37
DANH SÁCH NHÓM 3 1. Trần Thị Cẩm Hằng : Vận dụng đề tài 2 2. Phạm Thị Minh Hằng (Nhóm trưởng) : Vận dụng đề tài 4 3. Nguyễn Thị Hằng : Vận dụng đề tài 2 4. Nguyễn Anh Hào : Vận dụng đề tài 4 5. Hoàng Thị Hải Hậu : Cơ sở lý thuyết đề tài 4 6. Đào Hồng Hạnh : Cơ sở lý thuyết đề tài 2 7. Trần Thị Mai Hạnh (Thư ký) : Tổng hợp, đánh máy, lập biên bản 8. Nguyễn Thị Hiên (45D5) : Vận dụng đề tài 4 9. Nguyễn Thị Hiên (45D6) : Cơ sở lý thuyết đề tài 2 1

tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

DANH SÁCH NHÓM 3

1. Trần Thị Cẩm Hằng : Vận dụng đề tài 2

2. Phạm Thị Minh Hằng (Nhóm trưởng) : Vận dụng đề tài 4

3. Nguyễn Thị Hằng : Vận dụng đề tài 2

4. Nguyễn Anh Hào : Vận dụng đề tài 4

5. Hoàng Thị Hải Hậu : Cơ sở lý thuyết đề tài

4

6. Đào Hồng Hạnh : Cơ sở lý thuyết đề tài

2

7. Trần Thị Mai Hạnh (Thư ký) : Tổng hợp, đánh máy, lập

biên bản

8. Nguyễn Thị Hiên (45D5) : Vận dụng đề tài 4

9. Nguyễn Thị Hiên (45D6) : Cơ sở lý thuyết đề tài

2

10. Tăng Thị Hiền : Cơ sở lý thuyết đề tài 4

1

Page 2: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Mở đầu

Nền văn hóa cổ truyền của người Việt Nam được xây dựng trên vùng địa văn

hóa gió mùa nhiệt đới, bán đảo. Trong cái nôi phát sinh của loài người, người Việt đã

trải qua con người bộ lạc, con người của các mường Đông Nam Á rồi đến con người

làng xã định cư, trồng lúa nước. Trải qua các quá trình hoàn thiện các công cụ lao

động từ nền văn hóa đá cũ, đá mới đến thời đồ đồng, người Việt đã nhảy xuống đồng

bằng khai phá đất đai hoang dại, ẩm thấp, sình lầy, quần cư, từ đó hình thành nên

các làng, bản giống như các cư dân Nam Á khác.

Nền văn hóa cổ truyền của người Việt đã kết tinh nhiều giá trị tốt đẹp. Chẳng

hạn: Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa thích ứng, tình cảm vị tha, đức tính hiếu học, cần

cù, tiết kiệm và sáng tạo gắn chặt với cộng đồng làng xã là biểu tượng văn hóa đậm

đà bản sắc Việt Nam. Trong nền văn hóa cổ truyền có sự phát triển ưu trội của các

quan hệ đạo đức. Con người phải có bổn phận với cộng đồng trên là vua, dưới là

làng là cha mẹ, anh em và gia đình. Thiện ác, các tư tưởng bình quân ngấm rất sâu

vào văn hóa lao động, giao tiếp, gia đình và nhân cách mỗi người. Bản chất kinh tế -

xã hội của nó thể hiện lợi ích cộng đồng. Cơ cấu của nó, như Hồ Chí Minh nhận dạng

về chủ nghĩa Khổng Tử: làm cho “sự bình yên trong xã hội không bao giờ thay đổi”

(Báo Ngọn lửa nhỏ - Liên Xô, số 39, ngày 23-12-1923).

Bài thảo luận gồm 2 phần:

PHẦN I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

PHẦN II: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển văn hóa học đường

của sinh viên đại học Thương Mại ngày nay.

2

Page 3: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

PHẦN I:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ.

Nói đến văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là sự hài hoà của tinh hoa văn

hoá dân tộc và văn hoá nhân loại. Tư tưởng về văn hoá của Người là cách cảm, cách

nghĩ, cách nói của Người luôn thể hiện cách cảm, cách nghĩ, cách nói của dân tộc.

Ngay từ tháng 8/1943, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hoá như sau: “Vì lẽ

sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra

ngôn ngữ, chữ viết đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật, những

công cụ cho sinh hoạt hàng ngày, về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ

những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của các phương

thức sinh hoạt, cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra, nhằm

thích ứng những nhu cầu đời sống của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb

Chính trị quốc gia, H 2000.tr 431). Theo đó, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất,

bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; văn hóa

là động lực giúp con người sinh tồn; văn hóa là mục đích sống của loài người. Với định

nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến diện về văn hóa trong

lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến vấn đề tinh thần, trong văn học nghệ thuật, hoặc

chỉ đề cập đến vấn đề giáo dục, phản ánh trình độ học vấn… Trên thực tế, văn hóa bao

gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra,

nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của con người.

Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định

hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:

“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.

2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình làm lợi cho quần chúng.

3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong

xã hội.

4. Xây dựng chính trị: dân quyền.

3

Page 4: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

5. Xây dựng kinh tế.”

Như vậy, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã

sớm đưa văn hóa váo chiến lược phát triển của đất nước.

Ngay sau khi nước ta giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ

bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam, đưa những giá

trị văn hóa đi sâu vào quần chúng, coi nó như một sức mạnh vật chất, một động lực,

một mục tiêu, một hệ điều tiết xã hội trong quá trình phát triển. Đây là một quan điểm

hoàn toàn mới mẻ, điều mà mãi đến những năm 80 của thế kỷ XX, UNESCO mới tổng

kết và coi đó như một quy luật phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh xây dựng nề văn hóa

Việt Nam trên cơ sở quan điểm “vượt truyền thống”. Năm 1942, khi coi văn hóa là

toàn bộ những phát minh sáng tạo, “là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt

cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu

đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định

rằng nhà văn hóa thời nay khác với nhà văn hóa thời trước. Các nhà thơ thời trước

thường ngâm vịnh nhàn tản, còn ngày nay “thi gia dã yếu hội xung phong”.

Tư tưởng “nhà thơ phải biết xung phong” là một tư tưởng mới và rất quan trọng,

đặt nền tảng cho quan niệm “Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ”

của Hồ Chí Minh gần 10 năm sau.

Vào những năm tiền khởi nghĩa, dòng văn hóa cách mạng đã tạo ra nhiều nghệ

sĩ - chiến sĩ. Nhà thơ Tố Hữu, nhà thơ Sóng Hồng đã gắn toàn bộ sự nghiệp sáng tạo

thơ ca với hiện thực cách mạng. Cũng chính trong khoảng thời gian này, những bài thơ

của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một tâm hồn nghệ sĩ - chiến sĩ đã xuất hiện. Bài Tảo

giải II là một thí dụ:

“ Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không;

Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,

Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng”.

4

Page 5: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Về đến Pắc Pó hùng vĩ, tình cảm nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh đã quyện cả chủ

nghĩa Mác – Lênin với hồn thiêng sông núi và tương lai sáng lạn của cả dân tộc Việt

Nam:

“Non xa xa, nước xa xa.

Nào phải thênh thang mới gọi là

Đây suối Lênin, kia núi Mác

Hai tay xây dựng một sơn hà”.

Theo hướng này, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí

Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. của xã

hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế,

chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và được nhận thức

như sau:

- Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội.

- Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính

trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.

Dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, bị đàn áp, thì văn nghệ

cũng bị nô lệ, không thể phát triển. Theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính

trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành

chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở

đường cho văn hóa phát triển. Quan điểm của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn Cách

mạng Tháng Tám năm 1945 chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa.

Từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ

kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến

trúc thượng tầng. Người cho rằng, “cơ sở hạ tầng xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới

kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được”. Như vậy, vấn đề đặt ra là kinh tế

phải đi trước một bước. Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo” cũng theo nghĩa

như vậy. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã tổng kết: Muốn tiến lên

chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa... để nâng cao đời sống vật chất

5

Page 6: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

và văn hóa của nhân dân ta (Hồ Chí Minh không bao giờ nói phát triển văn hóa trước

kinh tế).

- Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng nhưng không thể đứng ngoài, mà phải ở

trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng

và phát triển kinh tế.

Tuy “kinh tế có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được”, nhưng điều đó

không có nghĩa là văn hóa “thụ động” chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới đến lượt

mình phát triển. Văn hóa có tính tích cực chủ động, đóng vai trò to lớn thúc đẩy kinh tế

và chính trị phát triển như một động lực.

“Văn hóa ở trong chính trị” tức văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị,

tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nêu rõ:

“Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, hoặc đường lối kháng chiến toàn

diện, thi đua trên mọi lĩnh vực,... là với ý nghĩa như vậy. Theo đó, một phong trào văn

hóa cách mạng, văn hóa kháng chiến đã diễn ra rất sôi động, góp phần đắc lực vào

thắnglợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.

“Văn hóa ở trong kinh tế” tức là văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy việc xây dựng

và phát triển kinh tế.

“Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị” cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế phải

có tính văn hóa. Đây là một đòi hỏi chính đáng của văn hóa hiện đại. Làm chính trị,

làm kinh tế... phải có văn hóa.

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã quan

tâm tới việc xây dựng nền văn hóa mới, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu

của cách mạng. Như vậy, nền văn hóa mới ra đời gắn liền với nước Việt Nam mới.

Trước đó ở nước ta là nền văn hóa nô dịch của thực dân phong kiến, làm đồi trụy con

người. Đặc điểm chung nhất của nền văn hóa mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xua

tan bóng tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng

lên cuộc sống của nhân dân ta. Văn hóa mới là phải giáo dục nhân dân ta tinh thần cần,

kiệm, liêm, chính, tự do tín ngưỡng, không hút thuốc phiện; chống giặc dốt...

6

Page 7: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa mới là nền văn hóa dân

chủ mới, đồng thời là nền văn hóa kháng chiến. Nền văn hóa đó có ba tính chất: dân

tộc - khoa học - đại chúng.

Tính chất dân tộc (hay còn gọi là đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc) là cái "cốt",

cái tinh túy bên trong rất đặc trưng của nền văn hóa dân tộc. Nó phân biệt, không nhầm

lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Nó là "căn cước" của một dân tộc. Cốt cách dân

tộc không phải "nhất thành bất biến", mà nó có sự phát triển, bổ sung những tinh túy

mới.

Tính chất khoa học của nền văn hóa phải thuận với trào lưu tiến hóa của tư

tưởng hiện đại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nền văn hóa mới

phải phục vụ trào lưu đó. Muốn vậy, tính khoa học phải thể hiện trên nhiều mặt: cơ sở

hạ tầng, nền tảng kinh tế phải khoa học, hiện đại. Đội ngũ những người làm công tác

văn hóa phải có trí tuệ, hiểu biết khoa học tiên tiến; phải có chiến lược văn hóa, xây

dựng lý luận văn hóa mang tầm thời đại.

Tính chất đại chúng của nền văn hóa là phục vụ nhân dân, phù hợp với nguyện

vọng nhân dân, đậm đà tính nhân văn. Đó là nền văn hóa do đại chúng nhân dân xây

dựng.

Trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ đầu Hồ Chí Minh nói tính

chất nền văn hóa mới phải "xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức". Từ

Đại hội III (tháng 9-1960), Người có bước phát triển trong tư duy lý luận khi khẳng

địnhnền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.

Nội dung xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện đại, biết

tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với trào lưu tiến hóa trong thời đại mới.

Tính chất dân tộc của nền văn hóa là biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống

văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với

những điều kiện lịch sử mới của đất nước.

Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn

hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:

7

Page 8: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.Văn hóa thuộc đời

sống tinh thần của xã hội. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống

tinh thần của xã hội và con người. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải thấm sâu

vào tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng nâng cao tư tưởng

đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai lầm,

tình cảm thấp hèn. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, nhưng phải đặc biệt quan tâm

tới những tư tưởng và tình cảm chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả

dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của tư tưởng lớn. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa

phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc

dân "có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng". Đó là lý

tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân

tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Một khi con người đã phai nhạt lý

tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì không còn ý nghĩa gì đối với cuộc sống

cách mạng. Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương

nhân loại bị đau khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thủy chung; đề cao cái

chân, cái thiện, cái mỹ... Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình,

quê hương, dân tộc, nhân loại, với bạn bè, đồng chí, quan hệ thầy trò...

Tư tưởng và tình cảm có mối quan hệ gắn bó với nhau. Tình cảm cao đẹp là con

đường dẫn tới tư tưởng đúng đắn; tư tưởng đúng làm cho tình cảm cao đẹp hơn, làm

cho con người ngày càng hoàn thiện. Văn hóa còn góp phần xây đắp niềm tin cho con

người, tin ở bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân

dân, tin vào tiền đồ của cách mạng.

Hai là, nâng cao dân trí. Văn hóa luôn gắn với dân trí. Không có văn hóa không

có dân trí. Văn hóa nâng cao dân trí theo từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách mạng

trước mắt và lâu dài. Nâng cao dân trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết

viết. Tiếp đến là sự hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, văn hóa...

Từng bước nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học - kỹ thuật,

thực tiễn Việt Nam và thế giới... Đó là quá trình bổ sung kiến thức mới, làm cho mọi

8

Page 9: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

người không chỉ là chuyển biến dân trí mà còn nâng cao dân trí, điều mà khi chính trị

chưa được giải phóng thì không thể làm được.

Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng cao dân trí có điểm chung

và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;

biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có văn hóa cao và đời sống tươi vui

hạnh phúc. Mục tiêu đó hiện nay Đảng ta chỉ rõ vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh".

Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành

mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không ngừng hoàn

thiện bản thân mình.

Những phẩm chất tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Mỗi người phải biến tư

tưởng và tình cảm lớn thành phẩm chất cao đẹp. Đó có thể là phẩm chất chính trị, phẩm

chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ.

Có những phẩm chất đạo đức chung cho mọi người Việt Nam trong thời đại

mới: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Lại có những phẩm chất đạo đức dành cho

các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người: phẩm chất nhà giáo, phẩm chất thầy

thuốc...

Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức, chính trị của cán bộ, đảng

viên. Bởi vì, nếu không có những phẩm chất đó thì không thể biến lý tưởng thành hiện

thực. Phẩm chất thường được biểu hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc,

hoạt động, xử sự của con người. Phẩm chất và phong cách thường gắn bó với nhau, và

chỉ khi nào con người có phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh thì mới thúc đẩy sự

nghiệp cách mạng đi lên.

Muốn có được những phẩm chất và phong cách đó, tự bản thân con người rèn

luyện chưa đủ, mà hoạt động văn hóa đóng chức năng rất quan trọng. Văn hóa phải

tham gia chống được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống sự lạm dụng quyền

lực, tham quyền cố vị dẫn tới sự tha hóa con người. Văn hóa giúp cho con người phân

biệt cái tốt với cái xấu, cái lạc hậu và cái tiến bộ... Từ đó văn hóa hướng con người

vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.

9

Page 10: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã được thể hiện rất rõ ở 3 mảng

lĩnh vực: giáo dục, văn nghệ, đời sống.

Đối với văn hóa giáo dục. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến

(kinh viện, xa thực tế, coi sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức...) và nền giáo

dục thực dân (ngu dân, đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát).

Người quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập. Nền

giáo dục này được hình thành từ những năm hai mươi, thực sự ra đời từ Cách mạng

Tháng Tám thành công và phát triển cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí

Minh xác định, xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến

lược, vì nó góp phần làm cho dân tộc ta xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Văn

hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và

đấu tranh thống nhất nước nhà.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:

- Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng

giáo dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở mang

dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người. Giáo dục để

đào tạo con người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục

nhằm đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng, làm cho nước ta

sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

- Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, nội dung dạy và học hợp

lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải toàn diện: văn hóa,

chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động... Các nội dung đó có

mối quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước. Cách học phải sáng tạo, không giáo điều. Học để

nắm các quan điểm có tính nguyên tắc, phương pháp luận. Học khoa học kỹ thuật để

đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới, thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ đang

phát triển như vũ bão.

- Phương châm, phương pháp giáo dục:

10

Page 11: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế; học tập

kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; thực hiện dân chủ, bình

đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học

ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.

Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Giáo

dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết

hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu

gương; giáo dục phải gắn liền với thi đua.

- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì không có giáo viên thì không có giáo

dục. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức cách

mạng; phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương

pháp. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm mãi, học không bao

giờ đủ, còn sống còn phải học.

Đối với văn hóa văn nghệ. Văn nghệ được hiểu là văn học và nghệ thuật, biểu

hiện tập trung nhất của nền văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của

tâm hồn dân tộc. Hồ Chí Minh là người khai sinh nền văn nghệ cách mạng và có nhiều

cống hiến to lớn, sáng tạo cho nền văn nghệ nước nhà. Sau đây là một số quan điểm

chủ yếu của Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ:

- Văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí

sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.

Văn nghệ là mặt trận được hiểu nó là một bộ phận của cách mạng, là văn nghệ

cách mạng. "Mặt trận" là thể hiện tính chất cam go, quyết liệt. Cho nên tác phẩm văn

nghệ và ngòi bút của các văn nghệ sĩ phải là vũ khí sắc bén, là "phò chính trừ tà", là

vạch trần, tố cáo tội ác, âm mưu của lực lượng thù địch đầu độc văn hóa; về chiêu bài

"công lý", "dân chủ"... Đồng thời văn nghệ có vai trò thức tỉnh, định hướng, cổ vũ tinh

thần đấu tranh, tổ chức lực lượng, động viên dân chúng phấn khởi, tin tưởng thực hiện

thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Có chính quyền, tính chất mặt trận của văn nghệ vẫn không giảm, mà lại tăng

lên, nặng nề hơn. Bởi vì, xây dựng nền văn nghệ cách mạng là nhiệm vụ chủ yếu, lâu

11

Page 12: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

dài. Văn nghệ vừa tiếp tục tham gia kháng chiến, đấu tranh thống nhất nước nhà, vừa

xây dựng xã hội mới, con người mới. Văn nghệ góp phần định hướng tư tưởng đúng

đắn theo quan điểm của Đảng, bóc trần những thói hư tật xấu như tham ô, nhũng lạm,

lãng phí, quan liêu... là những lực cản trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt

trận những người làm công tác văn nghệ dưới sự lãnh đạo của Đảng thựchiện nhiệm vụ

"xây" và "chống", sẽ góp phần to lớn đưa cách mạng đến thắng lợi.

Văn nghệ sĩ là chiến sĩ, vì vậy, cần có lập trường vững, tư tưởng đúng đắn, đặt

lợi ích và nhiệm vụ phụng sự nhân dân và Tổ quốc lên trên hết. Họ phải nâng cao trình

độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, đặc biệt phải có phẩm chất, bản lĩnh, tài năng để sáng

tạo ra những sản phẩm tinh thần phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân dân ngày càng tốt

hơn.

- Phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân.

Thực tiễn đời sống nhân dân là những nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ.

Đời sống lao động, chiến đấu, sinh hoạt, xây dựng... của nhân dân là chất liệu không

bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác. Văn nghệ sĩ có quyền hư cấu,

song phải xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của

sinh hoạt. Muốn làm được điều đó, phải "từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng";

phải "liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân" để hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng,

tình cảm của quần chúng. Quần chúng là những người làm ra lịch sử, sáng tạo ra của

cải vật chất và tinh thần. Họ là những người đánh giá tác phẩm văn nghệ trung thực,

khách quan, chính xác. Nhân dân là người hưởng thụ các giá trị tinh thần.

- Phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại.

Đây là một khía cạnh phản ánh văn nghệ phục vụ quần chúng. Muốn phục vụ tốt

quần chúng thì phải nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của tác phẩm. Bởi vì

quần chúng cần những tác phẩm hay, chân thật, hùng hồn, tạo cho họ sự đam mê,

chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn. Nội dung cần chân thực và phong phú;

hình thức phải trong sáng, vui tươi, tức là phải tạo nên một tác phẩm hay. Tác phẩm

hay là tác phẩm cần diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, ai đọc cũng hiểu được, và

đọc xong phải suy ngẫm và thấy có bổ ích.

12

Page 13: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Tác phẩm văn hóa, văn nghệ hay là tác phẩm phản ánh được những giá trị

truyền thống của dân tộc, mang được hơi thở của thời đại; vừa phải ca ngợi cái chân

thật người tốt, việc tốt, vừa phải phê phán cái giả, cái ác, cái sai. Những tác phẩm như

vậy vừa làm gương mẫu cho các thế hệ hôm nay, vừa giáo dục nhắc nhở con cháu đời

sau. Tác phẩm văn nghệ phải phong phú, đa dạng về thể loại, không thể đơn điệu,

nghèo nàn.

Chính món ăn tinh thần phong phú đó cũng sẽ mở ra con đường sáng tạo mới

cho văn nghệ sĩ.

Đối với văn hóa đời sống. Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh

chỉ ra ngay sau khi mới giành được chính quyền, rồi nhanh chóng trở thành một phong

trào quần chúng sôi nổi, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.

Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lối

sống mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất. Bởi vì, có

dựa trên nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới, và đạo

đức mới lại được thể hiện trong lối sống và nếp sống.

- Đạo đức mới: Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách

mạng.

- Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài

hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối sống văn

minh, tiên tiến. Hoạt động của con người gồm: ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc. Tính văn

hóa ở đây là biết cách ăn, cách mặc, cách ở... Con người văn hóa trong lối sống là phải

có một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh,

yêu lao động, quý thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi.

Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế

nhị; giàu lòng thương yêu, quý trọng con người; đối với mình thì nghiêm, đối với

người thì khoan dung, độ lượng.

Sửa đổi cách làm việc là phải có tác phong quần chúng, tác phong tập thể - dân

chủ, tác phong khoa học. Điều này đặc biệt cần thiết đối với cán bộ quản lý, lãnh đạo.

13

Page 14: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Hồ Chí Minh yêu cầu ở đội ngũ cán bộ phải có phong cách sống, phong cách làm việc

hợp lòng dân.

- Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dựng

những thói quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thuần

phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Tất nhiên không phải cái gì cũ là bỏ hết, cái gì cũng

làm mới.

Cũ mà xấu thì bỏ. Cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cũ mà tốt thì

phát triển thêm. Mới mà hay thì phải làm. Phải bổ sung, xây dựng thuần phong mỹ tục

trong các vấn đề vệ sinh, giỗ tết, ma chay, cưới hỏi...; đồng thời phải chống các hủ tục

như cờ bạc, hút xách...

Xây dựng nếp sống mới rất khó khăn, phức tạp, vì thói quen rất khó sửa đổi, nó

có sức ỳ cản trở ta. Thực tế cho thấy, cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu; cái xấu

mà quen, người ta có thể cho là thường. Vì vậy, quá trình đổi mới nếp sống phải rất cẩn

thận, chịu khó, lâu dài, không thể dùng cách trấn áp thô bạo đối với cái cũ, lạc hậu.

Phải tuyên truyền, giải thích một cách hăng hái, bền gan, chịu khó, cẩn thận, khôn

khéo, mềm mỏng,... Phải dùng biện pháp nêu gương: người nêu gương, nhà làm

gương, làng làm gương. Nói đi đôi với làm, nếu không, tuyên truyền giáo dục, xây

dựng nếp sống mới khó đạt kết quả.

Tóm lại, xây dựng văn hóa đời sống chung cho cả xã hội, phải bắt đầu từ từng

người, từng gia đình.

Văn hóa là một phạm trù lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình

thái kinh tế – xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin coi quá trình sản xuất của cải vật chất là

cơ sở và nguồn gốc để phát triển văn hóa tinh thần. Văn hóa xã hội chủ nghĩa trong khi

kế thừa các thành tựu tiến bộ của quá khứ, của tinh hoa văn hóa nhân loại, vẫn khác về

căn bản với văn hóa tư sản hiện đại về cả bản chất tư tưởng lẫn chức năng xã hội.

Những đặc điểm nổi bật, ưu tú của văn hóa xã hội chủ nghĩa vẫn ngày càng có vai trò

chủ đạo trong xã hội Việt Nam hiện đại, ngay cả khi chúng ta đang xây dựng nền kinh

tế thị trường. Đó là tính nhân dân, tính tư tưởng và tính đảng cộng sản chủ nghĩa, thế

giới quan khoa học, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa

14

Page 15: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

yêu nước xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế. Hơn thế nữa, nền văn hóa đó phải

được đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng cộng sản; Toàn bộ hoạt động văn hóa –

giáo dục của nhà nước xã hội chủ nghĩa phải được diễn ra dưới tác động của Đảng

cộng sản. Như cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nói “Văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn

hóa ” . Vì vậy trong sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, văn hóa phải đóng vai trò là

nguồn động lực quan trọng. Nguồn động lực ấy sẽ trở thành dồi dào nếu nền văn hóa

được xây dựng, giữ gìn phát huy đúng hướng. Muốn thế, phương châm của mọi hoạt

động văn hóa phải xuất phát từ cuộc sống, đi sâu phản ánh những cơ tầng đa diện, sâu

sắc của cuộc sống và hướng đến phục vụ cuộc sống.

PHẦN II:

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ PHÁT

TRIỂN VĂN HOÁ HỌC ĐƯỜNG CỦA SINH VIÊN

NGÀY NAY.

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí

quan trọng. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của Việt Nam,

của Phương Đông và Phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế

mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc.

Văn hóa, theo Hồ Chí Minh có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia

dân tộc. Trước hết: văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng. Văn hóa là kiến trúc

thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ, xã hội thực dân phong kiến

và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) tốt đẹp là mục tiêu của văn

hóa. Cách mạng XHCN ở nước ta, theo Hồ Chí Minh là phải “thay đổi triệt để những

nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta

15

Page 16: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui

hạnh phúc”(1). Khi chỉ rõ “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(2), Hồ Chí Minh đã

nhấn mạnh vai trò động lực của văn hóa. Theo Người: tiến lên CNXH phải có cả vật

chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể

không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con

người và thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa.

Với một cảm quan văn hóa trên bình diện rộng, Hồ Chí Minh coi Văn hóa là một

mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã hội. Người nhấn mạnh: “trong công cuộc kiến thiết

nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội”(3). Vì thế, văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và

chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh

tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng

trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị

hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc. Hồ Chí

Minh cho rằng, văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là

văn hóa của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân

tộc của văn hóa. Rất nhiều lần Người thường nhắc nhở phải “chăm lo đặc tính dân tộc”,

“phát huy cốt cách dân tộc”, “lột cho hết tinh thần dân tộc” trong xây dựng văn hóa,

trong sáng tác nghệ thuật. Với văn hóa Việt Nam, Người tự hào: “nghệ thuật của cha

ông ta hay lắm”(4), “âm nhạc dân tộc của ta rất độc đáo”(5) và “tiếng nói là thứ của cải

vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng

nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”(6). Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:

“Lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay trau dồi cho văn hóa Việt Nam

thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”(7), “cần phải mở rộng kiến thức của mình về văn

hóa thế giới”(8), “Phương Đông hay Phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt ta phải học

lấy”(9); song điều cốt yếu là “đừng biến ta thành kẻ bắt chước” (10), và “đừng chịu vay

mà không trả”(11) – “cái gốc của văn hóa mới là dân tộc”(12). Học tập văn hóa hiện đại

16

Page 17: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

của các nước phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, kết hợp với văn hóa Việt Nam tạo

ra những giá trị mới đóng góp vào việc phát triển văn hóa nhân loại.

Ngày nay, toàn cầu hóa không còn là hiện tượng mới mẽ; nó là một xu thế

khách quan mà mọi dân tộc, dù muốn hay không cũng đều chịu sự tác động của nó.

Toàn cầu hóa đang đưa lối sống Phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt, tác

động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn

có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách

nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại.

Tuy nhiên, cũng chính việc tiếp thu lối sống đó một cách thiếu định hướng mà

dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông tin

hiện đại đang truyền bá khắp thế giới lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực

dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Lối

sống đó đang tác động mạnh mẽ đến một bộ phận nhân dân, thanh thiếu niên mà đặc

biệt là sinh viên. Nhiều sinh viên bỏ học, ký nợ để “sống chung” với games, net; 30,9%

sinh viên đã vào các trang websex, và hiện tượng “sống thử” cũng đang tồn tại khá phổ

biến trong đời sống sinh viên. Đáng lo ngại hơn, nhiều sinh viên cho rằng đó là chuyện

bình thường, họ tự nguyện đến với nhau như một kiểu “góp gạo thổi cơm chung”,

trong khi hậu quả là nhiều sự việc đáng tiếc, thậm chí là những kết cục bi thảm đã xảy

ra. Đó chính là biểu hiện của sự xuống cấp về lối sống của một bộ phận sinh viên,

thanh niên Việt Nam, là biểu hiện của quan niệm “lệch chuẩn”, đối lập với quan niệm

văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.

Và sinh viên trường đại học Thương Mại cũng có rất nhiều hiện tượng đó. Điều

đáng buồn là tỷ lệ sinh viên có những biểu hiện đó ngày càng nhiều hơn.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa từ lâu đã trở thành kim chỉ nam của Đảng

trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong tình

trạng “báo động đỏ” về lối sống của thanh niên, sinh viên hiện nay; toàn xã hội mà đặc

biệt là nhà trường, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cấp thiết cần phải trở về với tư

17

Page 18: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

tưởng Hồ Chí Minh; để vận dụng và đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng lối sống văn

hóa cho sinh viên.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể sau:

- Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong sinh viên. Thông qua

việc tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị đầu khóa, với các nội dung: quán triệt các Nghị

quyết của Trung ương Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, quy chế của Bộ Giáo

dục và Đào tạo và nhà trường, giới thiệu về tổ chức và các hoạt động của Đoàn, hội.

Nhằm nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết xã hội của sinh viên; giúp họ tin tưởng

vào công cuộc đổi mới hiện nay, vào con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; tránh được

âm mưu lôi kéo của kẻ thù; hình thành nhân cách, hoài bão tốt đẹp.

Muốn làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong sinh viên, phải có sự

phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa các cấp ủy Đảng, đoàn thể và các phòng ban liên quan.

Phải nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tổ

chức các cuộc thi tìm hiểu về Đảng và Bác Hồ, đồng thời phải có hình thức tuyên

truyền sâu rộng làm cho sinh viên hiểu rõ việc sinh hoạt chính trị vừa là quyền lợi vừa

là nghĩa vụ của bản thân.

Về hoạt động này thì trường đại học Thương Mại đã có nhiều hành động thiết

thực. trường đã tổ chức nhiều buổi thảo luận, hội thảo… và nhất là việc nghiên cứu các

đề tài khoa học về bộ môn Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đáng vui mừng là

thầy và trò trường ta đã có những thành công lớn. Các bài khoa học của các nghiên cứu

sinh có những tìm tòi, sáng tạo vô cùng đáng quý. Nhiều bài viết của các sinh viên,

mặc dù không phải là chuyên ngành song vẫn đạt được kết quả rất cao. Có những bài

đươc các thầy cô đánh giá rât tôt. Ngày hôm nay, việc học tập các môn học này ngày

càng nghiêm túc chặt chẽ hơn. Với việc triển khai học theo quy chế tín chỉ thi càng làm

cho sinh viên năng động, chủ động, tích cực tìm tòi nghiên cứu hơn. Vì thế nên, chất

lượng học ngày càng được nâng cao. Văn hóa và lối sống của sinh viên cũng từ đó mà

trở nên tốt hơn. Trường đại học Thương Mại đang tích cực và cố gắng nhiều hơn nữa

18

Page 19: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

để đào tạo một thế hệ trẻ có đủ tài năng và nhân cách để làm chủ đất nước, đưa đất

nươc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu, thỏa lòng mong ước của Bác.

Trong các năm học, trường đại học Thương Mại đã đẩy mạnh công tác giáo dục

truyền thống. Các loại hình tổ chức giáo dục truyền thống cho sinh viên phải đa dạng,

phù hợp với tâm lý tuổi trẻ như: sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, đêm thơ, các buổi tọa

đàm, gặp mặt giữa các thế hệ… vào các dịp lễ lớn của dân tộc, ngày truyền thống học

sinh sinh viên, ngày thành lập Đoàn thanh niên, ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt

Nam. Đẩy mạnh các hoạt động hướng về cội nguồn bằng hình thức cho sinh viên tham

quan các di tích lịch sử, nhà bảo tàng, đặc biệt là những địa danh gắn liền với quá trình

hoạt động cứu nước của Hồ Chí Minh; để sinh viên hiểu thêm về truyền thống vẻ vang

của dân tộc, phát huy truyền thống đó trong điều kiện mới; để sống, chiến đấu, lao

động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.

- Giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên thông qua việc xây dựng đời sống văn

hóa tinh thần phong phú lành mạnh. Trước hết, phải bài trừ các tệ nạn xã hội, làm

trong sạch học đường. Tổ chức các buổi hội thảo, tuyên truyền về phòng chống các tệ

nạn xã hội. Tổ chức cho sinh viên đăng ký, cam kết không mua bán, tàng trữ sử dụng

chất ma túy và sa vào các tệ nạn xã hội.

Tích cực đấu tranh chống các hình thức mê tín dị đoan, sử dụng văn hóa phẩm

độc hại trong sinh viên. Bằng cách tổ chức, cổ vũ sinh viên tham gia thực hiện cuộc

vận động “Tuổi trẻ sống đẹp”, “Sống và làm việc theo pháp luật”; xây dựng chế độ tự

quản trong sinh viên, đăng ký thực hiện các quy chế về nếp sống văn hóa trong nhà

trường, trong ký túc xá, trên địa bàn mà sinh viên đang cư trú.

Đẩy mạnh các hoạt động giao lưu thể thao, văn hóa văn nghệ, kết nghĩa với các

đơn vị bên ngoài như bộ đội, đoàn thanh niên địa phương và các trường bạn. Mở rộng

các loại hình văn hóa văn nghệ mang tính quần chúng, thành lập các câu lạc bộ theo sở

thích: câu lạc bộ thơ, câu lạc bộ âm nhạc…

19

Page 20: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Do đặc điểm lứa tuổi sinh viên có nhu cầu về sinh hoạt văn hóa tinh thần cao,

trình độ nhận thức thẩm mỹ tốt, nên cần phải tăng thêm số đầu báo, tạp chí để làm tăng

hiệu quả giáo dục văn hoá. Các chi đoàn cần phải tiến hành sinh hoạt đoc báo, sinh

hoạt lớp thường xuyên, báo của chi đoàn cần được đóng thành tập lưu trữ năm này

sang năm khác.

- Giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên thông qua việc đẩy mạnh chương

trình học tập, nghiên cứu khoa học và phát triển tài năng trẻ. Quá trình học tập, nghiên

cứu khoa học nghiêm túc đòi hỏi nhiều mặt ở sinh viên như: trí tuệ, phương pháp tư

duy sáng tạo, ý chí, nghị lực vượt khó, trung thực khiêm tốn, ý thức trách nhiệm cá

nhân, hoài bão, ước mơ, bản lĩnh cá nhân. Qua đó, rèn luyện cho sinh viên một tác

phong làm việc khoa học, một phong cách hiện đại và một lối sống lành mạnh.

Nhà trường phải tạo môi trường và điều kiện cho sinh viên học tập: phát huy các

phong trào vượt khó học tốt, phát triển mạnh mẽ các loại hình hoạt động hỗ trợ học tập;

câu lạc bộ ngành học, môn học. Tổ chức các kỳ thi Olimpic môn học để chọn các tài

năng trẻ trong nghiên cứu khoa học.

Kêu gọi, vận động các tổ chức kinh tế - xã hội, các nhà tài trợ hỗ trợ cho sinh

viên học tập thông qua việc xây dựng “Quỹ học bổng vì bạn nghèo”. Tổ chức, vận

động sinh viên tham gia các hội nghị khoa học mang tính chất chuyên ngành; tạo môi

trường thuận lợi cho sinh viên bộc lộ tài năng thông qua hình thức nội san, đặc san,

chuyên san, câu lạc bộ nghiên cứu trẻ.

- Xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên thông qua các hoạt động xã hội từ

thiện. Hoạt động từ thiện xã hội của sinh viên cần tập trung vào việc giúp đỡ gia đình

thương binh liệt sĩ, những người tàn tật khó khăn, ủng hộ đồng bào lũ lụt và tham gia

các hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển kinh tế văn hóa vùng sâu, vùng xa,

qua đó giáo dục truyền thống cách mạng, lòng nhân ái, thương yêu đùm bọc lẫn nhau,

ý thức chung sống trong cộng đồng của người sinh viên.

20

Page 21: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng

Để hoạt động này trở thành phong trào sâu rộng, có hiệu quả cần đẩy mạnh công

tác tuyên truyền, tổ chức vào thời điểm phù hợp. Hình thức tổ chức là phối hợp chặt

chẽ giữa các ngành hữu quan để tổ chức chiến dịch “Ánh sáng văn hóa”, “Xóa nạn mù

chữ”, “Mùa hè xanh”, các đợt lao động tình nguyện làm đường, cầu, cống, nhà trẻ… ở

các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, nơi căn cứ cách mạng.

Và hoạt động làm tình nguyện của sinh viên trường đại học Thương mại đã và

đang được thực hiện rất tốt. Với sự hỗ trợ của các giảng viên, các khoa và nhất là sự

nhiệt tình năng nổ của sinh viên- những người trẻ tuổi- hàng loạt những hoạt động tình

nguyện, nhũng chiến dịch lớn của trường và của thành phố đã được thực hiện, triển

khai nhanh chóng và đạt được nhiều kết quả. Mỗi mùa thi đến, sinh viên tình nguyện

lại làm rất nhiều hoạt đông như hương dẫn đường đi cho các sỹ tử ơ các điểm chốt, hay

tham gia vào hoạt động coi thi ở các trường… Còn có các chương trình, các cuộc thi về

kinh doanh, mở các hội chợ của sinh viên, các hoạt động văn hóa, văn nghệ… được tổ

chức rất hiệu quả, gây nhiều sự hưởng ứng và ủng hộ của sinh viên.

Tóm lại: Lối sống là tiêu chí đầu tiên, tiêu chí tổng hợp nhất, thể hiện chất lượng

văn hoá và trí tuệ của một con người. Thực hiện tốt hệ giải pháp trên, chắc chắn sẽ tạo

được cho sinh viên một lối sống lành mạnh, xây dựng được môi trường văn hóa tiến bộ;

góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Trong xu thế đối thoại giữa các nền văn

hóa trên thế giới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mãi mãi là ánh sáng soi

đường cho dân tộc ta trong quá trình xây dựng “nền tảng tinh thần của xã hội”.

21

Page 22: tư tưởng HCM về văn hoá và vận dụng