễm nước, không khí, suy
giảm đa dạng sinh học đã đến mức báo động.
Hiện nay, Việt Nam là một trong số ít quốc
gia trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất của biến đổi khí hậu. Theo Báo cáo của
Ngân hàng Thế giới (2008), với mực nước
biển dự báo dâng cao 1m thì nền kinh tế Việt
Nam sẽ chịu thiệt hại khoảng 17 tỷ đô la Mỹ
hàng năm, gây ngập 12% diện tích đất ven
biển và ảnh hưởng tới cuộc sống của 23%
dân số sống tại khu vực này.
VỀ VĂN HÓA, XÃ HỘI
Lĩnh vực văn hóa, xã hội còn tồn tại nhiều
hạn chế, yếu kém. Giải quyết việc làm chưa
đạt kế hoạch. Việc thực hiện các chính sách
về hỗ trợ hộ nghèo còn nhiều bất cập, chất
lượng xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc.
Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, tái nghèo còn cao
nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số: năm
2012, còn khoảng 1 triệu hộ cận nghèo, số
hộ tái nghèo chiếm 7 – 10% tổng số hộ thoát
nghèo, còn 62 huyện có trên 50% hộ nghèo.
Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2013 là 9,8%
Trong tháng 6/2014, cả nước có 23 nghìn hộ
thiếu đói, tương ứng với 97 nghìn nhân khẩu
thiếu đói. Tính chung 6 tháng đầu năm 2014,
cả nước có 271,2 nghìn lượt hộ thiếu đói [1,
tr.10]. Phân hóa giàu nghèo gia tăng: chênh
lệch thu nhập giữa nhóm dân cư có thu nhập
cao nhất và nhóm dân cư có thu nhập thấp
nhất còn lớn, giai đoạn 2001 – 2008 là 8,14
lần, giai đoạn 2006 – 2007 là 8,4 lần. Tỷ lệ
hộ nghèo giữa vùng Tây Bắc (vùng có tỷ lệ
hộ nghèo cao nhất: 31,5%), cao gấp 9,8 lần
vùng Đông Nam Bộ (vùng có tỷ lệ hộ nghèo
thấp nhất: 3,2%).
Tình trạng thiếu việc làm còn phổ biến. Tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng
đầu năm 2014 là 2,14% (Quý I là 2,21%; quý
II là 2,07%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp của lao
động trong độ tuổi khu vực thành thị là 3,62%
(Quý I là 3,72%; quý II là 3,52%), cao hơn
mức 3,19% của quý IV năm 2013; tỷ lệ thất
nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực
nông thôn là 1,47%. Tỷ lệ thiếu việc làm 6
tháng là 2,63% (Quý I là 2,78%; quý II là
2,47%), trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực
thành thị là 1,33%; khu vực nông thôn là
3,20%, thấp hơn mức 3,37% của quý I và
3,23% của quý IV năm 2013. Tỷ lệ thất
nghiệp của thanh niên (từ 15 - 24 tuổi) 6
tháng là 6,32%, trong đó khu vực thành thị là
11,87%; khu vực nông thôn là 4,54%. Tỷ lệ
thất nghiệp của người lớn (từ 25 tuổi trở lên)
6 tháng là 1,18%, trong đó khu vực thành thị
là 2,23%; khu vực nông thôn là 0,71%[9].
An sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa thật
vững chắc, hơn 80% lực lượng lao động
chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Công tác
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân
còn nhiều bất cập. Hệ thống y tế, chất lượng
dịch vụ y tế và đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ y bác sỹ còn nhiều bất cập. Điều kiện
chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều
thiếu thốn. Tình trạng quá tải ở các bệnh
viện truyến trung ương, tuyến tỉnh còn cao.
Đầu tư cho y tế còn thấp, tỷ lệ chi ngân sách
Nhà nước mới đạt khoảng 8,5%.
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể nói những bước đi sau gần 30
năm tiến hành đổi mới đất nước còn chứa
đựng nhiều mâu thuẫn đồng thời thiếu tính
bền vững trên cả ba mặt: kinh tế, môi trường
và văn hóa, xã hội. Từ thực tiễn trên cho
thấy, nếu chỉ chú trọng vào mục tiêu phát
triển nhanh là chưa đủ. Xuất phát từ nhận
thức này, Dự thảo chiến lược Phát triển kinh
tế - xã hội 2011 – 2020 đã xác định “Phát
triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững,
phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suôt trong
Chiến lươc”. Đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa
phát triển nhanh và bền vững “phát triển bền
vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển
nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền
vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn
gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển kinh tế - xã hội”.
Phạm Thị Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 131 - 135
135
TÀI LIỆU THAM KHAO
1. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã
hội năm 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5
năm 2011 – 2015 và nhiệm vụ 2014 – 2015.
2. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2012 –
2013 của WEF – Trung tâm xử lý và phân tích
thông tin ( Cục Thông tin khoa học và công nghệ
quốc gia).
3. Uỷ ban Kinh tế Quốc hội năm 2013, Bản tin
Kinh tế Vĩ mô. Số 8 – Quý I/2013.
4. PGS. TS Ngô Thắng Lợi, “Thực hiện mục tiêu
vươt qua ngưỡng nước đang phát triển, có mưc
thu nhập thấp – một sô đánh giá ban đầu”, Tạp
chí nghiên cứu – Trao đổi số 25 (3 + 4/2009)
5. PGS. TS Nguyễn Thị Mùi: Thực trạng nợ xấu
tại các Ngân hàng Việt Nam và giải pháp tháo gỡ.
6]. PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn, Kinh tế Việt Nam
2012 và hàm ý chính sách 2013; Một vài bình luận
từ giác độ tính bền vững, Diễn đàn Kinh tế mùa
xuân, 4/2013
7. Bùi Quang Vinh, Chương trình Dân hỏi Bộ
trưởng trả lời ngày 15/12/2013.
8. http://vnmedia.vn/VN/kinh - te/thi truong/13
789667/8600 doanh nghiep ngung hoat dong trong
dau nam 2013.html.
9. Gso.gov.vn
SUMMARY
CONFLICT OF PERFORMANCE MARKET ECONOMY
SOCIALIST ORIENTED IN VIETNAM
Pham Thi Nga*, Ngo Thi Tan Huong College of Economics and Business Administration – TNU
After nearly 30 years of innovation, our nation has made great achievements in all fields of social
life. However, implementing process-oriented market economy and socialism arose many conflicts
both theoretical and practical. Detecting and resolving these conflicts have great influence on the
process of implementing economy-oriented market socialism: or inhibit the development - if not
detected promptly and satisfactorily resolve conflicts support; or promote the development - if
detected promptly and thoroughly solve conflicts. Within the scope of this article, we focus on
analyzing the contradictions between development goals faster with the goal of sustainable
development.
Keywords: conflict, motivation, market economy, socialist orientation, Vietnam
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Tạ Thị Thanh Huyền – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0962 260638, Email: [email protected]
Phạm Thị Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 131 - 135
136
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 137 - 141
137
PHÂN TÍCH SỰ CÂN BẰNG TÀI CHÍNH TẠI DOANH NGHIỆP
NGÀNH XI MĂNG NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Việt Dũng*, Dương Thanh Tình Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Phân tích sự cân bằng tài chính là một nội dung quan trọng trong công tác quản trị tài chính doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngành xi măng niêm yết (DNXMNY) tại Việt Nam. Qua sự
phân tích này, các doanh nghiệp sẽ đánh giá được sự phù hợp giữa cấu trúc tài sản và cấu trúc
nguồn vốn của mình. Trong giai đoạn hậu suy thoái kinh tế hiện nay, duy trì được sự cân bằng tài
chính sẽ giúp cho doanh nghiệp ngành xi măng niêm yết tại Việt Nam giảm thiểu rủi ro tài chính,
nâng cao hiệu quả kinh doanh, vượt qua khủng hoảng.
Từ khóa: Tài chính doanh nghiệp, cân bằng tài chính
SỰ CÂN BẰNG TAI CHÍNH TRONG
DOANH NGHIỆP*
Cân bằng tài chính được định nghĩa bởi sự
cân bằng giữa tài sản và nguồn vốn, bởi sự
phù hợp giữa thời gian chuyển đổi tài sản
thành tiền và thời gian đáo hạn của các khoản
nợ tới hạn. Căn cứ theo thời hạn chuyển đổi
thành tiền, tài sản của doanh nghiệp được chia
thành tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Tài
sản ngắn hạn là loại tài sản có thời gian
chuyển đổi thành tiền dưới 1 năm. Tài sản dài
hạn là loại tài sản có thời gian hoàn vốn lớn
hơn 1 năm. Để hình thành nên hai loại tài sản
này, có hai nguồn vốn là nguồn vốn dài hạn
và nguồn vốn ngắn hạn. Nguồn vốn dài hạn
bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản
nợ dài hạn có thời gian đáo hạn trên 1 năm.
Ngược lại, các khoản nợ ngắn hạn có thời
gian đáo hạn dưới 1 năm được gọi là nguồn
vốn ngắn hạn. Nguyên lý chung, nguồn vốn
dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành
tài sản dài hạn, phần còn lại của nguồn vốn
dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư
để hình thành tài sản ngắn hạn. Khi đó, phần
chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và tài sản
dài hạn được gọi là nguồn vốn lưu động
thường xuyên. Đây là chỉ tiêu phản ánh cách
thức tài trợ vốn lưu động của doanh nghiệp,
đánh giá mức độ an toàn và rủi ro tài chính
trong hoạt động của doanh nghiệp.
* Tel:
Nguồn vốn lưu động thường xuyên (còn gọi
là vốn lưu động thuần – NWC) được xác định
như sau:
NWC = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản dài hạn
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cách thức tài
trợ vốn lưu động của doanh nghiệp, đánh giá
mức độ rủi ro tài chính trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Qua công thức trên, ta có thể đánh giá tình
hình tài trợ vốn lưu động của doanh nghiệp.
Nếu NWC > 0: Hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ có sự ổn định vì có một bộ
phận nguồn vốn lưu động thường xuyên tài
trợ cho tài sản lưu động.
Nếu NWC < 0: Hoạt động kinh doanh sẽ gặp
rủi ro, là dấu hiệu việc sử dụng vốn sai, cán cân
thanh toán chắc chắn mất cân bằng. Đặc biệt
trong các lĩnh vực công nghiệp hay xây dựng.
Nếu NWC = 0: Cách tài trợ này cho thấy, tài
sản cố định được tài trợ bằng nguồn vốn dài
hạn, còn tài sản lưu động được tài trợ bằng
nguồn vốn ngắn hạn. Trường hợp này cũng
không tạo ra sự ổn định trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, đặc biệt đối với
những ngành có tốc độ quay vòng vốn chậm.
THỰC TRẠNG CÂN BẰNG TAI CHÍNH
TẠI DOANH NGHIỆP NGANH XI MĂNG
NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
Trong những năm qua, ngành công nghiệp xi
măng Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc,
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 137 - 141
138
quy mô và năng suất đều tăng, đáp ứng nhu
cầu xi măng cho phát triển đất nước. Tuy
nhiên, ngành công nghiệp xi măng Việt Nam
gặp rất nhiều khó khăn như tình trạng cung
vượt quá nhu cầu xi măng, mức độ cạnh tranh
gay gắt, giá các yếu tố đầu vào như điện,
than, chi phí vận tải không ngừng gia tăng, lãi
suất tăng cao. Theo Hiệp hội Xi măng Việt
Nam cho biết, hiện nay chỉ khoảng 50%
doanh nghiệp xi măng có thể trụ được, 30%
doanh nghiệp khó khăn và 20% doanh nghiệp
hết sức khó khăn và có nguy cơ phá sản. Việc
phân tích sự phù hợp giữa cấu trúc tài sản và
cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp xi măng
hiện nay giúp cho doanh nghiệp ngành xi
măng giảm thiểu rủi ro tài chính, nâng cao
hiệu quả kinh doanh, vượt qua khủng hoảng.
Các chỉ tiêu cơ bản phản ánh cấu trúc tài sản
của doanh nghiệp như tỷ suất đầu tư tài sản
ngắn hạn, tỷ suất đầu tư tài sản dài hạn. Cấu
trúc tài sản của các DNXMNY giai đoạn 2009
- 2013 được thể hiện qua hình 1.
Tài sản dài hạn có xu hướng tăng lên trong
giai đoạn 2009 – 2013. Tỷ suất đầu tư tài sản
dài hạn bình quân trong giai đoạn 2009 –
2013 là 59,62%. Tài sản ngắn hạn có quy mô
tăng lên trong 5 năm qua. Nhưng trong giai
đoạn 2011 – 2013, quy mô tài sản ngắn hạn
có xu hướng giảm xuống, tỷ suất đầu tư tài
sản ngắn hạn có xu hướng giảm xuống. Tỷ
suất đầu tư tài sản ngắn hạn bình quân trong
giai đoạn 2009 – 2013 là 40,38%. Như vậy,
cấu trúc tài sản của DNXMNY trong giai
đoạn 2009 – 2013 xoay quanh cấu trúc 60%
tài sản dài hạn và 40% tài sản ngắn hạn. Cấu
trúc tài sản đã có sự thay đổi từ năm 2009,
cấu trúc tài sản năm 2009 là 54% tài sản dài
hạn và 46% tài sản ngắn hạn. Sang giai đoạn
2010 – 2013, cấu trúc tài sản của DNXMNY
xoay quanh cấu trúc 61% tài sản dài hạn và
39% tài sản ngắn hạn.
Các chỉ tiêu cơ bản phản ánh cấu trúc nguồn
vốn của doanh nghiệp như hệ số nợ, hệ số vốn
chủ sở hữu, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu.
Cấu trúc nguồn vốn của các DNXMNY giai
đoạn 2009 - 2013 được thể hiện qua Bảng 01.
Qua bảng 01, nhận thấy hệ số nợ của các
doanh nghiệp có xu hướng gia tăng liên tục
trong giai đoạn 2009 – 2013. Trong cấu trúc
nợ của các doanh nghiệp, chủ yếu là khoản nợ
ngắn hạn và có xu hướng tăng liên tục. Trong
giai đoạn 2009 -2010, các DNXMNY duy trì
cấu trúc nợ là 54% nợ ngắn hạn và 46% nợ
dài hạn. Sang giai đoạn 2011 – 2013, cấu trúc
nợ của các DNXMNY đã có sự thay đổi theo
hướng nợ ngắn hạn tăng lên, nợ dài hạn giảm
xuống, cấu trúc nợ mới trong giai đoạn này là
59% nợ ngắn hạn và 41% nợ dài hạn. Việc sử
dụng nhiều nợ ngắn hạn sẽ gây áp lực lên khả
năng thanh toán của doanh nghiệp.
Nguồn: BCTC của 18 DNXM nghiên cưu và tính toán của tác giả
Hình 01: Tỷ trọng đầu tư vào tài sản của doanh nghiệp đươc khảo sát
Tỷ suất đầu tư
Tà
i sả
n D
N
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 137 - 141
139
Bảng 01: Cấu trúc nguồn vôn của Doanh nghiệp XM nghiên cưu
ĐVT: %
TT Chỉ tiêu 2009 2010 2011 2012 2013
1 Hệ số nợ 57,96 61,39 66,33 67,62 72,02
1.1 Hệ số nợ NH 30,98 33,46 38,79 40,97 42,05
1.2 Hệ số nợ DH 26,98 27,94 27,55 26,65 29,97
2 Hệ số VCSH 42,00 38,52 33,56 32,28 27,87
Nguồn: BCTC của 18 DNXM nghiên cưu và tính toán của tác giả
Bảng 02: NWC của doanh nghiệp xi măng đươc khảo sát
ĐVT: %
TT Chỉ tiêu 2009 2010 2011 2012 2013
1 Tỷ suất đầu tư TSDH 54,15 61,06 61,91 59,62 61,39
2 Nguồn vốn dài hạn 68,97 66,46 61,10 58,92 57,84
2.1 Nợ dài hạn 26,98 27,94 27,55 26,65 29,97
2.1 Vốn chủ sở hữu 42,00 38,52 33,56 32,28 27,87
3 NWC 14,83 5,40 -0,80 -0,70 -3,55
Nguồn: BCTC của 18 DNXM nghiên cưu và tính toán của tác giả
Hệ số vốn chủ sở hữu giảm liên tục trong giai
đoạn 2009 – 2013, từ 42% năm 2009 xuống
còn 27,87% năm 2013. Vốn chủ sở hữu được
hình thành từ ba nguồn cơ bản là số tiền vốn
góp của các nhà đầu tư, số tiền tạo ra từ kết
quả hoạt động kinh doanh (lợi nhuận chưa
phân phối) và chênh lệch đánh giá lại tài sản.
Như vậy, nguồn vốn của doanh nghiệp xi
măng chủ yếu được tài trợ bằng nợ phải trả.
Trong đó, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn
trong cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp.
Để thấy được sự cân bằng về mặt tài chính của
doanh nghiệp xi măng niêm yết, ta thực hiện
phân tích chỉ tiêu NWC thông qua bảng 02.
Thông qua bảng 02, ta thấy trong giai đoạn
2009 – 2013, các doanh nghiệp sản xuất xi
măng không quan tâm đến sự cân bằng tài
chính trong vấn đề tài trợ vốn. Điều này thể
hiện thông qua chỉ tiêu nguồn vốn lưu động
thường xuyên (NWC) có xu hướng giảm liên
tục từ mức 14,83% năm 2009 xuống còn –
3,55% năm 2013. Tỷ trọng tài sản dài hạn
trên tổng tài sản không có sự biến động lớn
trong 5 năm qua, tuy nhiên tỷ trọng nguồn
vốn dài hạn trên tổng nguồn vốn có xu hướng
giảm dần, từ mức 68,97% năm 2009 xuống
còn 57,84% năm 2013, làm cho sự cân bằng
tài chính giảm xuống.
Trong giai đoạn 2009 – 2010, chỉ tiêu nguồn
vốn lưu động thường xuyên lớn hơn 0, chứng
tỏ nguồn vốn dài hạn đủ để tài trợ cho tài sản
dài hạn và một phần tài sản ngắn hạn, doanh
nghiệp sẽ có sự ổn định trong hoạt động kinh
doanh, nguyên tắc tài trợ được đảm bảo
nhưng chưa ổn định theo thời gian và có xu
hướng giảm xuống. Trong giai đoạn 2011 –
2013, chỉ tiêu nguồn vốn lưu động thường
xuyên có giá trị âm, lần lượt qua các năm là
0,8%, 0,7% và 3,55%. Chứng tỏ nguồn vốn
dài hạn không đủ để tài trợ cho tài sản dài hạn
và một phần tài sản dài hạn được tài trợ bằng
nguồn vốn ngắn hạn. Đây là dấu hiệu việc sử
dụng vốn sai, cán cân thanh toán chắc chắn đã
mất thăng bằng. Điều này càng đáng lo ngại
hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xây dựng như ngành xi măng.
Trong cấu trúc tài sản dài hạn của doanh
nghiệp sản xuất xi măng được khảo sát, tài
sản cố định là khoản mục có tỷ trọng lớn nhất.
Trong giai đoạn 2009 – 2012, nguồn vốn dài
hạn của doanh nghiệp sản xuất xi măng được
khảo sát đều lớn hơn giá trị tài sản cố định,
tức là tài sản cố định đã được tài trợ hoàn toàn
bằng nguồn vốn dài hạn. Phần nhỏ còn lại của
tài sản dài hạn sẽ được tài trợ bằng phần còn
lại của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn
hạn. Tuy nhiên, với đặc điểm của ngành sản
xuất xi măng có tốc độ quay vòng vốn kinh
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 137 - 141
140
doanh chậm, đặt trong điều kiện thị trường
bất động sản gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng
kinh tế chậm thì cách thức tài trợ này sẽ chứa
đựng rủi ro trong công tác huy động vốn và
sử dụng vốn. Riêng năm 2013, nguồn vốn dài
hạn không đủ tài trợ cho tài sản cố định. Phần
còn lại của tài sản cố định nói riêng và tài sản
dài hạn nói chung sẽ được tài trợ bằng nguồn
vốn ngắn hạn. Đây là vấn đề mạo hiểm trong
công tác tổ chức huy động vốn.
MỘT SỐ GIAI PHÁP NHẰM CAI THIỆN
SỰ CÂN BẰNG TAI CHÍNH CỦA DOANH
NGHIỆP XI MĂNG NIÊM YẾT
Đối với doanh nghiệp xi măng
Thứ nhất, do đặc điểm của ngành xi măng là
quy mô vốn đầu tư lớn, tỷ trọng tài sản cố
định cao. Vì vậy, nguồn tài trợ từ vay nợ phải
mang tính chất dài hạn. Về phía doanh nghiệp
xi măng, cần tích cực nâng cao hiệu quả quản
lý và hiệu quả kinh doanh, tạo niềm tin cho
các đối tác và ngân hàng thương mại
(NHTM) khi vay vốn. Về phía ngân hàng
thương mại, do khó khăn của ngành xi măng
hiện nay, NHTM cần thực hiện tái cơ cấu
khoản nợ vay qua việc (a) Kéo giãn thời gian
trả nợ thêm đủ để Công ty mới có thể thực
hiện việc tái cấu trúc và trả nợ vay (b) Giảm áp
lực trả nợ bằng cách xóa nợ đối với các khoản
lãi vay quá hạn cũ (lãi phạt, bằng 150% lãi vay
thông thường) và (c) Xem xét bổ sung hạn mức
vay vốn lưu động cho doanh nghiệp mới thành
lập sau khi M&A.
Thứ hai, đối với nguồn vốn chủ sở hữu:
Trong chính sách huy động và sử dụng vốn,
cần ưu tiên sử dụng phần lợi nhuận để tái đầu
tư. Đây là nguồn vốn rất quan trọng để nâng
cao khả năng tự chủ của doanh nghiệp. Tiếp
cận thị trường vốn một cách linh hoạt, thực
hiện phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên
thị trường chứng khoán.
Thứ ba, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn
bằng cách tăng cường công tác tiêu thụ sản
phẩm. Tích cực đổi mới công nghệ, nâng cao
hiệu quả sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành
sản phẩm.
Đối với Chính phủ
Thứ nhất: Cần rà soát lại quy hoạch phát triển
công nghiệp xi măng Việt Nam giai đoạn
2011 – 2020 và định hướng đến năm 2030
cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế -
xã hội, hạn chế tình trạng dư thừa xi măng
dựa trên Quyết định 1488/QĐ-TTg ký ngày
29/8/2011. Cụ thể, Bộ Xây dựng cơ quan chủ
quản Ngành xi măng cần thực hiện các yêu
cầu sau:
- Dự báo sát nhu cầu thị trường, để từ đó đưa
ra lộ trình phát triển sản xuất phù hợp.
- Trước tình hình khó khăn của Ngành xi
măng, Bộ Xây dựng đã làm việc với các chủ
đầu tư để tạm dừng đầu tư các dự án mới.
Trong điều kiện những doanh nghiệp chưa
đăng ký hợp đồng, chưa mở L/C thì phải
hoãn, giãn tiến độ.
Thứ hai: Thực hiện kích cầu nội địa. Đây là
giải pháp quan trọng để giải quyết tình trạng
dư thừa xi măng hiện tại và tương lai bằng
cách bê tông xi măng hóa các dự án đường
quốc lộ, đường cao tốc, các công trình thủy
lợi, đường giao thông nông thôn.
Thứ ba: Chính phủ phải có những tháo gỡ cụ
thể giúp các doanh nghiệp xi măng giải quyết
những khó khăn về tài chính như: Giãn nợ các
khoản vay nước ngoài, cơ cấu lại danh mục
nợ; Khoanh nợ, lùi thời hạn trả nợ các khoản
vay trong nước đã đến hạn; Hạ lãi suất cho
vay về mức hợp lý 10-12%/năm. Giảm thuế
VAT và thuế thu nhập cho các doanh nghiệp
xi măng, đồng thời cũng giảm thuế xuất khẩu
xi măng để tạo điều kiện cạnh tranh về giá để
xuất khẩu xi măng.
TAI LIỆU THAM KHAO
1. TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (2013),
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, Nxb Tài chính.
2. Báo cáo tài chính của các công ty được lấy từ
các website:
http://finance.vietstock.vn/
http://stox.vn/
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 137 - 141
141
SUMMARY
ANALYSIS OF FINANCIAL BALANCE
IN LISTED CEMENT INDUSTRY IN VIETNAM
Nguyen Viet Dung*, Duong Thanh Tinh
College of Economics and Business Administration - TNU
Analysis of the financial balance is an important content in the management of companies’
finance, especially companies in listed cement industry in Vietnam. Through this analysis, the
enterprises will be able to assess the suitability between their assets structure and capital structure.
In the post economic downturn today, maintaining financial balance will help companies in listed
cement industry in Vietnam minimize financial risks, improve business performance to overcome
the crisis.
Key words: Companies finance, financial balance
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Hoàng Thị Thu – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel:
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 137 - 141
142
Đồng Văn Đạt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 143 - 149
143
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG MARKETING - MIX
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN GANG THÉP THÁI NGUYÊN
Đồng Văn Đạt1*, Lê Thị Bích Ngọc2
1Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên, 2Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Công ty Cổ phẩn Gang thép Thái Nguyên trước đây là Doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa
thành công ty cổ phần có tỷ lệ sở hữu vốn Nhà nước 51%, cũng như các doanh nghiệp khác, phải
đối mặt với cạnh tranh, phải tìm kiếm và khai thác thị trường để tồn tại và phát triển. Trước xu thế
chung của toàn xã hội, việc nghiên cứu để ứng dụng các phương pháp marketing nhằm tăng cường
hiệu quả bán hàng, gia tăng thị phần của từng mặt hàng mà công ty đang kinh doanh là một vấn đề
rất cần thiết, tập trung tìm tòi nghiên cứu phương pháp bán hàng mới, tìm những cách tiếp cận
nắm bắt tâm lý khách hàng thì mới có thể gia tăng doanh số và lợi nhuận. Nếu không có những
thay đổi kịp thời, doanh nghiệp sẽ khó lòng đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt như
ngày nay. Bản thân Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên đã từng thất bại trong một số thời kỳ
ở một số mặt hàng mà công ty yếu thế. Đối thủ cạnh tranh đi sau đã áp dụng một số chiến lược
kinh doanh hợp lý để giành được thị trường khiến cho công ty gặp rất nhiều khó khăn. Nhận thức
được điều đó chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động Marketing - Mix tại Công ty Cổ phần Gang Thép Thái Nguyên.
Từ khóa: Cổ phần Gang Thép Thái Nguyên (TISCO), Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN),
Marketing - Mix, lơi nhuận (LN), đôi thủ cạnh tranh (ĐTCT), chiến lươc kinh doanh (CLKD).
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, song
hành cùng với sự phát triển của khoa học
công nghệ, của tiến trình hội nhập toàn cầu
hóa, cái nhìn và phát triển kinh doanh đã có
nhiều thay đổi. Nói đến kinh doanh, trước đây
người ta không coi bán hàng là một hoạt động
quan trọng của chiến lược phát triển mà chỉ
tập trung coi trọng đến chất lượng, phân phối
sản phẩm, hay quảng cáo thuần túy. Họ đã
nhầm lẫn khi xác định các yếu tố quan trọng
xác lập nên sự thành công của sản phẩm đó
là: Muốn nâng cao doanh thu bán hàng cần
phải có một hệ thống vận hành tốt trong khâu
bán hàng. Nó sẽ thu hút được sự chú ý của
khách hàng, nó sẽ phân định ranh rới khác biệt
giữa hai cửa hàng cùng kinh doanh một dòng
sản phẩm tại cùng một khu vực và sẽ quyết định
sự thành bại của một doanh nghiệp.
Công ty CP Gang thép Thái Nguyên tiền thân
là Công ty Gang thép Thái Nguyên, cái nôi
của ngành công nghiệp luyện kim Việt Nam,
được thành lập năm 1959, là khu công nghiệp
đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam có dây
* Tel: 0912 580135; Email: [email protected]
truyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác
đến sản xuất gang, phôi thép và cán thép. Trải
qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển, Công
ty đã không ngừng tăng trưởng và lớn mạnh.
Sản phẩm thép TISCO đã nổi tiếng trong cả
nước, được sử dụng rộng khắp với chính
sách chất lượng “tất cả vì người tiêu dùng”
và phương châm hành động “Chất lượng
hàng đầu, giá cạnh tranh, sản phẩm và dịch
vụ đa dạng”.
Cũng như các doanh nghiệp khác, cũng phải
đối mặt với cạnh tranh, phải tìm kiếm và khai
thác thị trường để tồn tại và phát triển, Công
ty Cổ phẩn Gang thép Thái Nguyên cần thiết
phải nghiên cứu để ứng dụng các phương
pháp marketing - mix nhằm tăng cường hiệu
quả bán hàng, gia tăng thị phần của từng mặt
hàng mà công ty đang kinh doanh. Nếu không
có những thay đổi kịp thời doanh nghiệp sẽ
khó lòng đứng vững trên thị trường cạnh
tranh khốc liệt như ngày nay.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
MARKETING – MIX CỦA TISCO
Trong mô hình chuẩn hóa marketing - mix
gồm 4 thành phần (4P), ta sẽ tiến hành phân
Đồng Văn Đạt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 143 - 149
144
tích hoạt động marketing của công ty trong
từng thành phần nói trên [4], [6].
Chính sách sản phẩm:
- Thứ nhất: Về cơ cấu sản phẩm
Hiện nay, TISCO sản xuất các sản phẩm thép
cán, gang. Ngoài ra, TISCO sản xuất khác
chủ yếu thu được từ chu trình sản xuất thép
như: cốc vụn, nhựa đường, oxy, than cám.
Trong đó thép cán là sản phẩm chủ lực.
Hệ thống sản phẩm đa dạng với chất lượng
cao ngày càng có uy tín trên thị trường.
TISCO là đơn vị sản xuất đa dạng nhất các
chủng loại sản phảm từ thép cuộn, thép thanh
trơn và vằn, thép hình các loại với tương đối
đầy đủ các mác thép. Cơ cấu sản phẩm tương
đối đầy đủ là một lợi thế riêng so với các nhà
sản xuất khác, đặc biệt là các loại thép hình
cỡ trung như thép chữ C180, thép chữ I160,
thép góc L130,…hiện có nhu cầu tương đối
lớn và chưa bị cạnh trạnh nhiều.
TISCO là công ty duy nhất ở Việt Nam có
công nghệ sản xuất thép từ khâu khai thác,
chế biến nguyên liệu mỏ đến luyện gang,
luyện thép và cán thép.
Theo số liệu thống kê của Phòng Kế hoạch
Kinh doanh - Công ty CP Gang thép Thái
Nguyên: Tổng tiêu thụ Thép TISCO chính
phẩm năm 2013 xấp xỉ đạt: 570.000 tấn.
Trong đó:
Thép cuộn: 117.233,95 tấn
Thép cây (tròn trơn, vằn): 409.221,526 tấn.
(Trong đó thép tròn trơn: 0,598 tấn)
Thép hình: 43.544,524 tấn
Hình 1. Biểu đồ tỉ trọng khôi lương tiêu thụ thép
cán năm 2013
Nguồn: [2]
Như vậy, sản phẩm thép cán chủ lực của
TISCO hiện nay là thép cây - trong đó chủ
yếu là thép thanh vằn.
- Thứ hai: Về chất lượng sản phẩm
Với phương châm “Chất lương hàng đầu, giá
cả cạnh tranh, sản phẩm và dịch vụ đa
dạng”, trong những năm qua, cán bộ công
nhân viên TISCO không ngừng nỗ lực, nâng
cao chất lượng sản phẩm, đưa chất lượng vào
nội dung quản lý của mình. Ngay từ năm
2002, Nhà máy cán thép Lưu Xá, một trong
những đơn vị sản xuất chính của Công ty đã
được đánh giá phù hợp với các yêu cầu của
tiêu chuẩn ISO 9001:2000 cho lĩnh vực sản
xuất và cung cấp Thép cán nóng (Thép tròn
trơn, Thép góc cạnh đều, Thép chữ C và Thép
chữ I), Phòng Quản lý chất lượng sản phẩm
và đo lường của Công ty được đánh giá phù
hợp với các yêu cầu của ISO/IEC 17025 cho
lĩnh vực Cơ học và Hóa học. Hiện tại, các nhà
máy trực thuộc Công ty đang áp dụng tiêu
chuẩn ISO 9001:2008.
- Thứ ba: Về nhãn hiệu sản phẩm
Sản phẩm thép TISCO đã trở nên nổi tiếng
trong cả nước, được sử dụng vào hầu hết các
Công trình trọng điểm Quốc gia như thuỷ
điện Hoà Bình, Yaly, Sơn La, đường dây tải
điện 500 KV Bắc Nam, và nhiều công trình
khác; thâm nhập vào được thị trường quốc tế
như Canada, Indonesia, Lào, Campuchia.
Thép mang thương hiệu TISCO đã giành
được nhiều giải thưởng: Hàng Việt Nam chất
lượng cao, Sao vàng đất Việt, Thương hiệu
nổi tiếng với người tiêu dùng, “Nhãn hiệu
Thép TISCO của Công ty Cổ phần Gang Thép
Thái Nguyên đã đươc đăng ký độc quyền
nhãn hiệu hàng hóa.” [3] (xem hình 2)
Hình 2. Nhãn hiệu Thép TISCO của Công ty Cổ
phần Gang Thép Thái Nguyên
Nguồn: [8]
Chính sách giá:
Công ty áp dụng chính sách giá linh hoạt.
ThÐp c©y. 71.79%
ThÐp H×nh. 7.64%
ThÐp Cuén. 20,57%
Đồng Văn Đạt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 143 - 149
145
- Công ty thực hiện điều chỉnh giá bán đơn lẻ
cho những thị trường nhạy cảm về giá, thị
trường có mức độ cạnh tranh cao trong những
thời điểm thị trường có biến động để nhằm
mục tiêu chiếm lĩnh thị phần hoặc phát triển
mạng lưới tiêu thụ;
- Giá bán thanh toán ngay được giảm trừ từ
1,2 đến 1,5 lần so với lãi suất Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam tại thời điểm bán.
Giá bán cho đối tượng có bảo lãnh, ký quỹ
giảm trừ bằng 50% đến 70% so với lãi suất
ngân hàng.
Tuy nhiên, khi so sánh với các sản phẩm thép
xây dựng trên thị trường quốc tế, mức giá của
TISCO còn tương đối cao so với các sản
phẩm cùng chủng loại. Mức giá cao này là
xuất phát từ đội ngũ cán bộ quản trị cồng
kềnh, chi phí gián tiếp quá lớn. Ngoài ra, còn
phải kể tới công nghệ sản xuất lạc hậu, chi phí
sản xuất cao, mức tiêu hao năng lượng và
nguyên liệu chưa tiết kiệm tối đa, năng suất
lao động của công nhân thấp.
Theo số liệu khảo sát thị trường, giá so sánh
của TISCO trên thị trường thép hiện tại luôn
cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Đơn cử với
sản phẩm thép thanh vằn D10 tại thị trường
Hà Nội như bảng 1.
* Chính sách phân phôi:
- Thứ nhất: Về cấu trúc kênh phân phối
Công ty có đội ngũ bán hàng trực tiếp tại Văn
phòng Công ty (Phường Cam giá - TP Thái
Nguyên) và tại các Tỉnh - Thành phố ở cả ba
miền. TISCO sử dụng hai kênh tiêu thụ là
kênh trực tiếp và kênh gián tiếp. Khảo sát tình
hình tiêu thụ qua kênh gián tiếp có đánh giá
là: Sản phẩm của TISCO được phân phối theo
5 nhóm chính là đại lý các tỉnh; chi nhánh và
các đơn vị thành viên; Khách hàng truyền
thống; Các đơn vị trong Tổng công ty Thép
Việt Nam (VSA); và xuất khẩu.
Tình hình phân phối thép của TISCO có nhiều
biến động tăng giảm trong giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2013. Ngoài việc sử dụng các
kênh để phân phối sản phẩm, TISCO còn tập
trung nguồn lực đẩy mạnh hình thức phân
phối trực tiếp tới người tiêu dùng thông qua
các đại lý, chi nhánh và các đơn vị thành viên.
Đại lý tại Hà Nội đóng vai trò chủ chốt khi
chiếm quá nửa tổng số lượng sản phẩm phân
phối qua kênh bán hàng này.
Hình 3. Tỷ trọng phân phôi sản phẩm của TISCO
theo địa bàn giai đoạn 2011 – 2013
Nguồn: [2]
- Thứ hai: Về thị trường
Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên đã
xác định thị trường miền Bắc là thị trường
tiêu thụ chính trong đó quan trọng nhất là thị
trường Hà Nội và các tỉnh lân cận. Hiện nay,
tại khu vực này đã có Chi nhánh Hà Nội của
công ty. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển
tiêu thụ tại thị trường các tỉnh vùng núi phía
Bắc và Tây Bắc, giữ vững và củng cố thị
trường tiêu thụ ở khu vực này.
Bảng 1. Giá thép Thanh vằn D10 của TISCO và đôi thủ cạnh tranh tại Hà Nội
(Đơn vị đồng/kg - Giá chưa bao gồm thuế VAT)
Ngày Natsteel VIS VPS VUC DANI POMINA TISCO
10/01/2014 13.030 13.060 13.200 13.007 13.300 13.050 13.015
15/02/2014 13.030 13.104 13.220 13.015 13.300 13.070 13.105
01/03/2014 13.130 13.150 13.150 13.010 13.210 13.120 13.120
04/06/2014 13.170 13.150 13.160 13.150 13.220 13.170 13.270
05/08/2014 13.250 13.200 13.170 13.150 13.200 13.250 13.320
Nguồn: [1]
T©y Nguyªn. 2.94%
§«ng Nam Bé. 6.85%
§BSCL. 2,86% .
MiÒn B¾c. 64.19%
MiÒn Trung. 23.16%
Đồng Văn Đạt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 143 - 149
146
Bảng 2. Ngân sách quảng cáo của Công ty CP Gang Thép giai đoạn 2009 - 2013
Đơn vị: 1000đ
Phương tiện quảng cáo 2009 2010 2011 2012 2013
Báo chí 2.128.437 3.622.240 5.314.239 3.686.597 4.500.000
Truyền hình 139.085 40.000 50.000 154.585 450.000
Ngoài trời 5.297.100 6.604.971 8.345.420 5.522.204 5.550.000
Khác 370.083 1.014.120 943.950 492.052 850.000
Nguồn: [2]
* Chính sách xúc tiến bán:
- Thứ nhất: Hoạt động quảng cáo
Là một công cụ xúc tiến bán quan trọng
nhất trong các chương trình xúc tiến bán
hàng năm của TISCO. Hình thức quảng cáo
rất phong phú. Các phương tiện quảng cáo
TISCO đang sử dụng là quảng cáo trên
truyền hình, quảng cáo trên báo, tạp chí,
trang web, du lịch, tại các đầu mối giao
thông, trên xe bus, tờ rơi, áp phích…
- Thứ hai: Khuyến mãi
Hoạt động khuyến mãi của TISCO chủ yếu
tập trung vào đối tượng khách hàng lớn,
khách hàng doanh nghiệp và các nhà phân
phối thông qua hình thức giảm giá lũy tiến
theo khối lượng mua hàng, tham gia hội nghị
triển lãm trong nước và cả nước ngoài. Các
hoạt động khuyến mãi chưa có sự hoạch định,
chuẩn bị trong kế hoạch dài hạn, chủ yếu là
các quyết định ngắn hạn, theo mùa vụ và thay
đổi thường xuyên theo tình hình thị trường.
Chi phí cho hoạt động khuyến mãi chiếm tỷ lệ
rất nhỏ trong kinh phí marketing hàng năm.
- Thứ ba: Quan hệ công chúng
TISCO đã tham gia vào rất nhiều các sự kiện tài
trợ, bảo trợ hàng năm như: Chương trình nối
vòng tay lớn, ủng hộ người nghèo trên truyền
hình hàng năm từ trước năm 2009 tới nay.
Tại địa phương, TISCO cũng nhận phụng
dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng, là nhà tài
trợ chính cho hầu hết các hoạt động lớn của
tỉnh Thái Nguyên, Đại học Thái Nguyên và
các cơ sở giáo dục trong địa bàn…
Sau khi hoạt động tài trợ cho đội bóng đá
Thép Miền Nam Cảng Sài Gòn kết thúc, từ
năm 2009 TISCO đã chính thức tài trợ cho
đội bóng đá nữ Tỉnh Thái Nguyên và đổi tên
đội bóng thành Đội bóng đá nữ Công ty Cổ
phần Gang thép Thái Nguyên. Hàng năm,
kinh phí đầu tư cho hoạt động thi đấu và tập
luyện của đội bóng không ngừng tăng lên.
Đánh giá chung: Qua phân tích thực trạng
hoạt động marketing -mix của TISCO có thể
rút ra các ưu và nhược điểm như sau:
* Ưu điểm:
- Tự chủ về nguồn nguyên vật liệu phục vụ
cho sản xuất.
- Là đơn vị duy nhất trong cả nước sản xuất
thép từ khâu khai thác quặng sắt đến sản
phẩm cuối cùng là thép cán.
- Năng lực sản xuất cao, danh mục sản phẩm
đa dạng.
- Thương hiệu TISCO là thương hiệu uy tín
và được người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn.
* Nhươc điểm:
- Cơ cấu tổ chức cồng kềnh, lực lượng lao
động đông, chất lượng nguồn nhân lực còn
hạn chế.
- Công nghệ luyện cán thép còn lạc hậu, cơ sở
vật chất của công ty còn yếu chưa ổn định.
- Nguồn cung nguyên liệu ngày càng cạn
kiệt, nhiều đối thủ cạnh tranh đang tiếp cận
và dự định đầu tư sản xuất từ nguyên liệu
thô trong nước.
- TISCO chưa xây dựng được kênh phân phối
riêng đủ mạnh, việc tiêu thụ phụ thuộc vào
một số nhà phân phối lớn ở Hải Phòng, Hà
Nội và Thái Nguyên.
Từ những phân tích thực tiễn này và bằng
cách tham gia điều tra ý kiến của các chuyên
gia từ đó là cơ sở, căn cứ cho việc hình thành
Đồng Văn Đạt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 143 - 149
147
và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động marketing - mix tại TISCO.
CÁC GIAI PHÁP NHẰM HOAN THIỆN
HOẠT ĐỘNG MARKETING - MIX TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN GANG THÉP THÁI
NGUYÊN
Giải pháp 1: Gia tăng sản lương, đa dạng
hóa cơ cấu mặt hàng sản phẩm và góp phần
nâng cao chất lương sản phẩm
TISCO cần phải thực hiện đồng bộ: Vừa phát
triển cơ cấu sản phẩm vừa đảm bảo vấn đề
chất lượng sản phẩm. Hiện nay, Công ty đang
phát triển chủ yếu các mặt hàng thép xây
dưng đạt chất lượng tốt như thép cuộn, thép
tròn và thép vằn. Công ty cần phát triển các
sản phẩm khác đang yếu thế như: Thép hình
(L, I, C); thép gia công chi tiết máy chủ yếu
từ các mác thép CT45 trở lên. Các loại sản
phẩm này rất ít về mặt số lượng và chất lượng
kém, không đồng đều.
Công ty cần thực hiện một số nội dung như sau:
- Thứ nhất: Đổi mới dây chuyền công nghệ.
- Thứ hai: Nâng cao chất lượng thiết kế kỹ thuật.
- Thứ ba: Nâng cao chất lượng nguyên vật
liệu sản xuất.
- Thứ tư: Thực hiện tổng quản lý chất lượng.
Giải pháp 2: Giải pháp linh hoạt về chiết
khấu giá
- Hiện tại Công ty áp dụng chiết khấu theo
sản phẩm tiêu thụ hàng tháng, quý, năm. Mức
chiết khấu tối thiểu bằng 1% giá trị hàng hóa,
mức chiết khấu tăng theo doanh số bán hàng đạt
tối đa là 5%. Chính sách này sẽ được điều chỉnh
tùy vào nhóm đối tượng khách hàng và phân
khúc thị trường mà có những điều chỉnh cụ thể.
- Dựa vào điểm khác biệt về việc quy định
chính sách giá giữa đại lý và bán lẻ của
TISCO có thể xây dựng chính sách giá biến
đổi gắn kết mục tiêu giữa đại lý và bán lẻ
đồng thời tạo sự tin tưởng an tâm cho khách
hàng đại lý và kích thích nhân viên phòng bán
lẻ xâm nhập vào các công trình của đối thủ
cạnh tranh với chính sách chiết khấu giá linh
hoạt nhằm thu hẹp địa bàn hoạt động của đối
thủ cạnh tranh.
- Nhằm khuyến khích khách hàng mua hàng
có thể áp dụng chính sách thưởng cuối năm
cho các khách hàng đạt chỉ tiêu doanh số. Khi
nhìn thấy được lợi nhuận các khách hàng sẽ
cố gắng phấn đấu và tăng cường đẩy mạnh
tiêu thụ nhằm đạt được thưởng cuối năm.
- Áp dụng các cơ chế, chính sách riêng, ưu
đãi với các công trình trực tiếp.
- Hỗ trợ vận chuyển, trợ giá cho những địa
bàn, khu vực thị trường xa, mức độ cạnh
tranh cao hoặc nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị
trường [5].
Giải pháp 3: Hoàn thiện chính sách phân
phôi để thúc đẩy phát triển tiêu thụ sản phẩm
của TISCO
* Chi nhánh:
- Tập trung đối tượng khách hàng là các đơn
vị trực tiếp xây dựng công trình, các đơn vị
thương mại lớn, hạn chế bán nhỏ, lẻ.
- Giảm dần số lượng cửa hàng, tập trung xây
dựng cơ sở hạ tầng kho bãi ổn định, củng cố
vị thế chi nhánh.
* Đại lý:
- Bán theo giá quy định, hưởng hoa hồng theo
sản lượng tiêu thụ.
- Đối tượng thực hiện: Khách hàng lớn, có hệ
thống tiêu thụ riêng hoặc các trung tâm phân
phối, chợ đầu mối, siêu thị vật liệu xây dựng
tại các địa phương.
- Dự kiến xây dựng ở một số địa bàn trung
tâm vùng như sau:
+ Miền Bắc: Phú Thọ, Lào Cai, Sơn La, Hải
Dương, Nam Định hoặc Thái Bình.
+ Miền Trung: Quảng Bình hoặc Quảng Trị,
Quảng Ngãi hoặc Bình Định và khu vực
Tây Nguyên.
* Bán trực tiếp vào công trình:
- Xây dựng giá bán và cơ chế riêng phù hợp,
ưu đãi đối với các đơn vị trực tiếp sử dụng
thép để xây dựng, sản xuất; Các đơn đặt hàng
với số lượng lớn, hàng đặt theo quy cách
riêng...
- Hình thức ưu đãi khác như: Thực hiện theo
giá kỳ hạn, ưu đãi về thời gian trả chậm hoặc
Đồng Văn Đạt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 143 - 149
148
các ưu đãi khác phù hợp nhằm khuyến khích
tiêu thụ cho đối tượng này.
* Xuất khẩu:
- Xây dựng giá xuất khẩu theo từng lô trên cơ
sở đảm bảo hiệu quả và mục tiêu phát triển thị
trường xuất khẩu.
- Thị trường xuất khẩu chú trọng khu vực
Đông Nam Á.
Nguồn kinh phí hỗ trợ này trích từ chi phí bán
hàng cấu thành trong giá của sản phẩm ước tính
là 3% chi phí hợp lý trong chi phí bán hàng.
Giải pháp 4: Hoàn thiện chính sách xúc tiến
bán để thúc đẩy phát triển tiêu thụ sản phẩm
của TISCO
* Hoạt động quảng cáo:
- Quảng cáo trên báo chí: Đây là hình thức
quảng cáo khá phù hợp do có tính bao quát thị
trường, được sử dụng rộng rãi và dễ đến với
người có nhu cầu mua.
- Gửi thư trực tiếp: Bộ phận marketing của
công ty nghiên cứu và in ấn catalog sản phẩm,
soạn thảo tờ rơi, thông qua đường bưu điện
gửi thư chào hàng giới thiệu sản phẩm đến
khách hàng từng khu vực. Phương pháp này
có tính chọn lọc đối tượng cao mà lại không
bị tác động của các hình thức quảng cáo cạnh
tranh khác.
- Quảng cáo panô: Đây là hình thức quảng
cáo rất hiệu quả cho các sản phẩm, nếu đặt tại
các trục đường giao thông, giao lộ, sân bay
nhà ga,.. sẽ tác động và ảnh hưởng lớn đến
người tiếp cận do dễ gây sự chú ý bởi mầu
sắc, ánh sáng và nội dung trên panô.
- Một số hình thức quảng cáo khác: Trên tạp
chí, truyền hình truyền thanh... cũng cần được
áp dụng nhưng cần phải xem xét kỹ thời điểm
hoặc nội dung thông tin cho phù hợp với
phương tiện.
* Quan hệ công chúng
Đây là một hình thức truyền thông ở môi
trường rộng, nó sẽ góp phần tạo ra môi trường
tốt cho hoạt động bán hàng. Việc tuyên truyền
hay trực tiếp thực hiện các hoạt động quan hệ
công chúng thường đem lại sự tin cậy cao hơn
là quảng cáo. Một số hình thức hoạt động quan
hệ công chúng khi doanh nghiệp thực thi như:
- In ấn quần áo có logo thương hiệu sản
phẩm, logo địa chỉ công ty, hoạt động công
ích của doanh nghiệp gắn liền với các tài trợ
trong các sự kiện.
- Truyền thông của công ty: Có thể truyền
thông trong hay ngoài công ty, trên trang web,
trong các hoạt động tập thể của công ty.
* Hoạt động khuyến mãi sản phẩm
Một số hình thức khuyến mãi có thể áp dụng:
- Thứ nhất là giảm tiền theo từng đợt: Đây là
hình thức thiết thực nhất trong kinh doanh sản
phẩm công nghiệp, nó sẽ thu hút được lượng
khách hàng lẻ.
- Thứ hai là giảm giá trong đấu giá cung cấp
thiết bị, vật liệu cho các dự án lớn.
- Một công cụ thích hợp đó là khuyến mãi
trong hội chợ và hội nghị bán hàng. Các khách
mời, khách thăm quan sẽ có điều kiện tiếp cận
trực tiếp đến sản phẩm, nghe trực tiếp các
chuyên gia kỹ thuật giới thiệu về sản phẩm.
* Bán hàng trực tiếp:
- Thứ nhất tiếp cận từ trên xuống: Giải pháp
này sử dụng cho việc tiếp cận để chào bán
những lô hàng lớn, cho những dự án đầu tư sử
dụng nguồn vốn Nhà nước hay vốn vay nước
ngoài. Tiếp cận từ khâu chuẩn bị đầu tư để có
thông tin đến khâu tham dự chào hàng cần
được cọ sát liên tục. Hình thức này tốn thời
gian và chi phí nhưng hiệu quả khá cao phù
hợp với môi trường doanh nghiệp cạnh tranh
hiện nay.
- Tiếp cận từ dưới lên: Đây là hình thức tiếp
cận trực tiếp thông qua trung gian môi giới,
xu hướng này hiện đã kém phát triển và chỉ
còn phù hợp với những khách mua hàng lẻ, số
lượng ít [7].
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
* Kết luận: Từ một công ty Nhà nước chuyển
đổi sang cơ chế cổ phẩn, TISCO cần có
những thay đổi nhảy vọt cả về mặt lượng và
mặt chất, thêm vào đó là sự xuất hiện ngày
càng nhiều các doanh nghiệp tham gia vào
ngành khiến cho môi trường cạnh tranh ngày
càng trở nên khốc liệt hơn. Đây là cơ hội và
cũng là những thách thức để các doanh
nghiệp tự khẳng định mình, vươn lên chiếm
Đồng Văn Đạt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 143 - 149
149
lĩnh thị trường. Áp dụng các giải pháp nhằm
hoàn thiện hoạt động marketing - mix tại công
ty sẽ đóng góp một phần vào việc nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh công ty nhằm
gia tăng lợi nhuận và vị thế của công ty trên
thị trường.
* Kiến nghị: Để góp phần hoàn thiện hoạt
động marketing - mix của Công ty CP Gang
Thép Thái Nguyên bài báo kiến nghị các vấn
đề sau:
- Ban lãnh đạo Công ty cần giải quyết dứt
điểm nợ đọng từ nguồn vốn Ngân sách Nhà
nước. Đồng thời cần nghiên cứu các chiến
lược marketing - mix có mức đầu tư chi phí
tương đương với mục tiêu đề ra thì mới có thể
đem lại hiệu quả như ý.
- Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt
động marketing, Công ty cần phát triển bộ
phận marketing và có sự phân hóa các bộ
phận này theo chức năng nhằm chuyên môn
hóa hoạt động của Công ty.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Công ty CP Gang Thép Thái Nguyên (2013),
Báo cáo sơ kết thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 6
tháng đầu năm 2014 mục tiêu, biện pháp thực hiện
kế hoạch quý III/2014, Tisco.
2. Công ty CP Gang Thép Thái Nguyên (2013),
Báo cáo tài chính thường niên, báo cáo tài chính
năm 2010, 2011, 2012, 2013 của Công ty CP
Gang Thép Thái Nguyên, Tisco.
3. Matt Haig (2012), Bí quyết thành công 100 thương
hiệu hàng đầu thế giới, Nhà xuất bản Tổng hợp TP
Hồ Chí Minh, tr. [50 – 85], Tổng hợp và biên dịch :
Thái Hùng Tâm, Hoàng Minh, Nguyễn Văn Phức.
4. Philip Kotler, Northwestern University (2010),
Marketing căn bản, Nhà xuất bản Lao động - Xã
hội, Hà nội, tr.[65-120], Lược dích : TS. Phan
Thăng, TS. Vũ Thị Phượng, Giang Văn Chiến.
5. Philip Kotler, Northwestern University (2011),
Thấu hiểu tiếp thị từ A đến Z, Nhà xuất bản trẻ,
Hà nội, tr.[35-46], Lược dịch : Lê Hoàng Anh.
6. Philip Kotler, Northwestern University (2010),
Quản trị Marketing, Nhà xuất bản Thống kê, Hà
nội, tr.[25-41], Lược dịch : PTS. Vũ Trọng Hùng.
7. William T.Brooks (2011), Kỹ năng bán hàng,
Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà nội.
8.http://tisco.com.vn/
SUMMARY
SOLUTIONS TO COMPLETE THE ACTIVITIES
IN MARKETING – MIX CORPORATIONTHAI NGUYEN STEEL
Dong Van Dat1*, Le Thi Bich Ngoc2
1College of Economics and Business Administration –TNU 2Associate College of Economics and Technology – TNU
Thainguyen Iron and Steel Joint Stock Corporation formerly state-owned enterprises (SOEs), the
company shares into shares ownership rate above 50% state capital. Like other businesses also sad
and my heart business to survive and grow. Before the general tendency of society to apply
research methods marketing to increase sales effectiveness, increase market share of each item of
business which the company is an essential issue. Only research focus to explore new sales
methods, to find innovative approaches to capture customer psychology to be able to increase sales
and profits. Without timely business change will be hard to stay on the fiercely competitive market
today. Joint-stock company itself Thai Nguyen Iron and Steel has failed in some periods in some
products that the company vulnerable. Competitors go after some applied business strategy to gain
a reasonable market makes companies face many difficulties. Recognizing that we have studied
and proposed some solutions to improve operations at Marketing - mix of Thainguyen Iron and
Steel Joint Stock Corporation.
Keywords: TISCO, state-owned enterprises, marketing – mix, profits
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:3/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Công Toàn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 580135; Email: [email protected]
Đồng Văn Đạt và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 143 - 149
150
Nguyễn Quỳnh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 151 - 156
151
MỘT SÔ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
MÔN TOÁN CAO CẤP CHO SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Quỳnh Hoa*, Trần Thị Mai, Nguyễn Thị Thu Hường Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thực trạng về kết quả học tập môn Toán cao cấp của sinh viên năm thứ nhất của Trường ĐHKT
& QTKD trong những năm gần đây có xu hướng giảm đáng kể. Trong bài báo này, nhóm tác giả
đã tìm hiểu để đưa ra những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, từ đó nhóm tác giả đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo môn Toán cao cấp cho sinh viên năm thứ nhất của
Trường Đại học Kinh tế & QTKD.
Từ khóa: Toán học, chất lương đào tạo, giải pháp, ngành kinh tế, cơ bản.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên cơ sở phân tích những khó khăn chung của sinh viên năm thứ nhất học tập môn Toán Cao
cấp và những nguyên nhân của nó, tác giả đề xuất một số giải pháp khắc phục nhằm cải thiện và
nâng cao chất lượng học tập môn Toán cao cấp cho sinh viên toàn trường.
NỘI DUNG
Kết quả học tập Môn Toán Cao cấp
* Bảng tổng hợp kếp quả học tập Môn Toán cao cấp của sinh viên Trường ĐH Kinh tế & QTKD
qua các khóa K7, K8, K9, K10.
(Nguồn sô liệu từ Phòng Thanh tra – Khảo thí & ĐBCL)
Điểm
Khóa
A (%) B (%) C (%) D (%) F (%)
K7 5 17.2 22.1 19.8 35.6
K8 1.2 10.3 13.4 22.6 52.5
K9 8.1 11 17 22 41.9
K10 7.1 10.5 13.8 19.5 49.1
Ghi chú:
Loại đạt:
A ( 8,5 – 10): Giỏi; B ( 7,0 – 8,4): Khá;
C (5,5 – 6,9): Trung bình;
D (4,0 - 5,4): Trung bình yếu
Loại không đạt: F ( dưới 4,0): yếu
Ta thấy tỷ lệ sinh viên đạt điểm A là rất thấp trong khi đó tỷ lệ sinh viên đạt điểm F lại khá cao.
Điều này cho thấy kết quả đạt được sau khi các em học xong môn Toán Cao cấp còn rất thấp.
Nguyên nhân của thực trạng trên*
Nguyên nhân về phía Giảng viên
- Đời sống của một bộ phận giảng viên, đặc biệt là một số giảng viên trẻ gặp nhiều khó khăn do
thu nhập thấp, trong khi chi phí học tập nâng cao trình độ lại cao. Nhiều giảng viên sau một thời
gian công tác ở trường có xu hướng chuyển công tác để tăng thu nhập hoặc hợp lý hóa gia đình.
* Tel: 0977 615828, Email: [email protected]
Nguyễn Quỳnh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 151 - 156
152
- Do các giảng viên cũng mới tiếp xúc và làm
quen với hình thức đào tạo theo học chế tín
chỉ nên còn nhiều bỡ ngỡ với các quy định về
học chế tín chỉ như: yêu cầu về giảng dạy,
xây dựng đề cương chi tiết theo mẫu chuẩn.
- Chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý những giảng
viên vi phạm nội quy, quy chế khi lên lớp.
Nguyên nhân về phía Sinh viên
- Mức điểm trúng tuyển vào trường của sinh
viên cũng gây ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng đầu vào của nhà trường.
- Sinh viên chưa được chuẩn bị đầy đủ cả về
nhận thức, tâm lý, phương pháp học tập và
làm việc theo học chế tín chỉ, hình thức này
đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân và đòi hỏi tính
tự chủ, chủ động cao trong việc sắp xếp quá
trình học tập.
- Nhiều sinh viên có thói quen ỷ lại đến ngày
thi mới học hoặc một số sinh viên mải chơi
dẫn đến kết quả học tập kém. Đa số các sinh
viên vẫn thụ động, không chăm chỉ, không
phát huy tính tự giác trong học tập, còn dành
phần lớn thời gian cho hoạt động khác như
vui chơi, giải trí.
Nguyên nhân về chương chình đào tạo và
thực hiện quá trình đào tạo
- Chương trình đào tạo chưa được thiết kế phù
hợp do được thiết kế khi chưa xác định rõ
chuẩn đầu ra, chưa dựa vào một chương trình
đào tạo chuẩn quốc tế và chưa có sự tư vấn,
góp ý của những những chuyên gia, những
người tuyển dụng và người sử dụng lao động.
- Phần mềm quản lý đào tạo còn rất nhiều tồn
tại nên ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
quản lý đào tạo.
- Việc tổ chức các lớp lý thuyết, thực hành
và lớp thảo luận nhìn chung là quá số lượng
cho phép nên đã ảnh hưởng đến chất lượng
môn học.
- Công tác thi, kiểm tra và đánh giá kết quả
học tập của sinh viên được thực hiện theo quy
chế 43 của Bộ GD & ĐT và quy chế 135 của
ĐHTN. Cách tính điểm cho mỗi học phần
môn học như đang được áp dụng có khoảng
cách điểm chia khá rộng. Do đó khi tính điểm
trung bình chung và trung bình chung tích lũy
gây thiệt thòi cho sinh viên.
Nguyên nhân về cơ sở vật chất
- Hệ thống phòng học, các trang thiết bị phục
vụ cho quá trình dạy học chưa đáp ứng được
việc tổ chức các lớp học phần.
- Tài liệu học tập tại thư viện còn thiếu đặc
biệt là nhóm tài liệu tham khảo chưa được
quan tâm thích đáng.
- Hạ tầng công nghệ thông tin còn chưa đảm bảo.
Một số giải pháp
Về phía nhà trường
Tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn
kỹ và chi tiết cho sinh viên năm thứ nhất
trong tuần sinh hoạt công dân về phương
pháp học tập theo tín chỉ.
Năng cao chất lượng của giờ sinh hoạt lớp và
vai trò của cố vấn học tập trong việc hướng
dẫn sinh viên về phương pháp học.
Nhà trường phải thường xuyên tập huấn cho
đội ngũ giảng viên về phương pháp dạy học
tích cực và đổi phương pháp dạy học theo đào
tạo tín chỉ. Trong đó lưu ý nhấn mạnh việc
hướng dẫn sinh viên đọc tham khảo tài liệu và
chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Theo khảo sát, phần lớn sinh viên đều cho
rằng lớp học quá đông, giáo viên không bao
quát được số lượng sinh viên ngồi ở phía cuối
lớp. Đồng thời một số sinh viên ngồi phía
cuối lớp không quan sát và tập trung được
phần bài giảng ở phía trên của thầy cô. Do đó
nên bố trí để giảm quy mô lớp đối với môn
học Toán Cao cấp tối đa là 60 sinh viên cho
một lớp học phần. (Hiện nay nhà trường đang
bố trí 85-95 sinh viên cho một lớp học phần) để
tạo điều kiện cho sinh viên phát huy năng lực
của bản thân trong nghiên cứu và thảo luận.
Học phần Toán Cao cấp hiện nay là 4 tín chỉ
gồm 2 phần: Đại số tuyến tính và Giải tích
với lượng kiến thức sinh viên phải nắm vững
được tương đối nhiều. Do vậy nhà trường nên
tách thành 2 học phần riêng là học phần Đại
số tuyến tính và học phần Giải tích để tạo
điều kiện cho sinh viên nắm được đầy đủ,
vững và chắc khối lượng kiến thức theo yêu
cầu của môn học.
Nguyễn Quỳnh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 151 - 156
153
Về phía Bộ môn
Thường xuyên tổ chức các buổi siminar theo
từng chuyên đề của môn học
Rà soát chương trình môn học với sự tư vấn,
góp ý của các khoa liên quan, những nhà
tuyển dụng và người sử dụng lao động.
Thường xuyên rà soát lại hệ thống ngân hàng
câu hỏi, không được yêu cầu thấp đối với sinh
viên cũng không đưa ra yêu cầu quá cao mà
phần lớn sinh viên không đạt được.
Kiến nghị với hội đồng khoa học nhà trường
tách môn Toán Cao cấp thành 2 học phần
riêng và biên chế tối đa 60 sinh viên cho một
lớp học phần.
Về phía giảng viên
Giảng viên là nhân tố trung tâm của nhà
trường quyết định đến chất lượng của đào tạo.
Vấn đề nề nếp, kỷ cương và lòng say mê dạy
học là vấn đề không phải mới nhưng luôn
được quan tâm trong mọi hình thức đào tạo,
do vậy mỗi giảng viên cần:
Không ngừng hoàn thiện về bản thân về mọi
mặt như trình độ chuyên môn, tư cách đạo
đức, trách nhiệm nghề nghiệp.
Cần thay đổi phương pháp giảng dạy, biết lựa
chọn phương pháp dạy cho phù hợp với đối
tượng đặc biệt là sinh viên năm thứ nhất các
em còn bỡ ngỡ với môi trường học tập mới.
Xây dựng lại đề cương bài giảng, giáo án lên
lớp, kịch bản giờ giảng
Giảng viên lên lớp nên áp dụng nhiều phương
pháp dạy học tích cực để sinh viên không cảm
thấy nhàm chán và khô khan khi tham gia tiết
học. Giảng viên chủ động tạo không khí lớp
học thân thiện và thoải mái để thu hẹp khoảng
cách giữa giảng viên và sinh viên, giúp sinh
viên tự tin tham gia trao đổi và thảo luận.
Trong giờ thảo luận (giờ bài tập) cần hướng
dẫn kỹ, cận thận, chi tiết và nhiệt tình hơn,
quản lý sinh viên chặt chẽ trong vấn đề làm
bài tập của sinh viên nên có kế hoạch kiểm
tra, đánh giá mức độ hoàn thành bài tập ở nhà
của sinh viên.
Cố gắng bao quát lớp để tránh tình trạng sinh
viên nghỉ học không có lý do chính đáng.
Ngay buổi lên lớp đầu tiên của môn học,
giảng viên cần giới thiệu cho sinh viên biết đề
cương của môn học bao gồm các nội dung
như: mục tiêu, nội dung, điều kiện tiên quyết,
các tài liệu bắt buộc và tham khảo cho từng
chương mục, kế hoạch nghiên cứu, cách đánh
giá quá trình học tập. Làm thế, sinh viên sẽ
nắm bắt được định hướng nghiên cứu ngay từ
đầu, họ sẽ không bị động mà có thể chủ động
lên kế hoạch nghiên cứu một cách hòa hợp
với các môn học khác;
Ngoài giờ giảng trên lớp, giảng viên dành
thời gian để giải đáp thắc mắc của sinh viên
liên quan đến môn học.
Về phía sinh viên
Phát huy cao độ tinh thần tự học
Tự học là quá trình bản thân chủ thể phải tích
cực, tự giác tìm tòi, lĩnh hội các tri thức
không phải chỉ thụ động lĩnh hội các kiến
thức trong giáo trình, thông qua các bài giảng
của giảng viên mà còn phải tự tìm tòi học tập,
nghiên cứu trong các sách báo, các phương
tiện thông tin đại chúng, thậm chí lĩnh hội cả
trong thực tiễn cuộc sống.
Để làm được điều này, đối với sinh viên phải
giống như những con ong, cần mẫn không
ngừng nghỉ trong quá trình học tập. Vào đầu
các kỳ học, trước khi nhập môn, các giảng
viên giới thiệu các tài liệu tham khảo môn học
đó. Nhiệm vụ của sinh viên lúc này là ghi
chép các tài liệu đó lại để tìm chúng; sau đó,
sinh viên có thể tìm để mượn, để đọc tại các
thư viện như: thư viện của Nhà trường thuộc
Trung tâm thông tin – thư viện, Thư viện
ANHE thuộc Trung tâm hợp tác quốc tế & du
học, Trung tâm học liệu thuộc Đại học Thái
Nguyên, Thư viện tỉnh Thái Nguyên, Internet.
Thêm nữa, tinh thần tự học của sinh viên đào
tạo theo học chế tín chỉ còn được thể hiện qua
việc sinh viên tham khảo cách đăng ký học
phần ở các kỳ học. Bởi lẽ, rất nhiều sinh viên
chỉ biết đăng ký theo bạn bè dẫn đến trường
hợp có học kỳ đăng ký quá nhiều môn lý
thuyết, học không nổi và bị rớt hàng loạt; bù
lại, có những học kỳ lại đăng ký quá nhiều
môn học thực hành, thực tập, dẫn đến thời
khóa biểu trùng lặp, không sắp xếp được.
Nguyễn Quỳnh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 151 - 156
154
Như vậy, để có được kết quả học tập tốt,
không ai có thể “ban thưởng” cho sinh viên,
mà điều quan trọng nhất đó là sinh viên – chủ
thể của quá trình tự học phải không ngừng
tích cực, chủ động học hỏi, trau dồi tri thức,
phải đặt ra những kế hoạch học tập hợp lý,
khoa học hơn và nghiêm túc thực hiện kế
hoạch đó.
Nội dung của quá trình tự học
Thư nhất, xây dựng động cơ học tập
Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý
thức tốt về nhu cầu học tập. Người học tự xây
dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là
việc cần làm đầu tiên. Bởi vì, thành công
không bao giờ là kết quả của một quá trình
ngẫu hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong
học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị
trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người
những tố chất cần thiết chứ không phải là
những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật
trang sức vào đời mà không có thực lực vì
động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập
tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê,
học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với
một niềm vui sáng tạo bất tận.
Trong rất nhiều động cơ học tập của sinh viên,
có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản:
- Các động cơ hứng thú nhận thức.
- Các động cơ trách nhiệm trong học tập.
Cả hai động cơ trên không phải là một quá
trình hình thành tự phát, cũng chẳng được
đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và
phát triển một cách tự giác thầm lặng từ bên
trong. Do vậy người giảng viên phải tùy đặc
điểm môn học, tùy đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp
thích hợp nhằm khơi dây hứng thú học tập và
năng lực tiềm tàng nơi sinh viên. Điều quan
trọng hơn là tạo mọi điều kiện để sinh viên tự
kích thích động cơ học tập của mình.
Thư hai, xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có
hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch
học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng.
Trong đó kế hoạch phải được xác định với
tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn
hạn, dài hơi thậm chí từng môn, từng phần
phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho
từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình.
Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm,
cái gì là cốt lõi, là quan trọng để ưu tiên tác
động trực tiếp và dành thời gian công sức cho
nó. Nếu việc học dàn trải, thiếu tập trung thì
chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã
xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các
phần việc một cách hợp lí, logic về cả nội
dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung
hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng
mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong
kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành
việc học được trôi chảy thuận lợi.
Thư ba, tự mình nắm vững nội dung tri thưc
Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều
thời gian công sức nhất. Khối lượng kiến thức
và các kĩ năng được hình thành nhanh hay
chậm, nắm bắt vấn đề nông hay sâu, rộng hay
hẹp, có bền vững không… tùy thuộc vào nội lực
của chính bản thân người học trong bước mang
tính đột phá này. Nó bao gồm các hoạt động:
- Tiếp cận thông tin
- Xử lí thông tin
- Vận dụng tri thức, thông tin
- Trao đổi, phổ biến thông tin
Thư tư, tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực
hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các thang đo
mức độ đáp ứng yêu cầu của giảng viên, bản
thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập
thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh
với mục tiêu đặt ra ban đầu… Tất cả đều
mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan
tâm thường xuyên. Thông qua nó người học
tự đối thoại để thẩm định mình, hiểu được cái
gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu
học tập nghiên cứu để từ đó có hướng khắc
phục hay phát huy.
Sinh viên cần hiểu rõ và vận dụng tốt
phương pháp học tập theo nhóm
Ưu điểm của phương pháp học theo nhóm
Những ưu thế từ phương pháp học tập này
hầu như sinh viên nào cũng nhận thức được
và không thể phủ nhận. Học tập trong môi
Nguyễn Quỳnh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 151 - 156
155
trường nhóm sẽ thúc đẩy sự tích cực học tập
của cá nhân, tạo sự gắn kết trong một cộng
đồng. Trong khi làm việc nhóm, những mâu
thuẫn sẽ nảy sinh từ đó sinh viên phải giải
quyết “xung đột”. Từ đó, họ sẽ có khả năng
giải quyết những mâu thuẫn, thuyết phục
người khác trong những hoàn cảnh có thể bắt
gặp trong cuộc sống sau này.
Tinh thần học hỏi và khả năng lắng nghe
người khác cũng sẽ là điều mà sinh viên sẽ
học hỏi được. Những kĩ năng này là rất quan
trọng khi các bạn bước ra môi trường làm
việc và đây sẽ là tiền đề tốt để biết cách làm
việc trong một môi trường tập thể.
Những hạn chế của phương pháp học theo nhóm
Những mặt tích cực của phương pháp học tập
nhóm là không thể phủ nhận. Nhưng không
phải nhóm sinh viên nào cũng đạt được kết
quả cao nhất với phương pháp học tập này,
thậm chí, đôi khi một số sinh viên cảm thấy
nó mang nhiều tính hình thức và đạt được ít
hiệu quả hơn so với việc làm việc theo cá
nhân. Đó là do, thư nhất, một số sinh viên coi
bài tập nhóm là công việc của tập thể nên
thường có tâm lí “không phải việc của mình”,
ai cũng trừ mình ra. Và kết quả là “cha chung
không ai khóc”. Nhiều bạn nghĩ rằng học
nhóm sẽ rất thoải mái vì nó là hình thức vừa
học vừa chơi, vừa học vừa nói chuyện, "tạt
ngang tạt ngửa" bàn chuyện này chuyện
khác… Điều ấy thật sai lầm. Vì bạn đang tự
hao tốn thời gian của mình một cách vô ích.
Thư hai, học nhóm đòi hỏi sự tự giác của từng
thành viên trong nhóm. Sự làm việc này
tương tự như sự hoạt động của một dây
chuyền sản xuất. Dây chuyền sẽ không thể
hoạt động, hoặc hoạt động kém hiệu quả nếu
một bộ phận không làm việc hoặc làm việc
không đúng chức năng. Nếu một thành viên
trong nhóm không làm việc như đã phân công
sẽ dẫn đến công việc nhóm sẽ bị ngưng trệ.
Thư ba, đó là sự phân công công việc không
rõ ràng. Đôi khi một thành viên trong nhóm
phải đảm nhiệm quá nhiều công việc, trong
khi có thành viên không có việc gì để làm.
Vậy, để phương pháp học tập nhóm đạt hiệu
quả cao nhất cần:
Một là, sự phân công công việc hợp lí. Điều
này phụ thuộc nhiều vào vai trò và khả năng
chỉ đạo của người nhóm trưởng. Khi công
việc được phân chia rõ ràng cho từng thành
viên họ sẽ ý thức được vai trò của mình, có
trách nhiệm hoàn thành công việc.
Hai là, sự tự ý thức của các cá nhân trong
nhóm, bản thân sinh viên nên thấy trách
nhiệm của một phần trong đó, và sản phẩm
hoàn thành có một phần đóng góp của bản
thân. Một nhóm học chỉ hiệu quả khi các
thành viên có ý thức tự giác: tự giác về thời
gian, bài vở, tự giác “phát biểu”… Chỉ khi
nào mỗi sinh viên phát huy cao độ tinh thần
độc lập, suy nghĩ về những vấn đề cần đưa ra
học tập nghiên cứu tập thể khi đó việc học
nhóm, tổ mới phát huy được tác dụng.
Ba là, tinh thần học hỏi, chịu khó lắng nghe,
hết mình vì tập thể đó sẽ là chìa khóa giúp một
bài tập nhóm thành công. Học nhóm chỉ đạt
hiệu suất cao khi nó được thực hiện trên cơ sở
có sự chuẩn bị chu đáo cả về mặt nội dung lẫn
phương pháp tổ chức của mọi thành viên.
KẾT LUẬN VA KIẾN NGHỊ
Chất lượng dạy và học môn Toán Cao cấp
cho sinh viên năm thứ nhất của Trường Đại
học Kinh tế & QTKD được Bộ môn đặt lên
hàng đầu. Tuy nhiên, làm thế nào để sinh viên
có một kết quả cao trong học tập và đạt hiệu
quả? Đó là điều không phải là vấn đề giải
quyết ngay trong thời gian ngắn, mà ở đây
cần có một quá trình. Bởi lẽ hình thức đào tạo
tín chỉ hiện nay ở nước ta còn khá mới mẻ,
chúng ta vẫn phải thực hiện biện pháp vừa
làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm. Tuy
nhiên, một trong những nguyên nhân hàng
đầu mang lại sự thành công đó là sinh viên
cần phải có một phương pháp học tập phù
hợp với hình thức đào tạo theo này.
Để nâng cao được chất lượng đào tạo môn
Toán ở trường Đại học Kinh tế và Quản trị
kinh doanh Thái Nguyên đòi hỏi phải có một
sức mạnh tổng hợp, trong đó vai trò của Nhà
trường, của các giảng viên, của đội ngũ các
chuyên viên thuộc các phòng ban, của tất cả
các sinh viên của Nhà trường. Nhưng yếu tố
quan trọng nhất là những chủ thể của quá
trình đào tạo, đó là sinh viên. Họ phải có một
Nguyễn Quỳnh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 151 - 156
156
phương pháp học tập phù hợp với hình thức
đào tạo này. Bởi lẽ, không ai có thể giúp đỡ,
có thể làm thay, có thể “ban thưởng” cho họ
được; mà họ phải xác định rất rõ họ học với
đúng tinh thần “Học để ngày mai lập nghiệp”.
Như vậy cần phải có những giải pháp đồng bộ
của tất cả các bên tham gia vào hoạt động dạy
và học mới có thể đạt hiệu quả cao trong việc
nâng cao chất lượng đào tạo môn Toán Cao
cấp cho sinh viên năm thứ nhất của Trường
Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh.
Một số kiến nghị với nhà trường
Tách học phần Toán Cao cấp hiện nay thành
2 học phần riêng đó là học phần Đại số tuyến
tính và học phần Giải tích.
Biên chế tối đa cho một lớp học phần của
môn Toán Cao cấp 60 sinh viên.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Nguyễn Như An (1980), Phát huy tính tích cực
nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học
môn giáo dục học, Kỷ yếu hội nghị giáo dục học
toàn quốc lần thứ 1, Viện KHGD.
2. Đỗ Ngọc Đạt (2000), Tiếp cận hiện đại hoạt
động dạy học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
3. PGS.TS.Đặng Xuân Hải (2012), Kỹ thuật dạy
học trong đào tạo theo học chế tín chỉ, Nxb Bách
Khoa Hà Nội.
4. Đặng Vũ Hoạt (chủ biên) (2003), Lý luận dạy
học đại học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
5. Trần Bá Hoành (1997), Đánh giá trong giáo
dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Lê Đức Ngọc (2003), Bài giảng đo lường và
đánh giá thành quả học tập; Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
7. Kỷ yếu hội nghị “Tổng kết hoạt động đào tạo theo
học chế tín chỉ năm 2008-2012 của trường Đại học
Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên
SUMMARY
SOME METHODOLOGIES FOR ENHANCING THE QUALITY
OF TEACHING ADVANCED MATHEMATICS FOR FIRST-YEAR STUDENTS
AT COLLEGE OF ECONOMICS AND BUSINESS ADMINISTRATION - TNU
Nguyen Quynh Hoa*, Tran Thi Mai, Nguyen Thi Thu Huong
College of Economics and Business Administration - TNU
A recent situation can be seen clearly in Thai Nguyen University of Ecomics, Business and
Administration is that the results in higher mathematics of the first-year students have decreased
drammatically. In this article, the group of authors has analyzed and found out the reasons for the
situation. From that, some methods for enhancing the quality of teaching and training higher
mathematics in Thai Nguyen University of Ecomics, Business and Administration are
recommended.
Key words: Mathematic, training quality, method, economic, basic
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:30/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Văn Minh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0977 615828, Email: [email protected]
Thái Thị Thái Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 157 - 163
157
LỰA CHỌN VÀ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN BỔ CHI PHÍ SẢN XUẤT
KẾT HỢP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG THÁI BÌNH
Thái Thị Thái Nguyên*
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Hiện nay, trong công tác kế toán tài chính cũng như kế toán quản trị, vấn đề luôn được quan tâm
trong kế toán chi phí đó là việc xác định đối tượng tập hợp chi phí cũng như phương pháp tập hợp
chi phí là một trong những vấn đề trọng tâm của kế toán chi phí. Vì vậy, với những chi phí có liên
quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí thì việc doanh nghiệp lựa chọn phương pháp phân bổ chi
phí là cần thiết. Dựa trên kết quả nghiên cứu việc lựa chọn và sử dụng phương pháp phân bổ chi
phí sản xuất kết hợp tại Công ty cổ phần xi măng Thái Bình, bài báo sẽ trang bị cho các nhà quản
lý đưa ra được các chiến lược kinh doanh, cải thiện cấu trúc chi phí với mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận tại Công ty cổ phần xi măng Thái Bình nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất nói chung.
Từ khóa: Phân bổ, chi phí chung, sản phẩm
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Để tiến hành quá trình sản xuất và tạo ra sản
phẩm doanh nghiệp cần phải tập hợp chi phí
cho các khoản mục đối với từng sản phẩm.
Tuy nhiên, có những khoản mục chi phí có
thể tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng chịu
chi phí như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp... nhưng cũng có
những khoản mục chi phí không thể tập hợp
riêng được mà phải tập hợp chung sau đó kế
toán sẽ phân bổ cho từng đối tượng chịu chi
phí như chi phí sản xuất chung và đó cũng là
chi phí chung phát sinh trong quá trình sản
xuất hoặc là cả những khoản mục chi phí như
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp, chi phí sản xuất chung cũng
được tập hợp chung cho tất cả các sản phẩm
sau khi tập hợp mới phân bổ cho các sản
phẩm theo tiêu thức phù hợp. Ngoài ra, chi
phí chung còn phát sinh trong nhiều lĩnh vực
khác như: Chi phí mua của hàng hóa nhập
kho, chi phí vận chuyển của hàng hóa tiêu
thụ... Do vậy, tại sao phải phân bổ chi phí
chung? Điều này có thể được lý giải như sau:
Việc phân bổ chi phí chung có thể được phân
bổ với nhiều lý do, nhưng lý do chính mà các
doanh nghiệp sản xuất tiến hành phân bổ chi
phí chung đó là để tính giá trị hàng tồn kho và
* Tel: 0982.059.811, Email: [email protected]
tính giá vốn hàng bán, tính giá thành sản
phẩm và ngoài ra còn nhiều lý khác nữa. Việc
phân bổ chi phí kết hợp cũng được xem là
hữu ích trong việc định giá và các phương
pháp phân bổ chi phí có thể được sử dụng
như: Phương pháp giá trị thực tế thuần, ước
lượng giá trị thực tế thuần khi có quá trình
chế biến thêm, phương pháp số lượng, phân
phổ chi phí theo phương pháp hệ số, phân bổ
chi phí theo phương pháp tỷ lệ.
Qua nghiên cứu thực trạng công tác phân bổ
chi phí chung ở Công ty cổ phần xi măng
Thái Bình, tác giả có đề xuất công ty có thể
lựa chọn thêm một số phương pháp phân bổ
chi phí khác có thể cung cấp các thông tin về
chi phí chung phân bổ cho các đối tượng chịu
chi phí chính xác hơn. Điều này thực sự hữu
ích đối với những doanh nghiệp sản xuất ra
nhiều loại sản phẩm khác nhau hoặc sản xuất
ra nhiều sản phẩm với quy cách, phẩm cấp
khác nhau đồng thời có xây dựng hệ thống giá
thành định mức cho từng sản phẩm hoặc hệ số
quy đổi sản phẩm chuẩn... Từ đó, nhà quản lý
có thể căn cứ vào các thông tin về chi phí, có
các chính sách hoặc biện pháp tiết kiệm chi
phí, giảm giá thành sản phẩm đạt được các
mục tiêu của doanh nghiệp.
Nghiên cứu tại Công ty cổ phần xi măng Thái
Bình Quý III/2013 đã sử dụng các phương
pháp phân bổ chi phí, mỗi phương pháp phân
Thái Thị Thái Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 157 - 163
158
bổ chi phí chung có thể đưa đến những kết
quả khác nhau. Vì vậy, trong phạm vi bài viết
tác giả muốn đề cập đến việc lựa chọn và sử
dụng phương pháp phân bổ chi phí sản xuất
chung tại công ty cổ phần xi măng Thái Bình.
TRAO ĐỔI VA THAO LUẬN
Hiện nay, tại Công ty cổ phần xi măng Thái
Bình có thể lựa chọn một trong các phương
pháp phân bổ chi phí kết hợp, mỗi phương pháp
sẽ mang lại những kết quả khác nhau khi xác
định chi phí chung phân bổ cho đối tượng chịu
chi phí, cụ thể việc áp dụng một trong các
phương pháp sẽ được thực hiện như sau:
Thứ nhất: Phương pháp giá trị thực tế thuần
Việc sử dụng phương pháp giá trị thực tế
thuần (được hiểu như phương pháp phân bổ
theo doanh thu), chi phí chung sẽ được phân
bổ theo giá trị thực tế thuần của mỗi sản phẩm
ở điểm phân chia. Giá trị thực tế thuần là
doanh thu ước lượng của mỗi sản phẩm ở
điểm phân chia hoặc có thể sử dụng giá thị
trường tại điểm phân chia để phân bổ. Tuy
nhiên, nếu sản phẩm được chế biến tiếp tục
trước khi đưa ra thị trường thì khi đó cần phải
ước lượng giá trị thực tế thuần ở điểm phân
chia. Có thể xem đây là phương pháp tính
ngược bằng cách lấy giá bán thị trường sau
khi chế biến thêm trừ đi chi phí chế biến
thêm. Giá trị thực tế thuần ở điểm phân chia
được ước lượng bằng cách lấy doanh thu sau
quá trình chế biến thêm trừ đi chi phí chế biến
thêm. Chi phí chung được phân bổ cho các
sản phẩm theo tỷ lệ giá trị thực tế thuần ở
điểm phân chia. Có số liệu chi phí sản xuất và
doanh thu tại Quý III/2013 của Công ty cổ
phần xi măng Thái Bình để sản xuất xi măng
trắng và xi măng xanh sử dụng nguyên vật
liệu ban đầu là Clinke sau đó bỏ thêm chi phí
nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất và sau
điểm phân chia tại công ty không có quá trình
chế biến tiếp tục.
Việc phân bổ chi phí chung theo giá trị thực
tế thuần như sau:
+ Xi măng xanh: 95.971.815/(95.971.815 +
16.824.139.935) x 15.216.078.162 =
86.306.442đ
+ Phân bổ cho sản phẩm xi măng trắng:
15.216.078.162đ – 86.306.442đ =
15.129.771.720đ
Căn cứ theo số liệu tính toán và dữ liệu của
Bảng 1 ta có thể xác định được lợi nhuận gộp
trên doanh thu như Bảng 2.
Kết quả tính toán tại Bảng 2 cho thấy tỷ lệ lợi
nhuận gộp trên doanh thu của cả hai sản phẩm
đều là 10,07%. Điều này đã chứng minh một
vấn đề quan trọng đó là: Tỷ lệ lợi nhuận gộp
trên doanh thu đều giống nhau cho tất cả các
sản phẩm kết hợp có nghĩa là có sự tương
xứng giữa chi phí đầu vào và doanh thu tạo ra
của mỗi sản phẩm. Đồng thời dòng chi phí
chung được phân bổ qua tài khoản chữ T cho
mỗi sản phẩm theo sơ đồ 1.
Bảng 1: Tổng hơp doanh thu, chi phí chung của sản phẩm xi măng
(ĐV: VNĐ)
Khoản mục Doanh thu Tổng chi phí
Chi phí Clinke trắng xuất dùng 11.810.865.924
CP NVL trực tiếp bỏ thêm 2.175.098.287
CP Nhân công trực tiếp 518.712.480
CP sản xuất chung 711.401.471
Sản phẩm xi măng xanh 95.971.815
Sản phẩm xi măng trắng 16.824.139.935
Tổng cộng 16.920.111.750 15.216.078.162
(Nguồn: Báo cáo phân tích chi phí sản xuất Quý III/2013 và tính toán của tác giả)
Thái Thị Thái Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 157 - 163
159
Bảng 2: Lơi nhuận gộp trên doanh thu Quý III/2013
( ĐV: VNĐ)
Khoản mục Xi măng xanh Xi măng trắng Tổng cộng
Doanh thu 95.971.815 16.824.139.935 16.920.111.750
Trừ: CP chung được phân bổ 86.306.442 15.129.771.720 15.216.078.162
Lợi nhuận gộp 9.665.373 1.694.368.215 1.704.033.588
Tỷ lệ lợi nhuận gộp trên doanh thu 10,07% 10,07% 10,07%
(Nguồn: Báo cáo tổng hơp doanh thu theo sản phẩm Quý III/2013 và tính toán của tác giả)
11.810.865.924
86.306.442
13.985.964.211 13.985.964.211
B/s: 2.175.098.287
15.216.078.162
1.230.113.951 1.230.113.951 15.129.771.720
TK155_XM Xanh
TK621
TK622, 627
TK154 TK155_XM trắng
( ĐV: Đồng)
Sơ đồ 1: Phân bổ chi phí sản xuất qua sơ đồ chữ T
(Nguồn: Báo cáo tổng hơp doanh thu theo sản phẩm Quý III/2013 và tính toán của tác giả)
Bảng 3: Phân bổ chi phí chung cho các sản phẩm theo phương pháp số lượng Quý 3/2013
Khoản mục Xi măng trắng Xi măng xanh Tổng cộng
Số lượng sản phẩm nhập kho( tấn) 8972 140 9.112
Phân bổ chi phí chung:
(8.972/9.112)x15.216.078.162 14.982.292.940 14.982.292.940
(140/9.112) x 15.216.078.162 233.785.222 233.785.222
Cộng 15.216.078.162
( Nguồn: Báo cáo chi phí sản xuất chung theo yếu tô Quý III/2013 và tính toán của tác giả)
Tuy nhiên, trong Quý III/2013 giá bán của
sản phẩm xi măng trắng và xi măng xanh là
khác nhau. Trong đó, giá bán của xi măng
trắng là: 1.990.000đ/tấn còn giá bán của xi
măng xanh là: 680.000đ/tấn. Điều này cho
thấy việc phân bổ chi phí chung theo tiêu thức
hiện vật là số lượng sản phẩm nhập kho (tấn)
là sẽ chia đều chi phí kết hợp cho hai sản
phẩm xi măng trắng và xi măng xanh. Kết quả
của việc phân chia này sẽ phân bổ chi phí
chung cho 1 tấn xi măng trắng và 1 tấn xi
măng xanh là bằng nhau thông qua việc phân
bổ này dẫn tới việc xác định giá bán cho các
sản phẩm là không chính xác. Ngoài ra, do
không xác định chính xác chi phí của từng
loại sản phẩm xi măng nên khi xác định kết
quả kinh cho từng mặt hàng sẽ không chính
xác. Do vậy, nếu tại Công ty cổ phần xi măng
Thái Bình sử dụng phương pháp này để phân
bổ chi phí chung là không phù hợp với công
ty do giá bán của hai sản phẩm trên thị trường
là khác xa nhau. Mặc dù vậy, phương pháp
Thái Thị Thái Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 157 - 163
160
này thường đơn giản, dễ áp dụng nhưng nếu
doanh nghiệp sản xuất ra nhiều loại sản phẩm
thì không nên sử dụng phương pháp này vì độ
chính xác không cao.
Thứ ba: Phương pháp ước lượng giá trị
thực tế thuần khi có quá trình chế biến thêm
Trong thực tế, không phải tất cả các sản phẩm
đều được bán ở điểm phân chia, một số sản
phẩm phải chế biến thêm trước khi đưa ra thị
trường. Nếu ở điểm phân chia không có
doanh thu người ta phải ước lượng giá trị thực
tế thuần bằng cách lấy doanh thu ở điểm bán
ra sau khi chế biến thêm trừ đi chi phí chế
biến thêm. Giá trị thực tế thuần được sử dụng
để phân bổ cũng giống như giá trị thị trường
thực tế tại điểm phân chia.
Thông qua số liệu thu thập và số liệu tính toán
về dòng chi phí – quá trình chế biến thêm của
sản phẩm xi măng tại công ty cổ phần xi
măng Thái Bình sẽ được thể hiện qua sơ đồ 2.
Qua nghiên cứu cho thấy trong Quý III/2013
tại Công ty cổ phần xi măng Thái Bình đối
với sản phẩm xi măng trắng cần bổ sung chi
phí chế biến thêm là: 2.175.098.287 đ, do bỏ
ra chi phí chế biến thêm nên giá bán của xi
măng trắng tăng lên và doanh thu của xi măng
trắng tăng lên là: 17.665.346.932 đ và của xi
măng xanh là: 95.971.815đ, khi đó việc phân
bổ chi phí chung cho hai sản phẩm được thể
hiện ở Bảng 4.
Kết quả tính toán tại Bảng 4 cho thấy tỷ lệ lợi
nhuận gộp trên doanh thu của cả hai sản phẩm
đều là 23,74%. Điều này cũng giống như
phương pháp thứ nhất đã chứng minh một vấn
đề quan trọng đó là: Tỷ lệ lợi nhuận gộp trên
doanh thu đều giống nhau cho tất cả các sản
phẩm kết hợp có nghĩa là có sự tương xứng
giữa chi phí đầu vào và doanh thu tạo ra của
mỗi sản phẩm mặc dù có sản phẩm phải bỏ
thêm chi phí chế biến nhưng đồng thời doanh
thu bán ra cũng tăng cho nên tỷ lệ lợi nhuận trên
doanh thu là giống nhau giữa các sản phẩm.
NHẬN XÉT VA KIẾN NGHỊ
Về ưu điểm:
Với các phương pháp phân bổ chi phí chung
được công ty lựa chọn và sử dụng là tương
đối phù hợp, đơn giản dễ tính, dễ thực hiện.
Về bản chất các phương pháp phân bổ chi phí
chung nói trên như phương pháp giá trị thực
tế thuần hoặc giá trị thực tế thuần có quá trình
chế biến thêm cuối cùng cho kết quả là tỷ lệ
lợi nhuận gộp trên doanh thu đều giống nhau
cho tất cả các sản phẩm kết hợp có nghĩa là có
sự tương xứng giữa chi phí đầu vào và doanh
thu tạo ra của mỗi sản phẩm.
15.490.248.645
2.175.098.287 - Chi phí chế biến thêm
95.971.815
Giá thị trường của Xi măng xanh ở điểm phân chia
Xi măng xanh có giá thị trường:
95.971.815
Điểm phân chia
15.216.078.162 - Chi phí kết hợp
trước điểm phân chia
Giá trị thực tế thuần của Xi măng trắng tại
điểm phân chia ( 15.665.346.932 -
2.175.098.287)
Xi măng trắng có giá thị trường:
17.665.346.932
( ĐV: Đồng)
Sơ đồ 2: Dòng chi phí – quá trình chế biến thêm sau điểm phân chia
(Nguồn: Báo cáo phân tích chi phí sản xuất Quý III/2013 và tính toán của tác giả)
Thái Thị Thái Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 157 - 163
161
Bảng 4: Phân bổ chi phí theo phương pháp giá trị thực tế thuần khi có quá trình chế biến thêm
( ĐV: Đồng)
Khoản mục Xi măng
xanh
Xi măng trắng Tổng cộng
(1).- Doanh thu 95.971.815 17.665.346.932 17.761.318.747
(2).- Chi phí tăng thêm từ điểm phân chia đến điểm
bán ra
2.175.098.287 2.175.098.287
(3).- Giá trị thực tế thuần ước lượng tại điểm phân
chia [ (1) – (2)]
95.971.815 15.490.248.645 15.586.220.460
(4).-Phân bổ chi phí kết hợp
4a._(95.971.815/15.586.220.460x15.216.078.162) 93.692.672 93.692.672
4b._(15.490.248.645/15.586.220.460x15.216.078.162) 15.122.385.490 15.122.385.490
(5).- Cộng chi phí kết hợp [(4a) + (4b)] 93.692.672 15.122.385.490 15.216.078.162
(6). - Lợi nhuận gộp [(3) – (5)] 2.279.143 367.863.155 370.142.298
(7).- Tỷ lệ lợi nhuận gộp [ (6)/(3)] (%) 23,74 23,74 23,74
(Nguồn: Báo cáo tổng hơp doanh thu theo sản phẩm, báo cáo chi phí sản xuất chung theo yếu tô Quý
III/2013 và tính toán của tác giả)
Về nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm thì việc áp dụng
phương pháp phân bổ chi phí kết hợp của
công ty hiện nay cũng không tránh khỏi
những bất cập như sau:
- Dữ liệu thu thập liên quan đến chi phí chung
tổng hợp chi phí cho tất cả các khoản mục.
Do vậy, việc thu thập dữ liệu thường xuyên
và được kiểm tra định kỳ với dữ liệu lớn
trước khi phân bổ việc tập hợp chi phí không
chính xác dẫn tới kết quả không chính xác.
- Hơn nữa, chi phí tập hợp chưa có sự tách
biệt giữa định phí và biến phí tổng hợp và
phân bổ theo doanh thu bán ra. Ngoài ra, nếu
trong kỳ sản phẩm xuất bán nhiều nhưng sản
xuất ít, lượng tồn kho của kỳ trước chuyển
sang nhiều thì việc lựa chọn và sử dụng
phương pháp phân bổ hiện tại của công ty sẽ
có nhiều bất cập.
- Chưa phù hợp với những doanh nghiệp có quy
trình công nghệ phức tạp, sản xuất nhiều loại
sản phẩm giống nhau có quy cách, phẩm cấp
khác nhau hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
- Trong trường hợp doanh nghiệp có xây
dựng hệ thống định mức chi phí cho từng
khoản mục đối với từng sản phẩm hoặc có hệ
số của sản phẩm chuẩn thì để chính xác hơn
trong công tác phân bổ chi phí kết hợp có thể sử
dụng phương pháp phân bổ chi phí theo phương
pháp hệ số hoặc theo phương pháp tỷ lệ.
Từ những phân tích nói trên những ưu điểm
và nhược điểm hiện nay trong công tác lựa
chọn phương pháp phân bổ chi phí kết hợp.
Tác giả đưa ra kiến nghị về việc bổ sung các
phương pháp phân bổ chi phí sản xuất kết hợp
tại Công ty cổ phần xi măng Thái Bình nói
riêng và các doanh nghiệp sản xuất nói chung
là phương pháp hệ số và phương pháp tỷ lệ:
Thứ nhất phương pháp hệ số:
Điều kiện áp dụng:
+ Quy trình công nghệ sản xuất đơn giản hoặc
phức tạp, trên quy trình công nghệ tạo ra
nhiều loại sản phẩm khác nhau
+ Đối tượng tập hợp chi phí là toàn bộ quy
trình công nghệ
+ Đối tượng tính và phân bổ chi phí là từng
loại sản phẩm khác nhau
+ Đơn vị có xây dựng hệ số quy đổi của các
sản phẩm về sản phẩm chuẩn
Nội dung phương pháp:
Bước 1: Quy đổi các sản phẩm thành sản
phẩm chuẩn thông qua hệ số quy đổi của từng
sản phẩm.
Thái Thị Thái Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 157 - 163
162
Tổng
sản
lượng
quy đổi
= Σ (Số lượng
từng loại
sản phẩm
x Hệ số quy
đổi từng)
sản phẩm
Bước 2: Tính chi phí cho một sản phẩm chuẩn
Chi phí đơn vị sản phẩm chuẩn = Tổng chi
phí sản xuất/Tổng số lượng sp chuẩn
Bước 3: Tổng chi phí phân bổ cho từng loại
sản phẩm
Chi phí đơn vị cho từng sản phẩm = Chi phí
đơn vị sp chuẩn X hệ số quy đổi
Thứ hai: Phương pháp tỷ lệ
Điều kiện áp dụng:
+ Quy trình công nghệ giản đơn hoặc phức
tạp, trên cùng một quy trình công nghệ tạo ra
nhóm sản phẩm trong đó mỗi sản phẩm trong
nhóm có quy cách, phẩm cấp khác nhau
+ Đối tượng kế toán tập hợp chi phí là toàn bộ
quy trình công nghệ
+ Đối tượng tính và phân bổ chi phí là từng
sản phẩm trong nhóm
+ Đơn vị có xây dựng hệ thống định mức chi
phí tiên tiến
Nội dung phương pháp
+ Bước 1: Xác định tổng chi phí định mức
của cả nhóm sản phẩm
Tổng chi
phí định
mức nhóm
sản phẩm
= Σ Số
lượng
từng
loại
sản
phẩm
x Định mức
chi phí
của từng
loại sp
+ Bước 3: Xác định chi phí thực tế của từng
sản phẩm trong nhóm Chi phí thực tế
của sản phẩm i
= Chi phí thực
tế của nhóm
sản phẩm
x Tỷ lệ
chi phí
sản
phẩm i
KẾT LUẬN
Do tính chất của quá trình sản xuất kết hợp,
không thể tách chi phí chung cho từng sản
phẩm bằng bất cứ căn cứ tính trực tiếp nào.
Do đó, nếu chi phí chung được phân bổ để sử
dụng cho mục đích ra quyết định thì khi
doanh nghiệp lựa chọn sử dụng phải thấy
được các giới hạn của nó. Việc doanh nghiệp
lựa chọn phương pháp nào để phân bổ chi phí
kết hợp phải phản ánh hợp lý lợi ích kinh tế
nhận được từ các sản phẩm kết hợp thì
phương pháp đó mới được chấp nhận cho
mục đích của công tác lập báo cáo tài chính
hoặc cho những quy định hoặc hợp đồng dựa
trên cơ sở chi phí. Thông qua bài viết này, tác
giả không chỉ muốn đề cập đến những
phương pháp phân bổ chi phí kết hợp mà hiện
tại Công ty cổ phần xi măng Thái Bình áp
dụng mà thực chất đó cũng là vấn đề quan
tâm trong công tác phân bổ chi phí kết hợp
không chỉ của công ty cổ phần xi măng Thái
Bình nói riêng cũng như các công ty sản xuất
xi măng nói chung, rộng lớn hơn đó là của
toàn bộ các doanh nghiệp đang thực hiện sản
xuất sản phẩm.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Nguyễn Văn Công (2010), Lý thuyết và thực
hành kế toán tài chính, Nxb Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
2. PSG.TS Phạm Văn Dược, TS. Huỳnh Lợi
(2009), Mô hình và cơ chế vận hành kế toán quản
trị, Nxb Tài chính, Hà Nội.
3. Nguyễn Khắc Hùng (2011), Kế toán chi phí,
Nxb Lao động, Hà Nội.
4. Số liệu điều tra tại Công ty cổ phần xi măng
Thái Bình
5. Võ Văn Nhị (2004), Hướng dẫn thực hành kế
toán CPSX và tính ZSP trong doanh nghiệp, Nxb
Tài chính, HN
6.http://www.ximangthaibinh.vn/Home/default.aspx
7. http://www.ftmsglobal.edu.vn/nghe-thuat-quan-
ly-chi-phi
Thái Thị Thái Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 157 - 163
163
SUMMARY
SELECTING AND USING THE ALLOCATED METHOD OF COMBINED
PRODUCTION COST AT THAI BINH CEMENT JOINT STOCK COMPANY
Thai Thi Thai Nguyen*
College of Economics and business Administration – TNU
Currently, the accounting and financial work as well as administration accountancy is an issue
interested in cost accountancy. This is determination of cost gathering subjects as well as cost
gathering method. Therefore, with costs related to many cost subjects, it is necessary for the
Company to choose the cost allocated method. It is based on results on selection and use of the
allocated method of combined production cost at Thai Binh Cement Joint Stock Company, the
research paper will equip for managers able to make decision in business strategies, improvement
of cost structure with purpose of profit maximization at Thai Binh Cement Joint Stock Company in
particular and production companies in general.
Keywords: Distribution, general expenses, products
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:30/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Vũ Thị Hậu – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0982.059.811, Email: [email protected]
Thái Thị Thái Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 157 - 163
164
Phạm Thị Thanh Mai và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 165 - 171
165
NGHIÊN CỨU MỘT SÔ PHƯƠNG ÁN SỬ DỤNG NGUỒN NĂNG LƯỢNG
TÁI TẠO CHO PHÁT ĐIỆN Ở VIỆT NAM
Phạm Thị Thanh Mai1, Nguyễn Vĩnh Thụy2 1Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên,
2Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Các phân tích được dựa trên mô hình quy hoạch hệ thống năng lượng dài hạn của Việt Nam sử
dụng công cụ quy hoạch là phần mềm LEAP cho thấy, Việt Nam sẽ không thể đáp ứng nhu cầu
năng lượng trong tương lai mà không cần nhập khẩu năng lượng. Trong khi đó nguồn năng lượng
tái tạo (NLTT) của nước ta được đánh giá có tiềm năng khá lớn nhưng mức độ khai thác và sử
dụng còn nhiều hạn chế. Sự ra đời của Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh vào tháng 9/2012
đã định ra xu hướng chủ đạo trong phát triển bền vững, thúc đẩy việc khai thác và sử dụng nguồn
năng lượng sạch, NLTT, giảm cường độ phát thải khí nhà kính trong sản xuất và tiêu thụ. Bài viết
này nghiên cứu một số phương án sử dụng các nguồn NLTT đồng thời giảm công suất đặt các nhà
máy điện sử dụng năng lượng hóa thạch của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2030 trong cân bằng
cung cầu hệ thống năng lượng và đánh giá các tác động kinh tế, môi trường khác.
Từ khóa: Năng lương tái tạo, phát điện, quy hoạch, LEAP, giảm phát thải
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Phát triển NLTT để có thêm nguồn năng
lượng sạch, giảm ô nhiễm, giảm khí thải nhà
kính và chủ động nguồn năng lượng là xu
hướng tất yếu và đã tăng trưởng đều trong các
năm qua trên thế giới. Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Phát triển kinh tế của
nước ta đã dẫn đến sự tăng trưởng nhanh
chóng về nhu cầu năng lượng. Trong khi đó,
nguồn năng lượng truyền thống đang cạn kiệt
dần tỷ lệ với tốc độ phát triển kinh tế, đồng
thời dẫn đến tình trạng gia tăng về ô nhiễm
môi trường. Phát điện trong nước gần như
phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn năng lượng
truyền thống là than, dầu, khí và thủy điện
lớn. Cụ thể, theo báo cáo của EVN, trong cơ
cấu công suất các nguồn điện năm 2010 thì
nhiệt điện chiếm 59,4% (trong đó nhiệt điện
than 21%, nhiệt điện khí 30,4% và nhiệt điện
dầu 8%), thủy điện 34,6%, nhập khẩu 3,5%
và chỉ có khoảng 2,5% là NLTT. Khả năng
cấp than cho sản xuất cho đến năm 2030 chỉ
đạt được khoảng 32,4% ở phương án cao và
28,35% ở phương án cơ sở so với nhu cầu.
Trong khi đó lượng phát thải khí nhà kính
* Tel: 0912 804979, Email: [email protected]
tăng lên không ngừng và chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong ngành năng lượng là nhiệt điện than.
Dự báo đến năm 2030, phát thải của ngành năng
lượng sẽ chiếm khoảng 91,3% so với tổng phát
thải khí nhà kính của cả nước, trong đó nhiệt
điện than đóng góp tới 48,5%. [4]
Trước những vấn đề cấp bách đặt ra, để đảm
bảo cho một nền kinh tế phát triển bền vững
trong tương lai, ngày 25/9/2012, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt
“Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh” và
xác định “Tăng trưởng xanh là một nội dung
quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo
phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững
và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược
quốc gia về biến đổi khí hậu” [7]. Chính vì
vậy, việc xem xét một cách đầy đủ vai trò của
nguồn NLTT và đánh giá tác động của việc
tăng cường sử dụng các nguồn NLTT này cho
phát điện đang được đặt ra và nghiên cứu.
VAI TRÒ, TIỀM NĂNG CÁC NGUỒN
NLTT CHO PHÁT ĐIỆN VIỆT NAM
Vai trò của NLTT
- Góp phần cung ứng kịp nhu cầu năng lượng
của xã hội, tăng sự đa dạng trong cung cấp
NL, ổn định nguồn cung về điện, giảm quá tải
Phạm Thị Thanh Mai và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 165 - 171
166
cho giờ cao điểm giảm thiểu tổn thất kinh tế,
áp lực cuộc sống khi nguồn điện lưới không
ổn định....
- Giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch
và năng lượng nhập khẩu, tăng cường sử dụng
các nguồn tài nguyên bản địa từ đó đảm bảo
tính ổn định, cải thiện an ninh cung cấp năng
lượng cho nền kinh tế.
- Giảm chi phí đầu tư hạ tầng lưới điện, cho
phép cung cấp điện tới những nơi điện lưới
quốc gia chưa vươn tới hoặc nếu có thì chi
phí rất tốn kém (vùng sâu, vùng xa, biển đảo)
từ đó đảm bảo đời sống an sinh xã hội của
người dân tại các vùng miền trọng yếu này.
- Các công nghệ NLTT đòi hỏi chi phí đầu tư
xây dựng cao (đầu tư một lần) nhưng khi hoạt
động thì thu lợi trong nhiều năm bởi chi phí
vận hành thấp (không mất chi phí nhiên liệu
hoặc rất ít). Do vậy, giá NLTT tương đối ổn
định theo thời gian và phải chăng, giúp ổn
định giá năng lượng trong tương lai
- Góp phần giảm phát thải khí nhà kính, bảo
vệ môi trường, giảm thiểu biến đổi khí hậu,
sự nóng lên của trái đất và phát thải khí CO2
... đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đất
nước. NLTT cung cấp các lợi ích quan trọng
về sức khỏe cộng đồng.
- Tạo thêm cơ hội, việc làm mới cho nhiều
lực lượng lao động trong xã hội trong các
khâu sản xuất, phát triển dự án, xây dựng, lắp
đặt, vận hành, bảo trì, giao thông vận tải, hậu
cần, tài chính, pháp lý và dịch vụ tư vấn…
- Tạo ra chuỗi hiệu ứng phát triển kinh tế tích
cực quan trọng khác như: các ngành công
nghiệp trong chuỗi cung ứng NLTT sẽ được
hưởng lợi, các doanh nghiệp hoạt động trên
địa bàn địa phương liên quan cũng được
hưởng lợi từ việc tăng thu nhập của các hộ gia
đình và đơn vị kinh doanh, chính quyền địa
phương thu được thuế thu nhập và các khoản
thu khác từ chủ dự án NLTT, các khoản thu
này có thể giúp hỗ trợ các dịch vụ công cộng
quan trọng, đặc biệt là trong các cộng đồng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải
đảo, nơi các dự án NLTT thường hướng tới.
Bên cạnh đó, tiêu dùng NLTT còn giúp người
dân tạo dựng thói quen tiết kiệm điện. [3]
Tiềm năng nguồn NLTT
Theo Quyết định số 18/2008/QĐ-BCT, Năng
lượng tái tạo là năng lượng được sản xuất từ
các nguồn như thuỷ điện nhỏ, gió, mặt trời,
địa nhiệt, thuỷ triều, sinh khối, khí chôn lấp
rác thải, khí của nhà máy xử lý rác thải và khí
sinh học [2].
Việc xác định tiềm năng các nguồn NLTT
nước ta còn gặp nhiều khó khăn, số liệu còn
thiếu và chưa thống nhất. Theo [3], tiềm năng
NLTT nước ta được tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 1. Tổng hơp tiềm năng kinh tế các
nguồn NLTT cho sản xuất điện
Loại nguồn Tiềm năng kinh tế
1. Thủy điện nhỏ 2.925 MW
2. Gió 22.400 MW
3. Mặt trời 4-5 kWh/m2/ngày
4. Sinh khối 2.000 MW
5. Địa nhiệt 400 MW
XÂY DỰNG CÁC PHƯƠNG ÁN SỬ DỤNG
NGUỒN NLTT CHO PHÁT ĐIỆN VIỆT
NAM ĐẾN NĂM 2030
Cơ sở để lập các kịch bản tính toán
- Luật, Nghị định, chính sách đã ban hành có
liên quan đến việc hỗ trợ thúc đẩy phát triển
NLTT ở Việt Nam.
- Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia
của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt. [1]
- Chiến lược, Quy hoạch tổng thể phát triển
năng lượng mới và tái tạo ở Việt Nam đến
năm 2015 tầm nhìn đến 2025.
- Nguồn số liệu hiện có về tiềm năng, khả
năng khai thác.
- Những phân tích, đánh giá về xu hướng phát
triển các công nghệ NLTT trong tương lai [5].
Các phương án đề xuất
Sau khi xem xét và tham khảo ý kiến các
chuyên gia, nhóm nghiên cứu hướng tới tính
Phạm Thị Thanh Mai và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 165 - 171
167
toán, phân tích và chọn 05 kịch bản (KB) đề
nghị. Nhóm kịch bản đại diện phục vụ tính
toán, phân tích và đề xuất phương án sơ bộ về
cơ cấu phát triển các nguồn NLTT trong điều
kiện phát triển điện lực Việt Nam đến năm
2030 như sau:
KB1: Kịch bản cơ sở (BAU): là kịch bản kinh
tế với dữ liệu được công bố trong Quy hoạch
Điện VII, năm cơ sở là 2010.
KB2: là kịch bản 1 + mức độ khả dụng của
NLTT khi huy động tăng 10%, công suất đặt
điện gió tăng 20% vào năm 2030
KB3: là kịch bản 2 + công suất đặt điện gió
và mặt trời tăng 20% vào năm 2030
KB4: là kịch bản 3 + chi phí đầu tư cho công
nghệ điện gió giảm 3% mỗi năm.
KB5: là kịch bản 3 + chi phí đầu tư cho điện
gió và mặt trời giảm 3% mỗi năm.
PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH LEAP
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp mô
hình và phần mềm LEAP (Long-range
Energy Alternatives Planning system). Đây
là công cụ dùng để Quy hoạch năng lượng dài
hạn, có thể được sử dụng để tạo ra các mô
hình của các hệ thống năng lượng khác nhau.
LEAP có độ linh hoạt cao, khá phù hợp với
các nước đang phát triển, nơi thiếu thông tin,
dữ liệu và rất tiện lợi khi sử dụng. Các yêu
cầu về dữ liệu khi sử dụng phần mềm LEAP
như: [6]
+ Dữ liệu cơ bản: Dữ liệu dân số quốc gia
(vùng...), tốc độ đô thị hóa, số người trung
bình của 1 hộ gia đình… Dữ liệu về kinh tế
như: GDP/GNP, giá trị gia tăng của khu vực
hoặc nhóm khu vực, mức thu nhập trung bình,
lãi suất, tỷ suất chiết khấu, năm cơ sở, thời
gian quy hoạch …
+ Dữ liệu về phân tổ ngành: Để xác định nhu
cầu tiêu thụ điện, các khu vực tiêu thụ năng
lượng được phân chia thành các phân tổ
ngành như: Khu vực dân dụng sinh hoạt,
ngành Công nghiệp, ngành Nông - Lâm - Ngư
nghiệp, ngành Giao thông vận tải, ngành
khác. Mỗi nhánh ngành chính lại được phân
chia thành các nhóm tiêu thụ năng lượng nhỏ
khác nhau, với các thiết bị, công nghệ và
nhiên liệu phù hợp. Từ nhu cầu tiêu thụ năng
lượng của các tổ phân ngành này sẽ tổng hợp
xác định lượng điện năng tiêu thụ của cả nước
(theo phương pháp Bottom up).
+ Dữ liệu về Công nghệ năng lượng: Dữ liệu
về các loại công nghệ, thiết bị tiêu thụ điện,
năng lượng được sử dụng trong mỗi tổ ngành
như: các thiết bị, công nghệ sử dụng điện cho
chiếu sáng, đun nấu, bình nóng lạnh, tủ lạnh,
điều hòa ... Công nghệ sản xuất xi măng, sắt
thép, giấy ...
+ Dữ liệu về nguồn năng lượng: Bao gồm các
nguồn năng lượng sơ cấp (Than Bitum, than
Antracite, dầu thô, khí tự nhiên, thủy điện, hạt
nhân, gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt) và các
nguồn năng lượng thứ cấp để tạo ra điện (than,
khí, dầu DO, dầu FO, khí gas hóa lỏng LPG).
+ Dữ liệu về truyền tải và phân phối: Chi phí
đầu tư, chi phí vận hành và bảo dưỡng cố
định, chi phí biến đổi, hiệu suất, tuổi thọ của
các nhà máy điện, sản lượng quá khứ, giá trị
thanh lý, luật điều độ hệ thống, chi phí nhiên
liệu của các nguồn năng lượng sơ cấp, tỷ lệ
tổn thất và tự dùng.
+ Dữ liệu về môi trường: Định mức phát thải
của các loại nhiên liệu (IPCC 1996).
KẾT QUA TÍNH TOÁN, PHÂN TÍCH
Sau khi nhập toàn bộ yêu cầu dữ liệu đầu vào
cho mô hình và xây dựng các kịch bản phát
triển hệ thống điện theo các dữ liệu được dự
báo, kết quả tính toán các kịch bản được thể
hiện trong các nội dung phân tích dưới đây.
Công suất lắp đặt
Bảng dưới đây đã tổng hợp công suất lắp đặt
và cơ cấu công suất các nguồn điện các năm
2010, 2015, 2020, 2025 và 2030 các kịch bản
để so sánh.
Phạm Thị Thanh Mai và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 165 - 171
168
Bảng 2. Công suất lắp đặt các kịch bản
2010 2015 2020 2025 2030
KB1-
KB2
KB3-
KB5
KB1
KB2 KB3-
KB5
KB1
KB2 KB3-
KB5
KB1
KB2 KB3-
KB5
Tổng (GW)
Cơ cấu (%)
Trong đó:
Nhập (%)
Than (%)
Dầu (%)
Khí (%)
Thủy điện (%)
Hạt nhân (%)
NLTT (%)
Trong đó:
TĐN (GW)
Gió (GW)
Mặt trời (GW)
Biomass (GW)
Địa nhiệt (GW)
22,029
100
3,5
21,3
8,3
29,8
34,6
0
2,5
0,5
0
0
0,052
0
45,41
100
2,31
36,84
4,01
22,15
28,95
1,1
4,63
1,5
0,22
0,037
0,197
0,15
45,41
100
2,31
36,73
4,01
22,15
28,95
1,1
4,75
1,5
0,264
0,045
0,197
0,15
75
100
3,07
48
2,06
14,47
25,47
1,33
5,6
2,2
1
0,2
0,5
0,3
75
100
3,07
47,8
2,06
14,41
25,47
1,33
5,87
2,2
1,2
0,2
0,5
0,3
75
100
3,07
47,75
2,06
14,41
25,47
1,33
5,92
2,2
1,2
0,24
0,5
0,3
101,85
100
4,53
44,98
1,37
14,66
19,5
5,89
9,08
2,7
3,6
1,35
1,25
0,35
101,85
100
4,53
44,39
1,37
14,54
19,5
5,89
9,79
2,7
4,32
1,35
1,25
0,35
101,85
100
4,53
44,19
1,37
14,48
19,5
5,89
10,05
2,7
4,32
1,62
1,25
0,35
146,8
100
4,77
51,09
0,95
10,84
15,67
7,29
9,4
2,7
6,2
2,5
2
0,4
146,8
100
4,77
50,41
0,95
10,67
15,67
7,29
10,25
2,7
7,44
2,5
2
0,4
146,8
100
4,77
50,14
0,95
10,61
15,67
7,29
10,6
2,7
7,44
3
2
0,4
Nhìn vào bảng trên ta thấy, mặc dù tổng công
suất đặt của các KB là như nhau tương ứng
cho mỗi năm nhưng cơ cấu các nguồn đã
được thay đổi theo hướng ưu tiên phát triển
nguồn NLTT. Đến năm 2030, nhiệt điện than
chiếm 51,1%, nhiệt điện dầu chiếm 0,95%,
nhiệt điện khí chiếm 10,84%, điện NLTT
chiếm 9,4% tổng công suất trong KB1. Tuy
nhiên, trong KB3-KB5, năm 2030 nhiệt điện
than chiếm 50,14%, nhiệt điện dầu chiếm
0,95%, nhiệt điện khí chiếm 10,61%, điện
NLTT chiếm 10,6%. Với kết quả này ta thấy,
tỷ trọng công suất lắp đặt các nguồn điện đã
thay đổi đáng kể, nhiệt điệt than giảm 0,96%,
nhiệt điện dầu ổn định, nhiệt điện khí giảm
0,23% vào năm 2030. Đặc biệt, tỷ trọng của
nguồn NLTT trong tổng công suất lắp đặt đã
tăng lên rất lớn, từ 4,63% lên 4,75% năm
2015, từ 5,6% lên 5,92% năm 2020, từ 9,08
lên 10,05% năm 2025 và từ 9,4% lên 10,6%
năm 2030. Trong thời điểm này các nguồn
NLTT gần như được huy động tối đa trong
phạm vi tiềm năng khả dụng như thủy điện
nhỏ, biomass và địa nhiệt.
Phát thải Khí nhà kính (KNK)
Trong năm 2010 ở KB1, dựa trên chuẩn phát
thải các công nghệ phát điện của PCCI, lượng
phát thải KNK trong lĩnh vực phát điện vào
khoảng 39,287 triệu tấn CO2 tương đương.
Đến năm 2030, con số này đã tăng lên thành
394,613 triệu tấn (tốc độ tăng trung bình là
12,22% năm). Trong đó, lượng phát thải khí
CO2 là lớn nhất, chiếm 98,68% năm 2010 và
97,67% năm 2030. Tuy nhiên, lượng phát thải
đã được giảm đi đáng kể qua từng kịch bản
phát triển. Cụ thể, năm 2015 phát thải CO2
chỉ khoảng 76,07 triệu tấn trong KB2 (giảm
3,4% so với KB1). Cũng trong năm này, phát
thải CO2 trong KB3-KB5 là 76,05 triệu tấn
(giảm 3,43% so với BAU). Năm 2020 phát
thải chỉ là 142,81 triệu tấn trong KB2 (giảm
3,2%) so với KB1 và 142,72 triệu tấn trong
KB3-KB5 (giảm 3,27% so với KB1). Năm
2025 phát thải chỉ là 217,63 triệu tấn trong
KB2, 217,01 triệu tấn trong KB3-KB5. Năm
2030 phát thải chỉ là 350,88 triệu tấn trong
KB2 và 349,67 triệu tấn trong KB3-KB5
(giảm 3,27% so với KB1). Điều này được thể
hiện trong bảng 3.
Chi phí xã hội
Theo tính toán từ LEAP, chi phí xã hội KB1
(bao gồm chi phí đầu tư, chi phí vận hành và
chi phí nhiên liệu) sẽ tăng từ 555,3 triệu USD
năm 2010 lên 22.043,22 triệu USD năm 2030
Phạm Thị Thanh Mai và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 165 - 171
169
(bảng 4). Khi phát triển hệ thống năng lượng
điện theo các kịch bản phát triển, tổng chi phí
xã hội của toàn bộ chu kỳ tính toán sẽ thay
đổi theo xu hướng được thể hiện như trong
bảng 4.
Trong các kịch bản này thì kịch bản KB4 là
kịch bản có chi phí xã hội thực hiện là lớn
nhất. Khi chi phí chi phí đầu tư cho các công
nghệ NLTT giảm đi, tức thực hiện kịch bản
KB4 thì tổng chi phí xã hội đã giảm đi được
khá nhiều khi so sánh với các kịch bản khác
và là kịch bản có chi phí thấp nhất trong suốt
20 năm. Cụ thể, trong kịch bản KB4, năm
2015 chi phí xã hội tăng 14,52 triệu USD,
năm 2020 tăng 42,03 triệu USD, nhưng đến
năm 2025 thì đã giảm đi được 20,69 triệu
USD, năm 2030 chi phí xã hội giảm đi được
rất lớn (194,35 triệu USD) và tổng trong
khoảng thời gian 2010-2030 chi phí xã hội
của KB5 đã giảm đi so với KB1 là 287,24
triệu USD (tương ứng giảm 0,15%) so với
kịch bản KB1.
Bảng 3. Phát thải CO2 qua các kịch bản
ĐVT: Triệu tấn CO2
KB 2010 2015 2020 2025 2030
KB1 37,23 78,75 147,55 225,06 361,49
KB2 37,23 76,07 142,81 217,63 350,88
KB3 37,23 76,05 142,72 217,01 349,67
KB4 37,23 76,05 142,72 217,01 349,67
KB5 37,23 76,05 142,72 217,01 349,67
Phương án đề xuất
Với tất cả 5 KB được phân tích ở trên, để xác
định được KB nào có cơ cấu hợp lý các
nguồn NLTT trong điều kiện phát triển Điện
lực Việt Nam với rất nhiều biến động nhằm
đạt được mục tiêu giảm thiểu phát thải khí
nhà kính với chi phí chấp nhận được, xác suất
xảy ra cao, ta cần phân tích mối quan hệ giữa
chi phí và phát thải khí nhà kính trong các KB
này. Dựa trên kết quả tính toán của LEAP ta
có bảng so sánh tổng chi phí xã hội và tổng
phát thải CO2 của các KB, từ đó tính ra được
phát thải biên giảm được khi giảm một đồng
chi phí xã hội so với KB1 thể hiện ở bảng 5.
Bảng 4. Chi phí xã hội các kịch bản
Đơn vị: Triệu USD
2010 2015 2020 2025 2030 Tổng chi phí 2010-2030
KB1 555,32 3.865,46 8.411,14 13.885,48 22.043,22 196.860,95
KB2 555,32 3.865,25 8.418,21 13.912,78 22.093,54 197.193,88
KB2/KB1 0 -0,21 +7,07 +27,3 +50,32 +332,93
KB3 555,32 3.867,45 8.429,54 13.992,72 22.240,11 198.096,48
KB3/KB1 0 +2,0 +18,4 +107,24 +196,89 +1235,53
KB4 555,32 3.882,21 8.471 14.049,84 22.249,89 198.755,61
KB4/KB1 0 +16,75 +59,86 +164,36 +206,67 +1.894,66
KB5 555,32 3.879,98 8.453,17 13.864,79 21.848,87 196.573,71
KB5/KB1 0 +14,52 +42,03 -20,69 -194,35 -287,24
Bảng 5. Tổng chi phí, phát thải và cường độ giảm phát thải các KB giai đoạn 2010-2030
Kịch bản
Tổng chi phí
xã hội
(tỷ USD)
Tổng phát
thải CO2
(tỷ tấn)
Chi phí tăng
so với KB1
(tỷ USD)
Phát thải
giảm so với
KB1
(tỷ tấn)
Cường độ
giảm phát
thải
(tấn/USD)
KB1 196,86 3,40 0,00 0,00 0,00
KB2 197,19 3,29 0,33 -0,11 -0,32
KB3 198,10 3,29 1,24 -0,11 -0,09
KB4 198,76 3,29 1,90 -0,11 -0,06
KB5 196,57 3,29 -0,29 -0,11 0,39
Phạm Thị Thanh Mai và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 165 - 171
170
Bảng 6. Cơ cấu công suất điện NLTT các kịch bản theo thư tự cường độ phát thải giảm dần
Kịch bản Giảm phát thải biên
(tấn/USD)
Cơ cấu công suất nguồn NLTT (%)
2010 2015 2020 2025 2030
KB5 0,39 2,51 4,75 5,92 10,05 10,59
KB1 0,00 2,51 4,63 5,60 9,08 9,40
KB2 -0,32 2,51 4,73 5,87 9,79 10,25
KB3 -0,09 2,51 4,75 5,92 10,05 10,59
KB4 -0,06 2,51 4,75 5,92 10,05 10,59
Như vậy, với mục tiêu giảm phát thải khí nhà
kính theo Chiến lược tăng trưởng xanh của
Chính phủ, nghiên cứu sẽ đặt mục tiêu giảm
phát thải được nhiều nhất trên một đồng chi
phí xã hội bỏ ra. Khi đó trình tự các kịch bản
sẽ thay đổi theo trật tự giảm phát thải biên
trên một đồng chi phí xã hội như bảng 6.
Như vậy, căn cứ vào tiềm năng các nguồn
NLTT có thể khai thác được về mặt kinh tế -
kỹ thuật; vào khả năng và nguồn kinh phí có
thể hỗ trợ để phát trển các dự án NLTT; nhu
cầu điện được dự báo kết hợp với việc so
sánh các kịch bản; với những biến động đầu
vào thì tùy vào từng trường hợp cụ thể được
dự báo và phân tích, ta có tính toán cơ cấu các
nguồn NLTT khác nhau. Tuy nhiên, với các
phương án cụ thể trong các kịch bản được đề
xuất nghiên cứu thì cơ cấu công suất đặt hợp
lý các nguồn NLTT được đề nghị theo KB5.
KẾT LUẬN
Sau những điều chỉnh phù hợp xuất phát từ
tình hình phát triển thực tế, đáp ứng yêu cầu
của Chiến lược tăng trưởng xanh và những
kết quả, lợi ích đạt được về mặt kinh tế, môi
trường được thể hiện trong các phương án đề
xuất, nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cơ cấu hợp lý
về công suất các nguồn NLTT được tính toán
đó là: 4,75% vào năm 2015, 5,9% năm 2020,
10,05% vào năm 2025 và 10,6% vào năm
2030. Tuy nhiên, để đạt được cơ cấu này đỏi
hỏi phải có sự tham gia phối hợp đồng bộ của
nhiều cơ quan, ban ngành, người dân cùng
thực hiện và đặc biệt phải có lộ trình, chiến
lược phát triển cụ thể đồng thời với sự hỗ trợ
từ phía Chính phủ thì mới huy động được tối
đa tiềm năng của các nguồn NLTT nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHAO 1. Bộ Công thương, 2011, Quy hoạch phát triển
Điện lực Quôc gia giai đoạn 2011 - 2020, có xét
đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII).
2. Bộ Công thương, 2008, Quyết định sô
18/2008/QĐ-BCT Ban hành Quy định về biểu giá
chi phí tránh đươc và Hơp đồng mua bán điện
mẫu áp dụng cho các nhà máy điện nhỏ sử dụng
năng lương tái tạo.
3. Bộ Công thương-Viện Năng lượng, 2008, Chiến
lươc, quy hoạch tổng thể phát triển NL mới và tái
tạo ở Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến 2025.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2010, Thông báo
quôc gia lần thư 2 của Việt Nam cho công ước
khung của Liên hơp quôc về biến đổi khí hậu.
5.Nguyen N T, 2009, Economic potential of
renewable energy in Vietnam’s power sector.
Energy Policy.
6. SEI, 2011, LEAP Long-range Energy
Alternatives Planning System. 7. Thủ tướng Chính Phủ, Quyết định 1393/QĐ-Ttg
Phê duyệt, Chiến lươc quôc gia về tăng trưởng
xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2050.
Phạm Thị Thanh Mai và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 165 - 171
171
SUMMARY
SOME CASE STUDIES OF USING RENEWABLE ENERGY
IN POWER GENERATION IN VIETNAM
Pham Thi Thanh Mai1*, Nguyen Vinh Thuy2
1College of Economics & Business Administration - TNU 2College of Technology - TNU
The analyses are based on a long-term energy systems model of Vietnam using the LEAP
framework showed that Vietnam will not be able to meet the the future energy demand without
importing energy. While our country's renewable energy potential is assessed quite large but the
level of exploitation and use is limited. The launch of the National Green Growth Strategy in
9/2012 made the tend of sustainable development, promoting the exploitation and use of clean
energy, renewable energy, reduce greenhouse gas emissions intensity in production and
consumption. This paper studies some cases of using renewable energy sources and reducing the
installed capacity of fossil power plants in the supply-demand energy balance systems; evaluating
the other impact on economic and environment in period 2010-2030 in Vietnam.
Keywords: renewable energy, power sector, planning, LEAP, reducing emissions
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:04/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Văn Quyết – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 804979, Email: [email protected]
Phạm Thị Thanh Mai và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 165 - 171
172
Ngô Thị Mỹ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 173 - 176
173
GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM
Ngô Thị Mỹ*, Nguyễn Thị Lan Anh
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Xuất khẩu chè của Việt Nam những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận về sản
lượng, kim ngạch cũng như thị trường tiêu thụ. Nhưng kết quả này vẫn chưa phù hợp với những
tiềm năng sẵn có của đất nước. Trên cơ sở của việc phân tích, đánh giá thực trạng bài viết sẽ chỉ ra
một số thành tựu và khó khăn của ngành chè Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Giải pháp, xuất khẩu, chè, Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng như hiện nay của nước ta, cây chè đã
vượt qua phạm vi biên giới quốc gia, sản xuất
và xuất khẩu chè ngày càng đóng vai trò quan
trọng và trở thành một trong những mặt hàng
xuất khẩu mũi nhọn của đất nước. Với những
ưu thế về khí hậu, đất đai thổ nhưỡng, lao
động và sự ưa chuộng của thị trường thế giới
thì Việt Nam hoàn toàn xứng đáng ghi tên
mình vào danh sách các quốc gia xuất khẩu
chè trên thế giới. Mặc dù thị phần chè của
Việt Nam còn nhỏ bé, chưa thật ổn định
nhưng lại đang hứa hẹn một tương lai rộng
mở. Thực tiễn xuất khẩu chè nước nước vẫn
tồn tại những bất cập và yếu kém cần khắc
phục như vấn đề về chất lượng sản phẩm,
biện pháp bảo quản hay các chính sách để
nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm
chè...[1].
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bằng phương pháp thống kê mô tả, phương
pháp so sánh kết hợp với việc sử dụng chỉ tiêu
lợi thế so sánh (RCA) tác giả đã đi sâu phân tích
để làm rõ thực trạng về xuất khẩu chè, chỉ ra
những tiềm năng, lợi thế của hoạt động xuất
khẩu chè của Việt Nam trong những năm qua.
KẾT QUA NGHIÊN CỨU
Khái quát tình hình xuất khẩu chè của Việt
Nam những năm qua
Chè là một trong số các nông sản có giá trị
kinh tế cao, đóng góp một phần không nhỏ
trong kim ngạch xuất khẩu nông sản nói
chung của cả nước. Tuy nhiên, do những hạn
chế trong khâu sản xuất chế biến cũng như
* Tel: 0915 208444, Email: [email protected]
vấn đề về thương hiệu của sản phẩm đã khiến
cho lượng xuất khẩu thì nhiều mà giá trị thu
về lại khiêm tốn (thấp hơn so với các quốc gia
cùng xuất khẩu chè như Ấn độ, Trung Quốc và
Sri Lanka)[2]. Biểu đồ dưới đây sẽ khái quát
tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam qua hai
chỉ tiêu chính là sản lượng xuất khẩu và giá trị. Biểu 1: Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam
giai đoạn 2008-2013
Nguồn: Tổng cục Thông kê, 2014
Biểu đồ 1 cho thấy sản lượng chè xuất khẩu
của Việt Nam có xu hướng tăng dần qua các
năm trong giai đoạn 2008 – 2013. Cụ thể năm
2008 sản lượng là 104.7 nghìn tấn nhưng đã
tăng lên 138 nghìn tấn vào năm 2013 (mặc dù
đã bị giảm 8.7 nghìn tấn so với 2012), đạt tốc
độ tăng trưởng bình quân cho cả giai đoạn là
5.7%/năm. Chất lượng chè những năm qua
cũng đã được nâng lên rõ rệt tuy nhiên vẫn
thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của thế
giới. Chính vì thế mà giá chè xuất khẩu của
nước ta luôn thấp hơn các đối thủ cạnh tranh,
thực tế thì giá chè nước ta luôn xếp cuối bảng
so với các quốc gia xuất khẩu chè lớn và chỉ
bằng khoảng 60% so với giá bình quân của
thế giới. Điều này khiến cho kim ngạch xuất
khẩu chè của nước ta còn thấp, đạt tốc độ tăng
Ngô Thị Mỹ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 173 - 176
174
trưởng bình quân 2.01% trong giai đoạn
2008-2013. Việc giá trị gia tăng thấp không
chỉ nằm trong ngành chè mà còn xuất hiện ở
khá nhiều ngành hàng xuất khẩu khác. Đây là
vấn đề đặt ra với các mặt hàng nông sản xuất
khẩu nói chung và sản phẩm chè nói riêng của
Việt Nam trong những năm qua.
Thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam
Hiện nay, sản phẩm chè của Việt Nam đã có
mặt ở hơn 118 quốc gia và vùng lãnh thổ[5],
trong đó đã có quốc gia đạt kim ngạch xuất
khẩu trên 20 triệu USD như Pakixtan, Đài
Loan và Nga. Sản phẩm chè của Việt Nam
khá đa dạng như chè đen, chè xanh, chè nhà,
chè hương, chè ô long,... và mặt hàng xuất
khẩu chủ lực hiện nay là chè đen và chè xanh.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác
nghiên cứu thị trường cũng như hoạt động
xúc tiến mở rộng thị trường ảnh hưởng đến
với sự ổn định của sản xuất và xuất khẩu nên
nhà nước ta luôn có những chính sách hỗ trợ,
khuyến khích kịp thời với các doanh nghiệp
có liên quan như: chính sách hỗ trợ thông qua
các nguồn vay ưu đãi của nước ngoài và ODA
cho các chương trình phát triển nông nghiệp
bền vững với người nông dân; chính sách cho
doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, thời
gian hoàn vốn dài; chính sách xây dựng
thương hiệu cho sản phẩm;...[4]. Kết quả là
sản lượng chè xuất khẩu của nước ta đã tăng
lên đáng kể trong những năm qua.
Bảng 1 giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về
thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam trong
giai đoạn 2011-2013. Với cả hai chỉ tiêu
nghiên cứu là sản lượng và kim ngạch xuất
khẩu (KNXK) chè đều tăng lên trong 3 năm ở
hầu hết các thị trường. Ngoài các thị trường
chủ chốt là Pakixtan, Đài Loan, Nga và Trung
Quốc, thì các thị trường các nước EU, Mỹ,
Nhật Bản và Inđônêxia đã có sự tăng lên đáng
kể cả về sản lượng và KNXK. Đây chính là
tin vui, là dấu hiệu tốt cho thấy sản phẩm chè
của nước ta đã làm hài lòng được những
khách hàng khó tính – họ rất coi trọng vấn đề
an toàn thực phẩm và được sự kiểm soát rất
gắt gao. Thị trường tiêu thụ chè của nước ta
khá đa dạng, xuất hiện ở nhiều quốc gia có
nền văn hóa khác nhau, tuy nhiên tập trung
nhiều vẫn là khu vực Châu Á. Theo dự báo
của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
Liên hiệp quốc (FAO) thì nhu cầu tiêu dùng
chè trên thế giới sẽ ngày một tăng thêm. Bởi,
ngoài lợi ích to lớn đem lại cho sức khỏe con
người thì uống chè còn là một thú vui tao nhã.
Hiện tại, chè Việt Nam đang xếp ở vị trí thứ 7
về sản xuất và xuất khẩu, đứng thứ 5 về chế
biến so với các quốc gia cùng xuất khẩu trên
thế giới. Trong tương lai, sản phẩm chè của
nước ta sẽ còn tiến xa hơn nữa khi mà chúng
ta biết cách khai thác tốt các tiềm năng và cơ
hội hiện có của đất nước.
Bảng 1: Thị trường tiêu thụ chè của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2013
Quốc gia
Sản lượng
(1000 kg)
KNXK
(1000 USD)
Bình quân
(%)
2011 2012 2013 2011 2012 2013 KNXK
Pakixtan 15723 24045 22909 29179 45305 45950 125.49
Đài Loan 16955 22453 22477 22620 29590 30917 116.91
Nga 15128 13896 11748 21263 21615 19251 95.15
Inđônêxia 10833 15397 11692 10629 14805 12480 108.36
Trung Quốc 11808 14632 14011 13906 19307 18990 116.86
Mỹ 4025 8170 9909 4398 8969 11741 163.39
Tiểu vương quốc ả
Rập thống nhất 2826 3772 3807 5570 7788 8028 120.05
Đức 3191 2987 2483 4968 5136 4501 95.18
A Rập Xê út Xyri 2545 2782 2283 5912 6810 5659 97.84
Balan 2353 4083 4139 2718 4850 5570 143.15
Các nước khác 35229 34491 32542 62185 60416 58913 97.33
Tổng 120616 146708 138000 183348 224590 222000 110.04
Nguồn: Tác giả tính toán từ sô liệu của Bộ Nông nghiệp và PTNT, 1/2014
Ngô Thị Mỹ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 173 - 176
175
Bảng 2: RCA của sản phẩm chè và một sô nông sản khác của Việt Nam so với Thế giới
Nông sản RCA (lần)
2008 2009 2010 2011 2012
Chè 6.83 7.15 6.55 6.47 5.92
Gạo 38.52 34.17 37.26 35.43 26.02
Cà phê 19.82 15.02 13.21 11.48 13.38
Nguồn: Tác giả tính toán dựa vào sô liệu của Worldbank và Tổng cục thông kê
Phân tích tiềm năng xuất khẩu chè của
Việt Nam
Để đánh giá lợi thế so sánh trong xuất khẩu
một số mặt hàng nông sản tác giả sử dụng chỉ
tiêu lợi thế so sánh (RCA) để phân tích. Cho
đến nay chỉ tiêu RCA đã được sử dụng tương
đối rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu về xuất
nhập khẩu.
Với công thức:
)//()/( wtwjitijij XxXxRCA
Trong đó: RCAij là lợi thế so sánh trong xuất
khẩu sản phẩm j của nước i; xij và xwj lần lượt
là giá trị xuất khẩu của sản phẩm j của nước i
và thế giới; Xit và Xwt lần lượt là tổng giá trị
xuất khẩu của nước i và thế giới. Nếu giá trị
này lớn hơn 1, tức là nước i có lợi thế so sánh
đối với sản phẩm j này và ngược lại. RCA >
2.5 thì sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao;
RCA nằm trong khoảng từ 1 đến 2.5 thì sản
phẩm có lợi thế so sánh; và RCA < 1 thì sản
phẩm bất lợi thế so sánh.
Qua bảng 2 cho thấy: cả 3 mặt hàng nông sản
nghiên cứu đều có lợi thế so sánh rất cao và
cao nhất vẫn là gạo, tiếp đến là cà phê và cuối
cùng là chè. Tuy nhiên các chỉ tiêu RCA tính
được đang có xu hướng giảm dần theo thời
gian bởi quy luật cạnh tranh gay gắt của các
quốc gia có cùng mặt hàng xuất khẩu. Bởi,
việc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) năm 2007 đã mở ra nhiều cơ hội song
cũng đem lại không ít khó khăn cho hoạt
động xuất khẩu trong nước. Cùng với những
quy định ngặt nghèo về chất lượng sản phẩm,
những cam kết về mức thuế suất đã gây ra
những ảnh hưởng rõ rệt cho hoạt động xuất
khẩu nông sản nói chung và ngành chè nói
riêng. Bằng chứng được thể hiện ở 3 mặt
hàng nghiên cứu, cụ thể: RCA của cà phê
năm 2012 đã giảm 6.44 lần so với năm 2008;
RCA của gạo năm 2012 giảm 12.5 lần so với
năm 2008; RCA của chè năm 2012 đã giản
0.91 lần so với 2008.
Đánh giá về tình hình xuất khẩu chè của
Việt Nam
Những thành tựu
Từ việc phân tích trên cho thấy, hoạt động
xuất khẩu chè của Việt Nam những năm qua
đã đạt được một số thành tựu sau: Thư nhất,
xuất khẩu chè của nước ta những năm qua
tăng cả về sản lượng và KNXK. Thư hai, chất
lượng, mẫu mã và chủng loại sản phẩm cũng
đã dần được cải thiện cho phù hợp với nhu
cầu của thị trường thế giới. Sản phẩm chè
Việt Nam đã từng bước làm hài lòng các thị
trường khó tính như EU, Mỹ và Nhật Bản.
Thư ba, thị trường tiêu thụ chè khá đa dạng
mặc dù sản lượng chè xuất khẩu của nước ta
so với thế giới chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ.
Thư tư, luôn được sự quan tâm, đầu tư đúng
hướng của Nhà nước đối với xuất khẩu một
số mặt hàng nông sản mũi nhọn (trong đó có
chè) khi tham gia vào thị trường thế giới nên
quy mô sản xuất chè trong nước đã không
ngừng tăng lên.
Những khó khăn
Trong khâu sản xuất: Diện tích trồng chè
chưa tập trung còn manh mún; kỹ thuật chăm
sóc và chế biến chè còn mang nặng tính
truyền thống, ý thức và nhận thức của người
dân trồng chè chưa cao nên phần nào đó đã
ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm khiến
cho giá chè xuất khẩu thấp. Không chỉ vậy,
việc sản xuất ồ ạt chạy theo sản lượng đối với
những nông sản xuất khẩu (trong đó có chè) ở
một số địa phương hiện nay sẽ là nguyên
nhân làm ảnh hưởng đến tính bền vững của
sản phẩm trong tương lai.
Ngô Thị Mỹ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 173 - 176
176
Trong khâu chế biến: Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực chế biến chè đã bộc lộ không ít
vướng mắc như thiết bị đầu tư có chất lượng
chưa cao và chưa có vùng chè nguyên liệu riêng
nên thiếu chủ động trong sản xuất, làm cho việc
xác định phẩm cấp và giá trị chưa thống nhất
ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Trong khâu tiêu thụ: Do năng lực, trình độ
của cán bộ làm công tác xuất khẩu còn hạn
chế, khả năng nhạy bén với thị trường chưa
cao đã khiến nhiều cơ hội lớn bị bỏ lỡ. Thêm
vào đó chè của nước ta luôn bị các đối thủ
cạnh tranh trong xuất khẩu chè gây áp lực gay
gắt về giá bán cũng như về thương hiệu sản
phẩm cho làm giá trị gia tăng của sản phẩm
còn thấp. Chính vì thế mà rất nhiều nhà nhập
khẩu chè đã nhập chè của Việt Nam về chộn
với các loại chè khác để đăng ký thương hiệu
cho nước họ...
KẾT LUẬN
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu chè Việt Nam
những năm qua đã đạt được những thành tích
đáng ghi nhận cả về sản lượng và KNXK. Sự
phát triển của ngành chè có vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội như xóa đói
giảm nghèo, giải quyết một lượng lớn lao
động ở khu vực nông thôn vùng trung du
miền núi như Thái Nguyên, Yên Bái, Tuyên
Quang,... Tuy nhiên, bản thân ngành chè Việt
Nam vẫn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục
ở cả 3 khâu là sản xuất, chế biến và tiêu thụ
sản phẩm. Do vậy để ngành chè ngày càng
phát triển hơn trong tương lai đòi hỏi các nhà
quản lý cần có cái nhìn tổng quát hơn được cụ
thể hóa bằng các biện pháp phù hợp với từng
khâu nhằm tận dụng và phát huy tốt những
tiềm năng, cơ hội hiện có của đất nước.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Hiệp hội chè Việt nam (2003), Những giải pháp
nâng cao chất lương tăng sưc cạnh tranh của sản
phẩm chè Việt Nam,tài liệu hội thảo 12/2003, Hà Nội.
2. Bộ Thương mại (2006), Chính sách và giải pháp
nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu
của Việt Nam hiện nay, Đề tài Khoa học cấp bộ do
GS.TSKH Lương Xuân Quỳ chủ nhiệm đề tài.
3. Ngân hàng phát triển Châu Á (2004), Chuỗi giá
trị ngành chè Việt Nam:Triển vọng tham gia của
người nghèo, Báo cáo tham luận số 1.
4. Phạm Anh Tuấn, Nguyễn Đỗ Anh Tuấn,
Nguyễn Thị Kim Dung (2005), báo cáo nghiên
cứu: Khả năng cạnh tranh các mặt hàng nông sản
chính của Việt Nam trong bôi cảnh hội nhập
AFTA, Báo cáo khoa học, quỹ nghiên cứu IAE-
MISPA.
5. Và một số trang web.
SUMMARY
SOLLUTIONS FOR EXPORTING TEA PRODUCTS IN VIETNAM
Ngo Thi My*, Nguyen Thi Lan Anh College of Economics and Business Administrations - TNU
In recent years, tea export in Vietnam has achieved remarkable results in terms of output, turnover
as well as consumption market. However, these results is not consistent with the potential of
country. Base on the analysis, assessing the situation, the article gives some achievements and
difficulties of Vietnamese's tea industry now.
Keywords: solution, export, tea, Vietnam
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:30/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đàm Thanh Thủy - Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0915 208444, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Nội và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 177 - 180
177
VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI - QUA TÌM HIỂU DÂN TỘC H’MÔNG
Ở VIỆT NAM
Nguyễn Thị Nội*, Đàm Thị Hạnh, Lê Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Thủy Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc H’Mông là một trong những dân tộc vẫn giữ được
những nét độc đáo riêng về bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc trong cuộc sống hội nhập hiện
nay. Tuy nhiên, vấn đề bất bình đẳng giới vẫn là vấn đề nan giải đối với dân tộc này. Bởi lẽ, họ bị
chế định trong các quan niệm cổ hủ, lạc hậu đã ăn sâu trong tiềm thức của đồng bào. Do vậy, cần
thực hiện một hệ thống giải pháp đặc thù sẽ có thể làm thay đổi được hiện tượng đó.
Từ khóa: Dân tộc H’Mông, Bình đẳng giới, Bất bình đẳng giới
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Bình đẳng giới không phải là chủ đề mới
trong xã hội Việt Nam hiện nay. Đảng, Nhà
nước và các cơ quan chức năng có thẩm
quyền ở Việt Nam đã đề ra nhiều chính sách
thực hiện để có được sự ngang bằng nhau
giữa các giới trong xã hội. Đối với đồng bào
thiểu số, nhất là đối với đồng bào người
H’Mông thì cơ hội ngang bằng nhau giữa nam
và nữ vẫn chưa được thực hiện một cách đúng
nghĩa. Có không ít nguyên nhân để lý giải cho
điều này, nhưng rào cản lớn nhất của phụ nữ
dân tộc H’Mông đó chính là họ bị chế định quá
lớn bởi những hủ tục của dân tộc mình.
NỘI DUNG
Bình đẳng là gì?
Phạm trù bình đẳng đã từng được các nhà
kinh điển Mác - Lênin đề cập, như Ph.
Ăngghen: “Cái quan niệm cho rằng tất cả mọi
người, với tư cách là con người, đều có một
cái gì chung, rằng trong phạm vi cái chung đó
mọi người đều bình đẳng, dĩ nhiên là một
quan niệm đã cũ rồi. Nhưng yêu sách về bình
đẳng lại hoàn toàn khác với quan niệm đó, nói
đúng ra yêu sách đó đòi hỏi phải từ cái thuộc
tính chung là con người, từ sự bình đẳng của
mọi người với tư cách là con người, rút ra giá
trị cái quyền ngang nhau về chính trị và xã
hội cho tất cả mọi người, hay ít ra cho mọi
công dân trong một nước, hay cho mọi thành
* Tel: 0989 346178, Email: [email protected]
viên trong một xã hội”[2, tr.149]. Trong bản
Tuyên ngôn độc lập đọc tại quảng trường Ba
Đình ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã trịnh trọng tuyên bố về quyền bình đẳng
của mọi người dân, được sống tự do và hạnh
phúc bình đẳng, Người nói: “Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”[3, tr.351]. Trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng cộng sản viết năm 1930,
Người cũng đã nhấn mạnh “Về phương diện
xã hội thì nam nữ bình quyền”[3, tr.301].
Như vậy, con người khi sinh ra đời đã được
bình đẳng, nhưng sự bình đẳng đó có được
thực hiện đúng nghĩa không thì điều đó còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả về yếu tố
khách quan và yếu tố chủ quan. Bình đẳng là
sự ngang bằng nhau giữa người với người
đươc xét trên mọi phương diện. Đó là sự
ngang bằng nhau về cơ hội (học tập, đào tạo,
phát triển trí tuệ), sự ngang nhau về cơ hội
tạo cho mọi người có sưc khỏe tôt, sự ngang
nhau về cơ hội nắm bắt thông tin xã hội. Bình
đẳng là cơ hội để mọi công dân giải thoát
được mình (Theo World bank, năm 2006).
Người H’Mông ở Việt Nam có dân số
1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng
danh sách các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại
62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố [1, tr.134-
225]. Tổ chức gia đình của người H’Mông
Nguyễn Thị Nội và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 177 - 180
178
thường là gia đình nhỏ phụ hệ (gồm hai thế hệ
bố mẹ và con cái sống với nhau). Tính phụ
quyền trong gia đình người H’Mông rất
mạnh, người đàn ông đóng vai trò quyết định
mọi việc và là người thừa kế tài sản. Người
phụ nữ không được thừa kế tài sản, khi lấy
chồng thì thứ tài sản duy nhất người con gái
được mang về nhà chồng là những đồ trang
sức bằng bạc và váy áo. Người đàn ông có
nghĩa vụ gánh vác công việc gia đình: đi làm
nương rẫy, khấn tổ tiên, đón thầy cúng, thay
mặt gia đình tham gia công việc trọng đại, mà
bất cứ phụ nữ nào cũng không có quyền làm
thay. Với người H’Mông, công việc hàng
ngày trong gia đình, người đàn ông rất ít chia
sẻ với vợ. Còn với người phụ nữ, dường như
không được phép tính toán kinh tế trong gia
đình, mà họ đã bị mặc định rằng, việc này là
của nam giới. Họ chỉ biết lam lũ làm việc, họ
luôn phải lắng nghe và chấp hành những yêu
cầu của chồng. Họ không có tiếng nói trong
gia đình, trong thôn bản. Họ mặc cảm khi
giao tiếp với người khác, nhất là với người lạ,
có thể đó là do bất đồng về ngôn ngữ, do tâm
lý e ngại.
Thiết chế dòng họ của người H’Mông đóng
vai trò rất quan trọng. Trong một họ bao giờ
cũng có một người trưởng họ, mỗi khi có vấn
đề gì xảy ra trong làng thì người ta có thể tìm
đến người trưởng họ là người am hiểu luật lệ,
lý lẽ nhất trong họ đó. Mỗi họ lại có quy định,
luật lệ khác nhau, mọi người trong họ phải
tuân theo quy định, luật lệ đó. Dòng họ rất
quan trọng, với người H’Mông là “cùng họ
cùng ma”, tức là người cùng một họ có thể
sống và chết trong nhà nhau. Cách bố trí việc
thờ cúng cũng như cách cúng trong nhà là
cách để nhận biết người cùng họ. Trong gia
đình người H’Mông người ta quý trọng con
trai hơn con gái, vì thế gia đình nào có nhiều
con trai là niềm kiêu hãnh trong bản làng.
Thông thường, trong quá trình vợ chồng
chung sống, nếu có bất hoà, thì con dâu chỉ
được lánh nạn sang hàng xóm, không được
phép trở về nhà bố mẹ đẻ. Nếu con dâu muốn
về thăm bố mẹ đẻ phải xin phép nhà chồng và
được chồng đưa về tận nhà mới hợp lệ.
Chuyện ngoại tình đối với phụ nữ H’Mông là
hy hữu. Bởi lẽ, nếu người phụ nữ đó có quan
hệ bất chính với người đàn ông khác, khi chị
ta bị chồng của mình phát hiện họ sẽ dùng
những “luật tục” của người H’Mông “xử lý”
cả vợ của mình và người đàn ông kia. Có
nhiều cuộc hôn nhân không được hài hòa thì
người phụ nữ H’Mông cũng phải cố gắng
chịu đựng. Khi vợ chồng li dị, người vợ
không được trở về sống với bố mẹ đẻ mà đến
ở nhờ nhà chức dịch cho tới khi tái giá. Theo
tục lệ, người phụ nữ goá chồng không muốn
lấy em chồng mà lại lấy người khác thì toàn
bộ tài sản phải để lại nhà chồng.
Người H’Mông thường có quan hệ hôn nhân
cận huyết, hôn nhân với các dân tộc khác rất
ít. Việc dựng vợ gả chồng là để có con cái nối
dõi tông đường đồng thời nâng cao uy tín của
dòng họ cũng như tăng lực lượng lao động
cho gia đình nên người H’Mông sinh rất
nhiều con. Các cô gái H’Mông không được
lựa chọn bạn trai cho mình, mà phải nghe
theo sự sắp đặt của gia đình. Ngày nay, thế hệ
trẻ người H’Mông đã có sự mở rộng quan hệ
với các dân tộc khác, với các vùng miền khác
nên việc lựa chọn bạn đời cũng đã có sự thay
đổi, nhưng về cơ bản vẫn phải tuân thủ theo
quy định của dòng tộc. Theo phong tục của
người H’Mông, nam nữ thường phải xây
dựng gia đình từ rất sớm, khoảng 13 - 15 tuổi.
Nam giới người H’Mông khi lấy vợ thường
lấy những người lớn tuổi hơn, theo quan niệm
có con dâu về để đỡ đần việc nương rẫy, cơm
nước trong gia đình.
Trong bối cảnh hiện nay, với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học công nghệ, với sự
giao lưu hội nhập diễn ra mạnh mẽ với các
nước trên thế giới, với sự phát triển mạnh mẽ
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đồng bào dân tộc H’Mông cũng như
đồng bào các dân tộc thiểu số khác trong cả
nước có nhiều cơ hội để mở rộng mối quan hệ
giao lưu về văn hóa của mình với các dân tộc
Nguyễn Thị Nội và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 177 - 180
179
khác trong cả nước và trên thế giới. Qua đó, ít
hay nhiều họ cũng có sự tiếp thu những yếu tố
tiến bộ, tích cực và đã có sự thay đổi cho phù
hợp với xu thế mới. Bản thân nền văn hóa của
người H’Mông cũng có sự tiếp biến trong quá
trình giao thoa đó. Tuy nhiên, cho đến nay,
những hủ tục nhất là những hủ tục về sự phân
biệt nam - nữ của họ vẫn không thay đổi.
Liệu rằng có thực hiện được bình đẳng nam -
nữ đối với dân tộc H’Mông hay không? Đây
là một câu hỏi không dễ tìm ra đáp án trả lời.
Với phái nữ, khi sinh ra dường như đã mang
thân phận “thua kém” hơn so với phái nam,
cụ thể: về sức khỏe (nữ giới thường yếu hơn
nam giới), về tính cách (phụ nữ không được
mạnh mẽ như nam giới), về sự cơ động xã hội
(nữ giới không được như nam giới), về mức
độ ảnh hưởng chính trị (nữ giới ít hơn nam
giới),... Để đạt được sự bình đẳng giới, để
phái nam dân tộc H’Mông có được sự chia sẻ
với phái nữ về mọi phương diện, để tiếng nói
người phụ nữ dân tộc H’Mông được tôn
trọng, cần có một hệ thống các giải pháp
mang tính đặc thù.
Thứ nhất, đối với công tác tuyên truyền:
- Các cơ quan chức năng cần tuyên truyền cho
các chị em phụ nữ H’Mông biết được vị thế
và vai trò của họ trong gia đình, trong xã hội
hiện đại. Tuyên truyền thông qua những chị
em làm công tác phụ nữ thôn bản, thông qua
sự giác ngộ của chi ủy, của lãnh đạo thôn bản,
của xã. Có như vậy, họ mới thấy được mình
không phải chỉ là người nội trợ, không phải là
người luôn luôn phục tùng và lắng nghe.
- Thông qua các phương tiện truyền thông
(qua các chương trình trên truyền hình hoặc
phát thanh) cần có những quan điểm, những
ấn phẩm xóa bỏ sự cổ xúy trong quan niệm về
sự hy sinh, sự nhẫn nhịn nam giới của người
phụ nữ.
- Qua các phương tiện truyền thông nên phát
hành những tài liệu kêu gọi sự bình đẳng
trong gia đình, không quá đề cao vai trò của
người nam giới và cần nhấn mạnh tới vai trò
của người phụ nữ trong gia đình hiện đại.
- Qua các phương tiện truyền thông cần nhấn
mạnh đến việc xóa mù chữ và học tập nâng
cao trình độ là điều vô cùng quan trọng đối
với người thuộc dân tộc này. Bởi lẽ, khi có
được sự hiểu biết, cả nam giới và nữ giới đều
có sự nhận thức về độ tuổi kết hôn; nhận thức
về các hiện tượng như: bỏ học sớm, ngại giao
tiếp, không có thông tin, sự tự ti đối với nữ.
Từ đó, bản thân cả nam và nữ đều tự điều
chỉnh trong hành vi và cách ứng xử của mình.
Thứ hai, đối với công tác giáo dục:
- Đội ngũ các thầy cô giáo, những người làm
công tác giáo dục tại các trường có khu vực
người H’Mông sinh sống và học tập cần thiết
kế các bài giảng hợp lý để giáo dục các em bé
gái và em bé trai để chúng có thể sống tự lập,
có tinh thần giúp đỡ người khác, biết chia sẻ
ngay từ lúc còn nhỏ.
- Đảng, Nhà nước ta cần tiếp tục thực hiện
chính sách hỗ trợ thu hút học sinh người
H’Mông học tập ở các trường dân tộc nội trú.
Đây chính là tiền đề người H’Mông có thể
học tập, làm việc trong và ngoài nước, để họ
có sự nhận thức thấu đáo về hiện tượng bất bình
đẳng giới của dân tộc mình, từ đó, họ sẽ là
người trực tiếp thực hiện việc xóa bỏ sự phân
biệt nam - nữ trong gia đình, trong xã hội.
KẾT LUẬN
Để hạn chế và tiến tới khắc phục được hiện
tượng bất bình đẳng giới đối với các dân tộc
thiểu số nói chung và với dân tộc H’Mông nói
riêng thì bản thân người phụ nữ không thể
làm thay đổi được hiện tượng đó mà cần có
sự hợp tác của nam giới. Do vậy, cần có một
quá trình, thậm chí phải có sự trải nghiệm của
cả một thế hệ mới thực hiện được điều này.
Vì theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, ý thức xã hội vẫn có tính độc lập tương
đối của nó, mặc dù, tồn tại xã hội là yếu tố có
vai trò quyết định.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở
Trung ương (2011), Tổng điều tra dân sô và nhà ở
Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ, Hà Nội,
Biểu 5.
Nguyễn Thị Nội và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 177 - 180
180
2. C. Mác & Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 20.
3. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Nxb Sự thật,
tập 1.
4. Lê Thi (2011), Vài nét về việc thực thi công
bằng, dân chủ và bình đẳng nam nữ ở Việt Nam
hiện nay, Nxb KHXH, Hà Nội.
SUMMARY
THE GENDER EQUALITY ISSUE – SEEN FROM THE STUDY
OF H’MONG ETHNIC MINORITY GROUP IN VIET NAM
Nguyen Thi Noi*, Dam Thi Hanh, Le Thi Thu Huyen, Nguyen Thi Thuy
College of Economics and Business Administration - TNU
Among the community of 54 ethnic groups in Viet Nam, H’Mong is one of the one remaining its
own unique cultural identity of ethnic traditions in today’s life integration. However, the issue of
gender inequality is still a problem for this nation. Because they are limited by the old-fashioned
and backward beliefs. Those concepts is deeply rooted in the minds of them. Therefore, it is
necessary to implement a system of speacial solutions which can alter that order.
Keywords: H’Mong Ethnic Group, Gender Equality, Gender inequality
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:30/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Yến - Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0989 346178, Email: [email protected]
Trần Lương Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 181 - 188
181
MỘT SÔ VẤN ĐỀ VỀ THỰC THI PHÁP LUẬT
CHÔNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM
Trần Lương Đức*, Nguyễn Thị Thùy Trang Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Vụ kiện chống bán phá giá đầu tiên được khởi xướng bởi các doanh nghiệp thép Việt Nam đã đánh
dấu một bước ngoặt trong nhận thức của các doanh nghiệp nội địa trong việc sử dụng các công cụ
phòng vệ thương mại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, khung pháp lý về
chống bán phá giá của Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế và sự thiếu thống nhất, dẫn đến những
khó khăn trong việc áp dụng pháp luật vào thực tế. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các quy định
của pháp luật chống bán phá giá cần được sửa đổi, bổ sung để giúp các doanh nghiệp Việt Nam
bảo vệ sân chơi nội địa của chính mình.
Từ khóa: Việt Nam, các quy định về chông bán phá giá, vụ kiện đầu tiên, WTO, doanh nghiệp.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự
do hoá thương mại đã và đang là xu thế nổi
bật của kinh tế thế giới đương đại. Quá trình
hội nhập quốc tế đã góp phần nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời
cũng giúp Việt Nam thu hút được một số
lượng đáng kể vốn đầu tư nước ngoài cũng
như tiếp thu những thành tựu mới về khoa
học, công nghệ, kỹ năng quản lý…
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực,
thị trường nước ta đang bị đe doạ trước sức
tấn công của những hành vi cạnh tranh không
lành mạnh từ phía các doanh nghiệp nước
ngoài. Trong đó, hành vi bán phá giá được
xác định là một trong những hành vi gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến một “nền thương
mại công bằng”, cần sớm ngăn chặn và đẩy
lùi. Nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước
trước vấn đề bán phá giá ngay tại thị trường
nội địa, Việt Nam đã ban hành một số văn
bản pháp luật chống bán phá giá như Pháp
lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam 2004, Nghị định 90/2005/NĐ-
CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam; Nghị định số
04/2006/NĐ-CP về thành lập và quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
* Tel: 0912 452001, Email: [email protected]
chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán
phá giá, chống trợ cấp và tự vệ...
Tuy nhiên, chế định luật chống bán phá giá
tính đến thời điểm này còn chứa đựng nhiều
hạn chế và chưa thực sự tương thích với pháp
luật thế giới. Sự sơ sài của khung pháp lý về
chống bán phá giá khiến nó chưa phát huy
được vai trò của một “chiếc van an toàn” đối
với dòng hàng nhập khẩu đang “ồ ạt chảy”
vào Việt Nam, từ đó góp phần bảo vệ nền sản
xuất trong nước. Trên thực tế, Việt Nam mới
chỉ khởi xướng điều tra được một vụ kiện
chống bán phá giá đầu tiên vào năm 2013 với
nhiều khó khăn và vướng mắc.
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ
Vấn đề chống bán phá giá lần đầu tiên được
ghi nhận trong một văn bản pháp luật quốc tế
tại điều VI, hiệp định GATT 1947. Với sự
cạnh tranh ngày càng khốc liệt, hành vi bán
phá giá ngày càng diễn ra phổ biến hơn trên
phạm vi quốc tế. Điều này dẫn đến việc năm
1967, các nước tham gia hiệp định GATT đã
thỏa thuận xây dựng một văn bản thống nhất
về chống bán phá giá có tên gọi Hiệp định về
thi hành điều VI của GATT (Agreement on
the Implementation of Article VI), gọi tắt là
Hiệp định chống bán phá giá (Agreement on
Anti-dumping, ADA). Là một trong những
hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp
định chống bán phá giá có hiệu lực bắt buộc
Trần Lương Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 181 - 188
182
đối với tất cả các nước thành viên của WTO.
Các quy định trong Hiệp định là cơ sở pháp lý
giúp các nước bảo hộ quyền lợi chính đáng
của các ngành sản xuất trong nước khi xảy ra
hiện tượng bán phá giá.
Trước đây, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa
từng tồn tại bất kỳ một tiền lệ hay một quy
định nào điều chỉnh cụ thể và chuyên biệt về
vấn đề chống bán phá giá. Cho đến năm 2004,
Việt Nam chính thức ban hành Pháp lệnh
chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam với “sứ mệnh” nội luật hóa các quy
định của WTO [1]. Đây được coi là một trong
những nỗ lực nước rút để gia nhập WTO,
hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống pháp
luật của Việt Nam tương thích, phù hợp và
sẵn sàng cho thời kỳ hội nhập WTO của Việt
Nam sau này.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC THI PHÁP
LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT
NAM - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỰC TIỄN
Trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng, sự cạnh
tranh trở nên gắt gao hơn; cùng với đó là sự
“biến mất” của các công cụ truyền thống như
thuế quan, giấy phép xuất nhập khẩu theo trào
lưu FTAs (Free Trade Agreements)... tất cả
điều này dẫn tới thực tế là các công cụ phòng
vệ thương mại đang được sử dụng ngày càng
nhiều với sự nhận thức rõ ràng hơn của chính
các doanh nghiệp.
Việt Nam đã ghi nhận vụ kiện chống bán phá
giá đầu tiên và duy nhất (tính đến thời điểm
này) do các nhà sản xuất trong nước của Việt
Nam nộp đơn kiện vào ngày 6/5/2013 đối với
loại hàng hóa là thép không gỉ cán nguội được
nhập khẩu từ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
(Trung Quốc), Malayia, Cộng hòa Indonesia
và Lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), được
phân loại theo mã số thuế HS 7219.32.00;
7219.33.00; 7219.34.00; 7219.35.00;
7219.90.00; 7220.20.10; 7220.20.90;
7220.90.10; 7220.90.90.
Vụ kiện này đã đánh dấu một bước phát triển
mới, quan trọng đối với pháp luật chống bán
phá giá của Việt Nam khi lần đầu tiên được
áp dụng vào thực tiễn. Trong vụ việc này, hai
công ty Posco VST (100% vốn Hàn Quốc) và
Inox Hòa Bình đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu
áp dụng biện pháp chống bán phá giá lên Cục
quản lí cạnh tranh - Bộ Công thương. Ngày
25/12/2013, cơ quan có thẩm quyền đã ra
quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá
tạm thời đối với các mặt hàng thép không gỉ
cán nguội với thời hạn là 120 ngày. Thuế
chống bán phá giá thép không gỉ đối với các
nhà sản xuất của Trung Quốc, Indonesia,
Malaysia dự kiến dao động từ 6,45% đến
14,38%. Riêng một doanh nghiệp của Đài
Loan (Trung Quốc) bị áp thuế cao nhất tới
30,73% [4].
Văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất
điều chỉnh trực tiếp vấn đề này là Pháp lệnh
chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam năm 2004 hiện nay đã bộc lộ rất
nhiều điểm thiếu sót và hạn chế [3]. Từ thực
tế giải quyết vụ việc trên, chúng ta có thể
nhận thấy rõ một số quy định trong chế định
luật chống bán phá giá ở Việt Nam đã và
đang gây ra những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình áp dụng vào một vụ việc cụ thể.
Giải quyết được những vướng mắc này sẽ giúp
hoàn thiện hơn những điểm bất cập để “trang
bị” cho doanh nghiệp Việt Nam “vũ khí tự vệ”
hiệu quả trong chính sân chơi nội địa.
Những hạn chế trong quy định về xác định
hành vi bán phá giá và biên độ phá giá
Vấn đề xác định hành vi bán phá giá có ý
nghĩa là tiền đề, cơ sở để cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá đối với hàng hóa đó. Hiện nay, pháp luật
Việt Nam đưa ra khái niệm về hành vi bán
phá giá theo quy định tại điều 3 PLCBPG,
theo đó: “Hàng hóa có xuất xư từ nước hoặc
vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập
khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là hàng hoá
bán phá giá vào Việt Nam) nếu hàng hoá đó
đươc bán với giá thấp hơn giá thông thường”.
Trong đó, giá thông thường của hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam được xác định theo
một trong các cách sau:
Trần Lương Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 181 - 188
183
- Là giá có thể so sánh được của hàng hoá
tương tự đang được bán trên thị trường nội
địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu
theo các điều kiện thương mại thông thường.
- Trong trường hợp không có hàng hoá tương
tự được bán trên thị trường nội địa của nước
hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc có hàng
hoá tương tự được bán trên thị trường nội địa
của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu nhưng
với khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng
hóa không đáng kể thì giá thông thường của
hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được xác
định theo một trong hai cách sau đây:
+ Giá có thể so sánh được của hàng hoá tương
tự của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu đang
được bán trên thị trường một nước thứ ba trong
các điều kiện thương mại thông thường;
+ Giá thành hợp lý của hàng hoá cộng thêm
các chi phí hợp lý khác và lợi nhuận ở mức
hợp lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất
đến lưu thông trên thị trường của nước hoặc
vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ ba.
Pháp luật quy định như vậy nhưng để áp dụng
pháp luật vào thực tiễn, các cơ quan thực thi
pháp luật còn gặp nhiều lúng túng trong việc
xác định thế nào là hàng hóa tương tự và điều
kiện thương mại thông thường.
Thư nhất, giá thông thường là giá có thể so
sánh được của hàng hoá tương tự đang được
bán trên thị trường nội địa của nước hoặc
vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện
thương mại thông thường hoặc giá có thể so
sánh được của hàng hoá tương tự của nước
hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu đang được bán
trên thị trường một nước thứ ba trong các điều
kiện thương mại thông thường.
Theo quy định trên, cơ quan thực thi phải lựa
chọn các giao dịch nội địa tương tự với giao
dịch giao dịch xuất khẩu diễn ra trong thời kì
điều tra để tính GTT. Trong đó, hàng hóa
tương tự là hàng hoá có tất cả các đặc tính
giống với hàng hoá bị yêu cầu áp dụng biện
pháp chống bán phá giá hoặc trong trường
hợp không có hàng hoá nào như vậy thì là
hàng hoá có nhiều đặc tính cơ bản giống với
hàng hoá bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống
bán phá giá (khoản 6 điều 2 PLCBPG).
PLCBPG đưa ra hai khả năng lựa chọn cho
các trường hợp khác nhau: thứ nhất là “hàng
hoá có tất cả các đặc tính giông với hàng hoá
bị yêu cầu áp dụng biện pháp chông bán phá
giá”; thứ hai là “hàng hoá có nhiều đặc tính
cơ bản giông với hàng hoá bị yêu cầu áp
dụng biện pháp chông bán phá giá”. Mặc dù
PLCBPG đưa ra quy định như vậy nhưng cả
PLCBPG lẫn Nghị định 90/2005/NĐ-CP đều
không quy định những yếu tố nào được coi là
đặc tính và đặc tính cơ bản của hàng hóa. Thông
thường, các yếu tố như đặc tính vật lí, công
dụng, đặc tính kĩ thuật của hàng hóa, cách thức
trưng bày, phân phối và tiêu thụ của hàng hóa...
được coi là những đặc tính của sản phẩm.
Chính vì sự thiếu sót này của pháp luật chống
bán phá giá, cơ quan điều tra chống bán phá
giá trong vụ kiện chống bán phá giá mặt hàng
thép không gỉ đã phải “tự mình” xác định
“hàng hóa tương tự” của mặt hàng bị kiện bán
phá giá như sau: “Hàng hóa tương tự sản xuất
trong nước là thép không gỉ cán nguội ở dạng
cuộn hoặc dạng tấm có chưa 1,2% hàm lương
carbon hoặc ít hơn tính theo trọng lương và
chưa 10,5% hàm lương crôm trở lên, có hoặc
không có các nguyên tô khác. Thép không gỉ
cán nguội ở dạng cuộn hoặc với độ dày nhỏ
hơn hoặc bằng 3,5mm đươc ủ hoặc đươc xử
lý nhiệt bằng phương pháp khác và ngâm
hoặc đươc cạo gỉ để loại bỏ tạp chất dư thừa
nhằm hoàn thiện bề mặt thép không gỉ.
Những sản phẩm này tiếp tục đươc xử lý
(đươc cắt hoặc xẻ rãnh mép) với điều kiện là
quá trình đó không làm thay đổi các đặc điểm
kỹ thuật của sản phẩm.” [5]
Theo cách xác định trên của Cục quản lý cạnh
tranh – Bộ Công thương, tính tương tự của
hàng hóa bao gồm các đặc điểm vật lý, hóa
học (dạng tấm, hàm lượng các nguyên tố, độ
dày...) và quy trình xử lý sản phẩm (ủ, xử lý
nhiệt, cắt, xẻ rãnh mép...). Tuy nhiên, để việc
điều tra của cơ quan điều tra sẽ có căn cứ
chính xác và cụ thể hơn, pháp luật nên bổ
sung hướng dẫn về việc xác định yếu tố nào
Trần Lương Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 181 - 188
184
được coi là đặc tính và đặc tính cơ bản của
hàng hóa.
Thư hai, việc xác định giá thông thường còn
phải phụ thuộc vào việc xác định “điều kiện
thương mại thông thường”. “Điều kiện
thương mại thông thường” có thể hiểu là các
giao dịch mua bán hàng hóa diễn ra trong môi
trường cạnh tranh, trong đó giá cả chịu sự tác
động của quy luật cung cầu. “Điều kiện
thương mại thông thường” có ý nghĩa là cơ sở
để thẩm tra mức độ trung thực và đáng tin cậy
của giá bán trong các giao dịch nội địa được
lựa chọn để tính toán giá thông thường. Tại
điều 3 của PLCBPG có đưa ra một yêu cầu về
việc xác định GTT phải là giá có thể so sánh
được của hàng hoá tương tự đang được bán
trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng
lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương
mại thông thường. Tuy nhiên, PLCBPG cũng
như văn bản hướng dẫn đều không chỉ rõ thế
nào là “điều kiện thương mại thông thường”.
Đây có thể coi là một thiếu sót của PLCBPG
của Việt Nam.
Dẫn chiếu quy định này đến ADA - hiệp định
chống bán phá giá của WTO, có thể nhận thấy
ADA quy định về “điều kiện thương mại
thông thường” dựa trên việc chỉ rõ các trường
hợp không thuộc điều kiện thương mại thông
thường. Theo đó, một hành vi bán hàng với
giá bán dưới giá thành bị coi là không theo
điều kiện thương mại thông thường khi đáp
ứng cả 4 điều kiện: (i) Giao dịch có giá thấp
hơn tổng các loại chi phí được tính toán trên
cơ sở sổ sách và ghi chép của doanh nghiệp
xuất khẩu hoặc doanh nghiệp sản xuất là đối
tượng bị điều tra, với điều kiện là sổ sách này
là phù hợp với nguyên tắc kế toán được chấp
nhận rộng rãi tại nước xuất khẩu và phản ánh
hợp lý các chi phí đi kèm với việc sản xuất và
bán hàng đang được xem xét; (ii) Việc bán
hàng lỗ vốn đang được thực hiện trong một
khoảng thời gian dài; (iii) Lượng hàng hóa lỗ
vốn là đáng kể; (iv) Giá bán trong giao dịch
nói trên không đủ bù đắp chi phí trong
khoảng thời gian hợp lý.
Như vậy, những giao dịch được coi là có giá
bán không theo điều kiện thương mại thông
thường” khi giao dịch đó đáp ứng cả 4 trường
hợp trên. Một khi giao dịch được xác định
không theo điều kiện thương mại thông
thường sẽ đương nhiên bị loại bỏ khỏi việc
tính toán giá thông thường.
Trong vụ kiện chống bán phá giá do Việt
Nam khởi xướng vừa qua, trong báo cáo sơ
bộ của Cục quản lí cạnh tranh - Bộ Công
thương: “...Cơ quan điều tra xác định liệu
hàng hóa tương tự của sản phẩm điều tra có
bán trong điều kiện thương mại thông thường
hay không thông qua kiểm tra hàng hóa có
bán dưới giá thành, theo đó sẽ so sánh giá bán
với giá thành toàn bộ (Giá thành sản phẩm +
chi phí bán hàng, chi phí hành chính và chi
phí chung – SG&A). Như vậy, cơ quan điều
tra đã áp dụng quy định về xác định “điều
kiện thương mại thông thường” theo quy
định của WTO để áp dụng vào vụ việc cụ thể
của mình.
Ngoài ra, một vấn đề cũng rất quan trọng cần
được làm rõ liên quan đến việc xác định hành
vi bán phá giá, đó là xác định biên độ phá giá
của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam bị kiện
bán phá giá. PLCBPG cũng quy định về việc
sử dụng biên độ phá giá làm căn cứ để cơ
quan điều tra áp dụng biện pháp chống bán
phá giá khi biên độ phá giá là đáng kể. Khoản
2 điều 3 PLCBPG quy định: “Biên độ bán
phá giá không đáng kể là biên độ bán phá giá
không vươt quá 2% giá xuất khẩu hàng hóa
vào Việt Nam”. Trường hợp biên độ phá giá
không đáng kể “không vượt quá 2%” (tức là
nhỏ hơn hoặc bằng 2%) thì cơ quan điều tra
sẽ ra quyết định chấm dứt điều tra, và đương
nhiên sẽ không áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá. Trong khi Việt Nam yêu cầu biên
độ phá giá phải lớn hơn 2% mới bị điều tra và
có thể chịu các biện pháp chống bán phá giá
thì ADA lại qui định biên độ phá giá đáng kể
là biên độ phá giá lớn hơn hoặc bằng 2%. So
sánh quy định này của Việt Nam với quy định
về biên độ phá giá đáng kể của ADA có thể
Trần Lương Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 181 - 188
185
nhận thấy cách quy định của Việt Nam rộng
hơn, tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp
nước ngoài bán phá giá vào Việt Nam. Trong
quy định này, pháp luật Việt Nam chưa có sự
tương thích với pháp luật WTO, đồng thời
chưa thể hiện tốt chức năng bảo hộ nền sản
xuất trong nước trong khuôn khổ cho phép
được quốc tế thừa nhận.
Trong vụ điều tra chống bán phá giá mặt hàng
thép không gỉ, Cục quản lý Cạnh tranh – Bộ
Công thương đã đưa ra báo cáo điều tra cho
thấy biên độ phá giá của các công ty bị đơn là
khá cao, dao động từ 6,45% - 30,73%. Với
biên độ này, quy định của tại khoản 2 điều 3
của PLCBPG không có tác động nào đến kết
quả điều tra. Tuy nhiên, có thể trong những
vụ kiện mà Việt Nam khởi xướng sau này,
nếu biên độ điều tra ghi nhận là 2%, chắc
chắn những sẽ có những vướng mắc không
đáng có mà chúng ta hoàn toàn có thể ngăn
chặn ngay từ lúc này.
Vấn đề áp dụng các biện pháp chống bán
phá giá tại Việt Nam
Trong quá trình điều tra chống bán phá giá từ
khi có kết luận sơ bộ đến khi có kết luận
chính thức, nếu không có căn cứ để ra quyết
định chấm dứt điều tra thì BTBCT phải ra
quyết định áp dụng các biện pháp chống bán
phá giá.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam cũng như pháp
luật WTO đều quy định ba biện pháp chống bán
phá giá bao gồm: áp dụng thuế chống bán phá
giá tạm thời, áp dụng các biện pháp cam kết và
áp dụng thuế chống bán phá giá (chính thức).
Thư nhất, áp dụng thuế chông bán phá giá
tạm thời
Về mặt nguyên tắc, cơ quan có thẩm quyền
chỉ được phép áp dụng biện pháp chống bán
phá giá khi có kết luận khẳng định có hành vi
bán phá giá và có thiệt hại đáng kể xảy ra.
Tuy nhiên, do khoảng thời gian điều tra bán
phá giá kéo dài trong khoảng từ 12 tháng đến
18 tháng, nếu không có biện pháp chống bán
phá giá kịp thời, hành vi bán phá giá có thể
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành sản
xuất nội địa nói riêng và nền kinh tế nước
nhập khẩu nói chung. Do đó, pháp luật cho
phép các cơ quan hữu quan có thể áp dụng
các biện pháp này để ngăn chặn tổn hại đang
xảy ra trong quá trình điều tra trước khi có kết
luận cuối cùng của cuộc điều tra chống bán
phá giá.
Điều 20 PLCBPG quy định, căn cứ vào kết
luận sơ bộ, BTBCT có thể ra quyết định áp
dụng thuế chống bán phá giá tạm thời sau sáu
mươi ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra.
Thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá tạm
thời không được quá một trăm hai mươi ngày,
kể từ ngày có quyết định áp dụng biện pháp
này và có thể được gia hạn nhưng không quá
sáu mươi ngày. Theo nguyên tắc chung, việc
áp dụng các biện pháp tạm thời sẽ được hạn
chế ở một khoảng thời gian càng ngắn càng
tốt và theo WTO thời hạn này không quá 4
tháng, có thể gia hạn thêm 2 tháng. Ngoài ra,
điều 7.3 ADA quy định trong quá trình điều
tra, nếu như Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra
xem liệu một mức thuế thấp hơn biên độ phá
giá có thể loại bỏ tổn hại phát sinh hay không,
khoảng thời gian trên có thể tương ứng là 6 và
9 tháng. Đối chiếu với quy định về thời hạn
áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời của
Việt Nam tối đa 180 ngày kể cả gia hạn, có thể
thấy, pháp luật Việt Nam cần tận dụng khả năng
mở rộng việc áp dụng biện pháp tạm thời lên 9
tháng theo mức tối đa mà WTO cho phép.
Vụ kiện chống bán phá giá thép không gỉ ở
Việt Nam đang dừng lại ở bước điều tra sơ bộ
với kết quả là kết luận sơ bộ của cơ quan điều
tra Cục quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương.
Theo đó, mức thuế chống bán phá giá tạm thời
hiện đang áp dụng đối với các công ty bị điều
tra là ngang bằng với biên độ phá giá đã được
xác định, theo đó mức thuế này hiện ở mức thấp
nhất là 6,45% và cao nhất là 30,73%.
Thư hai, áp dụng các biện pháp cam kết.
Biện pháp cam kết có ý nghĩa dung hòa lợi
ích giữa các bên tham gia vào vụ kiện chống
bán phá giá, đem lại những ảnh hưởng tích
cực đối với các bên. Biện pháp cam kết được
Trần Lương Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 181 - 188
186
ghi nhận tại điều 21 PLCBPG và Mục 1
chương IV Nghị định 90/2005/NĐ-CP với các
nội dung chính như: thời điểm áp dụng, nội
dung cam kết, điều kiện áp dụng biện pháp
cam kết, hậu quả pháp lí của việc thực hiện
hoặc không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng các biện pháp cam kết.
Có thể nhận thấy còn tồn tại điểm hạn chế
hiện nay trong quy định của pháp luật Việt
Nam, đó là thiếu sự quy định cụ thể về nội
dung của từng biện pháp cam kết (cách thức,
trình tự, thủ tục thực hiện, các cam kết điều
chỉnh giá bán hoặc tự nguyện hạn chế khối
lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá bán phá
giá vào Việt Nam).
Thư ba, áp dụng thuế chông bán phá giá
Điều 21 PLCBPG quy định thuế chống bán
phá giá có thể được quyết định áp dụng bởi
Bộ trưởng Bộ công thương (BTBCT) theo
kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ việc chống
bán phá giá trong trường hợp không đạt được
cam kết. Xuất phát từ mục đích của thuế
chống bán phá giá nhằm đẩy giá cả của hàng
hóa lên ngang bằng với giá trị hợp lí của
chúng và để hạn chế bớt thiệt hại cho ngành
sản xuất nội địa, pháp luật quy định thuế suất
chống bán phá giá không được vượt quá biên
độ bán phá giá trong kết luận cuối cùng.
Thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá
không quá năm năm, kể từ ngày có quyết định
áp dụng biện pháp chống bán phá giá, và có
thể được gia hạn trong trường hợp BTBCT ra
quyết định rà soát việc áp dụng thuế chống
phá giá.
Một vướng mắc đặt ra là trong các quy định
hiện hành của pháp luật Việt Nam về thu thuế
và hoàn thuế mới chỉ tập trung giải quyết mức
chênh lệch giữa thuế chống bán phá giá chính
thức và thuế chống bán phá giá tạm thời [2].
Pháp luật Việt Nam chưa quy định cơ chế
hoàn trả phần chênh lệch giữa mức đã thu và
biên độ phá giá thực tế nếu có yêu cầu của nhà
xuất khẩu theo đúng tinh thần của ADA, điều
này sẽ gây ra những khó khăn cho cơ quan thực
thi pháp luật trong giải quyết vụ việc khi có yêu
cầu của nhà xuất khẩu nước ngoài.
Bộ máy thực thi pháp luật chống bán phá
giá của Việt Nam
Hiện nay, bộ máy thực thi pháp luật chống
bán phá giá được thành lập và hoạt động dựa
trên nguyên tắc phân cấp, phân công nhiệm
vụ nhưng vẫn hướng tới mục tiêu thống nhất
trong tổ chức và hoạt động. Các cơ quan thực
thi pháp luật có thẩm quyền điều tra và áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá gồm:
Cơ quan điều tra chống bán phá giá; Hội đồng
xử lý vụ việc chống bán phá giá; BTBCT.
Theo quy định tại khoản 1, 2 điều 1 Nghị định
số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
9/1/2006, Cục Quản lí cạnh tranh thuộc Bộ
Công thương đóng vai trò là cơ quan điều tra
chống bán phá giá.
Bên cạnh đó còn tồn tại Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh - cơ quan trực thuộc Bộ Công
thương có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ
Công thương xem xét việc áp dụng thuế
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và áp
dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam trên cơ sở các kết
luận và kết quả điều tra vụ việc chống bán
phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện
pháp tự vệ của Cục Quản lý cạnh tranh.
Cuối cùng, Bộ trưởng Bộ Công thương là
người có vai trò quan trọng trong quá trình xử
lí các vụ việc chống bán phá giá, chịu trách
nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện
quản lý nhà nước về chống bán phá giá, quyết
định việc áp dụng biện pháp chống bán phá
giá và chịu trách nhiệm về quyết định này.
BTBCT có thể ra quyết định về các vấn đề
quan trọng như: quyết định điều tra khi có
bằng chứng rõ ràng về việc bán phá giá hàng
hoá gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất trong nước; quyết định
chấm dứt điều tra, quyết định áp dụng thuế
chống bán phá giá, quyết định rà soát việc áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá...
Nhìn từ kinh nghiệm lập pháp của các quốc
gia có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực
chống bán phá giá như Ấn Độ, Hoa Kỳ..., một
việc rất cần thiết mà Việt Nam nên làm đó là
Trần Lương Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 181 - 188
187
tách chức năng chống bán phá giá ra khỏi
chức năng của Cơ quan quản lí cạnh tranh để
đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của
việc thực thi chính sách phòng vệ thương mại
cũng như để phù hợp hơn với thông lệ quốc
tế. Theo đó, Cơ quan quản lí cạnh tranh chỉ
thực thi chính sách cạnh tranh và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, còn việc thực thi
chính sách phòng vệ thương mại, trong đó có
vấn đề chống bán phá giá, cần phải giao cho
một cơ quan độc lập thực hiện. Có như vậy,
hiệu quả thực thi pháp luật chống bán phá giá
mới có thể được nâng cao, đáp ứng những đòi
hỏi của thực tiễn.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU
QUA THỰC THI PHÁP LUẬT CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
VAO VIỆT NAM
Hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành
Do được ban hành trong điều kiện Việt Nam
chưa gia nhập WTO, cùng với đó là rất nhiều
biến động trong tình hình kinh tế thế giới, đã
đến lúc Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện những quy định pháp luật trong
lĩnh vực này, mà cụ thể là PLCBPG.
Trong vấn đề xác định hành vi bán phá giá và
biên độ phá giá, cần sửa đổi, bổ sung một sô
nội dung chính như:
Bổ sung quy định một cách cụ thể về việc xác
định các yếu tố nào được coi là đặc tính và
đặc tính cơ bản của hàng hóa để có thể xác
định khái niệm “hàng hóa tương tự”. Các nhà
làm luật có thể đưa ra các yếu tố như đặc tính
vật lí, công dụng, đặc tính kĩ thuật của hàng
hóa, cách thức trưng bày, phân phối và tiêu
thụ của hàng hóa... và coi đó là những đặc
tính của sản phẩm để xác định hàng hóa
tương tự.
Ngoài ra, cần sớm bổ sung quy định về “điều
kiện thương mại thông thường”, được đề cập
đến tại điều 3 của PLCBPG. Theo đó, Việt
Nam có thể sử dụng phương pháp loại trừ
theo kinh nghiệm lập pháp của WTO để định
nghĩa “điều kiện thương mại thông thường”,
theo đó chỉ rõ các trường hợp nào không được
coi là điều kiện thương mại thông thường.
Cuối cùng, cần sửa đổi qui định về biên độ
phá giá được coi là đáng kể tại khoản 3 điều 2
PLCBPG thành: “Biên độ bán phá giá không
đáng kể là biên độ bán phá giá thấp hơn 2%
giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam”. Điều
này sẽ giúp cho quy định của pháp luật Việt
Nam trở nên thống nhất hơn với pháp luật
WTO về mức biên độ phá giá đáng kể, đồng
thời giúp được bán PLCBPG của Việt Nam
thực hiện tốt hơn chức năng bảo hộ nền sản
xuất nội địa.
Về việc áp dụng các biện pháp chông bán phá
giá, cần lưu ý một sô điểm như:
Cần bổ sung các quy định cụ thể về nội dung
của từng biện pháp cam kết như cách thức,
trình tự, thủ tục thực hiện... các cam kết điều
chỉnh giá bán hoặc tự nguyện hạn chế khối
lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá bán phá
giá vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế về hoàn trả
phần chênh lệch giữa mức đã thu và biên độ
phá giá thực tế nếu có yêu cầu của nhà xuất
khẩu theo đúng tinh thần của ADA. Điều này
sẽ giúp minh bạch hóa và tạo sự công bằng
cho các đối tượng bị áp dụng biện pháp chống
bán phá giá.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan có thẩm quyền
Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung các quy định
của pháp luật, chúng ta cần chú trọng xây
dựng đội ngũ thực thi pháp luật giàu năng lực
với cơ cấu tổ chức hợp lý. Theo đó, nên sớm
xây dựng một cơ quan độc lập Cục quản lý
cạnh tranh để có thể đảm nhận một cách
chuyên sâu vấn đề chống bán phá giá hàng
hóa nhập khẩu cũng như một số lĩnh vực
thương mại quốc tế có liên quan khác. Đồng
thời, việc xây dựng cơ quan độc lập trong lĩnh
vực này cũng góp phần xóa bỏ tình trạng mâu
thuẫn giữa các quy định của pháp luật hiện
nay liên quan đến thẩm quyền giải quyết vụ
việc chống bán phá giá hiện nay.
Trần Lương Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 181 - 188
188
Ngoài ra, cần nâng cao năng lực, tăng cường
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao
trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ thực thi
pháp luật chống bán phá giá cũng như đội ngũ
luật sư tại Việt Nam. Lĩnh vực chống bán phá
giá còn khá mới mẻ đối với Việt Nam nên yêu
cầu đặt ra đối với việc đào tạo lực lượng nhân
lực có trình độ là một yêu cầu khá nặng nề.
Đồng thời, nên tăng cường sự phối kết hợp
giữa các cơ quan có thẩm quyền trong quá
trình điều tra, giải quyết vụ việc chống bán
phá giá như: Cơ quan Hải quan, Bộ Tài chính,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương...
nhằm trao đổi thông tin, hỗ trợ và tư vấn lẫn
nhau trong quá trình thực thi pháp luật chống
bán phá giá.
Cuối cùng, không thể kể đến vai trò của các
Hiệp hội ngành nghề trong việc đại diện cho
các doanh nghiệp trong nước khởi kiện chống
bán phá giá. Trong bối cảnh áp lực cạnh tranh
trong quá trình hội nhập kinh tế với thế giới
tăng cao đòi hỏi nâng cao vai trò của các hiệp
hội, đóng vai trò cầu nối và làm hài hòa hóa
xung đột lợi ích giữa các bên có lợi ích trái
ngược nhau đối với vụ kiện chống bán phá giá.
KẾT LUẬN
Vụ kiện chống bán phá giá đầu tiên ở Việt
Nam đã đánh dấu một bước phát triển mới
trong nhận thức của một bộ phận doanh
nghiệp nội địa của Việt Nam. Việc các doanh
nghiệp Việt Nam chủ động sử dụng các biện
pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình là động thái tích cực và
cần khuyến khích. Tuy nhiên, chế định pháp
luật chống bán phá giá của Việt Nam còn tồn
tại một số thiếu sót và sự thiếu thống nhất dẫn
đến những khó khăn, cản trở cho việc áp dụng
luật vào thực tế. Trong xu hướng quốc tế hóa
mạnh mẽ hiện nay, cần sớm hoàn chỉnh chế
định luật chống bán phá giá để góp phần bảo
vệ “sân chơi nội địa” của nước ta.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Vũ Thị Phương Lan (2012), Pháp luật về chông
bán phá giá trong thương mại quôc tế và những
vấn đề đặt ra đôi với Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Sơn (2005), Pháp luật chông bán
phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
3. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh
sô 20/2004/PL-UBTVQH về việc chông bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
4. Website:
http://chongbanphagia.vn/thongtinvukien/2013070
3/thep-khong-gi-can-nguoi
5. Website:
http://chongbanphagia.vn/files/4.%20Bao%20cao
%20so%20bo.pdf
SUMMARY
PROBLEMS WITH APPLYING ANTI-DUMPING LAW
TO PRACTICE IN VIETNAM
Tran Luong Duc*, Nguyen Thi Thuy Trang College of Economics and Business Administration - TNU
The first anti-dumping case initiated by some Vietnamese Steel enterprises has marked the turning
- point in awareness of domestic businesses in using trade remedies to protect their legitimate
interest is definitely needed to be encouraged. However, there is some drawbacks and
inconsistencies in Vietnam' s legal frame on anti - dumping leading to difficulties and obstacles in
applying the regulations to the fact. In the trend of economic integration, it should be amended and
supplemented to help Vietnamese enterprises protect their domestic playground in our country.
Key words: Vietnam, Anti - dumping regulations, first case, WTO, enterprises
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:4/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Nguyễn Khánh Doanh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 452001, Email: [email protected]
Bùi Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 189 - 193
189
CÁC NHÂN TÔ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP
MÔN HỌC QUẢN TRỊ HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN
Bùi Thị Thu Hương*, Đỗ Đình Long, Lê Ngọc Nương,
Đặng Phi Trường, Hà Thị Hoa, Mai Việt Anh Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập môn học
Quản trị học của sinh viên trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh (KT & QTKD) Thái
Nguyên. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu được thu thập từ kết quả khảo sát 115 sinh viên thuộc
các chuyên ngành khác nhau của Trường Đại học KT & QTKD Thái Nguyên. Số liệu được xử lý
bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0, kiểm định thang đo bằng hệ số Cronbachs’s Alpha, mô hình
phân tích nhân tố khám phá (EFA) và mô hình phân tích hồi quy tuyến tính. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, các nhân tố ảnh hưởng đến đến kết quả học tập môn học Quản trị học của sinh viên là “ Sự
say mê học tập của sinh viên”, “Trình độ chuyên môn giảng dạy của giảng viên”, “Điều kiện học tập”.
Trong đó, “Sự say mê học tập của sinh viên“ là nhân tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến chất lượng học tập
môn học Quản trị học của sinh viên Trường Đại học KT & QTKD Thái Nguyên.
Từ khóa: Nhân tô ảnh hưởng, kết quả học tập, Quản trị học, Trường Đại học KT & QTKD
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Quản trị học là môn học đã được Bộ môn
Khoa học quản lý giảng dạy tại Trường Đại
học KT & QTKD Thái Nguyên và một số cơ
sở khác. Môn học đã trang bị cho sinh viên
những kiến thức và kỹ năng cơ bản để có thể
lãnh đạo, quản lý một tổ chức. Bên cạnh đó
có thể giúp sinh viên hiểu được những công
việc của nhà quản trị, đặc biệt là có kiến thức
và kỹ năng để quản trị có hiệu quả.
Trong những năm vừa qua, Trường Đại học
KT & QTKD Thái Nguyên đã không ngừng
cải tiến chương trình đào tạo, nâng cao trình
độ giảng viên, đổi mới phương pháp giảng
dạy, hoàn thiện cơ sở vật chất. Để có cơ sở
khoa học nâng cao chất lượng học tập các
môn học nói chung và môn học Quản trị học
nói riêng từ phía nhu cầu của người học, nhà
trường đã tiến hành thu thập thông tin từ
phiếu đánh giá chất lượng giảng dạy. Tuy
nhiên, kết quả này chỉ phản ánh một cách
tổng quát, chưa tìm hiểu sâu về các nhân tố
ảnh hưởng đến chất lượng học tập của sinh
viên. Vì thế, nhóm tác giả tiến hành nghiên
* Tel: 0946 800041, Email: [email protected]
cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học
tập môn học Quản trị học của sinh viên
Trường Đại học KT và QTKD Thái Nguyên”
nhằm cung cấp cho Bộ môn Khoa học quản lý
và Nhà trường một căn cứ khoa học hữu hiệu
phục vụ cho công tác cải tiến chất lượng
giảng dạy, đáp ứng nhu cầu đào tạo tất cả các
chuyên ngành của nhà trường.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành thông qua 2 bước:
- Bước 1: Nghiên cứu định tính bằng xây
dựng phát triển hệ thống khái niệm/thang đo
và các biến quan sát và hiệu chỉnh biến quan
sát phù hợp với thực tế.
- Bước 2: Nghiên cứu định lượng, sử dụng hệ
số tin cậy Cronbachs’s Alpha để kiểm định
mức độ chặt chẽ mà các mục hỏi trong thang
đo tương quan với nhau; phân tích nhân tố
khám phá (EFA) được sử dụng để kiểm định
các nhân tố ảnh hưởng và nhận diện các yếu
tố được cho là phù hợp; đồng thời sử dụng
phân tích hồi quy tuyến tính đa biến để xác
định các nhân tố và mức độ tác động của từng
nhân tố đến kết quả học tập môn học Quản trị
học của sinh viên Trường Đại học KT &
QTKD Thái Nguyên.
Bùi Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 189 - 193
190
Nghiên cứu mô hình lý thuyết về kết quả
học tập của sinh viên gồm có nhóm 3 yếu tố
tác động:
-Đội ngũ giáo viên ( ): được đo bằng bốn
biến quan sát từ đến (xem bảng 1)
- Cơ sở vật chất( ): được đo bằng hai biến
quan sát và
- Người học( ): được đo bằng sáu biến quan
sát đến
Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã
sử dụng thang đo Likert cho điểm từ 1 đến 5
để đo lường các biến quan sát. Theo nguyên
tắc của Hair & cộng sự (2006) cho rằng kích
thước mẫu tối thiểu phải là 50, tốt hơn là 100
và tỉ lệ số quan sát/ biến đo lường là 5/1,
nghĩa là cứ mỗi biến đo lường cần tối thiểu 5
quan sát. Dựa vào số biến quan sát trong
nghiên cứu suy ra số lượng mẫu cần thiết có
thể là 5*12=60. Tuy nhiên, để đảm bảo độ tin
cậy cho các thông tin thu được từ phiếu điều
tra nhóm tác giả đã phát 115 phiếu điều tra
sinh viên các chuyên ngành trong trường.
Từ đó, mô hình kết quả học tập môn học
Quản trị học của sinh viênTrường Đại học KT
& QTKD được thiết lập như sau:
Kết quả học tập (Y) = f(
Trong đó : Y là biến phụ thuộc và là
các biến độc lập, được đo lường thông qua sự
hài lòng về kết quả học tập môn học Quản trị
học của sinh viên Trường Đại học Kinh tế và
Quản trị kinh doanh.
KẾT QUA NGHIÊN CỨU VA THAO LUẬN
Để ứng dụng mô hình vào thực tiễn, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành sử dụng số liệu sơ
cấp qua phát phiếu điều tra trực tiếp 115 sinh
viên bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
các sinh viên có học môn học Quản trị học.
Nhóm nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS
20.0 để hỗ trợ phân tích, kết quả thực hiện mô
hình nghiên cứu như sau:
Kiểm định độ tin cậy thang đo (kiểm định
Cronbachs’s Alpha) kết quả học tập môn học
Quản trị học của sinh viên với 11 biến quan
sát thuộc 3 nhân tố. Qua kết quả bảng 2, hệ số
Cronbachs’s Alpha đạt 0,725, chứng tỏ thang
đo lường này sử dụng được. Tuy nhiên, nếu
xét hệ số tương quan biến – tổng thì có 3 biến
bị loại khỏi mô hình vì có giá trị nhỏ hơn 0,3.
Ba biến đó là Chi phí chi trả học phần QTH của
sinh viên ( , Áp lực từ nhiều phía của sinh
viên ( ), Sinh viên lựa chọn ngành học ( ).
Vì vậy, 9 biến đo lường còn lại sẽ được sử dụng
trong phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA)
với các kiểm định được đảm bảo như sau:
- Độ tin cậy của các biến quan sát (Factor
loading >0,5)
- Kiểm định tính phù hợp của mô hình ( 0,5<
KMO = 0,754 < 1)
- Kiểm định Barlett về tương quan của các
biến quan sát (Sig < 0,05)
- Kiểm định phương sai cộng dồn = 68,959%
(Cumulatine variance > 50%)
Theo ma trận xoay các nhân tố, ta có hệ số tải
nhân tố của các biến ở bảng 3 đều lớn hơn
0,5. Ta có 3 nhân tố được rút ra:
- Nhân tố 1 gồm các biến quan sát , ,
được đặt tên “Sự say mê học của sinh viên”
- Nhân tố 2 gồm các biến quan sát , ,
được đặt tên “Trình độ chuyên môn của
giảng viên”
- Nhân tố 3 gồm các biến quan sát , ,
được đặt tên “Điều kiện học tập”
Bảng 1: Các biến sô trong mô hình
Nội dung giảng dạy phù hợp : Tính yêu thích môn học QTH của sinh viên
: Phương pháp giảng dạy phù hợp : Tính tự giác học môn QTH của sinh viên
: Giảng viên giảng dạy nhiệt tình và tâm huyết : Phương pháp học tập của sinh viên
: Hình thức thi và kiểm tra hợp lý : Chi phí chi trả học phần QTH của sinh viên
: Đáp ứng tài liệu học tập : Áp lực từ nhiều phía của sinh viên
: Đáp ứng trang thiết bị trường học : Sinh viên lựa chọn ngành học
Bùi Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 189 - 193
191
Bảng 2: Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo
Nhân tố Trung bình thang
đo nếu loại biến
Phương sai thang đo
nếu loại biến
Tương quan
biến – tổng
Hệ số Cronbach’s
Alpha nếu loại biến
37,79 32,061 ,331 ,711
37,85 32,338 ,319 ,712
37,86 30,823 ,491 ,693
38,04 31,726 ,318 ,712
38,20 29,547 ,525 ,685
38,58 30,123 ,418 ,699
38,68 29,010 ,511 ,685
38,25 27,541 ,604 ,669
38,13 28,746 ,586 ,675
39,77 34,369 ,029 ,756
37,91 33,308 ,167 ,731
39,58 34,140 ,094 ,740
Hệ số Cronbachs’s Alpha 0,725
Nguồn: Kết quả kiểm định Cronbachs’s Alpha từ sô liệu điều tra
Bảng 3: Ma trận xoay các nhân tô
Nhân tố
1 2 3
,882
,783
,775
,853
,832
,675
,819
,770
,545
Nguồn: Kết quả phân tích nhân tô khám phá từ sô liệu điều tra
Dựa vào kết quả các hệ số có giá trị lớn trong
bảng ma trận tính điểm nhân tố trên, ta có
phương trình nhân tố sau:
Nhân tố 1, nhân tố “ Sự say mê học của sinh
viên” phần lớn được tác động bởi ba biến
quan sát (Tính tự giác học môn QTH của
sinh viên), (Tính yêu thích môn học QTH
của sinh viên), (Phương pháp học tập của
sinh viên). Các yếu tố này đều tác động thuận
chiều với nhân tố 1, trong đó yếu tố “ Tính tự
giác học của sinh viên” tác động mạnh nhất
đến yếu tố “Sự say mê học của sinh viên”.
= 0,404 +0,45 + 0,368
Nhân tố 2, nhân tố “ Trình độ chuyên môn
của giảng viên” phần lớn được tác động bởi
ba biến quan sát (Nội dung giảng dạy phù
hợp), (Phương pháp giảng dạy phù hợp),
(Giảng viên giảng dạy nhiệt tình và tâm
huyết). Các yếu tố này đều tác động thuận chiều
với nhân tố 2, trong đó yếu tố “ Phương pháp
giảng dạy phù hơp” tác động mạnh nhất đến
yếu tố “Trình độ chuyên môn của giảng viên”.
= 0,419 +0,441 + 0,287
Nhân tố 3, nhân tố “ Điều kiện học tập” phần
lớn được tác động bởi ba biến quan sát
(Hình thức thi và kiểm tra hợp lý), (Đáp
ứng tài liệu học tập), (Đáp ứng trang thiết
bị trường học). Các yếu tố này đều tác động
thuận chiều với nhân tố 3, trong đó yếu tố
“Đáp ưng tài liệu học tập” tác động mạnh
nhất đến yếu tố “Điều kiện học tập”.
= 0,319 +0,492 + 0,488
Kết quả phân tích hồi quy ở bảng 5 cho thấy,
hệ số hiệu chỉnh = 57,9% có nghĩa là
Bùi Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 189 - 193
192
57,9% sự biến thiên của kết quả học tập được
giải thích bởi các yếu tố đưa vào mô hình, còn
lại là các yếu tố khác chưa được nghiên cứu.
Hệ số Sig.F = 0,00 nhỏ hơn nhiều so với mức
ý nghĩa a = 5% nên mô hình hồi quy có ý
nghĩa, tức là các biến độc lập có ảnh hưởng
đến biến phụ thuộc Y. Bên cạnh đó, độ phóng
đại phương sai (VIF) của các biên trong mô
hình nhỏ hơn nhiều so với 10 nên ta có thể kết
luận các biến đưa vào mô hình không có hiện
tượng đa cộng tuyến. Kết quả phân tích trên
cho thấy, tất cả 3 biến đua vào mô hình đều
có ý nghĩa thống kê Sig. < 5%. Từ các kết quả
trên, phương trình hồi quy ước lượng các
nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập môn
Quản trị học của sinh viên Trường Đại học
KT & QTKD được thiết lập như sau:
Y = 1,263 + 0,234 + 0,198 + 0,248
Dựa vào phương trình hồi quy, ba biến đưa
vào mô hình đều có tương quan thuận với kết
quả học tập của sinh viên. Trong đó nhân tố
“sự say mê học tập của sinh viên” là yếu tố
có ảnh hưởng mạnh nhất (hệ số tương quan
chuẩn hóa Beta = 0,388). Cụ thể như sau:
- Khi sinh viên đánh giá nhân tố “say mê học
tập của sinh viên” tăng thêm 1 điểm thì kết
quả học tập của sinh viên tăng 0,234 điểm
(tương ứng với hệ số tương quan chưa được
chuẩn hóa là 0,234).
- Khi sinh viên đánh giá nhân tố “trình độ
chuyên môn của giảng viên” tăng thêm 1
điểm thì kết quả học tập của sinh viên tăng
0,198 điểm (tương ứng với hệ số tương quan
chưa được chuẩn hóa là 0,198)
- Khi sinh viên đánh giá nhân tố “điều kiện học
tập” tăng thêm 1 điểm thì kết quả học tập của
sinh viên tăng 0,248 điểm (tương ứng với hệ số
tương quan chưa được chuẩn hóa là 0,248)
Bảng 4: Ma trận tính điểm nhân tô
Nhân tố
1 2 3
,082 ,419 -,206
-,041 ,441 -,128
-,092 ,287 ,182
-,202 ,196 ,319
-,025 -,094 ,492
-,048 -,130 ,488
,404 -,024 -,121
,450 -,057 -,100
,368 -,029 -,030
Nguồn: Kết quả phân tích nhân tô khám phá từ sô liệu điều tra
Bảng 5: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính
Tên biến Hệ số B Hệ số Beta Sig. VIF
Hằng số 1,263 - ,000
,234 ,388 ,000 1,269
,198 ,239 ,000 1,14
,248 ,373 ,000 1,289
Hệ số Sig. của mô hình 0,000
Hệ số hiệu chỉnh 0,579
Nguồn: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính từ sô liệu điều tra
Bùi Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 189 - 193
193
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã xác định
3 nhân tố tác động đến kết quả học tập môn
Quản trị học của sinh viên Trường Đại học
KT & QTKD theo mức độ quan trọng là “say
mê học tập của sinh viên”, “điều kiện học
tập”, “trình độ chuyên môn của giảng viên”.
Kết quả nghiên cứu đã cung cấp một căn cứ
khoa học thực tiễn quý báu cho việc cải tiến
chất lượng giảng dạy học phần Quản trị học
của nhà trường. Cần phải phát huy hơn nữa
tính tự nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi của sinh
viên. Bên cạnh đó, giảng viên và nhà trường
đóng vai trò tạo môi trường học tập cho
sinh viên.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Chu Nguyễn Mộng Ngọc, Hoàng Trọng (2008),
“ Phân tích dữ liệu nghiên cưu với SPSS”, Nxb
Thống kê
2. Mai Văn Nam (2008), Kinh tế lượng
(Econometrics), Nxb Văn hóa thông tin
3. Nguyễn Đình Thọ (2011), Phương pháp nghiên
cứu khoa học trong kinh doanh, Nxb Lao động Xã
hội.
4. Hair,J.F., Black, W.C., Babin, B.J., Anderson,
R.E & Tatham, R.L. (2006). Multivariate data
analysis (6th edn). Pearson Prentice Hall.
SUMMARY
THE FACTORS AFFECTING THE STUDY OUTCOMES OFMANAGEMENT
COURSE OF STUDENTS AT THAI NGUYEN UNIVERSITY OF ECONOMICS
AND BUSINESS ADMINISTRATION
Bui Thi Thu Huong*, Do Dinh Long, Le Ngoc Nuong,
Dang Phi Truong, Ha Thi Hoa, Mai Viet Anh College of Economics and Business Administration – TNU
This study aims at identifying the factors affecting the study outcomes of Management Course of
students at Thai Nguyen University of Economics and Business Administration. Data from the
study were collected from the survey of 115 students who belong to various majors in Thai
Nguyen University of Economics and Business Administration. Data were processed by 20.0
SPSS statistic software, scale testing by Cronbach’s Alpha test, exploratory factor analysis (EFA)
and linear regession analysis. Research results showed that the factors affecting the study results
of students in Management course consist of “ the passion of students in studying”, “the quality of
academic teachers”, “the practice conditions”. Among them, “the passion of students in
studying”is the factor that has the most influence on the study quality in Management Course of
students at Thai Nguyen University of Business Administration.
Keywords: Factors affecting, study results, management, Thai Nguyen University of Economics
and Business Administration
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Gấm – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0946 800041, Email: [email protected]
Bùi Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 189 - 193
194
Trần Nhuận Kiên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 195 - 200
195
A COMPARATIVE STUDY ON THE IMPACTS OF TRADE EXPANSION
AND FDI ON EMPLOYMENT IN KOREA AND VIETNAM
Tran Nhuan Kien*
College of Economics and Business Administration – TNU
SUMMARY This paper compares the impacts of trade expansion and FDI on employment in the case of Korea
and Vietnam. In the case of Korea, it shows that outward direct investment corresponds positively
to employment. The role of exports and imports in employment generation has been changed in
that exports have been no longer a source a job creation while import intensity displaced domestic
jobs in recent years. In the case of Vietnam, it is found that there are export-induced efficiencies in
the use of labor in export sector. Regarding FDI inflows, it has positive impacts on employment in
the current period. However, it also promotes efficiencies and productivity as the lagged FDI
inflows has negative impacts on employment. Both regression models of Korea and Vietnam show
its robustness.
Key words: Employment, Trade, Foreign Direct Investment, GMM, Korea, Vietnam
INTRODUCTION*
This paper focuses on two major aspects of
globalization, international trade and FDI and
their impacts on manufacturing employment
in a comparative study between Korea and
Vietnam. In the Korea’s case, this paper
investigates the impacts of trade expansion
and FDI outflows on the generation of
employment. For Vietnam, it examines how
trade expansion and FDI inflows are
associated with the employment level.
Therefore, the focus of this study is on three
key questions: (1) What are the impacts of
trade expansion and FDI inflows on
employment in Korea and Vietnam? (2) How
do these impacts affect these economies
differently? (3) What policy implications do
these empirical results suggest?. Our
contribution to the existing literature is
twofold. This study incorporates both trade
and FDI into a single model. International
trade and FDI are closely linked with each
other. However, the international trade and
FDI have been separated in the analysis of
employment effects in the existing literature.
Second, this study uses a system GMM
estimator, which is more appropriate for a
short panel dataset than the static or first
differenced GMM estimator.
* Tel: 0976 626611, Email: [email protected]
MODEL SPECIFICATION
This study starts with the Cobb-Douglas
production function:
it it itQ A K N
(1)
where: i denotes industry; t denotes time; Q
represents real output; A represents total
factor productivity (TFP); K represents
capital stock; N represents units of labor
utilized; and denote factor share
coefficients; allows for growth in efficiency
in the production process.
Assuming that firms are profit-maximizing,
the marginal productivity of labor equals the
wage (w) and the marginal revenue product of
capital equals its real cost (C). Solving this
system simultaneously to eliminate capital
from the expression for firms' output yields
the following equation:
*it i
it it
N WQ A N
C
(2)
Taking logarithms to linearize and rearrange
the above equation provides the derivation of
the firms', and thus the industry’s, derived
demand for labor as:
0 1 2ln ln( ) ln
i
it it it
WN Q
C (3)
Trần Nhuận Kiên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 195 - 200
196
Where 0
( ln ln ln )
( )
A
;
1( )
;
2
1
( )
and it is a
disturbance term.
Regarding the total factor productivity (TFP),
A, one may expect that TFP of the production
process increases over time and that the rate
of technology adoption and the increases in x-
efficiency would be correlated with trade
expansion and FDI inflows via pressures of
competition in the international markets and
knowledge spillovers from FDI-funded
imports and other foreign contacts. In fact,
previous empirical studies (Greenaway et al.,
1999; Fu and Balasubramanyam, 2005) show
that exports, imports, and FDI inflows all
have impacts on the TFP. On the one hand,
existing studies focusing on the role of
exports and imports as sources of the impacts
of trade expansion on TFP conclude that both
exports and imports, by and large, enhance
productivity (Greenaway et al., 1999;
Hoekman and Winters, 2005). Regarding the
impacts of FDI on TFP, empirical evidences
indicate the positive effect of FDI on TFP (Fu
and Balasubramanyam, 2005). This can be
partly explained by the fact that the FDI
inflows are not only a source of capital, but
also a supplier of technology transfer.
Therefore, parameter A is hypothesized in the
production function, which varies with time
in the following manner:
0 31 2
0 1 2 3
,
, , , 0
iT
it it it itA e X M FDI
(4)
Where: T is time trend; X is export intensity
index of industry i in year t (measured by
export-output ratio); M is import penetration
index of industry i in year t {measured as a
share of apparent consumption (is measured
as domestic production + imports – exports)};
FDI is the inflows of foreign direct
investment of industry i in year t.
Therefore, the labor demand equation can be
derived from the combination of (3) and (4)
as follows:
*
0 0 1 2
3 1 2
ln ln ln
ln ln( ) ln
it it it
i
it it it
N T M X
WFDI Q
C
(5)
Where,*
0
(ln ln )
( )
;
( )
; 0 0 ; 1 1 ;
2 2 ; and 3 3
Many economic relationships are dynamic,
and one of the advantages of panel data is that
they allow researchers to understand the
dynamics of adjustment. To take adjustment
processes into account, time lags are also
introduced for the independent variables.
Following Greenaway et al. (1999) variation
in users' cost of capital (c) is captured by time
dummies in estimation by assuming perfect
capital markets; thus it varies only over time.
Explanatory variables are assumed to have
common impacts across industries. In order to
eliminate the industry specific effects and to
ensure that the two-year lag of level variables is
not correlated with error terms, the employment
equation (5) is differenced and a dynamic
employment equation is derived as follows.
ln ln00 ,
1
ln ln1 , 2 ,
0
,ln ln( )
3 , 10
ln2 ,
0
tN N
jit i t jj
t tX M
j i t j j i t jj j o
Wt t i t jFDI
j i t j j Cj o j t j
tQ
j i t j t itj
(6)
where indicates differences in variables’
transformation; for example,
, 1ln ln lnit it i tN N N .
Unlike the unobserved industry-specific
effects, time-specific effects are not
eliminated by the difference transformation of
variables. Equation (7) will be used to
estimate separately for each country.
Trần Nhuận Kiên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 195 - 200
197
ESTIMATION RESULTS AND DISCUSSIONS
Table 1. Korea’s System one-step GMM Estimation Results: 1991-1997
Independent Variables Specification 1 (Base model) Specification 2 (Full model)
Coefficient t-ratio Coefficient t-ratio
ln Nt-1 0.381 4.18*** 0.245 2.59**
ln (W/C)t 0.003 0.01 -0.071 -0.31
ln (W/C)t-1 0.077 0.47 -0.001 -0.01
ln Qt 0.041 0.24 0.141 0.71
ln Qt-1 0.243 3.41*** 0.374 5.78***
ln EXTENt 0.037 1.69
ln EXTENt-1 0.034 2.22**
ln IMPENt -0.037 -0.68
ln IMPENt 0.023 0.63
ln ODIt 0.011 1.98*
ln ODIt-1 0.008 1.03
Constant -0.021 -0.08 -0.127 -0.49
AR (1) p-value 0.051 0.064
AR (2) p-value 0.850 0.785
Instrument validity test (Sargan) 0.09 0.26
No. of groups 22 22
Total observation 110 110
Note: 1. The dependent variable is ln Nt
2. Coefficients on time dummies are not reported
3. ***, **, and * represent statistical significance at the 1%, 5%, and 10% level, respectively.
Table 2. Korea’s System one-step GMM Estimation Results: 1999-2006
Independent Variables Specification 1 (Base model) Specification 2 (Full model)
Coefficient t-ratio Coefficient t-ratio
ln Nt-1 0.151 1.28 0.150 1.44
ln (W/C)t -0.383 -8.33*** -0.265 -5.52***
ln (W/C)t-1 -0.086 -1.13 -0.146 -1.96*
ln Qt 0.437 10.13*** 0.496 10.08***
ln Qt-1 0.041 0.61 -0.015 -0.21
ln EXTENt 0.017 0.99
ln EXTENt-1 0.005 0.39
ln IMPENt 0.033 1.26
ln IMPENt -0.079 -2.41**
ln ODIt 0.014 3.18***
ln ODIt-1 0.004 1.39
Constant -0.159 -3.67*** -0.174 -4.40***
AR (1) p-value 0.002 0.002
AR (2) p-value 0.631 0.862
Instrument validity test (Sargan) 0.08 0.194
No. of groups 22 22
Total observation 132 132
Note: 1. The dependent variable is ln Nt
2. Coefficients on time dummies are not reported
3. ***, **, and * represent statistical significance at the 1%, 5%, and 10% level, respectively.
Trần Nhuận Kiên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 195 - 200
198
Tables 1 to 3 report the results of one-step
GMM estimations of Equation (7) for Korea
and Vietnam. Table 1 presents the result of
estimations for the sub-period of 1991-1997.
It is essential to highlight in this period that
exports are positively correlated with
employment whereas imports do not have
statistically significant impacts on
employment. It is argued that the major bulks
of manufacturing imports were machinery
and transport equipments, which were highly
intra-industry trade. Thus, imports were a
complementary to domestic productions thus
it did not necessarily have negative impacts
on employment. Regarding ODI, current
investment outflows are positively correlated
with employment at 10 percent significant level.
However, lagged investment outflows are
positive but statistically insignificant, indicating
that the positive impact is weak in this period
and that the positive impact is fade away.
The estimated coefficients for the post crisis
period are reported in Table 2. As compared
to the first period, wage and output behave
better in terms of statistical significance.
Also, the magnitude of the impacts is
stronger. It is noteworthy to witness the
changes in the effects of exports and imports
on employment. Exports are no longer
positively correlated with employment at the
conventional level of significance. On the
other hand, imports have negative impacts on
employment in this period. This means that
the growth of imports is negatively associated
with the employment, indicating that import
intensity will displace domestic job.
Concerning ODI, we find a positive impact of
investment outflows on employment at a 1%
statistical significance. The positive
employment effect of ODI was stronger in
this period as compared to the previous period
owning to the deepening of the market-
seeking investment.
Table 3. Vietnam’s System one-step GMM Estimation Results
Independent Variables
Specification 1
(Base model)
Specification 2
(Full model)
Coefficient t-ratio Coefficient t-ratio
ln Nt-1 -0.12384 -1.01 0.011 0.10
ln (W/C)t -0.35756 -4.18*** -0.331 -4.88***
ln (W/C)t-1 -0.33025 -3.69*** -0.296 -3.41***
ln Qt 0.58145 3.81*** 0.522 3.02***
ln Qt-1 0.54726 2.31** 0.417 1.70
ln EXTENt -0.007 -0.11
ln EXTENt-1 -0.038 -2.65**
ln IMPENt 0.016 0.51
ln IMPENt -0.039 -1.33
ln FDIt 0.007 2.00*
ln FDIt-1 -0.007 -2.61**
Constant -0.140 -1.35 -0.109 -1.18
AR (1) p-value 0.009 0.004
AR (2) p-value 0.296 0.673
Instrument validity test (Sargan) 0.004 0.01
No. of groups 22 22
Total observation 88 88
Note: 1. The dependent variable is ln Nt
2. Coefficients on time dummies are not reported
3. ***, **, and * represent statistical significance at the 1%, 5%, and 10% level, respectively.
Trần Nhuận Kiên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 195 - 200
199
In the case of Vietnam, the result of our base
specification shows that an increase in output
positively impacts labor demand; whereas a
rise in the wage decreases the employment
level. The lagged dependent variable’s
estimated coefficient is negative and
statistically insignificant, indicating that fast
growth in one year might reduce the growth
potential for the succeeding year. This result
is also consistent with a study on China by Fu
and Balasubramanyam (2004). In the panel 2
of Table 3, we incorporate three new
explanatory variables; namely, exports,
imports, and FDI. Again, the Sargan test for
instrumental validity is satisfied and the
Arellano–Bond test for the existence of
second–order correlation cannot reject the
null hypothesis that the residuals have no
second–order correlation. The introduction of
exports and imports as independent variables
into the regression equation did not change
the signs of the estimated coefficients of
industrial output or wage, reflecting the
robustness of the model. An increase in the
output will be followed by increasing labor
demand; whereas an increase in the wage
rate will lead to a decline in the
employment level, with statistical
significance at conventional levels.
The results of introducing exports and imports
into the base model are statistically
insignificant at conventional level for the
current estimated coefficients. However, the
lagged estimated coefficients of exports is
negative and statistically significant at 5%
level, indicating that there are export-induced
efficiencies in the use of labor in export sector
in the previous period. This result is in line
with the result of Greenaway etc. (1999) for the
UK. Regarding FDI inflows, it has positive
impacts on employment in the current period.
However, it also promotes efficiencies and
productivity as the lagged FDI inflows has
negative impacts on employment.
CONCLUSION
The empirical study on the impacts of trade
and FDI on employment in Korea and
Vietnam yields several notable results. In the
case of Korea, it shows that growth in current
output positively impacts employment;
whereas growth in current wage has a
negative effect on employment. The impacts
of output have been found to be stronger in
compared to wage on employment. Outward
direct investment corresponds positively to
employment which can be explained in a
number of ways such as the supervisory and
ancillary employment at home and the
demand stimulation by foreign subsidiaries
for domestically-produced intermediate
products. The role of exports and imports in
employment generation has been changed in
that exports have been no longer a source a
job creation while import intensity displaced
domestic jobs in recent years.
In the case of Vietnam, the result of our base
specification shows that an increase in output
positively impacts labor demand; whereas a
rise in the wage decreases the employment
level. The results of introducing exports and
imports into the base model are statistically
insignificant at conventional level for the
current estimated coefficients. However, it is
found that there are export-induced
efficiencies in the use of labor in export
sector. Regarding FDI inflows, it has positive
impacts on employment in the current period.
However, it also promotes efficiencies and
productivity as the lagged FDI inflows has
negative impacts on employment. Both
regression models of Korea and Vietnam
show its robustness.
REFERENCES 1. Fu, Xiaolan, and VN Balasubramanyam. 2005.
“Exports, Foreign Direct Investment and
Employment: The Case of China.” The World
Economy 28, no. 4: 607–25.
Trần Nhuận Kiên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 195 - 200
200
2. Greenaway, David, Robert Hine, and Peter
Wright. 1999. “An Empirical Assessment of the
Impact of Trade on Employment in the United
Kingdom.” European Journal of Political Economy
15, no. 2: 485–500.
3. Kien, Tran Nhuan, and Yoon Heo. 2009.
“Impacts of Trade Liberalization on Employment in
Vietnam: A System Generalized Method of
Moments Estimation.” The Developing Economies
47, no. 1: 81–103.
4. United Nations Conference on Trade and
Development. 2009. “Trade Analysis and
Information System (TRAINS).”
http://r0.unctad.org/ trains_new/index.shtm
(accessed March 09, 2009).
5. United Nations Statistics Division. 2009a.
“United Nations Commodity Trade Statistics
Database.” http://comtrade.un.org/db/default.aspx
(accessed March 15, 2009).
TÓM TẮT
NGHIÊN CỨU SO SÁNH ẢNH HƯỞNG CỦA THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN VIỆC LÀM TẠI HÀN QUÔC VÀ VIỆT NAM
Trần Nhuận Kiên* Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
Bài viết so sánh sự ảnh hưởng của thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài đến việc làm
giữa Hàn Quốc và Việt Nam. Đối với Hàn Quốc, kết quả nghiên cứu cho thấy đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài ảnh hưởng tích cực đến việc làm. Xuất khẩu làm mất việc làm trong giai đoạn 1991-
1997, tuy nhiên xuất khẩu lại không ảnh hưởng đến việc làm trong giai đoạn 1999-2006, ngược lại
nhập khẩu có tác động tiêu cực đến việc làm tại Hàn Quốc trong giai đoạn 1999-2006. Trong
trường hợp của Việt Nam, trễ của xuất khẩu ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm, trong khi đó đầu tư
trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng tích cực đến việc làm.
Từ khoá: Việc làm, Thương mại, Đầu tư trực tiếp nước ngoài, GMM, Hàn Quôc, Việt Nam
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:30/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đỗ Đình Long – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh -ĐHTN
* Tel: 0976 626611, Email: [email protected]
Nguyễn Khánh Doanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 201 - 206
201
TÁC ĐỘNG CỦA BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐÔI
VỚI XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA NHẬT BẢN:
PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG HAUSMAN -TAYLOR
Nguyễn Khánh Doanh*, Phạm Thùy Linh
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài viết sử dụng phương pháp ước lượng Hausman-Taylor để phân tích tác động của bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ đối với xuất khẩu của Nhật Bản. Các kết quả nghiên cứu có thể được tóm tắt như
sau: Thư nhất, việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài có tác động không rõ rệt
đối với xuất khẩu của Nhật Bản. Thư hai, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài có tác động
thúc đẩy (nhưng không có ý nghĩa thống kê) xuất khẩu của Nhật Bản sang nhóm nước có mức thu
nhập cao, nhưng có tác động làm giảm xuất khẩu của Nhật Bản sang nhóm nước có mức thu nhập
thấp. Đồng thời, tác động tiêu cực (nhưng không có ý nghĩa thống kê) của bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ ở nước ngoài được phát hiện trong trường hợp Nhật Bản xuất khẩu hàng hóa sang nhóm nước
có mức thu nhập trung bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các nỗ lực nhằm gia tăng quy mô
GDP, tăng cường tự do hóa thương mại tại các quốc gia nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu của Nhật Bản sang phần còn lại của thế giới.
Từ khóa: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, mô hình gravity, phương pháp ước lương Hausman-Taylor,
xuất khẩu, Nhật Bản.
GIỚI THIỆU*
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển
của nền kinh tế tri thức, bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ (IPRs) đang nổi lên là một vấn đề gây
nhiều tranh cãi và thu hút sự quan tâm của các
quốc gia trên thế giới tham gia vào thương
mại toàn cầu. Trên quan điểm của các nước
phát triển, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
không đầy đủ ở các nước đang phát triển đã
tạo nên một môi trường thương mại không
thuận lợi đối với các công ty đến từ các nước
phát triển do hành vi sao chép và bắt chước
sản phẩm của nhà sáng chế. Trong khi đó, các
nước đang phát triển lại cho rằng việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ một cách “lỏng lẻo”
không ảnh hưởng nhiều đến các nhà sản xuất
của các nước phát triển. Các quốc gia này lập
luận rằng việc tăng cường bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ chỉ tạo điều kiện cho các công ty
nước ngoài gặt hái lợi nhuận trên cơ sở thiệt
hại của các công ty trong nước, đồng thời hạn
chế triển vọng phát triển của các nước đang
phát triển.
* Tel: 0977 242268; Email: [email protected]
Trên phương diện lý thuyết, các phân tích
kinh tế chưa thể dự đoán một cách chính xác
được chiều hướng tác động của bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ đối với thương mại bởi lẽ việc
tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có thể
cùng một lúc tạo ra hai hiệu ứng. Một mặt,
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở quốc gia nhập
khẩu sẽ tạo cơ hội quốc gia xuất khẩu thực
hiện độc quyền. Quốc gia xuất khẩu có thể
giảm sản xuất và tăng giá hàng xuất khẩu.
Trong trường hợp này, xuất khẩu có thể sẽ
giảm xuống (hiệu ứng quyền lực thị trường).
Mặt khác, việc thực thi quyền bảo hộ sở hữu
trí tuệ ở quốc gia nhập khẩu sẽ hạn chế các công
ty trong nước sản xuất hàng giả, và do đó làm
tăng nhu cầu về hàng nhập khẩu từ nước ngoài.
Trong trường hợp này, nhập khẩu sẽ tăng lên
(tạo ra hiệu ứng mở rộng thị trường).
Cho đến nay, đã có khá nhiều nghiên cứu tập
trung phân tích tác động của bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đối với thương mại (Ferrantino,
1993; Seyoum, 1996; Smith, 1999; Smith,
2001; Rafiquzzaman, 2002; Fink và Primo-
Brage, 2005). Tuy nhiên, các kết quả nghiên
cứu thực nghiệm nói trên cũng chưa đưa ra
được kết luận cụ thể là liệu việc tăng cường
Nguyễn Khánh Doanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 201 - 206
202
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có tác động thúc
đẩy hay hạn chế thương mại hay không.
Chính vì vậy, tác động của bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đối với thương mại trên thực tế chỉ
có thể được đánh giá trên cơ sở nghiên cứu
từng trường hợp cụ thể.
Trong bài viết này, nhóm tác giả tập trung
phân tích tác động của bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ ở nước ngoài đối với xuất khẩu của Nhật
Bản. Để đáp ứng được mục tiêu trên, bài viết
tập trung vào những mục tiêu cụ thể sau đây:
Phân tích tác động của bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ ở các quốc gia nhập khẩu đối với xuất
khẩu hàng hóa của Nhật Bản.
Phân tích tác động của việc tăng cường bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các quốc gia nhập
khẩu phân theo trình độ phát triển kinh tế đối
với xuất khẩu hàng hóa của Nhật Bản.
Đề xuất một số gợi ý trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu.
Các phân tích trong bài viết này khác với
những nghiên cứu trước đây ở một số khía
cạnh sau: Một là, bài viết mang lại một hướng
tiếp cận toàn diện về mối quan hệ giữa bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ và xuất khẩu, nghiên cứu
trường hợp của Nhật Bản. Hai là, việc đánh
giá tác động của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đối với xuất khẩu được xem xét trên cơ sở sự
khác biệt giữa các quốc gia về trình độ phát
triển kinh tế. Ba là, bài viết sử dụng mô hình
số liệu hỗn hợp với phương pháp ước lượng
Hausman-Taylor.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô hình phân tích
Nhằm đánh giá tác động của bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đối với thương mại, nhóm tác giả
sử dụng mô hình gravity về thương mại quốc
tế. Đây là mô hình do Tinbergen (1962),
Linnemann (1966) và Poyhonen (1963) phát
triển và được áp dụng rộng rãi trong các công
trình nghiên cứu thực nghiệm (Anderson,
1979; Bergstrand, 1985; Falvey et al., 2009;
Wang et al., 2010). Nhằm mục đích ước
lượng, nhóm tác giả sử dụng mô hình gravity
sau đây:
lnEXijt =
β0+β1ln(GDPit*GDPjt)+β2ln(POPit*POPjt) +
β3lnDISTij + β4Landlockj + β5 Opennessjt +
β6IPRjt + eij (1)
Trong đó:
EXijt là giá trị xuất khẩu của quốc gia i (Nhật
Bản) sang quốc gia j (quốc gia nhập khẩu) tại
năm t;
GDPit là tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia
i (Nhật Bản) tại năm t;
GDPjt là tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia
j (quốc gia nhập khẩu) tại năm t;
POPit là dân số của quốc gia i (Nhật Bản) tại
năm t;
POPjt là dân số của quốc gia j (quốc gia nhập
khẩu) tại năm t;
DISTij là khoảng cách giữa thủ đô của quốc
gia i (Nhật Bản) và thủ đô của quốc gia j
(quốc gia nhập khẩu);
Landlockj là biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu
quốc gia j (quốc gia nhập khẩu) không giáp
biển, nhận giá trị bằng 0 nếu quốc gia j (quốc
gia nhập khẩu) giáp biển;
Opennessjt là độ mở thương mại của quốc gia
j (quốc gia nhập khẩu) tại năm t;
IPRj là chỉ số IPR của quốc gia j (quốc gia
nhập khẩu) tại năm t;
eijt là sai số.
Để phân tích tác động của việc tăng cường
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các quốc gia
nhập khẩu phân theo trình độ phát triển kinh
tế đối với xuất khẩu hàng hóa của Nhật Bản,
nhóm tác giả đã cho biến giả về trình độ phát
triển kinh tế tương tác với biến IPR. Vì vậy,
công thức (1) được viết lại như sau:
lnEXijt = β0+β1ln(GDPit*GDPjt)+
β2ln(POPit*POPjt) + β3lnDISTij + β4Landlockj
+ β5Opennessjt + β6IPR jt*D1 + β7IPR jt*D2 +
β8IPR jt*D3 + eijt (2)
Trong mô hình trên, D1 là biến giả, bằng 1
nếu quốc gia nhập khẩu thuộc nhóm nước có
mức thu nhập cao, bằng 0 trong trường hợp
quốc gia nhập khẩu không thuộc nhóm nước
có mức thu nhập cao; D2 là biến giả, bằng 1
Nguyễn Khánh Doanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 201 - 206
203
nếu quốc gia nhập khẩu thuộc nhóm nước có
mức thu nhập trung bình, bằng 0 trong trường
hợp quốc gia nhập khẩu không thuộc nhóm
nước có mức thu nhập trung bình; D3 là biến
giả, bằng 1 nếu quốc gia nhập khẩu thuộc
nhóm nước có thu nhập thấp, bằng 0 trong
trường hợp quốc gia nhập khẩu không thuộc
nhóm nước có mức thu nhập thấp.
Phương pháp ước lượng
Cho đến nay, mô hình hiệu ứng cố định hoặc
hiệu ứng ngẫu nhiên được sử dụng khá phổ
biến trong thực tế. Tuy nhiên, cả hai mô hình
này đều có hạn chế nhất định. Cụ thể, mô
hình hiệu ứng ngẫu nhiên giả định rằng không
có hiện tượng tương quan giữa các biến giải
thích và sai số, trong khi đó mô hình hiệu ứng
cố định lại loại bỏ những biến có giá trị không
thay đổi theo thời gian một cách mặc nhiên.
Do đó, Hausman và Taylor (1981) đã đưa ra
một phương pháp ước lượng để khắc phục
hạn chế của cả hai phương pháp nói trên.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng
phương pháp ước lượng Hausman-Taylor đối
với bộ số liệu hỗn hợp thu thập được.
Nguồn số liệu
Trong bài viết này, nhóm tác giả sử dụng số
liệu hỗn hợp gồm 108 quốc gia trong khoảng
thời gian 19 năm, từ năm 1995 đến năm 2013.
Số liệu về giá trị xuất khẩu, nhập khẩu được
thu thập từ bộ cơ sở dữ liệu UN Comtrade của
Liên Hiệp quốc. Số liệu về GDP và dân số
được trích từ bộ cơ sở dữ liệu của Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF). Số liệu về khoảng cách về mặt
địa lý giữa các quốc gia được thu thập từ địa
chỉ vi.thetimenow.com. Số liệu về chỉ số IPR
được thu thập từ tổ chức Heritage. Biến giả về
vị trí địa lý giáp biển của các quốc gia được
xây dựng dựa trên thông tin thu thập từ the
Economist Intelligence Unit. Các biến giả về
trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia phân
theo mức thu nhập được xây dựng căn cứ theo
phân loại của Diễn đàn Kinh tế Thế giới.
KẾT QUA NGHIÊN CỨU
Kết quả hồi quy theo phương pháp Hausman-
Taylor đối với phương trình (1) được trình
bày trong Bảng 1. Kết quả trong Bảng 1 cho
thấy GDP có tác động tích cực tới xuất khẩu
của Nhật Bản. Cụ thể, 1% tăng lên trong tích
số giữa GDP của Nhật Bản và GDP của nước
nhập khẩu làm tăng xuất khẩu của Nhật Bản
lên 0,803%.
Hệ số của biến giải thích lnPOPit*POPjt mang
giá trị âm và có ý nghĩa ở mức 0,01. Như
vậy, quy mô dân số có tác động nghịch chiều
tới xuất khẩu của Nhật Bản. Cụ thể, nếu tích
số giữa dân số của Nhật Bản và dân số của
nước nhập khẩu tăng lên 1% thì xuất khẩu của
Nhật Bản giảm 1,301%.
Khoảng cách giữa thủ đô của Nhật Bản và thủ
đô của nước nhập khẩu có tác động bất lợi tới
hoạt động xuất khẩu. Cụ thể, hệ số của biến
khoảng cách mang giá trị âm với mức ý nghĩa
0,05. Tương tự như vậy, vị trí không giáp
biển của quốc gia nhập khẩu là một rào cản
đối với xuất khẩu của Nhật Bản khi kết quả
hồi quy cho thấy hệ số của biến giả LOCKj
mang giá trị âm.
Biến OPENjt có hệ số dương và có ý nghĩa ở
mức 0,01. Điều này là phù hợp vì độ mở
thương mại có tác động tích cực tới xuất
khẩu. Cụ thể, 1% tăng lên về độ mở thương
mại của nước nhập khẩu làm xuất khẩu của
Nhật Bản tăng 0,928%.
Biến được quan tâm nhất trong mô hình - biến
IPR có hệ số dương, tuy nhiên không có ý
nghĩa về mặt thống kê. Vì vậy, kết quả này
cho thấy sự tác động không rõ rệt của việc
đẩy mạnh bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước
ngoài đối với xuất khẩu của Nhật Bản.
Để phân tích tác động của bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ở các quốc gia nhập khẩu với
những trình độ phát triển kinh tế khác nhau,
tác giả đã cho biến giả về trình độ phát triển
kinh tế tương tác với biến IPR. Kết quả hồi
quy theo phương pháp Hausman-Taylor đối
với phương trình (2) được trình bày trong
Bảng 2.
Nguyễn Khánh Doanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 201 - 206
204
Theo Bảng 2, hệ số của các biến GDP, dân số,
khoảng cách và độ mở của nền kinh tế mang
dấu như kỳ vọng và có ý nghĩa thống kê. Tuy
nhiên, đối với biến IPR, kết quả ước lượng
thay đổi tùy theo trình độ phát triển kinh tế
của nước nhập khẩu. Đối với nhóm nước có
mức thu nhập cao, ước lượng mang giá trị
dương nhưng không có ý nghĩa thống kê. Vì
vậy, giá trị dương của các ước lượng phản
ánh tác động không rõ rệt của bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ tới xuất khẩu của Nhật Bản
sang nhóm nước này. Ngược lại, đối với
nhóm nước có mức thu nhập trung bình, hệ số
của biến IPR*D2 mang giá trị âm nhưng
không có ý nghĩa thống kê. Điều này chứng tỏ
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài có
tác động không rõ rệt đối với xuất khẩu của
Nhật Bản sang nhóm nước có mức thu nhập
trung bình. Ngược lại, đối với nhóm nước có
mức thu nhập thấp, sự gia tăng bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ làm giảm xuất khẩu của Nhật
Bản. Cụ thể, với mức ý nghĩa 0,01, nếu chỉ số
IPR ở các nước thuộc nhóm nước có mức thu
nhập thấp tăng 1% thì xuất khẩu của Nhật
Bản giảm 0,004%. Kết quả này khẳng định sự
chi phối của hiệu ứng quyền lực thị trường
khi Nhật Bản xuất khẩu hàng hóa sang nhóm
nước có mức thu nhập thấp.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã sử
dụng mô hình gravity để xem xét tác động
của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với xuất
khẩu của Nhật Bản. Kết quả ước lượng theo
phương pháp Hausman-Taylor cho thấy
những vấn đề sau:
Thư nhất, khi xem xét tác động của bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ đối với các quốc gia nói
chung, hệ số của biến IPR mang dấu dương
nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả
này cho thấy, sự tăng cường bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ở nước ngoài có tác động không rõ
rệt đối với xuất khẩu hàng hóa của Nhật Bản.
Bảng 1. Kết quả hồi quy theo phương pháp Hausman-Taylor
Biến giải thích Hệ số Kiểm định z Xác suất
Hệ số chặn -14,960**
-3,64 0,000
ln(GDPit*GDPjt) 0,803**
32,68 0,000
ln(POPit*POPjt) -1,301**
-10,45 0,000
lnDISTij -1,881*
-2,17 0,030
Landlockj -1,817* -2,18 0,029
Opennessjt 0,928**
9,46 0,000
IPRjt 0,001 1,01 0,315
Nguồn: Tính toán của tác giả.
Ghi chú: * Mưc ý nghĩa 0,05; ** Mưc ý nghĩa 0,01.
Bảng 2. Kết quả hồi quy theo phương pháp Hausman-Taylor
– Phân theo trình độ phát triển kinh tế Biến giải thích Hệ số Kiểm định z Xác suất
Hệ số chặn 13,570** -3,38 0,001
ln(GDPit *GDPjt) 0,767** 29,03 0,000
ln(POPit* POPjt) -1,359** -11,30 0,000
lnDISTij -1,902* -2,24 0,025
Landlockj -1,810 -2,15 0,032
Opennessjt 0,891** 9,01 0,000
IPRjt*D1 0,001 0,91 0,364
IPRjt*D2 -0,001 -0,93 0,354
IPRjt*D3 -0,004** -2,93 0,003
Nguồn: Tính toán của tác giả.
Ghi chú: * Mưc ý nghĩa 0,05; ** Mưc ý nghĩa 0,01
Nguyễn Khánh Doanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 201 - 206
205
Thư hai, để phân tích tác động của việc tăng
cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các quốc
gia nhập khẩu phân theo trình độ phát triển
kinh tế đối với xuất khẩu hàng hóa của Nhật
Bản, nhóm tác giả đã cho biến giả về trình độ
phát triển kinh tế tương tác với biến IPR. Kết
quả ước lượng cho thấy, việc đẩy mạnh bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nhóm nước có mức
thu nhập cao có tác động tích cực (nhưng
không có ý nghĩa thống kê) đối với xuất khẩu
của Nhật Bản. Đối với nhóm nước có mức thu
nhập trung bình, sự gia tăng bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ở nước nhập khẩu làm giảm
(nhưng không có ý nghĩa thống kê) xuất khẩu
của Nhật Bản. Trong trường hợp nhóm nước có
thu nhập thấp, 1% tăng lên về chỉ số IPR dẫn tới
0,004% sụt giảm trong xuất khẩu của Nhật Bản.
Như vậy, hiệu ứng quyền lực thị trường đã chi
phối khi nhóm nước có mức thu nhập thấp gia
tăng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Trong trường hợp của Nhật Bản, kết quả
nghiên cứu cho thấy, các nỗ lực nhằm gia
tăng quy mô GDP, tăng cường mở cửa
thương mại tại các quốc gia nhập khẩu đóng
vai trò cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu của
Nhật Bản sang phần còn lại của thế giới. Đặc
biệt các nỗ lực này cần được thực hiện tích
cực hơn đối với nhóm nước có mức thu nhập
thấp để hạn chế tác động tiêu cực của hiệu
ứng quyền lực thị trường.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Anderson, J. E. (1979), A Theoretical for the
Gravity Equation, The American Economic
Review 69 (1): 106-116.
2. Bergstrand, J. H. (1985), The Gravity Equation
in International Trade: Some Microeconomic
Foundations and Empirical Evidence, The Review
of Economics and Statistics 67 (3): 474-481.
3. Falvey, R., Foster, N. và Greenaway, D. (2009),
Trade, Imitative Ability and Intellectual Property
Rights, Review of World Economics 145: 373-404.
4. Ferrantino, M. J. (1993), The Effect of
Intellectual Property Rights on International Trade
and Investment, Weltwirtschaftliches Archiv 129
(2): 300-331. 5. Fink, C., và Primo-Braga, C. A. (2005), How
Stronger Protection of Intellectual Property Rights
Affects International Trade Flows, Intellectual
Property and Development: Lessons from Recent
Economic Research, eds. Fink, C. and Maskus, K.
E., 19-40, Washington, D. C., The International
Bank for Reconstruction and Development/ The
World Bank.
6. Hausman, J. và Taylor, W. (1981), Panel Data
and Unobservable Individual Effects,
Econometrica 49 (6): 1377-1398.
7. Linnemann, H. (1966), An Econometric Study
of International Trade Flows, Amsterdam: North-
Holland.
8. Poyhonen, P. (1963), An Alternative Model for
the Volume of Trade between Countries,
Weltwirtschaftliches Archiv 90: 93-99.
9. Rafiquzzaman, M. (2002), The Impact of Patent
Rights on International Trade: Evidence from
Canada, Canadian Journal of Economics 35 (2):
307-330.
10. Seyoum, B. (1996), The Impact of Intellectual
Property Rights on Foreign Direct Investment,
Columbia Journal of World Business 31: 51-59.
11. Smith, P. J. (1999), Are Weak Patent Rights a
Barrier to US Exports?, Journal of International
Economics 48: 151-177.
12. Smith, P. J. (2001), How do Foreign Patent
Right Affect U.S. Exports, Affiliate Sales, and
Licenses?, Journal of International Economics 55:
411-439.
13. Tinbergen, J. (1962), Shaping the World
Economy: Suggestions for an International
Economic Policy, New York: The Twentieth
Century Fund.
14. Wang, C., Wei, Y. và Liu, X. (2010),
Determinants of Bilateral Trade Flows in OECD
Countries: Evidence from Gravity Panel Data
Models, The World Economy 33 (7): 894-915.
Nguyễn Khánh Doanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 201 - 206
206
SUMMARY
IMPACTS OF INTELLECTUAL PROPERTY RIGHTS PROTECTION ON
JAPAN’S COMMODITY EXPORTS: A HAUSMAN -TAYLOR APPROACH
Nguyen Khanh Doanh*, Pham Thuy Linh College of Economics and Business Administration - TNU
This study uses the Hausman-Taylor analysis to analyze the impacts of intellectual property rights
protection on Japan’s commodity exports. The major findings of the paper are summarized as
follows: First, in general, stronger protection of intellectual property rights in foreign countries has
no statistically significant effect on Japan’s commodity exports. Second, increased protection of
intellectual property rights in foreign countries generates positive (but statistically significant)
effects on Japan’s commodity exports to high – income countries, however, has negative effects on
Japan’s commodity exports to low - income countries. In addition, stronger protection of
intellectual property rights in foreign countries generates negative (but statistically insignificant)
effects on Japan’s commodity exports to middle – income countries. The findings have
implications for increasing GDP, and accelerating trade openness in importing countries so as to
boost Japan’s commodity exports to the rest of the world.
Keywords: intellectual property rights protection, gravity model, Hausman-Taylor estimator,
exports, Japan
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Nhuận Kiên – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
*Tel: 0977 242268; Email: [email protected]
Nguyễn Quang Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 207 – 212
12
207
CẢI CÁCH CHẾ ĐỘ PHÊ DUYỆT HÀNH CHÍNH HOA KỲ VÀ TRUNG QUÔC -
MỘT SÔ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM
Nguyễn Quang Hợp*, Tạ Việt Anh, Nguyễn Thị Phương Thúy Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Cải cách nền hành chính nhà nước nói chung và cải cách chế độ phê duyệt hành chính nói riêng là
nhiệm vụ quan trọng đối với mọi quốc gia, để tạo ra động lực cho phát triển kinh tế xã hội. Hoa Kỳ
và Trung Quốc là hai cường quốc số một và số hai thế giới về kinh tế. Những thành công của hai
quốc gia này có sự đóng góp rất lớn của cải cách nền hành chính nhà nước. Bài viết này chủ yếu
tổng kết những kinh nghiệm của hai nước trong thực hiện cải cách quy trình phê duyệt hành chính,
từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Từ khóa: Cải cách, phê duyệt, hành chính, Hoa Kỳ, Trung Quôc
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Kể từ sau đổi mới (1986) đến nay, Việt Nam
luôn xác định cải cách nền hành chính nhà
nước là nhiệm vụ quan trọng. Ở Việt Nam
khái niệm hành chính công chỉ thực sự xuất
hiện sau khi đã thực hiện chuyển đổi mô hình
quản lý từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nền hành chính Việt Nam là nền
hành chính vừa vận hành, vừa tìm tòi học hỏi
và rút kinh nghiệm. Vì vậy, cải cách chế độ
phê duyệt hành chính cũng là quá trình vừa
làm, vừa học hỏi, vừa rút kinh nghiệm. Trải
qua gần 30 năm vận hành, cải cách và hoàn
thiện, nhưng nền hành chính vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của phát
triển kinh tế xã hội. Do đó, việc học hỏi
những kinh nghiệm thực tế từ bên ngoài, nhất
là từ các nước đã thực hiện thành công về cải
cách hành chính là rất quan trọng. Qua đó,
giúp cho Việt Nam định hướng cũng như thực
hiện tốt hơn công cuộc cải cách của mình.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập thông tin
Các thông tin tài liệu sử dụng chủ yếu trong
bài báo này là các báo cáo, các tài liệu thứ cấp
đã công bố của các tác giả nghiên cứu trước
đó. Các tài liệu này được thu thập qua các tạp
chí, sách báo và mạng thông tin tri thức Trung
Quốc (CNKI).
* Tel: 0913 033551, Email: [email protected]
Phương pháp phân tích thông tin
Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phương
pháp so sánh để phân tích tài liệu. Tác giả
trên cơ sở nghiên cứu những bài học kinh
nghiệm của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó
đưa ra những gợi ý cho Việt Nam trong việc
thực hiện cải cách chế độ phê duyệt hành
chính nhà nước.
CAI CÁCH QUY TRÌNH PHÊ DUYỆT
HANH CHÍNH CỦA HOA KỲ
Bối cảnh cải cách quy trình phê duyệt hành
chính của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện kiểm soát nền kinh
tế từ khoảng thế kỷ 19. Đầu tiên là từ lĩnh vực
đường sắt và dần dần được thực hiện đến các
lĩnh vực khác. Các thể chế hành chính đặc
biệt được thiết lập trên căn cứ pháp luật và
các yêu cầu về mọi mặt của hoạt động kinh tế,
để tiến hành kiểm soát nền kinh tế. Vào
những năm 70 của thế kỷ 20, hoạt động quản
lý của Chính phủ Hoa Kỳ đối với các hành vi
của cá nhân, hoạt động kinh tế của các doanh
nghiệp cũng như hoạt động của các cơ quan
chính phủ đã đạt đến cao trào. Rất nhiều học
giả và chính trị gia cho rằng, quá nhiều quản
chế sẽ ảnh hưởng đến tự do của doanh nghiệp
và cá nhân, ảnh hưởng đến tinh thần của nhà
doanh nghiệp; quá nhiều quản chế thường hy
sinh lợi ích xã hội, bảo hộ lợi ích của giới
lũng đoạn, bảo hộ lợi ích nhóm; quá nhiều
quản chế không phù hợp với tinh thần của
Nguyễn Quang Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 207 – 212
208
pháp trị; quá nhiều quản chế sẽ hạn chế động
lực phát triển kinh tế của Hoa Kỳ [1]. Dưới
tác động của lý luận “nới lỏng quản lý”, bắt
đầu từ những năm 70, chính phủ Hoa Kỳ tiến
hành cải cách, nới lỏng các quy định. Các thủ
tục hành chính được cắt giảm với quy mô lớn,
tiến hành từng bước đơn giản quy trình phê
duyệt. Quá trình cải cách này đã xuất hiện
một số hiệu ứng tiêu cực, nhưng tổng thể mà
nói, hiệu quả của nó thì rất rõ ràng. Những năm
90 của thế kỉ 20, nền kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục
phát triển cao độ. Trong đó “nới lỏng quản lý”,
cải cách chế độ phê duyệt hành chính là một
trong những tác nhân quan trọng.
Từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ cho thấy, khi
Chính phủ tham gia quản lý quá nhiều, các
thủ tục hành chính phiền hà, phức tạp sẽ
không có lợi cho phát triển kinh tế. Nhưng
cũng không thể nói, Chính phủ quản lý càng ít
càng tốt và tốt nhất là không quản lý gì cả. Ở
đây chỉ có thể nói, Chính phủ tham gia quản
lý một cách phù hợp, các thủ tục hành chính
gọn nhẹ, hiệu quả, thì có thể giải phóng được
sức sản xuất, đồng thời có thể hạn chế những
hành vi không phù hợp với luật pháp trong
lĩnh vực kinh tế.
Phương thức thực hiện cải cách quy trình
phê duyệt hành chính của Hoa Kỳ
Thư nhất, mạnh dạn thực hiện phân quyền
trong phê duyệt hành chính. Để giải quyết
tình trạng Chính phủ tham gia quản lý quá
nhiều, đầu tiên Chính phủ thực hiện cắt giảm
quy mô lớn các thủ tục hành chính, sau đó
tiến hành ủy thác một số phê duyệt hành
chính cho thị trưởng và các tổ chức xã hội
nghề nghiệp đảm nhận.
Thư hai, tập trung vào phân tích chi phí - hiệu
quả của phê duyệt hành chính. Trong quá
trình xây dựng các thủ tục hành chính, Chính
phủ Hoa Kỳ đặc biệt nhấn mạnh đến phân
tích giá thành và hiệu quả, lấy đó làm một
trong các tiêu chuẩn.
Thư ba, phân phối hợp lý, điều chỉnh phê
duyệt hành chính. Với mục tiêu tạo ra sự
tương tác hợp lý giữa hoạt động hành pháp và
thị trường, trong quá trình cải cách, Hoa Kỳ
không tiến hành cắt giảm thủ tục hành chính
một cách mù quáng, mà thực hiện “có giảm
có tăng”. Một mặt, Chính phủ bãi bỏ có chọn
lọc những quy định không phù hợp, mặt khác
xây dựng các quy định mới để quản lý những
mặt còn khiếm khuyết của thị trường, qua đó
thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh.
Bôn là, căn cứ vào trình tự pháp luật để xây
dựng thủ tục hành chính, dựa vào luật pháp để
chuẩn hóa các hành vi phê duyệt hành chính.
Năm là, chuẩn hóa quy trình phê duyệt, bảo
đảm việc phê duyệt được công khai, công
bằng và công chính. Chính phủ Hoa Kỳ xây
dựng chế độ công khai thông tin của Chính
phủ, chế độ lắng nghe ý kiến của người dân,
cơ chế giải thích rõ lý do ban hành thủ tục
hành chính [2].
Những thành công trong cải cách quy trình
phê duyệt hành chính của Hoa Kỳ
Việc nước Mỹ nới lỏng chế độ quản lý nền
kinh tế đạt được những thành tựu xã hội đáng
kể: Thứ nhất, chi phí của các doanh nghiệp về
cơ bản đã giảm, đặc biệt là trong ngành hàng
không, chứng khoán, xe tải, điện tín, đường
sắt vv… Thứ hai, nhiều dịch vụ chăm sóc
khách hàng đã có bước phát triển nhảy vọt,
đáp ứng được yêu cầu của khách hàng về giá
cả và chất lượng sản phẩm. Thứ ba, chất
lượng dịch vụ không những không bị giảm
sút mà còn không ngừng được nâng cao. Thứ
tư, lợi nhuận các doanh nghiệp không ngừng
được tăng lên. Do áp lực của tính cạnh tranh,
các doanh nghiệp đã cắt giảm nhân viên, đồng
nghĩa với việc giảm tải các chi phí. Bên cạnh
đó, việc cắt giảm các cơ chế quản lý đã tạo cơ
hội cho các doanh nghiệp có thêm cơ hội mở
rộng phạm vi đầu tư và kinh doanh thêm các
lĩnh vực khác, tài sản và các nguồn tài nguyên
được khai thác và sử dụng hiệu quả hơn, các
doanh nghiệp nâng cao tổng thu nhập một
cách đáng kể.
Nguyễn Quang Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 207 – 212
12
209
CAI CÁCH QUY TRÌNH THỦ TỤC HANH
CHÍNH CỦA TRUNG QUỐC
Bối cảnh cải cách quy trình phê duyệt hành
chính của Trung Quốc
Tại Trung Quốc, chế độ phê duyệt hành chính
hình thành từ đầu những năm 50 của thế kỷ
20, là sản phẩm của chế độ kinh tế kế hoạch.
Rõ ràng chế độ này đã phát huy tác dụng tích
cực trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế
Trung Quốc. Tuy nhiên, cùng với sự thành
lập nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
mức độ thị trường hóa không ngừng nâng
cao, làm cho chế độ phê duyệt hành chính bộc
lộ nhiều nhược điểm, khó có thể đáp ứng nhu
cầu mới của sự phát triển kinh tế trong và
ngoài nước. Ví dụ, phạm vi phê chuẩn hành
chính quá rộng, quy trình phê chuẩn hành
chính quá rườm rà và phức tạp, tiêu chí phê
chuẩn thậm chí không có quy tắc rõ ràng và
nhiều vấn đề khác. Do đó, ngày 27/08/2003
tại kỳ họp thứ IV Ủy ban Thường vụ của Đại
hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ X đã
thông qua “Luật cấp phép hành chính của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”. Tháng 8
năm 2008, cuộc họp đầu tiên được tổ chức tại
Bắc Kinh về công tác cải cách chế độ phê
chuẩn hành chính của Quốc vụ viện với các
Bộ trưởng đã được diễn ra. Tại cuộc họp, các
thành viên đã xem xét thông qua vấn đề: “Đối
với ý kiến về tiếp tục đi sâu thúc đẩy công tác
cải cách chế độ phê chuẩn hành chính”[3],
xác định rõ ràng thúc đẩy hơn nữa mục tiêu
tổng thể và tư tưởng của cải cách chế độ phê
chuẩn hành chính, đề xuất thúc đẩy hơn nữa
yêu cầu cụ thể công việc và nhiệm vụ chủ yếu
của công cuộc cải cách chế độ phê chuẩn
hành chính.
Các giai đoạn của cải cách phê duyệt hành
chính Trung Quốc
Công cuộc cải cách chế độ phê chuẩn hành chính
Trung Quốc có thể chia làm bốn giai đoạn:
Giai đoạn một, từ những năm 70 của thế kỷ
20 cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ 20.
Trọng tâm cải cách ở giai đoạn này gồm 2
nhiệm vụ chính. Thứ nhất là vực dậy doanh
nghiệp. Nội dung chính triển khai ở giai đoạn
này là Chính phủ trao quyền cho doanh
nghiệp. Đặc trưng của nó là tách nhiệm vụ
quản lý nhà nước với quản lý hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai là
huy động sự tích cực của địa phương. Chính
quyền Trung ương tiến hành trao quyền cho
chính quyền địa phương, điều chỉnh quyền
phê duyệt hành chính của chính phủ Trung
ương theo hướng trước kia tất cả do Trung
ương phê duyệt thì nay phân cấp cho chính
quyền địa phương thực hiện.
Giai đoạn hai, từ năm 1992 đến năm 1997.
Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề rõ
việc thiết lập mục tiêu của hệ thống kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa. Với mục tiêu đó đòi
hỏi Chính phủ phải làm rõ vai trò của hệ
thống kinh tế thị trường. Nội dung là phải căn
cứ vào yêu cầu của hệ thống kinh tế thị
trường để thực hiện cải cách như tăng khả
năng kiểm soát vĩ mô, tăng chức năng quản lý
xã hội, giảm việc phê duyệt cụ thể đối với
doanh nghiệp. Làm cho doanh nghiệp thích
ứng với các đòi hỏi của thị trường, tự chủ
kinh doanh hợp pháp, tự chủ tài chính, tự chủ
phát triển, tự điều tiết sản xuất… Thiết lập địa
vị pháp nhân của doanh nghiệp, trao trả quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiêp.
Năm 1993 ban hành “ Luật Công ty”, đại đa
số doanh nghiệp nhà nước từng bước chuyển
thành công ty trách nhiệm hữu hạn. Đặc trưng
cải cách giai đoạn này là hợp lý hóa các mối
quan hệ giữa Chính phủ và Doanh nghiệp.
Giai đoạn ba, từ năm 1998 đến năm 2001.
Cuộc cải cách ở giai đoạn này bắt đầu từ đặc
khu kinh tế Thâm Quyến và các đặc khu khác.
Năm 1998, Thành phố Thâm Quyến ban hành
“Phương án cải cách chế độ phê duyệt hành
chính của thành phố Thâm Quyến” để xác
định các nguyên tắc cơ bản và các biện pháp
cụ thểthực hiện cải cách chế độ phê duyệt
hành chính một cách toàn diện. Một số tỉnh
khác cũng thực hiện ngay sau đó. Trọng tâm
cải cách giai đoạn này là đơn giản hóa các hạng
mục phê duyệt hành chính, xây dựng quy chuẩn
của trình tự phê duyệt, quy định thời hạn phê
Nguyễn Quang Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 207 – 212
210
duyệt, công khai nội dung phê duyệt và thành
lập hệ thống dịch vụ hành chính…
Giai đoạn thứ tư, từ 2001 đến nay. Để giải
quyết mẫu thuẫn giữa cơ chế thị trường ngày
càng phát triển với phương thức phê duyệt
hành chính không còn phù hợp. Công cuộc
cải cách toàn diện chế độ phê duyệt hành
chính đã được đưa vào chương trình nghị sự
của Chính phủ. Tháng 9 năm 2001, Quốc vụ
viện Trung Quốc đã thành lập tổ lãnh đạo
công tác cải cách chế độ phê duyệt hành
chính nhằm thúc đẩy toàn diện công cuộc cải
cách. Cùng trong năm đó, Trung Quốc chính
thức gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế,
điều này đã có tác động trực tiếp đến chế độ
phê duyệt hành chính ban đầu. Đặc điểm chủ
yếu của giai đoạn này là chú trọng đến nghiên
cứu lý luận, lấy sáng kiến đổi mới chế độ phê
duyệt làm mục tiêu chủ yếu của cải cách. Từ
01/7/2004 thực thi “Luật cấp phép hành
chính” nhằm đưa chế độ phê duyệt hành
chính của Trung Quốc hướng tới tiêu chí
trọng tâm là chế độ hóa, quy phạm hóa và
pháp trị hóa.
Những thành công của cải cách quy trình
phê duyệt hành chính của Trung Quốc
Trong quá trình cải cách, chế độ phê duyệt
hành chính Trung Quốc đã đạt được những
tiến bộ sau:
Thư nhất, số lượng hạng mục phê duyệt giảm
đáng kể. Tính đến 5/2004, Quốc vụ viện trong
ba lần tuyên bố đã hủy bỏ được 1806 hạng
mục phê duyệt hành chính, chiếm 50,1% tổng
số hạng mục. Phân cấp quản lý cho cấp dưới
46 hạng mục. Đệ trình Ủy ban Thường vụ
Quốc hội sửa đổi 9 điều luật bất hợp lý, bãi
bỏ 7 hạng mục phê duyệt hành chính, thay đổi
phương thức quản lý 2 hạng mục... Thông qua
cắt giảm hạng mục phê duyệt đã có, kiềm chế
phát sinh phê duyệt hạng mục mới, đã làm
cho tổng số hạng mục phê duyệt hành chính
của Trung Quốc giảm đáng kể.
Thư hai, đã có sự chuyển biến chức năng
Chính phủ. Cùng với việc điều chỉnh, sửa đổi
các hạng mục phê duyệt, trao lại cho doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ
chức trung gian những hạng mục phê duyệt
mà Chính phủ không cần thiết phải đảm nhận,
đã tác động cơ bản đến việc phân phối các
nguồn lực trong cơ chế thị trường, tạo ra sự
chuyển biến trong chức năng của Chính phủ.
Hiện nay, vai trò của Chính phủ trên thực tế
đã khắc phục được những hiện tượng như
“việt vị”, “sai vị trí”, “thiếu vị trí”.
Thư ba, trong vận hành phương thức phê
duyệt hành chính đã có những sáng kiến trọng
điểm. Chính quyền địa phương nhiều nơi đã
thành lập trung tâm dịch vụ phê duyệt hành
chính, có nơi gọi là trung tâm dịch vụ hành
chính. Ngoài ra, chính quyền địa phương đã
mạnh dạn thúc đẩy phương thức phê duyệt
điện tử, phát triển phê duyệt trên mạng. Đa
phần các bộ ban ngành và chính quyền các
địa phương trong công cuộc cải cách phê
duyệt hành chính đã thiết lập chế độ cam kết
dịch vụ và chế độ công khai các hạng mục
phê duyệt, hướng tới công khai cho xã hội các
chứng cứ của phê duyệt hành chính của hạng
mục, tiêu chí phê duyệt, trình tự thủ tục phê
duyệt, thời hạn phê duyệt, tinh thần và ý thức
phục vụ. Thực hiện triệt để từ ý thức “Quyền
lực” hướng tới “Quyền hạn và trách nhiệm
thực thi lời hứa, đồng thời để xã hội giám
sát”. Cách làm này đã thu được thành quả
nhất định” [3].
Thư tư, công cuộc kiến thiết chế độ phê duyệt
mới đã thu được thành tựu quan trọng. “Luật
cấp phép hành chính” đã được ban hành và
thu được tiến bộ đáng kể. Đồng thời, văn
phòng tổ lãnh đạo cải cách chế độ phê duyệt
hành chính Quốc vụ viện đã xây dựng “Ý
kiến về cải cách chế độ phê duyệt hành
chính”, “Một số câu hỏi về thực hiện năm
nguyên tắc triệt để cần nắm vững của cải cách
chế độ phê chuẩn hành chính”, “Ý kiến về
làm tốt công tác xử lý và giám sát hạng mục
phê duyệt”, “Ý kiến về làm tốt công tác phê
duyệt hành chính sau khi điều chỉnh”, “Ý kiến
thúc đẩy hơn nữa của công cuộc cải cách chế
độ phê duyệt hành chính”… cùng với 30 quy
Nguyễn Quang Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 207 – 212
12
211
định chính sách và các văn kiện liên quan.
Xác định rõ ràng nguyên tắc chỉ đạo công
cuộc cải cách. Ý tưởng cơ bản đó là mục tiêu
công việc và chu toàn trong phương pháp, đối
với các vấn đề trọng yếu liên quan luôn đề ra
phương pháp giải quyết cụ thể, phát huy tác
dụng tiêu chí và chỉ đạo trọng tâm của tiến
trình cải cách.
MỘT SỐ BAI HỌC KINH NGHIỆM CHO
CAI CÁCH QUY TRÌNH PHÊ DUYỆT
HANH CHÍNH CHO VIỆT NAM
Từ nghiên cứu những bài học kinh nghiệm
trong cải các quy trình phê duyệt hành chính
của Hoa Kỳ và Trung Quốc, tác giả đã rút ra
một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
như sau:
Thư nhất, cải cách quy trình phê duyệt hành
chính phải được thực hiện đồng bộ từ Trung
ương đến địa phương. Trung ương thống nhất
chỉ đạo về mục tiêu và hình thức thực hiện, các
địa phương căn cứ vào sự chỉ đạo của Trung
ương để xây dựng chương trình hành động và
có gắn với điều kiện thực tế của địa phương.
Thư hai, tăng cường tính khoa học trong lập
kế hoạch và quyết sách về phê duyệt hành
chính.Trong quá trình cải cách cần phải được
thực hiện trên cơ sở khoa học, có sự tham gia
của các chuyên gia, các nhà khoa học.
Thư ba, cải cách quy trình phê duyệt hành
chính phải được tiến hành trên cơ sở pháp
luật. Cải cách quy trình phê duyệt hành chính
không phải là hành vi “tự điều chỉnh” đơn
thuần của các cơ quan hành chính. Đối với
mục tiêu, phạm vi, phương thức của cải cách
đều phải lấy pháp luật để chuẩn hóa, điều
chỉnh và giám sát. Ngoài ra, để cải cách và
hoàn thiện chế độ phê duyệt hành chính, cũng
cần thiết phải hoàn thiện chế độ pháp luật.
Thư tư, phát huy vai trò của các tổ chức trung
gian. Chính phủ không thể thực hiện được tất
cả các khâu của quản lý xã hội và kinh tế. Do
đó, cần phải xây dựng và kiện toàn các tổ
chức xã hội trung gian, để các tổ chức xã hội
và nghề nghiệp này đảm nhận một bộ phận
của chức năng quản lý xã hội, từng bước thực
hiện chuyển biến chức năng của Chính phủ.
Thư năm, tích cực thực hiện rà soát, điều
chỉnh, cắt giảm thủ tục hành chính, nghiên
cứu xây dựng các mô hình phê duyệt hành
chính phù hợp hiệu quả. Quá trình rà soát này
không chỉ là việc cắt giảm thủ tục hành chính,
điều quan trọng nhất là phải tìm ra những thủ
tục rườm rà không hợp lý để có thể điều
chỉnh, loại bỏ hoặc bổ sung các quy định mới
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.
TAI LIỆU THAM KHAO
1. Mao Thọ Long. So sánh cải cách chế độ phê
duyệt hành chính Trung – Mỹ. Tư vấn quyết sách
An Huy. 2001. Trang 18
2. Ô Húc Đông, Lí Vinh. Cải cách chế độ phê
duyệt hành chính Hoa Kỳ và gợi ý cho Trung
Quốc. Tập san khoa học – Trường Đại học phát
thanh truyền hình An Huy. 2008. Kì I
3. Tôn Thọ Sơn. Một vài suy nghĩ đối với cải cách
chế độ phê duyệt hành chính. Tập san khoa học
Học viện hành chính quốc gia. 2009. Trang 4-8
Nguyễn Quang Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 207 – 212
212
SUMMARY
REFORM OF THE ADMINISTRATIVE APPROVAL PROCESS IN THE
UNITED STATES AND CHINA SOME SUGGESTIONS FOR VIETNAM
Nguyen Quang Hop*, Ta Viet Anh, Nguyen Thi Phuong Thuy College of Economics and Business Administration - TNU
Reforming of the public administration in general and the administrative approval regime in
particular is an important task for all countries to create motivation for social and economic
development. The United States and China have been ranked the first and the second in the world
in terms of economic growth. The reform of state administration has made a great contribution to
the success of these two countries. This paper mainly summarizes the experiences of the two
countries in the reform implementation of the administrative approval process, from which some
lessons have been drawn for Vietnam.
Key words: Reform, approval, administration, USA, China
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đàm Thanh Thủy – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0913 033551, Email: [email protected]
Ngô Thị Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 213 – 217
12
213
CHUÔI CUNG ỨNG MẶT HÀNG CHÈ THÁI NGUYÊN -
NHỮNG TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ
Ngô Thị Hương Giang*
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Cây chè là một trong những cây cây công nghiệp chủ lực, có lợi thế trong nền kinh tế thị trường, là
cây xoá đói giảm nghèo và làm giàu của nông dân Thái Nguyên. Mặt hàng “chè Thái Nguyên” đã
trở thành một thương hiệu nổi tiếng không những trong nước mà cả với nước ngoài. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây hoạt của chuỗi cung ứng mặt hàng chè Thái Nguyên vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập từ khâu cung cấp cho đến khâu tiêu thụ do đó đã làm giảm hiệu quả trong kinh
doanh mặt hàng chè Thái Nguyên, làm giảm khả năng cạnh tranh của mặt hàng chè Thái Nguyên
trên thị trường trong nước và nước ngoài. Để giải quyết vấn đề này cần phải nhìn nhận các vấn đề
còn tồn tại trong các khâu của chuỗi cung ứng mặt hàng chè Thái Nguyên.
Từ khóa: Chè, chuỗi cung ưng chè, chè Thái Nguyên, mặt hàng chè Thái Nguyên, khuyến nghị
cho mặt hàng chè Thái Nguyên
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu và rộng
hiện nay đã đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng
đem lại không ít những thách thức, khó khăn
cho các mặt hàng nông sản của Việt Nam nói
chung và mặt hàng chè Thái Nguyên nói
riêng. Các yêu cầu về chất lượng, an toàn vệ
sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, giảm
chi phí... ngày càng đòi hỏi ở mức độ cao
hơn. Để đáp ứng được các yêu cầu này thì
phát triển chuỗi cung ứng chính là một trong
những giải pháp hữu hiệu vì chuỗi cung ứng
là một tập hợp các liên kết chặt chẽ của các
tác nhân trong chuỗi với nhau nhằm quản lý
các luồng hàng hóa (dịch vụ) và giá trị gia
tăng của chuỗi nông nghiệp từ đó cung cấp
cho khách hàng tốt hơn với chi phí thấp nhất
có thể.[1]
NHỮNG KẾT QUA ĐẠT ĐƯỢC TRONG
SAN XUẤT KINH DOANH MẶT HANG
CHÈ THÁI NGUYÊN
Được thiên nhiên ưu đãi về đất đai, điều kiện
khí hậu và thời tiết hết sức thích hợp cho việc
phát triển cây chè, do đó cây chè đã trở thành
cây công nghiệp chủ lực, có lợi thế trong nền
kinh tế thị trường, là cây xoá đói giảm nghèo
và làm giàu của nông dân Thái Nguyên.
* Tel: 0915 215959; Email: [email protected]
“Chè Thái Nguyên” đã trở thành một thương
hiệu nổi tiếng không những trong nước mà cả
với nước ngoài. Hiện nay, Thái Nguyên là
vùng chè trọng điểm của cả nước, đứng thứ 2
sau tỉnh Lâm Đồng với diện tích chè của tỉnh
có hơn 19.100 ha, trong đó có hơn 17.000 ha
chè kinh doanh, năng suất đạt 110,97 tạ/ha,
sản lượng đạt hơn 190 nghìn tấn. Cho đến nay
tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều chính sách hỗ
trợ, đầu tư toàn diện cho phát triển cho ngành
chè từ khâu cung cấp giống, ứng dụng khoa
học kỹ thuật cho sản xuất đến khâu chế biến
đã làm cho diện tích, sản lượng, năng suất và
chất lượng tăng đều hàng năm góp phần làm
gia tăng giá trị sản xuất của chè cho giá trị sản
xuất nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên (bảng
1). Bên cạnh đó, mặt hàng chè Thái Nguyên
đã xây dựng được nhãn hiệu Chè Thái
Nguyên và các thương hiệu: Chè Tân Cương,
chè La Bằng, chè Trại Cài,…nổi tiếng trong
nước và xuất khẩu. [7]
NHỮNG TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CHUỖI CUNG ỨNG MẶT HANG
CHÈ THÁI NGUYÊN
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể
trong hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng
chè Thái Nguyên, tuy nhiên chuỗi cung ứng
mặt hàng chè Thái Nguyên còn có nhiều vấn
đề tồn tại ở các khâu, cụ thể:
Ngô Thị Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 213 – 217
214
Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lương và GTSX bình quân của chè Thái Nguyên năm 2010-2013
STT Chỉ tiêu ĐVT 2011 2012 2013 So sánh
2012/2011
So sánh
2013/2012
Giá trị % Giá trị %
1 Diện tích trồng
chè
ha 18.138 18.605 19.141 467 2,57 536 2,88
2 Diện tích chè thu
hoạch
ha 16.648 16.968 17.291 320 1,92 323 1,90
3 Sản lượng chè
búp tươi
tấn 181.024 184.886 191.878 3.862 2,13 6.992 3,78
4 Năng suất chè
búp tươi
tấn/ha 10,87 10,9 11,097 0,03 0,28 0,197 1,81
5 GTSX bq Tr.đồng/
ha
82 83 91 1 1,22 8 9,64
6 Xuất khẩu Tấn 6.926 7.023 8.100 94 1,36 1.077 15,3
Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Thái Nguyên (2014)
1) Khâu sản xuất: Là vùng chè nổi tiếng của
cả nước nhưng trên thực tế người trồng chè
Thái Nguyên chưa tận dụng hết lợi thế của
mình. Việc trồng chè chủ yếu là theo hướng
hộ cá thể với diện tích trồng chè còn manh
mún, nhỏ lẻ, chất lượng chè không đồng đều
do giống chè và kỹ thuật canh tác của từng hộ
khác nhau. Đối với chè thu hoạch được do
không có điều kiện để bảo quản và giữ chè
trong một thời gian dài vì vậy phải bán ngay
kể cả khi không được giá. Chưa có sự liên kết
chặt chẽ giữa các hộ sản xuất với các DN chế
biến. Nhiều hộ chưa tuân thủ theo các tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn trong qúa trình sản xuất
và chế biến chè. Các hộ nông dân trồng chè
thì luôn phải lo lắng với hiện trạng được mùa
rớt giá, doanh nghiệp chế biến thì nguồn
nguyên liệu không ổn định cả về chất lượng
và giá cả. [3]
2) Khâu chế biến: Chế biến chè chủ yếu được
thực hiện theo phương pháp thủ công là
chính. Năm 2013, phương pháp chế biến này
chế biến khoảng 124.700 tấn chè búp tươi
chiếm khoảng 65% tổng sản lượng chè búp
của tỉnh Thái Nguyên. Chế biến công nghiệp
còn ít chủ yếu là ở các DN chế biến chè chỉ
đạt khoảng 67.160 tấn chiếm khoảng 35%
tổng sản lượng chè búp tươi và được thực
hiện chủ yếu đối với các sản phẩm chè xanh
và sản phẩm chè đen để xuất khẩu. Hoạt động
chế biến chè bằng phương pháp thủ công với
phần lớn là máy móc thiết bị thô sơ, lạc hậu.
Còn các dây chuyền thiết bị của hầu hết các
doanh nghiệp thiếu đồng bộ, đơn giản, chưa
được đổi mới, sản phẩm chè chưa đa dạng,
mẫu đơn giản. Các DN chưa thực sự chủ động
về nguyên liệu đầu vào, chất lượng nguyên
liệu đầu vào còn chưa ổn định. Chi phí
nguyên liệu cao, công suất sản xuất thấp vì
không đủ nguyên liệu. [8]
3) Khâu tiêu thụ: Trong những năm qua mặt
hàng chè Thái Nguyên được tiêu thụ chủ yếu
là trong nước, năm 2013 tiêu thụ trong nước
chiếm khoảng 80% chủ yếu là chè xanh được
chế biến bằng phương pháp thủ công. (Bảng
2) Chè tiêu thụ trong nước được bán với giá
khá ổn định tuy nhiên đa phần là với mức giá
thấp chưa tương xứng với thương hiệu nổi
tiếng cả nước của chè Thái Nguyên. Giá chè
xanh ổn định, trung bình từ 150.000 - 300.000
đ/kg chè búp khô tùy theo thời vụ và vùng sản
xuất. Chỉ có một lượng nhỏ của một số vùng
chè đặc sản như Tân Cương, Phúc Xuân - TP
Thái nguyên; La Bằng - Đại Từ; Trại Cài -
Đồng Hỷ... mặt hàng chè cao cấp mới có giá
trị cao từ 600.000 - 2.500.000 đ/kg chè búp
khô. Sản phẩm chè xuất khẩu với sản lượng
xuất khẩu còn thấp chỉ chiếm khoảng hơn
20% tổng lượng chè, không chủ động được
thị trường đặc biệt là thị trường nước ngoài,
thiếu sản phẩm cao cấp và hệ thống quản lý
chất lượng chè đồng bộ, giá chè xuất khẩu
còn thấp, cụ thể: Chè đen từ 2,0 - 2,2
USD/kg; chè Nhật (Sen- tra) 3,2 USD/kg; chè
xanh Việt Nam 2,8 USD/kg. Trong khi đó,
giá chè xuất khẩu trung bình của Ấn Độ đạt
4,3 USD/kg, Trung Quốc đạt 3,23USD/kg;
Sri Lanka đạt 4,4USD/kg;…
Ngô Thị Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 213 – 217
12
215
Bảng 2: Tình hình tiêu thụ mặt hàng chè Thái Nguyên năm 2009-2013
Năm Tổng số
(Tấn)
Nội địa Xuất khẩu
Số lượng (tấn) % Số lượng
(tấn)
%
2009 31.813,2 25.648,2 80,6 6.165 19,4
2010 34.379,8 27.941,8 81,27 6.438 18,73
2011 36.204,8 29.278,8 80,87 6.926 19,13
2012 36.977,2 29.954,2 81 7.023 19
2013 38.375,6 30.275,6 78,9 8.100 21,1
Nguồn: Niên giám thông kê tỉnh Thái Nguyên(2013) và tính toán của tác giả
Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong
các khâu của chuỗi cung ứng mặt hàng chè
Thái Nguyên?
Thư nhất, diện tích sản xuất chè của nhiều hộ
còn nhỏ do công tác quy hoạch và xây dựng
kế hoạch phát triển cây chè trong nhiều năm
trước đây thả nổi, thiếu quy hoạch và kế
hoạch cụ thể cho từng địa phương trong tỉnh.
Trình độ lao động ở các hộ sản xuất thấp.
Thiếu vốn cho hoạt động sản xuất, thiếu các
thông tin cả đầu vào và đầu ra, đặc biệt là
thông tin thị trường đầu ra.
Thư hai, các doanh nghiệp chế biến và tiêu
thụ chè ở Thái Nguyên hiện nay, chỉ đầu tư
vào khâu chế biến mà không liên kết với các
hộ trồng chè, nên tính chủ động về nguyên
liệu chế biến là rất thấp. Bên cạnh đó hệ
thống máy móc thiết bị, dây chuyền chế biến
chè ở các doanh nghiệp hầu hết là công nghệ
cũ của Trung Quốc, Đài Loan hay Liên Xô
cũ, Việt Nam. Các doanh nghiệp còn gặp
những khó khăn về vốn: quy mô vốn nhỏ và
khó khăn trong vay vốn vì vậy việc đầu tư các
dây chuyền công nghệ hiện đại còn chưa cao
và chưa có hiệu quả.
Thư ba, mối liên kết dọc trong các khâu chưa
có hoặc nếu có thì rất ít và chưa chặt chẽ. Mối
liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, tiêu
thụ và người trồng nguyên liệu chưa bền
vững. Dẫn đến trong vùng nguyên liệu vẫn
xảy ra hiện tượng “tranh mua, tranh bán” giữa
các doanh nghiệp và giữa các hộ trồng chè
khi sản lượng, giá cả trên thị trường chè có
biến động. Mối liên kết giữa các doanh
nghiệp, giữa doanh nghiệp với các cơ quan
nhà nước, Hiệp hội chè chưa thực sự gắn bó
hỗ trợ lẫn nhau trong cung cấp thông tin, đề
xuất, kiến nghị, tuyên truyền quảng bá, v.v....
Thư tư, hệ thống thông tin thị trường còn
kém, chưa được cập nhật thường xuyên và
không phổ biến rộng rãi và sự chia sẻ thông
tin giữa các tác nhân trong chuỗi là rất ít và
thiếu do đó ảnh hưởng nhiều đến hoạt động
sản xuất, chế biến và tiêu thụ mặt hàng chè
Thái Nguyên.
MỘT SỐ CÁC KHUYẾN NGHỊ ĐỂ GIAI
QUYẾT NHỮNG TỒN TẠI CỦA CHUỖI
CUNG ỨNG MẶT HANG CHÈ THÁI
NGUYÊN
1) Các nhà quản lý của doanh nghiệp chế
biến mặt hàng chè Thái Nguyên phải thay
đổi cách thức quản lý chuỗi cung ứng mặt
hàng chè. Chuỗi cung ứng mặt hàng chè Thái
Nguyên chưa kết nối giữa các thành viên một
cách có hệ thống và ít tốn kém nhất, và chưa
được nhìn nhận như một hệ thống cung ứng
cho nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp
với phương pháp chế biến công nghiệp,
nguồn lực về lao động, tài chính mạnh nhất
trong các tác nhân trong chuỗi cung ứng, có
thể tạo ra những mặt hàng có giá trị cao và
xuất khẩu, do đó sẽ đóng vai trò khởi xướng
và nắm vai trò chủ đạo trong chuỗi cung ứng
mặt hàng chè Thái Nguyên.
2) Xây dựng được cơ chế hoạt động cho
chuỗi cung ứng mặt hàng chè Thái Nguyên.
Dựa trên những đặc điểm của hoạt động sản
xuất kinh doanh mặt hàng chè Thái Nguyên
từ đó xác định được đặc điểm và quy trình
hoạt động cho chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó,
đặc biệt quan trọng đó là xây dựng được cơ
chế liên kết cho các thành viên trong chuỗi
Ngô Thị Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 213 – 217
216
đặc biệt là liên kết giữa nhà cung cấp với hộ
trồng chè, giữa hộ trồng chè với doanh nghiệp
chế biến và liên kết giữa doanh nghiệp chế
biến với nhà phân phối.
3) Áp dụng và đầu tư vào hệ thống công
nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động sản
xuất kinh doanh mặt hàng chè Thái
Nguyên. Sự hoàn hảo của hệ thống CNTT sẽ
hỗ trợ cho sự hoàn hảo chuỗi cung ứng thông
qua việc đảm bảo dòng chảy thông tin thông
suốt, điều này dẫn đến các quyết định trong
chuỗi cung ứng chính xác hơn. Ví dụ như:
Xây dựng hệ thống trang Web địa phương về
cung ứng mặt hàng chè Thái Nguyên. Cũng
như các mặt hàng trên thị trường khác hiện
nay các mặt hàng nông sản cũng được thực
hiện mua bán online. Qua các hệ thống online
như thế này thì việc gặp gỡ giữa cung và cầu
về mặt hàng chè được thực hiện một cách dễ
dàng và hiệu quả hơn. Người nông dân trồng
chè có thể rao bán sản phẩm của mình như
chè tươi, chè búp khô và những người có nhu
cầu cũng có thể đặt mua. Đặc biệt là mặt hàng
chè tươi cũng giống như các mặt hàng nông
sản khác là mặt hàng ngắn ngày do đó việc
thực hiện trang web để phục vụ tại địa
phương sẽ làm cho các thương vụ mua bán
trở nên thuận lợi hơn.
4) Tăng cường vai trò của Hiệp hội chè Thái
Nguyên. Ở Việt Nam, vai trò của các hiệp hội
ngành nghề nói chung và Hiệp hội chè Thái
Nguyên nói riêng rất mờ nhạt, chỉ mang tính
hình thức. Các thành viên tham gia vào Hiệp
hội không được lợi ích gì, cũng không bị
trừng phạt gì khi vi phạm các nguyên tắc đã
được đề ra. Đó là do thiếu những quy định
luật pháp phù hợp cho việc xây dựng và phát
triển các hiệp hội nói chung. Nhà nước phải
điều chỉnh các chính sách để tạo điều kiện
phát triển hiệp hội ngành nghề. Hiệp hội có
thể điều tiết được mức sản lượng bán ra trên
thị trường để tối đa hóa lợi nhuận cho người
nông dân và kiểm soát được chất lượng sản
phẩm đầu ra để có thể đáp ứng được tiêu
chuẩn của các thị trường khó tính. Bên cạnh
đó, trong Hiệp hội chè tỉnh Thái Nguyên có
thể thành lập các bộ phận hỗ trợ cho ngành
chè Thái Nguyên như:
- Bộ phận xúc tiến thương mại: Chịu trách
nhiệm xúc tiến thương mại chè Thái Nguyên
trong và ngoài nước. Những hoạt động xúc
tiến của bộ phận này có thể phân thành 3
nhóm chính: Các hoạt động xúc tiến chung,
các hoạt động xúc tiến ở một thị trường cụ
thể, xúc tiến nhãn hiệu chè Thái Nguyên,
thông qua: Cung cấp các thông tin thị trường
cập nhật, xuất bản các bản tin hai tháng một
lần, cung cấp các tài liệu xúc tiến, sách quảng
cáo... về chè Thái Nguyên. Hỗ trợ những nhà
xuất khẩu chè Thái Nguyên: tham gia hội chợ
thực phẩm và đồ uống quốc tế; Xúc tiến nhãn
hiệu chè của họ và tiếp xúc với khách hàng
nước ngoài. Giúp đỡ giải quyết tranh chấp
giữa những nhà xuất khẩu và nhập khẩu chè.
Duy trì một số cửa hàng bán chè Thái Nguyên
chất lượng cao. Tư vấn cho các nhà xuất khẩu
về hoạt động marketing chè ở nước ngoài.
- Trung tâm thông tin thị trường: Phổ biến
các thông tin liên quan về chè của ngành chè
trong nước và trên thế giới. Duy trì trang web
địa phương về cung ứng mặt hàng chè Thái
Nguyên, chủ trì xuất bản những bản tin thống
kê hàng năm về chè Thái Nguyên.
- Bộ phận thử chè: Cấp quyền sử dụng nhãn
hiệu đối với chè Thái Nguyên. Bộ phận này
sẽ đăng ký nhãn hiệu chè Thái Nguyên tại các
thị trường nước ngoài. Tổ chức các buổi đào
tạo về phương pháp thử và pha trộn chè cho
các nhân viên bán hàng.
5) Nâng cao vai trò quan trọng của tỉnh
Thái Nguyên trong hoạt động của chuỗi
cung ứng chè thông qua: các chính sách vĩ
mô như thuế, hỗ trợ vay vốn, chuyển giao
khoa học kỹ thuật. Chuyển đổi ngành chè
theo hướng công nghiệp hoá và tăng cường
cho công nghiệp sản xuất chè với các biện
pháp cụ thể như: Hỗ trợ và phát triển các
vùng chuyên canh về chè, các hộ sản xuất
chè,… Đẩy nhanh quá trình tiêu chuẩn hóa,
sản xuất theo quy mô. Khuyến khích phát
triển các cơ quan dịch vụ trung gian. Quy
Ngô Thị Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 213 – 217
12
217
định rõ ràng về sự quản lý của các bộ ban
ngành trong chuỗi cung ứng chè cho từng
khâu của chuỗi: trồng, chế biến, phân phối và
thị trường.
Hiện nay chuỗi cung ứng đã đóng một vai trò
quan trọng trong chiến lược phát triển của các
doanh nghiệp, các ngành hàng và các quốc
gia. Như vậy, giải quyết các vấn đề tồn tại của
chuỗi cung ứng mặt hàng chè Thái Nguyên là
rất cấp thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh
cho mặt hàng chè Thái Nguyên, cho sự tồn
tồn tại và phát triển của ngành chè Thái
Nguyên. Để giải quyết các vấn đề tồn tại cho
chuỗi cung ứng cho mặt hàng chè Thái
Nguyên cần phải có sự nỗ lực của tất cả các
thành viên trong đó với vai trò chủ đạo là các
doanh nghiệp chế biến chè trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên. Phát huy vai trò của hiệp hội
chè Thái Nguyên. Bên cạnh đó, cần phải có
các chính sách sự hỗ trợ từ UBND tỉnh Thái
Nguyên trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ
mặt hàng chè.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. Henk Folkerts, Hans Koehorst (1998),
Challenges in international food supply chains:
vertical co-ordination in the European
agribusiness and food industries, British Food
Journal, Vol. 100 Iss: 8, pp.385
2. Lê Bình (2013), “Phát triển chuỗi cung ứng
nông nghiệp mang lại nhiều lợi ích”.
3. Nguyễn Thị Ngà (2006), Sản xuất chè của Sri
Lanka, Bản tin chè Thái Nguyên, số 2 tháng 9 năm
2006, tr. 18
4. Nguyễn Thị Ngà (2013), Tổng quan về ngành chè
Thái Nguyên, Hội Thảo Nâng cao năng lực cạnh
tranh sản phẩm chè trong các HTX, Tổ hợp tác.
5. Niêm giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2013
6. PGS.TS. Đinh Văn Thành (2010), Kinh nghiệm
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của mặt hàng
nông sản, NxbThanh Niên
7. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái
Nguyên (2014), Báo cáo kết quả 3 năm thực hiện Đề
án nâng cao năng lực sản xuất, chế biến, tiêu thụ chè
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-2015.
8. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Thái Nguyên (2012),Quy hoạch vùng nông nghiệp
chè an toàn tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020
9. Thu Hà (2013), “Tăng cường chuỗi cung ứng -
đòn bẩy nông nghiệp”, Viện khoa học kỹ thuật
nông nghiệp Miền Nam.
SUMMARY
THAI NGUYEN TEA SUPPLY CHAIN –
LIMITATIONS AND RECOMMENDATIONS
Ngo Thi Huong Giang* College of Economics and Business Administration - TNU
Tea tree is one of the mainstay industry crops, it makes an advantage in market economy, it also
helps Thai Nguyen famers to eliminate hunger and reduce poverty and getting rich. “Thai Nguyen
tea” commodity has become a famous brand not only in Viet Nam but also all over the world.
However, in recent years, the operation of Thai Nguyen tea supply chain exist many shortcomings
from supply to consumption process, this is the reason why Thai Nguyen tea product is reduced
effect in business and the competition of Thai Nguyen Tea was decreased in domestic and
international market. In order to solve this problem, we have to acknowledge problems that have
been limited in the processes of Thai Nguyen tea products supply chain.
Keywords: Tea, tea supply chain, Thai Nguyen Tea, Thai Nguyen tea product, recommendations
for Thai Nguyen tea products
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:03/9/201; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Quang Huy – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0915 215959; Email: [email protected]
THREEMEROMORPHICMAPPINGSFROM Cm INTO PN (C)SHARE 2N + 1 HYPERPLANES
Nguyen Viet Phuong
Thai Nguyen University of Economics and Business Administration
ABSTRACT
Inthisarticle,usingtechniquesofNevanlinnatheory,weproveadegeneracytheoremforthreelinearlynon-degeneratemeromorphicmappingsfrom Cm into PN (C), shar-ing 2N+1 hyperplanesingeneralposition,countedwithmultiplicitiestruncatedby2(withthealgebraicstructurein PN (C)×PN (C)×PN (C) givenbySegreembeddinginto P(N+1)3−1(C)).
Keywords: Hyperplane, value distribution, uniqueness theorem, meromor-phic mapping, general position.
1 INTRODUCTION
In 1926, R. Nevanlinna showed that for twononconstant meromorphic functions f andg on the complex plane C, if they have thesame inverse images for five distinct values,then f = g, and that g is a special type of alinear fractional tranformation of f if theyhave the same inverse images, counted withmultiplicities, for four distinct values. In1975, H. Fujimoto generalized Nevanlinna’sresult to the case of meromorphic mappingsof C into PN (C). This problem continuedto be studied by H. Fujimoto, L. Smiley,S. Ji, Z. Ye, G. Dethloff - T. V. Tan andothers. Let f be a meromorphic mappingof Cm into PN (C) and H be a hyperplanein PN (C) such that imf * H. Take q hy-perplanes H1, . . . ,Hq in PN (C) in generalposition witha) dim(f−1(Hi)∩ f−1(Hi)) ≤ m− 2 for all1 ≤ i < j ≤ q.For each positive integer p, denote byG(f, {Hj}qj=1, p) the set of all linearly non-degenerate meromorphic mappings g of Cm
into PN (C) such thatb) min{ν(g,Hj), p} = min{ν(f,Hj), p}, for1 ≤ j ≤ q,c) g = f on
⋃qj=1 f
−1(Hj).Denote by ]S the cardinality of the set S.In 1988, S.Ji [3] showed the following.Theorem A. If N ≥ 2, then for three map-pings g1, g2, g3 ∈ G(f, {Hj}3N+1
j=1 , 1), the
mapping g1 × g2 × g3 : Cm → PN (C) ×PN (C)×PN (C) is algebraically degenerate.In 1998, H. Fujimoto [2] obtained.Theorem B. If q ≥ 2N + 2 and takearbitrary N + 2 meromorphic mappingsg1, . . . , gN+2 in G(f, {Hj}qj=1,
N(N+1)2 +
N), then there are N + 1 hyperplanesHj0 , . . . ,HjN among Hj’s such that foreach pair (i, k) with 0 ≤ i < k ≤ N, 2 ≤t ≤ N + 2,
(gt,Hji )
(gt,Hjk ) −(g1,Hji )
(g1,Hjk )are linearly
dependent.Recently, Chen and Yan [7] showed.Theorem C. Take arbitrary three map-pings g1, g2, g3 ∈ G(f, {Hj}2N+2
j=1 , 2). Then,
the mapping g1 × g2 × g3 is linearly degen-erate .
0*Tel: 0977615535, e-mail: [email protected]
In this paper, by a different approach, weextend Theorem C to the case where thenumber q = 2N + 2 is in fact replaced bya smaller one. Let f be a linearly nonde-generate meromorphic mapping of Cm intoPN (C) with reduced representation f =(f0 : . . . : fN ). Let p be a positive inte-ger and let H1, ...,Hq be q hyperplanes inPN (C) located in general position with
dim(f−1(Hi) ∩ f−1(Hi)) ≤ m− 2
for all 1 ≤ i < j ≤ q. Denote byF(f, {Hj}qj=1, p) the set of all linearly non-degenerate meromorphic mappings g of Cminto PN (C) with reduced representationg = (g0 : . . . : gN ) satisfying the condi-tionsa) min{υ(g,Hj), p} = min{υ(f,Hj), p}, for1 ≤ j ≤ q,b) Zero(fj) ∩ f−1(Hi) = Zero(gj) ∩f−1(Hi), for all 1 ≤ i ≤ q, 0 ≤ j ≤ N,c) Dα
(fkfs
)= Dα
(gkgs
)on
(⋃qj=1 f
−1(Hj))\(Zero(fs)) for all
|α| < p, 0 ≤ k 6= s ≤ N.
Our main result are stated as follows.Main Theorem. Take arbitrary threemappings f1, f2, f3 in F(f, {Hj}2N+1
j=1 , 2)
for N ≥ 3. Then, the mapping f1×f2×f3
is linearly degenerate (with the algebraicstructure in PN (C)×PN (C)×PN (C) givenby Segre embedding into P(N+1)3−1(C)).
2 SOMEPREPARATIONS
For z = (z1, . . . , zm) ∈ Cm, we set ‖ z ‖=(|z1|2 + . . .+ |zm|2)1/2. Define B(r) = {z ∈Cm| ‖ z ‖< r}, S(r) = {z ∈ Cm| ‖ z ‖= r},dc = 1
4π√−1
(∂ − ∂), ν = (ddc ‖ z ‖2)m−1,
and σ = dc log ‖ z ‖2 ∧(ddc log ‖ z ‖2)m−1.Let F be a nonzero holomorphic functionon Cm. For an m-tuple α := (α1, . . . , αm)of nonnegative integers, set |α| := α1 +
· · · + αm and DαF := ∂|α|F∂zα11 ...∂zαmm
. We de-
fine the map υF : Cm → N0 by υF (z) :=max{p : DαF (z) = 0 for allαwith |α| < p}.Set suppυF := {z ∈ Cm|υF (z) 6= 0}. Let ϕba a nonzero meromorphic fuction on Cm.Set
n(t) =
{∫suppυϕ∩B(t) υϕ(z)ν ifm ≥ 2,∑|z|≤t υϕ(z) ifm = 1.
Define
N(r, υϕ) =
∫ r
1
n(t)
t2m−1dt, (1 < r < +∞).
For a positive integer M, we define
υMϕ (z) = min{υϕ(z),M}.
Similarly, we define nM (t) and N(r, υMϕ ),respectively. For a closed subset A of apurely (m− 1)-dimensional analytic subsetof Cm, we define
n1A(t) =
{∫A∩B(t) ν ifm ≥ 2,
](A ∩B(t)) ifm = 1,
N1(r,A) =
∫ r
1
n1A(t)
t2m−1dt (1 < r < +∞).
Let f : Cm → PN (C) be a meromorphicmapping. For arbitrary fixed homogeneouscoordinates (w0 : . . . : wN ) of PN (C), wetake a reduced representation f = (f0 :. . . : fN ). Set ‖ f ‖:= (|f0|2+· · ·+|fN |2)1/2.The characteristic function of f is definedby
T (r, f) :=
∫S(r)
log ‖ f ‖ σ −∫S(1)
log ‖ f ‖ σ,
for r > 1. For a nonzero meromorphicfunction ϕ on Cm, the characteristic func-tion T (r, ϕ) of ϕ is defined by consider-ing ϕ as a meromorphic mapping of Cminto P1(C). Let H = {(x0 : . . . : xN ) ∈PN (C)|a0x0 + · · · + aNxN = 0} be a hy-perplane in PN (C) such that imf * H. Set(f,H) := a0f0 + · · ·+ aNfN . We define
NM(f,H)(r) := N(r, υM(f,H)).
Under the assumption that (f,H) 6≡ 0, wedefine the proximity function of f and Hby
mf (r,H) :=
∫S(r)
log‖ f ‖‖ H ‖|(f,H)|
σ
−∫S(1)
log‖ f ‖‖ H ‖|(f,H)|
σ (r > 1),
where ‖ H ‖= (|a0|2 + · · ·+ |aN |2)1/2. Theproximity function of a meromorphic func-tion ϕ on Cm is defined by
m(r, ϕ) :=
∫S(r)
log+ |ϕ|σ,
where log+ x = max{log x, 0} for x ≥ 0.First Main Theorem.T (r, f) = N(f,H)(r) +mf (r,H) +O(1).Second Main Theorem. Let f : Cm →PN (C) be a linearly nondegenerate mero-morphic mapping and H1, . . . ,Hq be hyper-planes in general position in PN (C). Then
(q−N−1)T (r, f) ≤q∑j=1
NN(f,Hj)
(r)+o(T (r))
except for a set E of finite Lebesgue mea-sure.Logarithmic Derivative Lemma. Let ϕbe a nonconstant meromorphic function onCm. Then for any i, 1 ≤ i ≤ m, we have
m(r,Dαϕϕ
) = o(T (r, ϕ)) as r →∞, r /∈ E,
where E of finite Lebesgue measure.
3 PROOFMAINRESULT
To prove our theorem we need the follow-ing lemmasLemma 3.1.([2]) Let α = (α0, . . . , αN ) be
an admissible set for F = (f0, . . . , fN ) andlet h be a holomorphic function. Then,
det(Dα0
(hF ), . . . ,DαN (hF ))
= hN+1 det(Dα0
(F ), . . . ,DαN (F )).
Let F,G,H be nonzero meromorphic func-tions on Cm and α ∈ Zm+ . Denote byΦα(F,G,H) the Cartan auxiliary function.Lemma 3.2.([2]) Assume that Φα ≡ 0 forall α with |α| = 1. Then, there exists con-stains a, b ∈ C − {0}, which are not bothequal to zero, such that
a( 1
G− 1
F
)+ b( 1
H− 1
F
)≡ 0.
We take three distinct meromorphic map-pings f1, f2, f3 ∈ F(f, {Hj}qj=1, p). Set
F j1j2i =(f i,Hj1 )
(f i,Hj2 )for i = 1, 2, 3, j1 6= j2 ∈
{1, . . . , q}. We haveLemma 3.3.([5]) T (r, F j1j2i ) ≤ T (r, f i) +O(1).For each j ∈ {1, . . . , q}, i ∈ {1, 2, 3}and k ∈ {1, . . . , N − 1}, set Akij ={z|υ(f i,Hj)(z) = k}.Lemma 3.4. Suppose that there exist1 ≤ j1, j2 ≤ q and α with |α| = 1, suchthat Φα
j1j2= Φα(F j1j21 , F j1j22 , F j1j23 ) 6≡ 0,
then, for any three distinct indices i1, i2, i3in {1, 2, 3}, we have
2p
q∑j=1
j 6=j1,j2
N1(f i1 ,Hj)
(r) +NN(f i1 ,Hj1 )(r)
−N1(f i1 ,Hj1 )(r)−Ai2j1 −Ai3j1
≤ NΦαj1j2(r) ≤ T (r)− 2NN
(f i1 ,Hj2 )(r)
+ 2(Ai2j2 +Ai3j2) + o(T (r)). (1)
where Aij = (N − 1)N1(r,A1ij) + (N −
2)N1(r,A2ij) + · · · + N1(r,A
N−1ij ) for i =
1, 2, 3 and j = 1, . . . , q.Proof. For z0 ∈
⋃qj=1 f
i1−1(Hj) \
(f i1−1
(Hj1) ∪ f i1−1(Hj2)) (outside an an-
alytic subset of codimension at least 2),
there exists s ∈ {0, . . . , n} such that bothof fs(z0) and gs(z0) are different from zero.Then, by assumption c), for i = 2, 3, wehave
Dα( 1
F j1j2i
− 1
F j1j21
)(z0)
= Dα( N∑k=0
f ikf isaj2k
N∑k=0
f ikf isaj1k
−
N∑k=0
f1kf1saj2k
N∑k=0
f1kf1saj1k
)(z0) = 0
for all |α| < p. This implies that z0 is azero of 1
Fj1j2i
− 1
Fj1j21
(i = 2, 3) with multi-
plicity at least p. We can choose a nonzeroholomorphic function h on a neighborhoodU of z0, such that dh has no zero pointand 1
Fj1j2i
− 1
Fj1j21
= hpϕi on U, where
ϕi (i = 2, 3) are holomorphic functions onU. Hence, by Lemma 3.1, we have
Φαj1j2 := Φα(F j1j21 , F j1j22 , F j1j23 )
= h2pF j1j21 F j1j22 F j1j23
∣∣∣∣ ϕ2 ϕ3
Dα(ϕ2) Dα(ϕ3)
∣∣∣∣ .It implies that
υΦαj1j2(z0) ≥ 2p. (2)
For z0 ∈ f i1−1
(Hj1) \ f i1−1(Hj2), we can
choose a nonzero holomorphic function hon a neighborhood U of z0, such that dh hasno zero point and F j1j2i = hυj1j2 (z)ui on U,where ui (i = 1, 2, 3) are nowhere vanishingholomorphic functions on U. We have
Φαj1j2 = F j1j21
∣∣∣∣∣∣∣1 1
Dα(F j2j12 )
F j2j12
Dα(F j2j13 )
F j2j13
∣∣∣∣∣∣∣− F j1j22
∣∣∣∣∣∣∣1 1
Dα(F j2j11 )
F j2j11
Dα(F j2j13 )
F j2j13
∣∣∣∣∣∣∣+ F j1j23
∣∣∣∣∣∣∣1 1
Dα(F j2j11 )
F j2j11
Dα(F j2j12 )
F j2j12
∣∣∣∣∣∣∣ .
We can write Dα(F j2j1i )/F j2j1i = h−|α|ui,where ui (i = 1, 2, 3) are holomorphic func-tions. It is seen that z0 is a pole ofthese three determinants with multiplicityat most |α| = 1. It implies that
υΦαj1j2(z0) ≥ min
1≤i≤3{υ(f i,Hj1 )(z0)} − 1. (3)
By (2), (3) and by the same argumentin the proof of [7](Lemma 3.7), we haveproved the first inequality of (1). By thesame argument in the proof of [7](Lemma3.7), we have proved the second inequalityof (1). The proof of Lemma 3.4 is com-pleted.
Proof main result. Take arbitrar-ily three distinct mappings f1, f2, f3 inF(f, {Hj}qj=1, 2). For each pair (j1, j2) with1 ≤ j1 6= j2 ≤ q, assume that ex-ists an α ∈ Zm+ with |α| = 1 such
that Φα(F j1j21 , F j1j22 , F j1j23 ) 6≡ 0. Then byLemma 3.4 (with p = 2) we have
3∑i=1
(4
q∑j=1
j 6=j1,j2
N1(f i1 ,Hj)
(r) + 2NN(f i1 ,Hj2 )(r)
+NN(f i1 ,Hj1 )(r)−N
1(f i1 ,Hj1 )(r)
)≤ 3T (r) + 4(A1j2 +A2j2 +A3j2)
+ 2(A1j1 +A2j1 +A3j1) + o(T (r)). (4)
Summing-up of (4) over all pair (j1, j2),and by the second main theorem, we ob-tain
(4q − 9)3∑i=1
q∑j=1
N1(f i,Hj)
(r)− 3(N + 1)T (r)
≤ 6
3∑i=1
q∑j=1
Aij + o(T (r)). (5)
Noting that NN(f i,Hj)
(r) = NN1(f i,Hj)
(r) −Aij . Hence, by the second main theorem
again and (5), we have
(6q − 9N − 9)T (r)
≤ (6N + 9− 4q)3∑i=1
q∑j=1
N1(f i,Hj)
(r)
+ o(T (r)). (6)
Note that q = 2N + 1. Then (6) can bewritten as follows
(3N − 3)T (r) ≤(5− 2N)3∑i=1
q∑j=1
N1(f i,Hj)
(r)
+ o(T (r)),
which is a contradiction when N ≥ 3.So, there exists a pair (j1, j2), such thatΦα(F j1j21 , F j1j22 , F j1j23 ) ≡ 0 for all α ∈ Zm+with |α| = 1. By Lemma 3.2, there exists
(a, b) ∈ C2 \ {0}, such that a(
(f2,Hj2 )
(f2,Hj1 )−
(f1,Hj2 )
(f1,Hj1 )
)+b(
(f3,Hj2 )
(f3,Hj1 )− (f1,Hj2 )
(f1,Hj1 )
)≡ 0, which
means that the mapping f1×f2×f3 is lin-early degenerate (with the algebraic struc-ture in PN (C) × PN (C) × PN (C) given bySegre embedding into P(N+1)3−1(C) ).
References
[1] G. Dethloff and T.V. Tan, An exten-sion of uniqueness theorems for mero-
morphic mappings, Vietnam J. Math.34 (2006) 71 - 94.
[2] H. Fujimoto, Uniqueness problem withtruncated multiplicities in value dis-tribution theory, I, Nagoya Math. J.152(1998) 131-152.
[3] S. Ji, Uniqueness problem withoutmultiplicities in value distribution the-ory, Pacific J Math, 135( 1988): 323 -348.
[4] L. Smiley, Geometric conditions forunicity of holomorphic curves, Con-temp Math, 25(1983): 149 - 154
[5] M. Ru, Nevanlinna theory and its re-lation to Diophantine approximation,Singapore: World Science Pub, 2001.
[6] Zhen-Han Tu, Uniqueness problemof meromorphic mappings in severalcomplex variables for moving targets,Tohoku Math. J. 54 (2002) 567 - 579.
[7] Yan Q and Chen Z, A degeneracy the-orem for meromorphic mappings withtruncated multiplicities, Acta Math-ematica Scientia 2011, 31B(2):549 -560.
Tãmt¾t
Ba¸nhx¹ph©nh×nhtõ Cm vµo PN (C)chung 2N + 1 siªuph¼ng
NguyÔnViÖtPh¬ng
§¹ihäcKinhtÕvµQTKD − §HTh¸iNguyªn
Trongbµib¸onµy,södôngküthuËttronglýthuyÕtNevanlinna,chóngt«ichøngminhmét®ÞnhlýsuybiÕnchoba¸nhx¹ph©nh×nhkh«ngsuybiÕntuyÕntÝnhtõ Cm vµo PN (C), chung2N + 1 siªuph¼ngëvÞtrÝtængqu¸t,®Õmvíisèbéic¾tcôtbëi2(víicÊutróc®¹isètrongPN (C)× PN (C)× PN (C) ®îcx¸c®ÞnhbëiphÐpnhóngSegrevµo P(N+1)3−1(C)).
Tõkhãa: Siªuph¼ng,ph©nbègi¸trÞ,®ÞnhlýduynhÊt,¸nhx¹ph©nh×nh,vÞtrÝtængqu¸t.
Nguyễn Vân Thịnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 225 – 22912
225
VIETNAMESE TELECOMMUNICATIONS IN FOREIGN MARKETS
- A PROSPECT OR AN INEVITABLE TREND
Nguyen Van Thinh*, Ta Thi Mai Huong, Nguyen Hien Luong College of Economics and Business Administration - TNU
SUMMARY The globalization involves in the process of international integration and interaction among
different nations in the world with the purpose of developing the global economy[3]. In Vietnam,
the globalization has driven advances in information and communication technology as well as the
development of infrastructure that facilitates many industries to become integrated to the global
market. The telecommunication industry is also in a state of evolution under the impacts of this
process [1]. During the last few years, Vietnamese telecommunication industry has been developing
with a high speed and strong competition in foreign market. A number of technological
breakthroughs in this sector reveal that Vietnamese telecoms have rapidly transferred information
and innovations across national borders. It is noteworthy in the case of Viettel, one of Vietnam’s
telecommunication giants, which has established its own networks overseas. With the current
membership of WTO, ASEAN, APEC, AFTA and the liberalization of telecommunications
markets, Vietnamese telecommunication companies have been opened up with new opportunities
to expand their businesses in foreign markets. In such context, the expansion is said to be both an
inevitable trend and a vision in the international integration. Thus, this paper will focus on the
performance of a Vietnamese telecommunication giant - Viettel in foreign markets, based on
which proper recommendations are proposed for the coming years.
Key words: Vietnamese telecommunications; Viettel Telecom; integration
OVERVIEW OF VIETNAM
TELECOMMUNICATION INDUSTRY*
In Vietnam, telecommunication industry has
gained significant achievements and become
an increasingly important part in the national
development. Telecommunication is now one
of the key industries and motivations of the
socio-economic development [2].
Particularly, the advancements and
innovations in the technology have made
crucial changes to the structure of market and
services in this industry. The development of
technology has allowed Vietnam’s
telecommunication industry to go with strong
and far way in competing with domestic as
well as foreign companies. Generally,
Vietnam has recently built modern
telecommunication infrastructure. The
switching board system now includes 100%
of digital switchboard. Besides, the
transmission system is equipped with optic
fibers, satellites and wideband microwave
* Tel: 0904 734092, Email: [email protected]
system which are widely in the country and
able to connect to the international network.
Since 1997, the Internet line has been
connected by two gateways: the first in Hanoi
connecting with Australia and Hong Kong
and the second in Ho Chi Minh City
connecting with the United States.
Recently, Vietnam has welcomed many
telecommunications providers such as Viettel,
VNPT, SPT, HaNoi Telecoms, EVN
Telecoms, GTel, Dong Duong Telecoms. In
2013, the revenue of Vietnam's
telecommunication was around $9.9 billion,
in which more than 90% was accounted by
three state-owned companies - Viettel,
MobiFone and Vinaphone. Viettel has led
with 44% of market share; next comes
MobiFone with 21.4% and the third position
belongs to Vinaphone with 19.9% [5].
Moreover, the number of 3G users has
doubled within two years, from 87% in 2010
to 175% in 2014[7]. In addition, the Internet
and broadband markets have been developing
at a fast speed, especially in urban areas. It is
Nguyễn Vân Thịnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 225 – 229
226
now widely used in the schools, universities,
colleges as well as the villages.
So far, Viettel Telecom has been the only
operator that has succeeded with its
international strategy. Its main competitor,
Mobifone is on the way to implement its
expansion strategy with the very first steps.
Viettel, which is owned by the Ministry of
Defense, is one of the fastest growing
telecommunication operators in the world. It
has been operating in many markets over
three continents (Asia, Latin America and
Africa) with the covering population of
approximately 170 million people. With the
strong development in Vietnam and in
foreign markets, this giant aims to join Top
10 largest global telecommunication
investors with the population of 300-500
million people by 2015.
SWOT ANALYSIS OF VIETTEL
TELECOM IN FOREIGN MARKETS
The SWOT analysis will evaluate the
strengths, weaknesses, opportunities and
threats in order to analyze the development
foundation, potentials and challenges of
Viettel Telecom in foreign markets.
Strengths
The Vietnamese telecom giant, Viettel, which
is now a provider with strong development in
Vietnamese market receives great financial
support from the Ministry of Defense and the
state. With positive growth and good quality
of labor, this enterprise is expected to be such
a competitive player in foreign markets.
Moreover, Vietnam has close relationship as
well as many things in common with host
countries, especially Southeast Asian ones
like Laos and Cambodia. Thus, it is easier for
Viettel to conduct market research and do
business with its available expertise.
Weaknesses
In terms of weak points, like other
Vietnamese telecoms, Viettel has had modest
experience in foreign platform. Therefore, it
can be difficult for them to access
achievements overseas in a short hand.
Opportunities
The advancements in technology are the main
driver of telecommunication products and
service to be innovated to satisfy foreign
demands. Today, international
telecommunication industry has been a
potential market that almost all Governments
welcome the foreign investments into national
infrastructure, including railways,
communications systems, seaports and power
generator. It is easier for Vietnamese
enterprises to penetrate foreign markets with
fewer obstacles from the local Government.
Also, the membership in several international
organizations (WTO, ASEAN, APEC, and
AFTA, etc.) will drive the entrance in the
international market of Vietnamese telecoms.
Threats
Operating in foreign markets, Viettel Telecom
has to face up with the fierce competition
from local providers as well as other foreign
ones. For example, in Peru, Viettel has to
compete with not only local providers but
also some other foreign ones, including Claro,
MoviStar and Nextel. In addition, in some
target countries like Cambodia, the
telecommunication infrastructure is still
limited and the customers’ income is low.
This forces any telecoms with the aim of
investing in this market to consider proper
strategies to improve the number of Internet
and mobile users. Besides, the
telecommunication regulations and law in
those countries have not been completed
which can slow down the process of
penetrating foreign market of Vietnam
telecoms.
RECENT PERFORMANCE OF VIETTEL
TELECOM IN FOREIGN MARKETS
Viettel has been the pioneer in the
international expansion strategy. It has
recently focused on Asia, Latin America and
Africa with seven main markets, including
Nguyễn Vân Thịnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 225 – 229
12
227
Laos, Cambodia, East Timor, Mozambique,
Haiti, Peru and Cameroon. Although the
telecommunication giant initially
concentrated on Asian markets (Cambodia
and Laos), its strategic investments have
recently been focused in Africa with
Mozambique and Cameroon. This can be
explained with several reasons. Firstly,
Viettel has determined that it has little chance
in the top appealing markets in the world
which have been exploited by world famous
investors. In such developing markets, the
chance of promoting business is higher.
Secondly, the economic integration has
encouraged these countries to be more open
with their policies to foreign investors. Along
with the adaptation of the privatization in
telecommunication sector, these African
nations have been turned into more dynamic
and competitive markets than ever before[7].
In the long run, Viettel aims to invest in
several African countries such as Burundi,
Tanzania and Burkina Faso. By 2013, the
investment in Mozambique and Cameroon of
Viettel ranked for the first and second position.
Table 1: The investment in some main foreign
markets of Viettel in 2013
Markets Total investment in
2013 (Approved by
Ministry of Investment
and Planning) (USD)
Cambodia (Metfone) 151.445.689
Laos (Unitel) 300.016.280
Haiti (Natcom) 99.890.000
Mozambique (Movitel) 493.790.000
East Timor (Telemor) 14.919.294
Cameroon (operation in
the 3rd quarter, 2014)
328.919.290
(Source: Viettel Global annual report, 2014)
It can be said that Viettel has seen the
international expansion as its core strategy in
the long run with the aim of sustainable
development. In markets that it targets at,
Viettel has already achieved such large
coverage of mobile and internet services.
However, the market share has not been as
lucrative as expected. As can be seen from
table 2, while enjoying the market leader
status in Cambodia and Laos Viettel had no
choice but to satisfy with the second position
in three African markets.
Table 2: Market shares of Viettel in major
foreign markets in 2013
Markets Market
share
Position in
the market
Cambodia 49% No. 1
Laos 47% No. 1
Mozambique 32% No. 2
East Timor 32% No. 2
Haiti 27% No. 2
(Source: Viettel Global annual report, 2014)
After 8 years of international expansion,
Viettel has been successful at 6 foreign
markets together with the revenue has been
increasing year on year. In 2013, the revenue
reached 981million USD and the consolidated
profits reached 61 million USD. The
following table summarizes the outstanding
business achievements of Viettel during the
period 2010-2013.
Table 3: Business results of Viettel in foreign
markets during 2010-2013
Criteria 2010 2011 2012 2013
Invested
countries
4 5 5 6
The
market
population
56
million
57.2
million
57.2
million
78
million
Total revenue
(100
USD)
282.212.513
541.118.819
757.332.036
981.475.280
Consolidated profit
(after tax
and offset
losses) (100
USD)
1.128.893
16.109.842
77.114.743
61.190.859
Mobile
subscribers
4.2
million
6.15
million
9
million
11
million
(Source: Viettel Global annual report,2014)
In the total of consolidated profits of nearly
612 million USD in 2013, Viettel Cambodia
contributed 277.3 million (45.3%), Viettel
Nguyễn Vân Thịnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 225 – 229
228
Mozambique with 178.3 million (29.1%),
Viettel Laos with 101.5 million (16.7%),
Viettel Haiti with 51.5 million (5.5%) and
Viettel East Timor which confirmed losses
one year ago with 3.4 million (0.6%). The
contribution of revenue from each market is
described in more details in figure 1 below
where it can be seen that Cambodia,
Mozambique and Laos are the most profitable
markets of Viettel.
Figure 1: The contribution of foreign markets in
the total profits of Viettel in 2013
(Source: Viettel Global annual report, 2014)
RECOMMENDATIONS FOR VIETTEL
TELECOM
In general, Viettel Telecom has built an image
of a friendly and reliable partner to other
countries in the world. According to Wireless
Intelligence of GSMA (Groupe Speciale
Mobile Association), Viettel was among top
ten operators with desireable new mobile
subscribers in 2012. In Asian
telecommunication market, Viettel has
surpassed many well-known operators, for
instance Singtel (Singapore), Axiata
(Malaysia) and only followed Indian and
Chinese telecoms. With its various products
and service, Viettel has drastically contributed
to the development of local areas in foreign
markets. For instance, it has helped
Mozambique transfer from a country with
poor socio-economic conditions into top 3
countries with the best telecommunication
infrastructure in Africa after only one year of
the appearance of Movitel. What it has
recently achieved proves that foreign markets
can be extremely potential and profitable
markets for Vietnam telecoms to lure their
businesses. Despite some achievements, there
are still several limitations that they have to
confront. The losses in Cameroon market in
2013 urged Viettel to adjust its international
strategy, including how to win the
competition in the market.
In terms of recommendations for these
telecom enterprises, there should be couples
of suggestions. Firstly, in order to win the
market competition, Viettel should focus on
the marketing strategy. Marketing can help a
company become increasingly competitive
and more popular in public [4]. With cheap
price and big network, the chance for Viettel
to win other rivals is relatively high.
Secondly, the corporate social responsibility
has been successful adopted by Viettel in
helping target markets to develop the society,
economic and telecommunication infrastructure.
In coming years, this strategy should be boosted
in order to achieve the sustainable development
in foreign markets [6].
Thirdly, other telecoms or even enterprises
from other industries have targeted at foreign
countries, thus, there is a need of
collaboration both between Vietnamese
operators themselves and with local partners
[4]. In addition, the joint hand between
Vietnamese telecoms in foreign markets should
be the key strategy as in the process of building
a global telecommunication brand there really
should be the presence of collaboration of
partners from the same country.
REFERENCES 1. Akhter, S. H. and Robles, F. (2006) Leveraging
internal competency and managing environmental
uncertainty: Propensity to collaborate in
international markets, International Marketing
Review, 23 (1), pp. 98 – 115.
2. Brinkman, Richard L. and Brinkman, June E.
Corporate power and the globalization process,
International Journal of Social Economics, 29 (9),
pp. 730 – 752.
Nguyễn Vân Thịnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 225 – 229
12
229
3. Ministry of Information and Communication.
(11 June, 2012) Market shares (subscribers) of
mobile phone service providers 2012
4. Swanson, L. A. and Zhang, D. D. (2012)
Perspectives on corporate responsibility and
sustainable development, Management of
Environmental Quality: An International Journal,
23 (6), pp. 630 – 639.
5. Vietnamnews (26 December, 2013) Viettel tops
local telecom market
6. Viettel Global annual report. (2014) Viettel
Global annual report
7. Wang, Y. and Lo, H. P. (2002) Service quality,
customer satisfaction and behavior intentions:
Evidence from China’s telecommunication
industry. Info, 4 (6), pp. 50 – 60.
TÓM TẮT
VIỄN THÔNG VIỆT NAM TRÊN TRƯỜNG QUÔC TẾ
- TRIỂN VỌNG HAY XU THẾ TẤT YẾU
Nguyễn Vân Thịnh*, Tạ Thị Mai Hương, Nguyễn Hiền Lương
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
Nhắc đến sự toàn cầu hóa là nói đến tiến trình hội nhập và tương tác giữa các quốc gia khác nhau
trên thế giới với mục đích phát triển nền kinh tế toàn cầu. Ở Việt Nam, tiến trình toàn cầu hóa với
những thành tựu đạt được trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông cũng như sự phát
triển cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông đã thúc đẩy nhiều ngành công nghiệp tiến tới hội nhập
với thị trường quốc tế. Ngành thông tin và truyền thông cũng đang trên đà đi lên dưới sự tác động
của tiến trình toàn cầu hóa này. Trong vài năm trở lại đây, ngành thông tin và truyền thông Việt
Nam đã và đang phát triển với tốc độ cao và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế. Những
bước đột phá công nghệ trong lĩnh vực này cho thấy truyền thông Việt Nam đã nhanh chóng đưa
thông tin và những đổi mới của mình ra thế giới. Đáng chú ý là trường hợp mạng viễn thông
Viettel - một trong những mạng viễn thông hàng đầu Việt Nam đã thiết lập mạng lưới riêng của
mình ra thế giới. Với việc trở thành thành viên của WTO, ASEAN, APEC, AFTA và mở rộng thị
trường thông tin truyền thông, ngành thông tin và truyền thông Việt nam đã và đang có nhiều cơ
hội mới để mở rộng kinh doanh ra thị trường quốc tế. Trong bối cảnh này, việc mở rộng ra thị
trường quốc tế được coi là xu hướng và tầm nhìn tất yếu trong sự hội nhập quốc tế. Chính vì vậy,
nghiên cứu này sẽ tập trung vào các hoạt động của Viettel trên thị trường quốc tế và cũng từ đó
đưa ra các đề xuất hợp lý cho những năm tiếp theo.
Từ khóa: Viễn thông Việt Nam, Viettel Telecom, hội nhập
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Gấm – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0904 734092, Email: [email protected]
Nguyễn Vân Thịnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 225 – 229
230
Trần Văn Nguyện và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 231 – 236
12
231
ĐO LƯỜNG SỰ TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TÔ TRUNG GIAN ĐẾN MÔI QUAN
HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG VÀ GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
THEO CÁC TỈNH VÀ THÀNH PHÔ, VIỆT NAM
Trần Văn Nguyện*,Trần Văn Quyết, Trần Văn Dũng
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Do lường sự tác động của nhân tố trung gian đến mối quan hệ giữa lực lượng lao động và giá trị
sản xuất công nghiệp theo các tỉnh và thành phố Việt Nam chỉ ra rằng chất lượng lao động là một
nhân tố quan trong trong việc đo lường mối quan hệ này như là một biến điều chỉnh. Nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng có sự tác động cùng chiều của nhân tố lực lượng lao động đến chất lượng lao
động và sự tác động mạnh mẽ của lực lượng lao động đến giá trị sản xuất công nghiệp. Đồng thời
thông qua kiểm định thống kê, nhân tố chất lượng lao động là một biến trung gian hoàn hảo đo
lường mối quan hệ giữa lực lượng lao động và giá trị sản xuất công nghiệp theo giá hiện hành. Do
đó, nghiên cứu sẽ giúp cho việc thiết kế các chính sách hiệu quả nhằm nâng cáo chất lượng đội
ngũ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế để đáp ứng được nhu cầu về sản
xuất công nghiệp trong tương lai.
Từ khóa: Lực lương lao động, giá trị sản xuất công nghiệp, chất lương lao động và hồi quy
GIỚI THIỆU*
Dr. Kenneth G. Manton (2008) đã chỉ ra rằng
lực lượng lao động đã được đào tạo về kỹ
thuật và các nhà nghiên cứu đóng vai trò quan
trọng trong việc kích thích phát triển kinh tế
và đo lường những tác động tiềm ẩn của dân
số và lực lượng dân số già trong phát triển
kinh tế[2]. Trong thời kỳ công nghiệp hóa -
hiện đại hóa hiện nay, nguồn nhân lực là yếu
tố quan trọng nhất quyết định đến sự phát
triển của đất nước và sự sống còn của các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay
chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa được
quan tâm đúng mức và còn tồn tại nhiều yếu
kém, hạn chế[7]. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, tháng 11 năm 2013, dân số việt
nam gần đạt ngưỡng 90 triệu người (ước tính
khoảng 92,48 triệu người). Với lượng dân số
này, hiện nay Việt Nam đang đứng thứ 14
trên thế giới về dân số và thứ 2 trong khu vực
Đông Nam Á. Về lực lượng lao động, tính
đến 1/11/2013, cả nước có khoảng 55,1 triệu
người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động, chiếm 59.6% tổng dân số. Trong đó lực
lượng lao động của khu vực nông thôn chiếm
gần 67,8%[8]. Tuy nhiên, số người trong độ
tuổi lao động đông không có nghĩa là thị
* Tel: 0987 636365, Email: [email protected]
trường lao động Việt Nam đáp ứng đủ nhu
cầu lao động cho các doanh nghiệp. Bởi số
lao động có tay nghề, có chất lượng của nước
ta đang còn rất hạn chế. Trong tổng số gần
55,1 triệu lao động chỉ có gần 7,9 triệu người
đã được đào tạo, chiếm 14,3%. Sự chênh lệch
về chất lương nguồn lao động được thể hiện
rõ nhất là ở khu vực nông thôn và thành thị. Ở
thành thị lao động đã được đào tạo chiếm
32,5%, trong khi ở nông thôn chỉ có 8,7%. Sự
chênh lệch này là quá lớn, ảnh hưởng không
nhỏ tới sự phát triển kinh tế chung của
nước[3]. Stella Tsani (2013) sử dụng mô hình
hồi quy để đánh giá tác động của lực lượng
lao động nữa với sự phát triển kinh tế[8]. Tuy
nhiên chưa có một nghiên cứu cụ thể nào ở
Việt Nam cũng như trên thế giới về đo lường
sự tác động của chất lượng lao động đến mối
quan hệ giữa lực lượng lao động và giá trị sản
xuất công nghiệp. Do đó, việc xây dựng một
mô hình kinh tế đo lường tác động của lực
lượng lao động đến giá trị sản xuất công
nghiệp thông qua chất lượng lao động là hết
sức cần thiết.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung
Mục tiêu của nghiên cứu đo lường mức độ
ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của lực lượng
Trần Văn Nguyện và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 231 – 236
232
lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong nền kinh tế với giá trị sản xuất công
nghiệp theo giá hiện hành thông qua sự tác
động của chất lượng lao động (lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo) dựa
trên bộ số liệu của 63 tỉnh, thành phố, Việt
Nam, áp dụng mô hình Hayes (2013).
Mục tiêu cụ thể
(1) Đo lường tác động của lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền
kinh tế đến chất lượng nguồn lao động.
(2) Đo lường mối quan hệ tác động giữa lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc trong nền kinh tế và chất lượng lao động
với giá trị sản xuất công nghiệp.
(3) Đo lường mối quan hệ giữa lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền
kinh tế với giá trị sản xuất ngành công nghiệp.
(4) Đo lường mức độ tác động trực tiếp và
gián tiếp của lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên đang làm việc trong nền kinh tế đến giá trị
sản xuất công nghiệp thông qua chất lượng
nguồn lao động.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu bao
gồm: Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đã
qua đào tạo (chất lượng lao động), giá trị sản
xuất công nghiệp theo giá thực tế, và lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc trong nền kinh tế theo 63 tỉnh, thành phố,
Việt Nam từ GOS (tổng cục thống kê Việt
Nam) từ năm 2005 đến 2012. Khảo sát này
được xem là ít tốn kém nhất, tiết kiệm thời
gian và yêu cầu ít kỹ năng về thu thập số liệu
so với các phương pháp thu thập số liệu khác.
Tổng thể và phương pháp chọn mẫu
Nghiên cứu sử dụng bộ số liệu thứ cấp được
thu thập từ tổng cục thống kê, bao gồm các
biến nghiên cứu ở 63 tỉnh, thành phố Việt
Nam từ năm 2005 đến 2012. Do đó, nghiên
cứu không sử dụng phương pháp chọn mẫu
đặc biệt nào.
Phương pháp phân tích
Phần mềm SPSS 22 được sử dụng để xử lý số
liệu. Đây là công cụ và là phần mềm phổ biến
và hiệu quả, cung cấp những công cụ thống
kê tốt nhất cho nhà nghiên cứu trong việc
đánh giá và quản lý và thu thập số liệu thứ
cấp. Ngoài ra, SPSS cung cấp nhiều công cụ
thống kê hữu ích để phân tích, đánh giá dữ
liệu và kiểm định các giả thuyết thống kê. Hai
công cụ phân tích thống kê chủ yếu được sử
dụng trong nghiên cứu là thống kê mô tả và
hồi quy hai hay nhiều biến[5].
Mô hình
Mô hình04Andrew F. Hayes (2013)
Biểu đồ 1: Mô hình đo lường tác động biến trung gian
Trong đó:
+ Tác động gián tiếp của X lên Y thông qua là
ai*bi
+ Tác động trực tiếp của X lên Y là c’
Mô hình hồi quy
Mô hình 1: M= β1 + β2*X + e
Mô hình 2: Y= β1 + β2*X + β3*M+ e
Mô hình 3: Y= β1 + β2*X + e
Trong đó:
Biến phụ thuộc
Y: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá hiện
hành theo 63 tỉnh, thành phố Việt Nam.
(ĐVT: tỷ đồng)
Biến độc lập
X: Lực lượng lao động hay lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
nền kinh tế theo các tỉnh, thành phố Việt Nam
(ĐVT: nghìn người)
Biến trung gian:
M: Chất lượng lao động được thể hiện qua
lực lượng lao động trên 15 tuổi đã qua đào tạo
Mi
X Y
ai
C
’
bi
Trần Văn Nguyện và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 231 – 236
12
233
đang làm việc trong nền kinh tế(Lao động đã
qua đào tạo là những người đã tôt nghiệp ở
một trường lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật
của cấp học hoặc trình độ đào tạo tương đương
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng
trở lên (có văn bằng hoặc chứng chỉ công nhận
kết quả đào tạo)(ĐVT: Nghìn người).
Giả thiết nghiên cứu
(1) Tính liên tục: Các biến nghiên cứu được
giả định là các biến liên tục.
(2) Phân phối: Các biến nghiên cứu tuân theo
quy luận phân phối chuẩn.
(3) Tính độc lập: Không có hiện tượng tự
tương quan giữa các sai số ngẫu nhiên.
(4) Tuyến tính: Mối quan hệ giữa các biến
được giả định là tuyến tính.
Các bước kiểm định biến trung gian
Để khẳng định các biến trung gian trong mô
hình nghiên cứu có ý nghĩa thống kê hay
không, chúng ta phải thực hiện theo các
bước sau:
Bước 1: Khẳng định ý nghĩa về mối quan hệ
giữa biến độc lập và biến trung gian
Bước 2: Khẳng định ý nghĩa về mối quan hệ
giữa biến độc lập và biến phụ thuộc
Bước 3: Khẳng định ý nghĩa về mối quan hệ
giữa biến trung gian và biến phụ thuộc trong
sự hiện diện của biến độc lập
Bước 4: Khẳng định sự không có ý nghĩa của
mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ
thuộc trong sự hiện diện của biến trung gian.
KẾT QUA NGHIÊN CỨU VA THAO LUẬN
Tình hình biến động của các biến nghiên cứu
Sự thay đổi qua các năm từ năm 2005 đến
2012 về giá trị của các biến được thể hiện qua
biểu đồ 1. Nhìn chung, các giá trị về lực
lượng lao động, giá trị sản xuất công nghiệp,
và chất lượng lao động tăng đều qua các năm
với sự tăng mạnh nhất của giá trị sản xuất
công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp
tăng nhanh từ gần 1 triệu (tỷ đồng) năm 2005
lên đến khoảng 4,5 triệu (tỷ đồng) năm 2012.
Trong khi, lực lượng lao động trên tăng đều
qua các năm. Đáng chú ý là mức độ tăng,
giảm chậm chất lượng lao động.
Kết quả phân tích mô hình Hayes
Mối quan hệ giữa lực lượnglao động và chất
lượng lao động
Kết quả hồi quy bảng 1 chỉ ra rằng có mối
quan hệ thuận chiều giữa lực lượng lao động
trên 15 tuổi đang làm việc trong nền kinh tế
với chất lượng lao động ở mức ý nghĩa nhỏ
hơn 1% (F=191,54 và P=0.000). Đồng thời,
82,95% sự biến động của chất lượng lao động
được giải thích bởi lực lượng lao động. Kết
quả hồi quy cũng chỉ ra rằng khi lực lượng lao
động trên 15 tuổi đang làm việc trong nền
kinh tế tăng lên 1 nghìn người thì lực lượng
lao động được đào tạo tăng lên 513,1 người.
Do đó lực lượng lao động là một biến quan
trọng để dự báo chất lượng lao động.
(Nguồn: Tổng cục thông kê 2014; http://www. gso.gov.vn)
Biểu đồ 2: Tình hình biến động của các biến nghiên cưu qua các năm (2005-2012)
Mô hình 1: Outcome: M Model Summary
R R-sq F df1 df2 p
.9108 .8295 191.5441 1.0000 313.0000 .0000
Model
Trần Văn Nguyện và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 231 – 236
234
coeff se t p
constant -186.9725 24.1253 -7.7501 .0000
X .5131 .0371 13.8399 .0000
(Nguồn: Kết quả hồi quy SPSS 22, mô hình Hayes 04)
Bảng 2: Kết quả hồi quy giữa lực lương lao động và chất lương lao động với giá trị sản xuất công nghiệp
Mô hình 2: Outcome: Y Model Summary
R R-sq F df1 df2 p
.7329 .5371 25.0731 2.0000 312.0000 .0000
Model
coeff se t p
constant -8335.6489 9569.0304 -.8711 .3844
M 181.6794 50.2893 3.6127 .0004
X 22.3094 22.3023 1.0003 .3179
(Nguồn: Kết quả hồi quy SPSS 22, mô hình Hayes 04)
Bảng 3: Kết quả hồi quy giữa lực lương lao động và giá trị sản xuất công nghiệp
Mô hình 3: Outcome: Y Model Summary
R R-sq F df1 df2 p
.6883 .4737 44.0782 1.0000 313.0000 .0000
Model
coeff se t p
constant -42304.697 11550.5378 -3.6626 .0003
X 115.5374 17.4025 6.6391 .0000
(Nguồn: Kết quả hồi quy SPSS 22, mô hình Hayes 04)
Bảng 4: Kết quả đo lường ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của lực lương lao đông với giá trị sản xuất
công nghiệp thông qua chất lương lao động
Mô hình 4 Total effect of X on Y
Effect SE t p LLCI ULCI
115.5374 17.4025 6.6391 .0000 81.2968 149.7780
Direct effect of X on Y
Effect SE t p LLCI ULCI
22.3094 22.3023 1.0003 .3179 -21.5725 66.1914
Indirect effect of X on Y
Effect Boot SE BootLLCI BootULCI
M 93.2279 23.6441 49.4682 137.1717
(Nguồn: Kết quả hồi quy SPSS 22, mô hình Hayes 04)
Mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng lao động với giá trị sản xuất công nghiệp
Kết quả hồi quy mô hình 2 chỉ ra rằng gần 55% sự biến động của giá trị sản xuất công
nghiệp được giải thích bởi lực lượng lao động và chất lượng nguồn lao động (R2=0,5371 và
P=0.000). Thông qua kết quả bảng 2 ta thấy chất lượng lao động có ý nghĩa quan trọng tác
động tới giá trị sản xuất công nghiệp (β3=181,68, P=0.0004<5%) trong điều kiện
có sự tác động của lực lượng lao động, tuy nhiên, lực lượng lao động không có ý nghĩa
tác động đến giá trị sản xuất trong trường hợp có sự ảnh hưởng của chất lượng lao động
(β2=22,31, và P=0.3179>5%). Do đó, biến trung gian (chất lượng lao động) là một biến
hoàn hảo trong việc đo lường ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của lực lượng lao động đến
giá trị sản xuất công nghiệp.
Mối quan hệ giữa lực lượng lao động và giá trị sản xuất công nghiệp
Bảng 3 chỉ ra rằng có mối quan hệ thuận chiều giữa lực lượng lao động và giá trị sản xuất công nghiệp, đồng thời lực lượng lao
Trần Văn Nguyện và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 231 – 236
12
235
động giải thích được gần 50% sự biến động của giá trị sản xuất công nghiệp (R2=0.4737;P=0.0000<5%). Mặt khác, khi lực lượng lao động tăng lên 1 nghìn người thì làm cho giá trị sản xuất công nghiệp tăng lên nhiều hơn 115 tỷ đồng (β2 =115,5374 và P=0.0000). Như vậy lực lượng lao động có ý nghĩa quan trọng tác động đến giá trị sản xuất công nghiệp.
Đo lường tác động trực tiếp và gián tiếp của
lực lượng lao động với giá trị sản xuất công
nghiệp thông qua chất lượng lao động
Đo lường tác động trực tiếp và gián tiếp của
lực lượng lao động đối với giá trị sản xuất
công nghiệp thông qua chất lượng lao động
được trình bày thông qua mô hình hồi quy
phân cấp. Kết quả chỉ ra rằng do hai hệ số
(BootLLCI =49,47 và BootULCI=137,17)
hay hai giá trị lớn nhất và nhỏ nhất của hệ số
đánh giá tác động gián tiếp đề lớn hơn không.
Hay tác động gián tiếp của lực lượng lao động
tới giá trị sản xuất là một hệ số có ý nghĩa
thống kê và lớn hơn không. Kết quả mô hình
4 cũng chỉ ra rằng tổng mức tác động của lực
lượng sản xuất đối với giá trị sản xuất công
nghiệp là 115,54 đơn vị (P=0.0000<5%) trong
đó tác động trực tiếp là 22,31 đơn vị và tác
động gián tiếp là 93.23 đơn vị. Hay mức độ
tác động gián tiếp của lực lượng lao động
thông qua chất lượng lao động gấp 4 lần tác
động trực tiếp lên giá trị sản xuất công
nghiệp. Điều này có nghĩa là chất lượng lao
động là một yếu tố rất quan trọng quyết định
gián tiếp đến hiệu quả sản xuất công nghiệp.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã chỉ ra được mối quan hệ quan
trọng giữa lực lượng lao động; chất lượng lao
động và giá trị sản xuất công nghiệp, điều này
rất hữu ích để đề xuất các giải pháp hiệu quả
nhằm quản lý và thúc đẩy quá trình đào tạo
lao động, đáp ứng được nhu cầu sản xuất
công nghiệp trong tương lai. Đồng thời, ý
nghĩa quan trọng của chất lượng lao động tác
động đến mối quan hệ giữa lực lượng lao
động và giá trị sản xuất công nghiệp cũng
được trình bày trong nghiên cứu. Ngoài ra,
kết quả hồi quy 2 biến và đa biến đã khẳng
định được nhân tố chất lượng lao động là một
biến trung gian hoàn hảo thỏa mãn các giả
thiết của mô hình ảnh hưởng đến tác động
trực tiếp và gián tiếp của lực lượng lao động
lên giá trị sản xuất công nghiệp. Sự tăng lên
về nhu cầu lao động trong sản xuất công
nghiệp một phần dẫn đến tăng nhu cầu về lao
động trên 15 tuổi, do đó chất lượng lao động
là một nhất tố thiết yếu trong việc điều chỉnh
mối quan hệ giữa lực lượng lao động và kết
quả sản xuất.
TAI LIỆU THAM KHAO
1. Andrew F. Hayes (2013).Model Templates for
PROCESS for SPSS and SAS.
2. Dr. Kenneth G. Manton (2008). Population and
Labor Force Aging, Effect on Socio-Economic
Development in Brazil, Russia, India and China,
International Encyclopedia of Public Health,
pages170-181
3. Jianxian Chena, Xiaokuai Shaob, Ghulam
Murtazac, Zhongxiu Zhaoa (2014).Factors that
influence female labor force supply in China,
Economic Modelling, Pages 485–491
4. Judd, C.M. & Kenny, D.A. (1981). Process
Analysis: Estimating mediation in treatment
evaluations. Evaluation Review, 5(5), 602-619.
5. Preacher, K.J., & Hayes, A.F (2004).SPSS and
SAS procedures for estimating indirect effects in
simple mediation models.Behavior Research
Methods, Instruments, & Computers, 36, 717-731.
6. Stella Tsani (2013).Female labour force
participation and economic growth in the South
Mediterranean countries, Economics Letters,
Pages 323–328
7. Nguyễn Đình Cử ,Lưu Bích Ngọc (2013). tác
động của dân số đến kinh tế ở Việt Nam, Tạp chí
Kinh tế và Phát triển, ĐH KTQD, số 37, trang 3-6.
8. General statistics office, http://www.gso.gov.vn
Trần Văn Nguyện và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 231 – 236
236
SUMMARY MEASUREMENT THE IMPACT OF A MEDIATIOR FACTOR AFFECTING THE RELATIONSHIP BETWEEN LABOUR FORCE AND GROSS OUTPUT OF INDUSTRY BY PROVINCES IN VIET NAM
Tran Van Nguyen*, Tran Van Quyet, Tran Van Dung College of Economics and Business Administration – TNU
Measurement the impact of a mediatior factor affecting the relationship between labour force and
gross output of industry by provinces in Viet Nam indicates that the quality of labor force is a
significant factor in measurement this relationship as a mediator valuable. This paper also
indicates that there was a positive effect of labor force on the quality of labor force and the strong
impact of labor force on gross output of industry. At the same time, experiencing the testing of
statistic theory the factor of quality of labor force was a perfect mediator valuable to measure the
relationship between labor force and gross output of industry. Hence, this research will explore the
implications for the design of effective policies in order to improve the employed workersat 15
years of age and above to meet the need of industry production in the future.
Key words:Labor force, gross output industry, quality of labor force, mediator and regression
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Phương Hảo – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0987 636365, Email: [email protected]
Vũ Thị Loan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 237 – 242
12
237
COMPARATIVE STUDY ON CASH ACCOUNTING BASIS AND ACCRUAL
ACCOUNTING BASIS IN FINANCIAL STATEMENT ANALYSIS
Vu Thi Loan*, Ha Manh Tuan College of Economics and Business Administration - TNU
SUMMARY
This paper aims to investigate the relation structuresbetween variables provided from accrual
accounting basis (accrual basis), variables from cash accounting basis (cash basis)and the financial
performance of the company in order to decide whether accrual model or cash model is more
reliable and accurate measurement in predicting the company’s financial performance. The factor
analysis together with discrimination analysis were chosen to analyze the data from sets of
financial reports of 168 companies listed in Hochiminh stock exchange. The analysis results show
the greater accuracy and relevance of accrual accounting model in comparison with the cash model
in judging the financial performance.
Key words: accrual accounting basis, cash basis, financial statement analysis, accrual ratios,
cash ratios, financial performance.
INTRODUCTION*
Financial statement analysis is an art of
processing accounting information to assess
and predict the company’s financial
performance in order to obtain correct
decisions in investing and financing. The
question of whether accrual accounting
information or cash accounting information
provided in the financial statements is more
significant in the analysis is raised for both
academicians and practitioners. There are a
number of researches conducted with similar
purpose but the answers are not the same.
Therefore, this comparative study is taken in
order to test the hypothesis of the difference
between accrual model and cash model used
for evaluate the financial performance of a
company. The study begins with the
presentation of relevant literature review then
a hypothesis is developed and tested upon a
sample collected from listed companies in
Hochiminh stock exchange. Based on the
analysis result, a better model to predict the
company’s financial performance is also
generated to demonstrate the relations
between variables.
* Tel: 0974 943069, Email: [email protected]
LITERATURE REVIEW
Accrual basis and cash basis for financial
statement preparation
Financial statement analysis should be
appreciated as an important part of business
analysis in which financial statements are an
important sources of information for external
stakeholders and company insiders. A set of
financial statements of a company includes
the statement of financial position, the
statement of financial performance, the
statement of cash flows and the statement of
shareholder’s equity. Except for the statement
of cash flows, the financial statements are
required to prepare under the accrual
accounting basis.
Under the accrual basis of accounting,
transactions and other events are recognized
in financial statements when they occur (and
not only when cash or its equivalent is
received or paid). Therefore, the transactions,
events and flows are recorded in the
accounting books and recognized in the
financial statements of the periods to which
they relate. Financial statements prepared
under the accrual basis of accounting inform
users of those statements of past transactions
involving not only the payment and receipt of
cash during the reporting period, but also
Vũ Thị Loan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 237 – 242
238
obligations to pay cash or sacrifice other
resources of the entity in the future and the
resources of the entity at the reporting date.
Under the cash basis, as guided in IAS7
(International Accounting Standard 7), the
presentation of statement of cash flows of an
entity providesinformation about the
historical changes in cash and cash
equivalents of an entity during the period.
Cash and cash equivalents comprise cash on
hand and demand deposits, together with
short-term, highly liquid investments that are
readily convertible to a known amount of
cash, and that are subject to an insignificant
risk of changes in value. Guidance notes
indicate that an investment normally meets
the definition of a cash equivalent when it has
a maturity of three months or less from the
date of acquisition. Equity investments are
normally excluded. Bank overdrafts which are
repayable on demand are included as a
component of cash and cash equivalents. To
present the statement of cash flows, the direct
method is encouraged, but the indirect
method is acceptable.
Cash flows must be analyzed between
operating, investing and financing activities
according to the key principles specified by
IAS 7 for the preparation of a statement of
cash flows.
Financial statement analysis approaches
Before 1970s, Du Pont has commonly used as
a model financial performance measurement.
This model calculates a set of financial ratios
that integrates company’s profitability and
asset management, measuring its liquidity,
leverage and efficiency. Du Pont model is
mainly based on accounting information from
balance sheet and income statement which are
provided by accrual basis. Beaver (1967)
conducted a research in the application of
ratio analysis into bankruptcy prediction. He
adopted univariate analysis with 14
accounting ratios separately to find the
difference in financial ratios structure
between failed and non-failed companies. He
stated that the cash basis was more reliable in
which the debt ratio was the best single ratio
predictor with a 78% accuracy in predicting
bankruptcy [2].
Recently, several researches have been taken
to discover the difference between accrual
basis and cash basis in predicting the financial
performance of a company. Zeljana (2010)
investigates any difference in company’s
financial performance by using two sets of
ratios involve accrual accounting basis and
cash accounting basis [5]. Data collected is
analyzed using data reduction method in order
to detect the relations between accrual ratio
group and cash ratio group. The finding shows
that assessment of business performance based
on cash flow ratios will provide more accurate
and reliable information than the one based on
accrual ratios.
Danescu and Rus (2013) conduct a SWOT
analysis to discover the strengths and
weaknesses of the two accounting model:
accrual model and accrual model. In term of
providing more transparent and systematics
knowledge about economic commitments, the
accrual accounting basis is more useful than
cash basis while cash basis is useful and
provides sufficient information in small entities
in which the recognition of income and
expenses coincide with the time of payment [3].
Mills andYamamura(1998) also appreciate
cash basis by stating that cash flow ratios
provide fully understand of a company’s
viability as an ongoing concern. In their
article, they introduce a group of simple cash
flow ratios: Operating Cash Flow (OCF),
Funds Flow Coverage ratio, Cash interest
coverage ratio, and Cash current debt
coverage ratio. Providing the application of
cash flow ratios, the article suggests that the
auditors should calculate the cash flow ratios
during auditing planning stages to obtain a
more accurate picture of the company [4].
The methods used in those above methods
can be classified into 3 main groups:
Vũ Thị Loan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 237 – 242
12
239
(i)Statistical models (ii)Artificially Intelligent
Expert System (AIES) models; (iii) Theoretic
models. The results of Adnan and Dar’s study
(2006) the analyzed model using financial ratios
together with discriminant analysis are
commonly applied in the period 1968-2005 [1].
It can be noted that the results are not
consistent from many relevant studies.
Scientist’s opinion are contradictory: Ones
claim that both groups of information provide
the same results, while others claim that
accrual ratios are superior to cash flow ratios
and provide better results, and vice versa.
Therefore, a research to investigate the
relations between the financial performance
and accrual basis and cash basis ratios of
companies in Vietnam is necessary.
METHODOLOGY
In line with similar research of Zeljana (2010),
factor analysis (Principle Component Varimax
Analysis) as a the data reduction method was
applied to discover the relations between
independent variables and dependent variable.
The sample chosen consists of 168 companies
listed in Hochiminh stock exchange.
Therefore, the data used for analyzed is
provided from the income statements, balance
sheets, and cash flow statements of these
companies. The companies were separated
into two group, good companies and bad
companies.The first group consists of
companies having profit in the last five years
while those suffering a loss at least one
financial year belong to the bad group.
In order to investigate the importance of
accrual accounting basis and cash basis, the
research use two sets of ratiosusing
information from accrual basis and
information from cash basis given from the
statement of cash flows (Table 1 and table 2).
Accrual ratios and cash ratios are analyzed by
factor analysis run by SPSS 11.5to identify
factors that explain the pattern of correlations
within observed variables. Factor analysis is
often used in data reduction to identify a
numberof factors explaining most of the
variance observed in a much larger number of
manifest variables.
In the next step, linear discriminant analysis is
used to determine the relative importance of
influence of selected indicators and to
calculate the score that will be used to
discriminate between good and bad
companies. The linear discriminant functions
are presented:
Table 1. Description of accrual ratios
Ratio Description
Liquidity ratios
CR- current ratio Current assets/Current liabilities
QR - quick ratio (Current assets – Inventories)/ Current liabilities
WC/CA – working capital/ current
assets
(Current assets – Curr.liabilities)/Total assets
CA/TA - current to total assets Current assets/Total assets
Solvency ratios
DR - debt ratio Total liabilities/ Total assets
ICR - interest coverage ratio EBIT / Interest expenses
FSC - financial stability Coefficient (Equity +Long term liabilities)/(Long-term assets +Inventories)
Profitability ratios
ROA - return on assets EBIT- Earning before Interest and Tax/Total assets
ROE - return on equity Net profit/Owner’s equity
ROS - return on sales Net profit/Total revenue
Investment efficiency ratios
PER - price earnings ratio Average market price/ Earnings per share
Source: Zeljana (2010)
Vũ Thị Loan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 237 – 242
240
Table 2. Description of cash ratios
Ratio Description
Liquidity ratios
CFR - cash flow ratio Operating cash flow/ Current liabilities
CNCR - critical needs cover ratio Operating cash flow + Interest paid/ Interest + current
debts + dividends
FCF1/OCF -free cash flow 1 to operating
cash flow
Free cash flow 1/ Operating cash flow
FCF2/OCF -free cash flow 2 tooperating
cash flow
Free cash flow 2/ Operating cash flow
Solvency ratios
CFO/TD - cash flow from operations to
total debt
Operating cash flow/ Total liabilities
CICR - cash interest coverage ratio O.cash flow–Current debt + Interest/ Interest paid
FS - financial strength (Net profit + Depreciation) x 5/ Total liabilities
Profitability ratios
CROA cash return on assets Operating cash flow/Total assets
CROE - cash return on equity Operating cash flow/ Owner’s equity
CROS - cash return on sales Operating cash flow/ Sales revenue
EQ - earnings quality Operating cash flow/ EBIT
Investment efficiency ratios
PCFR - price to cash flow ratio Average market price per share/Cash flow per share
Source: Zeljana (2010)
Where: : aggregate score
of company’s financial performance (ACCR –
based on accrual ratios;
CF – based on cash flow ratios)
: constant
independent latent variable
coefficients
: independent accruals latent
variables
: independent accruals latent
variables
The below hypothesizes are tested:
H0:There is no statistically significant
difference in company’s performance
measurement if cash flow ratio model isused
rather than accrual information model.
H1:There is statistically significant difference
in company’s performance measurement if
cash flow ratio model isused rather than
accrual information model.
RESULTS
Factor analysis was applied using two sets of
ratios: accrual ratios with 11 ratios and cash
ratios with 12 ratios to find out structure in
relations between variables. The principal
component analysis with Varimax rotation
method using SPSS allow researchers to
identify the latent variables corresponding
with each factor. The latent variables are the
ones with the highest correlation which are
greater than 0.3.
In each model, 4 factors (latent variables)
were extracted, all explaining over 60% of the
variance. The rotated component matrix is
shown in the table 3for accrual model and
cash model.
Multiple discriminant analysis was then taken
in order to detect the level of importance of
each latent variable to the financial
performance. The step-to-step method was
applied to remove the variables that
contribute least to the prediction of
groupqualification.The following
discriminant functions are obtained for
accrual model and cash model respectively:
(1)
Where: P = Profitability latent variable
I = Investment latent variable
S = Solvency latent variable
Vũ Thị Loan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 237 – 242
12
241
Table 3. Rotated Component Matrix for accrual ratios
Rotated Component Matrix for accrual ratios Rotated Component Matrix for cash ratios
Component Component
1 1 2 3 1 2 3 4
Liquidity ratios
CR .614 .446 -.253 -.049 CFR .834 .324 .042 -.076
QR .784 .423 -.114 .110 CNRN .857 .219 .071 -.144
WC/CA .936 -.267 -.035 -.031 FCF1/OCF .623 .147 .428 -.083
CA/TA .868 -.450 -.038 -.064 FCF2/OCF .684 .040 .380 .089
Solvency ratios
DR -.668 .695 -.044 .033 CFO/TD -.117 .733 -.218 .140
ICR .228 .519 -.202 -.400 CICR .218 553 -.186 -.247
FSC .524 .707 -.172 .020 FS -.191 -.479 .099 -.025
Profitability ratios
ROA -.134 .338 .844 .033 CROA -.128 -.074 .891 .006
ROE .287 .396 .657 .164 CROE -.201 -.148 .683 .089
ROS .055 .175 .636 .103 CROS .293 -.185 .645 -.322
Investment efficiency ratios
PER .003 .088 -.294 .899 EQ -.057 .024 .805 .158
PCFR -.122 .028 -.300 .766
Table 4. Test result for discriminant power evaluation
Accrual model Cash model
Parameter PerformanceACCR Parameter PerformanceCASH
Canonical Correlation .625 Canonical Correlation .660
Eigenvalue .639 Eigenvalue .268
Wilks’ Lambda .610 Wilks’ Lambda .789
Chi-square 78.854* Chi-square 36.569*
*statistically significant at 0.01 level
As can be seen in function (1), in accrual
ratios model (PerformanceACCR), ratios
grouped intofactor profitability (P) have the
greatest relative importance while latent
variable of investment (I)has lowest impact
weight of 0.002. The positive impact on
company’s performance, means that
performance will be better if these factors
values are higher.The liquidity latent variable
is removed from the model because it has no
significant impact on the company’s
performance.
(2) Where: P = Profitability latent variable
L = Liquidity latent variable
S = Solvency latent variable
I = Investment latent variable
Function (2) shows that ratios in investment
latent variable have the greatest relative
importance to the company’s performance.
The contributions of liquidity latent variable,
solvency latent variable, and profitability
latent variable are extremely small.
It can be concluded from function (1) and (2),
there is difference between accrual model and
cash model in the identifying the level of
importance in the impact of latent variables
on discrimination of good and bad companies.
Accrual model emphasizes the largest
contribution ofprofitability latent variable to
the classification of companies while in cash
model, investment latent variable has
Vũ Thị Loan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 237 – 242
242
statistically significant impact on the
company’s performance.
The companies in the sample are chosen in 2 groups based on the profit of companies in the last 5 years. Companies that made profit in all 5 years are considered to be good and companies suffer at least a year loss are in bad group. Parameters for both models’ statistical validity and its discriminant power evaluation are shown in table 4.
The overall model is evaluated by canonical correlation coefficient and Wilks’ Lambda test of function’s eigenvalue. Thus, as canonical correlation coefficients are 0.625 and 0.66 respectively, it can be said that the obtained models are a good fit and have relatively high explicatory power. Other validity measure also indicates good model’s characteristics: Wilks’ Lambda coefficient that tests function’s significant of eigenvalue is statistically significant at 0.01 level for both models. The classification results show that the accrual model was found to be 78.5% accurate in predicting company’s performance while cash flow model has 68.2% overall accuracy in predicting company’s performance.
CONCLUSION
Results from the research demonstrated a
difference between accrual model and cash model as measurements in determining the
financial performance of a company in which
the accrual model has better discriminant power than the model based on cash ratios. In
the accrual model, profitability latent variable demonstrates a significant impact on
predicting the company’s performance in comparison with solvency latent variable and
investment latent variable while liquidity latent variable has insignificant impact on the
company’s performance. In the cash model, investment latent variable shows its greatest
contribution to the company’s performance while the contributions of other latent
variables are extremely small.
REFERENCES 1. Adnan Aziz, M; Dar, H.A. (2006), Predicting
corporate bankruptcy: where we stand?,
Corporate Governance, 6 (1), 18 - 33.
2. Beaver, W (1966), Financial ratios as
predictors of failure, Empirical research in
accounting: selected studies. Journal of
Accounting Research, Supplement, 71-111.
3. Danescu, Tatiana; Rus, Luminita (2013),
Comparative study on accounting models “cash”
and “accrual”, AnnalesUniversitatisApulensis :
Series Oeconomica, 15 (2 ), 424-431.
4. Mills, John; Yamamura, Jeanne H. (1989), The
power of cash flow ratios,Journal of Accountancy,
186 (4), 53-55.
5. Zeljana A B. (2010), Cash flow ratios vs.
Accrual ratios: Empirical research on incremental
information content, The Business Review,
Cambridge, Vol.15 (2), 206-213.
TÓM TẮT
SO SÁNH VIỆC VẬN DỤNG CƠ SỞ KẾ TOÁN TIỀN MẶT VÀ KẾ TOÁN
DỒN TÍCH TRONG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Vũ Thị Loan*, Hà Mạnh Tuấn Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm xem xét mối quan hệ giữa các chỉ số tài chính xây dựng từ
cơ sở kế toán dồn tích và cơ sở kế toán tiền mặt với tình hình tài chính của công ty. Từ kết quả
phân tích sẽ cho biết cơ sở kế toán tiền mặt hay dồn tích là đáng tín cậy và chính xác hơn trong
việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Phương pháp phân tích nhân tố cùng với phân tích cá biệt
đã được tiến hành với số liệu tài chính thu thập từ 168 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy cơ sở kế toán dồn tích là thích hợp
hơn trong việc phân tích tài chính của các công ty nói trên.
Từ khóa: cơ sở kế toán dồn tích, cơ sở kế toán tiền mặt, tình hình tài chính, phân tích báo cáo tài
chính, chỉ sô phân tích tài chính
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Hoàng Thị Thu – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0974 943069, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Tuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 243 – 249
12
243
ĐIỀU CHỈNH MỨC LƯƠNG TÔI THIỂU VÙNG –
CHẶNG ĐƯỜNG 20 NĂM CHƯA VỀ ĐÍCH
Nguyễn Thị Tuân*
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Xây dựng mức tiền lương tối thiểu là nội dung quan trọng của chính sách tiền lương. Ở Việt Nam,
chính sách tiền lương được Đảng và Nhà nước thực sự quan tâm và đã bắt đầu tiến hành công cuộc
cải cách từ năm 1993. Sau 20 năm cải cách, mức tiền lương tối thiểu nói chung và mức lương tối
thiểu vùng nói riêng không ngừng được điều chỉnh tăng. Tuy nhiên, kết quả của quá trình điều
chỉnh đó chưa thực sự như mong muốn. Khi sửa Luật lao động năm 2012, các nhà làm luật, làm
chính sách đã đặt mục tiêu như một cam kết với người lao động (NLĐ) là phấn đấu đến năm 2015
lương tối thiểu phải bằng mức sống tối thiểu. Song, đến nay, mức lương tối thiểu được cho là mới
chỉ đáp ứng được 70-75% mức sống tối thiểu của người lao động. Trong thời gian tới, lộ trình điều
chỉnh mức tiền lương tối thiểu vùng cần được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra trong
Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7, Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá XI "Từng bước điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng phù hợp với tình hình sản xuất
kinh doanh và nhu cầu tối thiểu của người lao động".
Từ khóa: tiền lương tôi thiểu, lương tôi thiểu vùng, mưc sông, người lao động, Luật Lao động ĐẶT VẤN ĐỀ*
Đối với tất cả các quốc gia, chính sách tiền
lương là một trong những bộ phận quan trọng
bậc nhất trong hệ thống chính sách kinh tế -
xã hội của đất nước, có liên quan chặt chẽ đến
động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế,
nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
nước, khai thác và phát huy tiềm năng vô hạn
từ người lao động (NLĐ). Xây dựng mức
lương tối thiểu là một trong những nội dung
quan trọng của chính sách tiền lương.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu cải cách chính
sách tiền lương là công việc quan trọng mà
Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, tập
trung đầu tư nghiên cứu và đã được thực hiện
với các quy định tạm thời từ ngày 1.4.1993.
Sau 20 năm thực hiện đề án cải cách chính
sách tiền lương, nước ta đã nhiều lần điều
chỉnh mức tiền lương tối thiểu. Việc điều
chỉnh này dựa trên mức tăng trưởng kinh tế,
chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của ngân
sách nhà nước và đã đem lại những thành quả
nhất định. Theo đó, mức tiền lương tối thiểu
không ngừng được điều chỉnh tăng nhưng tiền
lương thực tế được cải thiện không đáng kể,
mức tiền lương tối thiểu mới chỉ bảo đảm bù
* Tel: 0982 910859, Email: [email protected]
trượt giá là chính, chưa bảo đảm được mức sống
tối thiểu cho người lao động (NLĐ), chưa phù
hợp với giá trị lao động, chưa khuyến khích
tăng năng suất và hiệu quả lao động.
Thời gian tới, mức tiền lương tối thiểu cần
phải đảm bảo mức sống tối thiểu thực tế và
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế cũng
như khả năng chi trả của nền kinh tế trong
từng giai đoạn và tiền lương thực sự là đòn
bẩy kinh tế, lương tối thiểu chung là lưới an
toàn xã hội, chống bóc lột, đói nghèo, làm
chuẩn cho chính sách xã hội và việc làm bền
vững, đó là vấn đề cấp bách trong bối cảnh
hiện nay của nước ta.
MỨC LƯƠNG TỐI THIỂU VÙNG - BAN
CHẤT, Ý NGHĨA VA CÁCH XÁC ĐỊNH
Bản chất của mức lương tối thiểu vùng
Theo Luật Lao động 2012, tiền lương là
khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho
NLĐ để thực hiện công việc theo thỏa thuận
căn cứ vào năng suất lao động và chất lượng
công việc. Tiền lương bao gồm mức lương
theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp
lương và các khoản bổ sung khác. Luật Lao
động cũng đưa ra khái niệm về mức lương tối
thiểu: “Mức lương tối thiểu là mức thấp nhất
trả cho NLĐ làm công việc giản đơn nhất,
trong điều kiện lao động bình thường và phải
Nguyễn Thị Tuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 243 – 249
244
bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của NLĐ và
gia đình họ”
Hiện tại, chế độ tiền lương nước ta đang duy
trì song song hai hệ thống tiền lương tối thiểu
là tiền lương tối thiểu chung và tiền lương tối
thiểu vùng (ngành). Mức lương tối thiểu
chung được dùng làm cơ sở để tính các mức
lương trong hệ thống thang lương, bảng
lương, mức phụ cấp lương và thực hiện một
số chế độ khác theo quy định của pháp luật ở
4 loại hình cơ quan, đơn vị tổ chức thuộc khu
vực hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước.
Mức lương tối thiểu vùng là mức lương tối
thiểu được xác lập cho từng vùng theo đơn vị
quản lý hành chính (vùng I, vùng II, vùng III,
vùng IV). Mức lương tối thiểu ngành được
xác lập trên cơ sở mức lương tối thiểu vùng
và thông qua thương lượng tập thể ngành.
Cụ thể hơn, mức lương tối thiểu vùng là mức
lương tối thiểu được xác định theo từng vùng
bởi Chính phủ căn cứ vào nhu cầu sống tối
thiểu của NLĐ, điều kiện kinh tế - xã hội và
mức tiền lương trên thị trường lao động trên
cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương
quốc gia. Mức lương tối thiểu vùng là cơ sở
để xác định mức lương phải trả cho NLĐ làm
việc ở các doanh nghiệp trong nước (công ty,
doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang
trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác
của Việt Nam có thuê mướn lao động) và
doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài,
tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài
tại Việt Nam của Chính phủ). Do đó, về bản
chất, mức lương tối thiểu vùng là mức giá sàn
của sức lao động mà theo đó, các doanh
nghiệp không được trả lương thấp hơn mức
lương tối thiểu vùng đã được Chính phủ quy
định theo từng vùng tương ứng. Mức lương
tối thiểu vùng cũng là cơ sở để xác định mức
lương tối thiểu ngành.
Ý nghĩa của mức lương tối thiểu vùng
Mức tiền lương tối thiểu nói chung và mức
tiền lương tối thiểu vùng nói riêng có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Đối với NLĐ, tiền lương
là bộ phận chủ yếu của thu nhập, là nguồn để
tái sản xuất sức lao động. Mức tiền lương tối
thiểu là điều kiện đảm bảo nhu cầu sống tối
thiểu - điều kiện có tính quyết định, cần thiết,
bảo đảm cho NLĐ sống, hoạt động lao động,
được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản, tối
thiểu về văn hoá, tinh thần.. Một góc độ khác,
nó như tấm lưới ngăn cản mọi hình thức bóc
lột quá mức sức lao động của những NLĐ
làm thuê Mức lương tối thiểu là mức thấp
nhất mà người sử dụng lao động trả cho NLĐ
khi làm những công việc bình thường trong
điều kiện bình thường. Do vậy, đối với người
sử dụng lao động, tiền lương tối thiểu là một
căn cứ để xây dựng chính sách lương, thưởng
cho NLĐ, từ đó phát huy triệt để vai trò đòn
bẩy kinh tế của tiền lương trong công tác
quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Ở tầm vĩ
mô, tiền lương nói chung và mức lương tối
thiểu nói riêng là công cụ điều tiết và quản lý
nền kinh tế của Nhà nước nhằm giải quyết
những vấn đề kinh tế xă hội, đảm bảo sự ổn
định và phát triển. Tác động qua lại giữa
chính sách tiền lương phù hợp với năng suất,
chất lượng, hiệu quả lao động là yếu tố để
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà
nước, phát triển sản xuất kinh doanh, tăng
trưởng kinh tế, ổn định xã hội.
Xác định tiền lương tối thiểu vùng
Mức lương tối thiểu vùng được xác lập căn cứ
vào căn cứ vào mức sống tối thiểu của từng
vùng. Mức sống tối thiểu được đại đa số các
nhà nghiên cứu, nhà làm luật, nhà quản lý, chỉ
đạo thực tiễn và NLĐ thống nhất rằng đó là
mức để con người có thể tồn tại, bảo đảm một
cuộc sống khỏe mạnh, lâu dài và một nhu cầu
văn hóa tối thiểu.
Mức sống tối thiểu thực chất là mức độ thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu.
Trong một chừng mực nào đó, mức sống tối
thiểu được đánh giá thông qua các mức chi
tiêu thực tế thấp nhất cho nhu cầu sống của
các thành viên trong xã hội gọi là nhu cầu
sống tối thiểu. Ở mức độ khái quát nhất, nhu
cầu sống tối thiểu được thể hiện ở nhu cầu
lương thực, thực phẩm; nhu cầu phi lương
thực, thực phẩm; nhu cầu để nuôi con. Trong
đó, ở các nước đang phát triển như sau:
- Nhu cầu lương thực, thực phẩm được xác
định trên cơ sở giỏ hàng hóa tiêu dùng (tư liệu
sinh hoạt) cần thiết, cung cấp năng lượng
Nguyễn Thị Tuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 243 – 249
12
245
hằng ngày cho NLĐ. Theo Tổng cục Thống
kê, ở Việt Nam, giỏ hàng hóa được tính trên
58 mặt/nhóm hàng, trong đó 45 nhóm có thể
lượng hóa, tính toán được, đủ cả lượng và giá
của từng mặt hàng, để cung cấp mức năng
lượng tương đương 2.300 kcalo/1 người/1 ngày,
được xem là đủ duy trì mức sống tối thiểu cho
NLĐ trong các nước đang phát triển.
- Nhu cầu phi lương thực, thực phẩm bao gồm
các chi phí thiết yếu về mặc (quần, áo), nhà ở,
điện, nước, nhu cầu văn hóa, giáo dục, y tế...
- Đồng thời, mỗi NLĐ được tính thêm 70%
nhu cầu sống tổi thiểu của bản thân dành cho
nhu cầu nuôi dạy, chăm sóc con cái tối thiểu.
Từ đó, có thể xác định mức sống tối thiểu của
một NLĐ như sơ đồ bên dưới.
Như vậy, để xác định mức lương tối thiểu,
phải xuất phát từ nhu cầu sống tối thiểu theo
đó mức sống tối thiểu phải gồm chi tiêu cho
nhu cầu về hàng hóa lương thực thực phẩm,
chi tiêu cho nhu cầu về hàng hóa phi lương
thực thực phẩm và chi tiêu cho nhu cầu nuôi
con. Theo ông Nguyễn Tiến Đăng, Trưởng
phòng Tiền lương, Vụ Lao động - Tiền lương,
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội: “ Ở
Việt Nam, việc điều chỉnh lương tối thiểu
vùng căn cứ vào nhu cầu lương thực thực
phẩm chiếm 55% và nhu cầu phi lương thực
thực phẩm chiếm 45%”.
MỨC TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU VÙNG LIÊN
TỤC TĂNG TRONG SUỐT 20 NĂM QUA
Giai đoạn 1993-2007
Tháng 5.1993, Đảng và Nhà nước tiến hành
cải cách tiền lương, ban hành hệ thống lương
mới theo hướng thiết lập hệ thống tiền lương
theo hệ số với mức lương tối thiểu là 120.000
đồng/ tháng, tương đương với 60 kg gạo, bảo
đảm 2.100 calo cho một người/ngày, … Liên
tiếp các năm sau đó, Nhà nước thực hiện các
đợt điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu theo
hướng tăng lên. Cụ thể:
1-Mức lương tối thiểu áp dụng từ ngày
01/01/1997- 31/12/1999 là 144.000 đồng/ tháng
2-Mức lương tối thiểu áp dụng từ ngày
01/01/2000- 31/12/2001 là 180.000 đồng/
tháng (tăng 25%)
3-Mức lương tối thiểu áp dụng từ ngày
01/01/2002 là 210.000 đồng/ tháng (tăng 16,7 %)
4-Mức lương tối thiểu áp dụng từ ngày
01/01/2003-30/09/2004 là 290.000 đồng/
tháng (tăng 38 %)
5-Mức lương tối thiểu áp dụng từ ngày
01/10/2005 là 350.000 đồng/ tháng (tăng 20,7 %)
6-Mức lương tối thiểu áp dụng từ ngày
01/10/2006- 31/12/2007 là 450.000 đồng/
tháng (tăng 28,6 %)
Như vậy, từ 1993 đến 2007, sau 14 năm mức
lương tối thiểu được nâng lên một cách liên
tục (tăng từ 120.000đồng/người/tháng vào
năm 1993 lên 450.000đồng/người/tháng vào
năm 2007 với mức tăng
330.000đồng/người/tháng tương ứng tỷ lệ
tăng là 275%). Sự gia tăng đó là để bù sự
trượt giá vào lương, nhằm bảo đảm lương
thực tế cho NLĐ. Nhưng mức lương tối thiểu
này được cho là thấp và vẫn không đủ để duy
trì cuộc sống NLĐ do mức sống, thói quen,
tập quán đã thay đổi, tư liệu sinh hoạt cẩn
thiết cho cuộc sống đã mở rộng và nâng cao
hơn, giá cả hàng hoá thiết yếu và giá cả các
mặt hàng khác tăng lên nhanh chóng. Mặt
khác, mức sống và giá cả sinh hoạt có sự
chênh lệch khá lớn giữa các vùng miền trong
khi cả nước vẫn áp dụng chung một mức
lương tối thiểu (chỉ có sự phân biệt giữa NLĐ
làm việc cho các doanh nghiệp trong nước và
làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài).
Mức sống
tối thiểu
một NLĐ
Mức chi tiêu cho
nhu cầu tối thiểu về
lương thực thực
phẩm
Mức chi tiêu
tối thiểu cho
việc nuôi con
Mức chi tiêu cho
nhu cầu tối thiểu về
phi lương thực thực
phẩm
= + +
Nguyễn Thị Tuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 243 – 249
246
Giai đoạn 2008-2015
Từ năm 2008, Chính phủ tiến hành phân chia cả nước thành 4 vùng để xác lập vùng lương tối
thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế, giá cả và mức sống của từng vùng; bên cạnh đó vẫn tiếp tục
phân biệt hai khối đơn vị sử dụng lao động thêm 2 năm nữa (2008 và 2009) là doanh nghiệp nước
ngoài và doanh nghiệp trong nước.
Tổng hợp các lần điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng từ 2008-2015 như sau:
Bảng 1. Các mưc lương tôi thiểu vùng áp dụng cho khôi các doanh nghiệp trong nước từ 2008-2015
(Đơn vị tính: nghìn đồng/tháng)
Năm Vùng I Vùng II Vùng III Vùng IV Văn bản
2008 620 580 540 540 Nghị định số 168/2007/NĐ-CP
2009 800 740 690 650 Nghị định số 110/2008/NĐ-CP
2010 980 880 810 730 Nghị định số 97/2009/NĐ-CP
2011 1.350 1.200 1.050 830 Nghị định số 108/2010/NĐ-CP
2012 2.000 1.780 1.550 1.400 Nghị định số 70/2011/NĐ-CP
2013 2.350 2.100 1.800 1.650 Nghị định số 103/2012/NĐ-CP
2014 2.700 2.400 2.100 1.900 Thông tư 02/2014/TT-LĐTBXH
2015 3.100 2.700 2.400 2.200 Dự kiến (*)
(*):Theo phương án tăng lương đã đươc Hội đồng tiền lương Quôc gia họp và thông qua ngày 6/8/2014
(Nguồn: Tổng hơp từ trang Chinhphu.vn)
Bảng 2. Các mưc lương tôi thiểu vùng áp dụng cho khôi các doanh nghiệp nước ngoài từ 2008-2014 (Đơn vị tính: nghìn đồng/tháng)
Năm Vùng I Vùng II Vùng III Vùng IV Văn bản
2008 1.000 900 800 800 Nghị định số 167/2007/NĐ-CP
2009 1.200 1.080 950 920 Nghị định số 111/2008/NĐ-CP
2010 1.340 1.190 1.040 1.000 Nghị định số 98/2009/NĐ-CP
(Nguồn: Tổng hơp từ trang Chinhphu.vn)
Việc xác định mức lương tối thiểu vùng dành riêng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài bắt đầu từ năm 2011 không thực hiện nữa nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các
loại hình doanh nghiệp.
Bảng 3. So sánh mưc lương tôi thiểu vùng áp dụng cho khôi các doanh nghiệp trong nước từ 2008-2015
So sánh
Vùng I Vùng II Vùng III Vùng IV
Mức tăng
(nghìn
đồng)
Tỷ lệ
tăng
(%)
Mức tăng
(nghìn
đồng)
Tỷ lệ
tăng
(%)
Mức
tăng
(nghìn
đồng)
Tỷ lệ
tăng
(%)
Mức
tăng
(nghìn
đồng)
Tỷ lệ
tăng
(%)
2009-2008 180 29,03 160 27,59 150 27,78 110 20,37
2010-2009 180 22,50 140 18,92 120 17,39 80 12,31
2011-2010 370 37,76 320 36,36 240 29,63 100 13,70
2012-2011 650 48,15 580 48,33 500 47,62 570 68,67
2013-2012 350 17,50 320 17,98 250 16,13 250 17,86
2014-2013 350 14,89 300 14,29 300 16,67 250 15,15
2015-2014 400 14,81 300 12,50 300 14,29 300 15,79
2015-2008 2.480 400,00 2.120 365,50 1.860 344,40 1.660 307,40
(Nguồn: Tổng hơp và tính toán của tác giả)
Qua mỗi năm, mức tiền lương tối thiểu của từng vùng đều có sự gia tăng, từ 80.000 đồng/tháng
đến 650.000 đồng/tháng với tỷ lệ tăng từ 12,5% đến 68,67%. Mức gia tăng cao nhất qua các kỳ
tăng lương đạt được ở vùng I, thấp nhất ở vùng IV; xét theo năm thì năm 2012 mức tiền lương tối
thiểu các vùng đều tăng mạnh nhất (từ 500.000 đến 650.000 đồng/tháng, tương ứng với tỷ lệ tăng
từ 48,15% đến 68,67%).
Nguyễn Thị Tuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 243 – 249
12
247
Tính từ năm 2008 đến năm 2015, mức tăng của tiền lương tối thiểu đã tăng thêm 2.480.000
đồng/tháng ứng với tỷ lệ tăng 400% ở vùng I; với các vùng II, III và IV các con số đó tương ứng
là 2.120.000 đồng/tháng (365,5%), 1.860.000 đồng/tháng (344,4%), 1.660.000 đồng/tháng
(307,4%).
Sự gia tăng đó được thể hiện rõ nét hơn qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1. Mưc tiền lương tôi thiểu vùng qua các năm áp dụng cho khôi các doanh nghiệp trong nước
LIỆU MỨC SỐNG TỐI THIỂU CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG CÓ ĐƯỢC ĐAM BAO?
Theo kết quả khảo sát 1.500 công nhân tại 60
doanh nghiệp ở 12 tỉnh/ thành phô trên cả
nước về vấn đề tiền lương, mưc sông tôi thiểu
do Viện Công nhân và Công đoàn - Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam thực hiện vào quý I
và quý II/2014, tiền lương trung bình của
NLĐ, bao gồm cả các loại phụ cấp và làm
thêm giờ hiện mới đạt 3,667 triệu
đồng/người/tháng. Nhiều doanh nghiệp nợ
lương và các khoản bảo hiểm nên lương nhận
về bình quân chỉ còn 3,14 triệu
đồng/người/tháng. Trong đó, số NLĐ có mức
lương hàng tháng dưới 2 triệu đồng là 5,2%,
dưới 3 triệu đồng là 27,8%; từ 3 triệu đến
dưới 4 triệu đồng là 34%; từ 4 triệu đến dưới
5 triệu đồng là 20,9%; trên 5 triệu đồng là
17,3%. Tại Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội,
mức lương trung bình xấp xỉ 4 triệu
đồng/người/ tháng; thấp nhất là ở Thái Bình,
với chỉ 2,97 triệu đồng/người/tháng. Khu
công nghiệp (KCN) Bắc Thăng Long, Hà Nội
- hơn 5 triệu đồng/tháng, KCN Thụy Vân,
tỉnh Phú Thọ - hơn 3 triệu đồng/tháng, KCN
Mê Linh, Hà Nội - 3 triệu đồng/tháng, KCN
Vĩnh Lộc, TPHCM đạt trên 4 triệu đồng cộng
với các khoản khác, thu nhập thực tế của
NLĐ cũng trên 5 triệu đồng/người/tháng.; so
với 4-5 năm trước, thu nhập thực tế đã giảm ít
nhất khoảng 40%.
So sánh với các nước trong khu vực, tiền
lương tối thiểu của Việt Nam còn thấp hơn
khoảng 40%. Hiện nay, ở một số nước như
Indonesia lương tối thiểu khoảng 250 USD,
Malaysia khoảng 350 USD – 400USD và ở
Hàn Quốc là 1.000 USD – 1.500USD (theo
ông Bùi Hồng Đô - Chủ Tịch LĐLĐ tỉnh Vĩnh
Phúc và bà Phạm Lan Hương, Viện Nghiên
cưu quản lý kinh tế Trung ương).
Trong khi đó, mức chi tiêu trung bình cho nhu
cầu sinh hoạt hàng tháng của NLĐ (có nuôi
con) đã lên tới 4,1 triệu đồng/tháng (trong đó,
vùng 1 là 4,78 triệu đồng, tăng 6,8% so với
2013; vùng 2 là 4,13 triệu đồng, tăng 10,5%,
vùng 3 là 3,85 triệu, tăng 8,5%, và vùng 4 là
3,31 triệu đồng, tăng so với 2013 là 6,2%).
Các khoản lương và thu nhập thêm (ngoài
lương) của NLĐ đã hầu như chi hết cho cuộc
sống thiết yếu, đạm bạc hằng ngày, vì vậy hầu
như không còn để tiết kiệm. Trong số 1.500
người được hỏi thì 47% trả lời hoàn toàn không
có tiền tiết kiệm; 53% trả lời có nhưng không
đáng kể, phần lớn khoảng từ 200.000 - 500.000
đồng mỗi tháng. Đây là bức xúc lớn nhất của
NLĐ trong các doanh nghiệp hiện nay.
Khi sửa Luật Lao động năm 2012, các nhà
làm luật và nhà làm chính sách đã đưa ra một
thông điệp có tính cam kết rằng: Phấn đấu
đến năm 2015 mức lương tối thiểu sẽ đáp ứng
Nguyễn Thị Tuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 243 – 249
248
được mức sống tối thiểu của người lao động.
Tuy nhiên, đến nay (2014), mức lương tối
thiểu vùng được nhiều chuyên gia đánh giá
đáp ứng 70-75 % mức sống tối thiểu. Thư
trưởng Thư trưởng Bộ LĐ-TB&XH, Chủ tịch
Hội đồng Tiền lương quôc gia Phạm Minh
Huân cũng cho rằng: “ Mức lương đề xuất tối
thiểu vùng đề xuất năm 2015 cũng chỉ dừng ở
mức đáp ứng 75 %.” Theo tính toán của một
số nhà nghiên cứu về chính sách lao động, các
đợt điều chỉnh lương tối thiểu trong mấy năm
qua thực chất chỉ là “bù trượt giá” nhưng vẫn
không bù nổi. Tiền lương quá thấp không đủ
trang trải nhu cầu tối thiểu của cuộc sống nên
hầu hết công nhân hiện không còn quan tâm
đến vấn đề “chất lượng sống”. NLĐ đang
sống dưới mức tối thiểu, hoàn toàn không có
khả năng tích lũy và tái tạo sức lao động. Đó
là thực trạng đáng báo động.
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Nhìn chung, mức tiền lương tối thiểu ở nước
ta hiện nay, tuy đã được cải cách, hoàn thiện
nhiều lần, nhưng cái đích cần đến vẫn còn là
một khoảng cách không nhỏ (25-30%), vẫn
còn những bất cập và tồn tại như:
Mức lương tối thiểu hiện nay còn thấp hơn
nhu cầu sống tối thiểu. Mức lương thấp,
không đủ để tái sản xuất giản đơn sức lao
động; lương thực tế bị hạ thấp; tiền lương
chưa trở thành đòn bẩy kinh tế, khuyến khích
NLĐ tích cực học tập, nâng cao trình độ,
nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
xuất. Hiện nay, lương tối thiểu vùng vẫn quy
định trả theo tháng tại 4 vùng, chưa áp dụng
theo ngày, giờ đối với các công việc không
trong ngày, công việc bán thời gian. Trong
khi đó, Bộ Luật Lao động quy định tiền lương
tối thiểu theo giờ, ngày. Việc phân vùng
lương tối thiểu theo địa giới hành chính
(quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh)
chưa phù hợp, có những tỉnh có tới 3 vùng
hưởng lương tối thiểu khác nhau. Điều này
dẫn tới việc dịch chuyển lao động từ vùng
lương tối thiểu thấp sang vùng cao.
Trong thời gian tới, lộ trình điều chỉnh mức
tiền lương tối thiểu vùng cần được thực hiện
nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra trong Kết
luận sô 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội
nghị Trung ương 7, Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI: "Từng bước điều chỉnh
tiền lương tối thiểu vùng phù hợp với tình
hình sản xuất kinh doanh và nhu cầu tối thiểu
của người lao động". Theo đó, lộ trình tới
năm 2017, mức lương tối thiểu phải ngang
bằng với mức sống tối thiểu của NLĐ và gia
đình họ. Để đạt được mục tiêu này, cần lưu ý
một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần có điều kiện và tiêu chí cụ thể
quy định mức sống tối thiểu để có thể dựa
trên cơ sở đó quy định mức lương tối thiểu.
Phải tính đúng, tính đủ những tư liệu sinh
hoạt thiết yếu đáp ứng cho nhu cầu tự nhiên
của lao động giản đơn trong từng ngành, từng
vùng nói riêng và trong cả nước nói chung.
Thứ hai, cần quy định mức lương tối thiểu
theo ngày, giờ đối với các công việc không
tròn ngày, công việc bán thời gian theo quy
định của Luật Lao động 2012.
Thứ ba, phải thường xuyên điều chỉnh mức
lương tối thiểu theo mức tăng của chỉ số giá
để bảo đảm lương thực tế không bị giảm sút.
Thứ tư, cần thống nhất với nhau một lộ trình
để thực hiện và năm nào cũng phải tăng lương
tối thiểu thì mới đảm bảo tính khả thi của lộ
trình trên.
Thứ năm, việc tăng lương phải dựa trên cơ sở
tăng năng suất và hiệu quả lao động, việc tăng
tiền lương phải đồng thời với mở rộng sản
xuất kinh doanh, tạo việc làm mới ổn định
cho người lao động.
Thứ sáu, cần có sự tham gia phối hợp chặt
chẽ và nghiêm túc của các cơ quan, tổ chức
liên quan như Tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam, Hội đồng tiền lương quốc gia… Mặt
khác, trong Hội đồng tiền lương ngoài đại
diện người sử dụng lao động và NLĐ nên có
một thành viên khác trung lập (đại diện của
giới luật sư hoặc các chuyên gia kinh tế hoặc
giảng viên của các trường đại học…).
Nguyễn Thị Tuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 243 – 249
12
249
TÀI LIỆU THAM KHAO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI
(2013), Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013
của Hội nghị Trung ương 7.
2. Chính phủ (2012), Luật Lao động 2012
3. TS. Nguyễn Hữu Nguyên (2013), Phân tích tính
khả thi của đề án cải cách tiền lương
4. TS. Nguyễn Thị Bích Hồng (2011), Mức lương
tối thiểu chung-Một số vấn đề đặt ra
5. http://chinhphu.com.vn
6. http://laodong.com.vn
7. http://kinhtevadubao.com.vn
SUMMARY
20 YEAR EXPERIENCE OF REGIONAL MINIMUM WAGE ADJUSTMENT IN
VIETNAM: AN UNFULFILLED JOURNEY
Nguyen Thi Tuan*
College of Economics and Business Administration - TNU
Building the level of minimum wage is an important content of wage policy of a nation. In Việt
Nam, the policy of wage regarded by The Party and The Government has begun the reformation
since 1993. For 20 years of reformation, the level of minimum wage as well as regional minimum
wage has continuously adjusted in the direction of raise. However, the result of adjustment
progress is not really as expected. Evenly, during adjusting the Labor Law 2012, law-makers and
policy-makers targeted the level of minimum wage must be equal to the minimum living level in
2015. Up to now, the level of minimum wage is considered to meet at 70-75% the minimum living
level of laborers. In the future, the progress of adjustment of regional minimum wage level must
be enforced in order to achieve the object of The conclusion No.63-KL/TW, dated 27/5/2013 of
Central Conference 7, Party Central Committee XI that “ step by step to adjust regional minimum
wage levels in accordance with situation of production and business and minimum needs of
laborers”
Keywords: minimum wage level, regional minimum wage, living levels, laborers, Law of Labor
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:30/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Đình Tuấn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0982 910859, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Tuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 243 – 249
250
Nguyễn Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 251 – 254
12
251
BÀI TOÁN CÂY STEINER VỚI KHOẢNG CÁCH CHỮ NHẬT
Nguyễn Thị Thu Hằng*, Nguyễn Thị Thu Hường, Phạm Hồng Trường Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trong bài báo này đưa ra một cách giải quyết khác đối với bài toán Steiner: “ Cho n điểm trong
mặt phẳng, tìm cây ngắn nhất đi qua n điểm sao cho các đỉnh của cây chứa n điểm”. Thông thường
các con đường là đường thẳng và khoảng cách giữa hai điểm là khoảng cách Euclid, tuy nhiên bài
báo này chúng ta sẽ xét bài toán Steiner với khoảng cách chữ nhật. Từ đó, đưa ra điều kiện cần cho
nghiệm của bài toán trong trường hợp tổng quát và lời giải cụ thể của bài toán trong trường hợp
5n .
Từ khóa: Khoảng cách chữ nhật, hình chữ nhật bao quanh, đỉnh bổ sung, dịch chuyển điểm, mạng lưới
MỞ ĐẦU*
Bài toán Steiner là bài toán được ứng dụng rất
nhiều trong thưc tế như trong xây dựng:
“Cho n thành phố, xây dựng một mạng giao
thông có tổng chiều dài ngắn nhất để một
khách du lịch có thể đi từ thành phố này đến
thành phố khác. Đường có thể đi ra bên ngoài
ranh giới của thành phố và có các điểm giao
cắt gọi là ngã ba. Các điểm giao nhau được
thêm vào để làm giảm tổng chiều dài của
mạng giao thông.”. Hay ứng dụng trong công
nghệ mạch: “Cho n điểm trên một bảng điện
được kết nối bằng các đường dây điện sao cho
tổng chiều dài ngắn nhất”.
Tuy nhiên, ở ví dụ thứ hai ta thấy các đường
dây điện trong bảng chỉ có thể chạy theo
chiều ngang hoặc dọc, đây chính là một ví dụ
của bài toán Steiner với khoảng cách chữ
nhật. Vì vậy, để giải quyết các bài toán thực
tế trên, trong bài báo này, chúng tôi xem xét
bài toán Steiner dưới góc độ khoảng cách chữ
nhật. Hay nói cách khác, các đường nối các
điểm cho trước trong bài toán là các đường
gấp khúc vuông góc đi theo chiều dọc và
ngang. Từ đó, đưa ra một số kết luận về
nghiệm của bài toán trong trường hợp này.
KIẾN THỨC CƠ SỞ
Định nghĩa 1: Khoảng cách chữ nhật: Cho
hai điểm 1 1 1;p x y , 2 2 2;p x y trong mặt
phẳng tọa độ. Khoảng cách chữ nhật
* Tel: 0984 894162, Email: [email protected]
1 2;d p p giữa 1p ,
2p được xác định bởi
công thức: 1 2 1 2 1 2;d p p x x y y
Định nghĩa 2: Hình chữ nhật bao: Cho n
điểm trong mặt phẳng, hình chữ nhật bao là
hình chữ nhật nhỏ nhất có các cạnh song song
với hai trục Ox và Oy với n điểm đã cho nằm
trong hoặc trên biên của nó.
Định nghĩa 3 : Trong đồ thị G hai điểm
;i jp p được gọi là kề nhau nếu chúng có
chung một cạnh ;i je p p khi đó e được
gọi là cạnh liên thuộc với ;i jp p .
Ta đặt iC p là tập hợp các đỉnh kề với ip .
Định nghĩa 4 : Bậc của đỉnh ip được ký hiệu là
w ip là số đỉnh kề với đỉnh ip trong đồ thị.
Định nghĩa 5: Hình chữ nhật bên trong R1:
trong mặt phẳng cho n điểm pi có tọa độ là
, ; 1,...,i ix y i n . Sắp xếp tập ix và
iy theo thứ tự tăng dần, sau đó vẽ các
đường thẳng song song với trục tung qua
2 3 1, ,..., nx x x và song song với trục hoành
qua 2 3 1, ,..., ny y y . Các đường thẳng này cắt
nhau tạo ra k giao điểm ( 2
2k n ), đặt là
1 2, ,..., kc c c . Hình chữ nhật lớn nhất được tạo
thành các điểm ic với 1,2,...,i k gọi là
hình chữ nhật bên trong R1 (các điểm ic có
thể nằm bên trong, trên cạnh hoặc tại đỉnh của
hình chữ nhật R1).
Nguyễn Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 251 – 254
252
Nhận xét 1: Trong trường hợp 2
2k n ,
hình chữ nhật bên trong R1 có thể suy biến
thành đoạn thẳng hoặc điểm. Tuy nhiên, trong
phạm vi bài báo này ta chỉ xét trường hợp
2
2k n .
Định nghĩa 6: Dịch chuyển điểm: Trong mặt
phẳng cho n điểm 1 2, ,..., np p p với hình chữ
nhật bên trong R1. Xét các góc phần tư
icU nằm bên ngoài R1 (được tạo thành bởi các
cạnh kéo dài của R1 và điểm ci đặt tại đỉnh
hoặc trên cạnh của hình chữ nhật trong R1),
điểm pj nằm bên trong góc phần tư icU thì ta
nói “pj dịch chuyển tới ci”.
Để giải quyết bài toán Steiner với khoảng
cách chữ nhật đặt là Sn ta xét thêm hai bài
toán phụ ;n nP T :
Bài toán nP : Cho n điểm 1 2, ,..., np p p trong
mặt phẳng, tìm một điểm q sao cho tổng
khoảng cách nối từ q đến , 1,...,ip i n là
ngắn nhất.
Bài toán nT : Cho n điểm trong mặt phẳng, hãy
tìm cây ngắn nhất mà các đỉnh chính là n điểm
đã cho ( hay trong cây không có đỉnh bổ sung).
BAI TOÁN STEINER VỚI 3 ĐIỂM
Định lý 1 : Trong mặt phẳng cho 3 điểm
1 2 3, ,p p p với tọa độ tương ứng là
, ; 1,2,3i ix y i , khi đó điểm q là lời giải
của bài toán P3 là điểm có tọa độ ,m mx y
với ,m mx y lần lượt là số ở giữa của tập ix
và iy .
Nhận xét 2 : Khái niệm số ở giữa của tập được
hiểu như sau: Ta sắp xếp ba số của tập ix
theo thứ tự tăng dần, khi đó số ở giữa của tập
ix chính là số ở vị trí thứ hai của tập.
Ta đặt 3 3 3, ,S P Td d d lần lượt là tổng khoảng
cách trong lời giải của các bài toán 3 3 3, ,S P T .
Định lý sau đây nói lên mối quan hệ giữa ba
bài toán 3 3 3, ,S P T .
Định lý 2 : Lời giải của bài toán S3, P3 là
đồng nhất, khi đó :
3 3 3
1
2S P Td d P R d với P(R) là chu vi
hình chữ nhật bao. Dấu bằng xảy ra nếu tồn
tại i sao cho iq p hay , ,m m i ix y x y .
Chưng minh: Trước hết, ta chú ý rằng quá
trình giải bài toán 3S chính là đi tìm các điểm
bổ sung.
Trường hợp 1: Trong ba điểm 1 2 3, ,p p p tồn
tại một điểm có hoành độ và tung độ đồng
thời là số ở giữa của tập ix và iy .
Không mất tính tổng quát giả sử điểm đó là
2p . Khi đó 1 3,q q nằm tại đỉnh của hình chữ
nhật bao R. Theo định lý 1, điểm q trong lời
giải của bài toán P3 chính là điểm 2p , ta
có: 3
1
2Pd P R .
Do đó, cây nối 3 điểm 1 2 3, ,p p p theo khoảng
cách hình chữ nhật chính là lời giải của bài toán
3S (đặt là G) và không cần thêm đỉnh bổ sung.
Vậy nghiệm của bài toán 3P và S3 đồng nhất.
Đặc biệt, vì lời giải của bài toán 3S trong
trường hợp này không có đỉnh bổ sung nên
3 3 3
1
2S P Td d P R d .( xem hình a).
Trương hợp 2: Trong ba điểm 1 2 3, ,p p p
không có điểm nào thỏa mãn hoành độ và
tung độ đồng thời là số ở giữa của tập ix
và iy . Không mất tính tổng quát , giả sử số
ở giữa của tập ix là 3x và số ở giữa của tập
iy là 2y . Theo định lý 1, điểm q được xác
đinh tại: 3 2;m mx x y y .
Vậy G đi qua 1 2 3, ,p p p và đỉnh bổ sung q
(xem hình b).
Nguyễn Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 251 – 254
12
253
ĐIỀU KIỆN CẦN CỦA NGHIỆM BAI
TOÁN Sn
Trước hết ta đưa ra một số kí hiệu : Trong bài
toán Sn giả sử G là một nghiệm, kí hiệu
, 1,...,ip i n là n điểm cho trước, ta gọi là p
– đỉnh và , 1,...,iq i k là k điểm bổ sung gọi
là q – đỉnh. Đặt P là tập gồm các p – đỉnh và
Q là tập gồm các q – đỉnh. Khi đó ta nói
; 1,...,ia P Q i n k là một đỉnh bất kỳ
của G.
*Điều kiện cần để G là nghiệm của bài toán
Sn :
i. 3iw q hoặc 4 với i = 1,...,k.
ii. 1 w 4 1,...,ip i n
iii. 0 2k n
Bổ đề 1: Cho n điểm trong mặt phẳng G là
một nghiệm của Sn , nếu G’ là một đồ thị con
của G đi qua m điểm trong n điểm đã cho
( m n ) thì G’cũng là một nghiệm của Sm.
Định lý 3: Nếu q là một q – đỉnh bất kỳ của G
với bậc là 3 thì q có thể là đỉnh duy nhất của
G nằm bên trong hình chữ nhật bao R của
C(q).
Nhận xét 3: Nghiệm của bài toán Sn không
duy nhất vì có thể có nhiều cách chọn các
đỉnh bổ sung để tạo ra cây có độ dài ngắn
nhất.
Định lý 4: Cho ;p px y lần lượt là tập các
hoành độ và tung độ của n điểm pi cho trước.
Nếu ,j jq qx y là tọa độ của đỉnh bất kỳ
jq Q thì luôn tồn tại một nghiệm G của bài
toán Sn sao cho
; 1, 2,...,j jq p q px x y y j k với
2k n .
Nhận xét 4: Qua n điểm pi cho trước ta kẻ các
đường thẳng song song với các trục tọa độ để
tạo thành một mạng lưới. Khi đó, theo định lý
4, luôn tồn tại nghiệm G của bài toán Sn có tất
cả các điểm bổ sung q đều nằm tại giao của
các đường thẳng trong mạng lưới trên, ta đặt I
là tập các giao điểm này, hiển nhiên P I .
Đồng thời qua định lý này cũng chỉ ra một
cách để tìm nghiệm của bài toán Sn với
khoảng cách chữ nhật.
BAI TOÁN STEINER VỚI 4 ĐIỂM
Có rất nhiều cách tiếp cận để giải bài toán
Steiner với khoảng cách chữ nhật tuy nhiên
trong bài báo này chúng ta sẽ tập trung vào
các kết quả đưa ra từ định lý 4.
Bổ đề 2: Nếu 4 điểm cho trước của bài toán S4
đặt tại 4 đỉnh của hình chữ nhật bao quanh thì
4 42S Td d l w , trong đó l và w là chiều
dài và chiều rộng của hình chữ nhật bao R.
Trong trường hợp này sẽ có vô số cách chọn
tập điểm bổ sung Q bằng cách dịch chuyển
đường thẳng 1 2q q song song với trục Ox. Do
đó, có vô số nghiệm của bài toán S4 (xem
hình vẽ).
Định lý 5: Cho 4 điểm trong mặt phẳng, gọi l,
w lần lượt là chiều dài và chiều rộng của hình
chữ nhật bao quanh R; w1 là chiều rộng của
hình chữ nhật bên trong R1. Nếu 4 điểm pi
dịch chuyển tới 4 đỉnh phân biệt 1 2 3 4, , ,c c c c
của hình chữ nhật R1 thì: 4 1w wSd l .
Nếu 4 điểm pi dịch chuyển tới ít hơn 4 đỉnh
1 2 3 4, , ,c c c c của R1 thì: 4
wSd l .
Hệ quả 1: Nếu 4
wSd l thì nghiệm của
bài toán S4 là duy nhất, nếu4
wSd l thì bài
toán S4 có vô số nghiệm.
Nguyễn Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 251 – 254
254
BAI TOÁN STEINER VỚI 5 ĐIỂM
Nhận xét 5: Để giải quyết bài toán Steiner với
n = 5 ta đưa bài toán về bài toán 4 điểm bằng
phương pháp dịch chuyển điểm. Với 5 điểm
trên mặt phẳng, thì hình chữ nhật bên trong R1
sẽ tạo bởi 9 điểm. từ sự dịch chuyển của các p
– đỉnh ta có thể rút gọn bài toán Steiner với 5
điểm bất kỳ về trường hợp có ít nhất 2 điểm
nằm trên cùng 1 cạnh của hình chữ nhật bao
quanh R.
Định lý 6: Cho 5 điểm trên mặt phẳng với ít
nhất 2 điểm nằm trên cạnh của hình chữ nhật
bao R. Nếu có 4 điểm đặt tại các đỉnh của R
thì 5 4 5
wS S Td d l d với 4Sd là tổng độ
dài của nghiệm bài toán 4S với 4 điểm đặt tại
4 đỉnh của hình chữ nhật bao quanh. Nếu tất
cả 5 điểm đều nằm trên cạnh của R thì
5 5wS Td d l .
KẾT LUẬN
Ngày nay, bài toán Steiner với khoảng cách
chữ nhật được ứng dụng rộng rãi trong cuộc
sống như: xây dựng,công nghệ vi mạch. Để
giải quyết bài toán này việc quan trọng nhất là
xác định được các q – đỉnh bổ sung còn gọi là
các điểm Steiner. Trong bài báo này, đã đưa
ra một cách xác định các điểm bổ sung (theo
định lý 4) đó là tại các giao điểm trong mạng
lưới được tạo thành từ các đường thẳng song
song với các trục tọa độ đi qua n điểm cho
trước. Từ đó đưa ra các kết quả cụ thể với
5n . Như vậy, với n không quá lớn ta hoàn
toàn có thể tìm được chính xác nghiệm của
bài toán Sn bằng phương pháp này.
TAI LIỆU THAM KHAO 1. M. Bern and P. Plassmann, (1994), “The steiner
tree problem with edge lengths 1 and 2”,
Information Processing Letters, 32(4): 171- 176.
2. P.Berman and V. Ramaiyer, (1992), “Improved
Approximations for the steiner tree problem”, In
Proc. ACM/SIAM symp. Discrete Algorithms,
pages 325 -334, San Francisco.
3. D. Cieslik, (1998), “Steiner Minimal Trees”,
Kluwer Acadamic Publishers, The Netherlands.
4. T.H. Chao and Y.C. Hsu, (1994), “Rectilinear
steiner tree construction by local anhd global
refinement”, IEEE Transactiions Computer –
Aided Design, 13(3): 303 – 309.
5. X. Cheng and DZ. Du (2001) , “Steiner trees in
industry”, Kluwer Academic Publishers, The
Netherland
6. Claude Berge,(1961), “The Theory of Graphs”,
John Wiley, New York.
7. M.Hanan, “On Steiner’s problem with
rectilinear distance”, Siam Journal on applied
mathematics, Vol.14, No 2, pp 255-265
8. Richard L. Francis,(1963), “A note on the
optimum location of new machines in existing
plan layouts”, J.Indurt Engrg, 14, pp 57- 59.
9. R.C.Prim, (1952), “Shortest connecting
networks”, Bell System Tech. J, pages 1398 – 1401.
SUMMARY
THE STEINER TREE PROBLEM WITH RECTILINEAR DISTANCE
Nguyen Thi Thu Hang*, Nguyen Thi Thu Huong, Pham Hong Truong College of Economics and Business Administration - TNU
This paper is concerned with the following type of Steiner ’s problem: “Given n points in the plane
find the shortest tree(s) whose vertices contain these n points”. Usually, the roads are straight –
line connections and the distance between two points is the Euclidean distance. In this paper,
however, the rectilinear distance is used, several necessary conditions are given for any n and
exact solutions are constructed for 5n .
Keywords: rectilinear distance, enclosing rectangle, additional vertice, grid, transferre point
Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Văn Minh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0984 894162, Email: [email protected]
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SPECIAL ISSUE ON CELEBRATING 1O - YEAR – ANNIVERSARY
OF COLLEGE OF ECONOMICS & BUSINESS ADMINISTRATION - TNU
Content Page
Thai Nguyen Economics and Business Administration University: 10 years of establishment and development
(2004 – 2014) 3
Tran Chi Thien - The role of big countres in the world’s science and technology until 2020 7
Nguyen Thi Thu Huong, Do Thi Bac, Nguyen Thi Ngoc Dung - Development of gia thanh persimmon in Phu
Tho province towards commodity production 13
Do Quang Quy - Solution to promote the Vietnamese labor export 19
Nguyen Thi Gam, Pham Thi Thu Hang, Hoang Van Giap, Ngo Thi Van, Tran Van Tho - Factors influencing work motivation of employees working at the selected tax division, department of taxation, Vinh
Phuc province 25
Hoang Thi Thu - Determinants of economic growth in Vietnam 31
Nguyen Thanh Minh, Pham Thi Nga - Some solutions to improve the effectiveness of state management on mining in Thai Nguyen 39
Nguyen Van Minh, Nguyen Van Thao, Nguyen Thi Thu Hang - Stability of singular solution in solow growth
model 45
Do Thi Thuy Phuong - Improving tax inspection in Bac Can province 49
Nguyen Thi Lan Anh, Do Thuy Ninh - Role of corporate reorganization in manufacturing sector tea Thai
Nguyen, vision 2020 55
Tran Dinh Tuan, Nguyen Thi Chau, Tran Thi Anh Nguyet - Agricultural products sale market development in Bac Kan province 61
Vu Thi Hau, Mai Van Tan - Study on the relationship between economic restructuring and economic growth of
Ho Chi Minh city in the period of 1991 – 2012 69
Tran Quang Huy, Tran Xuan Kien - Export of commercial agricultural products from Vietnam to China: Shortcomings and suggested solutions 75
Tran Van Quyet, Nguyen Ngoc Ly, Le Chi Vinh - Using exploratory factor analysis model (EFAM) in
assessing quality of state bank staff: The case study of state bank of Vietnam - Thai Nguyen branch 83
Pham Van Hanh, Hoang Thi Hue - The effect of social norm on customer complaint behavior and switching intention 91
Pham Thi Ngoc Van - Developing labor export in Vietnam 97
Ta Thi Thanh Huyen, Nguyen Thi Phuong Hoa - Current situation of health care in public health facilities
under the department of health of Thai Nguyen and propose solutions 103
Nguyen Thi Phuong Hao - Results of 135 program in Vo Nhai distric of Thai Nguyen province 109
Ngo Thi Tan Huong, Pham Thi Nga, Dao Thi Tan - Discussion on the market economy social orientation
definition home in Vietnam 115
Ngo Thi Kim Quy – A monotone method for constructing extremal solutions to second order periodic boundary value problems 119
Nguyen Tien Lam, Nguyen Tien Phong, Hoang Chi Thanh, Phi Thi Hong Van, Tran Thi Tiep -
Implementation of running exercises in sports teaching and training 125
Pham Thi Nga, Ngo Thi Tan Huong - Conflict of performance market economy socialist oriented in Vietnam 131
Nguyen Viet Dung, Duong Thanh Tinh - Analysis of financial balance in listed cement industry in Vietnam 137
Journal of Science and Technology
124(10)
2014
Dong Van Dat, Le Thi Bich Ngoc - Solutions to complete the activities in marketing – mix corporationThai
Nguyen steel 143
Nguyen Quynh Hoa, Tran Thi Mai, Nguyen Thi Thu Huong - Some methodologies for enhancing the quality
of teaching advanced mathematics for first - year students at College of Economics and Business Administration
- TNU 151
Thai Thi Thai Nguyen - Selecting and using the allocated method of combined production cost at Thai Binh cement joint stock company 157
Pham Thi Thanh Mai, Nguyen Vinh Thuy - Some case studies of using renewable energy in power generation
in Vietnam 165
Ngo Thi My, Nguyen Thi Lan Anh - Sollutions for exporting tea products in Vietnam 173
Nguyen Thi Noi, Dam Thi Hanh, Le Thi Thu Huyen, Nguyen Thi Thuy - The gender equality issue – seen
from the study of H’Mong ethnic minority group in Vietnam 177
Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - Problems with applying anti -dumping law to practice in Vietnam 181
Bui Thi Thu Huong, Do Dinh Long, Le Ngoc Nuong, Dang Phi Truong, Ha Thi Hoa, Mai Viet Anh - The factors affecting the study outcomes ofmanagement course of students at Thai Nguyen University of Economics
and Business Administration 189
Tran Nhuan Kien - A comparative study on the impacts of trade expansion and FDI on employment in Korea
and Vietnam 195
Nguyen Khanh Doanh, Pham Thuy Linh - Impacts of intellectual property rights protection on Japan’s
commodity exports: A Hausman - Taylor approach 201
Nguyen Quang Hop, Ta Viet Anh, Nguyen Thi Phuong Thuy - Reform of the administrative approval process
in the United States and China some suggestions for Vietnam 207
Ngo Thi Huong Giang - Thai Nguyen tea supply chain – limitations and recommendations 213
Nguyen Viet Phuong – Three meromorphic mappings from Cm into PN (C) share 2N + 1 hyperplanes 219
Nguyen Van Thinh, Ta Thi Mai Huong, Nguyen Hien Luong - Vietnamese elecommunications in foreign markets - A prospect or an inevitable trend 225
Tran Van Nguyen, Tran Van Quyet, Tran Van Dung - Measurement the impact of a mediatior factor
affecting the relationship between labour force and gross output of industry by provinces in Vietnam 231
Vu Thi Loan, Ha Manh Tuan - Comparative study on cash accounting basis and accrual accounting basis in financial statement analysis 237
Nguyen Thi Tuan - 20 year experience of regional minimum wage adjustment in Vietnam: An unfulfilled
journey 243
Nguyen Thi Thu Hang, Nguyen Thi Thu Huong, Pham Hong Truong - The steiner tree problem with rectilinear distance 251