42
Tóm tắt Vi Diệu Pháp A Comprehensive Manual of Abhidhamma - The Abhidhammattha Sangaha of Acariya Anuruddha General editor Bhikkhu Bodhi Pali Text originally edited and translated by: Mahathera Narada Việt Dịch: Lê Văn Phúc - hiệu đính và trình bày: Minh Hạnh Phần I Introduction by U Rewata Dhamma and Bhikkhu Bodhi Lời giới thiệu Của U Rewata Dhamma and Bhikkhu Bodhi The nucleus of the present book is a medieval compendium of Buddhist philosophy entitled the Abhidhammattha Sangaha. This work is ascribed to Acariya Anuruddha, a Buddhist savant about whom so little is known that even his country of origin and the exact century in which he lived remain in question. Nevertheless, despite the personal obscurity that surrounds the author, his little manual has become one of the most important and influential textbooks of Theravada Buddhism. In nine short chapters occupying about fifty pages in print, the author provides a masterly summary of that abstruse body of Buddhist doctrine called the Abhidhamma. Such is his skill in capturing the essentials of that system, and in arranging them in a format suitable for easy comprehension, that his work has become the standard primer for Abhidhamma studies throughout the Theravada Buddhist countries of South Trọng tâm cuả quyển sách là loại sách tóm lược có vào thơì trung cổ về triết lý Phật giáo có tên là Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Abhidhammattha Sangaha). Tác phẩm này được coi là do Acariya Anuruddha, một người am hiểu Phật giáo viết, người mà thanh thế ít được biết đến ngay cả tại đất nước cuả chính mình và thế kỷ mà ông sống cũng vẫn còn là một nghi vấn. Tuy nhiên, bất chấp nhân thân còn mơ hồ cuả tác giả, quyển sổ tay nhỏ bé cuả ông đã trở thành quyển sách giáo khoa quan trọng và có tầm ảnh hưởng nhất cuả Phật giáo Therevada. Trong chín chương ngắn chiếm khoảng 50 trang in, tác giả cung cấp tóm lược quán xuyến cả một bộ phận phức tạp cuả học thuyết Phật giáo . Tài năng cuả ông là tóm lấy được cốt tuỷ cuả hế thống ấy, và sắp xếp chúng theo một định dạng dễ hiểu cho đến nổi tác phẩm cuả ông đã trở thành quyển sổ tay chuẩn mực cho việc nghiên cưú luận tạng Page 1 of 42

Tóm tắt Vi Diệu Pháp

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

Tóm tắt Vi Diệu Pháp

 A Comprehensive Manual of Abhidhamma - The Abhidhammattha Sangaha of Acariya Anuruddha  General editor Bhikkhu BodhiPali Text originally edited and translated by: Mahathera Narada   Việt Dịch: Lê Văn Phúc - hiệu đính và trình bày: Minh Hạnh 

Phần I

Introduction

by U Rewata Dhamma and Bhikkhu Bodhi

Lời giới thiệu

Của U Rewata Dhamma and Bhikkhu Bodhi

 The nucleus of the present book is a medieval compendium of Buddhist philosophy entitled the Abhidhammattha Sangaha. This work is ascribed to Acariya Anuruddha, a Buddhist savant about whom so little is known that even his country of origin and the exact century in which he lived remain in question. Nevertheless, despite the personal obscurity that surrounds the author, his little manual has become one of the most important and influential textbooks of Theravada Buddhism. In nine short chapters occupying about fifty pages in print, the author provides a masterly summary of that abstruse body of Buddhist doctrine called the Abhidhamma. Such is his skill in capturing the essentials of that system, and in arranging them in a format suitable for easy comprehension, that his work has become the standard primer for Abhidhamma studies throughout the Theravada Buddhist countries of South and Southeast Asia. In these countries, particularly in Burma where the study of Abhidhamma is pursued most assiduously, the Abhidhammattha Sangaha is regarded as the indispensable key to unlock this great treasure-store of Buddhist wisdom.

Trọng tâm cuả quyển sách là loại sách tóm lược có vào thơì trung cổ về triết lý Phật giáo có tên là Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Abhidhammattha Sangaha). Tác phẩm này được coi là do Acariya Anuruddha, một người am hiểu Phật giáo viết, người mà thanh thế ít được biết đến ngay cả tại đất nước cuả chính mình và thế kỷ mà ông sống cũng vẫn còn là một nghi vấn. Tuy nhiên, bất chấp nhân thân còn mơ hồ cuả tác giả, quyển sổ tay nhỏ bé cuả ông đã trở thành quyển sách giáo khoa quan trọng và có tầm ảnh hưởng nhất cuả Phật giáo Therevada. Trong chín chương ngắn chiếm khoảng 50 trang in, tác giả cung cấp tóm lược quán xuyến cả một bộ phận phức tạp cuả học thuyết Phật giáo . Tài năng cuả ông là tóm lấy được cốt tuỷ cuả hế thống ấy, và sắp xếp chúng theo một định dạng dễ hiểu cho đến nổi tác phẩm cuả ông đã trở thành quyển sổ tay chuẩn mực cho việc nghiên cưú luận tạng trong toàn bộ các quốc gia Phật giáo Therevada ở Nam và Đông Nam Á. Trong những quốc gian này, đặc biệt là Miến Điện (Myanmar) nơi mà luận tạng được theo đuổi kiên trì nhất, thì bộ Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Abhiddhammattha Sangaha) được coi là chiếc chià khoá không thể thiếu được trong việc mở kho tàng vĩ đại này cuả trí tuệ Phật.

The Abhidhamma

At the heart of the Abhidhamma philosophy is the Abhidhamma Pitaka, one of the divisions of the Pali canon recognized by Theravada Buddhism as the authoritative recension of the Buddha's teachings. This canon was compiled at the three great Buddhist councils

Vi Diệu Pháp

Trung tâm cuả triết lý cuả Luận là Abhidhamma Pitaka,(Tạng Vi Diệu Pháp) một trong các bộ phận thuộc kho tàng kinh điển được Phật giáo Therevada công nhận là chính truyền cuả Phật Pháp. Kho tàng kinh điển này được soạn thảo bởi ba Hội đồng Phật

Page 1 of 25

Page 2: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

held in India in the early centuries following the Buddha's demise: the first, at Rajagaha, convened three months after the Buddha's Parinibbana by five hundred senior monks under the leadership of the Elder Mahakassapa; the second, at Vesali, a hundred years later; and the third, at Pataliputta, two hundred years later. The canon that emerged from these councils, preserved in the Middle Indian language now called Pali, is known as the Tipitaka, the three "baskets" or collections of the teachings. The first collection, the Vinaya Pitaka, is the book of discipline, containing the rules of conduct for the bhikkhus and bhikkhunis — the monks and nuns — and the regulations governing the Sangha, the monastic order. The Sutta Pitaka, the second collection, brings together the Buddha's discourses spoken by him on various occasions during his active ministry of forty-five years. And the third collection is the Abhidhamma Pitaka, the "basket" of the Buddha's "higher" or "special" doctrine.

giáo lớn được tổ chúc tại Ấn độ trong những thế kỷ đầu sau khi Phật viên tịch. Hội đồng đầu tiên tại Rajagaha, được triệu tập 3 tháng sau khi Phật nhập Niết bàn với 500 Đại đức dưới sự chủ trì của Sơ tổ Mahakassapa (Đại Ca-diếp); Hội đồng thứ hai tại Vesali, cả trăm năm sau; và Hội đồng thứ ba, tại Pataliputta, hai trăm năm sau nưã. Kho tàng kinh điển xuất hiện từ các hội đồng này, được bảo tồn bằng ngôn ngữ Trung Ấn, ngày nay gọi là tiếng Pali, được biết đến là Tam tạng (Tipitaka), hay ba “cái rỗ” hay là ba bộ sưu tập lời giáo huấn cuả Phật. Bộ sưu tập thứ nhất, bộ Vinaya Pitaka, là bộ sách nói về Luật, chưá đựng các qui định ứng xử cuả tỳ kheo và tỳ kheo ni (nam và nữ tu sĩ) và các qui định điều chỉnh tăng già (tập thể tăng chúng), nề nếp tu viện. Bộ sưu tập thứ hai là bộ Sutta Pitaka (Kinh tạng), tập hợp các bài giảng do chính Đức Phật nói ra trong nhiều dịp khác nhau trong suốt thời gian hành đạo năng động cuả ngài trong 45 năm. Và bộ sưu tập thứ ba là Abhidhamma Pitaka (Tạng Vi Diệu Pháp), là “rổ” chưá đựng học thuyết “cao hơn” hay “chuyên biệt” cuả Đức Phật.

 This third great division of the Pali canon bears a distinctly different character from the other two divisions. Whereas the Suttas and Vinaya serve an obvious practical purpose, namely, to proclaim a clear-cut message of deliverance and to lay down a method of personal training, the Abhidhamma Pitaka presents the appearance of an abstract and highly technical systemization of the doctrine. The collection consists of seven books: the Dhammasangani, the Vibhanga, the Dhatukatha, the Puggalapaññatti, the Kathavatthu, the Yamaka, and the Patthana. Unlike the Suttas, these are not records of discourses and discussions occurring in real-life settings; they are, rather, full-blown treatises in which the principles of the doctrine have been methodically organized, minutely defined, and meticulously tabulated and classified. Though they were no doubt originally composed and transmitted orally and only written down later, with the rest of the canon in the first century B.C., they exhibit the qualities of structured thought and rigorous consistency more typical of written documents.

Tạng thứ ba vĩ đại này trong kho tàng kinh điển Pali có tính đặc thù biện biệt khác hai tạng kia. Trong khi Kinh và Luật phục vụ mục đích cụ thể, rõ ràng, tức là, tuyên bố rõ ràng thông điệp giải thoát và đề ra phương pháp tu luyện cá nhân, thì Tạng Vi Diệu Pháp trình bày diện mạo hệ thống hoá mang tính kỹ thuật cao và trưù tượng cuả học thuyết. Bộ sưu tập bao gồm bảy quyển: Bộ Pháp Tụ (Dhammasangani), Bộ Phân Tích (Phân Biệt - Vibhanga), Bộ Chất Ngữ (Giới Thuyết - Dhatukatha), Bộ Nhân Chế Định (Nhân Thi Thuyết - Puggalapannati), Bộ Ngữ Tông (Kathavattu), Bộ Song Đối (Song Luận - Yamaka) và Bộ Vị Trí (Phát Thú - Patthana). Không như Kinh Tạng, đây không phải là những ghi chép những bài giảng, đàm luận xảy ra trong bối cảnh đời sống thực ; hơn thế, chúng là những luận đề toàn diện trong đó những nguyên lý cuả học thuyết được tổ chức có phương pháp, xác định chi li , lập thành bảng và phân loại tỉ mỉ . Dù rằng, không nghi ngờ gì nưã, thoạt đầu chúng được soạn thảo, truyền miệng và chỉ được ghi chép lại sau này, so với phần còn lại cuả kho tàng kinh điển trong thế kỷ thứ nhất sau C.N., chúng hiển lộ những phẩm chất cuả các tư tưởng được cấu trúc và sự nhất quán chặt chẽ đặc trưng hơn cho loại tài dạng viết.

 In the Theravada tradition the Abhidhamma Pitaka is Theo truyền thuyết Therevada , tạng luận được gìn

Page 2 of 25

Page 3: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

held in the highest esteem, revered as the crown jewel of the Buddhist scriptures. As examples of this high regard, in Sri Lanka King Kassapa V (tenth century A.C.) had the whole Abhidhamma Pitaka inscribed on gold plates and the first book set in gems, while another king, Vijayabahu (eleventh century) used to study the Dhammasangani each morning before taking up his royal duties and composed a translation of it into Sinhala. On a cursory reading, however, this veneration given to the Abhidhamma seems difficult to understand. The texts appear to be merely a scholastic exercise in manipulating sets of doctrinal terms, ponderous and tediously repetitive.

giữ với sự kính trọng cao nhất, được kính trọng như là châu báu vương miện cuả kinh điển Phật giáo. Điển hình cho cao trọng này, ở Sri Lanka nhà vua Kassapa V (thế kỷ thứ 10 sau CN) đã cho khắc toàn bộ Luận Tạng trên các điã vàng và cho nạm ngọc quyển đầu tiên, trong khi một vị vua khác , vua Vijayabahu (thế kỷ 11) thường nghiên cứu Bộ Pháp Tụ - Dhammasagani vào mỗi sáng trước khi ngự triều và soạn một bản dịch quyển ấy sang tiếng Sinhala. Tuy nhiên khi đọc lướt qua, ta cảm thấy khó hiểu về sự tôn kính đối với Luân. Bản văn có vẻ như chỉ là một bài tập mang tính học thuật trong việc sử dụng các thuật ngữ học thuyết trưù tượng, lập đi lập lại nặng nề, nhàm chán.

The reason the Abhidhamma Pitaka is so deeply revered only becomes clear as a result of thorough study and profound reflection, undertaken in the conviction that these ancient books have something significant to communicate. When one approaches the Abhidhamma treatises in such a spirit and gains some insight into their wide implications and organic unity, one will find that they are attempting nothing less than to articulate a comprehensive vision of the totality of experienced reality, a vision marked by extensiveness of range, systematic completeness, and analytical precision. From the standpoint of Theravada orthodoxy the system that they expound is not a figment of speculative thought, not a mosaic put together out of metaphysical hypotheses, but a disclosure of the true nature of existence as apprehended by a mind that has penetrated the totality of things both in depth and in the finest detail. Because it bears this character, the Theravada tradition regards the Abhidhamma as the most perfect expression possible of the Buddha's unimpeded omniscient knowledge (sabbaññuta-ñana). It is his statement of the way things appear to the mind of a Fully Enlightened One, ordered in accordance with the two poles of his teaching: suffering and the cessation of suffering.

Chỉ khi ta nghiên cứu Tạng Vi Diệu Pháp một cách toàn diện và tư duy sâu sắc với lòng tin mạnh mẽ rằng những quyển sách cổ này ắt hẳn có những điều thật ý nghiã cần truyền đạt, thì lý do cuả việc tôn kính Tạng Vi Diệu Pháp mới hiển lộ. Khi ta tiếp cận các bài giảng cuả Tạng Vi Diệu Pháp với tinh thần như vậy và đã đạt được sự thấu hiểu ở chừng mực nào đó vào những hàm ý rộng lớn và sự thống nhất hữu cơ cuả chúng, ta mới phát hiện ra rằng chúng không nỗ lực nhằm vào cái gì khác hơn là truyền đạt sự khải ngộ toàn diện về cái một -toàn -thể về chân lý hiện thực được thể nghiệm, một sự khải ngộ mang dấu ấn cuả mở rộng giới hạn, cuả sự hoàn chỉnh hệ thống và sự chính xác trong phân tích. Theo quan điểm chính thống của Phật giáo Therevada, hệ thống mà họ trình bày không phải là sự sai lầm cuả những tư tưởng mang tính lý thuyết, không phải là sự pha tạp cuả những giả thuyết siêu hình mà là sự phát lộ chân bản chất cuả hiện hữu như được tâm thấu hiểu, cái tâm đã thâm nhập vào cái một-toàn-thể cuả sự vật cả về chiều sâu lẫn về chi tiết tế vi nhất. Bởi vì tính chất này mà truyền thuyết Phật giáoTherevada xem Tạng Vi Diệu Pháp là sự thể hiện hoàn thiện nhất có thể có được cuả kiến thức Đức Phật bao trùm không gì cản ngại (trí huệ) (sabbannuta-nana). Đó là khẳng định cuả ngài về cách mà sự vật xuất hiện đối với tâm cuả Đấng Giác Ngộ Viên mãn, được an định theo hai cực cuả giáo lý cuả ngài: khổ và chấm dứt (thoát) khổ.

 The system that the Abhidhamma Pitaka articulates is simultaneously a philosophy, a psychology, and an ethics, all integrated into the framework of a program for liberation. The Abhidhamma may be described as a

Hệ thống mà Tạng Vi Diệu Pháp trình bày đồng thời là triết học, tâm lý học, và đạo đức học, tất cả hội nhập trong khuôn khổ cuả một chương trình giải thoát. Tạng Vi Diệu Pháp có thể được mô tả như là

Page 3 of 25

Page 4: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

philosophy because it proposes an ontology, a perspective on the nature of the real. This perspective has been designated the "dhamma theory" (dhammavada). Briefly, the dhamma theory maintains that ultimate reality consists of a multiplicity of elementary constituents called dhammas. The dhammas are not noumena hidden behind phenomena, not "things in themselves" as opposed to "mere appearances," but the fundamental components of actuality. The dhammas fall into two broad classes: the unconditioned dhamma, which is solely Nibbana, and the conditioned dhammas, which are the momentary mental and material phenomena that constitute the process of experience. The familiar world of substantial objects and enduring persons is, according to the dhamma theory, a conceptual construct fashioned by the mind out of the raw data provided by the dhammas. The entities of our everyday frame of reference possess merely a consensual reality derivative upon the foundational stratum of the dhammas. It is the dhammas alone that possess ultimate reality: determinate existence "from their own side" (sarupato) independent of the mind's conceptual processing of the data.

triết học bởi vì nó đề xuất một bản thể luận, một dự phóng về bản chất cuả hiện thực.Dự phóng này được gọi là pháp luận (học thuyết về pháp). Một cách ngắn gọn, pháp luận cho rằng hiện thực tối thượng bao gồm hằng hà sa số các yếu tố thành phần gọi là chư pháp. Chư pháp không phải là cái ẩn dấu sau hiện tượng , không phải vật tư thân như là đối lập với chỉ là diện mạo, nhưng là những yếu tố thành phần nền tảng cuả hiện thực. Chư pháp chia làm hai lớp rộng: pháp không bị qui định, tức là Niết bàn độc hưũ, và pháp bị qui định, là những hiện tượng vật chất tinh thần phù du tạo nên quá trình cuả kinh nghiệm. Thế giới quen thuộc cuả những vật cụ thể và những con người tồn tại khổ đau , theo pháp luận, một dạng khái niệm do tâm khuôn đúc từ những nguyên dữ liệu do chư pháp đem lại. Thực thể cuả khung tham chiếu hàng ngày cuả chúng ta chỉ là hiện thức đối cảm quan có nguồn gốc từ các tầng cơ sở cuả chư pháp. Duy chỉ có chư pháp mới sở đắc được chân lý hiện thực tối hậu: hiện hưũ hạn từ phiá tự thân cuả chúng (sarupato) độc lập với quá trình khái niệm hoá các dữ liệu cuả tâm.

 Such a conception of the nature of the real seems to be already implicit in the Sutta Pitaka, particularly in the Buddha's disquisitions on the aggregates, sense bases, elements, dependent arising, etc., but it remains there tacitly in the background as the underpinning to the more pragmatically formulated teachings of the Suttas. Even in the Abhidhamma Pitaka itself the dhamma theory is not yet expressed as an explicit philosophical tenet; this comes only later, in the Commentaries. Nevertheless, though as yet implicit, the theory still comes into focus in its role as the regulating principle behind the Abhidhamma's more evident task, the project of systemization.

Một khái niệm như thế về bản chất cuả hiện thưc dường như đã ẩn tàng trong Kinh Tạng đặc biệt là trong các bài giảng cuả Đức Phật về các thức, uẩn, đại (ví dụ tứ đại), nhân duyên, v.v., nhưng nó vẫn còn ẩn tàng phiá sau như là cơ sở cho những giáo lý được khuôn đúc một cách thực tiễn hơn trong Kinh điển. Ngay trong chính Luận Tạng , pháp luận vẫn chưa được trình bày như là nguyên lý triết học rõ ràng ; điều này chỉ xuất hiện về sau, trong các bản Chú Giải (Commentaries). Tuy nhiên, dù là tìm ẩn, pháp luận vẫn được tập trung quan tâm trong vai trò là nguyên tắc điều hành phiá sau nhiệm vụ hiển nhiên hơn cuả Tạng Vi Diệu Pháp, dự phóng cuả việc hệ thống hoá.

 This project starts from the premise that to attain the wisdom that knows things "as they really are," a sharp wedge must be driven between those types of entities that possess ontological ultimacy, that is, the dhammas, and those types of entities that exist only as conceptual constructs but are mistakenly grasped as ultimately real. Proceeding from this distinction, the Abhidhamma posits a fixed number of dhammas as the building blocks of actuality, most of which are drawn from the Suttas. It then sets out to define all the doctrinal terms used in the Suttas in ways that reveal their identity with the

Đề án này khởi sự từ tiền đề rằng để đạt được trí huệ hiểu được sự vật “như chúng thực sự là”, một cái nêm thật sắc phải được đóng vào giưã những loại thực thể sở đắc tối thượng bản thể học, nghiã là, chư pháp, và những thực thể chỉ tồn tại như là những dạng thức khái niệm nhưng bị nhận thức sai lầm là thực thể tối thượng. Tiến hành từ điểm biện biệt này, Tạng Vi Diệu Pháp chấp nhận một tiền đề về con số cố định cuả chư pháp như là cơ sở cuả hiện thực , mà hầu hết đều được rút ra từ Kinh điển. Rồi nó bắt đầu định nghiã tất cả những thuật ngữ kinh điển dùng

Page 4 of 25

Page 5: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

ontological ultimates recognized by the system. On the basis of these definitions, it exhaustively classifies the dhammas into a net of pre-determined categories and modes of relatedness which highlight their place within the system's structure. And since the system is held to be a true reflection of actuality, this means that the classification pinpoints the place of each dhamma within the overall structure of actuality.

trong Tạng Kinh theo cách cho thấy sự đồng nhất cuả chúng với những thực thể tối thượng bản thể học được hệ thống công nhận. Trên cơ sở cuả những định nghiã này nó xếp loại toàn diện chư pháp vào mạng cuả những phạm trù tiên định và các phương thức quan hệ làm nổi bật vị trí cuả chúng trong cấu trúc cuả hệ thống. Và bởi vì hệ thống được cho là phản ảnh chân thực cuả hiện thực, điều này có nghiã là việc phân loại xác định vị trí cuả mỗi pháp trong toàn bộ cấu trúc cuả hiện thực .

 The Abhidhamma's attempt to comprehend the nature of reality, contrary to that of classical science in the West, does not proceed from the standpoint of a neutral observer looking outwards towards the external world. The primary concern of the Abhidhamma is to understand the nature of experience, and thus the reality on which it focuses is conscious reality, the world as given in experience, comprising both knowledge and the known in the widest sense. For this reason the philosophical enterprise of the Abhidhamma shades off into a phenomenological psychology. To facilitate the understanding of experienced reality, the Abhidhamma embarks upon an elaborate analysis of the mind as it presents itself to introspective meditation. It classifies consciousness into a variety of types, specifies the factors and functions of each type, correlates them with their objects and physiological bases, and shows how the different types of consciousness link up with each other and with material phenomena to constitute the ongoing process of experience.

Nổ lực cuả Tạng Vi Diệu Pháp nhằm thấu hiểu bản chất cuả hiện thực, trái với nỗ lực cuả khoa học truyền thuyết phương Tây , không tiến hành từ quan điểm cuả người quan sát bàng quang nhìn một cách hướng ngoại về thế giới bên ngoài. Mối quan tâm lớn nhất cuả Tạng Vi Diệu Pháp là hiểu bản chất cuả kinh nghiệm, và do đó bản chất cuả hiện thực mà nó tập trung vào là hiện thực ý thức , thế giới đươc mang lại trong kinh nghiệm, bao gồm cả kiến thức và cái-biết -được với nghiã rộng nhất. Vì lý do này nỗ lực triết học cuả Tạng Luận thu tóm thành một tâm lý học hiện tượng logic. Để có thể hiểu hiện thực được thể nghiệm, Tạng Luận tiến hành phân tích toàn diện cái tâm như là nó tự hiển lộ khi thiền đinh hồi quang. Nó phân chia ý thức thành nhiều chủng loại đa dạng, nêu cụ thể những yếu tố và chức năng cuả mỗi loại, gắn kết chúng với các đối tượng cuả chúng và các cơ cở triết học cuả chúng, và cho thấy các chủng loại khác nhau cuả ý thức kết nối với nhau ra sao và với hiện tượng vật chất để tạo thành quá trình kinh nghiệm tiếp diễn.

 This analysis of mind is not motivated by theoretical curiosity but by the overriding practical aim of the Buddha's teaching, the attainment of deliverance from suffering. Since the Buddha traces suffering to our tainted attitudes — a mental orientation rooted in greed, hatred, and delusion — the Abhidhamma's phenomenological psychology also takes on the character of a psychological ethics, understanding the term "ethics" not in the narrow sense of a code of morality but as a complete guide to noble living and mental purification. Accordingly we find that the Abhidhamma distinguishes states of mind principally on the basis of ethical criteria: the wholesome and the unwholesome, the beautiful factors and the defilements. Its schematization of consciousness follows a hierarchical plan that corresponds to the successive stages of purity to which the Buddhist disciple attains by

Việc phân tích tâm như vậy không phải do động cơ hiếu kỳ phi thực tiễn mà chính vì mục đích thực tiễn xuyên suốt giáo lý Đức Phật, chứng đạt thoát khổ. Vì Đức Phật truy nguyên khổ từ các thái độ nhiễm trần cuả chúng ta - một định hướng tinh thần bắt nguồn từ tham, sân, si - Tâm lý học hiện tượng lô-gich cuả Luận cũng mang tính chất cuả đạo đức tâm lý , đạo đức không hiểu theo nghiã hẹp cuả những chuẩn mực luân lý mà là toàn bộ sự dẫn đạo đến cuộc sống cao thượng và thanh lọc tâm hồn. Theo đó, chúng ta phát hiện ra rằng Vi Diệu Pháp phân biệt các trạng thái cuả tâm dưạ trên các tiêu chuẩn đạo đức: lành mạnh hay không lành mạnh, những yếu tố đẹp và những điều hư hỏng (tịnh >< cấu). Nó sơ đồ hoá ý thức theo dạng từ thấp đến cao tuỳ ứng với các bậc thành công trong việc thanh lọc mà đệ tử Phật chứng

Page 5 of 25

Page 6: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

practice of the Buddha's path. This plan traces the refinement of the mind through the progression of meditative absorptions, the fine-material-sphere and immaterial-sphere jhanas, then through the stages of insight and the wisdom of the supramundane paths and fruits. Finally, it shows the whole scale of ethical development to culminate in the perfection of purity attained with the mind's irreversible emancipation from all defilements.

đạt bằng cách tu tập theo con đường cuả Đức Phật. Sơ đồ này cho thấy sự luyện tâm qua sự tinh tiến thâm nhập thiền, các cảnh giới thiền vật chất tế vi và tầng thiền phi phi tưởng, rồi đến các bậc nội quan và trí huệ cuả các con đường thoát tục và chứng quả. Cuối cùng, nó pha từ lộ toàn bộ qui mô phát triển đạo đức đến điểm đỉnh cuả việc thanh lọc viên mãn đạt được với tâm- giải - thoát - bất -thoái - chuyển khỏi các phiền trược.

 All three dimensions of the Abhidhamma — the philosophical, the psychological, and the ethical — derive their final justification from the cornerstone of the Buddha's teaching, the program of liberation announced by the Four Noble Truths. The ontological survey of dhammas stems from the Buddha's injunction that the noble truth of suffering, identified with the world of conditioned phenomena as a whole, must be fully understood (pariññeyya). The prominence of mental defilements and requisites of enlightenment in its schemes of categories, indicative of its psychological and ethical concerns, connects the Abhidhamma to the second and fourth noble truths, the origin of suffering and the way leading to its end. And the entire taxonomy of dhammas elaborated by the system reaches its consummation in the "unconditioned element" (asankhata dhatu), which is Nibbana, the third noble truth, that of the cessation of suffering.

Tất cả ba chiều cuả Tạng Luận - triết học, tâm lý học, đạo đức học - có nguyên uỷ từ hòn đá tảng cuả giáo lý cuả Đức Phật, chương trình giải thoát được tuyên bố qua Tứ Thánh Đế. Sự khảo sát bản thể học về chư pháp bắt nguồn từ huấn lệnh cuả Đức Phật là Khổ Đế, đồng nhất với các hiện tượng bị qui định (ràng buộc) như là một toàn thể phải được giác ngộ (parinneyya). Sự nổi bật cuả các phiển trược về tinh thần và sự tất yếu phải giác ngộ trong hệ thống các phạm trù cuả nó, là chỉ dấu cho mối quan hệ tâm lý học và đạo đức học cuả nó, kết nối Luận với đệ nhị và đệ tứ Thánh Đế, nguồn gốc cuả khổ và con đường dẫn đến chấm dứt khổ. Và toàn bộ việc phân loại phạm trù cuả chư pháp được hệ thống nghiên cứu cách chi tiết đạt mức hoàn hảo cuả nó trong “nguyên tố không còn bị qui định” (asankhata dhatu) tức là Niết bàn, đệ tam Thánh Đế, chấm dứt khổ.

The Twofold Method

The great Buddhist commentator, Acariya Buddhaghosa, explains the word "Abhidhamma" as meaning "that which exceeds and is distinguished from the Dhamma" (dhammatireka-dhammavisesa), the prefix abhi having the sense of preponderance and distinction, and dhamma here signifying the teaching of the Sutta Pitaka.1 When the Abhidhamma is said to surpass the teaching of the Suttas, this is not intended to suggest that the Suttanta teaching is defective in any degree or that the Abhidhamma proclaims some new revelation of esoteric doctrine unknown to the Suttas. Both the Suttas and the Abhidhamma are grounded upon the Buddha's unique doctrine of the Four Noble Truths, and all the principles essential to the attainment of enlightenment are already expounded in the Sutta Pitaka. The difference between the two in no way concerns fundamentals but is, rather, partly a matter of scope and partly a matter of method.

Phương Pháp Xếp Đôi

Nhà Phật luận nỗi tiếng, Acarya Buddhaghosa, giải thích từ “Tạng Vi Diệu Pháp” với nghiã là “ vượt lên trên Pháp” (dhammatireka - dhammavisesa), tiền tố abhi có nghiã là siêu việt và nổi bật, và dhamma ở đây có nghiã là giáo pháp cuả Đức Phật trong Tạng Kinh. Khi Tạng Vi Diệu Pháp được cho là vượt lên giáo lý cuả Tạng kinh, thì điều đó không có ý cho rằng giáo lý cuả kinh có khiếm khuyết ở chừng mực nào đó hoặc là Tạng Luận tuyên bố khải ngộ mới nào đó về học thuyết áo bí mà Tạng kinh chưa hề biết đến. Cả Tạng Kinh và Tạng Luận đều đặt nền móng trên học thuyết duy nhất cuả Đức Phật về Tứ Diệu Đế, và tất cả những nguyên tắc cốt yếu cho sự đạt ngộ đã được Kinh Tạng minh giải. Cái khác giưã Kinh và Luận không hề liên quan đến các nguyên lý nền tảng mà là, chính ra, một phần ở phạm vi, một phần là vấn đề phương pháp.

 As to scope, the Abhidhamma offers a thoroughness and Về phạm vi, Luận đề ra cách xử lý thấu đáo và toàn

Page 6 of 25

Page 7: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

completeness of treatment that cannot be found in the Sutta Pitaka. Acariya Buddhaghosa explains that in the Suttas such doctrinal categories as the five aggregates, the twelve sense bases, the eighteen elements, and so forth, are classified only partly, while in the Abhidhamma Pitaka they are classified fully according to different schemes of classification, some common to the Suttas, others unique to the Abhidhamma.2 Thus the Abhidhamma has a scope and an intricacy of detail that set it apart from the Sutta Pitaka.

diện mà trong Kinh Tạng không thấy có. Acariya Buddhaghosa giải thích rằng trong Tạng Kinh những phạm trù trừu tượng mang tính học thuyết như ngũ uẩn, thập nhị xứ, Thập bát chất và v.v., chỉ được phân loại một phần, trong khi trong Luận Tạng, chúng được phân loại đầy đủ theo các lược đồ phân loại khác nhau, một số giống như trong Tạng Kinh, số khác chỉ có trong Tạng Luận. Như vậy Tạng Luận có phạm vi và tế vi làm cho nó khác với Kinh Tạng.

 The other major area of difference concerns method. The discourses contained in the Sutta Pitaka were expounded by the Buddha under diverse circumstances to listeners with very different capacities for comprehension. They are primarily pedagogical in intent, set forth in the way that will be most effective in guiding the listener in the practice of the teaching and in arriving at a penetration of its truth. To achieve this end the Buddha freely employs the didactic means required to make the doctrine intelligible to his listeners. He uses simile and metaphor; he exhorts, advises, and inspires; he sizes up the inclinations and aptitudes of his audience and adjusts the presentation of the teaching so that it will awaken a positive response. For this reason the Suttanta method of teaching is described as pariyaya-dhammadesana, the figurative or embellished discourse on the Dhamma.

Một lãnh vực quan trọng khác cuả sự khác biệt liên quan đến phương pháp. Các bài giảng trong Kinh Tạng được Đức Phật thuyết giảng trong nhiều hoàn cảnh đa dạng cho các thính giả với nhiều trình độ thính pháp khác nhau. Những bài giảng ấy thoạt đầu có ý làm cho dễ hiểu (mang tính sư phạm), được đưa ra theo cách làm thế nào cho có hiệu quả nhất trong việc hướng dẫn thính giả thực hành giáo lý và thâm nhập được chân lý cuả giaó lý. Để đạt được mục đích này, Đức Phật thoải mái dùng các phương tiện giảng giải dễ hiểu làm cho thính giả lĩnh hội được học thuyết. Ngài dùng các phương pháp tương đồng, ẩn dụ; Ngài thôi thúc, kuyên nhủ, động viên; ngài nắm bắt được xu hướng, thái độ cuả thính giả và điều chỉnh cách trình bày giáo lý để có thể tạo được sự đáp ứng tích cực . Do đó mà phương pháp trong Kinh được mô tả là bài giảng đầy hình ảnh và hoa mỹ về Pháp (pariyaaaya-dhammadesana).

In contrast to the Suttas, the Abhidhamma Pitaka is intended to divulge as starkly and directly as possible the totalistic system that underlies the Suttanta expositions and upon which the individual discourses draw. The Abhidhamma takes no account of the personal inclinations and cognitive capacities of the listeners; it makes no concessions to particular pragmatic requirements. It reveals the architectonics of actuality in an abstract, formalistic manner utterly devoid of literary embellishments and pedagogical expedients. Thus the Abhidhamma method is described as the nippariyaya-dhammadesana, the literal or unembellished discourse on the Dhamma.

Trái ngược với Tạng Kinh, Tạng Luật (Vi Diệu Pháp) nhằm mở toang trưc tiếp và đơn giản hệ thống nhất thể toàn cục ẩn tàng bên dưới sự hiển lộ cuả Tạng Kinh và gốc xuất phát cuả các bài giảng. Vi Diệu Pháp không quan tâm đến xu hướng cá nhân và trình độ nhận thức cuả thính giả; nó không nhượng bộ bất cứ những yêu cầu thực tiễn đặc thù nào. Nó cho thấy thiết kế kết cấu cuả hiện thực theo phong cách trừu tượng, chính thống hoàn hoàn không có chỗ cho ngôn từ hoa mỹ, các biện pháp hỗ trợ dễ hiểu. Do đó phương pháp cuả Luận được mô tả là bài giảng chân phương, không hoa mỹ về Pháp (nippariyaya-dhammadesana).

This difference in technique between the two methods also influences their respective terminologies. In the Suttas the Buddha regularly makes use of conventional language (voharavacana) and accepts conventional truth (sammutisacca), truth expressed in terms of entities that

Sư khác nhau về kỹ thuật giưã hai phương pháp cũng có ãnh hưởng đến hệ thống thuật ngữ tương ứng. Trong Tạng kinh Phật thường dùng ngôn ngữ qui ước (voharavacana) và chấp nhận chân lý qui ước (sammutisacca), chân lý được diễn đạt bằng các từ

Page 7 of 25

Page 8: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

do not possess ontological ultimacy but can still be legitimately referred to them. Thus in the Suttas the Buddha speaks of "I" and "you," of "man" and "woman," of living beings, persons, and even self as though they were concrete realities. The Abhidhamma method of exposition, however, rigorously restricts itself to terms that are valid from the standpoint of ultimate truth (paramatthasacca): dhammas, their characteristics, their functions, and their relations. Thus in the Abhidhamma all such conceptual entities provisionally accepted in the Suttas for purposes of meaningful communication are resolved into their ontological ultimates, into bare mental and material phenomena that are impermanent, conditioned, and dependently arisen, empty of any abiding self or substance.

ngữ thực tại không chứa đựng chân lý tối thượng bản thể học nhưng vẫn nói được đúng mức về chúng. Do đó trong Tạng Kinh, Đức Phật nói đến “Tôi”, “anh”, nói đến “nam”, và ”nữ”, nói đến chúng sinh, con người ngay cả bản ngã như là những thực thể cụ thể. Phương pháp trình bày cuả Tạng Luận, tuy nhiên hạn chế nghiêm ngặt trong vòng các thuật ngữ có giá trị trên quan điểm cuả chân lý tối thượng (paramatthtasacca): chư pháp, các tính chất cuả chúng, các chức năng cuả chúng, và các mối quan hệ cuả chúng. Do đó trong Tạng Luận tất cả những thực thể mang tính khái niệm tạm thời được chấp nhận trong Tạng Kinh như thế nhằm mục đích truyền thông cụ thể được chuyển thành mục tiêu bản thể học tối thượng, thành các hiện tượng vật chất tinh thấn trần trụi vô thường, triền phược (bị qui định), nhân duyên sinh (phát sinh tuỳ thuộc), vô ngã, không.

But a qualification is necessary. When a distinction is drawn between the two methods, this should be understood to be based on what is most characteristic of each Pitaka and should not be interpreted as an absolute dichotomy. To some degree the two methods overlap and interpenetrate. Thus in the Sutta Pitaka we find discourses that employ the strictly philosophical terminology of aggregates, sense bases, elements, etc., and thus come within the bounds of the Abhidhamma method. Again, within the Abhidhamma Pitaka we find sections, even a whole book (the Puggalapaññatti), that depart from the rigorous manner of expression and employ conventional terminology, thus coming within the range of the Suttanta method.

Nhưng một sự định tính là cấn thiết. Khi có sự phân biệt giưã hai phuơng pháp, điều này phải được hiểu là được căn cứ trên điều đặc trưng cho mổi Tạng và không nên hiểu là sự phân biệt tuyệt đối. Ở chừng mực nào đó hai phượng pháp thâm nhập lẫn nhau, chồng lấn nhau. Do đó trong Kinh Tạng chúng ta tìm thấy những bài giảng sử dụng những thuật ngữ triết học nghiêm túc như uẩn, xứ, đại, etc., và như thế nằm trong phạm vi cuả phương pháp cuả Tạng Luận. Lại nưã trong Luận Tạng ta còn tìm thấy những phần, ngay cả cả quyển Nhân Chế Định (Puggalapannatti), ly khai khỏi cách diễn đạt trang nghiêm và việc sử dụng các thuật ngữ qui ước, và như vậy rơi vào phảm vi phương pháp cuả Kinh.

Distinctive Features of the Abhidhamma

Apart from its strict adherence to the philosophical method of exposition, the Abhidhamma makes a number of other noteworthy contributions integral to its task of systemization. One is the employment, in the main books of the Abhidhamma Pitaka, of a matika — a matrix or schedule of categories — as the blueprint for the entire edifice. This matrix, which comes at the very beginning of the Dhammasangani as a preface to the Abhidhamma Pitaka proper, consists of 122 modes of classification special to the Abhidhamma method. Of these, twenty-two are triads (tika), sets of three terms into which the fundamental dhammas are to be distributed; the remaining hundred are dyads (duka), sets of two terms used as a basis for classification.3 The matrix serves as a kind of grid for sorting out the complex manifold of

Các đặc điểm riêng cuả Luận

Ngoài việc gắn chặt với phuơng pháp trình bày triết học cuả mình, Luận Tạng còn có những đóng góp quan trọng đối với nhiệm vụ hệ thống hoá cuả mình. Một trong những đóng góp đó là việc sử dụng, trong các sách chính cuả Luận Tạng, một matika - một ma trận hoặc là sơ đồ các phạm trù - như là sơ đồ cho toàn bộ toàn bộ cấu trúc. Ma trận này , ở đầu quyển Pháp Tụ - Dhammasangani như là lời nói đầu thích hợp cuả Luận Tạng, gồm 122 cách phân loại đặc thù cho phương pháp cuả Luận. Trong số đó, có 22 nhóm 3 (tika), các bộ từng 3 thuật ngữ mà theo đó các pháp nền tảng được phân bố; còn lại là hàng trăm nhóm 2 (duka), các bộ gồm 2 thuật ngữ dùng làm cơ sở cho việc xếp loại. Ma trận dùng như là một loại mạng để phân loại kinh nghiệm phức tạp đa dạng

Page 8 of 25

Page 9: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

experience in accordance with principles determined by the purposes of the Dhamma. For example, the triads include such sets as states that are wholesome, unwholesome, indeterminate; states associated with pleasant feeling, painful feeling, neutral feeling; states that are kamma results, productive of kamma results, neither; and so forth. The dyads include such sets as states that are roots, not roots; states concomitant with roots, not so concomitant; states that are conditioned, unconditioned; states that are mundane, supramundane; and so forth. By means of its selection of categories, the matrix embraces the totality of phenomena, illuminating it from a variety of angles philosophical, psychological, and ethical in nature.

phù hợp với những nguyên tắc được quyết định bởi những mục đích cuả Pháp. Ví dụ những nhóm 3 bao gồm những bộ nói về tình trạng như kiện khang, không kiện khang và không quyết định; những tình trạng gắn với những cảm xúc vui tươi, cảm xúc đau đớn, cảm xúc trung tính; những tình trạng là kết quả của nghiệp, dẫn xuất từ những kết quả cuả nghiệp, không thuộc hai cái trước v.v. Những nhóm hai bao gồm những bộ như những tình trạng các căn, không phải các căn; những tình trạng tuỳ thuộc với các căn, không tuỳ thuộc như vậy; những tính trạng bị qui định, không bị qui định; những tình trạng trần tục, siêu trần; v.v. Bằng cách chọn những phạm trù, ma trận quán xuyến tổng thể các hiện tượng, chiếu sáng chúng từ hàng loạt các góc khác nhau về triết thọc, tâm lý học và đạo đức học trong bản chất.

A second distinguishing feature of the Abhidhamma is the dissection of the apparently continuous stream of consciousness into a succession of discrete evanescent cognitive events called cittas, each a complex unity involving consciousness itself, as the basic awareness of an object, and a constellation of mental factors (cetasika) exercising more specialized tasks in the act of cognition. Such a view of consciousness, at least in outline, can readily be derived from the Sutta Pitaka's analysis of experience into the five aggregates, among which the four mental aggregates are always inseparably conjoined, but the conception remains there merely suggestive. In the Abhidhamma Pitaka the suggestion is not simply picked up, but is expanded into an extraordinarily detailed and coherent picture of the functioning of consciousness both in its microscopic immediacy and in its extended continuity from life to life.

Điểm riêng thứ hai cuả Luận là phân đoạn dòng ý thức hiển hiện liên tục thành những chuỗi những sự kiện tinh thần ngắn nguỉ gọi là citta (chất đa: tâm ý), mỗi đơn nguyên phức thể như vậy tham gia vào chính bản thân ý thức, với tư cách sự ý thức cơ bản cuả một đối tượng, và tập hợp các yếu tố tinh thần (cetasika) thực hiện các nhiệm vụ chuyên biệt hơn trong hành động nhận thức. Quan điểm như vậy về ý thức, ít nhất là ở bước phát hoạ, có thễ sẵn sàng rút ra từ sự phân tách cuả Kinh Tạng về kinh nghiệm thành ngủ uẩn, trong đó bốn uẩn tinh thần (thọ tưởng, hành thức) luôn gắn kết không rời, nhưng khái niệm vẩn còn đấy chỉ như là gợi mở. Trong Luận Tạng sự gợi mở không chỉ là chỉ ra mà còn là mở rộng thành một bức tranh cực kỳ chi tiết và chặt chẽ cuả chức năng nhận thức trong cả trong khoảnh khắc tức thì vĩ mô lẫn trong sự miên tục (liên tục triền miên) đời đời.

A third contribution arises from the urge to establish order among the welter of technical terms making up the currency of Buddhist discourse. In defining each of the dhammas, the Abhidhamma texts collate long lists of synonyms drawn mostly from the Suttas. This method of definition shows how a single dhamma may enter under different names into different sets of categories. For example, among the defilements, the mental factor of greed (lobha) may be found as the taint of sensual desire, the taint of (attachment to) existence, the bodily knot of covetousness, clinging to sensual pleasures, the hindrance of sensual desire, etc.; among the requisites of enlightenment, the mental factor of wisdom (pañña) may be found as the faculty and power of wisdom, the

Sự đóng góp thứ ba khởi sinh từ sự thôi thúc thiết lập trật tự giưã đám lộn xộn cuả các thuật ngữ làm nên sự phổ biến cuả các bài giảng Phật giáo. Trong việc xác định mỗi trong chư pháp, các văn bản cuả Luận tập hợp các danh sách liệt kê dài các từ đồng nghiã hầu hết rút ra từ Tạng kinh. Phương pháp định nghiã này cho thấy cách mà một pháp riêng lẻ có thể mang những tên khác nhau vào trong các bộ phạm trù khác nhau. Ví dụ, trong những phiền não, yếu tố tinh thần cuả thân (lobha) có thể tìm thấy như là nhiễm dục cảm quan, nhiễm (ham) sống, sự ràng buộc tham lam về thể xác, đeo bám các thú vui cảm quan, sự cản ngại cuả ham muốn cảm quan, etc; trong số những yêu cầu giác ngộ, yếu tố tinh thần cuả trí tuệ (panna)

Page 9 of 25

Page 10: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

enlightenment factor of investigation of states, the path factor of right view, etc. In establishing these correspondences, the Abhidhamma helps to exhibit the interconnections between doctrinal terms that might not be apparent from the Suttas themselves. In the process it also provides a precision-made tool for interpreting the Buddha's discourses.

có thể được tìm thấy với tư cách là khã năng và sức mạnh cuả trí tuệ, yếu tố giác ngộ cuả việc truy vấn các tình trạng, yếu tố dẫn đạo cuả chính kiến, etc.Trong vệc thiết lập các mối quan hệ này, Luận giúp hiển bày mối quan hệ hỗ tương giưã các thuật ngữ trừu tượng có thể không rõ ràng chính trong chư Kinh.Trong quá trình nó cũng cung cấp các công cụ chế tác chính xác để hiểu các bài giảng cuả Đức Phật

A third contribution arises from the urge to establish order among the welter of technical terms making up the currency of Buddhist discourse. In defining each of the dhammas, the Abhidhamma texts collate long lists of synonyms drawn mostly from the Suttas. This method of definition shows how a single dhamma may enter under different names into different sets of categories. For example, among the defilements, the mental factor of greed (lobha) may be found as the taint of sensual desire, the taint of (attachment to) existence, the bodily knot of covetousness, clinging to sensual pleasures, the hindrance of sensual desire, etc.; among the requisites of enlightenment, the mental factor of wisdom (pañña) may be found as the faculty and power of wisdom, the enlightenment factor of investigation of states, the path factor of right view, etc. In establishing these correspondences, the Abhidhamma helps to exhibit the interconnections between doctrinal terms that might not be apparent from the Suttas themselves. In the process it also provides a precision-made tool for interpreting the Buddha's discourses.

Sự đóng góp thứ ba khởi sinh từ sự thôi thúc thiết lập trật tự giưã đám lộn xộn cuả các thuật ngữ làm nên sự phổ biến cuả các bài giảng Phật giáo. Trong việc xác định mỗi trong chư pháp, các văn bản cuả Luận tập hợp các danh sách liệt kê dài các từ đồng nghiã hầu hết rút ra từ Tạng kinh. Phương pháp định nghiã này cho thấy cách mà một pháp riêng lẻ có thể mang những tên khác nhau vào trong các bộ phạm trù khác nhau. Ví dụ, trong những phiền não, yếu tố tinh thần cuả thân (lobha) có thể tìm thấy như là nhiễm dục cảm quan, nhiễm (ham) sống, sự ràng buộc tham lam về thể xác, đeo bám các thú vui cảm quan, sự cản ngại cuả ham muốn cảm quan, etc; trong số những yêu cầu giác ngộ, yếu tố tinh thần cuả trí tuệ (panna) có thể được tìm thấy với tư cách là khã năng và sức mạnh cuả trí tuệ, yếu tố giác ngộ cuả việc truy vấn các tình trạng, yếu tố dẫn đạo cuả chính kiến, etc.Trong vệc thiết lập các mối quan hệ này, Luận giúp hiển bày mối quan hệ hỗ tương giưã các thuật ngữ trừu tượng có thể không rõ ràng chính trong chư Kinh.Trong quá trình nó cũng cung cấp các công cụ chế tác chính xác để hiểu các bài giảng cuả Đức Phật

The Abhidhamma conception of consciousness further results in a new primary scheme for classifying the ultimate constituents of existence, a scheme which eventually, in the later Abhidhamma literature, takes precedence over the schemes inherited from the Suttas such as the aggregates, sense bases, and elements. In the Abhidhamma Pitaka the latter categories still loom large, but the view of mind as consisting of momentary concurrences of consciousness and its concomitants leads to a fourfold method of classification more congenial to the system. This is the division of actuality into the four ultimate realities (paramattha): consciousness, mental factors, material phenomena, and Nibbana (citta, cetasika, rupa, nibbana), the first three comprising conditioned reality and the last the unconditioned element.

Nhận thức cuả Luận về ý thức mang lại kết quả xa hơn nưã trong một sơ đồ quan trọng để phân loại các yếu tố tối thượng hình thành hiện thực, một sơ đồ cuối cùng, trong văn bản cuả Luận về sau chiếm ưu thế hơn các sơ đồ thừa kế từ Tạng Kinh như là uẩn, xứ, đại. Trong Luận Tạng, các phạm trù sau vẫn còn rõ ràng, nhưng quan điểm về tâm như là bao gồm những dự hội tụ thoáng qua cuả ý thức và các yếu tố tuỳ thuộc dẫn đến phương pháp phân loại gấp bốn phù hợp hơn với hệ thống. Đó là việc phân chia hiện thực ra thành bốn thực thể tối thượng (paramattha): ý thức, các yếu tố tinh thần, các hiện tượng vật chất và Niết bàn (citta, cetasika, rupa, nibbana), ba cái trước bao gồm hiện thực bị ràng buộc (bị qui định) và cái cuối cùng là yếu tố không bị qui định.

Page 10 of 25

Page 11: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

The last novel feature of the Abhidhamma method to be noted here — contributed by the final book of the Pitaka, the Patthana — is a set of twenty-four conditional relations laid down for the purpose of showing how the ultimate realities are welded into orderly processes. This scheme of conditions supplies the necessary complement to the analytical approach that dominates the earlier books of the Abhidhamma. The method of analysis proceeds by dissecting apparent wholes into their component parts, thereby exposing their voidness of any indivisible core that might qualify as self or substance. The synthetic method plots the conditional relations of the bare phenomena obtained by analysis to show that they are not isolated self-contained units but nodes in a vast multi-layered web of inter-related, inter-dependent events. Taken in conjunction, the analytical method of the earlier treatises of the Abhidhamma Pitaka and the synthetic method of the Patthana establish the essential unity of the twin philosophical principles of Buddhism, non-self or egolessness (anatta) and dependent arising or conditionality (paticca samuppada). Thus the foundation of the Abhidhamma methodology remains in perfect harmony with the insights that lie at the heart of the entire Dhamma.

Điểm mới cuối cùng cuả phương pháp cuả Luận được ghi nhận ở đây - do quyển cuối cùng cuả Tạng đóng góp,là Bộ Vị Trí (Phát Thú - Patthana ) là một bộ 24 mối quan hệ ràng buộc được đưa ra làm thấy cách các hiện thực tối tượng được kết thành các quá trình trật tự. Sơ đồ này cuả các điều kiện cung cấp sự bổ sung cần thiết cho phương pháp phân tích thống trị các quyển trước cuả Luận. Phương pháp phân tích tiến hành bằng cách phân chia cái toàn thể hiển nhiên thành các yếu tố thành phần cuả chúng, theo đó phơi bày cái không cuả bất cư cốt lõi bất khả phân nào mà có thể cho là ngã hay chất. Phương pháp tổng hợp sắp xếp các mối quan hệ có điều kiện cuả các hiện tượng trần trụi do sự phân tích đem lại cho thấy chúng không phải là các đơn vị tự hữu biệt lập mà là những nút trong một mạng nhiều tầng lớp mênh mông cuả các sự kiện tương liên, tuỳ thuộc lẫn nhau. Chẳng hạn, phương pháp phân tích những bài giảng trước đây cuả Luận Tạng và phương pháp tổng hợp cuả Bộ Vị Trí (Phát Thú - Patthana thiết lập sự thống nhất nền tảng cho những nguyên lý triết học song sinh cuả Phật giáo, vô ngã (anatta, non-self hay egolessness). Do đó nền tảng cuả phương pháp luận cuả Luận vẫn là sự hài hoà tuyệt vời với sự chiếu kiến nội quan nằm trong lòng cuả Pháp.

The Origins of the Abhidhamma

Although modern critical scholarship attempts to explain the formation of the Abhidhamma by a gradual evolutionary process,4 Theravada orthodoxy assigns its genesis to the Buddha himself. According to the Great Commentary (maha-atthakatha) quoted by Acariya Buddhaghosa, "What is known as Abhidhamma is not the province nor the sphere of a disciple; it is the province, the sphere of the Buddhas."5 The commentarial tradition holds, moreover, that it was not merely the spirit of the Abhidhamma, but the letter as well, that was already realized and expounded by the Buddha during his lifetime.

Các nguồn gốc của Tạng Luận (Vi Diệu Pháp)

Mặc dù học thật phê bình hiện đại cố gắng giải thích sự hình thành cuả Luận bằng quá trình phát triển tiến hoá dần dần, chính thống giáo Therevada cho rằng sự ra đời cuả nó gắn với Đức Phật. Theo Đại luận văn (maha-atthakathaa) do Acariya Buddhaghosa trích dẫn, Luân được biết không phải là lĩnh vực cũng không phải là phạm vi cuả một tông đồ; nó là phạm vi, lĩnh vực cuả chư Phật. Hơn nưã, truyền thuyết luận văn cho rằng nó không chỉ là tinh thần cuả Luận, mà cả ngôn từ nuã, đã được Đức Phật thực hiện và rao giảng trong khi ngài còn tại thế.

The Atthasalini relates that in the fourth week after the Enlightenment, while the Blessed One was still dwelling in the vicinity of the Bodhi Tree, he sat in a jewel house (ratanaghara) in the northwest direction. This jewel house was not literally a house made of precious stones, but was the place where he contemplated the seven books of the Abhidhamma Pitaka. He contemplated their contents in turn, beginning with the Dhammasangani, but while investigating the first six books his body did not

Atthasalini kể rằng trong bốn tuần lễ sau khi Đại ngộ, trong khi Đức Thế tôn vẫn còn lưu lại trong phạm vi gần Cội Bồ Đề, ngài an toạ trong một ngôi nhà bằng châu báu (ratanaghara) về hướng tây bắc. Ngôi nhà này không phải thật sư làm bằng đá quí, nhưng là nơi ngài quán tưởng về bảy quyển thuộc Luận Tạng. Ngài tuần tự quán tưởng về nội dung cuả chúng, bắt đầu với quyển Pháp Tụ - Dhammasangani, tuy nhiên trong khi quán xét sáu

Page 11 of 25

Page 12: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

emit rays. However, upon coming to the Patthana, when "he began to contemplate the twenty-four universal conditional relations of root, object, and so on, his omniscience certainly found its opportunity therein. For as the great fish Timiratipingala finds room only in the great ocean 84,000 yojanas in depth, so his omniscience truly finds room only in the Great Book. Rays of six colors — indigo, golden, red, white, tawny, and dazzling — issued from the Teacher's body, as he was contemplating the subtle and abstruse Dhamma by his omniscience which had found such opportunity."6

quyển đầu, thân ngài không phát hào quang. Nhưng khi ngài quán tưởng đến quyển Vị Trí (Phát Thú - Patthana, khi ngài quán tưởng đến 24 mối quan hệ ràng buộc như căn nguyên, đối tượng , và v.v. đại trí cuả ngài mới tìm thấy cơ duyên trong đó. Như đại kình ngư Timiratipingala chỉ tìm thấy nơi vẫy vùng cuả mình ở độ sâu 84.000 yojana dưới biển sâu, như thế, đại trí cuả ngài chỉ tìm thấy đất dụng võ trong Đại thư. Hào quang sáu màu - xanh ngọc, vàng ánh kim, đỏ, trắng, vàng nâu và ánh kim lấp lánh - phóng ra từ thân cuả Đấng Đại sư, khi ngài quán tưởng Pháp vi diệu, cơ duyên cho đại trí cuả ngài.

Theravada orthodoxy thus maintains that the Abhidhamma Pitaka is authentic Word of the Buddha, in this respect differing from an early rival school, the Sarvastivadins. This school also had an Abhidhamma Pitaka consisting of seven books, considerably different in detail from the Theravada treatises. According to the Sarvastivadins, the books of the Abhidhamma Pitaka were composed by Buddhist disciples, several being attributed to authors who appeared generations after the Buddha. The Theravada school, however, holds that the Blessed One himself expounded the books of the Abhidhamma, except for the detailed refutation of deviant views in the Kathavatthu, which was the work of the Elder Moggaliputta Tissa during the reign of Emperor Asoka.

Chính thống giáo Therevada do đó chủ trương rằng Luận Tạng là chân ngôn cuả Phật, về phương diện này khác với một trường phái đối lập trước đây, trường phái Sarvastivadins. Trường phái này cũng có Luận Tạng gồm bảy quyển, khác về chi tiết với những bài giàng cuả Phật Giáo Nguyên Thủy Therevada. Theo phái Sarvastivadins, các quyển thuộc Luận Tạng là do các đệ tử Phật soạn ra, trong đó có mấy quyển được cho là cuả các tác giả có vẻ thuộc các thế hệ sau Đức Phật. Tuy nhiên trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy Therevada cho rằng chính Đấng Thế Tôn đã giảng các quyển thuộc Tạng Luận, ngoại trừ việc bác bỏ có thẳng thừng những quan điểm khác biệt trong Bộ Ngữ Tông (Biện Giải - Kathavatthu), là tác phẩm cuả kỳ lão Moggaliputta Tissa trong thời trị vì cuả Hoàng đế Asoka.

The Pali Commentaries, apparently drawing upon an old oral tradition, maintain that the Buddha expounded the Abhidhamma, not in the human world to his human disciples, but to the assembly of devas or gods in the Tavatimsa heaven. According to this tradition, just prior to his seventh annual rains retreat the Blessed One ascended to the Tavatimsa heaven and there, seated on the Pandukambala stone at the foot of the Paricchattaka tree, for the three months of the rains he taught the Abhidhamma to the devas who had assembled from the ten thousand world-systems. He made the chief recipient of the teaching his mother, Mahamaya-devi, who had been reborn as a deva. The reason the Buddha taught the Abhidhamma in the deva world rather than in the human realm, it is said, is because in order to give a complete picture of the Abhidhamma it has to be expounded from the beginning to the end to the same audience in a single session. Since the full exposition of the Abhidhamma requires three months, only devas and Brahmas could

Các bản Chú Giải Pali, rõ ràng căn cứ vào một truyền thuyết truyền miệng, cho rằng Đức Phật giảng Luận, không phải trong cõi người cho các đệ tử người cuả ngài, mà là cho một tập hợp chư thiên trên cõi trời Tavatimsa (Đạo lợi). Theo truyền thuyết này, chỉ trước khi nhập thất hằng năm lần thứ bảy vào muà mưa, Đức Thế tôn thăng lên cõi trời Đạo lợi và ở đấy, an toạ trên đá Pandukambala dưới gốc cây Paricchahataka, trong ba tháng muà mưa ngài giảng Luận cho chư thiên tập hợp từ ba nghìn thế giới. Người được chọn nhận pháp chính là mẹ ngài, Mahamaya-devi, người đã tái sinh lên cõi trời thay vì cõi người. Lý do Đức Phật giảng Luận trên cõi trời thay vì cõi người, theo truyền thuyết, là để có thể giảng Luận trọn trong một buổi giảng về toàn cảnh cuả Luận từ đầu đến cuối cho cùng đối tượng thính giả.. Bởi vì trình bày đầy đủ Luận cần ba tháng, chỉ chư thiên và Trời Phạm Thiên (Bhrama) mới có thể tiếp thu liên tục không gián đoạn, vì chỉ có họ mới có

Page 12 of 25

Page 13: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

receive it in unbroken continuity, for they alone are capable of remaining in one posture for such a length of time.

khả năng giữ vững ở một tư thế trong thời gian dài như vậy.

However, each day, to sustain his body, the Buddha would descend to the human world to go on almsround in the northern region of Uttarakuru. After collecting almsfood he went to the shore of Anotatta Lake to partake of his meal. The Elder Sariputta, the General of the Dhamma, would meet the Buddha there and receive a synopsis of the teaching given that day in the deva world: "Then to him the Teacher gave the method, saying, 'Sariputta, so much doctrine has been shown.' Thus the giving of the method was to the chief disciple, who was endowed with analytical knowledge, as though the Buddha stood on the edge of the shore and pointed out the ocean with his open hand. To the Elder also the doctrine taught by the Blessed One in hundreds and thousands of methods became very clear."7

Tuy nhiên, mỗi ngày, để duy trì thân thể của mình, Đức Phật xuống cõi người khất thực ở vùng phiá bắc Uttarakuru. Sau khi khất thực xong, ngài đi đến bờ hồ Anotatta để thọ trai. Trưởng lảo Sariputta, Tổng Trì Pháp, sẽ đến diện kiến Đức Phật để nhận tóm tắt giáo lý giảng trong ngày trên cõi trời: Rồi Đức Phật trao cho ông phương pháp, nói rằng, “Sariputta, có vô vàn giáo pháp đã được trình bày” . Như thế đấy, Đức Phật trao phương pháp cho truởng lão, người rất giỏi về kiến thức phân tích, khi ngài đứng trên bờ và mở bàn tay chỉ ra biển. Đối với Trưởng lão giáo pháp do Đức Thế tôn giảng dạy bằng trăm ngàn phương pháp cũng trở nên sáng tỏ.7”

Having learned the Dhamma taught him by the Blessed One, Sariputta in turn taught it to his own circle of 500 pupils, and thus the textual recension of the Abhidhamma Pitaka was established. To the Venerable Sariputta is ascribed the textual order of the Abhidhamma treatises as well as the numerical series in the Patthana. Perhaps we should see in these admissions of the Atthasalini an implicit acknowledgement that while the philosophical vision of the Abhidhamma and its basic architecture originate from the Buddha, the actual working out of the details, and perhaps even the prototypes of the texts themselves, are to be ascribed to the illustrious Chief Disciple and his entourage of students. In other early Buddhist schools, too, the Abhidhamma is closely connected with the Venerable Sariputta, who in some traditions is regarded as the literal author of Abhidhamma treatises.8

Học được Pháp từ Đức Thế tôn, Sariputta lại đem truyền lại cho 500 đồ đệ cuả mình, và thế là bản Chú Giải Luận Tạng được thiết lập. Đối với Đại đức Sariputta được cho là sắp đặt trật tư cuả các bài giảng cuả Luận Tạng cũng như là đánh số thứ tự trong quyển Vị Trí (Phát Thú – Patthana). Có lẽ ta nên tìm thấy trong những xác nhận này cuả Atthasalini một sự xác nhận gián tiếp rằng trong khi nhãn quan triết học và cấu trúc nền tảng cuả Luận Tạng là xuất phát từ Đức Phật, việc trình bày các chi tiết, và ngay cả chính khuôn mẫu văn bản là thuộc về Đại tông đồ và các đồ đệ cuả ông. Trong các trường phái đạo Phật khác cận thời Đức Phật, thì Luận cũng liên quan mật thiết đến Đaị đức Sariputta, người mà theo các truyền thuyết được coi là tác giả văn bản cuả các bài giảng cuả Luận.

 

Phần II

The Seven Books

A brief outline of the contents of the seven canonical Abhidhamma books will provide some insight into the plethora of textual material to be condensed and summarized by the Abhidhammattha Sangaha. The first book, the Dhammasangani, is the fountainhead of the entire system. The title may be translated "Enumeration of Phenomena," and the work does in fact undertake to

Bảy Quyển Tạng Luận

Việc tóm tắt nội dung cuả bảy quyển trong kho tàng Tạng Luận sẽ cung cấp một cái nhìn xuyên suốt vào khối văn bản đồ sộ này được cô đúc, tóm lược trong Vi Diệu Pháp Toát Yếu Abhidhammattha Sangala. Quyển đầu tiên, Bộ Pháp Tụ - Dhammasangani, là suối nguồn cuả toàn hệ thống. Tưạ đề có thể dịch là “Pháp Tụ”, và tác phẩm làm công việc rõ ràng là

Page 13 of 25

Page 14: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

compile an exhaustive catalog of the ultimate constituents of existence.

soạn thảo một bản thống kê hoàn chỉnh các yếu tố cấu thành tối thượng cuả hiện thực.

 Opening with the matika, the schedule of categories which serves as the framework for the whole Abhidhamma, the text proper is divided into four chapters. The first, "States of Consciousness," takes up about half of the book and unfolds as an analysis of the first triad in the matika, that of the wholesome, the unwholesome, and the indeterminate. To supply that analysis, the text enumerates 121 types of consciousness classified by way of their ethical quality.9 Each type of consciousness is in turn dissected into its concomitant mental factors, which are individually defined in full. The second chapter, "On Matter," continues the inquiry into the ethically indeterminate by enumerating and classifying the different types of material phenomena. The third chapter, called "The Summary," offers concise explanations of all the terms in the Abhidhamma matrix and the Suttanta matrix as well. Finally, a concluding "Synopsis" provides a more condensed explanation of the Abhidhamma matrix but omits the Suttanta matrix.

Mở đầu với Mẫu Đề-Matika, bản lược đồ về các phạm trù làm khung cho toàn bộ Luận, bản Chú Giải được chia thành bốn chương. Chương thứ nhất “Các trạng thái cuả Ý thức,” chiếm khoảng nưả cuốn sách và mở ra như là một bản phân tích bộ ba đầu tiên trong Mẫu Đề-Matika, an lành, không an lành và cái giưã cuả hai cái đó. Để phân tích điều đó, bản Chú Giải liệt kê 121 loại ý thức phân loại bằng phẩm chất đạo đức cuả chúng.9 Mỗi loại ý thức lại được phân ra các yếu tố tinh thần tuỳ thuộc, mà mỗi cái được định nghiã đầy đủ. Chương hai, “Về Chất” , tiếp tục tìm hiểu các yếu tố trung gian sẵn có bằng cách liệt kê và phân loại các loại hiện tượng vật chất khác nhau. Chương ba, gọi là “Tóm tắt,” đưa ra các giải thích về tất cả các thuật ngữ trong trận đồ Luận và cũng như trong Tạng Kinh.

 The Vibhanga, the "Book of Analysis," consists of eighteen chapters, each a self-contained dissertation, dealing in turn with the following: aggregates, sense bases, elements, truths, faculties, dependent arising, foundations of mindfulness, supreme efforts, means to accomplishment, factors of enlightenment, the eightfold path, jhanas, illimitables, training rules, analytical knowledges, kinds of knowledge, minor points (a numerical inventory of defilements), and "the heart of the doctrine" (dhammahadaya), a psycho-cosmic topography of the Buddhist universe. Most of the chapters in the Vibhanga, though not all, involve three sub-sections: an analysis according to the methodology of the Suttas; an analysis according to the methodology of the Abhidhamma proper; and an interrogation section, which applies the categories of the matrix to the subject under investigation.

The Vibhanga, “quyển Phân tích”, gồm tám chương, mỗi chương là một chủ đề trọn vẹn, lần lượt đề cập đến các vấn đề sau: uẩn, căn, đại, chân lý, năng lưc, duyên sinh, cơ sở cuả trí, nỗ lực tối thượng, các yếu tố cuả ngộ, bát chính đạo, các cảnh giới thiền, vô hạn, nguyên tắc rèn luyện,tri kiến phân tích, các loại tri kiến, các tiểu tiết (liệt kê các bất tịnh) và tâm cuả pháp (Dhammahadaya), và đồ hình tâm lý vũ trụ cuả vũ trụ Phật giáo. Hầu hết các chương trong quy ển Phân Tích-Vihanga, mặc dù không phải là tất cả, liên quan đến ba phần nhỏ: phân tích theo phương pháp luận cuả chư Kinh, phân tích theo phương pháp luận cuả chính Luận; và phần tra vấn, áp dụng các phạm trù cuả trận đồ vào chủ đề nghiên cứu.

The Dhatukatha, the "Discourse on Elements," is written entirely in catechism form. It discusses all phenomena with reference to the three schemata of aggregates, sense bases, and elements, seeking to determine whether, and to what extent, they are included or not included in them, and whether they are associated with them or dissociated from them.

Dhatukatha, “Bộ Chất Ngữ” được viết dưới dạng tóm tắt hỏi đáp. Nó thảo luận tất cả các hiện tượng với sự tham chiếu các sơ đồ uẩn, căn, đại, tìm cách xét xem các hiện tượng ấy có bao gồm trong, hay quan hệ hay không quan hệ với ba yếu tố đó và ở chừng múc nào

Page 14 of 25

Page 15: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

The Puggalapaññatti, "Concepts of Individuals," is the one book of the Abhidhamma Pitaka that is more akin to the method of the Suttas than to the Abhidhamma proper. The work begins with a general enumeration of types of concepts, and this suggests that it was originally intended as a supplement to the other books in order to take account of the conceptual realities excluded by the strict application of the Abhidhamma method. The bulk of the work provides formal definitions of different types of individuals. It has ten chapters: the first deals with single types of individuals; the second with pairs; the third with groups of three, etc.

Puggalapannatti, “Bộ Nhơn Chế Định” là một quyển trong Luận Tạng có phương pháp giống Tạng Kinh hơn là Luận. Tác phẩm bắt đầu với việc đếm tổng quát các loại khái niệm, và điều này cho thấy rằng khởi thuỷ nó đươc dự định làm bổ sung cho các quyển khác để tính đến các thực thể khái niệm bị loại ra khi áp dụng khắc khe phương pháp cuả Luận. Công việc đồ sộ này cho những định nghiã chính thức cuả các loại cá thể khác nhau. Có 10 chương:chương đầu đề cập các loại đơn lẻ cuả các cá thể; chương hai về các căp; chương ba về các nhóm ba, v.v.

The Kathavatthu, "Points of Controversy," is a polemical treatise ascribed to the Elder Moggaliputta Tissa. He is said to have compiled it during the time of Emperor Asoka, 218 years after the Buddha's Parinibbana, in order to refute the heterodox opinions of the Buddhist schools outside the Theravadin fold. The Commentaries defend its inclusion in the Canon by holding that the Buddha himself, foreseeing the errors that would arise, laid down the outline of rebuttal, which Moggaliputta Tissa merely filled in according to the Master's intention.

Kathavatthu”Bộ Ngữ Tông” là những luận đề biện luận được cho là cuả Trưởng lão Moggaliputta Tissa. Ông được cho là đã soạn nó vào thời Hoàng đế Asoka, 218 sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, để phản bác các ý kiến không chính thống cuả các trường phái Phật giáo bên ngoài phạm vi cuả phái Nguy ên Thủy Therevada. Các Bản Chú Giải cho rằng chúng cũng thuộc vào các kho tàng kinh điển bằng cách lập luận rằng chính Đức Phật, thấy trước rằng các sai lầm sẽ phát sinh, đã đưa ra khung cuả các câu trả lời, mà Moggaliputta Tissa chỉ cần điền thêm vào theo định hướng cuả Đức Phật.

The Yamaka, the "Book of Pairs," has the purpose of resolving ambiguities and defining the precise usage of technical terms. It is so called owing to its method of treatment, which throughout employs the dual grouping of a question and its converse formulation. For instance, the first pair of questions in the first chapter runs thus: "Are all wholesome phenomena wholesome roots? And are all wholesome roots wholesome phenomena?" The book contains ten chapters: roots, aggregates, sense bases, elements, truths, formations, latent dispositions, consciousness, phenomena, and faculties.

Yamaka, “Bộ Song Đôi” nhằm mục đích giải quyết các sư hàm hồ và xác định công dụng chính xác cuả các thuật ngữ. Nó được gọi bằng cái tên như vậy do phương pháp giải quyết cuả nó, sử dụng xuyên suốt sự nhóm đôi cú một vấn đề và phương thức đàm luận cuả nó. Chẳng hạn cặp các vấn đề đầu tiên trong chương thứ nhất như sau: “Có phải tất cả các hiện tượng an lành là căn nguyên an lành? Và tất cả các căn nguyên an lành là hiện tượng an lành? Quyển này có 10 chương: các căn nguyên, uẩn, căn, đại, chân, sắc, bản chất tiềm ẩn, ý thức, hiện tượng, và khả năng.

The Patthana, the "Book of Conditional Relations," is probably the most important work of the Abhidhamma Pitaka and thus is traditionally designated the "Great Treatise" (mahapakarana). Gigantic in extent as well as in substance, the book comprises five volumes totalling 2500 pages in the Burmese-script Sixth Council edition. The purpose of the Patthana is to apply its scheme of twenty-four conditional relations to all the phenomena incorporated in the Abhidhamma matrix. The main body of the work has four great divisions: origination

Patthana, “Bộ Vị Trí” (bị qui định, có điều kiện, trói buộc >< giải thoát) có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất cuả Luận Tạng và do đó theo truyền thống vẫn được gọi là “Đại Luận Đề” (mahapakarana). Khổng lồ về qui mô cũng như thực chất, quyển này gồm 5 quyển tổng cộng 2500 trang, ấn bản Hội đồng thứ 6, chữ Myanmar. Mục đích cuả Bộ Vị Trí-Patthana là áp dụng sơ đồ hai mươi bốn quan hệ ràng buộc cuả nó vào tất cả các hiện tượng được thành lập trong trận đồ của Tạng Luận. Bộ phận chính cuả tác phẩm gồm

Page 15 of 25

Page 16: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

according to the positive method, according to the negative method, according to the positive-negative method, and according to the negative-positive method. Each of these in turn has six sub-divisions: origination of triads, of dyads, of dyads and triads combined, of triads and dyads combined, of triads and triads combined, and of dyads and dyads combined. Within this pattern of twenty-four sections, the twenty-four modes of conditionality are applied in due order to all the phenomena of existence in all their conceivable permutations. Despite its dry and tabular format, even from a "profane" humanistic viewpoint the Patthana can easily qualify as one of the truly monumental products of the human mind, astounding in its breadth of vision, its rigorous consistency, and its painstaking attention to detail. To Theravada orthodoxy, it is the most eloquent testimony to the Buddha's unimpeded knowledge of omniscience.

bốn phần vĩ đại: Khởi nguyên theo phương pháp tích cực, theo phương pháp tiêu cực, theo phương pháp tiêu-tích cực và theo phương pháp tích-tiêu cực. Mỗi trong bốn phần này lại có sáu tiểu phần: khởi nguyên cuả nhóm 3, cuả nhóm 2, cuả nhóm 2 và 3 kết hợp, nhóm 3 và nhóm 2 kết hợp, cuả nhóm 3 và nhóm 3 kết hợp, và cuả nhóm 2 và nhóm 2 kết hợp. Trong mô hình này có 24 phần, hai mươi bốn thức điều kiện được vận dụng đúng trật tự đối với các hiện tượng cuả hiện thực trong các dạng biến đổi nhận thức được cuả chúng. Dù có tính khô khan, nặng chất bảng biểu, ngay cả trên quan điểm nhân văn “thế tục” Patthana có thể dễ dàng được đánh giá như là một trong những sản phẩm thật sự kỳ vĩ cuả trí tuệ con người, đáng kinh ngạc trong tầm nhìn rộng lớn, sự chặt chẽ nghiêm ngặt, và sự quan tâm cẩn trọng đến chi tiết. Đối với chính thống giáo Therevada, đó chính là bằng chứng hùng hồn nhất về trí huệ chí tôn vô ngại của Đức Phật.

The Commentaries

The books of the Abhidhamma Pitaka have inspired a voluminous mass of exegetical literature composed in order to fill out, by way of explanation and exemplification, the scaffoldings erected by the canonical texts. The most important works of this class are the authorized commentaries of Acariya Buddhaghosa. These are three in number: the Atthasalini, "The Expositor," the commentary to the Dhammasangani; the Sammohavinodani, "The Dispeller of Delusion," the commentary to the Vibhanga; and the Pañcappakarana Atthakatha, the combined commentary to the other five treatises. To this same stratum of literature also belongs the Visuddhimagga, "The Path of Purification," also composed by Buddhaghosa. Although this last work is primarily an encyclopedic guide to meditation, its chapters on "the soil of understanding" (XIV-XVII) lay out the theory to be mastered prior to developing insight and thus constitute in effect a compact dissertation on Abhidhamma. Each of the commentaries in turn has its subcommentary (mulatika), by an elder of Sri Lanka named Acariya Ananda, and these in turn each have a sub-subcommentary (anutika), by Ananda's pupil Dhammapala (who is to be distinguished from the great Acariya Dhammapala, author of the tikas to Buddhaghosa's works).

Những bản chú giải

Các quyển cuả Luận Tạng đã tạo cảm hứng cho một khối lượng đồ sộ bài viết có tính giảng giải được biên soạn nhằm lắp kín phần khung sườn do bản văn cuả các kinh điển dựng nên, bằng cách giải thích nêu ví dụ. Những tác phẩm quan trọng nhất thuộc loại này là các chú giải được công nhận cuả Acariya Buddhaghosa. Có ba tác phẩm: Atthasalini, “Phát lộ”, luận văn về Dhammasagani; Sammohavinodani, “ Loại trừ Vọng tưởng”, luận văn về Vibhanga; và Pancappakarana Atthakatha, luận văn kết hợp cho 5 luận đề khác Visuddhimagga, “Thanh Tịnh Đạo” cũng thuộc bình diện văn bản này cũng cuả Buddhaghosa. Tuy nhiên tác phẩm cuối này chủ yếu là sự hướng dẫn bách khoa về thiền, các chương cuả nó về “ kiến giải” (XIV -XVII) trình bày lý thuyết cần nắm vững trước khi tiến đến kiến chiếu nội quan và do đó hình thành cách hiệu quả luận đề cô đọng về Luận. Mỗi luận văn lại có tiểu luận văn (mulatika), do Trưởng lão cuả Sri Lanka tên là Acariya Ananda, và những tiểu luận này lại có tiểu tiểu luận (anutika), do học trò cuả Ananda là Dhammapala (khác với Acariya Dhammapala tôn kính, tác giả cuả các luận văn về các tác phẩm cuả Buddhaghosa).

When the authorship of the Commentaries is ascribed to Acariya Buddhaghosa, it should not be supposed that

Khi tác quyền cuả các chú giải được cho là cuả Acariya Buddhaghosa, thì không nên cho rằng, theo

Page 16 of 25

Page 17: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

they are in any way original compositions, or even original attempts to interpret traditional material. They are, rather, carefully edited versions of the vast body of accumulated exegetical material that Buddhaghosa found at the Mahavihara in Anuradhapura. This material must have preceded the great commentator by centuries, representing the collective efforts of generations of erudite Buddhist teachers to elucidate the meaning of the canonical Abhidhamma. While it is tempting to try to discern evidence of historical development in the Commentaries over and beyond the ideas embedded in the Abhidhamma Pitaka, it is risky to push this line too far, for a great deal of the canonical Abhidhamma seems to require the Commentaries to contribute the unifying context in which the individual elements hang together as parts of a systematic whole and without which they lose important dimensions of meaning. It is thus not unreasonable to assume that a substantial portion of the commentarial apparatus originated in close proximity to the canonical Abhidhamma and was transmitted concurrently with the latter, though lacking the stamp of finality it was open to modification and amplification in a way that the canonical texts were not.

cách nào đó dù chúng là các bài luận gốc, hoặc là nỗ lực gốc để diễn đạt các tư liệu truyền thống. Mà thực ra, chúng là những bản được hiệu đính cẩn thận từ khối lượng lớn bao la cuả các tư liệu giải thích mà Ngài Buddhaghosa tìm thấy ở Mahavihara ở Anuradhapura. Tư liệu này ắt hẳn có trước nhà viết luận vĩ đại nhiều thế kỷ, đại diện cho nỗ lực tập hợp cuả các thế hệ các nhà giảng dạy Phật học uyên bác nhằm tìm hiểu ý nghiã cuả kho tàng kinh điển Luận Tạng. Trong khi cố gắng làm rõ bằng cứ cuả sự phát triển có tính lịch sử trong các Luận văn trên và vượt các ý tưởng gắn chặt trong Luận Tạng có sức cuốn hút hấp dẫn, thì việc đẩy việc làm này đi quá xa cũng là nguy hiểm, bởi vì phần nhiều Luận kinh điển dường như đòi hỏi các Luận văn đóng góp các điều kiện quan hệ thống nhất trong đó mọi yếu tố riêng lẻ gắn kết vào nhau như là các thành phần cuả toàn thể hệ thống và không có điều đó chúng sẽ mất các chiều kích quan trọng cuả ý nghiã. Do đó mà không phải không hợp lý khi cho rằng phần đáng kể cuả toàn bộ khối các bản chú giải là bắt nguồn thật gần guĩ với Tạng Luận kinh điển và được truyền bá đồng thời với Tạng Luận kinh điển, nhưng thiếu dấu ấn khoá sổ nên nó để ngỏ cho sự thay đổi và đào sâu theo cách mà các chú giải kinh điển không được như vậy.

Bearing this in mind, we might briefly note a few of the Abhidhammic conceptions that are characteristic of the Commentaries but either unknown or recessive in the Abhidhamma Pitaka itself. One is the detailed account of the cognitive process (cittavithi). While this conception seems to be tacitly recognized in the canonical books, it now comes to be drawn out for use as an explanatory tool in its own right. The functions of the cittas, the different types of consciousness, are specified, and in time the cittas themselves come to be designated by way of their functions. The term khana, "moment," replaces the canonical samaya, "occasion," as the basic unit for delimiting the occurrence of events, and the duration of a material phenomenon is determined to be seventeen moments of mental phenomena. The division of a moment into three sub-moments — arising, presence, and dissolution — also seems to be new to the Commentaries.10 The organization of material phenomena into groups (kalapa), though implied by the distinction between the primary elements of matter and derived matter, is first spelled out in the Commentaries, as is the specification of the heart-base (hadayavatthu) as the material basis for mind element and mind-consciousness element.

Xin lưu ý điều này, chúng ta có thể ghi nhận ngắn gọn một ít khái niệm cuả Luận Tạng mang tính chất cuả các Luận văn nhưng hoặc là không được biết đến hay là ẩn chưá trong chính Luận Tạng. Một trong số đó là bài về quá trình nhận thức (cittavithi) Trong khi khái niệm này có vẻ như được ngầm công nhận trong các kinh điển, bây giờ nó được đem ra sử dụng như là công cụ giải thích vì yêu cầu cuả chính nó. Các chức năng cuả các citta, các loại khác nhau cuả ý thức, được nêu cụ thể, và theo thời gian chính các citta được gọi tên bằng chức năng cuả chúng. Thuật ngữ khana, khoảnh khắc”, thay cho samaya (“cơ hội”) cuả kinh điển như là đơn vị cơ bản gở bỏ giới hạn sự xuất hiện cuả các sự kiện, và khoản thời gian cuả một hiện tượng vật chất được xác định bằng 17 khỏanh khắc cuả các hiện tượng tinh thần. Sự phân chia một khoảnh khắc thành ba tiểu khoảnh khắc - sinh, dị, diệt - có vẻ như cũng mới mẻ đối với các bản chú giải. Việc tổ chức các hiện tượng vật chất thành các nhóm (kalapa), dù được hàm ý bởi sự phân biệt giưã các yếu tố nguyên sơ cuả vật chất và những chất phái sinh, lần đầu tiên được nêu rõ trong các bản chú giải, như là đặc điểm cuả cơ sở tâm (hadayavatthu) như là cơ sở vật chất cuả các yếu tố

Page 17 of 25

Page 18: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

thuộc tâm về yếu tố tâm-thức.

The Commentaries introduce many (though not all) of the categories for classifying kamma, and work out the detailed correlations between kamma and its results. They also close off the total number of mental factors (cetasika). The phrase in the Dhammasangani, "or whatever other (unmentioned) conditionally arisen immaterial phenomena there are on that occasion," apparently envisages an open-ended universe of mental factors, which the Commentaries delimit by specifying the "or-whatever states" (yevapanaka dhamma). Again, the Commentaries consummate the dhamma theory by supplying the formal definition of dhammas as "things which bear their own intrinsic nature" (attano sabhavam dharenti ti dhamma). The task of defining specific dhammas is finally rounded off by the extensive employment of the fourfold defining device of characteristic, function, manifestation, and proximate cause, a device derived from a pair of old exegetical texts, the Petakopadesa and the Nettipakarana.

Các bản chú giải giới thiệu nhiều (dù không hết) các phạm trù để phân loại kamma (nghiệp), và đưa ra các mối quan hệ hỗ tương giưã kamma và kết quả cuả nó. Chúng cũng chốt lải tổng số các yếu tố tinh thần. Cụm từ trong Dhammasangani, “ hoặc bất cứ các hiện tượng phi vật chất duyên sinh khác (chưa đề cập) có vào dịp đó,” rõ ràng hình dung một vũ trụ mở cuả các yếu tinh thần, mà các bản chú giải đã gỡ bỏ giới hạn bằng cách nêu rõ “ hoặc bất cứ trạng thái nào” (yevapanaka dhamma). Một lần nưã, các bản chú giải hoàn chỉnh pháp luận bằng cách cung cấp định nghiã chư pháp như là “ những sự vật mang bản chất tự thân” (attano sabhavam dharenti ti dhamma). Nhiệm vụ định nghiã chư pháp cụ thể cuối cùng được chỉnh chu bằng cách sử dụng chuyên sâu công cụ định nghiã bốn lớp về tính chất, chức năng, biểu hiện và nguyên nhân gần kề, một công cụ xuất phát từ hai bản văn giải thích cổ là Petakopadesa và Nettipakarana.

The Abhidhammattha Sangaha

As the Abhidhamma system, already massive in its canonical version, grew in volume and complexity, it must have become increasingly unwieldy for purposes of study and comprehension. Thus at a certain stage in the evolution of Theravada Buddhist thought the need must have become felt for concise summaries of the Abhidhamma as a whole in order to provide the novice student of the subject with a clear picture of its main outlines — faithfully and thoroughly, yet without an unmanageable mass of detail.

Vi Diệu Pháp toát yếu

Khi hệ thống Luận, về mặt phiên bản kinh điển cuả nó đã là đồ sộ rồi, phát triển thêm về dung lượng và độ phức tạp, thì việc nghiên cứu, lãnh hội nó ắt hẳn phải càng trở nên khó khăn, nặng nề. Do đó ở một giai đoạn tiến hoá nào đó cuả tư tưởng Phật giáo Therevada, người ta ắt phải cảm thấy nhu cầu cần có những tóm tắt chính xác cuả Luận như là một tổng thể để cung cấp cho những tân sinh về chủ đề này một cái nhìn rõ ràng về sơ nét cấu tạo chính cuả nó - một cách thấu suốt và thành tín mà không cần những chi tiết đồ sộ khó kham nổi.

To meet this need there began to appear, perhaps as early as the fifth century and continuing well through the twelfth, short manuals or compendia of the Abhidhamma. In Burma these are called let-than or "little-finger manuals," of which there are nine:

Để đáp ứng nhu cầu này, đã bắt đầu xuất hiện, có lẽ sớm khoảng thế kỷ 15 và tiếp tục qua thế kỷ 12, các sổ tay ngắn gọn hay yếu lược cuả Luận. Ở Miến Điện Myanmar, những quyển loại này được gọi là let-than hay là “sổ tay ngón út”, trong có có chín như sau:

1. Abhidhammattha Sangaha, by Acariya Anuruddha;

2. Namarupa-pariccheda, by the same;3. Paramattha-vinicchaya, by the same (?);4. Abhidhammavatara, by Acariya Buddhadatta (a

senior contemporary of Buddhaghosa);5. Ruparupa-vibhaga, by the same;6. Sacca-sankhepa, by Bhadanta Dhammapala

(probably Sri Lankan; different from the great

1) Abhidhammattha, cuả Acariya Anuruddha;2) Namarupa-pariccheda, cùng tác giả3) Paramattha-vinicchaya, cùng tác giả (?);4) Abhidhammavatara cuả Acariya Buddhadatta ( một bậc trưởng thượng đồng thời với Buddhaghosa);5) Ruparupa-vibhaga, cùng tác giả6) Sacca-sankhepa, cuả Bhadanta Dhammapala (có lẽ

Page 18 of 25

Page 19: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

subcommentator);7. Moha-vicchedani, by Bhadanta Kassapa (South

Indian or Sri Lankan);8. Khema-pakarana, by Bhadanta Khema (Sri

Lankan);

9. Namacara-dipaka, by Bhadanta Saddhamma Jotipala (Burman).

người Sri Lanka; khác với nhà viết tiểu luận văn vĩ đại);7) Moha-vicchedani, cuả Bhadanta Kassapa (Người Nam Ấn hoặc Sri Lanka);8) Khema-pankarana, cuả Bhadanta Khema (người Sri Lanka);9) Namacara-dipaka, cuả Bhadanta Saddhamma Jotipala (Người Myanmar).

Among these, the work that has dominated Abhidhamma studies from about the twelfth century to the present day is the first mentioned, the Abhidhammattha Sangaha, "The Compendium of Things contained in the Abhidhamma." Its popularity may be accounted for by its remarkable balance between concision and comprehensiveness. Within its short scope all the essentials of the Abhidhamma are briefly and carefully summarized. Although the book's manner of treatment is extremely terse even to the point of obscurity when read alone, when studied under a qualified teacher or with the aid of an explanatory guide, it leads the student confidently through the winding maze of the system to a clear perception of its entire structure. For this reason throughout the Theravada Buddhist world the Abhidhammattha Sangaha is always used as the first textbook in Abhidhamma studies. In Buddhist monasteries, especially in Burma, novices and young bhikkhus are required to learn the Sangaha by heart before they are permitted to study the books of the Abhidhamma Pitaka and its Commentaries.

Trong số đó, tác phẩm đã thống ngự việc tu học, nghiên cứu Luận từ khoản thế kỷ 12 cho đến hiện nay là quyển được đề cập trước tiên, quyển Abhidhammattha Sangaha, ( Vi Diệu Pháp toát yếu ). Nó được phổ biến có lẽ do sự quân bình đáng khó bì cuả nó giưã tính chính xác và tính lĩnh hội. Trong phạm vi ngắn gọn cuả nó mọi điều cốt yếu cuả Luân đã được tóm gọn cẩn trọng. Dù rằng cách xử lý cuả sách thật ngắn gọn ngay cả với những điểm không rõ ràng nếu đọc riêng lẻ, nhưng khi học tập, nghiên cứu dưới sự hướng dẫn cuả một thầy có năng lực hoặc với sự hỗ trợ cuả người hướng dẫn giải thích, nó dẫn dắt người học tự tin đi qua mê cung khúc khuỷu cuả hệ thống để đạt đến sự nhận thức minh bạch về toàn bộ cấu trúc cuả nó.Vì lý do đó, trong toàn bộ thế giới Phật giáo Therevada, Vi Diệu Pháp toái yếu - Abhidhammattha Sangaha luôn được dùng như quyển sách giáo khoa đầu tiên trong việc tu học Luận. Trong các tu viện Phật giáo, đặc biệt là ở Miến Điện - Myanmar, tân sinh và các tỳ kheo trẻ được yêu cầu học thuộc lòng Sangaha trước khi nghiên cứu các quyển thuộc Luận Tạng và các Luận văn cuả nó.

 Detailed information about the author of the manual, Acariya Anuruddha, is virtually non-existent. He is regarded as the author of two other manuals, cited above, and it is believed in Buddhist countries that he wrote altogether nine compendia, of which only these three have survived. The Paramattha-vinicchaya is written in an elegant style of Pali and attains a high standard of literary excellence. According to the colophon, its author was born in Kaveri in the state of Kañcipura (Conjeevaram) in South India. Acariya Buddhadatta and Acariya Buddhaghosa are also said to have resided in the same area, and the subcommentator Acariya Dhammapala was probably a native of the region. There is evidence that for several centuries Kañcipura had been an important center of Theravada Buddhism from which learned bhikkhus went to Sri Lanka for further study.

Những chi tiết về tác giả cuả quyển sổ tay này, Acariya Anuruddha, thật ra không có. Ông được coi là tác giả cuả hai quyển sổ tay khác, như nêu trên, và được các quốc gia Phật giáo tin rằng ngài đã viết cùng với chín quyển yếu lược khác, trong đó chỉ có 3 quyển là còn sót lại. Quyển Paramattha-vinicchaya được viết theo văn phong uyển chuyển cuả ngôn ngữ Pali và đạt được đẳng cấp cao cuả văn chương tuyệt tác. Theo mấy dòng ghi cuả nhà xuất bản, tác giả cuả nó sinh ra tại Kaveri, bang Kancipura (Conjeevaram), Nam Ấn. Cả Acariya Buddhadatta và Acariya Buddhaghosa đều được nói là ở cùng một vùng, và nhà viết tiểu luận văn Acariya Dhammapala có lẻ là người bản điạ cuả vùng này. Có bằng cớ rằng trong vòng mấy thế kỷ Kancipura đã là trung tâm quan trọng cuả Phật giáo Therevada từ đó các tỳ

Page 19 of 25

Page 20: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

kheo uyên bác đã đến Sri Lanka để tu học thêm.

It is not known exactly when Acariya Anuruddha lived and wrote his manuals. An old monastic tradition regards him as having been a fellow student of Acariya Buddhadatta under the same teacher, which would place him in the fifth century. According to this tradition, the two elders wrote their respective books, the Abhidhammattha Sangaha and the Abhidhammavatara, as gifts of gratitude to their teacher, who remarked: "Buddhadatta has filled a room with all kinds of treasure and locked the door, while Anuruddha has also filled a room with treasure but left the door open."11 Modern scholars, however, do not endorse this tradition, maintaining on the basis of the style and content of Anuruddha's work that he could not have lived earlier than the eighth century, more probably between the tenth and early twelfth centuries.12

Không biết được chính xác Acariya Anuruddha sống vào thời gian nào và viết các quyển sổ tay cuả ông khi nào. Truyền thuyết cổ trong tu viện cho rằng ông từng là bạn học cùng thầy cuả Acariya Buddhadatta, điều này đã đặt ông vào thế kỷ thứ năm. Theo truyền thuyết này, hai trưởng lão viết các quyển sách tương ứng cuả mình, quyển Abhiddhammattha Sangaha và quyển Abhidhammavatara, làm quà tạ ơn thầy mình, người nhận xét rằng: “Buddhadatta đã chưá châu báu đầy phòng cuả mình và khoá cưả laị, trong khi Anuruddha cũng chưá châu báu đầy phòng nhưng để cưả mở toang.” Tuy nhiên các học giả hiện đại không xác nhận truyền tuyết này, cho rằng căn cứ vào văn phong và nội dung cuả tác phẩm cuả Anuruddha thì ông không thể nào sống sớm hơn thế kỷ thứ tám, có lẽ hơn là vào giưã thế kỷ mười và đầu thế kỷ 9.

In the colophon to the Abhidhammattha Sangaha Acariya Anuruddha states that he wrote the manual at the Mulasoma Monastery, which all exegetical traditions place in Sri Lanka. There are several ways to reconcile this fact with the concluding stanzas of the Paramattha-vinicchaya, which state that he was born in Kañcipura. One hypothesis is that he was of South Indian descent but came to Sri Lanka, where he wrote the Sangaha. Another, advanced by G.P. Malalasekera, holds that he was a native of Sri Lanka who spent time at Kañcipura (which, however, passes over his statement that he was born in Kañcipura). Still a third hypothesis, proposed by Ven. A.P. Buddhadatta Mahathera, asserts that there were two different monks named Anuruddha, one in Sri Lanka who was the author of the Abhidhammattha Sangaha, another in Kañcipura who wrote the Paramattha-vinicchaya.13

Trong dòng ghi cuả nhà xuất bản đối với quyển Abhidhammatta Sangaha, Acariya Anuruddha nói rằng ông viết quyển sổ tay này tại tu viện Mulasoma, mà tất cả các truyền thuyết giải thích cho rằng ở Sri Lanka. Có mấy cách để dung hoà sự kiện này với các khổ thơ kết luận quyển Paramattha-vinicchaya, nói rằng ông sinh ra tại Kancipura. Một giả thuyết cho rằng ông là người gốc gác Nam Ấn nhưng di chuyển đến Sri Lanka, nơi ông viết Sangaha. Một giả thuyết khác, do G.P.Malalasekera, cho rằng ông là người bản điạ cuả Sri Lanka có trải qua thời gian ở Kancipura (điều này tuy nhiên, bỏ qua xác nhận cuả ông là ông sinh ở Kancipura). Vẫn còn giả thuyết thứ ba do Đại đức A.P. Buddhadatta Mahathera đề xuất, khẳng định rằng có hai vị sư khác nhau tên Anuruddha, một ở Sri Lanka, người là tác giả quyển Abhiddhammattha, và một người ở Kancipura, viết quyển Paramattha-vinicchaya.

Commentaries on the Sangaha

Owing to its extreme concision, the Abhidhammattha Sangaha cannot be easily understood without explanation. Therefore to elucidate its terse and pithy synopsis of the Abhidhamma philosophy, a great number of tikas or commentaries have been written upon it. In fact, this work has probably stimulated more commentaries than any other Pali text, written not only in the Pali language but also in Burmese, Sinhala, Thai, etc. Since the fifteenth century Burma has been the international center of Abhidhamma studies, and

Các Luận văn về Phân Loại - Sangaha

Vì vào tính cực kỳ cô động cuả nó, Vi Diệu Pháp toái yếu -Abhidhammattha Sangaha không thể dễ dàng hiểu được nếu như không có sự giảng giải. Vì thế làm sáng tỏ yếu lượt cô đúc đặc quánh cuả triết học cuả Luận, một lượng rất lớn các tika hay là luận văn đã được viết về nó. Thật ra, tác phẩm này có lẽ đã tạo ra cảm hứng cho nhiều luận văn hơn bất cứ bản văn Pali nào khác, được viết không những bằng ngôn ngữ Pali mà còn cả bằng tiếng Myamar, Sinhala, Thái v.v.Từ thế kỷ thứ 15, Myanmar đã là trung tâm quốc

Page 20 of 25

Page 21: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

therefore we find many commentaries written on it by Burmese scholars both in Pali and in Burmese. Commentaries on the Sangaha in Pali alone number nineteen, of which the following are the most important:

tế về nghiên cứu Luận, và do đó chúng ta tìm thấy nhiều luận văn viết về nó cuả các học giả Miến Điện (Myanmar) cả bằng tiếng Pali và tiếng Myanmar.Các luận văn về Sangaha chỉ bằng tiếng Pali không thôi cũng lên đến con số 19, trong đó quan trọng nhất là:

1. Abhidhammatthasangaha-Tika, also known as the Porana-Tika, "the Old Commentary." This is a very small tika written in Sri Lanka in the twelfth century by an elder named Acariya Navavimalabuddhi.

Abhidhammatthasangaha - Tika, cũng còn biết đến như là Porona-Tika, “Cổ Luận văn”. Đây là một tika nhỏ viết bằng tiếng Sri Lanka vào thế ky 12 bởi một trưởng lão tên là Acariya Navavimalabuddhi.

Abhidhammatthavibhavini-Tika, or in brief, the Vibhavini, written by Acariya Sumangalasami, pupil of the eminent Sri Lankan elder Sariputta Mahasami, also in the twelfth century. This tika quickly superceded the Old Commentary and is generally considered the most profound and reliable exegetical work on the Sangaha. In Burma this work is known as tika-gyaw, "the Famous Commentary." The author is greatly respected for his erudition and mastery of the Abhidhamma. He relies heavily on older authorities such as the Abhidhamma-Anutika and the Visuddhimagga-Mahatika (also known as the Paramatthamanjusa). Although Ledi Sayadaw (see below) criticized the Vibhavini extensively in his own commentary on the Sangaha, its popularity has not diminished but indeed has even increased, and several Burmese scholars have risen to defend it against Ledi Sayadaw's criticisms.

Abhidhammatthavibhavini - Tika, hay gọi tắt, Vibhavini, tác giả là Acariya Sumangalasami, học trò cuả trưởng lão người Sri Lanka xuất chúng, cũng vào thế kỷ 12. Tika này nhanh chóng thế chỗ Cổ Luận văn và được nhìn nhận rộng rãi như là tác phẩm giải thích sâu sắc và đáng tin cậy về Sangaha. Ở Myanmar, tác phẩm này có tên là tika-gyaw, “Luận văn nổi tiếng”. Tác giả rất được kính trọng vì sự am tường và uyên bác cuả ông về Luận. Ông dưạ nhiều vào các các phẩm có uy tín cổ như là Abhidhamma-Anutika và Visuddhimagga-Mahatika (còn có tên là Paramatthamanjusa) Mặc dù Ledi Sayadaw (xem bên dưới) phê bình mạnh mẽ Vibhavini trong luận văn cuả mình về Sangaha, sự phổ biến cuả nó không hề suy giảm mà thật sự còn tăng lên, và một số học giả Myanmar đã đứng lên bảo vệ nó trước sự phê bình cuả Ladi Sayadaw.

Sankhepa-vannana, written in the sixteenth century by Bhadanta Saddhamma Jotipala, also known as Chapada Mahathera, a Burmese monk who visited Sri Lanka during the reign of Parakramabahu VI of Kotte (fifteenth century).14

Sakhepa-vannana, được viết vào thế kỷ 16 do tác giả Bhadanta Saddhamma Jotipala, còn có tên là Chapada Mahathera, một nhà sư Myanmar đã thăm Sri Lanka trong thời trị vì cuả vua Parakramabahu VI cuạ triều đại Kotte (thế kỷ 15).

Paramatthadipani-Tika, "The Elucidation of the Ultimate Meaning," by Ledi Sayadaw. Ledi Sayadaw of Burma (1846-1923) was one of the greatest scholar-monks and meditation masters of the Theravada tradition in recent times. He was the author of over seventy manuals on different aspects of Theravada Buddhism, including philosophy, ethics, meditation practice, and Pali grammar. His tika created a sensation in the field of Abhidhamma studies because he pointed out 325 places in the esteemed Vibhavini-tika where he alleged that errors and misinterpretations had occurred, though his criticisms also set off a reaction in defense of the older work.

Paramatthadipani-Tika, “ Minh giảng vế Nghiã Tối thượng” cuả Ledi Sayadaw cuả Myanmar (1845-1923) là một rong những nhà sư học giả và thiền sư vĩ đại nhất cuả truyền thống Therevada thời cận đại. Ông là tác giả cuả hơn 70 sổ tay về các phương diện khác nhau của Phật giáo Therevada, gồm triết học, đạo đức học, tu tập thiền, và ngữ pháp Pali. Tika cuả ông đã tạo nên một hiện tượng chấn động trong lĩnh vực nghiên cứu Luận bởi vì ông chỉ ra 325 chỗ quan yếu trong Vibhavini-tika mà ông cho là có sai lầm và hiểu sai, tuy nhiên sự phê bình cuả ông đã làm dấy lên phản ứng bảo vệ tác phẩm cổ hơn đó.

Ankura-Tika, by Vimala Sayadaw. This tika was written fifteen years after the publication of the Ankura-Tika, tác giả Vimala Sayadaw. Tika này

Page 21 of 25

Page 22: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

Paramatthadipani and supports the commonly accepted opinions of the Vibhavini against Ledi Sayadaw's criticisms.

đươc viết 15 năm sau khi ấn hành quyển Paramatthadipani và ủng hộ các ý kiến được rộng rãi chấp nhận về Vibhavini chống lại sư phê bình cuả Sayadaw,

Navanita-Tika, by the Indian scholar Dhammananda Kosambi, published originally in devanagari script in 1933. The title of this work means literally "The Butter Commentary," and it is so called probably because it explains the Sangaha in a smooth and simple manner, avoiding philosophical controversy.

Navanita-Tika, tác giả là học giả Ấn tên là Dhammananda Kosambi, thoạt đầu xuất bản bằng chữ devanagari vào 1993. Tưạ quyển sách theo nghiã đen là “Luận văn Bơ”, và được gọi như vậy có lẽ là do nó giải thích Sangal bằng một cách trơn tru, gọn nhẹ, tránh những tranh cãi có tính triết học

Outline of the Sangaha

The Abhidhammattha Sangaha contains nine chapters. It opens by enumerating the four ultimate realities — consciousness, mental factors, matter, and Nibbana. The detailed analysis of these is the project set for its first six chapters. Chapter I is the Compendium of Consciousness, which defines and classifies the 89 and 121 cittas or types of consciousness. In scope this first chapter covers the same territory as the States of Consciousness chapter of the Dhammasangani, but it differs in approach. The canonical work begins with an analysis of the first triad in the matika, and therefore initially classifies consciousness on the basis of the three ethical qualities of wholesome, unwholesome, and indeterminate; then within those categories it subdivides consciousness on the basis of plane into the categories of sense sphere, fine-material sphere, immaterial sphere, and supramundane. The Sangaha, on the other hand, not being bound to the matika, first divides consciousness on the basis of plane, and then subdivides it on the basis of ethical quality.

Sơ lược về Sangaha

Quyển Abhidhammattha Sangaha có chín chương. Nó mở đầu bằng cách liệt kê bốn thực thể tối thượng - ý thức, các yếu tố tinh thần, vật chất và Niết bàn. Phân tích chi tiết các yếu tố này được đặt ra cho 6 chương đầu. Chương I là Khái quát về Ý thức, định nghiã và phân loại 89 và 121 loại ý thức. Tầm bao quát cuả chương thứ nhất cũng đề cập cùng lĩnh vực như chương các Trạng thái cuả Ý thức cuả tác phẩm Dhammasangani, nhưng khác về phương pháp. Tác phẩm kinh điển này bắt đầu với sự phân tích nhóm ba đầu tiên trong matika, và do đó bắt đầu phân loại ý thức trên cơ sở ba phẩm chất đạo đức cuả an lành (wholesome), không an lành, và cái giưã hai cái trên (không quyết định); rồi trong phạm vi các phạm trù đó nó phân nhỏ ý thức trên cơ sở bình diện thành những lĩnh vực giác quan, lĩnh vực vật chất tế vi, lãnh vực phi vật chất và siêu phàm. Còn Sangala, trái lại không bị ràng buộc vào matika, trước tiên chia ý thức trên cơ sở bình diện và chia nhỏ nó trên cơ sở phẩm chất đạo đức.

The second chapter, the Compendium of Mental Factors, first enumerates the fifty-two cetasikas or concomitants of consciousness, divided into four classes: universals, occasionals, unwholesome factors, and beautiful factors. Thereafter the factors are investigated by two complimentary methods: first, the method of association (sampayoganaya), which takes the mental factors as the unit of inquiry and elicits the types of consciousness with which they are individually associated; and second, the method of inclusion or combination (sangahanaya), which takes the types of consciousness as the unit of inquiry and elicits the mental factors that enter into the constitution of each. This chapter again draws principally upon the first chapter of the Dhammasangani.

Chương hai, Khái quát vế các Yếu tố tinh thần, trước tiên liệt kê 52 tâm sở - cetasika hay là các yếu tố tuỳ thuộc cuả ý thức, được chia ra làm 4 lớp chung nhất, cá biệt, các yếu tố không an lành (bất tịnh) và các yếu tố tốt đẹp. Sau đó các yếu tố được nghiên cứu bằng hai phương pháp bổ sung: trước tiên, phương pháp gắn kết (sampayoganaya), cho các yếu tố tinh thần như là một đơn vị tra vấn và gợi mở các loại ý thức mà chúng trực tiếp gắn kết; và thứ hai phương pháp bao gồm hay gộp (sangahanaya), cho các loại ý thức là đơn vị tra vấn và gợi mở các yếu tố tinh thần thâm nhập vào cơ cấu cuả nhau. Chương này cũng chủ yếu rút ra từ chương thứ nhất cuả bộ Pháp Tụ - Dhammasagani.

Page 22 of 25

Page 23: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

The third chapter, entitled Compendium of the Miscellaneous, classifies the types of consciousness along with their factors with respect to six categories: root (hetu), feeling (vedana), function (kicca), door (dvara), object (arammana), and base (vatthu).

Chương ba, có tên là Khái quát các vấn đề linh tinh, xếp các loại ý thức cùng với các yếu tố cuả nó theo 6 phạm trù: căn cội (hetu), cảm xúc (feeling), chức năng (kicca), cưả (dvara), đối tượng (arammana), và cơ sở (vatthu).

The first three chapters are concerned principally with the structure of consciousness, both internally and in relation to external variables. In contrast, the next two chapters deal with the dynamics of consciousness, that is, with its modes of occurrence. According to the Abhidhamma, consciousness occurs in two distinct but intertwining modes — as active process and as passive flow. Chapter IV explores the nature of the "cognitive process," Chapter V the passive "process-freed" flow, which it prefaces with a survey of the traditional Buddhist cosmology. The exposition here is largely based upon the Abhidhamma Commentaries. Chapter VI, Compendium of Matter, turns from the mental realm to the material world. Based primarily on the second chapter of the Dhammasangani, it enumerates the types of material phenomena, classifies them in various ways, and explains their modes of origination. It also introduces the commentarial notion of material groups, which it treats in detail, and describes the occurrence of material processes in the different realms of existence. This chapter concludes with a short section on the fourth ultimate reality, Nibbana, the only unconditioned element in the system.

Ba chương đầu liên quan chủ yếu đến cấu trúc cuả ý thức, cả nội tại và trong mối quan hệ với các biến đổi bên ngoài. Trái lại hai chương tiếp theo đề cập đến sự năng động cuả ý thức, tức là, với cách xuất hiện cuả chúng. Theo Luận, ý thức xuất hiện theo hai cách riêng biệt nhưng xoắn xuýt nhau - như quá trình tích cực và luồng tiêu cực (âm - dương).Chương bốn nghiên cứu “quá trình cuả nhận thức” , Chương năm, luồng tiêu cực “siêu quá trình”, được khai mào bằng một nghiên cứu về vũ trụ học truyền thống Phật giáo. Việc trình bày ở đây phần lớn dưạ vào các bản chú giải về Luận. Chương VI, Khái quát về vật chất, chuyển từ thế giới tinh thần sang thế giới vật chất. Được căn cứ trụ yếu vào chương hai cuả Bộ Pháp Tụ - Dhammasangani, nó liệt kê các loại hiện tượng vật chất, phân loại chúng thành nhiều cách khác nhau, và giải thích các cách phát sinh cuả chúng. Nó cũng giới thiệu các khái niệm có tính chất giải thích về các nhóm vật chất, trình bày chi tiết, và mô tả sự xuất hiện cuả các quá trình vật chất trong các cảnh giới khác nhau cuả hiện thực. Chương này kết thúc với một phần nhỏ nói về bốn hiện thực tối thượng, Niết bàn, yếu tố duy nhất không bị ràng buộc trong cả hệ thống.

With the sixth chapter, Acariya Anuruddha has completed his analytical exposition of the four ultimate realities, but there remain several important subjects which must be explained to give a complete picture of the Abhidhamma. These are taken up in the last three chapters. Chapter VII, the Compendium of Categories, arranges the ultimate realities into a variety of categorical schemes that fall under four broad headings: a compendium of defilements; a compendium of mixed categories, which include items of different ethical qualities; a compendium of the requisites of enlightenment; and a compendium of the whole, an all-inclusive survey of the Abhidhamma ontology. This chapter leans heavily upon the Vibhanga, and to some extent upon the Dhammasangani.

Với chương thứ sáu, Acariya Anuruddha đã hoàn tất việc trình bày phân tích cuả mình về bốn thực thể tối thượng, nhưng vẫn hãy còn mấy vấn đề quan trọng phải được giải thích để đem lại bức tranh toàn cảnh cuả Luận. Điều này được thực hiện trong ba chương cuối. Chương VII, Khái quát về các phạm trù, sắp xếp các thực thể tối thượng thành các bảng phạm trù đa dạng dưới bốn tiêu đề: Khái quát về cấu (phiền não, bất tịnh); khái quát về các phạm trù pha tạp, gồm các mục về các phẩm chất đạo đức khác nhau; khái quát về tính nhất thiết cuả giác ngộ; và Khái quát về cái toàn thể, một khảo sát toàn diện về bản thể học cuả Luận. Chương này dưạ gần như hẳn vào tác phẩm Vibhamga và trong chừng mực nào đó vào bộ Pháp Tụ - Dhammasangani.

Chapter VIII, the Compendium of Conditionality, is introduced to include the Abhidhamma teaching on the

Chương VIII, Khái quát về Sự qui định (Triền Phươc), được giới thiệu để gồm giáo lý cuả Luận về

Page 23 of 25

Page 24: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

inter-relatedness of physical and mental phenomena, thereby complementing the analytical treatment of the ultimate realities with a synthetical treatment laying bare their functional correlations. The exposition summarily presents two alternative approaches to conditionality found in the Pali canon. One is the method of dependent arising, prominent in the Suttas and analyzed from both Suttanta and Abhidhamma angles in the Vibhanga (VI). This method examines conditionality in terms of the cause-and-result pattern that maintains bondage to samsara, the cycle of birth and death. The other is the method of the Patthana, with its twenty-four conditional relations. This chapter concludes with a brief account of concepts (paññatti), thereby drawing in the Puggalapaññatti, at least by implication.

mối quan hệ tương hỗ cuả các hiện tượng vật chất tinh thần, theo đó hoàn thành việc đề cập mang tính phân tích về các thực thể tối thượng với sự trình bày tổng hợp phơi bày trần trụi các mối quan hệ tương hỗ chức năng cuả chúng. Sự trình bày tóm lược cho thấy hai phuơng pháp luân phiên nhau đối với sự qui định được tìm thấy trong kho tàng kinh điển Pali. Một là phương pháp duyên sinh (phát sinh tuỳ thuộc), nổi bật trong Tạng Kinh và đươc phân tích dưới gốc độ Kinh và Luận trong tác phẩm Vibhanga (chương VI).. Phương pháp này xem xét sự qui định về phương diện mô hình nhân-và-quả cho rằng có sự ràng buộc với samsara, vòng luân hồi sinh tử. Phương pháp khác là phương pháp Pattana, với hai mươi bốn mối quan hệ qui định. Kết thúc chương này là một bài ngắn về các khái niệm (pannatti), theo đó kéo theo cả Puggalapannatti, ít nhất là hàm ý như vậy.

 The ninth and final chapter of the Sangaha is concerned, not with theory, but with practice. This is the Compendium of Meditation Subjects. This chapter functions as a kind of summary of the Visuddhimagga. It concisely surveys all the methods of meditation exhaustively explained in the latter work, and it sets forth condensed accounts of the stages of progress in both systems of meditation, concentration and insight. Like the masterwork it summarizes, it concludes with an account of the four types of enlightened individuals and the attainments of fruition and cessation. This arrangement of the Abhidhammattha Sangaha perhaps serves to underscore the ultimate soteriological intent of the Abhidhamma. All the theoretical analysis of mind and matter finally converges upon the practice of meditation, and the practice culminates in the attainment of the supreme goal of Buddhism, the liberation of the mind by non-clinging.

Chương chín và chương cuối cùng, liên quan, không phải tới lý thuyết mà là thưc hành. Đây là chương Khái quát về Các Chủ đề Thiền. Chương này đóng vai trò như là tóm tắt Visuddhimagga. Nó khảo sát cô đọng các phương pháp thiền đươc giảng giải cặn kẽ trong tác phẩm sau, và đưa ra các bài viết cô động về các giai đoạn tiến bộ trong cả các hệ thống thiền, tập trung và nội quan. Là tác phẩm chủ chốt , nó tóm tắt, nó kết luận với một bài viết về bốn dạng người giác ngộ, các quả vị và chấm dứt luân hồi. Cách trình bày cuả tác phẩm Abhidhammattha Sangaha có lẽ dùng để nhấn mạnh việc cưú thế tối thượng cuả Luận. Tất cả phân tích lý thuyết về tâm và vật cuối cùng hội tụ về thực hành thiền, và thực hành đi đến tột đỉnh trong sự đạt mục tiêu tối thượng cuả đạo Phật, giải thoát tâm bằng vô chấp.

Notes

1. Asl. 2; Expos., p. 3.

2. Asl. 2-3; Expos., pp. 3-4.

3. The Dhammasangani also includes a Suttanta matrix consisting of forty-two dyads taken from the Suttas. However, this is ancillary to the Abhidhamma proper, and serves more as an appendix for providing succinct definitions of key Suttanta terms. Moreover, the definitions themselves are not framed in terms of Abhidhamma categories and the Suttanta matrix is not employed in any subsequent books of the Abhidhamma Pitaka.

Page 24 of 25

Page 25: Tóm tắt Vi Diệu Pháp

4. See, for example, the following: A.K. Warder, Indian Buddhism, 2nd rev. ed. (Delhi: Motilal Banarsidass, 1980), pp. 218-24; Fumimaro Watanabe, Philosophy and its Development in the Nikayas and Abhidhamma (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), pp. 18-67; and the article "Abhidharma Literature" by Kogen Mizuno in Encyclopaedia of Buddhism, Fasc. 1 (Govt. of Ceylon, 1961).

5. Asl. 410; Expos., p. 519

6. Asl. 13; Expos., pp. 16-17

7. Asl. 16; Expos., p. 20

8. The first book of the Sarvastivadin Abhidharma, the Sangitiparyaya, is ascribed to Sariputta by Chinese sources (but not by Sanskrit and Tibetan sources), while the second book, the Dharmaskandha, is ascribed to him by Sanskrit and Tibetan sources (but not by Chinese sources). The Chinese canon also contains a work entitled the Shariputra Abhidharma-Shastra, the school of which is not known.

9. These are reduced to the familiar eighty-nine cittas by grouping together the five cittas into which each path and fruition consciousness is divided by association with each of the five jhanas.

10. The Yamaka, in its chapter "Citta-yamaka," uses the term khana to refer to the subdivision of a moment and also introduces the uppada-khana and bhanga-khana, the sub-moments of arising and dissolution. However, the threefold scheme of sub-moments seems to appear first in the Commentaries.

11. Ven. A. Devananda Adhikarana Nayaka Thero, in Preface to Paramattha-vinicchaya and Paramattha-vibhavini-vyakhya (Colombo: Vidya Sagara Press, 1926), p. iii.

12. G.P. Malalasekera, The Pali Literature of Ceylon (Colombo: M.D. Gunasena, repr. 1958), pp. 168-70. Malalasekera points out that James Gray, in his edition of Buddhaghosuppatti, gives a chronological list of saintly and learned men of Southern India, taken from the Talaing records, and there we find Anuruddha mentioned after authors who are supposed to have lived later than the seventh or eighth century. Since Bhadanta Sariputta Mahasami compiled a Sinhala paraphrase of the Abhidhammattha Sangaha during the reign of Parakrama-Bahu the Great (1164-97), this places Anuruddha earlier than the middle of the twelfth century.

13. See the article "Anuruddha (5)" in Encyclopaedia of Buddhism, Fasc. 4 (Govt. of Ceylon, 1965). Ven Buddhadatta's view is also accepted by Warder, Indian Buddhism, pp. 533-34.

14. This author is commonly confused with another Burmese monk called Chapada who came to Sri Lanka during the twelfth century and studied under Bhadanta Sariputta. The case for two Chapadas is cogently argued by Ven. A.P. Buddhadatta, Corrections of Geiger's Mahavamsa, Etc. (Ambalangoda: Ananda Book Co., 1957), pp. 198-209.

Source: minhhanhdp.brinkster.net

Page 25 of 25