15
THÔNG TIN THUC THÁNG 3/2021 1. Pregabalin (biệt dược Lyrica): báo cáo về tình trạng ức chế hô hấp nghiêm trọng. 2. Vildagliptin và thuc c chế men chuyn (ACEI) tăng nguy cơ phù mch. 3. Sử dụng Isotretinoin đườngg uống trong thai kỳ: nguy cơ rối loạn phát triển thần kinh 4. Health Canada: Cảnh báo nguy cơ nghiêm trọng cho sức khỏe của trẻ khi trẻ vô tình tiếp xúc với paracetamol của người lớn. 5. Arcalyst được FDA chng nhn là liệu pháp điều trđầu tiên cho bnh viêm màng ngoài tim tái phát. 6. Công thc Kallikrein có van toàn trong đột qudo thiếu máu cc b7. Khnăng sống sót tốt hơn với cht c chế PDE5 dành cho ED trong CAD ổn định Trung Tâm Y Tế Qun Sơn Trà Khoa Dược

Trung Tâm Y Tế Quận Sơn Trà c

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

THÔNG TIN THUỐC THÁNG 3/2021

1. Pregabalin (biệt dược Lyrica): báo cáo về tình trạng ức chế hô hấp

nghiêm trọng.

2. Vildagliptin và thuốc ức chế men chuyển (ACEI) – tăng nguy cơ phù

mạch.

3. Sử dụng Isotretinoin đườngg uống trong thai kỳ: nguy cơ rối loạn phát

triển thần kinh

4. Health Canada: Cảnh báo nguy cơ nghiêm trọng cho sức khỏe của trẻ

khi trẻ vô tình tiếp xúc với paracetamol của người lớn.

5. Arcalyst được FDA chứng nhận là liệu pháp điều trị đầu tiên cho bệnh

viêm màng ngoài tim tái phát.

6. Công thức Kallikrein có vẻ an toàn trong đột quỵ do thiếu máu cục bộ

7. Khả năng sống sót tốt hơn với chất ức chế PDE5 dành cho ED trong

CAD ổn định

Trung Tâm Y Tế Quận Sơn Trà

Khoa Dược

Pregabalin (biệt dược Lyrica): báo cáo về tình trạng ức chế hô hấp nghiêm

trọng

Pregabalin có liên quan đến một số báo cáo về tình trạng ức chế hô hấp nghiêm

trọng, bao gồm cả một số trường hợp không sử dụng phối hợp với opioid. Bệnh

nhân có chức năng hô hấp suy giảm, bệnh hô hấp hoặc thần kinh, suy giảm chức

năng thận; bệnh nhân sử dụng thuốc phối hợp với thuốc ức chế thần kinh trung

ương khác; và bệnh nhân trên 65 tuổi có thể có nguy cơ cao hơn gặp phải tình

trạng trên, do đó có thể phải hiệu chỉnh liều.

Pregabalin được chỉ định để điều trị đau thần kinh ngoại vi và thần kinh trung tâm

ở người trưởng thành, điều trị hỗ trợ ở người trưởng thành bị động kinh khu trú có

hoặc không đi kèm với cơn co giật toàn thân thứ cấp, và cho rối loạn lo âu lan tỏa ở

người trưởng thành.

Việc phối hợp pregabalin với các opioid hoặc các thuốc ức chế thần kinh trung

ương khác đã được chứng minh là có liên quan đến các báo cáo về suy hô hấp, hôn

mê và tử vong. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng pregabalin liều cao

(trên 300mg/ngày) phối hợp với opioid có mối liên hệ rõ ràng với sự tăng nguy cơ

tử vong liên quan tới opioid.

Một báo cáo đánh giá an toàn gần đây của châu Âu đã thẩm định các báo cáo về

trường hợp ức chế hô hấp nghiêm trọng được cho là chỉ do tác dụng của pregabalin

trên thần kinh trung ương. Với dữ liệu hiện có về nguy cơ trên, bao gồm cả các báo

cáo đơn lẻ, và cơ chế tác dụng trên lý thuyết, thông tin sản phẩm cho các thuốc

hiện có ở Anh sẽ được bổ sung thêm cảnh báo ức chế hô hấp.

Báo cáo đánh giá đã xác định một số ít trường hợp ức chế hô hấp mà không có

nguyên nhân nào khác và không có tiền sử bệnh lý nền trên toàn cầu. Trong các

trường hợp này, việc ức chế hô hấp có mối quan hệ thời gian với việc bắt đầu sử

dụng hoặc tăng liều pregabalin. Các trường hợp khác được ghi nhận trên bệnh nhân

có yếu tố nguy cơ hoặc tiền sử bệnh lý nền. Đa số các trường hợp được thẩm định

là trên bệnh nhân cao tuổi.

Cảnh báo tương tự đã được đưa ra đối với gabapentin (biệt dược Neurotonin).

Nguồn: http://canhgiacduoc.org.vn/CanhGiacDuoc/DiemTin/1882/Pregabalin-bao-

cao-ve-tinh-trang-uc-che-ho-hap-nghiem-trong.htm

Vildagliptin và thuốc ức chế men chuyển (ACEI) – tăng nguy cơ phù mạch

Phối hợp vildagliptin với thuốc ức chế men chuyển (ACEI) làm tăng nguy cơ phù

mạch so với sử dụng đơn độc. Cân nhắc tương tác thuốc này nếu bệnh nhân sử

dụng đồng thời hai thuốc trên có triệu chứng phù mạch. Bệnh nhân sử dụng đồng

thời vildagliptin và ACEI cần được theo dõi triệu chứng phù mạch. Nhắc nhở bệnh

nhân báo cáo cho bác sĩ khi có bất kỳ triệu chứng phù mạch nào xuất hiện.

Tổng quan

Phù mạch là tình trạng đột ngột sưng phồng da hoặc cơ quan dưới da do tăng tính

thấm thành mạch nhất thời, khiến huyết tương thoát khỏi thành mạch vào khoảng

gian bào.

Vildagliptin là thuốc ức chế dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4) chỉ định điều trị đái

tháo đường typ 2. ACEI được chỉ định để điều trị bệnh thận do đái tháo đường, do

vậy hai thuốc này thường được sử dụng đồng thời.

Phù mạch do ACEI Phù mạch được báo cáo xuất hiện trong khoảng 0,2-0,5% bệnh nhân sử dụng

ACEI. Triệu chứng này có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong quá trình điều trị.

Phù mạch do ACEI chủ yếu xuất hiện ở vùng đầu và cổ, đặc biệt là môi, lưỡi, mặt

và đường hô hấp trên, do đó có thể đe dọa tính mạng. Phù mạch có thể có biểu hiện

ít phổ biến hơn như đau bụng cấp tính liên quan đến tiêu chảy hoặc các triệu chứng

trên đường tiêu hóa khác. Phù mạch không liên quan đến ngứa hoặc nổi mề đay.

Tăng nguy cơ phù mạch khi phối hợp vildagliptin với ACEI

Ít thấy triệu chứng phù mạch trên bệnh nhân sử dụng đơn độc vildagliptin, tuy

nhiên nguy cơ tăng lên trên bệnh nhân dùng đồng thời ACEI. Cân nhắc tương tác

thuốc này nếu bệnh nhân sử dụng đồng thời hai thuốc trên có triệu chứng phù

mạch. Bệnh nhân sử dụng đồng thời vildagliptin và ACEI cần được theo dõi triệu

chứng phù mạch. Nhắc nhở bệnh nhân báo cáo cho bác sĩ khi bất kỳ triệu chứng

phù mạch nào xuất hiện.

Cơ chế đề xuất Cơ chất P và bradykinin là chất giãn mạch tham gia vào quá trình sinh lý gây phù

mạch. ACE và DPP-4 tham gia vào quá trình phân hủy cơ chất P, và ACE là

enzym phân hủy bradykinin.

So sánh với tác dụng ức chế của riêng ACE hoặc DPP-4, tác dụng ức chế khi sử

dụng đồng thời ACEI và vildagliptin làm tăng nguy cơ tích lũy cơ chất P và

bradykinin, dẫn đến hiện tượng phù mạch.

SỬ DỤNG ISOTRETINOIN ĐƯỜNG UỐNG TRONG THAI KỲ: NGUY CƠ

RỐI LOẠN PHÁT TRIỂN THẦN KINH

Bên cạnh nguy cơ gây quái thai đã được biết đến, isotretinoin sử dụng đường uống

cũng có thể gây rối loạn phát triển thần kinh ở thai nhi, với các dị tật có hoặc

không nhìn thấy được.

Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Sản phẩm Y tế của Pháp (ANSM) đã đưa ra cảnh

báo tới các nhân viên y tế và bệnh nhân về nguy cơ tiềm ẩn này, đồng thời khuyến

cáo cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp tránh thai ở những bệnh nhân

điều trị bằng isotretinoin đường uống.

Trong khi chờ kết quả của các cuộc điều tra bổ sung, bệnh nhân sử dụng

isotretinoin đường uống trong thai kỳ nên được thông báo rằng việc không quan sát

thấy dị tật qua siêu âm hoặc sau sinh không loại trừ khả năng rối loạn ở thai nhi,

đặc biệt là chậm phát triển trí tuệ và các chức năng vận động (giữ thăng bằng, đi

lại...)

Sử dụng isotretinoin đường uống trị mụn trứng cá nặng trong thai kỳ có thể làm

tăng nguy cơ rối loạn phát triển thần kinh ở thai nhi, đi kèm hoặc không đi kèm dị

tật rõ ràng (xem Bảng 1).

Bảng 1 - Chỉ định isotretinoin đường uống

Các trường hợp mụn trứng cá nặng (như mụn bọc, mụn conglobata hoặc mụn

trứng cá có thể để lại sẹo vĩnh viễn) không thể điều trị bằng các phương pháp

thông thường, bao gồm kháng sinh toàn thân và điều trị tại chỗ (xem VIDAL

Reco “Mụn trứng cá”).

Isotretinoin đường uống được chỉ định cho người lớn và trẻ em trên 12 tuổi.

Các thành viên Hội đồng khoa học thường trực về Sức khỏe sinh sản - Phụ nữ có

thai và cho con bú của ANSM đã tiến hành rà soát các dữ liệu hiện có và đưa ra kết

luận. Việc đánh giá này được tiến hànhsaubáo cáo gửi tới mạng lưới cảnh giác

dược quốc gia về một trường hợp trẻ gặp rối loạn tự kỷ nghi ngờ do phơi nhiễm

isotretinoin trong thời gian mang thai và không phát hiện dị tật sau sinh.

Ngoài các nguy cơ gây dị tật đã biết, trong hơn 30% trường hợp, việc sử dụng

isotretinoin đường uống khi mang thai có thể làm xuất hiện các dị tật bẩm sinh

khác ở thai nhi, như dị tật não, mặt hoặc tim.

Do nguy cơ này vẫn cần được xác nhận và phân loại, tính khả thi của nghiên cứu

dịch tễ dược từ dữ liệu bảo hiểm y tế (Hệ thống dữ liệu y tế quốc gia [SNDS]) sẽ

được Nhóm lợi ích khoa học (GIS) EPI-PHARE nghiên cứu.

Nguy cơ tiềm ẩn về rối loạn phát triển thần kinhở thai nhi này chưa được đề cập rõ

ràng trong các tài liệu thông tin (tóm tắt đặc tính sản phẩm (RCP)và tờ rơi) của các

sản phẩm thuốc uống chứa isotretinoin (xem Bảng 2): dị tật thai nhi được đề cập,

đặc biệt là các bất thường hệ thần kinh trung ương.

Bảng 2 - Thuốc chứa isotretinoin đường uống được bán ở Pháp tính đến ngày

18/2/2021

CURACNÉ

PROCUTA

CONTRACNÉ

ISOTRÉTINOÏNE ACNÉTRAIT

Cho đến nay, nguy cơ này chưa được xác nhận ở quy mô toàn Châu Âu. Các dữ

liệu về nguy cơ dị tật do isotretinoin hiện có và trong tương lai cần được chia sẻ

với Cơ Quan Quản lý Dược phẩm Châu Âu (EMA)

Khuyến cáo của ANSM đối với cán bộ y tế

ANSM khuyến cáo các nhân viên y tế phải tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp

giảm thiểu rủi ro (xem Bảng 3) để "đảm bảo an toàn khi sử dụng các loại thuốc có

khả năng cao gây dị tật bẩm sinh".

Bảng 3 - Các biện pháp tránh thai cho bệnh nhân điều trị bằng isotretinoin

đường uống

Thực hiện hằng tháng trong thời gian điều trị và 1 tháng sau khi ngừng điều

trị:

- thực hiện các biện pháp ngừa thai hiệu quả cao, liên tục

- thử thai

Nếu phát hiện có thai hoặc bệnh nhân cho rằng mình có thai:

- ngừng điều trị ngay lập tức

- sắp xếp cho bệnh nhân tới gặp chuyên gia hoặc bác sĩ có chuyên môn về dị

tật bẩm sinh để đánh giá và tư vấn

Bệnh nhân cần được thông báo về những nguy cơ tiềm ẩn và các biện pháp tránh

thai.

Bệnh nhân cũng phải được cảnh báo khi sử dụng isotretinoin đường uống trong

thai kỳ, việc không quan sát được dị tật qua siêu âm hoặc sau sinh chưa thể đảm

bảo thai nhi không mắc các chứng rối loạn, đặc biệtlà rối loạnchậmphát triển trí tuệ

và chức năng vận động (giữ thăng bằng, đi lại...)

Để biết thêm thông tin

Điều trị mụn trứng cá nặng bằng isotretinoin đường uống: ANSM thông báo về

nguy cơ tiềm ẩn của rối loạn phát triển trí tuệ trong trường hợp phơi nhiễm khi

mang thai (ANSM, ngày 18/2/2021)

Nguồn: http://canhgiacduoc.org.vn/CanhGiacDuoc/DiemTin/1885/Su-dung-

isotretinoin-duong-uong-trong-thai-ky-nguy-co-roi-loan-phat-trien-than-kinh.htm

Health Canada: Cảnh báo nguy cơ nghiêm trọng cho sức khỏe của trẻ khi trẻ

vô tình tiếp xúc với paracetamol của người lớn

Nhiều sự cố ngộ độc paracetamol ở trẻ nhỏ đã xảy ra do vô tình tiếp xúc với viên

nén paracetamol dành cho người. Bộ Y tế Canada cảnh báo người dân về nguy cơ

này và đưa ra một số biện pháp phòng ngừa cũng như giải quyết cho các bậc phụ

huynh.

Nguy cơ

Bộ Y tế Canada khuyến cáo người dân nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa để

ngăn chặn sự cố ngộ độc paracetamol ở trẻ nhỏ, sau khi các trung tâm kiểm soát

chất độc nhận được nhiều về báo cáo sự cố này. Các viên thuốc paracetamol cho

người lớn có màu đỏ, vị ngọt, dễ nhầm với kẹo, và có thể được đóng gói trong chai

có nắp đỏ, dễ mở, dễ nhầm với đồ chơi.

Vô tình nuốt phải các sản phẩm paracetamol có thể dẫn đến quá liều, ảnh hưởng

nghiêm trọng tới sức khỏe, bao gồm tổn thương gan hoặc tử vong. Các triệu chứng

của quá liều bao gồm buồn nôn, nôn mửa, chán ăn và đau ở phần trên của bụng

hoặc dạ dày.

Những điều nên làm

- Gọi cho trung tâm kiểm soát chất độc nếu nghĩ rằng trẻ đã uống quá nhiều

paracetamol

- Tham khảo ý kiến các nhân viên y tế nếu có bất kỳ câu hỏi nào về paracetamol

- Chọn bao bì chống trẻ em khi mua sản phẩm paracetamol nếu có trẻ nhỏ trong

nhà

- Vặn chặt nắp sau mỗi lần sử dụng

- Cất tất cả các loại thuốc trong một hộp khóa, thùng hoặc tủ, tránh xa tầm nhìn và

tầm với của trẻ em.

- Không dùng thuốc trước mặt trẻ em

- Báo cáo bất kỳ vấn đề bất lợi nào về sản phẩm sức khỏe cho Cơ quan quản lý.

- Hiện Bộ Y tế Canada vẫn tiếp tục xem xét vấn đề này và làm việc với các nhà sản

xuất để xác định các biện pháp thích hợp nhằm tăng tính an toàn của các sản phẩm

này.

Nguồn: http://canhgiacduoc.org.vn/CanhGiacDuoc/DiemTin/1895/Health-

Canada-canh-bao-nguy-co-nghiem-trong-cho-tre-khi-tre-vo-tinh-tiep-xuc-voi-

paracetamol-cua-nguoi-lon.htm

Arcalyst được FDA chứng nhận là liệu pháp điều trị đầu tiên cho bệnh viêm

màng ngoài tim tái phát

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê

duyệt rilonacept (Arcalyst) để điều trị viêm màng ngoài tim tái phát và giảm nguy

cơ tái phát ở người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên.

Việc phê duyệt tiêm dưới da hàng tuần cung cấp cho bệnh nhân liệu pháp đầu tiên

và duy nhất được FDA chấp thuận cho bệnh viêm màng ngoài tim tái phát, cơ quan

này cho biết trong một thông cáo .

Viêm màng ngoài tim tái phát được đặc trưng bởi tình trạng viêm màng ngoài tim

tái phát và các lựa chọn điều trị bị giới hạn ở các loại thuốc chống viêm không

steroid, colchicine và corticosteroid.

Rilonacept là một protein dung hợp tái tổ hợp ngăn chặn tín hiệu interleukin-1

alpha và interleukin-1 beta. Nó đã được FDA chấp thuận để điều trị một nhóm các

bệnh viêm di truyền hiếm gặp được gọi là hội chứng chu kỳ liên quan đến

cryopyrin.

Chỉ định mới dựa trên thử nghiệm RHAPSODY giai đoạn 3 quan trọng trên 86

bệnh nhân có các triệu chứng cấp tính của viêm màng ngoài tim tái phát và viêm

hệ thống. Sau khi phân tích ngẫu nhiên, viêm màng ngoài tim tái phát ở 2 trong số

30 bệnh nhân (7%) được điều trị bằng rilonacept và ở 23 trong số 31 bệnh nhân

(74%) được điều trị bằng giả dược, giảm 96% nguy cơ tái phát tương đối với

rilonacept.

Những bệnh nhân được sử dụng rilonacept cũng không bị đau hoặc giảm đau tối

thiểu trong 98% số ngày thử nghiệm, trong khi những người được sử dụng giả

dược giảm đau tối thiểu hoặc không bị đau trong 46% số ngày thử nghiệm.

Các tác dụng phụ thường gặp nhất của rilonacept là phản ứng tại chỗ tiêm và

nhiễm trùng đường hô hấp trên.

Nhiễm trùng nghiêm trọng đe dọa tính mạng đã được báo cáo ở những bệnh nhân

dùng rilonacept, theo FDA. Bệnh nhân bị nhiễm trùng hoạt động hoặc mãn tính

không nên dùng thuốc.

Nhãn của FDA cũng khuyên rằng bệnh nhân nên tránh dùng vắc-xin sống khi đang

dùng rilonacept và nên ngừng sử dụng nếu phản ứng quá mẫn xảy ra.

Việc tung ra thương mại dự kiến vào tháng tư, theo quy định của công ty

Nguồn: https://www.medscape.com/viewarticle/948108

Công thức Kallikrein có vẻ an toàn trong đột quỵ do thiếu máu cục bộ

Kết quả giai đoạn 2 cho thấy một công thức tái tổ hợp của kallikrein mô người

(KLK1) là an toàn và có thể dung nạp được ở những bệnh nhân bị đột quỵ do thiếu

máu cục bộ cấp tính .

KLK1 là một protease serine hoạt tính nội sinh và chất tạo mạch.

Công thức được nghiên cứu trong thử nghiệm này là DM199, đang được phát triển

bởi DiaMedica Therapeutics.

So với giả dược trong thử nghiệm ReMEDy, điều trị bằng DM199 không làm tăng

nguy cơ xảy ra các tác dụng phụ nghiêm trọng. Mặc dù thử nghiệm không được

thiết kế để đánh giá hiệu quả của DM199, một phân tích hậu kỳ cho thấy một lợi

ích tiềm năng.

Bruce C. Campbell, MBBS, một chuyên gia về y học tại Bệnh viện Hoàng gia

Melbourne ở Úc, cho biết: “Đánh giá thêm về DM199 trong một thử nghiệm lớn

hơn có lẽ được bảo đảm.

"Hiện có một nghiên cứu giai đoạn 2/3 đang được bắt đầu với DM199 ở Hoa Kỳ,

tập trung vào những bệnh nhân không được điều trị tái tưới máu." Không có lựa

chọn điều trị nào cho dân số này.

Các phát hiện đã được trình bày tại Hội nghị Đột quỵ Quốc tế (ISC) năm 2021.

Thận, mô cơ và tuyến nước bọt sản xuất KLK1, cũng có thể có nguồn gốc từ nước

tiểu. Dữ liệu tiền lâm sàng cho thấy rằng KLK1 có cơ chế hoạt động hai giai đoạn

trong đột quỵ. Đầu tiên, thuốc cải thiện vi tuần hoàn và giảm viêm. Sau đó, nó làm

giảm quá trình chết và viêm tế bào thần kinh, đồng thời tăng tốc quá trình phục hồi

mạng lưới.

KLK1 được chấp thuận ở Trung Quốc để sử dụng trong đột quỵ do thiếu máu cục

bộ lên đến 48 giờ sau khi khởi phát. Một phân tích tổng hợp của 16 thử nghiệm chỉ

ra rằng điều trị có thể có lợi sau đột quỵ do thiếu máu cục bộ.

DM199 là công thức KLK1 tái tổ hợp đầu tiên ở người. Campbell và các đồng

nghiệp đã thực hiện nghiên cứu ReMEDy giai đoạn 2 tại 12 trung tâm ở Úc để

đánh giá mức độ an toàn của DM199 ở bệnh nhân đột quỵ do thiếu máu cục bộ.

Những người tham gia đủ điều kiện từ 18 tuổi trở lên, có mặt trong vòng 24 giờ

sau khi khởi phát đột quỵ do thiếu máu cục bộ và có thang điểm của Viện Y tế

Quốc gia về Đột quỵ (NIHSS) từ 6 đến 25. Đối với những bệnh nhân được làm tan

huyết khối hoặc phẫu thuật cắt huyết khối, NIHSS đủ điều kiện được đánh giá ở

mức cao hơn hơn 1 giờ sau khi điều trị.

Những bệnh nhân bị khuyết tật nặng trước khi mắc bệnh, được định nghĩa là điểm

số Thang điểm Rankin (mRS) sửa đổi từ 4 trở lên, đã bị loại trừ. Những bệnh nhân

không thể ngừng thuốc ức chế men chuyển, được cho là có nguy cơ gây tăng huyết

áp nếu dùng đồng thời với KLK1, cũng bị loại trừ.

Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào DM199 hoặc giả dược. Họ được truyền tĩnh

mạch ban đầu và tiêm dưới da tiếp theo của phương pháp điều trị được chỉ định

vào Ngày 1 và các mũi tiêm dưới da tiếp theo cứ 3 ngày một lần trong 22 ngày tiếp

theo.

Kết quả chính là sự an toàn, được đo bằng tỷ lệ các tác dụng phụ nghiêm

trọng. Kết quả thứ cấp bao gồm phục hồi thần kinh (điểm NIHSS), phục hồi chức

năng (được định nghĩa là điểm mRS ngày 90) và các dấu ấn sinh học.

Các nhà điều tra đã thu nhận 92 bệnh nhân. Trong nhóm này, 47 (51%) nhận

DM199 và 45 (49%) nhận giả dược. Tuổi trung bình của dân số là 71,0 tuổi và

điểm NIHSS trung bình là 10.

Các tác dụng phụ thường gặp nhất là táo bón , buồn nôn và nhức đầu . Các tác

dụng ngoại ý nghiêm trọng được báo cáo ở 20 (43%) bệnh nhân dùng DM199 và

14 (31%) bệnh nhân dùng giả dược ( P = .29).

Bốn người tham gia trong nhóm hoạt động và ba người trong nhóm chứng đã

ngừng điều trị vì ít nhất một tác dụng phụ cấp cứu trong điều trị. Các nhà điều tra

đánh giá rằng không có biến cố bất lợi nghiêm trọng nào trong nhóm DM199 liên

quan đến việc điều trị.

Kết quả lâm sàng hoặc chức năng ở Ngày thứ 90 không có sự khác biệt đáng kể

giữa các nhóm. Trong một phân tích hậu kỳ trên 91 bệnh nhân được đánh giá, tỷ lệ

đột quỵ tái phát nặng là 2% ở nhóm DM199 và 16% ở nhóm giả dược ( P =

0,028). Bốn trong số bảy bệnh nhân dùng giả dược đã chết sau khi tái phát đột quỵ.

Trong số 46 bệnh nhân không trải qua phẫu thuật cắt huyết khối cơ học, tỷ lệ hồi

phục hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn sau 90 ngày (được định nghĩa là điểm NIHSS

từ 0 đến 1) là 36% ở nhóm DM199 và 14% ở nhóm giả dược ( P = .15). Tỷ lệ tử

vong là 12% ở nhóm DM199 và 24% ở nhóm dùng giả dược.

"Những hạn chế của nghiên cứu chủ yếu là thực tế là chúng tôi đã có tất cả những

bệnh nhân tiêu huyết khối và phẫu thuật cắt huyết khối, điều này nâng cao tính

tổng quát của nghiên cứu và cho chúng tôi một quần thể đột quỵ nặng tốt để xem

xét sự an toàn, nhưng nó đã làm rối loạn kết quả chức năng" nói.

"Chúng tôi đã thỏa hiệp giữa việc cố gắng tuyển dụng trong vòng 24 giờ nhưng

vẫn cho phép thời gian để lọc ra những bệnh nhân phục hồi nhanh chóng sau khi

tái tưới máu."

Điều chỉnh lưu lượng máu

Philip B. Gorelick, MD, MPH, giáo sư thần kinh học tại Trường Y Feinberg thuộc

Đại học Northwestern ở Chicago, Illinois, nói với Medscape Medical News, một số

bằng chứng cho thấy hệ thống KLK1 có liên quan đến điều hòa lưu lượng máu .

Ông lưu ý rằng các mô hình động vật thiếu KLK1 bị suy giảm phản ứng của mạch

máu đối với sự thay đổi của lưu lượng máu. Ngoài ra, những người bị khiếm

khuyết đột biến gây mất chức năng của protein KLK1 cũng có thể bị mất phản ứng

của động mạch cánh tay với những thay đổi trong lưu lượng máu.

Dữ liệu an toàn từ nghiên cứu này "cung cấp bàn đạp cơ bản để phát triển một

nghiên cứu quy mô lớn hơn và dứt khoát hơn về tính an toàn và hiệu quả của tác

nhân điều trị mới này," Gorelick nói.

Các tiêu chí để điều trị cấp tính đột quỵ do thiếu máu cục bộ theo truyền thống

thường tập trung vào khoảng thời gian, nhưng các tiêu chí này "giờ đây bao gồm

các thông số sinh lý học dựa trên, ví dụ, các chỉ số về lưu lượng máu và mô có

nguồn gốc từ hình ảnh thần kinh", Gorelick nói.

"Do sự phức tạp mới trong điều trị đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính, nghiên

cứu về DM199 trong tương lai có thể cần giải quyết các câu hỏi liên quan đến vai

trò của tác nhân mới này có hoặc không sử dụng liệu pháp làm tan huyết khối tĩnh

mạch hoặc phẫu thuật cắt huyết khối cơ học, và sự hiện diện của Ông nói, mô não

có khả năng cứu vãn được dựa trên các thông số sinh lý có nguồn gốc từ hình ảnh

thần kinh.

Hơn nữa, Gorelick nói thêm, "sẽ rất thú vị khi xác định ảnh hưởng của DM199 đối

với các chỉ số như sự thay đổi huyết áp và giảm huyết áp, các thông số có thể ảnh

hưởng đến kết quả đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính."

Nguồn: https://www.medscape.com/viewarticle/948058#vp_2

Khả năng sống sót tốt hơn với chất ức chế PDE5 dành cho ED trong CAD ổn

định

Sử dụng chất ức chế phosphodiesterase type-5 (PDE5) có liên quan đến nguy cơ tử

vong và các biến cố tim mạch thấp hơn alprostadil để điều trị rối loạn cương

dương ở nam giới mắc bệnh mạch vành ổn định trong một nghiên cứu đăng ký lớn

của Thụy Điển.

"Chúng tôi quyết định xem xét nhóm này vì bất lực là một vấn đề lớn ở nam giới

cao tuổi", và mối quan tâm vẫn còn về việc liệu "thuốc ức chế PDE5 có thể được

sử dụng cho những người trong nhóm này cũng mắc bệnh tim mạch hay không",

tác giả chính Daniel P. Andersson , MD, Tiến sĩ, Viện Karolinska, Stockholm,

Thụy Điển, cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Nhóm nghiên cứu trước đây đã báo cáo lợi ích tử vong của thuốc ức chế PDE5 ở

nam giới bị nhồi máu cơ tim (MI) lần đầu , cũng như một nghiên cứu của Anh ở

nam giới mắc bệnh tiểu đường loại 2 . Tuy nhiên, cả hai đều so sánh việc điều trị

với nam giới không dùng thuốc điều trị rối loạn cương dương (ED), có thể gây

nhiễu theo chỉ định, ông lưu ý.

Phân tích hiện tại bao gồm 18.542 người đàn ông Thụy Điển bị ED đã bị MI hoặc

đã trải qua phẫu thuật bắc cầu mạch vành hoặc can thiệp mạch vành qua da , trong

đó 16.548 người được điều trị bằng thuốc ức chế PDE5 (sildenafil, tadalafil , hoặc

vardenafil) và 1994 với alprostadil tại chỗ. Thời gian theo dõi tử vong trung bình là

5,8 năm.

Người dùng Alprostadil có nhiều khả năng bị đột quỵ trước đó, tiểu đường, ung

thư đang hoạt động, suy tim , bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính , rung nhĩ hoặc bệnh

động mạch ngoại vi và sử dụng thuốc chẹn beta, thuốc ức chế men chuyển / thuốc

chẹn thụ thể angiotensin, thiazide, opioid, nitrat, hoặc chất ức chế tái hấp thu

serotonin có chọn lọc. Những người sử dụng chất ức chế PDE5 trẻ hơn một chút và

có nhiều khả năng có trình độ học vấn sau đại học.

Sau khi kiểm soát các yếu tố này, rủi ro được điều chỉnh trong nhóm thuốc ức chế

PDE5 là:

Giảm 12% đối với tử vong do mọi nguyên nhân (14% so với 26%; tỷ lệ

nguy cơ [HR], 0,88)

Giảm 19% đối với nhồi máu cơ tim (9,4% so với 15%; HR, 0,81)

Giảm 25% đối với các trường hợp nhập viện do suy tim (1,0% so với 2,1%;

HR, 0,75)

Giảm 31% đối với tái lưu thông (13,1% so với 21%; HR, 0,69)

Theo nghiên cứu được công bố ngày 22 tháng 3 trên Tạp chí American College of

Cardiology, các nguy cơ được điều chỉnh đối với đột quỵ và bệnh động mạch ngoại

vi là tương tự nhau giữa hai nhóm điều trị .

Tỷ lệ tử vong do tim mạch (5,1% so với 10,6%) và không do tim mạch (6,9% so

với 12,2%) đã giảm gần một nửa ở nhóm ức chế PDE5, mặc dù mối liên quan với

điều trị là đáng kể sau khi điều chỉnh chỉ đối với tử vong do tim mạch (HR, 0,83)

và không chết không do tim mạch.

Andersson cho biết: “Giả thuyết ban đầu của chúng tôi là tử vong do tim mạch sẽ

giảm xuống, nhưng như chúng tôi thấy, tỷ lệ tử vong không do tim mạch cũng

giảm và chúng tôi không mong đợi điều đó,” Andersson nói. "Cả hai điều này đều

làm giảm tỷ lệ tử vong, nhưng chúng ta vẫn chưa thể nói gì về quan hệ nhân quả."

Các phân tích theo độ tuổi chỉ ra rằng nam giới từ 60 đến 69 tuổi được điều trị

bằng ức chế PDE5 có tỷ lệ tử vong thấp hơn so với các đồng nghiệp của họ được

điều trị bằng alprostadil (HR điều chỉnh, 0,81). Tuy nhiên, điều này không được

thấy ở nam giới trên 70 tuổi.

Khi các nhà điều tra so sánh các nhóm kê đơn thuốc ức chế PDE5 đầy đủ, nam giới

ở nhóm thứ ba, thứ tư và thứ năm có nguy cơ tử vong được điều chỉnh thấp hơn lần

lượt là 16%, 25% và 27% so với nam giới ở nhóm thấp nhất. Nam giới trong nhóm

kê đơn alprostadil cao nhất có nguy cơ tử vong thấp hơn so với những người ở

nhóm thấp nhất.

Andersson nói: “Chúng tôi cần các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, tuy nhiên,

nếu bác sĩ kê đơn thuốc này thấy rằng bạn đủ sức khỏe để dùng nó, thì nó có thể tốt

cho bạn và bạn có thể dùng nó và cảm thấy an toàn về nó,” Andersson nói.

Renke Maas, MD, Đại học Friedrich Alexander Erlangen-Nürnberg, Erlangen Đức,

và Roman Rodionov, MD, Tiến sĩ, Đại học Công nghệ Dresden, Đức, viết trong

một bài xã luận kèm theo rằng "mối liên hệ quan sát được của việc sử dụng PDE5i

và sự sống còn ở nam giới với bệnh động mạch vành rất hấp dẫn nhưng vẫn không

đủ để hỗ trợ bất kỳ thay đổi nào trong thực hành lâm sàng. "

Họ chỉ ra rằng cả chất ức chế PDE5 và alprostadil đều không được kê đơn hoặc

dùng để sử dụng hàng ngày và chỉ tadalafil một lần mỗi ngày, với thời gian tác

dụng từ 24 đến 36 giờ, sẽ đáp ứng tiêu chí tiếp xúc liên tục. "Điều này làm cho khó

có thể quy kết bất kỳ mối liên hệ chặt chẽ nào với tỷ lệ tử vong với các kiểu dùng

thuốc điển hình của PDE5i ở nam giới bị ED."

Họ viết: “Để ủng hộ mối quan hệ nhân quả, có thể lập luận rằng trong nhóm thuần

tập Thụy Điển, với tỷ lệ tăng huyết áp cao , PDE5i có thể đã cải thiện khả năng

sống sót bằng cách làm tăng tác dụng lâm sàng của thuốc hạ huyết áp,” họ

viết. "Nhiều người cũng có thể thích suy nghĩ rằng quan hệ tình dục thường xuyên

đủ điều kiện như một hoạt động thể chất giúp tăng tuổi thọ và rằng PDE5i có thể

phục hồi lợi ích này trong trường hợp ED. Thật không may, cách giải thích này có

thể tạo thành quan hệ nhân quả ngược lại."

Sức khỏe chung suy giảm có liên quan đến việc giảm ham muốn và hoạt động tình

dục và do đó, việc tiếp xúc tích lũy nhiều với các chất ức chế PDE5 có thể chỉ đơn

giản là xác định những bệnh nhân khỏe mạnh hơn và hoạt động tình dục nhiều hơn,

Maas và Rodionov gợi ý.

Các nhà biên tập đồng ý rằng một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng là cần thiết

để giải quyết các vấn đề gây nhiễu và sai lệch theo chỉ định nhưng nói rằng trước

khi bắt đầu một thử nghiệm như vậy, "một câu hỏi cần được giải quyết trước: Tại

sao ngành dược phẩm chưa tiến hành bất kỳ thử nghiệm lớn hơn nào trong phạm vi

rộng này chỉ định trong 20 năm qua?

Họ cho biết thêm: “Điều này thật khó hiểu, khi xem xét các dữ liệu thực nghiệm

phong phú cho thấy tác dụng có lợi trên hệ tim mạch và PDE5i được phát triển vào

những năm 1990 với thị trường tiềm năng rất lớn đối với bệnh động mạch vành và

tăng huyết áp. "Các câu trả lời có thể cung cấp một số hiểu biết quan trọng, và có

thể là nghiêm túc."

Nghiên cứu được thực hiện với sự hợp tác của Trung tâm Béo phì ở Stockholm,

Thụy Điển và Đại học Milano-Bicocca ở Ý. Andersson được tài trợ bởi một thỏa

thuận khu vực về đào tạo y tế và nghiên cứu lâm sàng giữa Hội đồng Quận

Stockholm và Viện Karolinska . Maas và Rodionov không tiết lộ mối quan hệ tài

chính liên quan.

Nguồn: https://www.medscape.com/viewarticle/947982#vp_2