48
BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP Tp. HCM Khoa Quản trị kinh doanh ---------- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài : “Tình hình phát triển và phân bố ngành nông-lâm-ngư nghiệp ở Việt Nam” Giảng viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Việt Lâm Nhóm thực hiện : Hội Ngộ Lớp HP : 210700217 Năm học : 2011- 2012

Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Embed Size (px)

DESCRIPTION

bai lam cua nhom hoingoteam, truong dai hoc cong nghiep tp hcm, nam hoc 2012-2013

Citation preview

Page 1: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

BỘ CÔNG THƯƠNGTRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP Tp. HCM

Khoa Quản trị kinh doanh

----------

BÀI TIỂU LUẬNĐề tài: “Tình hình phát triển và phân bố ngành nông-

lâm-ngư nghiệp ở Việt Nam”

Giảng viên hướng dẫn:

Ths. Nguyễn Việt Lâm

Nhóm thực hiện: Hội Ngộ

Lớp HP: 210700217

Năm học: 2011- 2012

Page 2: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

TÌNH HÌNH PHÁT

TRIỂN VÀ

PHÂN BỐ

NGÀNH NÔNG –

LÂM – NGƯ

NGHIỆP Ở VIỆT

NAM

2012

NHÓM HỘI NGỘ

2

Page 3: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Mở đầu

Nội dung đề tài:

Nghiên cứu về nền nông nghiệp Việt Nam cụ thể về tổ chức LT-KT-XH nông-lâm-ngư nghiệp. Mục tiêu trình bày rõ các nội dung:

+ Tình hình phân bố và phát triển của từng ngành nông-lâm-ngư nghiệp

+ Các giải pháp phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Lý do chọn đề tài:

Nông nghiệp là xương sống của nền kinh tế Việt Nam. Từ xưa đến nay nhờ vị trí địa lí thuận lợi và các yếu tố về thổ nhưỡng,… giúp chúng ta phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới phát triển. Hơn nữa tìm hiểu về nông nghiệp giúp chúng ta có những kiến thức và kĩ năng trong quá trình lập nghiệp sau này. Vì những lí do như vậy, Nhóm Hội Ngộ quyết định chọn đề tài này.

Phương pháp nghiên cứu đề tài:

+ Xác định đề tài

+ Tham khảo sách vở, báo chí và các tài liệu liên quan trên cơ sở bám sát giáo trình của khoa

+ Lập đề cương mẫu

+ Nhóm tiến hành họp nhóm trao đổi, phân tích, nhận xét, đánh giá,… tìm thêm tư liệu kênh chữ và kênh hình cho đề tài

+ Hoàn thiện tiểu luận

Giới hạn phạm vi nghiên cứu:

Do khuôn khổ có hạn của giáo trình “Địa lí kinh tế Việt Nam” và thời gian thực hiện nên nhóm chưa thể đào sâu thêm. Nội dung được giới hạn theo mẫu của giáo trình. Tuy nhiên có bổ sung thêm một số đề mục để làm rõ thêm đề tài.

* Vì còn thiếu sót nhiều kinh nghiệm, có thể nhầm lẫn hoặc còn nhiều sai sót khó tránh khỏi. Mong được giảng viên châm chước.

Cuối cùng xin cảm ơn thầy đã giúp đỡ nhóm em thực hiện đề tài!

Tài liệu tham khảo

1. Giáo trình những Địa lí kinh tế Việt Nam, khoa Quản trị kinh doanh, trường đại học Công Nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, 9 – 2010.

2. Nhiều sách và tài liệu liên quan khác hoặc tìm kiếm trên mạng internet.

3

Page 4: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Danh sách nhóm Hội Ngộ:

Tên MSSV1. Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 110651512. Nguyễn Thanh Vương3. Đoàn Tuấn Ngĩa4. Đặng Thị Ngọc 110757915. Phạm Thị Ngoan 110732616. Võ Thị Kim Quý 110681817. Trần Thị Ơn 112325618. Bùi Huy Toàn9. Nguyễn Thị Phương 1104988110. Võ Văn Huy 1106785111. Võ Văn Dũng 1125011112. Đinh Phú Quý 08092641

4

Page 5: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

MỤC LỤC

I. TÌNH HÌNH CHUNG 5

II.TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ TỪNG NGÀNH NÔNG – LÂM – NGƯ NGIỆP Ở VIỆT NAM 8

1.Ngành nông nghiệp 8

a. Ngành trồng trọt 8

b. Ngành trồng cây công nghiệp và cây ăn quả 10

c. Chăn nuôi: 15

2.Ngành lâm nghiệp: 18

3.Thủy sản 21

a. Khai thác thủy sản 23

b. Nuôi trồng thủy sản: 23

c. Chế biến và xuất khẩu 24

III.CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY25

1.Những hạn chế của nông nghiệp Việt Nam hiện nay: 25

2.Một số giải pháp phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay: 29

3.Phát triển thị trường tài chính nông thôn, tạo nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp nông thôn 31

5

Page 6: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ NÔNG – LÂM – NGƯ NGHIỆP

I. TÌNH HÌNH CHUNG

Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, khu vực nông thôn việt nam đã có sự thay đổi rõ nét. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, hoạt động dịch vụ phát triển mạnh, hình thành và phát triển các mô hình kinh tế mới (khu công nghiệp, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân) hoạt động có hiệu quả thu hút nhiều lao động nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm cho nền kinh tế. Kết cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn có nhiều thay đổi, hệ thống điện, đường trường trạm, cơ sở y tế, nước sạch, môi trường được quan tâm và đẩy mạnh. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Mặc dù việc xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển đối với một số ngành nông nghiệp mới được tiến hành trong thời gian chưa lâu nhưng kết quả đã cho thấy tốc độ phát triển nhanh, đạt hiệu quả cao và cùng lúc đạt được nhiều mục tiêu như cải thiện đời sống nông thôn, tạo nguồn thu ngoại tệ, góp phần phủ xanh đất trống đồi trọc v.v…

Ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển khá với nhiều thành điểm đáng chú ý như:

- Mức tăng trưởng sản xuất duy trì ở mức 4,8% liên tục trong 10 năm. Nhiều lĩnh vực sản xuất được mở rộng về diện tích cũng như tăng trưởng về sản lượng như gạo, cà phê, chế biến thủy hải sản, tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn phục vụ cả tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ví dụ như ngành lúa gạo, từ một nước nhập khẩu gạo Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Sản lượng gạo tăng liên tục từ mức 16 triệu tấn/năm (1986) lên mức 19,2 triệu tấn/năm (1990) và 38,9 triệu tấn/năm (2009), tăng gấp 2,4 lần sau hơn 20 năm đổi mới. Tính riêng trong các năm 2008 và 2009, sản lượng và giá trị các loại cây trồng, đặc biệt là những cây tạo nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu như: cà phê tăng 40,4%, cao su tăng 37%, chè tăng 33,3% điều tăng 28,3% so với năm 2005. Tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP luôn chiếm trên 30% trong giai đoạn 1986 – 1990 và giảm dần trong các giai đoạn tiếp sau theo xu hướng tích cực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

- Nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu với giá  trị xuất khẩu tăng bình quân trên 10% năm. Nếu như năm 1995, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông lâm thủy sản của khu vực nông nghiệp chỉ đạt 2,5 tỷ USD thì đến cuối năm 2009, ước đạt 13,2 tỷ USD, cao gấp 5 lần so với năm 1995. Trong 24 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước thì nông lâm thủy sản đã đóng góp tới 11 mặt hàng, chiếm gần ½ số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó có những mặt hàng được xem là hàng chủ lực như gạo, cà phê, cao su, gỗ, với kim ngạch trên 1 tỷ USD. Cùng với việc mở rộng thị trường xuất khẩu, nhiều mặt hàng nông sản gia tăng thị phần và chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới, như hạt điều, hạt tiêu chiếm vị trí thứ nhất, lúa gạo, cà phê đứng thứ hai, cao su đứng thứ tư, chè đứng thứ năm và thủy sản đứng thứ bảy trong nhóm các nước sản xuất mặt hàng này.

- Khu vực nông nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tiếp tục là ngành chính tạo ra thu nhập cho người nghèo. Tính đến cuối năm 2009, khu vực nông nghiệp, nông thôn có 15,57 triệu hộ gia đình (chiếm 69,37% tổng số hộ gia đình của cả nước) và dân số là 60,41 triệu người (chiếm 70,37% tổng số dân

6

Page 7: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

cả nước), có trên 24 triệu lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 60% tổng số lao động đang làm việc trong các khu vực kinh tế của cả nước.

- Một nền nông nghiệp hướng vào sản xuất hàng hóa đã bước đầu hình thành. Diện tích gieo trồng các loại cây trồng mà sản phẩm tạo ra dành nhiều cho xuất khẩu hoặc phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng trong nước đã tăng lên như diện tích các loại cây rau, quả, cây công nghiệp ngắn ngày có hướng tăng nhẹ khoảng 2-4%/năm. Diện tích các cây lâu năm tăng gần 80 nghìn ha riêng trong năm 2009 do giá xuất khẩu một số nông sản này tăng. Những dịch chuyển này đã tạo ra sự hình thành các vùng chuyên canh, đặc biệt là vùng sản xuất các loại cây rau, quả xuất khẩu như vải, bưởi, sầu riêng, na, xoài, thanh long,… cùng với sự hình thành các mô hình sản xuât hàng hóa nông sản lớn. Bên cạnh đó thì những cây trồng có định hướng phục vụ cho các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm chỉ tiêu dùng nội địa thể hiện sự khó khăn, không có năng lực phát triển như cây mía đường, bông, cây thức ăn gia súc,…

- Một nét mới trong phát triển nông nghiệp là đã xuất hiện một số mô hình tổ chức sản xuất kiểu mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, cà phê nhân dân, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới làm dịch vụ cho kinh tế hộ. Tính đến năm 2009, cả nước đã có 135.437 trang trại, trong đó có 39.769 trang trại trồng cây hàng năm, 23.880 trang trại trông cây lâu năm, 20.809 trang trại chăn nuôi và 35.489 trang trại nuôi trồng thủy sản, tập trung nhiều nhất ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã dịch vụ trong nông nghiệp cũng là một nét mới đáng ghi nhận trong tổ chức sản xuất nông nghiệp hiện nay.

Trong điều kiện toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, khủng hoảng lương thực và năng lượng đã trở thành các vấn đề nghiêm trọng như hiện nay, khu vực nông nghiệp nông thôn nhất là tại các quốc gia có số dân sống dựa nhiều vào nông nghiệp như Việt Nam tiếp tục được xác định là có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, Đảng ta vẫn xác định: “Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch…; Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hộ

Việt Nam đã có nhiều chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông- lâm- ngư nhiệp theo hướng phát triển toàn diện, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để đất nước vươn lên.

Trong tổng diện tích tự nhiên của việt nam thì, tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước đã tăng gần 1,28 triệu ha so với năm 2005 thì diện tích đất lúa lại giảm mạnh. Tính đến hết năm 2010, tổng diện tích các loại đất kiểm kê của cả nước là 33.093.857 ha, bao gồm 26.100.160 ha đất nông nghiệp, 3.670.186 ha đất phi nông nghiệp và 3.323.512 ha đất chưa sử dụng. Ngoài ra, c� n có 47.254 ha đất có mặt nước ven biển sử dụng cho nuôi trồng thủy sản, rừng ngập mặn.

Số liệu về tình hình biến động diện tích đất thấy, tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước đã tăng gần 1,28 triệu ha so với năm 2005, trong đó tăng chủ yếu ở loại đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp. Tuy nhiên, diện tích đất trồng lúa lại giảm

7

Page 8: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

đến 37.546 ha, trung bình mỗi năm giảm hơn 7.000 ha. Riêng đồng bằng sông Hồng đất nông nghiệp cũng đã giảm 32.000 ha, chủ yếu do chuyển sang mục đích phi nông nghiệp.

Đất lâm nghiệp so với năm 2005 cả nước tăng 571.616 ha, trong đó có 38 tỉnh tăng và 23 tỉnh giảm diện tích. Các tỉnh giảm chủ yếu do việc xây dựng các công trình hoặc do chuyển sang sản xuất nông nghiệp .

Đất nuôi trồng thủy sản của cả nước so với năm 2005 giảm 9.843 ha do một số địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long chuyển sang trồng lúa.

BIỂU 01: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

(Giá hiện hành)

Gross output of agriculture ( At current price )

Chia ra - Of which

Năm - Year Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụTotal Cultivation Livestock Service

Triệu đồng - Mill.dongs

2004 6,896,052 5,585,870 706,962 603,220

2005 8,501,222 7,005,616 851,542 644,064

2006 9,284,791 7,421,534 1,076,452 786,805

2007 11,904,604 9,859,699 1,229,035 815,870

2008 17,010,083 14,024,638 2,113,575 871,870

8

Page 9: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

2009 18,095,456 14,927,194 2,195,272 972,990

Cơ cấu - Structure (%)

2004 100.00 81.00 10.25 8.75

2005 100.00 82.41 10.02 7.57

2006 100.00 79.93 11.59 8.48

2007 100.00 82.82 10.33 6.85

2008 100.00 82.45 12.43 5.13

2009 100.00 82.49 12.13 5.38

Những năm qua, ngành nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, giá trị và giá trị sản lượng nông nghiệp liên tục tăng cụ thể là ngành trồng trọt từ 2004 đến 2009 tăng từ 5,585,870 đến 14,927,194 triệu đồng là cho cơ cấu ngành cũng tăng theo từ 81% đến 82,94%,chăn nuôi cũng tăng không kém cụ thể từ năm 2004 đến 2009 tăng từ 706,692 triệu đồng lên 2,195,272 triệu đồng làm cho cơ cấu ngành cũng tăng theo từ 10,25% lên 12,13% chủng loại cây trồng, vật nuôi đa dạng hơn, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng gia tăng sản phẩm đã qua chế biến, giảm cung cấp sản phẩm thô, từ đó an ninh lương thực trong nước được đảm bảo, nhiều sản phẩm nông nghiệp trở thành những hàng hóa xuất khẩu chủ đạo, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế như gạo, thủy hải sản, cà phê, cao su. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nông dân được cải thiện, công bằng hơn trong tiếp cận các cơ hội phát triển. Bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc theo hướng văn minh, hiện đại, hệ thống kết cấu hạ tầng cũng như mạng lưới các tổ chức kinh tế hoạt động nông thôn ngày càng phát triển

II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ TỪNG NGÀNH NÔNG – LÂM – NGƯ NGIỆP Ở VIỆT NAM

1. Ngành nông nghiệp

a . Ngành trồng trọt

Cây lương thực

Những cây được xếp vào loại cây lương thực ở Việt Nam là: lúa, ngô, khoai lang, sắn, khoai tây, khoai sọ, khoai nước, dong, riềng, kê, mì, mạch, cao lương.

Sản xuất lương thực là ngành cơ bản, quan trọng trong nông nghiệp. sản xuất lương thực trước hết bảo đảm nguồn thức ăn tinh bột cho toàn bộ dân cư trong nước và cung cấp thức ăn cho gia súc để chuyển hóa thành thịt, trứng sửa và các sản phẩm của sữa là những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, cây lương thực còn cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp. Sản xuất lương thực còn có tác dụng thúc đẩy việc chăn nuôi lên thành sản xuất chính, hình thành các ngành chuyên canh cây công nghiệp , góp phần quan trọng để ổn định kinh tế quốc phòng và xuất khẩu

Bảng 1 – Tình hình ngành sản xuất lúa gạo

Các yếu tố Năm 2006 Năm 2007 Ghi chúDiện tích gieo trồng

7,32 triệu ha 7,2 triệu ha (chiếm 54% tổng diện tích

Diện tích gieo trồng lúa gạo thường xuyên chiếm trên 50% tổng diện tích gieo trồng nông nghiệp)

9

Page 10: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

gieo trồng nông nghiệp)

Sản lượng thóc

35,8 triệu tấn 35,87 triệu tấn

Khả năng cạnh tranh

XK gần 4,7 triệu tấn (kim ngạch gần 1,3 triệu USD)

XK 4,5 triệu tấn gạo (kim ngạch gần 1,5 tỷ USD)

Việt Nam đứng thứ 2 trên thị trường thế giới về khối lượng gạo xuất khẩu (sau Thái Lan). Có lợi thế cạnh tranh đối với các loại gạo có phẩm cấp trung bình và thấp (so với Thái lan) do năng suất lúa cao, giá thành sản xuất thấp. Đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước (dân số 84 triệu người, với mức tăng khoảng 1,1 triệu người mỗi năm)

Cây hoa màu

Bảng 2 – Tình hình ngành sản xuất ngô

Các yếu tố Năm 2006 Năm 2007 Ghi chúDiện tích trồng

1,03 triệu ha 1,07 triệu ha Mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2005: 13,4%/năm; năm 2007 tăng 4% so với 2006

Sản lượng ngô hạt

3,8 triệu tấn 4,1 triệu tấn Năm 2007 tăng 8% so với năm 2006

Khả năng cạnh tranh

Quy mô sản xuất nhỏ, giá thành cao, công nghệ bảo quản chậm phát triển; sản xuất ngô chưa đủ đáp ứng nhu cầu thức ăn chăn nuôi trong nước (ngành chăn nuôi phát triển với tốc độ 6-7%/năm); Tỷ lệ nguyên liệu ngô nhập khẩu phục vụ chăn nuôi tăng hàng năm (kim ngạch nhập khẩu ngô 2006: 94 triệu USD)

Chính sách đối với ngành

Áp thuế nhập khẩu ngô thấp (5%) để tạo điều kiện cho chăn nuôi

Bảng 3  – Tình hình ngành sản xuất khoai lang

Các yếu tố Năm 2006 Năm 2007 Ghi chúDiện tích trồng

181.000 ha 178.000 ha Năm 2007 giảm 2% so với năm 2006

Sản lượng khoai

1,4 triệu tấn 1,46 triệu tấn

Khả năng cạnh tranh

Sản phẩm chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước; vài năm gần đây, có một số vùng đã xuất khẩu được khoai lang (chủ yếu sang Nhật bản, Hàn quốc) nhưng khối lượng không đáng kể.

Chính sách đối với ngành

Do mức độ phụ thuộc vào cây lương thực dạng củ giảm nên mức độ bảo hộ ở mức thấp (thuế nhập khẩu 10%); không có chính sách riêng biệt nhằm khuyến khích phát triển sản xuất

Bảng 4 – Tình hình ngành sản xuất sắn

10

Page 11: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Các yếu tố Năm 2006 Năm 2007 Ghi chúDiện tích trồng

474.000 ha 497.000 ha

Sản lượng củ sắn tươi

7,7 triệu tấn 8 triệu tấn

Khả năng cạnh tranh

Sản phẩm đảm bảo phục vụ đủ nhu cầu trong nước và là mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu quan trọng (chủ yếu dưới dạng sắn lát khô, bột sắn, tinh bột sắn sang các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông với kim ngạch tăng rất nhanh)

Chính sách đối với ngành

Do mức độ phụ thuộc vào cây lương thực dạng củ trong nước giảm nên mức độ bảo hộ ở mức thấp  (thuế nhập khẩu  10%); Nhà nước không có chính sách riêng biệt nhằm khuyến khích phát triển  sản xuất.

b . Ngành trồng cây công nghiệp và cây ăn quả

Cây công nghiệp là một nhóm cây nhiều chủng loại, cung cấp những nông phẩm có giá trị như đường, dầu thực vật, nguyên liệu kỹ thuật (tơ sợi, nhựa, dầu kỹ thuật), các chất hương vị và dược liệu. cây công nghiệp ở Việt Nam còn cung cấp nhiều sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao trên thế giới. Các vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn cũng ảnh hưởng tới sự phân bố các xí nghiệp công nghiệp chế biến và tới sự hình thành cơ cấu cây trồng và vật nuôi trong vùng

Cây công nghiệp hàng năm ở Việt Nam :

Có các cây chủ yếu như: bong, đai, gai, cói, thầu dầu, dâu tằm, mía, lạc, đậu tương, vừng, thuốc lá, thuốc lào). Trong số các cây này thì lạc, mía và đậu tương là những cây dẫn đầu về diện tích cây công nghiệp hàng năm hiện nay

Đỗ tương: là cây trồng truyền thống có mặt từ lâu đời ở Việt Nam. Ngoài việc lấy hạt, cây đậu tương còn có tác dụng cố định đạm làm tăng dinh dưỡng cho đất, nên thường được nông dân trồng xen với các cây trồng khác với mục đích cải tạo đất, được trồng khá phổ biến ở miền Bắc, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Hồng (trồng luân canh với lúa) và vùng Đông Bắc. Ở miền Nam, cây đậu tương được trồng chủ yếu ở vùng Tây Nguyên và một số ít ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy có diện tích trồng đậu tương khá lớn (26.235 ha), chiếm 14,4% tổng diện tích đậu tương của cả nước nhưng Tây Nguyên lại là vùng có năng suất đậu tương ở mức thấp nhất cả nước (1 tấn/ha). Cây đậu tương cho năng suất rất cao tại vùng Đồng bằng sông Hồng (8,7 tấn/ha), do vậy chỉ với diện tích trồng đậu tương chiếm 29,2% nhưng vùng Đồng bằng sông Hồng đã đóng góp 75,4% vào tổng sản lượng đậu tương của cả nước.

Mía

Đạt gần 16 triệu tấn, tăng 338,5 nghìn tấn (Năng suất tăng 11,2 tạ/ha); Cây mía được trồng chủ yếu ở vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây cũng là những vùng đóng góp nhiều nhất cho tổng sản lượng mía của cả nước. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích trồng mía lớn nhất cả nước, chiếm 23% tổng diện tích mía của Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng có năng suất mía cao nhất cả nước (trung bình 68,6 tấn/ha) nên mức đóng góp cho tổng sản lượng mía cũng lớn nhất (29,5%). Vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Bắc có năng suất mía ở mức thấp hơn

11

Page 12: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

nhiều so với mức bình quân cả nước do trồng mía quy mô nhỏ và vẫn sử dụng các giống mía cũ, năng suất thấp.

Cây lạc :

Tăng 3,6% (Diện tích tăng 1,4%; năng suất tăng 2,1%). Nhờ đưa vào gieo trồng các giống lạc mới năng suất cao, nhưng sản lượng lạc hàng năm tăng ở mức khá cao, trung bình 7,2%/năm trong giai đoạn

Lạc là loại Thích hợp với đất nhẹ tơi xốp và không cần nhiều dinh dưỡng, lạc được trồng phổ biến ở các vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, trong đó tập trung nhiều nhất ở vùng Bắc Trung Bộ (chiếm 31% diện tích lạc cả nước). Bắc Trung Bộ cũng là vùng đóng góp lớn nhất cho tổng sản lượng lạc của cả nước (28,6%). Vùng có năng suất trồng lạc cao nhất lại là Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó cao nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng với năng suất 3 tấn/ha (so với mức trung bình 1,9 tấn/ha của cả nước). Tuy được trồng khá phổ biến ở khu vực Tây Nguyên với tổng diện tích lên tới hơn 22 nghìn ha (chiếm 9,7% tổng diện tích lạc cả nước), nhưng đây lại là vùng có năng suất lạc thấp nhất cả nước (0,7 tấn/ha).

Cây thuốc lá

Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, thay thế nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Việt Nam đã có tới 39.925 ha trồng thuốc lá và tổng sản lượng thuốc lá nguyên liệu là 25.230 tấn. Hiện nay mỗi năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 100 triệu USD nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến thuốc lá, cho nên việc mở rộng diện tích trồng cây thuốc lá, đặc biệt dưới hình thức hợp đồng cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy là cần thiết.

Cây thuốc lá được trồng nhiều nhất ở vùng Đông Bắc, chiếm tới chiếm tới 69,4% tổng diện tích thuốc lá của cả nước. Tuy nhiên, do năng suất không cao nên vùng Đông Bắc chỉ đóng góp 23,8% vào tổng sản lượng thuốc lá của cả nước. Thuốc lá cũng được trồng khá phổ biến ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Tuy diện tích trồng thuốc lá ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long không nhiều, nhưng đây lại là vùng trồng thuốc lá cho năng suất cao nhất cả nước. Vùng Tây Bắc hầu như không trồng thuốc lá. Tại các vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ, diện tích trồng thuốc lá cũng không nhiều.

Cây công nghiệp lâu năm ở nước ta hiện nay :

Các loại cây chủ yếu như cao su, cà phê và điều, dừa, chè, hồ tiêu. Trong số các cây này thì cao su, cà phê và điều chiếm diện tích cao nhất cây công nghiệp lâu năm của cả nước

12

Page 13: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Cây cà phê

Trong những năm qua, diện tích cà phê của Việt Nam tăng nhanh từ vài chục ngàn ha lên tới 500 ngàn ha. Sản lượng cà phê tăng mạnh, đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 26%/năm trong giai đoạn 1995 - 1999. Trong 5 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng diện tích cà phê giảm mạnh do biến động trên thị trường thế giới và chính sách của chính phủ khuyến khích giảm diện tích trồng cà phê ở những vùng không thuận lợi. Giai đoạn 2000 - 2004, tốc độ tăng trưởng diện tích cà phê và sản lượng cà phê chỉ đạt lần lượt -3,1%/năm và 1%/năm. Cà phê chiếm khoảng 8% giá trị sản lượng nông nghiệp và khoảng 25% giá trị xuất khẩu nông nghiệp.

Cà phê

Cà phê của Việt Nam chủ yếu được dùng để xuất khẩu cho các tập đoàn rang xay và thương mại lớn trên thế giới, với lượng xuất khẩu chiếm tới hơn 90% tổng sản lượng và là nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới. Nghề trồng cà phê ở Việt Nam tạo nguồn thu nhập lớn cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi, tạo việc làm cho hơn 600 nghìn nông dân.

Cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên có độ cao từ khoảng 800m trở lên. Diện tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, tại các tỉnh như Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối. Diện tích cà phê của vùng này chiếm tới 72% tổng diện tích cả nước và sản lượng cũng chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cả nước. Cà phê chè trồng với diện tích và sản lượng rất khiêm tốn chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, tập trung nhiều ở tỉnh Sơn La và Điện Biên.

13

Page 14: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Cây cao su

Đất đai và khí hậu ở nhiều vùng sinh thái của nước ta, đặc biệt là vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên rất phù hợp với việc sinh trưởng và phát triển cây cao su. Năm 2004, diện tích cao su của vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chiếm tới 94% tổng diện tích cả nước (trong đó, riêng vùng Đông Nam Bộ chiếm gần 70%). Nhờ vậy, sản lượng cao su của hai vùng này cũng chiếm tới 98% tổng sản lượng của cả nước. Ngoài ra, cao su cũng được trồng ở một số tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Quảng Trị nhưng sản lượng không đáng kể.

Cây hồ tiêu

Cây tiêu được trồng ở các vùng đất bazan (từ Quảng Trị trở vào đến các tỉnh vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và một số nơi khác của Nam Bộ như tỉnh Kiên Giang và An Giang). Nhìn chung tiêu phát triển tốt ở độ cao đến 900m so với mặt biển, trên đất đỏ bazan, đất phù sa, đất xám. Những năm giữa thập niên 1990 trở lại đây cây tiêu phát triển mạnh ở Việt Nam, sản lượng tăng nhanh và chiếm vị trí thứ 3 thế giới (chỉ sau Ấn Độ và Indonesia). Tiêu Việt Nam có ưu thế về chất lượng. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu đạt trên 150 triệu đô la Mỹ, chiếm 2,8% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông lâm thuỷ sản cả nước. Tổng diện tích trồng tiêu tại Việt Nam năm 2004 khoảng 47.667ha, sản lượng đạt 66.423 tấn. So với năm 1990 diện tích tiêu năm 2004 đã tăng gấp gần 5,5 lần và sản lượng tăng 7,9 lần.

Diện tích trồng tiêu tập trung ở vùng Đông Nam bộ (27.479ha, chiếm 57,6% diện tích cả nước), Tây Nguyên (15.809ha, chiếm 33,2 %) và Bắc Trung Bộ (3.356ha, chiếm 7%). Năng suất tiêu không chênh lệch nhiều giữa các vùng. Tương ứng với tỷ lệ diện tích trên, sản lượng tiêu năm 2004 của vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ là 39.410, 22.906 và 2.314 tấn tương đương với 59,3%, 34,5% và 3.5% tổng sản lượng tiêu cả nước.

Cây điều

Cây điều không kén đất, dễ trồng và chịu được thời tiết khó khăn khắc nghiệt, vì thế rất thích hợp với đất đai và khí hậu tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Đây cũng là cây trồng mang lại lợi ích kinh tế cao. Cây điều luôn đứng trong nhóm những mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu lớn của Việt

14

Page 15: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Nam. Chỉ tính riêng trong năm 2004, kim ngạch xuất khẩu điều đạt 430 triệu đô la Mỹ, chiếm 8% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản. Do sản phẩm hạt điều chủ yếu phục vụ xuất khẩu nên từ những năm 1990, khi giá điều trên thị trường thế giới tăng cao thì diện tích trồng điều cũng phát triển mạnh. Đặc biệt trong giai đoạn 2000 - 2004 khi giá xuất khẩu cao, giá thu mua trong nước vượt mức 15.000 đồng/kg thì diện tích điều tăng bình quân 10,9%/năm, đẩy sản lượng tăng lên mức kỷ lục là 31,9 %/năm.

Năm 2004, tổng diện tích điều của Việt Nam là 250.960ha, tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ (179.970ha, chiếm 71,7%). Sản lượng điều của vùng này cũng đứng đầu trên cả nước với tổng sản lượng năm 2004 là 142.361 tấn, chiếm 78,4% tổng sản lượng điều Việt Nam (181.568 tấn). Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tuy diện tích trồng không nhiều (20.499ha, tương ứng 8,2%) nhưng do hầu hết diện tích trồng đang ở giai đoạn cho sản phẩm nên cũng đứng thứ hai của cả nước về sản lượng điều (21.826 tấn, chiếm 12%). Trong khi đó, vùng Tây Nguyên với diện tích trồng điều rộng lớn, chỉ đứng sau Đông Nam Bộ với tổng diện tích 49.69âh (tương đương 19,8%) lại chỉ đạt mức sản lượng là 16.956 tấn, chiếm 9,3% tổng sản lượng. Do bị cạnh tranh với các cây trồng khác nên vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ trồng một diện tích nhỏ là 779ha, khoảng 0,3% tổng diện tích điều trên cả nước. Điều không được trồng tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ.

Cây chè

Từ năm 1990 đến nay, diện tích chè Việt Nam tăng nhanh (trung bình 5,1%/năm). Đặc biệt, trong giai đoan 1995 - 1999 giá chè lên cao, tốc độ tăng trưởng diện tích bình quân lên tới 8,3%/năm. Năm 2004, tổng diện tích trồng chè ở Việt nam là 87.494ha. Song song với mở rộng diện tích, sản lượng chè cũng tăng, thậm chí còn nhanh hơn tốc độ tăng diện tích, đạt mức bình quân là 9,5%/năm trong giai đoạn 1990 - 2004. Do chất lượng chè Việt Nam thấp nên kim ngạch xuất khẩu chưa cao. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu chè mới đạt 91,5 triệu đô la Mỹ, chiếm khoảng 1,7% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản.

Chè tập trung chủ yếu ở các vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên. Riêng các tỉnh trung du miền núi phía Bắc thuộc vùng Đông Bắc đã có 52.452ha, chiếm 59,9% tổng diện tích chè cả nước; tiếp theo là vùng Tây Nguyên với diện tích 26.952ha, chiếm 30,8%. Trong khi đó, tại vùng Tây Bắc, do điều kiện địa hình và thời tiết không thuận lợi, diện tích chè chỉ là 8.654ha tương đương với 9,2% tổng diện tích chè trên cả nước.

Vùng Tây Nguyên (nơi có độ cao trung bình) có điều kiện sinh thái phát triển các giống chè tốt, năng suất cao. Tuy diện tích chè vùng này chỉ chiếm 30,8% diện tích chè cả nước nhưng trong năm 2004 sản lượng đạt tới 155.668 tấn, chiếm 39,8% tổng sản lượng cả nước. Chè vùng Đông Bắc (vùng thấp) có khả năng phát triển khá tốt, thời kỳ sinh trưởng dài trong năm nên cũng đạt được mức sản lượng là 201.834 tấn, chiếm 51,5%. Vùng Tây Bắc có địa hình phức tạp, phân cắt mạnh, cơ sở hạ tầng kém, tập quán canh tác lạc hậu nên sản lượng chè sản xuất tại khu vực này chỉ tương đương 8,7% sản lượng cả nước, đạt 34.097 tấn. Tuy nhiên, đây lại là vùng có điều kiện sinh thái đặc biệt thích hợp cho phát triển các giống chè Shan cho sản phẩm chất lượng cao.

Cây ăn quả

15

Page 16: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Việt Nam có điều kiện tự nhiên và khí hậu phù hợp để phát triển đa dạng các loại cây ăn quả, từ quả ôn đới như mận, đào, đến quả cận nhiệt đới như vải thiều, nhãn, cam hay quả nhiệt đới như măng cụt, soài, sầu riêng, dứa, chuối... Trung bình trong giai đoạn 1995 - 1999, diện tích trồng cây ăn quả tăng 10,3%/năm, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng bình quân 3,3%/năm trong giai đoạn 1990 - 1994. Năm 2004, tổng diện tích cây ăn quả Việt Nam vào khoảng 747.803ha, trong đó tập trung chủ yếu tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Đông Bắc với diện tích tương ứng là 260.253ha, 132.937ha và 136.262ha. Một số cây ăn quả chính có năng suất và sản lượng tăng nhanh như xoài, dứa, cây có múi với mức tăng bình quân sản lượng trong giai đoạn 2000 - 2004 lần lượt là 15,4%/năm, 9,7%/năm và 6%/năm. Trong khi đó, diện tích trồng nhãn giảm tới 7,7%/năm và sản lượng giảm 1,3%/năm trong cùng giai đoạn.

Trước đây, hầu hết các loại cây ăn quả được trồng hoặc xung quanh nhà với một vài cây hoặc tại các vườn cây ăn quả tập trung với qui mô nhỏ từ 0,5ha đến 2ha. Trong những năm gần đây cùng với chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại của Nhà nước đã hình thành và phát triển nhiều vườn cây ăn quả có diện tích rất lớn đến vài chục ha, tập trung ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, và Đông Nam Bộ.

c . Chăn nuôi:

Chăn nuôi là một nghành quan trọng của nông nghiệp hiện đại, nuôi lớn vật nuôi để sản xuất những sản phẩm như: thực phẩm, lông, và sức lao động. Sản phẩm từ chăn nuôi nhằm cung cấp lợi nhuận và phục vụ cho đời sống sinh hoạt của con người. Chăn nuôi xuất hiện lâu đời trong nhiều nền văn hóa kể từ khi loài người chuyển đổi từ lối sống săn bắn hái lượm sang định canh định cư.

Trâu, bò

Bảng 1 – Tình hình ngành chăn nuôi trâu bò

Các yếu tố Năm 2006 Năm 2007 Ghi chúSố lượng 9,4 triệu con

(bò 6,5 triệu, trâu 2,9 triệu)

9,7 triệu con(bò 6,7 triệu, trâu gần 3 triệu)

Đàn bò sữa giảm từ 113.000 con năm 2006 xuống còn 110.000 con năm 2007Sản lượng thịt 223.000 tấn 273.000 tấn

Sản lượng sữa tươi

216.000 tấn 234.000 tấn

16

Page 17: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Trong giai đoạn 2000 - 2004, tăng trưởng bình quân của tổng đàn bò cả nước đạt 4,4%/năm. Số đầu con đàn bò năm 2004 là 5,004,000 con. Sản lượng thịt bò chiếm khoảng 5% lượng thịt hơi của các loại gia súc gia cầm. Chăn nuôi bò khá phát triển ở miền Trung. Hai vùng có số lượng bò nhiều nhất nước là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ, chiếm 22% và 23% tổng đàn bò cả nước. Chăn nuôi bò ở vùng Tây Nguyên và Đồng bằng sông Hồng cũng phát triển mạnh mẽ. Những vùng có sản lượng thịt bò cao của cả nước là Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ.

Tốc độ tăng trưởng của tổng đàn trâu trên cả nước những năm gần đây giảm dần do quá trình cơ giới hóa nông nghiệp nông thôn. Số đầu trâu năm 2000 là 2,900,000 con, năm 2004 còn lại 2,870,000 con trên cả nước. Sản lượng thịt trâu của Việt Nam cũng giảm bình quân 2,7%/năm từ 1996 - 2000. Đàn trâu ở vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long giảm xuống nhanh chóng trong thời gian gần đây. Giai đoạn 1990 - 2000, số trâu ở Đồng bằng sông Cửu Long giảm bình quân 14%/năm. Tuy nhiên ở miền núi con trâu vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp sức kéo. Số lượng trâu ở vùng Tây Bắc tăng 4%/năm, ở Tây Nguyên tăng 5,6%/năm. Vùng Tây Nguyên và Tây Bắc, sản lượng thịt trâu tăng bình quân 13,4%/năm và 6%/năm.

Tác ðộng của WTO ðối với ngành chãn nuôi bò sữa

Chăn nuôi bò sữa sẽ chịu tác động nhiều nhất do sản xuất trong nước ít, phải phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu. Các đối thủ mạnh về xuất khẩu sữa là Úc, New Zealand, Mỹ, EU. Người nông dân chăn nuôi bò sữa sẽ là đối tượng chịu tác động nhiều hơn so với các nhà máy chế biến sữa.

Nhập khẩu thịt bò từ Úc, New Zealand, Mỹ có khả năng sẽ tăng trong thời gian tới. Nguyên nhân chính một phần do giảm thuế, nhưng phần lớn là do chất lượng cao và đảm bảo VSATTP của các sản phẩm nhập ngoại sẽ làm tăng nhu cầu tiêu

Lợn

Chăn nuôi lợn ở Việt Nam phát triển chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng đàn lợn bình quân vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long đạt tương ứng là 7,5%/năm và 5,7%/năm. Năm 2000, số đầu lợn của vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 27% tổng đàn cả nước và Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 15%.

Những năm gần đây chăn nuôi lợn quy mô lớn, theo kiểu công nghiệp và thương mại hóa cao phát triển mạnh ở vùng Đông Bắc và Đông Nam Bộ. Chăn nuôi lợn ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ phát triển chậm và có xu hướng giảm; tốc độ tăng bình quân đầu con trong 5 năm gần đây chỉ đạt 2,3%/năm và 2,8%/năm.

Từ năm 1990 đến năm 2000, sản lượng thịt lợn của Việt Nam tăng gần 2 lần, đạt trên 1,4 triệu tấn năm 2000. Từ năm 2000 đến nay, sản lượng thịt lợn chiếm trung bình 76% tổng sản lượng thịt hơi các loại. Vùng sản xuất nhiều thịt lợn nhất là Đồng bằng sông Hồng. Năm 2000, sản lựợng thịt lợn hơi của vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 26% tổng sản lượng thịt lợn cả nước, Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 21%, Đông Nam Bộ chiếm 12,4%.

Bảng 2 – Tình hình ngành chăn nuôi lợn

17

Page 18: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Các yếu tố Năm 2006 Năm 2007 Ghi chúSố lượng 26,8 triệu con 26,6 triệu con Thịt lợn chiếm trên

70% sản lượng thịt hơi các loại

Sản lượng thịt hơi 2,5 triệu tấn 2,55 triệu tấn

Chăn nuôi lợn đóng vai trò quan trọng nhất cho sự phát triển của ngành chăn nuôi Việt Nam. Thu nhập từ chăn nuôi lợn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của rất nhiều hộ gia đình nông thôn. Giai đoạn 2006- 2007 tỷ lệ tăng trưởng của số lượng lợn đạt là70%, 2006-2007, tổng đàn lợn trên cả nước đạt 26,8 triệu con giảm còn 26,6 triệu con. Tuy số lượng giảm nhưng sản lượng thịt tăng từ 2,5 triệu tấn lên 2,55 triệu tấn nguyên nhân là do nguồn thức ăn ngày càng đa dạng bên cạnh đó vấn đề phòng ngừa dịch bệnh cao nhiều giống mới ra đời cho năng xuất cao….

Gia cầm

Trong chăn nuôi gia cầm, gà là vật nuôi chiếm tỷ trong chính cả về đầu con và sản lượng thịt (76%). Phần còn lại chủ yếu là chăn nuôi vịt, rất phát triển ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Sản lượng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 5

Giai đoạn cuối năm 2003 từ Dịch cúm gia cầm bùng phát tại Việt Nam đã gây thiệt hại nặng nề đến ngành chăn nuôi gia cầm. Có khoảng 44.000.000 gia cầm đã bị tiêu huỷ trong giai đoạn cuối năm 2003 và đầu năm 2004, ước tính tổng thiệt hại khoảng 1,3 nghìn tỷ đồng. Năm 2004 tổng đàn gia cầm của cả nước là 218.200.000 con.

Chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng năm 2000 số gia cầm của vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 50% tổng đàn gia cầm toàn quốc. Ngoài ra, vùng Đông Bắc và Đông Nam Bộ cũng phát triển chăn nuôi gia cầm trong những năm qua.

Bảng 3 – Tình hình ngành sản xuất gia cầm

Các yếu tố Năm 2006 Năm 2007Số lượng 214 triệu con 226 triệu conSản lượng thịt hơi 770.000 tấn 372.000 tấnSản lượng trứng 3,97 tỷ quả 4,4 tỷ quả

Chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh mẽ ở hộ gia đình. Mô hình chăn nuôi gà thả vườn trong hộ gia đình được áp dụng khá rộng rãi và đạt hiệu quả cao trên cả nước, kể cả vùng núi và cao nguyên. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 20006- 2007 tăng số lượng từ 214 triệu con lên 266 triệu con.

Hộp 2 - Tác ðộng của WTO ðối với ngành gia cầm

Tuy không phải cắt giảm thuế theo cam kết WTO, nhưng với tình hình giá gà trong nước cao, tình trạng dịch cúm gia cầm chưa khống chế được triệt để, mức độ nghi ngại về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đối với gia cầm trong nước, khả năng nhập khẩu gia cầm từ nước ngoài được dự báo sẽ tăng.

Ngành chăn nuôi gia cầm vì thế sẽ khó khăn hơn trong cạnh tranh để giữ thị phần nội địa.

6% sản lượng thịt vịt hơi trên toàn quốc.

18

Page 19: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

2. Ngành lâm nghiệp:

các hoạt động lâm nghiệp chủ yếu của việt nam hiện nay bao gồm, trồng và nuôi rừng,khai thác gỗ và lâm sản các loại, bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng nguyên sinh, công viên quốc gia

Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới bắc bán cầu thuộc khu vực gió mùa Đông Nam Á nên phổ biến là rừng nhiệt đới với hệ sinh thái nhiều tầng, có sinh khối cao và có giá trị kinh tế cao với nhiều loài gỗ quý nhiệt đới, bên cạnh đó pha tạp them rừng cận nhiệt đới và ôn đới trên đỉnh núi cao và các khu rừng ven biển

BIỂU 53: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT LÂM NGHIỆP

( Giá hiện hành )

Triệu đồng mill.dongs

2004 2005 2006 2007 2008 2009

Tổng số - 269,620 345,050 357,000 390,110 423,430 450,5301. Trồng và nuôi rừng 12,348 19,294 20,128 20,549 20,247 20,275 - Trồng rừng tập trung 453 1,363 612 1,153 1,203 1,174 - Trồng cây phân tán 2,145 5,449 5,882 6,084 6,760 6,867

- Chăm sóc rừng 9,750 12,482 13,634 13,312 12,040 11,970

- Tu bổ rừng - - - 244 2642. Khai thác lâm sản 238,734 277,633 276,122 299,960 332,192 354,231

- Gỗ các loại 117,975 136,261 133,976 149,592 160,851 194,407

- Củi các loại 41,478 59,892 62,516 67,300 75,062 82,890 - Tre, luồng, cừ tràm 79,281 81,480 79,630 83,068 96,279 76,9343. Các hoạt động DV lâm nghiệp khác 18,538 48,123 60,750 69,601 70,991 76,024

Từ số liệu trên ta thẩy trong 6 năm từ năm 2004 đến 2009 tổng số trồng và nuôi rừng tăng qua các năm cụ thể là năm 2004:12,348 triệu đồng, năm 2005: 19,294 triệu đồng, đến năm 2009: 20,275 triệu đồng bên cạnh đó việc khai thác các loại gỗ cũng tăng cụ thể là năm 2004: 238,734 triệu đồng, năm 2009: 354,231 triệu đồng

Trong hai mươi năm qua Diện tích rừng của Việt Nam đã tăng hơn 12%, chính phủ Việt Nam quan tâm rất nhiều đến việc bảo vệ rừng và phát triển, nhờ đó “độ che phủ rừng tăng từ 27% năm 1990 đến 39,5% năm 2010, Việt Nam hiện có khoảng 13,4 triệu ha rừng, trong đó, gần 11 triệu ha là rừng tự nhiên, hơn 2 triệu ha rừng trồng.

19

Page 20: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Trong đó Tây nguyên là vùng lâm nghiệp lớn nhất nước diện tích tự nhiên là 5.612 nghìn ha, hiện còn 3.140 nghìn ha rừng các loại, trữ lượng 238,9 triệu m3, chiếm tới 31,9% diện tích và 36,3% trữ lượng rừng toàn quốc (trong đó rừng giàu chiếm 41,2%; rừng trung bình chiếm 51,2% so với tổng trữ lượng rừng cùng loại của cả nước). ở Bắc Trung Bộ và Đông Bắc diên tích rừng và trữ lượng gỗ có nhiều nhưng không nhiều bằng Tây Nguyên. ở đồng bằng sông Hồng chủ yếu là rừng trồng phân tán nên trữ lượng không lớn.đồng bằng song Cửu Long thì chủ yếu là rừng sú, vẹt, tràm…trong 5 năm qua (2006 - 2010), diện tích rừng các tỉnh Tây nguyên - Đông Nam Bộ liên tục bị suy giảm với tổng diện tích 158.000ha, chiếm 31,6%

Trong số những diện tích rừng bị suy giảm của khu vực Tây nguyên - Đông Nam Bộ, rừng bị mất chủ yếu do chuyển đổi mục đích để trồng cao su. Trong 5 năm qua, khu vực này đã chuyển đổi mục đích sử dụng 95.497ha rừng, chiếm 60,1% diện tích rừng bị suy giảm. Trong đó, các tỉnh Tây nguyên chuyển đổi mục đích sử dụng 79.194ha (bằng 45,8% của cả nước) và Đông Nam Bộ chuyển đổi 16.303ha. Mục đích chuyển đổi rừng trồng cao su của khu vực là 74.500ha và mục đích sử dụng khác (thủy điện, thủy lợi, trồng nương rẫy, khu công nghiệp…) là 20.500ha. Theo quy định, việc chuyển đổi rừng sang mục đích sử dụng khác phải trồng rừng thay thế. Nhưng trên thực tế, hầu hết các dự án không thực hiện điều này. Sau khi giao dự án, nhiều địa phương buông lỏng quản lý để chủ rừng mặc sức chuyển đổi rừng tràn lan và không phục hồi lại rừng.

Trong khi đó, tình trạng khai thác rừng trái phép ở khu vực này trong 5 năm qua đã làm mất 9.700ha rừng (chiếm 6,1% diện tích rừng bị suy giảm), bình quân mỗi năm mất 2.000ha. Mặc dù không chiếm tỷ trọng lớn trong những nguyên nhân suy giảm rừng nhưng cũng gây thiệt hại cho tài nguyên thiên nhiên và tạo ra sự bức xúc trong xã hội. Tính riêng trong 9 tháng đầu năm nay, các tỉnh Tây nguyên - Đông Nam Bộ phát hiện 1.710 vụ phá rừng trái phép (chiếm 68,6% toàn quốc), làm thiệt hại 1.047ha rừng. Đối tượng phá rừng chủ yếu là do đồng bào dân tộc tại chỗ, dân di cư tự do và một số bộ phận người dân khác. Mục đích họ phá rừng để lấy đất sản xuất, mua bán kiếm lời, đòi các dự án đền bù… Địa bàn bị phá rừng chủ yếu ở khu vực các doanh nghiệp được tỉnh giao, cho thuê đầu tư sản xuất nông, lâm nghiệp. Trọng điểm xảy ra ở các huyện Tuy Đức, Đắc Song (Đắc Nông), Đạ Huoai, Lạc Dương (Lâm Đồng), Krông Năng, Ea Súp, Ea H’leo (Đắc Lắc), Mang Yang, K’bang (Gia Lai)…

20

Page 21: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Diện tích rừng bị phá tháng 01 năm 2010

Đơn vị P h á r ừ n g Phá rừng theo mục đíchTổng cộng

Rừng đặc dụng

Rừng phòng hộ

Rừng sản xuất Làm rẫy N.trồng thuỷ sản

Trồng cây CN

Khác

R.tự nhiên

Rừng trồng

R.tự nhiên

Rừng trồng

R.tự nhiên

Rừng trồng

8. Bình Phước

124,79 - - - 12,85 - 111,94 124,79 - - -

9. Bà Rịa V.Tàu

0,43 - - 0,18 0,25 - - - - - 0,43

10. Bình Thuận

2,45 - - 2,45 - - - 2,45 - - -

18. Đăk Nông

37,45 - - - 0,20 37,25 - 37,45 - - -

37. Lâm Đồng

4,59 - - 1,01 0,03 3,55 - 4,59 - - -

39. Nghệ An

0,11 - - - 0,05 0,06 - - - - 0,11

44. Phú Yên

0,44 0,44 - - - - - 0,44 - - -

56. Tây Ninh

0,20 - - - - 0,20 - 0,20 - - -

67. VQG Cát

0,41 0,41 - - - - - 0,41 - - -

21

Page 22: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

TiênTổng số 170,87 0,85 - 3,64 13,38 41,06 111,94 170,33 - - 0,54

2010 sẽ phục hồi 85% diện tích rừng ngập mặn

Bên cạnh đó, sẽ khôi phục những vùng đất ngập nước quan trọng bị suy thoái như cửa sông Đồng Nai, phá Tam Giang, thiết lập mới khu bảo tồn ven biển như cửa sông Tiên Yên (Quảng Ninh), bảo vệ nguồn lợi cá mang tính di cư xuyên quốc gia, phục hồi rạn san hô, cỏ biển...

Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN-PTNT) vừa cho biết, mặc dù gặp nhiều khó khăn về vốn ngân sách nhưng với quyết tâm của toàn ngành lâm nghiệp, trong những năm qua, giá trị xuất khẩu các sản phẩm từ ngành lâm nghiệp vẫn liên tục tăng cao, từ 335 triệu USD năm 2001 lên 3,45 tỷ USD năm 2010 và dự kiến 2011 sẽ đạt 4,1 tỷ USD.

3. Thủy sản

BIỂU 56: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT THUỶ SẢN

PHÂN THEO NGÀNH HOẠT ĐỘNG

( Giá hiện hành )

Tổng sốChia ra

Năm Nuôi trồng Khai thác Dịch vụ

thủy sản thủy sản thủy sản

Triệu đồng

2004 100.00 68.62 10.84 20.54

2005 100.00 72.61 8.21 19.18

2006 100.00 69.10 6.98 23.91

2007 100.00 73.56 3.31 23.13

2008 100.00 77.60 3.24 19.16

2009 100.00 80.28 2.86 16.86

Tùy theo từng vùng cá mà tàu thuyền di chuyển phù hợp với quy luật phân bố các loài cá trên các ngư trường, vừa tránh được thiệt hại do bão, gió mạnh vừa tạo thêm được việc làm và tăng sản lượng.Từ năm 2004 sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 68.62 triệu đồng nhưng đến năm 2009 sản lượng đã tăng lên 80.28 triệu đồng, bên cạnh đó nguồn khai thác thủy sản lại giảm cụ thể là năm 2004 sản lượng 10.84 triệu đồng nhưng đến năm 2009 sản lượng giảm còn2.86 triệu đồng, một sự giảm qua lớn nguyên nhân là do tình hình khai thác tự nhiên quá bừa bãi nguồn thủy sản tự nhiên không còn đa dạng chủ trương đổi mới cơ cấu sản xuất trong ngành thủy sản đã chuyển từ khai thác nguồn lợi sẵn có của thiên nhiên sang nuôi trồng thủy sản trên cơ sở khai thác và sử dụng tiềm năng, thế mạnh về diện tích mặt nước và nguồn lao động hiện có để phát triển sản xuất, phù hợp với chủ trương bảo vệ nguồn thủy sản

Mặc dù kinh tế thế giới năm 2010 đã phục hồi và có những dấu hiệu tích cực sau khủng hoảng tài chính và suy thoái, nhưng vẫn chưa thực sự ổn định và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta.

22

Page 23: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Ở trong nước, thiên tai liên tiếp xảy ra, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống dân cư. Hàng loạt tài sản, vật tư và sản phẩm thủy sản nuôi ở Trung Bộ bị cuốn theo nước lũ. Mùa lũ và mùa mưa ở Nam Bộ trái với quy luật  thông  thường. Cho đến cuối năm, hàng loạt ngư dân vẫn gặp nạn vì áp thấp và gió mùa.

Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam được đánh giá là một  trong  những  nước  sớm  vượt  qua  giai  đoạn  khó khăn và phục hồi nhanh sau khủng hoảng  tài chính toàn cầu, với  tổng sản phẩm  trong nước (GDP) năm 2010 ước tính tăng 6,78% so với năm 2009, song thực chất nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, tỷ giá ngoại tệ không ổn định, lạm phát ở mức cao, lãi suất ngân hàng liên tục biến động theo chiều hướng bất lợi cho sản xuất, kinh doanh.

Trên thị trường XK thủy sản, đây là năm đầu tiên, tất cả 3 nhóm ngành hàng chính của Việt Nam đều gặp trở ngại lớn. Đầu năm là viêc thực hiện quy định của  EU  về  chứng  nhận  nguồn  gốc  sản  phẩm  khai thác, chống khai  thác bất hợp pháp, không báo cáo và không quản  lý  (IUU). Đến nửa cuối năm, XK  tôm sang thị trường Nhật Bản bị thách thức nghiêm trọng vì nhiễm trifluralin, dẫn đến nguy cơ mất thị trường này nếu không quyết liệt. Và gần cuối năm, mặt hàng cá tra bị tổ chức WWF ở 6 nước EU cho ăn “đòn hội chợ” bằng  cách  đưa  vào  danh  sách  đỏ  trong Cẩm  nang hướng  dẫn  tiêu  dùng  thủy  sản  năm  2010-2011  của họ.

Tuy nhiên, cùng với cả nước, ngành  thủy sản đã nỗ lực phấn đấu, đạt kết quả có thể xem là thắng lợi toàn diện. Giá  trị sản xuất nông,  lâm nghiệp và  thuỷ sản năm 2010 theo giá so sánh 1994 ước đạt 232.700 tỷ đồng, tăng 4,7% so với năm 2009, bao gồm nông nghiệp 168.400 tỷ đồng, tăng 4,2%; lâm nghiệp 7.400 tỷ  đồng,  tăng  4,6%;  thuỷ  sản  56.900  tỷ  đồng,  tăng 6,1%.

Tổng sản lượng thuỷ sản cả năm ước đạt 5.128.000 tấn, tăng 5,3% so với năm 2009, trong đó cá 3.848.000 tấn, tăng 4,8%; tôm 589.000 tấn, tăng 7,1%.

23

Page 24: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

a . Khai thác thủy sản

Năm 2010, nói chung không có trở ngại thời tiết lớn đối với hoạt động khai thác thủy sản, ngư dân có điều kiện bám biển dài ngày hơn. Nguồn lợi cá nổi xuất hiện với mật độ tương đối cao ở vùng biển khơi, các nghề vây, câu khơi, câu mực khơi đạt năng suất cao.

Ngư dân nhiều địa phương đã phát triển mạnh hình thức hợp tác  trong hoạt động  khai  thác  theo  tổ,  tập đoàn, hỗ  trợ nhau  tìm kiếm ngư  trường, vận chuyển sản phẩm và nhu yếu phẩm, và đặc biệt tổ chức cứu trợ tại chỗ khi có sự cố, tai nạn, thiên tai, kéo dài thời gian hoạt động, nâng  cao hiệu quả  và  an  toàn  trên biển. Ngoài ra, chính sách của Nhà nước hỗ  trợ ngư dân thay máy thủy tiêu thụ ít nhiên liệu hơn và đóng mới tàu công suất lớn làm tăng năng lực khai thác xa bờ và hiệu quả kinh tế của hoạt động khai thác.

 

Theo Tổng cục Thống kê, sản lượng thuỷ sản khai thác cả năm ước đạt 2.420.800 tấn, tăng 6,2% so với năm trước, trong đó khai thác biển 2.226.600 tấn, tăng 6,4%. Đặc biệt sản lượng cá ngừ đại dương năm nay tăng cao, trong đó Phú Yên đạt 5.000 tấn, tăng 13,6% so  với  năm  2009; Bình Định  4.000  tấn,  tăng  5,3%; Khánh Hòa 3.500 tấn, tăng 9%.

 

bNuôi trồng thủy sản:

năm  nay  gặp  rất  nhiều  bất lợi với những biến động  thất  thường của  thời  tiết do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cả năm ước đạt 2.706,8 nghìn tấn, chỉ tăng 4,5% so với năm trước. Đây là năm đầu tiên tỷ lệ tăng sản  lượng  thủy sản nuôi  trồng  thấp hơn so với  tỷ  lệ tăng sản lượng thủy sản khai thác.

24

Page 25: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Nuôi cá  tra  trong năm vẫn gặp khó khăn, do giá cá nguyên  liệu và  thị  trường  tiêu  thụ  lên xuống  thất thường. Giá  thu mua  cá  nguyên  liệu  trong  3  tháng cuối năm tăng mạnh, nhưng lại vào thời điểm hầu hết ao nuôi đã hết cá  thịt. Nhiều người nuôi không còn khả  năng  đầu  tư,  hoặc  không  tin  vào  tăng  giá  bền vững năm  tới nên chưa dám  thả nuôi đợt mới. Tổng diện tích nuôi cá tra năm nay ước giảm 5% so với năm trước, trong đó một số địa phương giảm nhiều là Cần Thơ (-13,6%); An Giang (-9%); Bến Tre (-8,1%). Sản lượng cá tra cả năm ước đạt 1,2 triệu tấn. Một mối lo nữa cho cả người nuôi và DN sản xuất cá tra là ngày càng khó tiếp cận các nguồn tín dụng, do ngân hàng đánh giá nghề nuôi cá tra rủi ro quá cao.

Nuôi  tôm  nhìn  chung  được  cả mùa  và  giá. Đặc biệt nuôi tôm chân trắng tăng mạnh, diện tích đạt gần 24.400 ha, tăng 32%, sản lượng 135,000T tăng 50% so với năm 2009. Sản phẩm tôm chân trắng đóng góp gần 20% tổng giá trị XK tôm của Việt Nam 2010.

 

Tuy sản  lượng cá  tra giảm nhưng  tổng sản  lượng các loài cá nuôi thu hoạch năm nay vẫn tăng 4,9% so với  năm  trước  do  các  địa  phương  thực  hiện  chuyển đổi và mở rộng diện tích nuôi theo hướng đa canh, với nhiều đối tượng và hình thức nuôi, nhằm vào các sản phẩm phục vụ  thị  trường nội địa. Đáng chú ý  là nuôi thủy sản trong lồng trên biển mở rộng nhanh tại một số địa phương. Số  lượng  lồng, bè nuôi các  loại  tăng gần 10.000 chiếc (+ 9,3%) so với năm 2009, trong đó số lồng, bè nuôi biển tăng 20%. Sản phẩm thủy sản nuôi tiêu thụ rất tốt với giá cao, nhất là cá biển và tôm, cá biệt giá 1kg tôm hùm nuôi vào cuối tháng 12  lên tới 2 triệu đồng.

c . Chế biến và xuất khẩu

Năm 2010, thủy sản tiếp tục là nhóm mặt hàng XK chủ lực, có tốc độ tăng trưởng cao trong 18 nhóm mặt hàng đạt giá trị XK  trên 1  tỷ USD của cả nước (năm 2009 có 12 nhóm mặt hàng giá trị XK trên 1 tỷ). Giá trị XK thủy sản cả năm ước đạt 4,95 tỷ USD, tăng 16,4% so với năm 2009. Tuy nhiên, tỷ trọng của nhóm hàng thủy sản trong cơ cấu XK của cả nước đã giảm xuống còn 6,9% từ mức 7,4% năm 2009.

Tôm và cá tra tiếp tục là những mặt hàng đơn lẻ có giá trị XK cao hơn 1 tỷ USD/năm, đặc biệt giá trị XK tôm lần đầu tiên chạm mốc 2 tỷ USD. Đây là mặt hàng đơn  lẻ  thứ  tư của cả nước có giá  trị XK  từ 2  tỷ USD/năm trở lên, sau dầu thô, gạo và cao su. Tốc độ tăng trưởng về giá trị XK tôm cũng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ  tăng khối  lượng, giá được cải  thiện mạnh. Do tình hình khan nguồn cung và nỗ

25

Page 26: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

lực của các DN, tỷ lệ tăng giá trị và sản lượng XK cá tra cũng đã giảm dần sự chênh lệch, giá trung bình XK cá tra được cải thiện rõ. Tuy nhiên, năm 2010 cũng  là năm đầu  tiên mà cá  tra và  tôm hầu như không còn sản phẩm  tồn kho, khiến giá trị XK những tháng đầu năm 2011 khó có thể đạt cao.

Tổng giá trị NK thủy sản cả năm đạt 334 triệu USD, trong đó một phần là sản phẩm tiêu dùng trong nướcvà phần chủ yếu là nguyên liệu chế biến để tái XK.

III. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Những hạn chế của nông nghiệp Việt Nam hiện nay:

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cần phải thấy rằng ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn chỉ đang ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển dịch từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang một nền nông nghiệp hàng hóa. Vì vậy, vẫn tồn tại nhiều yếu tố bất cập có thể kể đến như:

- Cơ cấu nông nghiệp chậm chuyển dịch, còn tồn tại nhiều yếu tố mất cân đối. Năm 1990, cơ cấu ngành nông nghiệp nước ta (tính theo giá trị sản xuất theo giá thực tế) bao gồm trồng trọt chiếm 79,3%, tiếp đó là chăn nuôi 17,9% và dịch vụ 2,8% thì đến năm 2009, ước tính sơ bộ, giá trị sản xuất của ngành trồng trọt vẫn chiếm tới 71,4%, chăn nuôi có tăng lên 26,9% nhưng dịch vụ giảm xuống còn 1,7% (theo số liệu từ tổng cục thống kê). Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của ngành nông nghiệp thuần là các nông sản do phân ngành trồng trọt làm ra nhý gạo, cà phê, cao su. Sản phẩm chãn nuôi hầu nhý chýa xuất khẩu hoặc rất ít. Cõ cấu nông, lâm nghiệp thủy sản nãm 2000 lần lýợt là 79%, 16% và 5% thì đến năm 2009, nông nghiệp vẫn chiếm 74%, thủy sản tăng lên 23% và lâm nghiệp giảm xuống còn 3%. Sự mất cân đối còn thể hiện trong mối quan hệ giữa nguyên liệu sản xuất và nhà máy chế biến. Như đối với ngành hạt điều, từ chỗ chỉ có vài chục ngàn ha với sản lượng đáp ứng tiêu dùng nội địa, đến nay cả nước đã có trên 400.000 ha điều, tuy nhiên công suất của các nhà máy chế biến đã vượt quá xa khả năng cung ứng nguyên liệu điều thô trong nước. Tình trạng tương tự cũng xảy ra trong lĩnh vực thủy sản. Trong 3 năm trở lại đây, năng lực chế biến của các nhà máy chế biến thủy sản tăng tới 20% trong khi sản lượng khai thác và nuôi trồng chỉ tăng 7,6%.

- Quy mô sản xuất nhỏ, hoạt động sản xuất còn manh mún. Ví dụ như đối với ngành sản xuất cà phê, cho tới nay, cà phê thuộc các gia đình nông dân quản lý đã chiếm trên 90% tổng diện tích cà phê cả nước, trong đó có tới 53% chủ vườn có diện tích cà phê dưới 1 ha và 85% chủ vườn có diện tích cà phê dưới 2ha. Diện tích cà phê của các nông trường nhà nước đã ngày càng thu hẹp do chính sách khoán đến hộ công nhân và bán vườn cây của các nông trường. Đối với cây cao su, đến năm 2009, diện tích cao su tiểu điền chiếm khoảng 50,2% tổng diện tích cao su cả nước, tương đương 338.480ha. Do quy mô sản xuất nhỏ, vốn đầu tư ít, điều kiện kinh tế nhiều hộ nông dân còn nghèo nên công nghệ sau thu hoạch như phơi sấy, chế biến và bảo quản còn nhiều hạn chế, dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp.

- Cơ cấu giống cây trồng và con vật nuôi còn nhiều điểm chưa hợp lý dẫn tới cơ cấu sản phẩm nông nghiệp chưa hợp lý theo cả cung và cầu . Ví dụ như diện tích cà phê vối hiện nay chiếm tới 92,9% chủ yếu trồng bằng hạt, diện tích cà phê chè chỉ đạt trên 31 nghìn ha, chiếm khoảng 7%  trong khi nhu cầu tiêu dùng thì chủ yếu tập trung vào cà phê chè. Hiện tượng này diễn ra tương tự với nhiều loại cây trồng và vật

26

Page 27: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

nuôi khác. Cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi còn thiếu đa dạng, tồn tại nhiều giống cây cho hiệu quả và năng suất còn thấp, nhiều giống vật nuôi có chất lượng kém hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước.

- Năng suất lao động chưa cao, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng cạnh tranh  yếu do đó chưa hình thành được các chuỗi giá trị nông sản mạnh và bền vững. Mặc dù năng suất lao động của ngành nông nghiệp có tăng trong nhiều năm trở lại đây, tuy nhiên, theo báo cáo khoa học ngành nông nghiệp Việt Nam 2011-2015 (Bộ NN và PTNT) thì năng suất lao động bình quân của ngành nông nghiệp ở nước ta chỉ bằng 0,16% đến 0,22% so với ngành công nghiệp từ năm 2006 đến nay. Chất lượng sản xuất thấp cũng  là một trong những vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Do chất lượng sản xuất thấp dẫn đến giá trị xuất khẩu không cao, làm giảm thu nhập cũng như hiệu quả lao động của người nông dân, làm giảm hiệu quả khai thác đất đai và các tài nguyên khác. Theo thông báo mới nhất của ICO (tổ chức cà phê thế giới) tỷ lệ cà phê dưới chuẩn CQP của Việt Nam lên đến 75% trong khi Indonesia chỉ ở mức 9%. Đây cũng là lý do khiến tỷ lệ cà phê của Việt Nam bị loại ở sàn giao dịch Liffe năm 2008 lên tới 60%. Mặc dù là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa xuất khẩu gạo có thương hiệu mạnh, giá gạo của Việt Nam vẫn luôn duy trì ở mức thấp hơn so với giá gạo tương đương của Thái Lan. Người nông dân phần lớn vẫn chú trọng nâng cao năng suất hơn là chất lượng sản phẩm. Khi giá lên cao, để đạt được năng suất tối đa, người trồng cà phê sẵn sàng sử dụng phân hóa học, nước tưới, thuốc bảo vệ thực vật với mức cao hơn mức khuyến cáo, tiết giảm các loại cây che bóng mát, hái cà phê quả xanh hoặc hái lẫn quả xanh quả chín để tăng cao sản lượng. Cà phê hái về ủ đống chờ đủ lượng mới đổ ra phơi trên sân đất gây nên tình trạng cà phê bị ủ, phơi lâu khô, nhiễm nấm mốc trong khi phơi,… Tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với các loại cây trồng khác.

- Thị trường thiếu ổn định, còn nhiều yếu tố bất ổn trong quá trình sản xuất, tiêu thụ đặc biệt là vấn đề giá cả. Bên cạnh những yếu tố rủi ro về thời tiết, mùa vụ, trong một nền nông nghiệp hàng hóa thì người nông dân lại phải đối mặt nhiều hơn với các rủi ro về thị trường giá cả, cung cầu cả đầu vào và đầu ra. Do các yếu tố về cung cầu không ổn định, dẫn đến sự biến động về giá trở nên phức tạp và khó đoán trước, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người nông dân. Đặc biệt là đối với trường hợp của Việt Nam, khi các mặt hàng nông sản của chúng ta chưa làm chủ được thị trường thì sự thụ động về mặt cung cầu càng tăng lên, đồng nghĩa với việc rủi ro về giá cả càng trở nên nghiêm trọng đối với người nông dân. Sự khó khăn về vốn, sự yếu kém về kỹ thuật trong các khâu phơi sấy, bảo quản dẫn đến người nông dân không làm chủ được thời điểm tiêu thụ, buộc phải bán ngay cả vào thời điểm giá thấp. Sự bất ổn về giá còn có nguyên nhân xuất phát từ chính người nông dân. Khi giá một loại nông sản tăng lên trong một năm thì ngay mùa vụ sau, người nông dân lại đổ xô đi trồng hoặc chăn nuôi loại nông sản đó, dẫn đến nguồn cung tăng đột biến, giá thành lập tức hạ xuống.

Một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế còn tồn tại trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay:

Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch chưa được thực hiện tốt, thiếu những chiến lược và giải pháp nhằm quy hoạch ổn định, lâu dài đối với từng cây, con, sản xuất phần nào còn mang tính phong trào tự phát gây ảnh hưởng tiêu cực đối với các nguồn tài nguyên, đặc biệt là nguồn nước. Ví dụ như đối với cây cà phê, mặc dù Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 150/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp và thủy sản cả nước đến năm 2015

27

Page 28: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

và tầm nhìn 2020, quy mô cà phê cả nước duy trì từ 450.000 đến 500.000 ha, nhưng thực tế hiện nay cả nước có khoảng trên 525.000 ha, nhiều diện tích trồng mới không nằm trong vùng quy hoạch, chủ yếu là trồng trên những nơi không thích hợp với đặc điểm sinh lý, sinh thái của cây cà phê, do đó không những không đủ bù đắp sản lượng thiếu hụt của những diện tích ca phê già cỗi mà còn đe dọa trực tiếp đến tính bền vững của những diện tích cà phê còn lại do môi trường bị hủy hoại. Theo số liệu của ngành nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk, diện tích cà phê ở đây có lúc lên tới 270.000ha, trong đó có đến hơn một nửa phải tưới bằng nguồn nước ngầm. Tình trạng khai thác nước ngầm quá mức để phục vụ tưới nước cho cây cà phê, không tuân thủ theo đúng quy trình đã dẫn đến hiện tượng chẩy tầng, tụt mạch nước ngầm. Theo điều tra, khảo sát của Đoàn quy hoạch và điều tra tài nguyên nước 704 thì lượng nước ngầm hiện đã sụt xuống từ 3 đến 5m, những địa bàn có nguồn nước ngầm giảm mạnh đều rơi vào các địa phương đã “cơ bản phá xong rừng”. Ngay cả đối với ngành chế biến nông sản, tuy phát triển nhanh nhưng chủ yếu là tự phát thiếu quy hoạch và tầm nhìn chiến lược, phân tán, thiếu liên kết, chưa tiếp cận đầy đủ nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất chế biến.

Việc thiếu quy hoạch hợp lý trong sản xuất cũng dẫn đến hoạt động sản xuất mất cân đối, chạy theo thị trường nhiều hơn là đón trước thị trường, do đó, rủi ro về giá cả, tiêu thụ đối với người nông dân lại càng tăng lên.

Cũng do thiếu công tác quy hoạch nên quy mô sản xuất manh mún, khó hình thành các vùng sản xuất tập trung, do đó, việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật hiện đại cũng trở nên khó khăn hơn.

Điều kiện khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất nông nghiệp vẫn ở mức thấp. Các biện pháp canh tác, thu hoạch còn nhiều bất cập. Điều kiện phơi sấy, sơ chế, chế biến và bảo quản còn nhiều hạn chế. Trong quá trình sản xuất vẫn còn nhiều khâu người nông dân thực hiện một cách thủ công dẫn đến năng suất lao động không cao. Việc nghiên cứu đưa vào sản xuất các giống cây, con mới cho năng suất chất lượng cao vẫn còn hạn chế.

Chưa hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản và vật tư nông nghiệp. Tình trạng tồn đọng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh trong nông sản vẫn đang tồn tại phổ biến mà chưa có các biện pháp xử lý. Thiếu các biện pháp kiểm soát chất lượng dẫn đến chất lượng nông sản bị thả nổi, tỷ lệ sản phẩm có chất lượng thấp còn rất cao, không được phân loại dẫn tới giá thành sản phẩm thấp và khó chiếm lĩnh được thị trường. Đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay, khi các hàng rào thuế quan hầu như không còn được áp dụng theo các quy định về bảo hộ thương mại của WTO, các hàng rào về tiêu chuẩn chất lượng lần lượt được các nước dựng lên như một biện pháp bảo vệ hữu hiệu sản xuất nông nghiệp trong nước. Việc chưa hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản hiệu quả vừa gây khó quản lý và nâng cao chất lượng nông sản trong nước vừa gây thiệt thòi cho ngành nông nghiệp trong nước do không được áp dụng biện pháp bảo hộ hợp lý.

Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển sản xuất nông sản quy mô lớn, nhất là ở các vùng miền núi, đặc biệt là giao thông, thủy lợi, thông tin liên lạc… Vẫn còn 5% số xã chưa có đường ô tô, 28% xã chưa có trạm bưa điện và 17% trụ sở xã chưa có điện thoại, 11% xã chưa có điện và 90% xã chưa có trường phổ thông, 40% dân sống ở nông thôn chưa có nước sạch sinh hoạt. Ngay cả đối với hệ thống thủy lợi được đầu tư lớn, nhưng hiệu quả sử dụng thấp và quản lý yếu. Cơ sở hạ tầng tại các vùng nông thôn chậm được xây dựng và nâng cấp gây khó khăn cho sản

28

Page 29: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

xuất nông nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nông thôn. Có tới 21% doanh nghiệp nông thôn cho rằng chất lượng giao thông nông thôn còn rất kém và là vấn đề nghiêm trọng cản trở phát triển.

Khó khăn về vốn cho phát triển sản xuất. Trong khi đa số hộ nghèo tập trung ở nông thôn và hầu hết người dân sống ở nông thôn có thu nhập thấp thì vốn cho phát triển sản xuất là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Do không có vốn, người nông dân không thể mở rộng sản xuất cũng như không thể đầu tư áp dụng các phương thức sản xuất tiên tiến, từ đó dẫn tới không thể nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất. Việc thiếu vốn cũng dẫn tới người nông dân bị thụ động trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, bị thương lái ép giá. Tính tới cuối năm 2008, tổng dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn đạt 248.000 tỷ đồng, tăng 15,1% so với năm 2007 nhưng chỉ chiếm 20% so với tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Người nông dân không tiếp cận được với nguồn vốn từ khu vực tài chính chính thức do thủ tục vay ngân hàng còn rườm rà trong khi giá trị khoản vay thấp, dẫn tới chi phí vay cao. Hơn nữa, các yêu cầu cho vay từ phía các ngân hàng là khá chặt chẽ, thông thường đòi hỏi có tài sản thế chấp (mà chủ yếu là bất động sản) nên người nông dân không thể vay được do không có tài sản thế chấp. Do đó, người nông dân thường phải chấp nhận vay từ khu vực phi chính thức với lãi suất cao hơn là tiếp cận các ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của hệ thống ngân hàng cũng chưa có một hệ thống đánh giá rủi ro hợp lý để có thể tiến hành các hoạt động cho vay vi mô, bản thân các ngân hàng cũng không muốn mở rộng cho người nông dân vay do hoạt động sản xuất của họ mang nhiều yếu tố rủi ro dẫn tới nguy cơ mất khả năng thanh toán.

  Trình độ văn hóa và mặt bằng dân trí ở khu vực nông thôn còn thấp. Đây là một rào cả đáng lo ngại. Thực tế cho thấy tình trạng đói nghèo đi liền với trình độ dân trí thấp do đó một phần nguyên nhân hạn chế sản xuất nông nghiệp phát triển xuất phát từ chính người nông dân, do họ không chịu sử dụng các giống cây trồng vật nuôi mới, bảo thủ và chậm tiếp cận đối với các phương thức canh tác, chăn nuôi, chậm tiếp nhận các quy luật cung cầu thị trường dẫn tới sản xuất hàng hóa chất lượng thấp, không phù hợp với nhu cầu của thị trường.

Mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu thụ còn yếu. Gắn liền sản xuất với tiêu thụ chính là yêu cầu cơ bản của một nền sản xuất hàng hóa. Người nông dân hiện nay hầu hết vẫn thụ động trong khâu tiêu thụ sản phẩm mà phụ thuộc chủ yếu vào thương lái dẫn tới thường xuyên bị ép giá. Cũng do không có sự gắn kết giữa sản xuất và tiêu thụ, dẫn tới khâu sản xuất không nhận được các tín hiệu về nhu cầu của thị trường mà thông thường do quá trình tiêu thụ mang lại nên sản xuất không đúng cái thị trường cần, quá trình tiêu thụ sản phẩm càng trở nên khó khăn hơn. Vấn đề thúc đẩy mối liên kết “4 nhà” (Nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp và Nhà nước) đã được đặt ra nhưng chưa đạt được hiệu quả.

Bên cạnh những nguyên nhân trên, còn tồn tại nhiều yếu tố vĩ mô gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp như: sự biến động của kinh tế thế giới dẫn tới cầu tiêu thụ giảm sút mạnh mẽ, diện tích đất đai cho sản xuất nông nghiệp giảm do quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hóa, thiên tai và biến đổi khí hậu toàn cầu,…

Có thể thấy các khó khăn đang tồn tại đối với sản xuất nông nghiệp có mối quan hệ đan xen, tác động lẫn nhau. Do khả năng tiếp cận vốn khó khăn, không có đủ vốn cho sản xuất, người nông dân không thể mở rộng sản xuất cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất, dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao. Điều này lại đẩy

29

Page 30: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

người nông dân tới chỗ phải chịu thiệt thòi trong tiêu thụ sản phẩm, không thu lại được tiền đầu tư cũng như không có lợi nhuận sản xuất, từ đó càng trở nên khó khăn hơn về vốn. Cũng do không có vốn, người nông dân phải bán sản phẩm đi ngay khi thu hoạch. Do nhiều người bán cùng một lúc dẫn tới nguồn cung tăng đột biến, giá nông sản giảm và người nông dân dễ bị thương lái ép giá. Những lý do đó tạo thành một vòng quay luẩn quẩn khiến cho việc giải quyết những khó khăn đối với sản xuất nông nghiệp hiện nay trở nên khó hơn và không chỉ nằm trong tay người nông dân.

2. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay:

- Chính phủ cần sớm xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển tổng thể đối với các phân ngành nông nghiệp, đặc biệt là đối với các ngành có ưu thế, tạo ra nhiều giá trị xuất khẩu như sản xuất gạo, cà phê, cao su, chè, nuôi trồng và chế biến thủy sản, trên cơ sở đó từng địa phương phải chỉ đạo kiên quyết, không để tồn tại các hiện tượng phát triển ngoài quy hoạch. Đồng thời Chính phủ cũng cần có các biện pháp hỗ trợ người nông dân thông qua các ưu đãi về sử dụng đất, tín dụng đầu tư,…

- Xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng nông thôn. Đặc biệt cần chú trọng đầu tư vào hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch. Bên cạnh việc sử dụng vốn nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng nông thôn, còn có thể kêu gọi sự tài trợ từ các tổ chức, dự án quốc tế, đặc biệt là cần huy động sức mạnh từ trong chính cộng đồng người dân sống ở nông thôn, kết hợp nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng nông thôn.

- Tăng cường công tác trồng rừng và bảo vệ rừng. Việc duy trì diện tích rừng có ý nghĩa đặc biệt trong việc bảo tồn các điều kiện thiên nhiên khí hậu và đất đai cho sản xuất nông nghiệp.

- Đầu tư cho nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật, tăng cường các giải pháp kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát triển giống cây trồng vật nuôi, phát triển các biện pháp thâm canh, nuôi trồng mới cho năng suất, chất lượng cao hơn. Đặc biệt hoạt động nghiên cứu phải gắn liền với sản xuất, rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết khoa học và hoạt động sản xuất thực tế.

- Tăng cường công tác khuyến nông để có thể đưa giống cây trồng và vật nuôi mới có năng suất chất lượng cao hơn đi vào sản xuất. Phổ biến các phương pháp canh tác, chăn nuôi, các biện pháp thu hoạch bảo quản hiện đại, hiệu quả đến người nông dân để nâng cao chất lượng sản phẩm. Phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế sinh thái VACR để cải thiện đời sống nông dân.

- Nâng cao dân trí cho vùng nông thôn. Phát triển thêm hệ thống trường học, nâng cao chất lượng trường lớp tại các vùng nông thôn. Đẩy mạnh công tác khuyến nông, hướng dẫn và đào tạo ngắn hạn cho người nông dân. Tăng cường công tác đào tạo cho đội ngũ khuyến nông và nâng cao chất lượng hệ thống cán bộ quản lý tại các vùng nông thôn.

- Đẩy mạnh tạo lập thương hiệu cho hàng hóa nông sản Việt Nam. Đối với các ngành sản phẩm tạo ra giá trị xuất khẩu cao, đã chiếm lĩnh được vị thế trên thị trường thế giới, cần tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm để duy trì và nâng cao thương hiệu hàng hóa. Nhà nước và doanh nghiệp cùng phối hợp trong việc quảng

30

Page 31: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

bá hình ảnh nông sản Việt Nam đến người tiêu dùng thế giới, có thể lồng ghép trong các hoạt động quảng bá du lịch. Tăng cường tham gia các sàn giao dịch nông sản quốc tế. Người nông dân cũng phải tham gia quá trnh tạo lập thương hiệu bằng cách tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình đảm bảo chất lượng sản phẩm. Chỉ những sản phẩm có chất lượng thực sự tốt mới có hình thành thương hiệu và định vị lâu dài trên thị trường quốc tế. Việc tạo lập thương hiệu cho hàng hóa nông sản cần có sự tham gia phối hợp của cả người nông dân, doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề và các cơ quan quản lý Nhà nước.  

- Hình thành mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ, thúc đẩy hơn nữa mối liên kết “4 nhà”, đặc biệt là mối liên kết giữa nhà nông và doanh nghiệp. Cần xây dựng các mô hình tổ chức quản lý từ khâu trồng trọt, chăn nuôi đến khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ tạo thành một chu trình khép kín hợp lý, giúp người nông dân có thể liên minh với doanh nghiệp, sử dụng nhiều biện pháp như ký gửi để có thể tiêu thụ theo kế hoạch, lưu trữ sản phẩm để bán khi có giá cao.

- Xây dựng và phát triển các sàn giao dịch hàng hóa nông sản tập trung là đầu mối để người nông dân tiếp cận thị trường cũng như các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn sản xuất, giảm thiểu các khâu trung gian. Trên cơ sở phát triển của các sàn giao dịch tập trung còn có thể hình thành thị trường các tài sản phái sinh như hợp đồng giao sau, tăng cường cơ hội lựa chọn cũng như tính ổn định trong khâu tiêu thụ hàng hóa cho người nông dân.

- Tạo điều kiện tiếp cho người nông dân tiếp cận vốn thông qua phát triển thị trường tài chính nông thôn. Xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính nông thôn, phát triển mạng lưới các tổ chức tài chính cung cấp sản phẩm tín dụng nông nghiệp nông thôn, xây dựng và phổ biến các tiêu chuẩn đánh giá, thẩm định trong quá trình cấp tín dụng nông nghiệp, nông thôn từ đó giảm thiểu các yêu cầu, thủ tục cho người nông dân. Phát triển các sản phẩm tài chính như là chứng chỉ lưu kho, hợp đồng giao sau để cho phép người nông dân có tài sản thế chấp khi tiếp cận nguồn chính thức. Tăng cường vốn cho vay nông nghiệp bằng cách huy động nguồn tiền tiết kiệm từ chính khu vực nông thôn thông qua đa dạng hóa các loại tiền gửi tiết kiệm.

- Nâng cao vai trò của các hiệp hội và của hội nông dân Việt Nam. Các hiệp hội ngành nghề (hiệp hội cao su, hiệp hội cà phê,…) đóng vai trò quan trọng làm cầu nối giữa người nông dân với các cơ quan chức năng, phản ánh nhu cầu của người nông dân đến cơ quan quản lý, đồng thời định hướng người nông dân phát triển theo định hướng chung của Chính phủ. Hội nông dân cần tăng cường bảo vệ lợi ích cho người nông dân, và thúc đẩy xây dựng nông thôn mới.

3. Phát triển thị trường tài chính nông thôn, tạo nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp nông thôn

Từ những nghiên cứu trên cho thấy, những khó khăn đối với phát triển khu vực nông nghiệp hiện nay có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề quan trọng cần có sự quan tâm giải quyết nhanh chóng. Việc tháo gỡ nút thắt về vốn còn có thể là đầu mối để giải quyết nhiều vấn đề khác như: người nông dân chủ động được vốn trong sản xuất kinh doanh nên họ có thể áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tốt hơn từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản, đồng thời họ có thể chủ động thời điểm tiêu thụ hàng hóa, tránh tình trạng “bán lúa non” để trang trải nợ, từ đó giảm thiểu các rủi ro về giá,v.v…

31

Page 32: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Cơ cấu luồng vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn hiện nay bao gồm: vốn từ ngân sách nhà nước, vốn từ các định chế tài chính hoạt động trên thị trường tài chính nông thôn, vốn đầu tư nước ngoài, vốn tự có của các doanh nghiệp và người nông dân. Vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp hiện nay mới chỉ đáp ứng được khoảng 17% nhu cầu của khu vực nông nghiệp và chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chưa tương xứng với tỉ trọng đóng góp vào GDP của ngành này. Vốn tự có của các doanh nghiệp và người nông dân thì quá nhỏ so với tổng nhu cầu vốn. Do đó, nguồn vốn từ các định chế tài chính đóng vai trò chủ lực thúc đẩy khu vực nông nghiệp nông thôn phát triển trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, dòng vốn này hiện có suất đầu tư thấp, chưa phù hợp với nhu cầu vốn của một đơn vị diện tích cây, con dẫn tới việc đầu tư còn manh mún phân tán. Cơ chế tín dụng, thanh toán, sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khu vực nông nghiệp nông thôn còn thiếu sự linh hoạt, năng động, chưa đa dạng, phong phú, cơ chế bảo đảm tiền vay chưa thực sự thuận lợi đối với người vay. Tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng cho khu vực này còn rất nhỏ so với nhu cầu và tiềm năng phát triển. 

Xét trên bình diện toàn xã hội thì lượng vốn đầu tư đổ vào khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn hiện còn rất hạn chế, và một điểm đáng lưu ý là tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực này đang có xu hướng giảm dần từ năm 2007 cho tới nay, trong khi vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng tăng. Luồng vốn đầu tư dành cho khu vực nông nghiệp nông thôn là chưa tương xứng nhu cầu và khả năng tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế của khu vực này. Chính vì vậy, để phá vỡ các rào cản, khơi thông các dòng vốn cho kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam thì cần thiết phải có những định hướng tổng thể trong việc phát triển thị trường tài chính nông thôn hiệu quả và lành mạnh.

Thị trường tài chính nông thôn Việt Nam hiện nay vẫn ở giai đoạn phát triển sơ khai trên cơ sở gắn kết các đặc điểm kinh tế xã hội của khu vực nông nghiệp nông thôn và thị trường tài chính Việt Nam với các biểu hiện như: chủ thể tham gia thị trường còn hạn chế, các hoạt động dịch vụ còn đơn điệu, chưa có sản phẩm thiết kế chuyên biệt cho khu vực nông thôn, năng lực tài chính và mức độ bền vững về hoạt động còn nhiều bất cập, mức độ ảnh hưởng và tính chuyên nghiệp của các tổ chức tài chính vi mô còn hạn chế. Việc phát triển thị trường này hiện nay cũng gặp phải không ít rào cản như: Kinh tế khu vực nông thôn kém phát triển, trình độ dân trí thấp,… Củng cố và phát triển hệ thống tài chính khu vực nông thôn để nâng cao tính lành mạnh và hiệu quả, giảm thiểu rủi ro tốt nhất để đạt được mục tiêu hoạt động an toàn và phát triển bền vững cho các tổ chức tín dụng trên thị trường tài chính nông thôn cũng là những thách thức lớn.

Tuy nhiên, những khó khăn và rào cản đó không thể cản trở xu hướng phát triển ngày càng sôi động của thị trường tài chính nông nghiệp. Trên thực tế, trong thời gian qua Chính phủ và NHNN đã có rất nhiều các giải pháp để thúc đẩy thị trường tài chính nông thôn phát triển. Bên cạnh các giải pháp đang thực hiện, nên chăng thực hiện thêm một số giải pháp để khắc phục các rào cản trên, cụ thể là:

Chính phủ hỗ trợ mua bảo hiểm rủi ro nông sản cho nông dân: Chính phủ hỗ trợ cho ngươi nông dân mua bảo hiểm rủi ro giá cả, mất mùa, thiên tai cho các sản phẩm nông nghiệp, thay vì hỗ trợ người nông dân vay với lãi suất thấp.

32

Page 33: Tieu luan dia li kinh te nong lam ngu nghiep

Một thị trường tài chính phát triển, nguồn vốn chỉ có thể phân bổ hợp lý khi chi phí vốn gắn với cung cầu vốn trên thị trường. Do vậy, cần có lộ trình giảm dần các khoản lãi suất ưu đãi, xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý trên địa bàn nông thôn.

Củng cố, phát triển thị trường tài chính cần dựa trên cơ sở tích tụ và tập trung vốn của các chủ thể kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn một cách tự nguyện. Do vậy, cần phát triển đa dạng các định chế tài chính, nhất là các định chế tài chính vi mô. Khuyến khích các NHTM ở rộng các hoạt động tài chính vi mô để bao phủ toàn bộ khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; đưa ra các sản phẩm huy động vốn phù hợp với tâm lý và đặc điểm kinh tế nông nghiệp nông thôn.

Phát triển và từng bước hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và hệ thống thông tin, đảm bảo cho các hoạt động của thị trường tài chính được vận hành thông suốt, đáp ứng được các yêu cầu về thông tin để quản lý và điều hành có hiệu quả thị trường tài chính.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý và giám sát thị trường, đảm bảo cho thị trường hoạt động lành mạnh, an toàn có hiệu quả, có chế tài đủ mạnh để duy trì trật tự hoạt động của thị trường trong khuôn khổ pháp luật, bảo vệ được các chủ thể tham gia thị trường, tạo sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế tiếp cận như nhau nguồn vốn tín dụng.

Các định chế tài chính đang hiện hữu tại thị trường nông thôn hiện nay cần có những đổi mới mạnh mẽ, trong quản trị điều hành, không ngừng cải thiện năng lực tài chính, năng lực hoạt động,.. để tạo khả năng tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình trên địa bàn nông thôn.

Khuyến khích các TCTD mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn để có những tư vấn hướng dẫn cho khách hàng trong việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đảm bảo được hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng như hiệu quả đồng vốn vay của chính TCTD.

Đẩy mạnh việc phát triển các mô hình hoạt động có hiệu quả cũng như các sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro cho các chủ thể kinh tế, các TCTD và các định chế tài chính khác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

33