44
Thông tin & Công nghệ Khoa học VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM Website: http://www.vinatom.gov.vn Email: [email protected] SỐ 41 12/2014 VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM ĐINH HƯỚNG THÚC ĐẨY NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CỦA VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ TRONG NĂM 2015

Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

Thông tin

&Công nghệKhoa học

VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAMWebsite: http://www.vinatom.gov.vnEmail: [email protected]

SỐ 4112/2014

VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM

ĐINH HƯỚNG THÚC ĐẨY NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CỦA VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ TRONG NĂM 2015

Page 2: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TINKHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

BAN BIÊN TẬP

TS. Trần Chí Thành - Trưởng banTS. Cao Đình Thanh - Phó Trưởng banPGS. TS Nguyễn Nhị Điền - Phó Trưởng banTS. Trần Ngọc Toàn - Ủy viênThS. Nguyễn Thanh Bình - Ủy viênTS. Trịnh Văn Giáp - Ủy viênTS. Đặng Quang Thiệu - Ủy viênTS. Hoàng Sỹ Thân - Ủy viênTS. Thân Văn Liên - Ủy viênTS. Trần Quốc Dũng - Ủy viênThS. Trần Khắc Ân - Ủy viênKS. Nguyễn Hữu Quang - Ủy viênKS. Vũ Tiến Hà - Ủy viênThS. Bùi Đăng Hạnh - Ủy viên

Thư ký:CN. Lê Thúy Mai

Địa chỉ liên hệ:Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam59 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà NộiĐT: 04. 3942 0463Fax: 04. 3942 2625Email: [email protected]ấy phép xuất bản số: 57/CP-XBBTCấp ngày 26/12/2003

01. TRẦN CHÍ THÀNHĐịnh hướng thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng của Viện Năng lượngnguyên tử Việt Nam trong năm 2015

06. LÊ VĂN HỒNGHiệu quả khoa học và thực tiễn từ một đề tài nghiên cứu

11. ĐẶNG ĐỨC NHẬN, VÕ TƯỜNG HẠNHỨng dụng của kỹ thuật hạt nhân trong thăm dò và khai thác dầu khí

15. VIỆN NGHIÊN CỨU HẠT NHÂNHội thảo Việt Nhật lần thứ ba về nghiên cứu, phát triển nguồn nhân lực công nghệ hạt nhân

18. CAO CHIBICEP2 VÀ PLANCK cùng truy tìm sóng hấp dẫn lạm phát 22. ĐINH NGỌC LÂNTừ điện hạt nhân của Hàn Quốc nghĩ về điện hạt nhân của nước ta

25. TRẦN MINH QUỲNHTriển vọng ứng dụng công nghệ chiếu xạ thực phẩm hỗ trợ xuất khẩu nông sản và đảm bảo an ninh lượng thực ở Việt Nam

TIN TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ

31. Hội nghị khoa học và công nghệ cán bộ trẻ ngành NLNTVN lần thứ 3

34. Học viên ngành năng lượng nguyên tử được miễn học phí

35. Đại hội công đoàn khối cơ quan

37. Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam ký thỏa thuận hợp tácvới Viện nghiên cứu nhà máy điện hạt nhân công hòa Slovakia

38. Khả năng của Thorium đối với thiết kế nhà máy điện hạt nhân tiên tiến

40. Công nghệ mới của Nga không có chất thải hạt nhân

NỘI DUNG

Số 41

12/2014

Page 3: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

1Số 41 - Tháng 12/2014

Có thể thấy rằng năm 2014 đã ghi nhận những kết quả tốt trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Viện NLNTVN trong năm 2014 đã hoàn thành tốt một số khóa đào tạo trong nước, đã gửi 5 cán bộ đi nghiên cứu (đào tạo theo công việc) 3 tháng tại Nhật Bản về khoa học vật liệu nhà máy điện hạt nhân. Về đào tạo sau đại học, Viện đã gửi đi đào tạo 6 nghiên cứu sinh (tại Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc) và 9 thạc sỹ (tại Nga) chủ yếu về an toàn hạt nhân, khoa học vật liệu và lò nghiên cứu. Trung tâm Đào tạo hạt nhân đã tổ chức tốt 2 lớp học tiếng Anh cho cán bộ nghiên cứu. Trong năm

2014, Viện NLNTVN đã thỏa thuận và chuẩn bị xong việc gửi 4 cán bộ sang Mỹ thực tập 6 tháng về an toàn hạt nhân, thiết kế chống động đất và về lò nghiên cứu (2 cán bộ sang trụ sở của West-inghouse ở Pittsburgh, 2 cán bộ sang Trường Đại học Bắc Carolina), với sự tài trợ kinh phí hoàn toàn từ Westinghouse (bắt đầu từ tháng 1/2015). Một số thành tích điển hình khác đáng kể là việc lắp đặt thành công máy gia tốc Cyclotron 13 MeV (thiết bị do Hàn Quốc tặng Bộ Khoa học và Công nghệ), xử lý tốt sự cố kẹt bảng nguồn Cobalt tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội; thực hiện

ĐỊNH HƯỚNG THÚC ĐẨY NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CỦA VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ

VIỆT NAM TRONG NĂM 2015

Năm 2014 đã đi qua, một năm có nhiều biến động và thay đổi lớn trên thế giới về địa chính trị, kinh tế, xã hội, và năm 2014 cũng đánh dấu một năm có nhiều sự kiện đáng chú ý đối với Việt Nam. Nhìn lại hoạt động nghiên cứu, ứng dụng của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Viện NLNTVN) năm qua, có thể thấy rằng mặc dù chưa có những thành tích nổi bật trong nghiên cứu và ứng dụng, tuy nhiên năm 2014 là năm cho chúng ta cảm nhận được sự tiến bộ từng bước đi lên của Viện NLNTVN. Nếu như năm 2013 là năm của hình thành và bắt đầu xây dựng các “nhóm nghiên cứu ưu tiên”, thì năm 2014 là năm được gắn kết với nhiệm vụ “đào tạo nguồn nhân lực”.

Page 4: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

2 Số 41 - Tháng 12/2014

tốt đề tài ứng dụng đồng vị phóng xạ trong chữa ung thư vòm họng của Viện Nghiên cứu hạt nhân. Kết quả công bố quốc tế của toàn Viện NLNTVN tăng hơn so với năm 2013, với 52 bài gửi và đã đăng, trong đó có 30 bài thuộc các tạp chí ISI có uy tín... Tuy kết quả đạt được còn khiêm tốn và chưa đạt được mong muốn của toàn thể cán bộ viên chức Viện NLNTVN, nhưng những kết quả này cho chúng ta có được niềm tin về sự tiến bộ, đi lên, sự cố gắng của toàn thể đội ngũ cán bộ trong toàn Viện. Với sự nỗ lực cố gắng liên tục, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng năm 2015 Viện NLNTVN sẽ có thành tích xứng đáng hơn. Với niềm tin như vậy, tôi đề xuất chủ đề của năm 2015 là “thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng”.

Tuy nhiên, để đẩy mạnh được nghiên cứu và ứng dụng trong hoàn cảnh thiếu nguồn nhân lực khoa học giỏi, trang thiết bị nghiên cứu chưa đồng bộ, kinh phí đầu tư hạn hẹp v.v. là một nhiệm vụ khó khăn, thách thức. Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào để có thể thúc đẩy được nghiên cứu ứng dụng trong điều kiện đặc thù hiện nay của Việt Nam? Quan điểm chính của Viện NLNTVN trong việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng có thể được khái quát như sau:

- Tích cực thúc đẩy đào tạo, huấn luyện cán bộ nghiên cứu, ứng dụng, bất kỳ khi nào có cơ hội và điều kiện. Đây là nhiệm vụ dài hạn, theo suốt các kế hoạch nghiên cứu ứng dụng, đặc biệt chú trọng việc tìm kiếm, thu hút, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu đầu đàn của các nhóm nghiên cứu. Ưu tiên, tạo điều kiện làm việc, nghiên cứu thuận lợi nhất có thể cho các cán bộ nghiên cứu đầu đàn, đặt niềm tin thực sự vào họ.

- Các đơn vị trực thuộc Viện NLNTVN cần xây dựng kế hoạch nghiên cứu ứng dụng trung hạn, dài hạn, có tính chiến lược, cho giai

đoạn 2015-2020 tầm nhìn đến 2025, phù hợp với điều kiện cụ thể cũng như định hướng chiến lược của toàn Viện NLNTVN. Các kế hoạch nghiên cứu ứng dụng cần có mục tiêu rõ ràng, lộ trình và phải có tính kế thừa, trên cơ sở sử dụng hiệu quả trang thiết bị nghiên cứu, đào tạo đang có, cũng như nguồn kinh phí đầu tư.

- Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu ứng dụng với các đơn vị nghiên cứu khác có liên quan trong nước, tích cực tìm kiếm, huy động và thu hút các cán bộ nghiên cứu giỏi của các đơn vị khác trong nước tham gia và kế hoạch nghiên cứu ứng dụng của Viện NLNTVN, chia sẻ kinh nghiệm, kinh phí v.v.

- Tận dụng và khai thác tốt hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu, đưa ứng dụng vào đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Hình thành mạng lưới tư vấn khoa học và hỗ trợ đào tạo quốc tế trong đó có các chuyên gia là Việt kiều, là các chuyên gia nước ngoài có quan hệ tốt với Việt Nam. Khai thác hiệu quả các đối tác quốc tế cho việc trao đổi thông tin, nghiên cứu, triển khai ứng dụng về năng lượng nguyên tử và điện hạt nhân.

- Chiến lược, kế hoạch nghiên cứu ứng dụng của Viện NLNTVN cần được xây dựng sớm, trên cơ sở đánh giá, tổng hợp nguồn nhân lực khoa học, tiềm năng của các đơn vị, khả năng phối hợp với các đơn vị và chuyên gia trong các lĩnh vực khác trong nước, khả năng hợp tác quốc tế, hướng đến các mục tiêu, nhiệm vụ cần thiết, cụ thể của đất nước liên quan đến đẩy mạnh ứng dụng năng lượng nguyên tử và chương trình điện hạt nhân.

Để có thể thúc đẩy được nghiên cứu, ứng dụng cần xác định rõ các định hướng thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng cần thiết. Trong thời gian tới, định hướng của Viện NLNTVN như sau.

Page 5: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

3Số 41 - Tháng 12/2014

1) Đối với các đơn vị nghiên cứu ứng dụng trực thuộc Viện NLNTVN

Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt tập trung nhiệm vụ chính vào lĩnh vực vật lý nơtron, vật lý lò, an toàn bức xạ, ứng dụng đồng vị phóng xạ trong y tế, sinh học. Đặc biệt dần dần đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi, xây dựng năng lực, phối hợp cùng đối tác Nga (ROSATOM) để triển khai thành công dự án Trung tâm KH&CN hạt nhân (Trung tâm). Chú trọng phát triển năng lực về nghiên cứu vật liệu chiếu xạ, nghiên cứu về nhiên liệu hạt nhân.

Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân tập trung vào các lĩnh vực vật lý hạt nhân, vật lý lò năng lượng, tối ưu thay đảo nhiên liệu điện hạt nhân, công nghệ và an toàn hạt nhân, quan trắc phóng xạ và môi trường. Đặc biệt, về an toàn hạt nhân, Viện KHKT hạt nhân cần xây dựng năng lực về thực nghiệm thủy nhiệt, hướng đến nhiệm vụ liên quan trong dự án Trung tâm KH&CN hạt nhân.

Viện Công nghệ Xạ hiếm, là đơn vị có nhiều lĩnh vực “độc quyền” như đất hiếm, nhiên liệu hạt nhân (Uran), chất thải phóng xạ. Viện cần tập trung xây dựng năng lực về các lĩnh vực này, cũng như nghiên cứu vật liệu, về hóa nước, hóa phóng xạ để hỗ trợ điện hạt nhân. Đối với các lĩnh vực “độc quyền”, cần có kế hoạch, chiến lược dài hạn nhằm tư vấn cho Chính phủ, có lộ trình từng bước nắm rõ và làm chủ công nghệ cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ.

Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ, Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp, Trung tâm Đánh giá không phá hủy, Trung tâm Hạt nhân Tp. HCM) cần cùng nhau xây dựng kế hoạch thúc đẩy ứng

dụng trong Y tế, nông nghiệp, công nghiệp và các ngành khác. Thúc đẩy các ứng dụng truyền thống, đi vào chiều sâu, hiệu quả kinh tế xã hội. Đặc biệt chú trọng các ứng dụng mới trong công nghiệp như đánh giá lão hóa, tính năng vận hành thiết bị công nghiệp, an toàn đập thủy điện … Đưa khoa học kỹ thuật hạt nhân, ứng dụng bức xạ vào đời sống kinh tế xã hội là ưu tiên của Viện NLNTVN trong thời gian tới.

2) Phối hợp với các đơn vị nghiên cứu khác trong nước

Viện NLNTVN đánh giá cao và coi trọng, mong muốn thúc đẩy hợp tác với các đơn vị nghiên cứu khác trong nước, nhằm tập hợp lực lượng khoa học để dần dần nâng cao năng lực nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực liên quan đến hạt nhân. Cụ thể trước mắt đang triển khai hợp tác với các đơn vị:

- Viện Di truyền nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn): Kỹ thuật bức xạ ứng dụng trong tạo giống nông nghiệp, công nghệ bức xạ bảo quản sản phẩm nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu;

- Bệnh viện 108: Khai thác máy gia tốc 13 MeV mới, triển khai ứng dụng trong Y tế (cung cấp đồng vị phóng xạ), đặc biệt áp dụng về kỹ thuật chẩn đoán sớm và điều trị ung thư;

- Đại học Bách Khoa Hà Nội: Cùng triển khai nghiên cứu về công nghệ, an toàn điện hạt nhân (hệ thống an toàn thụ động, an toàn Con-tainment, tương tác cơ nhiệt v.v.), về nghiên cứu vật liệu, về mô phỏng và đánh giá kiểm tra không phá hủy;

- Viện Cơ học (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam): Nghiên cứu kết cấu, phân tích cấu trúc, đánh giá thiết kế chống động đất, nghiên

Page 6: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

4 Số 41 - Tháng 12/2014

cứu đánh giá phóng xạ môi trường biển (phát tán phóng xạ, nhiệt …);

- Viện Khoa học vật liệu (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam): Phối hợp nghiên cứu về vật liệu nhà máy điện hạt nhân, đánh giá sai hỏng vật liệu, đánh giá lão hóa thiết bị công nghiệp (trước mắt trong dầu khí, nhiệt điện v.v.);

- Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam): Phối hợp đào tạo, nghiên cứu vật lý hạt nhân, phối hợp cùng nghiên cứu ở Dubna (Nga) – Phối hợp đào tạo tốt, tuy nhiên việc hợp tác nghiên cứu để thúc đẩy nghiên cứu vật lý hạt nhân giữa 2 Viện hiện nay chưa được như mong muốn;

- Đại học Đà Lạt: Tham gia giảng dạy, đào tạo;

- Đại học Khoa học tự nhiên (Hà Nội): Khai thác thiết bị gia tốc Pelletron trong nghiên cứu vật liệu, đào tạo và nghiên cứu về hóa phóng xạ;

- Đại học Khoa học tự nhiên (Tp. Hồ Chí Minh): Đào tạo về vật lý hạt nhân, nghiên cứu vật liệu;

- Đại học Nguyễn Tất Thành (Tp. HCM): Xây dựng Khoa Vật lý y học (Medical Physics), phối hợp cùng Đại học Khoa học tự nhiên;

- Viện Toán (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam): Nghiên cứu phân tích rủi ro, công cụ toán, phân tích hướng đến hỗ trợ việc đưa ra quyết định (Decision Making) liên quan điện hạt nhân – mong muốn và dự định trong tương lai.

Việc phối hợp nghiên cứu, ứng dụng với các đơn vị khác tuy ở các mức độ khác nhau, nhưng có tiềm năng và cơ hội lớn, và là thiết yếu để đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh

vực năng lượng nguyên tử.

3) Hợp tác quốc tế

Viện NLNTVN đã đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong năm qua. Viện đã và đang phối hợp và hợp tác hiệu quả với các đối tác về điện hạt nhân (Nga, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp). Viện đã ký thỏa thuận hợp tác với nhiều đơn vị nghiên cứu các nước như Viện Nghiên cứu hạt nhân Hàn Quốc, Tiệp, Viện Nghiên cứu nhà máy điện hạt nhân Slovakia, Tập đoàn SKODA (Czech), Viện Nghiên cứu lò, Viện Thiết kế điện hạt nhân, Viện Luyện kim, hàn (Nga). Hiện nay, Viện NLNTVN đang hợp tác chặt chẽ với các trường đại học và các Giáo sư của nhiều nước, ví dụ Đại học Công nghệ Hoàng gia (Thụy Điển), Đại học Bắc Caro-lina (Hoa Kỳ), Đại học Tokyo, Kyoto, Nagaoka (Nhật Bản), Đại học Aachen (Đức), Đại học Năng lượng Mát-xcơ-va (Nga) v.v. trong đào tạo nhân lực và nghiên cứu. Ngoài ra, Viện NLNT-VN đang phối hợp với các chuyên gia Việt kiều, hình thành mạng lưới tư vấn, nghiên cứu và đào tạo (nhóm VietTech và các chuyên gia ở Pháp, Úc, Hoa Kỳ). Năm 2015, hợp tác quốc tế tiếp tục đóng vai trò quan trọng thúc đẩy đào tạo, nghiên cứu ứng dụng.

Trước mắt, một số nhiệm vụ quan trọng trong năm 2015, hướng đến đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng bao gồm:

- Xây dựng kế hoạch nghiên cứu ứng dụng 2015-2020, tầm nhìn 2025 của Viện NLNTVN, trong đó tập trung 3 mảng chính là: Đẩy mạnh ứng dụng năng lượng nguyên tử; Nghiên cứu cơ bản về vật lý hạt nhân và vật lý, động học lò; Xây dựng năng lực và thúc đẩy nghiên cứu hỗ trợ cho chương trình điện hạt nhân của đất nước;

- Triển khai các nhiệm vụ liên quan đến

Page 7: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

5Số 41 - Tháng 12/2014

dự án Trung tâm Khoa học và công nghệ hạt nhân, bao gồm: Khảo sát địa chất sơ bộ các địa điểm tiềm năng xây dựng lò nghiên cứu mới (3 địa điểm tại Đồng Nai và Lâm Đồng), đánh giá so sánh lựa chọn địa điểm để lập Hồ sơ phê duyệt địa điểm, lập Nghiên cứu khả thi (FS) của Trung tâm; Đàm phán tiến đến ký Thỏa thuận tài chính với Liên bang Nga về kinh phí thực hiện Hồ sơ địa điểm và FS của Trung tâm; Tham gia cùng đối tác Nga trong thực hiện Hồ sơ địa điểm và FS của Trung tâm (tham gia thiết kế lò nghiên cứu mới và các nội dung khác);

- Tập trung ưu tiên một số nhiệm vụ ứng dụng như: Ứng dụng trong Y tế liên quan đến đồng vị phóng xạ trong điều trị chữa bệnh; Chiếu xạ, bảo quản, hỗ trợ xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, xây dựng trang thiết bị hỗ trợ tạo giống nông nghiệp; Tăng cường, khuyến khích áp dụng kỹ thuật hạt nhân, công cụ mô phỏng tính toán, dự báo vào trong các ngành công nghiệp;

- Tư vấn đánh giá, quyết định lựa chọn công nghệ cho Ninh Thuận 2;

- Nghiên cứu về các thiết kế được lựa chọn xây dựng tại nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, sẵn sàng phối hợp với Cục An toàn và tham gia vào Thẩm định báo cáo Phân tích an toàn của 2 dự án;

- Chuẩn bị tốt Hội nghị Khoa học và công nghệ hạt nhân lần thứ XI vào đầu tháng 8/2015 tại Đà Nẵng, trong đó khuyến khích các báo cáo viết bằng tiếng Anh, mời các đối tác quốc tế, các Giáo sư, chuyên gia, sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam ở nước ngoài tham dự, tham gia Hội đồng khoa học, Review bài báo của Hội nghị v.v., tiến tới nâng cấp Hội nghị này thành Hội nghị quốc tế (khu vực) vào năm 2017.

Không một đất nước nào trên thế giới đi đến thịnh vượng mà không thông qua phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào đời sống kinh tế xã hội trong điều kiện đặc thù Việt Nam hiện nay là nhiệm vụ không đơn giản, nhưng hết sức cần thiết đối với đất nước. Khoa học công nghệ hạt nhân có một vị trí quan trọng trong phát triển khoa học công nghệ của đất nước.

Với sự nỗ lực cố gắng không ngừng của toàn thể đội ngũ cán bộ viên chức, tôi tin rằng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam sẽ có đóng góp ngày càng nhiều cho khoa học công nghệ, phát triển kinh tế xã hội của đất nước./.

TS. Trần Chí Thành

Viện trưởng Viện NLNTVN

Page 8: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

6 Số 41 - Tháng 12/2014

1. Giới thiệu đề tài

Lò phản ứng VVER được Liên bang Nga nghiên cứu thiết kế từ thập kỷ 60 và đã được xây dựng thành công ở Liên Xô cũ và nhiều nước Đông Âu khác. Trong những năm 80 của thế kỷ trước, loại lò VVER-1000 model V-320 đã được xây dựng ở Liên Xô cũ, Ucraina, Bungari và Cộng hoà Séc.

Trong những năm 90, các Viện nghiên cứu của Nga triển khai nghiên cứu và thiết kế loại lò thế hệ thứ III. Viện nghiên cứu St Peterburg thiết kế loại AES-91, model VVER-1000/V-428. Nhà máy ĐHN dùng công nghệ AES-91 đã được xây dựng và đang vận hành tại Tianwan, Trung Quốc. Viện nghiên cứu Moskva thiết kế loại AES-92, model VVER-1000/V-392. Nhà máy ĐHN dùng công nghệ AES-92 đang được xây dựng tại Kudankulam, Ấn Độ.

Đầu những năm 2000, cả Viện nghiên cứu thiết kế St Peterburg và Viện nghiên cứu thiết kế Moskva cùng nghiên cứu, phát triển loại lò AES-2006, công suất 1200 MW. Những lò đầu tiên loại này đang được xây dựng tại Lenigrad (St Peterburg thiết kế) và tại Novovoronezh (Moskva thiết kế).

Trong Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, phía Việt Nam cần xem xét, so sánh, đánh giá và lựa chọn 1 trong 4 công nghệ do phía tư vấn đề xuất, đó là AES-91, AES-92, AES-2006/V491 và AES-2006/V392M. Để có thể tư vấn cho Ban chỉ đạo Nhà nước về điện hạt nhân và hỗ trợ cho chủ đầu tư trong đánh giá, lựa chọn công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã giao cho Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam chủ trì, phối hợp thực hiện đề tài độc lập cấp Nhà nước, mã số: ĐTĐL.2011-G/82: “Nghiên cứu, phân tích, đánh giá và so sánh hệ thống công nghệ nhà máy

Ngày 25 tháng 11 năm 2009, tại Hà Nội, Quốc hội khóa XII đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận gồm 2 nhà máy, mỗi nhà máy có 2 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất khoảng 1000 MWe. Tháng 10 năm 2010, Việt Nam đã ký kết Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với LB Nga về việc xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và tháng 1 năm 2011, thỏa thuận về việc xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2 với Nhật Bản cũng đã được ký kết.

HIỆU QUẢ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN TỪ MỘT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Page 9: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

7Số 41 - Tháng 12/2014

điện hạt nhân dùng lò VVER -1000 giữa các loại AES-91, AES-92 và AES-2006”.

Mục tiêu cụ thể của đề tài là:

- Làm rõ các đặc điểm thiết kế công nghệ, thiết kế an toàn của 3 loại công nghệ lò VVER -1000, bao gồm: AES-91, model V-428; AES-92, model V-412 và AES-2006.

- So sánh các điểm mạnh, điểm yếu của 3 loại công nghệ trên, đề xuất với Ban CĐ NN về ĐHN vê việc lựa chọn loại lò thích hợp cho Việt Nam.

- Kết hợp đào tạo đội ngũ cán bộ.

Xuất phát từ mục tiêu nêu trên, đề tài đặt ra 2 nội dung chính:

- Nghiên cứu, phân tích, so sánh, đánh giá thiết kế hệ thống công nghệ của các NM ĐHN loại AES-91, AES-92 và AES-2006;

- Tính toán và phân tích thiết kế vật lý và thủy nhiệt vùng hoạt lò VVER1000.

2. Tổ chức thực hiện đề tài

Để thực hiện được các nội dung nêu trên, đề tài đã tổ chức Đoàn cán bộ tham gia thực hiện sang Bungari trong thời gian 3 tháng để học tập và nghiên cứu về công nghệ nhà máy điện hạt nhân (NM ĐHN) loại AES-92 dùng lò VVER-1000/V466B dự kiến xây dựng tại Belene. Trong thời gian đó, thông qua việc học tập, trao đổi, thảo luận trực tiếp với các chuyên gia Bungari cũng như việc nghiên cứu các tài liệu, Đoàn cán bộ tham gia thực hiện đề tài đã nắm bắt được những kiến thức cơ bản về các hệ thống công nghệ nhà máy điện hạt nhân (NM ĐHN) loại AES-92 và phương pháp so sánh, đánh giá các loại công nghệ.

Trong quá trình thực hiện đề tài, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã phối hợp với

Tập đoàn nguyên tử Liên bang Nga tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm về các loại công nghệ AES-91, AES-92 và AES-2006 do Nga thiết kế, chế tạo.

Sau khi đã thu thập được khá đầy đủ các tài liệu, thông tin liên quan, đề tài đã triển khai thực hiện và hoàn thành các chuyên đề nghiên cứu đề ra. Các vấn đề cần làm rõ thêm trong các chuyên đề nghiên cứu đã được tập hợp và trao đổi, thảo luận trực tiếp với các chuyên gia Nga tại các cơ quan: Viện Năng lượng nguyên tử Kurchatov, Viện thiết kế OKB Gidropress, Viện thiết kế AtomEnergoProekt, Saint-Peterburg và Viện thiết kế AtomEnergoProekt, Moscow trong chuyến công tác của Đoàn cán bộ tham gia thực hiện Đề tài tại LB Nga, 12/2013.

Quá trình tổ chức thực hiện đề tài nêu trong Hình 1.

Hình 1. Quá trình tổ chức thực hiện Đề tài

Để tính toán các đặc trưng vật lý cơ bản và tính toán phân tích an toàn trong các kịch bản sự cố, các chương trình mô phỏng hiện đại như MCNP5, RELAP5 và CFD ANSYS-Fluent đã được sử dụng.

3. Các kết quả và hiệu quả của đề tài

3.1 Kết quả phân tích, so sánh, đánh giá thiết kế hệ thống công nghệ của các NM ĐHN loại AES-91, AES-92 và AES-2006

Việc phân tích, so sánh, đánh giá công

Page 10: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

8 Số 41 - Tháng 12/2014

nghệ sẽ được tập trung vào các hệ thống, cấu trúc và thành phần có ảnh hưởng tới an toàn. Các hệ thống, cấu trúc và thành phần này bao gồm 2 loại: loại có chức năng vận hành bình thường và loại có chức năng đảm bảo an toàn (xem Hình 2).

Việc phân tích, so sánh, đánh giá đã được thực hiện cho 2 hệ thống:

- Hệ thống vận hành bình thường: tập trung vào lò phản ứng và hệ thống làm mát lò phản ứng;

- Hệ thống an toàn: tập trung vào xử lý các sự cố thiết kế cơ bản và việc phòng chống các sự cố nặng.

Các phân tích, so sánh, đánh giá này được thực hiện song song cho 4 loại công nghệ xem xét, đó là AES-91, AES-92, AES-2006 St.Peterburg và AES-2006 Moscow.

Hình 2. Sự phân loại các hệ thống và thành phần NMĐHN

Các phân tích, so sánh, đánh giá đã chỉ ra rằng:

Thiết kế các hệ thống thiết bị cơ bản phục vụ cho vận hành bình thường bao gồm lò phản ứng, nhiên liệu và hệ thống điều khiển – bảo vệ, thiết bị sinh hơi, thiết bị điều áp, bơm tuần hoàn chính… của AES-2006 đều đã có những cải tiến, nâng cấp đáng kể so với AES-91, AES-92 và đặc biệt là so với các NMĐHN tiêu chuẩn dùng lò

VVER-1000/V320. Những cải tiến, nâng cấp này đã nâng cao mức độ an toàn, nâng cao hiệu quả kinh tế và kéo dài tuổi thọ của AES-2006 so với AES-91 và AES-92.

Thiết kế các hệ thống đảm bảo an toàn bao gồm hệ thống dập lò phản ứng khẩn cấp và duy trì trạng thái dưới tới hạn; hệ thống tải nhiệt dư khẩn cấp từ lò phản ứng và bể chứa nhiên liệu đã qua sử dụng; hệ thống cô lập, giam giữ các vật liệu phóng xạ. Các hệ thống này của AES-2006 đều có những tính năng vượt trội so với AES-91và AES-92, đặc biệt là trong thiết kế hệ thống phòng chống sự cố nặng. Xét theo yêu cầu nêu trong Nghị quyết số 41 của Quốc hội là đảm bảo an toàn cao nhất có thể thì AES-2006 thỏa mãn tốt hơn so với AES-91 và AES-92. Theo quan điểm an toàn, AES-2006 chính là lựa chọn thích hợp cho Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, so sánh thiết kế 3 loại công nghệ, Đề tài đã đề xuất lựa chọn công nghệ AES-2006 loại VVER-1200/V491 cho dự án ĐHN NT1. Đề xuất này đã được Viện NLNTVN trao đổi, thảo luận và tư vấn cho Chủ đầu tư trong quá trình xem xét, đánh giá, lựa chọn công nghệ. Chủ đầu tư là Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã đồng thuận và chấp nhận đề xuất của Viện NLNTVN.

3.2 Xây dựng Bộ tiêu chí đánh lựa chọn công nghệ và lượng hóa kết quả đánh giá

Để có cơ sở xem xét, đánh giá lựa chọn công nghệ ĐHN, các công ty điện lực thường xây dựng và ban hành bộ tài liệu, trong đó nêu lên những yêu cầu của công ty đối với công nghệ sẽ xem xét, lựa chọn. Tài liệu này được gọi là Utility Requirements Document – URD.

Trước đây, vào cuối năm 1991, các công

Page 11: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

9Số 41 - Tháng 12/2014

ty điện lực lớn của châu Âu đã xây dựng và ban hành bộ tài liệu URD của mình và gọi là “Bộ yêu cầu của các công ty điện lực châu Âu (European Utility Requirements for LWR Nuclear Power Plants - EUR)”. Tương tự như các công ty điện lực châu Âu, vào năm 1999, các công ty điện lực Hoa Kỳ cũng đã xây dựng và ban hành bộ tài liệu URD gọi là Advanced Light Water Reactor Utility Requirements Document, EPRI, USA.

Gần đây, cũng như Việt Nam, trên thế giới có nhiều nước cân nhắc, xem xem xét và chuẩn bị chương trình phát triển điện hạt nhân quốc gia. Để giúp cho các nước lần đầu tiên tiếp cận với công nghệ ĐHN, Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo liên quan tới việc xây dựng, thiết lập các yêu cầu, tiêu chí đánh giá, lựa chọn công nghệ. Đồng thời, IAEA cũng đã xuất bản nhiều tài liệu liên quan tới chủ đề này, trong đó có 2 tài liệu quan trọng là “Các yêu cầu chung của người sử dụng về hệ thống năng lượng hạt nhân dùng cho các nước đang phát triển” và “Đánh giá công nghệ lò phản ứng hạt nhân dùng trong tương lai gần”.

Trên cơ sở nghiên cứu, đúc kết những yếu tố cốt lõi của các tài liệu nêu trên, cũng như xem xét, bổ sung các yêu cầu của Hoa Kỳ, các yêu cầu mới của IAEA sau Fukushima, các tác giả đã xây dựng và thiết lập bộ yêu cầu, tiêu chí đánh giá lựa chọn công nghệ cho Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

Bộ yêu cầu của Việt Nam, sử dụng làm cơ sở để xem xét, đánh giá, lựa chọn công nghệ cho dự án ĐHN Ninh Thuận 1 đề xuất ở đây gồm 4 mảng nội dung chính, đó là:

1. Yêu cầu về công nghệ lò phản ứng và thiết kế nhà máy;

2. Yêu cầu về bảo đảm an toàn;

3. Yêu cầu về tính kinh tế của nhà máy;

4. Yêu cầu đặc thù của Việt Nam;

Trong từng mảng yêu cầu chính lại được chi tiết hóa thành các tiêu chí cụ thể. Tầm quan trọng của từng tiêu chí trong tương quan chung, không phụ thuộc vào loại công nghệ xem xét, được các chuyên gia đánh giá và lượng hóa bằng trọng số. Tổng số các trọng số là 100%.

Các loại công nghệ xem xét, đánh giá sẽ được tính điểm theo từng tiêu chí chung trên cơ sở tổng số điểm của các tiêu chí cụ thể. Điểm của công nghệ xem xét, đánh giá sẽ bằng (Trọng số x Số điểm từng tiêu chí chung). Công nghệ có điểm cao hơn sẽ được đề xuất cho dự án ĐHN Ninh Thuận 1.

Kết quả nghiên cứu, phân tích và đề xuất Bộ tiêu chí đánh giá, lựa chọn công nghệ cho dự án ĐHN NT1 đã được Viện NLNTVN báo cáo tại phiên họp thứ 3 của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia. Hội đồng đã yêu cầu Viện NLNTVN phối hợp với EVN tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và trình Bộ Công Thương. Trên cơ sở đó, Bộ Công Thương đã hoàn thiện và ra quyết định phê duyệt Bộ tiêu chí định hướng lựa chọn công nghệ lò cho dự án ĐHN NT1.

3.3 Kết quả tính toán, phân tích vật lý và thủy nhiệt vùng hoạt lò phản ứng VVER-1000/V392

Trong phạm vi của đề tài này, nội dung tính toán vật lý chỉ đặt ra tính toán một số thông số cơ bản, giúp đánh giá các đặc trưng vật lý của vùng hoạt lò phản ứng và có liên quan trực tiếp (sử dụng như số liệu đầu vào) tới tính toán, phân tích an toàn thủy nhiệt lò phản ứng. Các thông số đó bao gồm phản hồi độ phản ứng theo nhiệt độ

Page 12: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

10 Số 41 - Tháng 12/2014

nhiên liệu và nhiệt độ chất làm chậm; hiệu suất thanh điều khiển; phân bố công suất theo phương bán kính và phương thẳng đứng.

Tính toán và phân tích an toàn thủy nhiệt lò phản ứng đã được thực hiện cho NMĐHN loại AES-92 dùng lò phản ứng VVER-1000 cho trạng thái vận hành bình thường và cho các tình huống sự cố bằng phần mềm RELAP5; đồng thời, các tham số thủy nhiệt của kênh tải nhiệt nóng nhất đã được khao sát chi tiết bằng phần mềm COBRA-EN và CFD ANSYS-Fluent;

Kết quả nghiên cứu, tính toán, phân tích an toàn NM ĐHN loại AES-92 dùng lò VVER-1000/V392 đã giúp hiểu sâu thêm nội dung công nghệ của NM ĐHN và đã được các tác giả công bố 2 bài báo tại Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Tập 52, Số 2C, năm 2014 và 3 báo cáo khoa học trình bày tại Hội nghị KHCNHN toàn quốc lần thứ X, Bà Rịa – Vũng Tầu, tháng 8 năm 2013. Kết quả nghiên cứu, tính toán, phân tích an toàn NM ĐHN cũng đã làm cơ sở để 2 cán bộ bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ và 1 cán bộ thực hiện chương trình PhD.

4. Kết luận

Sau gần 3 năm thực hiện, đề tài đã hoàn thành toàn bộ các nội dung đề ra và đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Kết quả nghiên cứu tìm hiểu, phân tích, đánh giá và đề xuất lựa chọn công nghệ đã góp phần làm cơ sở để chủ đầu tư quyết định phương án công nghệ cho dự án ĐHN Ninh Thuận 1. Kết quả nghiên cứu, tính toán, phân tích an toàn NM ĐHN cho một số bài toán cụ thể đã được đúc kết thành các bài báo công bố trên tạp chí hoặc trình bày tại Hội nghị khoa học. Một kết quả nữa không kém phần quan trọng là đã hình thành được một tập thể cán bộ có những hiểu biết nhất định về công nghệ và an

toàn NM ĐHN dùng lò VVER-1000/1200. Tập thể cán bộ này đang tích cực tham gia vào nhiệm vụ Thẩm định an toàn dự án ĐHN Ninh Thuận 1 do Cục ATBX&HN tổ chức./.

TS. Lê Văn HồngViện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Page 13: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

11Số 41 - Tháng 12/2014

Trong công nghiệp dầu-khí, bức xạ ion hóa được ứng dụng trong thăm dò, trong khai thác, trong chế biến, trong kiểm tra chất lượng, trong thanh sát vị trí hư hỏng không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nguồn bức xạ được sử dụng là các nguồn kín và nguồn hở. Nguồn kín là loại nguồn có cấu trúc “đặc biệt”.

Chúng đặc biệt ở chỗ chất phóng xạ được hàn kín trong một lớp vỏ bọc bằng thép không gỉ dưới dạng con nhộng. Nguồn kín có đặc điểm là trong quá trình sử dụng nếu bị rơi ra đất nhưng nếu được thu hồi vào bình chứa thì bề mặt đất tại chỗ nguồn rơi sẽ không còn nhiễm xạ và không cần phải tẩy xạ. Nguồn hở là dung dịch hoặc bột chứa nhân phóng xạ được đựng trong lọ bằng vật liệu thủy tinh hoặc kim loại nhưng có thể mở ra để lấy từng phần chất phóng xạ trong quá trình sử dụng. Nếu lọ chứa nguồn hở bị vỡ và vật liệu phóng xạ bị tung ra đất hoặc bàn, ghế, quần-áo thì bề mặt sẽ bị nhiễm xạ và phải tẩy xạ để đảm bảo an toàn cho tập thể. Các nguồn phóng xạ được sử dụng trong công nghiệp dầu khí bao gồm nguồn phát gamma là cobalt-60 (60Co), bari-133 (133Ba), xezi-137 (137Cs), iridi-192 (192Ir) và nguồn phát nơtron là california-252 (252Cf), amerisi-241/ber-ryli (241Am-Be). 241Am là nhân phát alpha và hạt

alpha từ 241Am tương tác với Be sẽ sinh ra nơtron và hạt nhân cacbon-12 (12C). 252Cf là hạt nhân tự phát nơtron. Các nguồn phát gamma kể trên được sản suất thông qua các phản ứng kích hoạt với nơtron trên lò phản ứng hạt nhân hoặc chiết tách từ các thanh nhiên liệu đã cháy của các lò phản ứng hạt nhân vì chúng là sản phẩm phân hạch. Các nước chủ động sản xuất được nguồn phóng xạ sử dụng trong công nghiệp là Nga, Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc.

1. Kỹ thuật karota giếng khoan (well log-ging) trong thăm dò dầu-khí

Kỹ thuật karota giếng khoan dựa trên hiệu ứng truyền qua của tia gamma và hiệu ứng tán xạ ngược của nơtron. Kỹ thuật karota giếng khoan sử dụng hai loại nguồn kín là nguồn phát gamma (137Cs) và nguồn phát nơtron (241Am-Be). Detec-tor ghi đo phóng xạ gamma và nơtron tương ứng

ỨNG DỤNG KỸ THUẬT HẠT NHÂN TRONG THĂM DÒ KHAI THÁC DẦU KHÍ

Page 14: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

12 Số 41 - Tháng 12/2014

là detector nhấp nháy [Na(Tl)I] và detector 3He. Karota giếng khoan có thể tiến hành đồng thời cùng lúc với khoan hoặc tiến hành sau khi hoàn thành giếng khoan. Detector được kết nối với máy tính có các chương trình xử lý số liệu phù hợp. Sau khi xử lý các tín hiệu từ detector sẽ thu được các thông tin sau:

- Độ rỗng của các tầng địa chất

- Khoáng thạch học các địa tầng

- Thể tích tầng đá phiến sét (chứa dầu, đặc thù của các vùng khác thềm lục địa Việt Nam, trong đó dầu chứa trong các khe nứt nẻ của đá gốc). Đây là cơ sở để đánh giá trữ lượng dầu.

- Vùng có chứa khí.

Hình 1. Sơ đồ bố trí thiết bị tiến hành karota thăm dò giếng khoan (Abu-Jarat, 2007)

Hoạt động của thiết bị karota giếng khoan như sau. Hệ thống chứa nguồn được dòng theo giếng khoan từ trên xuống dưới và sau đó kéo từ dưới lên trên và quy trình này có thể được lặp lại nhiều lần để tăng số liệu thống kê đảm bảo độ chính xác của các thông tin thu được. Như trình bày trên hình 1, nguồn 137Cs hoặc 241Am/Be được đặt bên dưới và bên trên là detector. Giữa nguồn và detector được cách ly bằng một lớp che chắn bằng chì hoặc uran nghèo để loại trừ tín hiệu nhiễu từ nguồn đến detector. Độ rỗng trong các

địa tầng được xác định dựa trên hiệu ứng truyền qua của chùm tia gamma, trong khi đó sự có mặt của dầu sẽ được phát hiện dựa trên hiệu ứng tán xạ ngược đàn hồi của chùn nơtron. Bởi vậy hai phép thử sẽ được tiến hành lần lượt, trước tiên là xác định độ rỗng rồi sau sẽ được chính xác lại về hàm lượng dầu trong lỗ rỗng hoặc trong tầng đá phiến sét (shale).

Tia gamma phát ra từ nguồn 137Cs sẽ xuyên thấu qua các lớp địa tầng, nhưng không phải tất cả mà một phần sẽ bị tán xạ ngược trở lại và đập vào detector (hình 1). Cường độ chùm tia tán xạ ngược phụ thuộc và mật độ vật chất trong địa tầng mà mũi khoan xuyên qua. Địa tầng có tỷ trọng càng cao, tức là ít lỗ rỗng sẽ có tỷ lệ tán xạ ngược càng lớn. Bởi vậy, nếu trong địa tầng có nhiều lỗ rỗng thì phần tán xạ ngược sẽ giảm đi. Dầu trong các tầng địa chất trên thềm lục địa Việt Nam không nằm trong tầng đá phiến sét mà nằm trong các khe nứt của đá gốc. Do vậy, phát hiện nhiều khe nứt nẻ trong đá gốc sẽ cho hy vọng có dầu. Sự có mặt dầu trong các khe nứt sẽ được kiểm chứng bằng tán xạ ngược đàn hồi của nơtron.

Để xác định sự có mặt của dầu thô trong các khe nứt, nguồn 241Am/Be (nguồn nơtrron) sẽ được đưa theo chiều sâu giếng khoan và detector đặt bên trên nguồn sẽ ghi nhận cường độ dòng nơtron tán xạ ngược trở lại. Nơtrron có số khối gần ngang bằng với số khối của hydro là thành phần của dầu nên tương tác giữa nơtron và nhân hydro là tương tác tán xạ đàn hồi, tức là nơtron chủ yếu truyền năng lượng cho hạt nhân hydro và tán xạ đi một góc, trong đó có góc mà nơtron đến được detector (hình 1). Cường độ chùm tia tán xạ do detector ghi nhận được sẽ tỷ lệ với hàm lượng hydro có trong các lớp địa chất. Tuy nhiên, tín hiệu này không thể phân biệt được liệu tán

Page 15: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

13Số 41 - Tháng 12/2014

xạ ngược là do nơtron tương tác với dầu hay với phân tử nước cùng có mặt trong cấu trúc địa chất. Để phân biệt tỷ lệ giữa hàm lượng dầu với hàm lượng nước cũng như khí trong địa tầng cần kỹ sư karota có nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên, kinh nghiệm nhiều khi cũng không thể đạt độ tin cậy cao. Thay vào đó kỹ thuật đo dòng nhiều pha (multiphase flow meter) đã được áp dụng để đánh giá chất lượng giếng khoan liệu có ý nghĩa khai thác hay không?

2. Kỹ thuật đo dòng nhiều pha đánh giá chất lượng lỗ khoan khai thác

Kỹ thuật đo dòng nhiều pha sử dụng nguồn phóng xạ là một kỹ thuật tương đối mới trong công nghiệp dầu-khí. Kỹ thuật này được phát triển nhanh cùng với công nghệ tin học xử lý số liệu cung cấp bởi thiết bị ghi đo phóng xạ được lắp đặt trên giàn khoan để kiểm tra trực tiếp tỷ lệ giữa pha dầu, pha khí và pha nước đồng thời cùng chảy trong đường ống.

Hình 2. Sơ đồ bố trí thiết bị đo dòng nhiều pha

Kỹ thuật kiểm tra hoạt động cũng như chất lượng giếng khai thác dầu truyền thống, thí dụ kỹ thuật kiểm tra lỗ khoan, thường phải tiến hành trong khoảng thời gian dài, có khi đến hàng

tháng, trong khi đó kỹ thuật hạt nhân có thể cho kết quả ngay lập tức. Bộ số liệu thu được từ ghi đo hạt nhân sẽ là đầu vào cho những chương trình máy tính chuyên dụng để mô hình hóa xác định tỷ lệ pha: dầu/khí/nước.

Kỹ thuật đo dòng nhiều pha sử dụng nguồn phóng xạ phát gamma, có thể là 133Ba hoặc 137Cs. Như trình bày trên hình 2, nguồn phóng xạ được đặt một phía của đường ống dẫn và phía bên kia là detector. Nguồn phóng xạ được che kín xung quanh bằng vật liệu cản xạ chỉ để một lỗ nhỏ (collimator/mắt) sao cho chùm tia xuyên qua đường ống là rất mảnh như được phát ra từ một nguồn điểm. Vật chất chảy trong đường ống sẽ cản chùm tia phóng xạ đi đến detector. Đối với chùm tia phóng xạ mạnh, mức độ suy giảm chùm tia khi xuyên qua vật chất sẽ tuân theo quy luật suy giảm hàm mũ:

I1 = I0e-µl (1)

Trong đó I1 là cường độ chùm tia sau khi đi qua đường ống có dòng chảy bao gồm nhiều pha (3 pha) được ghi nhận bởi detector; I0 là cường độ chùm tia trước khi đi qua đường ống; µ là hệ số suy giảm tuyến tính (đơn vị là cm-1) hoặc suy giảm theo khối (đơn vị là g-2cm) của vật chất chảy trong đường ống và l là đường kính của ống dẫn. Hệ số suy giảm tuyến tính hoặc theo khối là đại lượng được xác định bằng thực nghiệm.

Từ biểu thức (1) ta rút ra được mối tương quan giữa mức độ suy giảm chùm tia phóng xạ sau khi đi qua môi trường có mật độ như sau:

Ln(I1/I0) = -l µ (2)

Đây là mối tương quan tuyến tính giữa mức suy giảm cường độ chùm tia phóng xạ được biểu diễn qua tốc độ đếm (số đếm/đơn vị thời gian) hoặc suất liều bức xạ (mGy/h). Nếu

Page 16: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

14 Số 41 - Tháng 12/2014

nhà khai thác dầu có bộ số liệu thực nghiệm, tức là đường chuẩn mô tả mối tương quan giữa suy giảm chùm tia và hệ số µ, tức là tỷ lệ pha trong dòng chảy thì họ sẽ xác định chính xác tỷ lệ pha (nước, dầu, nhũ tương nước-dầu và phần khí) chảy trong đường ống. Vì đo phóng xạ được thực hiện một cách liên tục nên bộ số liệu, mặc dù thu được trong khoảng thời gian ngắn, nhưng cũng đủ nhiều đáp ứng độ tin cậy theo thống kê. Bộ số liệu này được lập thành file đầu vào để chạy những chương trình mô phỏng thích hợp mà kết quả cuối cùng sẽ là thông tin về tỷ lệ pha trong giếng thăm dò cũng như trong giếng khai thác. Vì số liệu đầu vào nhiều nên các thông tin thu được có độ tin cậy cao. Điều này cho phép các kỹ sư vận hành giếng thăm dò cũng như khai thác có những quyết sách phù hợp về việc có phải cải tạo giếng khoan hay không hoặc có phải bổ sung thêm các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu suất thu hồi từ các tầng chứa dầu.

Hiện nay công nghiệp dầu khí coi kỹ thuật đo dòng nhiều pha sử dụng phóng xạ là kỹ thuật tiên tiến và ngày càng được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

3. Kiểm tra liên thông giữa các giếng khai thác dầu bằng kỹ thuật vết phóng xạ (radiotracer)

Công nghệ khai thác dầu ở Việt Nam là bơm nước tạo áp lực (bơm ép) đẩy dầu từ các khe nứt ra giếng khai thác. Vấn đề là phải tận dụng triệt để lượng dầu có trong các khe nứt, do vậy cần biết sự liên thông giữa các giếng khai thác để có quyết định lượng nước phải bơm ép. Không có kỹ thuật nào đơn giản và chính xác hơn là kỹ thuật vết phóng xạ.

Nguyên lý của phương pháp vết phóng xạ là bơm vào giếng bơm ép cùng với nước bơm ép một lượng dung dịch nước chứa đồng vị phóng

xạ, ví dụ như vàng (198Au), iod-131 (131I), anti-non-124 (124Sb), rồi quan trắc sự suất hiện của chúng ở các giếng khai thác theo thời gian. Các đồng vị trên đều phát phóng xạ gamma với chu kỳ bán phân rã ngắn (khoảng vài ngày đến 1-2 tháng). Vết phóng xạ cũng có thể là nước đánh dấu đồng vị triti (3H) phát phóng xạ beta. Các đồng vị này sau khi hòa trộn vào nước bơm ép sẽ phân bố trong các dòng nước bơm ép vào các khe nứt và sau một thời gian sẽ được hút lên cùng dầu ở các giếng khác xung quang giếng bơm ép, nếu các giếng liên thông với nhau. Mẫu phân tích sẽ được lấy định kỳ theo thời gian sau khi bơm chỉ thị vào giếng để phân tích ngay tại hiện trường hoặc mang về phóng thí nghiệm phân tích sau, theo từng mẻ. Sự suất hiện phóng xạ trong dòng chảy ở các giếng khai thác xung quanh là bằng chứng về sự liên thông giữa chúng. Mức độ pha loãng đồng vị đánh dấu trong dòng chảy của các giếng là chỉ thị về mức độ liên thông. Thời gian suất hiện phóng xạ là chỉ thị về quãng đường mà nó phải đi từ giếng bơm ép đến giếng khai thác.

Hình 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định mức liên thông giữa các giếng khai thác dầu (trên hình vẽ đưa ra một giếng khai thác, trong thực tế có thể có nhiều giếng xung quanh giếng bơm ép nước)

Đặng Đức Nhận - Đại học Điện Lực Võ Tường Hạnh - Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội

Page 17: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

15 Số 41 - Tháng 12/2014

Hội thảo đã diễn ra trong 2 ngày 27 - 28/11/2014 do Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (NLNTVN) phối hợp với Tổ chức Phát triển Năng lượng hạt nhân quốc tế Nhật Bản (JINED) và Trung tâm hợp tác quốc tế thuộc Diễn đàn Công nghiệp năng lượng nguyên tử Nhật Bản (JICC) tổ chức.

Tham dự Hội thảo, về phía Nhật Bản, có hơn 30 giáo sư, chuyên gia và các nhà quản lý đến từ các Trường Đại học Tokyo, Kyoto, Kinki, Nagaoka, Cơ quan Năng lượng nguyên tử Nhật Bản (JAEA), Hiệp hội Nghiên cứu an toàn hạt nhân (NSRA), các Công ty Hitachi, Mitsubishi, Toshiba v.v. Về phía Việt Nam có hơn 40 cán bộ khoa học, giảng viên, các cán bộ quản lý đến từ

Viện NLNTVN và các đơn vị trực thuộc; Ban quản lý Điện hạt nhân Ninh Thuận, Trường Đại học Điện lực và Đại học Đà Lạt…

Các đại biểu tham dự Hội thảo

HỘI THẢO VIỆT - NHẬT LẦN THỨ BA VỀ NGHIÊN CỨU, PHÁT TRIỂN NGUỒN

NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

Sáng ngày 27/11/2014, tại Hội trường Trung tâm Đào tạo, Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt) đã long trọng diễn ra Lễ khai mạc Hội thảo Việt Nam - Nhật Bản lần thứ ba về Nghiên cứu, phát triển nguồn nhân lực công nghệ hạt nhân.

Page 18: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

16

Tiếp nối thành công của Hội thảo lần thứ nhất với chủ đề “An toàn hạt nhân, truyền nhiệt và thủy nhiệt hạt nhân” (23-24/12/2013) và Hội thảo lần thứ hai với chủ đề “Nghiên cứu khoa học và công nghệ vật liệu trong nhà máy điện hạt nhân” (05- 06/6/2014) tại Hà Nội. Hội thảo lần thứ ba này nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ tri thức và kinh nghiệm về: (i) Thiết kế, xây dựng, vận hành và khai thác sử dụng lò phản ứng nghiên cứu; (ii) Vai trò của lò phản ứng nghiên cứu đối với chương trình phát triển điện hạt nhân của quốc gia. Tổng cộng có 18 báo cáo được trình bày vào Phiên thảo luận chung.

GS. Masaki Saito - Học Viện công nghệ Tokyo và TS. Trần Chí Thành - Viện trưởng Viện NLNTVN đại diện cho 2 bên phát biểu khai mạc Hội thảo.

GS. Masaki Saito – Học viện công nghệ Tokyo

TS. Trần Chí Thành – Viện trưởng Viện NLNVN

Hội thảo đã được nghe các báo cáo viên Việt Nam trình bày về các kết quả trong nghiên cứu, ứng dụng, vận hành và nâng cấp lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, đặc biệt là các lĩnh vực Thiết kế và phân tích an toàn vùng hoạt phục vụ dự án chuyển đổi nhiên liệu từ độ làm giàu cao (36%) sang độ làm giàu thấp (19,75%), dự án này bắt đầu từ năm 2004 và hoàn thành vào cuối năm 2013; Sản xuất đồng vị phóng xạ (ĐVPX) & dược chất phóng xạ phục vụ trong y học, hàng năm Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sản xuất khoảng 250 Ci ĐVPX cung cấp cho 25 bệnh viện và chuẩn đoán, điều trị cho khoảng 300.000 bệnh nhân; Phân tích kích hoạt neutron, các lĩnh vực được nghiên cứu sử dụng phân tích kích hoạt neutron đó là: thăm dò địa chất, khai thác dầu khí, nông nghiệp, sinh học và môi trường; Các nghiên cứu trên dòng nơtron qua các kênh ngang; Hoạt động đào tạo và huấn luyện sử dụng Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, v.v. Trong suốt hơn 30 năm vận hành Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã đóng vai trò quan trọng trong sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình ở Việt Nam, tuy nhiên do công suất của Lò thấp (50 kW) nên việc đẩy mạnh các hướng nghiên cứu phục vụ cho chương trình điện hạt nhân gặp nhiều hạn chế và cần thiết phải xây dựng một Lò nghiên cứu mới có công suất lớn hơn (khoảng 15 MW). Tại đây, đại diện phía Việt Nam TS. Trần Chí Thành cũng trình bày cho phía Nhật Bản biết các thông tin về việc triển khai hai dự án Điện hạt nhân Ninh thuận, phát triển nguồn nhân lực hạt nhân và vai trò của Trung tâm Khoa học & Công nghệ hạt nhân (CNEST) trong hỗ trợ kỹ thuật cho chương trình phát triển điện hạt nhân của Việt Nam. CNEST là một dự án giữa Bộ Khoa học và Công nghệ và Tập đoàn năng lượng nguyên tử Liên Bang Nga (ROSATOM), trong đó ROSATOM sẽ xây cho Việt Nam một lò phản

Số 41 - Tháng 12/2014

Page 19: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

17 Số 41 - Tháng 12/2014

ứng nghiên cứu với công suất dự kiến 15 MW để phát triển phát triển chương trình điện hạt nhân.

PGS.TS. Nguyễn Nhị Điền – Viện trưởng Viện NCHN trình bày báo cáo tại Hội thảo về Kinh nghiệm vận hành, hoạt động R&D và đào tạo tại

Lò PƯHN Đà Lạt

Các giáo sư và chuyên gia Nhật Bản đã trình bày 10 báo cáo với các nội dung về Thiết kế, xây dựng, vận hành, sử dụng Lò phản ứng và các thiết bị hạt nhân khác trong nghiên cứu - triển khai và phát triển nguồn nhân lực hạt nhân ở Nhật Bản. Với việc 25 lò phản ứng nghiên cứu với công suất khác nhau và các cơ cấu tới hạn đã được thiết kế, xây dựng và sử dụng tại các Viện nghiên cứu, Trường đại học và các Công ty điện hạt nhân của Nhật Bản cho thấy lò phản ứng nghiên cứu đã có đóng góp quan trọng trong quá trình làm chủ công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản.

Phiên thảo luận chung được tập trung vào chủ đề: Ý nghĩa, tầm quan trọng của các lò phản ứng nghiên cứu trong nghiên cứu, đào tạo và phát triển ngành hạt nhân ở Việt Nam và Nhật Bản; Triển vọng và các vấn đề liên quan đến sử dụng lò phản ứng nghiên cứu trong tương lai; Đồng thời đề xuất một số lĩnh vực và việc tổ chức hợp

tác trong nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực hạt nhân cho Việt Nam trong thời gian tới.

Giáo sư Ken NAKAJIMA – Đại học Kyoto trình bày về Các khóa học thực hành lò phản ứng cho quá trình đào tạo nhân lực tại Viện Lò phản ứng

nghiên cứu – ĐH Kyoto

Kết luận Hội thảo, phía Việt Nam đề xuất sớm thực thi khả năng hợp tác trong thiết kế, thẩm định, vận hành và khai thác lò phản ứng nghiên cứu để chuẩn bị nguồn nhân lực cho Trung tâm CNEST. Phía Nhật Bản thống nhất với đề xuất của phía Việt Nam và sẽ cùng thúc đẩy nhanh các thủ tục để các nội dung hợp tác sớm được thực hiện.

Viện Nghiên cứu hạt nhân

Page 20: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

18Số 41 - Tháng 12/2014

BICEP2 (Background Imaging of Cosmic Extragalactic Polarization) là thí nghiệm đặt tại Nam cực thực hiện với kỳ vọng tìm sóng hấp dẫn nguyên thủy.

Planck là dự án của ESA (European Space Agency) với thiết bị do hai tập đoàn của ESA và Đan Mạch cung cấp, có sự tham gia của NASA.

Như chúng ta biết BICEP2 đã thông báo ngày 17/3/2014 về việc tìm thấy những tín hiệu đầu tiên của sóng hấp dẫn SHD (và lạm phát vũ trụ). Song những dữ liệu do Planck cung cấp lại cho ta thấy rằng kết quả của BICEP2 đã gây nên nghi vấn liệu tín hiệu ghi đo bởi BICEP2 có thật sự thuộc về CMB (background) hay đó là thuộc bụi thiên hà nằm trên phông (foreground) tức là thuộc về những giai đoạn sau này trong lịch sử vũ trụ.

BICEP2 VÀ PLANCK CÙNG TRUY TÌMSÓNG HẤP DẪN LẠM PHÁT

Những kết quả của Bicep2

Thời kỳ lạm phát gây ra 2 loại nhiễu loạn quan trọng: vô hướng (mật độ) và tensor (SHD). Nhiễu loạn vô hướng được cảm ứng bởi các bất đồng nhất năng lượng mật độ. Những nhiễu loạn này quan trọng vì đó sẽ là mầm của các cấu trúc vũ trụ trong tương lai.

Những nhiễu loạn tensor ứng với SHD.

Phát hiện những tín hiệu của SHD là mục tiêu quan trọng nhất của vũ trụ học hiện đại, GS John Kovac (Harvard-Smithsonian Center for

Astrophysics), lãnh đạo BICEP2 đã phát biểu như vậy. SHD có phân cực kiểu B (B-mode).

Người ta phân biệt hai kiểu phân cực E và B (E-mode và B-mode) như ở hình vẽ 1. Chữ E ứng với kiểu điện trường chữ B ứng với kiểu từ truờng. Chỉ có SHD mới có phân cực kiểu B (thấu kính hấp dẫn - gravitational lensing - cũng có thể tạo nên kiểu phân cực B và các nhà thực nghiệm có phương pháp để tách riêng hiện tượng này).

Nhìn một bản đồ phân cực ta sẽ thấy những đoạn thẳng trên bầu trời (hình 2). Phân cực

Page 21: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

19 Số 41 - Tháng 12/2014

kiểu B tạo nên những đoạn thẳng xoáy (curl) còn phân cực kiểu E chỉ tạo nên những đoạn thẳng không xoáy (grad).

Hình 1. Bản đồ phân cực kiểu E và B. Chỉ SHD mới cho ta phân cực kiểu B

Hình 2. Bản đồ phân cực kiểu B (B-mode) do

BICEP2 ghi đo được

Nhóm BICEP2 đã ghi đo được các dấu hiệu phân cực kiểu B (xem hình 2).

Tuy nhiên gần đây một số nhà vật lý (htt-ps://www.math.columbia.edu/~woit/wordpress/) tỏ ý nghi ngờ rằng các dữ liệu do BICEP2 thu được có thể chưa phải là của bức xạ phông (Cos-mic Microwave Background) từ lạm phát nguyên thuỷ mà chỉ là của bức xạ thiên hà gần đây hơn mà thôi (galactic foreground emission). Vì vậy các kết quả của BICEP2 đòi hỏi một thời gian nhất định cho quá trình kiểm nghiệm với độ chính xác cao hơn để chứng minh rằng kết quả thu được quả là sóng hấp dẫn từ lạm phát nguyên thuỷ.

Nhóm Planck đã công bố những dữ liệu chứng tỏ rằng kết quả của nhóm BICEP2 cần được kiểm tra lại.

1. Những kết quả của nhóm Planck

Nhóm Planck đã đo phổ năng lượng góc của bụi phân cực E và B (polarized dust angular power spectra) CEEl và CBBl trong khoảng đa cực 40 < l < 600.

Những phép đo này sẽ đem lại một cách nhìn mới đối với bụi trong thiên hà và cho phép xác định mức độ ô nhiễm bụi trong các thí nghiệm của BICEP2.

Nhóm Planck cũng xác định được tỷ số biên độ giữa phân cực kiểu B (B-mode) và phân cực kiểu E (E-mode) CBBl / CEEl = 0,5. Nhóm Planck cũng chứng tỏ rằng thậm chí trong những vùng ít ô nhiễm vì bụi thiên hà thì những cửa sổ sạch bụi cũng không tồn tại để chúng ta có thể thực hiện các phép đo CMB với kiểu phân cực B mà không cần loại bỏ những bức xạ phụ.

Phép ngoại suy của Planck từ 353 GHz xuống 150 GHz cho chúng ta năng lượng bụi (dust power) DBBl = l(l+1)CBBl / (2) khoảng

2 21,32 10 CMBKµ−× (xem chú thích). Mức độ này tương đương với biên độ theo dữ liệu của Bicep2. Như thế cần phải làm sáng tỏ mức độ tín hiệu bụi phân cực ngay cả trong vùng được coi là sạch trên bầu trời.

.

Hình 3. Bản đồ bụi thiên hà (interstellar dust) trên bầu trời theo Planck

Page 22: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

20Số 41 - Tháng 12/2014

Trên hình 3, bên trái là bán cầu bắc của Thiên hà bên phải là bán cầu nam. Hình thang hơi cong có biên giới viền đen phía bán cầu nam là vùng nghiên cứu của BICEP2. Các màu mô tả độ nhiễm bẩn vì bụi thiên hà .

Các dữ liệu của nhóm Planck chứng tỏ rằng vùng trời quan sát bởi BICEP2 chứa nhiều bụi hơn dự đoán ban đầu. Các phân cực kiểu B (B-mode) quan sát được bởi BICEP2 có thể đó là một vùng nhiễm bẩn định xứ (local) hơn là dấu vết lưu lại từ thời lạm phát. Tuy dữ liệu mới của Planck không loại trừ hoàn toàn các kết quả của BICEP2 song đã chứng tỏ rằng bức xạ bụi (dust emission) có thể rất lớn trong các tín hiệu của BICEP2.

Những tín hiệu do BICEP2 ghi đo được có thể cấu tạo bởi những bức xạ mà chúng ta có thể nhầm với bức xạ các photon CMB (Cosmic Microwave Background) vì các bức xạ này cũng phát sinh từ kỷ tái hợp (epoch of recombination), khi mà các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự phân chia vật chất với bức xạ đã cho phép các photon du hành tự do trong vũ trụ.

Khi nghiên cứu CMB các nhà khoa học phải chú ý đến 2 nguồn bức xạ điện từ quan trọng trong thiên hà của chúng ta – đó là bức xạ syn-chrotron từ những electron chuyển động trong từ trường của thiên hà và bức xạ phân cực từ bụi (polarized emission from dust).

2. So sánh kết quả của BICEP2 với các dữ liệu của Planck

Như trên đã nói ngoại suy của nhóm Planck từ dữ liệu 353 GHz đến 150 GHz cho chúng ta năng lượng bụi (dust power) DBBl = l(l+1)CBBl / (2) khoảng (hình 4).

Hình 4. Sự trùng hợp gần tuyệt đối giữa các quan sát của Bicep2 với dữ liệu bụi của nhóm Planck

Trên hình 4 những hình chữ nhật là dữ liệu của nhóm Planck do bụi tạo nên. Đường cong đen là dự đoán lý thuyết theo mô hình Lambda-CDM (xem chú thích) dựa trên dữ liệu của BICEP2. Như vậy ta thấy có sự trùng nhau gần như tuyệt đối giữa BICEP2 và Planck. Điều đó có nghĩa là tín hiệu của BICEP2 có lẽ là từ bụi thiên hà chứ không phải từ lạm phát nguyên thủy.

Mặc dầu nhóm BICEP2 đã phát biểu rằng họ đã loại trừ các bức xạ synchrotron và bụi, song các đánh giá của BICEP2 về bụi là quá thấp. Ngoài ra BICEP2 chỉ thực hiện các ghi đo ở tần số 150 GHz.

Neil Turok (Viện Vật lý lý thuyết Pe-rimeter, Canada) cho rằng như thế bản thân thí nghiệm BICEP2 cũng đã là hạn chế vì chỉ xét một tần số. BICEP2 không thể kiểm nghiệm xem các tín hiệu của họ có thể xảy ra ở các tần số khác hay không? Đây là một điều cần thiết phải có nếu đó quả là một hệ quả vũ trụ. Peter Coles (Đại học Sussex, Anh) cũng cho rằng bức xạ từ bụi thiên hà có thể có ý nghĩa nhiều hơn các nhà thiên văn nghĩ. Subir Sarkar (Đại học Oxford) cũng cho rằng bức xạ từ bụi nhiễm từ trong những cấu trúc định xứ có thể gây nên những tín hiệu mà Bicep2 ghi đo được.Sarkar cho rằng chính bức xạ này là

Page 23: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

2121 Số 41 - Tháng 12/2014

bức xạ trên phông (foreground) ở tần số vi sóng đã bị đoán nhầm bởi BICEP2 là tín hiệu B-mode của hấp dẫn nguyên thủy.

Các dữ liệu của nhóm Planck cũng chứng tỏ rằng tồn tại một bức xạ như thế trong Ngân hà.

Kết luận

Nhiều nhà thiên văn học tin rằng một nghiên cứu chéo giữa BICEP2 và Planck có thể dẫn đến một kết luận cuối cùng về hấp dẫn lạm phát. Kế hoạch hợp tác đã manh nha từ tháng 7/2014. Các nhà vật lý thiên văn hoan nghênh sự cộng tác nếu được hình thành giữa hai nhóm trên để cùng hóa giải vấn đề trong tương lai (có thể kéo dài từ 3 đến 5 năm).

Sự kết hợp giữa BICEP2 và Planck sẽ lợi dụng được ưu thế về dải rộng tần số và dữ liệu về bụi toàn bầu trời của Planck với khả năng có độ nhạy cảm lớn các thiết bị của BICEP2. Thế giới thiên văn mong đợi kết quả từ sự hợp tác này giữa BICEP2 và Planck. Hiện nay vấn đề sóng hấp dẫn từ lạm phát đang còn bị bỏ ngỏ.

GS. Cao Chi

Tài liệu tham khảo

[1] BICEP 2 : DETECTION OF B-mode POLARIZATION AT DEGREE ANGULAR SCALES, nhiều tác giả nhóm Bicep2

[2] Planck intermediate results. XXX.

The angular power spectrum of polarized dust emission at intermediate and high Galactic latitudes, nhiều tác giả nhóm Planck [astro-ph.CO] 19 Sept 2014

[3] Planck Speaks: Bad News for Primor-

dial Gravitational Waves?

Posted on September 21, 2014 by Sean Carroll

[4] Full-galaxy dust map muddles search for gravitational waves

Ron Cowen NATURE | BREAKING NEWS, 22 September 2014

[5] BICEP2 gravitational wave result bites the dust thanks to new Planck data , Tushna Com-missariat, Sep 22, 2014

Chú thích

[1] = microkelvin , một đơn vị nhiệt độ SI bằng 10−6 kelvin.

[2] Mô hình Lambda-CDM (Lambda-Cold Dark Matter) = mô hình giả định sự tồn tại của vật chất tối và lạnh kết hợp với sự có mặt của hằng số vũ trụ lambda

Page 24: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

22Số 41 - Tháng 12/2014

Lúc kết thúc chiến tranh (năm 1953), nền kinh tế Hàn Quốc kiệt quệ, thu nhập quốc dân tính theo đầu người không quá 100 USD. Nền kinh tế của Hàn Quốc được vực dậy và phát triển chủ yếu bắt đầu từ thời cầm quyền của tổng thống Park Chung Hee (Cha của tổng thống Park Geun Hye hiện nay), kéo dài hơn 16 năm, từ một cuộc đảo chính quân sự năm 1963 đến khi bị ám sát năm 1979.

Muốn phát triển công nghiệp phải có điện, nhà cầm quyền Hàn Quốc đã sớm nghĩ đến điện hạt nhân. Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên là nhà máy Kori gồm 4 lò phản ứng PWR (Pressurize Water Reactor) - Lò phản ứng nước áp lực mua

của công ty Westinghouse (Hoa Kỳ). Lò thứ nhất khởi công xây dựng tháng 11 năm 1971, hoàn thành tháng 4 - 1978, thời gian xây dựng mất 6 năm rưỡi, công suất 578 MW. Lò thứ hai công suất 650 MW hoàn thành năm 1983, lò thứ ba 950 MW hoàn thành năm 1985, năm 1986 hoàn thành lò thứ tư công suất 950 MW.

Hai lò phản ứng thứ 5 và thứ 6 cũng là lò PWR do công ty Westinghouse - Hoa Kỳ cung cấp, công suất mỗi lò 950 MW được đưa vào hoạt động tháng 8 năm 1986 và tháng 7 năm 1987.

Sau 6 lò phản ứng đầu tiên do Hoa Kỳ xây dựng, năm 1988 và năm 1989 Hàn Quốc đưa vào hoạt động 2 lò phản ứng do công ty Framatome -

TỪ ĐIỆN HẠT NHÂN CỦA HÀN QUỐC NGHĨ VỀ ĐIỆN HẠT NHÂN CỦA NƯỚC TA

Ngày 27 - 07 - 1953, Hiệp định ngừng bắn được ký kết giữa hai miền Nam Bắc Triều Tiên, kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài hơn 3 năm (25 - 06 - 1950 đến 27 - 07 - 1953). Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền, miền Bắc có diện tích 120.500 km2, dân số 21.800.000 người. Miền Nam (Hàn Quốc) nhỏ hơn với diện tích 99.000 km2 (bằng gần một phần ba diện tích nước ta 335.000 km2), dân số 43.000.000 người.

Page 25: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

23 Số 41 - Tháng 12/2014

Pháp cung cấp, công suất mỗi lò 950 MW.

Dựa trên kinh nghiệm mà công ty West-inghouse - Hoa Kỳ và công ty Framatome cung cấp, bắt đầu từ đầu những năm 1990, Hàn Quốc xây dựng lò phản ứng do mình tự thiết kế và chế tạo, ký hiệu là OPR 1000 (Optimized Power Re-actor - Lò phản ứng năng lượng tối ưu). Loại lò phản ứng này Hàn Quốc có ý đồ sẽ cung cấp cho thị trường châu Á trong tương lai. Từ tháng 8 - 1998 đến tháng 1 - 2013, Hàn Quốc đã đưa vào hoạt động 9 lò phản ứng OPR 1000, mỗi lò công suất 1000 MW.

Tháng 9 - 2013, Hàn Quốc đưa vào vận hành lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ ba ký hiệu APR 1400 do Hàn Quốc đưa tự thiết kế chế tạo, công suất mỗi lò là 1350 MW, giá thành xây dựng là 2300 USD/kW, thấp hơn lò phản ứng thế hệ thứ ba của châu Âu EPR là 2900 USD/kW và lò ABWR của GE - Hitachi là 3580 USD/kW. Với lò phản ứng thế hệ thứ ba APR 1400 này, tháng 12 - 2009 Hàn Quốc đã thắng thầu xây dựng cho Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (United Arab Emirate - UAE) một tổ hợp 4 lò phản ứng với giá 20,4 tỷ USD, dự kiến được đưa vào hoạt động năm 2020.

Từ lò phản ứng đầu tiên được phát điện vào tháng 4 - 1978 đến nay là gần 37 năm, Hàn Quốc đã trở thành cường quốc điện hạt nhân đứng thứ ba trên thế giới. Đến năm 2015 này Hàn Quốc có 23 lò phản ứng đang hoạt động với tổng công suất 20,7 GWe, điện hạt nhân chiếm 31% trong tổng số sản lượng điện (thủy điện chiếm 1,3%, dầu mỏ chiếm 3,7%, khí 21%, than 39,4%). Kế hoạch của Hàn Quốc là đưa số lò phản ứng lên 40 lò vào năm 2030 với tổng công suất 43 GWE và điện hạt nhân chiếm 59% trong tổng sản lượng điện. Gần đây chính phủ Hàn Quốc tuyên bố rằng

đến năm 2030 Hàn Quốc sẽ xuất khẩu sang các nước châu Á và Trung Cận Đông 80 lò phản ứng hạt nhân với giá trị là 400 tỷ USD và điện hạt nhân sẽ là nguồn xuất khẩu lớn thứ tư sau xe hơi, điện tử và đóng tàu.

Bà Park Geun Hye được bầu làm tổng thống Hàn Quốc ngày 25 - 02 - 2013. Một tháng sau, ngày 27 - 03 - 2013, bà tuyên bố với báo chí rằng mặc dù có tai nạn lò phản ứng Fukushima xảy ra vào năm 2011 tại Nhật Bản, chính sách phát triển điện hạt nhân của Hàn Quốc không thay đổi mà còn mạnh mẽ hơn nữa.

Năm 1960 tôi tốt nghiệp ngành Vật lý hạt nhân thực nghiệm trường Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, Trung Quốc. Đây là trường Đại học công nghiệp lớn nhất Trung Quốc. Ngành hạt nhân đối với Trung Quốc lúc này còn là một ngành mới, trong 3 năm đầu sinh viên phải cấp tốc học tiếng Nga, đến năm thứ 4 học thêm tiếng Anh. Tốt nghiệp xong tôi ở lại một năm thực tập tại Viện Năng lượng nguyên tử Bắc Kinh, tháng 10 - 1951 về nước công tác tại Ủy ban khoa học nhà nước, dưới quyền của Giáo sư Tạ Quang Bửu, phó chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký Ủy ban khoa học nhà nước.

Tháng 3 - 1961 tôi được cử sang Liên Xô tham dự một khóa học trong 3 tháng tại Viện liên hợp nghiên cứu hạt nhân Đúp na để chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong các nước Xã hội chủ nghĩa anh em. Tôi đã được đến thăm nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới Obnisk gần Matxcơva khánh thành vào ngày 27 - 06 - 1954 và ngồi xe lửa một đêm sang trăng qua vùng thảo nguyên mênh mông của nước Nga đến bên bờ sông Đông êm đềm, thăm công trường xây dựng nhà máy điện hạt nhân Novo- Voronej công suất 240.000 kW, lớn nhất thế giới hồi ấy.

Page 26: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

24Số 41 - Tháng 12/2014

Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tôi được cử vào Ban năng lượng của Đảng chuẩn bị cho Đại hội IV do đồng chí Nguyễn Chấn, Bộ trưởng bộ Điện - Than làm trưởng ban. Tôi được giao soạn thảo đề án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của nước ta và được trực tiếp báo cáo bản đề án này với Bộ Chính trị. Nghe xong báo cáo, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “ Thế giới làm điện hạt nhân, các nước anh em làm điện hạt nhân thì nước ta cũng phải làm, còn bao giờ làm thì các nhà khoa học bàn với nhau” Trong bản đề án của tôi, tôi có đề nghị nhờ Liên Xô giúp xây dựng một nhà máy điện hạt nhân đầu tiên có 2 lò phản ứng, kiểu áp lực VVER 440, công suất mỗi lò 440 MW, đưa vào hoạt động trong hai năm 1985 - 1986, chỉ chậm 7 năm so với lò phản ứng hạt nhân đầu tiên do Mỹ xây dựng ở Hàn Quốc tháng 4 - 1978. Liên Xô đã giúp xây dựng 22 lò phản ứng VVER 440 ở nhiều nước như Đông Đức, Bungari, Tiệp Khắc, Phần Lan… Các lò phản ứng này đến nay vẫn hoạt động an toàn. Mùa hè năm 1976, nhân dịp đi dự hội nghị các hội khoa học - kỹ thuật các nước Xã hội chủ nghĩa ở Bun-gari, tôi có được thăm công trường xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Paks bên bờ sông Danube với hai lò phản ứng VVER 440. Tôi nghĩ nếu như vào lúc Liên Xô giúp các nước anh em xây dựng nhà máy điện hạt nhân nhôn nhịp như vậy, ta nhờ Liên Xô xây dựng nhà máy điện hạt nhân thì ta đã có thể đi vào công nghệ điện hạt nhân sớm hơn.

Ngày 25 - 11 - 2009, Quốc hội đã chính thức thông qua Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Sẽ xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân Ninh thuận 1 và Ninh Thuận 2, mỗi nhà máy có 2 lò phản ứng nước nhẹ tiên tiến, công suất mỗi lò là 1000 MW. Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 sẽ khởi công năm 2014 và vận hành năm 2020.

Gần đây Chính phủ đã công bố để việc chuẩn bị được chu đáo hơn, việc khởi công xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 không thể tiến hành vào năm 2014 như Quốc hội đã thông qua mà phải lùi lại ít năm nữa, trước năm 2020.

Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy điện hạt nhân đã làm thay đổi bộ mặt đất nước nhanh chóng. Các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió chỉ có thể cung cấp năng lượng trên quy mô nhỏ. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng trên quy mô lớn đồng thời giảm thiểu việc phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên, không có con đường nào khác là nhanh chóng phát triển điện hạt nhân một cách an toàn, vững chắc.

Đinh Ngọc Lân

Nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký

Hội Vật lý Việt Nam

Page 27: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT

25

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

25 Số 41 - Tháng 12/2014

1. Tình hình sản xuất lương thực thực phẩm của Việt Nam

Mặc dù đang hướng tới mục tiêu trở thành một quốc gia công nghiệp trước 2020, đến nay, Việt Nam vẫn đang là một nước nông nghiệp, trong đó các ngành nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản chiếm tỷ trọng gần 20% quy mô nền kinh tế, cao hơn nhiều so với bất kỳ lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ khác. Với khoảng 60% lực lượng lao động tập trung ở khu vực nông thôn, nông nghiệp vẫn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế của đất nước [2]. Tuy nhiên, đóng góp của sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu là giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông thôn, do chất lượng và giá trị sản phẩm nông nghiệp không cao, lại sử dụng quá mức tài nguyên đất canh tác nông nghiệp, nước tưới tiêu

và các loại hóa chất nông nghiệp, hậu quả gây ra những vấn đề môi trường vô cùng nghiêm trọng như ô nhiễm nguồn nước, đất nhiễm mặm, giảm đa dạng sinh học…

Đối mặt với vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu, mà Việt Nam là một trong những khu vực dễ tổn thương nhất, nền nông nghiệp nước ta đang đứng trước những thử thách vô cùng nghiêm trọng. Để hạn chế tác động của biến đổi khí hậu cũng như tình trạng ô nhiễm gây ra do hoạt động sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã chú trọng tới các công nghệ bảo quản, chế biến thực phẩm để hạn chế tổn thất lương thực thực phẩm, cũng như tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp đặc thù, nhất là các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Song đến nay, giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của nước ta vẫn chưa được như kỳ vọng do những

TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CHIẾU XẠ THỰC PHẨM HỖ TRỢ XUẤT

KHẨU NÔNG SẢN VÀ ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC Ở VIỆT NAM

Những năm gần đây, bằng chủ trương công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Nhiều loại sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cũng đã được khuyến khích sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Page 28: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

26Số 41- Tháng 12/2014

vấn đề liên quan đến chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để kiểm soát vấn đề mất an toàn lương thực thực phẩm, song do cơ sở hạ tầng yếu kém và tâm lý tiểu nông của phần lớn nông dân nên nhiều người bỏ qua các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, dẫn đến việc lạm dụng quá mức các loại thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất bảo quản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn vệ sinh thực phẩm, gia tăng tình trạng bệnh lý do sử dụng thực phẩm không an toàn, nhất là gia tăng tỷ lệ bệnh nhân mắc các bệnh nan y như tim mạch, tiểu đường, ung thư…. Vì vậy, việc triển khai ứng dụng các công nghệ bảo quản hiện đại, an toàn và thân thiện môi trường như công nghệ chiếu xạ là điều hết sức cần thiết [3-5].

2. Bảo quản lương thực thực phẩm và vai trò của công nghệ chiếu xạ

Từ thời tiền sử các kỹ thuật khác nhau đã được áp dụng để bảo quản lương thực, thực phẩm như phơi khô, hun khói, lên men… Đến nay, nhiều phương pháp bảo quản hiện đại đã được khám phá và trở nên thông dụng trong chế biến thực phẩm như đóng hộp, thanh trùng nhiệt khô, nhiệt ẩm, sử dụng các loại hóa chất, enzyme bảo quản. Và gần đây nhất là sử dụng bức xạ ion hóa được phát ra từ các nguồn đồng vị chủ yếu là Co-60, máy phát tia X và máy gia tốc, để tiêu diệt các vi sinh vật gây hại có trong thực phẩm, giúp giảm tổn thất và kéo dài thời gian bảo quản mà không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.

Khả năng bảo quản một số loại ngũ cốc của bức xạ ion hóa được khám phá từ hơn 1 thế kỷ trước tại vương quốc Anh, song mãi đến năm 1921, việc sử dụng bức xạ tia X để bảo quản thực phẩm mới được các nhà khoa học Mỹ nghiên cứu

nhằm tiêu diệt các loại giun ký sinh trong thịt lợn. Và đến những năm 50 của thế kỷ trước, ứng dụng chiếu xạ thực phẩm mới được phát triển nhờ những tiến bộ trong việc sản xuất đồng vị phóng xạ và sự phát minh ra máy gia tốc chùm điện tử (Electron Beam Accelerator). Từ đó, rất nhiều nỗ lực khác nhau đã được thực hiện để đẩy mạnh ứng dụng của công nghệ chiếu xạ thực phẩm trong việc bảo quản các sản phẩm lương thực thực phẩm.

Bức xạ ion hóa có khả năng gây ra những biến đổi vật lý, hóa học và sinh học trong đối tượng chiếu xạ. Với khả năng ion hóa mạnh, bức xạ sẽ làm hình thành các gốc tự do có thời gian sống ngắn và tính linh động cao khi xuyên qua sản phẩm. Các gốc tự do này có thể gây ra những tổn thương di truyền trong tế bào sống, làm sai lệch chức năng của tế bào, cơ thể sống thậm chí gây chết. Với những thuận lợi này, bức xạ ion hóa đã được sử dụng để tiêu diệt các loại côn trùng gây hại, ký sinh trùng, vi sinh vật (VSV) và nấm mốc. Phụ thuộc vào liều chiếu xạ và suất liều, các hiệu ứng khác nhau đã được ứng dụng để ức chế nảy mầm cây có củ hoặc cây có bẹ, làm chậm chín hoa quả tươi, kiểm dịch côn trùng, ký sinh trùng gây bệnh (dưới 1 kGy). Trong khi các vi sinh vật và nấm mốc có khuynh hướng kháng xạ hơn, nên thường phải sử dụng liều cao hơn. Chẳng hạn, sử dụng liều chiếu lên đến 3 kGy và 7 kGy để kiểm soát VSV gây bệnh có trong thực phẩm đông lạnh và thịt gia cầm, hay liều chiếu trung bình 10 kGy để giảm ô nhiễm VSV đối với bột gia vị hoặc liều chiếu cao 45 kGy, thậm chí đến 70 kGy để sản xuất một số loại thực phẩm hoàn toàn vô trùng dành cho nhà du hành vũ trụ hay các bệnh nhân ghép tạng, bị suy giảm hệ miễn dịch.

Bên cạnh khả năng tiêu diệt các loại côn

Page 29: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

27 Số 41 - Tháng 12/2014

trùng gây hại, giảm nhiễm vi sinh vật… các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy xử lý chiếu xạ có thể làm tăng tính an toàn của thực phẩm bằng cách tiêu diệt các VSV có khả năng sinh độc tố có mặt trong một số hàng nông sản. Với các bằng chứng khoa học đạt được hơn 50 năm qua, đến nay chiếu xạ thực phẩm đã được chứng minh là một công nghệ bảo quản hiện đại, an toàn, hiệu quả và thân thiện môi trường do không để lại bất kỳ dư lượng độc hại trong sản phẩm, không làm thay đổi thành phần và chất lượng thực phẩm, ngay cả khi áp dụng liều chiếu cao [6]. Do đó, công nghệ này đã được các tổ chức Nông Lương thế giới (FAO), tổ chức Y tế (WHO) và cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA) khuyến cáo thay thế cho biện pháp hóa học để giảm thiểu việc sử dụng hóa chất bảo quản, thường để lại dư lượng làm ô nhiễm sản phẩm, với việc khẳng định “Chiếu xạ bất kỳ sản phẩm thực phẩm nào với liều chiếu trung bình chung đến 10 kGy không gây ra bất kỳ rủi ro nào”. WHO cũng khuyến cáo rằng sự từ chối không chính đáng đối với kỹ thuật xử lý này chủ yếu do thiếu hiểu biết, và điều này sẽ cản trở sự phát triển công nghệ ngay tại những quốc gia mà chính nó sẽ tạo ra lợi ích nhiều nhất [1].

Mặc dù vậy, đến nay công nghệ chiếu xạ thực phẩm vẫn chưa được quan tâm đúng mức và phát triển đúng tiềm năng của nó, nhất là ở các quốc gia kém phát triển và đang phát triển như Việt Nam, do chi phí ban đầu cao cũng như những khó khăn về mặt công nghệ, và nhất là tâm lý e ngại của người tiêu dùng khi liên hệ chiếu xạ với các thảm họa về bom nguyên tử, rò rỉ phóng xạ của các nhà máy điện hạt nhân. Ngay cả ở các nước phát triển, công nghệ chiếu xạ thực phẩm vẫn có những hạn chế nhất định, chủ yếu liên quan đến nhận thức và khả năng chấp nhận của người tiêu dùng. Việc hạn chế sử dụng chiếu xạ

thực phẩm được quy định rõ ở nhiều nước. Chẳng hạn, các quốc gia liên minh châu Âu chỉ cho phép chiếu xạ nếu điều đó là cần thiết về mặt công nghệ, không có nguy hiểm nào về mặt sức khỏe, có lợi cho người tiêu thụ và không ảnh hưởng đến quy trình sản xuất sạch (GMP) và tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm. Do những quy định này, hầu hết các quốc gia đều bắt buộc dán nhãn đối với thực phẩm chiếu xạ để giúp cho người tiêu dùng phân biệt và lựa chọn.

3. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ chiếu xạ thực phẩm ở Việt Nam

Hình 1. Nghiên cứu chiếu xạ thực phẩm tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội

Ở Việt Nam, ứng dụng công nghệ bức xạ (CNBX) đã được quan tâm từ rất lâu, đặc biệt sau khi thống nhất đất nước với sự thành lập Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia. Đầu tiên là các ứng dụng bức xạ trong y tế, sản xuất đồng vị đánh dấu, đến các ứng dụng trong lĩnh vực công nông nghiệp. Chiếu xạ thực phẩm đã được lôi cuốn được sự chú ý của các nhà khoa học trong nước từ những năm 80 của thế kỷ trước, song mãi đến đầu thập kỷ 90, công nghệ này mới bắt đầu được các nhà nghiên cứu thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (NLNTVN) tập trung

Page 30: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

28Số 41 - Tháng 12/2014

nghiên cứu sau khi được cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA tài trợ thiết bị chiếu xạ bán công nghiệp cho Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội theo Dự án “Chiếu xạ Thực phẩm”. Là cơ sở đầu tiên được trang bị nguồn phóng xạ hoạt độ 107 kCi, Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội đã thực hiện hàng loạt nghiên cứu liên quan đến chiếu xạ thực phẩm. Kết quả đã chứng minh khả năng của công nghệ trong việc bảo quản lương thực, thực phẩm, ức chế sự nảy mầm của củ khoai tây, khoai lang; hành tây, tỏi tây, trong đó dự án bảo quản hành tây lần đầu tiên đã đưa sản phẩm hành tây chiếu xạ ra thị trường Hà Nội (1996) và được người tiêu dùng đánh giá cao. Đến nay, CNBX đã được xem là kỹ thuật hiệu quả trong xử lý thanh tiệt trùng, kéo dài thời hạn bảo quản lương thực thực phẩm. Chắc chắn rằng trong thời gian tới công nghệ này sẽ có những bước phát triển mạnh đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, nhất là khi thường xuyên xảy ra những trường hợp ngộ độc do thực phẩm nhiễm khuẩn, sử dụng quá mức các hóa chất bảo quản hay hóa chất không rõ nguồn gốc.

Bên cạnh đó, chiếu xạ cũng đã chứng tỏ khả năng làm chậm chín một số loại quả tươi như cam, chuối, vải thiều, ức chế sự phát triển quả thể nấm mỡ; kiểm dịch đối với một số loài côn trùng, ruồi đục quả như Bactrocera dorsalis Hendel trên quả thanh long, Bactrocera correcta trên quả bưởi, các loài cỏ dại trên lúa mỳ nhập khẩu; tiêu diệt các VSV, nấm mốc trong thực phẩm tươi và khô, đặc biệt là kiểm soát VSV gây bệnh Samo-nella trong thủy hải sản đông lạnh; giảm ô nhiễm VSV một số bột gia vị. Từ các kết quả nghiên cứu đạt được, năm 1999, Viện NLNTVN đã xây dựng Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai công nghệ bức xạ tại thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu đẩy mạnh hơn nữa ứng dụng chiếu xạ thực phẩm

cũng như công nghệ chiếu xạ trong việc khử trùng vật phẩm y tế. Mặc dù, thực phẩm chiếu xạ chưa thể có sẵn trên các siêu thị trong nước, công nghệ chiếu xạ thực phẩm đã phát triển mạnh để thanh tiệt trùng các sản phẩm thủy hải sản tươi sống và lạnh đông, kiểm dịch quả tươi phục vụ xuất khẩu ngay từ đầu thế kỷ XXI.

Hình 2. Sự gia tăng số lượng thực phẩm chiếu xạ tại Việt Nam

Nhằm tăng cường khả năng ứng dụng của ngành công nghệ này trong bảo quản và chế biến thực phẩm phục vụ mục đích nội tiêu và xuất khẩu, các nhà khoa học của Viện VNLNTVN đã phối hợp với các nhà quản lý thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ Y tế và các bên liên quan khác xây dựng các quy định và điều luật về chiếu xạ thực phẩm dựa trên bằng chứng khoa học và khuyến cáo của các tổ chức quốc tế. Quyết định số 3616/2004/QĐ-BYT của Bộ Y tế đã cho phép 7 loại thực phẩm khác nhau gồm nông sản (thân, rễ, củ); rau quả tươi; ngũ cốc và các sản phẩm bột nghiền từ ngũ cốc, đậu hạt, hạt có dầu; thủy hải sản và sản phẩm thủy sản bao gồm động vật không xương sống, động vật lưỡng cư dạng tươi sống hoặc đông lạnh; thịt gia súc, gia cầm và các sản phẩm từ gia súc, gia cầm ở dạng tươi sống hoặc đông lạnh; rau gia vị khô và thảo mộc; thực phẩm khô có nguồn gốc động vật; được xử lý chiếu xạ với những dải liều chiếu xác định. Cho đến nay, nhiều quy định liên quan khác như bao bì thực phẩm, đã được ban hành để

Page 31: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

29 Số 41 - Tháng 12/2014

hướng dẫn các nhà sản xuất, nhà quản lý và cơ sở chiếu xạ thực hành tốt nhất chiếu xạ thực phẩm, góp phần đảm bảo vệ sinh, an toàn, chất lượng thực phẩm chiếu xạ.

Với những bằng chứng khoa học tin cậy đạt được, công nghệ chiếu xạ thực phẩm đã khẳng định được vị thế trong nước, dẫn đến việc ra đời của các cơ sở chiếu xạ tư nhân gồm các công ty Sonson, An Phú, Thái Sơn. Cho đến nay, Viện NLNTVN đã có 3 thiết bị chiếu xạ bao gồm máy gia tốc chùm điện tử EB dùng cho cả nghiên cứu và triển khai ứng dụng công nghệ, trong khi khu vực tư nhân đã có 6 thiết bị chiếu xạ và 1 cơ sở khác đã được cấp phép xây dựng. Lượng thực phẩm chiếu xạ ngày càng gia tăng, đến khoảng 80.000 tấn năm 2012 [6].

4. Chiếu xạ thực phẩm góp phần đảm bảo an ninh lương thực

Làm thế nào để các quốc gia đang phát triển như Việt Nam có thể đảm bảo việc cung cấp thực phẩm chất lượng và an toàn cho mọi người dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa? Kinh nghiệm đã cho thấy rằng trừ khi thực phẩm được cung cấp miễn phí, những người nghèo và cận nghèo sẽ khó có thể tiếp cận thực phẩm đúng chất lượng. Chiếu xạ thực phẩm có thể góp phần tích cực trong việc giảm tổn thất lương thực thực phẩm và bảo đảm chất lượng, kiểm soát các dịch bệnh có nguồn gốc thực phẩm. Chiếu xạ thực phẩm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an toàn và an ninh lương thực, thực phẩm toàn cầu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

Thông qua các bằng chứng khoa học được tiến hành trên nhiều loại thực phẩm khác nhau trong hơn nửa thế kỷ, nhóm tư vấn quốc tế về chiếu xạ thực phẩm (International Consulta-tive Group on Food Irradiation, ICGFI) gồm các

thành viên của FAO, WHO và IAEA đã khuyến cáo các quốc gia thành viên ứng dụng công nghệ chiếu xạ thực phẩm thay cho một số công nghệ không hiệu quả và gây ô nhiễm hiện có như xử lý hóa chất xông hơi, thanh trùng nhiệt nóng [5]. Như vậy, công nghệ chiếu xạ thực phẩm không chỉ có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm phục vụ thị trường trong nước, mà còn giúp đẩy mạnh việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp đặc thù của Việt Nam, nâng cao giá trị của hàng nông sản nước ta trên trường quốc tế, nhất là ở các quốc gia phát triển, nơi xử lý chiếu xạ được chấp nhận như kỹ thuật kiểm dịch côn trùng, dịch bệnh và bảo quản thực phẩm.

Hiện nay, xử lý chiếu xạ đã được áp dụng để đảm bảo chất lượng vệ sinh cho một số loại thực phẩm như thủy hải sản, bột gia vị, rau gia vị… [6]. Hàng năm, một lướng lớn thực phẩm gồm thủy hải sản đông lạnh, bột gia vị và thực phẩm khô khác đã được xử lý chếu xạ ở Việt Nam phục vụ xuất khẩu. Với các bằng chứng khoa học về hiệu quả của biện pháp chiếu xạ kiểm dịch đối với ruồi đục quả Batrocera dosalis Hendel và một số loài rệp sáp trên quả thanh long, quả thanh long chiếu xạ Việt Nam đã lần đầu tiên bước chân vào thị trường Mỹ năm 2008, và số lượng thanh long xuất sang Mỹ ngày càng tăng, lên đến trên 1500 tấn năm 2013. Từ năm 1986, cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) đã cho phép chiếu xạ liều đến 1000Gy để bảo quản và kiểm soát côn trùng đối với rau và quả tươi. Mới đây, ngày 4/9/2014, cơ quan kiểm tra sức khỏe động và thực vật của Bộ Nông nghiệp Mỹ (APHIS) đã cho phép nhập khẩu vải và nhãn Việt Nam với yêu cầu bắt buộc được xử lý kiểm dịch bằng chiếu xạ với liều chiếu tối thiểu 400 Gy. Một số quốc gia châu Âu, Chi lê, Argentina, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và NewZealand… cũng đang xem

Page 32: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

30Số 41 - Tháng 12/2014

xét nhập khẩu rau quả tươi Việt Nam, đặc biệt là sản phẩm được xử lý kiểm dịch bằng bức xạ.

5. Tương lai của chiếu xạ thực phẩm ở Việt Nam

Mặc dù thường xuyên bùng phát những trận dịch hay những trường hợp ngộ độc do sử dụng thực phẩm không an toàn, cũng như được thông tin về ưu thế của công nghệ chiếu xạ thực phẩm trong việc bảo đảm an toàn chất lượng vệ sinh thực phẩm từ nhiều năm qua thông qua các báo cáo khoa học, các hội thảo, các phương tiện truyền thông, các cuộc phỏng vấn trên truyền hình… và giờ đây đã có sẵn trên mạng internet của nhiều cơ sở nghiên cứu và cơ quan quản lý, người tiêu dùng vẫn có tâm lý e ngại đối với thực phẩm chiếu xạ. Vì thế, thị trường của thực phẩm chiếu xạ ở Việt Nam chủ yếu vẫn là phục vụ xuất khẩu.

Các nghiên cứu về thái độ người tiêu dùng thường cho thấy nhiều người có định kiến, cũng như hiểu biết sai lầm nghiêm trọng về công nghệ này, tuy rằng quan niệm của họ có thể thay đổi khi họ được thông tin đầy đủ và chính xác về công nghệ, đặc biệt khi có cơ hội dùng thử thực phẩm chiếu xạ. Nghiên cứu về các chỉ tiêu cảm quan của thực phẩm chiếu xạ cũng cho thấy mức độ thay đổi hình thức cảm quan của các sản phẩm chiếu xạ có thể là tương đương, thậm chí thấp hơn phương pháp bảo quản thực phẩm truyền thống. Rõ ràng là chiếu xạ thực phẩm đã tạo ra những lợi ích nhất định, song vẫn chưa đủ để người tiêu dùng vượt qua tâm lý e sợ đối với bất kỳ thứ gì liên quan đến phóng xạ, cần thiết phải có thêm nhiều bằng chứng khoa học, cũng như đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục người tiêu dùng để công nghệ chiếu xạ thực phẩm nước ta có thể phát triển như kỳ vọng, góp phần kiểm soát dịch bệnh, giảm tổn thất lương thực thực phẩm, đối

phó biến đổi khí hậu.

Với ưu thế trong việc giảm tổn thất sau thu hoạch, bảo đảm vệ sinh thực vật, an toàn và an ninh thực phẩm, cũng như việc chính phủ Việt Nam đã và đang hoàn thiện các quy định, điều luật liên quan, công nghệ chiếu xạ thực phẩm này chắc chắn sẽ thu được nhiều thành công trong thời gian tới, không chỉ thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, làm gia tăng giá trị hàng nông sản Việt Nam, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguồn cung thực phẩm an toàn cho người tiêu dùng trong nước, đối phó với vấn đề ô nhiễm sản phẩm nông nghiệp và biến đổi khí hậu trong thế kỷ XXI.

TS. Trần Minh Quỳnh

Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội

Tài liệu tham khảo

1. Johannes Friedrich Diehl. Will irradia-tion enhance or reduce food safety. Food Polycy 1993, 143-151.

2. Tổng cục thống kê. Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011. NXB Thống kê 2012

3. Trần Minh Quỳnh. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ bức xạ ở Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Tạp chí Khoa học và công nghệ hạt nhân, số 30, 2012: 15-21.

4. http://www-naweb.iaea.org/nafa/fep

5.http://www.fao.org/docrep

6.Tamikazu Kume and Setsuko Todoriki. Food Irradiation in Asia, the European Union and the United States: A status update. Radioisotopes, Vol 62, No 5, 2013: 291-299.

Page 33: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

31 Số 40 - Tháng 9/2014

TIN TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ

HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN CÁN BỘ TRẺ

NGÀNH NLNTVN LẦN THỨ III

Trong hai ngày 03-04/10/2014, tại Hội trường Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (HIC) đã diễn ra Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân cán bộ trẻ ngành Năng lượng nguyên tử lần thứ III do Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, Đoàn thanh niên Viện NLNTVN phối hợp với Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội tổ chức. Hội nghị nhằm mục đích trao đổi, thảo luận và tổng kết các hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ hạt nhân của các cán bộ trẻ kể từ Hội nghị lần thứ II (1/10/2012) cho đến nay và xác định các phương hướng nghiên cứu Khoa học Công nghệ cho cán bộ trẻ ngành Năng lượng nguyên tử trong thời gian tới.

Tham dự Hội nghị có đại biểu khách mời là GS. Phạm Duy Hiển - nguyên là lãnh đạo Viện NLNTVN; TS. Lê Văn Hồng - nguyên Phó Viện trưởng Viện NLNTVN; TS. Võ Văn Thuận - Ban chỉ đạo nhà nước về Chương trình Điện hạt nhân; PGS. TS. Đỗ Ngọc Liên, GS. TS. Đỗ Quý Sơn - nguyên lãnh đạo Viện Công nghệ xạ hiếm; TS. Vương Hữu Tấn - Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân.

Đại diện Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam có sự hiện diện của TS. Trần Chí Thành - Viện trưởng; TS. Cao Đình Thanh - Phó Viện trưởng; TS. Nguyễn Hào Quang - Phó Viện trưởng; PGS. TS. Nguyễn Nhị Điền - Phó Viện

trưởng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt và Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Viện NLNTVN, cùng hơn 100 cán bộ nghiên cứu khoa học trẻ đến từ các đơn vị trực thuộc Viện NLNT-VN, các trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Đồng Nai, Đại học Khoa học Cần Thơ, Đại học Thái Nguyên, Đại học Y Hà Nội; Bệnh viện: Bệnh viện Quân đội 108, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên và Sở Khoa học và Công nghệ Lào Cai, Sở Khoa học và Công nghệ Cần Thơ.

Hình 1. Toàn cảnh hội nghị

Phát biểu khai mạc tại Hội nghị, TS. Trần Chí Thành nhấn mạnh: Hội nghị KH&CN hạt nhân cán bộ trẻ ngành năng lựơng nguyên tử được tổ chức định kỳ 2 năm một lần nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu - triển khai trong lĩnh vực khoa học và hạt nhân của đội ngũ cán bộ trẻ ngành NLNT trong toàn quốc, nghiên cứu KH&CN là nhiệm vụ sống còn của ngành NLNT Việt Nam nói chung và Viện NLNTVN nói riêng. Nghiên cứu khoa học cần đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt đối với Việt Nam - một đất nước còn nghèo, trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện

Page 34: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

32Số 40 - Tháng 9/2014

đại hóa đất nước thì tất yếu phải phát triển Khoa học Công nghệ. TS. Trần Chí Thành cũng bày tỏ mong muốn các cán bộ trẻ phải luôn ấp ủ niềm đam mê nghiên cứu khoa học và phải không ngừng nâng cao trình độ ngoại ngữ để có thể tiếp thu được những thành tựu KHCN tiên tiến trên thế giới áp dụng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Ông rất phấn khởi vì năm nay đã có một số báo cáo trình bày bằng tiếng Anh và khích lệ các cán bộ trẻ phải thường xuyên trau dồi tiếng Anh để có thể trình bày được những báo cáo, công trình nghiên cứu khoa học đăng tải trên những tạp chí quốc tế chuyên ngành. Hiện nay, Viện NLNTVN đang triển khai nhiều chương trình hợp tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực NLNT. Do đó cán bộ nghiên cứu trẻ của Viện có rất nhiều cơ hội được học tập, nghiên cứu tại các trường Đại học, Viện nghiên cứu lớn trên thế giới và được đào tạo thông qua công việc tại các cơ sở hạt nhân ở nước ngoài. Ngoài ra, các chuyên gia, thế hệ đàn anh của Viện NLNTVN hiện nay rất chú trọng hỗ trợ các cán bộ trẻ để tạo ra các thế hệ sau. Ông khẳng định sự thành công của Hội nghị lần này sẽ góp phần xây dựng đội ngũ nghiên cứu trẻ trong ngành NLNT ngày càng vững mạnh.

Hình 2. Các báo cáo viên

Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân cán bộ trẻ ngành Năng lượng nguyên tử năm nay được chia thành 2 tiểu ban:

Tiểu ban A: Công nghệ hạt nhân và các lĩnh vực liên quan với 24 báo cáo Oral và 9 báo cáo poster. Các báo cáo tiêu biểu trong vật lý hạt nhân như: “Nghiên cứu sự tiến hóa của lớp vỏ thông qua thí nghiệm tìm kiếm hệ thống trạng thái hạt nhân 2+ đầu tiên tại RIKEN”, “Khảo sát mô hình vật lý mô tả qúa trình ngưng tụ của hỗn hợp hơi nước - khí không ngưng tụ trong hệ ống đứng với chương trình RELAP5/Mod3.2 và dữ liệu thực nghiệm MIT&KAIST” hay báo cáo tính toán an toàn lò như: “Nghiên cứu diễn biến và vai trò của thời điểm kích hoạt hệ thống giảm áp tự động ADS cho sự cố SBO bên trong lò phản ứng hạt nhân Fukushima số 1”, nghiên cứu vật liệu hạt nhân và quản lý chất thải phóng xạ là “Tách sét trong quặng uran Pà Lừa phục vụ công nghệ hòa tách uran bằng phương pháp hòa tách tĩnh”.

Tiểu ban B: Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong y tế, công nghiệp, nông nghiệp, sinh học, địa chất thủy văn và môi trường với 23 báo cáo oral và 12 báo cáo poster trong đó có các báo cáo tiêu biểu như: “Nghiên cứu chế tạo bạc nano trên nền zeolite bằng phương pháp chiếu xạ ứng dụng làm tác nhân diệt khuẩn trong nhựa”, “Đánh giá hiệu suất tổng hợp trong quá trình sản xuất 18F-FDG trên máy gia tốc Cyclotron 30” hay những báo cáo có ứng dụng những phương pháp mới về công nghệ là “Sự thay đổi hình thái giống lan nhện được xử lý bức xạ gamma”. Đặc biệt là một số báo cáo mang tính ứng dụng cao trong thực tế đó là “Nghiên cứu phát triển kỹ thuật CT thế hệ thứ IV ứng dụng trong công nghiệp dầu khí Việt Nam”.

Số lượng báo cáo năm nay nhiều hơn so với Hội nghị lần thứ 2 với 47 báo cáo oral, 21 báo cáo poster và chất lượng báo cáo cũng cao hơn lần trước. Trong phần tổng kết của trưởng tiểu ban A, TS. Nguyễn Tuấn Khải và trưởng tiểu

Page 35: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

33 Số 40 - Tháng 9/2014

ban B, TS. Trần Minh Quỳnh đều nhận xét các báo cáo năm nay có sự chuẩn bị tốt của các báo cáo viên, chất lượng báo cáo có hàm lượng khoa học, thiên hướng ứng dụng và thực tế ngày càng cao. Một điểm nổi bật của các báo cáo viên năm nay ở độ tuổi 26 chiếm số lượng nhiều nhất và tuổi trung bình của tất cả các báo cáo viên là 28 tuổi, rất tự tin vào năng lực và trình bày báo cáo rõ ràng mạch lạc.

Hình 3. Phân bố theo tuổi của các báo cáo viên

Sau hai ngày làm việc sôi nổi và khẩn trương, Hội đồng khoa học của hội nghị đã lựa chọn và thống nhất trao 02 giải đặc biệt cho các báo cáo: “Nghiên cứu sự tiến hóa của lớp vỏ thông qua thí nghiệm tìm kiếm hệ thống trạng thái hạt nhân 2+ đầu tiên tại RIKEN” của báo cáo viên Lê Xuân Chung - Viện KH&KTHN và báo cáo “Nghiên cứu chế tạo bạc nano trên nền zeolite bằng phương pháp chiếu xạ ứng dụng làm tác nhân diệt khuẩn trong nhựa” của báo cáo viên Lê Anh Quốc- Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ Bức xạ. Ngoài ra, Hội đồng Khoa học của 2 tiểu Ban cũng đã chọn ra được 02 giải nhất, 04 giải nhì và 08 giải ba cho các Báo cáo Oral và Poster.

Hội nghị lần này các cán bộ trẻ rất vinh dự được giao lưu cùng GS. Phạm Duy Hiển người gắn bó cả cuộc đời với ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam từ những ngày đầu tiên và GS. Đào Tiến Khoa một trong những nhà khoa

học có nhiều thành tựu trong nghiên cứu về vật lý hạt nhân đã chia sẻ kinh nghiệm, tâm tư, tình cảm trong cuộc đời nghiên cứu khoa học của mình và bày tỏ niềm tin vào thế hệ cán bộ trẻ ngày nay. Hy vọng sẽ có những bạn trẻ sẽ tiếp bước những thế hệ đi trước, trưởng thành trong công việc nghiên cứu để trở thành những chuyên gia đầu ngành trong tương lai.

Hình 4. Trao giải cho các báo cáo viên xuất sắc

Bế mạc Hội nghị Khoa học và Công nghệ Hạt nhân cán bộ trẻ ngành Năng lượng nguyên tử lần thứ 3 là phần tổng kết của PGS. TS. Nguyễn Nhị Điền - Phó Viện trưởng Viện NLNTVN đánh giá những thành quả đã đạt được trong thời gian vừa qua cùng với sự cố gắng và nỗ lực của Ban lãnh đạo Viện NLNTVN, và nhấn mạnh rằng Ban lãnh đạo Viện NLNTVN luôn luôn ủng hộ, hỗ trợ và theo sát những bước phát triển và trưởng thành của các cán bộ trẻ trong tương lai.

Hội nghị đã diễn ra thành công tốt đẹp và Viện NLNTVN mong muốn hội nghị khoa học trẻ không chỉ là nơi trao đổi học thuật mà còn là nơi để ươm mầm những ý tưởng mới, sáng tạo mới trong tương lai.

Nguyễn Thị Thu Hà

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Page 36: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

34Số 40 - Tháng 9/2014

HỌC VIÊN NGÀNH NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ ĐƯỢC MIỄN HỌC PHÍ

Một tin vui đến với học viên ngành Năng lượng nguyên tử, ngày 26 tháng 12 năm 2014 Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành Thông tư liên tịch 208/2014/TTLT-BTC-BGĐT hướng dẫn một số điều của Nghị định số 124/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chính sách ưu đãi, hỗ trợ người đi đào tạo trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Thông tư liên tịch số 208 áp dụng đối với người học các ngành/chuyên ngành trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử có cam kết chịu sự phân công công tác sau khi tốt nghiệp của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các cơ quan liên quan.

Thông tư có hiệu lực từ ngày 10/2, người học các chuyên ngành trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử hệ chính quy trình độ CĐ, ĐH, thạc sĩ và tiến sĩ tại các cơ sở đào tạo, có cam kết chịu sự phân công công tác sau khi tốt nghiệp của Bộ GD&ĐT, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các cơ quan liên quan...

Cụ thể, họ sẽ miễn học phí, ở ký túc xá miễn phí và nhận thêm sinh hoạt phí. Các học viên cao đẳng được cấp sinh hoạt phí hàng tháng bằng 1,5 lần mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức (sau đây gọi tắt là mức lương cơ sở) nếu xếp loại học lực giỏi trở lên; bằng một lần mức lương cơ sở nếu xếp loại học lực khá.

Sinh viên ĐH được cấp sinh hoạt phí hàng tháng bằng 2,5 lần mức lương cơ sở nếu xếp loại học lực giỏi trở lên; bằng 1,5 lần mức lương cơ sở nếu xếp loại học lực khá. Học viên cao học, nghiên cứu sinh được giữ nguyên lương

trong thời gian đào tạo và được cấp sinh hoạt phí hàng tháng bằng 3,5 lần mức lương cơ sở.

Trường hợp sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh nghỉ học dài hạn, bị kỷ luật ngừng học hoặc buộc thôi học, các ưu đãi trên sẽ bị dừng cho tới khi học viên quay trở lại trường. Thời gian học lưu ban, học lại, ngừng học, học bổ sung sẽ không được tính để được cấp sinh hoạt phí.

Sinh viên đại học nếu năm cuối đạt học lực khá trở lên; học viên cao học, nghiên cứu sinh được xem xét tuyển chọn đi thực tập 6 tháng ở nước ngoài trong năm cuối của chương trình đào tạo. Những người này sẽ được đảm bảo kinh phí mua vé máy bay, lệ phí làm hộ chiếu, visa, lệ phí sân bay, tiền tàu xe từ sân bay đến nơi đào tạo và ngược lại, bảo hiểm y tế và sinh hoạt phí theo chế độ quy định.

Sinh viên đại học, học viên cao học, nghiên cứu sinh được Bộ GD&ĐT cử đi học các chuyên ngành trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ở ngoài nước bằng nguồn ngân sách nhà nước được hưởng các chế độ ưu đãi như người được cử đi thực tập ngoài nước và giữ nguyên lương.

Học viên cao học, nghiên cứu sinh được hỗ trợ kinh phí bằng 30 lần mức lương cơ sở trên một công trình khoa học trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế thuộc danh mục ISI.

Kinh phí thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người học các chuyên ngành trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, được bố trí trong dự toán chi sự nghiệp giáo dục hàng năm của Bộ GD&ĐT.

Đoàn Mạnh Long

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Page 37: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

35 Số 40 - Tháng 9/2014

ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN KHỐI CƠ QUAN VIỆN NĂNG LƯỢNG

NGUYÊN TỬ VIỆT NAM KHÓA X

Ngày 19/12/2014 Công đoàn Khối cơ quan Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Viện NLNTVN) đã tiến hành Đại hội Tổng kết công tác công đoàn nhiệm kỳ 2012 – 2015 và Phương hướng công tác nhiệm kỳ 2015 – 2020 tại Hội trường 59 Lý Thường Kiệt – Hà Nội.

Tham dự đại hội có ông Đặng Xuân Vinh – Chủ tịch Công đoàn Viện NLNTVN; TS. Cao Đình Thanh – Phó Viện trưởng; TS. Nguyễn Hào Quang – Phó Viện trưởng và toàn thể công đoàn viên Khối cơ quan Viện NLNTVN.

Hình 1. Toàn cảnh Đại hội

Đồng chí Đỗ Quốc Thiện thay mặt cho Ban Chấp hành Công đoàn đọc bản Báo cáo Tổng kết hoạt động Công đoàn Khối cơ quan Viện NLNTVN khóa IX nhiệm kỳ 2012 – 2015 và trình bày Phương hướng công tác của Công đoàn khóa X nhiệm kỳ 2015 – 2020.

Theo báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2012 – 2015, Khối cơ quan Viện có 44 công đoàn viên thuộc 3 đơn vị là Văn phòng Viện, Ban Hợp tác quốc tế, Ban Kế hoạch và Quản lý khoa học. Trong nhiệm kỳ vừa qua, Công đoàn Khối cơ quan đã tổ chức nhiều phong trào – hoạt động

thiết thực và có ý nghĩa:

• Tuyên truyền giáo dục, vận động đoàn viên công đoàn hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn.

• Thực hiện các chế độ chính sách, chăm lo đời sống và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ đoàn viên Công đoàn.

• Công tác phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng. Đã giới thiệu và kết nạp đồng chí Mai Thị Kim Tuyết (thuộc Văn phòng Viện) vào Đảng và hiện đang giới thiệu đồng chí Phạm Vũ Diệu (Ban Kế hoạch và Quản lý khoa học).

• Hoạt động nữ công như: Tích cực tham gia các hoạt động văn nghệ thể thao của Viện, đặc biệt trong dịp Giao lưu văn hóa chào mừng ngày Giải phóng thủ đô 10/10/2013 đã đạt được 01 giải Nhì đơn ca nam, giải Ba tốp ca nam nữ, giải khuyến khích song ca nam nữ và giải Ba về kéo co.

• Nhiệt tình tham gia công tác đóng góp cho các quỹ từ thiện: Mỗi năm CBVC đều tự nguyện dành 1 ngày lương để ủng hộ Quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ ủng hộ nạn nhân ảnh hưởng chất độc màu da cam, quỹ ủng hộ đồng bào thiên tai…

Với những hoạt động phong trào nổi bật trên, trong hai năm 2013 và 2014 Công đoàn Khối cơ quan đều đạt danh hiệu Tập thể Công đoàn xuất sắc. Trong nhiệm kỳ tới Công đoàn Khối cơ quan tiếp tục phát huy triển khai tốt những Nghị quyết của Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh”, phấn đấu mỗi công đoàn có một chương trình “Làm theo tấm gương của Bác” góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị năm 2015, với phương

Page 38: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

36Số 40 - Tháng 9/2014

hướng và nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới như sau:

• Tích cực việc đẩy mạnh việc tham gia xây dựng pháp luật và chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của đoàn viên công đoàn; Tham gia kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, viên chức, tăng cường công tác tư vấn pháp luật.

• Phát động phong trào hành động cách mạng, thi đua yêu nước, thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, xây dựng cơ quan văn hóa và ngày làm việc 8 giờ hiệu quả, chất lượng, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức “Trung thành – sáng tạo – tận tụy – gương mẫu”. Phát động phong trào thực hiện tiết kiệm trong việc sử dụng điện nước.

• Đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh và tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, cơ quan đơn vị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ kỹ năng công tác công đoàn, bồi dưỡng giới thiệu đoàn viên ưu tú để kết nạp vào Đảng.

• Tổ chức tốt các hoạt động nhân ngày 8/3 và 20/10, đẩy mạnh phong trào phụ nữ “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, tổ chức trao quà cho các cháu thiếu nhi nhân ngày 1/6.

• Tích cực tham gia các hoạt động từ thiện do Công đoàn cấp trên phát động. Làm tốt công tác chăm lo đời sống công đoàn viên: hiếu hỉ, trợ cấp khó khăn.

Trong phần thảo luận và đóng góp ý kiến về Tổng kết hoạt động Công đoàn và Phương hướng công tác của Công đoàn khóa X nhiệm kỳ 2015– 2020, đại hội Công đoàn nhận được nhiều ý kiến góp ý từ Ban lãnh đạo Viện và các công

đoàn viên. Tất cả các ý kiến đều nhất trí với bản tổng kết và mong muốn Công đoàn Viện NLNT-VN có ý kiến đề xuất lên Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét điều chỉnh nâng hệ số phụ cấp ưu đãi ngành để đời sống cán bộ, viên chức Khối cơ quan Viện được cải thiện.

Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Đặng Xuân Vinh – Chủ tịch Công đoàn Viện NLNT-VN đã nhiệt liệt biểu dương những thành tích mà Công đoàn Khối cơ quan Viện đã đóng góp vào thành tích chung của Công đoàn Viện NLNTVN và ghi nhận những kiến nghị của các công đoàn viên Khối cơ quan trong việc nâng cao hệ số ưu đãi ngành, và sẽ cùng Ban chấp hành Công đoàn Viện làm hết sức mình trong vấn đề chế độ phụ cấp ưu đãi ngành.

Hình 2. Ban Chấp hành công đoàn mới

Đại hội Công đoàn Khối cơ quan Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam khóa X nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã thành công tốt đẹp, bầu ra được Ban Chấp hành Công đoàn mới với 5 đồng chí: Trần Thanh Hà, Mai Đình Trung, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Hoàng Yến, Nguyễn Bách Việt.

Nguyễn Thị Phương Lan

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Page 39: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

Số 41 - Tháng 12/2014

VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM KÝ THỎA THUẬN HỢP TÁC VỚI VIỆN NGHIÊN CỨU NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN CỘNG HÒA

SLOVAKIA

Được sự đồng ý của Bộ Khoa học và Công nghệ, ngày 4/11/2014 Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (NLNTVN) và Viện Nghiên cứu nhà máy điện hạt nhân Cộng hòa Slovakia (VUJE) đã ký Thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực điện hạt nhân.

Tham dự Lễ ký kết có TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện NLNTVN và ông Peter Liska, Phó chủ tịch Hội đồng quản trị VUJE đã ký Thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực điện hạt nhân giữa hai bên. Ngoài ra còn có TS. Nguyễn Hào Quang, Phó Viện trưởng; bà Trần Bích Ngọc, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Khoa học và Công nghệ và cán bộ lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Về phía Cộng hòa Slovakia có ông Stefan Rozkopal, Vụ trưởng Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kinh tế Cộng hòa Slovakia; ông Drahomir Stos, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Bộ Ngoại giao và Các vấn đề Châu Âu Cộng hòa Slovakia; ông Jaroslav Jelenik, Tham tán Thương mại Đại sứ quán Cộng hòa Slovakia tại Việt Nam.

Hình 1. Phía Viện NLNTVN

Viện Nghiên cứu về nhà máy điện hạt

nhân Slovakia thành lập năm 1977, hiện là một cơ quan kỹ thuật thực hiện hầu hết các hoạt động nghiên cứu, thiết kế, triển khai thực hiện, cung cấp thiết bị và đào tạo trong lĩnh vực điện hạt nhân của nước Cộng hòa Slovakia. Ngoài ra Cơ quan này còn thực hiện các hoạt động liên quan đến việc chuẩn bị, xây dựng, vận hành và tháo dỡ các nhà máy điện hạt nhân. Trong phát biểu giới thiệu về hoạt động trong lĩnh vực điện hạt nhân của VUJE, ông Peter Liska mong muốn hợp tác, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của Slova-kia nói chung và của VUJE nói riêng để đảm bảo an toàn và khai thác hiệu quả của nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam trong tương lai. Cộng hòa Slovakia bắt đầu xây dựng nhà máy điện đầu tiên từ năm 1958, cho đến nay Slovakia có 7 nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động và đang tiếp tục xây dựng thêm hai nhà máy điện hạt nhân nữa. Với những kinh nghiệm từ các thế hệ nhà máy điện của Liên Xô cũ kết hợp với công nghệ hiện đại của Tây Âu, đây là cơ hội để Viện nghiên cứu về nhà máy điện hạt nhân Cộng hòa Slovakia sẽ hợp tác với Việt Nam khi Việt Nam bắt đầu xây dựng nhà máy điện nguyên tử.

Hình 2. Phía Slovakia

Sau lời giới thiệu về những hoạt động nghiên cứu chính trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân của Viện NLNTVN, TS. Trần Chí Thành cũng bày tỏ mong muốn hợp tác với Viện nghiên

37

Page 40: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT

38Số 41 - Tháng 12/2014

cứu về nhà máy điện hạt nhân Cộng hòa Slova-kia để đẩy mạnh nghiên cứu trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân và đặc biệt phát triển nguồn nhân lực trong tương lai của Viện.

Theo Thỏa thuận được ký kết, các hoạt động hợp tác giữa hai bên sẽ tập trung vào ba lĩnh vực chính: Lĩnh vực an toàn hạt nhân bao gồm phân tích thủy nhiệt, lập báo cáo an toàn, quy trình vận hành, đánh giá an toàn định kỳ; Lĩnh vực đánh giá các thành phần của nhà máy điện hạt nhân bao gồm thiết kế, xây dựng quy trình, cung cấp thiết bị theo yêu cầu của cơ quan vận hành nhà máy điện và các cơ sở hạt nhân, cung cấp dịch vụ kiểm tra thiết bị, đánh giá lão hóa vật liệu v.v.; và Lĩnh vực an toàn bức xạ và quản lý chất thải phóng xạ.

Đây là thỏa thuận hợp tác đầu tiên trong lĩnh vực điện hạt nhân giữa Việt Nam và Cộng hòa Slovakia.

Hình 3. Toàn cảnh lễ ký thỏa thuận

Hy vọng Thỏa thuận này sẽ tăng cường hoạt động hợp tác giữa hai cơ quan giúp Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam phát triển năng lực nghiên cứu, triển khai và đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu góp phần vào thành công trong chương trình phát triển điện nhân của Việt Nam.

Bùi Đăng Hạnh

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

KHẢ NĂNG CỦA THORIUM ĐỐI VỚI THIẾT KẾ NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT

NHÂN TIÊN TIẾN

Vương Quốc Anh hiện đang giữ vai trò chủ đạo trong một dự án quốc tế nhằm phát triển loại nhà máy điện hạt nhân hoàn toàn mới, an toàn hơn, sử dụng chi phí hiệu quả hơn, nhỏ gọn, nhanh chóng và dễ xây dựng hơn bất kỳ nhà máy nào trước đây.

Được sự tài trợ của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Vật lý và Kỹ thuật (EPSRC), như là một phần của Chương trình Năng lượng RCUK, một nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học Cam-bridge đang tiến hành nghiên cứu liệu rằng tho-rium có thể đáp ứng được các yêu cầu về nhiên liệu cho thiết kế mới. Do có nguồn năng lượng dồi dào gấp 3 đến 4 lần so với uranium, thorium có tiềm năng sản xuất điện với việc sử dụng nhiên liệu hiệu quả hơn và ít tốn kém hơn.

Được khởi xướng bởi Bộ Năng lượng Hoa Kỳ và dẫn đầu bởi Viện Công nghệ Geor-gia, dự án tổng thể này hướng tới việc thiết kế một nhà máy điện hạt nhân có quy mô nhỏ hơn, tăng cường độ an toàn bằng phương pháp đột phá và tích hợp các bộ trao đổi nhiệt chính bên trong thùng lò phản ứng - nơi diễn ra các phản ứng hạt nhân. Sự đổi mới về thiết kế này mang tên: Lò phản ứng Nước nhẹ Tích hợp (Integral Inherently Safe Light Water Reactor, viết tắt I2S-LWR).

Giáo sư Geoff Parks, người dẫn đầu nhóm nghiên cứu cho biết “Việc tham gia vào dự án quốc tế mang tính tiên phong này của chúng tôi không những cho thấy uy tín lâu đời của vương quốc Anh trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật hạt nhân mà còn làm nền tảng cho vương quốc Anh tạo một xu hướng mới bao gồm những

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

Page 41: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

39 Số 41 - Tháng 12/2014

kỹ thuật có khả năng ứng dụng rộng rãi trên toàn cầu trong nhiều năm tới. Theo kế hoạch, việc thi công Lò phản ứng I2S-LWRs đầu tiên có thể sẽ bắt đầu trong vòng 10 năm tới, từ đó có thể triển khai nguồn năng lượng hạt nhân thiết thực hơn, sử dụng hiệu quả và được sự chấp nhận của toàn thế giới.

Hình 1. Thùng lò phản ứng của lò I2S

I2S-LWR có thể được xây dựng bên ngoài công trường theo từng phần và sau đó đem lắp ráp tại địa điểm xây dựng nhà máy. Nhờ đó loại nhà máy điện hạt nhân này có thể được triển khai rộng rãi ở tất cả các quốc gia. Ở Vương quốc Anh, kể từ năm 1995 khi nhà máy điện hạt nhân Sizewell B bắt đầu đi vào hoạt động, không có bất cứ nhà máy điện hạt nhân mới nào được xây dựng. Do đó, sự ra đời của I2S-LWR có thể đóng góp một kỷ nguyên mới cho ngành điện hạt nhân Anh quốc, giúp nước này đạt được các mục tiêu giảm thiểu khí thải các-bon và các mục tiêu về an ninh năng lượng. Với công suất 1 GW, lượng điện sản xuất của nhà máy điện hạt nhân I2S-LWR sẽ tương đương với lượng điện sản xuất của nhà máy điện Sizewell B công suất 1.2 GW. Tuy nhiên, thực tế I2S-LWR sẽ sử dụng chi phí ít hơn nhiều so với Sizewell B.

Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Vật lý và Kỹ thuật (EPSRC) - tài trợ cho dự án này, sẽ giúp Vương quốc Anh củng cố khoa học kỹ thuật về hạt nhân dân sự, đồng thời thu hút các thế hệ kỹ sư và nhà khoa học mới đóng góp cho lĩnh vực này. Năng lực trong lĩnhvực hạt nhân là yếu tố quan trọng để đảm bảo cho tương lai ngành hạt nhân Vương quốc Anh, đồng thời cũng đem lại những đóng góp đáng kể làm “nóng” ngành hạt nhân suốt 20 năm mà không có bất kỳ nhà máy điện hạt nhân nào được xây dựng.

Hình 2. Hình ảnh các thành phần trong thùng lò phản ứng I2S - LWR

Nhóm nghiên cứu Cambridge sẽ tập trung đưa ra phương pháp sử dụng nhiên liệu thorium có khả năng chuyển từ đồng vị uranium-233 cùng với uranium silicide để cung cấp nhiên liệu cho I2S-LWR. Nhóm sẽ tiến hành đánh giá khả năng này từ cả khía cạnh vật lý lò phản ứng cơ bản và phạm vi nhằm đạt được hiệu suất chuyển đổi từ nhiên liệu sang năng lượng và tái chế nhiên liệu hạt nhân. Đây là những vấn đề then chốt có tác động đến hiệu quả sử dụng khi lựa chọn nhiên liệu thorium.

Đinh Anh Tuấn

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Page 42: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT

40Số 41 - Tháng 12/2014

CÔNG NGHỆ MỚI CỦA NGA KHÔNG CÓ CHẤT THẢI HẠT NHÂN

Dự án năng lượng đột phá của Nga cho phép hướng tới một chu trình nhiên liệu hạt nhân khép kín và một tương lai không có chất thải hạt nhân. Mẻ nhiên liệu hạt nhân ôxít hỗn hợp (MOX) đầu tiên đã được sản xuất cho các lò phản ứng tái sinh (breeder reactor) phát điện công nghiệp của thế giới. 10 kg đầu tiên của nhiên liệu MOX – hỗn hợp của plutonium và uranium di-oxides (UO2 and PuO2), do Rosatom – công ty độc quyền về hạt nhân của Nga, sản xuất tại Liên hợp Hóa chất & Khai thác Mỏ (GKHK) ở vùng Krasnoyarsk.

Hình 1. Viên nhiên liệu lò nhanh

Những viên nhiên liệu hình trụ này (ảnh trên) đầu tiên trên thế giới được sản xuất hàng loạt và sẽ được cung cấp cho các lò phản ứng tái sinh BN-800 thế hệ sắp tới của Nga (880 MW), hiện tại những nhiên liệu này đang được thử nghiệm kỹ lưỡng tại nhà máy điện hạt nhân Beloyarskaya.

Dây chuyền sản xuất đang được khởi động và điều chỉnh, sẽ được lắp đặt trong hầm lò của một mỏ khoáng sản ở độ sâu 200 m và sẽ đi vào vận hành đầy tải vào cuối năm 2014 này.

Các lò phân hạch nhanh được sử dụng để giải quyết vấn đề nhiên liệu hạt nhân uranium

đã qua sử dụng. Lò này không chỉ “đốt” urani-um-235 “kỳ cựu” (rất hiếm và đã đến giai đoạn cuối), nhưng cũng “đốt” cả uranium-238 (U-238 này thì rất nhiều) và góp phần làm tăng khả năng nhiên liệu hạt nhân thế giới lên tới 50 lần.

Nhiên liệu cho lò tái sinh thậm chí có thể được sản xuất ra từ chất thải hạt nhân, theo quan điểm sinh thái thì đây là một tiến bộ vô giá.

Nhà máy GKHK sẽ được trang bị một lò nước dung môi duy nhất, lò này sẽ làm vỡ vụn chất thải hạt nhân chứa plutonium và tách plu-tonium dioxide để sử dụng trong sản xuất nhiên liệu MOX.

Trong khi sản xuất ra điện năng, các lò phản ứng tái sinh cũng tạo ra nhiên liệu phân hạch nhiều hơn và nhiên liệu này có thể được sử dụng là nhiên liệu hạt nhân.

Nhà máy GKHK là tổ hợp chu trình nhiên liệu đầy đủ hàng đầu ở Nga, chế biến chất thải hạt nhân từ các lò phản ứng hạt nhân sản xuất điện năng để tạo ra một vòng khép kín cho chu trình nhiên liệu hạt nhân tương lai.

Trước đây, nhiên liệu MOX cho các lò phản ứng tái sinh nhanh ở Liên Xô và Nga ngày nay chỉ được sản xuất tại nhà máy chế biến hạt nhân Mayak cũ kỹ ở Nga.

Bắt đầu từ 2016, sản xuất nhiên liệu MOX qui mô công nghiệp sẽ hoạt động hết công suất ở Nga.

Con người đã tạo ra nhiều chất thải hạt nhân, có thể phải mất hàng thập kỷ, nếu không nói là hàng trăm năm để chế biến và tái chế chất thải. Ngay bây giờ, công nghệ lò phản ứng neu-tron nhanh như là chấm sáng ở cuối đường hầm.

Các lò phản ứng tái sinh hoặc lò sử dụng

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

Page 43: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT

41 Số 41 - Tháng 12/2014

neutron nhanh áp dụng công nghệ cho phép sử dụng một loạt các nguyên tố phóng xạ làm nhiên liệu, do đó tiềm năng nhiên liệu cho sản xuất điện là rất lớn. Nước Nga là quốc gia duy nhất vận hành các lò phản ứng hạt nhân neutron nhanh quy mô công nghiệp.

Sau hàng thập kỷ nghiên cứu, tất cả các dự án lò phản ứng tái sinh trên thế giới ở Mỹ, Pháp, Nhật Bản và vài nước khác đang sở hữu công nghệ năng lượng hạt nhân đều đã đóng cửa. Quốc gia duy nhất hiện nay đang vận hành phát điện bằng lò phản ứng tái sinh là nước Nga.

Trên 50 năm, Liên Xô rồi Nga, sử dụng một số lò phản ứng neutron nhanh cho mục đích nghiên cứu và công nghiệp. Một trong những lò đó là BN-600 (600 MW), đang hoạt động ở nhà máy điện hạt nhân Beloyarskaya từ 1980, là lò phản ứng neutron nhanh duy nhất trên thế giới sản xuất ra điện với quy mô công nghiệp.

Nhà máy điện hạt nhân Beloyarskaya ở Zarechny, cách trung tâm khu vực Yekaterinburg khoảng 45 km trong khu vực Ural.

Năm nay, một lò phản ứng tái sinh mới BN-800 sẽ đi vào hoạt động ở nhà máy Beloyar-skaya.

Hình 2. Lắp đặt lò BN-800

Tuổi thọ của lò BN-800 là 45 năm. Mỗi tháng lò này sẽ sản xuất ra 475 triệu kWh điện, đủ để đảm bảo cung cấp cho 3,15 triệu gia đình

(Tiêu thụ trung bình trong một tháng của một gia đính với 3 nhân khẩu là 150 kWh).

Lò BN-800 sử dụng sodium (Na) kim loại lỏng là một tác nhân truyền nhiệt mát. Đầu 2015 thì lò BN-800 này hoạt động ở qui mô thương mại.

Các nhà vật lý Nga đã nghiên cứu bước tiếp theo cho công nghệ đột phá này: Một lò phản ứng tái sinh BN-1200 cũng được lắp đặt ở nhà máy điện hạt nhân Beloyarskaya vào năm 2020.

Tổng thể, 8 lò phản ứng tái sinh BN-1200 sẽ được lắp đặt vào năm 2030, nghĩa là nước Nga là quốc gia duy nhất bước vào một kỷ nguyên mới của ngành công nhiệp điện hạt nhân – chu trình nhiên liệu hạt nhân khép kín, nói một cách khác điện hạt nhân thực sự sạch và không bị hạn chế.

Trần Minh Huân

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

Page 44: Thông tin Khoa học Công nghệ - seea.vn · Các đơn vị ứng dụng (Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ,

GẶP MẶT CHIA TAY GS. PIERRE DARRIULAT VÀ PHÒNG THÍ NGHIỆM ĐÀO TẠO VẬT LÝ THIÊN VĂN (VATLY)

HỘI NGHỊ TỔNG KẾT CÔNG TÁC NĂM 2014 CỦA VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM