Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Nhà Sản Xuất
Nhà Bán Lẻ
Khách Hàng
Nhà Cung Cấp
Nhà Bán Lẻ
Trực Tuyến
Khách Hàng
TÌM HIỂU PHƯƠNG PHÁP BÁN LẺ DROP-SHIPPING TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
THE DROP-SHIPPING RETAIL METHOD FOR E-COMMERCE
Bùi Trần Huân
Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin – Đại học Đà Nẵng, Email: [email protected]
Tóm tắt -Trong mô hình bán lẻ qua mạng Drop-Shipping, cửa hàng không dự trữ các sản phẩm trong kho và xử lý các đơn hàng trực tiếp, mà yêu cầu nhà cung cấp vận chuyển chúng trực tiếp đến khách hàng. Điều này mang lại lợi ích cho cửa hàng bán lẻ trong một vài khía cạnh, tuy nhiên cũng đặt ra thử thách trong thiết lập mối quan hệ bền vững với các nhà cung cấp, những người phải chịu thêm các chi phí và gánh nặng về nguồn lực trong nổ lực tham gia vào mô hình. Với mục đích tìm hiểm vềphương pháp bán lẻ Drop-Shipping, tác giả sẽ trình bày tổng quan về phương pháp này cùng với ưu nhược điểm, phân tích mối quan hệ giữa nhà cung cấp và nhà bán lẻ cùng , đồng thời tóm tắt một vài yếu tố cần chú ý để xây dựng thành công mô hình này, cũng như thực tế sử dụng nó trong các nhà bán lẻ hiện nay
Từ khóa -Drop-Shipping; bán lẻ qua mạng;ưu điểm; nhược điểm; tiến trình đặt hàng; quan hệ giữa nhà bán lẻ và nhà cung cấp; yếu tố thành công
Abstract- Drop-Shipping is anonline retail method in which retailers do not hold inventories, process orders, andrequest suppliers to ship products directly to the end customers. This benefits retailers in some aspects, yet posing challenges with respect to building up an interwind relationship with the suppliers, whoincure additional costs and resource burden so as to get on-boarding. In light of Drop-Shipping, this paper presents general views of this method along with its benefits and drawbacks, and analyzes retailer-supplier relationshipplus success factors that should be embraced by new entrepreneur as well as how common of this method in reality.
Key words -Drop-Shipping; online retail; benefits; drawbacks; order process; retailer-supplier relationship; success factors
1. Đặt vấn đề
Trong nỗ lực nhằm làm tăng thêm thị phần, các nhà bán
lẻ trực tuyến (e-tailer) đang tối ưu hoá mọi mặt của hoạt
động để đat được lợi thế cạnh tranh. Cùng với điều này, kỳ
vọng đến từ phía khách hàng cũng được nâng lên ở mức độ
cao hơn. Sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm, thời gian
giao hàng nhanh cùng với mức giá sản phẩm hợp lý đã
không còn là những lợi thế dành cho các tập đoàn bán lẻ có
thương hiệu, mà nó là yêu cầu cần phải có đối với mỗi nhà
bán lẻ đang hoạt động. Một khảo sát đần đây được thực
hiện bởi Retail Systems Research cho thấy việc tối ưu hoá
chi phí vận chuyển và thực thi đơn hàng là một trong ba
thách thức hàng đầu đối với hoạt động của cửa hàng bán lẻ
qua mạng. Ngoài ra, cải thiện các hoạt động hoàn tất đơn
hàng mang đến cơ hội lớn thứ hai để vượt qua danh sách
những khó khăn trong hoạt động marketing và bán hàng[1].
Tận dụng những lợi thế có được từ mạng Internet và sự
phát triển của công nghệ thông tin để vượt qua những thách
thức đó và tìm cơ hội cho chính mình, nhiều nhà bán lẻ qua
mạng đã chuyển sang phương pháp hoàn tất đơn hàngmới
sử dụng mô hình kênh phân phối trực tiếp từ nhà cung cấp
(Drop-Shipping). Trong bài báo này, tác giả sẽ trình bày
tổng quan về phương pháp này, ưu nhược điểm, phân tích
mối quan hệ giữa nhà cung cấp và nhà bán lẻ, đồng thời
tóm tắt một vài yếu tố cần chú ý để xây dựng thành công
mô hình này, cũng như thực tế sử dụng nó trong các nhà
bán lẻ hiện nay.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Tổng quan về phương pháp bán lẻDrop-Shipping
Drop-Shiping là một phương pháp hoàn tất đơn hàng
bán lẻtrực tuyến sử dụng mô hình kênh phân phối trực tiếp
từ nhà cung cấp, hay nói cách khácnhà bán lẻ không lưu trữ
hàng hoá trong kho và vì vậy người bán không làm việc
trực tiếp với sản phẩm mà họ bán. Thay vào đó, dựa trên
đơn hàng của người mua, nhà bán lẻ chuyển các thông tin
liên quan đến bên thứ ba. Từ đó, thay mặt người bán, sản
phẩm được chuyển trực tiếp đến người mua bởi nhà cung
cấp được chọn.
(a)
(b)
Chiều đi sản phẩm Chiều đi của thông tin
Hình 1. Phân biệt kênh phân phối: (a) Truyền thống
(b) Drop-Shipping
Một điểm cần lưu ý đó là bên thứ ba (gọi chung là nhà
cung cấp) trong chuỗi cung ứng có thể là nhà sản xuất, nhà
phân phối, hoặc cũng có thể là cửa hàng bán lẻ khác. Mức
giá cho cùng một sản phẩm có thể khác nhau khi cửa hàng
bán lẻ chọn ai là nhà cung cấp. Do đó, để nhận được giá tốt
nhất, cửa hàng cần xác định ai trong số đó là nhà sản xuất
hoặc nhà phân phối chính thống.
Dễ dàng nhận thấy trong mô hình kênh phân phối
truyền thống, nhà sản xuấthầu như không bán sản phẩm
trực tiếp đến người tiêu dùng mà có thể phải qua trung gian
là hệ thống các cửa hàng. Nó được sử dụng phổ biếnnhững
năm 90của thế kỉ 20 trở về trước, khi cung và cầu trong
kinh doanh bán lẻ phát triển trong giới hạn về mặt địa lý
cũng nhưcơ sở vật chất kho hàng. Cụ thể hơn, dịch vụ bán
lẻ chỉ có thể phục vụ nhu cầu người dân sống trong khu vực
lân cận cửa hàng. Ở chiều ngược lại, khách hàng chỉ có thể
mua các sản phẩm sẵn có tại cửa hàng mà không có những
sự lựa chọn khác. Điều này có thể được giải thích bởi sự
hạn chế về không gian lưu trữ hàng hoá và vốn đầu tư mua
hàng dự trữ của cửa hàng.
Tuy nhiên, mạng Internet bắt đầu trở nên phổ biến từ
năm 1994 đã đem lại diện mạo mới cho Thương mại điện
tử nói chung, đặc biệt là bán lẻ qua mạng.Các cửa hàng trực
tuyến có thể cung cấp hàng hoá cho người tiêu dùng tiềm
năng ở bất kỳ đâu mà không còn bị ràng buộc bởi những
hạn chế của cửa hàng truyền thống (physical store). Thực
tế này dẫn đến khả năng tăng số lượng đơn hàng bán, đòi
hỏi các cửa hàng bán lẻ trực tuyến phải tăng số lượng hàng
hoá dự trữ. Nói cách khác, trong khi thương mại điện tử
loại bỏ giới hạnvề địa lý đối với mô hình B2C (Bussiness-
to-Customer), các hạn chế trong quản lý kho hàng truyền
thống, ví dụ như sai lệch số lượng hàng tồn kho (inventory
distortions), đã kiềm hãm việc cung cấp hàng hoá trong thế
giới mà nhu tiêu dùng hầu như không có giới hạn. Bên cạnh
đó, khi nhu cầu mua sắm trực tuyến ngày càng gia tăng,
việc kết nối giữa người bán và người mua càng đòi hỏi phải
nhanh hơn, thuận tiện hơn, hiệu quả hơn. Những điều này
đang tạo áp lực không hề nhỏ các dịch vụ hỗ trợ hoàn tất
đơn hàng truyền thống, từ các bước xuất hàng, bao gói cho
đến vận chuyển, bởi chỉ một bước chậm trễ sẽ làm ảnh
hưởng tới cả quá trình đưa hàng hóa sản phẩm đến tay
người tiêu dùng. Trước những yêu cầu đó, một phương
pháp quản trị chuỗi cung ứng bán lẻ mới, Drop-Shipping,
được hình thành nhằm giải quyết phần nào đó những hạn
chế liên quan.
2.2. Chu trình xử lýmột đơn đặt hàng
Đầu tiên, một khi đơn hàng đặt qua cửa hàng trực tuyến
được xác lập thành công, cả khách hàng và cửa hàng bán
lẻ đều nhận được thông báo xác nhận tự động từ phần mềm
trên trang web. Tại đây, thanh toán của khách hàng cũng
được ghi nhậnvà được tự động gửi vào tài khoản của cửa
hàng. Hệ thống quản lý đơn hàng (Oder Mangement
System) tự động tìm các nhà cung cấp khả dĩ bởi vì một
đơn hàng bao gồm nhiều sản phẩm có thể được xử lý bởi
nhiều nhà cung cấp. Các nhà cung cấp dự phòng cũng rất
quan trọng bởi vì nó giúp duy trì trạng thái luôn sẵn sàng
cho các sản phẩm trên trang web.
Trong bước tiếp theo, cửa hàng gửi thông báo đơn đặt
hàng (Purchase Order Message) đến nhà cung cấp thông
qua thư điện tử hoặc tập tin tựđộng dưới định dạng XML
(Extensible Markup Language). Một đơn hàng có thể bị từ
chối với lý do sử dụng lại mã đơn đặt hàng cũ gây nên sự
trùng lặp trong hệ thống quản lý đơn hàng. Điều này có thể
xảy ra khi một đơn hàng bị huỷ bỏ do nhà cung cấp tạm
thời hết những sản phẩm đó. Khi nhận được thông báo có
hàng trở lại, nhà bán lẻ gửi lại yêu cầu đặt hàng với mã cũ
thay vì tạo ra một cái mới.
Thông báo xác nhận thực hiện đơn hàng (Fulfillment
Confirmation Message) từ nhà cung cấp được sử dụng để
cập nhật trạng thái đơn hàng được chấp nhận hay bị huỷ
bỏ, đồng thời là một biên nhận được cung cấp cho Hệ thống
ghi nhận nợ phải trả (Account Payable system) của nhà bán
lẻ. Điều này loại trừ khả năng nhà cung cấp phải gửi thêm
một thông báo riêng yêu cầu thanh toán (Invoice Message).
Nhà cung cấp có thể gộp thêm thông tin về giá sản phẩm,
phí xử lý đơn hàng, và mã biên nhận (Invoice number) cần
thiết cho việc lưu vào Hệ thống ghi nhận nợ phải trả, và
thông tin theo dõi gói hàng, vào thông báo này.
Tiếp đến, giả sử các sản phẩm là có sẵn và thanh toán
giữa cửa hàng và nhà cung cấp thành công, chúng sẽ được
đóng gói và vận chuyển trực tiếp đến khách hàng từ nhà
cung cấp. Mặc dù vậy, tên và địa chỉ cửa hàng bán lẻ vẫn
xuất hiện trên nhãn địa chỉ trả hàng, đồng thời biểu tượng
của nó vẫn được in trên hoá đơn và phiếu giao hàng.
Trong bước cuối cùng, cửa hàng gửi thông tin theo dõi
gói hàng cho khách hàng thông qua giao diện thư điện tử
trên trang web. Như vậy, một tiến trình xử lý đơn đặt hàng
cơ bản theo mô hình bán lẻ Drop-Shipping được kết thúc.
Các nhà cung cấp thông thường không phân phối kho
hàng cho một nhà bán lẻ cụ thể nào. Thay vào đó họ thực
thi các đơn hàng từ nhiều nguồn khi chúng đến. Điều này
có nghĩa là thông tin về hàng hoá có sẵn trong kho không
được cập nhật theo thời gian thực như khi chúng được lưu
tại kho của nhà bán lẻ. Do đó, nhà bán lẻ phải tính đến việc
thiết lập mức an toàn về số lượng của các sản phẩm lưu kho
và đồng thời xác định các phương pháp đo lường hiệu quả
hoạt động của nhà cung cấp. Nó có thể là khả năng duy trì
sự sẵn sàng cho một số loại sản phẩm quan trọng và chủ
lực của một nhà bán lẻ. Điều này phụ thuộc vào sự dự báo
hiệu quả giữa nhà cung cấp và nhà bán lẻ. Tiếp đến, nó là
tỉ lệ thực thiđầy đủ một đơn hàng (fill rate) ngay trong lần
gửi đầu tiên. Điều này bị chi phối bởi sự chính xác và hiện
có của các sản phẩm trong kho hàng của nhà cung cấp. Cuối
cùng, nó là thời gian vận chuyển được thiết lập phù hợp với
từng loại sản phẩm [2].
Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong quy trình xử lý
đơn hàng, nhà cung cấp là hoàn toàn vô hình đối với khách
hàng vì chỉ duy nhất thông tin về cửa hàng, bao gồm địa
chỉ trả hàng và biểu tượng của nó, xuất hiện trên sản phẩm.
Do đó mọi khiếu nại về sản phẩm từ khách hàng được giải
quyết trực tiếp bởi cửa hàng sau khi phối hợp với nhà cung
cấp.
2.3. Ưu, nhược điểm
Một trong những lợi thế nổi bật của Drop-Shippinglà
nhà bán lẻ không cần chi phí nhiều vốn cho dự trữ hàng
hoá [3]. Việc này giảm thiểu những rủi ro liên quan đến dự
trữ quá ít hoặc không một sản phẩm cần thiết, trong khi đó
lại quá nhiều một chủng loại hàng hoá khác, đặc biệt đối
với những sản phẩm mới được giới thiệu ra thị trường và
cần thời gian kiểm chứng sức tiêu thụ. Việc lập kế hoạch
cũng như dự đoán số lượng hàng hoá cần dự trữ trong công
tác quản lý kho cũng có thể không cần thiết bởi vì nhà bán
lẻ chỉ mua từ nhà cung cấp khi có đơn đặt hàng từ người
mua.
Theo một báo cáo gần đây được thực hiện bởi IHL
Group, một công ty chuyên về tư vấn và nghiên cứu thị
trường, hằng năm gần 1,5 nghìn tỉ USD hàng hoá toàn cầu
dự trữ nhiều hơn cần thiết gây thiệt hại đến doanh thu các
nhà bán lẻ. Trong đó, tổn thất do không chú ý đến số lượng
hàng tồn kho tương đương 362 triệu USD hằng năm. Con
số thiệt hại còn lớn hơn đối với việc không cập nhật danh
mục hàng đã bán hết, lên đến 456 triệu USD mỗi năm.
Những thiệt hại này tăng lên hàng năm khoảng 50 triệu
USD vì cơ sở hạ tầng chưa đủ sức theo kịp sự tăng trưởng
của thị trường bán lẻ tại các nước đang phát triển [4].Ngoài
ra, con số này có thể cao hơn nữa nếu tính đến thiệt hại do
nhà bán lẻ không có kế hoạch dự trữ các mặt hàng mới,
tiềm năng, chưa từng được giới thiệu trên thị trường. Tóm
lại,Drop-Shipping giảm thiểu tối đa những áp lực liên quan
đến quản lý kho hàng đối với các nhà bán lẻ.
Drop-Shipping có thể là mô hình thích hợp cho những
cửa hàng bán lẻ cần sự đơn giản trong quản lý kho, các thủ
tục xử lý đơn hàng và gửi hàng, bởi vì nó cho phép họ
không phải làm việc trực tiếp với sản phẩm. Những phần
việc trên có thể hầu hết được thực hiện bởi nhà cung
cấp.Kết quả là nó có thể giúp giảm thiểu các chi phí liên
quan trực tiếp đến sản phẩm góp phần tăng lợi nhuận. Một
nghiên cứu của hai giáo sư W.K. Chiang và Y. Feng cho
thấy rằng các nhà bán lẻ trực tuyến sử dụng mô hình Drop-
Shipping có khả năng đạt lợi nhuận 5,18% cao hơn các nhà
bán lẻ khác sử dụng mô hình kênh phân phối truyền thống.
Thêm vào đó, với ưu điểm sử dụng vốn ít vì không dự
trữ hàng hoá, mô hình này giúp việc khởi động và bán ngay
một sản phẩm mới nhằm hướng đến các khách hàng tiềm
năng, được thực hiện gần như ngay lập tức khi nhà bán lẻ
trực tuyến tìm được nhà cung cấp uy tín sẵn sàng trở thành
đối tác [3]. Có thể nói, với mô hình này các cửa hàng bán
lẻ trực tuyến có thể co giãn quy mô hoạt động một cách
linh hoạt nhờ vào đòn bẫy vốn và sự đa dạng danh mục sản
phẩm. Thực tế cho thấy, họ tiếp cận thị trường nhanh hơn
cho các dòng sản phẩm mới, với ít áp lực về tài chính hơn
so với cửa hàng sử dụng mô hình truyền thống.
Tuy nhiên, mô hình cũng có những mặt còn tồn tại
không thể tránh khỏi. Nhìn chung, không sử dụng vốn cho
dự trữ hàng, đồng thời có thể có nhiều lựa chọn trong việc
tìm nhà cung cấp làm cho rào cản gia nhập của mô hình
Drop-Shipping trở nên thấp. Cho nên việc nhiều cửa hàng
bán lẻ trực tuyến có thể cùng sử dụng mô hình này dẫn đến
việc cạnh tranh mạnh về giá bán. Kết quả, nó đòi hỏi số
lượng lớn các đơn hàng được thực thi để tạo ra mức lợi
nhuận có ý nghĩa.
Các nhà cung cấp và cửa hàng cần phải đầu tư hạ tầng
công nghệ thông tintích hợp và đồng bộ giữa các bên, đảm
bảo sự thông suốt dữ liệu và tự động cập nhật những thay
đổi của các tiến trình xử lý đơn hàng liên quan lên hệ thống.
Ví dụ, nếu nhà bán lẻ tự sở hữu kho hàng của riêng mình,
số lượng hàng tồn kho hoặc đã hết sẽ được cập nhật tương
đối chính xác. Nhưng khi nhà bán lẻ chuyển giao trách
nhiệm này cho các nhà cung cấp, điều này sẽ gây khó khăn
hơn trong việc quản lý chúng vì cần có một hệ thốngđồng
bộ thời gian thực cập nhật và báo cáo những thông tin này
cho nhà bán lẻ. Ngoài ra, việc tăng chi phí để ứng dụng
công nghệ vào quá trình này có thể làm giảm sự nhiệt tình
của các nhà cung cấp trong việc tham gia vào mô hình mới.
Một thực tế phải chấp nhận đó là khi hàng hoá bị lỗi,
hàng gửi chậm hoặc gửi nhầm sản phẩm, nhà bán lẻ là
người chịu trách nhiệm trực tiếp trong hoà giải và xử lý các
khiếu nại từ khách hàng, mặc dù sản phẩm đó được gửi từ
nhà cung cấp. Cho nên thành công của nhà bán lẻ phục
thuộc nhiều vào việc tìm kiếm các nhà cung cấp có uy tín
và chất lượng. Thêm vào đó, việc theo dõi thông tin hàng
đổi trả từ phía nhà bán lẻ cũng gặp khó khăn khi hàng hoá
được trả trực tiếp về nhà cung cấp.
2.4. Quan hệ giữa nhà cung cấp và nhà bán lẻ
Với mô hình kênh phân phối Drop-Shipping, quan hệ
truyền thống B2B (Business-to-Business), trong đó một
cửa hàng thoả thuận mức giá bán buôn với một nhà cung
cấp sau đó sẽ bán lại với mức giá bán lẻ cao hơn, được thay
thể bởi một quan hệ khăn khít hơn.Tại đó, cả hai cần phải
hiểu rõ phần cốt lõicủa nóvà cùng nhau phân phối nguồn
lực nhằm dung hoà sự khác nhau trong các quy trình kinh
doanh và những yêu cầu đầu tư mới về công nghệ giữa hai
tổ chức nhằm đảm bảo việc thực thi các đơn hàng được
thông suốt.
Nhà Cung Cấp
Nhà Bán Lẻ
Hình 2. Sự phối hợp hoạt động giữa Nhà Cung Cấp và Nhà
bán lẻ trong chu trình hoàn tất đơn hàngDrop-Shipping yêu cầu
mối quan hệ chặt chẽ và đồng bộ.
Bởi vì nhà bán lẻ yêu cầu nhà cung cấp dành thời gian
và vốn đầu cùng phối hợp trong cam kết đảm bảo lợi nhuận,
nhà cung cấp có thể sẽ không đồng ý bổ sung các yêu cầu
về công nghệ hỗ trợ quá trình thực thi đơn hàng, cũng như
điều chỉnh quy trình kinh doanh cho phù hợp. Ví dụ, trong
nỗ lực để tạo ra sự liền mạch vàtrải nghiệm thương hiệu
(branded experience) cho người tiêu dùng, nhà bán lẻ qua
mạng yêu cầu nhà cung cấp phải tuân theo hướng dẫn phức
tạp về các qui trình thực hiện liên quan việc gửi hàng của
nhà bán lẻ. Mỗi một hướng dẫn này có thể bao gồm từ 50
đến 150 quy tắc kinh doanh và tất cả phải được tuân theo
không điều kiện [5]. Bên cạnh đó, nhà cung cấp có thể sẽ
không mong muốn tăng thêm chi phí phát sinh khi tham
gia vào mô hình mới mà tại đó lợi nhuậncó thể sẽ giảm vì
nó liên quan đến các đơn hàng đến từ khách hàng lẻ thay
Sản Phẩm
Kho
Đặt hàng
Sản Phẩm
Kho
Đặt hàng
Trạng
Thái
Đơn Hàng
Theo Dõi
Đơn Hàng
Hoá Đơn
Trạng
Thái
Đơn Hàng
Theo Dõi
Đơn Hàng
Hoá Đơn
vì cửa hàng.
Do câng bằng tài chính trong mỗi tổ chức bị biến đổi,
dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ. Đầu tiên, việc thật sự
không đầu tư vốn cho dự trữ hàng hoá hiển nhiên sẽ mang
lại lợi ích về tài chính cho cửa hàng bán lẻ, nhưng đồng
thời nó cũng làm suy giảm năng lực thương lượng của họ
đối với nhà cung cấp. Điều này có thể dẫn đến việc cửa
hàng không có được giá tốt nhất cho sản phẩm, cũng như
phải chịu thêm các chi phí phát sinh như đóng gói và vận
chuyển, chi phí trả lại hàng hỏng. Thêm vào đó, để đổi lấy
cơ hội quảng bá nhiều sản phẩm hơn thông qua kênh bán
lẻ, nhà cung cấp bây giờ phải chấp nhận rủi ro vì không có
được sự đảm bảo tài chính từ việc mua hàng trước của cửa
hàng. Những yếu tố này gây trở ngại cho cả nhà cung cấp
lẫn cửa hàng khi tham gia đàm phán để trở thành đối tác.
Tuy nhiên, bằng việc chuyển giao trách nhiệm thực thi
đơn hàng, các cửa hàng đã trao cho các nhà cung cấp cơ
hội chưa từng có để trở thành các đối tác có giá trị chiến
lược. Những nhà cung cấp đang đầu tư vào công nghệ và
bổ sung các năng lực khác cần thiết để tham gia vào mô
hình Drop-Shippingchính là những công ty đang đầu tư cho
tương lai của lĩnh vực bán lẻ cũng như cho sự thành công
lâu dài của chính họ. Cho nên cả hai bên cần phải có cái
nhìn dài hạn trong việc đầu tư và xây dựng những cam kết
đảm bảo quyền lợi của nhau nhằm tạo nên mối quan hệ bền
vững.
2.5. Một số yếu tố dẫn đến thành công
Lựa chọn và hợp tác với các nhà phân phối có đủ năng
lực trong mô hình Drop-Shipping là tương đối khác so với
phương pháp hoàn tất đơn hàng truyền thống. Bởi vì không
có những cam kết mua hàng được thực hiện trước, cơ hội
lựa chọn các đối tác sẽ nhiều hơn cho cửa hàng. Tuy nhiên
theo chiều ngược lại, sự thiếu động lực tài chính này có thể
ảnh hưởng đến sự sẵn sàng của nhà cung cấp nhằm đáp ứng
các yêu cầu cần tuân thủ của bên bán lẻ. Do đó trước khi
quyết định hợp tác với nhà cung cấp, việc thiết lập các yêu
cầu liên quan đến hoạt động là cần thiết. Chúng bao gồm
yêu cầu trao đổi thông tin về trạng thái của các đơn hàng,
yêu cầu về khung thời gian vận chuyển phù hợp cho từng
đơn hàng, và yêu cầu cập nhật mức tồn kho của các sản
phẩm theo thời gian thực [2]. Thêm vào đó, một loạt các
câu hỏi điển hình, ví dụ các điều kiện bị hạn chế trong vận
chuyển là những gì, có chấp nhận đơn hàng lẻ đến những
vùng xa, có đa dạng trong phương thức vận chuyển, phí
vận chuyển này ai sẽ thanh toán, v.v, cần được làm rõ đối
với từng nhà cung cấp trước khi cửa hàng đưa ra lời mời
chào thích hợp. Một kinh nghiệm nhỏ là cửa hàng nên lựa
chọn các nhà cung cấp có sử dụng mô hình bán lẻ trực tiếp
cho khách hàng (direct-to-consumer fulfillment) thông qua
trang web của họ.
Xây dựng kế hoạch vững chắc nhằm tăng thêm giá trị
cho khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng mang
lại thành công [3]. Việc tạo ta sự khác biệt là quan trọng
đối với tất cả các loại hình kinh doanh, nhưng nó đặc biệt
hơn đối với mô hình Drop-Shipping mà tại đó một cửa hàng
sẽ đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh vì tính chất rào cản
tham gia thấp của nó. Các cửa hàng phải hiểu rằng họ
không chỉ đơn thuần bán các sản phẩm mà còn cung cấp sự
hiểu biết, thông tin liên quan, đồng thời tư vấn các giải
pháp. Ví dụ, mô tả một cách chi tiết sản phẩm, tạo hướng
dẫn lắp đặt và sử dụng dễ hiểu bằng hình ảnh hoặc video,
liệt kê danh sách các sản phẩm có khả năng tương thích với
nó, là những việc mà cửa hàng nên thực hiện để tạo sự khác
biệt. Nếu không, lợi thế cạnh tranh mà cửa hàng còn lại có
thể chỉ là giá. Trong khi điều này đã là một chiến lược thành
công cho Walmart, nhưng nó có thể không phải là chiến
lược phù hợp cho một cửa hàng bán lẻ.
Tiến trình xử lý đơn hàng đòi hỏi sự giao tiếp và trao
đổi thông tin về trạng thái sản phẩm giữa các chủ thể trong
mô hình. Quá trình này tương đối phức tạp và chủ yếu diễn
ra tại phía nhà cung cấp. Do đó, để đảm chất lượng dịch vụ
và cửa hàng cần phải xây dựng cho mình một tập hợp các
điểm mốc quan trọng(milestones) được sử dụng như là các
điểm kiểm soát. Cửa hàng có thể bắt đầu với mộttập hợp
đơn giản nhất các điểm kiểm soát như ngày khách hàng đặt
mua sản phẩm và khung thời gian cam kết giao hàng, thời
điểm đơn hàng được nhận bởi cửa hàng và xác nhận thực
thi đơn hàng bởi nhà cung cấp, tình trạng sản phẩm trong
kho hàng, các lưu ý trước khi gửi hàng, thời điểm sản phẩm
được gửi, cuối cùng là bằng chứng việc giao hàng [7].
Những thông tin được cửa hàng cập nhật kịp thời và chính
xác từ nhà cung cấp sẽ làm tăng khả năng nhìn thấy một
chu trình xử lý đơn hàng hoàn chỉnh, giúp cửa hàng xử lý
kịp thời những tình huống phát sinh đồng thời gia tăng chất
lượng dịch vụ.
Một khuyến nghị được đưa ra là các cửa hàng nên áp
dụng các loại báo cáo như Báo cáo hành động (Actionable
Reporting) và Báo cáo hiệu quả hoạt động (Performance
Reporting) để kiểm soát sự phối hợp hoạt động giữa hai tổ
chức [7]. Báo cáo hành động được sử dụng cho các tình
huống cụ thể phát sinh ngoại lệ, và cho phépcác nguồn lực
tập trung để xử lý chúng trong một thời điểm nhấtđịnh. Ví
dụ, nó được sử dụng để theo dõi thời gian đáp ứng của nhà
cung cấp đối với một đơn hàng đang được quan tâm đặc
biệt. Cụ thể hơn, nhà cung cấp phải thông báo xác nhận
hoàn tất đơn hàng nàytrong một khung thời gian giới hạn
cho phép từ khi nhận được yêu cầu đặt hàng từ cửa hàng.
Trong khi đó, Báo cáo hiệu quả hoạt độngđược tổng hợp
định kỳ với khoản thời gian dài hơn nhằm theo dõi tính ổn
định hoạt động của nhà cung cấp và được sử dụng như một
phần trong chương trình nâng cao chất lượng nhà cung cấp.
Sự phối hợp hoạt động giữa cửa hàng và nhà cung cấp
yêu cầumối quan hệ chặt chẽ thông qua việc trao đổi dữ
liệu hai chiều giữa các bên liên quan. Đây là yếu tố đặc
trưng của mô hình và nó đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả hoạt động của kênh phân phối. Hơn nữa,
việc chia sẻ này giúp cho các chủ thể liên quan hiểu được
sự tác động của các quyết định, cũng như hiệu suất làm việc
của họ ảnh hưởng như thế nào đến toàn bộ hoạt động của
chuỗi cung ứng. Dữ liệu được chọn lọc có thể được chia sẻ
đến các bộ phận khác trong cửa hàng, ví dụ Dịch vụ bán
hàng hoặc Dịch vụ khách hàng nơi thường xuyên tiếp nhận
các yêu cầu hỗ trợ xử lý thông tin về đơn hàng. Điều này
cũng có thể giúp nâng cao năng suất làm việc của các bộ
phận đó, cũng như biến nó thành giá trị gia tăng cho khách
hàng.
Bởi vì không có cam kết của cửa hàng bán lẻ về một
con số doanh thu cụ thể đối với một nhà cung cấp, nên việc
thuyết phục họ đầu tư thời gian và nguồn lực xây dựng cơ
sở hạ tầng hệ thống thông tin hỗ trợ trao đổi dữ liệu giữa
hai tổ chức là điều không dễ dàng. Do đó, nhà bán lẻnên
giảm thiểu các lý do từ chối bằng cách chủ động đưa
ranhiềutuỳ chọn giải pháp công nghệ sao cho phù hợp với
điều kiện cụ thể, từ những nhà cung cấp có ít năng lực về
công nghệ cho đến các đối tác mà cơ sở hạ tầng về thương
mại điện tử đã được đầu tư xây dựng hoàn thiện. Tuy nhiên,
với một ít chi phí hoạt độngtrả cho bên thứ ba, đó là Nhà
cung cấp dịch vụ chạy thuê ứng dụng (Application Service
Provider - ASP), việc này sẽ được đơn giản hoá. Các ASP
là những người tạo ra “sân chơi” cho các đối tác bằng việc
hỗ trợ sự đa dạng môi trường công nghệ và các khả năng
truyền dữ liệu. Bên cạnh đó, các ASP còn tham gia giám
sát và đảm bảo chu trình hoàn tất đơn hàngtheo đúng cam
kết, dựa trên các nền tảng ứng dụng và dịch vụ liên quan
thông qua mạng Internet.
2.6. Sự phổ biến của Drop-Shipping trong thực tế
Thật khó để thống kê chính xác có bao nhiêu công
tyhoạt động liên quan đến mô hình quản trị kênh phân phối
Drop-Shipping. Tuy nhiên, có một vài cái tên trong số đó
là thực sự nổi bậc và đang đóng góp vào sự thành công
trong lĩnh vực bán lẻ toàn cầu.
Commerce Technlogies (Ecommerhub) cung cấp nền
tảng phần mềm bán và thực thi đơn hàng cho các nhà bán
lẻ khu vực Bắc Mỹ. Dựa trên các công nghệ và dịch vụ
“đám mây” (cloud-based technilogies and services), công
ty cung cấp hai sản phẩm dịch vụ ProductStream và
OrderStream.Trong đó sản phẩm đầu tiên hỗ trợ quản lý
sản phẩm thời gian thực và cho phép sự hợp nhất về dữ liệu
giữa các đối tác bán lẻ trên một nền tảng duy nhất. Ngoài
ra, nó giúp kết nối các đối tác với các nhà cung cấp sàn giao
dịch thương mại điện tử khác (marketplace providers) và
các kênh quảng cáo số, đồng thời quản lý việc bán hàng
trên các sàn giao dịch điện tử này. Trong khi đó, dịch vụ
OrderStream đảm bảo việc thực thi đơn hàng với chất
lượng dịch vụ tốt nhất theo mô hình Drop-Shipping. Năm
2013, công ty đã xử lý tầm 44 triệu giao dịch tương ứng
với 7 tỷ USD tổng giá trị giao dịch bán lẻ qua mạng (Gross
Merchandise Volume – GMV) [8], chiếm 3% GMV (263
tỉ USD)[9] bán lẻ qua mạng của Mỹ. Tháng 1, năm 2015
Ecommerhub mua lại Mercent, một công ty dẫn đầu về
công nghệ bán lẻ, nhằm mở rộng các dịch vụ tối ưu hoá các
chiến dịch marketing số, đảm bảo mang lại thành công cho
các nhà bán lẻ thông qua các kênh mua sắm như Amazon,
eBay, Google Shopping, Facebook. Cùng với Mercent,
hiện nay Commerhub đã liên kết được với hơn 200 tập
đoàn bán lẻ và hơn 8,500 nhà cung cấp bao gồm các công
ty lớn ở Bắc Mỹ như Costo WholeSale, Walmart, Kohl’s
and Sears [10].
Shipwire Connect là tên một dịch vụ hỗ trợ mô hình
Dop-Shipping cho các nhà cung cấp do Shipwire, công ty
chuyên về dịch vụ giao vận và xử lý đơn hàng, cung cấp.
Với lợi thế sở hữu mạng lưới kho hàng hầu như khắp các
châu lục, Shipwire cung cấp các lựa chọn thực thi đơn hàng
một cách linh hoạt và nhanh chóng thông qua Hệ thống
định tuyến đơn hàng thông minh (Intelligent Order
Routing). Các nhà cung cấp có thể lựa chọn việc gửi hàng
từ chính kho của họ hoặc từ mạng lưới các điểm thực thi
đơn hàng của Shipwire. Đồng thời các thông tin liên quan
về mã theo dõi đơn hàng, tình trạng hiện tại của nó, số
lượng sản phẩm tồn kho, được tích hợp trên một hệ thống
duy nhất và được liên kết với các kênh bán lẻ chính như
Walmart, eBay, Costco, Target, hay Amazon.
Amazon, eBay, hay Alibaba đều cung cấp nền tảng ứng
dụngtrên trang webcho phép các nhà bán lẻ thuộc bên thứ
ba (third-party sellers) tìm và bán các sản phẩm trực tiếp từ
nhà cung cấp. Cuối năm 2014, theo thống kê có hơn 2 triệu
nhà bán lẻ thuộc bên thứ 3 cung cấp khoảng gần 40% tổng
số lượng sản phẩm chào bán trên Amazon. Cũng trong năm
này, có đến 2 tỉ sản phẩm được bán trên toàn thế giới theo
mô hình Drop-Shipping, tăng gần gấp đôi số lượng so với
năm 2013 [11].
Ngoài ra, còn nhiều công ty khác cung cấp dịch vụ này
một cách chuyên nghiệp. Ví dụ, với giải thưởng
ToptenREVIEWS Gold Award năm 2015, Doba đang là
nhà cung cấp dịch vụ Drop-Ship uy tín và dễ sự dụng nhất
theo đánh giá của ToptenREVIEWS. Các cửa hàng bán
lẻtham gia có thể tìm sản phẩm mình muốn bán trên danh
mục cung cấp bởi Dobavà sau đó giới thiệu chúng trên
trang web của họ hoặc sàn giao dịch thương mại điện tử
của bên thứ ba. Một khi sản phẩm được bán ra, Doba sẽ
thay mặt cửa hàng để thực thi đơn hàng đó từ nhà cung cấp.
3. Kết luận
Drop-Shipping không phải là một mô hình bán lẻ có
tính nhất thời, mà nó là một chiến lược giao vận khả thi
được chứng minh bởi sự thành công của nhiềunhà bán lẻ
trên thế giới trong những năm gần đây. Chi phí đầu tư ban
đầu và rào cản gia nhập thấp giúp cho mô hình này trở nên
hấp dẫn để bắt đầuchonhiềunhà bán lẻ trực tuyến. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc nó tạo ra một môi trường bán lẻ
cạnh tranh cao, mà tại đó sự khác biệt là một trong những
chìa khoá quan trọng giúp họ nỗi bậc và tối đa hoá lợi
nhuận. Lợi nhuậntrên mỗi đơn hàng thấp làm cho việc cạnh
tranh trở nên khó khăn hơn khi mà các chi phí cho quảng
cáo và chiết khấu bị giới hạn. Thêm vào đó, mô hình đòi
hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bên tham gia vào hoạt
động hoàn tất đơn hàng. Do đó, mỗi nhà bán lẻ qua mạng
cần phải xem xét các nguồn lực mà mình đang có để đưa
ra quyết định lựa chọn mô hình kinh doanh thích hợp, trong
đó cóDrop-Shipping.
Tài liệu tham khảo
[1] Paula Rosenblum, Steve Rowen, The Multi-Channel Retailer’s Reality in a Post-Amazon World, Retail System Research 2012.
[2] Commercehub, Drop Ship Fulfillment Implementation and Management Best Practices for Success Shipments, 2013
[3] Andrew Youderian, Mark Hayes, The Ultimate Guide to Dropshipping
[4] Jeremy Hanks, Drop Shipping for Ecommerce 2014, http://www.practicalecommerce.com/articles/71038-Drop-Shipping-for-Ecommerce-Part-1-Supply-Chain-History-
[5] A UPS White Paper, The Perils and Possibilities of Drop Shipping,2013
[6] W.K Chiang, Y Feng, Retailer or e-tailer? Strategic pricing and economic-lot-size decisions in a competitive supply chain with drop-shipping, 2009
[7] Chris Jones, Managing Your Brand in a Drop-Ship World, 2014, http://logisticsviewpoints.com/2014/06/12/managing-brand-
drop-ship-world/ [8] CommerceHub Enables $7 Billion in 2013 Retail Gross
Merchandise Value, http://www.prnewswire.com/news-releases/commercehub-enables-7-billion-in-2013-retail-gross-merchandise-value-243318111.html
[9] Allison Enright, U.S. online retail sales will grow 57% by 2018, https://www.internetretailer.com/2014/05/12/us-online-retail-sales-will-grow-57-2018
[10] http://www.commercehub.com/about-us/ [11] Tricia Duryee, Amazon’s third-party marketplace sales doulble in
2014, hitting 2 billion units sold worldwide, http://www.geekwire.com/2015/amazons-third-party-marketplace-sales-double-2014-hitting-2-billion-units-sold-worldwide