12
TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ TÓM TẮT CHÍNH SÁCH Tháng 4 - 2014

TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

  • Upload
    dolien

  • View
    251

  • Download
    15

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘICỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

TÓM TẮT CHÍNH SÁCH

Tháng 4 - 2014

Page 2: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

TÓM TẮT CHÍNH SÁCH: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯTÓM TẮT CHÍNH SÁCH: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

Tóm tắt chính sách này trình bày những kết quả chính từ Báo cáo nghiên cứu về tiếp cận ASXH cho người lao động nhập cư và đưa ra các đề xuất về chính sách nhằm bảo đảm các quyền

cơ bản của người lao động nhập cư.

Các chương trình ASXH đề cập trong Báo cáo này chỉ bao gồm các chương trình được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa phương. Người lao động nhập cư là những người chuyển từ các khu vực nông thôn tới các đô thị (không phân biệt thời gian sinh sống) và không được cấp hộ khẩu thường trú - giấy đăng ký nhân khẩu cho phép họ có quyền bình đẳng với các công dân khác tại nơi cư trú về tiếp cận các dịch vụ ASXH.

Nghiên cứu áp dụng cách tiếp cận dựa trên quyền nhằm bảo đảm rằng các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nhập cư có mối quan hệ tương hỗ và không thể tách rời. Nghiên cứu sử dụng phương pháp có sự tham gia, đánh giá định tính và định lượng. Các thông tin định tính được thu thập từ khảo sát thực địa nhằm đánh giá tổng thể hành vi của người lao động nhập cư và lý do chi phối những hành vi đó. Số liệu định lượng được thu thập để đưa ra các bằng chứng về những khó khăn và thách thức phổ biến đối với nhóm người lao động nhập cư.

Các công cụ thu thập dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: nghiên cứu thứ cấp, phỏng vấn sâu, phỏng vấn hộ gia đình và thảo luận nhóm.

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 3: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

Tại cả hai thành phố Hải Phòng và Hồ Chí Minh, số người lao động nhập cư không được tiếp cận các dịch vụ ASXH đang ở mức báo động. Ở Dương Kinh, 75% lao động nhập cư chính thức và 63,3% lao động nhập cư không chính thức cho rằng họ không được nhận các dịch vụ ASXH ở nơi cư trú mới. Tình trạng này cũng xảy ra với 88% người lao động nhập cư chính thức và 90% người lao động nhập cư không chính thức ở quận Gò Vấp.

Những con số báo động trên chủ yếu liên quan đến nhóm lao động nhập cư nghèo, trẻ tuổi, thất nghiệp hoặc thiếu việc làm trong khu vực lao động nông nghiệp không chính thức. Một ngoại lệ trong việc dịch chuyển các dịch vụ y tế từ nông thôn ra đô thị liên quan đến thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Hầu hết người người lao động nhập cư có con nhỏ dưới 6 tuổi đã có BHYT miễn phí được cấp ở nông thôn xác nhận rằng con em họ có thể tiếp cận các dịch vụ y tế.

Tại sao vậy? Kết quả các cuộc phỏng vấn và dữ liệu thu thập cho thấy điều này không xuất phát từ việc chính quyền đô thị tự động chấp nhận thẻ

BHYT được cấp bởi chính quyền ở nông thôn, mà bởi vì chính sách BHYT miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi được áp dụng trên khắp cả nước. Đồng thời, chính quyền đô thị đã chủ động trong việc đảm bảo rằng tất cả các trẻ em dưới 6 tuổi có thẻ BHYT và các bậc phụ huynh cũng đã có ý thức về quyền hưởng BHYT của trẻ em dưới 6 tuổi, và do vậy họ thường chủ động yêu cầu được cấp thẻ trong trường hợp con em của họ chưa có.

2. Các 2. Các chương tchương trìnrình ASXH về y tế và h ASXH về y tế và bảo hiểmbảo hiểm

Diện bao phủ BHYT đối với người lao động nhập cư chính thức cao hơn rất nhiều so với người lao động nhập cư không chính thức. Điều này xuất phát từ những yêu cầu của Luật Lao động áp dụng trong khu vực lao động chính thức. Thông thường, quyền hưởng BHYT của người lao động nhập cư chính thức được quy định trong Hợp đồng lao động. Mặc dù hợp đồng lao động là cơ sở vô cùng quan trọng để đảm bảo quyền lợi bảo hiểm của người lao động, người lao động nhập cư không chính thức lại không có hợp đồng lao động. Trong khi đó, những người lao động nhập cư chính thức đều có hợp đồng lao động, nên họ nhận được nhiều lợi ích hơn từ các loại bảo hiểm. Do đó, người lao động nhập cư làm việc trong khu vực chính thức được hưởng chế độ BHYT tốt hơn so với người lao động nhập cư làm việc trong khu vực không chính thức. 80% người lao động nhập cư chính thức ở Dương Kinh và 84% ở Gò Vấp được hưởng chế độ BHYT, trong khi con số này chỉ rơi vào khoảng 46,9% (Dương Kinh) và 9,4% (Gò Vấp) đối với người lao động nhập cư không chính thức.

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 4: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 5: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

phải được quy định trong hợp đồng lao động

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 6: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 7: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 8: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

Khác với người bản xứ có hộ khẩu thường trú (KT1, KT2), người nhập cư được cấp hộ khẩu tạm trú (KT3, KT4)

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 9: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 10: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

Một số người lao động nhập cư thường

không định cư lâu dài tại nơi cư trú mới và trên

hết vẫn giữ mối quan hệ gắn kết với quê hương.

Đó là lý do tại sao họ không quan tâm quá

nhiều về hộ khẩu. Một số người khác lớn tuổi

hơn thường có ý thức rõ rệt hơn về tầm quan

trọng của hộ khẩu trong việc đảm bảo các

quyền của họ.

5.3. Nhận thức về các chương trình ASXH

Kiến thức của người lao động nhập cư về

các chương trình ASXH còn rất hạn chế. Họ

không có thời gian để tìm hiểu, nâng cao kiến

thức về các chương trình ASXH. Họ phải dành

phần lớn thời gian để làm việc và giải quyết

những vấn đề khó khăn trong cuộc sống thay vì

tìm hiểu về các chính sách ASXH, cho dù

những chính sách này rất quan trọng đối với họ.

5.4. Cơ hội nâng cao kiến thức và kỹ năng

cho người lao động nhập cư

Cơ hội được đào tạo nghề là rất hạn chế

đối với nhóm người lao động nhập cư làm việc

trong khu vực không chính thức ở cả Dương

Kinh và Gò Vấp. Tỷ lệ lao động nhập cư được

đào tạo nghề trong khu vực chính thức cao hơn,

tương ứng với 41,7% (Dương Kinh) và 60% (Gò

Vấp).

Kết quả nghiên cứu cho thấy người lao

động nhập cư chính thức có nhiều cơ hội nâng

cao kiến thức và năng lực hơn, và do vậy có

nhiều cơ hội hơn trong việc tìm kiếm một công

việc ổn định hơn, lương cao hơn và có vị trí

trong xã hội.

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 11: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

KẾT LUẬNKẾT LUẬNBản báo cáo đánh giá về ASXH chỉ ra những

thiếu hụt, tồn tại liên quan đến người lao động

nhập cư. Mặc dù nhiều hợp phần của các chương

trình ASXH ưu tiên nhóm đối tượng nghèo, những

bằng chứng thu thập được lại không cho thấy các

chương trình này có tác động có lợi lớn đến đời

sống của người lao động nhập cư và con em họ.

Người lao động nhập cư không chính thức là

một bộ phận lớn của lực lượng lao động Việt Nam

và đóng đóng góp đáng kể vào sự phát triển đất

nước.Tuy nhiên, các quyền cơ bản về chăm sóc y

tế, đạo tạo nghề, giáo dục dành cho người lao động nhập cư và con cái họ vẫn chưa được chú ý đúng mức.

Các kiến nghị về chính sách:Các kiến nghị về chính sách:Di cư từ nông thôn ra đô thị cần được coi là một khía cạnh tự nhiên của quá trình phát triển. Hạn chế nhập cư thông qua các biện pháp hành chính sẽ không làm giảm nhập cư, mà sẽ chỉ làm tăng thêm mức độ yếu thế của những người nhập cư. Phương pháp quản lý tiếp cận ASXH cho người dân thông

qua Hộ khẩu như hiện nay không hiệu quả. Nếu vẫn tiếp tục duy trì hệ thống Hộ khẩu, chính quyền của các thành phố nơi có làn sóng nhập cư mạnh mẽ cần phân bổ một nguồn ngân sách nhất định để hỗ trợ những người nhập cư nghèo như trợ cấp BHYT và hỗ trợ giáo dục.

Việt Nam cần bắt đầu thí điểm và triển khai thực hiện các chính sách ASXH phổ quát, không tập trung như hiện nay. Nguồn ngân sách nhỏ ban đầu phục vụ cho việc triển khai các chính sách ASXH sẽ giúp Chính phủ và người dân tiết kiệm được các chi phí sau này. Tiết kiệm chi phí và thời gian của người dân vào các dịch vụ y tế và giáo dục cũng chính là tăng cường khả năng huy động các nguồn lực của họ vào nền kinh tế.

Xu hướng nữ hóa trong lực lượng lao động và nhập cư cần được chú trọng xem xét trong quá trình xây dựng chính sách. Chăm sóc sức khỏe và đào tạo (nghề) cho người lao động nhập cư nữ cần được đưa vào các chương trình ASXH. Nếu người lao động nữ nhập cư có con trong độ tuổi đi học, họ cần được nhận hỗ trợ từ các nhà tuyển dụng và

(ii)

(iii)(i)

Toùm taét Chính saùch: Tieáp caän An sinh xaõ hoäi cuûa ngöôøi lao ñoäng nhaäp cö

Page 12: TIẾP CẬN AN SINH XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƯ

chính quyền trong việc đảm bảo con cái của họ được hưởng một nền giáo dục miễn phí, bình đẳng và chất lượng ở nơi nhập cư.

Để đạt được mục tiêu phổ cập BHYT vào năm 2014, việc tiếp cận bảo hiểm y tế và giáo dục cần phải đơn giản, nhanh chóng và linh hoạt hơn. Cụ thể, cần xác định các địa phương thuộc diện ưu tiên đầu tư, đặc biệt là các quận có lượng người nhập cư lớn ở các khu đô thị đang phát triển. Các doanh nghiệp, công ty sử dụng nhiều lao động (trên 30%) là người nhập cư cần được khuyến khích, hỗ trợ bằng các ưu đãi về thuế nếu họ cung cấp các lợi ích chăm sóc sức khỏe bổ sung cho người lao động.

Công tác kiểm tra và giám sát thực thi Luật Lao Động đối các doanh nghiệp, công ty cần được tăng cường nhằm đảm bảo tất cả người lao động được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Cần xây dựng các cơ sở và trung tâm cung cấp thông tin cho người lao động nhập cư ở địa phương và nơi cư trú mới. Đối với những người lao động nhập cư làm việc trong khu vực chính thức, cần xây dựng các chính sách hỗ trợ thúc đẩy quá trình hợp thức hóa quyền tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục cho họ.

Người dân cần phải biết các quyền của mình và tham gia vào quá trình giám sát các chính sách ASXH. Điều này đòi hỏi sự tham gia phối hợp của tất cả các bên liên quan, bao gồm cả Nhà nước và khu vực tư nhân, các nhà tài trợ và các tổ chức xã hội, giới học thuật cũng như truyền thông. Có như vậy mới đảm bảo được tính hiệu quả của các chương trình, chính sách ASXH.

(iv)

(v)

(vi)

(vii)

Hà Nội, 2014

Ảnh trang bìa: © Bản quyền thuộc về AAV, Lưu Thu Hà, Nguyễn Đức Vũ

Tóm tắt Chính sách:

Đọc bản in:ĐẶNG MINH TUẤN, NGUYỄN BẢO HƯNG