34
LỜI MỞ ĐẦU Dân ca là sáng tạo nghệ thuật của nhân loại. Qua nhiều thế hệ, các làn điệu dân ca được tương truyền và tồn tại trong đời sống tinh thần của nhân dân lao động. Dân ca là những hạt ngọc quý giá, là hồn cốt của mỗi dân tộc. Việt Nam là một đất nước có nền âm nhạc truyền thống vô cùng phong phú, nét đẹp truyền thống ấy vẫn được giữ gìn cho đến ngày nay. Âm nhạc truyền thống kết hợp với âm nhạc hiện đại phương Tây là thủ pháp sáng tác khá phổ biến của các nhạc sĩ trong những ngày đầu của nền tân nhạc Việt Nam. Thời kỳ này, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã viết một tiểu phẩm cho Piano có tiêu đề “Trống Tràng Thành”. Trong tác phẩm này, ông không sử dụng hợp âm theo kiểu châu Âu, mà thực hiện lối chồng âm theo điệu thức ngũ cung Việt Nam 1 . Nhạc sĩ Thái Thị Lang, một trong những nghệ sĩ Piano đầu tiên của Việt Nam cũng đã sáng tác “Tuyển tập cho Piano”, chủ đề âm nhạc trong các tác phẩm ở tuyển tập này hầu hết được phát triển từ chất liệu âm nhạc cổ truyền và các làn điệu dân ca đặc trưng của Việt Nam. Với 88 phím, Piano có khả năng thể hiện các sắc thái trong tác phẩm âm nhạc khá linh hoạt và nhạy bén, kể cả hệ thống bảy âm cơ bản trong âm nhạc phương Tây đến 1 Trích “Âm nhạc mói Việt Nam – Tiến trình và thành tựu” (Viện Âm nhạc – 2000). 1

TIỂU LUẬN TC 3

Embed Size (px)

Citation preview

LỜI MỞ ĐẦU

Dân ca là sáng tạo nghệ thuật của nhân loại. Qua nhiều thế hệ, các làn điệu dân ca được tương truyền và tồn tại trong đời sống tinh thần của nhân dân lao động. Dân ca là những hạt ngọc quý giá, là hồn cốt của mỗi dân tộc. Việt Nam là một đất nước có nền âm nhạc truyền thống vô cùng phong phú, nét đẹp truyền thống ấy vẫn được giữ gìn cho đến ngày nay.

Âm nhạc truyền thống kết hợp với âm nhạc hiện đại phương Tây là thủ pháp sáng tác khá phổ biến của các nhạc sĩ trong những ngày đầu của nền tân nhạc Việt Nam. Thời kỳ này, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã viết một tiểu phẩm cho Piano có tiêu đề “Trống Tràng Thành”. Trong tác phẩm này, ông không sử dụng hợp âm theo kiểu châu Âu, mà thực hiện lối chồng âm theo điệu thức ngũ cung Việt Nam 1. Nhạc sĩ Thái Thị Lang, một trong những nghệ sĩ Piano đầu tiên của Việt Nam cũng đã sáng tác “Tuyển tập cho Piano”, chủ đề âm nhạc trong các tác phẩm ở tuyển tập này hầu hết được phát triển từ chất liệu âm nhạc cổ truyền và các làn điệu dân ca đặc trưng của Việt Nam.

Với 88 phím, Piano có khả năng thể hiện các sắc thái trong tác phẩm âm nhạc khá linh hoạt và nhạy bén, kể cả hệ thống bảy âm cơ bản trong âm nhạc phương Tây đến điệu thức năm âm trong âm nhạc dân tộc Việt. Từ đó, các nhạc sỹ bắt đầu kết hợp những tính năng trên của Piano để viết phần đệm cho các bài dân ca Việt Nam.

Tuyển tập “Trống Cơm” là một trong số nhiều các tuyển tập bài hát dân ca Việt Nam có sử dụng phần đệm Piano, được biên soạn bởi hai nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc và nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng. Tuyển tập gồm 10 bài dân ca của dân tộc các vùng miền được nhiều người biết đến.

Trong khuôn khổ của một tiểu luận trung cấp năm thứ 3, được sự đồng ý của giảng viên hướng dẫn, chúng tôi chọn đề tài: “Phần đệm Piano trong tuyển tập Trống Cơm” với mong muốn tìm hiểu lịch sử ra đời và phát triển Piano, thân thế sự nghiệp của hai nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc; Nguyễn Đình Bảng cùng thủ pháp biên soạn phần đệm Piano cho dân ca Việt Nam.

1 Trích “Âm nhạc mói Việt Nam – Tiến trình và thành tựu” (Viện Âm nhạc – 2000).

1

Tiểu luận của chúng tôi ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục gồm 3 mục:

Mục 1: Đàn Piano trong nền âm nhạc hiện đại Việt Nam.

Mục 2: Giới thiệu thân thế sự nghiệp của nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc và Nguyễn Đình Bảng.

Mục 3: Tìm hiểu phần đệm Piano trong tuyển tập “Trống Cơm”.

Tiểu luận của chúng tôi chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu và cảm nhận về phần đệm Piano trong tuyển tập “Trống Cơm” chứ không đi sâu phân tích hay so sánh phẩn đệm của các bài dân ca.

Do trình độ viết và kiến thức học thuật còn giới hạn nên tiểu luận học kỳ này của chúng tôi khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý thầy cô chỉ bảo để những bài tiểu luận sau được tốt hơn.

Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô khoa Sáng tác – Chỉ huy – Âm nhạc học, đặc biệt xin gửi lời cảm ơn đến Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Hà, người đã giảng dạy và hướng dẫn tôi hoàn thành bài tiểu luận này.

MỤC I: ĐÀN PIANO

TRONG NỀN ÂM NHẠC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

2

1. Giới thiệu đàn Piano:

Piano là tên một nhạc khí phương Tây thuộc loại có bàn phím (keyboard), nhạc cụ gõ (percussion) hay nhạc cụ dây (string), tùy thuộc vào cách thức phân loại. Ra đời vào năm 1700, Piano được xây dựng và phát triển dựa trên tiền thân của nó, đó là đàn Clavico Clavecin (harpsichord) bởi Bartolomeo Cristofori. Trong thời gian đó, những thiết kế mới cho Piano của ông vẫn chưa được quan tâm chú ý, mãi đến những năm cuối 1700 khi ông xuất bản thiết kế của mình, nhà sản xuất người Đức Gottfried Silbermann cùng hai học trò bắt đầu phát triển cây đàn Piano với vai trò là một nhạc khí độc lập với Clavecin. Sau những lần nâng cấp và hoàn thiện, Piano cổ điển bắt đầu được sản xuất hàng loạt vào những năm 1800. Đàn Piano tạo ra âm thanh bằng cách gõ những chiếc búa bọc nỉ vào các sợi dây đồng. Âm vực của Piano ban đầu chỉ có bốn, hay nhiều nhất là năm quãng tám giống như ở đàn harpsichord, nhưng dần dần nó đã được mở rộng tới nay là chín quãng tám với 88 phím đàn vì những thay đổi cấu trúc đàn đã cho phép lực căng tăng lên tới vài tấn.

Bộ phận búa gõ và dây đàn bên trong 2

Hiện nay trên thế giới vẫn còn tồn tại ba trong số hai mươi đàn Piano do Cristofori tạo nên: một được thực hiện vào năm 1720; có bốn quãng tám; đặt tại Viện bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, (New York), một được thực hiện năm 1722; tại Rome (Ý) và một được thực hiện năm 1726; bốn quãng tám rưỡi, tại Leipzig (Đức).

2 Ảnh từ Internet: http://translate.google.com.vn/translate

3

Lyre Piano (Berlin, khoảng 1840) tại Bảo tàng Dụng cụ âm nhạc Berlin3

Đàn piano được sử dụng rộng rãi trong âm nhạc phương Tây cho biểu diễn độc tấu, âm nhạc thính phòng và nhạc đệm. Nó cũng rất phổ biến với vai trò một phương tiện trợ giúp cho sáng tác và diễn tập. Mặc dù không thể mang vác và giá thành đắt đỏ, sự đa dụng và hiện diện khắp nơi của nó đã khiến nó nằm trong số những nhạc cụ quen thuộc nhất.

3 Ảnh từ Interner: http://translate.google.com.vn/translate

4

2. Vai trò của Piano trong nền âm nhạc hiện đại Việt Nam:

Những năm đầu thế kỷ XX, Piano đã xuất hiện ở Việt Nam chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn… Là một nhạc cụ được cho là của giới “quý tộc” nên Piano thường phổ biến ở những tầng lớp thượng lưu, giàu có ở Việt Nam. Những nghệ sĩ đầu tiên tiếp cận được với nhạc cụ này đó là hai chị em nghệ sĩ Piano nổi tiếng Thái Thị Lang và Thái Thị Liên. Các nhạc sĩ của nền tân nhạc Việt Nam thời kỳ này cũng được làm quen với Piano, đến khi trường âm nhạc Việt Nam (nay là Học Viện âm nhạc quốc gia Việt Nam) ra đời, Piano là một trong những bộ môn đầu tiên được đưa vào giảng dạy ở ngôi trường này. Là một nhạc cụ không mang tính phổ biến như các nhạc cụ phương Tây khác như Guitare, Mandoline…nhưng Piano luôn được đánh giá cao bởi những tính năng đa dạng cũng như hiệu quả âm thanh phong phú của nó. Bởi vậy, ngoài việc là một nhạc cụ độc tấu, Piano còn tham gia biểu diễn trong dàn nhạc và thể hiện phần đệm cho các tác phẩm âm nhạc từ thanh nhạc cho đến khí nhạc.

Có thể nói, các nhạc sĩ Việt Nam đã biết khai thác và tận dụng tối đa đàn Piano trong quá trình sáng tác của mình, từ việc viết các tác phẩm cho cây đàn này đến sử dụng nó cho phần đệm. Piano như là một nhạc khí không thể thiếu cho một nền âm nhạc chuyên nghiệp và nó thực sự là một nhạc cụ đóng vai trò rất quan trọng trong nền âm nhạc hiện đại Việt Nam.

Đã có rất nhiều tác phẩm khí nhạc thành công được viết riêng cho Piano của các nhạc sĩ như: Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Hữu Tuấn, Ca Lê Thuần… hoặc các tác phẩm viết cho Violin và Piano, Cello và Piano, Concerto cho Piano và dàn nhạc… của các nhạc sĩ như: Đàm Linh với “Bài ca chim ưng”, Hoàng Đạm “Vũ khúc Tây Nguyên”, Huy Du “Miền Nam quê hương ta ơi”, “Trở về đất mẹ” của Nguyễn Văn Thương, Concerto cho Piano và dàn nhạc của Quang Hải…

Ngoài các tác phẩm khí nhạc thì các tác phẩm thanh nhạc cũng luôn luôn có sự hiện hữu của Piano ở vai trò phần đệm. Có những tác phẩm thanh nhạc của Việt Nam khi vang lên cùng với tiếng đàn Piano đã đi vào lòng của đông đảo công chúng, nó đã trở thành một mối gắn kết mang tính hữu cơ không thể thiếu bởi tính hiệu quả của sự kết hợp này. Điều đó thể hiện rất rõ qua các bài hát mà khán giả

5

vẫn còn nhớ mãi như: “Xa khơi” (Nguyễn Tài Tuệ), “Việt Nam trên đường chúng ta đi” (Huy Du), “Bài ca hy vọng” (Văn Ký), “Ta tự hào đi lên” (Chu Minh)…

Trong nền âm nhạc hiện đại Việt Nam, Piano còn được sử dụng trong việc thể hiện phần đệm cho các bài dân ca. Đây là một sự sáng tạo của các nhạc sĩ Việt Nam thể hiện hướng đi với tiêu chí “dân tộc - hiện đại”, một sự kết hợp giữa âm nhạc phương Tây và âm nhạc dân tộc Việt Nam. Với sự kết hợp này, Piano đã làm cho các bài dân ca Việt Nam trở nên mới mẽ, gần gũi, dễ phổ cập hơn, là một sự thể nghiệm để các nhạc sĩ Việt Nam hướng đến một lối hòa âm mới cho nền âm nhạc hiện đại Việt Nam.

MỤC II: GIỚI THIỆU THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA NHẠC SỸ ĐẶNG HỮU PHÚC VÀ NGUYỄN ĐÌNH BẢNG.

6

♦ Sơ lược về nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc.

Ảnh nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc 4

1. Giới thiệu tác giả:

Nhạc Sỹ Đặng Hữu Phúc sinh ngày 1 tháng 7 năm 1953. Nguyên quán: Phú Thọ. Hiện là giảng viên bộ môn sáng tác tại nhạc viện Hà Nội.

Ông được học nhạc từ năm lên mười tuổi tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam và được đào tạo chính quy cả hai chuyên nghành: sáng tác và biểu diễn Piano. Ông đã chơi nhiều tác phẩm lớn viết chopiano như : Concerto No1 của P.Tchaikovsi, Concerto No.2 của S.Rakhmaninoff, Concerto No1 G-dur của M.Ravel, Concerto Cis moll của N.Rimsky-Korsakov, Sonate No23 (Appassionata) của L.V.Beethoven, Sonate No2 B-moll và Ballade No1 g-moll của F.Chopin, v.v...

Nhạc sĩ đã từng đi tu nghiệp ở Paris (Pháp) năm 1991-1992. Ông là nghệ sỹ dương cầm của Dàn nhạc giao hưởng quốc gia Việt Nam trong hơn hai mươi năm (1979-2002). Ông cũng đã từng độc tấu piano bản Sonate polyphonique (mà ông là tác giả) tại Liên Xô cũ năm 1988 (Liên hoan các nhạc sỹ trẻ các nước Xã hội Chủ nghĩa lần thứ nhất), và thu thanh bản nhạc này tại Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam (1978).

Hiện nay, Đặng Hữu Phúc giảng dạy bộ môn sáng tác ở Học viện âm nhạc quốc gia Hà Nội.

4 Ảnh từ Internet: https://www.google.com.vn/search

7

2/ Giới thiệu tác phẩm:

Nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc chuyên sáng tác các tác phẩm của mình ở hai mảng chính là: Thanh nhạc và Khí nhạc.

Một số tác phẩm ông viết cho piano như Suite và Sonate poly phonique đã được nghệ sĩ Đặng Thái Sơn biểu diễn cả trong và ngoài nước. Phong cánh sáng tác ở nhạc sĩ được thể hiện ở nhiều cách khác nhau. Từ Cổ điển cho tới nhạc Tiền phong (Avant-Garde).

Ở mảng khí nhạc, ông đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng như: bản Overture “Ngày hội” viết cho dàn nhạc giao hưởng; Tổ khúc (Suite) cho dàn nhạc giao hưởng “Ba bức tranh dân gian Việt Nam”; “Tuyển tập tác phẩm cho piano solo”; “Chùm hoa Việt Nam” cho piano solo; “Pizzicato Việt Nam” cho dàn nhạc dây, cùng các Tam tấu, Tứ tấu…

Ngoài mảng viết cho giao hưởng - thính phòng, ông còn viết hàng trăm ca khúc và Romances, đặc biệt là tập “Tuyển chọn 60 ca khúc Romances và ca khúc cho giọng hát và piano” là một tuyển tập viết cho thanh nhạc có đầy đủ cả phần piano (trong đó có nhiều ca khúc nổi tiếng được phổ biến rộng rãi như “Trăng chiều”, “Ru con mùa đông”, “Tôi vẫn hát”...) và tập mười bài viết cho hợp xướng không nhạc đệm Acapella. Ngoài ra, ông còn viết những tác phẩm với hình thức lớn hơn như hợp xướng và dàn nhạc. Tiêu biểu như bản giao hưởng - hợp xướng lớn “Đất nước” (thơ Nguyễn Đình Thi) (1973), tác phẩm “Ba bức tranh” (1974), “Tuyển chọn 20 bài Dân ca Việt Nam với phần đệm piano”, “Tác phẩm cho Hợp xướng không nhạc đệm” (10 bài), “Ba bức tranh” cho giọng Soprano và 2 piano…

Ông cũng đã tham gia viết nhạc cho nhiều phim truyện và nhiều vở diễn sân khấu như các phim nhựa: “Ngõ hẹp”, “Người đàn bà nghịch cát”, “Tưởng về hưu”, “Đêm Bến Tre”... Tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ mười ba tháng 12/2001, ông đã được trao hai giải âm nhạc xuất sắc nhất cho phim nhựa “Mùa ổi” và phim video “Nắng chiều”. Đặc biệt ông là người giành giải “Kim Tước” cho nhạc phim xuất sắc nhất tại liên hoan phim quốc tế Thượng Hải lần thứ tám tháng 6/2005.

Nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc là một nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên được vinh danh với giải thưởng cho nhạc phim “Một thời xa vắng” ở Thượng Hải và một số giải thưởng khác ở Cộng Hòa Pháp.

8

♦ Sơ lược về nhạc sỹ Nguyễn Đình Bảng.

Ảnh nhạc sỹ Nguyễn Đình Bảng 5

1/ Giới thiệu tác giả:

Nhạc sỹ Nguyễn Đình Bảng sinh ngày 27 tháng 12 năm 1942 ở Đạo Lý, Lý Nhân, Hà Nam. Trước đây, ông công tác tại Nhà xuất bản Âm nhạc và Băng đĩa (DIHAVINA). Trú quán tại Khu tập thể Nhà hát Chèo Việt Nam, Mai Dịch, Hà Nội.

Nguyễn Đình Bảng nguyên là nhạc công Đoàn Chèo Trung ương, tham gia biểu diễn phục vụ ở Trường Sơn, trên các sân khấu trong và ngoài nước. Sau khỏ tốt nghiệp Khoa Sáng tác Nhạc viện Hà Nội, ông về làm biên tập âm nhạc cho DIHAVINA đến khi nghỉ hưu.

2/ Giới thiệu tác phẩm:

Tuy trăn trở nhiều cho sáng tác, nhưng mãi đến năm 1987, sau khi bài hát Cơn mưa em bất chợt được quần chúng rộng rãi yêu thích, Nguyễn Đình Bảng mới được biết đến như một nhạc sĩ có phong cách của thời kỳ đổi mới. Từ đó, ông liên tục có những tác phẩm đáng chú ý như: Thời hoa đỏ (phỏng thơ Thanh Tùng), Hai nửa vầng trăng (phỏng thơ Hoàng Hữu), Mùa xuân về, Tuổi mới yêu, Khỏa trần

5 Ảnh từ Internet: https://www.google.com.vn/search

9

Trường Sơn… Đã có Album Audio Thời hoa đỏ, Khỏa trần Trường Sơn và Tuyển chọn ca khúc Nguyển Đình Bảng (Nxb Âm nhạc, 1995).

Nguyễn Đình Bảng đoạt nhiều giải thưởng âm nhạc: Giải Nhất và Giải Ba Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1994: Khỏa trần Trường Sơn và Tình quê (thơ Hàn Mặc Tử); Giải Nhì Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1995: Du thuyền sông Lam; Giải Ba ca khúc và khí nhạc Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1996: Ngôi sao biển và Ballade giao hưởng Thị Kính – Thị Màu.

Ông đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học – Nghệ thuật đợt II năm 2007.

MỤC III: TÌM HIỂU PHẦN ĐỆM PIANO TRONG TUYỂN TẬP

“TRỐNG CƠM”

I. Một số vấn đề khi viết phần đệm Piano cho các bài dân ca Việt Nam:

10

Piano là một nhạc cụ xuất xứ từ phương Tây và cũng tiêu biểu là loại nhạc cụ có âm thanh chuẩn mực và ổn định nhất, thể hiện rõ nét các âm diatonique và chromatique của âm nhạc phương Tây. Trong khi đó, âm nhạc dân tộc Việt Nam âm thanh không mang tính cố định, được thể hiện bằng cách nhấn nhá, luyến láy tạo nên hiệu quả riêng biệt thể hiện qua các thang âm, điệu thức của các vùng miền khác nhau. Khi so sánh những đặc điểm và tính chất trên giữa cây đàn Piano với nền âm nhạc dân tộc Việt Nam chúng ta đều thấy sự không tương đồng đó. Chính vì vậy, viết phần đệm Piano cho các bài dân ca Việt Nam là một công việc không hề đơn giản! Tuy nhiên, các nhạc sỹ Việt Nam vẫn biết kết hợp nhạc cụ này với phần đệm cho các bài dân ca Việt Nam bởi vì Piano là một nhạc cụ thể hiện một cách hoàn hảo nhất về mặt hòa âm cũng như tiết tấu. Việc viết phần đệm Piano cho dân ca Việt Nam là một cơ hội cũng như thử thách để các nhạc sỹ có thể thể nghiệm nhằm tạo nên hiệu quả mới mẽ, độc đáo và thú vị khi xây dựng một cầu nối giữa sự hòa quyện hơi thở của âm nhạc dân tộc Việt trên nền hòa âm của một nhạc cụ phương Tây. Đây có lẽ chưa phải là mẫu mực cho một mô hình tiêu biểu nhưng nó chính là sự khám phá, tìm tòi, hay xa hơn nữa là bước đệm trong việc tạo ra những quy luật cơ bản về mặt hòa âm cho các bài dân ca Việt Nam bởi đến nay, chúng ta vẫn chưa có một nền hòa âm cho âm nhạc dân tộc Việt. Bên cạnh đó, việc soạn phần đệm cho các bài dân ca Việt Nam cũng là một cơ sở để từ đó ta có thể lấy phần hòa âm của Piano để phối cho các dàn tộc khi biểu diễn… Như trên đã nói,viết phần đệm cho dân ca Việt Nam là một công việc không hể đơn giản bởi như chúng ta đã biết, âm nhạc dân tộc Việt Nam được xây dưng không tuân theo bất kỳ một nguyên lý nào của âm nhạc phương Tây cả về hòa âm, khúc thức, giọng điệu. Chính vì vậy, người viết phần đệm Piano cho các bài dân ca Việt Nam cần phải có một kiến thức khá đầy đủ về âm nhạc truyền thống Việt Nam, hiểu rõ được thang âm điệu thức của mỗi vùng dân ca trong cả nước. Đây là sự kết hợp của âm nhạc phương Đông và phương Tây, một sự kết hợp đòi hỏi tính sáng tạo đồng thời phải đảm bảo được yếu tố bản sắc và cả sự kế thừa. Nói đến phần đệm cho các tác phẩm thanh nhạc là phải nói đến hòa âm, trong khi đó hòa âm của phương Tây là hòa âm theo chiều dọc, còn âm nhạc truyền thống của Việt Nam, hòa âm được tính theo chiều ngang với những thang âm điệu thức ngũ cung. Chính vì vậy, các nhạc sỹ Việt Nam đã biết kết hợp hai yếu tố trên một cách khá

11

sáng tạo bằng cách dựa trên nền tảng của hòa âm cổ điển phương Tây, mặt khác cũng tạo nên những nét hòa âm mới mang màu sắc của âm nhạc dân tộc bằng cách sử dụng các chồng âm theo các quãng đặc trưng. Với những nét cơ bản như vậy, khi tìm hiểu về phần đệm cho Piano của các bài dân ca Việt Nam cũng là một sự tìm tòi và khám phá được một vài nét khá mới lạ, một sự sáng tạo của các nhạc sỹ Việt Nam khi biết kết hợp giữa tính hiện đại và dân tộc để làm phong phú cho nền âm nhạc của nước nhà.

II. Hòa âm phần đệm Piano:

Khi soạn phần đệm cho Piano, nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc và Nguyễn Đình Bảng đã kết hợp lối chồng âm của hòa âm cổ điển phương Tây và một lối chồng âm theo các điệu thức ngũ cung của Việt Nam, đặc trưng là các lối chổng âm theo quãng 2, quãng 4, quãng 5… Bài “Mưa Rơi” (dân ca Xá) được xây dựng theo thang âm:

Bài hát này ở giọng mi giáng trưởng (Es – dur). Đối với phần đệm trong bài, các nhạc sĩ đã kết hợp hợp âm ba mi giáng trưởng: mi giáng – sol – si giáng cùng với các thể đảo của nó. Một hợp âm khác cũng theo lối chồng âm đặc trưng của quãng 2 trưởng: si giáng – do, đó là các hợp âm fa – si giáng – do. Trong bài này, với lối sử dụng hợp âm như trên dẫu hòa âm vẫn chưa phong phú nhưng vẫn tạo được một màu sắc đặc trưng của phần đệm mà người nghe không cảm thấy chán.

Ví dụ 1: Mưa rơi (Dân ca Xá)

12

Lối chồng âm với quãng 2 trưởng, 2 thứ kết hợp với quãng 3 cũng được các nhạc sĩ sử dụng ở rất nhiều bài dân ca khác như bài “Trống Cơm”, “Đi Cấy”…Ví dụ 2: Trống Cơm (Dân ca Quan họ Bắc Ninh)

Với 3 dấu thăng, “Trống Cơm” xem như viết ở giọng la trưởng (A – dur). Bài hát được xây dựng dựa trên thang âm như sau:

Có thể nói quãng 4 đúng, quãng 5 đúng là những quãng đặc trưng cho âm nhạc dân tộc Việt Nam. Dựa trên tính đặc trưng đó, các nhạc sĩ đã viết phần đệm sử

13

dụng rất nhiều quãng 4, quãng 5 trong việc cấu tạo hợp âm cũng như sử dụng các nét giai điệu. Ví dụ ở bài “Trống Cơm”, giai điệu ở phần đệm tay trái là sự kết hợp quãng 4, quãng 5 tạo thành các hợp âm rải: la – mi – si – mi – la – mi, la – mi – fa – mi – si – mi hay các quãng: do – sol, si – mi…Ví dụ 3: Trống Cơm (Dân ca Quan họ Bắc Ninh)

Với thang âm trên nhưng vào đầu bài tác giả viết phần đệm lại sử dụng một hợp âm không theo màu sắc của giai điệu trưởng, đó là hợp âm với các chồng âm: fa – la – si – do – mi đảo 1. Chính sự sáng tạo này đã tạo nên cảm giác mới lạ về mặt hòa âm của phần đệm mà đáng lẽ như thông thường người viết phần đệm có thể sử dụng đây là hợp âm la trưởng (A).Ví dụ 4: Trống Cơm (Dân ca Quan họ Bắc Ninh)

14

Một cách viết phần đệm khác dành cho các bài dân ca đó là sử dụng mối tương quan giữa các quãng chồng lên nhau gồm quãng 2, quãng 3, quãng 4, quãng 5 thay vì sử dụng hợp âm theo lối “cột đèn” đặc trưng, điều này thể hiện rõ qua bài “Xe Chỉ Luồn Kim” (Dân ca quan họ Bắc Ninh). Vào đầu bài ở đoạn a, tác giả không sử dụng hợp âm làm phần đệm mà tạo nên các quãng nối tiếp nhau thành các nét giai điệu khá thú vị. Chuyển sang đoạn b, bằng lối sử dụng hợp âm rải dựa trên mối quan hệ giữa các quãng 2, quãng 3, quãng 4, quãng 5…Ví dụ 5: Xe Chỉ Luồn Kim (Dân ca Quan họ Bắc Ninh): đoạn a

15

Xe Chỉ Luồn Kim (Dân ca Quan họ Bắc Ninh): đoạn b

16

Đối với bài “Đi Cấy” (Dân ca Thanh Hóa), cách viết phần đệm cũng tương tự như bài “Xe chỉ luồn kim”, đó là các kiểu chồng theo quãng 2 trưởng, quãng 3 trưởng, quãng 3 thứ…Ví dụ 6: Đi Cấy (Dân ca Thanh Hóa)

17

Ở bài “Lý Con Sáo Sang Sông” (Dân ca Nam Bộ), cũng với cách viết phần đệm như trên, tuy nhiên sử dụng các lối chồng quãng ở hai bè tay phải và tay trái. Bên cạnh đó, các quãng 4, quãng 5 cũng được tác giả sử dụng hầu hết trong bài.Ví dụ 7: Lý Con Sáo Sang Sông (Dân ca Nam Bộ)

18

“Bắt Kim Thang” là một bài dân ca Nam Bộ khá phổ biến bởi tính chất tươi vui, hồn nhiên. Bài dân ca được xây dựng ở điệu thức 5 âm: re – mi – sol – la – si.

Ở bài này, dấu fa thăng được xem như ở giọng sol trưởng (G – dur). Các hợp âm đệm ở trong bài cũng được sử dụng phần lớn là hợp âm sol trưởng (G), nhưng để phù hợp với điệu thức 5 âm của Việt Nam, tác giả đã thêm vào phần đệm các quãng 2 thứ, quãng 4, quãng 5.

Ví dụ 8: Bắt Kim Thang (Dân ca Nam Bộ)

19

Bên cạnh việc sử dụng hợp âm ở phần đệm, các nhạc sĩ còn dùng hợp âm rải ở phần đệm tay trái. Các hợp âm rải cũng đi theo lối kết hợp quãng 4, quãng 5, quãng 2 như: sol – re – mi – sol – si.Ví dụ 9: Bắt Kim Thang (Dân ca Nam Bộ)

III. Tiết tấu phần đệm Piano:

Có thể nói Piano thể hiện rất phong phú về mặt âm hình cũng như tiết tấu phần đệm. Phần đệm Piano cho các bài dân ca được nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc và Nguyễn Đình Bảng thể hiện khá đa dạng trong tuyển tập “Trống Cơm”. Có những bài phần đệm là những hợp âm theo tiết tấu của bài hát, có những bài phần đệm lại đóng vai trò tạo nên một không khí; một hình ảnh thể hiện nội dung của lời ca.

20

Ở bài “Trống Cơm”, nhạc sĩ đã thể hiện phần đệm là âm hình của những nốt móc kép và móc đơn. Với những hợp âm tạo nên một sữ mô phỏng của tiếng trống đầy rộn rã và sôi động.

Ví dụ 10: Trống Cơm (Dân ca Quan họ Bắc Ninh)

Ngược lại, bài “Xe Chỉ Luồn Kim” với tính chất âm nhạc dàn trải; trữ tình, phần đệm lại là âm hình của những nốt móc đơn và âm hình của hợp âm rải nốt móc kép.

Ví dụ 11: Xe Chỉ Luồn Kim (Dân ca Quan họ Bắc Ninh): (a)

21

Xe Chỉ Luồn Kim (Dân ca Quan họ Bắc Ninh): (b)

Ở bài “Đi Cấy”, tính chất âm nhạc duyên dáng; trẻ trung, âm hình phần đệm là những tiết tấu móc đơn có ngắt bởi dấu lặng cùng với nhiều quãng 2 thứ thể hiện được khá hiệu quả tính chất trên của bài hát.

Ví dụ 12: Đi Cấy (Dân ca Thanh Hóa)

22

Bài “Bắt Kim Thang” mang tính chất âm nhạc hồn nhiên; nhí nhảnh nên phần đệm là những hợp âm nốt móc đơn cùng với các quãng 2 thứ và các dấu lặng ngắt

Ví dụ 13: Bắt Kim Thang (Dân ca Nam Bộ)

Phần đệm cũng có khi là những nét nhạc chạy âm rải của hai bè tay phải và tay trái mang tính phức điệu như ở bài “Đi Cắt Lúa” (Dân ca Hơ Rê). Với cách viết phần đệm này, các tác giả đã tạo nên sự mô phỏng tiếng đàn T-rưng của dân tộc Tây Nguyên qua âm thanh của cây đàn Piano khá thú vị.

Ví dụ 14: Đi Cắt Lúa (Dân ca Hơ Rê)

23

KẾT LUẬN

Tuyển tập “Trống Cơm” của hai nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc và Nguyễn Đình Bảng, xuất bản năm 1980, nằm trong bộ “Tuyển tập các bài dân ca Việt Nam có phần đệm Piano”. Những phân tích của chúng tôi chưa phải là những khám phá, tìm tòi mới mẽ về những thủ pháp sáng tác, biên soạn phần đệm Piano cho dân ca Việt Nam của hai nhạc sỹ trong tuyển tập này, đây chỉ là những phát hiện nhỏ để góp phần vào việc mở mang kiến thức, nâng cao sự hiểu biết đối với bản thân.

24

Đây là một sự kết hợp khá thú vị tạo nên những hiệu quả mới của âm nhạc dân tộc và âm hạc phương Tây. Sự sáng tạo này luôn chứng tỏ hướng đi đúng đắn của các nhạc sĩ Việt Nam, đó là tiếp thu những tinh hoa của văn hóa nhân loại để làm giàu cho nền âm nhạc của dân tộc.

Mỗi nền văn hóa có những giá trị riêng, âm nhạc là một bộ phận của văn hóa nhân loại, việc bảo tồn văn hóa truyền thống và tiếp nhận có chọn lọc những cái mới để làm phong phú thêm cho nền âm nhạc nước nhà cũng là quy luật tiếp biến tự nhiên. Sự kết hợp giữa văn hóa Đông - Tây nhằm tạo ra những sản phẩm âm nhạc mới đã và luôn là một xu hướng của mọi thời đại. Với cách làm này chúng ta phải biết “gạn đục, khơi trong” vừa có sự kế thừa, vừa có tính sáng tạo. Việc viết phần đệm Piano cho các bài dân ca của các nhạc sỹ Việt Nam là một cách làm thể hiện được phần nào tinh thần trên.

Âm nhạc dân tộc của Việt Nam bên cạnh việc bảo tồn và giữ gìn cũng cần có những sáng tạo mới để được phong phú thêm, hấp dẫn thêm với người nghe, bởi tinh hoa nghệ thuật luôn không ngừng vận động và sáng tạo. Tuyển tập “Trống cơm” với phần đệm Piano là sáng tạo, góp phần làm phong phú thêm giá trị nghệ thuật của dân ca Việt Nam.

25