Upload
lykhue
View
220
Download
5
Embed Size (px)
Citation preview
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNGTRUNG TÂM GDTC&QP
--------------------
GIÁO TRÌNH GIẢNG DẠY KARATEDO
TP.HCM, 2012
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
PHẦN I. LÝ THUYẾT CHUNG------------------
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO OLYMPIC QUỐC TẾ VÀ OLYMPIC VIỆT NAM
--------------------------
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHONG
TRÀO OLYMPIC QUỐC TẾ
Phong trào Olympic cổ đại
Cuộc thi đấu Olympic cổ đại lần đầu tiên được tổ
chức tại thung lũng Olympia – Hy Lạp vào năm 776 trước CN. Theo truyền thuyết
cổ, các vị thần linh và các vị anh hùng là những người đầu tiên tranh tài tại
Olympia, vì thế các môn thi đấu thể thao trở thành một phần quan trọng trong đời
sống người dân Hy Lạp, là cách để người Hy Lạp gìn giữ, tôn vinh truyền thống
lịch sử văn hóa và huyền thoại của họ.
Vào ngày khai mạc Đại hội, tại thánh
đường thiêng liêng Olympia, tất cả mọi người
đều đứng đón mặt trời mọc. Thần Apollo, vị
thần mặt trời, sẽ hiện lên trên cỗ xe ngựa kéo,
vượt qua những ngọn núi trong ánh sáng và
màu sắc rực rỡ. Những tia lửa vàng của người
sẽ thắp sáng trên mái và những cây cột của
đền rồi chiếu sáng hình bóng những công trình
kiến trúc mái vòm nối tiếp dẫn đến sân vận
động Olympia. Đây chính là ý tưởng của nghi lễ đốt đuốc trong lễ khai mạc Đại hội
Olympic hiện nay. Thánh đường cổ Olympia là nơi tôn kính đã có từ hơn 1.300
năm trước công nguyên. Các công trình khảo cổ học cho thấy thần Dớt là vị thần
quan trọng nhất của Olympia.
Ở những kỳ Đại hội Olympic cổ đại đầu tiên, thời gian thi đấu chỉ kéo dài
một ngày, tại một sân vận động với một nội dung thi đấu duy nhất là thi chạy.
Những năm sau đó, các nội dung thi đấu, các nghi lễ và nghi thức mới dần dần
1
được bổ xung thêm. Đến năm 600 trước công nguyên, các môn thể thao được đưa
vào chương trình đại hội gồm có: Đua ngựa, 5 môn phối hợp (nhảy xa, ném lao,
ném đĩa, chạy và vật), Quyền, Vật và Chạy chân đất. Đại hội diễn ra trong 5 ngày
tại sân vận động Olympic cổ đại có sức chứa 40.000 người và được xem là lễ hội
tôn giáo lớn nhất vào thời gian đó. Những người chiến thắng được trao một vương
miện tết bằng cành ô liu và trở thành anh hùng. Đại hội chỉ dành cho nam giới, tất
cả phụ nữ, ngoại trừ các nữ tu sĩ, đều không được tham dự dù với tư cách khán giả
do quan điểm lời nói của phụ nữ có thể làm suy yếu sức mạnh tinh thần của binh
lính. Cương lĩnh của Olympic cổ đại là “Cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn”, cho đến
nay, cương lĩnh này vẫn là nguồn cảm hứng tinh thần của tinh thần Olympic hiện
đại.
Năm 490 trước CN: Phillipides, người đưa tin của quân đội Hy Lạp, chết
sau khi chạy từ chiến trường Marathon về thành phố Athens để báo tin chiến thắng
quân đội Ba tư (Iran). Cuộc thi Marathon hiện nay (cự ly 42,195 km) được đặt tên
để tôn vinh chiến công này.
Đến năm 393 sau công nguyên, các cuộc thi Olympic cổ đại bị hoàng đế La
Mã cổ đại Theodosius I hủy bỏ vì quan điểm các cuộc thi đấu này là ngoại đạo.
Năm 426, theo lệnh của hoàng đế Theodosius II, các công trình thi đấu Olympic
này bị phá hủy. Động đất và lũ lụt đã chôn vùi những gì còn lại mà đến thế kỷ 19
người ta mới tìm thấy chúng dưới lớp đất dầy 4, 5 mét.
Nhiều nghiên cứu cho thấy: Thành công của phong trào Olympic cổ đại
ngoài lý tưởng gìn giữ, tôn vinh truyền thống lịch sử văn hóa và huyền thoại, nghi
lễ tôn giáo của người Hy Lạp, một phần còn do tình yêu của người Hy Lạp đối với
thể thao. Do sự ngưỡng mộ của người Hy Lạp đối với vẻ đẹp hài hòa của cơ thể và
đối với các giá trị đặc biệt về cách sống dựa trên sự hợp nhất của trí tuệ, thể chất và
tâm hồn con người.
Phong trào Olympic hiện đại
Việc khôi phục phong trào Oplimpic hiện đại được bá tước Pierre de
Coubertin (1863-1937) phát triển từ ý tưởng đưa hoạt động thể chất vào chương
trình giáo dục của đất nước mình. Sự say mê triết lý và lối sống của người Hy Lạp
cổ đại của ông, người được xem cha đẻ phong trào Olympic hiện đại, là yếu tố quan
2
trọng dẫn đến sự hồi sinh Đại hội Olympic hiện đại. De Coubertin kết hợp ý tưởng
tổ chức Đại hội thể thao quốc tế với Đại hội Olympic kiểu Hy Lạp cổ đại. Lý tưởng
của ông là tôn vinh những giá trị sức khỏe và sự thông thái của tuổi trẻ, tán dương
những vận động viên và thống nhất các cộng đồng trên thế giới.
Năm 1894, Thế vận hội Olympic đã sống lại. Ủy ban Olympic quốc tế (IOC) được
thành lập tại Paris để tổ chức và điều hành tất cả các đại hội Olympic. De Coubertin
trở thành chủ tịch đầu tiên của IOC và giữ chức vụ này đến năm 1925.
Thế vận hội (TVH) hiện đại lần 1 được tổ chức
vào năm 1896 tại Athen – Hy Lạp. De
Coubertin là đạo diễn chính cho việc hình thành
và xác định tính chất của đại hội. Hiến chương
Olympic, nghi thức cho lễ khai mạc và bế mạc,
lời thể của vận động viên và biểu tượng năm
vòng tròn là kết quả sự lao động sáng tạo và miệt mài của ông. Để tôn vinh người
được xem là cha đẻ của phong trào Olympic hiện đại, khi ông mất vào năm 1937 tại
Geneva (thụy sỹ), trái tim ông được chôn cất tạo đất thánh Olympia – Hy Lạp, nơi
đây một đài tưởng niệm đã được dựng lên để tưởng nhớ tới công lao của ông đối
với lý tưởng và tinh thần Olympic.
TVH mùa hè được tổ chức thường xuyên 4 năm/lần. Từ TVH lần 1 (1896 –
Athen) đến nay đã có 29 kỳ TVH, lần 29 (2008 – Beijing). TVH lần 30 sẽ được tổ
chức vào năm 2012 tại London (Anh). Trong đó có ba kỳ phải hủy bỏ là TVH lần 6
vào năm 1916 (Đệ nhất thế chiến), TVH lần 12 năm 1940 và lần 13 năm1944 (Đệ
nhị thế chiến). Số Ủy ban Olympic quốc gia tham dự TVH lần 1 từ 14 quốc gia với
311 vận động viên đã tăng lên 201 quốc gia, vùng lãnh thổ với 10.564 vận động
viên ở TVH lần 29.
Đến 1924, TVH mùa đông lần 1 được tổ chức tại Chamonix, Pháp. Đây là Đại hội
dành cho các môn thể thao mùa đông (trượt tuyết, Trượt băng, Hốc cây, Xe trượt
đồng đội, Trượt lòng máng, Trượt tuyết…) được tổ chức thường xuyên 4 năm/lần.
Paralympic là một đại hội thể thao thế giới dành cho những người bị khuyết
tật do "Ủy Ban Paralympic Quốc tế" (IPC: International Paralympic Committee) tổ
chức vào cùng năm và cùng địa điểm với Thế Vận Hội. Theo một số tài liệu về lịch
3
sử thể thao thế giới có ghi chép về những đại hội thể thao dành cho những người bị
khuyết tật được tổ chức từ đầu thế kỷ 20, nhưng lịch sử của Paralympic được nhìn
nhận là chính thức bắt nguồn từ ngày 28/7/1948 (tức trùng vào ngày khai mạc Thế
Vận Hội London) với tên gọi "Ðại Hội Thể Thao Stoke Mandeville" được diễn ra
tại bệnh viện Stoke Mandeville ở Anh Quốc. Vào năm 1960, bác sĩ Guttmann với
tư cách là Hội Trưởng đã thành lập một Ủy Ban Ðiều Hành và tổ chức "Ðại Hội
Thể Thao Quốc Tế Stoke Mandeville" cùng năm cùng địa điểm với Thế Vận Hội
Roma. Vì vậy, cho đến nay "Ðại Hội Thể Thao Stoke Mandeville Quốc Tế 1960"
được gọi là "Paralympic Lần Thứ Nhất". Năm 1976 là năm bắt đầu ra đời
"Paralympic Mùa Ðông". Vào năm 1989, "Ủy Ban Paralympic Quốc Tế" (IPC:
International Paralympic Committee) được thành lập để tiếp tục điều hành đại hội
thể thao đặc biệt này. Đến TVH Sydney 2000 thì IOC và IPC chính thức ký những
văn kiện liên kết với nhau, trong đó quy định 2 điều căn bản quan trọng là:
Paralympic sẽ được tổ chức tại cùng địa điểm ngay sau thời điểm Thế Vận Hội bế
mạc và IOC sẽ được quyền tuyển chọn những ủy viên phụ trách từ IPC.
Tổ chức và các hoạt động của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC)
IOC là một tổ chức phi chính phủ, được
hình thành và có lịch sử phát triển hơn 100
năm, điều hành 2 sự kiện thể thao lớn nhất
thế giới: Thế vận hội (TVH) Olympic mùa
hè và TVH Olympic mùa đông. IOC đã
định hướng trở thành một tổ chức kinh tế
hưng thịnh từ thập kỷ 1980 cho dù về tình
trạng pháp lý thì tổ chức này vẫn là một hiệp hội phi lợi nhuận giống tất cả các liên
đoàn thể thao quốc tế và quốc gia.
IOC là một hiệp hội thành viên, là cơ quan có quyền hành cao nhất về hoạt
động Olympic. Ý tưởng của De Coubertin là đưa Thế vận hội trở thành trung tâm
của hoạt động thể thao toàn thế giới. Theo quan điểm của Coubertin, Đại hội
Olympic không đơn giản chỉ là một sự kiện thể thao, điểm trọng tâm của phong
trào mang tính xã hội rộng rãi này là thông qua hoạt động TDTT để tăng cường
hiểu biết quốc tế và phát triển con người. Bản hiến chương Olympic đầu tiên được
4
xuất bản vào năm 1894, trong đó De Coubertin đã viết: “Vì sao tôi khôi phục Đại
hội Olympic? Đó là để đẩy mạnh các hoạt động thể thao, đảm bảo tính độc lập và
lâu dài của nó, và như vậy sẽ cho phép phát triển tốt hơn các môn TT, để thực hiện
vai trò giáo dục trong thế giới hiện đại, tôn vinh những cá nhân VĐV mà hoạt động
thể thao của họ là rất quan trọng để duy trì tinh thần thể thao chung”. Từ tuyên bố
đầu tiên này, các mục tiêu của phong trào Olypic đã lớn mạnh và phát triển. Ngày
nay, các mục tiêu đó được thể hiện trong hiến chương Olympic như là các nguyên
tắc cơ bản.
IOC xác định 6 chức năng chính là:
- Thúc đẩy tinh thần Olympic.
- Phối hợp tổ chức, điều hành các TVH.
- Ủng hộ, khích lệ hoạt động Olympic
- Khuyến khích sự phát triển thể thao.
- Phát triển khoa học thể thao.
- Góp phần phát triển xã hội thông qua TT.
Ban đầu, IOC có 15 thành viên từ 12
quốc gia, vào lễ kỷ niệm 100 năm thành lập, 1994, số thành viên đã tăng lên hơn
100. Các thành viên của IOC bao gồm các Ủy ban tổ chức của các TVH mùa hè và
mùa đông, Các Ủy ban Olympic quốc gia thành viên (NOC), tất cả các Liên đoàn
Thể thao Quốc tế và quốc gia. Phong trào Olympic dưới sự điều hành của IOC liên
tục phát triển qua các giai đoạn và luôn thể hiện vai trò tổ chức có quyền lực cao
nhất trong các hoạt động thể thao trên toàn thế giới, có tác động đến tất cả các lĩnh
vực văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế của thế giới.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động và phát triển, IOC cũng phải vượt qua
nhiều thử thách và phải điều chỉnh, thay đổi một số quy định trong hiến chương để
phù hợp với sự phát triển của thế giới nhằm đưa phong trào Olympic ngày càng
phát triển.
Sự kiện: Năm 1999, 10 thành viên IOC phải từ chức hoặc bị cách chức và
10 thành viên khác bị khiển trách vì liên quan đến việc nhận quà “trên mức tình
cảm” của Ủy ban tranh cử tổ chức Olympic mùa đông Salt Lake city 2002. Sau
scandal này, IOC quyết định cải tổ và giới hạn số lượng ủy viên còn 115 người,
5
trong đó 70 người, với tư cách đại diện IOC, hoạt động tại quốc gia của mình, và 45
quan chức điều hành IOC (15 người đại diện cho các VĐV Olympic, 15 người từ
các NOC và 15 người từ các Liên đoàn thể thao quốc tế (IF). Các ủy viên đều được
bầu theo hình thức bỏ phiếu kín, nhiệm kỳ là 8 năm và tuổi giới hạn là 70. Trước
đây, nhiệm kỳ làm việc là không giới hạn, ủy viên được sự phê chuẩn chứ không bỏ
phiếu và tuổi giới hạn là 80. Năm 2004, năm tổ chức Olympic Athens, IOC gồm
122 ủy viên từ 81 quốc gia. IOC có 22 ủy viên danh dự, bao gồm 1 chủ tịch danh
dự là nguyên chủ tịch Juan Antonio Samaranch. Nhìn chung, sức khỏe của tất cả
các ủy viên đều khá tốt. Tất cả các ủy viên đều không được hưởng lương, từ 1981
họ được thanh toán chi phí đi dự các cuộc họp Olympic.
Nhiệm vụ chính của các ủy viên Ban chấp hành IOC là:
- Thúc đẩy và thực thi lý tưởng Olympic tại đất nước và tổ chức của mình.
- Bầu chọn chủ tịch, các ủy viên ban chấp hành và các ủy viên mới.
- Chọn lựa thành phố tổ chức Olympic.
Đại hội thường niên của IOC thực hiện các điều chỉnh, bổ xung hiến
chương Olympic nhằm phát triển hoạt động Olympic và thiết lập, củng cố vai trò và
uy tín của IOC. Đại hội được tổ chức theo hình thức quốc hội dưới sự chủ trì của
ban chấp hành theo đúng luật pháp của Thụy sỹ (điều 60 bộ luật dân sự Thụy Sỹ).
Trụ sở IOC đặt tại Lausanne (Thụy Sỹ) từ 1915.
Ủy ban Olympic Quốc gia (National Olympic Committee - NOC) được IOC
công nhận ở từng quốc gia, lãnh thổ là thành viên IOC. Năm 2004, IOC có 202
quốc gia, lãnh thổ thành viên. Nhiệm vụ chính của NOC là gửi đoàn tham gia thi
đấu tại các Thế vận hội (TVH) (năm 2004 tất cả các NOC đều tham dự TVH mùa
hè; 2002 có 77 đoàn tham dự TVH mùa đông). Đổi lại, các NOC nhận được sự trợ
giúp của IOC dưới nhiều hình thức để phát triển phong trào TDTT tại đất nước.
Các Liên đoàn thể thao thế giới (International Federartion - IF) đều tổ chức
các hoạt động của môn ở quy mô thế giới. IF điều hành hoạt động của các liên đoàn
quốc gia (NF). Với nhiệm vụ gửi các VĐV của mình tham dự TVH, các Liên đoàn
thể thao quốc gia (NF) của từng quốc gia cũng có thể là thành viên của NOC. Năm
1998, IOC công nhận 65 IF, trong đó có 35 IF trong chương trình Olympic (các
môn mùa đông và mùa hè). IF phải ủng hộ các cuộc thi đấu Olympic. Đổi lại, các
6
IF nhận được 1 phần từ nguồn thu nhập tổ chức các TVH. IF cũng có nguồn thu
nhập từ các giải thi đấu thuộc quyền hạn của mình (Giải vô địch thế giới, Giải vô
địch châu lục, khu vực…). Nhiều tổ chức khác có liên kết với thể thao, TVH…
cũng được IOC công nhận.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ỦY BAN
OLYMPIC VIỆT NAM (VIETNAM OLYMPIC
COMMITTEE – VOC)
Vào thập kỷ 50 ở Việt Nam đã xuất hiện một số tổ
chức Thể thao Olympic tiền thân của Phong trào Olympic
hiện nay. Theo tài liệu của IOC, vào những năm 50 Việt Nam đã có 9 Hiệp hội Thể
thao Quốc gia, được các Liên đoàn, Hiệp hội Thể thao Quốc tế công nhận. Đó là:
Điền kinh, Bơi lội, Bóng đá, Bóng bàn, Bóng rổ, Xe đạp, Quần vợt, Quyền anh,
Đấu kiếm. Vào thời gian đó, Việt Nam đã cử các đoàn Thể thao tham dự các Đại
hội Olympic, Đại hội Thể thao châu Á và khu vực Đông Nam Á. Việt Nam là một
trong 6 nước thành viên sáng lập Liên đoàn Thể thao Bán đảo Đông nam Á (The
South East Asian Peninsular Games Federation hay SEAP Games Federation) vào
năm 1959. Đến năm 1977, Liên đoàn SEAP đổi tên thành Liên đoàn Thể thao Đông
Nam Á (South East Asian Games Federation, SEAGF).
Sau khi nước nhà thống nhất, phong trào Thể thao Olympic của Việt Nam
mới có điều kiện phát triển trên quy mô rộng lớn, theo xu hướng chung của phong
trào Olympic Quốc tế là hoà nhập với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực thể thao
nhằm thúc đẩy tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác quốc tế vì hoà bình và tiến bộ xã
hội.
Theo Hiến chương Olympic, tất cả các Uỷ ban Olympic Quốc gia muốn gia
nhập phong trào Olympic Quốc tế cần phải thành lập một tổ chức Thể thao thống
nhất với những Điều luật, Điều lệ riêng và được chính phủ nước mình cho phép.
- Ngày 20/12/1976, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký quyết định số 500 TTG cho
phép thành lập Uỷ ban Olympic Quốc gia Việt Nam (Vietnam Olympic Committee
- VOC)
- Tháng 12/1979, VOC đã trình đơn xin gia nhập Phong trào Olympic Quốc tế.
7
- Ngày 28/4/1980, Uỷ ban Olympic Quốc tế đã ra Quyết định công nhận chính thức
Uỷ ban Olympic Quốc gia Việt Nam là thành viên của phong trào Olympic Quốc
tế. Từ đây Uỷ ban Olympic Việt Nam là Đại biểu duy nhất của Nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam trong Phong trào Olympic Quốc tế có quyền được tham
gia các Đại hội Thể thao Olympic, các Đại hội thể thao các châu lục và khu vực
Đông Nam Á.
Hội đồng Olympic Châu Á (The Olympic Council of Asia
- OCA) được thành lập ngày 05/12/1982 trên cơ sở tiền thân là
tổ chức Liên đoàn Thể thao Châu Á (The Asian Games
Federation) ra đời ngày 13/03/1949. VOC đã tham dự phiên
họp Hội đồng Liên đoàn Thể thao Châu Á năm 1981 tại New
Dehli - Ấn Độ và thông qua điều lệ của Hội đồng. Như vậy,
VOC là một trong 34 thành viên sáng lập OCA.
Sau khi trở thành thành viên chính thức của IOC, đoàn thể thao Việt Nam
bắt đầu tham gia Đại hội thể thao thế giới từ năm 1980 (Olympic XXII- Moscow);
Đại hội thể thao Châu Á năm 1982 (Asiad lần IX – tại New Dehli - Ấn Độ) và Đại
hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games XV) tại Kuala Lumpur – Malaysia.
Cùng với cơ quan quản lý Nhà nước về thể dục thể thao (TDTT), VOC đã
quy tụ các tổ chức thể thao trong nước, chăm lo phát triển phong trào TDTT quần
chúng và mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong phong trào Olympic quốc
tế. Từng bước tham gia đều đặn các kỳ Đại hội thể thao quốc tế. Đặc biệt Việt Nam
đã tổ chức thành công SEA Games 22 – 2003, ASEAN Para Games 2 – 2003 và
ASIAN Indoor Games lần III năm 2009. Qua hoạt động thực tiễn, Uỷ ban Olympic
Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát triển Thể thao Olympic của
nước nhà, tạo ra những chuyển biến tích cực của Phong trào Olympic Việt Nam
trên 3 lĩnh vực chiến lược: Thể thao cho mọi người, Thể thao đỉnh cao và Quan hệ
Quốc tế trong lĩnh vực Thể thao.
Thành tích tại Đại hội Thể thao Olympic: Cho đến nay, Thể thao Việt Nam
đã đạt được 2 huy chương bạc tại các kỳ Olympic.
- Tại Đại hội Olympic Sydney 2000, nữ võ sỹ Taekwondo Trần Hiếu Ngân đạt tấm
huy chương đầu tiên cho thể thao Việt Nam sau 5 kỳ tham dự Đại hội Olympic.
8
Đây được ghi nhận là thành tích có ý nghĩa lịch sử của thể thao Việt Nam trên đấu
trường Olympic.
- Tại Đại hội Olympic Bắc Kinh 2008, Lực sĩ cử tạ Hoàng Anh Tuấn đã làm nức
lòng người hâm mộ thể thao khi vượt qua mọi áp lực để giành chiếc HCB Olympic
thứ hai trong lịch sử thể thao Việt Nam.
Thành tích tại Đại hội Thể thao Châu Á (ASIAD):
- New Delhi 1982: 1 HC đồng (Bắn súng)
- Hiroshima 1994: 1 HC vàng (Trần Quang Hạ - Taekwondo) & 2 HC bạc
(karatedo).
- Bangkok 1998: 1 HCV (Hồ Nhất Thống - Taekwondo), 5 HCB & 11 HCĐ.
- Busan 2002: 4 HCV (Vũ Kim Anh, Nguyễn Trọng Bảo Ngọc - karatedo, Lý Đức-
thể hình, Trần Đình Hòa- billards), 7 HCB & 7 HCĐ.
- Doha 2006: 3HCV (2 cầu mây, Vũ Nguyệt Ánh- karatedo), 13 HCB & 7HCĐ.
- Guangzhou 2010: 1 HCV (Lê Bích Phương-karatedo), 17 HCB và 15 HCĐ
Thành tích tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA Games):
- Kualar Lumpur -1989: 3 HCV - 11 HCB - 5 HCĐ. Hạng 7/9 đoàn tham dự.
- Manila 1991: 7 HCV - 12 HCB - 10 HCĐ. Hạng 7/9.
- Singapore 1993: 9 HCV - 6 HCB - 19 HCĐ. Hạng 6/9.
- Chiangmai 1995: 10 HCV - 18 HCB - 24 HCĐ. Hạng 6/10.
- Jakatar 1997: 35 HCV - 48 HCB - 50 HCĐ. Hạng 6/10
- Brunei Sarussalam 1999: 17 HCV - 20 HCB - 27 HCĐ. Hạng 6/10.
- Kuala Lumpur 2001: 33 HCV - 35 HCB - 64 HCĐ. Hạng 4/10.
- Việt Nam 2003: 156 HCV - 91 HCB - 93 HCĐ. Hạng 1.
- Philippin 2005: 71 HCV - 68 – 89. Hạng 3.
- Thailand 2007: 64 HCV - 54 HCB - 83 HCĐ. Hạng 3.
- Lào 2009: 83 HCV, 75 HCB, 57 HCB. Hạng 2.
LỢI ÍCH CỦA THỂ DỤC THỂ
THAO Tổ chức y tế thế giới (WHO, 1946)
đưa ra quan điểm sức khỏe là “Trạng thái
9
toàn diện về thể chất, tinh thần và sự thịnh vượng xã hội” (a complete state of
physical, mental and social prosperity). Định nghĩa này cho thấy quan điểm sức
khỏe không chỉ là không bệnh tật. Trạng thái khỏe mạnh không phải là bất biến,
một số yếu tố nhất định có thể duy trì hay làm tăng tình trạng sức khỏe và cũng có
những yếu tố làm suy giảm sức khỏe. Trong đó, việc tập luyện TDTT là những hoạt
động có lợi cho sức khỏe.
Trong quá khứ, thể thao không phải là mục tiêu phát triển sức khỏe, cho đến
cuối thế kỷ 19 với câu châm ngôn của Juvenal “mens sana in corpore sano” có
nghĩa: “Một tinh thần khỏe mạnh trong 1 cơ thể cường tráng” đã hình thành một
quan điểm mới về tập luyện TDTT khi những lợi ích của TDTT được thừa nhận.
Quan điểm này ngày càng chứng tỏ rõ ràng hơn khi hiện tượng cơ giới hóa và tự
động hóa của xã hội xuất hiện, có nghĩa là các hoạt động thể chất trong lúc lao động
bị giảm sút và lối sống ít vận động bắt đầu biểu lộ một số tác hại.
Tham gia vào tất cả các hoạt động mà cơ thể phải tiêu hao năng lượng nhiều
hơn trạng thái nghỉ ngơi, vận động thể chất bao gồm không chỉ là thể thao mà còn
là các trò chơi vận động, đi bộ, khiêu vũ, bơi lội…
Đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò, lợi ích của tập luyện TDTT đối với
sức khỏe (thể chất và tinh thần) con người, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống.
Sau đây là một số tổng kết:
1. Tuổi thọ: Từ thế kỷ 19, các nhà khoa học đã nghiên cứu tác động của
TDTT đến việc kéo dài tuổi thọ. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy việc tham gia
hoạt động TDTT ở đại đa số các môn đều có thể làm tăng tuổi thọ. Thí dụ: Theo
Bouchard (1994): các VĐV môn chèo thuyền ở ĐH Cambridge và Oxford, cũng
như VĐV trượt tuyết Phần Lan có tuổi thọ cao hơn người không tập luyện. Một
nghiên cứu khác của Paffenbarger và cộng sự (1986) trên hơn 15.000 cựu sinh viên
ĐH Harvard cho thấy những người tham gia hoạt động TDTT, đặc biệt là đi bộ, thì
tuổi thọ tăng lên gần 2 năm so với người bình thường.
2. Bệnh tật:
Báo cáo của WHO (2002, 2003), ước lượng trên toàn cầu, không vận động
thể chất là nguyên nhân chính gây ra 1.9 triệu người chết hàng năm, trong đó có
250.000 người Mỹ. Lối sống ít vận động ở Mỹ là nguyên nhân gây bịnh, chiếm
10
18% các ca bịnh tim mạch, 22% các ca ung thư ruột kết, tiêu tốn 3.5% chi phí dành
cho sức khỏe toàn liên bang (US Department of Health,1996). Ở Canada, 21.000
trường hợp chết yểu do không vận động, tiêu tốn 2.1 tỷ USD trong năm 1999,
chiếm 2.5 % quỹ chăm sóc sức khỏe (Katzmarzyk et al., 2000). Rất nhiều nghiên
cứu đã cho thấy cái giá phải trả cho lối sống ít vận động và lợi ích của tập luyện
TDTT, dẫn đến việc thúc đẩy mạnh các chương trình hoạt động TDTT ngày càng
rộng lớn trên thế giới.
Béo phì: Cho dù lượng calory tiêu thụ trung bình không tăng trong thế kỷ
20 nhưng số lượng người bịnh béo phì lại tăng cao ở các nước phát triển. Năm
1850, 1/3 năng lượng được dùng trong lao động ở các nhà máy và nông trường,
trong khi ước lượng hiện nay chỉ khoảng 1 %. Lối sống đô thị hóa, sử dụng thường
xuyên xe hơi, ít đi bộ, thời gian ngồi trước tivi ngày càng tăng, lười vận động, ít tập
TDTT… là những yếu tố góp phần vào việc tăng số lượng người béo phì ngày nay
(Prentice & Jebb, 1995).
Bệnh tim mạch: Một trong những tác động có hại dễ thấy nhất của rối loạn
chức năng vận động là các bệnh tim mạch. Từ 1953, nghiên cứu của Morris (1953)
về các nhân viên làm việc tại công ty xe bus London cho thấy các tài xế bị bệnh tim
mạch gấp 2 người bán vé (có đi lại). Đây là lần đầu tiên lợi ích của hoạt động vận
động được chứng minh bằng tỉ lệ bệnh tim mạch. Các nghiên cứu tiếp tục được tiến
hành từ 1968 đến 1978, trên 16.882 người, Morris khẳng định tỉ lệ bịnh tim mạch
xảy ra ít hơn đối với nhóm có hoạt động TDTT, 3.1 % so với 6.9 % ở nhóm không
TDTT (1980). Một nghiên cứu trên 16.936 cựu sinh viên Harvard cho thấy: những
người có tham gia TDTT nhưng ít, 1 lần/tuần, có nguy cơ bị tim mạch cao hơn 64%
so với nhóm tham gia TDTT cường độ cao (Paffenbarger et al., 1978).
Phân tích các kết quả nghiên cứu tại Mỹ, nghiên cứu tất cả các yếu tố liên
quan đến bịnh tim mạch trên 12.866 người từ 35 đến 57 tuổi, cho thấy: tỉ lệ tử vong
ở nhóm tập luyện TDTT 45phút/ngày thấp hơn đáng kể nhóm chỉ tập 15 phút /
ngày (Leon & Connett, 1988). Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy rõ tập luyện
TDTT sẽ làm giảm nguy cơ bịnh tật, đặc biệt là tim mạch. Vận động thể chất có xu
hướng làm giảm triglyceride và cholesterol (tác nhân gây nghẽn động mạch), nâng
cao độ nhạy insulin, nâng cao chức năng cơ tim, giúp máu lưu thông đến tim dễ
11
dàng và giúp hạn chế sự hình thành máu cục. phòng chống bịnh loãng xương và
tiểu đường, làm giảm căng thẳng và lo âu.
Bệnh Parkinson: Một nghiên cứu của trường ĐH Harvard trên 48.000 người
đàn ông, kết quả cho thấy: hầu hết những ai vận động ít thì phải đối mặt với nguy
cơ mắc bệnh và phát triển bệnh kinh phong (Parkinson) 50% so với những người
thường xuyên vận động.
Ung thư tuyến tiền liệt: Một nghiên cứu kéo dài 14 năm tại Đại học Harvard
nhận thấy rằng những người nào trên 65 tuổi thực hiện việc chạy bộ, đạp xe hay đi
bơi ít nhất 3 lần/tuần thì rủi ro mắc bệnh bị ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn 70% so
với người không tập luyện TDTT.
Bệnh giảm trí nhớ: Một nghiên cứu ở ĐH Honolulu cho thấy: những người
đi bộ ít hơn 400 mét/ngày hầu như có nguy cơ giảm trí nhớ gấp 2 lần so với người
có vận động thường xuyên.
3. Hình thành nhân cách, đặc biệt là đối với trẻ em.
Cái quý nhất của mỗi con người là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt sẽ
tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển được tốt hơn và ngược lại. TDTT giúp người tập
có được sức khỏe tốt, từ đó hiệu quả học tập, công tác và tham gia các hoạt động ở
nhà trường, xã hội đạt hiệu quả cao hơn. Khi tham gia các hoạt động TDTT đòi hỏi
phải có tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần đoàn kết và trách nhiệm trước tập thể, tác
phong nhanh nhẹn, sự cố gắng, tính thật thà, trung thực... Đây chính là quá trình
giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách trẻ em, giúp người tập có một nếp sống
lành mạnh, vui tươi, học tập và làm việc khoa học.
Trong quá trình tập luyện và thi đấu TDTT, nếu thất bại, người tập sẽ học
được cách chấp nhận thất bại và tìm cách vượt qua, có nghĩa là đang học cách để
thành công. Ngoài ra, quá trình tập luyện thể thao sẽ tạo cho người tập phong cách
riêng, không còn mắc cở, rụt rè trước đám đông, mạnh mẽ trong thể hiện năng lực...
chính phong cách này sẽ góp phần giúp người tập tự tin hơn trong cuộc sống.
5. Sức khỏe thể chất: Tổng kết nhiều nghiên cứu cho thấy tập luyện TDTT
có thể cải thiện hoạt động các hệ thống cơ xương, tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa…,
nâng cao khả năng thích nghi của cơ thể đối với môi trường bên ngoài.
12
- Tập luyện TDTT thường xuyên, đúng khoa học sẽ làm cho hệ cơ xương phát triển
hài hòa. Cơ bắp nở nang, rắn chắc, tạo ra vẻ đẹp hình thể và dáng đi khỏe mạnh của
con người. Sức mạnh, sức nhanh, sức bền, năng lực mềm dẻo và linh hoạt của cơ
tăng lên.
- Tập luyện TDTT với lượng vận động phù hợp có tác dụng kích thích tích cực đến
sự phát triển chiều dài và chu vi của xương, nói cách khác, có tác dụng kích thích
phát triển chiều cao và chất lượng xương đối với thiếu niên (Mc Ardle, 2000).
Những môn như chạy, đi bộ, nâng tạ đều có thể giúp phòng tránh loãng xương khi
lớn tuổi.
-Tập TDTT sẽ làm nhịp tim tăng lên, tăng cường sức co bóp của cơ tim, dung
lượng máu trong tim tăng lên, tỷ lệ hấp thụ oxy của cơ thể tăng lên. Sự tăng cường
hoạt động của tim sẽ giúp làm chậm quá trình suy thoái của tim, giảm tỷ lệ sơ cứng
mạch máu, huyết áp cao.
- Tập TDTT giúp hô hấp có phản xạ thở sâu, thở nhanh hơn, tăng hoạt động của các
cơ hô hấp, tăng lượng oxy cung cấp cho tế bào, giúp cơ thể khỏe mạnh hơn do khả
năng chịu đựng sự mệt mỏi tăng lên.
- Tập TDTT đều đặn có khả năng tăng hàm lượng hồng cầu trong máu, sức đề
kháng cơ thể cũng tăng lên, ít bệnh tật hơn.
- Tập TDTT sẽ cải thiện kỹ năng vận động như đi, đứng, chạy, nhảy, leo trèo…
giúp ích rất nhiều cho các vận động sinh hoạt, làm việc hàng ngày.
4. Làm tinh thần sảng khoái, giảm stress.
Trong cuộc sống hiện đại, với cường độ làm việc căng thẳng, nhiều áp lực
trong cuộc sống, ngày càng có nhiều người bị stress. Nhiều nghiên cứu cho thấy,
tập luyện TDTT là một trong những biện pháp hữu hiệu để giải tỏa stress nhanh và
hiệu quả nhất, đặc biệt trong chữa bệnh trầm cảm. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tập
luyện TDTT thường xuyên, kể cả chỉ 30 phút mỗi ngày, cũng có tác dụng làm bớt
nóng nảy, buồn rầu, người tập cảm thấy sảng khoái, lạc quan, yêu đời hơn. Những
thay đổi về tâm lý này có thể xảy ra do sự thay đổi của endorphin, tăng hóc môn
senotonin sẽ cải thiện tâm trạng, giúp thư giãn, yêu đời hơn.
5. Cải thiện chức năng não bộ
13
TS John Ratey, một trong những nhà tâm lý hàng đầu của ĐH Y khoa
Harvard, cho rằng: chính tập luyện TDTT, chứ không phải dầu cá hay trò chơi
sudoku, là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất giúp bạn luôn lạc quan và
tin tưởng vào trí tuệ của bản thân. Thường xuyên tập luyện TDTT không chỉ tốt cho
cơ thể mà còn giúp cải thiện não bộ, tăng cường khả năng học hỏi, tăng trí nhớ,
giảm stress, giảm sự lão hóa của não bộ. Kết quả nghiên cứu của Ratey cho thấy:
càng hào hứng với tập luyện thì não bộ càng làm việc hiệu quả. Quá trình luyện tập
sẽ huy động tối đa các hợp chất trong máu mà khi được vận chuyển tới não bộ sẽ
hỗ trợ tối đa cho các tế bào nơron. Một trong những hợp chất hóa này là protein
BDNF, được xem là có tác động rất lớn tới sự phát triển của não bộ.
Nghiên cứu này cũng cho thấy việc luyện tập có thể làm đảo ngược sự tác động của
tuổi tác đối với não bộ. Bước vào tuổi 40, thể tích não bộ sẽ giảm 5% sau từng thập
kỷ. Điều này xảy ra do các khớp thần kinh, vùng giữa các tế bào não có nhiệm vụ
truyền các tín hiệu thần kinh, bị mòn thậm chí là bị đứt. Các mao mạch dẫn truyền
dưỡng chất cho não cũng sẽ co hẹp cùng với tuổi tác, giảm lưu lượng máu tới não
và kết quả là làm suy giảm các chức năng não bộ. Đây chính là nguyên nhân vì sao
càng lớn tuổi càng hay quên. Tập luyện TDTT sẽ khích thích một loạt các phản ứng
có tính chất trẻ hóa và kích thích các tế bào não, bảo vệ não bộ khỏi những tác hại
của stress và lão hóa.
6. Kỹ năng sống
Quá trình tập luyện TDTT là quá trình làm việc, giao tiếp với một tập thể
gồm huấn luyện viên, giảng viên, đồng đội, người tập chung. Qua đó, người tập có
thể học hỏi những kỹ năng sống có giá trị như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc
nhóm cũng như kỹ năng lãnh đạo. Sự tự tin sẽ tăng lên khi giành chiến thắng và đạt
được mục tiêu. Trong môi trường TDTT, bạn sẽ có cơ hội gặp gỡ, kết bạn với
những người có cùng sở thích, có điều kiện có thêm nhiều bạn mới, mở rộng mối
quan hệ xã hội.
ĐI BỘ - HÌNH THỨC TẬP LUYỆN ĐƠN GIẢN VÀ PHỔ BIẾN NHẤT
14
Tổng kết nhiều công trình nghiên
cứu cho thấy, hoạt động thể chất phổ biến
nhất là đi bộ có 8 lợi ích sau:
1. Tốt cho tim: Chỉ cần đi bộ nhanh
30 phút/ngày sẽ làm giảm hội chứng
chuyển hóa (metabolic syndrome) – là hội
chứng dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh tim
mạch, tiểu đường và đột quỵ. Một nghiên
cứu ở Anh cho biết hoạt động thường xuyên (có thể kết hợp giữa đi bộ và đi xe
đạp) có thể giảm 11% nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đặc biệt là đối với phụ nữ).
2. Giảm nguy cơ mắc bịnh ung thư vú: Theo công bố trên tạp chí Hội y học
Mỹ, đi bộ vài giờ / tuần có ý nghĩ đặc biệt trong việc giảm nguy cơ mắc bệnh ung
thư vú, đồng thời còn giảm béo. Kết quả nghiên cứu trên 74.000 phụ nữ ở tuổi mãn
kinh (50 -79 tuổi) cho thấy nguy cơ mắc bịnh ung thư vú giảm đi 30% và thừa cân
giảm 10 – 20% so với nhóm người có thể trạng bình thường. Các nghiên cứu trên
phụ nữ trẻ hơn cũng cho kết quả tương tự.
3. Giúp ngủ ngon: Theo tổ chức giấc ngủ Mỹ, đi bộ nhanh vào buổi chiều
giúp người tập có giấc ngủ ngon hơn.
4. Làm giảm sự đau nhức cơ thể: đặc biệt là môn đi bộ nhanh (Chiwalking –
kết hợp Thái cực quyền, yoga và pilates (một môn thể dục mềm dẻo). Vì người tập
thư giãn có ý thức, làm cơ thể trở nên cân bằng qua việc vận động cánh tay, giảm
áp lực lên chân trong khi đi, kết quả làm giảm đau nhức cơ thể.
5. Làm tinh thần sảng khoái, hạnh phúc hơn: Đi bộ làm giảm sự buồn chán,
lo âu và stresss. Theo các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Texas thì chỉ cần đi bộ 30 phút
tâm trạng sẽ khá hơn. Kết quả nghiên cứu của ĐH Temple (Mỹ) cho thấy đi bộ 90
phút, 5 lần/tuần có thể duy trì tâm trạng tốt nhất. Theo nhiều nhà nghiên cứu: đi bộ
giúp cơ thể sản sinh ra endorphin, tăng hóc môn senotonin sẽ cải thiện tâm trạng,
giúp thư giãn, yêu đời hơn.
6. Giữ vóc dáng mảnh mai: Đi bộ 30 phút mỗi ngày có thể tránh tăng cân ở
hầu hết những người ít vận động tự nhiên. Ở phụ nữ, nếu đi bộ 60 phút/ngày, 5 lần /
tuần sẽ tiêu hao khoảng 1500 Kcal/ngày và giảm 11 kg thừa / năm.
15
7. Duy trì trí nhớ cho người cao tuổi: nhiều nghiên cứu ở nhóm người cao
tuổi cho thấy đi bộ thậm chí 45 phút/tuần sẽ giảm nguy cơ bịnh Alzheimer, trong
khi đi bộ trí não được tập luyện và trở nên minh mẫn hơn.
8. Bảo vệ xương: Khi đi bộ đòi hỏi sử dụng 95% hệ cơ, giúp hệ xương khỏe
mạnh và rắn chắc hơn.
PHẦN II. LÝ THUYẾT CHUYÊN MÔN
A. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN MÔN KARATEDO:
Karate – cái tên được gọi như hiện nay là một môn võ thuật có xuất xứ từ Trung
Quốc hay còn gọi là Chinese Kempo (quyền thuật Trung hoa) được du nhập vào Okinawa
- một thuộc địa của Nhật trước đây. Okinawa có nghĩa là “Sợi dây thừng” ngoài biển
khơi, hòn đảo này có tên cổ là Ryukyu nằm ở cực Nam của quần đảo Nhật Bản, một đầu
hướng về Trung Quốc còn đầu kia hướng về Nhật. Vào thế kỷ XV, đây là một quốc gia
độc lập và phồn thịnh nhờ giao thương với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước láng giềng
khác họ mang theo môn quyền thuật đến đây và trở thành sản phẩm đặc sắc của người
dân xứ đảo này..
Võ thuật tiến hóa một cách độc đáo ở quần đảo này vì những phát triển dị thường
của lịch sử trong suốt một hời kỳ dài khoảng 400 năm. Trong nhiều thế kỷ, người dân ở
đảo không được phép cất giữ vũ khí, vì thế họ tự vệ bằng tay không, dùng chân tay và các
bộ phận cơ thể hoặc những kỹ năng võ thuật cổ xưa dùng những nông cụ làm vũ khí.
Thuở ban đầu, người dân luyện tập môn võ thuật này với cái tên Okinawa-té, nghĩa
là chỉ dùng tay chân để chống lại tầng lớp áp bức. Người dân ở đây đã luyện tập biến tay
chân của họ trở thành những vũ khí lợi hại, bên cạnh đó, những nông cụ tưởng chừng như
chỉ hữu dụng trong sản xuất cũng được nghiên cứu, luyện tập trở thành những binh khí
sắc bén : Nuchaku (song côn - theo giả thuyết, đó là một dung cụ chăn ngựa), Sai (chĩa ba
ngắn), Tolfa (đoản công có tay cầm), Bo (côn dài), Kama (liềm gặt lúa)….
Năm 1879, Okinawa trở thành một tỉnh của Nhật Bản và các võ sư vẫn âm thầm
truyền dạy Okinawa-té cho đệ tử tại võ đường cho đến khi nó được đổi tên thành Karate
và công khai truyền dạy ở Okinawa và Nhật Bản.
16
Ngày nay, Karate được phổ biến và trở thành môn học giáo dục thể chất ở các
trường phổ thông cở sở và trung học tại Okinawa. Người ta đã thống kê được hơn 250 võ
đường Karate đang hoạt động tại Okinawa theo các chi phái khác nhau và một phần ba
nam giới ở Okinawa đã từng tập Karate.
Sự quyến rũ của Okinawa, cái nôi Karate, khiến người nước ngoài thường nô nức
đến đây học tập. Các võ sinh nước ngoài say mê tập luyện môn võ này, họ tìm thấy ở đây
những kỹ năng võ nghệ cổ truyền thật cuốn hút cũng như sự cởi mở thân thiện của người
dân Okinawa, miền đất yêu chuộng hòa bình, tự hào về truyền thống võ thuật đặc sắc lâu
đời.
Sự ra đời của Karate hiện đại gắn liền với tên tuổi Gichin Funakoshi
Gichin Funakoshi sinh năm 1870
trong một gia đình dòng dõi samurai (năm
Minh trị thứ 3) ở thành phố Naha , ông
thừa hưởng một nền giáo dục nghiêm khắc
theo những nguyên tắc lâu đời và đặc
trưng. Tuy tầm vóc người nhỏ bé, ông chỉ
cao khoảng 1m55 và nặng không quá 50
kg nhưng lại là một người thông minh,
nhanh nhẹn và được học hành nghiêm túc.
Thuở bé, ông đã được cha mình cho theo
học Jujitsu – môn võ thuật rất thịnh hành
ở Okinawa.
Đó là môn võ kết hợp Chiniese kempo với các thế võ cổ truyền của bản xứ, sau này
ông được thụ giáo rất nhiều cao thủ nổi tiếng ở Okinawa và được đánh giá là một trong
những võ sinh xuất sắc nhất của các hệ phái mà ông đã tham gia tập luyện. Tên tuổi ông
được nhắc đến nhiều trong giới võ thuật ở Okinawa và được mọi người kính trọng.
Năm 1913 ông trở thành chủ tịch của hiệp hội Okinawa Shobu Kai và năm 1922
(năm Taisho thứ 11) ông xuất bản cuốn sách “ Ryukyu Boxing Karate” và triển lãm giới
thiệu cuốn sách Karate –phương tiện giáo dục thể chất do Bộ Giáo dục Nhật bản tài trợ.
17
Gichin Funakoshi (1870 -1957)
Từ những thành công của cuốn sách và buổi triển lãm, ông được mời đến Koishikawa ở
Tokyo lưu lại để giới thiệu và huấn luyện môn võ Karate-jutsu, ông đứng ra mở võ đường
đầu tiên ở Nhật Bản lấy tên là Meisei-Juku. Từ năm 1924 ông mở nhiều lớp dạy ở các
trường đaị học nổi tiếng : Tokyo, Keio, Waseda, Taikushoku, Hitotsubashi, Hosei, Chuo,
Senshu và Nippon Medical College..
Năm 1929, ông đổi tên Karate-jutsu trở thành Karate-do, cái tên trở nên quen thuộc
ngày nay. Từ năm 1936 đến 1943, ông viết và xuất bản nhiều cuốn sách về Karatedo,
trong đó nổi bật là cuốn Karatedo toàn văn (Karatedo textbook) và cuốn giới thiệu về
Karatedo. Năm 1948, hiệp hội Karate Nhật Bản được thành lập và ông được tín nhiệm
bầu làm chủ tịch của hiệp hội (JKA). Năm 1950, ông cùng một số võ sư khác nghiên cứu
và biên soạn các điều luật áp dụng cho các cuộc thi đấu Karatedo ở Nhật Bản. Năm 1954,
trong đại hội thành lập liên đoàn Karate Nhật Bản thống nhất các hệ phái toàn quốc lần
thứ nhất, ông được bầu làm chủ tịch liên đoàn Karate Nhật Bản (All Japan Karate
Federation). Funakoshi đã đào tạo nhiều võ sư tên tuổi được thế giới biết đến như
Masatoshi Nakayama, tiến sĩ vật lý, ông đã có công hệ thống hóa các kỹ thuật và biên
soạn cuốn Karate Dynamic, các kỹ thuật được giải thích rõ ràng, dựa trên nguyên lý động
lực học. Hidekita Nishiyama, ông là thạc sĩ về kinh tế học, ông là người đầu tiên đưa
Karate Shotokan đến Mỹ và truyền dạy khắp các nước vùng Châu Mỹ la tinh.
B. SỰ PHÁT TRIỂN KARATE TẠI VIỆT NAM
1. Karatedo du nhập vào Việt Nam
Vào thập niên 50 Karatedo được du nhập vào Việt Nam do võ sư SUZUKI người
Nhật lưu sống tại các tỉnh miền Trung lúc bấy giờ truyền dạy. Ông đã thu hút được nhiền
thanh niên tham gia tập luyện, đặc biệt là ở Cố đô Huế vào thập niên 60. Cũng trong thời
gian này tại thành phố Sài Gòn có sự đóng góp quan trọng của cố võ sư Hồ Cẩm Ngạc
người có công truyền bá phong trào Karatedo miền Nam. Trước 1975 phong trào tập
luyện Karatedo ở miền Nam phát triển mạnh trong đó có sự đóng góp của thầy Nguyễn
Văn Ái ở Đồng bằng sông Cửu Long.
2. Sau ngày thống nhất đất nước:
Sau 1975 tại các tỉnh phía Bắc, Hà Nội là trung tâm phát triển phong trào
Karatedo do Thầy Hoàng Vĩnh Giang xây dựng tổ chức phát triển và là nơi có mô hình
đào tạo chất lượng nhất nước ta. Những năm đầu 1980 phong trào Karatedo đã đi vào quỹ
18
đạo có tổ chức của ngành thể dục thể thao. Và cũng trong thời gian này, phong trào
Karatedo các tỉnh phía Bắc đặt biệt là tại Hà Nội phát triển mạnh cả về số lượng và chất
lượng. Tháng 7/1989 Liên đoàn Karatedo Nhật Bản đã cử Thầy Yamamura chuyên gia
phát triển Karatedo Châu Á của Liên đoàn Karate Nhật Bản và trọng tài thế giới sang
giảng dạy cho các võ sư, huấn luyện viên, vận động viên Việt Nam. Đây là mốc đánh dấu
lần đầu tiên Karatedo tiếp xúc hội nhập với Karatedo hiện đại quốc tế. Cũng trong thời
gian này Liên đoàn Karatedo lâm thời Việi Nam được thành lập và ra mắt Ban chấp hành
dưới sự chủ trì của Ông Dương Nghiệp Chí đại diện cho Tổng cục Thể dục Thể thao Việt
Nam, ông Hoàng Vĩnh Giang- giám đốc Sở TDTT Hà Nội giữ cương vị chủ tịch, ông
Nguyễn Văn Thạnh và ông Nguyễn Văn Ái là phó chủ tịch, ông Phạm Quốc Trọng là
tổng thư ký.
Năm 1991 là năm đầu tiên tổ chức giải Vô địch Karate toàn quốc tại Hà Nội, hệ
thống thi đấu được hoàn thiện dần và hiện nay có ba giải được tổ chức hàng năm : giải vô
địch toàn quốc, giải trẻ toàn quốc, giải cúp các câu lạc bộ mạnh toàn quốc và chu kỳ 4
năm một lần Karatedo là môn thi đấu nằm trong chương trình hội khoẻ phù đổng toàn
quốc và đại hội thể thao toàn quốc.
Liên đoàn Karate lâm thời Việt Nam là một tổ chức thành viên của Liên đoàn
Karate thế giới, đứng đầu là chủ tịch Hoàng Vĩnh Giang. Trụ sở chính đặt tại 41 Trịnh
Hoài Đức , Hà nội, phụ trách văn phòng là Tổng thư ký Phạm Quốc Trọng và cơ quan
quản lý nhà nước về thể dục thể thao là Bộ môn Karatedo trực thuộc Vụ Thể thao thành
tích Cao I của Ủy ban Thể dục thể thao, trưởng Bộ môn là Ông Vũ Sơn Hà.
C. CÁC KỸ THUẬT CƠ BẢN KARATEDO
I. CÁC THẾ TẤN CĂN BẢN
1. Kỹ thuật tấn vuông (Shiko dachi)
Đây là thế tấn căn bản khi tập luyện môn Karatedo. Mỗi võ sinh khi tập luyện căn
bản, nhất là căn bản đòn đấm đều được tập với tư thế tấn shiko dachi với tốc độ
chậm, đều để chỉnh sửa và hoàn thiện kỹ thuật.
Tư thế:
- Hai chân đứng rộng bằng 2 vai, 2 bàn chân song song và hướng
thẳng phía trước.
- Gối hơi khuỵu, hai đầu gối hướng về trước.
19
- Lưng thẳng, vai ngang, mắt nhìn thẳng, lực dồn đều vào 2
chân,trọng tâm chính giữa, thân người thả lỏng.
2. Kỹ thuật tấn ngang (Kiba dachi)
Đây là thế tấn rộng so với shiko dachi, thế tấn này tương tự như shiko dachi nhưng
rộng, thấp và chắc chắn hơn. Các võ sinh khi nhập môn võ karatedo thường được tập
tư thế tấn này và luyện tập với thời gian đứng tấn lâu, đây là phương pháp tập sự tĩnh
lặng và chắc chắn của thân người.
Tư thế :
- Hai chân đứng rộng bằng 4 vai, 2 bàn chân song song và hướng
thẳng phía trước.
- Gối vuông, mở rộng hông, hai đầu gối hướng thẳng trước.
- Lưng thẳng, vai ngang, mắt nhìn thẳng, lực dồn đều vào 2
chân,trọng tâm chính giữa, thân người thả lỏng.
3. Kỹ thuật tấn trước (Zenkutsu Dachi)
Đây là kỹ thuật tấn cơ bản mà bất cứ người mới tập nào cũng được huấn luyện trước
tiên. Kỹ thuật này cho phép kết hợp với các đòn tấn công, đỡ...một cách dễ dàng.
Zenkutsu Dachi có mặt trong hầu hết các bài quyền của Karate.
Các tư thế
- Tư thế tĩnh: chiều rộng của tấn bằng chiều rộng của vai(2 vai), chiều dài của tấn
bằng 2 lần chiều rộng của vai (4 vai). Ở tư thế tĩnh, cẳng chân trước hợp với mặt đất một
góc khoảng 90o, hình chiếu của gối rơi vào đốt xương thứ nhất của ngón chân cái. Bàn
chân trước thẳng phía trước. Chân sau thẳng với bàn chân hợp với trục trước sau một góc
khoảng 45o. Lưng giữ thẳng, hông hơi nghiêng và trọng lượng cơ thể dồn vào khoảng
70% chân trước.
- Di chuyển tiến lên : Chuyển trọng tâm dồn vào chân trước, thu chân sau lên sát với
chân trước ở tư thế Heisoku (tấn chụm, gạp gối), hai chân khép, mũi chân hướng phía
trước và gối hơi thấp. Di chuyển tiếp chân lên trên sang bên sao cho khi kết thúc di
chuyển chân trước vuông góc mặt đất, chân sau thẳng hoàn toàn và ổn định như tư thế
tĩnh. Hình thức di chuyển theo chữ V với góc là chân trụ.
- Di chuyển lùi : Chuyển trọng tâm dồn vào chân sau, kéo chân trước về sát chân
sau ( chân trụ) ở tư thế Heisoku. Tiếp tục đạp chân ra sau sao cho khi kết thúc chân thẳng
20
hoàn toàn và chân trước vuông góc mặt đất. Hình thức di chuyển theo chữ V với góc là
chân trụ.
- Xoay sau : Thông thường, xoay sau dùng chân sau di chuyển ngang về phía chân
còn lại và đảm bảo chiều rộng của tấn. Xoay người đồng thời chuyển trọng lượng cơ thể
dồn vào chân trước để ổn định tấn giống tư thế tĩnh.
4. Kỹ thuật tấn sau (Kokutshu Dachi)
Đây là kỹ thuật tấn cơ bản nhưng khó tập và khó có thể sử dụng đứng lâu. Tuy nhiên
đây là tư thế tấn chắc chắn khi kết hợp với các đòn đỡ và là thế tấn chuẩn bị và bổ trợ
cho các đòn phản công. Đây là 1 trong những thế tấn đẹp trong các bài quyền của
Karatedo.
Các tư thế:
- Chuẩn bị: Đứng thẳng, 2 gót chân chụm lại thành 1 góc vuông (Tấn L), mũi chân
trước hướng phía trước, chân sau chum gót chân trước thành 1 góc 900. Chân sau bước
thẳng, dài lui sau với chiều dài gấp 2 lần chiều rộng vai (4 vai).
- Tư thế tĩnh: chiều rộng của tấn bằng chiều rộng của vai, chiều dài của tấn bằng 2
lần chiều rộng của vai. Ơ tư thế tĩnh, cẳng chân sau hợp với mặt đất một góc khoảng 90 o,
Bàn chân trước thẳng phía trước. Chân sau gập gối với bàn chân hợp với trục trước sau
một góc khoảng 90o. Lưng giữ thẳng, hông nghiêng về phía sau và trọng lượng cơ thể dồn
vào khoảng 70% chân sau, gối trước hơi gập.
- Di chuyển tiến lên : Dùng lực chân sau đẩy chuyển dần trọng tâm dồn vào chân
trước, thu chân sau lên sát với chân trước, gót bàn chân trước xoay ngang chuyển mũi
bàn chân trước ngang 1 góc 900 hướng ngược lại, hai chân khép, 2 gối hướng theo 1 góc
vuông và 2 gối hơi thấp. Di chuyển tiếp chân lên trên sao cho khi kết thúc di chuyển mũi
chân trước hướng thẳng lên trước, đầu gối hơi co, chân sau gập gối 1 góc 90o và dồn
70% trọng lượng cơ thể vào chân sau. Trọng tâm ổn định như tư thế tĩnh. Hình thức di
chuyển theo chữ L với góc là chân trụ.
- Di chuyển lùi : Trọng tâm ở chân sau, kéo chân trước về sát chân sau ( chân trụ) ở
tư thế tấn L. Tiếp tục chuyển hết trọng tâm vào chân trước bây giờ đã thành chân sau, dồn
70% trọng lượng cơ thể vào chân sau. 2 gối tạo thành góc vuông. Hình thức di chuyển
theo chữ L với góc là chân trụ.
21
- Xoay sau : Khi xoay sau chỉ cần ổn định tư thế hông, chuyển trọng tâm từ chân sau
vào chân trước. Xoay đều 2 gót chân chuyển than người, tư thế hông và trọng tâm về
hướng ngược lại, Trục của tấn không thay đổi, chỉ đổi hướng của thế tấn và ổn định tấn
giống tư thế tĩnh.
II. CÁC KỸ THUẬT CƠ BẢN
1. Kỹ thuật đấm thẳng : Choku zuki
Có thể thực hiện theo 3 tầm đánh khác nhau:
- Đấm cao : Jodan zuki
- Đấm giữa : Chudan zuki
- Đấm thấp : Gedan zuki
Hoặc thực hiện phối hợp với tấn để trở thành :
- Đấm thuận : Oi zuki
- Đấm nghịch : Gyaku zuki
Đòn đấm thẳng là một đòn được sử dụng rất nhiều trong tập luyện kỹ thuật cơ bản
và thi đấu, đây là một trong những đòn có tốc độ nhanh nhất khi thực hiện. Có thể phối
hợp đòn đấm thẳng với các kỹ thuật khác để trở thành các bài tập phối hợp nhóm kỹ thuật
hoặc tổ hợp kỹ thuật.
Các giai đoạn kỹ thuật:
- Giai đoạn chuẩn bị: đứng ở tư thế đứng thẳng, hai chân bằng vai. Vai và hông
thẳng tự nhiên.
Thông thường, khi tập luyện đòn đấm thuận chúng ta kết hợp với tấn trước
(Zenkutsu Dachi).
- Giai đoạn đấm: xuất phát từ hông đấm ra trước di chuyển theo đường thẳng và
xoắn thuận theo cấu trúc giải phẫu từ ngoài vào trong và kết thúc khi tới điểm chạm, tay
thẳng hoàn toàn, lòng bàn tay đối diện với mặt đất, vị trí chạm mục tiêu là đốt xương thứ
nhất của ngón trỏ và ngón giữa. Tay còn lại xoay ngược từ trong ra ngoài mạnh về hông
tạo phản lực, và kết thúc với lòng bàn tay hướng lên trên. Kết hợp cú đấm với hơi thở và
hông.
- Giai đoạn kết thúc: Kết thúc cú đấm vai và hông hơi nghiêng hướng phía trước, và
tự giảm trương lực các cơ bắp ngay lập tức và chuẩn bị cho cú đấm tiếp theo.
2. Kỹ thuật đấm nghịch (Gyaku zuki)
22
Đòn đấm nghịch là đòn khá thông dụng trong tập luyện kỹ thuật cơ bản cũng như
trong thi đấu. Đây được xem là một trong những đòn có hiệu quả cao nhất trong thi đấu
Karate thể thao. Trong kỹ thuật đối luyện cơ bản, Gyaku zuki thường là đòn kết thúc sau
một hoặc tổ hợp các kỹ thuật đỡ khi đối phương tấn công.
Các giai đoạn kỹ thuật:
- Giai đoạn chuẩn bị: Thông thường, khi tập luyện đòn đấm thuận chúng ta kết hợp
với tấn trước (Zenkutsu Dachi), tấn ngang (Kiba Dachi), tấn vuông (Shiko Dachi), tấn bất
động (Fudo Dachi)
- Giai đoạn đấm: xuất phát từ hông đấm ra trước di chuyển theo đường thẳng và
xoắn thuận theo cấu trúc giải phẫu từ ngoài vào trong và kết thúc khi tới điểm chạm,
tay thẳng hoàn toàn, lòng bàn tay đối diện với mặt đất, vị trí chạm mục tiêu là đốt
xương thứ nhất của ngón trỏ và ngón giữa. Tay còn lại xoay ngược từ trong ra ngoài
mạnh về hông tạo phản lực, và kết thúc với lòng bàn tay hướng lên trên. Kết hợp cú
đấm với hơi thở và hông. Sở dĩ gọi là đấm nghịch bởi vì tay đấm là tay sau so với khi
thực hiện kết hợp với tấn. Xuất phát từ tư thế tấn rất vững và ổn định, có thể tạo ra
lực rất lớn khi đến mục tiêu. Xoay hông, khi xoay giữ hông ổn định. Duỗi thẳng chân
sau và chuyển trọng tâm về trước. Tưởng tượng giống như khi quay người, bạn phải
xoay hông. Đòn đấm sẽ không hiệu quả nếu trọng lực nằm xa chân sau khi kết thúc
đòn đấm. Đòn đấm này bắt đầu từ việc xoay hông. Sức mạnh của hông sẽ chuyển lên
ngực, vai, tay và đòn đấm, cuối cùng kết lực tại mục tiêu. Tuy nhiên, để tránh mất
lực, lực phản hồi của cơ thể tại mục tiêu sẽ theo trật tự đảo ngược là tay, cánh tay, vai,
ngực, hông. Nếu cơ thể không căng ra ở điểm tiếp xúc thì lực phản hồi sẽ yếu đi.
- Giai đoạn kết thúc: Kết thúc cú đấm vai và hông hơi nghiêng hướng phía trước,
và tự giảm trương lực các cơ bắp ngay lập tức và chuẩn bị cho cú đấm tiếp theo. Tóm
lại, lực hông có vai trò rất quan trọng trong đòn đấm tay sau. Tập luyện đòn này và
học cách xoay hông để hình thành nền tảng cho việc chuyển động của phần thân trên.
3. Kỹ thuật đá thẳng : Mae geri (kekomi)
Có thể thực hiện theo 3 tầm đá khác nhau:
- Đá cao : Mae geri keage (đá thốc trước)
- Đá thẳng giữa: Mae geri kekomi (đá tống thẳng)
23
- Đá thẳng thấp : Mae fumikomi geri (thường đá vào khớp gối)
Đòn đá thẳng là một đòn khá thông dụng và dễ thực hiện, được sử dụng nhiều trong
tập luyện kỹ thuật cơ bản và thi đấu. Đây là một trong những đòn cơ bản được tập
luyện ngay từ khi đai trắng, có thể phối hợp đòn đá thẳng với các kỹ thuật khác để trở
thành các bài tập phối hợp nhóm kỹ thuật hoặc tổ hợp kỹ thuật.
Các giai đoạn kỹ thuật:
- Giai đoạn chuẩn bị: đứng ở tư thế đứng thẳng, hai chân bằng vai. Vai và hông thẳng
tự nhiên.
- Giai đoạn thực hiện: nâng gối với cẳng chân gập sát cho đến khi trục của xương đùi
song song với mặt đất. Ở vị trí này, đã mạnh cẳng chân ra phía trước, khi đầu gối thẳng
hoàn toàn là kết thúc đòn đa. Điểm tiếp xúc với mục tiêu là phần ức bàn chân hay còn gọi
là nhượng bàn chân, khi va chạm mục tiêu thì cổ chân duỗi thẳng để hướng ức bàn chân
về phía mục tiêu. Tốc độ thực hiện nhanh dần kể từ khi nâng gối và đá cẳng chân ra phía
trước, tố độ đạt cao nhất là khi ức bàn chân va chạm với mục tiêu.
- Giai đoạn kết thúc: Kết thúc đòn đá, gập nhanh cẳng chân về vị trí ban đầu, sau đó
hạ chân xuống đất giống tư thế chuẩn bị. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa đòn đá thẳng
của Karate với các môn võ khác. Sở dĩ phải gập chân nhanh về vị trí ban dầu và hạ chân
xuống là để tránh những kỹ thuật bắt, tóm chân của đối phương và là cách để tiếp tục
thực hiện những đòn đá tiếp theo hoặc những kỹ thuật tấn công, phản công khác.
Khi tập luyện đòn đã Mae geri chúng ta thường tập luyện với tấn shiko dachi
Trong thi đấu chúng ta thường kết hợp đòn đá với tấn trước cao và thế thủ thi
đấu. Thi đấu thường sử dụng tấn công tầm chudan là tầm tấn công hiệu quả nhất.
4. Kỹ thuật đá vòng cầu (Mawashi geri)
Có thể thực hiện theo 2 tầm đá khác nhau:
- Đá cao : Jodan Mawashi (đá vòng cầu vào mặt)
- Đá thẳng giữa: Chudan Mawashi (đá vòng cầu vào bụng, lưng, lườn)
Đòn đá vòng cầu là một đòn rất thông dụng và dễ thực hiện, được sử dụng thường
xuyên trong tập luyện kỹ thuật cơ bản và thi đấu. Đây là một trong những đòn đánh
được sử dụng để ghi điểm nhiều trong thi đấu. Đòn đá Mawashi được sử dụng phối
hợp với nhiều kỹ thuật tạo nên chuỗi động tác tấn công hiệu quả.
Các giai đoạn kỹ thuật:
24
- Giai đoạn chuẩn bị: đứng ở tư thế đứng thẳng, hai chân bằng vai. Vai và hông thẳng
tự nhiên.
- Giai đoạn thực hiện: Tương tự với đòn đá tống trước Mae geri. Nâng gối với cẳng
chân gập sát cho đến khi trục của xương đùi song song với mặt đất. Xoay hông thuận về
phía trước đồng thời gót chân cũng xoay theo hướng thuận về phía trước, lúc này gối
ngang ngực, cẳng chân hướng phía trước và song song với mặt đất. Ở vị trí này, đã mạnh
cẳng chân ra phía trước, khi đầu gối thẳng hoàn toàn là kết thúc đòn đá. Điểm tiếp xúc
với mục tiêu là phần mu bàn chân, khi chạm mục tiêu thì gối và cổ chân duỗi thẳng, mu
bàn chân chạm vào mục tiêu. Tốc độ thực hiện nhanh dần kể từ khi nâng gối, xoay hông
và đá cẳng chân ra phía trước, tốc độ đạt cao nhất là khi mu bàn chân chạm mục tiêu.
- Giai đoạn kết thúc: Kết thúc đòn đá, gập nhanh cẳng chân về vị trí ban đầu, xoay
hông và gót chân về hướng thẳng, sau đó hạ chân xuống đất giống tư thế chuẩn bị.
Đâyđược gọi là thế Zanshin (thế thủ khi kết thúc đòn và chuẩn bị cho đòn đánh tiếp theo).
Trong thi đấu chúng ta thường kết hợp đòn đá với tấn trước cao và thế thủ thi
đấu. Thi đấu thường sử dụng tấn công tầm chudan với lực tấn công mạnh vào vùng hông
và lưng sẽ đạt được 2 điểm. Sử dụng đòn đá Mawashi tầm jodan vào vùng mặt với khả
năng khống chế lực và điểm tiếp chạm chính xác không gây chấn thương cho đối phương
sẽ đạt được 3 điểm trong thi đấu. Đây là đòn thế giành được điểm số cao nhất trong thi
đấu Karatedo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Việt Bảo, giáo trình Karatedo chuyên ngành giáo dục thể chất, (Lưu
hành nội bộ).
2. Luật thi đấu Karate-do, Nhà xuất bản Thể Dục Thể Thao.
Website:
1. www.karatedo.co.jp
2. http://karatedo-hochiminh.com
25
26
Phụ lục 1:
Bài quyền Heian Shodan
27
Phụ lục2:
28
Bài quyền Heian Nidan
29
Phụ lục 3:
CÁC ĐIỂM ĐẤM – ĐÁ – ĐỠ - GẠT KARATEDO
30
Phụ lục 4:
Các đòn đỡ, gạt căn bản của Karatedo Shotokan
AGE-UKE
31
UCHI-UKE(UCHI-UDE-UKE)
SOTO-UKE (SOTO-UDE-UKE)
32
SHUTO-UKE ( NANAME SHUTO-UKE)
MOROTE-UKE
33
SHO-MOROTE-UKE
JIUJI-UKE
34
JODAN-JIUJI-IKE
SHO-OSAE-UKE
35