Upload
duongdat
View
223
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8-1945
LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAMTRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8-1945
NGUYỄN ĐĂNG TIẾN (chủ biên)
LỜI GIỚI THIỆU
Năm 1956, sau khi biên soạn xong cuốn Lịch sử giáo dục thế giới, tôi
cảm thấy cần có một cuốn Lịch sử giáo dục Việt Nam, vì từ năm 939, sau khi
Ngô Quyền đã diệt được quân Nam Hán, chấm dứt được cuộc Bắc thuộc
đem lại đọc lập cho đất nước, nền giáo dục của ta đã dần dần tiến lên thành
một nền giáo dục có quy củ, có hệ thống, nhất là dưới triều Lê Thánh Tông,
với nhà Thái học, một trong những trường đại học sớm nhất của thế giới, tất
nhiên phải có một tác phẩm khiến cho các thế hệ người học tự hào về những
sự đóng góp cao quý của ông cha ta về việc trồng người.
Tuy tôi nghĩ là cần thiết, song bản thân tôi một mặt vì thiếu khả năng,
một một vì quá bận rộn về công tác đã được giao, nên không thể nào ngồi
biên soạn một bộ sách hằng mong muốn.
Vì thế khi được Nhà xuất bản Giáo dục cho đọc bản thảo cuốn Lịch sử
giáo dục này, tôi mừng vô kể, chẳng khác nào như Acsimet đã kêu to một
tiếng Eureka! Sách do một tập thể các nhà giáo với ông Nguyễn Đăng Tiến
làm chủ biên. Các tác giả đã dày công nghiên cứu các sách sử từ trước đến
nay, nhất là những bộ sử bằng chữ Hán. Nói chung, những tài liệu đã chọn là
chính xác, những lời giải thích và phê bình có chọn lọc.
Mặc dầu còn một số thiếu sót không thế tránh được trong một công
trình dài hơi này, cuốn Lịch sử giáo dục Việt Nam là một tác phẩm rất cần cho
việc nghiên cứu Lịch sử văn hóa và học thuật của nước nhà.
Tôi xin có lời chân thành hoan nghênh các tác giả và xin giới thiệu cuốn
sách quý này với độc giả và nhất là các bạn đồng nghiệp, các giáo sinh các
trường sư phạm.
Hà Nội tháng 10 năm 1996
Nhà giáo Nhân dân, Giáo sư NGUYỄN LÂN
Chương I. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỈ X
1. Đất nước Việt Nam và truyền thống văn hiến lâu đờiTheo các tài liệu khảo cổ học và nhân chủng học, tổ tiên trực tiếp của
người Việt là loại hình Nam Á, tuyệt đại bộ phận các dân tộc trên đất nước ta
(cũng như khu vực Đông Nam Á) có nguồn gốc từ nhóm loại hình chủng tộc
Inđônêdiêng.
Tổ tiên người Việt xuất hiện rất sớm, khoảng 30 vạn năm về trước ở
thời kì đồ đá cũ. Khi Hùng Vương dựng nước Văn Lang, xã hội đã tiến tới thời
đại đồ đồng cách đây khoảng 4000 năm và đến An Dương Vương lập nước
âu Lạc là vào quãng nửa sau thế kỉ thứ III trước công nguyên ở vào thời đại
đồ sắt.
Về địa lí, nước ta nằm ở phía Đông Nam lục địa châu Á, bên bờ biển
Đông. Vị trí này là giao điểm của các luồng văn hóa, di dân và các mạch máu
giao thông thủy bộ. Nó cũng là trung tâm của sự giao lưu giữa nhiều chủng
tộc, là mảnh đất luôn được sự chú ý của các cường quốc. Đông – Tây, là cái
gạch nối quan trọng của hai quốc gia lớn Ấn Độ – Trung Hoa.
Ngay từ buổi ban đầu, cư dân nước ta đã lấy nông nghiệp lúa nước
làm sinh kế chính (Trung Quốc cổ xưa khác ta, lấy lúa cạn làm nghề chính).
Đặc điểm này đã dẫn đến hình thành nên các cộng đồng làng xã, tạo ra một
nền văn hóa riêng, một cách ứng xử riêng, một tâm lí xã hội khác với phương
Bắc và nhiều nước khác.
Tổ tiên người Việt Nam chúng ta cũng sớm tạo nên một nền văn hóa,
văn minh rực rỡ, mang bản sắc riêng của dân tộc
Nhìn lại lịch sử, chúng ta đã có một nền văn hóa lâu đời, kéo dài hàng
chục vạn năm, rồi tiếp đến là nền văn minh sông Hồng hàng nghìn năm với
đỉnh cao là nền văn hóa Đông Sơn, mở đầu cho sự hình thành một nhà nước
phôi thai. Tài liệu khảo cổ học đã minh chứng rằng những công cụ lao động
và sản phẩm lao động, trải qua các thời kì Núi Đọ, Phùng Nguyên, Đông Sơn
thể hiện những bước tiến bộ dài, ngày một tinh xảo, chẳng những phục vụ
cho cuộc sống của cư dân bản địa mà còn có thể giao lưu với nước ngoài.
Những thành quả đó cũng chứng tỏ tổ tiên chúng ta đã tích lũy cùng thời gian
nhiều tri thức phong phú, rộng lớn: kĩ thuật trồng lúa nước và hoa mầu, kĩ
thuật đồng thau, tri thức về hình học, thiên văn v.v… Những tri thức đó được
thể hiện trên các hoa văn trống đồng, thạp đồng. Cũng phải kể đến những tri
thức triết học ban đầu, những tín ngưỡng bản địa v.v… sẽ trở thành cơ sở
cho việc hình thành, tiếp thu những học thuyết âm dương ngũ hành, bát quái
và nhiều mặt khác sau này.
Nền văn hóa, văn minh sớm này đã tạo cho người Việt Nam chúng ta
một bản lĩnh văn hóa riêng vững vàng, chứng minh vì sao các dân tộc Bách
Việt khác ở phía Nam sông Dương Tử lần lượt bị Hán hóa mà riêng Việt Nam
vẫn trụ vững, thoát khỏi được sự đồng hóa của phương Bắc mặc dù phải trải
qua hàng ngàn năm trong đêm trường lệ thuộc; không những thế mà dân tộc
nhỏ bé này còn đấu tranh kiên cường, bền bỉ để trở thành một dân tộc độc
lập, tự chủ từ thế kỉ X, XI.
Điểm lại toàn bộ, có thể thấy nền văn hóa đó của dân tộc ta đã trường
tồn và phát triển đến tận ngày nay: Đó là kỉ nguyên văn hóa thời tiền sử với
sự hình thành nghề nông, với những nhân vật thần thoại trong công cuộc
dựng nước và giữ nước; đó là kỉ nguyên văn hóa Văn Lang – Âu Lạc, mở đầu
từ thời đại đồ đồng và kết thúc vào trước khi nhà Hán xâm lược; đó là kỉ
nguyên văn hóa Đại Việt oanh liệt kéo dài nhiều thế kỉ; đó là kỉ nguyên văn
hóa thời Nguyễn với sự đan xen phức tạp giữa phương Đông và phương
Tây; đó là kỉ nguyên văn hóa Hồ Chí Minh mở đầu từ đầu thế kỉ XX đã đưa
đất nước ta vươn lên, sánh vai cùng các dân tộc trên thế giới.
Nền văn hóa đó mặc dù có khi lên, khi xuống, song nó không ngừng
phát triển một cách biện chứng, theo vòng xoáy ốc đi lên, song song cả hai
luồng chính thống và dân gian, vừa mâu thuẫn vừa hòa hợp, tạo ra cho dân
tộc ta một nên văn hiến lâu đời vững chắc, không một thế lực ngoại bang nào
phá nổi.
Với nền văn hiến đó, chúng ta hoàn toàn có thể suy đoán và khẳng định
rằng, giáo dục đã có một vai trò quan trọng trong cuộc sống của xã hội, của
con người trên đất nước ta từ thuở xa xưa, đặc biệt là giáo dục trong gia đình
và trong các cộng đồng làng xã.
Còn về nền văn hóa giáo dục chính thống, với tổ chức trường lớp tới
trước thời Bắc thuộc, cho đến nay các công trình khảo cổ học, dân tộc học,
lịch cử v.v… mặc dù vẫn đang còn mất nhiều công phu nghiên cứu, tìm kiếm,
song vẫn chưa thấy được chứng tích gì, kể cả chữ viết và thư tịch cổ.
2. Giáo dục Việt Nam trong thời kì Bắc thuộc (TK I T.CN đến TKX)a) Hoàn cảnh lịch sử
Từ thế kỉ thứ 2 T.CN (năm – 111), nước ta đã bị bọn phong kiến
phương Bắc (Tây Hán) sang xâm lược. Năm 23 T.CN, nước ta chính thức bị
nhà Đông Hán đô hộ. Trong suốt 10 thế kỉ Bắc thuộc – trải qua nhiều triều đại
thống trị (Đông Hán, Ngô, Tây Tấn, Đông Tấn, Nam triều, Tùy, Đường) –
nhân dân ta không lúc nào ngừng đấu tranh chống lại để giành quyền độc lập,
tự chủ. Trong cuộc đấu tranh trường kì gian khổ đó, nổi bật lên là các cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 – 43), Bà Triệu (248), Lí Bí (544 – lập ra
nước Vạn Xuân, tồn tại đến đầu TK VII), Mai Thúc Loan (722 – xưng đế: Mai
Hắc Đế), Phùng Hưng (766 – 791). Đến đầu TK X, Khúc Thừa Dụ lại nổi lên
đấu tranh giành được quyền tự chủ. Sau đó là các triều đại Ngô, Đinh, Tiền
Lê, Lí, Trần… liên tục đấu tranh oanh liệt giữ vững nền độc lập dân tộc trước
sự xâm lược liên tiếp của các thế lực phong kiến Nam Hán, Tống, Nguyên,
Minh, Thanh.
Trong suốt 10 thế kỉ Bắc thuộc, giai cấp thống trị ngoại bang đã thực
hiện những chính sách cực kì tàn ác: trấn áp, vơ vét, bóc lột tàn tệ, đồng thời
tìm mọi cách đồng hóa nhằm biến nhân dân ta, dân tộc ta trở thành quận
huyện của họ. Trong âm mưu đồng hóa này, văn hóa giáo dục được chúng
sử dụng như một phương tiện rất quan trọng.
b) Tình hình giáo dục trong thời kì Bắc thuộc
Căn cứ vào sử liệu, ngay từ đời Tấn (–221 –207), nước ta đã có
người sang du học ở Lạc Dương (Kinh đô Trung Hoa lúc đó). Lí Ông Trọng
đã thi đỗ và làm quan ở triều đại nhà Tần.
Đến đâu công nguyên, Hán Vũ Đế đã đưa người Trung Quốc sang
nước ta ở lẫn với dân bản xứ, dạy cho họ học đọc, học viết qua loa để võ vẽ
biết được tiếng Trung Quốc.
Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và thái thú Cửu Chân là Nhâm Diên đã
dựng trường dạy dỗ dân ta theo con đường lễ nghĩa. Lễ nghĩa ở đây chính là
Nho giáo. Như vậy, Nho giáo và nhà trường đã xuất hiện ở nước ta từ thế kỉ
thứ nhất sau công nguyên.
Thời Tam quốc (220 – 264), chiến tranh xảy ra liên miên giữa ba triều
đại Ngụy – Thục – Ngô. Thừa dịp đó nhà Ngô ở phía Nam Trung Quốc đã
tràn sang thay thế nhà Đông Hán đô hộ nước ta (220 – 280).
Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp đã chiêu nạp nhiều danh sĩ Trung Quốc
sang ta lánh nạn, cho dựng nhà học để cùng giảng bàn thi, thư lễ nghĩa.
Nhiều nho sĩ khác cũng chạy sang ở rải rác khắp Giao Châu. Nhân dân ta đã
tự lập nên trường học mời họ làm thầy dạy cho con em. Nhiều thầy giáo giỏi
cả về Nho, Phật. Trong xã hội lúc đó đã xuất hiện một số nho sĩ người Việt
học rất giỏi, đỗ cao như Lí Tiến, Lí Cầm, Trương Trọng, Khương Công Phụ,
Khương Công Phục, Tinh Thiều…
Những nho sĩ này cũng đã được bổ dụng một số chức quan lại như Lí
Tiến làm thứ sử Giao Châu, Lí Cầm làm tư lệ hiệu úy đời Hán, Trương Trọng
làm thái thú Kim Thành, Khương Công Phụ làm gián nghị đại phu, Khương
Công Phục làm bắc bộ thị lang đời Đường (hai anh em Phụ và Phục đều đỗ
tiến sĩ đời Đường). Tinh Thiều học giỏi, đỗ cao, song chỉ được bổ chức
Quảng dương môn lang (chức gác cổng thành) nên tức giận bỏ về theo Lí
Bôn khởi nghĩa và giữ chức quan văn của nhà nước Vạn Xuân.
Tuy thế, về đại thể, việc học ở nước ta suốt từ Hán đến Đường, rồi Ngũ
đại không phát triển sâu rộng được do chính sách đồng hóa của họ. Đặc biệt,
nhà Đường đã triệt để hạn chế việc học, việc thi. Năm 845, nhà Đường chỉ
cho phép số người Việt đi thi tiến sĩ không quá 8 người, thi Minh kinh không
quá 10 người.
Trong các cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân ta, những lãnh tụ
nghĩa quân phần lớn là các hào trưởng, ít thấy có nho sĩ.
Cuối đời Đường, chiến tranh diễn ra liên miền ở Trung Quốc dẫn đến
cục diện phân liệt thành Ngũ đại. Trong điều kiện đó, nhiều cuộc vũ trang khởi
nghĩa ở nước ta đã nổ ra, tạo nên các triều đại tự chủ Ngô (939 – 965), Đinh
(968 – 980), Tiền Lê (986 – 1009). Lúc này, tuy Nho giáo đã có mặt trên đất
nước da từ lâu song không có điều kiện phát triển. Nó chỉ dừng lại ở các tầng
lớp trên là chủ yếu, đặc biệt là tầng lớp tăng lữ Phật giáo.
Một nhân vật trong thời Bắc thuộc được nhiều nho sĩ, học giả cổ kim
quan tâm đánh giá là Sĩ Nhiếp, tựu trung có 2 quan niệm khác nhau:
Quan niệm thứ nhất coi Sĩ Nhiếp là người có công đối với việc mở
mang giáo dục, tôn ông là Sĩ Vương, là “Nam giao học tổ” Khuynh hướng này
có thể kể đến các sử thần Lẽ Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên. Trong “Đại Việt sử kí
toàn thư”, sử thần họ Ngô viết:
“Nước ta thông nhiều kinh Thi, kinh Thư, tập quen phép tắc của kinh
Lễ, kinh Nhạc, thành một nước có văn hiến từ vua Sĩ Nhiếp. Công đức ấy
phải đâu chỉ riêng thi hành cho thời bấy giờ, mà còn ảnh hưởng xa rộng mãi
các thời sau họ chẳng phải là phong phú vậy thay?”
(“Ngã quốc thông Thi, Thư, tập Lễ, Nhạc vi văn hiến chi bang tự Sĩ
vương thủy kì công đức khởi đặc thi ư đương thời nhi hữu dĩ viễn cập ư hậu
đại, khởi bất thịnh hĩ tài?”)
Lí Tế Xuyên trong “Việt điện u linh tập” viết về tiểu sử Sĩ Nhiếp cũng rất
coi trọng tài đức và công trạng của ông trong công cuộc giáo hóa đất Giao
châu. Ngoài ra có thể kể đến tiến sĩ Cao Huy Diệu (1739), Nguyễn Trọng
Thuật, Trần Đình Luyện v.v… đều đánh giá cao công trạng của Sĩ Nhiếp.
Quan niệm thứ hai cho rằng Sĩ Nhiếp không dạy dỗ, giáo hóa gì cho
dân ta mà chỉ dùng sở học của mình giảng bàn nghĩa lí với các sĩ nhân Trung
Quốc để tự tâm đắc mà thôi.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là Ngô Thời Sĩ trình bày ý kiến trong
sách Việt sử tiêu án.
Bên cạnh sự xâm nhập của Nho giáo, các ý thức hệ Phật giáo và Đạo
giáo cũng ảnh hưởng, bắt rễ sâu rộng vào xã hội nước ta từ lâu, trước cả đạo
Nho.
Ngay từ thế kỉ thứ III, đạo Phật đã du nhập vào nước ta qua nhiều con
đường thủy, bộ, qua việc giao lưu buôn bán, di dân và truyền đạo. Lúc đó,
nhà Hán có 3 trung tâm Phật giáo lớn là Lạc Dương, Bành Thành và Luy Lâu
(hay Liên Lâu). Luy Lâu là trung tâm lớn nhất nằm ở nước ta (Thuận Thành,
Hà Bắc ngày nay), từ đây có những đường thủy bộ liên hệ với Lạc Dương và
Bành Thành. Đây còn là nơi dừng chân, trung trạm của các tăng lữ Phật giáo
từ Ấn Độ sang Trung Quốc và ngược lại. Vì vậy, Luy Lâu còn là một trường
học tôn giáo lớn đào luyện được nhiều người tài giỏi, uyên bác, thông cả tam
giáo (nước ta có Mâu Tử, Khương Tăng Hội là những thiền sư rất giỏi thời
này).
Chịu ảnh hưởng của hai thiến phái Tì – ni – đa – lưu – chi và Vô –
Ngôn – Thông, thiền học nước ta phát triển sâu rộng, đào tạo nên tầng lớp
tăng lữ trí thức đông đảo sau này. Từ đó mà trường chùa sẽ xuất hiện nhiêu
vào thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lí, Trần. Xu hướng tam giáo đồng nguyên đã
được chấp nhận chứng nhưng trong tôn giáo, xã hội mà ngay cả trong giáo
dục ở thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIII sau này.
Tóm lại, nền giáo dục chính thống của Việt Nam đã hình thành phôi
thai, đặt cơ sở ban đầu cho công cuộc giáo hóa sau này. Nho học đã ra đời
trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại bang đô hộ, bởi vậy không thể thoát khỏi
những ảnh hưởng sâu đậm cả về nội dung, phương pháp giáo dục. Song về
tổ chức chủ yếu lại do dân tự lo liệu với sự hỗ trợ của các tăng lữ, thiền sư.
Tuy vậy, nền Hán học ngoại nhập này – trước sự quật cường của dân tộc ta –
sẽ phải biến đổi, khúc xạ đi để trở thành nền giáo dục Nho giáo chính thống
Việt nam từ thế kỉ XI đến đầu thế kỉ XX.
Chương II. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI CÁC THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ LÍ – TRẦN – HỒ (TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XIV)
1. Giáo dục dưới các thời Ngô – Đinh – Tiền Lêa) Sự biến động, hưng vong từ họ Khúc đến Tiền Lê
Sau 10 thế kỉ Bắc thuộc, nước ta giành lại được độc lập, nhưng chưa
xây dựng được triều chính vững vàng.
Mở đầu, Khúc Thừa Dụ tuy với danh nghĩa là Tiết độ sứ, giữ chức phận
phiên thần của chế độ đô hộ Tùy – Đường, nhưng thực chất đã giành toàn bộ
quyền cai trị đất nước vào trong tay. Ông lấy chính sách khoan dân thay cho
chế độ hà khắc của Tùy – Đường, củng cố thiết chế chính trị, đổi mới chính
sách kinh tế, xã hội, nhằm đưa đất nước lên con đường hưng thịnh. Song họ
Khúc chỉ truyền được 3 đời (Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ – từ
năm 907 đến năm 923) rồi lại bị nhà Nam Hán đánh đổ. Ngay sau đó, Dương
Diên Nghệ đã đánh đuổi được tướng Nam Hán là Lý Khắc Chính, cai quản
đất Giao Châu (nhưng vẫn dưới quyền của Lí Tiến). Mãi đến năm 931 mới
được nhận chức Tiết độ sứ. Năm 937, ông bị tùy tướng của mình là Kiều
Công Tiễn giết chết.
Năm 938, Ngô Quyền kéo quân từ châu Ái ra tri tội tên phản nghịch.
Cùng năm đó, ông cùng quân sĩ lập chiến công lừng lẫy trên sông Bạch
Đằng, đánh tan Hoằng Thao – con vua Nam Hán – kéo quân sang xâm lược
nước ta. Bằng chiến thắng vang dội này, Ngô Quyền đã mở ra một trang sử
mới, khởi đầu cho thời kì độc lập, tự chủ của dân tộc. Ngô Quyền lên ngôi
vua, trị vì được 27 năm thì xảy ra nạn Thập nhị sứ quân vào năm 965.
Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan các sứ quân, lập ra nhà Đinh, đặt tên
nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Song vào cuối triều đại, vương triều
khủng hoảng do nạn tranh chấp ngôi vua. Bên ngoài, quân Tống luôn dòm
ngó, âm mưu xâm lược. Vua còn nhỏ tuổi, Thái hậu Dương Vân Nga đã cùng
các triều thần tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua. Triều Tiền Lê
thay nhà Đinh, đánh tan giặc Tống, bảo vệ được nền độc lập của đất nước.
Song vẫn theo vết xe cũ, con cái Lê Hoàn lại tranh giành, xâu xé nhau vì
chiếc ngai vàng. Lê Long Đĩnh đã giết anh đoạt ngôi, gây ra sự khủng hoảng
mới sâu sắc hơn cả trong triều lẫn ngoài nội. Bởi vậy, năm 1009, Lê Long
Đĩnh mất thì triều thần đã suy tôn Lí Công Uẩn lên ngôi lập ra triều Lí.
b) Giáo dục dưới thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
Như vậy, trong khoảng 100 năm, nước ta đã xảy ra 5 lần hưng vong
các triều đại, mà những người đứng đầu hầu hết là các thủ lĩnh quân sự.
Trong bối cảnh lịch sử đó, nền giáo dục của đất nước chưa có điều
kiện phát triển mạnh. Theo sử sách còn ghi lại thì thời ấy những nhà sư là
tầng lớp trí thức tinh thông cả Nho học, Phật học và Đạo học. Họ mở trường
lớp tại các chùa để dạy cho các sãi và các thiện nam, tín nữ. Chính các
trường học nhà chùa này đã đào tạo được nhiều người vừa thông hiểu kinh
pháp, vừa giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Phạn. Có thể dẫn ra một số thiền sư nổi
tiếng sau:
Sư Đỗ Pháp Thuận, rất uyên bác về Nho và Phật, có tài văn thơ, được
phong là pháp sư. Ông cùng thiền sư Khuông Việt giữ chức cố vấn trong triều
Tiền Lê. Trong dịp đón tiếp sứ giả nhà Tống là Lý Giác, bằng tài ứng đối,
xướng họa văn thơ, ông đã làm cho sứ giả nhà Tống vô cùng ngạc nhiên và
khâm phục.
Thiền sư Ngô Chân Lưu (tức Khuông Việt), người Thanh Hóa, lúc nhỏ
theo Nho học, lớn lên đi tu, là học trò thiền sư Vân Phong chùa Khai quốc,
được Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành rất tin dùng.
Thiền sư Đa Bảo, học trò xuất sắc của Khuông Việt, có công trong việc
đưa Lí Công Uẩn lên ngôi vua. Ông mở trường dạy học tại chùa Kiến Sơ, có
hơn 100 học trò.
Thiền sư Vạn Hạnh, người ở Cổ Pháp, Bắc Giang, từ nhỏ đã tinh thông
tam giáo. Năm 21 tuổi tu ở chùa Lục Tổ, giúp Lê Đại Hành trị nước, sau là
thầy dạy Lí Công Uẩn, đã tham gia vào việc đưa Lí Công Uẩn lên làm vua.
Ông được vua Lí phong làm quốc sư.
Tiếp thu sâu sắc học thuyết của Phật giáo, song các thiền sư – những
nhà trí thức dân tộc đương thời – với tinh thần yêu nước, đã có sự chọn lọc
kiến thức để giúp vua, cứu nước, bảo vệ bản sắc riêng của dân tộc mình. Với
trình độ cao về chữ Hán, họ đã sử dụng để làm phong phú thêm tiếng Việt,
góp phần tạo ra chữ Nôm ngày một phát triển mạnh mẽ trong những năm tiếp
theo.
2. Giáo dục dưới các thời Lí – Trần – Hồa) Lí Công Uẩn lên ngôi, mớ đầu một thời kì mới
Năm 1009, Lê Long Đĩnh mất, chấm dứt cuộc đời của một ông vua tàn
bạo, chấm dứt luôn cả triều đại Tiền Lê.
Lí Công Uẩn, được sự phò tá của thiền sư Vạn Hạnh, và sự ủng hộ của
các triều thần, đã lên ngôi vua, mở đầu một kỉ nguyên rực rỡ, kỉ nguyên Đại
Việt. Tuy vậy, trải qua một ngàn năm Bắc thuộc và nạn tranh chấp của Thập
nhị sứ quân, vận nước giờ đây đang đứng trước muôn vàn khó khăn, nghiêng
ngửa. Đối nội, phải củng cố vững chắc chế độ phong kiến, phục hồi và phát
triển các mặt kinh tế, ổn định cuộc sống xã hội và lòng dân. Đối ngoại phải đề
phòng các thế lực ngoại xâm luôn luôn dòm ngó, chờ mọi cơ hội để xâm lăng.
Bởi vậy, triều Lí cũng như Trần, Hồ phải bắt tay vào việc xây dựng và
phát triển một chế độ phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh.
Đó phải là các triều đại hoàn toàn độc lập, tự chủ thống nhất, không
phụ thuộc vào phong kiến Trung Quốc. Kinh nghiệm lịch sử đã chứng tỏ rằng
nếu mất độc lập thì sẽ mất tất cả. Do đó, đòi hỏi đầu tiên là nhiệm vụ giữ
nước – Song muốn giữ được nước thì trên dưới phải một lòng, quân dân phải
nhất trí. Và trước hết phải xây dựng đất nước để có một cơ sở vật chất và
tinh thần vững chắc, một hậu phương hùng hậu.
Ngày nay nhìn lại, ta có thế thấy rõ cả 3 vương triều Lí – Trần – Hồ đều
hết sức quan tâm đến việc phục hồi, phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp,
đẩy mạnh cả nội ngoại thương, xây dựng những đội quân tinh nhuệ, hùng
mạnh.
Rõ ràng những yêu cầu mới mẻ, nặng nề đó đòi hỏi phải có lớp người
hiền tài đông đảo. Buổi ban đầu, các triều đại Lí – Trần đã tuyển dụng hiền tài
bằng phép tiến cử, nhiệm cử và cầu hiền. Song việc tuyển dụng này không
được là bao. Muốn có một đội ngũ quan lại từ trung ương đến địa phương,
phải đào tạo một lớp người mới, phải có một nền giáo dục chính quy của nhà
nước. Vấn đề là vương triều Lí đầu tiên đã lựa chọn nền giáo dục nào? Phật
giáo, Đạo giáo hay Nho giáo?
Trong 61 năm đầu triều Lí, chưa thấy có tổ chức gì về giáo dục. Sử
sách chỉ ghi lại một số sự việc chứng tỏ cả 3 đạo Phật, Lão, Nho đã xuất hiện
trong cuộc sống xã hội, nổi bật nhất là đạo Phật. Thí dụ:
Các vua quan nhà Lí đều rất sùng đạo Phật. Chùa tháp được dựng lên
khắp nơi.
Năm 1018, vua Lí Thái Tổ sai sứ sang nhà Tống xin kinh Tam tạng.
Năm 1036, Lí Thái Tông xuống chiếu chép kinh Đại tạng cất ở kho Trùng
Hưng.
Về Đạo giáo, năm 1031, nhà vua cho cấp giấy chứng nhận được vào
giới tu đạo cho các đạo sĩ ở cung Thái Thanh.
Bên cạnh đó, 2 sự kiện nổi bật chứng tỏ nội dung của Nho giáo đã
được nhà Lí sử dụng:
Năm 1028, Lí Thái Tông họp bầy tôi hội thề ở miếu thờ thần Đổng Cổ,
phường Yên Thái (nay ở quận Ba Đình, Hà Nội) nêu rõ:
“Làm con mà bất hiếu, làm tôi mà bất trung thì thần linh chu diệt”.
Từ đây, hội thề được tổ chức hàng năm, bầy tôi nào trốn tránh đều bị
phạt đánh 50 trượng.
Trong Hình thư đời Lí, tội “thập ác” cũng mang nhiều dấu ấn Nho giáo.
Đó là các tội phản quốc, đại nghịch, giết vua, giết cha; âm mưu phản bội,
hung ác bạo nghịch, không có đạo đức, bất kính, bất hiếu với cha mẹ, không
hòa thuận với anh em; bất nghĩa; loạn luân.
Ở đây đã thấy trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước, đã có mối
quan hệ vua – tôi, cha – con, anh em – bè bạn, những nét của đạo đức phong
kiến hòa trộn với đạo đức truyền thống của dân tộc. Với 3 sự kiện nổi bật là
năm 1070 lập Văn Miếu, 1075 thi Nho học tam trường, 1076 lập Quốc Tử
Giám, ta thấy rõ triều Lí đã khẳng định chọn Nho giáo làm nền giáo dục chính
thống. Chắc hẳn, trong khi chọn lựa, triều Lí đã thấy rõ Phật giáo tuy thịnh đạt
song chỉ là một tôn giáo trong khi Nho giáo là chỗ dựa vững chắc cho việc xây
dựng quốc gia phong kiến tập quyền. Đạo giáo thì mờ nhạt và không thể là
chỗ dựa của chính quyền. Lúc này nước ta chưa có chữ viết riêng nên không
thể không vay mượn chữ Hán. Kinh nghiệm hàng ngàn năm của phong kiến
Trung Quốc lấy Nho giáo làm quốc giáo cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước
ta. Đó cũng là lí do để triều Lí qui định lấy Nho giáo làm nền quốc học.
b) Những yêu cầu mới của đất nước đặt ra cho giáo dục
Lí Công Uẩn lên ngôi thay thế triều Tiền Lê là một sự thay đổi cơ bản
về chất so với thời kì trước đó.
Kể từ họ Khúc dấy nghiệp đến hết thời Tiền Lê, nước ta về thực chất
đã giành được độc lập, tự chủ một thế kỉ. Để giành lại được nền độc lập này,
dân tộc ta đã phải đấu tranh gian khổ suốt một ngàn năm. Song giữ được nền
độc lập dân tộc và thống nhất được đất nước còn khó hơn nhiều. Thực tế lịch
sử đã chỉ rõ chỉ trong vòng 100 năm này, các triều đại đã trải qua 5 lần hưng,
phế. Cuối Tiến Lê, Lê Long Đĩnh (Lê Ngọa Triều) giết anh là Lê Long Việt và
lên ngôi. Ông là một vua ăn chơi sa đọa, cực kì tàn bạo, hiếu sắc. Xã hội hỗn
loạn, dân tình khốn khổ, đang cần có sự đổi thay.
Năm 1009, Lê Long Đỉnh chết, triều đình và một số nhà sư đã suy tôn
Lí Công Uẩn lên làm vua, lập ra triều Lí (Lí Thái Tổ). Từ đây, đất nước chuyển
sang một kỉ nguyên mới. Lí Công Uẩn nhận một sứ mệnh dựng nước với sự
nghiệp đổi mới sâu sắc và tài giỏi trên 3 mặt:
+ Đổi mới triều đại.
+ Đổi mới chế độ.
+ Đổi mới xã hội.
Điều đặc biệt trong đổi mới triều đại ở đây là từ sự nắm quyền bính chủ
yếu từ các thủ lĩnh quân sự chuyển sang thủ lĩnh dân sự, từ thể chế phân
phong cát cứ, chuyển sang thể chế trung ương tập quyền vững mạnh. Sự đổi
mới triều đại này là sự thay thế cả một thiết chế xã hội, đáp ứng được yêu
cầu phát triển của dân tộc.
Ý thức được sứ mệnh dựng nước lớn lao, Lý Công Uẩn đã dời đô từ
Hoa Lư ra Thăng Long. Sự kiện này chẳng những có ý nghĩa về chính trị,
quân sự mà còn có ý nghĩa về kinh tế cực kì sâu sắc. Bởi lẽ Hoa Lư chỉ thích
hợp với một vị trí phòng ngự về quân sự, còn Thăng Long ở giữa đồng bằng,
trung tâm đất nước, lại có hệ thống giao thông thủy bộ thuận tiện mới thực sự
xứng đáng là trung tâm kinh tế, văn hóa của một quốc gia độc lập, hùng
cường. Đổi mới triều đại và đổi mới chế độ tất dẫn đến một hệ quả là đổi mới
xã hội và kinh tế.
Đời sống tinh thần cũng phục sinh trở lại. Lễ hội ca xướng được tổ
chức trong triều nội và sinh hoạt văn hóa dân gian, nghệ thuật được kế thừa
và phát triển cao hơn trước. Văn minh Đại Việt chuyển thành nhân trị kết hợp
với pháp trị. Những thành công rực rỡ trong buổi đầu đã tạo ra cơ sở vững
mạnh cho những thắng lợi về võ công phá Tống, ngăn Chiêm.
Rõ ràng sự nghiệp dựng nước với công cuộc đổi mới của Lí Công Uẩn
đòi hỏi phải tạo ra một nền văn hóa giáo dục mới độc lập, tự chủ, góp phần
xây dựng một quốc gia phong kiến tập quyền vững mạnh.
c) Tổ chức trường lớp thời Lí – Trần – Hồ
– Triều Lí: (1009–1225)
Năm 1070, 60 năm sau ngày dời đô ra Thăng Long, Lí Thánh Tông
dựng Văn Miếu, thờ Chu Công, Khổng Tử, tứ phối và tạc tượng 72 vị tiên
hiền là học trò giỏi của Khổng Tử.
Năm 1076, Lí Nhân Tông cho xây dựng Quốc tử giám. Trước đó, năm
1075, triều Lí đã mở khoa thi đầu tiên lấy tên là thi Nho học tam trường.
Người đỗ thủ khoa là Lê Văn Thịnh, sau được cử vào giảng dạy ở Quốc Tử
Giám cho hoàng tử và các bậc đại quan. Mục đích giáo dục là nhằm dạy dỗ
con em các bậc quốc tử để biết đạo trị nước an dân.
– Triều Trần (1226–1400)
Mãi đến 1236 – tức 166 năm sau khi dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám
được đổi tên thành Quốc tử viện, mở rộng cho con em quan văn vào học.
Năm 1253, Trần Thái Tông xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước
thông kinh sử đến Quốc tử viện học tập, nghe giảng Tứ thư, Ngũ kinh. Năm
1281, nhà Trần mở thêm nhà học ở phủ Thiên Trường.
Đến đây, trường lớp của nhà nước hầu như không phát triển thêm. Mãi
tới 1 397 (116 năm sau), vào những năm cuối triều Trần, ta mới thấy Trần
Thuận Tông xuống chiếu về việc học như sau:
“… Nay quy chế ở kinh đô đã đủ mà ở châu, huyện thì còn thiếu làm
thế nào để mở rộng giáo hóa cho dân được? Nên hạ lệnh cho các lộ phủ Sơn
Nam, Kinh Bắc, Hải Đông đều đặt một học quan cho ruộng công theo thứ bậc
khác nhau, phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa thì 10 mẫu để cung phí
cho nhà học (một phần để cúng ngày mùng một, một phần về nhà học, một
phần để đèn sách). Quan lộ và quan đốc học dạy bảo học trò cho nên tài
nghệ, cứ đến cuối năm chọn người nào ưu tú tiến cử lên triều đình, trẫm sẽ
thân hành chọn thi để lấy dùng”.
Như vậy, hệ thống trường học của nhà nước phong kiến Lí – Trần từ
bậc ấu học đến bậc đại học suốt gần bốn thế kỉ phát triển hết sức chậm chạp,
ít ỏi, chỉ có ở kinh đô và một số phủ châu thuộc đồng bằng châu thổ sông
Hồng.
Việc học tập ở các địa phương hầu như hoàn toàn do nhân dân tự lo
liệu, chủ yếu là do nhà chùa và các nho sĩ mở.
Sử sách không ghi chép gì về số lượng trường lớp, song chắc chắn
không phải ít, vì phải cung cấp số lượng nho sĩnh cho các kì thi ngày càng
nhiều và đi vào quy củ ở các triều đại về sau.
Ở đây, cần điểm lại đôi nét về Phật giáo và trường chùa. Theo các tài
liệu cũ, ngay từ thế kỉ đầu công nguyên, Phật giáo đã truyền vào nước ta. Lúc
đầu theo đường biển từ Ấn Độ vào, sau bằng đường bộ vào từ Trung Quốc
và phía Tây. Hai phái thiền học đầu tiên truyền vào nước ta là phái Tỳ–ni–đa–
lưu–chi và phái Vô ngôn thông.
Đến các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê, đặc biệt là các vua Đinh Tiên
Hoàng, Lê Đại Hành đã rất ưu đãi, coi trọng đạo Phật. Lúc này nhiều vị sư
giỏi xuất hiện làm vẻ vang cho đạo Phật.
Sau khi dẹp được các sứ quân, Đinh Tiên Hoàng triệu tập các vị tăng sĩ
lỗi lạc đưa vào hàng Thái miếu để tham gia việc triều chính giúp vua trị nước.
Thiền sư Ngô Chân Lưu được suy tôn làm Khuông Việt thái sư, Trương Ma
Ni làm tăng lục đạo sĩ Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân uy nghi. Các thiền
sư này chẳng những rất giỏi về giáo lí mà còn cầm cân nẩy mực cả về văn
hóa, chính trị.
Đạo Phật thành quốc giáo, các cao tăng tham chính tích cực vào việc
dân việc nước. Vua Lê Đại Hành cũng thường thỉnh các vị Tăng thống để hỏi
về việc đạo và việc nước.
Năm 1007, vua nhà Tống trao cho sứ thần nước ta một bộ Đại tạng
kinh đưa về nước lưu hành. Như vậy, lần đầu tiên nước ta có một kho tàng
kinh điển lớn bằng chữ Hán từ Trung Quốc đưa sang. Thời Tiền Lê có nhà sư
Đỗ Pháp Thuận, một Tăng thống trứ danh, rất giỏi trong công cuộc bang giao
với nhà Tống. Có lần nhà sư Tống là Lí Giác đã hết sức kính phục ông trong
ứng đối thơ từ cả về đạo đức lẫn văn chương. Khi vua Lê Đại Hành hỏi về
vận mệnh quốc gia, nhà sư ứng khẩu một bài kệ:
“Quốc lộ như đằng lạc
Nam thiên lí thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh”.
Ý nói là ở cương vị vua cần phải thương dân, chủ trương hòa bình,
không gây sự nhiễu hại gì đến dân chúng thì đâu đó đều yên ổn, bền vững.
Nhưng cuối Tiền Lê, Lê Long Đĩnh là một ông vua bạo ngược, xa xỉ,
gây nhiều tội ác đối với dân và các nhà sư nên Phật giáo và các sư sãi rất
điêu đứng.
Đến nhà Lí, đạo Phật lại trùng hưng mạnh mẽ. Bản thân Lí Công Uẩn là
con nuôi sư cụ Lí Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp, hồi nhỏ theo học thiền sư Vạn
hạnh và được sư giúp rập lên ngôi.
Năm 1019, Lí Thái Tổ sai sứ đi Trung Quốc thỉnh kinh Phật về để ở thư
viện Đại Hưng của nhà nước làm của báu.
Năm 1020, vua sắc lập các giảng đường và phái các vị tăng trí thức
truyền giảng đạo Phật khắp nơi trong nước. Chùa chiền mọc lên như nấm và
là nơi truyền đạo cho các tăng đồ, thiện nam tín nữ, con em của nhân dân
đến học. Nhà chùa thực chất đã trở thành trường học trong nhân dân.
Cùng với sự tồn tại, phát triển của trung tâm Phật giáo Luy Lâu (Thuận
Thành, Hà Bắc) nhiều trung tâm Phật giáo mới và hệ thống các chùa chiền
xuất hiện ở Hoa Lư, Hà Bắc, Hải Phòng, Thăng Long và cũng là những
trường chùa. Ở Thăng Long, chùa Hồng Phúc (phường Hòe Nhai) là nơi các
vị tân khoa thời Lí Trần được ra du ngoạn để thưởng hoa nên mới có tên gọi
chùa Hòe Nhai. Chùa Trấn Quốc (ven hồ Tây, xưa là chùa Khai quốc) là nơi
rất nhiều cao tăng như Vân Phong pháp sư, Khuông Việt thái sư Ngô Chân
Lưu, Thảo Đường (sư tổ khai sáng phái Thảo đường Việt Nam), Viên Học,
Tịnh Không, Trần Tú Uyên… đều thụ giáo, trụ trì và theo học ở đấy. Chùa Bà
Đá (Linh Quang Tự) có từ đời Lí Thánh Tông (1056). Đây là nơi kết hợp giữa
2 phái Tào Động và Lâm Tế của đạo Phật, nơi cư ngụ của nhiều vị tăng tổ.
Ngoài những khóa học đạo Phật, sau này còn là nơi in ấn các bộ kinh Đại
Bảo tích gồm 120 quyển, bộ Thiền gia yếu lược, Nhật tụng… lưu truyền trong
cả nước.
Có thể nói đạo Phật thời Lí chiếm địa vị độc tôn, những giáo lí, đạo
đức, tín ngưỡng, văn hóa, kĩ thuật, kiến trúc, điêu khắc, mĩ nghệ… của đạo
Phật chan hòa khắp đất nước. Trong Danh triết lục có ghi rằng: “Trước đời Lí
Nhân Tông chưa có khoa cử, những người thông minh tài giỏi đều do phái
Thích giáo lựa chọn và cất nhắc cho”.
Thời nhà Trần (1226–1400), các vua và quan lại cũng rất tôn sùng và
mở mang đạo Phật, nhất là các vị vua đầu triều đại. Những nhà vua như Trần
Thái Tông, Trần Nhân Tông, các quan lại như: Trần Quốc Tảng, Lí Đạo Tải,
vừa làm việc nước, vừa phụng sự đạo Phật. Vua Trần Nhân Tông, sau khi
thắng giặc Nguyên Mông, đã nhường ngôi cho con rồi xuất gia, tu ở chùa Yên
Tử (Quảng Yên), lập ra phái Trúc Lâm, một thiền phái Phật giáo đặc biệt do
nước nhà tự lập. Năm 1298, Trần Nhân Tông sai người sang Trung Quốc
thỉnh kinh Đại tạng (Nguyên Kinh) đem về khắc ván ấn hành. Năm sau, Trần
Anh Tông đem lưu hành những kinh, luật, luận đó ra khắp nhân gian. Như
vậy, đến đây, đạo Phật thời Trân cũng nổi bật không kém thời Lí. Nhưng cuối
Trần, Phật giáo bắt đầu suy. Nho giáo bắt đầu thịnh hành, Đạo giáo cộng
thêm Lạt–ma–giáo truyền vào pha trộn với Phật giáo. Giáo lí của đạo Phật
dần bị mờ nhạt, pha tạp, đi vào mê tín dị đoan, dường như sùng bái quỷ thần.
– Đến nhà Hồ (1400–1407), giặc Minh tràn vào xâm lược, thôn tính,
phá hủy nhiều chùa chiền, tịch thu hết kinh sách đem về Kim Lăng. Hồ Quý Li
và Hồ Hán Thương trước đó còn đặt ra Tăng cương ti và Đạo kỉ ti để kiểm tra
ngặt nghèo Phật giáo và Đạo giáo ở Việt Nam.
Từ đó trở đi, Phật giáo trải qua nhiều bước thăng trầm qua các thời kì
lịch sử và phải đến những năm 30 của thế kỉ XX mới có phong trào “chấn
hưng Phật giáo”. Tuy lùi bước trước Nho giáo, song Phật giáo không bị tiêu
diệt. Nó vẫn giữ được gốc rễ bền sâu trong nhân dân đối với thái độ khoan
dung, với tinh thần “từ bi hỉ xả”. Nó vẫn chung sống với Nho giáo, Đạo giáo
theo kiểu “tam giáo đồng nguyên”. Trên lĩnh vực giáo dục, Phật giáo vẫn có
ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc sống tinh thần, đạo đức, tâm linh của quảng
đại quần chúng, của cộng đồng xã hội.
Và các trường tư, sử sách chỉ nêu một số trường nổi tiếng của một vài
danh nho. Đó là trường của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc mở ngay tại phủ
đệ và của Chu Văn An mở ở Huỳnh Cung.
d) Giáo dục dưới các thời Lí – Trần – Hồ
– Mục tiêu đào tạo của giáo dục Lí – Trần – Hồ
Chúng ta đều biết mục đích giáo dục của Nho giáo là đào tạo kẻ sĩ và
người quân tử.
Ở thời đạt Lí – Trần – Hồ, mục tiêu này được xác định một cách cụ thể,
rõ rệt hơn nhiều nhằm đáp ứng được yêu cầu của đất nước, của chế độ.
Về số lượng, phải đào tạo được lớp quan lại đông đảo cả văn lẫn võ –
phục vụ cho bộ máy nhà nước từ triều đình đến địa phương.
Về chất lượng, phải đào tạo được những người có đủ cả đức, tài, có
năng lực xây dựng xã hội phong kiến, biết chỉ chiến đấu tài giỏi để giữ nước,
chống ngoại xâm.
Để có thể thực hiện được mục tiêu giáo dục này, các nhà nước phong
kiến Lí – Trần – Hồ rõ ràng phải giải quyết những vấn đế về tổ chức giáo dục,
nội dung giáo dục, tổ chức việc thi cử và biết sử dụng, đãi ngộ nhân tài.
Nhìn một cách khái quát, nền giáo dục Lí – Trần – Hồ trải qua 4 thế kỉ
phát triển, bên cạnh những nét chung, có những nét đặc trưng riêng của thời
kì đầu phong kiến cũng như những nét riêng của mỗi vương triều, điều mà
chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau.
– Ba học thuyết tôn giáo Phật, Đạo, Nho song song tồn tại, nét đặc
trưng nổi bật của giáo dục Lí – Trần. Chúng ta biết rằng Phật giáo và Đạo
giáo đã du nhập vào nước ta từ lâu và được nhân dân ta tiếp nhận dễ dàng.
Trước thế kỉ XI, ở các triều đại Ngô, Đinh, Tiến Lê, Phật giáo đã phát
triển mạnh mẽ, chiếm ưu thế trong xã hội. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu
(Thuận Thành, Hà Bắc ngày nay) đã có từ đầu công nguyên dưới thời Bắc
thuộc. Đến thế kỉ X, nhiều trung tâm Phật giáo mới xuất hiện ở Kinh Bắc, Hoa
Lư, Đại La…
Ở thế kỉ XI, các vua quan triều Lí đều rất mộ đạo Phật. Các vương triều
đã tiếp thu, kế thừa và phát triển đạo Phật đến đỉnh cao của nó. Ngoài hai
thiền phái Tì–ni–đa–lưu–chi và Vô-ngôn–thông nhập từ ngoài vào, triều Lí đã
lập ra một thiền phái mới lấy tên là Thảo đường.
Chúng ta biết rằng tư tưởng Phật giáo xoay quanh học thuyết lớn là
“Tứ diệu đề” (Khổ, Tập, Diệt, Đạo). “Thập nhị nhân duyên” là 12 nhân duyên
để giải thích “đời là bể khổ” và nguyên nhân dẫn đến sinh, lão, bệnh, tử. “Ngũ
uẩn” để giải thích con đường diệt khổ dẫn đến cõi niết bàn. Nước ta theo giáo
lí Đại thừa, phát triển nhất là phái Thiền tông, quan niệm vạn vật đều là “sắc
không”, là giả tướng. Muốn thoát vòng nghiệp chướng, luân hồi phải từ bỏ
mọi thứ của cuộc đời, xuất thế để tu hành đến đắc đạo. Bên cạnh tư tưởng
duy tâm siêu hình này, đạo Phật về nhân sinh quan, chủ trương “từ bi bác ái”
và “bình đẳng”.
Tất nhiên, các thiền sư đều truyền bá giáo lí của đạo Phật. Sư Vạn
Hạnh nói với đệ tử rằng “Việc thịnh suy ở đời giống như giọt sương đọng trên
ngọn cỏ” (Thịnh suy như lộ thảo đầu phô). Hoặc sư Huệ Sinh khi trả lời vua Lí
Thái Tông về ý nghĩa đạo thiền đã nói “Chỗ cùng tột của đạo thiền là im lặng
như bóng trăng trên núi Lăng Già, hư không như chiếc thuyền vượt biển khơi”
(Tịch tịch Lăng già nguyệt, không không độ hải chu). Triết lí đạo thiền là như
vậy, song các thiền sư nước ta lại rất tích cực nhập thế, tham gia vào công
cuộc giữ nước, dựng nước, lo toan việc đời. Như trên đã nêu, thay vì chỉ
chuyên trị thuyết pháp, nhiều thiền sư, pháp sư đã trở thành quốc sư, đứng ra
làm chính trị, giúp vua và triều đình làm các công việc ngoại giao, hành chính.
Như vậy là các thiền sư đã công nhận thực tại, công nhận là có khách thể
chứ không phải mọi thứ đều là giả tưởng.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Khóa hư lục”, Trần Thái Tông khi bình luận
về Thiền tông cũng có ý kiến riêng của mình. Ông phản bác lời một nhà sư
Trung Quốc là Lục Tổ cho rằng Khổng Tử và Thích Ca không khác gì nhau.
Trần Thái Tông quan niệm Khổng Tử chủ trì hiện thế, Phật chủ trì xuất thế,
căn bản có khác nhau, song vẫn hỗ trợ cho nhau. Tác giả cho rằng trong cái
không vẫn có cái có, trong cái vô thường vẫn có cái thường nhiên. Vì vậy,
sinh lão bệnh tử là lẽ thống khổ chung người thường không thoát khỏi được,
v.v… Cái mới ở đây là Khóa hư lục mang ý nghĩa thực tiễn đối với các nhà
sư. Chính vì vậy, các nhà sư đã không quá bo bo gia đạo của mình mà không
làm việc thiện và hoạt động ở cuộc đời. Nhiều nhà sư thời Lí và đầu Trần đã
có tác dụng tích cực trong việc xây dựng nền độc lập buổi đầu của đất nước.
Ở các trường chùa, trong lúc truyền bá giáo lí đạo Phật, chắc hẳn các thiền
sư cũng thuyết giảng nội dung Phật giáo đã được khúc xạ, Việt hóa như đã
nêu. Mặt khác, quan niệm “Từ bi, bác ái, bình đẳng” của đạo Phật chắc chắn
dễ dàng hòa nhập với truyền thống nhân ái, thương người của nhân dân ta
đã vốn có từ lâu.
Bên cạnh đạo Phật; Đạo giáo cũng đi vào quần chúng từ lâu Điều đáng
lưu ý là Đạo giáo có hai dòng: “Đạo giáo thần tiên” và “Đạo giáo phù thủy”. Là
một triết học rất khó và siêu hình, “Đạo giáo thần tiên” chỉ được tiếp thu ở
tầng lớp bên trên có trình độ học vấn uyên thâm. Trong khi đó “Đạo giáo phù
thủy” với nhiều yếu tố mê tín dị đoan đã hòa nhập với tín ngưỡng bản địa
cũng mang tính chất phương thuật, ma thuật, trở thành bói toán, đồng cốt
trong các tầng lớp nhân dân bên dưới.
Như đã nêu trên, với tính chất một học thuyết chính trị, đạo trị, Nho giáo
đã được các triều Lí – Trần – Hồ công nhận là quốc giáo, sử dụng thành công
cụ để xây dựng một nền giáo dục chính quy.
Từ vị thế đó, Nho giáo ngày một giữ vai trò quan trọng đối với các
vương triều. Trường học được tổ chức, nho sĩ ngày một đông, quan lại xuất
thân từ khoa cử ngày càng giữ nhiều trọng trách ở triều đình và địa phương
hơn. Các đại biểu điển hình của Nho giáo ở nửa sau đời Trần đó tấn công,
phê phán Phật giáo để đề cao vị trí độc tôn của Nho giáo (Lê Văn Hưu, Lê
Quát, Trương Hán Siêu…). Từ khóa thi năm 1304, Trần Anh Tông đã dứt
khoát dựa vào Nho giáo, bỏ thi Phật, Đạo. Đặc biệt triều đại nhà Hồ đã đưa ra
những chính sách rất khắc nghiệt để hạn chế Phật giáo và sư sãi.
Tuy nhiên, ở triều Lí và nửa đầu thời Trần, các vương triều vẫn chấp
nhận cả ba giáo. Cả 3 ý thức hệ Nho, Phật, Đạo, tuy có những mặt đối lập về
tư tưởng nhưng lại dung hòa được với nhau, đồng thời kết hợp với tư tưởng,
tín ngưỡng bản địa mà khúc xạ đi cho phù hợp với bản sắc riêng của dân tộc
Đại Việt.
Điều đặc biệt là trên thế giới, những cuộc chiến tranh tôn giáo đã diễn
ra đẫm máu ở nhiều nước thì ở nước ta các tôn giáo lại dung hòa với nhau,
mềm hóa đi và có tác dụng giáo dục tích cực trong chừng mực nhất định đối
với tầng lớp trí thức, vua quan cũng như đối với quần chúng nhân dân.
Sự tồn tại song song ba học thuyết Nho, Phật, Đạo là một thực trạng
tồn tại trên đất nước Đại Việt không những trong xã hội mà được sử dụng
trong việc tổ chức việc học, việc thi trong nền giáo dục chính thống. Mặc dù,
theo sử sách còn ghi lại, cả 2 triều đại Lí – Trần chỉ thấy tổ chức có 3 kì thi
tam giáo. Đó là các năm 1195 ở triều Lí, 1227 và 1247 ở đời Trần. Theo
Thiền uyển tập anh, còn có 1 kì thi tam giáo vào năm 1097 nữa. Chúng ta
không biết gì về cách thức tổ chức, nội dung thi cử, số người đỗ đạt ra sao.
Tuy nhiên, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí có lời bàn như
sau:
“Đời Lí đời Trần, đều tôn chuộng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buổi
ấy chọn người thông được cả hai giáo ấy, dù là chính đạo hay dị đoan, đều
tôn chuộng không phân biệt, mà học trò đi thi khoa ấy, nếu không học rộng
biết nhiều thì cũng không thể đỗ được”.
Nhà thơ Nguyễn Nguyên Úc thời Lí (cũng tức là sư Viên Thông) là
người đã đỗ đầu khoa tam giáo năm 1097 được sung chức Đại Văn (nghe
thay cho vua). Như vậy nội dung của tam giáo là nội dung đặc trưng của giáo
dục thời đại Lí – Trần.
Mặc dù từ nửa sau đời Trần đến đời Hồ, Phật giáo và Đạo giáo ngày
càng bị mất vị trí trên chính trường và trong giáo dục chính thống, song
những tư tưởng, giáo lí Phật, Đạo không bị tiêu diệt mà ăn sâu vào cuộc
sống, vào xã hội. Có thể dễ dàng tìm thấy sự hòa quyện của tam giáo qua các
tác phẩm thơ văn Lí – Trần của các vua quan, của đội ngũ trí thức thời đại
bấy giờ.
Tóm lại, “tam giáo đồng nguyên” là nét đặc trưng nổi bật của giáo dục
chính thống Lí – Trần – Hồ. Nó đã góp phần tạo nên ý thức hệ tư tưởng độc
đáo của thời đại, của con người, góp phần trong công cuộc giữ nước, dựng
nước cũng như trong đạo đức, lối sống của mọi người.
– Tổ chức khoa cử dưới thời Lí – Trần – Hồ:
Các kì thi.
Nếu như các triều Lí – Trần – Hồ ít quan tâm đến việc mở trường lớp
công ở địa phương thì lại rất chú ý đến việc tổ chức khoa cử với nhịp độ ngày
một tăng, ngày một đi vào quy củ.
+ Năm 1075, vua Lí Nhân Tông cho mở khoa thi tam trường đầu tiên
lấy tên là Minh Kinh bác học, kén chọn người thông minh, sáng suốt, học rộng
để ra làm quan. Số trúng tuyển là 10 người, đỗ đầu là Lê Văn Thịnh. Ông
được tuyển vào làm quan trong triều, sau lên tới chức Thái sư.
Năm 1086, Lí Nhân Tông lại mở khoa thi chọn người tài văn học vào
Hàn lâm viện để nghiên cứu kinh sử giảng tập cho vua.
Đỗ đầu kì thi này là Mạc Hiển Tích (viễn tổ Mạc Đỉnh Chi sau này),
được bổ làm Hàn lâm viện học sĩ, rồi thăng đến chức Thượng thư.
Năm 1185, vua Lí Cao Tông mở khoa thi chọn nhân sĩ trong nước từ
19 tuổi trở lên, thông Thi, Thư vào chầu giảng ở ngự điện – Khoa này chọn 20
người, ba người đỗ đầu là Đỗ Thế Diên, Bùi Quốc Khái và Đặng Nghiêm.
Năm 1195, Lí Cao Tông mở hoa thi tam giáo nhằm kén chọn những
người giỏi cả 3 giáo ra giúp vua, giúp nước.
+ Sang thời Trần (1225–1400), khoa cử đi vào nề nếp hơn thời Lí
nhiều.
Năm 1232, Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh, chia các thí sinh
trúng tuyển cao thành ba giáp. Đỗ đệ nhất giáp khoa này có hai người là
Trương Hanh và Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn và Trịnh Phẫu, đệ tam
giáp là Trần Chu Phổ.
Năm 1239, lại ấn định cứ 7 năm một lần thi hội.
Năm 1247, vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh. Ở khoa này,
triều đình chọn 40 người đỗ, trong đó 3 người đầu bảng gọi là Tam khôi. Từ
đây, bắt đầu có danh hiệu Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Ở khoa
này, trạng nguyên là Nguyễn Hiền, mới 13 tuổi, bảng nhãn là Lê Văn Hưu, 18
tuổi, thám hoa là Đặng Ma La, 14 tuổi.
Để khuyến khích việc học, việc thi ở những nơi xa kinh đô và các vùng
dân tộc, từ năm Bính Thìn (1256), triều đình lấy 2 trạng nguyên Kinh và Trại.
Khoa thi này, trạng nguyên Kinh là Trần Quốc Lặc, trạng nguyên Trại là
Trương Xán. Khoa này lấy 42 Thái học sinh, trong đó 4 người là Tam khôi, 38
là Hoàng giáp.
Khoa Bính Dần (1266), đời Trần Thánh Tông, Kinh trạng nguyên là
Trần Cố, Trại trạng nguyên là Bạch Liêu, Thám hoa là Hạ Nghi.
Nhưng từ khoa Ất Hợi (1275) lại chỉ lấy 1 trạng nguyên như trước.
Năm Giáp Thìn (1304), vua Trần Anh Tông (1239–1314) quy định phép
thi phải qua 4 kì:
– Kì thứ nhất:
Thi ám tả chuyên mục. Thiên tử và Thiên y quốc.
– Kì thứ nhì:
Thi kinh nghĩa và thi phú.
– Kì thứ ba:
Thi chiếu, chế, biểu.
– Kì thứ tư:
Thi một bài văn sách.
Mạc Đĩnh Chi – người xã Lãng Động, huyện Chí Linh (nay là thôn Lũng
Động, xã Nam Tân, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng) – đã đỗ Trạng nguyên
khoa thi này. Sau khi thi đỗ, được bổ chức Thái học sinh hỏa dũng thư gia, rồi
thăng chức Đại liêu ban, Tả bộc xạ. Ông đã từng được cử đi sứ sang nhà
Nguyên, được vua Nguyên khen ngợi, gọi là “Lưỡng quốc trạng nguyên”.
Cũng ở khóa này Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp. Ông nổi tiếng thần
đồng từ nhỏ, 16 tuổi đã đỗ đại khoa. Sau cũng đi sứ sang Nguyên, làm nhiều
chức quan to trong triều và sáng tác rất nhiều thơ chữ Hán. Từ 1304, nhà
Trần mở khoa thi tiến sĩ và đến năm 1393 có tất cả 4 kì thi đại khoa nữa.
+ Dưới thời nhà Hồ (1400–1407), do thời gian ngắn ngủi, nên chỉ tổ
chức được 2 khoa thi (1400 và 1405), song đã đào tạo nên những danh nho,
danh thần nổi tiếng sau này như Nguyễn Trãi (xem chi tiết ở phần Lê sơ sẽ
trình bày), Lí Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên.
– Nội dung giáo dục và thi cử dưới thời thời Lí – Trần – Hồ
Nhà trường phong kiến Lí – Trần – Hồ chọn Nho giáo để xây dựng nền
giáo dục chính thống. Sách giáo khoa chính của Nho giáo ở bậc cao là Tứ
thư, Ngũ kinh và Bắc sử.
Ở cấp dưới trong các lớp ấu học, mộng học ở làng xã và các trường tư
khác chắc phải dùng sách khai tâm do người Trung Quốc soạn. Đó là Các
cuốn Hiếu kinh, Tam tự kinh, Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn. Lúc này,
sách do người Việt soạn chưa thấy xuất hiện. Để phục vụ các kì thi tam giáo,
các sĩ tử cũng phải học cả giáo lí của Đạo giáo và Phật giáo. Tuy nhiên, ở
thời Lí và nửa đầu thời Trần, nội dung thi cử ra sao không thấy sử sách ghi
rõ. Mãi đến giữa thời Trần mới thấy nội dung phép thi thái học sinh như sau:
“Phép thi, trước thi ám tả” “Y quốc thiên” và “Mục thiên tử truyện” để
loại bớt, rồi đến thi kinh Thi, kinh Nghĩa, thơ dùng thể cổ thơ ngũ ngôn trường
thiên, lấy 4 chữ “tài, nan, xạ, trĩ” làm vần, phú dùng thể 8 vần. Trường thứ ba
thi chiếu, chế, biểu. Trường thứ tư thi văn sách…”
Thi Hương và thi Hội đều phải trải qua 4 kì (hay 4 trường) đỗ kì trước
mới được vào thi kì sau. Riêng thời Hồ còn có thêm kì thứ 5 nhưng lại bỏ thi
ám tả. Bảng thống kê sau giới thiệu thể loại các bài thi qua 1 số kì thi:
Năm Thể loại bài thi
Triều đại Kì 1 Kì 2 Kì 3 Kì 4 Kì 5
1034
Trần Anh Tông Ám tả
Kinh
nghĩa,
thơ, phú
Chiếu,
chế, biểuVăn sách 0
1396 Kinh Thơ, phú Chiếu, Văn sách 0
Trần Nhuận Tông nghĩa chế, biểu
1404
Hồ Hán ThươngBốn kì thi này giống như triều Nhần
Nhuận Tông
Chữ
viết –
Toán
+ Ám tả là bài thi thí sinh nghe đọc rồi viết đúng chữ.
+ Kinh nghĩa: Kinh ở đây là cửu kinh, bao gồm các sách Tứ thư và Ngũ
kinh. Kinh nghĩa là một bài văn giải thích ý nghĩa một câu trích trong kinh
truyện, vì thế cũng gọi là tinh nghĩa. Kinh phải làm theo lối văn “bát cổ” (tám
vế), tức theo lối biền văn (biền: hai con ngựa chạy sóng đôi), không có vần
mà có đối.
+ Chiếu chế, biểu:
Chiếu là lời vua ban bố hiệu lệnh cho thần dân.
Chế là lời vua phong thưởng cho công thần.
Biểu là bài văn của thần dân dâng lên vua để chúc mừng, tạ ơn hoặc
bày tỏ điều gì.
Xưa kia 3 lối này làm theo văn xuôi gọi là cổ thể. Từ đời nhà Đường về
sau, làm theo lối tứ lục gọi là cận thể.
Tứ lục là một lối biền văn, mỗi câu có 2 vế, mỗi vế chia 2 đoạn, 1 đoạn
4 chữ, 1 đoạn 6 chữ.
+ Thơ, phú:
Thơ và phú là hai lối không những dùng trong thi cử mà các văn sĩ
Trung Quốc và văn sĩ nước ta thường dùng để sáng tác xướng họa. Thơ văn
bao gồm các thể mượn của Trung Hoa, có loại của riêng nước ta.
Thể mượn của Trung Hoa gồm:
1. Vận văn: văn có vần như thơ, phú, văn tế.
2. Biền văn: văn không có vần nhưng có đối như câu đối, tứ lục, kinh
nghĩa (lối bát cổ đã nói trên).
Thể riêng của ta như lục bát, song thất lục bát và các biến thể của hai
lối đó, nói lối (tuồng)…
Nói về thơ phú có thể trình bày rất nhiều điều. Trong bài này, chúng tôi
chỉ xin nêu mấy điểm sơ lược về thơ đường luật, phú văn sách mà thí sinh
phải nắm chắc khi làm bài.
Theo định nghĩa, thơ (âm Hán Việt là thi) là thể văn có thanh, có vận,
có thể ngâm vịnh được.
Thơ cổ có hai lối chính:
1. Thơ ngũ ngôn: mỗi câu 5 chữ.
2. Thơ thất ngôn: mỗi câu 7 chữ.
Thơ cổ phong hoặc cổ thể là thể thơ có trước đời nhà Đường, không
theo niêm luật nhất định.
Thơ Đường luật hay cận thể có từ đời nhà Đường, Trung Quốc (618–
907) phải theo niêm luật nhất định.
Thơ tứ tuyệt: mỗi bài có 4 câu.
Thơ bát cú: mỗi bài có 8 câu.
Trong thơ Đường luật, bát cú (8 câu) là lối chính và thường dùng nhất.
Khi làm bài thơ Đường luật, lối bát cú, thí sinh phải nắm chắc 5 điều:
1. Vần thơ
2. Phép đối trong thể thơ
3. Luật thơ
4. Niêm trong thơ
5. Cách bố cục bài thơ.
Phú nghĩa đen là bày tỏ, mô tả, là một thể văn có vần dùng để tả cảnh
vật, phong tục hoặc tính tình.
Phú có hai lối: Cổ thể (thể cũ) là thể phú có trước đời nhà Đường, có
vần mà không đối, có thể như một bài ca dài, có thể là một bài văn xuôi có
vần, tức là lối phú lưu thủy;
Đường luật là lối phú đặt ra từ đời nhà Đường, có vần, có đối, có luật
bằng trắc. Đường luật là loại văn phải theo quy củ nhất định và là loại phú
thông dụng nhất.
Như vậy, tùy theo đề bài và yêu cầu, thí sinh phải làm bài đúng theo
mọi phép tắc, sai là bài bị đánh hỏng.
Văn sách: Sách là mưu hoạch. Văn sách là một bài văn làm để trả lời
những câu hỏi của đầu bài để tỏ kiến thức và mưu hoạch của mình. Thể văn
này không có vần, thường có đối, nhưng viết thành văn xuôi cũng được.
3. Chu Văn An, nhà giáo dục lớn ở thời nhà TrầnNền giáo dục Việt Nam đã có từ lâu. Nó được thể chế hóa từ triều đại
phong kiến nhà Lí với sự kiện vào năm 1070, triều đình cho lập Văn Miếu ở
kinh đô Thăng Long để dạy các hoàng tử và thờ các vị sáng lập ra Nho học.
Ở triều đại nhà Trần, công việc giáo dục có sự tiến mạnh hơn. Quốc tử
giám mở rộng cho các quan văn và nho sĩ vào học. Các khoa thi được mở
đều dặn hơn thời trước. Trường tư, do nho sĩ mở, ở các địa phương xa kinh
đô, giữ vai trò lớn trong việc nâng cao dân trí, góp phần đào tạo nhân tài. Ở
lĩnh vực này, xuất hiện nhiều thầy giáo tài đức cao sáng, có công lớn trong
việc đem giáo dục đến với quảng đại dân chúng. Một thầy giáo nổi danh đã đi
và lịch sử giáo dục của dân tộc, đó là Chu Văn An.
Rất tiếc là những tư liệu quan trọng và cụ thể về hoạt động dạy học của
ông không còn nhiều để người đời sau hiểu cặn kẽ về nhân cách của ông.
a) Thời kì dạy học ở quê hương
Chu Văn An sinh ngày 25 tháng 8 năm Nhâm Thìn (1292) dưới thời vua
Trần Anh Tôn, tại xã Quang Liệt (nay là xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội).
Thuở ấu thơ, sống với mẹ ở quê, ông được mẹ chăm nom cho ăn học,
và nổi tiếng học giỏi. Chu Văn An sớm bộc lộ những đức tính cao quý: Ham
học, cương trực, liêm khiết, thông minh… Nhận xét về ông, vào thế kỉ XIV, Lê
Trừng đã viết trong bài “Văn trinh ngạnh trực” rằng: “Chu Văn An, hiệu là Tiểu
Ẩn, tính liêm khiết và cứng cỏi, ở nhà thường ham thích đọc sách, học vấn
tinh thông tiếng tăm lừng lẫy gần xa.”
Dưới thời vua Trần Minh Tông (1300 – 1357), giới nho sĩ bị vật chất
cám dỗ chỉ đặt sự học ở vòng thi cử. Lê Quý Đôn cho biết “Quan nhỏ, chức
thấp đều mải miết về thi cử” (xem Toàn Việt thi lục). Chu Văn An không đi vào
con đường ấy, con đường khoa cử để mưu kiếm vinh hoa cho riêng mình.
Ông mở trường dạy học ở thôn Huỳnh Cung, xã Quang Liệt. Thầy Chu luôn
nhắc học trò rằng: Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người,
công đức tới đâu, ân huệ để lại cho đời sau, đấy đều là phận sự của nhà Nho
chúng ta.
Trong bia đền Chu Văn An, và các sách: Đại Việt sử kí toàn thư, Lịch
triều hiến chương loại chí, Kiến văn tiểu lục… chúng ta không thấy nói gì về
việc thi cử, đỗ đạt của ông. Phật giáo ngày càng mất vai trò thống trị ý thức xã
hội. Đặc biệt là sau khi vua Trần Anh Tông ra lệnh bỏ thi Phật giáo, Đạo giáo
tại khoa thi năm Giáp Thìn (1304), uy tín của trường Huỳnh Cung có thầy Chu
Văn An nổi danh khắp nước. Học trò gần xa tìm về thấy Chu để được dạy dỗ
rất đông. Họ ở Kinh Bắc, Sơn Nam, Thăng Long và cả ở châu Hồng, châu
Hoan xa xôi. Học trò thầy Chu trưởng thành nhanh chóng, vững chắc nhờ
không chỉ học được nhiều chữ nghĩa trong giáo khoa kinh điển Nho giáo, mà
còn học được cách vận dụng điều mình học soi sáng cho sự tìm hiểu cuộc
sống thực, xã hội, thời cuộc đang để ra. Bởi vậy, không ít học trò đã thành đạt
vẫn đến nghe thầy Chu giảng học với thái độ rất thành kính. Cách đây giáo
điều, nô lệ sách ở nhiều trường tư đã làm cho học trò đạt kết quả thi kém cỏi.
Cách dạy thông minh của thầy Chu đã làm cho học trò của ông đỗ đạt cao khi
nhà vua thay đổi cách thi cử. Điều đó làm Chu Văn An nổi tiếng và được kính
trọng. Học trò của ông, dù đã làm quan chức cao trong triều chính, vẫn một
lòng kính trọng ông. Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đã là quan đầu triều, nhưng về
thăm thầy Chu vẫn cúi lạy dưới giường, và lấy làm vinh hạnh khi được thầy
cho ngồi cùng trò chuyện…
b) Thời kì dạy học ở kinh đô Thăng Long
Vào khoảng năm 1325, vua Trần Minh Tông vời Chu Văn An vào cung
dạy các thái tử.
Lúc này, nội triều đã lục đục. Vua Trần thiếu sáng suốt đến mức sai giết
cả một số trung thần. Nhiều phe phái trong cung cấm nổi lên tranh chấp ảnh
hưởng, quyền lực. Chu Văn An được các lực lượng để ý. Tuy nhiên, ông chỉ
chuyên tâm vào dạy các thái tử để đáp lại sự tin cậy của đức vua.
Vào năm Kỉ Tị, (1329), thái tử Trần Vượng được phong làm Hoàng thái
tử, và sau ít lâu được vua Trần Minh Tông nhường ngôi cho. Trần Vượng trở
thành vua Trần Hiến Tông, Chu Văn An nhận chức Tế tửu nhà Thái học (Hiệu
trưởng Quốc tử giám). Công việc của ông to lớn hơn. Trần Hiến tông mới 10
tuổi cần có sự giáo dưỡng chu đáo.
Chu Văn An đã cùng Thái thượng hoàng Trần Minh Tông chăm sóc nhà
vua còn non nớt này và lo việc dạy học ở nhà Thái học nhằm đào tạo nhân tài
cho triều đại.
Trần Hiến Tông chết lúc 23 tuổi đem theo bao công sức giáo dưỡng
của thầy Chu!
Vua Trần Dụ Tông lên ngôi. Chu Văn An càng chăm chú công việc của
Quốc tử giám. Sau nhiều năm tích tuy kiến thức Nho học, Chu Văn An viết bộ
sách giáo khoa “Tứ thư thuyết ước”. Sách này tóm lược tinh túy của 4 cuốn
giáo khoa nho giáo: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại Học, Trung Dung, và là giáo
khoa thư dùng ở nhà Thái học. Tiếc rằng sách này không còn nữa.
Từ khi Hiến Tông mất, triều đình nhà Trần rối ren, xã hội bất ổn nhiều
hơn. Phe Trâu Canh được vua tin dùng đã tìm cách đưa vua vào trụy lạc, bỏ
trễ việc nước.
Tới đây, Chu Văn An không thể thờ ơ với chính sự. Ông đã can đảm
can gián vua nhiều lần nhưng không được. Tình thế khốn nguy, Chu Văn An
dâng sớ lên vua xin cho chém đầu 7 tên nịnh thần gây bạo loạn. Ý kiến của
ông được sử sách về sau đánh giá là đã “làm rung động cả quỷ thần”. Tuy
nhiên vua Trần Dụ Tông mê muội, không nghe Chu Văn An.
Chẳng còn phép nào hay hơn, Chu Văn An xin trả mũ áo, về núi
Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) ở ẩn, lấy hiệu là “Tiểu ẩn”, và ông lại
mở nhà dạy học cho dân quanh vùng.
c) Thời kì dạy học ở Phượng Hoàng
Chu Văn An sùng đạo Nho. Ông nhập thế theo nguyên tắc sống của
mình: không đem cái sở học mưu cầu danh lợi cá nhân, không chịu khuất
trước mọi áp lực. Vì thế, ông được đứng trong hàng “Kính lão”.
Lấy hiệu là Tiều Ẩn nhưng sống không ẩn dật, dù ông về núi Phượng
Hoàng vào khoảng năm 1360; ngày ngày lấy núi non, chim, hoa làm bạn;
ngày đêm đọc sách, làm thơ. Hiện nay mới sưu tầm lại được 12 bài thơ của
ông. Chu Văn An lại mở lớp dạy học.
Biết rõ Chu Văn An là bậc tài đức hơn người, có lần vua Trần Dụ Tông
cho mời ông trở lại tham gia công việc trị nước. Chu Văn An không nhận lời
vua vì không muốn vào triều để chịu tiếng a dua, bán mình cho phản nghịch,
nịnh thần.
Sau ngót mười năm ở ẩn, vào năm 1370 Chu Văn An qua đời. Vua
Trần Nghệ Tông ban cho ông tên hiệu Văn Trinh, và đặc cách, được đưa vào
thờ ở Văn Miếu.
Số danh nho thời đại Lí, Trần làm công việc giáo dục không phải ít. Tuy
nhiên, chưa mấy người nối tiếng bởi tài đức thực sự được xã hội ca ngợi như
Chu Văn An. Có lẽ vì thế mà trong mục nói về các nho gia có đức nghiệp thời
này của sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú chỉ có tên
Chu Văn An với lời bình của tác giả:
“Ông Văn Trinh học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, được đời ấy
suy tôn, thời sau ngưỡng mộ. Tìm trong làng Nho ở nước Việt ta, từ trước
đến nay, chỉ có mình ông. Các ông khác thực không thể so sánh được.”
Sử gia Ngô Sĩ Liên có viết:
“Nho gia ở nước ta đắc dụng ở đời không phải không nhiều. Song, kẻ
thì chỉ vì công danh; kẻ thì chỉ vì phú quý; kẻ thì “hòa quang đồng trần”; kẻ thì
cốt ăn lộc giữ mình, chưa thấy người nào chí về đạo đức, để tâm việc giúp
vua nêu đức tốt cho dân được nhờ như Tô Hiến Thành ở đời Lí Chu Văn
Trinh ở đời Trần có thể gần được như vậy. Nhưng, Hiến Thành gặp được vua
tốt, cho nên công nghiệp thấy ngay. Ở đương thời, Văn Trinh không gặp
được vua, cho nên chính học để lại cho đời sau. Nếu không xét duyên cớ thì
ai biết rõ thụy hiệu là xứng đáng; đấy là bậc tôn sư của Nho gia nước Việt
Nam ta, mà được thờ tại Văn Miếu”.
Cụ Ngô Thời Sĩ viết về Chu Văn An, như sau:
“Nhà Trần cho 3 người được tòng tự vào Văn Miếu. Xét có Chu Văn An
là hơn cả; Trương Hán Siêu là nhầm; Đỗ Tử Bình thì chặt nhỏ xác ra từng tấc
cũng chưa hết tội, sao lại được xen vào hàng cung đình lễ nhạc?
Nay, ở nhà tây Văn Miếu vẫn còn bài vị thờ Chu Văn An; còn Hán Siêu
và Tử Bình thì đã tước bỏ đi rồi, không biết từ đời nào. Xem thế, có thể thấy
lòng người ta cùng một nhân tâm, thiên lí”.
Nhà bác học Lê Quý Đôn viết về Chu Văn An, như sau:
“Nói về danh Nho nước ta, thì, thời Trần có 5 người.
Chu Văn An dâng sớ xin chém bọn nịnh thần, làm rung chuyển cả trong
triều, ngoài quận; rồi cáo quan, trả mũ áo, về nhà; không nhận tước lộc bó
buộc; vua chúa phải tôn trọng; công khanh phải kính phục. Đấy là bậc thanh
cao nhất”.
Dẫn lại lời nhận xét về Chu Văn An của một số nhân vật, có uy tín cao,
về nhiều mặt, trong xã hội đã tồn tại cách xa chúng ta khá nhiều thế kỉ, như
thế là để tô đậm thêm những giá trị cao đẹp của nhân cách Chu Văn An, nhà
giáo dục lớn ở thời đại nhà Trần.
4. Hồ Quý Li với giáo dụca) Vài nét về Hồ Quý Li và thời đại
Theo Đại Việt sử kí toàn thư thì tổ tiên của Hồ Quý Li là Hồ Hưng Dật,
người tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc), thời hậu Hán được vua Hán cử sang
làm Thái thú châu Diễn nước ta. Sau đó có loạn 12 sứ quân, họ Hồ phải tìm
nơi tránh loạn và lập nghiệp. Đến thời Trần thì họ Hồ này có hai bộ phận:
Một bộ phận vẫn ở Diễn Châu (Nghệ An) và một bộ phận dời ra Đại
Lại, Thanh Hóa, trong đó có Hồ Liêm, cháu 12 đời của Hồ Hưng Dật. Hồ Liêm
làm con nuôi quan tuyên úy ở Đại Lại là Lê Huấn nên đổi sang họ Lê (Lê
Liêm). Hồ Quý Li là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ.
Ông sinh năm 1335 (Ất Hợi), lấy con gái của vua Trần Minh Tông là công
chúa Huy Ninh. Năm 1388, Hồ Quý Li lại lấy mẹ của Trần Đỗ làm vợ, vì bố
của Trần Đỗ bị bệnh chết sớm. Con gái đầu của Hồ Quý Li lấy vua Trần
Thuận Tông, sinh ra Trần An. Năm 1399, Trần An lên làm vua được 2 năm thì
bị Hồ Quý Li, là ông ngoại, giáng truất, gọi là phế đế. Hồ Quý Li có 2 người cô
lấy Trần Minh Tông. Một người sinh ra vua Nghệ Tông, một người sinh ra vua
Duệ Tông. Như vậy, Hồ Quý Li thuộc dòng ngoại thích cuối đời Trần, được
vua Nghệ Tông tin dùng, nắm mọi quyền bính trong triều.
Hồ Quý Li tham gia triều chính vào cuối đời Trần (1371). Lúc đó xã hội
đã rơi vào tình trạng rối ren. Vua thì hèn yếu, mất cả chính lệnh. Trong triều
thì bè đảng dua nịnh. Dân tình thì đói khổ. Giặc Chiêm Thành thường xuyên
quấy rối, cướp phá. Học phong sau một thời hưng thịnh, xuất hiện những nhà
nho bậc thầy như: Chu Văn An, Lê Quát… thị lúc này đã bị suy đồi. Các sĩ
phu xiêu dạt mỗi người một nơi. Trần Nguyên Đán vốn là người có tâm huyết
cũng cáo lão bỏ về đi ở ẩn. Số ở lại thi đua nhau tham nhũng. Thanh niên trai
tráng trốn tránh trách nhiệm, đi tu ở chùa. Bây giờ, Hồ Quý Li là người ngoại
thích, làm Khu mật viện đại sư, dạy ở trong cung. Ông đã có ý định cải cách
giáo dục nhằm thoát khỏi cách học giáo điều, xa rời thực tế của Nho học học
thời đó. Đặc biệt, từ 1395, ông nhận chức Phụ chính Thái Sư, và năm 1400
lên ngôi vua, rồi làm Thái thượng hoàng đến năm 1407, Hồ Quý Li thâu tóm
được mọi quyền hành trong triều, đã tiến hành hàng loạt biện pháp cải cách
về kinh tế, xã hội, quân sự, nhằm tăng cường sức mạnh của triều đình và cải
thiện tình hình mọi mặt của đất nước.
b) Những cải cách lớn của Hồ Quý Li
Về cải cách xã hội
– Ban hành chính sách hạn điền, hạn nô, quy định chủ sở hữu tư nhân
không được có quá 10 mẫu ruộng, nhằm xóa bỏ kinh tế đại điền trang lúc đó
đã trở nên lạc hậu, và trở thành một nhân tố cản trở quá trình củng cố sự
thống nhất và tập trung sức mạnh cho nhà nước trung ương.
– Cải cách chính sách thuế khóa; phát hành tiền giấy, tạo nguồn thu lớn
cho nhà nước. Nói chung, chính sách thuế mới nhằm tăng sự đóng góp của
tầng lớp hữu sản, giảm nhẹ cho người nghèo, kích thích nghề thủ công phát
triển.
– Lập kho thương bình ở các địa phương. Mua thóc lúa khi mùa rộ, và
khi đói kém thì bán ra với giá rẻ cho dân nghèo.
– Chú trọng cải tổ về quân sự. Tăng cường việc chế tạo vũ khí, xây
dựng thành trách nhằm xây đựng một đội quân hùng mạnh.
Về đường lối trị nước Hồ Quý Li phê phán đường lối đức trị đơn thuần
của Nho giáo. Ông thiên hẳn vào đường lối pháp trị, coi hình phạt là cái gốc,
dùng những thủ đoạn chuyên chế bắt mọi người phải phục tùng, không ngại
dùng những biện pháp tàn bạo để đàn áp phe chống đối, dùng hình luật hà
khắc để cưỡng chế thi hành tân pháp về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa.
Về cải cách giáo dục
Cùng với cải cách về chính trị, quân sự, kinh tế, Hồ Quý Li đã thực hiện
những chính sách đối với văn hóa giáo dục theo hướng đề cao văn hóa dân
tộc và chú trọng tới kĩ nghệ. Ông chủ trương phổ biến rộng rãi chữ Nôm, đưa
chữ Nôm vào việc soạn thảo các văn bản của nhà nước, đưa môn tính toán
vào thi cử… Có thể nêu lên mấy sự kiện quan trọng sau đây:
Năm 1383 cho lập thư viện, cử Trần Tôn làm viện trưởng để dạy học
trò, và khuyến khích người học mở rộng kiến văn.
Năm 1392 làm sạch Minh đạo (con đường sáng), gồm 14 thiên. Trong
đó, ông tiếp thu có phê phán những tinh túy của văn minh Trung Hoa. Một
mặt, ông thừa nhận tài năng của các nhà tư tưởng, các nhà văn hóa tiền bối.
Mặt khác, ông cũng phê phán mạnh mẽ tính quan liêu, xa rời thực tiễn của
họ. Ông đề cao Chu Công, mạnh dạn đổi lại vị trí nơi thờ của Chu Công,
Khổng Tử trong Văn Miếu. Ông coi Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên
sư, và ở hàng thấp hơn, ông cho rằng Hàn Dũ chỉ là người ăn trộm văn. Chu
Đôn Di, Trình Hiệu, Trình Di, Dương Thì, La lọng Tế, Chư Tử đều là những
người tuy học rộng nhưng không thực tài, không quan tâm đến đời sống xã
hội, chỉ chuyên nghề lấy cắp văn chương của người xưa mà thôi! Ông cũng
nêu những điều ngờ vực trong Luận ngữ, đánh giá lại nhân cách của Khổng
Tử qua một số sự việc như tiếp kiến Nam tử, Tề, Vệ mời đều đến giúp cả.
Năm 1395, dịch thiên Vô dật, trong Kinh Thư, dùng để dạy vua. Việc
ông dịch thiên sách nói về những tấm gương của các bậc vua hiền thời xưa,
cùng những phép tắc, yêu cầu, cách thức làm vua, dùng để làm sách dạy bảo
những người có vị trí xã hội cao nhất trong lúc xã hội đầy rẫy sự hoang phí,
sa đọa, lười biếng, thì quả là một sự dũng cảm và mang ý nghĩa giáo dục thiết
thực và sâu sắc.
Năm 1396, định lại phép thi cử. Đưa thi cử vào nền nếp. Từ đây, thi cử
nhân dùng thể thức thi 4 kì (gọi là trường) gồm có:
Kì 1: Kinh nghĩa.
Kì 2: Thi Đường luật, phú.
Kì 3: Chiếu, chế, biểu
Kì 4: Văn sách.
Bãi bỏ phép viết ám tả, cổ văn.
Quy định cứ 3 năm thi một kì. Năm trước thi Hương, năm sau thi Hội.
Từ 1403 quy định thi thêm chữ viết và làm tính.
Việc đưa môn làm tính vào nội dung thi, bỏ thi ám tả, cổ văn làm cho
người học phải suy nghĩ nhiều hơn, giảm bớt được bệnh học vẹt, sao chép
sách vở cổ xưa một cách máy móc, tạo điều kiện cho người học có khả năng
sáng tạo và gắn bó hơn với cuộc sống thực tế.
Cũng năm 1396, viết sách “Thi nghĩa” (giảng nghĩa Kinh thi) bằng quốc
âm, dùng làm sách học của các cung nhân trong triều. Phần giải nghĩa, Hồ
Quý Li thường đưa những ý kiến riêng của mình vào chứ không lệ thuộc vào
sách vở có sẵn.
Năm 1397, đề ra chính sách khuyến học, cho mở trường đến tận châu,
huyện thuộc các lộ Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Đông. Ở đây, mỗi phủ đều đặt
một học quan để trông coi, đôn đốc việc học. Để tạo điều kiện cho giáo dục
phát triển, ông chủ trương cấp ruộng cho các châu phủ để chi vào việc học
tập theo 3 mức: Phủ châu lớn, 15 mẫu; vừa, 12 mẫu; nhỏ, 10 mẫu. Các mặt
giáo dục khác như dạy võ, dạy nghề, làm thuốc cũng được Hồ Quý Li khuyến
khích phát triển. Ông cho Nguyễn Đại Năng, một người giỏi châm cứu làm
quan.
Mở các khóa thi để chọn những người tài ra giúp việc nước. Năm 1400,
mở khoa thi Thái học sinh, lấy đỗ 20 người, trong đó có Nguyễn Trãi, Lí Tử
Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Mộng Tuân đều là những người học rộng tài
cao. Tiếp đó, năm 1405 mở kì thi lấy đỗ 170 người để bổ dụng vào bộ máy
quan chức, nhà Hồ. Điếu đó cho thấy tác động của chính sách khuyến học
của Hồ Quý Li là rất cụ thể.
Chữ Nôm được Hồ Quý Li rất coi trọng. Mặc dù được ra đời từ thế kỉ
trước đó, nhưng rộng rãi, nhất là trong các văn bản nhà nước. Hồ Quí Li có
học chữ Hán, nhưng chưa thuộc loại uyên thâm như Đoàn Nhữ Hải, Lê Quát,
Phạm Sư Mạnh… Ông dùng chữ Nôm nhiều hơn trong việc sáng tác thơ văn,
dịch một số tác phẩm kinh điển của Nho giáo ra chữ Nôm cho nhiều người
học tập. Về sáng tác thơ Nôm, Hồ Quý Li là người có khối lượng thơ Nôm vào
loại nhất thời đó (đến nay chỉ còn lại có 1 bài). Cũng từ đây, chữ Nôm được
dùng rộng rãi hơn, và thơ Nôm phát triển mạnh mẽ với các nhà thơ lớn
Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông… Dưới đây là bài thơ Cảm hoài của ông nhang
tính chất tự kiểm điểm)
Canh cải nhiều đường tử phục sinh
Lòng lo hương lí ở bao đành
Quê người dễ thấy đầu dần bạc
Quán khách khôn cầm tóc trắng xanh
Tướng quốc ắt chăng tài Lí Bật
Thiên đô còn phải bận Bàn Canh
Kim âu dường khuyết khôn hàn được
Đổi giá cho nên biết ngọc lành.
c) Những đánh giá về Hồ Quý Li
Theo quan điểm phong kiến chính thống, thì nhà Hồ là ngụy triều Trong
Lịch triều hiến trương loại chí, – nhà Hồ không được ghi ngang hàng như
triều Lí, Trần, Lê, mà chỉ ghi là nhuận Hồ (tức là Hồ thừa).
Trước năm 1990, có nhiều bài viết về Hồ Quý Li. Phần lớn đánh giá Hồ
Quý Li tuy có đầu óc mạnh dạn, muốn xoay chuyển thời thế nhưng do phạm
nhiều sai lầm nên đã dẫn đến họa mất nước.
Năm 1990 và tiếp theo 1992, có 2 cuộc hội thảo chuyên đề do Viện sử
học và Ban nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa tổ chức, để đánh giá một cách toàn
diện vai trò của Hồ Quý Li đối với công cuộc cải cách thế kỉ 14, đầu thế kỉ 15,
và vị trí của nhà Hồ trong lịch sử.
Tuy số lượng bài viết tương đối nhiều, song nhìn chung, do nguồn tư
liệu bị thất truyền (như quyển Minh đạo lục, bản dịch Thiên Vô dật, thơ ca của
Hồ Quý Li viết ra đều bị mất (về thơ ca, đến nay chỉ còn giữ được 5 bài, trong
đó có 1 bài thơ Nôm) nên các ý kiến thường trùng lặp, hoặc thiếu cứ liệu để
minh chứng. Sự đánh giá về Hồ Quý Li qua 2 cuộc hội thảo đã có những nét
đáng chú ý sau đây:
Về cải cách chính trị – xã hội:
Có 3 loại ý kiến:
Loại thứ nhất: đánh giá thấp vai trò của Hồ Quý Li, cho rằng ông là nhà
cấp tiến không tưởng, nhà thực tiễn nóng vội, nhiều khi mù quáng, phạm sai
lầm cả về chiến lược và sách lược nên đã chịu thất bại. Về chính trị, ông
không được lòng dân. Về quân sự ông không có tài, đánh thường không
thắng, phải nhờ đến tướng Trần Khát Chân mới thắng được Chiêm Thành.
Về tổ chức kháng chiến chống quân Minh, do không dựa vào dân nên nhanh
chóng bị thất bại và để mất nước.
Loại thứ hai: Đánh giá cao vai trò của Hồ Quý Li, cho ông là nhà cải
cách lớn, viện dẫn rằng tên ông được ghi vào Bách khoa từ điển nước ngoài,
được nhà sử học Liên Xô (cũ) đánh giá như sau: Hồ Quý Li, một nhà cải
cách, một nhà yêu nước, một chiến sĩ chống quân bành trướng phương Bắc.
Ông xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Có tác giả viết:
“Nếu được phép nhìn nhận tổng quát về Hồ Quý Li, chúng tôi mạnh dạn cho
rằng ông không thuần túy là một nhà chính trị cầm quyền, ông nghiêng về
phía một học giả, một lí thuyết gia có tầm xây dựng đề án chiến lược mang
tính cách mạng ở thế kỉ 14 – 15. Việt Nam có một con người như thế, vậy
cũng đáng xếp vào hàng ngũ nhân vật không lồ”.
Loại thứ ba: Nêu lên những mặt tích cực trong cải cách của Hồ Quý Li,
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đồng thời, cũng chỉ ra những mặt thiếu sót, sai
lầm của Hồ Quý Li để từ đó rút ra những bài học lịch sử.
+ Xác nhận Hồ Quý Li là người có tư tưởng cải cách, không bảo thủ,
rập khuôn theo đường cũ, dám đề ra chính sách cải cách nhiều mặt nhằm
thay đổi chế độ phong kiến quý tộc đã bị lỗi thời.
+ Tài lực của ông bất tòng tâm. Ông thiếu nhiều kiến thức để cải cách
kinh tế – xã hội, nên những chính sách mới do ông đề ra gặp nhiều mâu
thuẫn và khó thực thi. Ví dụ chính sách hạn nô nhằm đánh vào quý tộc nhà
Trần, kinh tế thái ấp, song lại chuyển nô tì, nông nô sang dạng nô mới (thuộc
nhà nước). Đời sống của họ không có gì thay đổi. Chính sách hạn điền lại
đánh vào địa chủ, thứ dân, một thành phần kinh tế mới đang phát triển cần
được khuyến khích, việc phát hành tiền giấy cũng không được dân chúng
hưởng ứng vì chưa phải do nhu cầu của phát triển thương mại.
+ Kết luận là: Hồ Quý Li để lại bài học cho lịch sử lớn hơn là cái ông
làm cho lịch sử.
– Về chính sách giáo dục:
Đối với chính sách về cải cách giáo dục của Hồ Quý Li không có những
ý kiến khác nhau cơ bản; nhìn chung đều đánh giá là có ý nghĩa tích cực và
tiến bộ.
– Về phát triển giáo dục:
Tuy không thành hệ thống lí luận về cải cách giáo dục mà chỉ bằng
những chiếu chỉ, bằng những việc làm cụ thể, Hồ Quý Li trong 15 năm trong
lĩnh vực giáo dục, với những nội dung và hình thức giáo dục mới đã góp phần
đào tạo nên một lớp người có văn hóa đông đảo ở cuối thời Trần. Có thể nói
so với các mặt khác về cải cách (chính trị, kinh tế, quân sự) thì chính sách cải
cách giáo dục của Hồ Quý Li là tiến bộ nhất, và được nhân dân dễ dàng chấp
nhận. Theo cách nhìn mới thì Hồ Quý Li đã góp phần quan trọng trong việc
đổi mới về mục tiêu giáo dục (đào tạo ra người có thực tài, có tác dụng thiết
thực đối với đời sống xã hội), về nội dung giáo dục (giảm bớt giáo điều), về
phương pháp giáo dục (có ứng dụng những điều học vào thực tế đời sống,
dùng chữ Nôm cùng với chữ Hán làm phương tiện dạy, học, sáng tác…), về
quản lí giáo dục (tổ chức trường học có quy củ ở địa phương có chính sách
khuyến học, đặt lệ thi có nền nếp). Sử thần Ngô Sĩ Liên cũng đánh giá: “Phép
khoa cử đời Trần đến đây mới đủ văn tự bốn trường, đến nay còn theo không
thay đổi được. Chọn nhân tài bằng văn học không gì hơn phép này. Xem
những người đỗ về các khoa cuối đời Trần thì Nguyễn Ức Trai là nhất, văn
chương của ông đã giúp triều Lê buổi đầu dựng nước. Sau nữa như Lí Tử
Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Phan Phù Tiên, Nguyễn Thiên Túng, đều là văn
chương cự phách một thời.”
– Về học thuật:
Hồ Quý Li là nhất, trong thời kì phong kiến, chủ trương xây dựng môt
hệ tư tưởng văn hóa nho giáo Việt Nam bằng cách phê phán thần tượng
Trình Chu của Trung Hoa, làm rõ bản sắc dân tộc qua việc giải nghĩa các
sách kinh điển, bằng cách sử dụng văn tự của nước nhà.
Cải cách thi cử, tuyển chọn quan lại của Hồ Quý Li cũng xuất từ thực
tiễn xã hội Việt Nam. Những định hướng của ông về một nền giáo dục của đất
nước là: “Tỏ rõ giáo hóa, giữ phong tục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài”.
Đối với những ý kiến táo bạo của ông, một số nhà nho cũ tỏ ý không
đồng tình, như Đoàn Xuân Lôi, một quốc tử trợ giáo thời ấy đã dâng thư lên
nói: “bàn như thế là không phải”. Ngô Sĩ Liên cho rằng: “Từ khi có nhân dân
đến giờ chưa có ai hơn Khổng Tử, mà Hồ Quý Li dám khinh xuất, bàn đến,
thực là không tự biết mình”.
Các giáo sư Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn thì đánh giá: “Về mặt học
thuật, Hồ Quý Li muốn phục hồi tư tưởng Nho giáo trong giai đoạn buổi đầu.
Các chính sách ruộng đất, tiền tệ, làm nhà học của họ Hồ là do chịu ảnh
hưởng của sách Chu lễ của Chu công. Hồ Quý Li phê phán Tống Nho đề trở
về với chân Nho, song ông bị phản đối vì đương thời Tống Nho đang là chỗ
dựa tinh thần của tầng lớp nho sĩ, đại diện trí thức của giai cấp địa chủ mới.
Đả kích Tống Nho tức là đả kích vào ý thức hệ của giai cấp địa chủ tư hữu
mới. Rõ ràng, Hồ Quý Li đã tiếp tục tinh thần của học phong Đông A. Qua
Minh dạo lục, cần phải ghi nhận rằng Hồ Quý Li đã cống hiến xuất sắc về tư
tưởng. Ông đã phát huy hào khí của học phong Đông A. Cùng sự suy nghĩ
mạnh dạn, sáng tạo, tìm tòi tự tin của mình, tạo ra một bước ngoặt mới về tư
tưởng trong quá trình tiếp nhận và Việt hóa học thuyết Nho giáo thời trung đại
ở nước ta.”
KẾT LUẬN
Những cải cách giáo dục của Hồ Quý Li nằm trong chương trình cải
cách lớn của ông mang nhiêu nội dung tích cực và tiến bộ. Tiếc rằng triều Hồ
ngắn ngủi không đủ để cho những chủ trương cải cách của ông được thực thi
đầy đủ và kiểm nghiệm qua thực tế.
Chúng ta, sống cách thời đại Hồ Quý Li gần 6 thế kỉ, nhưng vẫn thấy
chủ trương cải cách của ông có giá trị thời sự. Đó là giáo dục phải góp phần
đào tạo ra con người ham hành động, sáng tạo, gần gũi với thực tế cuộc
sống, mà muốn thực hiện được điều đó cần phải xem xét thay đổi từ mục tiêu
giáo dục đến nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục, làm sao cho giáo dục
luôn bám sát với thực tiễn và phục vụ thực tiễn.
Chương III. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI THỜI LÊ SƠ (1428 – 1527)
1. Vài nét về bối cảnh kinh tế – xã hội thời Lê sơ Sau khi chiến thắng quân Minh, Lê Thái Tổ và các triều đại Lê sơ bắt
tay vào xây dựng một đất nước độc lập trên cơ sở chế độ phong kiến trung
ương tập quyền. Sự phục hồi và phát triển nhanh chóng nền kinh tế – xã hội
là bối cảnh mới mẻ, vừa là tiền đề, vừa là nhu cầu đòi hỏi xây dựng một nền
giáo dục dân tộc mới, biến đổi cả về mặt tổ chức lẫn tư tưởng giáo dục.
Việc cấp bách đầu tiên là phục hồi và phát triển nền kinh tế bị tàn phá
nặng nề, kiệt quệ sau nhiều năm thuộc Minh và chiến tranh kéo dài.
Chính sách khẩn hoang, với quy mô lớn, sự quan tâm đến các công
trình thủy lợi lớn nhỏ, việc động viên mọi người có trách nhiệm tham gia sửa
chữa, bảo vệ đê điều đã nhanh chóng đem tới kết quả lớn. Nạn đói bị đẩy lùi,
nhiều năm liên tiếp được mùa đã làm cho kinh tế nông nghiệp tăng tiến, nhân
dân được cải thiện đời sống rõ rệt.
Chế độ đại điền trang đã suy sụp cuối đời Trần và tan rã dưới thời Hồ
và thuộc Minh. Các triều đại Lê sơ không thể và không muốn trở lại đại điền
trang, cơ sở của tình trạng phân tán, cát cứ của các vương gia, quý tộc.
Nhà Lê – để phù hợp với việc xây dựng một chế độ phong kiến chuyên
chế, trung ương tập quyền - đã thi hành một chính sách mới. Đó là chế độ lộc
điền và quân điền.
Là hình thức cấp lương bổng cho quý tộc, quan lại cao cấp, lộc điền
đem nhiều quyền lợi cho họ trong việc thu tô, song họ không được lấy nông
dân làm nô lệ. Đặc quyền đó một mặt thắt chặt họ trung thành với vua, mặt
khác hủy bỏ được tình trạng phân tán, cát cứ địa phương.
Quân điền quy định sự phân phối, sử dụng ruộng đất công của công xã.
Theo chính sách này, tất cả mọi người dân, quan lại đều được chia ruộng, tỉ
lệ thuận theo phẩm hàm, chức tước, thứ bậc trong xã hội. Như vậy quân điền
có tác dụng một mặt bảo tồn công xã, trong đó người nông dân có một số
quyền lợi nhất định, mặt khác biến công xã thành cơ sở bóc lột của chế độ
phong kiến. Trong thực tế, quyền tự trị của công xã bị thu hẹp dần trong lúc
quá trình phong kiến hóa cơ cấu xã hội được đẩy mạnh lên. Tuy nhiên, bên
cạnh quyền sở hữu ruộng đất tối cao của nhà nước, triều Lê sơ cũng phải nới
rộng quyền tư hữu ruộng đất cho giai cấp địa chủ.
Cùng với nông nghiệp, công thương nghiệp cũng phát triển mạnh mẽ.
Các trung tâm thủ công nghiệp xuất hiện ở nhiều làng xã, nhiều phường hội
ra đời ở các thành thị và kinh đô, đẩy mạnh sự phát triển nhiều nghề thủ công
cổ truyền ở miền xuôi miền núi (dệt, gốm, mĩ nghệ, đúc đồng, rèn sắt, khai mỏ
vàng, bạc, đồng, sắt…). Việc lưu thông buôn bán mở rộng, nhiều chợ mọc
lên, sự thống nhất đơn vị tiền tệ, đo lường đã tạo nên một thị trường quốc gia
thống nhất, nội thương phát đạt.
Như vậy, sơ sở kinh tế mới này là nền tảng vững chắc cho việc xây
dựng chế độ phong kiến trung ương tập quyền, một quốc gia phong kiến độc
lập, tự chủ. Nó cũng là cơ sở của việc xây dựng một thượng tầng kiến trúc
tương ứng trong đó có văn hóa giáo dục. Chính cơ sở kinh tế này sẽ thúc đẩy
sự phát triển giáo dục nahnh, mạnh mà trước đó ngàn năm dưới thời Bắc
thuộc, hàng trăm năm dưới các triều đại Lí – Trần – Hồ chưa bao giờ có
được.
Đi đôi với sự phục hồi và phát triển kinh tế, các triều đại Lê sơ, nhất là
vua Lê Thánh Tông đã ra sức xây dựng một bộ máy hành chính, quy mô, tập
trung, có hệ thống vững chắc từ trung ương đến địa phương, một quân đội
hùng mạnh, thống nhất về tổ chức và chỉ huy, không cho phép các vương
hầu, quý tộc có quân đội riêng.
Ở triều đình, bộ máy hành chính bao gồm 6 bộ (binh, hình, lễ hộ, công,
lại), đứng đầu mỗi bộ là một Thượng thư. Lại có 6 khoa tương ứng để kiểm
soát mọi công việc của các bộ.
Vua có uy quyền tối thượng, không lập tể tướng. Vua là “thiên tử”, hiện
thân của “chân lí” và “sức mạnh”. Để giúp vua, triều đình lại lập ra 6 tự và một
số cơ quan khác (ngự sử đài, hàn lâm viện, quốc tử giám, tư thiên giám, quốc
sử quán). Các địa phương trong nước chia làm các đạo, Thời Lê Thái Tổ có 5
đạo, đến Lê Thánh Tông chia làm 15 đạo, bãi bỏ các trấn, lộ. Mỗi đạo lại chia
thành 3 ti (ti thừa, ti đô và ti hiến), phụ trách các công việc hành chính, quân
sự, tư pháp…
Việc chia nhỏ các đạo và ti nhằm mục đích hạn chế quyền hành các
quan lại cấp dưới, ngăn chặn khuynh hướng cát cứ, tăng quyền lực trung
ương.
Về quân đội có hai loại: quân thường trực và quân chính quy. Số lượng
quân đội khá đông (10 vạn dưới thời Lê Thái Tổ, 16 vạn dưới thời Lê Thánh
Tông).
Theo chính sách “ngụ binh ư nông”, quân lính cũng được chia ruộng
đất luân phiên nhau cày cấy. Quân đội nhà Lê là quân đội mạnh, bao gồm
quân bộ, quân thủy, quân tượng và quân mã. Quân đội được huấn luyện
thường xuyên; diễn tập vào mùa xuân nên có tổ chức và kĩ thuật chiến đấu
cao. Vũ khí được bổ sung loại mới như hỏa pháo, hỏa đồng.
Các triều Lê sơ cũng đẩy mạnh các hoạt động lập pháp, xây dựng Bộ
luật Hồng Đức.
Đối ngoại, áp dụng một chính sách bang giao mềm mỏng nhưng kiên
quyết.
Tóm lại, trong công tác đối nội và đối ngoại, các triều Lê sơ đã chứng tỏ
một cách hùng hồn sự xuất hiện một quốc gia độc lập hùng mạnh.
Trên thượng tầng kiến trúc, các triều đại Lê sơ cũng đạt những thành
tựu rực rỡ.
Về mặt tư tưởng, Nho đưa truyền bá rộng rãi và trở thành quốc giáo.
Văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế, song văn Nôm cũng không ngừng phát
triển.
Nhiều nhà văn nổi tiếng xuất hiện như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng
Tuân, Lý Tử Tấn với các tác phẩm kiệt xuất “Bình Ngô đại cáo”, “Quân trung
từ mệnh tập”, “Phú cờ nghĩa”, “Phú Lam Sơn giai khí”, “Phú Xương giang”
v.v… nổi bật lên là Hội Tao đàn với “Nhị thập bát tú”, đứng đầu là “Tao Đàn
nguyên súy” Lê Thánh Tông.
Nhiều tác phẩm về sử học, địa lí, toán học ra đời. Nghệ thuật ca múa
nhạc, nghệ thuật kiến trúc vẫn kế thừa và phát triển các kết quả của các triều
đại trước.
Thành tựu kì diệu đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, song một
nguyên nhân quan trọng là sự đóng góp, phục vụ của giáo dục để tạo nên
những con người, những nhân tài cho xã hội.
Sử liệu cho thấy năm 1471, số quan lại phẩm tước – chưa kể số nhân
viên giúp việc – lên tới 5370 người, trong đó riêng ở triều đình chiếm 2755
người.
Muốn làm quan thì phải học, phải thi. Ti lệ người đỗ đạt làm quan so
với số người đi thi rất thấp. Ví dụ: năm 1442, theo bi kí do Thân Nhân Trung
soạn, có 450 người dự thi Hội, lấy đỗ 33 người (7,3%); Năm 1448, theo bi kí
do Đỗ Nhuận soạn số người dự thi Hội là 750, số đỗ là 27 người (3,6%).
Nhưng số người được đi thi so với số người đi học còn ít ỏi hơn nhiều. Vậy
thì để có 5370 viên quan, phải có một số lượng người đi học rất đông đảo và
điều đó lí giải vì sao giáo dục có một vị trí quan trọng và phát triển rực rỡ dưới
thời Lê sơ – điều mà chúng tôi sẽ chứng minh ở các phần sau. Tuy nhiên, đó
mới chỉ là số lượng.
Xét về những thành tựu kinh tế nông nghiệp, công thương nghiệp, một
mặt do chính sách, sự quan tâm của nhà nước phong kiến, một mặt do sự
cần cù, đóng góp trí tuệ và sức lực của nhân dân. Tuy nhiên, có rất nhiều yếu
tố đòi hỏi phải có nhân tài, có người chỉ huy, quản lí. Các công trình thủy lợi
lớn nhỏ, việc xây dựng, bảo vệ một hệ thống đê điều từ trung ương đến làng
xã đòi hỏi một mạng lưới quan lại hà đê sứ có tinh thần trách nhiệm, có học
vấn và tài chỉ huy, quản lí. Huấn luyện một đội quân hùng mạnh như nhà Lê
sơ, đòi hỏi phải có những tướng sĩ tài ba, tinh thông binh pháp, võ nghệ,
chiến thuật và chiến lược.
Còn trên các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, văn học, giáo dục, pháp chế,
kiến trúc, nghệ thuật v.v…, những thành tựu rực rỡ phải do những con người
có học vấn uyên bác, trí tuệ cao siêu mới tạo ra được.
Tóm lại, bối cảnh kinh tế - xã hội những năm đầu của thế kỉ XV đã biến
đổi về chất với một tốc độ nhanh, mạnh. Nó đòi hỏi phải có một nền giáo dục
chính thống đáp ứng có hiệu quả cho chế độ phong kiến trung ương tập
quyền. Những lớp người được đào tạo ra phải trung thành phục vụ triều đình
nhà Lê, mặt khác phải sẵn sàng xả thân vì quyền lợi của dân tộc, của một
quốc gia độc lập, tự chủ. Nền giáo dục đó mang đậm tính chất giai cấp và dân
tộc.
Song song với nền giáo dục chính thống, tự ngàn xưa, nhân dân ta vẫn
luôn luôn có một nền giáo dục riêng của mình, trước khi cô nền giáo dục
chính thống của giai cấp phong kiến. Nền giáo dục “không sách, không thầy”
này bắt nguồn từ cuộc sống, từ nhu cầu tồn tại của thế hệ này sang thế hệ
khác. Không trường lớp, không chương trình, sách giáo khoa, song những
kinh nghiệm sản xuất, lao động, phép xử thế, mối quan hệ giữa con người với
nhau trong gia đình, ngoài họ hàng làng xóm… được thế hệ trước truyền đạt
lại cho thế hệ sau bằng lời nói, việc làm, nếp sống hàng ngày.
Nền giáo dục chính thống và nền giáo dục nhân dân này tồn tại song
song và có ảnh hưởng, tác động qua lại với nhau, nhiều lúc, nhiều nơi rất
chặt chẽ. Trên bình diện tư tưởng giáo dục, các triều đại Lê sơ đã đưa ý thức
hệ Nho giáo trở thành quốc giáo. Nó được sử dụng tuyệt đối trong các nhà
trường từ trung ương đến làng xã.
Thực ra, Nho giáo không phải đến triều Lê sơ mới có. Nó đã được du
nhập vào nước ta từ thời Đông Hán “với các thái thú Tích Quang, Nhâm Diên,
Sĩ Nhiếp”. Vậy mà gần 10 thế kỉ; đến thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, nho giáo vẫn
chưa thịnh đạt ở Việt Nam.
Có mấy lí do: Dưới thời Bắc thuộc, Nho giáo nằm trong tay giai cấp
thống trị ngoại bang nên nhân dân ta coi nó là một công cụ “đồng hóa” của kẻ
xâm lược. Mặt khác, với tư cách là tôn giáo, Phật giáo và Đạo giáo đã đi
trước và bắt rễ sâu trong cuộc sống của dân ta. Song lí do cơ bản là phải đến
Lê sơ, xã hội Việt Nam mới đến giai đoạn tập trung nên Nho giáo lúc đó mới
có vai trò quan trọng.
Ngay từ thời nhà Đường đô hộ, việc học tập của con em người Việt
hoàn toàn theo con đường tự lập, có sự hỗ trợ của Phật giáo. Nhiều trường
chùa xuất hiện. Dưới thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, các vua chúa chủ yếu lo việc võ
hơn việc văn – việc học do nhà chùa đảm nhận – tam giáo tự do lưu hành –
nhà nước dùng nhân tài ở cả ba nguồn Phật, Đạo, Nho.
Thời Lí, mặc dù Văn Miếu được dựng năm 1070, Quốc Tử Giám được
mở năm 1076, song Phật giáo vẫn chiếm địa vị quốc giáo.
Năm 1195, Lí Cao Tông vẫn mở khoa thi tam giáo. Thậm chí đến thời
Trần, vào những năm 1227 và 1247, triệu đình vẫn mở các khoa thi tam giáo.
Song, các vua quan phong kiến đã ngày một hiểu rằng ý thức hệ Phật,
Đạo không phải là chỗ dựa tinh thần cho họ. Với quan niệm xuất thế, Phật
giáo khuyên dạy con người thoát li khôi “bể khổ”, khỏi “kiếp luân hồi”, tu nhân
để tìm hạnh phúc ở cõi Niết bàn. Đạo giáo với thuyết “vô vi”, “thanh tịnh” cũng
quay lưng lại với thực tế, với vòng danh lợi. Trong khi đó Nho giáo là một học
thuyết nhập thế, học thuyết hành động – với thuyết “chính danh định phận”,
với chuẩn mực “tam cương ngũ thường” v.v… chỗ dựa tinh thần vững chắc
cho chế độ phong kiến, nhất là phong kiến tập quyền thời Lê sơ trong bước
đầu thịnh trị.
Nho giáo trở thành độc tôn, quốc giáo, được sử dụng triệt để trong nền
giáo dục chính thống Lê sơ là một quy luật tất yếu, không thế khác được. Tuy
nhiên, nếu Nho giáo đẩy Phật, Đạo ra khỏi chính trường thì hai tôn giáo này
không hề bị tiêu diệt. Nó vẫn có chỗ đứng vững chắc trong đời sống tinh thần
của nhân dân và có ảnh hường sâu sắc, thậm chí có tác động ngược lại với
tư tưởng Nho giáo.
Bởi vậy, tìm hiểu nền giáo dục Nho giáo và tư tưởng giáo dục ở Việt
Nam nói chung và Lê sơ nói riêng, không thể không thấy ảnh hưởng qua lại,
sự hòa quyện trong một chừng mực nhất định giữa các hệ tư tưởng Phật,
Đạo, Nho, giữa giáo dục chính thống và phi chính thống.
Có như vậy, mới thấy hết những nét đặc thù riêng của Nho giáo Việt
Nam.
2. Giáo dục Việt Nam dưới thời Lê sơa) Mục đích giáo dục thời Lê sơ
– Trong công cuộc xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, đưa chế độ
phong kiến tiến nhanh lên tập quyền, chuyên chế, mục tiêu cấp bách là phải
sớm đào tạo được một đội ngũ quan lại đông đảo từ trung ương đến địa
phương.
Nếu như ở các triều đại trước đây, việc tuyển chọn người ra làm quan
có thể do tiến cử, nhiệm cử thì đến Lê sơ, phương thức chủ yếu là khoa cử.
Bởi vậy, ngay khi còn kháng chiến, Lê Lợi đã chú trọng mở mang việc
học, tổ chức cuộc thi ngay cạnh thành Đông Quan.
Đến thời Lê Thánh Tông, ông coi việc thi cử là hàng đầu để “chọn
người có học”, “chọn kẻ sĩ”. Có thể nói, từ trước đến đây, chưa có triều đại
phong kiến nào lại tổ chức nhiều khoa thi như thời Lê sơ. Chỉ tính từ năm
1442 – năm bắt đầu mở khoa thi Hội đến 1526 tất cả có 26 khoa trong 84
năm. Trước thi Hội, thí sinh phải qua thi Hương, và sau thi Hội, ai đỗ mới
được thi Đình. Làm phép tính đơn giản, trong 84 năm có gần 80 khoa thi.
Về hình thức, để tuyển chọn nho thần, văn thần, nhà nước tổ chức thi
văn. Đa số là các khoa thi loại này. Đề tuyển chọn người viết chữ đẹp, biết
tính toán, có các kì thi lại viên.
Loại này chỉ khi còn mới tổ chức. Ngoài ra còn có các kì thi võ để tuyển
chọn người giỏi võ kinh và võ nghệ.
Một điều đáng lưu ý là năm 1471, Lê Thánh Tông sai Nguyễn Tín Mỹ
dịch “Sách lược bình Chiêm” (sách về binh pháp do nhà vua biên soạn) ra
quốc âm để phổ biến rộng rãi trong binh sĩ. Như vậy, số binh sĩ biết chữ Hán
để đọc được chữ Nôm lúc đó chiếm một số lượng đáng kể trong quân đội.
Điều đó chứng tỏ nhà Lê có chịu ảnh hưởng của Chu Hi trong việc đào tạo
con người yêu nước, bảo vệ tổ quốc.
– Mục tiêu thứ hai là tuyển chọn được các hiền tài giúp vua, trị nước,
Lê Thánh Tông đã xuống chiếu khẳng định rõ:
“Muốn có nhân tài, trước nhất phải chọn người có học. Phép chọn
người có học thì thi cử là đầu. Nước ta, từ khi trải qua binh lửa, nhân tài ít
như lá mùa thu, tuấn sĩ thưa như sao buổi sớm. Thái Tổ ta mới dựng nước
đã lập ngay trường học, nhưng lúc mới mở mang chưa đặt khoa thi.
Ta noi theo chí tiên đế, muốn cầu được hiền tài để thỏa lòng mong đợi”.
Lê Hiển Tông ra sắc dụ cho Lễ bộ Thượng thư Vũ Hữu rằng: “Nhân tài
là nguyên khí của Nhà nước. Nguyên khí mạnh thì trị đạo mới thịnh”.
Trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú có nhận xét
khoa cử đời Hồng Đức là thịnh nhất vì “chọn người cốt lấy rộng học thực tài”
và “tài được đem ra ứng dụng mà không bị bỏ rơi”, “không để sót nhân tài”,
“không dùng lầm người kém”.
Giáo dục chính thống thời Lê sơ tuy vậy không chỉ nhằm hai mục tiêu
trên mà nhằm mục đích sâu rộng hơn: truyền bá ý thức hệ phong kiến vào
trong nhân dân.
Giai cấp phong kiến Lê sơ muốn tất cả các nho sĩ đã được theo học
chữ thánh hiền không những chỉ suy nghĩ và làm theo mà còn là những người
truyền bá đạo Nho cho nhân dân, là những tấm gương để mọi người bắt
chước, noi theo. Nho giáo bắt rễ sâu vào tâm hồn mỗi con người, bám trụ vào
một tế bào xã hội là mục đích tối cao của giai cấp phong kiến thống trị.
Bên cạnh các trường của Nhà nước phong kiến tổ chức, có nhiều
trường tư của dân tự tổ chức ở các làng xã. Một số con em nhân dân lao
động cũng được theo học ở các trường tư thục của các thầy đồ trong các
làng xóm, thị trấn.
Với mục đích gửi con đến trường, các bậc cha mẹ một mặt cũng mong
muốn con em mình cố gắng học hành, thi cử, đỗ đạt làm quan để có cuộc
sống vinh hoa phú quý, thoát khỏi cuộc đời nghèo khổ. Song mục đích lớn
hơn là nếu công thành danh toại sẽ trở thành hữu ích, giúp dân giúp nước;
nếu không thành đạt cũng trở nên người biết sống theo đạo lí của dân tộc,
của cha ông. Đó là lối sống nhân nghĩa, biết nhớ ơn ông bà, cha mẹ, biết kính
trên nhường dưới, yêu làng xóm quê hương, đất nước, v.v…
Mẫu người phong kiến cần đào tạo là quân tử và kẻ sĩ. Kẻ sĩ có 3 loại
khác nhau. Còn quân tử là mẫu người lí tưởng, bao gồm đầy đủ cả đức lẫn
tài.
Trong cấu trúc về mục tiêu, đức được xếp trên tài. Đạo đức là nền tảng,
lấy tu thân làm gốc. Rèn đức phải đi đôi với rèn tài để hiểu biết sự vật đến tận
gốc, để có năng lực thật sự trong việc trị nước.
Phương hướng đề đạt tới mục tiêu là “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”.
Như vậy, có thể thấy đức gắn với mệnh đề “tiên học lễ” và tài đi sau
gắn với mệnh đề “hậu học văn”..
Mục tiêu giáo dục Nho giáo chủ yếu phục vụ cho giai cấp thống trị, song
vào Việt Nam, đặc biệt ở thời Lê sơ, nó đã biến dạng. Những nhân tố tích cực
của nó đã hòa nhập cùng Phật giáo với chủ trương “từ bi bác ái, cứu khổ cứu
nạn”, với Đạo giáo, trong tín ngưỡng hòa nhập với truyền thống nhân ái cổ
truyền của nhân dân ta, tạo nên bản sắc riêng khác với Trung Quốc và các
nước khác.
Điều đó lí giải vì sao mặc dù với lối học, từ chương khoa cử, dân tộc ta
vẫn xuất hiện nhiều nhân tài xuất chúng trên mọi lĩnh vực. Sở học và sở hành
vượt xa những điều dạy trong kinh sử, một lòng cứu dân giúp nước khiến
nhân dân kính phục, tôn thờ, kẻ thù phải ngạc nhiên, khiếp sợ.
Để đạt mục đích, mục tiêu giáo dục đó giai cấp phong kiến Lê sơ đã hết
sức quan tâm đến các vấn đề nội dung, phương pháp giáo dục và tổ chức hệ
thống nhà trường, việc học việc thi. Đó là những vấn đề sẽ được trình bày ở
các mục sau.
b) Nội dung giáo dục thời Lê sơ
Để tìm hiểu nội dung Nho giáo thời Lê sơ, điều tốt nhất là thông qua
chương trình học tập, sách giáo khoa của nhà nước phong kiến ban hành
thời ấy. Song tư liệu đó đã bị thất lạc, chưa sưu tầm được. Do vậy, phải tìm
hiểu gián tiếp qua các văn bản có liên quan đến giáo dục thời Lê sơ.
Qua “Dụ khuyến học” của Lê Thánh Tông và các bài văn bia, ta biết
được nội dung học tập ở các trường học thời Lê sơ bao gồm các sách kinh
điển Tống Nho, chủ yếu là các sách Ngũ kinh, Tứ thư do Chu Hi chú giải.
Nhiều tác phẩm nổi tiếng của vua và các danh nho đương thời, tuy có
đề cập đến nội dung tư tưởng của Nho giáo, song không có cuốn nào chuyên
chú giải, bổ sung sách kinh điển của Nho giáo cả. Các triều đại nhà Lê về
sau, từ thế kỉ XVI trở đi, Nho giáo sa sút dần, tình trạng học tập, thi cử trở nên
rất tồi tệ. Thời nhà Nguyễn, Nho giáo được phục hồi. Các vua sùng Nho như
Minh Mệnh, Tự Đức đều kêu gọi, khuyến dụ người học phải lấy phép học,
phép thi thời Hồng Đức làm mẫu mực. Vì vậy, căn cứ chủ yếu để tìm hiểu nội
dung giáo dục thời Lê sơ là những sách kinh điển Nho giáo do Chu Hi chú
giải. Nội dung giáo dục Nho giáo rất phong phú, ở đây chúng tôi chỉ nêu một
số vấn đề cơ bản sau:
Tu thân
– Người quân tử là một mẫu hình lí tưởng của nhà trường Nho giáo.
Khổng giáo chia người trong xã hội ra làm hai hạng, quân tử và tiểu
nhân. Nhà trường phong kiến thời Lê sơ khuyến khích người học phải phấn
đấu đạt tới người quân tử, một mẫu hình lí tưởng trong xã hội. Trong “Dụ
khuyến học”, Lê Thánh Tông nói: “Người quân tử được coi là thành đức, quý
ở chỗ có đủ cả “thể” lẫn “dụng”, đó là người có thực học và phát huy được cái
thực học của mình. Đạo của người người quân tử là mài giũa, rèn luyện cái
đức sáng của mình, truyền bá nó ra cho nhân dân noi theo, khiến cho bản
thân và ai nấy ngày một tốt hơn, mới hơn và đạt đến chỗ chí thiện (Đại học).
Các sách xưa phân biệt tính cách giữa quân tử và tiểu nhân dưới nhiều
hình thức và ngôn từ khác nhau. Có thể liệt kê một số so sánh sau:
+ Người quân tử hiểu sâu cái nghĩa (cái chính đáng, lẽ phải) nên dốc
lòng muốn làm việc nghĩa. Ké tiểu nhân hiểu sâu việc lợi nên dốc lòng lo làm
việc lợi. Làm việc nghĩa mà có lợi là chính đáng, làm việc lợi mà quên nghĩa
là trái lẽ.
(Luận ngữ – Lí nhân)
+ Quân tử cầu ở mình, tiểu nhân cầu ở người, cầu ở mình là chỉ cầu có
cái thực của mình, cầu ở người là cầu cái hư danh.
(Luận ngữ - Vệ linh công)
+ Quân tử hòa với mọi người mà không về hùa với ai, tiểu nhân thì về
hùa với mọi người mà không hòa với ai.
(Luận ngữ - Tử Lộ)
+ Quân tử khó làm đẹp lòng người khác, tiểu nhân thì dễ làm cho đẹp
lòng.
(Luận ngữ – Tử Lộ)
+ Quân tử giao với người trên thì không nịnh, giao với người dưới thì
không nhàm.
(Kinh dịch - Hệ từ hạ)
+ Quân tử cử động có thể đời đời làm đạo cho thiên hạ, hành vi có thể
khuôn phép, nói năng có thể làm chuẩn tắc cho thiên hạ. Người ở xa thì trông
mong, người ở gần không bao giờ chán.
(Trung dung)
– Các phẩm chất đạo đức mà quân tử phải tu dưỡng:
– Đức đầu tiên của người quân tử là Trung dung, Trung là ở giữa,
không nghiêng lệch về bên nào, dung là thường thường.
Trung dung là đạo người quân tử ăn ở đúng mực, không thái quá,
không bất cập. Đạo ấy cần đạt được 3 đức là Nhân, Trí, Dũng. Nhân là để
hiểu điều lành mà làm, trí là để biết rõ các sự lí, phải trái, dũng là để có cái khí
cương kiện mà theo làm điều lành cho đến cùng. Đó là lí tưởng của con
người tài đức kiêm toàn, nhưng nếu nhe một bên thì phần nhẹ phải là bên tài.
Trong thực tế, thường nói đến các nhóm đức tính cụ thể hơn, dễ xác định và
dễ thực hành hơn, đó là:
+ Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
+ Cung, khoan, từ, mẫn, huệ.
+ Ôn, lương, kiệm, ước.
+ Lễ, nghĩa, liêm, sĩ.
Ở đây chúng ta có thể đi sâu tìm hiểu mấy đức tính cơ bản mà nhà
trường phong kiến thời Lê đã tập trung giáo dục cho người học.
– Giáo dục nhân, nghĩa
Nhân là lòng thương người, là tình cảm trung hậu với vạn vật, là lòng
mong muốn cho vạn vật bao giờ cũng có cái khoái lạc sinh sống ở trên đời.
Đó là tư tưởng quan trọng, cốt lõi của Khổng giáo mà nhà trường Nho giáo
phải bồi dưỡng cho người học.
Nghĩa là điều mà con người phải làm trong bất cứ hoàn cảnh nào,
không vụ lợi.
Có lòng nhân mới hợp quần với nhau, coi nhau như anh em, xem cả
đoàn thể như một người, cả vũ trụ như nhất thể. Đã như một người thì hễ có
chỗ nào đau là cả người thấy khó chịu. Người bất nhân thì chẳng khác gì
người mắc bệnh tê, thân thể đau ở đâu cũng không hay biết. Người bất nhân
thì ai đau khổ thế nào, bị tai nạn ra sao cũng dửng dưng không hề có cảm
động chút nào.
Theo Mạnh Tử, nhân là bản năng cố hữu của tâm. Khi có nhân ở trong
tâm thì tự nhiên có ái biểu hiện ra ở hành vi. Khi có lòng trắc ẩn thì tự nhiên
có lòng tu, ố (xấu hổ, ghét) có lòng từ nhượng (nhường nhịn), có lòng thị phi
(biết phải trái). Đó là 4 đầu mối của đạo làm người: nhân, nghĩa, lễ, trí. Ông
chủ trương phải hết sức khuếch trương các nhân tính của mình.
“Phàm người ta là có 4 đầu mối ở mình thì mở rộng, cho đầy đủ cũng
như lửa bắt đầu cháy, suối bắt đầu tuôn, nếu có thể sung mãn được 4 mối
lớn ấy thì đủ giữ được bốn bể”.
(Mạnh Tử - Công Tôn Sửu)
Theo ông, người có phẩm hạnh là phải thực hiện được lòng nhân ái
một cách triệt để. Trước hết phải có hiếu với cha mẹ, rồi đến yêu muôn vật,
yêu nhân loại. Lòng nhân ái đó phải được thể hiện trong phép xử thế. Người
quân tử phải hàm dưỡng các khí hạo nhiên (chí khí ngay thẳng, khảng khái)
để hành động một cách tích cực nhằm cứu nhân độ thế, làm sáng tỏ đạo lí ở
đời.
“Thiên hạ có đạo thì đem đạo theo thân mà thi hành, thiên hạ không có
đạo thì lấy thân mà chôn theo đạo, không bao giờ thân với đạo lìa nhau vậy”
(Mạnh Tử – Tận tâm).
Người quân tử còn phải là người “Ở thì ở chỗ quảng đại của thiên hạ,
đứng thì đứng ở vị trí chính đáng của thiên hạ, đi thì đi trên con đường lớn
của thiên hạ, đắc chí thì cùng với thần dân noi theo, không đắc chí thì một
mình thực hành đạo nghĩa với mình, giàu sang không thể làm xiêu lòng,
nghèo hèn không thể thay đổi, vũ lực không thề khuất phục được chí lớn, như
thế mới là đại trượng phu (Mạnh Tử – Đằng Văn Công).
Trước Mạnh Tử, Khổng Tử cũng đã nêu rõ đức nhân ở người quân tử.
Đó phải là người thực hiện đạo trung thứ tức là:
“Cái gì mình không muốn làm thì đừng làm cho người khác (Kỉ sở bất
dục vật thi ư nhân) và
“Cái gì mình muốn dựng lên thì dựng cho người khác, cái gì mình muốn
đạt được thì làm cho người đạt”
(Kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân)
Làm được điều trên là đạo thứ, làm được điều dưới là đạo trung. Nhân
là cái gốc lớn của phép sinh hóa trong vũ trụ, thế gian nhờ đó mà đứng, vạn
vật nhờ đó mà sinh, quốc gia nhờ đó mà còn, lễ nghĩa nhờ đó mà phát hiện
ra. Nhân nghĩa là cái chuẩn, là lí tưởng mà con người muốn thành người
quân tử phải nhấn đấu để đạt tới. Bởi vậy, Khổng Tử khuyên:
“Người quân tử trong khoảng bữa ăn cũng không trái nhân, vội vàng
cũng phải theo nhân, hoạn nạn cũng phải theo nhân”.
–Giáo dục đức trí. Người quân tử muốn đạt tới những đức tính cao đẹp
thì cần phải học. Những đức tính đó là Nhân, Trí, Tín, Trực, Dũng, Cương,
song nếu không học để hiểu rõ lẽ phải trái thì kết quả đạt được sẽ có thể
ngược lại:
+ Nhân mà không học thành ngu
+ Trí mà không học thành phóng đãng
+ Tín mà không học thành hẹp hòi, cố chấp
+ Trực mà không học thành ngang ngạnh
+ Dũng và cương mà không học thành loạn.
Theo Khổng Tử học “lễ” là học đạo lí làm người:
“Người đệ tử, vào thì hiếu, ra thì đễ, cẩn thận mà tin tưởng, yêu cả mọi
người nhưng thân với người có nhân, làm được như thế có thừa sức mới học
văn”.
(Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn như tín, phiếm ái chúng nhi thân
nhân, hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn) (Luận ngữ).
Theo Khổng Tử, vẫn ở đây bao gồm lục nghệ: lễ, nhạc, xạ (bắn), ngự
(cưỡi ngựa), thư (viết chữ), số (tính toán). Nội dung Lễ và Văn đều nằm trong
lục kinh, các môn đệ của Khổng Tử sau này lấy nội dung giáo dục, giảng dạy
trong các sách kinh điển là ngũ kinh (các kinh Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu)
và tứ thư (Mạnh Tử, Luận ngữ, Đại học, Trung dung) để truyền thụ cho học
trò.
– Giáo dục đức dũng. Dũng cũng là một phẩm chất không thể thiếu
trong nhân cách của người quân tử. Bởi lẽ người quân tử cốt ở hành đạo,
muốn vậy phải có lòng dũng cảm. Tuy vậy, các triều đại phong kiến lại không
muốn có sự phê phán, phản kháng chế độ thống trị. Do đó, sử sách chỉ thấy
nêu gương một số người được coi là cương trực có tiết tháo dám lên tiếng
can ngăn, phản đối sự tàn ác của những người cầm quyền, những thói hư tất
xấu của xã hội, những trường hợp xả thân vì việc nghĩa. Trong các sách kinh
điển ít thấy lời răn dạy, chỉ dẫn hành động để thể hiện lòng dũng cảm của
người quân tử.
– Giáo dục lễ nhạc. Giáo dục Nho giáo rất coi trọng lễ nhạc, coi lễ là trật
tự của trái đất, nhạc là điều hòa của trời đất. Lễ theo nghĩa hẹp chỉ là sự thờ
thần để được phúc, tức nói đến sự cúng tế. Sau dùng nghĩa rộng bao gồm
những quy củ mà phong tục, tập quán đã thừa nhận. Sau nữa theo nghĩa
rộng lễ là quyền bính của nhà vua, cách tiết chế hành vi của dân chúng. Lễ
được coi là chuẩn mực của hành vi, có thể tùy thời mà thay đổi cho hay, cho
tốt hơn. Mục đích của lễ nhằm 3 điểm:
+ Nuôi dưỡng tính tình, đạo đức, rèn luyện tập quán làm điều tốt một
cách tự nhiên.
+ Điều chỉnh hành vi có chừng mực.
+ Tiết chế cái thường tình của con người
Nhạc là do lòng người thiện hay ác mà sinh ra, rồi lại cảm lòng người
khiến người ta làm điều thiện hay ác. Nhạc đời thịnh trị thì vui vẻ, nhạc lúc
mất nước thì bi ai sầu thảm. Nhạc có tác động mạnh mẽ tới đạo đức và chính
trị. Nhạc còn là sự hợp đồng, tạo nên quan hệ tương thân, nuôi dưỡng tâm
tình, điều hòa tính cách, tình cảm của con người. Lễ mà không có nhạc, quan
hệ con người sinh ra sự phân biệt thái quá. Nhạc mà không có lễ thành ra
khinh nhờn. Bởi vậy giáo dục lễ và nhạc phải đi đôi với nhau để dẫn đến kết
quả trong lòng tính tình điều hòa, ở ngoài hành vi hợp đạo lí, tà tâm không
còn, lòng dân quý về cái thiện.
– Tề gia.
Nho giáo coi việc giáo dục gia đỉnh có một vị trí rất quan trọng. Mạnh
Tử nói:
“Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình” và “nhà
mình không thể dạy mà đây được người ta là điều không có. Trị quốc, bình
thiên hạ làm được hay không phụ thuộc vào việc tề gia”… Như vậy, việc tề
gia trở thành vấn đề quốc sách chứ không còn là việc của cá nhân hay của
một gia đình, một dòng họ nữa.
Nội dung giáo dục gia đình bao gồm:
– Giáo dục hiếu đễ:
Chữ hiếu của Nho giáo rất quan trọng. Nó được coi là nền tảng triết lí,
vượt lên tính hợp lí bình thường, được coi là bất khả xâm phạm. Con có hiếu
với cha mẹ, em kính nể anh chị được coi là đức tính quý báu nhất, là tình cảm
tất yếu, tự nhiên của con người. Chữ hiếu đi liền với chữ trung. Chữ tình phải
nhẹ hơn chữ hiếu. Mặc dù đạo hiếu quá khắt khe, có phần độc đoán, song có
những điểm đáng trân trọng, giữ gìn.
+ Con cái phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, kính trọng cha mẹ, luôn làm
những điều thiện để cha mẹ được vui lòng. Khổng Tử coi việc con cái nuôi
nấng cha mẹ mà không kính thì không khác gì nuôi súc vật.
+ Thờ phụng tổ tiên là biểu hiện cụ thể của lòng hiếu thảo của con
cháu, các thế hệ sau đối với người đã khuất, sự thờ phụng đó là để tỏ lòng
tưởng nhớ, biết ơn đối với cha ông, gìn giữ và phát huy những di sản, thanh
danh tốt đẹp của tiên tổ.
– Giáo dục đối với con gái:
Xã hội phong kiến buộc chặt người phụ nữ vào chuẩn mực “tam tòng tứ
đức”.
Theo Nho giáo, người phụ nữ suốt đời chỉ là người phục tùng; ở nhà
phục tùng cha, lấy chồng phục tùng chồng, chồng chết phục tùng con (tam
tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Quan niệm khắc
nghiệt này đã đẩy phụ nữ vào địa vị người nô lệ suốt đời. Song bên cạnh đó,
tứ đức lại là mặt giáo dục mang tính chất tích cực bao gồm công, dung, ngôn,
hạnh.
Công là nết làm ăn cần cù, thức khuya đậy sớm, tài đảm đang nội trợ
của người con gái khi còn ở nhà, của người phụ nữ với địa vị làm vợ, làm
dâu, làm mẹ.
Dung là sự chăm chút một cách kín đáo nhan sắc của mình sao cho dễ
coi, duyên dáng.
Ngôn là giữ lời ăn tiếng nói dịu dàng, nhỏ nhẹ, khiêm tốn, không khoe
khoang, cười đùa ầm ĩ.
Hạnh là phẩm chất đạo đức, sự chung thủy với chồng được coi là tiêu
chuẩn cao nhất về đạo đức của người con gái.
– Giáo dục trật tự, kỉ cương, gia phong:
Chính danh định phận là một trong những tư tưởng quan trọng cảu học
thuyết Nho gia. Nó quy định người trên phải ngay chính để người dưới phải
theo mà bắt chước. Danh phận đã định rõ thì người nào có vị thế của người
đó, trên ra trên, dưới ra dưới, theo trật tự phân minh, “Vua ra vua, tôi ra tôi,
cha ra cha, con ra con”, đó là nguyên tắc, là tôn ti trật tự bắt buộc trong mỗi
gia đình cũng như ngoài xã hội. Nhờ cổ vũ và áp dụng nó một cách kiên
quyết, triệt để, Lê Thánh Tông đã đưa một xã hội khủng hoảng, rối ren trong
suốt 30 năm dưới các triều Lê Thái Tông, rồi Nhân Tông, Nghi Dân trở thành
một xã hội có trật tự, bình yên, thịnh trị.
Ở các gia đình có học, có gia giáo, việc giáo dục con cái gìn giữ gia
phong, nếp nhà rất được chú ý, coi trọng.
Gạt bỏ sự độc đoán, gia trưởng…, việc giáo dục gia đình có nền nếp,
trật tự đã tạo ra một nền nếp kỉ cương cần thiết cho cuộc sống, mà thiếu nó
xã hội sẽ rơi vào tình trạng rối loạn.
Trị quốc, bình thiên hạ
Sau ngày thắng lợi, vua Lê Thái Tổ gạt bỏ các thiết chế nhà Minh, dự
định tổ chức một bộ máy nhà nước theo mầu thời Trần, nhưng không thành
công, vì tình hình kinh tế – xã hội đã khác trước. Lê Lợi mất, những vua kế
nghiệp còn nhỏ tuổi (Thái Tông 10 tuổi, Nhân Tông 2 tuổi), mọi công việc triều
chính đều nằm trong tay các đại thần trong đó một số đông thấp kém về trình
độ văn hóa. Do sự siểm nịnh của gian thần, nhiều công thần bị giết hại. Trong
triều, ngoài xã hội rối ren, phức tạp, nạn tham quan ô lại, mua quan bán tước,
người dân bị bóc lột, ức hiếp, oan uổng diễn ra khắp nơi. Lê Thánh Tông lên
ngôi vận dụng học thuyết Nho giáo về trị quốc, ông thấy phải lập lại trật tự kỉ
cương, tập trung quyền lực vào tay vua, cải cách lại bộ máy hành chính.
Không thể chỉ đề cao đức trị mà phải coi trọng cả pháp trị. Lê Thánh Tông đã
cho ban hành bộ luật Hồng Đức (còn gọi là Quốc Triều hình luật), góp phần to
lớn cho việc ổn định lại xã hội. Một việc làm có tính chất quyết định trong việc
thực thi pháp trị là hoàn thiện bộ máy quan lại từ trung ương đến địa phương,
xây dựng một bộ máy nhà nước có năng lực và trách nhiệm cao.
Lê Thánh Tông đã phát triển mạnh nền giáo dục, đưa việc học tập và
thi cử vào quy củ, nền nếp. Quan lại được tuyển chọn bằng con đường khoa
cử, cốt chọn lấy người thực sự có đức và tài. Các quan lại đương chức, cứ 3
năm lại khảo khóa một lần, nhằm xác định xem viên quan đó:
– Có được nhân dân yêu mến không;
– Có lòng thương yêu nhân dân không?
– Trong hạt có dân trốn đi nơi khác không?
Nếu quan lại nào lười biếng, yếu hèn, đê tiện là con cháu công thần thì
bãi chức cho về hạng dân, nếu là con cháu thường dân thì bãi chức, sung
quân.
Bộ máy nhà nước và các quy chế của nó đã được duy trì trong nhiều
năm và đã đánh dấu một thời thịnh trị trong lịch sử chế độ phong Việt Nam.
– Thi hành đức trị:
Mặc dù trong phạm vi xã hội, các triều Lê sơ, nhất là từ Lê Thánh Tông
rất coi trọng vấn đề pháp trị, song nội dung giáo dục cơ bản trong các trường
học vẫn là vấn đề đức trị.
Mấy tư tưởng nổi bật trong học thuyết Nho giáo về đức trị là:
+ Đề cao vai trò của dân: Trong các sách Ngũ kinh và Tứ thư đều chỉ ra
rằng nhà cầm quyền phải làm theo ý dân mới được lòng dân.
Sách Đại học ghi: “Dân ưa thích điều gì, nhà cầm quyền cũng ưa thích
theo, dân chán ghét điều gì, nhà cầm quyền cũng chán ghét theo, đó mới là
cha, mẹ dân”.
Trong Kinh Thư lại nói: “Dân nên thân cận, không nên coi khinh. Dân là
gốc của nước, gốc có bến nước mới an ninh”.
Mạnh Tử còn đặt vị trí của dân ở ngôi thứ cao nhất:
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”…
+ Dùng đức để cai trị
Nho giáo chủ trương dùng đạo đức để cảm hóa con người hơn là dùng
hình phạt để trị người. Chỉ khi nào dùng đức không được mới dùng đến luật
pháp.
Khổng Tử quan niệm nhà cầm quyền phải nắm vững 3 điều hệ trọng.
Đó là Thứ – Phú – Giáo, tức là làm cho dân nhiều làm cho dân giàu, dạy dân
biết lễ nghĩa. Trị dân mà không dạy dân thì dân không biết cương thường,
đạo lí, không giữ được trật tự kỉ cương xã hội. Nhưng nếu dân nghèo, không
đủ ăn đủ mặc thì cũng không học được lễ nghĩa. Mạnh Tử cũng chủ trương
“hằng sản” rồi mới “hằng tâm”, có phú quý mới sinh lễ nghĩa.
Trong việc trị dân, điều cốt yếu là phải lấy sự dân tin làm trọng, muốn
vậy phải dùng nhân nghĩa. Người cầm quyền pảhi có tài đức thì nước mới
được thịnh trị, ngược lại thì nước sẽ loạn. Do vậy, người cầm quyền phải luôn
lo sửa mình.
+ Trung quân
Nho giáo coi vua là người cầm quyền cao nhất, là con trời (thiên tử),
thay trời để trị dân. Đó là chúa tể của xã hội, bởi vậy đạo quân thần phải
được coi trọng hàng đầu. Trong nhà, con phải hiếu với cha mẹ thì ngoài xã
hội, tôi phải trung với vua.
Ngược lại, vua phải là đấng minh quân, không được lạm dụng uy
quyền ấy để làm điều tàn bạo. Mạnh Tử là người chủ trương dân có quyền
phế truất hôn quân, vì lúc đó vua không còn là vua nữa. Ông nói:
“Nhà vua có điều lầm lỗi lớn thì (những quan trong tôn thất) phải can
gián, can gián nhiều lần mà không nghe thì đem người khác lên thay”.
(Mạnh Tử, Vạn chương hạ, 9)
Tuy vậy, triều đại phong kiến về sau, quá đề cao tam cương, trong đó
tôi phải phục tùng vua vô điều kiện. Những yếu tố tư tưởng dân chủ của
Mạnh Tử không được coi trọng, trái lại Hán Nho và Tống Nho lại cổ vũ và sử
dụng triệt để quan niệm của thái tử Phù Tô, con Tần Thủy Hoàng: “Vua bắt bề
tôi chết, bề tôi không chết thì không phải là bề tôi trung”.
(Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung)
Ở nước ta, trừ một số ít “ngu trung” theo xu hướng này, còn đông đảo
nho sĩ không tiếp nhận.
c) Phương pháp giáo dục Nho giáo thời Lê sơ:
Về phương pháp giáo dục và giảng dạy, từ thời Xuân Thu – Chiến
Quốc, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử đã đề cập đến khá cụ thể.
Ở đây chỉ nêu khái quát phương pháp giáo dụcc, giảng dạy như sau:
Về phương pháp trí dục:
+ Học tự kết hợp: nguyên tắc kết hợp học tập với độc lập suy nghĩ.
“Học mà không nghĩ thì mờ tối, chẳng hiểu gì, nghĩ mà không học thì khó
nhọc mất công không” (Luận ngữ)
+ Dụ dạo khải phát: Dạy học dùng cách ví von, hỏi han, hướng dẫn,
khêu gợi, mở mang để người học tìm ra chân lí, giáo dục cho người học
không chịu ảnh hưởng của dư luận mà tự mình suy xét ra kết luận.
+ Nhân tài thi giáo: Dạy học tùy theo đối tượng. Học thuyết Nho giáo rất
cao siêu, trừu tượng. Tùy trình độ môn sinh, Khổng Tử dạy mỗi người một
khác, không đồng loạt. Do vậy, dù ở trình độ nào, học trò cũng có thể tiếp thu
được.
+ Học nhi thời tập: Học đi đôi với thực hành. Người quân tử phải giữ
tâm trung chính, việc làm thành thực, để sự biết và việc làm hợp làm một. Đó
là trí mà hành, hành mà trí vậy. Học phải chuyên tâm trí, không hời hợt. Học
điều thiện để thực hành chứ không chỉ nói ra miệng mà thôi. Ở nhà trường cũ,
hành ở đây chủ yếu là về đạo đức, tư cách.
+ Hiếu học, lạc học: Người đi học phải có chí, chí đã lập thì phải kiên,
không thấy khó mà sợ, không thấy lâu mà nản. Phải hăng say đến mức vui
mà học.
“Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui
say mà học” (Luận ngữ – Ung giã).
“Muốn sự học có vui thú thì phải luyện tập luôn. Học mà cứ buổi buổi
tập luôn, thì trong bụng lại không thỏa thích hay sao” (Luận ngữ – Học nhi).
Về phương pháp đức dục
Các phương pháp trí dục trên thường bao gồm cả đức dục. Riêng về
đức dục, Nho giáo còn chú trọng đến nhiều phương pháp khác như:
+ Tự tu dưỡng theo con đường khắc kỉ, đó là:
– Tự tụng: Thường xuyên tự biện luận với mình về tri thức và hành vi
đạo đức, dựa trên chuẩn mực của các sách kinh điển, từ đó ngày càng tiếp
cận với những nguyên lí của học thuyết.
– Tự kiểm: Tự kiểm điểm khi chỉ có riêng mình để thử thách mình về sự
thành ý, chính tâm. Rèn luyện không để sự tức giặn, sợ hãi, vui mừng lấn át
khiến cho không nhận ra lẽ phải trái.
– Tự trách: Tự đòi hỏi mình với yêu cầu ngày càng cao mỗi khi gặp thất
bại, bao giờ cũng tìm nguyên nhân tự bản thân chứ không tìm lí do khách
quan (Tiên trách kỉ, hậu trách nhân).
– Tự giới: Tự răn mình, tự ngăn cấm mình không vi phạm những thói
hư tật xấu.
– Thận ngôn: Nói năng phải luôn thận trọng.
– Vô tranh: Không tranh giành với ai, có ý thức nhường nhịn người
khác.
+ Quan nhân:
Người học phải quan sát người để xét mình, chú trọng học gương tốt
của thánh hiền, của người xưa để rút ra bài học cho bản thân.
+ Kết giao bằng hữu: Chọn bạn tốt để cùng nhau học tập.
“Quân tử lấy văn mà họp bạn, lấy bạn mà giúp mình làm điều nhân”
(Luận ngữ – Nhan Uyên). Bạn với người trung chính thì sẽ học được điều
hay, bạn với kẻ gian tà thì sẽ nhiễm điều dở. Bởi thế phải “chọn bạn mà chơi”.
+ Thân giáo trọng ư ngôn giáo.
Sự làm gương của người thầy quan trọng hơn lời giảng. Muốn vậy
người thầy cũng phải luôn luôn tu dưỡng, học hỏi để có tri thức uyên bác.
Thầy biết 10 chỉ để dạy 1.
Sự thực hiện phương pháp giáo dục thời Lê sơ:
Không thấy có tài liệu nào nói nhà nước phong kiến Việt Nam mở
trường sư phạm để đào tạo giáo viên. Các thầy đồ ở các làng xã hoặc các
nhà khoa bảng mở trường dạy học trò tùy theo năng lực và kinh nghiệm của
mình mà để ra phương pháp giáo dục và giảng dạy.
Căn cứ vào những tài liệu giáo dục thời Nguyễn quy định việc tổ chức
và phương pháp giáo dục mô phỏng theo giáo dục thời Hồng Đức, có thể rút
ra mấy vấn đề sau đây:
+ Kết hợp chặt chẽ đức dục với trí dục:
Trẻ cắp sách đến trường là tiếp thu chữ nghĩa của thánh hiền. Bởi vậy
việc học được coi là điều rất quan trọng. Xin học cho con, cha mẹ phải lễ gia
tiên ở nhà, chọn ngày lành tháng tốt sửa lễ đến nhà thầy xin học. Thầy đồ
trước khi nhận học trò mới, lại phải cáo gia tiên và đức Khổng Tử, có khi lễ tại
văn chỉ làng. Sau buổi lễ khai tâm, đứa trẻ từ nay phải sống và học tập theo
nề nếp. Một thời gian dài, trước khi học chữ, đứa trẻ phải học cách khoanh
tay chào hỏi, cách đi đứng, nói năng lễ độ đối với thấy với bạn, với cha mẹ,
ông bà, anh chị ở nhà, với mọi người trong làng xóm. Đi học phải có thái độ
chăm chi, cần mẫn, bài học phải thuộc, bài làm phải đủ. Lười biếng là bị phạt
bằng đòn roi, quỳ ở góc nhà hoặc chui qua háng của trưởng tràng. Lại phải
hết sức coi trọng sách vở, chữ nghĩa của thánh hiền. Nhặt được tờ giấy có
chữ phải đốt đi…
Khi đã qua tiểu học trở thành một nho sĩ, phải chú ý từ cách ăn mặc
quần áo, khăn, giầy, đi đứng khoan thai, nói năng, lễ độ cư xử nho nhỏ, đúng
mực. Vậy là phải học lễ rồi tới học văn. Đức và trí kết hợp chặt chẽ, tri và
hành đi đôi với nhau. Quá trình tu dưỡng, học tập đó có sự giám sát của thầy,
của bạn, của hội đồng môn ở trường, có sự chỉ bảo của cha mẹ, ông bà, anh
chị, của họ tộc, của gia pháp, gia phong ở nhà, ở làng xã thì có hương ước,
hội tư văn, và có dư luận khen chê của xã hội.
+ Tư tưởng “thuật nhi bất tác” trong dạy và học:
Đó là tư tưởng học và làm theo sách thánh hiền, không sáng tạo gì
thêm cái mới.
Bởi vậy, người học chỉ cần nhớ mặt chữ, học thuộc lòng ghi nhớ lâu dài
những tri thức trong sách vở. Nếu lúc đầu chưa hiểu, lâu dần sẽ hiểu. Hiểu
rồi, phải làm đúng, không được tùy tiện. Đó là điểm chủ yếu cơ bản của
phương pháp giáo dục thời đó.
+ Động viên tinh thần hiếu học:
Nhân dân ta có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Đến thời Lê sơ, truyền
thống này được cổ vũ đến đỉnh cao của nó. Các trường học, lớp học thời Lê
sơ đã gây được một không khí học tập nghiêm túc và hứng thú, lôi cuốn
người học vượt mọi khó khăn, gian khổ.
Vào những ngày sóc, vọng hàng tháng (mồng 1 và ngày rằm) trường
Quốc Tử Giám và các trường học ở huyện, tỉnh thường tổ chức các cuộc
khảo khóa, bình văn. Những văn bài hay của các nho sĩ được đem đọc và
bình luận, khen chê, có tác dụng cổ vũ học trò, sĩ tử say mê, cố gắng học tập.
Các hình thức nêu danh, yết bảng các sĩ tử thi đỗ, việc khắc tên vào
bảng vàng bia đá, việc tổ chức lễ vinh quy bái tổ cho các ông nghè về làng
cùng với sự ban thưởng ân tứ của vua đã cổ vũ lớn lao cho việc học. Chính vì
vậy mà chưa có thời là nào việc học việc thi lại sôi nổi, phát triển mạnh mẽ,
liên tục như thời Lê sơ.
Những tiến sĩ, thám hoa, bảng nhãn, trạng nguyên chẳng những làm
rạng rỡ gia đình, tiên tổ mà còn làm vinh dự cho quê hương, xóm làng.
Gạt bỏ những mặt tiêu cực, nhìn nhận và đánh giá một cách khách
quan, có thể nói nội dung và phương pháp giáo dục thời Lê sơ đã hòa nhập
cùng các hệ tư tưởng Phật, Đạo, đặc biệt là hòa nhập với những giá trị truyền
thống dân tộc, tạo ra những giá trị cơ bản trong tính cách con người Việt
Nam. Những giá trị đó là:
1. Trung quân gắn liền với ái quốc
2. Cần cù và sáng tạo trong lao động
3. Anh hùng bất khuất, yêu chuộng hòa bình
4. Nhân nghĩa
5. Lạc quan.
Trải qua nhiêu biến thiên của lịch sử, những tính cách này mang bản
sắc riêng của con người, của dân tộc Viết Nam vẫn tồn tại: phát triển và đổi
mới để phù hợp với từng thời kì. Hiện nay, những truyền thống cao đẹp này
cần được kế thừa và phát huy trong giai đoạn mới.
d) Hệ thống giáo dục, việc học, việc thi thời Lê sơ
Để xây dựng chế độ phong trung ương tập quyền, nhà Lê đã rất chú ý
đến đào tạo đội ngũ quan lại đông đảo. Bởi vậy, hệ thống trường lớp, việc
học, việc thi rất phát triển.
Về hệ thống trường lớp:
Năm 1429, Lê Thái Tổ khôi phục lại Quốc Tử Giám, hạ lệnh cho hoàng
tử và con các quan lại trong triều từ 9 tuổi trở lên đến học.
Nhưng phải tới 1483, Lê Thánh Tông mới mở rộng Quốc Tử Giám
thành nhà Thái học, xây dựng thành một trường lớn bao gồm giảng đường
lớn là Minh luân đường, hai giảng đường Đông, Tây, bí thư khố (kho sách).
Lại có các nhà ở nội trú cho 300 xá sinh ăn học trong trường. Phía ngoài cùng
có hai dãy nhà bia để ghi tên các nhà tân khoa tiến sĩ.
Về chế độ trừ hoàng tử có chế độ học tập riêng, các giám sinh qua thi
cử, sát hạch, được tuyển chọn vào học, chia ra 3 loại học bổng khác nhau:
– Thượng xá sinh: Thi trúng tam trường, học bổng được cấp 1 quan
tiền một tháng.
– Trung xá sinh, thi trúng nhị trường, học bổng 9 tiền 1 tháng
– Hạ xá sinh, thi trúng một trường, học bổng 8 đến 1 tháng.
Con em quân dân học giỏi được tuyển vào học, nhưng nghe giảng
riêng ở tăng quảng đường. Các tăng quảng sinh không được cấp học bổng
và phải ở ngoại trú.
Một ưu đãi khác là con các quan lại hỏng thi, không có khả năng học ở
Thái học viện thi được đến đọc sách ở các quán, cục như Sùng lâm quán,
Nho lâm quán, Tú lâm cục. Ai không thích học văn, có thể học võ ở Vệ kim
ngô.
Ở các địa phương, các trường công được mở đến các lộ, phủ. Đội ngũ
học quan ở Thái học viện bao gồm các Tế tửu, Tư nghiệp, giáo thụ, bác si
năm kinh. Các học quan được tuyển chọn không vụ vào bằng cấp mà chủ yếu
là do năng lực, tuổi phải từ 35 trở lên. Ở địa phương, mỗi lộ phủ có một
trường công do một học quan làm huấn đạo, trông nom việc giảng dạy, khảo
hạch để tuyển chọn học sinh vào danh sách thi hướng (kể cả học sinh trường
tư). Ngoài hệ thống trường công, ở các làng xã có các trường lớp tư thục,
dân lập, do dân tự lo liệu.
Khác với trường lớp hiện đại ngày nay, trường lớp phong kiến thời Lê
sơ có thể là ở công đường hoặc nhà riêng của học quan, thầy đồ, có thể là
nhà một phú hộ, địa chủ giàu có đứng ra tổ chức. Lớp học không phân chia
tuổi tác, trình độ cao thấp. Học trò có thể chỉ 6, 7 tuổi, mới học vỡ lòng, có thể
bắt đầu học kinh sử, cũng có người đã lớn tuổi chuẩn bị đi thi.
Hàng ngày học sinh đi học như sau:
Sáng sớm: đến nhà thầy nộp bài rồi về nhà ăn cơm sáng.
Sau đó, trở lại lớp học liền 6 tiếng.
Học sinh học liên tục cà 7 ngày trong tuần không nghĩ. Hàng năm có 3
kì nghỉ dài ngày là tết Đoan ngọ (hơn 1 tháng), tết cơm mới (tháng 10, nghỉ 1
tháng), tết Nguyên đán (nghỉ 2 tháng).
Ngoài “lễ nhập môn” hàng năm cha mẹ học sinh trả tiền học phí cho
thầy 2 lấn, tổng cộng khoảng 4 quan tiền. Ngoài ra, tùy khả năng, có thêm
khoản tiền tết thầy nhân các kì nghỉ để thầy về thăm nhà và các khoản bất
thường do hội đồng môn thu khi gia đình thầy có công việc lớn. Những con
nhà nghèo túng thường không phải đóng góp gì.
– Cách học thời Lê sơ. Việc học chữ nho thời Lê sơ chia hai bậc: Bậc
tiểu học và bậc đại học.
Ở bậc tiểu học, trẻ em bắt đầu học các sách do ta soạn như Nhất thiên
tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, rồi đến Sơ học vấn tân, Ấu học ngũ ngôn thi.
Sau đó học các sách do người Trung hoa soạn như Tam tự kinh, Minh tâm
bảo giám, Minh đạo gia huấn.
Phương pháp dạy là thầy đọc trước, trò nhắc lại, thầy kể nghĩa trước,
trò bắt chước kề lại một cách máy móc, mặc dù hầu như không hiểu gì. Về
nhà phải học thuộc lòng để hôm sau đọc lại, thuộc làu làu sẽ được điểm cao
(ưu, bình), ngắc ngứ thì điểm trung bình (thứ), không thuộc sẽ bị phê điểm
kém (liệt). Lười học không thuộc bài sẽ bị… xử phạt bằng roi mây, chui gậm
giường, quỳ góc nhà, thậm chí chui qua háng trưởng tràng. Chữ Hán là chữ
tượng hình, học rất khó. Bởi vậy, trê em phải học viết rất công phu, không chỉ
ở bậc tiểu học mà còn kéo dài nhiều năm sau, đủ các kiểu “chân, thảo, lệ,
triện”.
Ở bậc đại học, cách học có phát huy tính chủ động của người học hơn,
học sinh không phải đi học thường xuyên hàng ngày nữa mà định lệ mỗi tuần
vài ba buổi. Đến lớp, thầy sẽ giảng sách Ngũ kinh, Tứ thư, là những sách kinh
điển của Thánh hiền – Ngũ kinh gồm các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu,
còn tứ thư là các sách Đại học, Luận ngữ, Trung dung và Mạnh Tử. Nội dung
tư tưởng của sách rất sâu rộng, mang tính chất triết học, đạo đức học, văn
học…, như đã đề cập ở phần nội dung. Ở nhà, học sinh phải “nấu sử sôi kinh”
sao cho thuộc như cháo. Lại phải đọc nhiều sách giải nghĩa, ghi nhớ các điển
cố, có khi dài gấp mấy lần nguyên bản. Lại phải học phép làm câu đối thơ
phú, kinh nghĩa, văn sách sao cho đúng phép, đúng luật Nhiều nho sĩ còn đọc
tham khảo các sách của Bách gia chư tử, Bắc sử, Nam sử… nữa. Việc tự học
công phu như vậy kéo dài hàng chục năm mới đủ sức thi Hương. Có thể nói,
ở giai đoạn này người học tự học là chính.
Ở bậc đại học, hàng tháng, thường có hai cuộc bình văn vào ngày sóc
và vọng (mồng 1 và ngày rằm hàng tháng) hoặc một buổi vào ngày cuối
tháng. Đầu tháng, quan Đốc học ra đề văn yết tại dinh, sĩ tử đến chép đề
mang về nhà làm, nửa tháng sau đem nộp. Cuối tháng, quan đốc học và các
vị khoa bảng họp chấm bài, chọn ra một số bài hay nhất để tổ chức buổi bình
văn. Trong ngày đó, sĩ tử khắp nơi lũ lượt kéo về tham dự. Ai có bài được
bình sẽ rất vinh dự, hãnh diện với bè bạn, xóm làng.
Mỗi năm, quan đốc học tổ chức một kì khảo khóa, ai đỗ đầu được gọi là
“thầy khóa” và được miễn các việc phu đài, tạp dịch. Trước kì thi Hương 4,5
tháng, có một kì tỉnh hạch để chọn danh sách gửi về bộ Lễ phân phối vào các
trường thi.
Cách tổ chức thi cử và các khoa thi:
Hạnh kiểm người đi thi.
Các ơ rất coi trọng việc tổ chức các kì thi để tuyển chọn nhân tài ra làm
quan. Muốn được dự thi phải có hạnh kiểm tốt. Thí dụ: năm 1462, Lê Thánh
Tông hạ lệnh cho các xã quan phải kiểm tra hạnh kiểm người đi thi Hương.
Nếu là con cháu của những người mang tiếng xấu (bất hiếu, bất mục, loạn
luân, điêu toa…) hay con cái những người làm nghề hát xướng thì không
được đi thi. Con em những người nghịch đảng, nguy quan đều bị loại.
Các khoa thi
Thời Lí – Trần – Hồ, các khoa thi đã được tổ chức, song chưa nhiều và
đều đặn. Phải từ nhà Lê, thi cử mới đi vào quy củ, nề nếp. Nhà Lê cứ 3 năm
tổ chức một kì thi Hương. Năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội.
Người đỗ ki thi Hương chia thành hai hạng, hạng cao là hương cống,
hạng thấp là sinh đồ, người đỗ đầu gọi là giải nguyên.
Thi Hội tổ chức cho những người đã đỗ thi Hương, để lấy học vị cấp
nhà nước. Ai đỗ thi Hội phải qua kì thi Đình, tổ chức ở sân rồng do vua ra đề
đề lấy từ tiến sỉ trở lên.
Thời Lê, bắt đầu từ năm 1448, tiến sĩ được chia làm ba loại:
+ Đệ nhất giáp: Tiến sĩ cập đệ (3 người đỗ đầu gọi là tam khôi):
– Trạng nguyên
– Bảng nhãn
– Thám hoa
+ Đệ nhị giáp: Tiến sĩ xuất thân.
(Hoàng giáp)
+ Đệ tam giáp: Đồng tiến sĩ xuất thân.
Các tiến sĩ đời Lê được nhà vua cho dự lễ xướng danh, ban yến và tổ
chức vinh quy bái tổ. Tên tuổi được khắc vào bia đá đặt ở Văn Miếu. Ngoài
các kì thi chính, còn có các kì thi bất thường như các khoa Minh kinh (1429),
Hoành từ (1431) các kì thi lại viên (tuyển người viết chữ đẹp và tính toán giỏi),
thi võ.
Cả thi Hương và thi Hội, các sĩ tử phải trải qua 4 kì (gọi là 4 trường).
Các bài thi gồm các thể loại:
Kinh nghĩa (trường 11, chiếu – chế – biểu (trường 2), thơ phú (trường
3), văn sách (trường 4) thứ tự này cũng có thể thay đổi giữa các trường qua
các triều đại. Ai được vào thi Đình sẽ phải làm một bài thi đối sách do chính
vua ra đề. Thường có hai phần: cổ văn và kim văn. Về kim văn, vua thường
lấy những vấn đề nan giải của đương triều để hỏi các thí sinh về cách giải
quyết (về thiên tai, về những vấn đề kinh tế, chính trị, thời sự…)
Số người đỗ các khoa
Thời kì Lê sơ (1428 – 1527), trải qua 100 năm với 9 đời vua, số các
khoa thi và số người đỗ có thể tóm tắt như sau:
– Tổng số các khoa thi Hội: 26
– Số người đỗ (có ghi):
Trong đó:
– Trạng nguyên: 21
– Bảng nhãn: 38
– Thám hoa: 21
– Tiến sĩ: 992
Riêng thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497) trong 37 năm trị vì, mở được
12 khoa thi Hội, số đỗ Trạng nguyên là 10 người.
Điều đáng chú ý nữa là việc xây dựng các trường thi, tổ chức các hội
đồng coi thi và chấm thi ở triều Lê làm rất nghiêm mật, quy mô.
Trường thi có rào tre nhiều lớp, trong trường thi lại chia riêng các khu
vực để thí sinh thi, vào sâu là 2 khu ngoại trường và nội trường – giữa các
khu đều có lính canh. Vòng ngoài trường có đội quân có đủ voi, ngựa đi tuấn
dưới sự chỉ huy của viên tuần xước để phòng sự gian trá và bất trắc xảy ra.
Hội đồng thi gồm có các quan lại sau:
– Đề điệu: chánh chủ khảo
– Giám thí: phó chủ khảo
– Thu quyển: thu nhận quyển thi của thí sinh
– Di phong: làm nhiệm vụ “rọc phách”
– Đằng lục: chép lại từng bài văn của thí sinh sang một quyển khác để
giám khảo chấm.
– Đối độc: đọc lại bài đằng lục, đối chiếu với bài làm của thí sinh cho
chính xác.
3. Chính sách sử dụng và đãi ngộ hiền tàiSử dụng hiền tài
Từ thời Lí, nhất là thời Trần, Hồ, Lê sơ, sự tôn trọng và sử dụng người
có học vấn cao đã trở thành một quy tắc trong việc xây dựng bộ máy quản lí
của triều đình. Những người thi đạt học vị cao thì được nhận chức cao ở triều
đình, thi đạt học vị thấp thì làm quan ở các lộ, phủ huyện. Theo sách Kiến văn
tiểu lục, những người thi đỗ tiến sĩ thời Lê được đãi ngộ rất hậu, được giao
các chức Thị lang, Thượng thư, đỗ cử nhân được bổ tri phủ, tri huyện.
Chính sách phong tước cho quý tộc đời Trần quy định những chức vụ
mà chỉ những người trong tông tộc mới được làm: như tể tướng, phiêu kị
tướng quân, các triều còn có chế độ ban quốc tính cho những người có công
như Lí Thường Kiệt tên thực là Ngô Tuấn, được làm em nuôi vua và mang họ
Lí. Phí Công Tín, Đỗ Kính Tu, Mẫn Du cũng được nhà Lí cho đổi sang họ vua.
Đồng thời, có thời dùng cả phép tiến cử như Chu Văn An, tuy không đi thi,
nhưng vì có tài học rộng vẫn được vua nhà Trần vời vào làm chức Tế tửu
Quốc Tử Giám (hiệu trưởng), Đoàn Nhữ Hài chỉ là một nho sĩ trẻ tuổi, nhờ
vào một bài biểu tạ tội làm hộ vua Trần Anh Tông mà được vào làm quan
trong triều đình, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Mại là những nho sĩ có tài
đều được cân nhắc bổ dụng. Giới quan lại thuộc đẳng cấp quý tộc, tông thất
lúc đầu gắn như thuần nhất. Về sau, hàng ngũ quan lại được bổ sung thêm
nhiều thành phần khác không có gốc quý tộc, trong đó tầng lớp nho sĩ ngày
càng chiếm ưu thế.
Về đãi ngộ
Các vương triều thực hiện chính sách đãi ngộ rất trọng hậu đi với
những hiền tài, coi họ là tài sản quý giá của đất nước.
Thời Lí, quan lại chưa có lương bổng thà được phong thưởng thực ấp
(số hộ nộp tô tức cho quan được phong thưởng) tùy theo có công lớn hay
nhỏ, hoặc ban thưởng “thác đao điền”. Thái úy Tô Hiến Thành được ban thực
ấp ở Cổ Am (Hải Phòng) Lí Thường Kiệt được ban thực ấp 10.000 hộ…
Đến thời Trần, năm 1236, Trần Thánh Tông lập chế độ cấp lương bổng
cho các quan văn võ.
Thời Lê, Hoàng thái tử được cấp 500 quan tiền một năm. Quan nhỏ
nhất chỉ được 6 quan một năm và được hưởng lộc điền. Đặc biệt, đến thời
Lê, ngoài việc cấp lương bổng, còn có các chính sách đãi ngộ về tinh thần
như tổ chức treo bảng vàng, lễ vinh quy bái tổ rất long trọng, lập bia đá đề
danh các tiến sĩ để ở văn Miếu.
Khảo hạch và thưởng phạt
Từ thời Lí (1621), sau khi được bổ nhiệm, các quan lại còn được khảo
hạch định kì về nhân cách và năng lực công tác, để có chính sách thuyên
chuyển, khen thưởng, đãi ngộ.
Ngoài việc khen thưởng thẹo đinh kì, còn có ban thưởng cho những
người có công trạng đột xuất, đặc biệt là sau những lần chinh chiến thắng lợi.
Tuy vậy, cũng có vua không công minh trong việc thưởng phạt mà nghe
theo bọn nịnh thần, nên có nhiều trung thần khảng khái đã từ chối việc ban
thưởng, rũ áo mũ, từ quan như Chu Văn An, ngự sử Trương Đỗ, tướng Đỗ
Lễ thời Trần.
KẾT QUẢ
Để đánh giá kết quả giáo dục Nho giáo thời này, cần phải có một công
trình nghiên cứu riêng.
Dưới đây, chúng tôi tạm nêu lên mấy điểm để bạn đọc cùng tham khảo.
Những đóng góp của Nho giáo
Thực hiện được mục tiêu đào tạo đội ngũ quan lại cho các vương triều
Nhìn vào sự phát triển từ thời Lí đến Lê sơ, Nho giáo từ chỗ giữ vị trí
còn mờ nhạt đã tiến lên trở thành nền giáo dục chính thống, từ chỗ là nơi
tuyển chọn một số nho sĩ bổ sung vào bộ máy nhà nước phong kiến tiến tới
chỗ là nơi đào tạo chủ yếu nhân tài cho đất nước, cung cấp cho yêu cầu về
quản lí nhà nước với thể chế xã hội ngày càng hoàn chỉnh. Nhờ đó mà các
triều đại nói trên đã có được những vua sáng, tôi hiền, tướng tá có tài, đưa
đất nước Đại Việt tiến lên trình độ cường thịnh một thời, khiến cho phong kiến
phương Bắc tuy lớn mạnh hơn nhiều lần, phải kiêng nể.
Như vậy mục tiêu đào tạo đội ngũ quan lại cho bộ máy cầm quyền của
các triều vua đặt ra đã được thực hiện.
Thúc đẩy nền văn hóa Đại Việt phát triển rực rỡ
Cùng với những bước phát triển về kinh tế, chính trị, từ thế kỉ X trở đi,
thì nền văn hóa mang bản sắc dân tộc của nước ta phát triển mạnh mẽ và đạt
được những thành tựu rực rỡ. Các nhà khoa học đã đánh giá rằng chính văn
hóa (chủ yếu là văn hóa Đại Việt) thời ấy không chỉ tiếp thu, chịu ảnh hưởng
của văn hóa chung của vùng, là “văn hóa trên cơ sở Khổng giáo” mà ngược
lại, nó đã phát triển ở mức cao hơn cả văn hóa các nước xung quanh cùng
thời, có tác dụng góp phần làm phong phú cho nền văn hóa của khu vực
Đông Á. Đó là sự giao lưu văn hóa, thông qua các cuộc đi sứ của các danh sĩ
nước ta (như lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi) với triều đình Trung
Hoa và các sứ giả các nước láng giềng (như Triều Tiên, Nhật Bản). Đó là sự
đóng góp không nhỏ của nhiều danh sĩ nước ta bị cống nạp cho phong kiến
Trung Hoa vào việc xây dựng nền văn hóa nước đó, như Nguyễn An đã là
công trình sư xây dựng cố cung Bắc Kinh nổi tiếng.
Trên lĩnh vực văn học, ở thời Lí, Trần, nhiều áng văn thơ đã xuất hiện.
Bên cạnh các bài thơ và văn bia với chủ đề là đạo Phật đã có những áng thơ
văn chính luận nổi tiếng, phản ánh cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta, như “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn, bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí
Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ văn của Trần Hưng Đạo, và những bài thơ ca
ngợi chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông của Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão…, từng
được mệnh danh là văn phong hào khí Đông A.
Cũng trong thời Trần, Hồ, chữ Nôm được sử dụng rộng rãi trong văn
học. Các tác giả dùng chữ Nôm cũng rất nhiều như Hàn Thuyên, Nguyễn
Mộng Tuân, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Vẩn An, Hồ Quý Li,
Nguyễn Trãi v.v…
Dưới thời Lê việc sáng tác thơ văn được chính nhà vua cổ súy. Lê
Thánh Tông đã làm chủ súy hội Tao đàn nhị thập bát tú, sáng tác tập thơ
Hồng Đức quốc âm, và nhiều tập thơ khác.
Nguyễn Trãi với tài thơ văn đã viết hàng trăm thư dụ hàng quân Minh,
có sức mạnh ngang với cả một đội hùng binh, để lại cho đời sau thiên cổ
hùng văn “Bình Ngô đại cáo” bất diệt.
Sử học đã bát đầu từ thời Lí. Đến thời Trần, việc biên soạn lịch sử dân
tộc đã được triều đình đẩy mạnh, đáng chú ý là độ Đại Việt sử kí của Lê Văn
Hưu.
Một số ngành Khoa học về thiên văn, lịch pháp, y học, Phật học đã xuất
hiện và đạt những thành tựu. Cuối thời Trần có Đặng Lô, Trần Nguyên Đán là
nhà thiên văn, lịch pháp nổi tiếng.
Về y học có nhà y dược học lỗi lạc là Tuệ Tĩnh với tác phẩm “Nam
dược thần hiệu”.
Về sư phạm xuất hiện đội ngũ nho sĩ nổi tiếng làm nghề dạy học. Trong
đó, nổi bật hơn cả là Chu Văn An, Trần Ích Tắc. Tiếc rằng, sau này, Trần ích
Tắc đầu hàng quân Nguyên Mông nên sự nghiệp vì thế mà lu mờ đi.
Vê toán học có hiện tượng đặc biệt là sự ra đời của quyển “Toán pháp
đại thành” do Trạng nguyên Lương Thế Vinh soạn. Sách bao gồm những kiến
thức toán học đương thời, đủ đáp ứng yêu cầu về những phép tính thông
thường như cộng, trừ, nhân, chia bằng bàn tính các phép tính từ số nguyên
đến số thập phân, phép tính diện tích, đúng và gần đúng ruộng đất có dạng
hình vuông, chữ nhật, hình thoi, hình thang, hình tròn, cách tính quy tắc tam
suất, cách tính thể tích gần đúng gò đống, đê điều, phép bình phương, khai
phương, các bài tính đố vui, v. v… Ấy thế mà Lương Thế Vinh lại bị Lê Thánh
Tông phê là: “học nghiệp không tiến” vì lẽ ông không đi vào cuộc đua tài văn
chương, chỉ ham nghiên cứu về toán, viết sách về Phật, Đạo và văn học giải
trí như chèo tuồng.
Có thể nói rằng cha ông chúng ta khi tiếp xúc với Nho giáo không chỉ
sử dụng nó làm công cụ để giúp vua trị dân mà còn coi Nho giáo như một
công cụ để nâng cao trình độ tư duy của mình, nói rộng ra là nâng cao trình
độ tư duy của dân tộc để có đủ sức đương đầu với một quốc gia lớn mạnh
hơn mình gấp nhiều lần. Đây là kết quả bên ngoài dự kiến của các vương
triều về mục đích của giáo dục Nho giáo.
Truyền bá nền văn hóa dân tộc. Khi học và dạy Nho giáo các nhà nho
Việt Nam không dạy và học một cách thụ động giáo điều. Vốn mang trong
mình truyền thống yêu nước, giàu lòng nhân ái, tinh thần tự lập, tự cường của
dân tộc được hun đúc trong hàng ngàn năm lịch sử, các nhà nho nước ta lại
có cách hiểu và luận giảng những tài liệu kinh điển khác nhau. Chu Văn An đã
biên soạn “Tứ thư thuyết ước” để dạy học sinh. Hồ Quý Li làm sách “Thi
nghĩa” (Giải nghĩa Kinh Thi) bằng quốc âm; dịch thiên Vô dật trong Kinh Thi,
để cho vua và các cung phi học, viết sách “Minh đạo” phê phán các thần
tượng Nho giáo Trung Hoa. Đáng kể là tầng lớp nho sĩ bình dân, nhưng ông
đồ ở các làng xóm, ngoài việc dạy học, họ đã có tác dụng to lớn trong việc kết
hợp tư tưởng Nho giáo chính thống với văn hóa dân gian, đưa vào nhân dân
ta những giá trị mang bản sắc Việt Nam. Họ cùng sống ở làng xã, gần gũi với
dân, làm nghề dạy học, làm thầy lang, giúp dân trong việc thảo ra các hương
ước, lệ làng, hướng dẫn việc tổ chức ma chay, cưới xin, lễ thượng họ, làm
văn tế, câu đối, làm các bài hát dân ca… Qua các hoạt động đó, làng xã dần
dần hình thành nên những phong tục, tập quán, xây dựng nên những mối
quan hệ xã hội, quan hệ gia đình vừa có ảnh hưởng của Nho giáo, vừa có
ảnh hưởng của văn hóa dân tộc. Nền văn hóa ấy được lưu truyền và phát
triển từ đời này sang đời khác bám sâu trong quảng đại dân chúng, mà trong
đó đại đa số lại là những người không biết chữ.
Một điều nữa cần lưu ý là, khi cho con cái đi học, người nông dân Việt
Nam, trừ một số rất ít có ước mơ con cháu mình sẽ thành đạt ra làm quan,
vinh hiển một đời, làm rạng danh cho gia tộc, còn phần đông, họ chỉ mong
con kiếm năm ba chữ để biết cách làm người, con cái lương thiện, biết phân
rõ phải trái, xử thế cho đúng mực và trong thực tế, những học trò đi thi không
thành danh chiếm đại đa số những người đi học (thường thì một trăm người
mới đỗ được một) khi trở về làng cũ học cày, họ vẫn giữ được chữ “lễ” đã
từng được học ở trường.
Đây cũng là một kết quả mà khi đặt ra việc học Nho giáo những nhà
cầm quyền không thể nghĩ tới.
Trên đây là những kết quả đạt được của giáo dục Nho giáo kể từ khi
nước nhà giành được độc lập đến thế kỉ 15. Đặt nó vào hoàn cành lịch sử thì
đó là những tác dụng tích cực đối với tiến trình phát triển của dân tộc ta.
Những mặt hạn chế
Những mặt hạn chế của Nho giáo có rất nhiều. Dưới đây chúng tôi chỉ
khuôn vào hai mặt chính.
Về nhận thức
Vì là một học thuyết được xây dựng nhằm bảo vệ giai cấo thống trị nên
Nho giáo nhấn mạnh những quan điểm có lợi cho giai cấp đó. Ví như giải
thích rằng chế độ quân quyền là hợp với ý trời, lòng người, làm cho dân
chúng cần lao an phận thủ thường, nhất mực tuân theo sự dạy dỗ chỉ báo của
nhà vua, vì vua là thay mặt cho trời cai trị thiên hạ. Lại nữa, Nho giáo coi
trọng ba mối quan hệ cơ bản là vua tôi, cha con, chồng vợ, nhằm giữ vững kỉ
cương, tôn ti trật tự trong xã hội làm cho người dân cũng cho điều đó là phải,
và cứ thế mà tuân theo.
Một nhận thức nữa rất có tác hại đến sự phát triển của xã hội là Nho
giáo rất coi thường các nghề nghiệp, công việc lao động chân tay “đó là
những nghề hèn mọn”, “những quân tử không cần biết”. Từ vua quan đến các
nho sĩ đều kiêng tránh không nhòm ngó gì đến việc phát triển kĩ thuật thì làm
sao xã hội có thể phát triển được. Trong vòng năm, sáu trăm năm, nông
nghiệp nước ta ít được phát triển về kĩ thuật, vì thế các khoa học tư nhiên
không có yêu cầu thôi thúc để phát triển.
Phụ nữ – một lực lượng chiếm 50% dân số vẫn bị Nho giáo rất coi
thường, bị coi là loại người “khó dạy” và bị tước hết mọi quyền của con người
kể cả quyền được học hành. Họ hoàn toàn bị phụ thuộc và không có chỗ
đứng trong các sinh hoạt chính trị xã hội mà chỉ giữ vai trò nội trợ, sinh con đẻ
cái mà thôi.
Về thực tiễn cuộc sống
Giáo dục Nho giáo đã dẫn đến tình trạng trì trệ về kinh tế cũng như về
khoa học kĩ thuật ở nước ta. Xã hội nước ta thời Lí Trần, Lê sơ là xã hội cực
thịnh của chế độ phong kiến. Trừ một vài cuộc chiến tranh, nói chung dân
chúng sống trong cảnh hòa thuận, thanh bình, song ở mức thấp. Nền văn học
và một số khoa học nhân văn, nghệ thuật có phát triển mạnh, song về khoa
học kĩ thuật thì phát triển rất chậm. Sở dĩ có một số thành tựu về kĩ thuật
trong nông nghiệp và một số ngành khác như đóng tầu thuyền, kiến trúc…
chủ yếu là do sự tổng kết lâu đời kinh nghiệm thực tiễn của người lao động
chứ không phải là công trình của các cơ quan quản lí nhà nước. Cứ lấy lĩnh
vực giao thông cũng đủ rõ: sự đi lại vận chuyển chỉ dựa vào ngựa, thuyền và
sức người khiêng gánh. Một phương tiện cải tiến dựa trên phát minh về bánh
xe và ma sát lăn đã thấy có từ rất lâu đời ở Trung Quốc, song ở nước ta thời
đó còn rất hiếm.
Nhiều phong tục tập quán lạc hậu do Nho giáo tạo nên, như giáo dục
bằng roi vọt, bất bình đẳng nam nữ, chế độ gia trưởng, từ thời đó vẫn tồn tại
suốt chiều dài lịch sử và còn ảnh hưởng đến đời sống hiện nay.
4. Nguyễn Trãi, nhà giáo dục lớn của Việt NamNguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc, ngôi “sao khuê” của thế kỉ XV, danh
nhân văn hóa của nhân loại.
Nguyễn Trãi còn là nhà giáo dục lớn của dân tộc Việt Nam. Ông sinh
vào năm 1380 (?) tại kinh đô Thăng Long, trong dinh thất của đại thần Trần
Nguyên Đán.
Từ bé, ông được hưởng sự chăm sóc, giáo dục của mẹ và ông ngoại,
Trần Nguyên Đán. Khi ông lên 5 tuổi thì mồ côi mẹ. Năm ông mười tuổi thì
ông ngoại mất. Từ đây, ông về ở với cha là Nguyễn Phi Khanh ở Thường Tín,
Hà Đông, được sự giáo dưỡng thật chu đáo.
Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) và cùng cha ra
làm quan giúp Hồ Quý Li đổi mới đất nước trước muôn vàn khó khăn. Giặc
Minh xâm lược nước ta, tướng tá, quan lại nhà Hồ bị giặc bắt khá nhiều, và bĩ
giải về Trung Hoa. Trong số đó có Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi và em trai
theo xe tù lên tận Ải Nam Quan với mục đích hầu hạ cha bị tù đày và mang
hài cốt cha về quê hương khi ông mất ở nước người. Tuy nhiên, nghe lời
khuyên sáng suốt của cha, Nguyễn Trãi quay trở lại, và mười năm sau tìm
đến khởi nghĩa Lam Sơn giúp Lê Lợi tiến hành kháng chiến chống giặc Minh.
Nhân dân ta đại thắng. Đất nước giành quyền độc lập, tự chủ. Nhà Lê đứng
lên nắm quyền cai trị, xây dựng xã hội phong kiến Việt Nam lớn mạnh hơn
trước. Trong triều đình nhà Lê, Nguyễn Trãi được vua giao nhiều công việc
quan trọng: trong đó có việc chăm lo giáo dục nhân tài, chủ trì các khoa thi
lớn, dạy dỗ thái tử để chuẩn bị người kế nghiệp vua Lê. Chẳng được lâu, triều
đình nhà Lê lục đục. Nhiều chuyện sai trái, đau lòng đã xẩy ra. Nguyễn Trãi
đã 3 lần xin vua cho về Côn Sơn (Hải Dương) dưỡng lão và dạy học. Hình
ảnh thầy Trãi hiện lên trong mấy vần thơ đẹp, do ông sáng tác sau đây:
– Chạnh yên hà trải một gian đình
Quét đất thiêu hương giảng Ngũ kinh
– Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc
Gian lều cỏ đội đức Đường Ngu
Tơ hào chẳng có, đền ơn chúa
Dạy láng giềng, mấy sĩ nho…
(Ngôn chí – Quốc âm thi tập)
Giai đoạn rối ren lúc đầu của triều Lê qua đi. Sau đó là nhiều năm cực
thịnh của xã hội Việt Nam phong kiến. Nền giáo dục chính thống của đất
nước là Nho học, phát triển cao chưa từng có. Có nhiều nhân tố tạo nên sự
hưng thịnh ấy của nền quốc giáo, trong đó phải tính đến ảnh hưởng của
Nguyễn Trãi, ảnh hưởng của các tư tưởng giáo dục, đào tạo con người cho
chế độ, giáo dục với chính trị, giáo dục đạo lí làm người… rất sáng suốt của
ông được các vua Lê sáng suốt tiếp thu và thực hành chỉ đạo hoạt động giáo
dục.
Những ý kiến đặc sắc của Nguyễn Trại được ẩn giấu trong các sách
ông viết để lại cho đời sau, đặc biệt là ẩn giấu trong thơ, văn của ông. Có thể
nêu lên một số tư tưởng lớn của Nguyễn Trãi, về công việc giáo dục con
người, sau đây:
Quan điểm của ông về vai trò của sự giáo hóa
Nguyễn Trãi nhắc con cháu rằng hiểu biết là một giá trị to lớn, là của
báu tồn tại dài lâu. Người có hiểu biết cao sâu là nhờ sự giáo dục, nhờ sự
học tập mà thành tựu được. Vậy, muốn làm người thì phải học, dù sớm tối có
khó khăn. Ông nói:
“Con cháu chớ hiềm sớm tối ngặt
Thi, Thư thực ấy báu ngàn đời”.
Theo nghĩa thực, Thi, Thư là hai kinh quý giá phải học. Đó là quy định
của nội dung Nho giáo. Theo nghĩa bóng thì Thi, Thư được ám chỉ là sự hiểu
biết, là kiến thức học được. Tư tưởng đề cao giáo dục được diễn đạt rất giản
dị, dễ hiểu.
“Nên thợ nên thầy vì có học
No ăn, no mặc bởi hay làm.”
(Quốc âm thi tập)
và
“Muốn ăn quả, dưỡng nên cây
Ai học thì hay mưa lệ chầy”.
Theo ý Nguyễn Trãi, thì, để làm người, ta phải lo súc tích cho mình
nhiều thứ, trong đó, cái quý nhất là “chữ nghĩa”. Suy ngẫm kĩ mới thấy ý của
ông thật chí lí.
Nguyễn Trãi lại có quan niệm đặc sắc về sức cải biến sâu xa của giáo
dục. Nho giáo Trung Hoa đề cao sự giáo hóa, song chính Khổng Tử lại khẳng
định rằng trong xã hội có một loại người không thể giáo cải được, đó là lớp
“Hạ ngu”, và có loại khó dạy, đó là phụ nữ!
Nho giáo Trung Hoa lại cho rằng tính nết con người là trời định sản,
không thay đổi được.
Nho giáo Việt Nam, qua Nguyễn Trãi, có tư tưởng khác về vấn đề này.
Theo Nguyễn Trãi, tính nết của con người vẫn có thể bị chi phối, có thể uốn
nắn theo ý định của nhà giáo dục tài giỏi. Tuy nhiên, kết quả ấy chỉ có được
khi người ta biết tổ chức quá trình giáo dục không có sai sót đáng kể nào
ngay từ gia đình, với sự dạy dỗ của cha mẹ. Nguyễn Trãi viết:.
“Lề phú tính, uốn nên hình
Ắt đã trừng trừng nẻo thuở sinh”
“Truyền ngôi là việc của quốc gia
Dạy con là chí tình trong thiên hạ”.
Nguyễn Trãi để cao Thi, Thư nhưng lại để cao thực hành, coi trọng việc
vận dụng kiến thức sách vở vào đời sống. Ông tuyên bố: “Đạo cốt ở thực
hành”. Ông nói đúng, và cả đời mình, ông là hình mẫu cho kiểu học – hành
thông minh, hữu ích: Học nhiều để biết nhiều, đem cái sở học vận dụng vào
hoạt động vì mọi người. Nguyễn Trãi là bậc trí giả nổi danh và cũng là nhà
hoạt động thực tiễn xuất chúng.
Quan niệm về Đức và Tài trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Những người sáng lập ra Nho giáo đều hình dung rằng một nhân cách
được cấu thành bởi hai bộ phận là đức và tài. Nhà trường Nho học chủ
trương con đường học hỏi của mỗi người là “Tiên học lễ, hậu học văn” bởi
đức là cái gốc, tài là phần ngọn
“Đức giả bản dã
Tài giả mạt dã”,
như sách “Trung Dung” đã nói.
Để luận giải về đức và tài, các nho gia đã phân tích, chỉ rõ các đức tính
cao đẹp, các tài năng hiếm thấy ở các vua thời xưa, những ông vua mang
tính lí tưởng, như Nghiêu, Thuấn, Văn Vương, Võ Vương… Nho giáo coi đó
là mẫu người toàn mĩ mà hậu thế cứ theo đó mà sống, mà ước mơ…
Nguyễn Trãi thông hiểu Nho học. Tuy nhiên, ông có ý kiến của riêng
mình, rất độc đáo đến không ngờ, về vấn đề đức và tài.
Ông cũng khẳng định: “Làm người phải có đức cùng tài”.
Trong thế giới đạo đức của mỗi con người, đức tính nổi trội hơn hết,
quan trọng nhất là tính nhân hậu, thương yêu thành thật đồng loại. Ông viết:
“Đạo đức hiền lành được mọi phương
Tự nhiên cả chúng muốn suy nhường”
Ông cho rằng lòng nhân ái là thứ của cải đệ nhất quan trọng mà ai cũng
nên cố mà thành đạt cho được. Ai thương mình, lo toan, cho mình trước phải
biết làm điều tốt phúc cho người khác. Ấy là bởi thương người như thể
thương thân. Lòng nhân ái được xếp vào hàng những đức tính cao quý mà
con cháu cần giữ cho kiên trì suốt đời, giống như lo giữ tính trung thực, tính
siêng năng cần mẫn.
“Nhân, Nghĩa, Trung, Cần giữ tích ninh
Khốn thì hay khéo, khó hay hanh”.
Ông nhắc nhở người đời:
“Giàu, người hợp. Khó, người tan
Hai ấy hằng lề sự thế gian
Lòng thế bạc đen dầu có biến
Ta gìn nhân nghĩa chớ loàn đan”.
Với Nguyễn Trãi, lòng thương người, thái độ vị tha là mục tiêu tu dưỡng
của đạo đức ở mỗi người; sống để làm điều hợp nghĩa lí là lí tưởng của bậc
trí giả:
Từ quan niệm về nhân nghĩa, Nguyễn Trãi vươn tới khái niệm rộng lớn
về đạo đức: nghĩa đồng bào. Đây là khái niệm chưa từng xuất hiện trong hệ
thống lí luận về đức dục của Nho giáo Trung Hoa.
“Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền
Cành Bắc, cành Nam một cội nên
Ở thế, nhịn nhau muôn sự đẹp
Cương, nhu cùng biết cả hai bên.”
Điều mà Nguyễn Trãi thường nhắc đi nhắc lại là những người có quyền
cai trị xã hội phải có lòng nhân. Biểu hiện của đức nhân của người có quyền
thế là cách xử thế, cách quyết định của mình phải đảm bảo tính “khoan nhân”.
Ông nhắc thái tử và quan chức bấy giờ phải “Thương yêu dân chúng, nghĩ và
làm những việc khoan nhân Với Nguyễn Trãi, tính thương người không đồng
nghĩa với dĩ hòa vi quý vô nguyên tắc. Nhân nghĩa không phải là chịu nhẫn
nhục để phi nghĩa lấn tới. Càng nhân nghĩa càng phải đấu tranh trừ khử phi
nghĩa một cách kiên quyết. Trong trường hợp này, diệt trừ cái ác chính là
nhân nghĩa. Ông tuyên bố:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Đó là lòng nhân tích cực, đáng giá, cần ủng hộ và học theo.
Tuy nhiên, việc dùng chiến tranh, cực hình là điều vạn bất đắc dĩ.
Nguyễn Trãi chủ trương sách lược “tâm công” trong quân sự và chính trị.
Đánh vào lòng người, thức dậy phần người còn lại ở kẻ xấu, kẻ đối địch của
ta, tránh đổ máu cho mọi bên tham chiến khi có thể tránh được để mưu cầu
hòa hiếu dài lâu cho các dân tộc, quốc gia… Đó là biểu hiện của lòng nhân ái
của ông trong cuộc đời thờ phụng, chiến đấu cho lí tưởng nhân nghĩa. Nhờ tư
tưởng ấy mà ông đã giúp các vương chủ giải quyết được nhiều việc trọng đại
của lịch sử một cách trôi chảy đáng làm bài học cho các đời sau. Nguyễn Trãi
viết nhiều về đức qua thơ, văn của ông. Ông ít nói với con cháu về chữ tài.
Tuy nhiên, ông lại có ý kiến rất độc đáo về mối quan hệ của đức và tài. Theo
ông, có đức và có tài thực sự là trước hết phải có lòng nhân ái. Không có lòng
thương yêu người khác thì đức và tài chỉ phát triển theo hướng vị kỉ hẹp hòi
mà thôi. Cuộc đời sẵn nhiều ví dụ về điều đó. Ông viết:
“Tài, đức thì cho lại có nhân”
Quả thực, ở đây bộc lộ quan điểm đánh giá đức và tài của Nguyễn Trãi
là có nguyên tấc, rất rạch ròi, chính xác. Có làm lợi cho người khác, có đem
điều thiện phúc lại cho con người hay không? nhiều hay ít? Đó là tiêu chuẩn
đánh giá đức, tài ở một cá nhân xác định. Ở lĩnh vực này, Nguyễn Trãi vượt
cao hơn trí tuệ của các đại thụ Nho giáo. Ông lại viết:
“Tài thì kém đức một vài nhân”
Thế ra, theo ông thì tài không phải là ngọn và đức cũng không được coi
là gốc? Lại một quan điểm khác quan niệm của các bậc thánh hiền Nho giáo.
Phải chăng ông đã nghĩ tới sự toàn diện của sự phát triển ở con người cần
được giáo dục? Điều chắc chắn có thể nói ở đây: Quan niệm độc đáo này là
của ông, một con người hành động tích cực vì sự tốt đẹp của xã hội, của con
người; một con người mà các đức tính tốt đã làm động lực bên trong thúc đẩy
hành động mãnh liệt hướng vào lí tưởng vì mọi người. Con người như thế
cần tài năng lắm để hoàn thành mọi nhiệm vụ. Nhờ có tư tưởng như thế mà
Nguyễn Trãi đã học tập, hoạt động để trở thành mẫu người “Văn võ song
toàn”, mẫu người quân tử, theo Nho giáo thời cực thịnh.
Lo lắng cho việc giáo dục thế hệ hậu học
Lớp người đi trước lo về sự phát triển của thế hệ kế tiếp mình là lẽ
thường tình ở các xã hội. Nguyễn Trãi cũng lấy cái lo của thế hệ làm cái mình
lo. Hơn thế, ông nhận thức được vai trò của mình trong chính sự nhà Lê; ông
là người có cái nhìn ở tầm nhìn của một nhân vật kinh bang tế thế. Và đặc
biệt là ở những năm ông tham gia xây nền móng cho triều đại nhà Lê, trong
hoàng tộc, cung đình đã nảy sinh những chuyện lục đục phe cánh, tranh
giành ảnh hưởng, hãm hại nhau giữa lúc Lê Thái Tổ đang đi vào đoạn cuối
đời mình, sức yếu dần, trí tuệ thiếu sáng suốt rõ rệt, triều đình rệu rã thì dân
chúng bất an, những chuyện xấu xa có ngay ở nhiều quan cao chức lớn… tất
cả đang ảnh hưởng xấu tới lớp trẻ, làm cho chúng thất vọng, hoài nghi, mất
phương hướng sống. Ông viết:
“Hậu học thùy tương tác chuẩn thằng?”
Lấy ai làm mực, làm dây cho lớp trẻ đang cần được giáo dục. Với lớp
thiếu niên, thế hệ lớn tuổi, cha mẹ, và nhất là các quan chức nắm quyền cai
quản, từ nhỏ đến lớn, là hiện thân của chế độ, của lí tưởng chính trị mà chúng
được sách học chỉ vẽ, thầy giáo truyền cho. Sách nói thế này, người lớn sống
thế khác. Bi kịch ấy làm thế hệ trẻ mất lòng tin, xã hội thiếu lòng tin ở bộ máy
nhà nước. Lòng tin của dân chúng vào vua quan là báu vật của một nước
phong kiến. Nước có thể thiếu lính, thiếu cái ăn, nhưng, chữ tín không thể
thiếu được.
Hẳn vì lẽ đó, Nguyễn Trãi đòi hỏi rất nghiêm về vai trò cũng nêu gương
sáng của tầng lớp quan lại. Trong một bài viết thay vua Lê, ông nói rõ với
hoàng tử và quần thần:
“Ở cảnh an vui phải nghĩ tới việc gian nan ngày trước; hưởng điều sung
sướng phải nghĩ đến công tích lũy của tổ tông; phải cẩn thận lúc trước để tính
hỏi sau; phải làm nên việc lớn từ việc nhỏ; phải thuận lòng trời mới được lòng
người”.
“… Phàm những phép giữ nước, cấm quân, những phương giữ mình,
trị nước thi hành nên cố sức, chăm chỉ, chớ ham vui; hòa thuận tôn thân nhớ
giữ một lòng hữu ái; thương yêu dân chúng, nghĩ và làm những việc khoan
nhân; chớ thưởng bậy vì tư ân, chớ phạt bừa vì tư nộ”.
(xem Quân trung từ mệnh tập)
Một xã hội mà giới quan chức làm được vậy là xã hội lí tưởng. Nguyên
tắc “thân giáo” – bản thân người giáo dục là gương sáng để dạy dỗ người
khác – một nguyên tắc bao giờ cũng đúng mà Nho giáo đề cao, được cả xã
hội thực hiện. Được thế giáo dục sẽ thuận lợi biết bao!
Nguyễn Trãi không chỉ nghĩ, chỉ yêu cầu người khác, mà, ông đã kiên
trì chiến đấu, gương mẫu trong mọi công việc lớn nhỏ để dựng xây xã hội
như thế, xã hội có vua Nghiên Thuấn, có dân Nghiền Thuấn!
Trong gia đình, ông rèn dạy con cháu về các đức tính: thương người,
giữ lễ nghĩa, chăm lo học hành, cần mẫn làm việc chân tay, ăn mặc giản dị,
tiết kiệm tối đa, không đam mê tửu sắc, không hung hãng nóng giận. Và
Nguyễn Trãi, chẳng thiếu gì nếu ông muốn, vẫn khản thâm, gậy trúc, giầy
cỏ…, sống như một tiên ông, nhưng lại để tâm nơi dân chúng.
Quan điểm dùng người hiền tài
Nguyễn Trãi thấm nhuần Nho học về nhiều nội dung, trong đó có vấn
đề chính sách tôn hiền. Là một nhà chiến lược của thời đại, ông quan tâm tới
chuyện này và chuyện giáo dục là lẽ đương nhiên. Hai chuyện này gắn chặt
với nhau khăng khít. Ông cũng đề cao vai trò của người hiền tài trong việc
chính trị, điều mà các thánh hiền Nho giáo đã viết khá nhiều. Tuy nhiên,
Nguyễn Trãi lại có quan điểm dùng người đặc biệt độc đáo tiến bộ hơn thế hệ
tiền nhân. Ông khuyên vua:
“Được thịnh trị tất ở cử hiền
Được hiền tài cốt ở tiến cử”
“Người làm vua thiên hạ phải lấy đó làm việc trước tiên…”
“Chọn người hiền không cứ loại nào,
Dùng người tài coi như mình vậy.
Kén người thì rau Phỉ, rau Phong đều hái
Đức tài thì đồ thô, đồ méo không quên”.
Đường lối chọn dùng nhân tài như thế là đạt mức hợp lí tối đa. Tuy ở
xã hội ông sống điều đó chỉ là ước muốn, song quan điểm của ông thật cao
sáng, vượt lên trên thời đại.
Tóm lại, sơ lược một số tư tưởng về giáo dục của Nguyễn Trãi như thế
chắc còn thiếu sót. Song chỉ chừng ấy vấn đề cũng đủ để dân tộc, nhân loại
tôn vinh ông, và cũng đáng cho ngày hôm nay những người quản lí và thực
hiện công tác giáo dục quốc gia suy nghĩ.
5. Vai trò của Lê Thánh Tông đối với giáo dục Thời Lê sơa) Vài nét về tiểu sử và hoàn cảnh xã hội
Lê Thánh Tông tên là Tư Thành, con thứ tư và là con út của Lê Thái
Tông, sinh ngày 27 năm Nhâm Tuất (1442) mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Giao, con
của Thái Bảo Ngô Từ, một khai quốc công thần nhà Lê. Thuở nhỏ, do có sự
biến cung đình, Tư Thành sống ở ngoài cung khuyết, đến năm bốn tuổi, mẹ
của Nhân Tông, che rèm giúp con trị nước vì Nhân Tông mới có 2 tuổi, cho
đón Tư Thành về cung, phong làm Bình Nguyên Vương cho cùng học với các
vương công tại tòa Kinh Diên. Tư Thành rất thông minh và chăm chỉ học tập,
tay ít khi rời quyển sách. Các sách kinh sử, lịch toán, binh thư đều tinh thông,
được các sử gia đương thời khen là “võ giỏi, văn hay”.
Triều đình nhà Lê lúc đó lâm vào tình trạng rối ren. Sau khi Lê Lợi mất,
những người kế nghiệp như Thái Tông, Nhân Tông lên ngôi đều còn ít tuổi
(10 và 2 tuổi) nên mọi việc quyết đoán trong triều đều nằm trong tay các đại
thần mà phần lớn những người này đều có lòng đố kị, ít học. Hậu quả là đã
dẫn đến sự kết đảng, bè cánh, bức hại những trung thần, như Nguyễn Trãi,
Lê Nhân Chú, Lê Sát, Lê Ngân, Trịnh Khả… lần lượt bị giết. Nghi Dân, con cả
của Thái Tông trước đây bị biếm truất, đã giết mẹ con Bang Cơ để lên ngôi
vua khiến cho triều đình và xã hội càng thêm rối loạn. Năm 1460, cuộc chính
biến do nhóm cựu thần Lê Xí, Lê Liệt chỉ huy đã lật đổ Nghi Dân, đưa Bình
nguyên vương lúc đó 18 tuổi lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông. Triều Lê
Thánh Tông là một trong những triều vua dài nhất trong lịch sử (1460 – 1497).
Cá nhân Lê Thánh Tông đã có những đóng góp quan trọng vào đời sống
nhiều mặt của đất nước, ông đã dựa vào những điều kiện mới của đất nước
tiến hành hàng loạt chính sách lớn quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội để
đưa đất nước tránh khỏi tình trạng suy thoái và vươn lên thành một nước độc
lập và cường thịnh. Đặc biệt ông đã có công lớn đưa giáo dục Nho giáo đạt
tới đỉnh cao trong lịch sử giáo dục thời phong kiến của nước ta.
b) Những đóng góp của Lê Thánh Tông đối với giáo dục
Lê Thánh Tông coi việc học và thi cử có tầm quan trọng hàng đấu trong
việc xây dựng một đội ngũ quan lại có đủ năng lực thực hiện những chủ
trương của ông về việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, phù hợp với tình
hình mới của đất nước. Sử có ghi vào những năm 40, 50 của thế kỉ 15,
những biểu hiện xấu của buổi cuối đời Trần như nạn tham nhũng, hối lộ, ức
hiếp dân chúng được phục hồi. Nhiều quan chức đứng đầu trong triều không
còn khả năng làm việc, già yếu vẫn tham quyền cố vị, trở thành một vật
chướng ngại cho sự phát triển xã hội lúc đó. Bản Trung hưng kí viết: “Nhân
Tông mới 2 tuổi sớm lên ngôi vua, kẻ thân yêu giữ việc, tệ hối lộ lộng hành,
phường dốt đặc nổi dậy như ong. Tế thần Lê Sát, Lê Sảng thì dốt đặc. Văn
giai như Đào Công Soạn tuổi gần 80, tế thần như Lê Ê không biết một chữ.
Người trẻ không biết nghĩ, tự ý làm càn, người già không chết đi thành ra tai
hại. Bán quan, mua ngực, ưa giàu, ghét nghèo…, kẻ siểm nịnh được nghe
theo, bọn đạo sát thị được bổ dụng”. Để xây dựng một đội ngũ quan lại có đủ
năng lực và uy tín nhằm cải thiện tình hình mọi mặt của đất nước lúc đó, Lê
Thánh Tông chủ trương lấy trình độ học vấn làm cơ sở để tuyển chọn, muốn
vậy phải coi trọng việc học và tổ chức các khoa thi đều đặn.
Chính nhà vua viết “Dụ khuyến học” kêu gọi toàn dân ra sức học tập
nhằm đoạt lấy bảng vàng để phò vua, trị nước. Việc học do nhà nước tổ chức
được đẩy mạnh, việc học ở các trường tư trong dân gian được khuyến khích
nhiều. Lê Thánh Tông cho mở rộng nhà Thái học, Quốc Tử Giám, lấy thêm
học trò vào đấy, lập thêm phòng ốc cho học sinh vào ăn ở, học tập.
Ông lại cho lập Bí thư khố để chứa sách. Cho in sách rộng rãi cho các
địa phương, định lại cách kén chọn sĩ tử, bổ sung luật lệ thi cử, mở thêm
những khoa thi đặc biệt ngoài những kì thi thường lệ 3 năm một khóa.
Nhà vua thân chủ trì những khoa thi Hội và các khoa hoành từ. Ông
cũng định ra nhiều hình thức cổ vũ người thi đỗ. Ngoài việc tiếp tục và làm
trang trọng hơn lễ xướng danh, treo bảng vàng, cấp ngựa, ban mũ, áo, cờ
biển, cho về vinh quy, Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia tiến sĩ, khắc tên
những người trúng tuyển các khoa thi Hội từ khoa thi năm 1442 trở đi. Tất cả
những hình thức động viên nói trên đã làm nức lòng sĩ tử trong việc chạy đua
vào con đường khoa cử. Việc học lúc ấy phát triển rất mạnh, số người đi thi
ngày càng đông. Đời Nhân Tông, khoa thi Hội năm Mậu Thìn (1448) có 720
người thi, đến khoa thi năm Quý Mùi (1463) đời Lê Thánh Tông đã lên 1400
người, khoa Ất Mùi (1475) có 3000 người thi.
Tính từ khi bắt đầu có thi vào thời Lí đến khi hết thi chữ Hán (1075–
1918), tổng số tiến sĩ (thời Lí Trần gọi là Thái học sinh) là 2885 người thì
riêng dưới triều Lê Thánh Tông đã có tới 501 người. Suốt trong lịch sử khoa
cử nước ta, có 56 trạng nguyên thì riêng triều Lê Thánh Tông có 10 trạng
nguyên. Nhiều nhà cha con, anh em đỗ đồng khoa. Có nhà cha con, chú
cháu, anh em nối nhau đỗ. Nhà Thân Nhân Trung có bốn cha con, anh em,
ông cháu kế tiếp nhau thi đỗ. Nhà Nguyễn Nhân Bị có 5 anh em đều đỗ tiến
sĩ. Riêng Nhân Bị và anh là Trọng Ý cùng dự vào hội Tao Đàn.
Lê Thánh Tông rất chăm lo đến việc trước thuật và là nhà thơ nổi tiếng.
Trong đời Lê Thánh Tông, có nhiều công trình nghiên cứu được biên soạn
theo lệnh của nhà vua. Đáng chú ý là bộ Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ
Liên hoàn thành năm Hồng Đức thứ mười (1479). Đây là một trong những bộ
sử xưa nhất của ta còn truyền lại nguyên vẹn, làm cơ sở cho việc biên soạn
nhiều cuốn sử sau này. Lẽ Thánh Tông cũng ra lệnh cho Trần Khắc Kiệm sưu
tầm thơ văn của Ức Trai. Sau hơn 10 năm, đã sưu tầm được hơn 100 bài
thơ.
Thiên nam dư hạ tập là một tác phẩm do tập thể Thân Nhân Trung,
Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận, Đào Cử, Đoàn Văn Lễ biên soạn, Lê Thánh
Tông đề tựa. Đó là một bộ sách đồ sộ gồm 81 quyển, ghi chép những điều lệ,
sự việc, thơ văn thời Lê Thánh Tông và những điều khảo cứu được của nước
ngoài. Đến nay chỉ còn 10 quyển là bản sao.
Bản thân Lê Thánh Tông cũng viết rất nhiều. Các chiếu, chế dụ, sớ,
cáo… vua đều tự làm lấy. Ông còn soạn 24 điều huấn dụ phổ biến trong dân
gian, làm thơ về việc để tang. Khi đi đánh Chiêm, vua có viết “Sách bình
Chiêm”.
Riêng về mặt sáng tác thơ văn, nhà vua rất say mê. Sau mỗi lần có
cuộc du lãm, vua và quần thần cùng sáng tác, ngâm vịnh và đề thơ để lại làm
kỉ niệm. Năm Hồng Đức thứ 2 (1494), nhà vua lập hội Tao Đàn, tự xưng là
Tao Đàn đô nguyên soái và chọn các tiến sĩ giỏi thơ văn làm hội viên gọi là
Tao đàn nhị thập bát tú (tương đương với 28 ngôi sao thiên văn). Thân Nhân
Trung, Đỗ Nhuận được phong làm Tao đàn phó nguyên soái Hội Tao đàn là
một câu lạc bộ của những nhà thơ mà sinh hoạt thường xuyên là làm thơ và
bình thơ. Nó đánh dấu một giai đoạn thịnh trị của văn học phong kiến. Khối
lượng sáng tác của Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn khá lớn, có thể kể các tập
thơ chính sau:
– Anh hoa hiếu tự thi tập.
– Văn minh cổ xúy thi tập.
– Quỳnh uyển cửu ca.
– Xuân vân thi tập.
– Cổ kim cung từ.
– Châu cơ thắng thưởng thi tập.
– Minh lương cẩm tú.
– Chinh tây kì hành.
– Hồng Đức quốc âm thi tập.
Lê Thánh Tông rất coi trọng thực học, thực tài. Ông không chỉ dừng ở
việc cổ xúy học tập, thi cử mà còn coi trọng năng lực làm việc thực sự của đội
ngũ quan lại. Ông thường kì tổ chức khảo khóa (khảo sát, đánh giá) đội ngũ
quan lại để thực hiện chế độ thăng, giáng, chuyển đổi. Phép khảo khóa được
đặt ra từ thời Lí nhưng chưa thành quy chế. Năm 1470, Lê Thánh Tông lệnh
cho các trưởng quan phụ trách Ti, Viện phải thực hiện đều đặn 3 năm 1 kì
phép khảo khóa đối với quan lại dưới quyền theo 3 nội dung:
– Có được dân yêu mến không?
– Có lòng thương yêu dân không?
– Trong hạt có dân trốn đi nơi khác không?
Lê Thánh Tông còn đặc biệt quan tâm đến đội ngũ quan lại thanh tra và
đàn hặc. Việc chọn người vào ngự sử đài và cái khoa (cơ quan thanh tra)
được theo dõi cẩn thận.
Trên cơ sở khảo khóa, những quan lười biếng, bỉ ổi, đê tiện, yếu hèn,
nếu là con cháu công thần thì bãi chức cho về hạng dân, nếu là con cháu nhà
thường dân thì bãi chức sung quân. Nhờ đó mà dưới thời Lê Thánh Tông,
các thói tệ tham những trong hàng ngũ quan lại giảm đi đáng kể. Bộ máy nhà
nước và các quy chế của nó do Lê Thánh Tông xây dựng được duy trì nhiều
năm, đã đưa mọi việc nội trị, ngoại giao đạt được những thành tựu rực rỡ,
đánh dấu một thời kì thịnh trị trong lịch sử chế độ quân chủ phong kiến Việt
Nam. Đó là công lao chung của nhiều người có tâm huyết với đất nước, với
nhân dân, với triều đại đang thống trị. Song không thể xem nhẹ công lao của
Lê Thánh Tông. Về cuối đời, Lê Thánh Tông cũng phạm phải một số khuyết
điểm, có những hành động tự cao, tự mãn… Song nhìn vào những vấn đề lớn
có tầm chiến lược, phải thừa nhận rằng Lê Thánh Tông là một nhà chính trị lỗi
lạc, một ông vua tài năng và quyết đoán. Trong bối cảnh lịch sử thời ấy Lê
Thánh Tông chẳng những không bị sa vào cuộc sống ăn chơi hưởng thụ mà
đã vượt qua những cám dỗ vật chất nhỏ nhen để xông vào chính sự với ý
thức và trách nhiệm cao. Bằng chính trí tuệ và hành động của bản thân, ông
đã có công lớn đưa nước nhà đi lên trên con đường cường thịnh.
Chương IV. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI THỜI LÊ – MẠC, TRỊNH – NGUYỄN (TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XVIII)
1. Đặc điểm xã hội phong kiến Việt Nam thời Lê – Mạc và Trịnh – Nguyễn phân tranh
Ngay từ thế kỉ XIV – XV, chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những mầm
mống đầu tiên ở một số nước và thành thị tiên tiến ở châu Âu. Từ thế kỉ XVI,
sau những phát kiến địa lí, chủ nghĩa tư bản Tây Âu đã phát triển nhanh
chóng, bắt đầu đi tìm thị trường thế giới, trong đó có các nước phương Đông.
Trong khi đó ở châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, quan hệ phong
kiến vẫn giữ địa vị thống trị.
Ở nước ta, sau triều đại Lê Thánh Tông, chế độ phong kiến từ đỉnh cao
thịnh trị bắt đầu chuyển sang giai đoạn suy yếu dần. Mâu thuẫn trong nội bộ
các tập đoàn phong kiến tăng lên.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông, lên ngôi và lập ra
nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim lập con nhỏ của Lê Chiêu Tông lên làm vua
tại Ai Lao (Lào) tức vua Lê Trang Tông, khôi phục nhà Lê, mở đầu nhà Lê
trung hưng. Từ đây, đất nước chia hai cục diện: Bắc triều (nhà Mạc) và Nam
triều (nhà Lê trung hưng). Cuộc nội chiến Nam, Bắc triều giữa Lê – Mạc diễn
ra ác liệt, kéo dài suốt nửa thế kỉ (từ 1545 đến 1592).
Nhiều cuộc bạo động, khởi nghĩa của nông dân cũng xảy ra khắp nơi,
kéo dài tới khi nhà Tây Sơn đại phá quân Thanh, lập ra triều đại mới, đất
nước mới tạm yên.
Chiến tranh và thiên tai liên tiếp dẫn đến nạn đói to. Năm 1571, ở
Thanh Hóa, nhiều người bỏ làng đi phiêu tán. Năm 1572, ở Nghệ An, nhân
dân đói khổ, dịch bệnh lan tràn, người chết đầy đường sá. Xã hội trở nên tiêu
điều, xơ xác. Cơ sở kinh tế tiểu nông bị phá vỡ. Ruộng đất rơi vào tay giai
cấp địa chủ quan liêu. Mặt khác, kinh tế hàng hóa nảy nở. Thế lực của đồng
tiền tấn công, phá hoại những kỉ cương tôn nghiêm, những giá trị đạo đức và
tinh thần của xã hội phong kiến.
Những biến động sâu sắc đó khiến Nho giáo chịu những hậu quả
nghiêm trọng, đặc biệt là sự tha hóa, đồi bại trong học hành, thi cử chưa từng
thấy trong nền giáo dục phong kiến nước ta trước đó.
2. Tình hình giáo dục dưới thời Lê – Mạc và Trịnh – NguyễnTừ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, mặc dù xã hội rối ren, Nho giáo vẫn được
duy trì làm nền tảng tinh thần cho nhà nước phong kiến.
Do sự quan tâm đặc biệt của triều Lê Thánh Tông, việc học chữ nho ở
thế kỉ XV và đầu thế kỉ XVI phát triể rộng rãi trong xã hội. Từ những khu dân
cư đông đúc thuộc 4 trấn Kinh Bắc, Hải Dương, Tam Giang, Sơn Nam (vùng
đồng bằng và một phần trung du Bắc Bộ ngày nay) đến các miền Hưng Hóa,
Yên Bái, Lạng Sơn, Tuyên Quang (các vùng núi) đều có người đi học tới đủ
trình độ thi Hương. Năm 1678 (Mậu Ngọ), triều đình Lê – Trịnh định thêm 16
điều lệ thi Hương nữa. Bản điều lệ quy định rõ số lượng học sinh được xét dự
sát hạch thường kì ở huyện (3 năm một lần): xã lớn 20 người, xã vừa 15
người, xã nhỏ 10 người.
Khoa thi Hội 1502 (Nhâm Tuất), số đi thi lên tới 5.000 người, lấy đỗ 61
người; khoa thi năm 1514 (Giáp Tuất) có 5.700 người thi Hội, lấy đỗ 43
người. Như vậy, nếu tính cả khóa sinh, động sinh thì số học trò theo học phải
gấp mấy trăm lần số đó. Tuy nhiên, so với thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông),
số trường học cũng không thấy mở mang gì thêm, thậm chí còn bị thu hẹp lại.
Trong khoảng từ 1499 đến 1526, việc học và việc thi vẫn được duy trì
đều đặn. Nhưng số lượng người đi thi có chiều hướng giảm. Từ 1527, sau khi
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập triều đại mới, nhà Mạc rất coi trọng
khoa cử, quan tâm đến việc tổ chức giảng học ở các trường, nhất là ở trường
Quốc Tử Giám. Tuy vậy, do chiến tranh, từ 1530, ở các vùng Thanh, Nghệ,
việc học tập không thực hiện được. Số học trò đi học, đi thi thuộc các vùng
ảnh hưởng của nhà Mạc bị giảm sút. Riêng trường Quốc Tử Giám vẫn giữ
được nền nếp thu hút được nhiều người dạy và học có tiếng. Số người đỗ
tam khôi vẫn được tuyển chọn đều đặn trong suốt 21 khoa thi do nhà Mạc
mở.
Sau khi đẩy họ Mạc từ kinh đô lên đất Cao Bằng, Trịnh Tùng chưa có
sửa sang gì đối với nền quốc học.
Phải đến năm 1692, sau khi cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn kết thúc,
chúa Trịnh mới bắt đầu quan tâm đến giáo dục. Trước hết, chúa Trịnh cho thu
gọn trường Quốc Tử Giám lại, loại bỏ các chức quan trực giảng, giáo thụ và
bác sĩ năm kinh, chỉ giữ lại chức quan tế thu và tư nghiệp trực tiếp giảng dạy.
Nhưng một năm sau, do không đáp ứng được công việc nên lại cho phục hồi
lại các chức giáo thụ và quan học chính. Từ đó hàng năm chúa Trịnh thường
xuyên lựa chọn các người đỗ cao và có đức vọng sung vào đội ngũ giảng dạy
ở Quốc Tử Giám. Đến cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, chất lượng giảng dạy
và học tập sút kém dần, văn chương trường Giám không còn là mẫu mực
nữa. Năm 1767, Trịnh Sâm hạ lệnh cử Tể tướng Nguyễn Nghiễm làm chức
Trung thư giám, Vũ Miên giữ chức tế tửu, Lê Quý Đôn và Phan Lê Phiên làm
tư nghiệp. Những học quan này có nhiệm vụ đến nhà học để giảng bàn kinh
sử. Mỗi tháng cứ đến ngày mồng một và ngày rằm đến dự xem học trò tập
duyệt văn bài. Hàng năm, cứ đến tháng thứ hai mỗi quý, tiến hành khảo sát,
ai học tốt thì nêu tên khen thưởng. Bản thân học quan các cấp hàng năm
cũng được khảo xét công trạng, ai dạy dỗ chăm chỉ, có học trò tiến bộ thì
được thăng thưởng, ai biếng trễ bị trách phạt.
Trịnh Sâm còn tự soạn ra bản học quy để dùng ở Quốc Tử Giám và
các trường phủ lộ. Bản học quy nêu rõ “Trước đức hạnh sau nghệ văn”. Lại
sai lập sổ học tịch ở mỗi trường để theo dõi việc học tập hàng ngày của học
trò. Căn cứ vào sổ học tịch, cuối năm xét ai chịu khó học hành, có tài phẩm
thì biểu dương, còn người học kém thì phải sửa mình mà cố gắng học hành.
Quy chế tuyển sinh vào trường Quốc Tử Giám cũng có sự thay đổi: chế độ
tam xá sinh thời Hồng Đức không áp dụng nữa; học sinh trường Giám chỉ còn
chia hai hạng: Hạng một là nho sinh trúng thức và giám sinh; hạng hai là nho
sinh và sinh đồ.
Nho sinh trúng thức là các hạng quan viên như điển lại và còn các quan
to đã vào học ở các quán. (Sùng văn quán, Nho lâm quán, Tú lâm cục) và đã
trúng tứ trường thi Hương. Nếu chỉ trúng tam trường thì gọi là Nho sinh sinh
đồ. Giám sinh là những học trò không phân biệt con quan hay con dân, đã đỗ
Hương cống nhưng hỏng thi Hội.
Trường hương học – giống như Lê sơ – chỉ tổ chức đến các phủ, còn
các huyện, châu chưa có trường. Việc học tập đều phụ thuộc vào trường phủ
hoặc sĩ tử có thể theo học trường tư do các nho sĩ mở.
Quy chế năm 1721 định rõ hai hạng sau đây được vào học ở trường
phủ:
– Hạng sinh đồ đã trúng được trường ba trong các kì khảo hạch thi
Hương.
– Hạng đồng sinh học kém hơn sinh đồ, chỉ trúng trường một hoặc
trường hai.
Tuy chia hai hạng song họ vẫn học chung một lớp, chỉ khác hàng năm
đồng sinh phải qua 2 kì khảo hạch. Sau 4 năm, trúng cách 8 kì mới được
quyền thi Hương.
Nhìn chung, muốn đạt điều kiện để đi thi, người học trò phải trải qua
nhiều năm dùi mài kinh sử. Đại để là 1 năm khai tâm, 3, 4 năm học tiểu học
(khóa sinh), 4, 5 năm học trường hương học (đồng sinh – sinh đồ). Sau 10
năm học tập ngày đêm gian khổ, họ mới có thể đủ sức thi Hương. Nếu đỗ
(qua 4 trường) mới được thi Hội, thi Đình. Tuy vậy, trong thực tế, nhiều người
đã phấn đấu rút ngắn thời gian, học vượt. Những nho sinh đặc biệt thông
minh (thần đồng) có thể vượt rất xa mọi người để đi tới đích sớm mà không bị
thể lệ gì trói buộc.
Các loại trường dân lập, trường tư
Do biến động của chiến tranh, các trường công của nhà nước không
được ổn định, phát triển. Do đó, dưới thời Mạc - Lê, trung hưng, các trường
tư, trường dân lập càng phát triển mạnh mẽ, làm chân rết tích cực cho việc sĩ
tử học tập và thi cử. Những trường này thường được gọi chung là “gia thục”.
Đội ngũ ông thầy gồm nhiều loại. Đó là những nho sĩ lận đận nơi trường ốc,
lấy nghề dạy trẻ để kiếm kế sinh nhai và tiếp tục học tập. Đó là những ẩn nho
hoặc hưu quan. Đó cũng là những nhà khoa bảng nổi danh hoặc những học
quan đương chức. Trường học, đa số là lớp học, có thể đặt ở nhà dân, ở nhà
thầy hoặc ở công đường. Lớp học lớn nhỏ tùy thuộc vào số học trò và tài đức
của thầy. Có lớp dăm ba người, có trường hàng trăm sĩ tử.
Có nhiều trường nổi tiếng do các ông tú, ông cử hoặc quan bảng (bảng
nhãn), quan nghè (tiến sĩ) giảng dạy, trình độ không thua kém các trường
hương học, thậm chí có những mặt trội hơn lên để ngầm đua tài cùng các
trường khác hay ngay cả trường Giám.
Ở Đàng Trong, ngay từ thế kỉ XV, đất Thuận Quảng vốn đã có mắm
văn học, con em quân dân cũng đã từng có người dự thi ở các trường Thuận
Hóa, Nghệ An. Đến giữa thế kỉ XVI, dưới thời chúa Nguyễn Hoàng, người có
trình độ nho học vẫn chưa được đề bạt, sử dụng như ở Đàng Ngoài. Tuy thế,
theo Lê Quý Đôn, “hạt giống văn tự của một địa phương vẫn dai dẳng không
dứt” (Phủ biên tạp lục). Đến giữa thế kỉ XVII, việc học và thi bắt đầu khởi sắc,
thông qua các trường do các nho sĩ mở. Nhiều nho sĩ từ Đàng Ngoài đã lặn
lội vào đây mở trường dạy học. Có người mang theo cả gia đình và ở lại lâu
dài, góp phần vào công cuộc giáo hóa của địa phương. Một trong những
trường nổi tiếng được nhiều người nhắc nhở, ca ngợi là trường của Võ
Trường Toản.
Nhìn chung lại, có thể nhận định rằng các nhà nho hầu hết đều sống
theo phương châm “tiến vi quan, thoái vi sư”, đều tuân theo một đạo lí xã hội
“Tiên giác giác hậu giác” (người biết trước giảng dạy cho người biết sau).
Trong số này có những người muốn thực hành một phương pháp riêng, tạo
ra một môi trường giáo dục lành mạnh trong khuôn khổ gia đình. Gia giáo, gia
phong được coi trọng. Không có điều kiện dạy dỗ trực tiếp, một số lại sáng
tác những giáo tử văn, gia huấn ca bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm để dạy dỗ
cho con cháu trước mắt và lâu dài. Tất nhiên hình thức giáo dục riêng biệt
này chỉ có ở những gia đình có truyền thống thi thư, khoa bảng. Điều đó
chứng tỏ thực tiễn giáo dục khoa cử ngoài xã hội đang trên bước suy tàn ở
cuối thế kỉ XVIII.
Việc học tập và thi cử
Bối cảnh kinh tế – xã hội rối ren của thời kì này đã ảnh hưởng lớn lao
đến quan niệm về cách học, cách thi từ sĩ tử đến quan trường. Trật tự xã hội
và giá trị hầu như bị đảo ngược khiến các sĩ tử chạy theo lối học vụ danh lợi,
xa rời chính học. tuy nhiên, về mặt hình thức, việc học và thi vẫn tiếp tục
được tuân theo các thể lệ đời Lê Thanh Tông và được đặt thêm những quy
chế chặt chẽ hơn. Mặc dù có sự phân chia Nam – Bắc triều, chiến tranh liên
miên không dứt, song việc học, việc thi vẫn ít khi bị gián đoạn. Thời Lê trung
hưng, điều lệ ghi rõ: Đến khoa thi Hương, học trò dưới 18 tuổi cũng được
phép thi. Các phường trưởng, xã trưởng kê khai danh sách những người
thông hiểu văn học đệ lên quan châu, huyện khảo hạch rồi chia hai hạng: ai
thực thông hiểu văn lí kê vào hạng tứ trường, ai thông hiểu vừa kê vào hạng
tam trường. Ngoài ra huyện quan cũng khảo xét lại các hạng quan viên và
nho sinh. Quan viên nào có chức vụ, đã thi trúng tam trường, nay khảo hạch
lại mà thông hiểu văn lí mới được kê vào hạng quan viên; còn nho sinh nếu
thật thông hiểu văn lí được kê vào hạng nho sinh, thông hiểu vừa kê vào hạng
nho sinh thường. Sổ này được nộp lên phủ. Phủ có trách nhiệm xem xét,
khảo hạch lại rồi lập sổ chia làm hai hạng năng văn và thường năng văn để
nộp lên ti, sau đó mới làm sớ tâu lên. Theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn,
số hương cống lấy đỗ ở các trường thi như sau: trường Thanh Hóa 60 người,
trường Sơn Nam 80 người, Nghệ An, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, mỗi xứ
50–60 người, An Bang, Tuyển Quang 30 người, cứ mỗi hương cống thì lấy
thêm 10 sinh đồ…
Những sĩ tử đi thi phải làm nổi văn bài của cả 4 trường, cụ thể là
trường nhất một bài sinh nghĩa; trường nhì bài chiếu; trường ba một bài thơ,
một bài phú; trường tư một bài văn sách.
Đầu bài thi lấy nội dung ở các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lí đại toàn,
Thiếu vi thông giám đề cương, Ngốc trai tứ đạo, Trường sách nguyên lưu chí
luận…
Đời vua Lê Hi Tông (1676–1704), niên hiệu Chính Hòa, bỏ Ngốc trai tứ
đạo, đề cương, Trường sách nguyên lưu… thay vào các sách bắt buộc là
Cương mục, Tả truyện. Về sau, trong thi đình còn thêm cả hai bộ sách Chu lễ
giảng nghĩa và Đại học diễn nghĩa. Nội dung trên đây là cho cả thi Hương, thi
Hội, chỉ khác nhau ỡ chỗ cao thấp, nông sâu mà thôi. Thí dụ: ở thi hương phú
dùng thể cách Lí Bạch, đối chính song quan, cứ 4 bằng, 4 trắc xen kẽ nhau
theo thể chế nhà Tống, còn ở thi Hội phú dùng thể luật tám vần, có đối cách
cú.
Theo lệ, cứ 3 năm có 1 kì thi, năm trước thi Hương, năm sau thi Hội.
Theo Đăng khoa lục, nhà Mạc từ khoa năm Minh Đức thứ 3 (1529) đến khoa
năm Hồng Ninh thứ 2 (1592) có tất cả 22 khoa thi Đình, lấy đỗ 385 tiến sĩ.
Nhà Lê trung hưng từ năm Quang Hưng thứ 3 (1580) đến năm cuối cùng
(1787) có 68 khoa, lấy đỗ 717 tiến sĩ. Nhà Lê còn mở 3 khoa thi chế khoa vào
các năm 1553 (Lê Trung Tông) 1575 (Lê Anh Tông), và 1577 (Lê Thế Tông).
Đó là các khoa thi khảo xét các quan và dân giỏi chữ mà không do khoa thi
cống cử lên, lấy đỗ 28 tiến sĩ. Đời Lê Chiêu Thống (1781) cũng mở 1 chế
khoa lấy đỗ 2 tiến sĩ.
Ngoài ra, còn có các khoa thi sĩ vọng, hoành từ, bài thi không theo văn
thể nhất định, chỉ mở cho những hương cống nổi tiếng có học thức mà chưa
đỗ chính khoa.
Đời Lê Thần Tông (1679), niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2, triều đình mở một
khoa thi đông các, định lệ lấy 1 thương nhất (tương đương Trạng nguyên), 2
thương nhị (tương đương Bảng nhãn) và 3 thương tam (tương đương Thám
hoa). Thi đông các là khoa thi bất thường, chỉ tổ chức cho quan lại đương
chức từ tứ phẩm trở lên. Người đỗ được bổ làm quan Đông các đại học sĩ,
Đông các hiệu thư. Năm 1676, đời Hi Tông và 1727 đời Dụ Tông lại tổ chức
khoa thi đông các, lấy thêm 9 người (6 người + 3 người)… Năm 1774, đời
Trịnh Sâm, có mở khoa thi thịnh khoa, lấy 50 người đỗ tiến sĩ.
Như vậy có thể thấy dưới triều Mạc và Lê trung hưng, việc học, việc thi
vẫn được tiến hành liên tục không bị gián đoạn. Từ Lê Trung Hưng trở d9i,
việc đãi ngộ những người trúng đại khoa được quy định rất cụ thể:
– Cho áo chầu, mũ, đai, khi vinh quy bái tổ về làng có cờ quạt, chiêng
trống, nhã nhạc đón rước.
– Quan sở tại phải sai dân làng làm nhà, xây lâu đài sẵn sàng trước khi
quan nghè… trở về bái tổ.
– Không chỉ tam khôi mà mọi tiến sĩ trúng cách đều được vào hàn lâm,
đồng tiến sĩ được bổ khoa đạo, chứ không bổ làm các quan phủ huyện.
– Quan lại trẻ tuổi đỗ đại khoa được bổ chức hiệu thảo.
– Nếu bổ ra làm quan ngoài ở hai ti thừa, hiến thì đều được bổ chính
quan chứ không làm phó nhị.
Sự đãi ngộ đặc biệt này nhằm khuyến khích mọi người đua nhau vào
việc đi học, đi thi.
Trên đây là việc học, việc thi ở Đàng Ngoài.
Ở Đàng Trong thuộc chúa Nguyễn, việc học và việc thi cũng được chú
trọng nhằm tuyển chọn người bổ dụng vào bộ máy cai trị.
Khoa thi đầu tiên được mở vào năm 1660 đời Nguyễn Phúc Tần, lấy đỗ
5 chính đồ, 15 hoa văn.
Năm 1674, cùng với khoa thi chính đồ, hoa văn, lại có cả khoa thi thám
phỏng lấy đỗ 7 người. Khoa này chỉ thi thêm một ngày, nội dung hỏi về tình
trạng dân gian và công việc của Lê – Trịnh. Người nào đỗ được bổ vào xá sai
ti. Năm 1679, mở khoa thi nhiêu học, chỉ dành riêng cho các chính đồ, hoa
văn không được dự. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu mở khoa thi chính
đồ, lấy độ 3 giám sinh, 8 sinh đồ, 15 nhiêu học, 22 hoa văn và 10 thám phỏng.
Giám sinh được bổ tri huyện, sinh đồ bổ huấn đạo, nhiêu học bổ lễ sinh, hoa
văn bổ làm việc ở ti tướng thán lại hoặc ti lệnh sử, thám phỏng bổ xá sai ti.
Năm 1768, chúa Nguyễn Phúc Thuần mở khoa thi Hương đầu tiên
(cũng là khoa cuối cùng, vì sau đó là khởi nghĩa Tây Sơn). Trong Phủ biến
tạp, lục) Lê Quý Đôn ghi rõ ở Thuận Quảng, cứ 5 năm mở một kì thi. Học trò
các huyện đến dinh bản trấn thi 1 ngày, làm 1 bài thơ, 1 bài văn. Tri phủ, tri
huyện làm sơ khảo, kí lục làm phúc khảo. Danh sách thi đỗ được kê họ tên
nộp lên quan cai bạ, được liệt vào hạng nhiêu học, được miễn tiền gạo sai dư
trong 5 năm.
Kì thi này gọi là “Xuân thiên quận thí”. Ngoài “Xuân thiên quận thí”, cứ 9
năm 1 lần lại tổ chức kì thi lấy tên là “Thu vi hội thí”. Đến năm thi, học trò các
phủ huyện tập trung đến Phú Xuân ứng thi trong 3 ngày. Nội dung thi như
sau:
Ngày thứ nhất thi 3 bài văn tứ lục; ngày thứ hai 1 bài thơ, 1 bài phú;
ngày thứ ba 1 bài sách vấn. Tri phủ, tri huyện làm sơ khảo; kí lục, cai bạ làm
phúc khảo; kí bạ, nha úy làm giám khảo; ngoại tả, ngoại hữu làm giám thị.
Trúng cách bao nhiêu, làm thành sổ đệ lên chúa Nguyễn phê định làm 3
hạng: hương cống được bổ tri phủ, tri huyện; sinh đồ được bổ làm nho học
huấn đạo; sinh đồ (hạng ba) hoặc bổ lễ sinh, hoặc cho nhiêu học suốt đời.
Danh sách người đỗ được treo ở trước công đường. Nhằm phân định cao
thấp và sắp xếp bổ dụng, chúa Nguyễn còn cho thi thêm 1 kì nữa gọi là thi
đình. Năm 1740, chúa Nguyễn Phúc Khoát quy định lại việc thi cho rõ ràng
hơn: kì đệ nhất thi 1 bài tứ lục; kì đệ nhị thi thơ phú; kì đệ tam thi kinh nghĩa
và kì đệ tứ thi văn sách hỏi.
Như vậy, việc học và việc thi ở Đàng Trong cũng tương tự như ở Đàng
Ngoài, chỉ khác ở Đàng Trong đất mới, người biết chữ, học cao ít ỏi, nên thi
cử dễ dãi hơn.
Điếu đáng chú ý là trong gần 2 thế kỉ cai trị ở Đàng Trong, các Chúa
Nguyễn chưa bao giờ tổ chức thi Hội và thi Đình.
Nói tóm lại, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, chế độ giáo dục và thi cử Nho
học vẫn được các triều đại phong kiến ở cả 2 miền Nam Bắc duy trì, mở rộng
làm phương tiện đào tạo quan lại.
Song tin bước đường suy vong của chế độ phong kiến, nội dung giáo
dục và chế độ thi cử ngày một suy đồi, chỉ còn bề nổi, không còn bề sâu.
Cùng với sự phát triển của việc học, việc thi, tệ nạn gian lận, mua bán ngày
thêm lũng đoạn nơi trường ốc. Tình trạng này nằm trong sự suy đồi chung
của ý thức hệ Nho giáo.
3. Sự suy đồi của tư tưởng Nho giáoHọc thuyết Tống Nho, tư tưởng Nho giáo của Chu Hi vẫn được giai cấp
thống trị phong kiến nước ta ở các thế kỉ XVI, XVII, XVIII truyền thụ trong nhà
trường, trong xã hội. Song: do sự khủng hoảng trầm trọng trong bản thân chế
độ phong kiến và phong trào đấu tranh của quần chúng nông dân và nhân
dân lao động đã khiến ý thức hệ Nho giáo ngày một suy đồi, tan rã. Những
nguyên tắc, chuẩn mực về đạo đức, lễ giáo phong kiến chỉ còn là cái vỏ
ngoài, là những hình thức mà thôi.
Về giáo dục, các quy tắc về khoa cử chặt chẽ hơn, buộc sĩ tử chỉ thiên
về lối học từ chương sáo ngữ, rèn luyện những tiểu xảo, những cách gọt rũa
văn chương, tỉa tót từng câu, từng chữ mà không đi sâu vào nội dung tư
tưởng.
Càng về sau, học trò càng ít đọc sách, ít tư duy như lời Khổng Tử đã
khuyên dạy “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi” (Luận ngữ –
Thiên vi chính). Đến thế kỷ XVIII, học trò thậm chí chỉ đọc mấy bộ tứ thư, ngũ
kinh, tính lí toát yếu do Bùi Huy Bích biên soạn gọn lại cho dễ nhớ và đủ đi thi
mà thôi. Lê Quý Đôn đã từng nhận xét: “… Các bậc tiền bối đã soạn thành
bài, lời lẽ cổ nhã, bọn hậu sinh đua nhau làm theo, khi vào trường chỉ xén bớt
những chỗ quá dài dòng đi mà thôi”.
Do hạn chế trong 1 số sách vở như thế nên so với trước, số người theo
học thông hiểu nghĩa sách nhiều hơn, sự học được mở mang rộng rãi hơn, số
người đi thi, đỗ đạt hương cống, sinh đồ cũng đông hơn, nhưng rất hiếm
người có trình độ sâu sắc, uyên bác, số người đỗ cao ở thi Đình cũng ít đi.
Sự sút kém về chất này do sự thối nát của nền chính trị đương thời, do biến
việc khoa cử nghiêm mật trước đây thành nơi buôn bán danh vị, mua quan
bán tước. Bất kỳ ai chỉ cần nộp 3 quan tiền thông kinh là không cần thi khảo
hạch và có quyền đi thi ngay. Sự gian lận trong lúc thi, khi chấm thi, việc ăn
lễ, đút lót, dựa thế che chở lấy đỗ cho sĩ tử trở thành việc thường xuyên. Sử
sách còn để lại nhiều vụ gian lận trong thi cử – Như năm Bảo Thái thứ 17 đời
Lê Dụ Tông (1696), Ngô Sách Tuân chấm thi ở Thanh Hóa đã gian lận lấy đỗ
con tham tụng Lê Hi, bị tham hiệp Phan Tự Cường phát hiện, tâu lên, Tuân
đã bị tội giáng, song 2 cha con Lê Hi lại không việc gì.
Năm Cảnh hưng 29 (1767), đời Lê Hiển Tông, ở trường thi Nghệ An, có
Nguyễn Cơ trúng tuyển bị khiếu nại; lúc thi phúc khảo lại đã bỏ giấy trắng,
không viết được chữ nào. Quan trường là Nguyễn Duy Thức đã bị tội biếm.
Năm Cảnh Hưng 36 (1774), Lê Quý Kiệt (con trai Lê Quý Đôn) do gian lận bài
vở trong trường thi bị giáng làm thứ nhân. Việc liên lụy đến cả Lê Quý Đôn vì
có người tố giác do ông chủ mưu. Song lúc này Lê Quý Đôn đang được trọng
dụng nên không việc gì – Còn Đinh Trung Ngọc, Bùi Đông Sơn có can dự
trong chuyện này đều bi đầy đi viễn châu – Cũng do tình trạng thi cử quá lộn
xộn này nên năm Bảo Thái thứ 8 (1727), đời Lê Dụ Tông, chúa Trịnh đã ra
lệnh bắt các hương cống thi lại ở lầu Ngũ Long, đánh hỏng 28 người quá
kém, trong số đó có con thượng thư Lê Anh Tuấn, v.v…
Mục đích của kẻ đi thi là nằhm đỗ đạt làm quan, có điều kiện để bóc lột
nhân dân, xu nịnh quyền thế, mưu lợi cho cá nhân và gia đình, dòng tộc của
mình. Sử sách ghi lại không ít các tiến sĩ thời này như Nguyễn Tuấn (1562
–?), người Nhân Mục, Thanh Trì, Nguyễn Lại (1581–1661) người Bột
Thượng, Thanh Hóa,… công khai ăn hối lộ và đưa lễ đút lót quan trên. Một số
khác thì kết bè kết đảng, xu phụ chúa Trịnh để ức hiếp nhân dân v.v…
Có thể thấy rằng từ triều Mạc trở đi, nhất là cuối Lê, phái nhà nho
không còn giữ được cốt cách thanh tao, hành vi nghĩa khí nữa, đa số chỉ còn
là những người biết chữ vụ lợi, xu thời. Chính vì quyền lợi ích kỉ đó mà hầu
hết nhà nho đã không thấy được nền thống trị của các tập đoàn phong kiến
đang suy tàn, thối nát, không nắm vững thời cuộc, khư khư giữ mối “ngu
trung”. Điều đó giải thích tại sao hầu hết sĩ phu Bắc Hà lại chống lại Tây Sơn,
a tòng với Lê Chiêu Thống rước giặc Thanh về cũng như sau này sẵn sàng
hoan nghênh Nguyễn Ánh, làm quan với triều Nguyễn.
Trên bình diện chính trị – xã hội, nội dung tư tưởng cơ bản của Nho
giáo là học thuyết “chính danh định phận” nhằm củng cố và bảo vệ trật tư
đẳng cấp, duy trì tôn ti trật tự phong kiến. Nhưng ở 3 thế kỷ này, đặc biệt thế
kỉ XVII và XVIII, những nguyên tắc lễ giáo phong kiến đã bị phá hoại. Quan hệ
vua – tôi, đạo thầy – trò, lòng trung quân - ái quốc đã tan rã hết.
Trước thế lực ghê gớm của đồng tiền ngày một tấn công dữ dội vào
thành trì lễ giáo phong kiến, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm phải thốt lên lời
than:
“Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi…”.
(Bạch vân quốc ngữ thi)
Đến thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến cùng với ý thức hệ tư tưởng Nho
giáo càng suy đồi hơn nữa. Một số nho sĩ thức thời đã thể hiện quan điểm và
hành động chống đối mạnh mẽ triều đình Lê – Trịnh.
Tiến sĩ Phạm Công Thế (1705–?) tham gia phong trào của Lê Duy Mật
chống lại triều đình. Khi bị bắt, ông đã nói thẳng với các triều thần rằng: “Danh
phận không rõ từ lâu, thuận nghịch lấy gì mà phân biệt được” để trả lời câu
hỏi “người khoa giáp sao lại theo giặc?”. Năm 1786, học trò Lí Trần Quán là
Trang đã bắt Vương Trịnh Khải nộp cho Tây Sơn. Quán trách thì Trang trả lời:
“Sợ thầy không bằng sợ giặc, quý Chúa không bằng quý thân!”. Lại nữa, năm
1787, Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành chạy lên trấn Kinh Bắc. Trấn thủ Lê
Cảnh Thước không kể gì đến đạo vua tôi, nhân chở đò cho vua qua sông đã
cướp đoạt cả vàng bạc châu báu và chiếc “truyền quốc ngọc tỉ” lẫn áo ngự
bào. Đó là tầng lớp quan lại và sĩ phu phong kiến.
Còn nhân dân thì những lễ giáo, đạo đức phong kiến đã trở thành đối
tượng đả kích sâu cay qua các hình thức văn học dân gian và nhiều tác phẩm
khác.
4. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585)Sơ lược về tiểu sử
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, người ở làng Trung Am, huyện
Vĩnh Lại (Hải Dương), nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng.
Ông còn có tên khác là Văn Đạt và tên tự là Hanh Phủ. Sách cũ còn ghi rõ
thủa mới ra đời, mặt mũi tinh anh, khôi vĩ, mới đầy tuổi tôi đã biết nói. Năm
lên 4 tuổi, mẹ đem những câu trong kinh truyện ra dạy, ông đều thuộc lòng
nhanh chóng. Lớn lên, theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng, được thầy đem
bộ sách “Thái Ất thần kinh” của nhà Minh truyền dạy cho nên thông hiểu được
lẽ huyền vi của tạo hóa và nắm được kiến thức chân truyền. Thủa thiếu thời,
Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng thông minh, học giỏi. Nhưng mãi tới năm 1535
ông mới đi thi và đỗ trạng nguyên năm 45 tuổi, làm quan dưới triều Mạc đến
chức tả thị lang bộ Lại kiêm đại học sĩ Đông các. Năm 1543, trước cảnh bọn
bầy tôi lộng quyền, ông dâng sớ vạch tội 18 đình thần và xin vua xử tội chết,
song không được chấp thuận, bèn xin cáo quan về nhà, dựng am Bạch Vân
mở trường dạy học, lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Học trò khắp nơi về thụ
giáo rất đông. Nhiều người sau này trở thành nhân tài trong lãnh vực chính trị,
xã hội cũng như trong lĩnh vực văn học như Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc
Khoan, Nguyễn Dữ v.v…
Ông mất vào năm 1585, khi chế độ phong kiến đi vào giai đoạn suy tàn,
các tập đoàn phong kiến mâu thuẫn quyền lợi gay gắt, tranh giành quyền lực
bằng các cuộc chiến tranh tương tàn ác liệt.
Lúc sinh thời, ông được học trò rất mực kính yêu; tôn xưng là Tuyết
giang phu tử. Nhà Mạc cũng hết lòng trọng đãi ông, ban cho nhiều chức quan
cao và phong tước Trình tuyền hầu, nên mọi người thường gọi ông là Trạng
Trình.
Quan niệm nhân sinh và giáo dục
Đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú trong Lịch
triều hiến chương loại chí đã nhận xét rằng:
“… Lòng ông phóng khoáng, tư chất trời cho rất cao, tu dưỡng thuần
túy, hồn nhiên, không để lộ cạnh khía. Ông rong chơi nhàn nhã hơn 40 năm
mà không một ngày nào quên đời, lòng lo thời thương đời, thể hiện ra văn
thơ. Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành không cần gọt giũa, giản dị mà
linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.
Xuất thân trong một gia đinh trí thức, mặc dù có sự trục trặc trong quan
hệ giữa cha và mẹ, ông vẫn được nuôi dạy chu đáo, học hành tiến bộ và
nhanh chóng đạt tới đỉnh cao của kiến thức. Tuy vậy mãi tới khoa Ất Mùi, niên
hiệu Đại chính 6 (1535), đời Mạc Đăng Doanh, khi đã 45 tuổi, ông mới đỗ
Trạng nguyên. Sở dĩ sống suốt gần nửa cuộc đời, ông vẫn nằm im không chịu
nhập thế bởi lẽ ông nhìn rõ sự suy đồi, thối nát của các vương triều cuối Lê
nên quyết gạt bỏ mọi vinh hoa phú quý – Phải 8 năm sau khi triều Mạc nối
ngôi và có một số thành công, tiến bộ, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới hi vọng vào
một xã hội mới thịnh trị và thanh bình:
“Mừng thấy thời vần đời mở trị.
Thái bình thiên tử, thái bình dân”.
Được thầy học là Lương Đắc Bằng truyền thụ cho bộ “Thái Ất thần
kinh”, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rõ dịch lí, nhận biết sự chuyển vần của vũ trụ,
tự nhiên, xã hội và con người. Từ đó ông đưa ra những ý kiến về đường lối trị
nước, về đạo lí làm người, mong muốn giai cấp thống trị thực hiện những
hoài bão mà ông hằng ôm ấp. Đó là xây đựng một quốc gia thống nhất, một
cuộc sống hòa bình, no ấm, một xã hội có vua sáng tôi hiền, mọi người ứng
xử với nhau chân thật, tốt đẹp. Chủ trương của ông là thực hiện nhân nghĩa,
tranh thủ lòng người:
“Yên bách tính thì yên trị đạo
Thất thiên kim chớ thất nhân tâm”.
(Trăm họ được yên lành thì đạo trị nước được yên lành.
Mất ngàn vàng chứ không để mất lòng người).
Ông quan niệm phải lấy dân làm gốc, không nên theo đuổi chiến tranh.
Ông khuyên vua:
“Quân vương như hữu quang minh chúc
Ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân”.
(Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến người dân sống ở nơi
nhà nát, xóm nghèo).
Nhưng thực tế xã hội đã đi ngược lại những quan niệm, mơ ước của
ông: chiến tranh vẫn liên miên, xã hội đảo điên, lòng người đen bạc, tiền tài
ngự trị cuộc sống con người – Ông cảm thấy bất lực, bất tài, không đủ sức
“phò nghiêng đỡ lệch”…. Xin chém 18 kẻ lộng thần không được, ông rút về ở
ẩn nơi quê nhà, dựng quán Trung Tân, lập am Bạch Vân, tìm thú vui trong
cảnh nhàn với việc viết văn làm thơ, giáo hóa người đời, dạy dỗ học trò trở
thành người có đức có tài, hữu ích cho đất nước. Xuất phát từ quan niệm
“nhân chi sơ, tính bản thiện”, song do vật dục che lấp, con người lâu dần tập
quen thói ác. Vì vậy ông khuyên con người phải tiết dục, làm theo lời giáo
huấn của đời xưa tức là tuân theo những phép tắc, chuẩn mực của đạo Nho,
giữ lấy nếp “cương thường”.
Với cương vị người thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất quan tâm đến việc
dạy dỗ học trò của mình nên người. Song ông không phải là một người thầy
độc đoán. Ông thường dùng những lời gợi ý, khuyến khích người học tự động
não, tự tìm ra ý tứ sâu xa của bài văn, câu thơ, thậm chí tự tìm lấy một giải
pháp thích hợp nhất cho đời mình (trường hợp Phùng Khắc Khoan), hoặc
giúp đỡ tỉ mỉ, chi tiết (trường hợp giúp Nguyễn Dữ sửa cuốn “Truyền kì mạn
lục”).
Có thề nói Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dành quá nửa đời mình cho việc đào
tạo ra những nhân tài cho đất nước. Ông chẳng những làm phong phú lịch sử
giáo dục của nước nhà trên các bình diện tư tưởng, nội dung, phương pháp
giáo dục mà còn bằng chính cuộc đời thanh cao, tự tại, gắn bó với dân, với
nước. Ông mất đi, mặc dù không thực hiện được những ước mơ cao quý của
mình là thống nhất tổ quốc, hòa bình, no ấm cho muôn người, song lí tưởng,
đạo đức của ông, những di sản văn hóa của ông còn để lại luôn luôn trở
thành tấm gương, niềm cổ vũ cho tất cả những ai có bấu nhiệt huyết vì nước
vì dân. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thật xứng đáng với lời ca ngợi của
Đinh Thời Trung:
“Học vi thiên hạ sư, tuế vi thiên hạ phụ”.
(Học vấn xứng là thầy thiên hạ, tuổi tác xứng là cha thiên hạ).
Chương V. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC DƯỚI TRIỀU TÂY SƠNChế độ phong kiến Việt Nam, sau khi đạt tới đỉnh cao thịnh trị ở TK XV
– XVI đã đi nhanh đến con đường suy đồi. Cuối thế kỉ XVIII, mọi mâu thuẫn
đều tăng lên trong nội bộ mỗi tập đoàn phong kiến và giữa các tập đoàn
Trịnh, Nguyễn, Lê, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Chiến tranh nổ ra
liên miên giữa các tập đoàn; các cuộc khởi nghĩa nông dân cũng bùng lên
ngày một mạnh mẽ, sâu rộng mà đỉnh cao nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Ruộng đất bị cướp đoạt dữ dội, nhiều nơi bị bỏ hoang không người cày cấy;
công thương nghiệp, ngoại thương bị đình đốn, không có điều kiện phát triển.
Xã hội rối ren, nền kinh tế đất nước trở nên tiêu điều, xơ xác. Nghèo đói, cực
khổ, nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán khắp nơi.
Ý thức hệ phong kiến cũng suy sụp mặc dù giai cấp phong kiến tìm mọi
phương cách duy trì, cứu vãn. Là công cụ truyền bá ý thức hệ phong kiến,
giáo dục cũng không thoát khỏi tình trạng đó. Nạn mua bán, gian lận, hối lộ
trong học hành, thi cử diễn ra phổ biến, trắng trợn chưa từng có…
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã phá đổ cả ba tập đoàn phong kiến Trịnh –
Nguyễn – Lê, dẹp tan quân xâm lược Mãn Thanh. Nhưng trong công cuộc
củng cố, xây dựng triều đại mới, nhà Tây Sơn phải giải quyết hàng loạt vấn
đề khó khăn to lớn, trong đó giáo dục là một nhiệm vụ nặng nề, cấp bách.
Song chỉ 50 ngày sau khi thắng lợi, Quang Trung đã tuyên bố bắt đầu
một thời kì “văn trị”. Trên mặt trận mới, giáo dục đã được Quang Trung và
triều Tây Sơn đặt ở một vị trí quan trọng không kém so với việc củng cố, xây
dựng quân sự, kinh tế và ngoại giao.
1. Quang Trung củng cố, xây dựng triều đại mớiSau khi tiêu diệt các triều đại phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn và phá tan
quân xâm lược Mãn Thanh, một nhiệm vụ cấp bách được đặt ra cho Quang
Trung là củng cố, xây dựng triều đại mới.
Mặc dù chiến thắng rất oanh liệt, hoàn cảnh lịch sử lúc đó tạo nên
những khó khăn khá lớn cho nhà Tây Sơn, đòi hỏi phải có những biện pháp
tích cực, cấp bách để giải quyết kịp thời.
Trước hết về mặt quân sự, mặc dù nhà Thanh đã thất bại thảm hại,
song âm mưu phục thù chưa phải là đã hết. Bằng cớ là nhà Thanh vẫn dung
nạp bọn Lê Chiêu Thống với bè lũ cận thần phản động của y, mưu tập hợp
lực lượng chờ cơ hội trở về.
Trong nước, tàn dư của phong kiến Bắc Hà vẫn âm mưu chống lại. Ở
trong Nam, Nguyễn Ánh đã đánh chiếm lại được Gia Định và phía sau y là
bọn tư bản Pháp cùng các thế lực khác vẫn lăm le xâm lược; chúng tích cực
giúp Nguyễn Ánh chuẩn bị tiến quân ra miền Bắc.
Khó khăn lớn thứ hai là về kinh tế. Trải qua hàng trăm năm chiến tranh,
nền kinh tế của đất nước bị tàn phá nặng nề. Ruộng đất bỏ hoang, xóm làng
xơ xác, dân tình phiêu tán khắp nơi. Công thương nghiệp cũng vì thế mà đình
đốn. Đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, đói rét.
Chiến thắng vĩ đại của Quang Trung đã đem lại một luồng gió mới phấn
khởi trong quần chúng nhân dân nghèo khổ, song cũng gây nên nỗi uất hận
của các thế lực phong kiến suy tàn.
Trạng thái xã hội đó cũng cần phải giải quyết nhằm đẩy lùi những mặt
tiêu cực, phát triển những mặc tích cực.
Trước tình trạng chính trị, kinh tế, xã hội đó, Quang Trung, với tài năng
và lòng quyết tâm của mình, đã đề ra những biện pháp khắc phục hết sức
kiên quyết và mạnh mẽ.
Để đập tan mưu đồ phục thù của nhà Mãn Thanh cũng như âm mưu
chống lại của các thế lực phong kiến trong nước, Quang Trung đã có những
chính sách về quân sự, ngoại giao rất tích cực.
Với phương pháp vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, Quang Trung đã hai
lần cử các phái đoàn ngoại giao sang thương thuyết với nhà Mãn Thanh: Lần
đầu, viên danh tướng của Tây Sơn là Vũ Văn Dũng và lần sau, phái đoàn của
Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích… nổi tiếng về mưu trí, khôn khéo. Với tài năng
tuyệt vời, các nhà ngoại giao đó đã thuyết phục được vua Càn Long nhà
Thanh phải từ bỏ âm mưu phục thù, công nhận Quang Trung là “An Nam
quốc vương”, nhận sẽ trả lại đất Quảng Tây để Quang Trung làm “kinh đô”,
thậm chí hứa gả công chúa con vua Càn Long cho Quang Trung để thắt chặt
tình giao hảo. Tất nhiên, thắng lợi rực rỡ đó cũng đem lại một kết cục thảm
hại cho bọn phản quốc Lê Chiêu Thống: kẻ thì bị nhà Thanh giao nộp lại cho
Tây Sơn, kẻ thì bị chúng đưa đi đày. Bản thân Lê Chiêu Thống cũng gửi nắm
xương tàn nơi đất khách quê người một cách nhục nhã.
Ở trong nước, Quang Trung đã kiên quyết trấn áp, tiêu diệt các thế lực
phản động còn âm mưu chống lại: Tàn quân của Lê Chiêu Thống ở Bắc Hà
nhanh chóng bị quét sạch. Năm 1791, Quang Trung lại phá tan một âm mưu
câu kết mới giữa bọn Lê Duy Chỉ và bọn phản động trong và ngoài nước.
Bọn phản động phía Tây (Xiêm, Nguyễn Ánh), trước thất bại của Lê
Duy Chỉ và sức mạnh của quân đội Tây Sơn đã không đám hành động nữa.
Cùng với những hoạt động quân sự, ngoại giao đó, Quang Trung ra
sức chăm lo củng cố chính quyền, tăng cường lực lượng vũ trang.
Các nhiệm vụ quan trọng của bộ máy chính quyền đều do các tướng
lĩnh Tây Sơn nắm giữ. Tổ chức chính quyền từ trung ương đến địa phương
(tổng, xã) được cải tổ, chấn chỉnh lại. Quang Trung đặt kinh đô ở Phú Xuân
để dễ dàng đối phó với cả hai mặt Nam và Bắc.
Quang Trung lại ra sắc lệnh tuyển binh, cứ 3 xuất đinh chọn lấy một. Tổ
chức và trang bị quân đội cũng được cải tiến, nâng cao:
“Quân đội Quang Trung gồm đủ các binh chủng: bộ binh, thủy binh, kị
binh, tượng binh, pháo binh. Vũ khí có thêm nhiều súng tay, hỏa nổ (loại ống
phun lửa) và đại bác các cỡ. Chiến thuyền cũng có nhiều loại, loại lớn có thể
chở được voi chiến hoặc sáu bảy trăm lính và hàng chục đại bác”.
Tình hình chính trị, quân sự nhờ vậy được ổn định nhanh chóng. Biên
giới phía Bắc, phía Tây được bảo vệ vững vàng.
Có thể nói, Quang Trung hết sức tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc,
của quân đội. Ngay trong thời kì tiến đánh Mãn Thanh, Quang Trung đã từng
nói với quân lính rằng:
“Cứ cho ta mấy năm nữa, nuôi uy lực, chứa nhuệ khí, thì ta có sợ gì
họ”.
Ngay từ năm 1789, sau khi tiêu diệt quân Thanh, Quang Trung đã lập
tức hạ “Chiếu khuyến nông”. Nội dung của chiếu đó ghi rõ những nông dân
phá sản, phiêu đạt được lệnh về quê nhận ruộng cày cấy. Chính sách quân
điền được sửa lại để đảm bảo cho người nông dân có số ruộng khẩu phần đủ
nuôi sống gia đình. Còn các ruộng đất tư của bọn phản động hoặc các ruộng
đất hoang quá hạn quy định đều tịch thu sung vào làm ruộng công, giao cho
các làng xã trông nom.
Chính sách tô, thuế về ruộng đất được giảm nhẹ hơn trước. Bởi vậy,
sau 3 năm, các ruộng đất hoang được thanh toán, kinh tế nông nghiệp dần
dần được phục hồi.
Quang Trung cũng chú ý đến việc phát triển công thương nghiệp. Nhiều
thứ thuế nặng nề của bọn phong kiến đề ra trước đây được bãi bỏ. Quang
Trung khuyến khích mở rộng việc buôn bán, làm ăn cho các thương nhân và
thợ thủ công. Hoạt động kinh tế của các thành thị, các trung tâm thương
nghiệp và thủ công nghiệp ngày một phục hồi. Mặt khác, Quang Trung còn
chủ trương mở rộng việc buôn bán với nhà Thanh và các nước tư bản
phương Tây.
Tuy mới bắt đầu, chính sách kinh tế tích cực của Quang Trung đã có
tác dụng cải thiện một phần đời sống của nhân dân và mở ra một triển vọng
mới cho xã hội Việt Nam.
Cùng với các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế đó, Quang
Trung cũng không bỏ sót một mặt quan trọng nữa là cải cách về văn hóa giáo
dục. Ở đây, chính sách văn hóa giáo dục dưới triều Tây Sơn đã góp phần rất
tích cực vào việc củng cố chính quyền mới và có thể tin chắc rằng triển vọng
của nó rất lớn nếu như nhà Tây Sơn không sớm bị thế lực phản động lật đổ.
2. Chính sách giáo dục dưới triều Tây SơnSau khi chiến thắng, việc củng cố chính quyền từ trung ương đến địa
phương là nhiệm vụ cực kì quan trọng. Ngoài những tướng lĩnh có công được
giao các trọng trách, để bổ sung cho bộ máy chính quyền mới, Quang Trung
đã chú ý tời hai mặt: chính sách cầu hiền và chính sách đào tạo nhân tài mới.
Trong buổi đầu, Quang Trung đã thu dụng một số quan lại, sĩ phu cũ
tham gia, chủ yếu theo lối tiến cử, cầu hiền. Trong suốt quá trình của cuộc
khởi nghĩa, Quang Trung luôn thu nạp, trọng dụng các sĩ phu phong kiến có
đức, tài, thành thật theo mình. Có thể dẫn ra một số trường hợp như giải
nguyên Trần Văn Kỉ (người huyện Hương Trà, Thuận Hóa), sau trở thành
người bí thư thân cận của Quang Trung với chức trung thư lệnh. Năm 1788,
khi tiến quân ra Bắc Hà, Quang Trung lại thu dụng nhiều nhân sĩ nổi tiếng như
Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Thế Lịch, Trần Bá Lãm,
Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Nha, Đoàn Nguyễn Tuấn v.v…
Năm 1791, để lập ra Viện Sùng Chính, nhà vua lại tập hợp nhiều danh
sĩ Nghệ An như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Bùi Dương Lịch, Nguyễn
Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định… Đặc biệt, chính sách cầu hiền của
Quang Trung tập trung điển hình ở trường hợp La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp
nhận ra giúp việc triều Tây Sơn vì cảm phục cái ân tình, sự trân trọng của
Quang Trung đối với cụ mặc dù đã mấy lần từ chối. Tuy vậy, số sĩ phu thức
thời này không được là bao so với yêu cầu xây dựng triều đại mới. Số đông sĩ
phu quan lại cũ, với thái độ “ngu trung”, đã tỏ thái độ bất hợp tác hoặc thậm
chí còn âm mưu chống lại. Cho nên, điều chủ yếu là phải đào tạo được đội
ngũ quan liêu mới trung thành với chế độ mới, phải cải cách lại chế độ giáo
dục, tổ chức những khoa thi mới để tuyển chọn nhân tài.
Điều nổi bật trong chính sách giáo dục dưới triều Tây Sơn từ việc đề
cao chữ Nôm. Thực ra, chữ Nôm đã xuất hiện từ lâu và ngay thời Lí, Trần đã
được dùng rộng rãi. Qua các triều đại chữ Nôm ngày một phát triển và trở
thành một thứ văn tự được phổ biến trong xã hội, trong nhân dân. Tuy nhiên,
các giai cấp phong kiến cầm quyền chỉ công nhận chữ Hán là văn tự chính
thức, được dùng trong công văn, giấy tờ, trong học hành, thi cử, còn chữ
Nôm chẳng những không được coi trọng mà còn bị coi rẻ, cho “nôm na là cha
mách qué”.
Chỉ có hai triều đại chữ Nôm được đề cao là triều Hồ và triều Tây Sơn.
Song phải đến cuối thế kỉ XVIII, Quang Trung mới thực sự nâng chữ Nôm lên
một địa vị xứng đáng. Ngay trong quá trình khởi nghĩa, các thư từ, mệnh lệnh,
các tờ hịch đã được viết bằng chữ Nôm. Năm 1786, khi tiến quân ra Bắc,
Quang Trung đã sai làm “Hịch xuất quân đánh nhà Trịnh” bằng chữ Nôm
trong đó có đoạn nêu rõ lí do khởi nghĩa như:
“Giận quốc phó ra lòng bội thượng,
Nên Tây Sơn xướng nghĩa Cần Vương.
Trước là ngăn cột đá giữa dòng,
kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé.
Sau là tưới mưa dầm khi hạn,
kẻo cùng dân sa chốn lầm than” v.v…
Năm 1788, tự tay Nguyễn Huệ đã viết bức thư bằng chữ Nôm giục
Nguyễn Thiếp chọn đất đóng đô ở Nghệ An.
Sau khi lên ngôi, Quang Trung dần dần thay thế chữ Hán bằng chữ
Nôm, coi chữ Nôm là văn tự chính thức của nhà nước. Phần lớn các chiếu
chỉ, mệnh lệnh, các bài văn tế… đều viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm cũng
chính thức được đưa vào khoa cử: Các quan trường phải ra đề thi bằng chữ
Nồm. Sĩ tử thi đến tam trường phải làm thơ phú bằng chữ Nôm. Trẽn lĩnh vực
văn học, nhiều thi sĩ sáng tác ra các tác phẩm bằng chữ Nam như “Ai tư văn”
(Bài khóc vua Quang Trung) của công chúa Ngọc Hân, vợ vua Quang Trung,
“Tụng Tây Hồ phú” của Nguyễn Huy Lượng, “Hoài cổ phủ” của Võ Trường
Toản. Sử gia Phan Trần Chúc đánh giá rất cao Phan Huy Ích trong việc dùng
văn Nôm. Ông viết:
“… Trong lúc các nhà nho kể cả Ngô Thì Nhậm – coi văn Nôm như lối
tiêu khiển không đáng kể vào văn chương, thì một mình Huy Ích đã có can
đảm dùng lối văn ấy vào những việc rất quan trọng như thảo các điếu văn của
triều đình tế trận vong tướng sĩ.
Văn của Huy ích lưu loát và cách dùng chữ rất nhẹ nhàng. Đến ngày
nay, chúng ta vẫn còn thấy giá trị khác hẳn với văn Nôm thời ấy”.
Cuối năm 1791, vua Quang Trung cho lập Viện Sùng Chính ở Nghệ An,
hạ chiếu cử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng, phụ trách việc giáo dục và dịch
sách ra chữ Nôm. Tờ chiếu như sau:
“Chiếu cho La Sơn dật sĩ Nguyễn Thiếp được biết:
“Ông tuổi đức đều cao, tất cả sĩ phu đều trông ngóng như núi Thái Sơn,
sao Bắc đẩu. Nay trong nước đã yên. Trẫm toan hưng khởi chính học. Ông
đã lấy học thuật biện rõ bên tà bên chính trong phép học. Trẫm rất vui lòng.
Trẫm định đặt Sùng Chính thư viện ở Vĩnh Kinh, tại núi Nam Hoa: ban
cho ông làm chức Sùng chính viện viện trưởng. Cho ông hiệu La Sơn tiên
sinh và giao cho ông chuyên coi việc dạy. Nhất định theo phép học Chu tử,
khiến cho nhân tài có thể thành tựu, phong tục trở lại tốt đẹp.
Từ nay, phàm trong các viên tư nghiệp, đốc học nếu có ai học hay,
hạnh tốt, thì sẽ kê quê quán, tên học, đạt đến thư viện giao cho ông khảo xét
đức nghiệm, và hạnh nghệ, tâu lên triều để chọn mà dùng.
Ông nên giảng rõ đạo học, rèn đúc nhân tâm, để cho xứng với ý trẫm
khen chuộng kẻ tuổi cao đức lớn.
Khâm tai! đặc chiếu.
Quang Trung năm thứ 4,
ngày 20 tháng tám (1791)
Qua nội dung tờ chiếu, quan niệm giáo dục của Quang Trung thể hiện
rất rõ. Trước hết, Quang Trung muốn “hưng khởi chính học” để góp phần xây
dựng đất nước. Vậy chính học là gì? Khi xưa học chữ nho có hai cách: Học
nghĩa lí (còn gọi là lí học) tức là học sâu vào huấn hỗ học, lí học, Hán học,
đạo học… với mục đích tìm đến cội nguồn của Khổng giáo.
Cách học đó tạo ra những người “quân tử”, những “kẻ sĩ”, vừa có tài,
vừa có đức, có bản lỉnh “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” và cuối cùng
thực hiện được lí tưởng “nhân đạo” và “thế giới đại đồng”. Người ta gọi đó là
chính học. Cách học thứ hai là học từ chương, tức là học thuộc các kinh
nghĩa, làm thơ phu, văn sách… cốt nhằm để đi thi và ra làm quan (nên ông
gọi là khoa cử). Trong xã hội phong kiến nước ta trước đó nhất là cuối thế kỉ
XVIII, người ta đua nhau học theo lối từ chương để mưu cầu danh lợi nên
không thể tạo ra được nhân tài cho đất nước.
Năm 1791, trong một bài tấu gửi vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp đã
viết:
… “Chính học lâu ngày mất, người ta chỉ tranh nhau đưa tập việc học
từ chương, cầu công lợi, mà quên bẵng cái giáo tam cương, ngũ thường.
Chúa tầm thường, tôi nịnh hót, quốc phá gia vong, những tệ kia đều ở đó mà
ra”.
Bởi vậy, Quang Trung muốn đào tạo được lớp người mới có học vấn
uyên bác, sâu rộng, có năng lực thật sự để ra giúp nước. Bản thân việc đặt
tên viện là Sùng chính đã nói lên ý đó. Và Viện trưởng Nguyễn Thiếp là người
đã từ bỏ lối học khoa cử, sớm theo cách học nghĩa lí nên có trình độ học vấn
cao rộng nổi tiếng đương thời.
Điểm thứ hai, Quang Trung muốn mẫu người đào tạo ra phải có đủ tài
đức vẹn toàn. Nhà vua căn dặn trong việc tuyển chọn người phải khảo xét kĩ
càng cả hai mặt “đức nghiệp” và “hạnh nghệ”.
Nguyễn Thiếp đã tập hợp nhiều sĩ phu giỏi như Nguyễn Công, Nguyễn
Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch để dịch các sách Tiểu học, Tứ thư và
các kinh Thư, kinh Thi, kinh Dịch ra chữ Nôm.
Cuối năm Quang Trung thứ tư (1791), sách “Tiểu học” đã dịch xong và
tiến nộp. Tháng 5 năm Quang Trung thứ năm (1792), các sách “Tứ thư” cũng
dịch xong, đóng thành 32 tập gửi về kinh đô. Nhận được sách, Quang Trung
rất hài lòng, và hạ chiếu khen La Sơn phu tử cùng các viên cộng sự.
Vua còn đặc biệt “ban thưởng cổ tiền một trăm quan” để cùng “chung
hưởng ân tứ”. Việc dịch sách này nói lên ý định của Quang Trung muốn dần
dần thay đổi sách học chữ Hán ra chữ Nôm, dùng chữ Nôm để phổ biến rộng
rãi việc học hành trong nhân dân, thoát li hẳn phương Bắc cả về mặt văn tự.
Chính sách đề cao chữ Nôm là một cải cách tiến bộ, là sự kế thừa mạnh mẽ
những thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân ta, đặc biệt của
quá trình phát triển văn Nôm thế kỉ 18.
Chính sách đó được quần chúng và các thức giả đương thời hoan
nghênh, ủng hộ, song nó cũng bị chống lại kịch liệt trước các thế lực phong
kiến suy tàn, bảo thủ, nổi bật nhất là Phạm Thái (tức Chiêu Lỳ) trong bài
“Chiến tụng Tây Hồ phú” (bút chiến chống lại bài “Tụng Tây Hồ phú” của
Nguyễn Huy Lượng) với những câu:
“Chữ lối cua bò lăng nhăng thư thảo
Thơ lông chó chạy láo nháo xướng thù”…
Tuy nhiên, sự chống đối hằn học này chỉ chứng tỏ rằng vương triều Tây
Sơn đã có những đổi mới tiến bộ, kiên quyết giáng đòn quyết liệt vào thói rập
khuôn, nệ cổ, chuộng thói hư văn của các triều đại phong kiến cũ.
Như trên đã nêu, cách tiến cử nhân tài thực ra chỉ là một biện pháp tạm
thời trong buổi đầu, đồng thời là cách ổn định tình hình xã hội. Số người cộng
tác không nhiều, trong số đó không ít người làm việc cho có lệ hoặc thậm chí
chờ cơ hội phá phách. Cho nên, Quang Trung trông đợi ở việc đào tạo một
lớp quan lại mới có đủ tài và đức.
Mặc dù cuối thế kỉ XVIII, cơ sở kinh tế và xã hội đã có những tiền đề,
những mầm mống của chủ nghĩa tư bản phát triển song bản thân Quang
Trung chưa vượt qua được ý thức hệ phong kiến. Nó giải thích việc Quang
Trung vẫn phải dựa vào Nho giáo để “hưng khởi chính học”, dựa vào khoa cử
để tuyển chọn nhân tài. Mặc dù vậy, Quang Trung đã cố gắng thực hiện
những cải cách tiến bộ trong khuôn khổ hạn chế đó.
Trước hết, Quang Trung chú ý đến việc phát triển giáo dục rộng rãi hơn
các triều đại trước. Trường học được mở từ trung ương đến tận xã. Theo
“Chiếu lập học” thì ở làng xã đều dựng nhà xã học; bên cạnh đó, các trường
tư vẫn tiếp tục tồn tại. Tử phủ trở lên có trường do nhà nước mở. Các đền
chùa ở các phủ huyện vẫn do dân trông coi, song có thể dùng làm trường học
hàng phủ. Về giáo viên, nhân dân các xã lựa chọn như nhà nho có đức hạnh
làm xã giảng dụ để dạy bảo học trò. Thầy do xã chọn, nhưng nhà nước sẽ tổ
chức khảo hạch và công nhận. Còn các trường ở lộ, phủ, nhà nước cử các
viên phủ huấn đạo về giảng dạy. Nội dung giảng dạy vẫn là Nho giáo. Sách
giáo khoa vẫn là các sách Tiểu học, Tứ thư, Ngũ kinh, Quang Trung chỉ rõ:
“Trước học Tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên rồi đến Tứ thư,
Ngũ kinh. Học cho rộng để ước lược cho gọn, theo điều học biết mà làm”.
Cái khác ở đây là Quang Trung muốn người đi học phải hiểu biết sâu
rộng, từ đó nắm lấy cái tinh túy nhất để mà làm chứ không phải học thuộc
lòng.
Là con người hành động cương quyết, nếu như không sớm mất, chắc
chắn Quang Trung sẽ có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa về mọi mặt, trong
đó có cả văn hóa và giáo dục. Việc tổ chức thi cử dưới triều Tây Sơn cũng
được cải cách bước đầu, song chưa thực hiện được bao nhiêu.
Các nho sinh, sinh đồ cũ đều phải qua thi lại để xét thực tài. Ai đỗ hạng
ưu mới công nhận cho đỗ, ai vào hạng liệt phủ về học lại ở các trường xã.
Còn bọn “sinh đồ 3 quan”; đỗ đạt bằng hối lộ, mua bán thì dứt khoát đuổi về
chịu lao dịch như dân thường.
Năm 1789, Quang Trung mở khoa thi Hương đầu tiên ở Nghệ An.
Nguyễn Thiếp được cử làm đề điệu. Thí sinh trúng tuyển gọi là tú tài, hạng ưu
được tuyển vào quốc học, hạng thứ đưa về phủ học.
Năm 1793, Bùi Đắc Tuyên (triều đại Quang Toản) sửa lại, định lệ thi
hương chỉ có 2 kì, ai trúng tuyển gọi là tuấn sĩ. Quang Toản còn dự định mở
khoa thi Hội ở Vĩnh Doanh (Vinh, nghệ An) và Bắc Thành nhưng chưa thực
hiện được.
Năm 1794, Quang Toản lại định 3 năm một kì thi Hương, gồm 4 trường:
ai trúng tam trường gọi là sinh đồ, ai trúng ứ trường gọi là hương cống.
Triều đại Tây Sơn chỉ tồn tại trong 16 năm (1786 – 1802) và Quang
Trung chỉ ở ngôi vua được 6 năm.
Nếu kể từ đời Lí lập ra Văn Miếu và mở Quốc Tử Giám đầu tiên ở nước
ta (1070) đến Tây Sơn (1786), thời gian dài tới 716 năm, trong đó triều Tây
Sơn chỉ là con số lẻ của hơn 1 thế kỉ. Tuy vậy, Quang Trung và triều Tây Sơn
đã ghi lại thững dấu ấn đậm nét trong những trang sử chói lọi của dân tộc ta,
trong đó có sự đóng góp tích cực của giáo dục.
Với chính sách đề cao chữ Nôm và việc sửa đối việc học, việc thi,
Quang Trung và triều Tây Sơn đã đặt cao vai trò của giáo dục trong toàn bộ
sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trong cuốn “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”, đồng chí Trường
Chinh viết:
“Ông cha ta, hàng chục thế kỉ, học Trung Quốc, viết chữ Trung Quốc,
nghĩ theo cách nghĩ của Trung Quốc; pháp luật mô phỏng của Trung Quốc;
học triết học Trung Quốc, theo lễ giáo Trung Quốc…”
“… Do đó mà có hai nhược điểm lớn là kém khoa học và lai Trung
Quốc.
Tuy vậy, vượt qua mọi thử thách, nhân dân ta vẫn giữ được tính cách
và tâm hồn Việt Nam thể hiện ở tiếng nói cũng như lòng yêu nước nồng nàn,
tinh thần độc lập dân tộc, tính cần cù trong lao động sản xuất và dũng cảm
trong chiến đấu vì tự do”.
Có thể nhận định rằng, việc làm của Quang Trung, hơn tất cả các triều
đại phong kiến trước, đã thể hiện sâu sắc lòng yêu nước, tinh thần độc lập
dân tộc; tính chiến đấu vì tự do trong đó việc mong muốn thoát li hẳn văn tự
Trung Quốc là nhằm giữ được tính cách và tâm hồn Việt Nam.
Do hoàn cảnh khách quan và điều kiện chủ quan, triều đại Tây Sơn đã
không tồn tại được lâu dài. Triều đại Gia Long với ý thức căm thù giai cấp, đã
tìm mọi cách xóa sạch những dấu vết của nhà Tây Sơn.
Tuy rằng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, những ý định cách tân
chưa thực hiện là bao, song chính sách giáo dục của Quang Trung và triều
Tây Sơn đã có ý nghĩa tiến bộ, thể hiện lòng tự hào dân tộc, thể hiện sức
sống mãnh liệt của dân tộc ta muốn thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang về
mọi mặt, đồng thời đấu tranh mạnh mẽ vào các thế lực phong kiến lạc hậu, lỗi
thời.
3. La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (1723 – 1804)Sơ lược tiểu sử
Nguyễn Thiếp, tự Khải Xuyên, hiệu Lạp Phong, Lục niên phu tử, Hạnh
Am và La Sơn phu tử, người làng Nguyệt Ao (hay Nguyệt Úc), huyện La Sơn
(nay là Đức Thọ, Hà Tĩnh). Ông sinh năm 1723, mất năm 1804, thọ 82 tuổi.
Nguyễn Thiếp đậu hương cống đời Lê, làm huấn đạo và tri huyện
Thanh Chương, rồi vì loạn lạc, ông bỏ quan về ở ẩn tại núi Nam Hoa (tức núi
Thiên Nhận). Năm 1788, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi, lấy niên hiệu
Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh giặc Thanh, có mời ông ra hỏi về mưu kế
phá giặc. Sau đó, Quang Trung nhiều lần cho người mang thư và lễ vật mời
ông ra làm quan. Lúc đầu, ông nhất định từ chối, nhưng sau cảm ân tri ngộ và
thấy chính nghĩa đã về với Tây Sơn, ông nhận ra giúp Quang Trung lập Sùng
chính thư viện, dịch sách Tiểu học, Tứ thư… ra chữ Nôm.
Sau khi Quang Trung mất, ông lại về sống ẩn dật như xưa, không chịu
ra làm quan nữa.
Tư tưởng chính trị của Nguyễn Thiếp
Khác với chủ trương “pháp trị” của Lê Quý Đôn, ông chủ trương “đức trị
“nhân chính” để trị nước và giải quyết những căn bệnh của xã hội.
Theo ông, muốn trị nước phải thực hiên 4 điều: vua, quan, lòng người
và phép giáo hóa dân.
Vua phải là người có đức, vì đức là gốc của mọi sự. Vua có đức sẽ
cảm hóa được dân, và đã cảm hóa được dân thì sẽ xoay chuyển được moi
việc.
Quan lại không cần nhiều vì “Quan càng nhiều, dân càng bị quấy
nhiễu”. Tổ chức nhà nước phong kiến phải gọn nhẹ, không nên cồng kềnh,
đặt ra nhiều chức tước, thang bậc chỉ làm cho công việc không thống nhất.
Việc tuyển chọn quan lại phải kén người có phẩm hạnh, có học vấn, biết
thương dân, “giảm xá cho dân, nâng đỡ người lương thiện, trừ khử kẻ gian
điêu”
Đối với lòng người (nhân tâm), Nguyễn Thiếp quan niệm “dân là gốc
nước, gốc vững nước mới yên”. Bởi vậy, phải làm cho dân không đói khổ,
khiến dân “mến nhớ kẻ có nhân” và có thế “lòng dân mới quy phục”.
Điều quan tâm nhất của ông là giáo hóa nhân dân bằng sự học hành.
“Ngọc không chuốt, không thành đồ; người không học không biết đạo” (“Ngọc
bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo” – Lễ kí). Đạo theo Nguyễn
Thiếp là “những lẽ thường theo để làm người”. Người đi học là học những
điều như vậy.
Thực hiện tốt 4 điều đó thì sẽ trị nước để dùng vì chúng quan hệ chặt
chẽ với “thế đạo nhân tâm”, đến thịnh suy của đất nước.
Nguyễn Thiếp kịch liệt phê phán lối học từ chương, khoa cử, chủ
trương khôi phục chính học. Trong bài tấu gửi vua Quang Trung, Nguyễn
Thiếp đề nghị nhà vua “hạ chiếu thư cho trường phủ, huyện, khiến thầy trò
các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều
tùy đâu tiện thì đi học”. Như vậy mới đào tạo được nhiều nhân tài, mới thực
hiện được đạo. Đạo có thành thì mới nhiều người tốt và do vậy mà “triều đình
chính”, “thiên hạ trị”.
Tư tưởng chính trị đó thực chất là tư tưởng trị nước chính thống của
các nhà nho. Điều đáng chú ý ở đây là tư tưởng đã gắn liền với hoàn cảnh
lịch sử đương thời, với tấm lòng thương dân, lo nước của một sĩ phu có tầm
suy nghĩ sâu sắc trước nỗi thống khổ của nhân dân nên tư tưởng “đức trị”,
“nhân chính” đó mang một nội dung nhân đạo chân thành.
Tư tưởng đó không có điều kiện thực hiện dưới thời Lê – Trịnh, nên
Nguyễn Thiếp từ quan về ở ẩn. Thái độ đó không phải là tích cực, song cũng
được kẻ sĩ ca ngợi, kính trọng.
Tuy nhiên, việc dè dặt cộng tác với nhà Tây Sơn chứng tỏ ban đầu
Nguyễn Thiếp còn thiếu nhạy bén, thức thời, nên hạn chế việc sử dụng đức
tài trong triều đại mới.
Tư tưởng học thuật của Nguyễn Thiếp
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, nhất là từ thế kỉ XVI về sau, hầu hết
các nho sĩ theo học lối từ chương, khoa cử. Chỉ có một số ít học nghĩa lí như
Nguyễn Binh Khiêm, Võ Trường Toản, Nguyễn Thiếp…
Bản thân Nguyễn Thiếp lúc đầu cũng học từ chương, sau mới chuyển
sang học nghĩa lí. Ông nghiên cứu sâu lí học đời Tống (như Tượng số học,
Tống học, Tâm học…). Học thuyết Tống Nho có 2 bộ phận: Lí khí tức là
những vấn đề về thực tại bản thể, bắt nguồn từ tư tưởng của Lão Trang của
Hệ từ truyện của Chu dịch. Tâm tính tức là những vấn đề về tâm lí, luân lí,
đạo đức, bắt nguồn từ tư tưởng Thiền tông của đạo Phật và tư tưởng của
Mạnh Tử. Giữa hai bộ phận lí khí và âm tính, Nguyễn Thiếp thiên về tâm tính
hơn. Chính tư tưởng học thuật này đã chỉ đạo tư tưởng chính trị cũng như
quan niệm về giáo dục của ông.
Ông cho rằng vua phải có đức. Muốn tu đức, có tài, vua cũng phải học.
Ông nói: “Từ xưa thánh hiền chưa có ai không bởi sự học mà có đức” và “nếu
lấy sự học vấn mà tăng thêm tài, thì thật là một đấng ở trước đời Thang, Vũ”.
Bởi vậy, ông đề nghị triều đình phải mở nhà giảng diễn để vua và các quan
thảo luận các điển tích (trong các sách Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung
dung, Ngũ kinh, Chư tử…), đọc và suy nghĩ kĩ để thực hiện. Còn đối với dân,
sự giáo hóa cũng phải thông qua việc học hành như đã nêu ở phần trên.
4. Bùi Dương Lịch (1758 – 1828)Bùi Dương Lịch, người làng An Toàn, huyện La Sơn (nay thuộc Nghệ
Tĩnh). Ông sinh năm 1758, mất năm 1828, thọ 70 tuổi. Ông đậu hoàng giáp
đời Lê Chiêu Thống (Khoa Đinh Mùi, 1787). Trong triều đại Tây Sơn, tuy có
giúp Nguyễn Thiếp dịch một số sách chữ Hán ra chữ Nôm, nhưng không chịu
ra làm quan.
Khi Gia Long lên ngôi, ông được vời ra làm quan, nhưng nhiều lần từ
chối. Tới 1805, ông mới nhận chức đốc học Nghệ An (1805 – 1808). Sau
được triệu vào Phú Xuân làm Phó đốc học Quốc Tử Giám (1812), nhưng
cũng chỉ làm 1 năm rồi xin về quê dạy học. Ông mất tại quê nhà năm 1828.
Xuất thân từ một nhà nho nghèo, chịu ơn sâu sắc triều Lê, ông quan
niệm học cho thành đạt để làm quan và thực hành đạo chính thống của nho
gia – Nhưng thời thế loạn li, mộng của ông không thành, nên lui về dạy dỗ
học trò và viết sách để truyền bá tư tưởng Nho giáo.
Là một nhà nho uyên bác, ông đấu tranh mạnh mẽ chống lại các tôn
giáo, ý thức hệ Phật, Đạo cũng như mê tín dị đoan. Ông không chỉ học sâu
các sách vở kinh truyện mà còn nghiên cứu cả sách khoa học khác nữa để có
thể “cách vật trí tri”. Bởi vậy, khi viết các sách “giáo khoa”, “địa chí”, ông đã
ứng dụng các kiến thức đó một cách linh hoạt và có ý nghĩa tiến bộ nhất định.
Ví như khi trình bày các vấn đề tự nhiên, ông đã có những tư tưởng
mang tính chất biện chứng, duy vật (ví dụ: Sử dụng phạm trù “khí” một cách
duy vật trong khi biện thuyết về hiện tượng thu tinh ở núi Kim Nham để bác ý
kiến của La Sơn phu tử; dùng thuyết “Âm dương hợp đức” khi bàn về đình
làng An Hội, hoặc thuyết “hoàn cảnh địa lí” của phương rây khi viết địa lí lịch
sử v.v…).
Trong lĩnh vực giáo dục, Bùi Dương Lịch có soạn cuốn sách giáo khoa
nhan đề “Bùi gia huấn hài” (Sách dạy trẻ của gia đình họ Bùi).
Sách này soạn vào năm 1787, khi ông dạy học ở Thăng Long nhằm
dạy cho trẻ con kiến thức phổ thông, tóm tắt những điều cốt yếu như việc sinh
ra trời, đất, người, vật, giới thiệu tuần tự các điều đế vương (Bắc sử), sự tích
nước Việt, truyền thống đạo học và cuối cùng là phương pháp học của trẻ
em. Thực ra, những kiến thức này chỉ là sự chọn lọc các lời của tiên nho đã
nói từ trước. Bùi Dương Lịch đã sắp xếp lại, đặt thành những câu có vần đối
nhau, bằng trắc xen kẽ gồm 2.000 câu, mỗi câu 4 chữ để dạy cho trẻ dễ học.
Với hơn 800 trang sách, trong đó ba phần tư là lời nguyên chú của tác giả,
Bùi Dương Lịch đã thể hiện là người có học vấn uyên bác, có suy nghĩ sâu
sắc thiết thực, khoa học. Trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy
Chú đã đánh giá cuốn sách là đã “lược chép được đại yếu các sách tử sử và
tính lí, lời gọn ý rộng”. Qua cuốn sách, Bùi Dương Lịch đã phê phán phương
pháp dạy trẻ thời đó là “phần nhiều cho học thuộc lòng quyển Thiên tự của
Chu Hưng Tự người thời Lương ở Trung Quốc biên soạn là chẳng ích lợi gì”
hoặc “lấy các sách Hiếu kinh và Tiểu học câu đặt dài ngắn không đều là rất
khó học”. Theo ông, trẻ con tuy có trí nhớ tốt, nhưng hiểu biết còn ít, “nếu
không đặt theo cách luật đọc không thuận miệng mà dễ sinh nản lòng, không
bảo rõ ý nghĩa thì lòng hiểu mập mờ, nhận định không được đúng”. (Tựa của
Bùi gia huấn hài).
Mặc dù kiến thức vẫn chỉ là chọn lọc trong lời các bậc tiên nho, song
Bùi Dương Lịch đã đóng góp nhiều ý kiến, tư tưởng riêng của mình, đặc biệt
có những ý kiến hay về phương pháp học của trẻ em.
(Xem thêm: “Phương pháp học của trẻ em” ở phụ lục 5 cuối sách).
Chương VI. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1945)
1. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XIXTrên thế giới, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, chế độ phong kiến châu Âu
đã bước đến giai đoạn cuối cùng mở đầu cho cuộc cách mạng dân chủ tư
sản phát triển hết sức mạnh mẽ, mau lẹ. Từ giữa thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư
bản âu Mĩ đua nhau đi tìm thị trường thế giới. Vận mệnh của tất cả các nước
lạc hậu, nhỏ bé phương Đông bị đe dọa. Lúc này, trật tự phong kiến ở các
nước châu Á đang lung lay trước những mâu thuẫn đối kháng, không thể điều
hòa giữa giai cấp phong kiến thống trị và nông dân trong nước. Nhiều nước
lần lượt trở thành thuộc địa và nửa thuộc địa (Ấn Độ, Inđônêxia, Trung Quốc).
Riêng Nhật Bản, cuộc “Minh trị duy tân” từ thập kỉ 60 của TK XIX đã giúp
nước này thoát khỏi sự cai trị của âu Mĩ, trở thành một nước tiến lên chủ
nghĩa tư bản. Như vậy, có thể thấy rằng không phải tất cả các dân tộc châu Á
không có cách gì tránh khỏi số phận mất nước.
Ở Việt Nam, sau khi diệt được nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã lên ngôi
năm 1802, niên hiệu Gia Long, lập ra triều Nguyễn trung hưng. Buổi đầu, nhà
vua tập trung vào việc củng cố chế độ chính trị – xã hội. Quốc hiệu Đại Việt
được đổi thành Việt Nam (1804). Gia Long ra sức bảo vệ nền chuyên chế mới
giành được. Vua được mệnh danh là “con trời”, có uy quyền tối cao, tuyệt đối.
Hệ thống quan lại được tổ chức rất đông từ trung ương đến địa phương, trở
thành rường cột của chế độ phong kiến triều Nguyễn, đồng thời là gánh nặng,
là tai vạ to lớn của nhân dân.
Về kinh tế, nhà Nguyễn chú trọng tiến hành khai hoang, đặc biệt là
vùng bờ biển. Song ruộng đất cũ và một ngày một rơi vào tay giai cấp địa
chủ. Ruộng tư lấn dần ruộng công. Nhân dân phải chịu tô thuế về nông
nghiệp, công thương nghiệp nặng nề. Đời sống nông dân cùng cực, nhiều
người phải bỏ làng đi thiêu tán. Mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp phong kiến,
giữa phong kiến và địa chủ, giữa thống trị và bị trị. Khởi nghĩa nông dân nổ ra
khắp mọi nơi.
Chủ nghĩa tư bản phương Tây trong quá trình xâm nhập châu Á cũng
không bỏ sót Việt Nam. Khác với Nhật Bản, chính sách bảo thủ, bế quan tỏa
cảng của phong kiến triều Nguyễn là cản trở sức sản xuất mới, đưa nước ta
vào con đường bế tắc và mất nước vào nửa sau thế kỉ XIX.
Trong lúc triều đình từng bước hòa hoãn và lùi dần trước thế lực ngoại
xâm thì nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của sĩ phu yêu nước, đã tiến hành
cuộc đấu tranh chống Pháp ngay từ buổi đầu tiên.
Hoàn cảnh lịch sử đó đã tác động mạnh mẽ đến chính sách giáo dục
của triều đình nhà Nguyễn.
2. Sự phục hồi chế độ khoa cử dưới triều Nguyễn (Thế kỉ XIX)a) Vị trí của giáo dục khoa cử Nho học và yêu cầu về nhân tài của
triều Nguyễn.
Cũng như các triều đại phong kiến trước, sau khi diệt nhà xây Sơn, Gia
Long lên ngôi đã phải giải quyết hàng loạt vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội.
Phải có hiền tài, có đội ngũ quan lại đông đảo phụ trách mọi công việc từ
trung ương đến địa phương.
Song những năm đầu của triều đại mới chưa thể đào tạo được ngay
nhân tài. Bởi vậy, sử dụng những danh sĩ, danh nho, các cựu thần nhà Lê cũ
lâu nay vẫn ẩn dật không chịu cộng tác với Tây Sơn là việc quan trọng và cần
kíp. Bởi vậy, ngay sau khi lên ngôi năm 1802, Gia Long đã hạ chiếu dụ các
cựu thần nhà Lê ra mắt để tùy tài đức nhà vua sẽ bổ dụng, ban chức tước vã
bổng hậu.
Ngay sau đó, triều đình đã lấy Nguyễn Duy Hợp làm Thị trung trực học
sĩ, lãnh chức hiệp trấn Kinh Bắc, Lê Duy Đản làm Kim hoa điện học sĩ, Phạm
Thích, Võ Trinh làm Thị trung học sĩ, Vũ Đình Tứ, Nguyễn Duy Thảng làm
Cần chính điện học sĩ. Các nho sĩ này đều là cận thần nhà Lê cũ, không chịu
ra làm quan với triều Tây Sơn, nay vào yết kiến và đều được đặc dụng.
Năm 1814, Gia Long lại chỉ dụ cho các đình thần:
“Học hiệu là nơi chứa nhân tài tất phải giáo dục có căn bản thì mới có
thể thành tài. Trẫm muốn bắt chước người xưa, đặt nhà học, nuôi học trò,
ngõ hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nổi để cho nhà nước dùng”.
Năm 1820, Minh Mạng vừa lên ngôi đã có sắc ban chiếu cầu hiền, nói
rõ:
“Hiền tài là đồ dùng của nhà nước, cho nên ngoài khoa mục ra, phải
nhờ có cử tri, mà chức phận của đại thần là phải đem người tài đức để thờ
vua. Trẫm mới nối ngôi, mưu toan gắng gỏi, rất muốn trong triều có nhiều
người giỏi, ngoài nội không sót người hiền, để tổ điểm mưu to, vang lừng đức
hóa. Vậy ra lệnh cho các quan ở trong kinh, văn từ tham tri, võ từ đô thống
chế trở lên, ở ngoài thì các quan ở thành dinh trấn, đều cử một hai người có
đức hiền lành ngay thẳng và có văn học, không kể là nhà sang hay nhà hèn,
đều kê tên tâu lên”.
Tuy thế, số người ra giúp việc cũng không nhiều khiến nhà vua phải đặt
ra nhiều câu hỏi vì sao ít có người hưởng ứng: vì người tài giỏi không còn ai
biết đến, không thiết công danh chăng? hoặc giả người hiền tài có mà không
được ai tiến cử chăng? hoặc giả lòng cầu hiền của nhà vua chưa thiết tha
chăng?… Vì vậy vua ra lệnh cho các quan lại cả mười một hạt Bắc Thành và
hai hạt Thanh Nghệ, hễ thấy ai học rộng văn hay… đều phải tiến cử để nhà
vua xét chọn tùy tài đức để dùng.
Chính vì việc thu phục nhân tài cũ khó khăn như thế, nên các vua nhà
Nguyễn chủ trương phải lấy việc tổ chức giáo dục, đào tạo nhân tài mới là
chính, là việc cấp bách.
Năm 1816, vua Gia Long đã chỉ dụ cho bộ Lại rằng:
“Muốn có nhân tài, trước phải giáo hóa. Nay ở kinh sư số học giả còn ít
là bởi phép đây chưa đầy đủ. Trẫm muốn dựng nhà quốc học và quán Sùng
văn để tỏ bày giáo hóa, khiến học giả bốn phương nhóm họp ở kinh sư; ai
học tiến ích thì ưu cấp lương lẫm, học lâu không tiến thì trách phạt, như thế
học trò biết sự khuyên răn, mà nhân tài ngày thêm thịnh vượng”.
Tuy bàn luận, phát biểu rất nhiều về nhân tài và đào tạo thân tài, song
Gia Long, Minh Mệnh đều không chỉ rõ nhân tài cần có những phẩm chất,
năng lực như thế nào. Phải đến sau này, Tự Đức mới đưa ra cách giải thích
như sau: Nhân tài là những người “hoặc đức hạnh đầy đủ có thể làm mẫu
mực; hoặc tiết thảo đoan phương, có thể đương nổi việc ủy thác, hoặc tài trí
giỏi giang, có thể yên trong nước, phục người ngoài hoặc chính sự tinh thông,
có thể giúp cho nước giàu dân mình; hoặc giấy tờ lời lẽ thông thạo, sâu rộng,
tài có thể đi xứ bốn phương tự mình chuyên ứng đáp được, hoặc vừa giữ
vững, vừa đánh dẹp, có thể làm như cái mộc, cái thành để hắn giữ muôn
dặm, hoặc trí, nhân, dũng gồm đủ, có thể làm đại tướng giữ tiết việt được;
hoặc kĩ nghệ hơn người, có thể xung phong đánh giặc”.
Định nghĩa khá rõ ràng, cụ thể, song Tự Đức vẫn không vượt qua khỏi
vòng giáo dục khoa cử của Nho học.
b) Hệ thống trường học và chế độ thi cử được chấn chỉnh
Hệ thống các trường học
Năm 1803, Gia Long đã cho rời Quốc Tử Giám vào Huế. Ở đây nhà
vua giao cho Quốc Tử Giám nhiệm vụ khảo khóa học trò và chọn con các
quan lại, học trò giỏi các nơi cử lên theo học để đào tạo thành những người
có học vấn ra làm quan.
Năm 1821, Minh Mạng cho mở rộng thêm Quốc Tử Giám, dựng nhà Di
luân đường, Giảng đường và các phòng cho tôn sinh (học trò thuộc dòng họ
tôn thất) và giám sinh ăn ở, học tập Giám sinh ở nội trú được cấp học bổng
và chăm nom thuốc men lúc đau ốm.
Về học bổng, buổi đầu ban cấp đồng loạt mỗi người mỗi tháng 10 quan
tiền. Năm 1825, mới định lại lệ cấp học bổng theo thứ hạng giỏi, khá và trung
bình, cụ thể là:
Hạng ưu: Mỗi tháng 4 quan, 3 phương gạo, 5 cân dầu.
Hạng bình: Mỗi tháng 3 quan, 2 phương gạo, 4 cân dầu.
Hạng thứ: Mỗi tháng 2 quan, 2 phương gạo, 3 cân dầu.
Lại cấp cho mũ áo để phân biệt với nho sinh thường.
Theo “Hội điển toát yếu”, triều Nguyễn cũng quu định chức trách cụ thể
cho các giáo quan ở Quốc Tử Giám:
“Tế tửu coi việc học chính và đào tạo nhân tài để giúp cho nền văn học
được thịnh đạt. Tư nghiệp tham gia công việc học chính làm phó phủ để giúp
tế tửu. Học chính theo việc giáo dưỡng chuyên giữ việc giảng dạy học tập.
Tôn học và giám thừa đem các thuộc viên để làm mọi sự vụ quốc học. Điền
bạ và điền tịch đều coi giữ kinh sách, sổ bạ…”. Ngoài ra, có một số thư lại để
tùy việc sai phái trong trường.
Các loại trường ở tỉnh, phủ, huyện thuộc hệ thống “hương học”, có
trách nhiệm rèn học sinh để đủ trình độ đi thi hương. Dưới triều Nguyễn, số
trường thi Hương giảm bớt song số trường học đã được tổ chức đến huyện
tuy chưa đều khắp mọi nơi.
Năm 1823, Minh Mạng cho đặt các chức giáo quan ở địa phương như
sau:
Đốc học coi việc học của toàn tỉnh; giáo thụ phụ trách trường phủ; huấn
đạo phụ trách trường huyện. Quy cách xây dựng các trường này cũng có sự
phân biệt, cụ thể như:
– Trường phủ: 3 gian, 2 chái, được cấp 300 quan tiền.
– Trường huyện: như trường phủ, song quy mô, kích thước nhỏ hơn và
được cấp 250 quan tiền để xây dựng.
Ở các dinh trấn, học đường được xây dựng gồm 1 giảng đường 3 gian
2 chái và 1 nhà vuông 1 gian 2 chái.
Trường học ở các xã, ấp hoàn toàn do dân tự lo liệu. Ngay chức tổng
giáo được lập ra ở đầu đời Gia Long để dạy sơ học, đến năm 1824 dưới triều
Minh Mạng, bộ Lễ cho rằng các phủ, huyện đã có giáo thụ, huấn đạo nên
cũng xin vua bãi bỏ.
Như vậy, trường học ở các tổng, xã, ấp là trường dân lập hay tư thục.
Đó là các trường do các thầy đồ, các nho sĩ mở ra cũng giống như các triều
đại trước đó. Tuy thế, có nhiều trường rất nổi tiếng, còn ghi lại trong sử sách,
như trường Trúc Đường của Ngô Thế Vinh, trường Đông Sơn của Nguyễn
Đức Đạt, trường Phương Đình của Nguyễn Văn Siêu đều nổi tiếng về văn
chương có quy củ, học thuật, kiến văn đều sâu rộng. Có trường suốt đời ông
thầy luôn giữ vẹn một lẽ sống “… Thà đui mà giữ đạo nhà” như trường
Nguyễn Đình Chiểu.
Vào nửa sau thề kỉ XIX, khi thực dân Pháp mới đặt nền thống trị ở
nước ta nền giáo dục Pháp – Việt chưa có điều kiện phát triển, Nho học vẫn
được duy trì. Bên cạnh những sĩ phu yêu nước đấu tranh bằng con đường vũ
trang khởi nghĩa, nhiều sĩ phu khác đã chống giặc trên mặt trận văn hóa giáo
dục. Đặc biệt, một số sĩ phu tiến bộ như Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường
Tộ thấy rõ sự suy tàn và bất lực của Nho giáo trước thời cuộc đã đưa ra
những kiến nghị, điều trần nhằm canh tân đất nước, canh tân giáo dục…
song không được vua quan triều Nguyễn chấp nhận. Đầu thế kỉ XX, một trào
lưu văn hóa giáo dục mới trỗi dậy, sôi động hơn. Đó là các phong trào Duy
Tân, Dông Du, Đông Kinh nghĩa thục của các sĩ phu tiến bộ, yêu nước; đó
còn là dòng giáo dục yêu nước cách mạng do giai cấp vô sản, đứng đầu là
Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức và lãnh đạo mà chúng tôi sẽ đề cập ở
một chương sau.
Chế độ thi cử
Chế độ thi cử nho học dưới triều Nguyễn kéo dài đến năm 1919 mới
chấm dứt hẳn. Trong hơn một thế kỉ, nội dung các môn thi, đề thi có thay đổi
ít nhiều, song nhìn chung, không có gì mới mẻ do với các triều đại trước. Hầu
như mọi thể lệ, quy chế về thi cử, triều Nguyễn đều phục hồi lại theo lệ cũ của
đời Lê: cũng thi Hương, thi Hội, thi Đình, cũng lấy đỗ đại khoa (tiến sĩ), trung
khoa (cử nhân, tú tài), cũng có lễ vinh quy lễ ban yến và ban áo mũ.
Tuy nhiên triều Nguyễn bớt đi một số quy định như hạn chế việc khắc
tên các tân khoa vào bia đá, không lấy đỗ trạng nguyên trong đệ nhất giáp.
Ngay từ 1807, vua Gia Long đã xuống chiếu định phép thi Hương và thi
Hội. Chiếu rằng:
“Nhà nước cầu nhân tài, tất do đường khoa mục. Tiên triều ta chế độ
khoa cử đời nào cũng có cử hành… Nay thiên hạ cả định, Nam Bắc một nhà,
cầu hiền chính là sự cần kíp.”
Tờ chiếu cũng quy định rõ phép thi: Kì đệ nhất thi kinh nghĩa; kì đệ nhị
thi chiếu, chế, biểu; kì đệ tam thi thơ, phú; kì đệ tứ thi văn sách. Lấy tháng 10
năm Đinh Mão mở thi Hương và năm sau, năm Mậu Thìn (1808) sẽ thi Hội.
Song do mới bình định, văn học còn ít, nên sau lại đình việc tại Hội.
Phép thi Hương được quy định cụ thể như sau:
– Lập 6 trường thi Hương gồm các trường Nghệ An, Thanh Hoa, Kinh
Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam Thượng và Hải Dương.
Trường Thanh Hoa thì Thanh Hoa và Thái Bình thi chung.
Trường Kinh Bắc thì Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng thi
chung.
Trường Sơn Tây thi Sơn Tây, Hoài Đức, Tuyên Quang, Hưng Hóa thi
chung.
Trường Sơn Nam Thượng thì Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ thi
chung.
Trường Hải Dương thì Hải Dương và Yên Quảng thi chung.
Lại cho chế ấn “Thí trường” và ấn triện nhỏ “Văn hành công khí” (cái
cân văn chương là của chung) của các trấn.
Việc cung đốn đồ thập vật cho trường thi đều chi tiền công.
– Học trò đi thi thì trước kì, lí trưởng sở tại phải ghi vào sổ, những
người có trọng tang, nhưng người bất hiếu, bất mục, loạn luân, điêu toa và
sau năm Gia Long thứ nhất phạm án cướp hay phản nghịch thì không được
vào thi.
– Quan trường thì đề điệu dùng quan tùng nhị phẩm; giám thí dùng
quan tam phẩm; giám khảo dùng quan tam tứ phẩm; phúc khảo cùng quan tứ
ngũ phẩm; sơ khảo dùng quan lục thất phẩm; thể sát, mật sát dùng các đội thị
trung và thị nội; lại phòng thì chọn những thuộc lại các trấn người chữ viết tinh
đẹp để sung làm.
– Quan tỏa viên ở nội trường thì dùng quan tham hiệp sở tại. Quan nội
trường không được mang theo thỏi mực và giấy có chữ.
Quan nội trường và quan ngoại trường không phải việc công thì không
được gặp riêng nhau.
– Học trò vào trường không được mang theo sách vở, không được rời
khỏi lại đi hỏi chữ hay thay đổi thẻ ghi tên, làm trái là có tội. Nếu quan trường
với học trò có thông đồng thỉnh thác, thì quan bị xử giáng bãi, học trò bị xử
đồ. Thể sát, mật sát, lại phòng mà thừa nhịp làm bậy hay bọn vô lại, côn đồ
lừa dối làm tiền, đều bị tội đồ. Học trò mượn người làm bài hay làm thay bài
cho người thì xử sung quân.
– Kì thi, kì đệ nhất, kinh nghĩa 5 đề, bài làm chuyên một kinh hay kiêm 5
kinh cũng được; truyện nghĩa 1 đề; kì đệ nhị, chiếu, chế, biểu mỗi thứ 1 đạo;
kì đệ tam, một bài thơ đường luật một bài phú thể tám vần; kì đệ tứ, một đạo
văn sách.
Học trò làm bài hạn trong 1 ngày, viết cho chân hay chữ thảo cũng
được.
– Sau khi nộp quyển, lại phòng soạn hiệu, phong lại, rồi đưa quyển
sang quan giám khảo ở nội trường. Giám khảo chia giao cho sơ khảo [để
chấm], rồi đưa quyển trúng sang phúc khảo. Quyển trúng và quyển hỏng thì
sơ khảo và phúc khảo đều phải ghi tên ở mặt quyển. Giám khảo duyệt lại rồi
đưa những quyển trúng sang cho quan ngoại trường bình duyệt và châm
chước để định lấy hay bỏ. Quyển nào văn lí có thể bỏ cũng được, lấy cũng
được, hay văn lí khá mà bị tì vết, thì quan giám khảo lưu lại để trình quan
ngoại trường thẩm duyệt định bỏ hay lấy. Phàm các kì thi đều chiếu kì mà yết.
Kì đệ tứ thì xướng danh. Sau phúc hạch thì yết bảng. Người trúng tứ trường
là hương cống, tam trường là sinh đồ, đều được miễn phú dịch. Hương cống
thì được ban mũ áo và cho ăn yến, gọi là yến Lộc minh (Lộc minh là 1 bài thơ
trong thiên Tiểu nhã của Kinh Thi tả bữa ăn yến của vua ban cho quần thần).
Năm 1812, Gia Long xuống chiếu quy định từ năm Quý Dậu (1813), bắt
đầu mở khoa thi Hương ở 7 trường thi trong cả nước. Đó là các trường
Quảng Đức, Bình Định, Gia Định, Nghệ An, Thanh Hóa, Thăng Long, Sơn
Nam Thượng. Quy thức thi do bộ Lễ quy định có thể tóm tắt theo bảng sau
(xem trang sau). Về điều lệ thi Hương cũng được định tại. Phàm binh lính, lại
dịch có học mà tình nguyện xin thi, thì binh lính ở Kinh do bộ Binh, ở ngoài do
quan địa phương, lại dịch thì do quan sở quản sát hạch, người nào thông văn
lí thì được miễn công vụ 3 tháng cho về học tập để đến kì vào thi; sinh đồ
khoa trước thi trượt vẫn là sinh đồ như cũ; học trò trúng nhị trường thì miễn
lao dịch 3 năm, trúng nhất trường thì miễn 2 năm.
Năm 1825, Minh Mệnh ban hành chế độ thi cử theo định kì như các
triều đại trước: 3 năm mở 1 khoa thi: Các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu thi Hương,
các năm Sửu, Mùi, Thìn, Tuất thi Hội.
Đổi hương cống thành cử nhân, sinh đồ thành tú tài. Lệ tuyển đỗ theo ti
số “nhất cử tam tú”.
TỔNG HỢP CHUNG
1. Từ khoa Đinh Mão đời Gia Long thứ 6 (1807) đến khoa Tân Mão đời
Thành Thái 3 (1891) có tất cả là 38 khoa (gồm 11 là ân khoa, 25 là chính
khoa, 2 là triển hạn). Số đỗ là 4.921 người.
2. Từ khoa Giáp Ngọ đời Thành Thái thứ 6 (1894) đến khoa Mậu Ngọ
đời Khai Định 3 (1918) có tất cả 9 khoa (đều là chính khoa). Số đỗ là 1244
người.
3. Gộp lại từ 1807 đến 1918 có:
– 47 khoa thi Hương
– 6.165 người đỗ.
(Nguồn tư liệu: Dựa theo Cao Xuân Dục: “Quốc triều hương khoa lục”.
Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh. 1993).
Khoa thi Hội đầu trên dưới triều Nguyễn được mở vào năm Nhâm Ngọ
(1822) tại kinh đô Huế. Trong kì thi này, đích thân vua Minh Mệnh ra đề, riêng
kì đệ tứ vua sai quan trường ra đề. Vượt qua được 4 kì thi Hội, các tân khoa
phải vào thi Đình để xếp hạng. Tùy thứ hạng cao thấp, các tân khoa được lấy
đỗ theo các giáp đệ:
Hạng 1: Đệ nhất giáp cho danh hiệu Tiến sĩ cập đệ; nhiều nhất 2 người
gồm Bảng nhãn và Thám hoa (không lấy Trạng nguyên).
Hạng 2: Đệ nhị giáp cho danh hiệu Đồng tiến sĩ xuất thân hay còn gọi là
Hoàng giáp, lấy đỗ từ 1 đến 3 người.
Hạng 3: Đệ tam giáp cho đanh hiệu Đồng tiến sĩ xuất thân. Hạng này
không hạn định số đỗ.
Năm 1829, theo lời tâu của bộ Lễ, Minh Mệnh cho đặt thêm danh hiệu
Phó bảng, dưới Đồng tiến sĩ xuất thân một bậc. Hạng này không được xếp
vào diện thi Đình (Điện thí). Chỉ có những người đỗ đệ nhất giáp mới được
khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu.
Nếu tính từ năm thi Hội đầu tiên tức năm Nhâm Ngọ Minh Mệnh 3
(1822) đến năm thi cuối cùng tức năm Kỉ Mùi Khải Định 4 (1919), trong
khoảng 97 năm của triều Nguyễn đã có tất cả 39 khoa thi Tiến sĩ và tương
đương với tổng số đỗ đại khoa là 558 người, chia ra đệ nhất giáp 11 người (2
Bảng nhãn, 9 thám hoa), đệ nhị giáp 54 người, đệ tam giáp 227 người và 260
phó bảng.
Ngoài ra, các vua Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phúc đều có mở các khoa thi
đột xuất gọi là ân khoa. Riêng vua Tự Đức còn đặt thêm chế khoa và nha sĩ
khoa. Những người trúng cách cũng được xếp ngang hàng cùng tiến sĩ,
(nhưng danh hiệu là cát sĩ).
Như vậy, nhìn đại thể, chính sách thi cử của các vua triều Nguyễn có
khuynh hướng hạn chế trên, nới rộng dưới (không lấy Trạng nguyên; lấy thêm
Phó bảng; mỏ nhiều ân khoa). Tuy vậy so với triều Lê, số đỗ đạt đại khoa vẫn
chưa bằng, mặc dù việc học và việc thi không chỉ ở Bắc Hà mà mở rộng đến
cả lục tỉnh phía Nam.
– Việc quy định các sách học và phương pháp giảng học truyền thông
Nhà Nguyễn trung hưng, kế thừa kinh nghiệm các vua Lê và chúa
Nguyễn trước, vẫn lấy Nho học làm đạo trị nước, an dân, làm phương tiện
giáo hóa con người. Với chủ trương độc tôn Nho học, các vua nhà Nguyễn và
triều đình không muốn có sự pha tạp ảnh hưởng của các tôn giáo khác. Đặc
biệt, việc cấm đạo Thiên Chúa của các vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức,
ngoài việc ngăn chặn các hoạt động gián điệp của bọn khoác áo thày tu còn
nhằm thuần nhất hóa tư tưởng và nội dung giáo hóa trong cả nước. Với ý đồ
xây dựng nước Việt Nam thành một nước độc lập hùng mạnh, Minh Mệnh đã
hết sức coi trọng công việc giáo dục trong buổi đầu mới mở mang. Đối với
nhân dân, ông ban bố “Thập điếu” năm 1834 và hạ lệnh trong các dịp năm
mới hoặc tết nhất, hội hè, đình đám, các bô lão phải đọc và giảng giải cho dân
làng thông hiểu và làm theo. Mười huấn dụ đó là:
1 – Đôn nhân luân (tôn trọng luân thường đạo tí tức tam cương, ngũ
thường).
2 – Chính tâm thuật (giữ cho lòng ngay thẳng)
3 – Vụ bản nghiệp (chăm lo nghề nghiệp)
4 – Thượng tiết kiệm (chuộng lối sống tiết kiệm)
5 – Hậu phong tục (giữ gìn phong tục thuần hậu)
6 – Huấn tử đệ (dạy dỗ con em)
7 – Sùng chính đạo (tôn sùng đạo học chân chính tức đạo Nho)
8 – Giới dâm thác (tránh tà dâm)
9 – Thận pháp thủ (tuân theo pháp luật)
10 – Quảng thiện hành (làm nhiều điều tốt).
Đối với việc học ở các trường, Minh Mệnh cho thực hiện các quy định
từ thời Gia Long ban hành năm 1803, cụ thể như sau: “Từ 8 tuổi trở lên thì
vào tiểu học rồi đến học sách Hiếu kinh, Trung Kình; 12 tuổi trở lên, trước học
Luận ngữ, Mạnh Tử rồi Trung dung, Đại học; 15 tuổi trở lên trước học Thi,
Thư sau học Dịch, Lễ, Xuân Thu, học kèm Chư tử và Sử”.
Nhưng đến năm 1823, nhân việc chọn các quan sung chức giáo đạo
hoàng tử, tham tri Hình bộ Ngô Đăng Giới cùng các đình thẩn khác đã dâng
tâu Minh Mạng một quy trình giảng học gồm 11 điều sau:
1 – Các sách giảng học
2 – Trích yếu kinh sử
3 – Thứ tự giảng đọc
4 – Hạn lệ ngày học
5 – Hạn lệ tới học
6 – Lệ chầu thăm
7 – Cưỡi ngựa bắn cung
8 – Tả hữu không dùng người xấu
9 – Đi hầu giá tất phải mang người dắt dẫn giúp đỡ
10 – Kì báo sách ghi
11 – Trực nhật chủ thủ.
Trong quy trình này, các sách kinh sử Nho học đã được đưa ra giảng
học rộng rãi. Tuy vậy, những sách đem ra giảng học đã có sự lựa chọn, đặc
biệt những sách có ghi “ngư toản”, “ngự định”, “ngự phê”, “khâm định”, tức là
đã được vua phê duyệt, nhất thiết phải đưa ra giảng bàn, tra cứu, học tập để
có sự thống nhất tư tưởng và học thuật. Các triều đại trước Nguyễn chưa có
sự phân loại này. Ở các lớp “khai tâm” chỉ nói bắt đầu học từ Hiếu kinh, Trung
Kình. Nhưng trong thực tế, các sách “Tam tự kinh”, “Sơ học vấn tân” đã được
học tập phổ biến. Ngoài ra còn có quyển “Bùi gia huấn hài” của Bùi Dương
Lịch soạn. Có lẽ đây là sách riêng của Bài gia nên không được công nhận là
sách học chính thống.
Như vậy, kinh sử, đặc biệt là Ngũ kinh đã được quy định đưa vào giảng
học và giảng luận. Thám hoa Nguyễn Đức Đạt đã từng nói với học trò của
mình rằng:
“Tóm tắt sự biến đổi trong thiên hạ, thông suốt tình hình trong thiên hạ,
không sách nào rõ bằng Kinh dịch, nêu lên chế độ cho thiên hạ, bội thực cội
gốc cho thiên hạ, không sách nào rõ bằng Kinh thư; thu thập trí tuệ của thiên
hạ, giúp đỡ việc trị an cho thiên hạ, không sách nào rõ bằng Kinh thi; chẩn
chính quyền bính trong thiên hạ, không sách nào rõ bằng Kinh Xuân Thu;
châm chước điển tác trong thiên hạ, định tạo ra chí cực cho thiên hạ, không
sách nào rõ bằng Kinh lễ.”
Tư tưởng tôn sùng kinh truyện Nho học này cũng là quan điểm chung
của vua tôi nhà Nguyễn. Thực ra, trong thực tế, các vua Minh Mệnh, Thiệu
Trị, Tự Đức cũng nhiều lần bàn bạc với các thị thần về việc học và thấy rõ lối
học cử nghiệp này là lạc hậu, sai lầm và khó có thể đào tạo được những nhân
tài giỏi kinh bang tế thế. Có thể nêu một vài dẫn chứng. Năm 1828, vua Minh
Mệnh từng nói với các thị thần rằng:
“Trẫm từ khi làm thái tử sau khi vấn an được nhàn rỗi, không làm việc
gì, chỉ chăm xem sách. Phàm những sử Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh,
không bộ nào là không xem; nhưng tính trẫm không nhớ lâu, nên khi nói
chuyện, nhớ đến việc cũ nhà Nguyên, nhà Minh, có khi nhớ việc mà quên tên
người, trẫm hỏi các khanh, cũng không trả lời được, có lẽ chưa đọc chăng?”
Quang lộc tự khanh Phan Huy Thực tâu rằng: “Từ đời Lê trở lại, những
người học thi cử chỉ đọc các sử Hán Đường Tống để làm lối tắt thi cử”.
Vua nói: “Từ Nguyên Minh cho đến Đại Thanh có đến 6, 7 trăm năm.
Cứ nay mà xem thì từ đời Tống trở lên đã thành đời thái cổ rồi, mà kẻ học giả
bỏ gần cầu xa là cớ làm sao?”. Lại quay lại hỏi Lê Văn Đức. Lê Văn Đức đáp
rằng: “Thần cũng chỉ học văn cử nghiệp mà thôi!”.
Vua lại nói: “Văn cử nghiệp làm lầm người ta đã lâu. Trẫm cho rằng văn
chương vẫn không nhất định. Nay văn cử nghiệp chỉ câu nệ sáo cũ, lên mặt
với nhau, đứng riêng phe phái, nhân phẩm lấy đấy làm cao thấp, khoa trường
lấy đấy là đỗ hỏng, học hành như thế, lạ gì nhân tài mỗi ngày một kém.
Nhưng tập tục theo nhau, khó mà thay đổi. Vài năm nữa nên bàn thay đổi”.
Định như thế, nhưng rồi đến đời Tự Đức vẫn chẳng có gì thay đổi khiến
các nhà vua có lần phải kêu lên vì trình độ học trò quá kém.
Năm 1834, Minh Mệnh nhận xét “sỉ tử nước ta kiến văn quá hẹp; cả
những học quan và quan chấm thi cũng ít ai học rộng”. Còn Tự Đức năm
1871, đã so sánh là “quyển đỗ so với quyển hỏng không hơn kém gì” và ra
lệnh: “Từ nay trở đi, trong kinh cũng như tỉnh ngoài, các quan coi việc học
cùng học trò phải lấy thực hành làm đầu, sau đến lời lẽ văn hương. Phàm các
việc làm ruộng, thuế khóa, sai dịch, binh lính lễ nhạc, cho đến việc trị loạn xưa
nay, việc thi thố chính sự hiện thời không việc gì là không học cả. Còn về văn
chương, ông phải chấn chỉnh, tao nhã, sâu xa, thuần túy”.
Cũng không phải không có đình thần đã có lần xin vua cho lấy Nam sử
làm câu hỏi chính trong các bài thi, còn Bắc sử chỉ dùng để minh họa, dẫn giải
thêm song Minh Mệnh không nghe vì cho rằng sử nước ta chưa được tu
chỉnh lại cho chính thức.
Nội dung giảng học và thi cử như vậy nên kết quả là đã tạo ra những
lớp người lạc hậu trước thời cuộc, làm tai mắt cho triều đình song không hiểu
gì về những biến cố lớn ở trên thế giới, trong khu vực, những biến cố đang
từng ngày, từng giờ đe dọa sự mất còn của dân tộc.
Khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên năm 1858 ở bán đảo Sơn
Trà, mở đầu việc xâm lược bằng quân sự vào nước ta, những nho sĩ thức
thời như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Bạch đã đưa ra những bản điều trần
đề nghị cãi cách, canh tân việc học. Nhưng triều đình nhà Nguyễn, cả vua lẫn
quan kiên quyết bác bỏ, cho đó là những “tà ngôn” không hợp với nhân, khư
khư giữ lấy quan niệm “lời nói đời xưa đã thành công nên bày ra thuyết lạ
nào”.
– Về phương pháp giảng dạy và học tập: Các trường Nho dưới triều
Nguyễn bộc lộ khuynh hướng trở về với phương pháp chính học truyền
thống, nhằm làm cho người học thấm nhuần sâu sắc những lời dạy của thánh
hiền.
Trong quy trình giảng học 11 điều đã nêu, ở điều 3 ghi rõ “Phàm sách
kinh, sách thư, giảng đến thiên nào, cần phải gấp sách đọc lại bản văn cho
thuộc lầu, khiến cho thấm nhuần lời nói của thánh hiền”.
Đó là lối học theo phép của người xưa (phép tiên vương) là lối học
“thuật nhi bất tác” (kể lại mà không sáng tạo gỉ thêm). Học rồi phải hành, làm
theo những điều đã học một cách nghiêm túc để “sửa mình theo lễ” (khắc kỉ
phục lễ). Bàn về phương pháp học tập, Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872) đã
viết trong Tứ thư trích giảng của mình như sau:
“Học giả nên trước hết rộng tìm những điều đã ghi trong kinh sách như
lời cũ, việc làm xưa, cùng mọi vật mọi việc mà không đọc kĩ không thể nhận
ra, như thế gọi là học. Rồi các động, tĩnh, nói, làm nhận thấy việc này là thiện
hợp với đạo lý (việc kia là bất thiện, trái với đạo lí), luôn luôn đem chất lượng
chính với cổ nhân và không bao giờ quên sự xét mình, như thế gọi là tập”.
Còn Cao Xuân Dục lại tâm đắc nhắc lại lời dạy của người xưa: “Hễ đi
học là phải giữ nghiêm chỉnh lễ sóc vọng, giữ lễ sớm hôm (thăm nom, săn
sóc cha mẹ), đối xử phải cung kính, đi đứng nghe nhìn phải đàng hoàng,
dáng điệu, ăn mặc phải chỉnh tề, ăn uống có chừng mực, ra vào phải xem xét
lại mình. Đọc sách phải chuyên cần, viết chữ phải ngay ngắn, án sách cần
ngăn nắp, nhà ở phải sạch sẽ. Gọi nhau phải theo tuổi tác, gặp nhau cần có
dự định, tu nghiệp phải tính đến kết quả. Vui chơi phải quý điều thích chí, sai
khiến người cốt lấy nghĩa khoan hòa và phải thường xuyên lắng nghe ý kiến.”
Phương pháp học tập cổ truyền này có thể nói đã được các sĩ tử nước
ta (và Trung Quốc xưa) sử dụng hàng ngàn năm không mấy ai thay đổi. Cái
dở của nó là nếu chỉ nhằm vào khoa cử, người học sẽ tiếp thu kiến thức một
cách thụ động, thiếu tinh thần sáng tạo. Song cũng có một số người đã thực
tiễn lời dạy của Khổng Tử “Học nhi bất tư tấc võng, tư nhi bất học tắc đãi”
(Nghĩa là chỉ có học mà không suy nghĩ thì sẽ mắc lừa, chỉ có suy tưởng mà
không đọc sách thì sẽ thiếu lòng tin) để quyết đi đến nguồn gốc của đạo lí.
Chính sự cần cù, tự học này đã khiến họ trở thành những con người uyên
bác, những nhân tài của đất nước ở mỗi thời kì lịch sử.
Đối với ông thầy – trong triều Nguyễn cũng như các triều đại trước –
không thấy có trường lớp chính quy nào đào tạo phẩm chất và tài năng của
ông thầy là do chính bản thân mình phải tự rèn luyện nên. Song, xã hội và
nhà nước phong kiến thường đòi hỏi rất cao ở họ. Thầy phải là người mô
phạm, giỏi chữ nghĩa, văn chương, phải là người nghiêm khắc với học trò, là
tấm gương mẫu mực trong mọi lúc, mọi nơi. Trong trường lớp ngoài thầy học
còn có một số bạn bè và 2 người học trò lớn tuổi làm trưởng tràng (trưởng
tràng nội và trưởng tràng ngoại). Họ là người đại diện cho tất cả học trò, đồng
thời là người thay mặt thầy giải quyết các công việc cần thiết trong và ngoài
trường học, lớp học.
Gia đình, xã hội đều có trách nhiệm trong việc chăm sóc, dạy dỗ con
em. Gia đình có gia phong, gia pháp, làng xã có hương ước, hội tư văn, tư
võ, lại có hội đồng môn của các học trò nhiều thế hệ… tất cả những tổ chức
tự do này tùy theo chức năng riêng của mình đã đóng góp tích cực trong việc
giáo dục, đào tạo con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng trong xã hội
phong kiến Việt Nam.
3. Việc học và thi võ thế kỉ XVIII và XIXViệc học tập võ kinh, võ nghệ trong những thế kỉ 16, 17 cũng có chiều
hướng giảm sút như văn học.
Sau cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh kết thúc (1672), tướng sĩ có phần
trễ nải việc luyện tập võ nghệ. Vì vậy, năm 1721, chúa Trịnh ở đàng ngoài
định lại phép học và thi võ như sau:
– Bố trí nơi học tập võ nghệ, đặt chức giáo thụ như bên văn học để dạy
bảo con cháu công thần. Con em bầy tôi nào có năng khiếu thì chọn cho học
võ kinh, võ nghệ.
– Hằng tháng thi tuyển tập, bốn tháng trọng (tức tháng thứ hai mỗi quý)
thi đại tập. Mùa xuân, mùa thu tập luyện các môn võ nghệ. Mùa đông, mùa hạ
nghe giảng võ kinh. Giáo thụ xét ai học tốt thì cho trúng tuyển và đề cử lên
trên lần lượt xét bổ dụng.
– Quy định 3 năm mở một khoa thi võ, dân đinh ai có tài trí hơn người
cũng được dự thi.
Phép thi gồm có:
+ Đại lược về sách Tôn Tử, ai thông hiểu nghĩa sách được vào thi tiếp.
+ Các môn võ nghệ gồm:
1. Cưỡi ngựa, múa đâu mâu
2. Đấu kiếm, lăn khiên.
3. Múa siêu đao.
+ Thi về phương pháp mưu mẹo dùng binh.
Ai trúng cử 3 kì được vào sân phủ chúa thi phúc hạch, tùy tài cao thấp
cho bổ dụng lần lượt (cương mục, quyển 35).
Ai trúng hạng cao gọi là cống sĩ; hạng thấp gọi là biền sinh trúng hai kì
gọi là sinh viên.
Năm 1724, chúa Trịnh bắt đầu mở khoa thi bác cử (có từ Lê sơ, nay
mở lại), định lệ 3 năm một kì thi, các năm Tí, Mão, Ngọ, Dậu thi ở địa phương
(gọi là sở cử), các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất thi ở kinh đô (gọi là bác cử).
Năm 1731, đổi lại kì thi lí thuyết đầu tiên chuyển xuống kì cuối cùng. Nội dung
bài thi cũng có sửa lại:
Kỉ đệ nhất: Thi bắn cung, múa siêu đao.
Kì đệ nhị: Thi múa siêu đao, múa kiếm cưỡi ngựa, bắn tên, chạy bộ bắn
tên,…
Kì đệ tam: Thi lí thuyết (Thi văn sách võ kinh)
Ngoài ra còn mở thêm khoa thi Hoành tuyển (như khoa Hoành từ bên
văn) để lấy thêm những người tài giỏi chưa có dịp thi. Người đỗ bác cử gọi là
tạo sĩ, được ban ân điển như tiến sĩ bên văn.
Việc thi cử đòi hỏi các người tham gia phải rèn luyện võ nghệ và học
tập võ kinh nghiêm túc. Nội dung thi võ kinh thường lấy trong 7 bộ của tướng
Tôn Vũ thời Xuân Thu và tướng Ngô Khởi thời Chiến quốc (gọi tắt là binh
pháp Tôn Ngô) viết. Sách võ Việt Nam có hai quyển là Binh thư yếu lược (do
Trần Hưng Đạo viết, nay đã mất) và Hổ trướng khu cơ (do Đào Duy Từ soạn).
Hai quyển này tóm lược những tư tưởng chiến lược, chiến thuật, phương
pháp bày binh bố trận phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và địa lí nước ta.
Thời Lê trung hưng, Trịnh Sâm tuy đã đặt ra thể lệ thi võ, song do đất
nước rối ren không có điều kiện thực hiện được đầy đủ.
Năm 1834, Minh Mệnh mới quyết định về võ cũng thi như bên văn,
cũng dựng võ miếu, lập bia công thần. Mãi đến năm 1837, lệnh của nhà vua
mới được thi hành: Các năm Dần, Tị, Thân, Hợi mở thi Hương, các năm Tí,
Mão, Ngọ, Dậu mở thi Hội. Phép thi Hương gồm 3 kì:
Kì đệ nhất thi mang nặng (xách tạ):
Mỗi quả tạ nặng 50 – 60 cân, mỗi tay xách 1 quả, đi được 16 trượng (1
trượng = 4 mét) là ưu, 12 trượng là bình, 8 trượng là thứ cân ta khoảng 500 –
600 gam)
Kì đệ nhị thi múa côn, giáo, khiên đao và kiếm.
+ Múa côn (côn bằng sắt nặng 30 cân): chia 3 cầm một phần côn, vừa
đi vừa múa nhẩy, đâm đánh. Đi được 60 trượng là ưu, 50 trượng là bình, 40
trượng là thứ.
+ Múa giáo (giáo dài 7 thước 7 tấc): Một tay cầm đốc, một tay cầm giữa
cán, đứng cách bia (người nộm) 3 trượng, múa nhảy 3 – 4 bước rồi chạy
thẳng đến đâm vào giữa bụng hình nộm. Đâm trúng và suốt mũi giáo là ưu,
trúng nhưng không suốt là bình, đâm sượt là thứ.
+ Múa khiên dao: (Khiên: vật dùng để che đỡ cho tên, giáo khỏi trúng
người đan bằng mây, hình giống cái chảo; Siêu đao (hay đại đao) tức một loại
binh khí có cán dài, lưỡi to, sắc, có mũi nhọn hơi quan lại, dùng để chém)
nặng chừng 15 quan tiền (mỗi quan = 600 đồng tiền). Múa biểu diễn một bài.
+ Múa kiếm: Kiếm dài 1 thước rưỡi (khoảng 60cm) nặng bằng 15 quan
tiền. Biểu diễn một bài.
Kì đệ tam: Thi bắn súng. Đứng cách ụ bắn từ 20 đến 25 trượng. Trên ụ
dựng bia vẽ vòng tròn rộng 1 thước 2 (khoảng 48cm), giữa có hồng tâm rộng
3 tấc (12cm).
Bắn 6 phát:
+ 2 phát trúng tâm, 1 phát trúng vòng tròn, 3 phát trúng ụ đất là ưu.
+ 1 phát trúng tâm, 1 phát trúng vòng tròn, 4 phát trúng ụ đất là bình.
+ 2 phát trúng vòng tròn, 4 phát trúng ụ đất là thứ….
Qua 3 kì, ai được hạng ưu, bình thi đỗ cử nhân võ, ai toàn hạng thứ thì
đỗ tú tài võ.
Thi Hội giống như thi Hương, song đều nặng hơn: Tạ nặng hơn, chạy
dài hơn, bắn súng đặt xa hơn. Lại phải đấu côn quyền với 5 lính ngự lâm, nếu
thắng được 3 người mới lấy đỗ. Nếu lính ngự lâm nào thua thí sinh thì phải
phạt 9 tháng lương, vì vậy họ phải đem hết sức ra thi đấu.
Nếu qua được thi Hội sẽ được vào thi Đình để hỏi võ kinh và xét lấy đỗ
tạo sĩ (tiến sĩ võ) và phó bảng võ. Thi đỗ thí sinh được bổ chức xuất đội (võ
quan cấp thấp, chỉ huy 1 đội quân nhỏ).
Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), vua ban sắc dụ cho in 45 bộ võ kinh để cấp
phát cho các cơ, đội, vệ… để khắp trong ngoài học tập.
Năm Tự Đức thứ 19 (1866), trường học võ được dựng ở phía Tây kinh
thành Huế, đặt các quan chức để giảng dạy và quy định thể lệ tuyển sinh, lấy
những người trúng tam trường thi Hương (võ) và các hạng quan quân tình
nguyện vào học. Việc giảng học được tiến hành hàng quý, hàng năm như thời
Lê Trịnh cũ.
Năm Tự Đức thứ 20 (1867), vua lại cho mở trường thi võ ở Hà Nội và
Bình Định, lấy năm này làm năm thi đầu tiên.
Năm sau (1868), mở khoa thi Hương võ ở Thanh Hóa, quy định cả 4
trường Thừa Thiên, Hà Nội, Bình Định, Thanh Hóa đều tổ chức thi vào sau kì
thi Hương văn.
Năm Tự Đức thứ 22 (1869), vua mở ân khoa thi Hội võ và ân khoa
phúc thí võ lấy đỗ 3 tiến sĩ võ và 22 phó bảng võ. Như vậy, việc học và thi võ
được mở rộng hơn trước, song phát triển còn chậm chạp và nội dung giáo
dục võ nghệ, võ kinh cũng không có gì đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử nóng bỏng của nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
4. Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871)Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828 tại làng Bùi Chu, huyện Hưng
Nguyên, tỉnh Nghệ Tĩnh, trong một gia đình nhà nho nghèo theo đạo Thiên
Chúa. Do bố mất sớm, mãi năm 16 tuổi ông mới được đi học. Theo học chữ
Hán rất chăm chỉ, thông minh, được thầy và bạn yêu mến và khâm phục,
song ông không thích học về từ chương khoa cử. Năm 1855, giám mục
Gôchiê (Gauthier) mời ông dạy chữ Hán cho chủng viện Xã Đoài. Ở đây ông
học thêm tiếng Pháp và các môn khoa học phổ thông. Năm 1858, Gôchiê gửi
ông sang Pháp học tại Pari trong 2 năm. Nhờ vậy, Nguyễn Trường Tộ có dịp
đi thăm nhiều nơi, kết giao với nhiều bạn bè ngoại quốc, thu lượm được nhiều
kiến thức tiên tiến, phong phú, nắm bắt được những biến đổi lớn lao trên thế
giới.
Năm 1861, trở về Sài Gòn, ông buộc phải làm phiên dịch cho Pháp.
Chính trong thời gian này, ông đã đề xuất những đề nghị cải cách mạnh dạn
trên nhiều lĩnh vực, hi vọng triều đình nhà Nguyễn sẽ thực hiện duy tân, đổi
mới đất nước. Từ 1863 đến năm 1871, trước sau ông đã gửi lên vua Tự Đức
tới 43 bản điều trần, viết thành 14 tập trong đó có nhiều bản cực kì quan trọng
như: Thiên hạ đại thế luận, Tế cấp luận, Giáo môn luận, Trần tình khải, Tế
cấp bát điều, Cải cách phong tục v.v…
Trong những đề nghị cải cách đó, đề nghị cải cách giáo dục là một
đóng góp có giá trị đối với sự phát triển tư tưởng giáo dục ở Việt Nam và cuối
thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
Vào cuối thế kỉ XIX, nhiều sĩ phu phong kiến và ngay cả vua quan trong
triều đình nhà Nguyễn đã nhìn thấy sự sa sút của Nho giáo, sự bất lực của nó
trước yêu cầu mới của xã hội. Một số sĩ phu tiến bộ đã nói lên sự chán ghét
lối học từ chương khoa cử song chưa ai nêu ra được những chủ trương, biện
pháp gì để khả dĩ thoát khỏi tình trạng bế tắc này. Duy có Nguyễn Trường Tộ,
với tấm lòng nhiệt thành yêu nước và sự tiếp xúc trực tiếp với khoa học kĩ
thuật phương Tây, đã sớm đưa ra một chương trình cải cách giáo dục của
nước nhà. Trong đề án này, ông đã kịch liệt phê phán tư tưởng bảo thủ, thái
độ tự kiêu, tự phụ của quan lại, sĩ phu phong kiến đương thời, vạch rõ những
tác hại của nền giáo dục khoa cử. Ông nói: “Có một số đông người không
hiểu tình thế xưa và nay đã thay đổi khác xa, họ cứ ca tụng những công việc
của thời cổ xa tít mấy ngàn năm qua, họ cho rằng người đời nay không thể
nào bì kịp, cho nên họ chủ trương rằng bất cứ việc gì cũng phải theo xưa”.
Ông cho rằng trên thế giới không nước nào có cái học “ngược đời” là
toàn học chuyện ngày xưa để sống và làm việc ở đời nay, học một thứ của
Trung Quốc xưa để làm theo quan dân nước Nam ngày nay.
Bởi vậy ông chủ trương bỏ lối học cũ, học theo lối mới để biết cái thiết
thực, hữu dụng vì “học thực dụng thì kết quả sẽ được thực dụng, nếu học hư
hèn thì rút cục sẽ phải hư hèn”.
Theo ông, nếu bỏ cái học kinh sử cũ để “học việc binh, việc hình, luật
lệ, tài chính, kiến trúc, canh cửi, cầy cấy và các cái mới lạ khác cũng có thể
làm cho nước giàu dân mạnh”.
Để chấn chỉnh việc học, Nguyễn Trường Tộ chủ trương trước hết phải
xác định đúng đắn, rõ ràng mục đích, nội dung và phương pháp học tập: …
“Học để mà biết, biết để mà làm… làm công việc thực tế trong nước hiện nay
và để lại việc làm hữu dụng đó cho đời sau”.
Từ mục đích, phương châm giáo dục đó, ông đề xuất thay đổi nội dung
dạy và học, đưa những kiến thức khoa học tự nhiên, kĩ thuật công nghiệp,
nông nghiệp, v.v… vào chương trình giáo dục nhằm bồi dưỡng trí lực, óc
thực tiễn, tinh thần độc lập sáng tạo và phương pháp thực nghiệm khoa học
giúp người học kết hợp học với hành, tiếp thu có chọn lọc những cái tinh túy
của học thuật nước ngoài.
Nội dung đó phải nằm trong các bộ môn khoa học mới thiên văn, toán
học, chính trị, lịch sử, địa lí, nông học, địa chất, pháp lí, ngoại ngữ, v.v… Nội
dung đó lại phải bám sát thực tiễn đất nước, góp phần giải quyết những
nhiệm vụ của đất nước trong công cuộc chống nguy cơ xâm lược của nước
ngoài và phát triển nền kinh tế quốc gia.
Nguyễn Trường Tộ còn thiết tha đề nghị triều đình Huế thiết lập một hệ
thống trường phổ thông và chuyên nghiệp theo kiểu phương Tây để mau
chóng đào tạo được nhân tài cho đất nước. Ông lại đưa ra những chỉ dẫn cụ
thể về việc lập những khoa mới trong trường học, biên soạn, phát hành rộng
rãi các loại sách phổ biến khoa học – kĩ thuật, cử người đi du học nước ngoài,
mời giáo sư phương Tây vào giúp đỡ, ban hành chính sách khen thưởng
những người thi vào các khoa thực nghiệm… Ông còn đề nghị thay chữ Hán
bằng việc dùng chữ quốc âm trong giảng dạy và học tập bởi vì dùng ngôn
ngữ dân tộc thì có thể “bớt được nửa công phu, trí óc, dùng nó để học những
việc thiết thực về đời sống” sẽ đem lại nhiều ích lợi to lớn. Trong lúc chưa tìm
được mẫu tự mới – theo ông - có thể cải tiến chữ viết trên cơ sở lấy chữ Hán
làm gốc rồi đọc theo quốc âm mà không cần giải nghĩa…
Những kiến nghị trên đây của Nguyễn Trường Tộ mang nội dung hết
sức tiến bộ trong hoàn cảnh nước ta lúc đó. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của
Nho giáo và Gia tô giáo, quan điểm của ông cũng có những mặt hạn chế. Ông
cho rằng sự sút kém của học thuật nước ta là do mọi người “không nhận rõ
ngôi vua là quý, chức quan là trọng”, do “học thuật chưa có nề nếp”, v. v… mà
không thấy rõ nguyên nhân chính là do sự suy sụp của chế độ phong kiến đã
lỗi thời, sự bảo thủ, lạc hậu của triều đình nhà Nguyễn khăng khăng từ bỏ mọi
sự cải cách, đổi mới. Bởi vậy bao nhiêu tâm huyết của ông, công sức của ông
đưa vào các ban điều trần đều bị vua Tự Đức và các triều thần xếp tất cả vào
kho sách cũ.
Tuy thế, những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ trên mọi lĩnh
vực cũng như trên lĩnh vực giáo dục vẫn là tiêu biểu cho xu hướng duy tân
của nước nhà và báo hiệu một cuộc chuyển biến lớn tiếp theo vào đầu thế kỉ
XX, trong đó những sĩ phu yêu nước, tiến bộ nổi tiếng như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, v.v… sẽ tiếp tục kế thừa và
phát triển.
5. Vài nét về các thầy giáo Ngô Thế Vinh, Nguyễn Đức Đạt, Nguyễn Văn Siêu
a) Ngô Thế Vinh (1803 – 1856)
Ngô Thế Vinh, tự Trọng Nhượng và Trọng Dực, hiệu Dương Đình và
Trúc Đường. Ông người xã Bái Dương huyện Nam Chân tỉnh Nam Định. Nay
là thôn Bái Dương xã Nam Dương huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà, em của
Ngô Đình Thái. Ngô Thế Vinh sinh năm 1803, đã cử nhân khoa Mậu Tí
(1828). Năm 27 tuổi, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỉ Sửu niên
hiệu Minh Mệnh 10 (1829). Làm tới chức Lang trung bộ Lễ. Vì phạm lỗi khi đi
chấm thi, bị cách quan tước. Ông về quê mở trường dạy học (trường Trúc
Đường), học trò rất đông và có nhiều người thành đạt. Vua Tự Đức biết ông
là người có tài, giỏi thơ văn, cho khôi phục danh hiệu Tiến sĩ. Tác phẩm của
ông có Dương Đình thi văn tập, Trúc Đường phú tập.
b) Nguyễn Đức Đạt (1825 – 1887)
Người xã Nam Kim tổng Trung Cần huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ
An. Nay là thôn Hoành Sơn xã Khánh Sơn huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
Con Nguyễn Đức Hiển, anh của Nguyễn Đức Huy, cha của Nguyễn Đức
Đảng, cháu họ Nguyễn Đức Diệu, anh họ Nguyễn Đức Quý. Ông sinh năm Ất
Dậu (1825), đỗ cử nhân khoa Đinh Mùi (1847). Năm 30 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp
tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh nhất danh (Thám hoa thứ nhất) khoa Quý Sửu
niên hiệu Tự Đức 6 (1853). Lúc đầu được bổ chức Thị giảng Tập hiền viện,
sau thăng Cấp sư trung. Ít lâu sau xin về phụng dưỡng cha mẹ già. Năm
Canh Thân (1860) trở lại làm việc ở Kinh, giữ chức Đốc học Nghệ An. Cha
mẹ mất, ông về cư tang, mở trường dạy học, học trò xa gần đến học rất đông.
Quan tỉnh tâu về triều bổ ông làm Đốc học Nghệ An (1863) rồi thăng Án sát
Thanh Hóa, Tuần phủ Hưng Yên. Sau vì ốm yếu nên cáo quan về dưỡng
bệnh (3–1876).
Khi Hàm Nghi ra sơn phòng hạ chiếu Cần Vương đã phong cho
Nguyễn Đức Đạt làm Lại bộ Thượng thư kiêm Tổng đốc An Tĩnh. Ông cùng
Nguyễn Đức Quý chiêu tập nghĩa quân Cần vương đóng ở đình làng Hoành
Sơn. Sau vì thế cô, nghĩa quân phải rút vào rừng núi. Ông vì già yếu không đi
theo được phải ở lại quê nhà rồi mất vào tháng 2–1887, thọ 63 tuổi.
Nguyễn Đức Đạt tự Khoát Như và Sĩ Bá, hiệu Khả Am. Ông bình sinh
điềm đạm, lấy dạy học và trước tác làm việc, học trò nhiều người thành đạt.
Tác phẩm của ông có Nam Sơn tùng thoại, Nam Sơn song khóa, Hồ dạng thi,
Vịnh sử thi, Việt sử thăng bình, Cần kiệm vựng biên, Khảo cổ ức thuyết v.v…
c) Nguyễn Văn Siêu (1796 – 1869)
Người phường Dũng Thọ huyện Thọ Xương, Hà Nội. Nay thuộc phố
Ngõ Gạch, phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ông sinh năm Bính
Thìn (1796), đỗ cử nhân khoa Ất Dậu (1825). Năm 43 tuổi, đỗ Phó bảng khoa
Mậu Tuất niên hiệu Minh Mệnh 19 (1838). Lúc đầu được bổ làm Hàn lâm viện
kiểm thảo. Năm Thiệu Trị 1 (1841) thực thụ Viên ngoại lang, phạm lỗi bị cách
chức. Sau được phục chức Nội các thừa chỉ. Năm Tự Đức 1 (1848) thăng
hàm Thi giảng học sĩ. Năm Tự Đức 2 (1849) sung làm Phó sứ sang nhà
Thanh. Khi trở về được bổ làm Án sát tỉnh Hà Tĩnh, rồi Án sát Hưng Yên. Sau
bị ốm, cáo quan về nhà dạy học, dựng nhà giảng hình vuông, gọi là Phương
Đình. Học trò rất đông, nhiều người thành đạt. Sau lại được triệu ra làm việc,
thăng tới Hàn lâm viên Thị độc, được về trí sĩ. Ông mất tại nhà, thọ 74 tuổi.
Nguyễn Văn Siêu, tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình. Tác phẩm của ông
gồm Phương Đình thi tập, Địa dư toàn biên, Tùy bút lục, Vạn lí tập, v.v…
6. Võ Trường Toản, vị tôn sư nổi tiếng miền Nam (? – 1792)Gia Định, một bộ phận của thành phố Sài Gòn – Gia Định (nay là thành
phố Hồ Chí Minh) vốn từ lâu là nơi đất rộng và phì nhiêu, thời tiết thuận tiện.
Nhân dân Gia Định có một cuộc sống khá no ấm. Tính tình phóng khoáng,
ngang tàng, thường ăn tiêu phung phí, song rất ham học.
Ở đây có nhiều lớp học chữ nho, lắm thầy đồ, trong đó nổi tiếng là hai
trường Võ Trường Toản và Đặng Đức Thuật.
Võ Trường Toản quê chính là huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Ông là
mà nhà giáo nổi tiếng ở miền Nam nước ta vào cuối thế kỉ XVIII. Sự nghiệp
giáo dục của ông ít được ghi chép lại, trừ tấm bia do Phan Thanh Giản và
Nguyễn Thông soạn và một số bài báo khác. Qua đó, ta thấy Võ Trường Toản
tuy tiếp thu Nho giáo, song lại có những quan niệm và phương pháp giảng
dạy không giống với những nho sĩ đương thời.
Vào cuối thế kỉ XVIII, Nho học ở miền Nam chưa phát triển. Việc học
hành, thi cử chưa mạnh mẽ và được tổ chức rộng rãi đều đặn như miền Bắc.
Do đó, việc dạy dỗ học trò của Võ Trường Toản không nhằm mục đích khoa
cử mà chủ yếu là dạy về nghĩa lí, coi trọng sĩ khí. Dạy về KhỔng Mạnh,
nhưng ông thiên về học thuyết tính Thiện của Mạnh Tử. Điều đáng lưu ý là
ông đã chú trọng kết hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam, đặc biệt là
truyền thống quật cường của người dân Nam Bộ. Hai phương châm Tri ngôn
và Dưỡng khí được ông truyền thụ cho học trò cả về phương diện sách vở
lẫn thực tế. Tri ngôn là thu nhận kiến thức qua lời dạy của thánh hiền, còn
dưỡng khí là nuôi chí khí anh hùng, có tinh thần xả thân vì nghĩa lớn. Trong
việc giảng dạy, ông thường dần ra những tấm gương dũng cảm, bất khuất
trong lịch sử như Văn Thiên Tường.
Tác phẩm duy nhất còn lại của ông là bài phú Hoài cổ ngâm, trong có
những câu được dân gian truyền tụng rộng rãi như:
“Cho hay dời đổi ấy lẽ thường
Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.”
Nhiều học giả hậu sinh đều coi ông là bậc thầy tôn kính. Ba học trò nổi
tiếng của ông sau này là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh.
Ba người kết bạn cùng nhau, lập ra Bình Dương thị xã, là 3 nhà thơ nổi tiếng
đất Gia Định (còn gọi là Gia Định tam gia thi xã). Năm 1878, khi Nguyễn Ánh
chiếm lại Gia Định, mở khoa thi kén chọn nhân tài, hai ông họ Lê và Trịnh đã
đỗ cùng khoa và cùng được cử làm Hàn lâm viện chế cáo, giữ việc biên soạn
sách. Sau này, triều Nguyễn giao cho các ông nhiều trọng trách lớn. Các ông
cũng để lại nhiều sách giá trị về thơ văn, lịch sử, địa lí.
Có thể thấy Võ Trường Toản là người thầy rất có uy tín và được các
thế hệ sau hết lòng ca ngợi và noi theo.
7. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888)a) Sơ lược tiểu sử
– Nguyễn đình Chiểu sinh ngày 1–7–1822 trong một gia đình trí thức
nghèo tại làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định
thuộc vùng Đồng Nai. Quê hương ông là nơi có truyền thống văn hóa nổi
tiếng của dân tộc. Hào khí Đồng Nai đã hun đúc nên nhiều nhân tài tuấn kiệt
như nhà thơ Nguyễn Cư Trinh; như “Gia Định tam gia” Trịnh Hoài Đức, Ngô
Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, như nhà giáo đầy tài năng, đức độ Võ Trường
Toản. Quê hương và gia đình có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và tâm hồn
Nguyễn Đình Chiểu.
Cha ông là Nguyễn Đình Huy, một trí thức nghèo quê ở xã Bồ Điền,
huyện Phong Điền, Thừa Thiên. Ông giữ chức thư lại trong dinh Tổng trấn Lê
Văn Duyệt. Mẹ Nguyễn Đình Chiểu là Trương Thị Thiệt, một phụ nữ hiền từ,
giàu tình cảm, yêu chồng, thương con. Nguyễn Đình Chiểu là con đầu lòng
trong số 7 người con của bà. Bà thường kể chuyện đời xưa cho các con
nghe, qua đó, mà dạy con nhận ra cái thiện, cái ác, lẽ sống của con người.
Thuở nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu được cha gửi ra Huế học hành. Năm
1840, ông trở về Gia Định và 3 năm sau, thi tú tài ở trường thi Hương Gia
Định. Năm 1846, ông trở lại Huế, chuẩn bị cho kì thi Hội vào năm Kỉ Dậu 1849
thì được tin mẹ mất liền bỏ về cư tang. Dọc đường do thương mẹ, khóc lóc
vật vã, ông bị ốm đau và mù cả 2 mất. Năm 1849 mãn tang, ông ở lại Gia
Định bốc thuốc chữa bệnh cho dân, dạy dỗ học trò và sáng tác thơ văn.
Ông mất năm 1888, thọ 66 tuổi.
b) Nguyễn Đình Chiểu – người trí thức, người thầy giáo yêu nước, thương dân
Nguyễn Đình Chiểu sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo, lại
được rèn đúc trong khuôn khổ Nho giáo ngay từ nhỏ. Ông đã đỗ thi Hương và
học đủ tiềm lực để đi thi Hội. Điều đó chứng tỏ rằng Nguyễn Đình Chiểu đã
tiếp thu nội dung tư tưởng Nho giáo rất sâu sắc. Vào thế kỉ XIX, một đặc điểm
đáng lưu ý là ở Nam Bộ, trong các lớp học ở gia đình, ở trường tư phụ huynh
đều yêu cầu thầy dạy đầu tiên cho con em mình cuốn sách “Minh tâm bảo
giám”. Đây là tập sách luân lí gồm những câu cách ngôn chọn lọc trong các
sách Khổng, Mạnh, Phật, Lão, Trang, nhằm rèn luyện tâm tính, bồi dưỡng
hiếu hạnh, nhân nghĩa, khuyên người làm điều lành được phước, răn kẻ làm
điều dữ khó tránh tai họa.
Chính vì vậy, Nguyễn Đình Chiểu rất đề cao đạo đức của đạo nho như
“trung, hiếu, nhấn, nghĩa, tiết hạnh” và rất tôn sùng Khổng Tử:
“Ba vua năm đế dấu vừa qua,
Nối đạo trời rao đức Thánh ta.
Hai chữ cang thường dằn cả nước,
Một câu trung hiếu dựng muôn nhà”
Những ảnh hưởng của Nho giáo đối với mọi trí thức Việt Nam trong xã
hội phong kiến là điều tất yếu, song mỗi người việc tiếp thu và bộc lộ thái độ
trước những vấn đề của cuộc sống lại thường khác nhau.
Khác những trí thức đỗ đạt làm quan, khác những nho sĩ tiêu cực đi ở
ẩn, Nguyễn Đình Chiểu là người trí thức gắn toàn bộ cuộc đời mình với nhân
dân, với cuộc đấu tranh sống còn của đất nước.
Trước hết, Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng khái niệm nhân, nghĩa của
Nho giáo một cách sáng tạo, biến đổi nội hàm của nó để phù hợp với yêu cầu
của đất nước, của nhân dân ta trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng trước nạn
xâm lược của phương Tây.
Theo ông, điều “nhân” có nghĩa là lòng thương người, vị tha, là sự quan
tâm đến cuộc sống của dân, không mang tính giai cấp, đẳng cấp, không phân
biệt đối xử giữa người và người trong xã hội, càng không giống khái niệm
“nhân” nhằm biến hộ cho bọn xâm lược, cho việc thỏa hiệp đầu hàng với giặc
ngoại xâm. Còn điều “nghĩa” mà Nguyễn Đình Chiểu luôn nhắc đến cũng gắn
liền với lợi ích của nhân dân của tất cả mọi người chứ không phải chỉ dành
cho tầng lớp giầu sang, phú quý của giai cấp phong kiến.
Theo Nho giáo, chỉ có người quân tử và tầng lớp “thượng trí” mới thực
hiện điều nhân. Trái lại, ở Nguyễn Đình Chiểu, từ những bậc hiền tài đến
những người nghèo khổ trong xã hội, ai cũng đều thực hiện điều nhân và
không xuất phát từ lợi ích cá nhân như Khổng Tử thường nói: “Kỉ dục lập nhi
lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân” – Luận ngữ.
Khổng Tử đặt nhân trong 5 mối quan hệ cơ bản của xã hội phong kiến
(ngũ luân tức các mối quan hệ giữa vua – tôi, cha – con, vợ – chồng, anh –
em, bè bạn) và nghĩa là thực hiện trách nhiệm của mình trong 5 quan hệ đó.
Còn Nguyễn Đình Chiểu quan niệm nhân là tình thương yêu trong sáng giữa
nhân dân lao động, trong gia đình, ngoài xã hội, nghĩa là trách nhiệm đạo đức
phải thực hiện đối với nhà, đối với nhau trong hàng ngũ nhân dân lao động.
Khái niệm nhân nghĩa này vừa mang dấu ấn của thời đại vừa kế thừa tuyền
thống nhân nghĩa của cha ông ta như Nguyễn Trãi.
Nguyễn Đình Chiểu cũng quan niệm phải trung với vua, song không
phải thái độ ngu trung. Trung với vua, song vua phải là người có tài, biết
thương dân, yêu nước, phải cùng toàn dân đứng ra cứu nước chống giặc
ngoại xâm. Khái niệm hiếu ở ông cũng không cứng nhắc mà gần gũi với nhân
dân hơn. Hiếu là sự tôn kính, là lòng biết ơn đối với cha mẹ, là trách nhiệm
trông nom, săn sóc cha mẹ với tất cả tình cảm sâu nặng của con cái. Ở đây,
Nguyễn Đình Chiểu không nhấn mạnh vào sự phục tùng mù quáng của con
cái đối với cha mẹ.
Nguyễn Đình Chiểu ra đời và lớn lên trong hoàn cảnh chủ nghĩa tư bản
phương Tây đang trên đà phát triển và tìm cách xâm nhập vào các nước
phương Đông trong đó có nước ta.
Khác với các cuộc xâm lược của giai cấp phong kiến thống trị phương
Bắc thời trung cổ, sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây đặt ra
trước các nước châu Á nói chung và nước ta nói riêng một sự đối đầu quá
chênh lệch: Một bên là bọn thực dân có phương tiện quân sự, vũ khí tinh xảo,
kinh tế, kĩ thuật tiên tiến… với một bên tuy có tải nguyên, sức người phong
phú song còn ở trình độ nông nghiệp lạc hậu, chế độ phong kiến đã suy tàn,
yếu ớt. Trong xu thế đó, các nước phương Đông cũng như Việt Nam không
đủ sức chống đỡ, dần dần bị thất bại và bị nô dịch.
Thật vậy, mùa thu năm 1858, Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Đầu năm 1859, chiến thuyền Pháp tràn
qua sông bến Nghé, tấn công thành Gia Định. Mấy năm sau, toàn bộ tỉnh Gia
Định rơi vào tay giặc.
Tuy là một thầy đồ mù, Nguyễn Đình Chiểu vẫn nghe rõ tiếng súng xâm
lược, cảnh đồng bào chạy giặc, cảnh quê hương bị tàn phá đau thương. Tâm
trạng xót xa của người trí thức yêu nước được nói lên cụ thể qua bài thơ:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay!
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…”
Và ông kêu gọi, mong đợi nhân tài ra tay cứu nước:
“… Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!”
Trong hoàn cảnh đó, giai cấp phong kiến thống trị nhà Nguyễn luôn tỏ
ra nhu nhược, bất lực trước kẻ thù, từng bước nghị hòa, nhượng bộ đi tới chỗ
đầu hàng chúng. Trái lại, quần chúng nhân dân và 1 số quan lại, sĩ phu yêu
nước kiên quyết chống giặc. Tầng lớp sĩ phu cũng phân hóa: số ít cam tâm
theo giặc một số khác chán chường đi ở ẩn, còn lại là những trí thức chân
chính, gắn mình với cuộc chiến đấu của nhân dân, sẵn sàng hi sinh cho đất
nước. Nguyễn Đình Chiểu thuộc lớp trí thức yêu nước, thái độ của ông hết
sức rõ ràng, dứt khoát. Ông đứng hẳn về hàng ngũ nhân dân, căm thù giặc
sâu sắc không thỏa hiệp, không trông mong ở thiện ý của kẻ thù. Không thể
cầm súng giết giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã chống giặc bằng vũ khí ngòi bút
của mình:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Ông vạch rõ tội ác tày trời của giặc:
“… Từ thuở Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oán cừu… Kể
mười mấy năm trời khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào
xiết đếm tên”.
Ông lên án những kẻ nhân nhượng, đầu hàng giặc, lên án sự yếu hèn,
nhu nhược của triều đình. Ông quan niệm bằng bất cứ giá nào, điều kiện nào
cũng phải cầm vũ khí chống giặc:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia.
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai
nọ”
Không chi dùng thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu còn thường liên hệ với thủ
lĩnh Trương Định đốc binh là để trao đổi với họ về thế trận.
Mặc dù thực dân Pháp đã đặt được ách thống trị trên đất nước ta, song
Nguyễn Đình Chiểu vẫn tin vào lực lượng nhân dân, tin vào sự tất thắng của
dân tộc, vào chính khí thắng tà khí, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây:
“Ngày nào trời đất an ngôi cũ
Mủng thấy non sông bật gió Tây
Một trận bão rồi bờ cõi sạch
Trời thu như cũ mãi không hao.”
Trên lĩnh vực giáo dục sự nghiệp của Đồ Chiểu chưa được nghiên cứu.
Nhưng từ những cơ sở tư tưởng yêu nước, thương dân đã nêu trên, Nguyễn
Đình Chiểu rất xứng đáng là một người thầy mẫu mực. Tiếc rằng không có số
liệu cụ thể bao nhiêu học trò theo học, song từ sau ngày mãn tang mẹ tới lúc
mất, ông đã dành trọn hơn 30 năm trời cho việc dạy dỗ học trò, như vậy môn
đệ của ông không phải là ít. Điều quan trọng hơn là nội dung tư tưởng ông đã
truyền thụ cho môn sinh của mình. Có thể khẳng định rằng những kiến thức
của học thuyết Khổng giáo, Nho giáo ông sử dụng để dạy dỗ đã được dân tộc
hóa, bình dân hoa và gắn với thời đại để phục vụ cho yêu cầu ấp thiết là
chống giặc ngoại xâm. Sử dụng Nho giáo không nệ cổ, phục cổ mà phê phán
những mặt lạc hậu, gây tác hại cho đất nước. Ông phê phán đạo Lão, đạo
Phật, đạo Gia tô và cả tạo Nho nữa, lên án những kẻ dựa vào giáo lí để đưa
quê hương, đất nước vào cảnh lầm than, nô lệ:
“… Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng thân bất hạnh lâm
nghèo.
Bầy cửu lưu cứ giữ nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực…”
Cũng như nhiều nho sĩ khác, bản thân ông thuở thiếu thời đã mong
muốn học tập thành đạt để trở thành người tài đức phù vua, cứu nước. Song
ông muốn cổ vũ cho đạo lí làm người trong một xã hội vua sáng, tôi hiền theo
lời dạy của thánh hiển:
“Thánh xưa hiền trước để lời,
Phò vua, giúp nước, sửa đời, dạy dân.
Học cho biết lẽ quân thần,
Biết phần phu tử, biết phần hiếu trung”.
Lí tưởng này còn được Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm qua lời của nhân
vật Nhân Sư trong “Ngư tiều vấn đáp”:
“Đã cam chút phận dở dang
“Trí quân” hai chữ mơ màng năm canh
Đã cam lỗi với thương sinh
“Trạch dân” hai chữ luống doanh (quẩn quanh) ở lòng”
Muốn vậy phải xác định thái độ là “đi học phải toan tầm cội gốc”, phải
chăm chi học tập từ khi còn ít tuổi:
“Gặp thuở mây xanh siêng đọc sách
Mỗi câu đều hưởng phúc trời cho”
Học là phải dày công tìm hiểu, không những phải dựa vào kinh sách,
mà phải khiêm tốn học hỏi mọi người, phải biết kết hợp học với hành:
+ “Học rồi phải tính đến hành,
Làm đừng nhút nhát mà danh chẳng tròn.”
+ “Chỗ nào sót ý, phân âu xét bàn.
Miễn cho thấy đạo rõ ràng
Chớ e hỏi dưới ngỡ ngàng hổ ngươi.”
(Ngư tiều vấn đáp)
Trong việc dạy dỗ học trò, ông chỉ rõ cái gốc của sự học là nhân nghĩa,
là lòng yêu nước thương nhà:
“Mến nghĩa bao đành làm phản nước
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà.”
(Đạo người)
Như vậy, học còn là phải có sự suy nghĩ sáng tạo, biết vận dụng vào
hoàn cảnh cụ thể mà xử lí. Lại phải có óc phê phán, sẵn sàng đấu tranh
chống lại cái ác, cái gian tà:
“Học theo ngòi viết chí công
Trong thi cho ngụ tấm lòng Xuân thu”
Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu chẳng những là nhà trí thức yêu nước,
một nhà văn thơ đặc sắc, một thầy thuốc cứu giúp dân nghèo mà còn là một
người thầy nhân hậu, một nhà tư tưởng giáo dục có những đóng góp sáng
tạo trong việc truyền thụ Nho giáo ở nhiều mặt: mục đích, nội dung và
phương pháp giáo dục.
Chương VII. GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC (1858 – 1945)
A. SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM NỬA SAU THẾ KỈ XIXTừ giữa thế kỉ XIX thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam. Mục
đích của chúng là nô dịch nhân dân Việt Nam, biến đất nước Việt Nam thành
thị trường độc chiếm, một căn cứ quân sự, một nơi bóc lột và đầu tư, một nơi
sinh lợi nhuận nhanh chóng và có bảo đảm cho thế lực tư bản tài chính đang
thống trị nước Pháp. Nhưng trước đó từ rất lâu, ngay những năm đầu thế kỉ
XIX, thực dân Pháp đã ra sức chuẩn bị cho công cuộc xâm lược chính thức
Việt Nam. Chúng đã sử dụng công cụ đắc lực là Hội truyền giáo nước ngoài
Pháp. Hội này được thành lập ở Pari năm 1664.
Thực dân Pháp cũng đã kết hợp hoạt động của giáo sĩ với nhà buôn.
Giám mục Paluy (Palluy); người bề trên của Hội truyền giáo nước ngoài
Pháp, là người cổ vũ ngành hàng hải Pháp đã thúc đẩy việc thành lập công ty
Đông Ấn của Pháp (1664). Giám mục Đâyđiê (F. Deydier) được vua Lu–i
(Louis XIV) ủy quyền giao thiệp với vua Lê chúa Trịnh để thiết lập thương
điếm Pháp trên lưu vực sông Hồng. Giám mục Bêrít (Berythe) đến miền Bắc
nước ta với danh nghĩa một nhân viên của công ti Đông Ấn. Giám mục
Benơta (Edmond BenTetat) xin chúa Nguyễn cho mở thương điếm ở Đàng
Trong. Như vậy với việc làm trên, phải chăng thực dân Pháp đã dần dần từng
bước chuẩn bị cho cuộc xâm lược nước ta? Thực dân Pháp không chỉ dùng
thủ đoạn nhà buôn khoác áo giáo sĩ, mà còn là chiếc áo choàng đen đi trước
và lính xâm lược theo sau.
Năm 1686, Verê (Verret), phái viên công ti Đông Ấn Pháp, báo cáo với
chính phủ Pháp rằng: “Chiếm được đảo Côn Lôn thì có lợi như chiếm được
cả hai eo biển Sông Đơ và Malacca vậy”.
Năm 1748, giám đốc công ti Đông Ấn Pháp đề ra kế hoạch đánh chiếm
cù lao Chăm gần cửa Hội An.
Cuộc chiến tranh 17 nằm giữa Anh và Pháp, Pháp bị bại trận, mất hết
các thuộc địa. Do đó càng thúc đẩy Pháp đi xâm lược ở Viễn Đông để nhằm
bù đắp những thiếu hụt mà Pháp đã bị mất trong cuộc chiến tranh trên.
Lúc này ở Việt Nam phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn trào dâng
như vũ bão chống lại tập đoàn phong kiến phản động. Bọn thực dân Pháp
thấy cơ hội của chúng đã tới, khi Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang
giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp.
Chính lúc này giám mục người Pháp Bá Đa Lộc là người đã tạo cơ hội
cho Pháp xâm lược vào Việt Nam.
Đầu năm 1851 Pháp lập ủy ban nghiên cứu vấn đề Việt Nam và đưa ra
quyết định gấp rút chiếm Việt Nam.
Napôlêông III cử sứ thần đến Huế đòi “truyền đạo tự do, buôn bán tự
do” và ra lệnh cho thiếu tướng hải quân Đơ Giơnui (Rigault de Genouilly)
thống lĩnh quân đội viễn chinh Pháp đánh chiếm Việt Nam sau khi chiến được
Quảng Châu (Trung Quốc). Âm mưu xâm lược Việt Nam đã rõ trong tay Pháp
lại sẵn có con chủ bài: Hội truyền giáo nước ngoài Pháp, nên năm 1858 Pháp
nổ súng xâm lược Việt Nam với lí do triều đình Huế ngược đãi các giáo sĩ và
cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán.
Ngày 31–8–1858 chúng tấn công Đà Nẵng, với ý định chiếm được Đà
Nẵng chúng sẽ tiến thẳng ra Huế và buộc triều đình phải đầu hàng. Với ý định
này, ngày 1–9–1858 chúng gọi tối hậu thư hẹn trong hai giờ phải trả lời.
Nhưng chưa hết giờ hẹn, chúng bắn hàng trăm phát đại bác lên đất liền rồi đổ
bộ chiếm bán đảo Sơn Trà. Nhân dân ta đã chống trả lại giặc, làm vườn
không nhà trống, gây khó khăn cho chúng. Quân Pháp phải thú nhận: “Đất mà
chúng tôi chiếm được thì hoàn toàn bị bỏ trống, trừ vài nhà tranh của người
dân chài”.
Cuộc chiến tranh đã xảy ra ở Đà Nẵng kéo dài tới 5 tháng, thực dân
pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà với không bóng người, cuộc tiến công
này của Pháp thật sự đã dẫm chân tại chỗ, một tình thế bất ngờ diễn ra đối
với Pháp.
Dựa vào uy thế hải quân, Pháp đã tấn công đánh chiếm thành Gia Định
ngày 17–2–1859. Cũng như ở Đà Nẵng, nhân dân Gia Định cũng tự tay đốt
nhà, rời nhà đi nơi khác, không hợp tác với giặc, gây cho Pháp nhiều khó
khăn. Đơ Giơmi đã phải bi đát báo cáo với chính phủ Pháp rằng: “Càng đi sâu
vào tình hình Vương quốc An Nam, càng ngày các bức màn được vén lên.
Những lời quyết đoán sai lầm (của các giáo sĩ) phải được thủ tiêu đi, không
thể không công nhận rằng cuộc chiến tranh chống nước này còn khó hơn
cuộc chiến tranh chống vương quốc Trung Hoa”.
Tình hình nước Pháp cũng có nhiều khó khăn, song triều đình Huế
không biết lợi dụng tình thế đó để cùng toàn dân tiến công lại chúng, ngược
lại triều tình lại chỉ lo Pháp có tầu to, súng lớn nên đã vội vã kí hiệp ước dâng
ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Chính thực dân Pháp cũng phải thốt lên: “May
mắn thay, đang lúc phải đón đợi lấy một tình thế xấu, thì Huế lại yêu cầu kí
hòa ước”.
Ngày 5–6–1862 cái gọi là “Hiệp ước hòa bình và hữu nghị” đã được kí
kết giữa triều đình Huế và chính phủ Pháp.
Theo Hiệp ước này, triều đình Huế dâng nộp cho Pháp ba tỉnh miền
Đông Nam Kì đó là Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, ngoài ra còn phải bồi
thường chiến phí cho Pháp. Sau khi đã chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam
Kì bọn thực dân Pháp ra sức tăng cường và củng cố lực lượng cùng với việc
khoét sâu mâu thuẫn giữa triều đình Huế với nhân dân và lợi dụng sự yếu
hèn của tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn. Năm năm sau đó đến năm 1867
thực dân Pháp đã tiến đánh nốt ba tỉnh miền Tây và hoàn toàn làm chủ cả
Nam Kì. Sau sáu năm tạm ngừng chiến tranh để tổ chức và ổn định tình hình
Nam Kì, Pháp đem quân tiến đánh Bắc Kì lần thứ nhất và đã kí được điều
ước 1874, tranh thủ được thêm nhiều quyền lợi kinh tế và chính trị nữa. Sau
tám năm củng cố và chuẩn bị lực lượng võ trang, năm 1882 Pháp lại kéo
quân ra tiến đánh Bắc Kì lần thứ hai và từ đó tăng cường thêm lực lượng võ
trang, mở rộng chiếm đóng và đến tháng 6 – 1884 thì chúng hoàn thành cuộc
xâm lược nước ta.
Từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam đến năm
1898 thực dân Pháp tạm thời dẹp yên các cuộc khởi nghĩa võ trang của nhân
dân ta do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo. Có thể nói đến lúc đó thực
dân Pháp đã cản bản hoàn thành cuộc xâm lược và bình định Việt Nam bằng
quân sự. Như vậy trong 40 năm đó thực dân Pháp đã dùng lực lượng võ
trang phối hợp với thủ đoạn ngoại giao và chính trị xảo quyệt để đè bẹp nhà
nước phong kiến triều Nguyễn và sau đó làm thất bại các cuộc đấu tranh võ
trang của nhân dân ta.
Thủ đoạn mà thực dân Pháp thường dùng trong cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam là: cứ sau mỗi cuộc tiến công lớn, chúng lại buộc triều đình
phong kiến nhà Nguyễn kí một điều ước. Sau mỗi một điều ước, chúng lại
xâm phạm sâu hơn nữa vào chủ quyền nước ta và cuối cùng với điều ước
Patơnốt 1884, thực dân Pháp đã hoàn toàn làm chủ đất nước ta về mọi mặt.
Sau khi đã hoàn thành xâm lược nước ta, bọn thực dân Pháp đã tổ
chức bộ máy cai trị nhằm thống trị, vơ vét của cải và bóc lột nhân dân ta.
Về mặt chính trị
Nam Kì là xứ thuộc địa, nên thuộc quyền trực trị của Pháp.
Đứng đầu là một viên thống đốc đóng ở Sài Gòn. Dưới quyền là những
chủ tỉnh người Pháp. Theo điều ước Patơnốt (6–6–1884) Bắc và Trung Kì có
hai chế độ cai trị khác nhau.
Thực dân Pháp chủ trương sửa đổi dần chế độ cai trị ở Bắc Kì rồi biến
dần thành thuộc địa như Nam Kì, tách Bắc Kì ra khỏi triều đình Huế.
Trung Kì cũng dần dần thủ tiêu quyền cai trị của triều đình và đặt dưới
sự cai trị của Pháp.
Năm 1887 ở Bắc Kì, thực dân Pháp buộc triều đình cử một viên kinh
lược để cùng bọn thực dân giải quyết mọi công việc, song thực chất chỉ là bù
nhìn, mọi công việc đều do thống sứ quyết định.
Từ năm 1887 khâm sứ Pháp ở Trung Kì có quyền chủ tọa Hội đồng nội
các và tham dự mọi cuộc họp của viện cơ mật và có quyền cử người Pháp
vào bất cứ bộ nào, tỉnh nào. Từ khi Pônđume sang cầm quyền thì mọi quyền
hành do thống sứ Bắc Kì điều hành mọi công việc. Như vậy tập đoàn phong
kiến nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn, mọi quyền hành thực tế đều nằm ở trong tay
bọn thực dân Pháp nắm giữ.
Năm 1887 Hội đồng Đông Dương được thành lập (bao gồm chỉ huy
thủy; lục quân, bọn thống đốc thống sứ, khâm sứ, bọn chủ tịch hội đồng
thương mại canh nông) được quyền góp ý với phủ toàn quyền và sửa đổi
pháp luật ngân sách, thuế má.
Về kinh tế
Thực dân Pháp xâm lược nước ta với mục đích vơ vét của cải bóc lột
nhân công và biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của chúng. Bởi
vậy về mặt kinh tế chúng thi hành một chính sách nhằm phục vụ cho việc bóc
lột khai thác của chúng.
Từ năm 1882 – 1879, chúng lập lại mọi thứ thuế có từ thời Tự Đức và
lập thêm nhiều thuế mới. Thực dân Pháp đã bóc lột nhân dân ta bằng thuế
gián thu (thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện) và thuế trực thu (thuế đinh,
thuế điền), do bóc lột bằng thu thuế mà ngân sách Liên bang Đông Dương
tăng lên rất nhanh. Năm 1899 là 20 triệu đồng bạc đông Dương đã tăng lên
42 triệu đồng vào năm 1911. Chúng còn xây dựng đường sắt phục vụ mục
đích quân sự để khai thác tài nguyên. Chúng đã xây dựng hệ thống đường bộ
và cầu lớn, tu sửa các hải cảng…
Về nông nghiệp, chúng cướp ruộng của nông dân bán cho bọn Việt
gian để chúng bóc lột tô, bằng cách bóc lột này, lãi thường bằng 125% số
vốn. Tính đến 1913 bọn điền chủ Pháp đã chiếm khoảng 47 vạn héc ta ruộng
đất.
Tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã dùng chiến thuật
“đánh nhanh thắng nhanh”, để thực hiện âm mưu nhanh chóng đặt được nền
thống trị của chúng trên đất nước ta. Song chúng đã không thực hiện được
mưu đồ của chúng. Bởi vì chúng đã vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân
dân ta.
Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc có truyền thống yêu độc lập tự do,
truyền thống đấu tranh quật cường, bất khuất chống ách ngoại xâm, cho nên
mặc dầu giai cấp phong kiến thống trị thối nát lúc bấy giờ đã đầu hàng nhục
nhã, các tầng lớp nhân dân Việt Nam vẫn không ngừng chống lại sự xâm
lược, thống trị của thực dân Pháp.
Ngay những ngày đầu chống Pháp, nhân dân ta đã làm vườn không
nhà trống, bất hợp tác với giặc, khiến giặc gặp không ít những khó khăn trong
khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược.
Những cuộc khởi nghĩa của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực,
Trương Quyền, Nguyễn Hữu Huân ngay từ khi Pháp mới đặt chân lên Nam
Kì, cũng như các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện
Thuật, Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận
động duy tân của Phan Bội Châu và các sĩ phu yêu nước trong phong trào
Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục về sau này đã làm cho thực dân Pháp
không một phút nào ăn ngon ngủ yên. Nếu nơi nào đó hoặc lúc nào đó chưa
có những cuộc đấu tranh vũ trang quyết liệt thì đây cũng chỉ là sự yên tĩnh bề
ngoài mà thôi. Chính Prốtpe - Quyn truy, một nhà sử học thực dân khi viết về
lịch sử xâm lược Nam Kì của chúng ta đã phải nói rằng: “Những người nông
dân do ruộng đất, mùa màng và súc vật của họ ràng buộc mà ở lại trong xứ
này dưới một trạng thái khuất phục bề ngoài, chứ hoàn toàn không có một sự
khuất phục về tinh thần”. Thực vậy khi thực dân Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền
Tây Nam Kì, rồi tiếp đến ba tỉnh miền Đông Nam Kì, chúng đã vấp phải sự
chống trả của nhân dân Nam Kì không chỉ bằng những vũ khí thô sơ như gậy
gộc, giáo mác, hoặc súng đạn, mà còn cả bằng ngòi bút, bằng các hình thức
bất hợp tác, tẩy chay, bài trừ mọi ảnh hưởng của chúng. Nhân dân ta từ Bắc
chí Nam đều đoàn kết, tập hợp nhau lại để chống lại Pháp, mặc dù triều đình
Huế hèn nhát đầu hàng giặc và còn tìm mọi cách cấm nhân dân ta chống
Pháp nữa. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã tìm
được chỗ dựa đó là bọn phong kiến đầu hàng nhà Nguyễn. Song phong trào
đấu tranh của nhân dân ta đã khiến Pháp phải thất điên bát đảo, cho nên
chúng đã phải thừa nhận rằng muốn đô hộ một dân tộc, nhất là một dân tộc
có một nền văn minh lâu đời hơn nước Pháp “chỉ có chinh phục đất đai thì
chưa đủ mà còn cần phải chinh phục tâm hồn nữa”.
Trong công cuộc “chinh phục tâm hồn” đó “giáo dục là một công cụ
mạnh nhất và chắc chắn nhất ở trong tay kẻ chinh phục” vì như Đuynluchiê
(Dumoutier) người được tên tổng sứ Pôn Bê (Paul Bert) giao cho việc tổ chức
và thanh tra các trường Pháp – Việt ở Bắc Kì đã nói lên ý nghĩ của chúng khi
trích dẫn câu của Khang Hi “pháp luật chỉ đàn áp được một thời gian, chỉ có
giáo dục mới chinh phục được con người mãi mãi”.
Trước tình hình mới của đất nước Việt Nam lúc đó, trước sự phát triển
của khoa học và nền văn hóa, giáo dục tiến bộ trên thế giới, nền giáo dục
phong kiến nước ta lúc đó đã đi vào con đường lạc hậu và phản động, trở
thành một trở ngại to lớn cho sự phát triển trí tuệ dân tộc, một tai họa nghiêm
trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc.
Một số nho sĩ thức thời lúc đó như Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ,
v.v… đã nhiều lần lên án và đề nghị cải cách giáo dục, nhưng các vua nhà
Nguyễn không nghe theo, họ vẫn duy trì nền giáo dục cũ cho đến khi thực
dân Pháp xâm lược.
Khi thực dân Pháp hoàn thành xâm lược nước ta, chúng đặt nền đô hộ
ở nước ta và tiến hành bóc lột vơ vét của cải, thì nền giáo dục phong kiến
càng trở nên lạc hậu và không thể đáp ứng được nhu cầu của chúng. Bởi vì
tiếng nói và chữ viết của chúng ta không thể giúp thực dân Pháp trong việc
giao dịch và tìm hiểu Việt Nam để chúng dễ dàng đi sâu vào công cuộc khai
thác, vơ vét, bóc lột được. Do đó nền giáo dục phong kiến Việt Nam dần dần
phải biến đổi cả về mặt hình thức cũng như nội dung để sau đó nó biến mất
hẳn trong quá trình phát triển của lịch sử, nhường chỗ cho giáo dục thực dân.
II. GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT TỪ 1858 ĐẾN 1885“Sau khi người lính đã hoàn thành sự nghiệp của mình thì đến lượt
người giáo viên thực hiện sự nghiệp của họ”. Đây cũng chính là chủ trương
chung của bọn đế quốc khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược.
Bọn thực dân Pháp còn lập luận rằng “một khi người ta muốn thay đổi
hình dáng hoặc màu sắc của một cái cây, người ta không thể bắt đầu với
những cây đã phát triển hoàn toàn và sinh hoa kết quả, mà người ta phải tác
động đến các hạt phải chăm sóc, điều kiện việc nảy mầm và phát triển của nó
trong những miếng đất được chọn lọc và chuẩn bị đầy đủ”…
Với cách lập luận này, thực dân Pháp đã hiểu rõ một điều rằng nếu tấn
công trực diện vào nước ta, một đất nước có nền văn minh lâu đời thì thất bại
không thể tránh khỏi. Bởi vậy bọn thực dân Pháp đã phải thốt lên “Nếu chúng
ta muốn đặt được vĩnh viễn ảnh hưởng của nước Pháp trên phần đất này
(Việt Nam) của thế giới, thì phải làm cho họ (người Việt Nam) tiêm nhiễm tư
tưởng của chúng ta (Pháp), dạy cho họ tiếng nói của chúng ta và do đó phải
bắt đầu từ nhà trường và trước tiên chú ý đến trẻ em”.
Như vậy bọn thực dân Pháp đã thực sự bộc lộ rõ ràng ý thức muốn sử
dụng giáo dục làm công cụ phục vụ cho sự thống trị của chúng và điều làm
chúng ta thấy rõ vì sao ngay từ đầu của cuộc xâm lược, thực dân Pháp đã
quan tâm đến giáo dục như tên Vian đã ghi lại: “Đô đốc Bôna mà nhiệm vụ là
phải xây dựng một thuộc địa lớn ở Nam Kì, đã chú ý ngay tức khắc đến việc
phát triển các cơ quan giáo dục”; hoặc “Không bao giờ đô đốc Đơla –
Grăngđie đi thăm một làng mà không ghé vào trường học, ông hỏi han học
trò, bảo học trò viết một bài tập hay giải những phép tính trên bảng đen. Rồi
chính tự ông phân phát phần thưởng hay những đồ chơi đến tận tay những ai
trả lời tốt hơn cả”.
Mặt khác bọn thực dân Pháp muốn thiết lập mau chóng mối quan hệ
trực tiếp, càng nhiều, càng tốt giữa bọn chúng với nhân dân Việt Nam. Mục
đích của việc làm này là để bọn chúng có thể giao thiệp thẳng với người Việt
Nam và kiểm soát công việc của họ, không phải thông qua những người trung
gian mà bọn chúng cho là chưa hoàn toàn trung thành với chúng.
Để đạt được mục đích trên, một vấn đề được đặt ra đối với bọn thực
dân Pháp lúc đó là phải khắc phục sự bất đồng về ngôn ngữ. Nhưng khắc
phục sự bất đồng này như thế nào? Có thể có mấy cách sau đây được đặt ra:
Một là những tên cai trị, nhà buôn… người Pháp phải thông thạo tiếng
nói và chữ viết của người Việt Nam.
Hai là phải dạy cho người Việt Nam học chữ Pháp hoặc một thứ chữ
nào đó, mà người Pháp có thể học được một cách dễ dàng.
Trong cách giải quyết thứ nhất, Pháp gặp phải khó khăn rất lớn, đó là
vấn đề học chữ Hán và chữ Nôm.
Hán là thứ chữ rất khó học đối với phương Tây,
Còn đối với chữ Nôm thì sao? quả thật cũng không dễ hơn gì người
Pháp lại vấp phải những khó khăn khác đó là vì chữ Nôm, mỗi người có thể
viết theo một cách khác. Không bắt buộc phải tuân theo những quy tấc chặt
chẽ và nhất định nào cả. Đây cũng chính là những khó khăn mà những nhà
truyền giáo phương Tây đã vấp phải khi họ đến Việt Nam vào những thế kỉ
trước, và đây cũng là một trong những lí do thúc đẩy người Pháp tìm hướng
giải quyết cách thứ hai. Đó là thực dân Pháp phải cùng với những người Việt
Nam dùng các mẫu tự La tinh để ghi âm tiếng Việt Nam và đặt ra thứ chữ mà
ngày nay chúng ta gọi là chữ quốc ngữ. Sự xuất hiện chữ quốc ngữ, đã giúp
cho bọn thực dân Pháp có trong tay một công cụ mới để phục vụ đắc lực cho
công cuộc vơ vét, bóc lột của chúng. Song đánh giá một cách công bằng thì
chữ quốc ngữ ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi để dân tộc ta tiếp cận được
với nền văn minh thế giới một cách dễ dàng hơn.
Trong việc cai trị và buôn bán, bọn thống trị thực dân Pháp cũng cần
phải giao thiệp với người Việt Nam. Nhưng do ngôn ngữ bất động, và tự bản
thân chúng không thể học được chữ Việt Nam để dùng vào việc giao dịch.
Bởi vậy bọn chúng muốn người Việt Nam phải học một thứ chữ nào đó để
phục vụ cho nhu cầu của chúng.
Một vấn đề mới được đặt ra, đó là dạy như thế nào? Và dạy tiếng gì?
Đó là một việc làm khó khăn và đã có nhiều cuộc tranh luận gay gắt trong nội
bộ thực dân Pháp.
Một số người chủ trương phải phổ biến rộng rãi tiếng Pháp trong mọi
tầng lớp nhân dân Việt Nam bằng phương pháp trực tiếp, phải dạy tiếng Pháp
ngay từ khi học sinh mới bắt đầu học. Song điều đó lại gặp một trở ngại rất
lớn, đó là việc thiếu giáo viên tiếng Pháp dạy ở tất cả các trường học. Hơn
nữa, học sinh muốn dạt được trình độ đọc viết thạo tiếng Pháp phải mất một
thời gian dài và như vậy ngân quỹ đầu tư vào việc đào tạo này rất tốn kém mà
lại không đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của việc giao dịch lúc này. Bởi vậy
Pháp chủ trương “cần phải đi từ từ, phải đành lòng dùng những phương tiện
vừa có sức thuyết phục, lại vừa là phương tiện ít tốn kém đồng thời chính trị
hơn, vững chắc hơn” tức là có thể dùng chữ quốc ngữ làm chuyển ngữ trong
một vài lớp đầu tiên rồi sau đó mới chuyển sang học lại bằng tiếng Pháp.
Theo họ riêng việc giao dịch có thể dùng chữ quốc ngữ vì như tên tống sứ
Pônbe đã nói: “Việc người bản xứ có thể đọc viết bằng chữ quốc ngữ đối với
chúng ta hết sức có lợi. Các công chức của chúng ta, các nhà buôn của
chúng ta có thể học rất dễ dàng cách kí hiệu đó, và sự liên hệ của chúng ta
với người bản xứ sẽ dễ dàng hơn nhiều”. Đuymuchiê đã nói rõ: “Bất cứ một
người cai trị nào, với một cuốn tự điển cũng có thể dịch được dễ dàng, sự
trung gian của một nhà nho trở nên vô ích và sự trung gian của một người
thông ngôn cũng không còn là điều bắt buộc nữa”. Việc phổ biến chữ quốc
ngữ đồng thời cũng giúp cho thực dân Pháp mau chóng thoát khỏi ảnh hưởng
của tầng lớp sĩ phu đã luôn luôn làm cho chúng lúng túng về sự bất hợp tác
của họ cũng như việc họ lợi dụng sự bất lực của chúng trong việc kiểm soát
các trường Hán học để tuyên truyền chống lại chúng.
Như vậy là do nhu cầu giao dịch để tăng cường sự bóc lột mà thực dân
Pháp bắt buộc phải: “phát triển giáo dục” ở Việt Nam. Dùng chữ Pháp hay
chữ quốc ngữ trong việc giao dịch cũng hoàn toàn do lợi ích của bọn thực
dân Pháp quyết định chứ không phải vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam.
Một nguyên nhân nữa bắt buộc bọn thực dân Pháp phải chú ý đến việc
phát triển giáo dục ở Việt Nam là vấn đề đào tạo những người thừa hành
ngoan ngoãn và những tay sai trung thành giúp việc cho bộ máy cai trị của
chúng. Vì muốn thống trị một dân tộc, kẻ đi thống trị không thể không dựa vào
một bộ phận trong những người bị thống trị. Bôna trong bức thư đề ngày 27–
2–1861 gửi cho bộ trưởng Bộ hải quân Pháp Sátxlulôba đã nói rõ: “Thay thế
một cách đột ngột đến tận gốc rễ bộ máy cai trị An Nam bằng một số lớn sĩ
quan (người Pháp) mà phần lớn không biết đến cả tiếng nói và phong tục tập
quán của xứ này người ta chỉ gây ra một sự hỗn loạn”, cho nên thực hiện
“việc cai trị bằng người bản xứ đặt dưới sự kiểm soát của chúng ta là cách tốt
nhất để giải quyết vấn đề”. Vì vậy cũng theo Bôna việc mở rộng nền giáo dục
của Pháp là một yêu cầu cấp thiết nhất để có thể đào tạo được những người
giúp việc có khả năng. Hơn nữa việc cai trị bằng những người địa phương đối
với thực dân Pháp lại còn có lợi là ít tốn kém cho ngân sách thuộc địa vì phải
trả lương ít hơn. Vì thế chúng ra sức lôi kéo các tầng lớp sĩ phu là người rất
có uy tín trong xã hội Việt Nam hồi bấy giờ. Chúng còn có ý định duy trì và
sửa đổi nền giáo dục sẵn có để phục vụ cho nhu cầu và mục đích của chúng.
Nhưng những âm mưu và ý định ấy đều thất bại vì chúng vấp phải sự bất hợp
tác của các sĩ phu. Bởi vì các trường Hán học rõ ràng là những nơi tuyên
truyền chống lại chúng mà chúng không kiểm soát nổi. Vì vậy buộc bọn thực
dân Pháp phải đặt ra hệ thống giáo dục khác để có thể đào tạo nhanh chóng
một đội quân phò tá mới, đồng thời mau chóng thoát khỏi ảnh hưởng thù địch
của các tầng lớp sĩ phu. Do đó chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy
trường học đầu tiên mà chúng tổ chức ở Việt Nam vào năm 1861 là trường
đào tạo thông ngôn. Vì vấn đề thông ngôn đối với chúng lúc đó là nhu cầu cấp
thiết nhất. Những người thông ngôn đó, như Hăngri – Guốcđơn đã thú nhận
“là những người phò tá cần thiết cho các hoạt động thuộc địa, chính nhờ họ,
chúng ta đã xây dựng được nền cai trị đầu tiên trong tất cả các xứ Đông
Dương mà chúng ta đã đặt được sự bảo trợ, những người thông ngôn này
cũng là những người phò tá không kém phần quý báu đối với các nhà buôn
của chúng ta và các công trình công nghiệp lớn đã được thiết lập ở thuộc
địa”. Đây cũng chỉ giải quyết được những yêu cầu đâu tiên của chúng mà
thôi. Bởi vì yêu cầu của các đợt khai thác Việt Nam ngày càng cao và cấp
thiết, nên cũng đặt ra cho thực dân Pháp những yêu cầu cao hơn về người
giúp việc. Do đó bọn thực dân Pháp thấy cần phải nhanh chóng mở rộng việc
dạy chữ quốc ngữ cho người Việt Nam, để có thể nhanh chóng đào tạo được
một đội ngũ đông đảo những người giúp việc đắc lực và có thể kiểm soát
được chặt chẽ công việc của những người giúp việc đó.
Như vậy rõ ràng chủ trương phát triển giáo dục ở Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc, hoàn toàn không hề xuất phát từ quyền lợi của nhân dân Việt
Nam mà đều xuất phát từ những quyền lợi ăn cướp và bóc lột của bọn cai trị.
1. Giáo dục thời kì 1858 đến 1868
Sau khi hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam, bọn thực dân Pháp đã sử
dụng giáo dục như một công cụ để phục vụ cho chính sách của chúng. Việc
thực dân Pháp phát triển giáo dục ở Việt Nam cũng không ngoài ý đồ phục vụ
đắc lực cho âm mưu cai trị, bóc lột nhân dân ta. Bởi vậy mục đích giáo dục
của chúng là:
– Đào tạo những người bản xứ phục vụ cho bộ máy cai trị
– Đồng hóa nhân dân Việt Nam nhằm biết họ thành người ngoan
ngoãn, phục tùng sự thống trị của Pháp.
– Truyền bá tư tưởng nô dịch trong nhân dân. Với mục đích nãy, nên
trong nội dung giảng dạy và học tập, bọn thực dân Pháp đã:
+ Giới thiệu “mẫu quốc” và sự văn minh của nước mẹ.
+ Ca tụng công ơn của nước Pháp.
+ Tuyên truyền phổ biến chính sách của thực dân Pháp
+ Dạy chữ quốc ngữ thay dần chữ Hán, chữ Pháp được đưa vào
trường học. Với mục đích và nội dung giáo dục kể trên, bọn Pháp đã đề ra
nhiệm vụ cho giáo dục “Dạy chữ Pháp để người ta hiểu mình và đào tạo
những người cộng tác bản xứ”. Người cộng tác chủ yếu lúc này là thông
ngôn, ban đầu chúng phải đem từ Nam Dương sang một số cha cố, đồng thời
lấy thêm một số người công giáo Việt Nam để làm thông ngôn. Nhưng bọn
này chỉ biết tiếng La tinh. Bọn sĩ quan Pháp lại dốt tiếng La tinh nên tác dụng
của thông ngôn lúc này rất hạn chế. Như vậy trong việc giao dịch bọn thực
dân Pháp đã vấp phải một trở ngại vô cùng to lớn. Một vấn đề cấp thiết của
Pháp trong lúc này là phải đào tạo một đội ngũ thông ngôn để phục vụ đắc lực
cho công cuộc khai thác, vơ vét của cải và bóc lột nhân dân Việt Nam. Như
vậy, việc đào tạo thông ngôn trở thành vấn đế sinh tử, không thể thiếu được
của thực dân Pháp.
– Một số trường đã được mở ra ở Nam Kì (1861 – 1867).
Ngày 21–9–1861 chúng ra nghị định thành lập trường thông ngôn lấy
tên là trường Bá Đa Lộc, do tên cố đạo tên là Cơ rốc thông ngôn riêng của
Sácne làm hiệu trưởng: Học viên của trường này là những ngụy quân hoặc
những tên Việt gian quyết tâm làm tay sai cho bọn thực dân Pháp vào học.
Bọn thực dân Pháp đã đào tạo được một số thông dịch viên người Pháp,
chúng còn mở trường đào tạo thông dịch viên, thư kí người Việt Nam, phục
vụ cho công cuộc cai trị của chúng.
Ngoài thông dịch viên, bọn chúng cũng cần những người trí thức để
làm tay sai cho chúng trong các ngành kinh tế, chính trị, vệ sinh. Nhưng Pháp
đã vấp phải một khó khăn, đó là tuyệt đại đa số các sĩ phu, những người trí
thức có uy tín trongg nhân dân đều chống giặc, bất hợp tác với giặc. Họ tìm
cách xa lánh chúng hoặc bỏ về các làng mở trường dạy học, giáo dục tinh
thần yêu nước, bài Pháp cho trẻ em. Một khó khăn cho bọn Pháp là bọn
chúng và tay sai chỉ biết chữ quốc ngữ và chữ Pháp, trái lại nhân dân ta và sĩ
phu lại chỉ biết chữ nho. Muốn ra một thông báo chúng phải dịch từ chữ Pháp
ra chữ quốc ngữ, rồi lại dịch từ chữ quốc ngữ ra chữ nho. Nhưng đây chưa
phải là điều căn bản. Điểm mấu chốt và cũng là một mối lo ngại đối với Pháp
là một khi chữ nho còn được sử dụng và truyền bá, thì theo chúng, tinh thần
quật khởi của nhân dân Nam Kì còn bùng lên không bao giờ tắt. Mối lo ngại
này của Pháp hoàn toàn có căn cứ. Bởi vì tiêu biểu cho tinh thần chống Pháp
của nhân dân Nam Kì lúc nào chính là các sĩ phu yêu nước. Chữ nho còn là
một công cụ đắc lực được các sĩ phu sử dụng để truyền bá tư tưởng yêu
nước và bài Pháp. Để đối chọi với chữ Pháp và chữ quốc ngữ đang là công
cụ được thực dân Pháp và tay sai sử dụng để chống lại chúng ta, không có
cách nào khác, các sĩ phu và nhân dân còn phải bảo vệ và duy trì chữ nho –
một công cụ đã sẵn có trong tay từ trước.
Trước tình hình đó, bọn thực dân Pháp chủ trương phổ biến sâu rộng
chữ quốc ngữ và chữ Pháp trong nhân dân ta. Chúng hi vọng với chữ quốc
ngữ và chữ Pháp, nhân dân ta sẽ hiểu người Pháp, “biết ơn” người Pháp,
không chống đối người Pháp và như thế chúng có thể loại trừ chữ nho cùng
ảnh hưởng của các sĩ phu trong dân chúng. Song đối với nhân dân ta lúc đó
kẻ nào đi học chữ Pháp là những kẻ vong tổ, phản quốc. Do đó nhân dân ta
cũng như các sĩ phu đã ngăn cấm không cho con em mình theo học. Bọn
thực dân Pháp gặp phải khó khăn đó là thiếu học sinh, nên chúng phải lấy cả
lính bộ hay lính thủy vào học.
Do sự phản kháng của nhân dân ta và các sĩ phu yêu nước, bọn thực
dân Pháp buộc phải duy trì nền nho học cũ.
Với việc làm này, chúng hi vọng sẽ lôi kéo được các sĩ phu về phía
chúng, do đó bọn Pháp đã khôi phục lại chế độ khoa cử ngày trước ở các tỉnh
đã chiếm được. Trong việc học hành, thi cử, bọn Pháp cũng không bắt buộc
phải có chữ Pháp hay chữ quốc ngữ. Nhưng dự định của Bôna không thực
hiện được. Nó đã gặp phải sự phản đối của một số trong bọn thực dân vì
chúng sợ ít người Pháp có thể kiểm soát được sự học hành và xuất bản
sách, nhờ đó mà một số thầy đồ không bỏ lỡ cơ hội để khuấy rối dân chúng
và kích thích họ chống lại chúng ta”. Không những thế các sĩ phu yêu nước
cũng thấy rõ âm mưu của Pháp là muốn lợi dụng họ, nên các sĩ phu cũng tẩy
chay, không hưởng ứng.
Ngày 16–7–1864 chúng ra nghị định thành lập một số trường tiểu học ở
các tỉnh để dạy chữ quốc ngữ và dạy toán. Chúng cho in các mẫu chữ viết
tập, sách giáo khoa làm tài liệu giảng dạy, nhưng nhà trường vẫn không thu
hút được học sinh vào học. Do đó bọn chúng lại chủ trương “kéo về các
trường của chúng ta những trẻ em bản xứ ở các vùng lân cận bằng các phần
thưởng, các khuyến khích và bằng viễn cảnh những quyền lợi gắn liền với
một nền giáo dục chắc chắn và thực dụng”. Chúng đã dùng tiền để thưởng
cho những học sinh biết đọc, biết viết. Năm 1866 chúng không những dùng
tiền làm phần thưởng mà còn tổ chức triển lãm để trưng bày các bài luận của
học sinh. Ngoài ra bọn Pháp còn giúp đỡ tiền và tạo điếu kiện cho việc thành
lập các trường dòng, lợi dụng lòng mộ đạo của người công giáo, hòng thu hút
họ vào trường để đào tạo họ thành thông ngôn, thư kí. Với những việc làm
mua chuộc, dụ dỗ đó nên đến năm 1866 chúng đã mở được 47 trường với
tổng số học sinh là 1238 người.
2. Những thay đổi về tổ chức và nội dung giáo dục (1868 – 1885)
Thực dân Pháp phát triển giáo dục ở Việt Nam nhằm phục vụ cho chính
sách cai trị. Song chúng đã gặp không ít những khó khăn. Do đó chúng đã có
những thay đổi để phù hợp với tình hình Việt Nam lúc đó.
Bọn chúng đã gửi sang Pháp một số học sinh là con em của những tên
tay sai trung thành. Năm 1867 chúng đã gửi sang Pháp 12 học sinh, tên La–
grăngđie đã gửi thêm 15 học sinh và đô đốc Ô-i–ê (Ohier) đã gửi tới 80 người
sang Pháp học. Nhưng chúng lại rất sợ ảnh hường của nền văn hóa của
chúng đối với những học sinh này. Bởi vậy chúng đã hạn chế gay gắt việc
người Việt Nam sang Pháp du học, vì theo chúng “Con đường sang Pháp là
con đường chống nước Pháp”. Do đó chúng bắt buộc bất cứ người dân thuộc
địa nào muốn sang Pháp du học “phải được quan toàn quyền” cho phép sau
khi có ý kiến của thủ hiến xứ và giám đốc học chính và phải làm đầy đủ
những thủ tục hết sức phiền phức để chứng minh rằng đó là một người “trung
thành với nước đại Pháp”. Nếu ai không làm đúng như vậy tức là muốn tự mở
mang kiến thức bằng con đường riêng của mình đều bị ghép vào tội “âm mưu
phiến loạn”. Bọn thực dân Pháp thực sự lúng túng ở Việt Nam. Năm 1867
chúng đã bãi bỏ khoa thi chữ nho ở Nam Kì.
Đứng trước tình thế khó khăn ở Việt Nam, bọn Pháp phải tìm phương
án mới trong giáo dục.
Ngày 10–7–1871 chúng ra nghị định thành lập trường sư phạm thuộc
địa để đào tạo giáo viên và nhân viên công sở, những tên tay sai đầu tiên về
mặt văn hóa. Học chữ Pháp là chính, chữ nho và chữ quốc ngữ là phụ.
Những giáo viên tốt nghiệp trường này sẽ tỏa đi các trường tiểu học được lập
ở các thị trấn. Pháp cấp học bổng cho học viên, thưởng tiền cho giáo viên.
Với chính sách mua chuộc, dụ dỗ đó nền đến năm 1874 đã có một số đông
làm nhiệm vụ giảng dạy ở hơn 20 trường tiểu học. Một số phấn tử trí thức đã
trở thành tay sai đắc lực, tuyên truyền cho mục đích “khai hóa” của Pháp như
Trương Vĩnh Kí, Diệp Văn Cương và Nguyễn Văn Của…
Đến năm 1874 trường nói trên đã đổi thành trường học đầu tiên ở Nam
Kì tức trường Sátxơlu Luba sau này.
Với phương án của Lurô năm 1873 thực dân Pháp cho mở trường Hậu
bổ nhằm đào tạo những tên thanh tra dân sự người Pháp, chính Lurô làm
hiệu trưởng, với mưu đồ rất lớn là đào tạo đội ngũ tay sai không những ở
Nam Kì mà còn chuẩn bị cho việc xâm chiếm Bắc Kì, Trung Kì sau này nữa.
Nhưng số học sinh không đủ vì “rất hiếm những người có điều kiện mong
muốn” nên chúng phải tuyển cả hạ sĩ quan và lính tập vào học. Những sĩ
quan người Pháp được tuyển vào phải học tiếng Việt chữ nho, môn hành
chính bản xứ, một số kiến thức về kiến trúc và thực vật học. Kết quả với 4
năm tồn tại, trường đã đào tạo được 50 thanh tra dân sự cho Nam Kì.
Pháp còn lập ở Sài Gòn trường nho sĩ để thu hút nhà nho đầu hàng,
chuyên dạy chữ Hán và duy trì trường dạy chữ Hán đã có từ trước.
Năm 1873, thực dân Pháp đã thay thế các trường học chữ nho bằng
trường mới gọi là trường quốc ngữ, dạy chữ quốc ngữ, một ít chữ Pháp và
một ít kiến thức khoa học nhằm mau chóng đồng hóa nhân dân Nam Kì, song
chúng cũng bị thất bại vì nhân dân ta cho con em đi học rất ít. Trước tình hình
đó, thống đốc Đuyprê cho thành lập ban học chính gồm những người Pháp
thông hiểu tiếng Việt, chữ nho và thông hiểu tập quán của Việt Nam ở Nam Kì
như Luyarô, Philátstrơ… để nghiên cứu việc giáo dục ở Nam Kì. Bọn này đưa
ra nhiều đề nghị dịch và in nhiều sách quốc ngữ, in tự điển Pháp – Hán Việt,
giảng dạy chữ nho, song song với chữ quốc ngữ, duy trì các trường Hán học.
Trong các trường Pháp mở, học sinh theo học rất ít, còn ở nông thôn, các
thầy đồ vẫn tiếp tục mở trường dạy con em học tập và thu hút được nhiều học
sinh. Đây là một mối lo ngại đối với chúng. Trước tình hình đó, bọn thực dân
Pháp lại tìm cách chống lại nhân dân ta bằng cách ban hành một quy chế
giáo dục vào tháng 11–1874. Đây là bản quy chế đầu tiên về giáo dục của
thực dân Pháp.
Với bản quy chế 1874, chúng cấm các trường tư không được mở cửa
nếu không được phép của chính quyền. Các trường này phải đặt dưới sự
kiểm soát của chúng, vì chúng sợ học sinh được các giáo viên dạy “làm loạn”.
Nhưng thực chất ở các trường của thầy đồ, học sinh vẫn tiếp tục học theo lối
cũ. Bọn thực dân Pháp rất lo ngại và tìm cách để kiểm soát các trường làng,
song chúng lại sợ phản ứng mạnh mẽ của nhân dân, do đó chúng tìm mọi
cách để mua chuộc dụ dỗ bằng cách: nếu thầy đồ nào dạy thêm chữ quốc
ngữ sẽ thưởng thêm 200 Phơ răng một năm. Ngoài ra nhà trường còn được
bọn chủ tỉnh “thăm viếng” luôn.
Bản quy chế năm 1874, chia nền giáo dục ra làm hai bậc tiểu học và
trung học. Đối với bậc tiểu học, chúng bãi bỏ các trường dạy quốc ngữ ở làng
mà tập trung về 6 trường: Sài Gòn, Chợ Lớn, Mĩ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre,
Sóc Trăng. Thời gian học là 3 năm, về chương trình: Học đọc viết chữ quốc
ngữ, chữ Nho, chữ Pháp, số học. Cuối bậc tiểu học có một kì thi: Thi viết và
thi vấn đáp.
Người đậu sẽ được học lên bậc trên, hay đi làm với số lương là 360
Phơrăng/năm. Bậc trung học dạy ở trường Satxơlu Lôba thay cho trường sư
phạm trước. Thời gian học cũng 3 năm, dạy tiếng Pháp, chữ quốc ngữ, toán,
địa lí, lịch sử (không dạy lịch sử Việt) Cuối bậc cũng tổ chức kì thi. Người đậu
sẽ có thể đi dạy với số lượng 600 Phơrăng/năm, hay làm thư kí, thông ngôn
1000 Phơrăng/năm. Chúng còn chủ trương dạy chữ nho trong nhà trường và
dùng học bổng để lôi kéo học sinh. Mặc dù bọn thực dân Pháp đã dùng mọi
thủ đoạn để lừa bịp nhân dân ta, song kết quả không lấy gì làm tốt đẹp vì uy
tín của nhà trường thực dân không tăng lên mà còn có chiều hướng giảm sút
vì: “chương trình năm 1874 còn kém rất xa so với chương trình ở các trường
chữ nho”. Chúng bạc đãi giáo viên nên họ thường gửi đơn xin thôi nghề dạy
học: “Các bức thư hàng ngày gửi tới tôi (thống đốc) trong đó họ xin thôi nghề
giáo dục”. Còn “học sinh thì tôi (thống đốc) chắc rằng phần lớn là kẻ vô phúc
do các làng thuê học và sự mất tín nhiệm hoàn toàn của chúng ta”
Trong tình hình đó chúng lại phải dùng trò thưởng tiền cho học sinh mỗi
tuần 25 xu và cho nghỉ một số ngày, nghĩa là chính chúng cũng phải thuê học
sinh đi học!
Cuối cùng quy chế 1874 tỏ ra không có hiệu lực, chúng phải tìm ra một
phương án mới khác với Lurô trước đây và thế là phương án mới được ra
đời. Đó là bản quy chế do Laphông kí ngày 17–3–1879. Với bản quy chế này
hệ thống giáo dục cũ được thay thế bằng hệ thống giáo dục mới chia làm ba
cấp I, II III. Các trường cấp I còn được gọi là trường hàng tổng, trường cấp II
còn được gọi là trường hàng quận. Trường cấp III còn được gọi là trường
trung học, đó là 2 trường Bá Đa Lộc và trường Sátxơlu Lôba. Trong thời gian
chưa có cấp III thì trường Sátxơlu Lôba tạm dạy cấp II.
Về thời gian, chương trình thi cấp I học trong 3 năm: học tiếng Pháp,
bốn phép tính, chữ quốc ngữ chỉ có yêu cầu đọc được thôi. Cuối năm thứ ba
có một kì thi lên cấp II. Cấp II cũng học trong ba năm: học tiếng Pháp, toán,
chữ nho, chữ quốc ngữ, lịch sử và địa lí. Chữ nho và chữ quốc ngữ chỉ học
hai ngày trong một tuần, còn các ngày khác học các môn khác bằng chữ
Pháp. Cuối cấp II có một kì thi lên cấp III, ai đậu, được cấp bằng sơ học
(Brevet élémentaire). Cấp III học bốn năm, các môn học như cấp II, những đi
sâu hơn. Hết cấp III có kì thi, tốt nghiệp được cấp bằng cao học (Brevet
supérieur).
Về tổ chức, các trường vẫn đặt dưới quyền chỉ huy của giám đốc sở
Nội vụ và bọn chủ tỉnh như bản quy chế năm 1874 đã quy định.
Nhưng “nghị định của Laphông không vượt khỏi lĩnh vực lí thuyết. Lơmi
đờ Vile không đồng ý với Laphông, hắn bãi bỏ gần như hoàn toàn chữ nho.
Người ta đưa giáo viên từ Pháp sang để phổ biến tiếng Pháp” và “kết quả vẫn
tầm thường, học sinh vẫn tỏ ra tồi và dốt nát”.
Nhà trường thiếu sách giáo khoa, thiếu giáo cụ, chất lượng giáo viên
kém. Nhà trường lại đặt dưới quyền chỉ huy của bọn chủ tỉnh. Nhưng bọn này
lại không chú ý gì đến giáo dục cả. Chúng muốn làm cho dân ta không biết
chữ Pháp, để chúng dễ bề bóc lột. Còn đối với chương trình học thì họ làm đi,
làm lại tùy theo sở thích của họ, nghĩa là thường không có chương trình gì cả.
Với cách dạy học như trên, cùng với sự “quan tâm của bọn thống trị như vậy,
nền giáo dục của nước ta bị kìm hãm không thể phát triển được về số lượng,
tất nhiên chất lượng cũng rất kém.
Bên cạnh các trường do thực dân Pháp mở, còn có các trường của các
thầy đồ ở nông thôn, mặc dù các trường này thường bị bọn thực dân Pháp
chèn ép, dụ dỗ và mua chuộc.
Theo con số của chúng, cho đến ngày 1–1–1886 ở Nam Kì vẫn còn
426 thầy đồ với số học sinh là 8.496 người. Đem so với tổng số 27.473 học
sinh (trong đó 3.567 học sinh của 68 trường của giáo hội) đi học lúc bấy giờ,
con số học sinh của các thấy đồ vẫn chiếm một tỉ lệ đáng kể: 31%.
Tóm lại với những phương án giáo dục của bọn thực dân như Lơmia,
Laphông, Lơmia đờ Vile…, lúc đầu chúng cũng gặp phải những khó khăn,
chống đối ngay trong bản thân bọn chúng, cùng với sự chống lại của nhân
dân ta, song cuối cùng chúng cũng thu được một số kết quả:
Cho đến năm 1886 ở Nam Kì có 17 trường người Âu cầm đầu có 10
trường nam, 7 trường nữ. Có 48 giáo viên người Pháp và 78 giáo viên Việt
Nam dạy cho 1.829 học sinh của 10 trường nam, 25 giáo viên nam nữ người
Pháp và 13 giáo viên Việt Nam dạy cho 992 học sinh của 7 trường nữ. Các
trường quận do xứ thuộc địa đài thọ, một số lớn trường làng do ngân sách địa
phương đài thọ và một số trường khác tồn tại bằng tiền phụ cấp của các làng
và các tư nhân. Có 16 trường hàng quận với 24 giáo viên người Pháp và 51
giáo viên Việt Nam dạy 1553 học sinh; 219 trường hàng tổng với 270 giáo
viên Việt Nam dạy 10.441 học sinh; 91 trường xã với 91 giáo viên Việt Nam
và 3.416 học sinh.
Tóm lại trong hơn 20 năm thực dân Pháp đã cố gắng nhiều để nắm lấy
giáo dục nhằm phục vụ âm mưu xâm lược và chế độ thống trị của chúng.
Chúng đã mở ra một số trường và đã thu hút được một số học sinh, song kết
quả thu được rất tầm thường: “vài trăm người An Nam nói tiếng Pháp, vài
ngàn người nói sai tiếng Pháp đó là những bồi bếp, kéo xe v.v… Dân chúng
còn lại không biết tiếng An Nam lẫn tiếng Pháp. Chúng ta phải hiểu rằng
những người An Nam vẫn nói tiếng của họ, nhưng họ không biết viết và biết
đọc, vì những lẽ trên, mà tôi nói rằng chúng ta đào tạo những người vô học”.
Như vậy từ khi thực dân Pháp xâm lược đến năm 1886, bọn vô quan
cai trị cũng như những tên quan văn kế tiếp đã tìm mọi cách, từ dò dẫm từng
bước đến chỗ đưa ra những quy chế về giáo dục, nhưng vẫn không đạt được
kết quả giáo dục như chúng mong muốn. Chúng âm mưu loại trừ chữ nho
cùng ảnh hưởng của các sĩ phu ra khỏi nhân dân cũng không đạt kết quả.
Trường học của chúng thiếu học sinh, chỉ đào tạo được một số tay sai kém
năng lực. Ngay từ những ngày đầu nhân dân ta cùng các sĩ phu yêu nước đã
tìm mọi cách đấu tranh bằng nhiều hình thức để bài trừ ảnh hưởng của thực
dân Pháp và chiến đấu cho một nền giáo dục dân tộc, độc lập.
Bắt đầu từ năm 1886, sau khi hoàn thành việc đánh Bắc Kì và buộc
triều đình Huế đầu hàng (hiệp ước 1884), thực dân Pháp cử tên Pôn Bê, một
tên văn quan giữ chức tổng sứ Bắc Kì và Trung Kì. Cùng với việc củng cố và
mở rộng bộ máy cai trị, về phương điện văn hóa, giáo dục thực dân Pháp
cũng chú ý hơn.
III. NỀN GIÁO DỤC NHO HỌC VÀ PHÁP - VIỆT1) Những tiền đề của cải cách giáo dục lần thứ nhất
Sau hiệp ước Patơnốt, thực dân Pháp đặt được nền thống trị của
chúng ở Việt Nam. Tuy vậy, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu
yêu nước, vẫn liên tục nổi dậy chống lại Pháp từ Bắc chí Nam. Đối với bọn
Pháp lúc này một mặt cần nhanh chóng xoa dịu tinh thần chống Pháp của dân
nhân ta, của tầng lớp sĩ phu đang phất cao ngọn cờ Cần Vương chống Pháp.
Mặt khác chúng cần nhanh chóng đào tạo tay sai để ổn định và mở rộng bộ
máy cai trị ra Bắc và Trung Kì, cũng như chuẩn bị điều kiện cho công cuộc
khai thác lần thứ nhất.
Về phía ta, giai cấp phong kiến đã phân hóa rõ rệt, về căn bản, chúng
đã đầu hàng, cam tâm làm tay sai cho giặc, còn một số ít tiến bộ vẫn sôi sục
căm thù giặc và yêu nước thiết tha. Có những người đã cùng nhân dân đấu
tranh vũ trang chống lại Pháp. Có những người học tập kinh nghiệm của các
nước láng giềng đã tìm ra con đường cứu nước theo hướng mới. Họ tìm cách
mở mang dân trí, đưa dân tộc lên con đường văn minh tiến bộ, tạo điều kiện
đánh được giặc ngoại xâm thắng lợi.
Những năm cuối của thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là những năm xã hội ta
trải qua những biến đổi lớn. Bên trong, cùng với việc đầu tư khai thác thuộc
địa và mở rộng bộ máy cai trị của thực dân, những biến chuyển lớn đó đã
diễn ra trong cơ sở kinh tế và trong các tầng lớp xã hội. Một tầng lớp mới đã
ra đời: tầng lớp tiểu tư sản, công chức, một số nhà kinh doanh công thương
nghiệp xuất hiện. Nhà trường của thực dân cũng đã tạo ra được một số
người gọi là “tân học”. Bên ngoài thì ảnh hưởng của phong trào cải lương, cải
cách ở một số nước Á Đông như Nhật Bản, Trung Hoa dội sang. Tư tưởng
dân chủ tư sản phương Tây, cũng bằng nhiều đường xâm nhập vào nước ta.
Những biến đổi quan trọng trên là cơ sở cho những biến chuyển về tư tưởng
của tầng lớp sĩ phu phong kiến yêu nước và tiến bộ.
Trong tình hình đó, chế độ giáo dục phong kiến triều Nguyễn cùng với
chế độ khoa cử lỗi thời của nó đã được thực dân Pháp triệt để lợi dụng, duy
trì, làm chỗ dựa để phát triển giáo dục thực dân. Thật vậy, nếu trong thời gian
trước, chữ nho còn là một công cụ được các sĩ phu sử dụng chống lại thực
dân, thì bước sang thời kì này nó đã mất hết tác dụng tích cực. Trong tình
hình mới, để mua chuộc và tranh thủ sự hợp tác của các trí thức phong kiến,
thực dân lại duy trì giáo dục cũ. Bọn chúng thấy rằng nếu xóa bỏ chữ nho
cùng chế độ khoa cử lúc này, tức là làm mất chỗ dựa căn bản của chúng.
Chúng thực hiện âm mưu rất quỷ quyệt, Đuymuchê đã nói toạc ra “chúng ta
biết rõ ràng không phải là thủ tiêu hẳn nó (giáo dục phong kiến) như người ta
đã đề nghị, làm như thế chẳng khác gì phế bỏ sông Hồng vì nó cũng bắt
nguồn từ Trung Quốc, mà phải tóm lấy nó, thu thập nó để có lợi cho chúng
ta”. Thực dân Pháp vừa lợi dụng nó, lại vừa muốn cải biến nó để phục vụ cho
chính sách thống trị của chúng. Còn các sĩ phu yêu nước tiến bộ vì đã nhận
thấy rõ âm mưu của địch nên cũng không ưa gì nó, sẵn sàng chôn vùi nó mà
không hề luyến tiếc. Như vậy cả hai bên cùng muốn có những thay đổi về
giáo dục, nhưng mỗi bên lại nhằm một mục đích khác nhau. Cuộc đấu tranh
đã mang một màu sắc mới và đã diễn ra một cách gay gắt trong lĩnh vực giáo
dục trong thời kì này.
Mở đầu cho đường lối giáo dục của thực dân Pháp trong thời kì này
chúng ta có thể kể đến PônBe, y giữ chức tổng sứ Bắc, Trung Kì trong năm
1886. PônBe là người rất am hiểu về giáo dục.
PônBe thành lập một cơ quan thanh tra giáo dục, phát triển giáo dục
nhằm mục đích “nhanh chóng thiết lập mối quan hệ trực tiếp càng nhiều càng
tốt giữa dân tộc An Nam với chúng ta (thực dân Pháp) bằng cách truyền bá
sự thông dụng tiếng Pháp cũng như sự hiểu biết những phong tục và khoa
học của chúng ta.”
“Việc dạy chữ Pháp sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc học chữ quốc
ngừ, cũng cần có một giáo trình chữ nho, nếu trẻ con An Nam rời bỏ nhà
trường của chúng ta mà không biết đọc và viết chữ nho thông dụng… họ sẽ
trở thành những người ngoại quốc trong xứ sở của họ và sau hết các trường
của chúng ta sẽ không chiêu tập được ai vào học…” “Việc dạy cho người bản
xứ đọc và viết chữ quốc ngữ đối với chúng ta là một lợi ích lớn, công chức,
thương gia của chúng ta có thể học nó rất dễ và những mối liên hệ giữa
chúng ta với người bản xứ cũng sẽ trở nên rất thuận tiện”.
Qua đoạn văn trong bức thư của PônBe, ta thấy rõ âm mưu xảo quyệt
của y. Y chủ trương phổ cập chữ Pháp, chữ quốc ngữ, truyền bá ảnh hưởng
của chúng trong nhân dân ta, nhưng y cũng không quên chữ nho rất cần thiết
trong lúc này cho những người do chúng đào tạo ra, đó là chúng ta chưa nói
đến ý đồ dùng chữ nho để “câu” học sinh vào trường của chúng như y đã nói
toạc ra như trên. Trước mắt y, chủ trương vừa phát triển mở rộng trường lớp,
vừa cải tổ dân dân giáo dục cũ để đi đến thủ tiêu hẳn, nhưng làm khôn khéo
êm dịu như đường lối chính trị “công tác” mà y đang chủ trương.
Để thực hiện âm mưu quỷ quyệt trên, tháng 7–1886 y kí nghị định
thành lập Bắc Kì hàn lâm viện, trụ sở tại Hà Nội. Tổ chức này tập hợp các
phần tử trí thức, lôi kéo các sĩ phu, nhằm mục đích truyền bá tư tưởng và ảnh
hưởng của Pháp, tạo điều kiện phổ cập chữ Pháp trong dân chúng.
Tháng 11–1886 khi vào Huế, PônBe chủ trương thành lập một trường
hoàng gia để dạy cho các vua quan Nam triều học chữ Pháp.
Trước khi PônBe sang, toàn Bắc bộ chỉ có trường tiểu học được lập ở
Hà Nội, một trường ở Lạng Sơn. Sau khi PônBe sang một thời gian, ở đây có
trường thông ngôn được thành lập 1–1886 ở phố Giăngđuypuy sau chuyển ra
Yên Phụ; ngoài ra còn có 9 trường tiểu học cho nam sinh, 4 trường tiểu học
cho nữ sinh, một trường tư để dạy vẽ và 117 trường dạy chữ quốc ngữ tự do.
Nhưng chủ trương cải tổ giáo dục của PônBe, cũng như tổ chức Hàn
lâm viện của y không thực hiện và tồn tại được vì chúng thấy “Phải dừng lại
trước việc cải tổ nền giáo dục cổ truyền vì những cải cách đó chưa chín
muồi”. Xét thấy cần nhanh chóng đào tạo quan lại, phổ biến chữ Pháp cho
bọn này, bọn Pháp đã mở trường Quốc Tử Giám (1896) và trường Hậu bổ
1897.
PônBe chết, bọn quan lại cai trị kế tiếp y tiến hành phát triển giáo dục,
nhưng nhịp điệu chậm hơn.
Đume sang làm toàn quyền Đông Dương (từ tháng 2–1897 đến tháng 3
năm 1902) để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, y đẩy mạnh giáo
dục hơn nữa. Năm 1898 Đume lập trường Viễn Đông nhằm mục đích lãnh
đạo cuộc cải cách giáo dục khi thời cơ đến. Cũng nằm này, một nghị định của
toàn quyền Đông Dương quyết định trong chương trình các kì thi Hương phải
có môn quốc ngữ và chữ Pháp, nhưng chưa bắt buộc.
Tiếp theo Đume là toàn quyền Bô, y theo vết cũ và tích cực đẩy mạnh
công tác giáo dục hơn, mở đầu thời kì gọi là “chinh phục tinh thần” của thực
dân Pháp. Bô làm rất hăng, và quyết định từ 1903 chữ quốc ngữ và chữ Pháp
phải bắt buộc trong các kì thi trường Nam.
Tháng 11–1905, Bô ra một nghị định thành lập nha học chính Đông
Dương để nghiên cứu sửa đổi chương trình giáo dục.
2. Nội dung cải cách
Năm 1906 toàn quyền Bô đưa ra một kế hoạch “cải cách” giáo dục.
Cuộc cải cách này được thực hiện mạnh mẽ qua các nghị định ngày 8–3 và
6–5–1906. Chủ trương của Bô thực hiện ở Nam Kì và Bắc Kì, còn ở Trung Kì
thì thực dân Pháp giật giây, vua quan Nam triều hoạt động.
Một chỉ dụ của nhà vua ngày 31–5–1906 thừa nhận nền giáo dục Pháp
– Việt ở Trung Kì và Bộ học được thành lập ở Huế năm 1908.
Nghị định ngày 8–3–1906 thành lập hội đồng cải lương học chính bản
xứ. Hội đồng này có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề cải tổ nền giáo dục cũ,
cải cách các kì thi Hương ở Bắc và Trung Kì. Nghị định ngày 16–5–1906
hoàn chỉnh nghị định trên bằng cách thành lập ở mỗi xứ Đông Dương một ủy
ban cải lương học chính.
Nội dung cụ thể những cải cách năm 1906 của toàn quyền Bô như sau:
– Giáo dục bậc tiểu học, trước đây phó mặc cho thôn xã hay tư nhân
nay phải trở thành của nhà nước với tên là đệ nhị cấp (tiểu học) và đệ tam
cấp (trung học).
– Chương trình học phải sửa đổi, thêm vào những việc học như ngày
trước những điều khẩn yếu của khoa học phương Tây và những tri thức thực
hành thông dụng nhất.
Người ta chia nền giáo dục cu ra làm 3 bậc:
+ Sơ cấp (ấu học)
+ Đệ nhị cấp (tiểu học)
+ Đệ tam cấp (trung học)
Bậc ấu học: là trường hàng tổng mở ra cho nam, nữ sinh đặt dưới
quyền kiểm soát của huấn đạo và giáo thụ.
Bậc tiểu học: bậc này đặt ở phủ huyện, trong các trường của huấn đạo
hay giáo thụ. Học chữ nho và cho quốc ngữ.
Bậc trung học: bậc này đặt ở tỉnh lị trong nhà trường của đốc học.
Chương trình học gồm một phần chữ nho, một phần chữ Việt và một phần
chữ Pháp. Học sinh tốt nghiệp bậc trung học được dự kì thi Hương ba năm
có một khóa thi Hương – kì thi này vẫn theo hình thức và nghi lễ như trước
gồm có 4 môn thi:
– Môn chữ nho và văn sách gồm có 5 đầu bài khác nhau.
– Một kì môn chữ Việt.
– Một kì môn dịch từ Pháp sang Việt và chữ nho sang chữ Pháp.
– Một kì phúc hạch để chọn cử nhân gồm một bài luận chữ nho, một
bài tiếng Việt và một bài dịch chữ Pháp sang chữ nho. Tùy theo thứ bậc
người đậu mà chia làm hai bậc: cử nhân và tú tài.
Thi Hội và thi Đình chưa có gì thay đổi.
Cải cách giáo dục của toàn quyền Bô còn chú ý đến việc đào tạo giáo
viên, các lớp sư phạm thường xuyên mở ở Hà Nội, theo nghị định ngày 30–
7–1907 sẽ đào tạo giáo viên bậc ấu học ở các làng. Riêng đối với giáo viên
bậc tiểu học và trung học còn gặp nhiều khó khăn vì: “Quả thật, nếu như ở
bậc ấu học việc đào tạo giáo viên và nhà trường chúng ta không gặp trở ngại
của hoàn cảnh và tổ chức cũ, thì ngược lại ở các bậc giáo dục trên, chúng ta
lại thấy trước mắt một tổ chức hoàn chỉnh và rất xưa cũ không có thể sửa đổi
một cách nhanh chóng và một số lớn người có danh vọng không muốn cải
cách hay hoàn bị trong một thời gian ngắn”. Do đó đối với giáo viên bậc này
cụ thể là các giáo thụ, huấn đạo, đốc học, chúng chủ trương “chuyên môn
hóa các quan viên ngạch giáo dục”. Chủ trương này xuất phát từ tình hình
trước đây trong ngạch quan chức phong kiến chức nghiệp giáo dục chưa tách
khỏi chức nghiệp hành chính nghĩa là chưa được chuyên môn hóa. Cũng vì lẽ
cần phải đào tạo một ngạch quan lại về giáo dục nên trường Hậu bổ từ năm
1900 đã có một khu sư phạm bên cạnh một khu hành chính.
Năm 1906 để ngăn chặn phong trào Đông du, Pháp ban hành một đạo
luật tại Bắc Kì và Trung Kì đe dọa những gia đình có con em tham gia phong
trào vận động cứu nước.
Năm 1907 Triều đình Huế thành lập bộ Học và bước đầu sửa đổi quy
chế thi Hương thi Hội.
Cuối năm 1907, một sự kiện cần phải đề cập tới trong hoạt động giáo
dục của thực dân Pháp ở thời kì này, đó là toàn quyền Bô đã thành lập một
trường “đại học” gọi là học quy tân trường. Việc làm này của y nhằm 2 mục
đích:
+ Thỏa mãn đòi hỏi của tầng lớp “tân học”, tầng lớp “thượng lưu trí
thức” mới, đồng thời đào tạo tay chân có trình độ cao.
+ Truyền bá ảnh hưởng của Pháp ở Á Đông, cạnh tranh với Đông Kinh
nghĩa thục, ngăn cản phong trào xuất dương của thanh niên ta lúc bấy giờ do
Phan Bội Châu đề xướng.
Ở học quy tân trường này, có lớp sử dành cho học sinh 13 tuổi nhưng
chú trọng đến cấp trung học (có thể nhận học sinh đến 24 tuổi) và cấp đại học
(có thể nhận học sinh đến 48 tuổi) nhằm thu hút những người còn lo lắng về
tiền đồ, giữa lúc cái cũ chưa qua, cái mới chưa tới. Nhưng trường đại học này
được thành lập đầu tiên ở Việt cũng sớm bị đóng cửa. Cho đến năm 1912
trường đại học này mới được Xarô mở lại. Xarô vẫn tiếp tục đường lối của
toàn quyền Bô, mở thêm trường trung học ở Hà Nội còn trường PônBe lại
dùng cho cả học sinh Việt Nam cùng học.
3. Kết quả
Qua cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất của thực dân Pháp chúng ta
thấy rõ âm mưu của thực dân Pháp là tích cực lợi dụng nền giáo dục phong
kiến, kết hợp giáo dục phong kiến với giáo dục thực dân. Chúng đã dùng giáo
dục phong kiến làm chỗ dựa để tạo điều kiện cho giáo dục thực dân phát
triển. Chúng tiến hành cải tổ về mặt hình thức, còn nội dung vẫn duy trì hệ
thống tư tưởng Nho giáo, đồng thời điểm cho nó một nội dung mới có vẻ khoa
học mới mẻ, nhưng thực ra là một nội dung nhằm nô dịch quần chúng. Cái
gọi là cải cách của toàn quyền Bô thực chất chỉ là một sự tiến hành củng cố
bộ máy cai trị thực dân phong kiến của chúng, thể hiện trên lĩnh vực văn hóa
giáo dục.
Suy cho cùng, cải cách giáo dục của toàn quyền Bô cũng như của các
tên cai trị kế tiếp cũng chỉ là mở rộng phạm vi thực hiện trên cơ sở những chủ
trương mà PônBe đã vạch ra từ trước.
Cải cách giáo dục năm 1906 của thực dân không phải tất cả đều “thuận
buồm xuôi gió”. Nó đã gặp nhiều khó khăn, nhất là ở Trung, Bắc Kì như
Cơlôbuy Cốpxki đã thú nhận: “Ở Trung và Bắc Kì sự can thiệp của chúng ta
rất khó khăn. Trong các tỉnh của Vương quốc An Nam cũ đã có một tổ chức
(giáo dục) rất xưa cũ do tầng lớp văn thân điều khiển tỏ ra chống lại ý đồ của
chúng ta”. Đặc biệt là ở Trung Kì, phong trào đấu tranh của năm 1908 khiến
cho cải cách của thực dân không tiến hành được, mãi đến năm 1909 cải cách
mới được tiếp tục thực hiện.
Ngoài ra chúng còn gặp những khó khăn về trường lớp và đặc biệt là
sách giáo khoa. Để khắc phục vấn đề này, thực dân cũng mở ra những kì thi
biên soạn sách giáo khoa..
Nhưng “khốn thay những kì biên soạn sách giáo khoa bằng chữ nho và
chữ quốc ngữ cho phù hợp với chương trình năm 1906 không đưa lại một kết
quả nào. Không phải là thiếu người dự thi, mà là không có một cuốn sách nào
đáng được thừa nhận”.
Chúng ta đã biết cho đến những năm cuối chiến tranh thế giới thứ nhất:
thực dân Pháp đã áp dụng cho người Việt Nam hai nền giáo dục: Nền giáo
dục cũ có cải cách và nền giáo dục mới gọi là giáo dục Pháp – Việt. Cùng với
hai nền giáo dục này xuất hiện hai lớp người: tân học và cựu học. Hai lớp
người này bài xích lẫn nhau. Đoạn văn trích sau đây sẽ tố cáo rõ ràng và sắc
nét mối quan hệ giữa hai lớp người do giáo dục thực dân thời kì này tạo nên:
“Một hố sâu ngăn cách học sinh của hai nền giáo dục. Vì say mê văn học
người Trung Hoa cho nên đến thời gian gần đây các quan lại vẫn tiếp tục dạy
dỗ con cái họ nền văn hóa thủ cựu đối lập lại văn hóa Tây phương. Ngược
lại, phần lớn những bồi bếp, người chạy giấy, kí luận những viên chức nhỏ vì
muốn nhanh chóng kiếm một việc làm ngay cả một việc thấp nhỏ nhất cho
con cháu, họ sẵn sàng từ bỏ quá khứ của mình để giành lấy lợi ích riêng, họ
tấp nập gửi con đến các trường Pháp – Việt đông đúc của chúng ta. Được
hiểu biết đôi chút tiếng Pháp (vì hiểu biết của chúng còn rất sơ đẳng), không
một kẻ trong bọn chúng hiểu biết tường tận ngôn ngữ của chúng ta, và không
có thể làm nổi một bài dịch nghiêm túc, những học sinh này phù hợp với chức
vụ hành chính hơn con cái các văn thân chuyên chú nền giáo dục cũ. Song lẽ
giá trị tài năng lại thuộc về bọn sau (con cái văn thân). Điều đó dẫn đến kết
quả là trong một bộ phận dân chúng, bộ phận đáng chú ý nhất trong xứ Viễn
Đông – tầng lớp thượng lưu trí thức sôi lên một sự bất bình nghiêm trọng làm
điều đó gần gũi với các cuộc phiến loạn gần đây”.
IV. CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ HAI (1917 – 1929). SỰ HOÀN CHỈNH NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM
1. Lí do:
Hiện tượng song song tồn tại hai nền giáo dục như trên là một điều bất
hợp lí. Nó bị dư luận không những của người bản xứ mà cả những người
Pháp không tán thành. Hơn nữa, trong những ngày đầu xâm lược, chúng đã
toan xóa bỏ giáo dục cũ ngay, nhưng không xong vì “vô chính trị”. Đến nay
sau bao nhiêu bước chuẩn bị, con bài “giáo dục phong kiến” đã đến lúc có thể
thay bằng con bài “giáo dục Pháp – Việt” cho có vẻ “mới”, có vẻ “tiến bộ”, phù
hợp với chiêu bài truyền bá văn minh hơn.
2. Nội dung:
Để tạo điều kiện cho việc xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục cũ và việc
thống nhất giáo dục bản xứ. A. Sarô đã chủ trương tổ chức ra một loại trường
sơ đẳng bản xứ ở Trung Kì và Bắc Kì làm cơ sở chung. Với loại trường này,
những học sinh tốt nghiệp bậc ấu học của chương trình cải cách giáo dục cũ
của toàn quyền Bô được gọi là tuyển sinh, với môn quốc ngữ bắt buộc có thể
theo học được. Ở loại trường này học sinh học tiếng Pháp như là một môn
phụ, với những sách giáo khoa mới bằng chữ quốc ngữ. Trong khi đó học
sinh ở trường Pháp – Việt vẫn học chữ quốc ngữ, học lịch sử, lễ nhạc, và chữ
Pháp có sâu hơn.
Sau một thời gian thăm dò, thực dân Pháp đã quyết định bãi bỏ nền
giáo dục cũ cùng với chế độ khoa cử của nó. Khoa thi Hương cuối cùng ở
trường Nam vào năm 1915 có 1886 thí sinh, trong đó có 40 đậu cử nhân và
120 tú tài. Ơ Trung Kì khóa thi cuối cùng là năm 1918.
Một chỉ dụ của vua nhà Nguyễn vào ngày 14–6–1919 đã tuyên bố bãi
bỏ hoàn toàn các trường chữ nho và thay vào đó bằng hệ thống trường Pháp
– Việt. Triều đình Huế giao các trường và giao việc thi cử cho thực dân. Chỉ
còn hai trường thuộc quyền Nam triều là trường Hậu bổ phụ thuộc vào trường
luật Hà Nội và trường Quốc Tử Giám.
3. Kết quả
Theo con số thống kê không đầy đủ của bọn thực dân để lại thì tình
hình giáo dục cho người Việt ở Việt Nam vào năm 1916 như sau:
GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT NĂM 1916
Tiểu học Trung học
Trường họcHọc
sinhTrường học
Học
sinh
Nam
Kì
Trường tiểu học ở các
tỉnh: trường ở Sài Gòn
(khoảng 798 trường)
51.137
3 trường: Mĩ Tho,
Gia Định, Sátxơlu
Lôba
353
Bắc
Kì
Bắt đầu mở ở một vài tỉnh
(36 trường)4.620 Trường Bảo hộ
600
Trung
Kì
Dạy ở hai loại trường: –
Trường làng có từ 1 đến 3
lớp
– Ở đô thị trường kiêm bị
có đủ 4 lớp
Chưa
rõTrường Quốc học
67
GIÁO DỤC BẢN XỨ
NămBắc Kì Trung Kì – Nam Kì
Trường học Học sinh Trường học Học sinh
1915 Ấu học 14.124Chưa rõ Chưa rõ
Tiểu học 3.904
VỀ THI CỬ CỦA TRƯỜNG PHÁP – VIỆT NĂM 1916
Bậc tiểu học Bậc trung học
Số người tốt
nghiệpSố thi sinh thi
Số người tốt
nghiệpSố thí sinh thi
Bắc Kì 260 547
Trung Kì 7 23
Nam Kì 47 82
Về giáo dục chuyên nghiệp thì từ cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, và
đến thời kì cải cách giáo dục lần thứ hai thì giáo dục chuyên nghiệp cũng
được chú ý hơn trước. Các trường chuyên nghiệp này được mở ra thực chất
nhằm phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp.
Cho nên các trường này được mở ra nhằm mục đích đào tạo thợ
chuyên môn hoặc đốc công, đáp ứng cho nhu cầu mở rộng công nghiệp của
chúng ở Việt Nam và để thay thế cho số thợ đáng lí phải đem từ Pháp sang
vừa tốn kém, lại vừa xa lạ với Việt Nam. Để đáp ứng cho thương nghiệp,
chúng cũng cần có những thợ thủ công sử dụng nguyên liệu địa phương, sản
xuất ra những hàng mới cung cấp cho thị trường Âu Mĩ. Côlôbuy Cốpxơki đã
từng nói: “Giáo dục trung học chuyên nghiệp có một nguồn tư bản rất quan
trọng ở một xứ kĩ nghệ địa phương và kĩ nghệ Âu châu đang chát triển rầm
rộ”.
Đầu tiên chúng mở một vài trường như trường kĩ nghệ ở Sài Gòn ở Hà
Nội, trường bách công ở Huế. Trường bách công ở Huế dạy các nghệ: rèn,
đúc, lắp, nguội, tiện, mộc, chạm, đóng xe, nề, đẽo đá, sơn, vẽ… Trường này
có khoảng 100 học sinh. Sau đó lần lượt ở Nam Kì, chúng mở thêm trường
mĩ nghệ như trường Thủ Dầu Một dạy các nghề thêu, khảm và vẽ, trường
Biên Hòa gốm ba ban trang sức, gỗ và sắt, trường Hà Tiên, trường Sa Đéc
làm các mặt hàng bằng đồi mồi, một nguyên liệu sẵn có ở địa phương. Ngoài
ra ở Cần Thơ mở thêm trường dạy thêu.
Ở Bắc Kì chúng mở thêm các trường tại Nam Định, Hải Phòng đào tạo
thợ ngành gỗ và sắt. Trường nông nghiệp ở Hưng Hóa được mở ra nhằm sử
dụng có ích cho công cuộc mở đồn điền của Pháp, còn trường ở Sơn Tây dạy
nghề làm quạt, đan mây.
Tuy gọi là các trường kĩ nghệ, nhưng thực ra trong thời kì này chỉ là
những lớp chuyên nghiệp phụ vào các xưởng sửa chữa của nhà nước. Còn
các trường gọi là mĩ nghệ thực ra chỉ là những tổ chức chuyên sản xuất theo
đơn đặt hàng của con buôn. Những nhà trường này thực chất là một tổ chức
kinh doanh do một người Pháp có toàn quyền điều khiển.
Ngoài ra chúng thành lập trường thuốc do Yécxanh làm giám đốc. Lúc
đầu chúng định đặt ở Sài Gòn, nhưng sau vì để có lợi cho việc truyền bá ảnh
hưởng của Pháp ở Bắc, Trung Kì cũng như ở Á Đông hơn nên chúng quyết
định đặt tại Hà Nội. Nhưng học sinh học ở trường này rất kém tiếng Pháp,
thiếu kiến thức phổ thông, các phương tiện, trường lớp và dụng cụ thuốc đều
thiếu nên cũng không đạt được kết quả như chúng mong muốn. Các loại
trường chuyên nghiệp kể trên, ngoài việc đáp ứng cho công cuộc khai thác
thuộc địa của chúng trong những năm hòa bình mà còn được thực dân Pháp
sử dụng để phục vụ cho chiến tranh trong những năm 1914–1918. Thật vậy,
trong chiến tranh thế giới thứ nhất, riêng trường bách công ở Huế cũng đã
đóng góp cho Pháp 400 thợ gửi sang Pháp làm việc ở các công binh xưởng
chính. Trường bách nghệ Sài Gòn năm 1915 đã cung cấp cho Pháp được 9
thợ thượng hạng và năm 1916 đã tuyển được 16 thợ cho ngành pháo binh
Pháp trong các xưởng ở chính quốc và từ tháng 9–1916 nhà trường được
trưng dụng sản xuất lựu đạn phục vụ cho chiến tranh.
Đặc biệt là trường y, năm 1916 có 45 trợ y sĩ và 12 nữ hộ sinh. Các trợ
y sĩ này đặt dưới quyền sử dụng của các nhà chức trách quân sự để phục vụ
trong các đội quân ở Đông Dương.
Với cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, chúng ta nhận thấy về mặt tổ
chức, có nền giáo dục bao gồm giáo dục phổ thông và giáo dục thực nghiệp.
Lúc này ở Việt Nam đã có hai loại trường: trường Pháp theo chương
trình “chính quốc”, trường Pháp – Việt theo chương trình “bản xứ”.
Về hệ thống giáo dục, chia làm 3 cấp: tiểu học, trung học cao đẳng hay
đại học.
Các lớp thấp được dùng chữ quốc ngữ làm chuyển ngữ, còn các lớp
khác vẫn dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ là cơ bản.
Với cải cách giáo dục lần thứ hai, việc đưa chữ quốc ngữ vào tiểu học
đã giúp trẻ nhanh chóng biết đọc, biết viết (điều này hơn hẳn việc xưa kia học
chữ Hán rất khó học khó nhớ) giúp cho học sinh tiếp thu dễ dàng hơn một số
kiến thức bổ ích, thiết thực phục vụ cho cuộc sống lúc đó.
Chương trình học lúc này bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội với tính hệ thống cao, càng lên cao, kiến thức càng mở rộng. Bên cạnh
các trường phổ thông bậc tiểu học trung học còn có các trường dạy nghề. Với
những trường dạy nghề này, nếu học xong tiểu học, học sinh không có điều
kiện học lên, họ sẽ học nghề ở các xưởng máy và có thể tìm việc làm để kiếm
sống.
Tuy một số rất ít được vào học ở các trường cao đẳng đại học, khi tốt
nghiệp họ thường trở thành các thầy giáo, kĩ sư, bác sĩ có nhiều tài năng.
Như vậy so với giáo dục phong kiến, thì cá nhân được phát triển về năng lực
đầy đủ hơn, toàn diện hơn để có thể phục vụ xã hội theo năng lực của mình.
Một số rất ít trở thành tay sai đắc lực của Pháp, còn đa số những người trí
thức này đều góp phần xây dựng đất nước, một số trở thành các nhà cách
mạng sau này.
Chương trình “cải cách giáo dục” đã được toàn quyền Bô đề ra năm
1906 và đến năm 1917 được toàn quyền Xarô bổ sung và thực hiện. Đến
năm 1924 toàn quyền Méclanh thay thế bằng “chương trình bình diện” tức
“phát triển giáo dục theo chiều nằm, chứ không phải theo chiều đứng”. Tên
trùm thực dân nổi tiếng dã man này viện lẽ rằng 9/10 học sinh nông thôn Việt
Nam không đủ sức theo học hết bậc sơ học, cho nên chỉ cần mở thêm loại
trường thuộc bậc sơ học là đủ. Bởi vậy bọn cầm quyền thực dân ở các xứ lập
ở một số ít thôn xã đông dân những trường sơ cấp gồm một hai lớp đầu của
bậc tiểu học gọi là trường hương học ở Bắc Kì, trường dự bị ở Trung Kì, lớp
phù trợ dự bị ở Nam Kì. Trường tiểu học hoàn chỉnh gọi là kiêm bị chú được
mở ở một số thị trấn huyện và thị xã, Trường cao đẳng tiểu học có 4 lớp (đệ
nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ), chỉ được mở ở một số rất ít thành phố và tỉnh lị
lớn, như xứ Trung Kì có 15 tỉnh trên 5 triệu dân có 4 trường: đó là 2 trường ở
Huế (Quốc học Huế và nữ học Đồng Khánh), một trường ở Vinh và một
trường ở Quy Nhơn. Các trường trung học gồm ba năm học cuối cùng của
phổ thông, thực dân chỉ mở ở Hà Nội, Sài Gòn và ở kinh đô của nước “An
Nam” thuộc Pháp cũng chỉ có một trường.
Tuy các trường học lúc này mở ra không nhiều lắm, song so với thời kì
đầu xâm lược thì số trường học có tăng và với các cuộc cải cách kế tiếp nhau
của thực dân pháp, nên số học sinh cũng tăng lên như sau:
Năm 1923: 46.000 học sinh
Năm 1924: 72.000 học sinh
Năm 1930: 430.000 học sinh
(Tỉ lệ so với dân số là 1,8% trong đó có 551 sinh viên đại học, 4.615
học sinh cao đẳng tiểu học). Mặc dù con số học sinh đã tăng lên so với trước,
song tỉ lệ 1,8% so với dân số kể trên điều đó cũng chứng tỏ phần lớn nhân
dân ta không được đi học và bị chúng kim hãm việc học tập đến chừng nào!
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã so sánh “Lúc ấy trong 1000 làng thì có đến 1.500
cửa hàng rượu và thuốc phiện, nhưng cũng trong số 1000 làng đó thì chỉ có
vẻn vẹn 10 trường học”
Trường công do Pháp mở ra đã hạn chế đến mức nhỏ giọt như vậy.
Nhưng việc cho phép mở trường tư thục cũng rất khó. Ngay cả những trường
đã có từ trước khi thực dân Pháp sang nay cũng bị tan rã vì “thuế má nặng
nề, phu dịch thường xuyên” làm cho các gia đình giàu có cũng bị sa sút, nên
không còn khả năng nuôi các thầy đồ để dạy cho con cái mình và cho con cái
những người láng giềng như xưa nữa.
Chúng ta hãy xem xét chính sách giáo dục của Pháp thực hiện ở Việt
Nam lúc đó như thế nào? Trước hết hãy nói đến ngành giáo dục phổ thông –
nền học cơ bản của một nước. Ở đây chúng ta chỉ xét tới những trường tổ
chức cho thanh niên và thiếu niên Việt Nam học, chứ không nói tới trường
dành cho con em bọn thống trị thực dân Pháp hay các trường Hoa kiều.
Năm 1936 – 1937, theo số liệu rút trong Dông Dương niên giám thống
kê tập VII 1936 – 1937, nhà in Viễn Đông Hà Nội 1942 như sau:
Bậc học Số làngDiện tích
bình quân
Bình quân
dân số
Số trường
học
Sơ học (3 năm) 3 52 km2 3.000 1
Tiểu học (3 năm) 34 513 km2 30.000 1
Như vậy đối với bậc sơ học: với số bình quân là 60 người tức là cứ 100
người dân thì có 2 học sinh sơ học (2%). Đấy là bậc học phát triển nhất dưới
thời Pháp thuộc mà số người học chỉ có vậy.
Còn đối với bậc tiểu học thì còn thảm hại hơn nhiều vì số học sinh bình
quân là 115 người tức là cứ 1 00 người dân thì có 0,4 học sinh tiểu học
(0,4%)
Từ bậc cao đẳng tiểu học trở lên, tình hình lại càng bi đát hơn nữa. Lúc
này một vấn đề khác được đặt ra đó là vấn đề trường công và trường tư. Nếu
ở bậc sơ học và tiểu học số trường công nhiều hơn trường tư, thì ngược lại
từ bậc cao đẳng tiểu học trở lên trường tư bao giờ cũng nhiều hơn trường
công, có khi nhiều hơn ba bốn lần. Tính chất trường tư ở Việt Nam khác hẳn
trường tư ở các nước khác. Bởi vì không phải các trường này do tư bản lập
ra do không thỏa mãn với những điếu kiện học tập thiếu thốn trong các
trường của nhà nước. Đây cũng không phải là loại trường lập ra do sự khác
nhau về quan điểm chính trị hay giáo dục. Sự thực, đó chỉ là những trường do
tư nhân lập ra để thu nhận những học sinh cần học, nhưng do trường của
nhà nước quá ít không đủ sức thu nạp.
Trường tư ở nước ta dưới thời Pháp thuộc được lập ra do sự tự
nguyện của một số nhóm giáo viên nhất định, được sự hỗ trợ của cha mẹ học
sinh. Các trường tư này được lập ra không do chỉ thị hoặc mệnh lệnh của ai
cả. Nguồn tài chính duy nhất là do học phí của học sinh. Mọi chi phí đều trông
vào đó.
Nếu nói đến tình hình phát triển giáo dục ở Việt Nam chúng ta có thể
tính chung cả trường công và trường tư. Nhưng nếu nói đến “công trình khai
hóa” của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam, mà tính chung cả trường tư
thì không hợp lí. Vì vậy đối với bậc cao đẳng tiểu học và bậc trung học, chúng
ta hãy tách riêng trường công ra để xét.
Nằm 1936 – 1937 ở Việt Nam chỉ có 16 trường cao đẳng tiểu học công
(4 năm), trên một diện tích là 328.000 km2 bố trí như sau:
Bắc Kì: Với 8 triệu 700 nghìn dân có 8 trường: (trường con trai Hà Nội,
“Côle” con gái Hà Nội, trường bảo hộ Hà Nội, trường cao đẳng tiểu học Hải
Phòng, “Côle” Nam Định, trường Bắc Ninh, trường Thái Bình, trường Lạng
Sơn).
Trung Kì: Với 5 triệu 656 nghìn dân có 4 trường: (trường Khải Định
Huế, “Côle” Đồng Khánh Huế, “Côle” Vinh, “Côle” Quy Nhơn, và một số lớp
cao đẳng, tiểu học ở Thanh Hóa).
Nam Kì: Với 4 triệu 616 nghìn dân với 4 trường: (trường Pêtơruýt Kí
Sài Gòn, “Côle” con gái bản xứ Sài Gòn, “Côle” Mĩ Tho, “Côle” Cần Thơ).
Như vậy bình quân cứ gần 1 triệu 200 nghìn dân mới có một trường
cao đẳng tiểu học với số học sinh bình quân là 263 người. Tỉ lệ học sinh cao
đẳng tiểu học công so với dân số là 0,02%. Bình quân mỗi trường phải phục
vụ 4,5 tỉnh. Các trường này lại bố trí không đồng đều. Gần một nửa số trường
tập trung ở 3 thành phố lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Còn có một vùng rộng lớn
từ thượng du Bắc Kì, từ giáp giới biển Đông và ở Móng Cái, Tiên Yên chạy
suốt biên giới Việt – Trung qua biên giới Lào – Việt đến Lai Châu, Sơn La mà
chỉ có một trường đặt tại Lạng Sơn với 126 học sinh. Các miền Tây Nam Kì
dân cư rất đông đúc cũng chỉ có một trường mới mở từ năm 1924 tức là sau
khi thực dân Pháp đến Việt Nam hơn 60 năm, tại Cần Thơ với 345 học sinh.
Cả xứ Trung Kì đất hẹp và chạy dài trên gần 150 km cũng chỉ có 4 trường,
mà phần lớn tập trung ở phía Bắc, còn từ Quảng Nam cho đến Bình Thuận và
cả vùng Tây Nguyên rộng lớn chỉ có một trường ở Quy Nhơn với 145 học
sinh. Thời đó muốn học bậc cao đẳng tiểu học, học sinh thường phải đi xa
nhà hàng 200, 300 km có khi đến 400, 500 km.
Đối với bậc trung học thì từ năm 1936–1937 cũng như đến khi cách
mạng tháng 8 thành công trên toàn cõi Việt Nam chỉ có ba trường trung học
công được phân bố như sau:
Bắc Kì Trung Kì Nam Kì
Số
tỉnhSố trường
Số
tỉnhSố trường
Số
tỉnhSố trường
29
1
(“Lixê” bảo hộ
Hà Nội)
18
1
“Lixê” Khải Định
Huế
24
1
Pêtơruýt Kí Sài
Gòn
Tổng số học sinh của cả 3 trường năm 1936–1937 là 369 người. Bình
quân mỗi trường chỉ có 123 học sinh. Như vậy cứ 1 triệu dân năm 1936–1937
mới có 19 học sinh trung học công (0,0019%). Những năm sau tỉ lệ này có
tăng nhưng cũng không nhiều hơn bao nhiêu. Ví dụ, năm 1941–1942 tỉ lệ đó
là 0,0026%. Nếu tính cả trường tư thì năm 1936–1937 có thêm 3 trường nữa
cũng đều tập trung ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ở tất cả các tỉnh khác không có
trường trung học nào cả dù là tư thục.
Qua phần nêu trên, chúng ta thấy rằng vậy có bao nhiêu người và
những người thuộc tầng lớp nào mới có thể cho con theo học trung học, nhất
là nước ta, một nước mà nhân dân lao động bị bóc lột hết sức nặng nề?
Còn có thể điểm qua tình hình ở nông thôn để thấy rõ hơn kết quả chủ
trương phát triển giáo dục theo “chiều nằm” của thực dân Pháp. Sênô đã điều
tra năm 1938 ở một vài nơi thuộc Thanh Hóa, ông cho là điển hình cho các
loại làng ở Trung Kì đã đưa lại kết quả như sau:
Vùng điều tra Dân sốTrường
tiểu học
Trường
sơ học
Tỉ lệ mù
chữ trên
10 tuổi
Tỉ lệ phụ
nữ mù chữ
– Cao Mật
– Nhân Lộ
– Quảng Nhân
3496 1 0 83% 97,1%
Bồng Trung 1927 0 1 91% 98,6%
+ Thọ Lộc
+ Nam Thôn
+ Ninh Thôn
1257 0 0 98% 99,7%
Các trường bảo hộ đặt ra nhiều bậc học: sơ học, tiểu học, cao đẳng
tiểu học, trung học, kéo dài tới 13 năm và phải qua 8 kì thi, các trường tại đặt
ở các thị trấn, huyện lị và các thành phố nên con em nhà nghèo không thể
theo học đến nơi đến chốn được.
Còn quy mô của nền đại học mà mục đích cũng chỉ là để cung cấp cho
bộ máy cai trị của thực dân Pháp những người Đông Dương có một số hiểu
biết về luật pháp và đủ năng lực giữ chức thông ngôn, thư kí,… phục vụ cho
công cuộc khai thác, cai trị của Pháp cũng không to tát gì hơn. Năm 1941–
1942, toàn Đông Dương chỉ có vẻn vẹn 3 trường gọi là “đại học” đặt tại Hà
Nội với tổng số sinh viên là 834 người trong đó trường luật khoa: 345 sinh
viên (Việt Nam: 224), trường y dược khoa 282 sinh viên (sinh viên Việt Nam:
234), trường khoa học 207 sinh viên (Việt Nam: 170). Bên cạnh các trường
đại học còn có 4 trường gọi là “cao đẳng” với tổng số sinh viên toàn Đông
Dương là 201 người: Đó là trường cao đẳng mĩ thuật 66 sinh viên (Việt Nam:
49), trường nông lâm 59 sinh viên (Việt Nam 43). Trường thú y có 14 sinh
viên đều là Việt Nam. Lớp chuyên môn cán sự viên có 62 người thì Việt Nam
là 61. Nếu so sánh với dân số năm 1942 ở biệt Nam, theo Pháp ước lượng
khoảng 20.600.000 người thì trong 1 triệu người dân mới có 38 người được
theo học ở bậc đại học và cao đẳng. Thật là quá ít ỏi.
Với quy mô một nền giáo dục như vậy, chúng ta nhận thấy: đại bộ phận
dân ta không được theo học. Số trẻ em được học ở miệng thực dân cũng rất
ít. Ngay tên Đơla Bơrốtxơ cũng phải thú nhận rằng: “năm 1924 – 1925 ở
những nơi giáo dục phát triển nhất thì cũng chỉ có 1/12 em trai và 1/100 trẻ
em gái, còn các nơi khác thì chỉ có 1/20 trẻ em đến tuổi được nhận vào học”.
Để thấy rõ hơn công thức phát triển “giáo dục theo chiều nằm chứ
không theo chiều đứng” của toàn quyền Méclanh, chúng ta hãy nghiên cứu
những số liệu được trưng bày ở triển lãm hội chợ năm 1942 tại Sài Gòn,
chúng ta có thể lập ra biểu đồ sau đây về tỉ lệ của học sinh từng lớp trong hai
bậc tiểu học và sơ học so với tổng số học sinh cả 2 bậc học đó.
Bậc tiểu
Lớp nhất 3%
Lớp nhì đệ nhị 4%
Lớp nhì đệ nhất 5%
Bậc sơ học
Lớp sơ đẳng 13%
Lớp dự bị 19%
Lớp đồng ấu 56%
Nếu chúng ta lấy số học sinh bậc sơ học của các loại trường công tư ở
Việt Nam nam 1941 – 1942 là 100 thì tổng số học sinh bậc tiểu học cùng năm
đó chỉ còn có 15 học sinh bậc cao đẳng tiểu học chỉ còn 2 và bậc trung học
chỉ còn 0,4.
Trung học 0,4
Cao đẳng tiểu học 2
Tiểu học 15
Sơ học 100
Qua sơ đố trên, chúng ta có thể nói rằng đại đa số trẻ em Việt Nam
không được học. Những người may mắn được theo học cũng chỉ có thể bước
vào ngưỡng cửa của bậc sơ học mà thôi.
Làm cho “dân ngu” đó cũng là mục đích trong chính sách giáo dục của
Pháp. Mục đích này được thể hiện ở nội dung giảng dạy trong các trường, cụ
thể là ở chương trình và sách giáo khoa đã dùng trong các trường học lúc đó.
Chúng đã truyền thụ cho học sinh một nội dung học vấn nô lệ và một trình độ
hết sức thấp kém. Ví như môn luân lí lớp dự bị, có nhiệm vụ dạy cho học sinh
“yêu, kính trọng, vâng lời, biết ơn các nhà cầm quyền đã chăm lo đến an ninh
của đất nước”. Đến lớp nhất bọn chúng lại buộc học sinh phải học cụ thể hơn
“bổn phận đối với nước Pháp: yêu, biết ơn, tận tâm, trung thành”. Những nội
dung đó lại được củng cố và mở rộng thêm ở các lớp trên như năm thứ hai
cao đẳng tiểu học “bổn phận đối với nước Pháp, sự cần thiết và những công
ơn của sự bảo hộ của Pháp” hoặc năm thứ tư “Bổn phận đối với nước Pháp,
tình yêu đối với tổ quốc nhỏ và tổ quốc lớn” v.v…
Để khắc sâu, củng cố những điều đó, chương trình lịch sử lớp sơ đẳng,
chương trình cao đẳng tiểu học và trung học cũng vậy nghĩa là phần lớn dành
cho công trình của Pháp ở An Nam, những điều người Pháp đã làm: như an
ninh, giáo dục… Mục đích giảng dạy đó của thực dân pháp, như đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo “gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy
hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng
mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối,
chỉ cho họ biết sùng bái những sẽ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu
một tổ quốc không phải là tổ quốc mình, một tổ quốc đã từng áp bức dân tộc
mình”.
2. Sự hoàn chỉnh nền giáo dục Việt Nam
Tóm lại qua những chính sách giáo dục của Pháp thông qua các cuộc
cải cách của toàn quyền Bô, của Xarô rồi Méclanh nền giáo dục của Pháp ở
Việt Nam cũng được hoàn chỉnh dần, đã thể chế hóa được bậc tiểu học.
Thực dân Pháp đã thành lập Nha học chính Đông Dương để chính quyền
Pháp quản lí bậc trung học, và thành lập Bộ quốc gia giáo dục của Triều đình
Huế nhằm quản lí bậc tiểu học. Hệ thống bậc tiểu học cũng được hoàn chỉnh
dần: trường sơ đẳng yếu lược “bản xứ”, học 3 năm thi sơ học yếu lược;
trường tiểu học học 6 năm, thi lấy bằng tiểu học Pháp.
Chương trình bậc trung học cũng ngày càng được hoàn chỉnh hơn: chia
tú tài thành hai ban toán học và triết học và bằng tú tài “bản xứ” có giá trị
tương đương với tú tài Pháp…
Bậc đại học tuy ít ỏi song cũng được củng cố và mở rộng như trường
cao đẳng thú y, trường cao đẳng khoa học, trường kiêm bị y dược Đông
Dương đổi thành trường y học Đông Dương. Trường cao đẳng luật khoa
được đổi thành trường Đại học luật khoa Đông Dương, chỉnh đốn lại trường
cao đẳng nông lâm…
Như vậy trong hơn 80 năm xâm lược cai trị của bọn thực dân Pháp,
chúng đã dùng nhiều thủ đoạn về quân sự và chính trị để đàn áp, bóc lột nhân
dân ta, nhưng chúng đã vấp phải sức phản kháng mãnh liệt của một dân tộc
có mấy ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chúng nghĩ rằng, có
thế tiến công dễ dàng vào lĩnh vực giáo dục, chúng hi vọng với chiêu bài “văn
minh Tây phương” đưa ra, sẽ mua chuộc được nhân dân ta, nhưng chúng đã
lầm. Chính trong lĩnh vực giáo dục này, chúng cũng phải đương đầu với sự
chống trả quyết liệt của nhân dân ta. Từ những tên võ quan đô đốc ban đầu
của Bôna, Laphông, cho đến loại văn quan sau này như Pônbe, Bô, Cơlôbuy
Cốpxơki, Xarô, Méclanh đã thay chân nhau nửa thế kỉ, đưa hết nghị định này
đến nghị định khác, rồi đến “cải cách” mà kết quả vẫn không đáng kể như
chúng mong muốn.
Tất nhiên trong khoảng thời gian dài cai trị đó, chúng cũng làm được
một số việc, đó là thực dân hóa nền giáo dục phong kiến rồi đi đến thủ tiêu
nền giáo dục cũ, lập ra nền giáo dục mới, củng cố và phát triển, mở rộng nền
giáo dục thực dân ở Việt Nam.
Trừ một số ít người cam tâm làm tay sai cho chúng, còn tuyệt đại đa số
nhân dân ta vẫn tập hợp dưới ngọn cờ của các sĩ phu tiến bộ và sau này là
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam giành độc lập cho Tổ quốc.
Trong lĩnh vực giáo dục tưởng chừng như hòa bình, nhưng thực sự không
phải như vậy mà cuộc đấu tranh này có lúc lặng lẽ, nhưng có lúc đã bùng lên
thành phong trào mạnh mẽ mà phần tiếp chúng tôi sẽ nói tới.
B. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN DÒNG GIÁO DỤC YÊU NƯỚC TRONG SUỐT NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
Vào khoảng bốn chục năm thuộc nửa đầu của thế kỉ XX, khi học chế do
người Pháp thực dân dựng lên tưởng đã cùng với súng đạn, bình định xong
sự chống trả của dân tộc Việt Nam, thì trên đời sống giáo dục xuất hiện một
hiện tượng mới mẻ làm chính quyền thuộc địa lo sợ. Hiện tượng ấy lâu nay
được nhiều người viết, người giảng dạy về lịch sử giáo dục gọi là CÁC DÒNG
GIÁO DỤC YÊU NƯỚC VÀ GIÁO DỤC CÁCH MẠNG.
Khi xác định tên gọi ấy, người ta muốn nhấn mạnh đặc tính cơ bản, nổi
bật của hai phong trào giáo dục ở thời kì lịch sử này. Đó là:
– Phòng trào giáo dục do các sĩ phu ái quốc, tân tiến chỉ đạo.
– Phong trào giáo dục do các tổ chức chính trị tiền thân của Đảng cộng
sản Việt Nam chỉ đạo và do Đảng cộng sản trực tiếp chỉ đạo trong khi chưa
giành được chính quyền.
Chủ ý ấy dễ làm cho một số người nghĩ rằng chỉ có phong trào giáo dục
do Đảng cộng sản gây dựng, chỉ đạo mới có tính cách mạng xã hội tiến bộ
mà thôi..
Để hiểu rõ hiện tượng giáo dục mới mẻ này cần phải quan tâm tới một
số vấn đề sau đây:
1. Tại sao có dòng giáo dục yêu nước?Dòng giáo dục yêu nước ở nửa đầu thế kỉ XX là sản phẩm của cuộc
vận động giành độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân đang bị nô lệ, tiến lên
làm cách mạng xã hội theo hướng tiến bộ. Lịch sử đã cho ta thấy:
Chính sách cai trị tàn bạo, xảo quyệt của thực dân Pháp đến thời điểm
này đã phô bày rõ rệt bộ mặt giả đạo đức của người Pháp được che đậy gần
nửa thế kỉ trước những người Việt Nam yêu nước, tự trọng, thức thời. Đối với
dân tộc Việt Nam, yêu cầu đuổi thực dân Pháp và tay sai của chúng để giành
lại độc lập, tự chủ cho tổ quốc trở nên cháy bỏng. Xã hội có sự phân hóa giai
cấp sâu sắc. Một số giai cấp mới được hình thành mà sự phát triển sự trưởng
thành của chúng có mức độ và vận tốc không giống nhau. Nhu cầu giải phóng
dân tộc, thay đổi chế độ xã hội không chỉ có và sâu sắc ở giai cấp nông dân
tá điền đang bị bần cùng hóa nhanh chóng; ở giai cấp thợ thuyền mới hình
thành; ở tầng lớp tiểu tư sản thành thị… mà còn có ở một bộ phận của giai
cấp phong kiến và giai cấp tư sản Việt Nam quá yếu đuối…
Trong khi dân ta bị làm nô lệ cho người Pháp; nước Việt Nam bị xóa
tên trên bản đồ hành chính địa cầu, thì ở vùng viễn đông, châu Á có một số
nước biến đổi; nhanh chóng trở nên cực thịnh mà các thế lực thực dân xâm
lược từ Tây phương cũng phải kiêng mặt. Nước hùng cường theo con đường
tư bản chủ nghĩa ở Á châu là Nhật Bản đã trở thành mẫu mực hấp dẫn và
khát khao vươn tới của nhiều nước thuộc người da vàng.
Những thay đổi ở Trung Hoa cũng chấn động tới các nước láng giềng.
Lực lượng tiến bộ ở đây đang gây áp lực mạnh đối với triều đình phong kiến
thống trị bằng các thuyết cách mạng xã hội mới theo kiểu Âu Châu: Tân thủ,
Tân văn, mà lực lượng này xuất bản chuyển tải nhiều học thuyết: tư tưởng
cách mạng xã hội, đã len lỏi vào Việt Nam, đem tới tầng lớp trí thức tiến bộ,
yêu nước Việt Nam những kiến thức mới mẻ, hấp dẫn chưa từng có. Quan
trọng hơn, các tư tưởng ấy đã giúp họ tích cực và lạc quan tìm kiếm con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Họ không chú ý tới những cái mới ở
Trung Hoa sao được, vì từ chỗ vốn cho mình là trung tâm của thiên hạ, là
vương quốc của các Thánh Nho, vậy mà tới nay, người Trung Quốc tân tiến
lại sẵn sàng dẹp Thánh Kinh, Hiền Truyện… để tôn phong các “Đạo” mới
như: Thuyết tiến hóa của Đacuyn, Xpenxơ, Hơcxơlay, thuyết xã hội học của
Môngtetxkiơ, Vonte, Rútxô… Người Trung Hoa coi các vị này như các “Đại
Nho” của họ. Những học thuyết mới đối với phương Đông này lại được các
nhân vật tên tuổi lừng lẫy tiếp thu và truyền bá, như:
Người Trung Hoa có: ông Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Đàm Tự
Đồng, Nghiêm Phục, Tôn Trung Sơn…
Người Nhật Bản có: Cát Điển Tùng Âm, Phúc Trạch, Dụ Cát. Cho dù
những tư tưởng về cách mạng tư sản ở phương Tây có ít nhiều bị khúc xạ
bởi sự tiếp thu và giải luận của các nhân vật tân tiến; cho dù lí thuyết ấy đã là
thứ cuối mùa của sự tiến lên của lịch sử loài người, vì lúc này, chủ nghĩa tư
bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, thì với các nước ở phương Đông,
với Việt Nam, vẫn còn là thứ thuốc kích thích mạnh để xốc lên một phong trào
cách mạng xã hội theo hướng mới, thuộc phạm trù mới – phạm trù cách
mạng tư sản dân quyền.
Như vậy là điều kiện lịch sử đã biến nhu cầu độc lập quốc gia, giải
phóng dân tộc trở thành nhiệm vụ to lớn, bức bách số một của người Việt
Nam. Làm cách nào để thực hiện được nhiệm vụ sống còn ấy, và giai cấp
nào sẽ nắm lá cờ lãnh đạo công cuộc tranh đấu nặng nề, vinh quang ấy? Đó
là điều cần được giải đáp. Chúng ta có thể thấy đại thể rằng: Trong 30 năm
đầu thế kỉ, bộ phận tiên tiến tiêu biểu của dân tộc đã chọn con đường tiến
hành cuộc cách mạng xã hội, từ đó mà hóa quốc cường dân để giành lại độc
lập, tự chủ cho nước nhà. Cuộc cách mạng ấy không nằm trong phạm trù
cách mạng phong kiến mà thuộc phạm trù cách mạng dân chủ tư sản. Theo
thông lệ lịch sử thì sự nghiệp này do giai cấp tư sản lãnh đạo. Nhưng ở xã hội
Việt Nam lúc ấy, giai cấp tư sản không đủ sức nắm ngọn cờ lịch sử. Giai cấp
vô sản chưa trưởng thành ngang tầm với nhiệm vụ to lớn mà nó có thể đảm
đương. Các giai cấp khác không thể đủ bản lĩnh của người lãnh đạo. Lịch sử
rơi vào tình trạng không có lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh tự giải phóng
của dân tộc. Trong tình trạng đó, bộ phận tiến bộ nhất, tích cực nhất của giai
cấp phong kiến – các nho sĩ có cựu học, tân học, có lòng ái quốc, căm thù
thực dân Pháp sâu sắc đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử, “lãnh đạo giúp” giai
cấp tư sản Việt Nam công cuộc đấu tranh này.
Việc lựa chọn các phương pháp cách mạng khác của bộ phận lãnh đạo
đã bộc lộ sự thiếu thống nhất. Tuy nhiên, việc lấy nhà trường, giáo dục làm
mặt trận quan trọng của cuộc đấu tranh chung đã được các thành viên lãnh
đạo thống nhất triệt để và thực hiện kiên quyết, có kế hoạch. Do đó, phong
trào Đông Du, nhà trường Đông kinh nghĩa thục do cụ Lương Văn Can lãnh
đạo, phong trào giáo dục do cụ Phan Chu Trinh gây dựng lần lượt ra đời, phát
triển tích cực. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà cuộc cách mạng này thất
bại. Mục tiêu đuổi thực dân Pháp để giành độc lập dân tộc và xây dựng chế
độ dân chủ đại nghị mà các cụ đề ra trở thành ảo tưởng.
Sau năm 1917, giai cấp vô sản Việt Nam trưởng thành hơn. Tuy nhiên,
phải đợi đến lúc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm ra cho dân tộc ta con đường đấu
tranh giải phóng tổ quốc thay đổi chế độ xã hội đảm bảo tính cách mạng và
khoa học… thì giai cấp vô sản mới có thể nắm lá cờ lãnh đạo cuộc đấu tranh
phản đế, phản phong. Những tổ chức chính trị tiền thân của Đảng cộng sản
Việt Nam lần lượt ra đời, chuẩn bị cho sự thành lập Đảng vào năm 1930.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo các hoạt động bí mật của phong
trào yêu nước và tranh thủ sự giúp đỡ của lực lượng cộng sản quốc tế. Trong
vô số phương pháp cách mạng ở thời kì bí mật chuẩn bị này, phương pháp tổ
chức các lớp huấn luyện, các lớp học, cho lực lượng lãnh đạo, lực lượng cán
bộ nòng cốt của phong trào và cả quần chúng Trung Kiên của cách mạng…
biết được những điều cần thiết cơ bản về sự nghiệp đấu tranh thới, đã được
chú ý thực hiện một cách khôn khéo, dũng cảm, có hiệu quả lớn ngay từ đầu.
Do đó các lớp học do Đảng mở ra ở ngoài nước và trong nước đã lần lượt
xuất hiện.
Thêm một bằng chứng cho thấy dòng giáo dục yêu nước ở nửa đầu thế
kỉ XX, mà biểu hiện của nó là các trường lớp, nội dung giảng dạy cụ thể ở
từng thời kì, đã được các lãnh tụ, các tổ chức yêu nước nhận thức như là một
vũ khí đấu tranh; một mặt trận quan trọng phải được mở ra trước nhất nhằm
chuẩn bị con người cho các mặt trận khác tiếp sau. Hiện tượng giáo dục này
khác xa việc một số nhà giáo Nho học nặng tình ái quốc, tự hào dân tộc, trong
thời buổi nước mất, dân mình bị làm nô lệ cho ngoại bang… đã dùng các giờ
dạy truyền cảm tới môn sinh những tâm sự của chính mình, với hi vọng nung
nấu cho họ chí đấu tranh vì đại nghĩa. Hiện tượng giáo dục này cũng khác xa
với việc dâng lên triều đình Huế những kiến nghị khá thức thời về con đường
canh tân chế độ, về canh tân văn hóa giáo dục… của ông Nguyễn Trường Tộ.
Lịch sử dân tộc lưu giữ mãi những việc làm, câu nói, thơ văn cao đẹp của nhà
giáo Nguyễn Đình Chiểu. Các cụ: Nguyễn Thông, Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn
Đạt, Phan Văn Trị… với các bài thơ, văn có sức nhen nhóm lửa yêu nước,
căm thù giặc Pháp trong lòng nhân dân, với phong trào “tị địa” (Bỏ đất bị
chiếm đến nơi khác lập phong trào chống lại) đầy can đảm; và cụ Hoàng Giáp
ở đất Kiến An – Lê Khắc Cần – với nhưng lời đanh thép lên án giặc trong bài
biểu làm thay các sĩ phu ái quốc… tất cả những tên tuổi ấy đã đi vào lịch sử.
Những kiến nghị trong bản “Tế cấp bát điều” – tám điều khẩn cấp cần làm –
của Nguyễn Trường Tộ đã làm người đời sau khó quên ông, và đã báo hiệu
rõ thêm rằng ở thời điểm lịch sử bấy giờ đang xuất hiện mầm mống của một
cuộc cách mạng xã hội mới mẻ, cần phải nắm bắt kịp thời để hóa quốc cường
dân.
Tóm lại, dòng giáo dục yêu nước ra đời do yêu cầu của cuộc giải phóng
dân tộc và cách mạng xã hội. Cuộc đấu tranh ấy diễn ra khác nhau ở hai giai
đoạn: Từ đầu thế kỉ tới những năm 20, và, từ năm 1930 tới 1945. Mỗi giai
đoạn chịu sự chi phối triệt để của một hệ thống lí luận cách mạng khác nhau,
và do hai giai cấp lãnh đạo khác nhau cầm cờ. Từ đó, có thể hình dung tổng
quát về dòng giáo dục này như sau:
– Dòng giáo dục yêu nước, do tăng lớp sĩ phu tiến bộ nhất chỉ đạo,
trong giai đoạn từ đầu thế kỉ tới những năm 20.
– Dòng giáo dục yêu nước, do Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức, chỉ
đạo, trong những năm chưa có chính quyền, từ 1930 đến 1945.
Câu hỏi vì sao có giáo dục yêu nước với tư cách là một dòng, một hoạt
động có ý thức, được tổ chức, chỉ đạo… đã được trả lời. Có thể tìm thấy một
kết luận sư phạm tổng quát ở phần này là: Muốn cách mạng xã hội phải có
con người đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng ấy. Muốn có con
người như vậy phải bắt đầu bằng các hình thức đào tạo phù hợp. Chương
trình đào tạo con người phải được tiến hành trước một bước trong tiến trình
chung của cuộc chiến đấu và giai cấp lãnh đạo cách mạng phải độc quyền chỉ
đạo sự nghiệp đào tạo ấy. Kết quả của giáo dục đào tạo con người, nhất là
lực lượng rường cột quốc gia có liên quan mật thiết với sự thành bại của công
cuộc cách mạng.
2. Quá trình diễn biến, phát triển của dòng giáo dục yêu nước do sĩ phu phong kiến chỉ đạo
Phong trào giáo dục yêu nước chống thực dân phong kiến, diễn ra
trong bốn mùa; năm đầu thế kỷ XX, gắn chặt với hai giai đoạn vận động cách
mạng giải phóng dân tộc khác nhau về chất do những người Việt Nam yêu
nước tiến hành. Mục đích giành độc lập cho tổ quốc, giải phóng ách nô lệ cho
dân tộc được thực hiện bằng con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ
đã không thành hiện thực. Mục tiêu ấy được thực hiện bằng cuộc cách mạng
mang tính khoa học, triệt để, do giai cấp vô sản Việt Nam lãnh đạo với lãnh tụ
thiên tài Nguyễn Ái Quốc. Cuộc cách mạng vô sản – diễn ra từ năm 1930 đến
1945 đã trở thành hiện thực vẻ vang: Người Việt Nam đánh đuổi được thực
dân Pháp và phát xít Nhật, giành lại quyền độc lập, tự chủ, lập nên nhà nước
công nông.
Tác dụng tích cực của công việc giáo dục, đào tạo con người đối với
công cuộc cách mạng thực sự to lớn.
a) Hoạt động giáo dục ở thời kì vận động Đông Du
Trong những năm từ 1905 đến 1909, tổ chức lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc, đứng đầu là lãnh tụ Phan Bội Châu, tiến hành một kế hoạch
giáo dục phục vụ cho công cuộc đấu tranh đã lựa chọn. Đó là việc tuyển lựa
những thanh niên Việt Nam tốt, giỏi, giàu nghị lực… để cho họ sang Nhật Bản
học văn hóa, quân sự nhằm đào tạo những thanh niên này trở thành lực
lượng nòng cốt của cuộc chống Pháp, canh tân chế độ. Việc làm trên đã gây
dựng nên phong trào sang Nhật học hỏi lan rộng cả nước. Cu Phan Bội Châu
và các đồng chí của cụ gọi phong trào này bằng hai chữ: Đông Du. Nguyên
nghĩa của nó là đi học ở một xứ về phía Đông của nước Việt Nam ta. Xứ ấy
chính là nước Nhật đang nổi lên như một thần tượng của các nước có dân da
vàng.
Người thiết kế và trực tiếp chỉ đạo thực hiện kế hoạch này là cụ Phan
Bội Châu.
Sơ lược về hoạt động chuẩn bị cho Đông Du của cụ Phan
Phan Bội Châu, hiệu là Sào Nam, sinh vào năm 1867 tại thôn Sá Nam,
xà Đông Liệt, Nam Đàn, Nghệ An. Thi đỗ đầu khoa nhưng cụ không làm
quan. Từ nhỏ Phan Bội Châu đã bộc lộ là con người có chí lớn, ghét Tây sâu
sắc. Cụ hoạt động cách mạng khi còn trẻ tuổi cho tới năm 1941. Đường hoạt
động lắm gian nguy, nhưng cụ Phan luôn luôn là tấm gương sáng cho đồng
chí, đồng bào về lòng thương dân, yêu nước, căm thù thực dân Pháp, và
quyết chí giải phóng dân tộc.
Từ năm 1900, cụ đã tập hợp một số sĩ phu đi tuyên truyền nhân dân xứ
Nghệ nổi lên chống Pháp. Do tiếp xúc với những trí thức có tư tưởng tiến bộ,
lại được đọc một số sách hay (như cuốn “Phổ Pháp chiến kỉ”, “Danh hoàn chí
lược”…) mà nhãn quan chính trị được mở rộng, và ý tưởng xuất dương cầu
viện trợ sớm hình thành ở cụ. Cuối năm 1900, cụ đã cùng Đặng Thái Thân và
các đồng chí của mình xây dựng chương trình hành động cách mạng với tinh
thần:
Khởi nghĩa, dùng bạo lực; tìm người dòng dõi hoàng thân tôn làm minh
chủ; tập hợp lực lượng trong nước hành động, cần ngoại viện thì cử người
xuất dương. Mục đích là khôi phục nước Việt Nam, lập chính phủ độc lập,
ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác.
Các cụ hoạt động ráo riết, không sợ gian nguy khi liên lạc với lãnh tụ
Đề Thám (năm 1902). Năm 1903, tìm được em vua Thành Thái là kì ngoại
hầu Cường Để, các cụ tôn ông này làm minh chủ.
Phan Bội Châu sáng tác “Lưu cầu huyết lệ thư”. Tác phẩm đã vang dội
rộng rãi. Lần lần, các anh hùng tìm về với cụ.
Trong số đó, có: Phan Chu Trinh (Tây Hồ), Huỳnh Thúc Kháng (Thịnh –
Bình), Trần Quý Cáp (Thái – Xuyên)…
Mục tiêu làm bạo động cướp chính quyền của các cụ không thực hiện
được vào thời điểm ấy là đương nhiên. Tuy vậy, phong trào ái quốc đã được
gây dựng và có lợi cho chương trình tiếp theo của cụ Phan Bội Châu: Cầu
Nhật viện trợ để phục quốc.
Nguyên nhân của sự chuyển hướng phương pháp cách mạng này của
tổ chức Phan Bội Châu đã được lịch sử giải đáp. Có thể hiểu đại lược là:
– Không trông mong được gì ở chính quyền Trung Hoa vì nó đã phản
bội lại Việt Nam để bảo toàn lợi ích của Trung Quốc khi công nhận Pháp có
quyền đô hộ nước ta. Hơn nữa, Trung Quốc đã suy yếu để cho các đế quốc
như: Anh, Nga, Pháp, Đức, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nhật Bản thi nhau xâu xé
lãnh thổ của mình.
– Trong bối cảnh ấy, Nhật Bản bật nổi lên, hấp dẫn vô cùng. Đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa, kinh tế Nhật hưng thịnh từ thời phong kiến
Thiên hoàng và Mạc Phủ Đức Xuyên, sau năm 1868 lại phát đạt nhanh hơn.
Nhật giàu. Nhật lại mạnh khi nó đánh bại Nga hoàng, giành lại đất Triều Tiên,
Mãn Châu. Nhật là nước có dân da vàng, có văn tự gắn với Hán tự… Trong
con mắt các cụ ta, Nhật là anh cả da vàng, là niềm tự hào chung của Á châu.
Cụ Phan Bội Châu ca ngợi Nhật Bản hết lời.
Tóm lại, do nơi lòng ái quốc sâu nặng, và do trình độ lí luận về phương
pháp cách mạng mới đến mức ấy mà các cụ đã chọn con đường Đông Du để
thực hiện lí tưởng cứu nước.
Để tiến hành công việc, các cụ lập tổ chức chính trị của mình.
Tháng 5 – 1904, Duy Tân hội ra đời, với:
– Hội chủ là Cường Để
– Tổng đại biểu là Phan Bội Châu
– Kế hoạch hoạt động gồm 3 điểm lớn, trong đó có vấn đề xuất dương
sang Nhặt cầu viện.
Công việc tổ chức xuất dương do:
– Phan Bội Châu, Nguyễn Hàm, Nguyễn Truyền lo kinh phí.
– Tăng Bạt Hổ, Đặng Tử Kính lo việc dẫn đường.
Việc đưa thanh niên sang Nhật gặp rất nhiều khó khăn do: kinh phí, sự
kiểm soát của Pháp, đường xa cách trở… Vì vậy, công tác tuyên truyền vận
động tinh thần, vật chất được các cụ coi trọng.
Phan Bội Châu sang Nhật với ý định: Xin Nhật viện trợ quân sự cho ta
đánh Pháp và nhận cho thanh niên ta sang học tập.
Tháng 1–1905 cụ Phan yết kiến Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng
nổi tiếng của Trung Quốc, đang phải trốn ở đất Nhật. Lương tiên sinh khuyên
các cụ ta không nên cầu viện mà phải xây đựng lực lượng trong nước là
chính, viết sách báo tố cáo thực dân Pháp để thức tỉnh thế giới và dân tộc,
cho thanh niên du học văn minh. Lương Khải Siêu giúp cụ Phan tiếp xúc với
các lãnh tụ của Dân Đảng Nhật, một đảng rất có thế lực. Ông Đại Ôi và
Khuyển Dưỡng Nghị thay mặt Dân Đảng khuyên các cụ ta đưa Cường Để
sang Nhật, cho thanh niên sang học với sự giúp đỡ nơi ăn ở, học tập của
đảng này. Yêu cầu Nhật viện trợ quân sự của các cụ bị các ông từ chối.
Thế là, chỉ còn có việc lo cho thanh niên du học.
Từ năm 1906, từ Nhật, các tác phẩm do Phan Bội Châu viết liên tục về
nước để cổ vũ du học và khuyến khích đấu tranh. Những tác phẩm có sức
thuyết phục hơn cả là: Việt Nam vong quốc sử, Khuyến thanh niên du học
văn, Hải ngoại huyết thư, Ai cáo Nam Kì phụ lão văn, Viết Nam nghĩa liệt sử,
Khuyến quốc dân tự trợ du học văn…
Mỗi tác phẩm của cụ Phan có sức mạnh lay động lòng người, lại được
các đồng chí trong Duy tân hội tìm cách phổ biến khắp nước. Nhờ đó, phong
trào yêu nước chống thực dân vào thời kì này mang một nội đung mới mẻ,
hấp dẫn. Phan Bội Châu hướng dẫn cách thức ủng hộ chủ trương du học. Ví
dụ: Các địa phương lập hội giúp người du học. Chung vốn lập hội kinh doanh,
sản xuất lấy tiền nuôi lưu học sinh, theo các mức:
– Học trường phổ thông Nhật phải đến 250 đồng cho 1 năm, một
người.
– Học trường võ bị Nhật phải đóng 300 đồng một người, mỗi năm.
– Thời gian học: Đại học mất 8, 9 năm. Trung học mất 3 đến 5 năm
– Cách thức tạo kinh phí học tập:
– Các cơ sở kinh tế của Hội lo một phần.
– Đồng bào hảo tâm đóng góp vào quỹ du học.
– Tiêu chuẩn chọn người du học:
Chọn trong đám con em trẻ tuổi lấy những ai thông minh, có chí, chịu
được gian khổ là tốt nhất.
Nếu không thì chọn những anh em tuy không thông minh lắm nhưng
chí khí bền bỉ cũng rất tốt, càng trẻ càng hay.
Cụ Phan nhấn mạnh hai điều cơ bản cần có ở người du học: Gian khổ
không sờn, Tiến thẳng không lui.
Những điều lược kể trên đây có ở tác phẩm “Khuyến quốc dân tư trợ
du học văn” do cụ Phan Bội Châu viết.
Nhất trí đang tâm, Duy tân hội hoạt động tích cực. Trong nước, các cơ
sở bí mật chăm lo việc du học được hình thành.
Ví dụ: ở Hà Nội có hiệu buôn Đồng Lợi Tế.
Ở Sài Gòn có hiệu Nam Đồng Hương, Nam Trung khách sạn.
Ở Mỹ Tho có khách sạn Minh Tân và Hội Tế Nam.
Ở Quảng Nam có hội buôn Thương mại hợp tư.
Phong trào ở Nam Kì rầm rộ lắm. Khách sạn Minh Tân là nơi hội họp,
diễn thuyết tuyên truyền cho chương trình Đông Du. Các ông nhiệt tình chăm
lo công việc ở đây là:
Nguyễn Văn Hảo, thư kí sở Tham Biện tỉnh Cần Thơ, Đặng Thúc Liêng,
thư kí sở tham biện Sa Đéc, Xã Định, đại địa chủ làm lí trưởng ở tỉnh Vĩnh
Long, và ông Võ Văn Thiên…
Việc tổ chức cho đi Nhật được tiến hành chu đáo, trôi chảy. Có người
đi tàu ô sang Quảng Đông; Có người đến Hải Phòng đáp tàu sang Hồng
Kông; Có người đi bộ lên Lạng Sơn sang Long Châu, Trung Quốc, và từ đó đi
đến Nhật Bản, dưới danh nghĩa là thương nhân.
Các chiến sĩ của Duy Tân Hội, các cha mẹ có con đi học ở Nhật đấu
chia sẻ với cụ Phan niềm lạc quan, tin tưởng vào chủ trương du học sẽ thắng
lợi. Với họ, chỉ vài năm sau, những thiếu niên của ta đó sẽ bay nhảy, hò vang,
khua cá sấu, chống lại rồng trời. Non sông gấm vóc ta sẽ rực rỡ, tốt tươi. Uy
sấm sét sẽ đuổi hết quỷ ma. Sự nghiệp duy tân của người Nhật, anh em đồng
bào ta họ chịu nhường bước!
Công việc tổ chức, quản lí học sinh ta ở Nhật
Tháng 8 – 1905 cụ Phan Bội Châu về nước để xem xét sự thực hiện kế
hoạch chung của Hội và thử nghiệm đưa một số du học sinh đầu tiên ra đi. Số
này gồm 3 người:
– Nguyễn Thúc Canh
– Nguyễn Diễn
– Lê Khiết
“Dần dần, đến năm 1907, du học sinh Việt Nam đã được hơn 100
người: 40 người Nam Kì, hơn 60 người Trung, Bắc Kì.
Sang năm 1908, con số ấy lên được hơn 200: hơn 100 người Nam, 50
người Trung và hơn 40 người Bắc”.
– Học sinh Việt Nam vào học ở các trường:
+ Đồng Văn Thư Viện
+ Seisoku
+ Sơ cấp Koixki Kawa
+ Trường Chấn Vũ
Trường Chấn Vũ dạy về quân sự mà. Nhật mở ra để cho học sinh
người Trung Hoa học tập. Học viên theo 3 năm tại đây nếu tốt nghiệp sẽ
được vào trường đào tạo sĩ quan 2 năm của Nhật. Lưu học sinh Việt Nam
vào trường này đều phải lấy quốc tịch Trung Hoa, mới hợp lệ. Các thanh niên
ta, như: Lương Lập Nham, Trần Hữu Công, Nguyễn Điển và Cường Để…
đều học ở trường này.
Trường Đồng Văn Thư viện do Đông Á Đồng Văn Hội của Nhật Bản lập
ra giành riêng cho du học sinh Việt Nam. Sở dĩ phải có trường này vì người
Việt không vào được trường công của Nhật.
– Nội dung học tập rèn luyện mà học sinh phải tuân theo đại thể là:
+ Tiếng Nhật
+ Văn chương Nhật
+ Khoa học thường thức
+ Toán
+ Sử
+ Địa
Riêng về môn quân sự thì mọi học sinh đều được học và luyện tập vào
các buổi chiều.
Sinh hoạt tập thể cũng được đề cao để giáo dục thềm về tính kết đoàn,
lòng thân ái, yêu quê hương đất nước, căm thù giặc Pháp…
– Thành lập tổ chức quản trị.
Mục tiêu của việc du học rất cao. Khó khăn về nhiều mặt của cộng
đồng lưu học sinh ta rất lớn. Việc thu phục được cảm tính của người Nhật và
quốc tế, thông qua những thanh niên ưu tú này, có tầm quan trọng đặc biệt…
Cho nên phải quản lí thật tốt sinh hoạt, học tập của mọi thành viên. Để phụ
trách công việc này, ta thành lập Hội Cống Hiến vào tháng 10 – 1907.
Tổ chức Hội như sau: Tổng lí kiêm Giám đốc: Phan Bội Châu. Có 4 bộ
quản lí chuyên sâu từng mặt, mỗi bộ có 3 thành viên (1 người Bắc, 1 người
Trung, 1 người Nam Kì).
– Bộ kỉ luật: Do Đàm Kì Sinh, Hoàng Quang Thành, và Phan Bá Ngọc
phụ trách. Nhiệm vụ của bộ này là theo dõi ưu khuyết điểm; đề nghị khen
thưởng, kỉ luật.
– Bộ kinh tế tài chính.
Bộ này do các ông: Đặng Tử Kính, Đặng Bình Thành, Phạm Chấn Yên
phụ trách. Nhiệm vụ chính của bộ là đảm bảo chi, thu của Hội Cống Hiến.
– Bộ văn thư.
Bộ này do các ông: Hoàng Trọng Mậu, Đặng Ngô Lân, Hoàng Hưng
phụ trách, với nhiệm vụ chính là lưu giữ Hồ sơ của học sinh và phát hành các
văn kiện gửi về nước.
– Bộ kiểm tra.
Nhiệm vụ chính của bộ này là theo dõi công việc của nhân viên các bộ.
Các ông phụ trách, gồm: Lương Lập Nham, Trần Hữu Công và Nguyễn Điển.
Hội Cống Hiến sinh hoạt hàng tuần một buổi để kiểm điểm công việc và
tiếp xúc gây tình đoàn kết nội bộ.
Tất cả du học sinh đều sống nhờ vào kinh phí do đồng bào trong nước
gửi sang, không có thu nhập nào khác. Mỗi học sinh và các ủy viên của Hội
đều được hưởng 18 đồng mỗi tháng. Chỉ có chức tổng lí kiêm giám đốc được
24 đồng.
Tình hình khá thuận vào thời kì cuối năm 1907 đến mùa thu năm 1908,
một số đồng bào trong nước sang thăm tỏ ra rất vui mừng, tin tưởng. Đó là
những tháng “đắc ý” nhất của Đông Du. Tuy nhiên, ở thời kì này, bọn Pháp đã
tìm ra manh mối của phong trào. Chúng ra tay đàn áp.
Phong trào Đông Du suy thoái, tan rã
Chính quyền không ở tay mình; người Pháp và Nhật dễ bắt tay với
nhau khi có lợi; tin quá vào sự giúp đỡ của một số cá nhân, chứ không phải
tin vào hiệp ước, cam kết pháp lí…, các cụ lãnh đạo Đông du lâm vào khó
khăn và nguy hiểm là điều đã chờ sẵn.
Vào cuối năm 1907, ở Nam Kì có tờ báo. “Lục tỉnh tân văn” do người
Pháp, tên là Piene Jeantet quản lí. Ông Nguyễn Chánh Chiếu làm chủ bút. Lẽ
ra, tên Pháp này phải chịu trách nhiệm về nội dung chính trị của tờ báo.
Nhưng hắn lại chỉ chịu trách nhiệm về mặt hành chính. Đó là cam kết của hắn
với ông Chánh Chiếu. Ông Chiếu vốn là tri phủ, nhưng lại là người theo
phong trào Đông Du. Lợi dụng kẽ hở này, ông Chiếu đã đăng lên báo tư
tưởng bạo động. Các bài báo gieo lửa chống Pháp, đáng kể là: “Khuyến
nông” (số ngày 17/10/1907), “Thượng bất chính hạ tắc loạn” (Số ngày
12/12/1907), “Nói chuyện thời xưa” (Số ngày 13/1/1908)…
Tờ báo này phải chấm dứt khi bọn thông ngôn Việt gian đọc và phát
hiện, đồng thời, mách bảo với quan thầy về điều nguy hiểm nói trên. Việc bà
con ta sang Nhật thăm học sinh cũng làm Pháp nghi ngờ và đăng lưới theo
dõi. Thư từ qua lại cũng làm lộ hệ thống tổ chức của các cụ ta. Các ông Đặng
Bình Thành và Hoàng Quang Thành từ Nhật về lấy tiền, bị bắt ở cảng Sài
Gòn. Trần Công Hương (ở Cái Bè), Phan Văn Của (Cần Thơ) đi Nhật lấy tài
liệu, khi về bị lộ. Pháp bắt ông Hương, và Hương đã khai báo nhiều việc của
tổ chức Hội.
Vụ chống nộp thuế ở Trung Kì nổ ra. Vụ đầu độc người Pháp nổ ra ở
Hà Nội. Một loạt các nhà lãnh đạo yêu nước như: Nguyễn Hàm, Trần Quý
Cáp, Phan Thúc Duyện, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh… bị Pháp bắt…
Tất cả đã chứng tỏ người Pháp đang tiến dần đến đàn áp triệt để
phong trào. Nhiều phụ huynh học sinh bị ép gửi thư gọi con về. Pháp lại giao
thiệp với chính phủ Nhật, nhường cho Nhật một số lợi buôn bán ở Đông
Dương, để yêu cầu Nhật trục xuất tất cả người Việt Nam ra khỏi nước Nhật.
Thế là, tháng 9 năm 1908, bộ nội vụ Nhật hạ lệnh giải tán tổ chức du
học sinh Việt Nam, tịch thu giấy tờ, đuổi mọi người ra khỏi Nhật. Tình hình
quá khó khăn, một số ít du học sinh lấy quốc tịch Trung Hoa được ở lại. Số
đông không tiền bạc, lại muốn về. Họ phải bán quần áo để mua vé tàu thủy về
Trung Quốc…
Các nhà lãnh đạo không có cơ sở, không tài chính. Tháng 2 – 1909 cụ
Phan Bội Châu và Cường Để bị trục xuất, phải chạy về Trung Quốc. Tuy
nhiên chính quyền Mãn Thanh đang truy bắt các nhà cách mạng Trung quốc
ráo riết lắm. Ở đây sẽ bị liên lụy, các cụ trốn sang Xiêm La, vào khoảng tháng
10 năm 1910.
Tới đây, phong trào Đông Du tan rã.
Ý nghĩa của phong trào Đông Du
– Các lãnh tụ văn thân trước hoạt động riêng lẻ ở từng vùng. Duy Tân
hội là một tập thể sĩ phu ái quốc, hoạt động khắp cả nước do Phan Bội Châu
lãnh đạo. Việc chủ trương sang Nhật học hỏi của hội này cũng là điều hay.
– Thiếu kinh nghiệm tổ chức bí mật, các sĩ phu chống Pháp không có
khả năng xây dựng cơ sở ở quần chúng rộng lớn, nên khi bị Pháp khủng bố
dễ bị tan vỡ cả tổ chức.
– Dù vậy, phong trào Đông du đã có ảnh hưởng tốt cho cuộc vận động
chống Pháp của nước ta. Đúng vậy, lòng yêu nước, thù giặc, ý chí hi sinh vì
đại nghĩa của Phan Bội Châu và nhiều đồng chí của Cụ, là tấm gương đầy
sức hấp dẫn cho người Việt Nam muốn vùng dậy. Lực lượng vũ trang chống
Pháp, còn lẻ tẻ, độ tin tưởng hơn vào hướng đi của mình và ngầm nuôi chí
chờ thời vùng lên. Hàng ngũ binh lính người Việt Nam cũng được thức tỉnh về
nghĩa vụ cứu nước ở một bộ phận nào đó. Một số giáo dân được cuốn vào
phong trào yêu nước đúng đắn. Một phần số công nhân, bồi bếp, thông kí…
người Việt đã được giáo dục trước việc làm của Hội Duy tân. Mấy trăm thanh
niên sang Nhật được tổ chức, rèn luyện, học tập đã trưởng thành. Sau này,
nhiều anh em đã vững vàng trở thành cán bộ cách mạng. Ngay lúc ấy, trong
khó khăn nguy hiểm, một số người đã ở lại Nhật, tìm cách tự học, ngầm nuôi
chí làm cách mạng, như Lương Lập Nham (Lương Ngọc Quyến), Hoàng
Trọng Mậu (Nguyễn Đức Công)…
Một số khác tìm vào Trung Quốc, học võ bị, kĩ thuật, tiếp tục hoạt động,
đã hi sinh ở nước ngoài như Trần Hữu Lực, Nguyễn Quỳnh Lân… Và, vào
năm 1911 khi Phan Bội Châu đứng ra lập Quang Phục Hội, một số học sinh
du học cũ đã gia nhập tổ chức này. Đó là các ông: Lâm Đức Mậu, Đặng Bình
Thành, Lâm Quảng Trung, Đặng Xuân Hồng…
b) Một số trường học trong cuộc vận động duy tân ở Trung Kì
Thực hiện 3 nội dung hoạt động chống Pháp của Hội Duy Tân, một số
sĩ phu, do Phan Bội Châu chỉ đạo, đang bôn ba hải ngoại, dẫn dắt mấy trăm
du học sinh ta ở Nhật, cầu xin ngoại viện. Lực lượng sĩ phu trong nước hoạt
động mạnh nhất là Bắc và Trung Kì.
Khoảng từ năm 1906 đến 1908, ở Trung Kì khởi phát, lan rộng phong
trào vận động cải cách xã hội. Linh hồn của phong trào là các nhà nho ái quốc
nổi tiếng: Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Văn Huân,
Phạm Đức Ngôn, Ngô Đức Kế, Hoàng Văn Khải, Nguyễn Đình Kiên, Hoàng
Thúc Diện…
Để có xã hội được duy tân, các cụ đều muốn thế, nhưng lại không đồng
đều với nhau về cách tiến hành công việc. Cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý
Cáp… chủ trương tiến hành ôn hòa, đòi người Pháp phải nghe lí sự, lời yêu
cầu của ta mà sửa sang lại cách tổ chức chế độ tiến bộ hơn ở nước ta. Nhân
đó, lực ta mạnh dần. Độc lập sẽ về ta. Nhóm khác thì chủ trương dùng bạo
lực, bạo động để cải biên xã hội. Nhóm này có các cụ: Phạm Đức Ngôn, Lê
Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên…
Do lãnh đạo, tuyên truyền của các nhà văn thân, phong trào được dậy
lên, biểu hiện ở một số hoạt động, như:
– Một số sĩ phu tổ chức ra hội kinh doanh ở Nghệ An, Quảng Nam.
– Một số cụ mở trụ sở vừa buôn vừa sản xuất tiểu thủ công các hàng
hóa quý.
– Nhiều nho sĩ hỏng thi đã về lập trại mở vườn sản xuất. Theo đó, vài
nơi đã ra đời hình thức nông hội.
– Mở trường lớp, chiêu mộ học trò, giảng dạy nội dung mới, phương
pháp mới. Diễn thuyết hội họp trong các địa bàn cư trú của nhân dân để giáo
dục yêu nước, xây đời sống mới, chống hủ tục, cắt tóc ngắn, mặc kiểu mới…
Trong bối cảnh ấy, một số trường lớp do Duy Tân chi phối đã ra đời
hoặc được sử dụng phục vụ phong trào Duy Tân.
Hoạt động phố biến của số trường này
– Dùng cho quốc ngữ để dạy và học. Dạy quốc ngữ. Bỏ chữ Hán.
– Thay các môn học cũ theo Nho học bằng các môn mới như: Sử, địa,
cách trí, vệ sinh…
– Tài liệu giảng dạy: Dịch từ sách báo tiến bộ Trung Hoa, Pháp và các
Văn kiện từ Nhật gửi về…
– Các trường đều dạy hát, thể thao.
– Tổ chức diễn thuyết, sinh hoạt tập thể, thâm nhập đời sống, cho học
sinh nghe và tranh luận về điều kiện tân tiến của nước ngoài…
Tài liệu dùng trong trường và tung ra xã hội được chọn lọc, in thành
bản cẩn thận. Hình thức văn nghệ dân gian như dân ca, hát hò… được sử
dụng để chuyển tải nội dung mới.
Một số trường nổi bật
– Trường đầu tiên của khu vực Trung Kì là trường Dục Thanh.
Đầu năm 1905, các cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc
Kháng tiến hành cuộc nam tiến đề xem xét tình hình, gây cơ sở yêu nước:
tuyên truyền chủ trương duy tân.
Đến tỉnh Bình Thuận, các cụ đã vận động các nhà nho tiến bộ như
Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Ảnh (đều là con của nhà thơ Nguyễn Thông)
mở trường Dục Thanh theo nội dung đã được nêu ở trên. Sau một tháng ở
đây, các cụ Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp trở ra Quảng Nam. Cụ Phan
Chu Trinh tới Phan Thiết xây dựng nhà giảng tân thư ở đình Phú Tài.
Sau trường Dục Thanh, hàng loạt trường của duy tân ra đời ở miền
Nam Trung Bộ. Có tài liệu cho hay, năm 1906, chỉ ở Quảng Nam thôi đã có
tới bốn chục trường lớn, nhỏ, nổi hơn cả là:
– Trường Phước Bình (Quảng Nam).
Trường này ở cạnh làng Trung Lộc giáp với khu Tân Tinh của ông
Nguyễn Duy Hiệu (1847 – 1887), vốn là thủ lĩnh của phong trào Cần vương
vùng Nam Ngài hồi cuối thế kỉ XIX.
Trường này do ông Trần Hoành sáng lập. Ông Trần tán thành chủ
trương duy tân, nên đã từ bỏ công việc của một nhân viên ở mỏ than Nông
Sơn, vào đây, mở trường này. Giảng học ở đây có những thầy giáo nổi tiếng,
như ông Mai Dị, Phan Thành Tài.
Sáng kiến dùng rau câu ở biển, nấu lấy thạch làm phương tiện in ấn
sách, tài liệu cho người học cũng từ trường Phước Bình mà ra.
– Trường Phú Lâm ở huyện Tiên Phước, Tỉnh Quảng Nam.
Người chỉ đạo trường Phú Lâm là ông Lê Cơ, một nhân vật không có
khoa bảng, nhưng có liên hệ bà con với Phan Chu Trinh, lại sớm hướng về tư
tưởng duy tân, cải cách. Ông dũng cảm đi đầu để dân chúng theo trong các
cuộc đấu tranh chống cường hào, chống phù thu lạm bổ ở vùng quê mình.
Ông ra làm lí trường để tiện việc thực hiện cải cách một số mặt ở đời sống xã
hội vùng quê, mà trước hết là mở trường học.
Ông Cơ mở trường cho nam sinh vào học, lại mở lớp cho nữ sinh học
riêng. Ông đã góp sức đào tạo được hai cô giáo phụ trách lớp này. Thời ấy,
đó là việc cực kì có ý nghĩa tân tiến. Số học sinh là bao nhiêu? Chưa tìm
được tư liệu xác thực để trả lời. Đã có vài ý kiến nói rằng, ở đây, cứ mỗi lần
khảo hạch là có tới vài trăm người tham gia.
Nội dung dạy học và giáo dục theo tinh thần của chủ trương duy tân. Ở
trường Phú Lâm người ta coi trọng giờ dạy ca hát để đưa vào đây những tư
tưởng mới về giáo dục, thương hội, hợp quần…
Ví dụ:
– Một, chúc thương cuộc đặng lâu,
Lợi quyền giữ lại cho mình hầu sanh.
Hai, chúc học hành cho giỏi
Theo người hãy tìm tỏi cho nên…
– Phải lo giáo dục nhân tài
Đúc nên tư cách, mở bài phương châm…
– Trường Diên Phong:
Trong phong trào duy tân, cải cách ở vùng đất Quảng này, về giáo dục
trường Diên Phong là tiêu biểu nhất về tổ chức và nội dung giảng dạy. Diên
Phong có hai cơ sở: ở Hội Thương và ở chùa Phong Thử.
Người điều hành công việc: Ông Mai Dị và Phan Thành Tài.
Trường có 2 ban: một ban của tuổi nhỏ, một ban của người lớn.
Tổng số học sinh: khoảng 200 người.
Tài liệu dạy học chủ yếu:
+ Sách “Tán văn tự” của Trung Hoa.
+ Sách “Bác vật chí” của Phạm Phú Thứ. Sách này dạy thường thức
khoa học như điện khí, xe hỏa, các hiện tượng tự nhiên như mưa gió, sấm
sét…
+ “Doanh hoàn chỉ lược” dạy về địa dư, lịch sử đại cương thế giới.
+ Sách “Đại Nam nhất thống chí”.
+ Sách “Quảng Nam dư địa chí”…
Nội dung trên được chú trọng dạy ở ban thiếu niên. Ban của học sinh
lớn tuổi còn được học kĩ hơn về một số vấn đề được rút ra từ tân thư, tân văn
của các nhà tư tưởng lớn như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Rút Xô,
Môngtétkiơ…
Tóm lại, trở về với lịch sử quá khứ, ta có thể hình dung đại thể được: Lí
do, mục tiêu cụ thể, nội đung, cách thức hoạt động, những nhân vật tiêu
biểu… của một số trường lớp do các nhà nho ái quốc tổ chức ở trong nước, ở
ngoài nước vào thập kỉ thứ nhất của thế kỉ XX.
Sẽ sai lầm, nếu không tìm hiểu đầy đủ về một trường học cũng xuất
hiện vào thời điểm lịch sử này, một trường học tiêu biểu cho dòng giáo dục
yêu nước trong phong trào duy tân do tầng lớp sĩ phu tiến bộ chủ xướng và
tận tụy thật cao cả. Đó là trường “Đông Kinh Nghĩa Thục” ở Hà Nội.
c) Đông kinh Nghĩa Thục
Tổ chức của Đông Kinh Nghĩa Thục
Về tên gọi của nhà trường
Trong thời gian từ năm 1906 đầu 1907, tại số nhà 4 phố Hàng Đào, Hà
Nội, đây là nhà của cụ cử Lương Văn Can, một số nho sĩ yêu nước tích cực
thường lui tới, đàm luận về việc cứu nước. Các cụ: Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh cũng từng qua lại, đàm đạo ở đây.
Khi tâm đồng, chí quyết chín muồi, các nho sĩ ái quốc đã quyết định mở
một trường học hợp pháp, lấy đó làm phương tiện, phù hợp nhất với sở
trường của nho gia, thực hiện chương trình hoạt động cứu quốc của mình.
Các cụ đặt tên trường là Đông Kinh Nghĩa Thục với ý nghĩa:
“Đông Kinh” là tên thành Thăng Long dưới thời Hồ Quý Li. “Nghĩa Thục”
là trường dạy để làm đại nghĩa, vì đại nghĩa mà dạy người, không vì tiền,
không thu học phí.
Thực ra, trường này được xây dựng bởi các cụ ta dựa theo một mô
hình trường học mới, tiến bộ đã có ở nước Nhật từ nửa đầu thế kỉ XIX, trong
thời điểm Nhật Bản duy tân dứt khoát và triệt để. Trường ấy có tên Nhật là
“Keio–gijuku” (1858), phiên âm bằng tiếng Bắc Kinh và các cụ ta đọc bằng âm
Hán Việt là “Khánh Ứng Nghĩa Thục”, do một trí thức Nhật, tên là
Phukuzawayukichi, sáng lập, các cụ ta đọc tên bằng âm Hán Việt là “Phúc
Trạch Đại Cát”.
Ở thời điểm nửa sau thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, trong con mắt các cụ ta,
Nhật Bản là một mẫu mực, một ước vọng về nhiều giá trị; Người Phù Tang là
“Tiền đạo văn minh”, là “học trò xuất chúng” của văn minh âu Tây, tiếng vang
như sóng cồn. Cụ Phan Bội Châu kể lại, đại ý là:
Hồi Cụ lên Đông Kinh, cụ Tây Hồ cùng đi, tham quan tất các học
đường, và khảo sát khắp những công việc chính trị, giáo dục của Nhật Bản,
nên noi gương chí sĩ Nhật là Phúc Trạch Đại Cát đã mở ra “Khánh ứng Nghĩa
Thục”.
Trường Khánh Ứng của Nhật, lúc đầu chỉ có vài lớp dạy tiếng “mọi rợ”
Hà Lan. Nhờ vào vốn Anh ngữ tự học, tuy còn ít ỏi, Phúc Trạch Đại Cát mở
thêm mấy lớp dạy tiếng Ănglê cho học trò. Năm 1868, sau mười năm tồn tại,
Nghĩa Thục của Phúc Trạch được cải tổ để vận dụng kinh nghiệm Âu, Mĩ.
Ông Thục trưởng (Hiệu trưởng) cho rằng qua nhà trường mà giáo dục cho
người Nhật Bản biết yêu quý chế độ dân chủ đại nghị mà phương Tây đã
thực thi, đồng thời phải giáo dục cho mỗi người dân nước Nhật một số nét
tính cách tiến bộ, mà nhờ đó, người Nhật mới có thể làm rạng danh tổ quốc
mình. Những nét tính cách ấy là:
– Tính tự chế,
– Ý chí độc lập,
– Óc tháo vát,
– Tính tự nguyện đóng góp vào việc công ích, công thiện.
Nghĩa Thục của Phúc Trạch Đại Cát chỉ dạy cho người lớn tuổi. Nhưng,
những người lớn này lại tự nguyện dạy cho lớp thiếu niên. Đến năm 1874
trường Nhật kiểu này có cấp tiểu học và trung học. Vào năm 1890, nhờ sự
giúp đỡ của một số nhà trí thức ở đại học Harvard (Mỹ), trường mở bậc đại
học. Vào năm 1891, trường mở các lớp ban đêm học về thương mại.
Đến năm 1905, trường có thêm chuyên ban học về khóa học kinh
doanh. Vậy là Nghĩa Thục của Phúc Trạch có 5 chuyên khoa: kinh tế, chính
trị, pháp luật, văn chương và kinh doanh.
Khi hai cụ Phan của ta đến học hỏi, trường này thực sự đã phát triển
rất mạnh, làm các cụ bừng tỉnh và say mê lắm.
Từ mô hình Nghĩa Thục ở Nhật Bản, các cụ ta xây dựng Đông Kinh
Nghĩa Thục ở Hà Nội vào năm 1907, và có ý: từ đó sẽ mở loang dần ra, tạo
thêm nhiều Nghĩa Thục ở ba kì đất nước.
Mục đích mở Nghĩa Thục
Các cụ Đông Kinh của ta có lí tưởng chung là phải làm gì để “Hóa quốc
cường dân”. Nước Nam phải tấn phát theo các nước âu châu, nhất là theo
gương Nhật Bản. Người Nam ta phải mạnh về trí tuệ, tình cảm, sức vóc…
như người Phù Tang kia… Muốn vậy, phải khai hóa dân trí, coi đó là chìa
khóa mở cửa cho mọi sự canh tân đất nước, đặng giành lại độc lập, tự chủ
cho tổ quốc. Chỉ có cách mở trường mới thực hiện được mong ước ấy. Cho
nên, các cụ xin mở Nghĩa Thục công khai, hợp pháp. Theo học giả Đặng Thai
Mai, thì vào tháng 5 – 1907, nhà nước bảo hộ đã cho mở trường này với điêu
kiện “theo phương châm khai hóa của chính phủ bảo hộ”. Vào năm 1908,
Nghĩa Thục bị Pháp cấm hoạt động, Thục trưởng Lương Văn Can bị bắt để
hỏi cung ở sở Liêm phóng Hà Nội. Trước kẻ thù, cụ cử Lương nói rõ: Chúng
tôi mở Nghĩa Thục để giúp chính phủ khai hóa dân trí, và chính phủ đã cho
phép. Từ khi chính phủ rút phép, thì chúng tôi thôi…
Tại sao phải khai hóa dân trí giữa cái thời điểm nước không độc lập
dân không có quyền gì, các lực lượng chính nghĩa ái quốc lần lượt bị đàn áp?
Phải chăng có hai nguyên do cơ bản sau đây:
Một là: Từ thâm tâm: các cụ Đông Kinh ta hiểu rằng sở dĩ ta lâm vào
cảnh “nước yếu dân ươn” hơn Nhật Bản… là bởi cái ách chế độ quân chủ,
một thể chế xã hội được xây dựng và bảo vệ bởi hệ tư tưởng phong kiến.
Nên chi, muốn thay đổi xã hội, trước phải chống lại toàn bộ nền tư tưởng
phong kiến đã thối nát và trở nên nguy hiểm. Vũ khí mạnh cần cho sự nghiệp
này là đổi mới nền giáo dục nói riêng, và cải cách văn hóa nói chung. Lên án
tất cả những cái lạc hậu, phản vàn minh trong tư tưởng, lối sống hiện tại của
người Việt Nam; xây dựng cái mới mẻ, hợp trào lưu tiến bộ từ tư tưởng đến
hành động của mỗi người dân lúc này, là việc chỉ có giáo dục mới làm được,
phải có một kiểu trường học mới mẻ ở xứ ta để làm việc đó.
Hai là: Trong các hoạt động cứu quốc lúc này, hoạt động cải cách văn
hóa tư tưởng, cải cách giáo dục là cực kì quan trọng và phù hợp, hơn thế,
đây là lĩnh vực mà các cụ ta có nhiều khả năng đóng góp, lĩnh vực phù hợp
với sở trường của các nho gia.
– Nhân vật lãnh đạo chính của Nghĩa Thục: Thục trưởng Lương Văn
Can
Lương Văn Can, tự là Hiếu Liêm, sinh năm 1854, người làng Nhị Khê
(Thường Tín – Hà Đông), trong một gia đình nghèo, đỗ cử nhân nho học lúc
21 tuổi, nên được gọi là “Cử Can năm 22 tuổi vào thi Hội, chỉ dự được nửa số
trường cần qua (2/4) và được triều đình bổ làm Giáo thụ phủ Hoài Đức,
nhưng cụ từ chối. Thực dân Pháp cử cụ làm ủy viên Hội đồng thành phố Hà
Nội. Cụ cũng không nhận chức để ở nhà dạy học, nuôi chí, đợi thời. Hồi còn
trẻ, cử Can đã là loại người có khí phách cao thượng. Có một thầy giáo cũ
của Cử Can làm cách mạng, bị Pháp chém đầu, đem bêu ở phủ Hoài Đức.
Các môn sinh không ai dám hé môi xin thi hài thầy về chôn cất, sợ lụy đến
thân. Duy chỉ có cử Can dám dâng sớ xin triều đình làm việc nghĩa ấy. Cụ là
một trong số người sáng lập trường, dạy ở trường, đồng thời được hội đồng
giáo thụ cử làm Thục trưởng.
Sau khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa (1908), bọn Pháp bắt cụ để
hỏi cung ở sở Liêm phóng Hà Nội. Cụ trả lời ôn tồn, khí khái và kín cạnh tới
mức bọn Pháp không thể giam giữ cụ một người tuổi chưa cao, nhưng nhiều
suy nghĩ, lo âu đại sự mà râu tóc bạc trắng tựa lớp 70.
Đến năm 1913, sau vụ nổ bom ở khách sạn Hà Nội (23–4–1913) của
Hội Việt Nam Quang Phục, bọn pháp bắt cụ, với lí do là Đông Kinh Nghĩa
Thục đã cầm đầu vụ bạo động này. Chúng đày cụ an trí tại Phrôm Pênh
(Campuchia) 10 năm. Tới năm 1924 cụ được về nước. Năm 1927 cụ qua đời,
hưởng thọ 73 tuổi.
Giám học Nguyễn Quyền
Cụ sinh vào năm 1869; người làng Thượng Trì, huyện Thuận Thành,
tỉnh Hà Bắc; đỗ tú tài ở khóa Tân Mão (1891); làm huấn đạo tỉnh Lạng Sơn;
sau một thời gian thì xin từ chức, về Hà Nội tham gia hội nho sĩ ái quốc cùng
Lương Văn Can, lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục và được giữ chức Giám học
của trường.
Khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp cấm hoạt động, thống sứ Bắc Kì ra
nghị định bổ nhiệm cụ làm Giáo thụ tại một phủ nhỏ ở tỉnh Phú Thọ. Nguyễn
Quyền không nhận chức, mà lại cùng với một số bạn hữu mở hiệu buôn Hồng
Tân Hưng. Bề ngài, các vị buôn bán nội hóa như Đông Kinh đã chủ trương.
Bên trong, thương điếm là nơi liên lạc của các chiến sĩ ái quốc.
Nhân vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (1908), Pháp đã bắt cụ và các
đồng chí, kết án tử hình, sau giảm xuống án chung thân, đày ra đảo Côn Lôn.
Một thời gian, cụ được đưa về an trí ở tỉnh Bến Tre. Cụ mất ở Sa Đéc, vào
năm 1941.
Khi vừa làm giám học, vừa dạy ở Nghĩa Thục, Nguyễn Quyền viết một
số bài ca ái quốc để tuyên truyền. Trong đó, có các bài: Kêu hồn nước, Phen
này cắt tóc đi tu, v.v…
Tổ chức điều hành hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục – Chuyện xin
phép mở trường
Theo ông Chương Thâu, trong cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục, Nhà xuất
bản Hà Nội, năm 1982, thì có nhiều ý kiến về việc này. Ví dụ:
– Do ông Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn. Bởi các ông này vừa tự
ý gia nhập nhóm Đông Kinh vừa là công chức của chính quyền bảo hộ, nên
dễ được người Pháp chấp nhận.
– Do ông Nguyễn Quyền, vốn là một Huấn đạo có tiếng, hồi hưu, và
ông Trần Đình Đức vốn là “vị giáo học chữ Tây”, và “Nhân viên sở Địa lí” của
Pháp, nên được phép dễ dàng. Sự việc chưa được nhất định. Ta chỉ biết, vào
tháng 5 năm 1907, có giấy phép của chính quyền thực dân cho ông Huấn
Quyền mở một tư thục ở Hà Nội với điều kiện “theo phương châm khai hóa
của chính phủ bảo hộ”.
Thực ra, trường đã mở từ tháng 3 – 1907, có từ 30 đến 50 học sinh,
phần đông là con em các hội viên cảm tình với Đông Kinh, các nho sĩ ái quốc,
và một số nhà giàu ở Hà Nội.
Đến tháng 5 – 1907, Nghĩa Thục nổi tiếng gần xa, hấp dẫn, mới mẻ,
nên số học sinh tăng tới 500, về sau tới số 1000 người.
Thầy giáo, cán bộ được nói tới nhiều:
Nhìn vào nghề nghiệp, địa vị xã hội của họ, có thể thấy tập thể cán sự,
giáo thụ của Nghĩa Thục thật đa dạng. Ở đây có:
– Quan án sát tỉnh Lạng Sơn, sau về dạy ở trường sư phạm: Thầy
Nghiêm Xuân Quảng.
– Lớp người tân học như:
Nguyễn Văn Vinh
Phạm Duy Tốn
Trần Đình Đức
Bùi Đình Tá
Nguyễn Bá Học
Phạm Định Đối
– Những hội viên tán trợ tích cực của Đông Kinh như:
Đào Nguyên Phố
Phạm Tuấn Phong
Dương Bá Trạc
Hoăng Tăng Bí
Lê Đại
Vũ Hoành
Nguyễn Hữu Cầu
Phan Tất Tuân
– Nhóm phụ trách tờ quan báo “Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo”. Tờ báo
công này sau đổi tên là “Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo”, và từ số báo ra ngày
28–3–1907, trở thành báo của tư nhân. Đây là cơ quan ngôn luận của Nghĩa
Thục Đông Kinh, là nơi đăng tải bài viết của Đông Kinh, rất thân thiết với
trường.
Các ban chuyên môn
Đông Kinh Nghĩa Thục có 4 Ban chuyên môn cơ bản đảm bảo hoạt
động giáo dục trong trường và ngoài trường.
Ban giáo dục
Nhiệm vụ chính của Ban giáo dục là: Chiêu sinh, xếp lớp, tổ chức giảng
dạy, tu thư.
Các môn được dạy:
– Việt văn
– Hán văn
– Pháp văn
– Lịch sử
– Địa dư
– Toán pháp
Thầy giáo bộ môn: – Trước hết là các hội viên của Nghĩa Thục, các nho
sĩ cảm tình với trường, dù là trí thức Nho học hay tân học, đứng ra dạy các
môn mà mình thông đạt.
– Sau nữa là các thầy được mời dạy giúp. Hồi đầu, trường còn nghèo,
các thầy này dạy không công. Sau họ vẫn tình nguyện làm việc nghĩa, nhưng
trường khá hơn về tài chính, nên họ được thù lao 4đ một tháng (một tạ gạo
giá 2đ50).
Ai thạo môn nào thì dạy môn đó:
Ví dụ: – Dạy Việt văn, Pháp văn: Có các ông tân học như: Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Trần Định Đức, Bùi Đình Tá…
– Dạy chữ Hán: có Nguyễn Quyền, Vu Trác, Hoàng Tích Phung,
Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Lương Trúc Đàm, Đào Nguyên Phổ…
Đặc biệt, có 2 cô giáo dạy Pháp Văn và quốc ngữ cho nữ sinh. Theo
ông Trần Văn Giàu (xem sách “Lịch sử cận dại Việt Nam” tập III, nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội 1961) thì một cô ở làng Mọc, con ông Nguyễn Cơ; một cô ở
làng Hạ Thái, con ông cử Vũ Thạch.
Theo ông Nguyễn Hiến Lê thì cô giáo Năm, con cụ cử Can, dạy môn
Việt – văn của trường.
– Dạy Sử kí, Địa dư, Toán pháp: các ông Trần Đình Đức, Phan Đình
Đối phụ trách công việc dạy và mời thầy giáo khác.
– Biên soạn tài liệu, in ấn, phát sách cho học sinh là việc của tiểu ban tu
thư, trong đó cụ Thục trưởng là người hướng dẫn.
Học sinh được xếp vào 8 lớp, có nhiều độ tuổi, có lớp giành riêng cho
nữ sinh, có lớp chỉ dạy một thứ chữ như: lớp Việt, lớp Pháp, lớp Hán ngữ, có
lớp riêng cho người tân học muốn biết thêm Hán ngữ, người nho học muốn
biết thêm chữ Tây hay quốc ngữ.
Ban tài chánh
Hồi đầu, Nghĩa Thục sống nhờ sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm với
giáo dục. Sau, nhờ tài tổ chức, tuyên huấn mà trường được dồi dào về ngân
quỹ. Hội viên Đông Kinh là lực lượng chính cung cấp tài chánh. Sau, các học
sinh cũng tự nguyện góp, tháng 5 đồng. Thêm vào đó, số tiền lạc trợ, nhờ
những người có cảm tình với Nghĩa Thục cũng khá lớn. Theo cụ Lê Đại, có
lúc trường thu không xuể tiền ủng hộ cho mình. Ai có đóng góp đều được ghi
tên, tới mức kín một bảng lớn treo ở Hội quán của Nghĩa Thục. Nhờ có quỹ
dồi dào, giáo viên có thù lao, học sinh được phát dụng cụ và tài liệu học tập.
Thục trưởng và Giám học quản lí chi thu rất nghiêm minh.
Ban cổ động
Nhiệm vụ chính là tuyên truyền về Nghĩa Thục để nhân dân hiểu và ủng
hộ tích cực.
Hình thức hoạt động chủ yếu: Tổ chức các buổi diễn thuyết, các buổi
bình văn đều đặn, tháng 2 lần vào mồng một và ngày rằm. Người đến nghe
đông vui lắm.
Buổi diễn thuyết người đông như hai
Kì bình văn khách đến như mưa
Nội dung: Được lấy từ các bài báo quan trọng đăng trên tờ “Đăng cổ
Tùng Báo”, “Đại Việt tân báo”, cơ quan ngôn luận của trường; xoay quanh các
vấn đề như: chuyện lịch sử, thời sự xã hội, đời sống… các diễn giả thuyết
phục người nghe, và phát động họ ăn ở theo nếp văn minh, bài trừ hủ tục,
học chữ ta, dùng hàng do ta sản xuất, v.v…
Những diễn giả nổi tiếng: Dương Bá Trạc, Lương Trúc Đàm, Hoàng
Tăng Bí… Cụ Phan Chu Trinh thi thoảng cũng tham gia binh văn, diễn thuyết
ở Đông Kinh Nghĩa Thục.
Ban tu thư
Gắn chặt với Ban giáo dục, Ban này có phận sự chính là soạn tài liệu
dạy, học, cổ động tuyên truyền dưới sự điều khiển của nhóm chủ biên là:
Thục trưởng Cử Can, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu. Cụ Phan Chu Trinh và Ngô
Đức Kế cũng tham gia công việc tu thư của Nghĩa Thục.
Tổ chức ra 2 tiểu ban:
– Tiểu ban soạn tài liệu.
– Tiểu ban dịch tài liệu
Nguồn tài liệu chính:
– Về khoa tự nhiên, tìm không khó, vì đã có sách sản như Toán pháp,
Địa dư…
– Về khoa xã hội, trừ sách về các ngôn ngữ đã sản có (Hán, Pháp, Việt
ngữ), các sách về tư tưởng, chính trị, đạo đức mới… đều phải tìm tòi, xây
dựng theo mục đích của nhà trường. Đây là việc khó. Tuy nhiên, nguồn sách,
báo tân tiến từ Nhật, Trung Hoa được nhập vào ta khá. Đó là nguồn kiến thức
giúp việc tu thư. Lịch sử, cổ văn của ta cũng được khai thác để chọn lọc tài
liệu dạy học.
Do các cụ cố gắng nhiều, sau mấy tháng, trường đã có một số sách
cho dạy học, tuyên huấn như:
Quốc dân độc bản
Nam quốc giai sự
Nam quốc địa dư
Quốc văn giáo khoa thư
Luân lí giáo khoa thư…
Sách được viết bằng chữ Hán, in bản gỗ, trên giấy Bưởi, đóng bìa dày,
thành hàng trăm bản. Trong số sách này, cuốn “Quốc dân độc bản” được ưa
chuộng tới mức in đi in lại hàng vạn cuốn vẫn chưa thỏa nhu cầu người đọc!
Tài liệu giáo dục này được phát không cho thấy, trò, hội viên và biếu
tặng các trường khác để phổ biến, có khi phải bán hòa vốn cho các hiệu buôn
sách.
Rất chú trọng tìm mua tân thư, tân văn của Trung, Nhật như: Trung
Quốc hồn, Vạn quốc sử kí, Doanh hoàn chí lược, Nhật Bản tam thập niên duy
tân sử v.v…
Nguồn thơ, văn do Hội viên Đông Du, Duy Tân, và cả Đông Kinh sáng
tác cũng được khai thác để soạn giảng.
Nghĩa Thục có thư viện phong phú, thủ tục đọc và mượn sách báo đơn
giản, dễ cho mọi người.
Tại Hội quán của Nghĩa Thục có hòm thư để thu nhận các ý kiến công
chúng phê bình nhận xét về nhà trường.
Một số nội dung hoạt động của Nghĩa Thục.
Mục đích của Đông Kinh Nghĩa Thục, như đã nêu, là dùng con đường
giáo dục, được tiến hành trong khuôn viên các lớp học và trên địa bàn dân
cư, góp phần “Hóa quốc cường dân” – một con đường không thể bỏ qua để đi
tới giành lại độc lập, tự chủ, canh tân xã hội theo hướng phát triển tư bản chủ
nghĩa. Quyết tâm của các cụ lập ra Nghĩa Thục là từ một Nghĩa Thục Hà Nội,
sẽ mở ra nhiều Nghĩa Thục các nơi, xoay quanh trung tâm là Hà Nội.
Để đạt được những mong muốn ấy, trước hết, các cụ Đông Kinh đã
phải xây dựng nội đung giáo huấn cho nội trường và ngoại trường thật phù
hợp, hấp dẫn lòng người. Các cụ cũng không thể bó hẹp giáo huấn ở trong
các lớp mà phải vươn rộng ra toàn xã hội, từng bước một. Thế là, Nghĩa Thục
không chỉ, không còn là một trường học, mà trở thành một phong trào vận
động chính trị công khai do nho sĩ ái quốc, tân tiến lãnh đạo.
Nhờ vào sự nghiên cứu về Đông Kinh Nghĩa Thục của các vị uyên bác
như Trần Văn Giàu, Nguyễn Hiến Lê, Chương Thâu, Thanh Lãng v.v.. ngày
nay, có thể thấy rõ điều ấy.
Những vấn đề được coi trọng trong nội dung giáo dục:
Các chiến sĩ Nghĩa Thục thống nhất quan niệm rằng nước Nam ta, lúc
này, bị lâm vào cảnh tối tăm, nhục nhã “nước yếu, dân ươn”, là chỉ tại bởi chế
độ quân chủ, mà nền móng của nó là tư tưởng phong kiến đã được nhuộm
sâu vào đầu óc muôn dân hàng ngàn năm. Thời điểm lịch sử mới của nhân
loại đã tới từ lâu. Các nước Âu, Mĩ xa xôi đã tân tiến, cường thịnh đủ sức đè
bẹp nhiều nước. Lục địa da vàng đang tự đắc, đến hôn mê với “văn hóa” của
mình, thì cũng có nước đã bừng tỉnh, đang tích cực vươn lên làm cả châu lục
thèm khát và “vinh dự” lây, như nước Nhật. Ấy vậy mà nước Nam ta vẫn khư
khư học thuyết Khổng Mạnh, Chu, Trình đã dìm lâu xã hội Trung Hoa và chi
phối sâu sắc nhịp sống của xã hội Việt Nam. Nho giáo vẫn là quốc giáo của
ta. Con người vẫn cúi rạp trước những giáo lí phản tiến bộ ấy. Nước bị cướp.
Dân là nô vong. Phải duy tân xã hội theo hướng âu Tây, Nhật Bản đã làm. Đó
là việc cấp bách của nền giáo dục. Nhưng Nho giáo không thể đảm đương
được việc làm ấy. Nên chi, phải cấp bách thay thế Nho giáo bằng một nền
giáo dục mới về hình thức và về nội dung giáo dục. Từ quan niệm ấy, Đông
Kinh Nghĩa Thục chủ trương tiến hành giáo dục cho học sinh và dân chúng:
Thái độ dứt khoát chống nền học cũ
Nhà trường đã làm cho học sinh, dân chúng thấy được:
– Nền học cũ, với các tín lí của Hán nho, Tống nho, đã lỗi thời và trở
thành lực kìm chế lịch sử ta.
– Người Pháp đang lợi dụng nó tối đa để ngu dân nhằm bóc lột tới cùng
kiệt xứ sở này và bảo vệ quyên “chủ nhà” Đông Dương của người Pháp được
nguyên vẹn.
Ví dụ: Một thầy giáo của Nghĩa Thục viết ở “Đăng cổ Tùng Báo”:
“Nước Nam ta bây giờ dốt tệ lắm. Mà cũng vì cái dốt mà phải làm như
trâu, như bò; được đồng nào đem sắm đồ Tàu hết. Cũng vì cái dốt mà nghề
hay không làm; ai cũng muốn làm cái nghề ăn không. Cũng vì cái dốt mà
người đói meo thì không lo, lại lo Quan âm đói. Nói tóm, thì bao nhiêu cái khổ
sở nhục nhằn ở nước Nam ta cũng vì cái dốt mà ra cả. Cho nên, nền học cũ
là kẻ thù của sự tiến bộ, của văn minh”.
Chống bọn hủ nho
Hủ nho là sản phẩm của nền học cũ và là lực lượng bảo tồn nền học
ấy. Vậy, dân ta cần thấy được:
– Bọn này tự cao tự đại: Coi mình hơn người, trọng xưa khinh nay,
trọng vương khinh bá. Phi Nho giáo là “bá đạo” tất. Bởi bảo thủ, tự kiêu của
lớp trí thức này mà dân chúng dốt mãi.
– Biểu hiện bằng hành động của tầng lớp này không đồng nhất:
+ Một số hủ nho không chịu nhận mình đã là vong quốc nô của Pháp vì
“ta” còn triều đình!
+ Một lực lượng lại che giấu sự thất bại của ta bằng việc hô hào “tẩy
chay”, “bất hợp tác” với Thái tây.
+ Một số nho gia rút lui khỏi cuộc thế để tỏ ra “mình không phải đầu
hàng họ”!
+ Nguồn gốc của thái độ ấy là đầu óc họ bị ràng buộc, làm nô lệ cho
triết lí đạo Nho đã hết thời thích dụng.
Trong lớp, tại các buổi bình văn diễn thuyết… những bài: “Điếu hủ nho”,
“Tế sống thầy đồ hủ”…. được giảng luận cặn kẽ. Trong bài “Cáo hủ lậu văn”
có đoạn:
“Ôi! các bố có óc thông minh, ở làng cao sang, đọc sách hiền triết, làm
mẫu da vàng?
Đương lúc này, nghe thấy mới lạ, cuộc đời mở mang, sao không ra tay
cứu vớt người chìm đắm, đánh thức kẻ mơ màng. Tai hại thay hủ thư! Đục
nát bét các bố! Đau đớn thay hủ nho! Làm các bố lầm lỡ!
Tầm mắt không trông khỏi làng đã chê cười Khang, Lương!
Bước chân không ra khỏi ngõ đã coi hẹp vũ trụ!
Ấy vậy mà còn đem văn rởm độc, mượn học quèn làm vua, tò mò
chuyện yêu quái…
Hơi thoi thóp như khí chiều sắp tắt!
Hồn lẩn quất biết gọi đâu ra…!”
Chống chữ Hán
Kể ra cũng hơi tả, nhưng thông cảm với các cụ ta rằng muốn cách
mạng thật thì phải dứt khoát triệt để từ nhận thức tới hành vi.
Cụ Phan Chu Trinh thông thái Nho học, am tường Hán tự, đã phải nói
to với dân ta lúc ấy là:
“Bất phế Hán tự,
Bất túc dĩ cứu Nam quốc!”
Trong bài phi lộ của “Đăng Cố Tùng Báo”, số ra ngày 28 tháng 3 năm
1907, tác giả Vũ Bội Liêu viết:
“Chữ Hán quả là cái hàng rào hiểm, chắn ngang đường văn minh, làm
cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn biết bao cơm gạo mới dùng được chữ. Khi dùng
được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng vì nổi dùi mài một đời học các điều
cao xa quá.
Chữ thảm, chữ hại, làm cho ai mó đến cũng phải quên cả việc thường
đời nay để học việc đời xưa. Đời xưa thực chết rồi! Thực xa rồi!”
Chống khoa cử
Bỏ sạch lối học để thi đỗ làm chức này tước nọ, lối thi rất nghiêm khắc
chỉ tìm ra được những “mọt sách”. Đó là kế hay chống được lối ưa chữ Hán,
chống lại hủ nho.
Vì thế, các cụ ta ở Nghĩa Thục dứt khoát lắm. Ví dụ: Thầy Dương Bá
Trạc nói với người học rằng: “Anh còn muốn cái cử nhân ư? Này! Tôi bán cho
anh một xu thôi!” Các cụ nhìn rất sắc sảo và nói có lí về tai hại của lối học thi
cũ: Khoa cử làm tê liệt tinh thần đối kháng, giết chết sức sáng tạo của con
người. Nền học mới không lấy việc thi cử làm lí do mở lớp dựng trường. Học
là để “làm người dân trung nghĩa”. Cho nên, nền học cũ, đề ra lối thi cử cũ,
cần được phế bỏ để đổi mới giáo dục, nếu không muốn tự diệt vong. Tiêu
biểu cho tài liệu giáo khoa về chủ đề này là các bài: “Bàn về cái hại của khoa
cử”, “Bàn về sự vô hại của việc không có khoa cử”, bài “Nói rõ mục đích của
việc học”…
Hô hào học chữ của nước ta
Loại chữ theo vần tiếng La tinh, viết bằng bút sắt, nét “chạy loằn ngoằn”
này đã một thời bị nho sĩ ta chỉ trích. Nay, các cụ Đông Kinh có cái nghĩ khác,
mới mẻ:
Chữ ta đơn giản, dễ học, mau biết, do đó dễ phổ cập cho quảng đại
dân chúng. Người ta phải lấy chữ ta làm quốc ngữ thay chữ Hán, lấy đó làm
ngôn ngữ viết chính thức của Việt Nam. Kể ra thì các cụ ta dứt khoát hơn
Khang, Lương ở Tàu về điều này là rõ ràng.
“Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách các nước, sách Chi–na
Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường”.
… “Người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện
đầu tiên, để trong thời gian vài tháng, đàn bà, trẻ con đều biết chữ, và người
ta có thể dùng chữ quốc ngữ để ghi việc đời xưa, chép việc đời nay. Đó thực
là bước đầu tiên để mở mang trí khôn vậy”.
Trên đây là hai trích dẫn từ bài “Văn minh tân học sách”. Chủ trương
dạy quốc ngữ để chống mù chữ làm cho việc tu thư, dịch thuật phải tiến gấp
để: Tìm lối văn mới, bổ sung từ ngữ ta chưa có, dịch sách mới du nhập, dịch
sách cổ của ta và hiệu đính cẩn thận (Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện,
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Dư địa chí…). Một sinh khí duy
tân văn hóa nước nhà được gây nền đổ móng ở thời điểm lịch sử này với các
cụ Đông Kinh ái quốc, nhiệt tâm duy tân, đến mẫu mực cho mãi mãi.
Học theo cách mới
Lối học cũ có nhiều nhược điểm nặng. Nội dung học mới kéo theo cách
học mới, cách học chống thói cam chịu, nô lệ, giáo điều, máy móc; khuyến
khích đấu tranh tìm chân lí, sáng tạo. Các thầy ở Nghĩa Thục thật táo bạo đến
bất ngờ. Tiếp thu ánh sáng khai phóng phương Tây, các cụ rộng mở với mọi
cái mới có lợi cho canh tân tư tưởng. Chủ trương cách học mới là một táo
bạo.
Cụ Giám học Nguyễn Quyền, chiến sĩ tiêu biểu cho đội tiền quân tấn
công vào cái mới. Cụ nói:
“Mở tân giới, xoay nghề tân học,
Đón tân trào, dựng cuộc tân dân,
Tân thư, tân báo, tân văn…”
Nhiều người theo Giám học mà cắt bỏ búi tó củ hành; theo cụ Phan
Tây Hồ mà mặc mốt mới.
Nghĩa Thục cho nam nữ ngồi cạnh nhau nghe diễn thuyết; lại cho tự do
thảo luận bài học, cho vui đùa tự nhiên. Nghĩa Thục lại buộc học sinh bước
vào trường học với tâm linh nghiêm cẩn, tin tưởng, coi lớp học là đất thiêng
liêng để toàn tâm, thành ý, tiến hành “Tụng kinh độc lập ở chùa duy tân”, cầm
bút sắt học cho được quốc ngữ.
Một cách dạy mới thật sự ở Việt Nam đang nảy mầm. Phương pháp sư
phạm “tối tân” ở đây là gì? Đó là tác động vào người học tự nhiên, bằng nhiều
đường huy động suy nghĩ: Giảng sách, đọc báo, bình văn: diễn thuyết, tranh
luận, đóng kịch, học theo bản đồ tổ quốc được vẽ to treo ở Hội quán của
trường…
Cách dạy đã làm hào hứng người học. Các môn học cũng làm say mê
người học: Ngoài các môn văn chương, sử, địa, toán, cách trí, vệ sinh, công
dân giáo dục, luân lí đạo đức, các môn như thể dục, kinh tế chính trị đặc biệt
hấp dẫn. Đọc lại một đoạn trong “Văn minh tân học sách” của Nghĩa Thục, sẽ
thấy rõ điều đang trình bày:
“Cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không phải nề hà,
không cần thể cách gì hết.
Rồi thêm vào đó mấy bài về toán pháp, về chữ quốc ngữ… để cho cái
mà học sinh học và thi không trái ngược với việc họ thực phải làm. Như thế
thi cũng đã là tàm tạm đúng vậy.”
Trên “Đăng Cổ Tùng Báo”, số ra ngày 25–4–1907, có bài tả về trường
lớp kiểu mới, trong đó có đoạn:
“Tràng học rộng lắm, mà học trò cả ngày cả đêm ước đến bốn trăm,
phân làm nhiều lớp: Lớp thi để những ông cử, ông tú (nho) học chữ Pháp; lớp
thì để những ông đã biết chữ Pháp học chữ Nho; lớp người lớn; lớp trẻ con;
tràng con trai; tràng con gái, thứ tự, văn minh lắm.”
Giáo dục tôn trọng con người, khuyến khích sáng tạo
Những điều nói về lối học, kiểu dạy mà Nghĩa Thục chủ trương trên đây
đã nói giúp về ý này một phần. Cần thêm vài chi tiết sau đây cho vấn đề được
sáng tỏ hơn:
Các cụ mở lớp dạy cho cả nữ sinh.
Đây là một hành động cách mạng của các cụ Đông Kinh. Ông Nguyễn
Hiến Lê bình luận: “Thời đó, mở lớp cho nữ sinh như vậy quả là một cải cách
lớn”.
Các cụ coi trọng vai trò thầy giáo trong dạy học với ý nghĩa rằng thầy
chỉ là cố vấn cho học trò trong quá trình giáo dưỡng, không làm thay họ, phải
trọng nhân cách họ. Các cụ cho rằng thầy làm được thế thì học trò sẽ gột rửa
được những thành kiến nô lệ mà nuôi lòng tự trọng, dám nhìn vào đời thực để
phân rõ nhục, vinh; biết tự phải làm gì cho nước. Để đề cao tài trí, sáng tạo,
các cụ tuyên bố công khai, đòi hỏi nhà nước phải lưu tâm về trường học mới
cho đất nước. Đó là loại trường “nên đón thầy giỏi, mua đồ mẫu, chọn người
khéo tay, nhanh trí khôn vào học… Lại hạ lệnh cho khắp nước: hễ ai học
được kiểu mới thì, cũng theo lối Âu châu, nên cấp bằng khen, làm lưu chiểu;
thưởng phẩm hàm để ngợi khen; cấp lương bổng… cho giữ quyền sáng tạo
để hậu đài họ.
Những ai giỏi về khoa cách trí, khí học, hóa học thì làm cho họ được vẻ
vang, sang trọng hơn những người đỗ đại khoa”.
(Xem “Văn minh tân học sách”)
Chủ trương một nền giáo dục có phần nội dung cơ bản phổ cập và có
phần nội dung chuyên môn
Xem chương trình dạy học của Đông Kinh Nghĩa Thục thấy có 2 phần:
– Phần kiến thức cơ sở
– Phần kiến thức chuyên môn.
Thực hiện chương trình ấy bằng cách:
– Dạy mọi người chữ quốc ngữ. Từ trung học trở lên có học Pháp văn,
Hán văn. Dưới bậc trung học, bất kể nam hay nữ sinh, đều học quốc ngữ. Đó
là công cụ để giải phóng mình khỏi sự tối tăm, là chuyển ngữ trong học tập
của mỗi người.
– Học có kiểm tra, đánh giá trình độ nhưng không có bằng. Học để biết
làm “một người dân”. Quy định đó có trong học quy của Nghĩa Thục.
– Cung cấp kiến thức cơ bản làm một công dân cho mọi người học
được coi là cái phải phổ cập.
Trong nhiều giáo khoa thư được dùng, cuốn “Quốc dân độc bản” có
tầm quan trọng đáng kể đối với chương trình phổ cập, cơ bản. Đây là sách
“khai tâm”, vỡ lòng của học trò. Những điều sách đem lại cho người học, đại
thể, gồm các vấn đề như:
Ý nghĩa hai chữ quốc dân; lòng ái quốc; lòng ái quần; Nền văn hiến của
ta; Văn minh là gì; quan hệ nước – dân; lòng trung nghĩa; chí tiến thủ; óc cạnh
tranh; quyền lợi và trách nhiệm; quốc dân và chính trị; Thuyết mệnh trời là sai
lầm; cái hại của khoa cử; cái vô hại của không có khoa cử; sự khó khăn biến
đổi tập tục cũ; Mục đích việc học; Giáo dục là gì; Pháp luật là gì.
Quả thật, các cụ Đông Kinh muốn làm thay đồi một nền giáo dục vốn đã
vô hiệu lực, vốn là một học chế phục vụ thiểu số người… bằng một học chế
đem lại cơ hội được học cho đa số cho tất cả quốc dân ta. Lớp trẻ tuổi được
các cụ đặc biệt quan tâm. Nghĩa Thục coi trọng giảng dạy cho con cháu
chúng ta trước nhất là biết chữ viết của ta, sau đó là sơ đẳng về toán, văn
chương, lịch sử, địa dư, chủ yếu là của nước nhà, và cả những kiến thức
thông dụng về vệ sinh, cách trí… Những nội dung kiến thức mà cuốn sách
khai tâm, “Quốc dân đọc bản” đem lại cho lớp trẻ có ý nghĩa to lớn, lâu dài, cơ
bản đối với sự phát triển của một đời người, đối với chất lượng dân trí. Những
nội dung học vấn ấy như ánh sáng mới mẻ giúp lớp hậu học hình thành cho
mình một thế giới quan, nhân sinh quan, một thái độ nhìn nhận thực trạng xã
hội Việt Nam… tiến bộ, có lợi cho công cuộc giải phóng mỗi con người, giải
phóng cả dân tộc.
Nhìn vào nội dung học vấn mà các cụ. Đông Kinh xác định cho bậc sơ
đẳng như thế sẽ thấy rõ sự tân tiến về tư tưởng và học thuật của lực lượng
nho sĩ chiến sĩ lập ra Nghĩa Thục. Lại thấy thêm dụng tâm của các cụ lúc này
là: Tìm cách cải tạo, cải cách tư tưởng cho đồng bào mình bằng con đường
giáo dục văn hóa, đặc biệt là những văn hóa cần thiết cho sự đổi mới lối sống
để đổi mới quan niệm về nhiều lĩnh vực tạo ra cuộc sống của mỗi người và
của cộng đồng chung.
Theo các cụ, học tốt những phần đã nêu trên là đã qua được bậc phổ
thông, phổ cập. Tiếp sau, mỗi người cần được hướng vào việc học nghề thực
thụ, học nghề để làm nghề ở trình độ cao.
“Các thứ học phổ thông đã suốt
Học chuyên môn cốt một nghề cao…”
Dân ta vốn có quan niệm “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Tuy nhiên,
nền kinh tế phong kiến thuần nông lạc hậu, trì trệ, bị động, cộng với những
quan niệm Nho giáo bảo thủ về quản lí kinh tế xã hội, đã làm cho dân ta bần
cùng, lại bần cùng hơn bởi sự bóc lột tận xương tủy của người Pháp ăn
cướp. Chủ trương mở giáo dục nghề mới, càng nhiều càng tốt, của lớp nho sĩ
tiến bộ này là kết quả của một sự tự giải phóng nhanh chóng về ý thức hệ
Nho giáo của họ. Thêm vào đó, gương sáng về phát triển kinh tế của Âu tây,
Nhật Bản là nguồn sức mạnh giúp họ khẳng định quan niệm: thôi thúc họ
hành động tích cực.
“Trong một nước nghề hay đã đủ
Từ đó mà tiến bộ văn minh.
Rồi mà cũng chế thủy tinh,
Cũng lò đúc sắt cũng dinh đúc đồng,
Cũng tàu máy qua sông vượt bể,
Cũng điện cơ, điện khí, điện xa,
Cũng buôn, cũng bán gần xa,
Khi vào Tay Cống, khi ra Hải Phòng,
Thế mới thực bõ công đi học,
Thế mới là cội gốc văn minh…”
Cụ Phan Chu Trinh tâm đắc với chủ trương giáo dục này. Hầu như ở
buổi diễn thuyết nào cụ cũng chen vào được lời kêu gọi học nghề mới để
canh tân đất nước.
“Hỡi những người chí cả thương quê
Mau mau đi học lấy nghề
Học rồi ta sẽ đem về dạy nhau…”
(Đọc bài “Tinh hồn quốc ca”)
Các cụ khẳng định:
“Thế mới thực bõ công đi học
Thế mới là cỗi gốc văn minh.”
Thêm một lần ý kiến cho rằng đi học để làm “một người dân”, đi học
không vì khoa cử để vinh thân phì gia cho riêng mình, đã hoàn toàn đúng.
Còn cái “cỗi gốc văn minh”, theo các cụ là gì vậy? Trước hết, các cụ cho rằng
cái trói chặt dân ta trong u mê, lạc hậu chính là thuyết về số trời, “thiên mệnh”,
đã tồn tại hàng ngàn năm. Nó làm cho từng người, cả dân tộc giữ thói cam
chịu, nô lệ với cái đã có hàng ngàn năm. Nó giết chết ý chí cạnh tranh với các
dân tộc, các nước của dân nước Nam ta để vươn ngang hàng và vượt trên
họ.
Đọc bài “Thuyết thiên mệnh” thấy ý kiến của các cụ rất minh bạch, cứng
cỏi: “Cái tâm lí hiện nay đủ cản trở quốc dân ta cạnh tranh chính bởi do thuyết
“thiên mệnh”. Người quân tử biết mệnh là cái hại không thể tránh, cái lợi
không thể theo, rốt cuộc chỉ còn cái phải làm mà thôi vậy… người biết mệnh
chỉ biết lo khuyến khích sự lập chí, còn biết đâu đến bọn người không có chí;
làm việc gì cũng chờ cái may của trời cho… Bàn về sự nước yếu thì không
quy tội cho chính sự không thay đổi, quốc dân không có tài mà lại cho ấy tại
khí số, chẳng phải việc của người… Học làm một nghề mà người ta thành
công, mình thất bại thì cho rằng mệnh của họ hanh thông, mệnh của mình
khó khăn. Than ôi! sao cứ nói những lời tự hại, tự bỏ như vậy…!”
Cái mẫu văn minh mà các cụ lựa chọn cho ta là gì?
Đọc “Văn minh tân học cách” thấy cái mẫu văn minh là xã hội Âu tây.
Đặc trưng cơ bản của nó, theo các cụ, là:
– Chế độ dân chủ đại nghị là một thứ tinh túy của các nước Thái tây.
– Dân người Tây năng động. Họ nắm ưu thế nhiều lĩnh vực vì người họ
luôn ở thế “động”, trong khi người xứ ta luôn luôn ở thế “tĩnh”, bảo thủ, trì trệ.
Người Nam ta, nước Nam ta vốn “thanh danh văn vật” ấy là thời nước, chứ
thời nay thi “hủ bại”.
– Phải biết cạnh tranh để đoạt văn minh. “Văn minh thực sự là một giá
trị phải đánh đổi bằng cạnh tranh”.
Vậy là các cụ đã phát hiện được vài điều lớn lao khi hình dung về cách
thức làm sao cho xã hội mình văn minh lên được như xã hội người.
Từ quan niệm về văn minh ấy, các cụ trở nên có quyết tâm hành động,
kêu gọi hành động thực sự: Mở thương hội, lập tiểu công nghệ, khai mở đồn
điền, khai quặng mỏ… và còn âm thầm chuẩn bị vũ trang để khởi sự giành lại
độc lập cho đất nước.
Lực cản sự văn minh của nước, dân ta là cái lí thuyết về định mệnh, số
trời định, tai hại, cần phải bỏ ngay. Chuẩn mực cơ bản của văn minh cần
vươn tới là xã hội theo chế độ dân có quốc hội quyết định việc lớn việc nhỏ.
Dân có báo chí để ngôn luận tự do, bảo vệ mình. Từng người, cả dân tộc có ý
chí cạnh tranh mãnh liệt để cường thịnh lên. Về kinh tế được mở mang các
lãnh vực công, thương, giao thông… có kĩ thuật tân tiến. Tiến lên văn minh là
đường đi lâu dài. Việc gì làm được ngay thì làm, không nấn ná, chờ đợi. Có
một lãnh vực đời sống biểu hiện sự văn minh, để nhìn nhận, lĩnh vực được
thành tựu lâu dài, và xóa bỏ rất khó khăn, ấy là tập tục hủ lậu vốn nặng nề ở
xứ ta. Các cụ Đông Kinh giáo dục cho mọi người có gan tấn công mạnh mẽ
vào hủ tục.
Quan niệm mọi cái đều thay đổi theo hướng văn minh hơn, trong xã hội
ngày nay sự thay đổi càng diễn ra nhanh chóng, của các cụ ở Nghĩa Thục
được truyền đạt tới học sinh và dân chúng. “Xưa nay, trong người, không nơi
nào vài mươi năm, vài trăm năm lại đây không có cuộc biến đổi về những tập
tục cũ. Ngày nay, vạn quốc tương giao, học thức càng trao đổi với nhau, các
sở trường của kẻ khác có thể dùng để cải biến cái sở đoản của mình. Những
tập tục cũ ắt phải biến đổi không ngừng”. Tập tục cũ rất nhiều, không nói hết
được. Phải tìm ra và trừ bỏ đi. Ví như: Cần bỏ tục xôi thịt, tranh ăn ở chốn
đình trung trong thôn quê ta.
“Ông khoa mục đến thầy tổng lí
Máu tham ăn vô sỉ lạ đời
Sao không mở mắt trông người
Năm châu rộng rãi, sáu loài đua tranh
Còn giữ thói ham giành ăn uống
Chỉ châu đầu trong chốn hương thôn”
(Bài “Cáo hủ lậu văn”)
Cần bỏ tục “búi tóc củ hành” ở nam giới, một thói tục do người Trung
Hoa áp đặt cho dân xứ ta từ thời Triệu Đà nhưng triệt để nhất là thời nhà
Minh thống trị. Người Nam ta xưa vốn “Đoạn phát văn thân” chứ đâu có vậy!
Lại cần trừ bỏ cả lối mặc áo quần cổ lỗ, bỏ tất những thói xấu vốn tồn
tại ở xã hội nông thôn: cờ bạc, rượu chè, chia phe cánh tranh hơn thua, mê
tín dị đoan…
Tóm lại, tạm nêu lên 8 vấn đề trên đây để nói về nội dung của chương
trình học vấn cần có ở một học chế giành cho toàn dân Việt Nam ở thời điểm
lịch sử này, thời điểm phải giành lại độc lập để canh tân đất nước theo hướng
phát triển tư bản chủ nghĩa. Đông Kinh Nghĩa Thục là người lính giáo dục tiên
phong, thí điểm thực hành chương trình giáo dục ấy nhằm mở đầu cho một
cuộc chiến đấu lập lại nền giáo dục, một mặt trận quan trọng của cuộc cải
cách văn hóa tư tưởng.
Tiến hành cải tạo thực tiễn một cách say sưa, dũng cảm
Các chiến sĩ Nghĩa Thục không chỉ chăm lo “truyền đạo văn minh” ở
trong các lớp học của mình, mà còn lao thân vào hoạt động giáo dục, hoạt
động kinh tế, tổ chức lực lượng trên một số vùng dân cư ngoài thành phố Hà
Nội.
Phát động nếp sống mới trong nhân dân
Qua diễn thuyết, bình văn, báo chương, thảo luận, các cụ Đông Kinh
chuyển tới người nghe những điều được lựa chọn trong chương trình giáo
dục của Nghĩa Thục.
Bản thân các lãnh tụ và đồng chí của Đông Kinh tiên phong nêu gương
về lối sống mới, từ bỏ hủ tục, đã phát động được khá nhiều người, nhất là lớp
trí thức trẻ, làm theo. Người ta theo Giám học Nguyễn Quyền mà cắt tóc
ngắn; theo Phan Tây Hồ mà may đồ mặc kiểu mới, gọn gàng, khỏe khoắn
hơn. Người ta bảo nhau: dùng đồ nội, cắt tóc ngắn… là ái quốc. Và số người
có ý chí, nghị lực nhất đã theo các cụ xây dựng các tổ chức yêu nước, ngấm
ngầm chuẩn bị.
Những nơi có tiếng nói của Đông Kinh Nghĩa Thục đều nổi lên một sinh
khí, một tiếng nói, ước mơ: và quyết tâm làm thay đổi… Chưa từng có một sự
chuyển động văn minh như thế từ khi lập quốc đến thời điểm này (1907), có
thể nói như vậy.
Làm kinh doanh thực sự
Dân có giàu, nước mới mạnh. Nước không tự làm mạnh được. Để giàu
mạnh, phải cải tạo tư tưởng, xây dựng văn hóa mới, phải học điều phổ cập và
học chuyên môn, đồng thời phải biết sản xuất, kinh doanh giỏi. Thực trạng
sản xuất kinh doanh của xứ ta lúc này thật đáng suy nghĩ, lo âu: “Đất núi từng
hãy còn pha sỏi đá. Cày bừa vẫn còn nguyên nông cụ cổ xưa. Nạn úng, hạn
chưa thể phòng ngừa… Mương rãnh chưa thuận tiện cho giữ và tiêu nước…
Nhà nông ta phó mặc vận mệnh cho trời xếp đặt…!” Vậy, khoa nông học họ
chẳng cần được giảng dạy gấp rút hay sao?”. Về công nghệ “duy vẫn khư
khư lối cũ, “ôm cây đợi thỏ” sản phẩm vẫn còn nhiều chỗ thô sơ, không có
kiểu cách mới, không tìm tòi được cái đẹp để vượt hơn người. Do đó, việc
tiêu thụ bị đình trệ. Nếu ta biết họp lại thành đoàn thể, mở xưởng thợ, vận
dụng trí não để chế máy mới… vậy nền công nghệ của ta họ lại không lừng
danh trong giới kĩ xảo hay sao?”.
Trước thực trạng ấy, các chiến sĩ Nghĩa Thục kêu gọi “chấn hưng kinh
tế” và gương mẫu thực hành. Cắt tóc ngắn, cắt móng tay ngắn lại, bỏ áo
thụng tay… các cụ làm kinh tế thực sự. Lịch sử Nghĩa Thục ghi tên các cụ có
công nhất về mặt này là: Đỗ Chân Thiết, Phương Sơn, Hoàng Tăng Bí, Tùng
Hương, Nguyễn Trác, Nghiêm Xuân Quảng, Ngô Quang Đoan…
Người mở đầu hoạt động kinh doanh theo chủ trương của Nghĩa Thục
là nhóm các cụ Chân Thiết, Phương Sơn. Hai cụ góp vốn, mở hiệu buôn gạo
từ Hải Dương, Thái Bình để lấy quỹ ủng hộ phong trào Đông du của Phan Bội
Châu. Tiếc thay, vì thiếu tay nghề nên các cụ bị thất bại. Sau đó, Đỗ Chân
Thiết và các đồng chí góp vốn mở hiệu buôn hàng nội hóa “Đồng Lợi Tế” ở
phố Mã Mây; tiếp đến, mở hiệu thuốc bắc “Tụy Phương” gần ga Hàng Cỏ, Hà
Nội.
Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Quyền mở công ti “Đông Thành Xương” ở
phố Hàng Gai để buôn tạp hóa, dệt xuyến hoa đại đóa, ướp chè sen nổi tiếng,
không thua hàng Tầu.
Trong năm 1907 – 1908, hàng loạt công ti buôn bán xuất hiện ở Hà
thành do các cụ ở Nghĩa Thục quản trị, hoặc do người cảm tình của Nghĩa
Thục đứng ra điều hành, ví dụ:
– Đồng Lợi Tế bán hàng nội
– Quảng – Hưng – Long buôn bán nội hóa.
– Hồng – Tân – Hưng buôn bán, sản xuất đồ sơn.
– Đông – Thành – Xương, Đồng Ích, dệt và xuất khẩu lụa…
Chiến sĩ, hoặc cảm tình của Nghĩa Thục phát lên phong trào kinh doanh
sôi nổi, lan ra ngoài Hà Nội. Ví dụ:
– Tùng Sơn mở hiệu buôn “Phúc Lợi Tế” ở Phúc Yên, và “Hưng Lợi Tế”
ở tỉnh Hưng Yên. Năm 1907, cụ Nguyễn Trác lên Việt Trì, mở hiệu buôn hàng
thủ công mi nghệ (Quạt lông, hàng mây tre đan, trúc Nghệ An, giày Kinh, lãnh
Bưởi, lãnh Sài Gòn) có tên là “Sơn Thọ”.
Phong trào lan rộng, vui vẻ, hấp dẫn làn cho Nghiêm Xuân Quảng phải
xin từ quan án Sát Lạng Sơn để về buôn tơ the Thái Bình. Từ Hà Nội phong
trào lập “hội buôn” lan tới Trung Kì, Nam Kì. Ví dụ: Tỉnh Thanh Hóa có công ti
“Phương Lâu”. Nghệ An có “Triêu Dương Thương Quán” của Ngô Đức Kế và
Đặng Nguyên Cẩn. Nam Ngãi có “Quảng Nam công ti” và “Liên Thanh công
ti”. Sài Gòn có “Chiêu Nam Lâu” và “Minh Tân Khách sạn”. Bến Tre có hiệu
thuốc bắc “Tư Bình Đường”. Long Xuyên có “Tân Hợp Long”…
Đấy là buôn bán. Ngoài ra, Nghĩa Thục còn có người đi vào khai mỏ.
Có người lên Tây Bắc lấy mẫu đá về Hà Nội thuê xét tìm dấu quặng, nếu tốt
thì xin chánh phủ cắm đất mở lò. Cụ Bùi Xuân Phái bỏ vốn, thuê người, xin
khai mỏ than non Nho Quan. Việc nặng nhọc, lời lãi ít nên cụ Bùi phải bán lại
mỏ cho một tư sản Hoa kiều.
Nhóm người khác đi mở đồn điền, khai hoang, trồng cây lương thực.
Chỉ đạo hoạt động này là Độc tướng quân (có lẽ là Ngô Quang Đoán) và Bùi
Đình Tá. Đốn điền châu Yên Lập (Hưng Hóa) rộng 50 mẫu, họp tụ nông dân
lại, trồng lúa, đốt than bán… được ít lâu rồi bỏ, vì thiếu kinh nghiệm và bệnh
sốt rét.
Bùi Đình Tá cùng Phan Tứ góp vốn, mở đốn điền ở Mĩ Đức, Hà Đông,
gần chùa Hương, để trồng lúa, trồng cây. Đặc biệt, lại mở tại đồn điền một “cô
nhi viện” đón các trẻ lang thang, dạy cho chúng học chữ quốc ngữ, học làm
ăn theo sức vóc của chúng. Tiếc thay, mất mùa liên tiếp hai vụ, các tài sản
phải bán để lấy tiền nuôi trẻ mồ côi. Cuối cùng, công việc bị bỏ dở.
Nhìn chung, hoạt động kinh tế của Nghĩa Thục không kéo dài được.
Mục đích cao cả, tinh thần ý chí cao thượng, mãnh liệt của các chiến sĩ Đông
Kinh không thể đè bẹp hàng loạt trở ngại vật chất. “Lực bất tòng tâm”. Đó là
nỗi buồn của các cụ. Nhưng lịch sử lại tìm thấy lạc quan bởi cái gì đó mới mẻ
sẽ ra đời và có kinh nghiệm hơn.
Gây dựng Nghĩa Thục ở một số tỉnh
Ngay từ đầu, Giám học Nguyễn Quyền đã bộc lộ:
“Chúng tôi lập Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội là cốt thử nghiệm. Nếu
thấy thành hiệu, thì trong ít lâu, mỗi kì Trung, Nam, Bắc, sẽ có một đại học
đường như thế; rồi tính lần lần về sau, mỗi tỉnh, mỗi phủ cũng có một Đông
Kinh Nghĩa Thục…”
Theo mục tiêu phát triển ấy, chiến sĩ Đông Kinh tích cực tuyên truyền
tại Hà Nội và vùng quanh. Diễn thuyết, bình văn, hội thảo đã tới tận một số
vùng dân cư. Điều cuối cùng mà người dân ghi nhận là “Người An Nam mình
đang chìm đắm trong cảnh nô lệ. Nông dân, binh lính, kí lục, cu li, tất cả đều
phải hợp quần, chung sức để giành lại độc lập bằng con đường tự do, bình
đẳng theo gương Nhật Bản để trở nên ngang hàng với các dân tộc phú
cường.” Tuy tư tưởng ấy chưa hoàn toàn chính xác để tổ chức cách mạng
thắng lợi, nhưng nhờ nó mà dân được phát động bước đầu.
Nhiều nơi thuộc đất Hà Đông sôi động lắm. Làng Phương Canh (Hoài
Đức) là nơi mở diễn thuyết đầu tiên. Tiếp đến, các xã: Tây Tựu, Hạ Hồi,
Thượng Cát, Yên Lộ, Tây Mỗ (Hoài Đức); các xã Đan Hội (Đan Phượng),
Phúc Diễn, Nhị Khê (Thường Tín) có phong trào hưởng ứng Nghĩa Thục
mạnh mẽ. Người ta mê Nghĩa Thục Hà Nội và mô phỏng nó, dựng nghĩa thục
ở vùng mình. Ví như:
Hà Đông có 3 Nghĩa Thục: Thôn Canh, Tây Mỗ, Tân Hội.
– Thục của thôn Canh, do Đỗ Thuật, Nguyễn Xuân Vũ, Nguyễn Đình
Tuyển tổ chức, vận động dân góp tiền mua tài liệu, đóng bàn ghế để mỗi
tháng hội học hai lần vào mồng một và rằm.
– Thục Tây Mỗ, do Nguyễn Hữu Toán, Tú Kình, Đỗ Đam, Đỗ Lợi, Bá
Quýnh, Nguyễn Hữu Đạm, Nguyễn Văn Khuyên tổ chức. Việc hội học giống
Thục thôn Canh, ở đây còn tổ chức ra “Hội Hiếu”, “Tổ đọc báo”. Nhờ các Hội
vận động, đám ma đã có nét làm mới tiến bộ. Tết mồng 3 tháng 3 nhập từ
Tàu vào, bị bỏ thay bằng tết mồng mười tháng Ba – giỗ tổ Hùng Vương.
– Thục Tân Hội, đo Nguyễn Văn Hoán tổ chức được dân tới lớp đông
lắm. Người học chính thức, người “nghe nhờ” rất tích cực. Họ bảo nhau góp 5
đồng mỗi người cho quỹ du học, giúp hai ông Phú và Niệm ra đi.
– Làng Chém Vẽ cũng có lớp học khá đông học sinh. Tại đây, hội kín
yêu nước được tổ chức, lấy trụ sở là hiệu thuốc bắc ven bờ đê. Cụ Phan Chu
Trinh, Hoàng Tăng Bí thường về đây giảng luận.
Tỉnh Hải Dương: có làng Tạ Xá (Nam Sách) hường ứng Nghĩa Thục
mạnh mẽ. Họ lập Hội đọc báo, bình văn, sinh hoạt đều đặn dưới sự dẫn dắt
của các cụ: Trần Văn Thân, Mạc Văn Diệm, Lê Bích Đảo, Trần Văn Truy.
Tỉnh Thái Bình: có phong trào khá. Đây vẫn còn giữ được khí phách
của văn thân chống Pháp cuối thế kỉ trước. Họ ủng hộ Phan Bội Châu. Sự
hưởng ứng Nghĩa Thục được các cụ Đào Nguyên Phổ, Ngô Quang Đoan,
Phạm Tư Trực hướng dẫn. Tại Kiến Xương, Tiền Hải, Đông Hưng, Quỳnh
Phụ, Hưng Hà đều có phong trào ái quốc theo Đông Kinh. Các nho sĩ ái quốc
đã mở được nhiều lớp học quốc ngữ, và các nội dung được mô phỏng theo
Nghĩa Thục ở Hà Nội. Những nhà nho tích cực công việc này là: Nguyễn Hữu
Cương, Ngô Quang Đoàn, Lí Thoa, Tú Phạm, Lí Bội, Đặng Xuân Ngạt…
Các cụ đã mở được một số cơ sở kinh doanh công thương nghiệp để
gây quỹ cho hoạt động và ủng hộ người xuất dương.
Có nơi, phong trào đã ăn sâu vào dân chúng. Làng An Dục (Quỳnh
Phụ) là ví dụ. Ở đây, cộng đồng dân cư đã theo tinh thần Đông Kinh Nghĩa
Thục mà xây dựng một Hương ước tân tiến, gồm 24 điều nhằm cải cách
hương tục. Hương ước được khắc vào bia đá đặt tại đình làng. An Dục còn
lập ra các hội tương trợ, ái hữu như Hội dệt vải, Hội hiếu, Hội hỉ. Và khi khởi
nghĩa Yên Thế nổ ra, An Dục đã tìm cách liên hệ để ứng viện.
Ở Thái Bình còn mở được một số cửa hàng buôn bán để gây quỹ ái
quốc cửa hàng vì công lợi như cửa hàng Đông Động (Đông Hưng) do cụ cử
Gia và Chánh Phong phụ trách, cửa hàng Chợ Mới (Kiến Xương) do cụ Lí
Thoa quản lí.
Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở Thái Bình đã làm cho thực dân
Pháp phải lo lắng. Ông Chương Thâu, trong cuốn “Đông Kinh Nghĩa Thục”,
Hà Nội 1982, đã dẫn lời nhận xét của người Pháp, như sau:
“Có một số nhà nho đầy tham vọng… đã lao vào hành động một cách
nham hiểm chống lại chính phủ bảo hộ… Nhiều hội kín được lập ở khắp Bắc
Kì. Cuộc chiến tranh Nga Nhật đem lại chiến thắng cho người Nhật, năm
1905, đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong thế giới da vàng, và thúc đẩy nhiều
nhà nho Thái Bình xuất dương, theo gương Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh. Chủ yếu là họ qua Tàu và Nhật để tìm sự giúp đỡ và các phương tiện
để giải phóng An Nam khỏi ách của người Pháp. Hội Đông Kinh Nghĩa Thục
có rất nhiều hội viên ở trong tỉnh…”
Đánh giá chung tác dụng của Đông Kinh Nghĩa Thục
Đông Kinh Nghĩa Thục xuất hiện, hoạt động từ tháng 3, có giấy phép
hợp pháp từ tháng 5. Nhưng đến cuối năm 1907 Nghĩa Thục bị chính phủ
thực dân Pháp cấm hoạt động. Thời gian được tồn tại công khai, hợp pháp
quá ngắn ngủi, nhưng sức mạnh cảm hóa lòng người của Nghĩa Thục lớn
nhanh như Phù Đổng. Dù sao, với tám, chín tháng được thử thách đối với
một chương trình cách mạng cọ mục tiêu lớn lao, lại phải tiến hành trong sự
theo dõi ngặt nghèo của bộ máy đàn áp trong tay người Pháp, cũng khiến cho
việc đánh giá tác dụng của Đông Kinh Nghĩa Thục chưa thể đạt tới cấp độ
đầy đủ, triệt để được.
Công lao của Đông Kinh Nghĩa Thục trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc Việt Nam khỏi sự cai trị tàn ác của thực dân Pháp.
Những công trình nghiên cứu về Đông Kinh Nghĩa Thục đã được công
bố cho thấy các tác giả của chúng rất đúng khi họ đánh giá rất cao tác dụng
của Đông Kinh Nghĩa Thục đối với phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, một
thời điểm mà lịch sử Việt Nam đòi hỏi gắt gao rằng phải đánh đổ chính quyền
thực dân phong kiến để giành lại độc lập, tự chủ, canh tân đất nước theo con
đường dân chủ tư sản tiến kịp các nước văn minh. Các phong trào ái quốc dù
theo hướng dùng bạo lực võ trang, như của Phan Bội Châu, hay, cải lương
ôn hòa của Phan Chu Trinh đều hướng vào nhiệm vụ đó. Đông Kinh Nghĩa
Thục cũng sẽ được lịch sử chấp nhận khi biết hướng vào nhiệm vụ ấy.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sự đánh giá Đông Kinh Nghĩa Thục có tác
dụng lớn trong thời điểm ấy thôi thì chưa thỏa đáng. Cần coi Nghĩa Thục như
là một chương trình hành động trong chương trình hành động cách mạng giải
phóng to lớn, lâu dài, gồm nhiều chương trình cách mạng sẽ nảy sinh kế tiếp
cho tới khi nhiệm vụ nói trên được thực hiện kết quả. Những cái được những
cái hạn chế của nó sẽ được các phong trào ái quốc sau nâng lên, và khắc
phục. Từ đó, khẳng định thêm được rằng Đông Kinh Nghĩa Thục thực sự đã
góp phần tốt đẹp vào sự tiến triển của quá trình đấu tranh giải phóng lâu dài,
gian khổ của dân tộc ta. Những điều mới mẻ Nghĩa Thục đem lại cho nhận
thức, tình cảm của một số người Việt Nam vào thời điểm ấy không mất đi
theo sự ra đi của thế hệ người này. Ngược lại những giá trị ấy còn được kế
thừa, còn được lấp lánh trong đời sống, trong phong trào cách mạng hôm
nay. Ví dụ:
– Xây dựng cho dân ta khái niệm mới mẻ, tiến bộ hơn về tình yêu
nước. “Lòng ái quốc của quốc dân sâu nặng thì nước sẽ mạnh giàu. Nước là
cha mẹ chung của hơn hai mươi triệu người chúng ta. Không yêu cha mẹ,
không yêu nước mình đều trái với thiên tính của loài người.”
(Xem bài “Lòng ái quốc”)
“… Ví như người nước ngoài làm nhục đến nước thi người nghĩa khí là
phải liều chết… đã là quốc dân phải có trách nhiệm bảo vệ tổ quốc… Kẻ nào
quên nước, thờ thù, cam tâm làm nô lệ, kẻ đó là người dân bất trung, bất
nghĩa, và cũng là điều nhục lớn trong thiên hạ.”
(Xem bài “Lòng trung nghĩa”)
“Có được sự cùng sinh cùng dưỡng từ mấy ngàn năm nay là nhờ có sự
hợp quần vậy. Bé gẫy một mũi tên thì dễ. Bẻ mười mũi tên thì khó… Đã cùng
chung một xã hội mà sự đoàn kết có độ dày, mỏng khác nhau là do lòng ái
quần của người ta có độ dày, mỏng, rộng, hẹp…”
(Xem bài “Lòng ái quần”)
– Giáo dục ý thức cạnh tranh, cạnh tiến, mạnh mẽ để rũ bỏ thói an
phận, tự ái, làm cho mỗi người giàu có, hiểu biết hơn, kéo theo cả quốc gia,
dân tộc phú cường, văn minh lên kịp và vượt thiên hạ. Đây là tư tưởng mới
mẻ, hấp dẫn. Nho giáo cũng giáo dục ái quốc, tuy hạn hẹp, nông cạn. Nhưng
Nho giáo chưa, và không thể, gieo hạt giống tư tưởng cạnh tiến như thế này,
dù Nho giáo đã tồn tại hàng ngàn năm ở xã ta.
“Quốc dân ta muốn tồn tại trên đời” thì ắt là phải đem sức lực, sắt máu
để cùng cạnh tranh. Nếu cứ chịu để mất chủ quyền, một ngày chưa lấy lại
được, thì là một ngày không còn mặt mũi nào đứng trên trái đất này.”
(Xem bài “óc cạnh tranh”)
“Sống trong thời buổi cạnh tranh này, kẻ kia tiến một thước thì ta cũng
phải tiến một thước. Cần phải biết tự cường vậy. Bọn thiếu niên ta, nếu ai ai
cung cố gắng làm quốc dân biết tiến thủ, thì ở thế kỉ này, biết đâu cái thế giới
của người da trắng kia lại không là thế giới của người da vàng?”.
(Xem bài “Chí tiến thủ”).
Có thể nêu nhiều ví dụ nữa, song phần nói về nội dung được Nghĩa
Thục xây dựng thành chương trình giảng dạy, tuyên truyền đã trình bày tỉ mỉ.
Nghĩa Thục gợi ý về một kiểu trường học, một nền giáo dục tích cực đối
với sự cường thịnh của quốc gia và sự phát triển của mỗi người.
Điều này chưa thấy bộc lộ rõ trong các công trình viết về Đông Kinh
Nghĩa Thục đã xuất bản. Bỏ qua giá trị này sẽ không thỏa đáng. Nghĩa thục
đã chỉ sống được tám, chín tháng trong bàn tay sắt của người Pháp. Nhưng
ấn tượng về một kiểu trường học, một nền quốc giáo mới mẻ, tiến bộ như thế
nào đã được gieo mầm trong con người Việt Nam, đời sống văn hóa Việt
Nam từ thời điểm ấy, thời điểm mà giáo dục đạo Nho đã lụi tàn, giáo dục
thuộc địa mới lộ mặt đã bị chỉ trích nhiều mặt quan trọng. Ấn tượng ấy là gì?
– Một nền quốc giáo, một trường học tích cực, tiến bộ, được dân chúng
chấp nhận khi mục đích cao cả của nó là “Để họa quốc cường dân”, là “Học
để làm người dân”, “khoa cử và sự hình thành trường học không cùng một
mục đích”.
– Chức năng có tính “thiên bẩm” của trường học, một công cụ đặc
trưng của giáo dục, là chăm lo con người trong một nước, bất kể giới tính, lứa
tuổi, trình độ trưởng thành khác nhau, trước hết là về sự hiểu biết các giá trị
của lịch sử dân tộc mình, giá trị văn minh của các dân tộc tiên tiến, để kế thừa
và học hỏi, cũng như nhìn ra những cái đã gây ra sự chậm tiến của xã hội
mình đang sống, dù nó có gắn với mình như máu thịt cũng phải trừ bỏ đi, dứt
khoát, mau lẹ, nhất là những quan niệm phản tiến hóa đã có trong cộng đồng
và ở mỗi cá nhân. Vì thế, giáo dục, trường học lấy việc vun đắp kiến thức tiến
bộ để đổi mới hoặc cải tạo thế giới quan, nhân sinh quan của mỗi người, của
cả cộng đồng quốc gia dân tộc.
– Để đạt được mục đích đặc trưng như thế, giáo dục, trường học phải
có chương trình học vấn khoa học, thể hiện ở chỗ:
– Có mức độ phổ cập, đại chúng: chương trình tối thiểu mà tất cả mọi
người dân phải đạt được để sống tốt hơn. Lại phải có mức độ đề cao, chuyên
sâu hơn để đào tạo tài năng trên các mặt đời sống xã hội, trước nhất là về
mặt công việc sản xuất ra của cải vật chất cho mình và tranh đua với thế giới
tân tiến.
– Nội dung giáo dục phải phong phú và giàu tính nhạy cảm để bắt kịp
cái mới mẻ của thiên hạ, và tìm đúng cái cần xây dựng, cần chống lại ở ngay
xứ sở quốc gia, ở con người mình. Trong đó, tình ái quốc, ái quần, lòng trung
nghĩa, chí khí tranh đấu không chịu trời, không thua ai, biết nhục khi thua bại,
ý thức học cái mới tiến bộ về tư tưởng, về lối sống, về công nghệ sản xuất…
được coi là cái cần giáo dục liên tục ở các cấp học. Chương trình học chữ
viết của dân tộc, các môn nói về lịch sử, thiên nhiên quốc gia rất được đề cao.
Các ngoại ngữ không được dùng làm chuyển ngữ trong trường học xứ mình.
Cách thức dạy học tiến bộ, thể hiện ở chỗ:
Thầy giáo ở cấp phổ cập hay đề cao, chuyên môn cũng phải là người
có tâm có tài để làm cố vấn cho người học, chỉ đường cho họ tự vươn lên
theo chỉ tiêu học tập, không làm thay, càng không xúc phạm tới phẩm cách
của họ.
– Để học sinh tự do tranh luận, bộc lộ hết mình, tìm ra chân lí trong sự
tổ chức, vui vẻ, không tách biệt nam nữ.
– Điều cực kì quan trọng là đem nội dung giáo dục trong trường lớp vào
cuộc sống thực thụ, thường ngày. Làm vậy là để tăng số người được học lên,
qua đó hướng họ vào các mục tiêu ái quốc mà nhà trường đã xác định như:
đổi mới lối sống, hoạt động sản xuất, lập các tố chức xã hội tiến bộ… không
câu nệ về hình thức tổ chức trường lớp, chọn lựa nội dung phù hợp cuộc
sống, các thầy giáo là các chiến sĩ gương mẫu, biết vận động dân chúng theo
thình… đó là yếu tố quyết định thành công của việc biến một trường học trong
địa bàn dân cư thành đốm sáng văn minh, không thay thế được, ở khu vực
ấy, đặc biệt là ở vùng thôn dã, xa vắng. Trường là trung tâm văn hóa. Ở đó cả
cộng đồng có thể đến đọc, mượn sách ở thư viện, nghe đọc sách, bình văn,
tranh luận chính trị, xem diễn kịch… Những nét phác thảo về chân dung một
nhà trường, một nền giáo dục mà Đông Kinh Nghĩa Thục đã gợi ý ở bức tự
họa về mình là như thế. Tất cả cho mọi người. Miễn phải trả học phí và học
phẩm. Tự tâm giác ngộ, góp tiền theo sức cho nhà trường. Những cơ sở sản
xuất kinh doanh của Nghĩa Thục có thể nuôi được trường trong thời gian tồn
tại trước con mắt xoi mói và cái còng số 8 của người Pháp đang sẵn sàng…
Đông Kinh Nghĩa Thục làm cho người Pháp sợ hãi
Số học sinh của Nghĩa Thục ở Hà Nội lúc cao điểm là khoảng ngàn
người. Số học sinh của Nghĩa Thục, nhánh nhỏ, ở các nơi đã kể trên, không
biết được bao nhiêu. Tuy nhiên con số một ngàn ấy, và cứ cho là thêm dặm
ngàn học viên chính thức cùng cảm tình đến “học nhờ” nữa… cũng thật có ý
nghĩa cách mạng tranh đấu. Đó là những hạt nhân để gieo cấy nên phong
trào ái quốc, duy tân ở thời điểm này. Phong trào bị dập, có hi sinh đồ máu.
Nhưng sức mạnh của Nghĩa Thục ngay bấy giờ đã làm thực dân run sợ. Vài
ví dụ về điều đó:
– Báo cáo của toàn quyền Klobukowsky có đoạn: “Trong những buổi
nói chuyện hay diễn thuyết, bọn họ xúi dục nhân dân thôn quê chống lại chính
phủ Pháp và bọn quan lại lâu nay cộng tác với sự nghiệp của chúng ta”…
“Hàng loạt thơ ca truyền miệng đã đưa vào tới vùng thôn quê hẻo lánh. Có
những áng văn, những bài thơ đả kích từ ngoài nước bí mật chuyển về đem
rải khắp trong đô thị… Họ đọc thuộc lòng những đoạn thơ ca đượm lòng yêu
nước rất kích động. Họ đi khắp Đông Dương, tổ chức những buổi họp bí mật
và đọc những điều răn mà khẩu khí hùng hồn… và một mặt nữa, vẻ bí mật
bao phủ xung quanh họ…”
– Một người Mĩ nghiên cứu Đông Kinh Nghĩa Thục có nhận xét:
“Đông Kinh Nghĩa Thục với tư cách một phong trào tồn tại ngắn ngủi
nhưng mãnh liệt, thực sự là một hiện tượng chống thực dân, chống cổ truyền.
Những chuyện liên quan đến chính trị lúc ấy, chẳng bao lâu sau được làm
sáng tỏ hơn bằng những cuộc chống thuế và những âm mưu chống Pháp
tương tự trong năm 1908. Vậy ai là người nhiệt tâm bố trí những vụ lộn xộn
ấy? Ở đây tôi tin rằng phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục đã đóng vai trò quan
trọng, có lẽ là cơ bản, giúp cho những thanh niên, từ đây sẽ hình thành một
thế hệ nối tiếp gồm những người chống thực dân.”
Lúc đầu, người Pháp tự đắc và chủ quan, và có cả ngu xuẩn, khi cho
Nghĩa Thục hoạt động, chẳng lâu sau trở nên lo sợ. Chúng muốn bóp chết
Nghĩa Thục nhưng chưa đủ “chứng cứ”. Để đối phó Nghĩa Thục, chúng mở
trường học, nhại kiểu Đông Kinh của các cụ ta, có tên là “Học Quy Tân
trường” ở Hà Nội, vào gần cuối năm 1907. Ở đó có:
– Lớp sơ học cho trẻ dưới 13 tuổi
– Lớp trung học cho học viên 24, 25 tuổi
– Lớp Đại học cho các sinh viên ngũ tuần.
Cùng vào lúc ấy, chúng bày trò mở Viện đại học đa khoa ở Hà Nội
nhằm thu hút sinh viên Đông Dương và cả vùng Viễn Đông (Á châu này) vào
học, với quyết định của toàn quyền Bô, đề ngày 24–9–1907 và ngày khai
giảng sẽ là 1–11–1907. Giáo sư gồm 14 người toàn là “Tiến sĩ cao đẳng
chuyên môn”; người Pháp. Số sinh viên dự tuyển không quá 50.
Tuy nhiên, hai cửa hàng giáo dục người Pháp mở ra đó cũng chết non
ngay. Nó chưa kịp cạnh tranh với Nghĩa Thục, bởi vào cuối năm 1907, phủ
thống sứ Bắc Kì ra lệnh thu hối giấy phép hoạt động của Đông Kinh Nghĩa
Thục. Lí do của việc làm ấy theo người Pháp là: vì Đông Kinh Nghĩa Thục đã
làm cho lòng dân náo động!
Tờ “Đăng Cổ Tùng Báo” bị cấm. Các buổi diễn thuyết, bình văn bị cấm.
Tài liệu do Nghĩa Thục xuất bản bị coi là của phạm pháp, theo đó, ai tàng trữ,
sử dụng, phát tán nó sẽ bị truy tố…
Một số điều về sự hạn chế của Đông Kinh Nghĩa Thục
Do chỉ tồn tại trong mấy tháng nên ý đồ và chương trình hoạt động của
Đông Kinh Nghĩa Thục chưa bộc lộ hết những ưu điểm và thiếu sót của nó.
Tuy nhiên xét về tiêu chuẩn ảnh hưởng chính trị, giá trị tư tưởng, học thuật…
thì có thể khẳng định thành quả, tác dụng đối với đời sống và phong trào đấu
tranh giải phóng tổ quốc của dân tộc ta, của Nghĩa Thục thật lớn, thật mới
mẻ. Nhìn Nghĩa Thục dưới ánh sáng của tư tưởng sư phạm tiến bộ sẽ thấy
Đông Kinh Nghĩa thục, như một cánh én báo mùa xuân, đã gợi lên một số
luận để triết học giáo dục: đã nhóm lên niềm tin rằng ở đất nước Việt Nam sẽ
có một kiểu trường, một nền giáo dục xã hội mới, đảm bảo chất lượng về một
bộ mặt văn hóa, tư tưởng của quốc gia, và cũng đảm bảo cho sự phát triển
của mỗi cá thể.
Người Pháp tự đại, chủ quan đã run sợ cuống cuồng trước Nghĩa Thục.
Người Pháp đã gấp gáp đàn áp Nghĩa Thục một cách cực kì tiểu nhân. Điều
đó chứng tỏ Đông Kinh Nghĩa Thục đúng, đẹp và cách mạng.
Song Đông Kinh Nghĩa Thục cũng có những hạn chế của nó. Rõ nhất,
được một số nhà nghiên cứu kết luận, là hạn chế về nội dung giáo dục.
Chẳng hạn:
Chưa làm cho quần chúng thấy rõ mối liên quan chặt chẽ giữa đế quốc
Pháp với tập đoàn vua quan phong kiến Việt Nam trong khi xác định nguyên
nhân của sự mất nước, bần cùng, trì trệ, lạc hậu.
Từ đó, chưa khẳng định được 100% rằng kẻ thù cần tập trung mọi lực
lượng để đánh bại ngay lúc nào của dân tộc ta chính là thực dân Pháp và Việt
gian phản động nhất.
Nội dung giáo dục của Đông Kinh Nghĩa Thục không đề cập tới vai trò
của nông dân trong cuộc đấu tranh dân tộc, dân chủ lúc này. Vấn đề cơ bản ở
đây là nông dân phải có ruộng đất của mình. Nội dung giáo dục của Nghĩa
Thục không đề cập được cho nên không vạch rõ, đúng con đường mà nông
dân cần trải qua để thỏa mãn yêu cầu tự do và có ruộng.
Từ chỗ kẻ thù chính bị lu mờ, lực lượng chủ công của cuộc đấu tranh
không được hình dung đầy đủ, đúng đắn mà sự giáo dục của Nghĩa Thục về
phương pháp cách mạng chủ yếu cũng chưa chính xác…
Những non yếu, hạn chế của giáo dục Đông Kinh Nghĩa Thục chính là
sự hạn chế trong lí luận, kiến thức về cách mạng dân tộc dân chủ của các cụ
ta. Đó là cái không tránh khỏi. Cách mạng xã hội ở nước ta đã chuyển từ
phạm trù phong kiến sang phạm trù dân chủ tư sản. Vai trò lãnh đạo rơi vào
tay giai cấp tư sản Việt Nam là hợp lô gích lịch sử. Nhưng giai cấp này không
làm nổi vì nhiều lí do mà ta đã biết. Nếu lúc này giai cấp vô sản Việt Nam đã
trưởng thành thì nó sẽ ra vũ đài, cầm lá cờ lãnh đạo, xoay hướng cách mạng
có lợi cho mình và toàn dân tộc. Nhưng nó chưa đạt được sự phát triển đầy
đủ ấy. Tầng lớp sĩ phu ái quốc, tiến bộ “cầm hộ” lá cờ lãnh đạo cách mạng
giải phóng, dân chủ không thể nào tránh khỏi những hạn chế, thậm chí cà sai
lầm. Đó là sự thật lịch sử.
Các cụ sáng lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục đã thể hiện lòng yêu nước,
quyết chí tự cường, dũng cảm làm cách mạng theo cách của mình. Thành
công và hạn chế của Đông Kinh Nghĩa Thục đều có giá trị tạo nên sự trưởng
thành của cách mạng Việt Nam, tư tưởng, văn hóa Việt Nam.
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VÀ TUYÊN TRUYỀN
CỦA ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC
(Theo công bố của ông Chương Thâu qua “Đông Kinh Nghĩa Thục” Nhà xuất
bản Hà Nội 1982).
1. Văn minh tân học sách
2. Quốc dân độc bản
– Giải nghĩa hai chữ Quốc dân
– Lòng yêu nước
– Lòng ái quần
– Nền văn hiến rất lâu đời của nước ta
– Văn minh
– Thuyết văn minh không có giới hạn
– Quan hệ giữa nước và dân
– Dân mạnh thì nước mạnh
– Lòng trung nghĩa
– Chí tiến thủ
– Óc cạnh tranh
– Bàn về quyền lợi và trách nhiệm
– Quốc dân nên biết đến chính sự
– Thuyết thiên mệnh chính là sai lầm
– Bàn về cái hại của khoa cử
– Bàn về sự vô hại của việc không có khoa cử
– Bàn về sự khó khăn của việc biến đổi tập tục cũ
– Nói rõ mục đích việc học
– Giáo dục
– Pháp luật
3. Nam quốc địa dư
– Lời tựa
– Nhân vật
– Vật sản
– Nông công thương nghệ
4. Quốc sử giáo khoa thư
– Lời bạt
5. Đề tỉnh quốc dân ca
6. Đề tỉnh quốc dân hồn
7. Hải ngoại huyết thư
8. Kính quốc nhân
9. Cáo hủ lậu văn
10. Hay nhìn xem tình trạng đau đớn của người Cao Ly mất nước
11. Kêu hồn nước
12. Phen này cắt tóc đi tu
13. Vì sao dân đói?
14. Thiết tiền ca
15. Cần phải học đúng
16. Bài ca địa dư và lịch sử nước nhà
17. Nhắn chị em bạn gái
18. Tỉnh quốc hồn ca
19. Đề cảnh tỉnh bọn nịnh thần
20. Khuyên người nước học chữ quốc ngữ
21. Lịch sử Việt Nam
Z2. Tình phu phụ
23. Gọi tỉnh giấc mơ
24. Bài ca cổ động
25. Khuyên con đi học
3. Dòng giáo dục yêu nước do tổ chức chính trị của giai cấp vô sản Việt Nam trước tháng 8 – 1945 chỉ đạo
Những “Nghĩa Thục” lần lượt bị đóng cửa. Chính quyền thực dân siết
chặt hơn sự áp chế giáo dục. Trường tư không được dạy theo chương trình
của mình. Chính quyền cấp tỉnh xét duyệt khi cho ai đó muốn hành nghề dạy
học, dù là ở các tư thục. Hiệu trưởng phải chịu trách nhiệm về nội dung dạy
học, về việc dạy môn chữ Hán, và về tư cách của giáo viên dưới quyền…
Cản trở to lớn và nguy hiểm ấy đã thực sự chấm dứt cao trào của hoạt
động giáo dục yêu nước chống Pháp của chúng ta. Từ đây, cuộc chiến đấu
trên mặt trận giáo dục của những người yêu nước rút vào bí mật, gian khổ
hơn nhiều. Lịch sử phải chờ đợi, cho tới những năm cuối của thập kỷ 20, hoạt
động giáo dục yêu nước lại xuất hiện với nhiều đặc tính mới mẻ, với một chất
mới. Đó là thời điểm làm bộc lộ đầy đủ sự trưởng thành của giai cấp vô sản
Việt Nam, với sự ra đời các tổ chức chính trị của nó, mà quan trọng nhất, có
giá trị quyết định nhất là sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và việc
Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam vĩ đại, đã trở về, đem theo lời giải đáp chính
xác tuyệt vời của bài toán lớn: làm sao giải phóng được tổ quốc, nhân dân
Việt Nam khỏi gông xiềng thực dân phong kiến?
Đặc tính mới mẻ, tiến bộ, cái chất mới, của hoạt động giáo dục yêu
nước từ những năm cuối của thập kỉ 20 tới tháng 8 1945 là ở chỗ: các lớp
học, huấn luyện, các phong trào giáo dục do những người cộng sản Việt Nam
tổ chức, chỉ đạo không chỉ giúp cho người học biết chữ quốc ngữ, tiếp thu
một số kiến thức khoa học thường thức gắn với đời sống… mà quan trọng
hơn là trang bị cho học viên, tùy theo trình độ, kiến thúc cơ bản về cuộc cách
mạng vô sản ở nước ta, một con đường duy nhất có thể giải phóng đất nước
khỏi ách nô lệ người Pháp để vươn tới chế độ dân chủ, cộng hòa… Từ đó, tư
tưởng “cầu viện” láng giềng, cải lương, duy tân, vốn đã từng được giáo dục,
được thay thế bằng tư tưởng tự cường, tự lực cánh sinh, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh. Mỗi lớp học không chỉ làm rực cháy lòng ái quốc, căm thù giặc
Pháp và tay sai ở mỗi người học, mà vĩ đại hơn còn chỉ ra con đường đi đúng
đắn, gieo trồng niềm tin chiến thắng có cơ sở khoa học cho họ. Đó là cái mà
các “nghĩa thục” trước kia không thể làm được. Cần hiểu rằng trong khi vô
sản Việt Nam chưa có chính quyền, thì hoạt động giáo dục yêu nước và cách
mạng chưa thể công khai với quy mô trường lớp to lớn được. Mục tiêu cơ
bản của giáo dục lúc này là giác ngộ cách mạng cho càng nhiều người càng
tốt. Từ đó chọn lọc, đào tạo lực lượng nòng cốt, trung kiên cho cuộc chiến
đấu lâu dài, quyết liệt. Vì thế, nội dung học vấn được để lên hàng đầu là kiến
thức chính trị, sự am hiểu về con đường và biện pháp cách mạng vô sản ở
nước ta.
Mục tiêu ấy, chương trình ấy được Nguyễn Ái Quốc tính đến một cách
sáng suốt từ trước với trí tuệ, tầm nhìn, với tình yêu, ý chí sắt đá của một lãnh
tụ vĩ đại của cuộc đấu tranh mới. Nguyễn Ái Quốc là người khơi dòng, chỉ
hướng, điều chỉnh cho hoạt động giáo dục yêu nước tiền cách mạng tháng 8.
a) Lớp học đầu tiên và cuốn sách giáo khoa “Đường Kách mệnh”
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước từ năm 1911. Khi đã “đắc
đạo”, vào cuối năm 1924, cụ rời Liên Xô về Quảng Châu, Trung Quốc, để
thực hiện chương trình của quốc của mình. Tại đây, một số nhà ái quốc Việt
Nam như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái,
v.v… đã tập hợp một số người Việt Nam, lập ra tổ chức Tân – Việt Thanh
Niên Đoàn, gọi tắt là Tân Việt, từ năm 1923.
Cũng ở Quảng Châu còn có tổ chức yêu nước của cụ Phan Bội Châu.
Nguyễn Ái Quốc đã gặp gỡ, vận động, tuyển chọn một số thanh niên của các
tổ chức ấy, và số từ trong nước vừa mới bí mật sang đây, lập một lớp học
chính trị. Thời ấy gọi là lớp huấn luyện chính trị.
Mục tiêu của lớp học chủ yếu là xúc tiến đào tạo những cán bộ vừa có
lí luận vừa biết cách vận động, giáo dục quần chúng làm cách mạng. Nội
dung học tập cơ bản là nội dung cuốn sách “Đường Kách mệnh” do Nguyễn
Ái Quốc biên soạn, giảng luận.
Cuốn sách này về sau được “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông” xuất bản. Học viên được nghe Nguyễn Ái Quốc giảng giải 13 bài cơ
bản:
– Cách mạng
– Lịch sử cách mạng Mĩ
– Cách mạng Pháp
– Lịch sử cách mạng Nga
– Quốc tế
– Phụ nữ quốc tế
– Công nhân quốc tế
– Cộng sản thanh niên quốc tế
– Quốc tế giúp đỡ
– Quốc tế cứu tế đỏ
– Cách tổ chức công hội
– Tổ chức dân cày
– Hợp tác xã
Trước khi học 13 bài ấy, mọi người được học bài mở đầu “Tư cách một
người cách mạng”. Nội dung cơ bản của bài này có thể tóm lược lại ở mấy
khái niệm: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Nói chung, vốn hiểu biết của học viên về các vấn đề trên là rất thấp, rất
ít ỏi, thậm chí chưa có. Đối với họ, đó là cái mới lạ. Tuy nhiên, cụ Nguyễn Ái
Quốc uyên bác đã chọn một cách giảng dạy phù hợp với tình thế và mục tiêu
của lớp học, phù hợp với đức tính chính xác, giản dị của mình. Nội dung mỗi
bài cực kì súc tích nhưng rất gọn gàng, rõ ràng. Nói về vấn đề gì dù là xa
rộng, lớn lao… người học cũng được hướng dẫn rút ra kết luận thiết thực khi
liên hệ với tình hình đất nước, con người dân tộc mình. “Cách mạng Việt Nam
nên nhớ những điều này”, đó là kết thúc mỗi bài giảng của thầy giáo Nguyễn,
và cũng là thu hoạch của học viên sau mỗi bài học. Ví dụ:
Sau khi học về cách mạng của Mỹ (1776) của Pháp (1789) người học
xác nhận cái hay, tiến bộ của nó, nhưng không quên rằng các cuộc cách
mạng ấy vẫn không đem lại chính quyền cho nhân dân. Cách mạng Pháp
1789 có khí thế “đoạt trời” nhưng tổ chức không khéo, và vì không liên lạc với
dân cày nên đã thất bại… Bài lịch sử cách mạng Nga để lại nhiều điều mới
mẻ trong người học, và cách mạng Việt Nam nên nhớ: “Muốn cách mạng
thành công thì phải dân chúng làm gốc; phải có đảng vững, phải bền gan,
phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại, phải theo chủ nghĩa Mác – Lê–nin”.
Quy trình học tập được tuân thủ chặt chẽ, gồm các bước:
– Nghe giảng
– Thảo luận tập thể
– Tự nghiên cứu
– Tham quan, thâm nhập thực tế.
Mỗi học viên phải được huấn luyện thành một cán bộ biết tổ chức, vận
động cách mạng. Cho nên, mỗi người phải hiểu chính xác, tin tưởng đinh ninh
vào mục đích sự nghiệp chung, và làm cho quần chúng hiểu và tin như thế. Vì
vậy, tự do tư tưởng, nói thật, nói hết cho thầy, bạn nghe về suy nghĩ của mình
để được uốn nắn, bổ sung sự hiểu biết, là cách học tốt nhất ở đây. Giá trị cải
tạo tư tưởng vì thế mà có hiệu quả lớn. Thêm vào đó, ai cũng học được cách
tuyên truyền, tổ chức khôn khéo, đúng đắn. Lớp học cách mạng mới, đầu
tiên, trong lịch sử hiện đại của dân tộc, do những người cộng sản tổ chức, đã
diễn ra và thành công đầy tin tưởng như thế đấy. Đó là sự thí điểm thắng lợi
giúp cho hoạt động giáo dục phát triển rộng, sâu hơn ngay ở trong nước.
Đúng thế, vào tháng 6 năm 1925, cụ Nguyễn Ái Quốc xây dựng “Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí hội” với hạt nhân là “Cộng sản đoàn”. Hội ra
tờ báo “Thanh Niên” làm cơ quan ngôn luận của mình, qua đó tuyên truyền
cách mạng trong nước.
Có tổ chức là có giáo dục. Từ năm 1925 đến tháng 4 năm 1927 Nguyễn
Ái Quốc lần lượt mở được mười lớp huấn luyện. Mỗi lớp kéo dài từ 45 ngày
đến 90 ngày. Tổng số học viên trên 200 người. Hơn hai trăm hạt giống quý
đầu tiên của cách mạng vô sản Việt Nam này, trước mắt, họ được cụ Nguyễn
trang bị cho một vốn hiểu biết cơ bản về cách mạng để làm được nhiệm vụ
mà cụ Nguyễn và tổ chức giao phó là “Đem cách mạng các nước làm gương
cho chúng ta soi; Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ: Ai là bạn
ta? Ai là thù ta? Cách mạng thì phải làm thế nào?”.
Họ thấm nhuần quan niệm của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: “Học để mà
làm”. Do đó, họ đã xông vào cuộc vận động cách mạng đầy hiểm nguy và
hứng thú. Thực tiễn giáo dục thêm cho họ, và dần dần biến họ thành những
chiến sĩ cộng sản có đức có tài lực lượng đảm bảo cho Đảng cộng sản làm
tròn sứ mạng lịch sử của mình: lãnh đạo toàn dân phản đế, phản phong, xây
dựng chế độ dân chủ cộng hòa…
Chỉ sau bốn, năm năm, kể từ ngày người học viên của lớp huấn luyện
chính trị đầu tiên “tốt nghiệp”, bão táp cách mạng vô sản Việt Nam bắt đầu
nổi. Đảng cộng sản ra đời. Cuộc chiến đấu chống Pháp và tay sai của dân
Việt Nam do Đảng lãnh đạo bước đầu ra một đòn mạnh vào kẻ thù để thức
tính ý chí đấu tranh toàn dân tộc, và, thu hút sự ủng hộ của phong trào cách
mạng vô sản thế giới. Đòn đánh đầu tiên ấy là cuộc khởi nghĩa của nhân dân
Nghệ Tĩnh lập chính quyền Xô viết vào năm (1930 – 1931).
Trước đó vài chục năm, trước sự xuất hiện lớp vô sản thành thị và
ngoại ô ở đất nước này, bọn thực dân Pháp đã linh cảm thấy sớm muộn
chúng cũng phải ăn đòn.
“Khốn thay! Tấm mề đay có mặt trái của nó. Sự phát triển của những
đô thị sớm như Sài Gòn, Chợ Lớn làm cho ta thấy lại sinh ra một thứ vô sản
thành thị và ngoại ô. Thái độ và hành động của đám vô sản này làm cho số
người Âu châu, và những giai cấp giàu có của bản xứ lo sợ một cách nghiêm
trọng và có lí”.
Biết trước vẫn không tránh được, nhưng bọn chúng không ngoan
ngoãn “tự chết”, mà trở nên tàn bạo để kéo dài mạng sống càng lâu càng tốt.
Bởi thế, sau cao trào xô viết Nghệ – Tĩnh, lực lượng cách mạng bị đàn áp
nặng nề. Nhiều đảng viên cộng sản và người Trung Kiên trong nhân dân bị tù
đày. Người Pháp hào hiệp đã tặng cho người Hoa Kì bức tượng “thần tự do”
và cũng “hào hiệp” xây nhiều nhà tù cho dân biệt Nam! Tuy nhiên, những
người cách mạng Việt Nam đã biết biến nhà tù thành trường học chuẩn bị tích
cực cho cuộc chiến đấu tiếp theo của mình.
b) Nhà tù đế quốc, nơi đặt các lớp học cách mạng
Đối với người cách mạng kiên định, lạc quan thì nhà tù của đế quốc
không thể khuất phục họ. Ngược lại, đây là chiến trường đặc biệt của họ, mà
ai qua được sẽ kiên định hơn, khôn ngoan hơn, quyết chiến hơn lên nhiều
lần. Để làm được điều đó họ nêu khẩu hiệu “Biến nhà tù thành trường học” để
tổ chức các lớp học cho đồng chí, đồng đội của mình với quan niệm học để
đủ sức chịu đựng một cách khôn ngoan một đàn áp tra tấn; Học để sống; Học
để chuẩn bị cho tương lai, khi mình được trở lại với phong trào cách mạng.
Để “Biến nhà tù thành trường học”, các chiến sĩ bị giam cầm đã làm nhiều
việc một cách khôn khéo, chủ động. Trong đó có việc tổ chức các lớp học
chính trị, văn hóa cho đồng chí, đồng đội tùy theo điều kiện cụ thể. Chúng ta
tập trung tìm hiểu việc tổ chức học tập này, chứ không có tham muốn tìm hiểu
cả vấn đề “Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”. Vì vậy, có thể
thay tiêu đề của phần này bằng tiêu đề: “các lớp học cách mạng trong nhà tù
đế quốc Pháp.”
– Phải vượt qua khó khăn, nguy hiểm chết người để học. Chế độ nhà tù
mà người Pháp, có tiếng văn minh nhất nhì hoàn cầu, xây dựng ở Việt Nam
là thứ chế độ nhà tù dã man, tàn khốc hơn nhà tù thời trung cổ.
Những quy định về ăn, uống, mặc, diện tích ở, lao động, giao tiến v.v…
đối với tù nhân chính trị, mà người Pháp thực hiện, chỉ nhằm mục đích làm
hủy hoại thể xác dần dần của tù nhân để khuất phục tinh thần đấu tranh cách
mạng của họ. Biện pháp tra tấn bằng võ lực mà nền văn minh Pháp sáng tạo
ra; biện pháp tra tấn tinh thần một cách ma quái mà người Pháp sử dụng,
không phải lúc nào cũng vô tác dụng cả. Vì thế, cách mạng Việt Nam đã chịu
nhiều phen sóng gió, đã phải chịu mất không ít chiến sĩ của mình.
Ví dụ: ở nhà lao Đắc Pao, có 295 tù nhân chính trị thì 215 người đã bị
chết.
“Với 200 tù nhân chính tri bị đày Sơn La vào tháng 2–1933 đã có 30
người chết trong vòng chín tháng”.
Người sống được ở trong tù cũng bị tàn phế, bệnh tật hiểm nghèo. Lại
nữa, mọi hoạt động của tù nhân đều bị rình mò, phát giác bằng nhiều cách
của bọn quản ngục. Giấy, bút, tài liệu học tập không có sẵn ở trong nhà lao, v.
v…
– Cách cấu tạo lớp học:
Ban lãnh đạo ở các khám, các nhà lao căn cứ vào trình độ và niên hạn
bi tù của từng người mà phân thành hai loại lớp:
– Lớp dài hạn: Thu nhận các tù nhân có trình độ văn hóa khá cao và
hạn ở tù trên 5 năm.
– Lớp ngắn hạn giành cho những người chịu án dưới 5 năm ở tù
Quy mô lớp nhỏ, gọn: chỉ có từ 10 đến 20 người, do một người có trình
độ khá hơn phụ trách.
– Nội dung học: Về lí luận cách mạng:
Học viên lớp dài hạn được tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lê tương đối có
hệ thống và nghiên cứu kỹ càng đường lối cách mạng mà Đảng cộng sản đã
đề ra.
Học viên lớp ngắn hạn được học về:
– Duy vật sử quan
– Chủ nghĩa cộng sản sơ giản
– Luận cương chính trị của Đảng
– Năm bước công tác
– Công tác bí mật, v.v…
Tài liệu giảng học ở trong lớp học nhà tù có được là nhờ:
– Đường dây bí mật của tổ chức Đảng khéo léo gửi vào
– Ban huấn luyện trong nhà lao phân công các tù nhân có trình độ cao,
dựa vào sự hiểu biết của mình, kết hợp với tài liệu đã được học, hay đang có
ở trong các lớp học, biên soạn thành những tài liệu có quy mô và nội dung
phù hợp với số đông người học. Ví dụ như:
Ông Ngô Gia Tự viết tập sách “Những vấn đề cơ bản của cách mạng
Đông – Dương”. Ông Trường Chinh viết sách: “Duy vật sử quan”, “Gia đình
và Tổ quốc”. Ông Ngô Gia Tự và ông Hà Huy Giáp dịch bản “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”, cuốn “Làm gì?”, cuốn “Bệnh ấu trĩ và tả khuynh trong phong
trào cộng sản”, “Hai sách lược”, cuốn “Nguyên lý chủ nghĩa Lê Nin”… Một số
người cùng nhau viết tập tài liệu về “Lịch sử tóm tắt ba quốc tế”.
Tài liệu học tập trong lớp học nhà tù là xương máu, là hi sinh của đồng
chí, đồng đội. Đưa sách vào tù đã khó. Cất dấu, sử dụng càng nguy khó bội
phần. Anh em phải chọn người viết giỏi để chép tài liệu, vào các mảnh giấy
như giấy cuốn thuốc lá cất dấu vào hầm cầu tiêu, mái nhà, trong tường, v.v…
Nhiều người đã tìm cách cất dấu an toàn bậc nhất? Học thuộc lòng tài liệu.
– Nội dung học tập rất hấp dẫn khác: Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
Có nhiều nhà chính trị rất lạc quan đã từng nói rằng thời gian ở nhà tù
là dịp tổ chức đúc kết kinh nghiệm công tác mình đã làm, việc của cấp trung
ương, của cấp chi bộ cơ sở, của các nghị quyết, của từng cá nhân đảng viên,
cán bộ… một cách thỏa chí, chẳng cần xin phép, chẳng phải trốn tránh ai…
Quả có thế. Trong xà lim án chém ở nhà pha Hỏa Lò, Hà Nội, các chiến
sĩ vẫn tin tưởng, hi vọng, vẫn rút kinh nghiệm về công việc đã làm: công vận,
nông vận, phụ vận, thanh vận, địch vận v.v… Trong nhà tù Côn Đảo, ông Ngô
Gia Tự đã tổ chức các “hội thảo” rút kinh nghiệm về đường lối chung của
cách mạng, về đường lối của Đảng đối với các giai cấp xã hội.
– Học tập các nghị quyết, chỉ thị công tác của Đảng từ ngoài đưa vào.
Đây là nhiệm vụ, còn là cách để khỏi tách mình ra ngoài phong trào chung, và
để sẵn sàng “thoát cũi sổ lòng”, trở về với tổ chức không bỡ ngỡ các công
việc. Những khi cách mạng có vấn đề lớn nảy sinh, ví như từ sau năm 1942,
khẩn trương, bức xúc… thì việc nắm bắt kịp, đủ các chỉ đạo của Trung ương
trở nên quan trọng bậc nhất của việc học ở các lớp trong tù.
– Học văn hóa và quân sự.
Lớp tù nhân có vốn văn hóa thấp thì được giúp học về quốc văn, toán
pháp. Những người có trình độ khá thì học ngoại ngữ như: Tiếng Tàu, tiếng
Pháp, Anh, Quốc tế ngữ.
Quyết chí, lạc quan, có người đã thuộc lòng cả cuốn từ điển Pháp đồ
sộ Larousse, như ông Trần Huy Liệu. Còn ông Hoàng Đình Rong thì học tiếng
Pháp qua từ điển Pháp – Hoa…
Trong thời kì cận khởi nghĩa vũ trang tháng 8 – 1945, tù nhân ở các
nhà lao, như Sơn La, chợ Chu, Ba Vân, Ba Tơ… đã học thêm về quân sự.
– Cách giảng học ở lớp trong tù:
Thường kì các buổi học, người phụ trách điều khiển cả lớp. Học viên
ôm vai, bá cổ nhau, xúm xít như ngồi tán gẫu làm vui để che mắt địch. Ví dụ
về một giờ học ở nhà pha Hỏa Lò, Hà Nội:
“Tại mỗi lớp, đồng chí phụ trách đọc một câu hỏi, một đoạn sách để mọi
người thảo luận. Cuộc thảo luận thường là sôi nổi. Nhiều khi, chỉ một từ, như
“kinh tế” chẳng hạn, chúng tôi để ra gần một tháng để tranh cãi. Trong giờ ra
tắm giặt, chúng tôi vẫn tranh luận. Đôi khi, chúng tôi tranh luận cả vào bữa ăn
nữa”. Cách học đơn giản hơn, hợp với trình độ anh em công nhân, nông dân
mới bị vào tù, là hỏi đáp. Theo cách này, người hướng dẫn nêu câu hỏi ngắn.
Người nghe, ai biết thì phát biểu. Ví dụ: Cộng sản là gì? Giai cấp là gì? Đấu
tranh giai cấp là gì?… Sau đó, người hướng dẫn giải thích chính xác dễ hiểu
để người học thu nhận các vấn đề được nêu lên.
Tóm lại, lớp học nhà tù là biểu hiện một phần nhân cách cao đẹp của
những người cách mạng, người cộng sản: Tinh thần chiến đấu đến cùng, tinh
thần trách nhiệm cao trước phong trào giải phóng giai cấp, dân tộc, tính kỉ luật
sắt đá, tinh thần ham tiến bộ và tinh thần lạc quan tin tưởng vào sự nghiệp
của Đảng sẽ chiến thắng… Lớp học trong nhà tù là loại lớp học đặc biệt trong
hệ thống trường lớp đặc biệt. Lợi ích của nó thật lớn lao.
Hoạt động truyền bá quốc ngữ, chống thất học
Một dân tộc có nhu cầu chữ viết riêng của mình. Đó là hiện tượng phổ
biến. Nhân dân Việt Nam, cho tới thế kỉ XII sau công nguyên, vẫn không có
chữ viết riêng của mình. Từ thế kỉ thứ X về trước, ở một nghìn năm nặng nề
ấy, dân tộc ta bị phong kiến Trung Hoa cai trị. Chữ Hán, thường gọi là chữ
Nho, của dân tộc Hán Trung Hoa được bọn xâm lược mang sang, áp đặt, bắt
ta học và dùng để biên chép sách sử và dùng trong nhà trường. Sau thế kỷ X,
Việt Nam giành lại độc lập, tự chủ nhưng dân ta vẫn phải dùng chữ Hán.
Theo số đông nhà nghiên cứu lịch sử tới thế kỉ XII, XIII một số trí thức Việt
Nam mới hoàn thành việc tạo ra cho dân mình một kiểu chữ riêng. Đó là sản
phẩm của lòng yêu nước, tự cường, bất phục tùng ngoại bang của cha ông
ta. Chữ riêng ấy được các cụ gọi là chữ Nôm. Đã có những ông vua Việt Nam
chủ trương dùng chữ Nôm. Nhưng, chữ ấy cũng có một số hạn chế về việc
viết và diễn đạt nội dung. Lại có thói quen sâu sắc về đùng chữ Hán ở trong
tri thức ta… nên chữ Nôm không phát triển lên được. Vào thời kì chủ nghĩa tư
bản châu Âu tiến hành xâm lăng vùng Viễn Đông – Á châu, với đội quân trinh
sát và tiền trạm đắc lực là cha cố đạo Gia Tô, Việt Nam có được chữ viết mới,
một kiểu ghi âm bằng các chữ cái của ngôn ngữ La Tinh, nhờ một cố đạo Tây
âu cùng một số người Việt nghiên cứu xác lập ra. Kiểu chữ này có nhiều cái
hay. Thời gian học để viết và đọc được chỉ vài bốn tháng, nếu chăm chỉ. So
với chữ Nho, chữ mới này tiện lợi hơn nhiều lần trong sử dụng. Thế rồi, nước
Việt Nam bị người Pháp cướp đoạt. Chữ Pháp tràn vào theo chân người
Pháp ăn cướp. Số ít người Việt có học đã dùng các chữ: Nho, Pháp, Việt
mới, và cả chữ Nôm trong ghi chép. Thực tâm, người Pháp chỉ muốn bắt dân
Việt dùng chữ Pháp, nói tiếng Pháp. Nhưng họ đã không đạt nổi chủ ý xấu xa
ấy. Tuy nhiên, hơn 90% dân Việt Nam không được học để biết viết, biết đọc
theo chữ Việt tân tiến. Nạn mù chữ phổ biến, nặng nề góp sức cùng các nạn
khác làm yếu dân tộc ta. Không biết chữ là đứng ngoài chính trị. Các nhà ái
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị họ lập ra để chống Pháp từ cuối thế kỷ
XIX đã nêu lên việc dạy chữ quốc ngữ cho đồng bào mình, coi đó là một yếu
tố của sự canh tân xã hội. Tuy đã chịu gian khổ và cả hi sinh, nhưng những
chiến sĩ ái quốc lớp trước cũng chưa làm được nhiều về việc chống thất học
cho nhân dân.
Vị cứu tinh dân tộc – Nguyễn Ái Quốc – xuất hiện. Cách mạng Việt
Nam tìm được đường đi đúng đắn. Đảng cộng sản ra đời. Trong số các biện
pháp cách mạng của mình, Đảng đã coi việc truyền bá quốc ngữ, chống thất
học cho toàn dân tộc là một biện pháp quan trọng đặc biệt.
Điều này đã được Nguyễn Ái Quốc định hướng từ lâu. Trong cuốn
“Đường Kách mệnh” của mình, Người đã gợi ý: khi tổ chức công hội cần nhớ
rằng: Khi có tiến thừa thãi thì nên làm những việc này:
1. Lập trường học cho công nhân
2. Lập trường cho con cháu công nhân
3. Lập nơi xem sách, xem báo…
Tiếp thu tư tưởng của Người, trong chương trình cách mạng của mình,
các tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản đều nêu nhiệm vụ chống nạn thất
học. Ví như.:
Trong chính cương của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí hội có đoạn: Sau khi Đảng ra đời, phải “Đánh đổ giáo dục của thống trị
giai cấp; đề xướng và sắp đặt giáo dục; giáo dục bắt buộc, tổn phí nhà nước
chịu phụ trách”.
Trong phần nói về chính sách văn hóa của Đông Dương Cộng sản
Đảng có đoạn nêu rõ: “Tự do xem sách báo; Tự do mở trường; Tự do học
hành…”
Trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng Cộng sản, có ghi: “Phổ thông
giáo dục theo công nông hóa”.
Tóm lại, các tổ chức yêu nước ra đời từ cuối thế kỉ XIX về sau đều coi
trọng công tác giáo dục cho đa số nhân dân. Xóa nạn chưa biết chữ cho
công, nông và tầng lớp lao động, được những người cộng sản nêu lên, trỏ
thành nguyện vọng của đa số trí thức yêu nước và nhân dân. Bởi vậy, trong
khi chưa có chính quyền, phong trào chống thất học và chống nạn chưa biết
chết vẫn tìm được cách tồn tại, phát triển trong chừng mực có thể. Ví dụ:
Trong thời gian gần một năm tồn tại của Xô viết Nghệ – Tĩnh đã có 815
lớp học, với số học sinh là 1 1.626 người, và số thầy dạy là 436. Chỉ riêng Hà
Tĩnh, số học sinh ở trường làng Xô Viết đã có 5213 người, trong khi số học
sinh trường Pháp Việt ở Hà Tĩnh chỉ có 3265 người.
Sau Xô viết Nghệ Tĩnh cách mạng bị dân áp mạnh. Kiểu làm giáo dục ở
các làng Xô viết không thể tồn tại, mà phải tìm cách mới. Và đúng thế, vào
năm 1938, một tổ chức giúp Đảng lo việc chống thất học đã ra đời.
c) Hội truyền bá quốc ngữ
Tình hình cách mạng chuyển biến mau lẹ hơn trong thời kì thế chiến
thứ 2. Sự chỉ đạo đấu tranh cần đến được với quần chúng cách mạng qua
báo chí, sách vở. Công, nông phải đọc được hiểu được. Báo chỉ của cách
mạng ra khá nhiều. Tới năm 1945 số báo đã ra có
đến 256 tờ. Tuy nhiên, đa số quần chúng cách mạng không đọc được.
Ông Hoàng Quốc Việt, một cán bộ cao cấp của Đảng cộng sản kể rằng:
“Chúng tôi nhận thấy sách báo của ta tuy ra nhiều nhưng số đông độc giả là
công nhân, nông dân và những tầng lớp lao động khác còn chiếm một tỉ lệ rất
ít, vì đại đa số anh chị em không biết đọc, biết viết. Để giải quyết vấn đề khó
khăn ấy, chúng tôi nảy ra ý kiến: cử anh Phan Thanh đến mời cụ Nguyễn Văn
Tố đứng ra xin lập Hội truyền bá quốc ngữ” (Xem Hồi kí của Hoàng Quốc
Việt: “Nhân dân ta rất anh hùng” NXB Văn học Hà Nội 1960, tr. 180).
Thế là vào tháng 8 năm 1938, Hội này được thành lập và hoạt động
cho tới ngày nhân dân cướp được chính quyền trong cả nước. Nhiều người
nghiên cứu về Hội truyền bá quốc ngữ xác định quá trình hoạt động của Hội
gồm 3 giai đoạn cơ bản:
Giai đoạn chuẩn bị kế hoạch hoạt động
– Hội trưởng là cụ Nguyễn Văn Tố.
Những người có trách nhiệm và uy tín lớn được tổ chức cách mạng cử
ra tham gia chỉ đạo Hội: ông Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai,
v.v…
– Hệ thống tổ chức của Hội: Do mới thành lập chưa có kinh nghiệm,
kinh phí thiếu thốn lại do chính quyền thực dân không thể trắng trợn cấm
đoán, mặt khác cũng không muốn cho Hội bành trướng nhanh tổ chức và ảnh
hưởng, nên: mới có Ban trung ương Hội và một số chi Hội tỉnh.
Ban Trung ương Hội đặt ở Hà Nội. Giúp cho Ban Trung ương có các tổ
chức chuyên môn như: Ban tu thư, ban tuyên truyền khánh tiết.
– Mục đích hoạt động được xác định là:
“Truyền bá quốc ngữ, dạy người Việt Nam biết viết tiếng mình. Khi có
thể được thì dạy cho người Việt Nam biết ít điều thường thức cho cuộc sinh
hoạt hiện thời”.
– Đối tượng dạy học ở đây là:
Những người nghèo thất học không có điều kiện theo học ở trường
công hay trường tư. Họ vào các lớp đầu không phải đóng học phí mà còn
được cấp cho giấy, bút, sách vở.
– Kinh phí hoạt động của Hội:
Nguồn tài chính chủ yếu là số tiền quyên góp do những người hảo tâm,
ủng hộ Hội. Tiền thu được qua các buổi vui chơi, văn nghệ do Hội tổ chức
cũng là nguồn đáng kể. Ngoài ra, nhà nước cũng cho một khoản trợ cấp bất
thường.
Do ngân quỹ ít ỏi, lại do tự nguyện nên các giáo viên đều không có thù
lao, Hội không có trường lớp riêng được. Phần nhiều lớp học được đặt ở tư
gia, đình, chùa.
– Tài liệu giảng dạy được xác định là:
Không dùng sách vỡ lòng lúc ấy để dạy vì kiểu dạy chữ rồi mới dạy
vần… đòi hỏi nhiều thời gian của người học biết đọc, viết. Ban tu thư đã soạn
cuốn sách để dạy và học mới mẻ, hấp dẫn, khoa học, tiện lợi hơn. Đó là cuốn
“Vần quốc ngữ”. Theo sách này mà dạy và học sẽ đem lại kết quả cao hơn
học kiểu cũ. Ví dụ:
Bài số 11 của sách dạy về: D, Đ, Ai, OI, ÔI, ƠI. Học viên nhận mặt chữ,
tới luyện tập phân tích cấu tạo từ, tìm vần qua hai câu dễ hiểu, dễ nhớ:
Tôi đợi bạn mà bạn lại đi.
Tội nói dối là tội to lắm.
Bài 13 được viết như sau: G, GH, NG, NGH.
Ở bẩn, ghẻ lở ghê tởm lắm
Ốm nên nghỉ ngơi hơn là lễ bái.
– Dạy thí điểm để hoàn thiện công việc chuẩn bị mở rộng phong trào. Ở
Hà Nội, Hội đã mở 4 khóa học cho hơn một nghìn người lao động. Kết quả
đem lại như ý.
Ở xứ Trung Kì, cuối năm 1938, một số đảng viên, trí thức đã xin phép
thành lập chi Hội truyền bá quốc ngữ, nhưng tới năm 1939 mới được chuẩn
y. Và số lớp còn ít, mới có vài lớp ở vùng Huế và Đà Nẵng.
Tóm lại, gần 2 năm chuẩn bị mọi thứ cho hoạt động, trung ương Hội đã
vững tin vào kế hoạch sẽ triển khai sắp tới.
Giai đoạn II: Củng cố ban lãnh đạo; mở rộng địa bàn hoạt động
Từ khoảng tháng 10 – 1940 đến tháng 7 – 1944, thời sôi nổi này kéo
dài gần 4 năm với tài khéo léo của các nhà chỉ đạo
– Hoàn thiện bộ máy chỉ đạo:
Ngoài các vị đang làm việc, ban trị sự của Hội được tăng cường thêm
một số vị hội viên tích cực và có kinh nghiệm công tác Ban dạy học, thanh tra,
khánh tiết và tài chính đều được bổ sung cán bộ.
– Quyết định mở rộng đối tượng dạy học.
Ngoài đối tượng là người lao động, nghèo, chưa biết chữ được vào các
lớp, nay thêm những người đã thoát nạn “mù chữ”. Loại này được gọi là học
viên lớp “cao đẳng”. Họ được học một số kiến thức văn hóa phổ thông cần
thiết, đơn giản.
Sự tổ chức này là hay, bởi nó giúp cho việc không phải xóa nạn “mù
chữ lại” và nâng được dân trí lên một mức.
– Soạn tài liệu cho lớp “cao đẳng”.
Ban dạy học và tu thư cùng lo việc này. Tài liệu này được gọi là sách
thường thức. Ví dụ:
Cuốn “Vệ sinh thường thức” do bác sĩ Trịnh Văn Tuất viết, cuốn
“Truyện bác Hai Bền” nói về cách đối xử với họ hàng, làng xóm do ông Hoàng
Đạo Thúy viết.
– Huấn luyện giáo viên, tổ chức rút kinh nghiệm.
Ban dạy học chuyên lo về việc bồi dưỡng phương pháp cho giáo viên,
huấn luyện cho họ nhiều hoạt động phục vụ giảng dạy tốt. Những lớp bồi
dưỡng dài ngày cho giáo viên được tiến hành. Chủ trương đúc rút kinh
nghiệm từ các chi hội của ban chỉ đạo đã được thực hiện thường xuyên.
Nhân dịp ki niệm 6 năm ngày thành lặp, vào ngày 29–7–1944 “Hội nghị giáo
khoa toàn quốc” được tổ chức tại Hà Nội. Hơn 700 đại biểu các chi hội miền
Bắc và Trung đã về dự. Báo cáo đánh giá hoạt động truyền bá quốc ngữ,
chống thất học của cụ Nguyễn Văn Tố đã nêu lên nhiều điều được khẳng định
là tốt. Trong đó, có kết luận quan trọng: “Phương pháp dạy vỡ lòng của Hội
đã được coi là hoàn hảo”.
Trong thời gian họp, các đại biểu đã sôi nổi trao đổi với nhau kinh
nghiệm tổ chức, duy trì sĩ số, cách vượt khó khăn, cách làm đồ dùng dạy
học…
– Mở rộng số lượng các lớp học và chi hội:
Dù nhà cầm quyền thực dân tìm cách gây khó, nhưng nhận thức rõ yêu
cầu to lớn của công việc, cán bộ Hội đã khôn khéo tìm cách tăng cường
trường lớp rộng ra ngoài khu vực Hà Nội.
Riêng ở Hà Nội, số trường đã từ 9 tăng lên 35.
Tháng 3 – 1940 số giáo viên có 70, nay tăng lên 245 người. Số học
viên từ 1100 phát triển lên khoảng 4000.
Vùng Bắc Kì có các chi hội: Bắc Giang, Đáp Cầu, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Kiến An, Uông Bí, Quảng Yên, Hà Đông, Hà Nam, Thái Bình. Vùng
Trung Kì xuất hiện các chi hội: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định,
Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Thuận An, Đà Nẵng, Đà Lạt.
Giai đoạn III: Mở hoạt động ra toàn quốc. Phong trào lên đỉnh cao rầm
rộ.
Giai đoạn cao trào truyền bá quốc ngữ diễn ra vào thời điểm lịch sử:
Đảng cộng sản đang gấp rút chuẩn bị cướp thời cơ giành chính quyền từ tay
phát xít Nhật. Lúc đó, dân Việt Nam bị cùng kiệt đang đón cái đói khủng khiếp
do Pháp Nhật gây ra, và hơn hai triệu người bị đói mà chết; cuộc thế chiến II
đang vào giai đoạn cuối, tình hình thế giới thay đổi mau lẹ. Khoảng một năm,
từ tháng 8 năm 1944 đến tháng 8 – 1945, Hội mở rộng hoạt động ra toàn
quốc.
– Sau hội nghị giáo khoa toàn quốc, vào tháng 11 – 1944 Ban trị sự của
Hội được bổ sung nhiều ủy viên, gồm cả một số sinh viên hăng hái nhất, một
số công chức đã theo cách mạng hoặc có cảm tình với Việt Minh. Cụ Nguyễn
Văn Tố tái trúng cử Hội trưởng.
– Chi hội được phát triển rộng khắp trên các địa bàn quốc gia.
– Ta có loại chi hội ở thành thị
– Ta có loại chi hội miền núi như Bắc Giang, Lạng Sơn, Thái Nguyên
– Ta có loại chi hội vùng biển như Hải Phòng, Thái Bình.
Lớp học không chỉ có ở thị trấn mà còn có ở vùng sâu, nông thôn, ví
như khu Găng ở Lục Nam Bắc Giang, khu Đồng Mỏ ở Lạng Sơn. Lại có lớp
mở cho binh lính người Việt học: Chi hội Thái Nguyên; mở lớp học cho đồng
bào theo đạo thiên chúa ở chi hội Phát Diệm, Ninh Bình…
Đấy là tình hình truyền bá quốc ngữ ở Bắc Kì. Ở Trung kì, các chi hội
tỉnh phát triển mạnh, đều khắp hơn thời kì trước. Sau cuộc Nhật đảo chính
Pháp (9–3–1945), các tù nhân chính trị được trở về đông. Họ tham gia vào
phong trào chống thất học để tiếp tục thực hiện kế hoạch cách mạng của
Đảng. Một không khí hào hưng về học chữ, hào hứng về sự phát triển lực
lượng cách mạng, một niềm vui rộng lớn, tràn vào các lớp học chữ ở đất
Trung Kì thời điểm này như chưa từng có.
Ở Nam Kì, phong trào bị chính quyền địa phương cản trở nên có chậm
phát lên. Sau tháng 8 năm 1944 Thống đốc Nam Kì đành phải kí lệnh cho
phép Hội hoạt động. Thế là, các tỉnh miền Tây xuất hiện nhiều chi hội, lan
sang các tỉnh khác khá nhanh. Trong năm 1944 ở Nam Kì đã có chi hội ở các
tỉnh: Cần Thơ, Bến Tre, Mĩ Tho, Long Xuyên, Sa Đéc, Biên Hòa, v. v… một số
nơi đã mở lớp xuống tận xã. Người thiểu số cũng có lớp để học. Cán bộ Hội
lại tổ chức được lớp học cho kiều bào ta ở Phrôm Pênh (Campuchia) Pakxé,
Viêng Chăn (Lào).
Kết quả lớn nhất của phong trào chống thất học
Từ ngày 25 - 5 – 1938 tuy chưa có phép nhưng Hội truyền bá quốc ngữ
đã khởi sự. Từ đó đến tháng 8 – 1945, Hội đã chỉ đạo phong trào tiến triển tốt
trong 7 năm. Kết quả thu được là:
– Lập được 51 chi hội, gồm:
Bắc Kì: 30
Trung Kì: 15
Nam Kì: 6
– Số lớp đã mở: 857
– Học viên sơ cấp và “cao đẳng” (bổ túc sau xóa mù): 59.827 và 10
000.
– Số giáo viên đã tham gia: 1971.
– Số sách học đã in và phát cho học viên: 17.500 cuốn.
Nhìn vào con số học viên và lớp học, gần 6 vạn người Việt Nam biết
đọc, viết sơ sơ về tiếng mẹ đẻ, trong gần 18 triệu người Việt Nam mù chữ
Việt Nam, chúng ta sẽ thấy thành quả của Hội truyền bá quốc ngữ quả có
phần khiêm tốn. Tuy nhiên, cũng những con số ấy được đánh giá trong điều
kiện lịch sử thuở ấy, chúng ta sẽ thấy các khía cạnh đẹp đẽ, lớn lao của
phong trào giáo dục cách mạng này.
Ai cũng biết, lúc này Đảng cộng sản chưa nắm được chính quyền, và
đang bị nhà nước thuộc địa đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cách mạng vô sản
đang tìm cách khôn khéo rọi ánh sáng vào tất cả các địa bàn dân cư, các dân
tộc, sắc tộc… để thu nạp từng người, từng người vào đội ngũ chiến sĩ của
mình. Đảng quý trọng từng cơ sở cách mạng, từng người cảm tình với cách
mạng. Tất cả công việc tuyên truyền vận động ấy là “phi pháp”. Tính mệnh
cán bộ cách mạng luôn luôn bị đe dọa. Trong bối cảnh ấy 857 lớp học len lỏi
vào khu thợ, xóm nghèo, làng bản… với sự hấp dẫn của nó; 1971 giáo viên,
những người tin Đảng và được Đảng tin, tỏa về các lớp học không chỉ dạy
chữ mà còn nói về cách mạng, về lãnh tụ, về đời sống mới…; 51 chi hội là 51
tổ chức cách mạng, ở đó toàn là người có tri thức cao, hiểu Đảng, hiểu cách
mạng, làm cho cách mạng…. 51 tổ chức ấy lợi dụng phép công khai để thực
hiện điều dấu kín: vận động nổi dậy giành chính quyền. Gần 18 nghìn cuốn
“vỡ lòng” có mang nội dung tiến bộ, sẽ được người ta chuyền tay nhau xem,
học, bàn luận, với gần 6 vạn người đã được học, không chỉ ở đô thị mà cả ở
nông thôn, rừng núi, duyên hải, khu thợ… tất cả đã tạo ra một hiện tượng tâm
lí xã hội mới lạ: Nghĩ về Đảng, về cách mạng, về lãnh tụ, và cố đến gần, để đi
theo cách mạng. Từ sáu vạn học viên ấy, từ gần hai nghìn thầy giáo ấy, đã có
không ít người trở thành cán bộ cách mạng giỏi hoặc quần chúng Trung Kiên
của cuộc đấu tranh lâu dài.
Lịch sử giáo dục Việt Nam thêm những trang đẹp nói về sự kiện này.
Bảy năm, hai nghìn thầy giáo làm cho sáu vạn người thoát nạn mù chữ để
nhìn thấy và làm theo cái lớn lao, vĩ đại: cách mạng giải phóng tổ quốc. Nền
giáo dục, học chế của một triều đại dài vài trăm năm hồ dễ đã làm nên điều
đó?
Tóm lại, với kết quả trên, nhân dân thấy rõ: Đảng đã chọn việc cần kíp
đúng đến, hợp ý dân. Cán bộ của cách mạng phụ trách công việc này đã rất
trung thành, tận tụy, khôn khéo, sáng tạo…
4. Dương Quảng Hàm nhà giáo yêu nướcGiáo sư Dương Quảng Hàm, hiệu là Hải Lượng, sinh ngày 14–7–1898,
được hưởng sự giáo dưỡng của một gia đình Nho học tại làng Phú Thị tổng
Mễ Sở, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nay huyện Châu Giang, tỉnh Hải
Hưng.
Ông nội là Dương Duy Thanh (1804 – 1861) đã làm đốc học Hà Nội.
Thân phụ là Dương Trọng Phổ; Anh cả là Dương Bá Trạc đều đã tham gia
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và đều bị Pháp bắt đày ra đảo Côn Lơn.
Trong phong trào này, Dương Bá Trạc có công sức và uy tín như một yếu
nhân. Ông đỗ cử nhân vào năm 17 tuổi, rời quê, ra Hà Nội hoạt động chính trị
theo tư tưởng duy tân.
Từ thiếu thời, Dương Quảng Hàm đã bộc lộ tư chất thông minh. Vì
chuyển sang Tây học sớm, vốn Hán học của ông tiếp thu từ gia giáo chưa
rộng rãi lắm, song nó cũng đủ làm nền tảng ban đầu để giúp con người hiếu
học, khiêm nhường như ông mở mang thêm, trở thành một bậc tân học lại
uyên bác cả về cựu học. Luận văn tốt nghiệp khoa văn chương, trường cao
đẳng sư phạm của ông có đề tựa “Khổng tử và học thuyết Khổng Mạnh trong
nền giáo dục cũ” giúp ông chiếnm ngôi đầu bảng của kì thi ra trường. Đó là
vào năm 1920, lúc ông 22 tuổi.
Nhiều người theo Tây học để làm quan, dù rất thấp nhỏ, trong bộ máy
cai trị của người Pháp. Dương Quảng Hàm còn trẻ, có uy tín trong bầu bạn,
cũng học trường Tây mở. Nhưng ông lại chọn nghề làm giáo học để giúp đời.
Đó là sự lựa chọn có suy tính và cao thượng của ông.
Thời gian dạy học của ông kéo dài chỉ được 25 năm, từ năm 1920 đến
1945. Trừ một năm phải đi dạy ở Nam Định, vì tránh sự khủng bố của Pháp
sau việc để tang nhà ái quốc Phan Chu Trinh, còn 24 năm ông dạy ở trường
Bưởi, Hà Nội.
Những năm đầu vào nghề, ông dạy các môn: Sử, địa, tiếng biệt tiếng
Pháp ở bậc do đẳng tiểu học. Về sau, ông dạy văn chương ở bậc trung học.
Ngày 21–12–1917, Albert Sarraut, toàn quyền Đông Dương ban bố
“Quy chế chung về ngành giáo dục ở Đông Dương”, gọi tắt là “Học chính tổng
quy” (quy chế có tên tiếng Pháp là Règlement général de I'instruction publique
en Indochine).
Quy định này nhằm buộc phải đề cao chữ Pháp trong các trường
Pháp–Việt từ cấp tiểu học, loại bỏ việc dạy chữ Hán. Trẻ em từ 9 tuổi đã phải
học nội dung đề cao sự bảo hộ của người Pháp đối với Đông Dương. Ở trung
học Pháp – Việt, hệ 4 năm, mỗi tuần phải học chuyên tiếng Pháp là 12 giờ.
Các môn toán, lí, hóa… học trong 8 giờ cũng lấy Pháp ngữ làm chuyển ngữ.
Chữ quốc ngữ và chữ nho không được dạy quá 3 giờ mỗi tuần. Tóm lại, mục
đích của “Học chính tổng quy” này là càng nhanh, càng mạnh làm cho trẻ em
Việt Nam quên mình đi quên dân tộc, đất tổ Việt Nam đi để học người Pháp,
theo nước Pháp, phục tùng người Pháp… càng tốt.
Trong hoàn cảnh giáo dục ấy, Dương Quảng Hàm vẫn làm cho học trò
yêu mến môn Việt văn mà ông giảng dạy. Một quan chức cao, lâu năm, của
ngành giáo dục, ông Dương Xuân Nghiên, có kể một kỉ niệm khi ông học
trường Bưởi, rằng:
“Với không khí Tây hóa” cao độ hồi đó,… nhiều người cho rằng tiếng
Việt… bị coi là một ngoại ngữ của chính học sinh Việt Nam. Tôi nghĩ rằng
tiếng Việt còn chưa được ngang hàng với một ngoại ngữ vì thi tú tài không thi
môn tiếng Việt. Vậy thì, học tiếng Việt chỉ là học lấy lệ, học để mà học.
Nhưng nhờ có 2 giờ học hàng tuần về môn Tiếng Việt mà chúng tôi còn
hiểu được cái hay, cái đẹp của tiếng mẹ đẻ, của nền văn chương Việt Nam,
nuôi dưỡng được tinh thần tự hào dân tộc, ý thức được những gì gọi là quốc
hồn, quốc túy, giữ gìn được lương tri của người dân mất nước.
Được như vậy, là nhờ chúng tôi may mắn có một ông thầy dạy tiếng
Việt mà chúng tôi rất tự hào không kém các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ trong
trường. Đó là thầy Dương Quảng Hàm.
Học trò của ông có chung nhận xét về ông: một thầy giáo mẫu mực.
Mẫu từ mặc áo vét, đi bao giờ cũng ung dung, ngửng cao đầu trước các
người cao chức, cao danh, nhất là trước các giáo sư người Pháp. Tính tình
trầm tĩnh, hơi nghiêm của ông buộc học trò lớn tuổi biết giữ lễ và coi trọng
môn tiếng Việt, dù là môn học phụ. Thói quen vào lớp đàng hoàng, biết tránh
những tác động làm học trò phân tán chú ý, bài giảng khớp với thời gian quy
định, biết giảng sâu chỗ khó, ý hay, đặc biệt là luôn luôn kiểm tra sự học của
trò, bất buộc họ học thuộc lòng hợp lí để lưu giữ kiến thức… Việc dạy văn
chương có phương pháp đạt mức nghệ thuật của ông đã để lại dấu ấn đẹp về
môn học, về thầy giáo trong lớp lớp học trò, “khuấy động lên trong chúng tôi
những tình cảm thầm kín tự hào về văn chương Việt Nam đến tự hào dân tộc,
lòng yêu nước, căm ghét ngoại bang xâm lược”. Thầy giáo Dương Quảng
Hàm đã ảnh hưởng sâu sắc tới cách học, cách dạy của nhiều thầy giáo vốn là
học trò, của ông từ thuở ấy. Đó là vinh quang của ông, một con người từ thuở
thanh xuân, trong bối cảnh xã hội đầy rẫy những băng hoại về đạo lí làm
người, đã chọn nghề dạy học cho đời mình vì nghề ấy tự do và thanh sạch
hơn cả… Dương Quảng Hàm còn là một nhà nghiên cứu và viết sách giáo
khoa đầy tài năng.
Hoạt động tri tuệ này được thôi thúc bởi đức tính ham hiểu biết sâu
rộng và thói quen cần mẫn học tập của ông. Nó còn được thúc đẩy bởi tinh
thần trách nhiệm cao của một thầy giáo trước việc dạy dỗ, giáo dục nhân
cách cho lớp trẻ thông qua các giờ giảng và sách giáo khoa bộ môn mà ông
đảm nhiệm. Trong tình trạng quy chế giáo dục thực dân vừa hạn chế đến
mức tối thiểu số giờ dạy, vừa tìm cách xuyên tạc tối đa nội dung, các môn học
có liên quan với lịch sử, đất nước, con người Việt Nam, thì việc nghiên cứu
sâu rộng để chọn lọc các kiến thức chân chính, tinh hoa đưa vào bài giảng,
đưa vào sách giáo khoa nhà trường, còn phản ánh lòng yêu nước, tự tôn văn
hóa dân tộc, của một trí thức giàu bản lĩnh, biết chiến đấu cho chân lí.
Trong 10 năm đầu của quá trình dạy học, ông đã viết nhiều sách và tài
liệu mang tính giáo khoa cho bậc tiểu học Pháp Việt Vị dụ:
– “Những bài học lịch sử An nam” dùng cho lớp nhì, lớp nhất
– Năm 1926, ông cùng em (là Dương Tự Quán) viết “Tập bài thi bằng
sơ học yếu lược”.
– Cùng với Eugène Pujarniscle, ông viết “Những bài văn biết về Đông–
Dương”.
– Ông chăm chỉ viết bài đăng trên các tạp chí: Hữu Thanh, Nam Phong,
Tri Tân, Thông báo của Nha học chính (Bulletin général de la Direction de
I’instruction publique), Văn học tạp chí với các bút danh: Hải Lượng, Uyên
Toàn.
– “Quốc văn trích diễm” là tác phẩm do ông sáng tạo vào năm 1925,
sau 5 năm chuẩn bị kĩ càng. Đây là cuốn sách giáo khoa văn chương dùng
cho cao đắng tiểu học và trường sư phạm. Nội dung cuốn sách gián tiếp bộc
lộ về tác giả của nó, một con người có những quan niệm riêng và đúng đắn
khi nhìn nhận văn chương, một con người có vốn Hán, Nôm khá sung sức có
hiểu biết về văn học khá sâu sắc. Phần đầu cuốn sách nói về văn học sử.
Ở đây tác giả nêu lên: – Hán văn 3 thời kì:
Thời kì 1: Bắc thuộc, Ngô, Đinh, Lê, Lí.
Thời kì 2: Lí, Trần
Thời kì 3: Hậu Lê, Nguyễn
– Quốc văn 4 thời kì:
Phôi thai; Phát đạt, Toàn thịnh, Cận kim thời đại.
Phần sau của cuốn sách là 138 bài trích dẫn được giảng kĩ về luật lệ,
phép tắc của từng thể loại, như: Thơ; Hát nói; Truyện ngâm; Phú, Văn tế; Hát
tuồng; Kinh nghĩa; Văn sách; Tứ lục, Văn xuôi cổ; Văn xuôi kim.
Cuốn sách còn những chỗ chưa vừa ý nhưng xét chung, thấy giá trị mở
mang, giáo dục của nó quá là không nhỏ.
Vào năm 1940, ông cho ra mắt độc giả cuốn “Việt văn giáo khoa thư”.
Vào năm 1943, ông cho xuất bản cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” và
“Việt Nam thi, văn hợp tuyển”.
Đây là công trình trí tuệ của ông được ưa chuộng và ca ngợi. Nó có giá
trị khoa học và lịch sử. Dụng ý của ông là viết cuốn này để làm sách giáo
khoa văn chương nước nhà. Nhưng thành công của tác giả đã nâng cao cuốn
sách thành cuốn lịch sử văn học đầu tiên của nước Việt Nam. Hiện nay, sau
hơn nửa thế kỉ, nhiều nhà nghiên cứu, giảng văn vẫn có chung nhận xét: cuốn
sách là một công trình khoa học được biên soạn rất công phu, với một thái độ
khoa học nghiêm túc, một phương pháp nghiên cứu tiên tiến và một tư tưởng
cải cách rất tích cực.
Có người rất mạnh dạn bộc lộ rằng ngày nay ta đã có nhiều công trình
khảo cứu, chuyên luận về văn học sử, tác giả và tác phẩm tiêu biểu… nhưng
chưa có công trình nào vượt được “Việt Nam văn học sử yếu” của Dương
Quảng Hàm về phương diện phương pháp nghiên cứu và phương diện tư
tưởng của người cầm bút… Dương Quảng Hàm là người có công lao chọn
lọc và lưu lại cho chúng ta những hạt vàng ròng của văn chương qua các thời
đại. Có thể nói nhiều thế hệ đã, đang nghiên cứu, sáng tác văn chương của
thế kỉ này đã được bắt đầu chuẩn bị hành trang cho mình từ những cuốn giáo
khoa của Dương Quảng Hàm.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa bổ nhiệm giáo sư làm Thanh tra trung học vụ, rồi Hiệu trưởng
trường Chu Văn An (tức trường Bưởi ngày trước)
Giáo sư đã hết súc chăm lo công việc được giao; với đồng nghiệp ông
đã tạo ra cho trường Chu Văn An những nét đẹp của một trường học cách
mạng trong những ngày đầu của thời độc lập. Tuy nhiên, lúc này là thời điểm
công cuộc bảo vệ chính quyền nhân dân non trẻ của chúng ta đang ở trong
tình huống “ngàn cân treo sợi tóc”. Và, dân tộc Việt Nam lại buộc phải cầm vũ
khí, làm kháng chiến chống lại sự tái xâm lăng của đế quốc Pháp. Tiếng súng
của cuộc trường chinh mới của Việt Nam đã nổ ở Nam Bộ. Thủ đô Hà Nội nổ
súng kìm chân Pháp để Trung ương Đảng, chính phủ an toàn. Giáo sư
Dương Quảng Hàm không rời nhiệm sở của mình để tản cư. Ông đã ngã
xuống vào một ngày của tháng 12 năm 1946 trên đất Hà Nội, Năm đó, giáo
sư 47 tuổi, để lại nỗi tiếc thương trong đồng nghiệp, học trò, nhân dân và gia
tộc. Nền giáo dục mới nết ông, mất một nhà giáo tài cao, đức sáng nổi trội
trong xã hội bấy giờ.
5. Đặng Thai Mai, người thầy nhân hậu, tài năng (1902 – 1984)Giáo sư Đặng Thai Mai sinh ngày 15 tháng 12 năm 1902 tại làng
Lương Điền (nay là Thanh Xuân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An) trong
một gia đình có truyền thống khoa bảng và yêu nước.
Ông nội là cử nhân trường Nghệ, sau đó ít năm được bổ làm huấn đạo
rồi tri huyện. Nhưng khi giặc Pháp xâm lược Thanh Hóa, cụ đã treo ấn từ
quan, đem gia đình về quê hương và hưởng ứng phong trào chống Pháp.
Phong trào sa sút, cụ bị giặc bắt và kết án tù 3 năm. Gia đình cụ là nơi qua
lại, hội họp của nghĩa quân Cần vương và phong trào Đông Du.
Ông thân sinh của giáo sư là Đặng Nguyên Cẩn, cũng theo Hán học,
đậu cử nhân rồi phó bảng. Lúc đầu, cụ làm việc ở Sứ quán trong kinh đô, rồi
giữ chức giáo thụ huyện Hưng Nguyên, đốc học tỉnh Nghệ An.
Cụ đã tham gia mở trường Dục Thanh ở Phan Thiết, đào tạo được
nhiều học sinh có tài năng.
Bị Pháp khép vào tội “mưu phản”, chống nhà nước bảo hộ, cụ phó
bảng và bạn bè đã dùng lí lẽ bác bỏ mọi điều ghi trong cáo trạng. Tuy thế, tòa
án vẫn kết luận “bạn trang vị hình, bạn tâm dĩ lộ”, “… chưa có hành động
phản quốc cụ thể, nhưng lòng phản quốc thì đã rõ ràng…” và cùng nhiều
người khác, cụ bị xử án đồ chung thân, bị đày đi Côn Đảo 13 năm tù.
Những cuộc đấu tranh vũ trang cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX lần lượt bị
tan vỡ, chì còn lại cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám. Tuy vậy,
các cuộc bạo động lẻ tẻ vẫn nổ ra ở nhiều nơi. Các nhà chí sĩ yêu nước đang
cố tìm một con đường cứu nước mới. Nhiều xu hướng cách mạng mới trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xuất hiện: Phong trào Duy Tân, Đông
Du, Đông Kinh Nghĩa Thục,… diễn ra sôi nổi và đa dạng. Nhưng kẻ thù cũng
tăng cường các biện pháp trấn áp khủng bố.
Vậy là ngay từ tuổi ấu thơ, Đặng Thai Mai đã phải nếm trải những đắng
cay của nạn quốc phá gia vong. Chỗ dựa vững chắc cho tâm hồn ông là bà
nội, một phụ nữ thông minh, đảm đang, giàu ý chí và lòng nhân hậu. Bà đã
chèo chống vượt qua mọi phong ba, bão táp, gìn giữ gia phong, làm trụ cột
cho cả đôi bên nội ngoại và thay chồng, thay con để nuôi dạy bầy trẻ lớn lên
một cách vững vàng.
Vào đầu thế kỉ XX, Nho học đã đến những năm cuối cùng trong nền
học chính thống. Nhưng ở thôn làng heo hút của huyện Thanh Chương, việc
khai tâm cho lớp trẻ vẫn chỉ là những kiến thức sơ khởi của chữ nghĩa thánh
hiền. Đặng Thai Mai cũng đã học vỡ lòng từ những câu “Nhân chi sơ, tính
bản thiện…” do chính ông nội dạy. Đặng Thai Mai tuy không thích thú gì lối
học này, song các lớp gia thục vẫn tiếp tục được tổ chức và ông đã học với
nhiều thầy giáo mới, lúc đầu chỉ có chữ nho rồi cả cho quốc ngữ. Thầy cử Hồ
Phi Thống – sau trở thành nhạc phụ, là người đã truyền thụ cho ông cái vốn
rất cơ bản về Nho học. Giáo sư Đặng Thai Mai kể lại:
“Thấy Cử Hồ không những chi dạy chữ mà thôi. Chúng tôi đã tôn kính
thầy không những về mặt học vấn mà cả về mặt gương mẫu đạo đức của một
nhà giáo”.
Cần phải nói ngay tới một nguồn tích lũy tri thức đặc biệt nữa là “Tam
thai sơn phòng tàng thư”. Đó là một tủ sách gia đình khá lớn vào thời đó với
số lượng trên trăm ngàn cuốn, được thu thập qua mấy đời. Khoảng hơn mười
năm trời sau này, nó là những thức ăn tinh thần bổ ích, giúp cho giáo sư tiếp
cận với nhiều loại sách cổ điển, tân thư với đủ các thể loại triết học, văn học,
lịch sử dân tộc và thế giới.
Rời quê hương về thành phố Vinh năm 1917, Đặng Thai Mai chuyển
sang tân học từ lớp nhì đến hết trung học. Ở đây, trước hết ông học tiếng
Pháp tại nhà với một số thầy giáo trẻ rồi mới vào lớp nhì tiểu học. Điều may
mắn là ông đã được học một bà giáo người Pháp, tính tình hiền dịu, giản dị,
rèn luyện cho học sinh rất tốt về cách đọc tiếng Pháp, chất thơ, chất văn tuyệt
điệu qua các bài giảng văn và học thuộc lòng. Nhưng ảnh hưởng sâu và
mạnh mẽ đến phong cách sống và phương pháp giáo dục, giảng dạy của giáo
sư Mai sau này là hai thầy Lê Thước, Lâm Quang Thọ.
Ở thầy Lê Thước, đó là hai đức tính cần thiết của một nhà sư phạm: Sự
cần cù với nghề dạy và sự nghiêm minh với học trò. Còn thầy Lâm Quang
Thọ lại có phong cách riêng. Với giọng đọc rất hay và chuẩn xác, thây giảng
tất cả các bài ở lớp nhất bằng tiếng Pháp, một cách dễ hiểu, sinh động, phân
tích tỉ mỉ cả hình thức lẫn nội dung. Sau này, giáo sư Đặng Thai Mai đã rút ra
nhận xét:
“Khi ông thầy giảng văn thật sự biết đọc một bài thơ, một bài văn thì bài
giảng có thể nói là đã thành công một phần rồi.”
Tốt nghiệp tiểu học, Đặng Thai Mai lại thi đỗ thủ khoa vào trường trung
học Vinh. Bốn năm ở đây, ông gặp lại thầy Lê Thước, Lê Am, tiếp xúc với các
đồng chí Trần Phú, Ngô Đức Diễn, Trần Mộng Bạch, kết bạn với Phạm Thiều,
Lê Xuân Phương, Nguyễn Sĩ Sách, Tôn Quang Phiệt… Đó là những người
thầy, người bạn có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và hoạt động của giáo sư
sau này. Những buổi nói chuyện, tranh luận về văn học, khoa học, chính trị
lúc đó đã khiến nhãn quan của ông được mở rộng khá nhiều.
Năm 1924, Đặng Thai Mai quyết định thi vào khoa văn học trường Cao
đẳng sư phạm đặt tại Hà Nội.
Dưới sự giảng dạy của các giáo sư Houlié về triết và sử, Milon về văn
học Pháp, Bùi Kỉ về Hán văn và Việt văn, Đặng Thai Mai đã tiếp thu được một
vốn tri thức phong phú, những phương pháp giảng dạy sinh động và cả
phương pháp nghiên cứu văn học nữa.
Nhưng vào lúc này, hàng loạt sự kiện chính trị sôi động đã liên tiếp dội
vào trường: cuộc đấu tranh đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, đám tang cụ Phan
Chu Trinh, những tiếng vang của phong trào cách mạng dân tộc dân chủ ở
Trung Quốc, ở Ấn Độ, ở Thổ Nhĩ Kì, những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, các tổ chức yêu nước và cách mạng trong ngoài nước ra đời, v. v…
Bấy nhiêu sự kiện đã khiến người thanh niên yêu nước ở độ tuổi ngoài 20
phải suy nghĩ, tìm cho mình một chính kiến, một con đường để bước vào
trường hoạt động cách mạng. Và Đặng Thai Mai đó vừa học tập vừa tham gia
hoạt động chính trị.
Sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm, ông về dạy tại trường
Quốc học Huế. Bước vào đời với tuổi 26, người thầy giáo trẻ vừa say mê với
nghề, vừa hăng hái hoạt động trong tổ chức Tân Việt cách mạng. Nhưng cuộc
khủng bố trắng những năm 1929, 1930 của Pháp làm tan vỡ nhiều cơ sở
cách mạng, trong có cả Tân Việt. Đặng Thai Mai bị bắt, tù án treo rồi tù giam
tới 1932. Mãn hạn, nhà cầm quyền cấm ông không được dạy trường công,
nên ông đã ra Hà Nội xin dạy ở trường tư thục Gia Long do Bailét, một người
Pháp làm hiệu trưởng. Sau đó chuyển sang trường tư thục Thăng Long do
ông Phạm Hữu Ninh, rồi ông Hoàng Minh Giám làm hiệu trưởng. Ở đây, giáo
sư chuyên giảng về Pháp văn và văn học Pháp ở tất cả các lớp từ phổ thông
cơ sở đến lớp tú tài.
Trước cách mạng tháng Tám, cùng với các đồng chí Phan Thanh, Võ
Nguyên Giáp, ông được Đảng tín nhiệm cử ra cùng tham gia tổ chức “Hội
truyền bá quốc ngữ”, có chân trong ban tri sự.
Ông đã tích cực góp phần phát triển phong trào từ 1938 đến 1945, giúp
cho bẩy, tám vạn đồng bào ta thoát nạn mù chữ.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, giáo sư được Đảng và Nhà
nước giao cho nhiều chức vụ quan trọng.
Trong kì họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ động hòa
khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giới thiệu giáo sư giữ chức Bộ trưởng Bộ
Giáo dục. Theo sự tiến cử của Người thì giáo sư Đặng Thai Mai là “một người
đã lâu năm hoạt động trong công việc giáo dục quốc dân và là người mà quốc
dân có thể tin rằng nếu đem việc giáo dục giao cho để gánh vác thì người ấy
sẽ làm hết nhiệm vụ”.
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, bên cạnh những chức vụ chính
quyền, viết sách báo văn học, giáo sư còn làm giám đốc giáo dục Liên Khu
IV, hiệu trưởng trường dự bi đại học, giảng dạy các lớp văn hóa kháng chiến,
lớp dự bi đại học văn khoa đầu tiên với số lượng học sinh chỉ có dăm bảy
người.
Hòa bình lập lại, giáo sư làm chủ nhiệm khoa văn trường Đại học sư
phạm Hà Nội và sau đó dạy Văn trường Đại học Tổng hợp. Tuy nhiên, lĩnh
vực văn học nghệ thuật đã chiếm phần lớn thời gian và cuộc sống của giáo
sư. Từ 1957, giữ chức chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, từ 1961 đến
1976, làm Viện trưởng Viện văn học. Chính ở đây, lớp Hán Nôm được giáo
sư tổ chức, giảng dạy đã đào tạo ra được nhiều học trò có trình độ và công
tác tốt sau này. Trong nhiều năm, giáo sư còn làm việc ở toà soạn, viết báo
rồi làm chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ cho tới năm 1976. Có thể nói, ngay trên
lĩnh vực văn học nghệ thuật, giáo sư cũng là người thầy đào tạo được nhiều
học trò tài năng trên các lĩnh vực sáng tác, lí luận và phê bình văn học, hiện
đang giữ những vị trí chủ chốt trên văn đàn.
Về giáo dục, ngay từ thời dạy ở trường Thăng Long, thầy Mai đã nổi
tiếng về giảng dạy Pháp văn và văn học Pháp. Nội dung giảng dạy của thầy
xuyên suốt từ các trường phái cổ điển đến các xu hướng lãng mạn, tự nhiên,
từ trường phái hiện thực phê phán đến xu hướng ấn tượng, tả chân… Về thể
loại, thầy giảng từ văn, thơ đến bi hài kịch, từ lí luận văn học đến phê bình
văn học.
Giáo sư còn giảng cho học sinh về các nhà văn hào, thi hào vĩ đại trên
thế giới như Lép Tônxtôi, Tago, Mác xim Goócki, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách
Mạc Nhược…
Với phương pháp giảng dạy, có sức hấp dẫn, giáo sư đã lôi cuốn học
sinh sống và tham gia với bài giảng bằng âm điệu, nhịp điệu, nhạc điệu của
bài văn, bài thơ. Nhờ sự thống nhất, đồng điệu giữa sự truyền cảm và thụ
cảm, thầy và trò đã cùng nhau sống với những nội dung đầy tính nhân văn, ca
ngợi những mối tình dù éo le, cay đắng nhưng rất tươi đẹp, sắt son, ca ngợi
tình yêu thiên nhiên, đất nước, ca ngợi những anh hùng biết hi sinh vì Tổ
quốc, vì nghĩa lớn, chống áp bức, cường quyền, đề cao tinh thần dân chủ, tự
do và lòng nhân ái.
Nhà văn Vũ Tú Nam, khi nhớ lại thời học thầy Mai ở trường Thăng
Long, đã viết:
“Dự các tiết giảng của thầy, chúng tôi quên mất mình đang học các bài
văn thơ trong sách, mà lại như thấy biểu hiện trước mắt mùa thu cây lá xạc
xào tại một công viên tận bên nước Pháp một chú bé học sinh tay ôm cặp
đang bước đi trong màu vàng kỉ niệm, hoặc thấy như chính mình được chứng
kiến những xung đột nội tâm gay gắt của chàng Rodrigue và nàng Chimène”
(Giáo sư Đặng Thai Mai còn có một trí nhớ đặc biệt. Hồi nhỏ, “chỉ thoáng một
cái là đã thuộc mười trang sách chữ nho!” kể lại không sai một chữ nào).
Trong lúc giảng bài hoặc khi đàm đạo thân tình cùng bè bạn, giáo sư có thể
đọc thuộc lòng ngay cả một hồi của vở kịch Phèdre, LeCid của Corneille hoặc
Andromaque của Racine…
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, sách giáo khoa thiếu thốn, giáo
sư đã biên soạn giáo trình Chinh phụ ngâm rất công phu cho thầy trò ở các
trường có sách học. Nhiều học giả, nhiều nhà sư phạm đánh giá rất cao công
trình này cả về nội dung lẫn phương pháp.
Dưới góc độ tâm lí học và giáo dục học, có thể tìm thấy ở giáo sư Đặng
Thai Mai nhân cách của một người thầy mẫu mực, xuất sắc.
Trước hết, đó là một người thầy có lí tưởng sâu sắc về nghệ dạy học.
Nó được bắt nguồn từ lí tưởng sống, từ nỗi khổ đau trước cảnh “quốc phá gia
vong”, từ tấm lòng yêu nước nồng nàn, lòng yêu nhân dân, yêu con người và
thế hệ trẻ. Lí tưởng nghề thầy là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của người
thầy giáo, từ đó mà dẫn đến lương tâm nghề nghiệp, hứng thú nghề nghiệp.
Suốt cuộc đời dạy học, thầy lúc nào cũng say mê, tận tụy với nghề. Đó là
người có tác phong nghiêm nghị mà giản dị, thẳng thắn mà thân tình, gần gũi,
uyên bác mà khiêm tốn. Trong cuộc sống thường ngày, từ bè bạn đến học
sinh, đồng nghiệp luôn nhận được nụ cười đôn hậu trên môi, giọng nói mang
chất châm biếm mà không ác ý. Những tính cách đó khắc họa nên những nét
độc đáo riêng khiến học sinh suốt đời không thể nào quên.
Trong việc học, giáo sư luôn yêu cầu cao đối với học sinh nhưng cũng
rất tôn trọng nhân cách học sinh.
Trên lớp, thầy đòi hỏi học sinh rất nghiêm khắc ở tất cả các khâu: học
thuộc lòng, âm điệu, nhịp điệu khi đọc bài văn, thơ, nghe giảng, làm bài v.v…
Học sinh nào lười biếng; sai trái, thầy thẳng thắn phê bình công khai dù là
nam hay nữ. Thầy còn uốn nắn từ lời ăn, tiếng nói, cách ăn mặc, đi đứng,
phép xử thế đối với mọi người. Dư luận học sinh thường rất sợ vì coi giáo sư
là một ông thầy rất “hắc”, còn nữ sinh Hà Nội đặt tên thầy là “người cha
nghiêm nghị”. Tuy vậy, sợ mà phục, mà tin yêu và hết mực kính trọng.
Bởi lẽ trong lúc yêu cầu cao với trò thì trước hết thầy đã yêu cầu cao
với chính mình. Bài soạn của thầy rất công phu, bài chấm rất kỹ. Trong mỗi
giờ học, thầy nắm vững vàng nội dung, nghệ thuật, truyền thụ được nhiều
kiến thức sâu rộng, mới lạ qua đó giáo dục học sinh có lí tưởng cuộc sống,
biết xác định mục đích học tập để có trách nhiệm với xã hội, với đất nước và
với bản thân mình.
Học trường tư, nhiều học sinh nghèo thiếu thốn, hàng tháng có khi
không đủ tiền nộp học phí. Thầy sẵn sàng giúp đỡ, chăm sóc. Cuộc sống gia
đình thầy không phải là thật phong lưu, lại đông con, nhưng ai cũng biết trong
nhà thầy lúc nào cũng có dăm ba học sinh nghèo được thầy nhận về nuôi cho
ăn học với lí do rất tế nhị là giúp các con thầy học tập thêm về toán lí…
Ở lớp thầy rất nghiêm, song ở nhà lại rất vui vẻ, cởi mở, thường kể lại
cho mọi người nghe đủ chuyện, từ chuyện ham đá bóng hồi trẻ, thích xem hề
Charlot, đến các mẩu chuyện tiếu lâm mang chất hài hước và ngụ ngôn thú
vị.
Một nguyên nhân nữa khiến học sinh hết sức khâm phục là sự uyên
bác của thầy. Là một nhà nghiên cứu văn học, nhà lí luận và phê bình văn
học, thầy Đặng Thai Mai đã dày công học hỏi, tích lũy cho mình một tri thức
sâu rộng từ Đông sang Tây, từ cổ đến kim.
Giáo sư Đặng Thai Mai có năng lực sở trường về sử dụng ngôn ngữ
trong giảng dạy văn học.
Trong giáo trình giảng văn Chinh phụ ngâm, chính giáo sư Đặng Thai
Mai đã nêu rõ quan niệm của mình về kĩ thuật giảng văn: “Mục đích giang văn
trong tinh thần cấp học chuyên khoa không phải chỉ là ngồi nhận định và dẫn
chứng với học sinh về nghĩa đen của một chữ hay là về “xuất xứ” của một
điển tích, của một hình tượng, một câu văn mà thôi… giảng văn không phải là
một phương tiện thôi miên vô ý thức để làm cho học sinh ngáp sái cả quai
hàm. Giảng văn trước hết là theo dõi qua áng văn tất cả cái tinh vi về tư
tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả. Hiểu như vậy, giảng văn
trước hết là chỉ rõ sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và
tư tưởng trong một tác phẩm văn chương.”
Và giáo sư khẳng định:
“Một là thuật giảng văn sâu sắc chính xác và hấp dẫn cũng là một động
cơ để xây dựng và bồi dưỡng trong tâm hồn người nghe, người đọc những
hứng thú văn chương dồi dào và đúng đắn”.
KẾT LUẬN
1. Giáo dục là một hiện tượng gắn liền với cuộc sống xã hội, cuộc sống
con người. Nó là nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình phát triển của dân tộc,
của con người.
Đất nước ta đã có một nền văn hiến lâu đời, một truyền thống giáo dục
từ lâu trong các cộng đồng làng xã và những tín ngưỡng bản địa riêng. Các
hệ ý thức Phật, Đạo, Nho khi du nhập vào đã buộc phải biến đổi, khúc xạ cho
phù hợp với xã hội Việt Nam mới có thể hòa nhập và phát triển được.
Phật giáo và Đạo giáo vào nước ta rất sớm và dễ dàng được nhân dân
ta tiếp nhận. Nho giáo nói tới thế kỉ I TCN mới du nhập cùng với sự xâm lược
và đô hộ của phong kiến phương Bắc. Tuy lẻ tẻ đã có 1 số trường lớp do các
Thái Thú hoặc nho sĩ Trung Quốc mở, song Nho giáo phát triển rất chậm
chạp và chỉ dừng ở tầng lớp trên của xã hội.
Đến thế kỉ X, Phật giáo chiếm ưu thế trong xã hội. Các tăng lữ sư sãi là
đội ngũ trí thức, nhiều người có học vấn uyên bác cả 3 giáo Phật, Đạo, Nho.
Nhiều trung tâm Phật giáo xuất hiện. Nhiều nơi chùa chiền trở thành trường
học, vừa là nơi lễ Phật, giảng đạo, vừa là nơi dạy dỗ cho con em nhân dân và
thiện nam, tín nữ.
Thực trạng đó phát triển tiếp tục và đạt đỉnh cao vào các thế kỉ từ XI
đến XIII, dưới triều Lí và nửa đầu thời Trần. “Tam giáo đồng nguyên” thể hiện
sự hòa hợp độc đáo ở nước ta giữa ba ý thức hệ, không những tồn tại trong
xã hội mà còn được thực hiện một chừng mực nhất định trong giáo dục chính
thống với các kì thi tam giáo. Song cũng từ thế kỉ XI, cùng với việc xây dựng
chế độ phong kiến trung ương tập quyền, Nho giáo dần lớn mạnh lên, được
các triều đại sử dụng thành quốc giáo, đẩy lùi dần Phật giáo và Đạo giáo,
chiếm địa vị độc tôn.
2. Học thuyết Nho giáo trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, là
học thuyết trị đạo của giai cấp phong kiến. Bởi vậy, cũng như ở Trung Quốc,
các triều đại phong kiến Việt Nam đều coi trọng giáo dục Nho giáo, dựa vào
nó để đào tạo, tuyển chọn hiền tài. Sự sàng lọc hết sức ngặt nghèo, song ai
đã đỗ đạt đều tùy tài mà sử dụng và đãi ngộ xứng đáng. Nhìn chung, các
vương triều dùng “đức trị” là chủ yếu, song cũng kết hợp với “pháp trị” để bảo
vệ quyền lợi của giai cấp, của dòng họ.
Bên cạnh những vương triều thịnh trị với vua sáng, tôi hiền làm rạng
danh non sông, đất nước, cũng có những lúc thần nịnh, chúa hôn khiến sinh
linh đau khổ, công thần bị hãm hại, đất nước ngả nghiêng, thậm chí bị rơi vào
tay giặc ngoại xâm.
3. Về mục tiêu đào tạo, giai cấp thống trị muốn qua học hành, khoa cử
để tuyển chọn đội ngũ quan lại có đức, có tài phục vụ triều đình, kinh bang tế
thế. Mẫu người đào tạo dựa vào tiêu chuẩn người “quân tử”, “kẻ sĩ”, những
chuẩn mực đã được định rõ trong tam cương, ngũ thường (hay ngũ luân, ngũ
thường). Giai cấp thống trị cũng mong muốn nội dung tư tưởng Nho giáo phải
được truyền bá sâu rộng, thấm nhuần đến làng xã gia đình, đến mỗi con
người để dễ bề cai trị. Đỉnh cao của sự phát triển Nho giáo ở vào thế kỉ XV
dưới triều Lê sơ. Từ thế kỉ XVI trở đi, “chính học” ngày một mất dần. Người ta
đua nhau đi học, đi thi chỉ nhằm mục đích làm quan, hưởng cuộc sống vinh
hoa phú quý. Quan lại không còn là “công bộc chi dân” nữa mà trở thành
những bọn tham quan ô lại, đục khoét, áp bức nhân dân tàn tệ.
Về phía nhân dân, ai cũng muốn con em mình theo học dăm ba chữ để
biết “đạo làm người”. Tất nhiên, nếu có điều kiện hoặc cố gắng được, họ cũng
muốn bản thân mình hoặc con em mình vươn lên trong học tập, kì vọng công
thành danh toại, đỗ đạt làm quan để vượt qua cảnh nghèo hèn, để đem tài
đức ra giúp dân, cứu nước. Người dân chỉ chấp nhận những “minh quân”,
“hiền thần” chứ không dung các “hôn quân”, “gian thần”, nhất là những kẻ
phản nước, hại dân.
4. Nội dung giáo dục là nội dung tư tưởng Nho giáo, tập trung nhất ở
Tứ thư, Ngữ kinh. Ở Việt Nam, tư tưởng Nho giáo tuy giữ địa vị chính thống,
là nội dung cơ bản trong học hành, thi cử, song vẫn có sự hòa nhập với tư
tưởng Phật giáo (từ bi hỉ xà), Đạo giáo (vô vi) Và tư tưởng nhân nghĩa, đạo
đức truyền thống của nhân dân ta. Bởi vậy, Nho giáo Việt Nam chứa đựng cả
hai mặt tích cực và tiêu cực, thể hiện cả trên quan niệm, nhận thức, hành
động từ vua, quan đến thứ dân. Nội dung giáo dục của Nho giáo chỉ chú trọng
về luân lí, đạo đức. Do đó sách giáo khoa, kiến thức giảng dạy trong nhà
trường chỉ thiên về khoa học xã hội, khoa học nhân văn, còn khoa học tự
nhiên, kĩ thuật bị coi nhẹ. Sức sản xuất do đó không có điều kiện phát triển
nhanh chóng. Bởi vậy, nền văn minh xuất hiện rất sớm song lại bị ngưng trệ
và tụt hậu. Trước thế lực ngoại xâm từ phương Tây đến, nền kinh tế – xã hội
này đã hoàn toàn bất lực không đủ sức ngăn cản và không đủ khả năng tiếp
thu những cái mới, những điều tiến bộ.
5. Phương pháp giáo dục và phương pháp dạy – học.
Đánh giá về phương pháp giáo dục và phương pháp dạy – học Nho
giáo xưa một cách khách quan cần phân biệt hai khuynh hướng: chính học và
hư văn, khoa cử.
Những người theo chính học thường vận dụng phương pháp giáo dục
của Khổng Tử và các bậc tiên hiền với nội dung hết sức phong phú và tích
cực. Phương pháp giáo dục đó bao gồm hai mặt: phương pháp đức dục và
phương pháp trí dục như đã nêu trên.
Trong những thời kì Nho giáo thịnh trị ở nước ta, nhất là ở thời kì Lê
sơ, những phương pháp giáo dục đức dục và trí dục cơ bản này đã được vận
dụng trong các nhà trường chính thống và các trường tư.
Trong quá trình học tập, nho sinh chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng
Nho giáo, chẳng những bị ràng buộc bởi các chuẩn mực của lễ giáo phong
kiến mà còn có sự giám sát, giúp đỡ chặt chẽ của gia đình, làng xã, bạn bè
(gia phong, gia pháp, hương ước, hội đồng môn, hội tư văn). Tất cả những tổ
chức này tạo thành một hệ thống, một dây chuyền về phương pháp giáo dục,
tạo ra những hiệu quả giáo dục to lớn. Có thể nói, người học, trong suốt đời,
ngoài việc tự giáo dục mình, còn luôn ở trong khuôn khổ sự giám sát, giáo
dục của nhiều tổ chức xã hội.
Một điều đáng lưu ý nữa là tư tưởng “thuật nhi bất tác” của Khổng Tử
đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc giảng dạy và học tập trong các nhà trường
Nho giáo nước ta. Tư tưởng đó khiến người học chỉ tiếp thu và làm theo
những điều đã dạy trong kinh sách mà không thể, không được sáng tạo gì
thêm.
Từ thế kỉ XVI về sau, ý thức hệ Nho giáo ngày một suy yếu, việc học,
việc thi chỉ nhằm duy nhất mục đích công thành danh toại, đỗ đạt làm quan để
vinh thân, phì gia. Cách dạy, cách học đo đó chỉ đi vào từ chương, khoa cử,
cốt học thuộc lòng những điều cần thiết mà không đi sâu vào nguồn gốc của
học thuật, càng không vận dụng sáng tạo được vào hoàn cảnh lịch sử đương
thời.
Dù phương pháp dạy – học truyền thống có nhiều thiếu sót, song trải
qua nhiều thế kỉ, đặc biệt ở những thời kì minh trị, giáo dục Nho giáo đã để lại
cho thế hệ sau những bài học truyền thống quý báu về lòng hiếu học, sự say
mê tự học, truyền thống tôn sư trọng đạo, sự gương mẫu của ông thầy… Ở
đây còn phải kể đến vai trò rất quan trọng của giáo dục gia đình. Về cơ bản,
giáo dục gia đình đã cùng với giáo dục quốc gia thống nhất trong việc hình
thành nhân cách con người theo đạo đức phong kiến.
6. Tổ chức thi cử trong giáo dục phong kiến được hết sức coi trọng. Đó
là sự sàng lọc chặt chẽ từ dưới lên trên, qua nhiều lần khảo hạch, sát hạch,
qua 3 cấp thi chính thức (thi Hương, thi Hội, thi Đình).
Tỷ lệ người được đi thi so với số người đi học, người đỗ so với người
đi thi quá ít ỏi. Hơn nữa, nhiều quy chế ngặt nghèo, nhiều điều cấm kị khắt
khe, kỉ cương nghiêm mật khiến người đi học không dễ gì danh chiếm bảng
vàng. Ai vi phạm quy chế thi cử sẽ bị trừng phạt, thậm chí bị đánh đòn, tù đầy
hoặc bi tội tử hình nữa. Song thiểu số những người đỗ đạt lại tùy tài đức mà
được sử dụng, đãi ngộ xứng đáng.
7. Tổ chức, quản lí giáo dục thời phong kiến cũng có những nét đáng
lưu ý. Hệ thống trường học có trường công, trường tư. Trường công được
Nhà nước tổ chức từ trung ương đến lộ, phủ. Ở các làng xã là các trường tư
do nhân dân tự lo liệu.
Nhà nước quản lí giáo dục chủ yếu qua tổ chức khoa cử theo định kì
hoặc bất thường.
Nhà nước và nhân dân cùng tham gia đầu tư, xây dựng cho giáo dục.
Thực ra Nhà nước phong kiến chỉ chủ yếu quan tâm đến xây dựng, củng cố
trường Quốc Tử Giám (có lúc gọi là Quốc tử viện, nhà Thái học), xây dựng
thành một quần thể quy mô, có đội ngũ giáo quan chọn lọc. Con em quan lại
ở kí túc xá có học bổng. Thầy giáo được hưởng bổng lộc của vua tùy theo
quan tước. Ở địa phương, các trường công được tổ chức đến phủ, lộ. Nhà
nước cung cấp một phần, các quan địa phương phải lo một phần. Ở các làng
xã, trường tư, trường dần lập do nhân dân tự lo liệu. Họ lo sắp xếp chỗ học,
nuôi giáo viên, đóng học phí, đóng góp cả khi gia đình thấy có việc vui buồn,
giỗ tết.
8. Đến cuối thế kỉ XIX, sau nhiều thế kỉ phát triển, Nho giáo đã đến lúc
suy tàn, đòi hỏi phải có sự cải cách trước yêu cầu lịch sử đang biến đổi,
nhanh chóng. Ngay các vua Minh Mệnh, Tự Đức cũng thấy rõ sự lạc hậu, trì
trệ đó, mong có sự sửa đổi việc học cho phù hợp với thực tế xã hội. Những
đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch cũng được trình
lên nhà vua. Song bên cạnh những khó khăn khách quan, tư tưởng bảo thủ
của giai cấp thống trị đã khiến những đề nghị, điều trần đó không được chấp
nhận và thực hiện.
Mặt khác, cùng với sự xâm lược thuộc địa, thực dân Pháp cũng âm
mưu chiếm lĩnh tâm hồn, sử dụng giáo dục như một công cụ, một phương
tiện xâm lược quan trọng.
Sự phát triển của nền giáo dục thực dân diễn ra rất chậm chập do hai lí
do. Trước hết là sự chống đối quyết liệt của cả dân tộc ta trên mọi bình diện
chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa giáo dục. Sau nữa, việc phát triển giáo
dục của Pháp chỉ nhằm đào tạo đội ngũ giúp việc tay sai. Do đó, Pháp hạn
chế mặt bằng dân trí, chủ trương chỉ phát triển theo chiều ngang chứ không
theo chiều cao. Bởi vậy, phải nửa thế kỉ sau, hệ thống giáo dục của họ ở Việt
Nam mới được hoàn chỉnh. Có thể thấy rõ nền giáo dục này đã kìm hãm sự
phát triển của dân tộc ta, khiến 95% dân số nước ta bị mù chữ.
Âm mưu đồng hóa dân tộc ta của Pháp – cũng như phong kiến phương
Bắc xưa – không thể nào thực hiện được. Cùng với phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc, nhân dân ta – khác với sự nhân nhượng, từng bước đầu hàng
của vua quan phong kiến – đã liên tục đấu tranh trên mặt trận văn hóa giáo
dục dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu phong kiến yêu nước và sau đó là Đảng
Cộng sản Đông dương. Dòng giáo dục yêu nước và dòng giáo dục cách
mạng đã đặt những tiền đề quan trọng cho một nền giáo dục dân tộc, dân chủ
sau cách mạng tháng Tám.
Điều đáng chú ý là số trí thức được đào tạo chính trong nhà trường của
Pháp – trừ một số rất ít theo Pháp – còn đa số vẫn trở thành những nhà trí
thức yêu nước, yêu dân tộc, tích cực tham gia phong trào giải phóng dân tộc
và tham gia xây dựng nền giáo dục tiến bộ, cách mạng.
Về mặt khách quan, cũng phải ghi nhận rằng trong khoảng gần một thế
kỉ, nền giáo dục Pháp – Việt dưới thời thuộc Pháp cũng có những đóng góp
tích cực nhất định.
Sự xuất hiện một nền giáo dục mới thay thế nền giáo dục Nho học –
đứng về mặt phát triển lịch sử – là một bước tiến bộ, cao hơn của lịch sử giáo
dục. Nó đã đưa lại những nhân tố mới mà hàng nghìn năm trước, giáo dục
phong kiến không có và không thể thực hiện được. Đó là:
– Sự sáng tạo và sử dụng chữ quốc ngữ vào bậc tiểu học, giúp trẻ em
nhanh chóng biết đọc, biết viết, tiếp thu dễ dàng những kiến thức thiết thực,
bổ ích, phục vụ cho cuộc sống. Ngoài ra, việc học tiếng Pháp và duy trì chữ
Hán cũng làm cho ngôn ngữ dân tộc được giàu có, phong phú hơn lên rất
nhiều.
– Chương trình học bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội
với tính hệ thống cao, càng ở bậc học trên càng được mở rộng.
– Bên cạnh giáo dục phổ thông, một số trường dạy nghề xuất hiện. Nếu
không có điều kiện học lên, sau khi học xong tiểu học, trẻ có thể học nghề ở
xưởng máy. Một số ít học xong trung học cũng dễ dàng tìm được việc làm để
sống.
– Số ít học sinh vào được các trường cao đẳng, đại học khi thành đạt
thường trở thành thầy giáo, bác sĩ, kĩ sư, nghệ sĩ – có trình độ chuyên môn
khá, giỏi, – đóng góp đắc lực cho xã hội.
– So với Nho giáo, cá nhân được phát triển tài năng đầy đủ hơn, toàn
diện hơn, có thể phục vụ xã hội theo năng lực và sở trường của mình.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá đổ cả 2 ách thống trị phong
kiến và thực dân, đưa dân tộc ta sang một kỉ nguyên mới tự do, độc lập và
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Giáo dục cũng bước vào một thời kì đổi mới hoàn toàn cả về số lượng
và chất lượng.
Nửa thế kỉ qua, cùng với sự biến đổi dữ dội của lịch sử dân tộc với 30
năm chiến tranh giữ nước ác liệt và anh hùng, nền giáo dục của dân tộc ta nói
chung và nền giáo dục cách mạng nói riêng đã trải qua những bước thăng
trầm to lớn, thành tựu nhiều, gian nan, thiếu sót cũng không ít.
Ngày nay, những năm cuối cùng của thế kỉ XX, chuẩn bị bước vào thế
kỉ XXI, nền giáo dục của đất nước ta đang phải nỗ lực tìm ra những chiến
lược mới để sớm hòa nhập với khu vực và trình độ khoa học – kĩ thuật tiên
tiến trên thế giới, nhằm góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước,
làm cho “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tiên tiến của thế giới, đồng thời kế
thừa những di sản quý báu của cha ông ta, của quá khứ ngàn năm với tình
thần cân nhắc, chọn lọc, sáng tạo là con đường đúng đắn nhất của chiến
lược giáo dục, chiến lược con người Việt Nam hôm nay.
Dựng lại toàn bộ bức tranh giáo dục 50 năm qua, rút ra những kinh
nghiệm thành bại, những bài học cần thiết cho ngày nay, đó là nhiệm vụ của
tập sách thứ hai mà chúng tôi sẽ đề cập tới sau này.
Phụ lục 1. CÁC TÁC PHẨM CHÍNH THỜI LÍ, TRẦN, HỒ, LÊ SƠ
Vào năm 1437, Lê Thái Tông xuống chiếu cho vị danh thần, học thức
uyên bác nhất trong triều lúc đó là Nguyễn Trãi, tìm được mấy chục bài thơ
quốc âm của Hồ Quý Li, cho tiến hành xây dựng quy chế về lễ nhạc, in và ban
bố rộng rãi sách kinh điển Nho giáo. Ông còn xuống chiếu tìm kiếm dã sử và
các truyện kí xưa còn chứa giữ ở các tư gia sai dâng nộp tất cả để tham
khảo. Hội tao đàn đã hoạt động đều đạn, vừa xướng họa thơ văn, vừa sưu
tập, biên tập các sách các thời trước. Đáng chú ý là các tập sách sau:
Về văn thơ
1. Tinh tuyền chư gia luật thi do Dương Đức Nhan (Hải Dương) đỗ tiến
sĩ 1463 giữ chức Hữu bộ thi lang soạn, gồm:
– 8 tác giả Trần, Hồ là Trận Nguyên Đán, Nguyễn Trung Ngạn, Lê
Quát, Phạm Sư Mạnh, Phạm Nhân Khanh, Nguyễn Phi Khanh, Phạm Nhữ
Dục, Lê Cảnh Tuân, 190 bài thơ.
– 4 tác giả Lê sơ: Nguyễn Trai, Lí Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Vũ
Mộng Nguyên, 219 bài.
2. Việt âm thi tập: Do Phan Phù Tiên soạn dở, sau Chu Xa soạn tiếp 13
năm sau mới hoàn thành gồm 7 quyển, 700 bài thơ.
3. Trích diễn thi tập: do Hoàng Đức Lương soạn năm 1497 gồm 15
quyển, 40 tác giả.
4. Phú và tản văn: Quần hiền phú tập, do Hoàng Tụy Phu biên soạn có
108 bài phú.
5. Quốc triều chương biểu tập: do Trần Văn Mô soạn, gồm 341 bài
trong đó có các tác giả Mạc Đĩnh Chi, Lê Bá Quát, Trương Hán Siêu.
6. Có kim chế từ tập: do Lương Như Hội soạn (đã mất)
Văn học dân gian
1. Việt điện u linh: Do Lí Tế Xuyên soạn, có 27 truyện, 2 bài thơ của Lí
Thường Kiệt và Trần Quang Khải, 7 bài thơ khuyết danh.
2. Linh nam chích quái: do Trấn Thế Pháp soạn sau được nhiều người
bổ sung, có 22 truyện, 15 bài thơ.
Về sử
1. Đại Việt sử kí do Lê Văn Hưu đời Trần soạn.
2. Đại Việt sử kí tục biên do Lê Nhân Tông hạ lệnh cho Phan Phù Tiên
soạn năm 1455 xong, đó là quyển tiếp vào quyển Đại Việt sử kí của Lê Văn
Hưu.
3. Đại Viết sử kí toàn thư do Ngô Sĩ Liên soạn năm 1479 gồm 15
quyển, chung đúc tinh hoa sử liệu và thơ văn, riêng thơ văn có 11 chiếu chế,
biểu, lịch, 7 thư, sớ, tấu, 7 tựa văn bia, 22 bài bình luận lịch sử, 13 bài thơ, 8
đoạn thơ.
Sách nhà Phật
1. Khóa hư lục:
Tập bài giảng về lẽ “sắc, không” do Trần Thái Tông soạn sau khi rời bỏ
triều đình, nội dung:
Quyển thượng 3 bài: Tứ sơn, Phổ thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát bồ
đề tâm.
Quyển hạ có 18 bài: 5 bài về các điều răn, 5 bài luận, 4 bài tựa, 3 bài
khác.
Người ra Trần Thái Tông còn có 6 bài thơ, 3 bài văn trong khóa hư lục
và 65 bài thơ, 17 bài văn ở các tác phẩm khác.
2. Thượng sĩ ngữ lục
Của Tuệ Trung Thượng sĩ (Trần Tung) có 4 phần
+ Triết lí về thiền học
+ Thơ ca: 48 bài
+ Thơ văn: của 7 nhân vật phái Trúc Lâm.
+ Thượng sĩ hành trang: không rõ tác giả.
Ông là nhà sư uyên bác, một võ tướng có nhiều công lao dẹp giặc, là
anh cả Trần Quốc Tuấn, bác ruột Trần Quốc Tảng.
3. Thiền uyển tập anh: Không rõ tác giả, soạn năm 1337
4. Tam tổ thực lực là sách tiểu sử phái Trúc Lâm (Trần Nhân Tông,
Pháp Loa, Huyền Quang)
5. Thánh Đăng Lục: tập thực lực về 5 vị phật tử và là 5 ông vua thời
cực thịnh: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh
Tông, Trần Minh Tông (5 bộ sách này thế kỉ 17, 18 mới sưu tập được).
Phụ lục 2DỤ KHUYẾN HỌC CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Dịch nghĩa
Từng nghe:
Người quân tử được gọi là “Thành đức”, quý ở chỗ có đủ cả “thể” cả
“dụng”
Bậc nho giả cầu “cái học vị kỉ”, thì cần phải có thủy có chung.
Nếu sớm tối không cần cù,
Thi công phu bị gián đoạn.
Kìa:
Bậc đại thành như vua Hạ Vũ, còn tiếc nuối từng tấc quang âm;
Bậc đại hiền như ngài Tăng Sâm, vẫn mỗi ngày xét mình ba lượt.
Đổng Tử đời Hán, buông rèm mà khích lệ kẻ sĩ;
Xương Lê đời Đường, kiên trì mà đi tới thành công.
Kẻ kia là người, ta cũng là người, mà họ làm được như thế;
Xưa vẫn lí ấy, nay vẫn lí ấy, cốt có chí thì làm nên.
Các ngươi:
Sinh ra ở trong vòng trời đất,
Cùng bẩm thụ khí âm dương.
Mỗi một sự vật, tuy trời phú có thuần tạp khác nhau;
Nhưng đã là người, ai cũng có chí noi theo bậc hiền bậc thánh.
Trước hết, phải tẩy rửa cho trong sạch,
Ứng đối tiến lui cho phải phép,
Thứ đến học các môn lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số khác nhau.
Ngồi ngay ngắn, đứng trang nghiêm, học rồi thường xuyên luyện tập.
Tâm ngay chính, ý chân thành, đạo đức ngày càng thêm mới.
Đào sâu kĩ những điều đã học;
Hăng say tìm những điều chưa thông.
Thể loại “kinh” là thứ chở đạo, phải dốc sức mà giảng cầu?
Thể loại “Sử” là sách ghi việc, phải dụng tâm mà suy cứu.
Từ đó, khảo cứu phép tắc của thánh hiền;
Từ đó, nắm vững quy luật của sự lí.
Lời đẹp chẳng gì bằng Kinh Thi, Kinh Thư,
Thi Thư cần phải có;
Hành đạo chúng gì hơn Kinh Lễ, Kinh Nhạc,
Lễ Nhạc chẳng thể không.
Lặn ngụp nơi Bát quái, Cửu trù;
Ra vào chốn Bách gia chư tử
Tìm bậc đại hiền làm thầy, tìm bậc thứ hiền kết bạn, gần gũi thầy bạn
đúng phương châm;
Ra thờ bậc trưởng, vào thờ bậc anh, kính trưởng mến anh kết đạo.
Chớ chạy theo lòng tư dục mà làm trái sự lí, những nên coi việc thiện
làm thầy;
Khí chất do thói quen mà đối thay, hãy răn giới một chữ kiêu nạn.
Đạo lí cao nhất, cốt ở chỗ giữ gìn quan hệ xung quanh;
Rèn công phu thực tiễn chân thành; Chớ mắc lỗi săn lùng danh tiếng.
Có định có tĩnh, có lự có đắc, thành quả mới cao;
Như thiết như tha như trác như ma, cầu tiến bộ mãi.
Bản thân đã có sở đắc;
Lại mong mở rộng cho người.
Người tài dạy người bất tài.
Người đúng dạy người chưa đúng.
Giúp đỡ thêm đông đảo,
Thành tựu chẳng riêng mình.
Lập thân chẳng mình ta,
Đức vọng thêm bạn hữu.
Nhân càng thục, nghĩa càng tinh;
Công càng cao, nghiệp càng lớn.
Từ đó mà ra sức áp dụng điều sở học;
Từ đó mà nói theo cổ nhân học làm quan
Giành chức quan cao nhà Hán xưa, khác nào cúi nhặt hạt cải
Giật lấy khoa bảng nhà Tống nọ, chỉ như nhổ đứt sợi râu.
Người tranh xem bảng hổ đề tên;
Đời ngưỡng vọng đường mây nhẹ bước.
Cùng khách đãi vàng bội ngọc, tiếp gót liền vai;
Một đoàn đeo nỏ cầm roi, tiền hô hậu ủng.
Tấm lòng đăng hỏa ngày xưa thật chẳng phụ;
Nguyện ước công danh thuở nọ được đền bồi.
Nhờ văn chương mà địa vị rõ ràng;
Nhờ đạo đức mà tục dân giáo hóa.
Giúp dân giúp chủ, lợi ích thấm khắp đương thời;
Bản thân cha mẹ vẻ vang, sự nghiệp lưu truyền hậu thế.
Tất thảy đều nhờ cần cù là trên hết,
Vậy nên bổng lộc sẵn ở trong.
Thế mà chẳng học, chẳng suy;
Chính là tự mình vứt bỏ.
Tối tăm lời dạy ở mô điển, ú ớ chẳng hay;
Ham mê say đắm chốn gió trăng, mịt mờ chẳng tỉnh.
Bóng quang âm nơi khe cửa thấm thoát chẳng tỏ;
Ngọn đèn nói thành nam le lói chẳng chăm.
Ham mê các trò vui, cái tâm kê khuyển dễ buông thả;
Học mới được mấy tí, cái chí hồng hộc đã đổi thay.
Như Tể Dư, gỗ mục chẳng thể dùng,
Như Từ Tử, dòng nước chẳng biết mạch,
Núi cao chín nhẫn, thiếu một sọt đấy chẳng thành;
Giếng chẳng có mạch nguồn, giữa đường đành vứt bỏ.
Cái tài cỏn con chẳng dùng được;
Công việc hèn mọn phải cam làm.
Rong ruổi làm quân dưới cờ, ngực sinh rận rệp;
Bôn tẩu làm lính trước ngựa, lưng đầy bọ ròi.
Vất vả thân đầy tớ dốt ngu;
Khúm núm hèn mọn thật xấu hổ.
Cẩu thả cày cấy, cẩu thả thu hoạch, lỗi ấy vì đâu?
Khốn khổ cái thân, khốn khổ cái tâm, hối hận sao kịp!
Há chỉ làm lụy tới thê tử;
Mà còn phụ ơn cả mẹ cha.
Ngoảnh nhìn người áo gấm vẻ vang;
Thật đáng xấu hổ và sỉ nhục!
Kìa:
Làm người tốt và không tốt, phân biệt chi chỗ đó mà thôi;
Học chăm hay không chăm, còn gì khác như thế nữa!
Ta có vài lời như vậy,
Các người hãy nhớ lấy!
Chú thích:
1. Thể dụng: Vốn là thuật ngữ của Tống Nho. Ở đây “thể” có nghĩa là
thể chất, có thực học. “Dụng” là tác dụng, là sự phát huy tác dụng của cái thể
chất, cái thực học đó.
2. Vị kỉ: vị mình. “Vị kỉ chi học”, là cái học cốt cầu tiến bộ ở nơi bản thân
mình, có xuất xứ từ sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn thứ 14: “Cổ chi học giả vị
kỉ, kim chi học giả vị nhân” (người học ngày xưa cầu sở đắc ở nơi bản chân
mình. Người học ngày nay cầu để người khác biết mình).
3. Hạ Vũ: Tức vua Đại Vũ nhà Hạ, còn gọi là Hậu Vũ, là một ông vua
hiền nổi tiếng trong lịch sử cố đại Trung Quốc. Khai sáng ra nhà Hạ. Cha là
Cổn trị thủy không có công bị giết. Ông nối sự nghiệp, 8 năm ở ngoài, 3 lần đi
qua cửa mà không vào, hoàn thành sự nghiệp trị thủy.
4. Tăng Sâm: Một trong 72 học trò giỏi của Khổng Tử, nổi tiếng về giữ
đạo hiếu. Ông là tác giả các sách Hiếu Kinh, Đại học, v.v… Tống nho cho
rằng chỉ có một mình ông là chân truyền được đạo thống của Khổng Tử. Câu
“Mỗi ngày xét mình ba lượt” (Ngô nhật tam tỉnh ngô thân) có xuất xứ từ sách
Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.
5. Đồng Tử: Tức Đổng Trọng Thư, là một nhà triết học nổi tiếng thời
Hán, giữ chức Bác sĩ thời Hán Cảnh đế. Ông buông rèm dạy học, ba năm liền
mắt không nhìn ra ngoài vườn, được mọi người suy tôn là thầy. Tác phẩm có
Xuân thu phồn lộ, v.v…
6. Xương Lê: Tức Hàn Dữ, là nhà triết học, nhà văn nổi tiếng thời
Đường. Ông thuở nhỏ mồ côi cha, nhờ khắc khổ kiên trì học tập mà thành
đạt, đỗ tiến sĩ đời vua Đường Đức Tông. Ông là người bác thông kinh sử,
bách gia, văn chương có phong cách riêng, là một trong “Đường, Tống bát
đại gia” (8 nhà văn lớn đời Đường, Tống)
7. Lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số: tức “Lục nghệ” (6 nghề) trong sách Chu
lễ. Đó là: Lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe ngựa), thư (viết chữ), và số
(tính toán).
8. Học rồi thường xuyên luyện tập: Lấy ý câu nói của Khổng Tử: “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học mà được thường xuyên luyện tập, thì
không vui hay sao?) trong sách Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.
9. Tâm chính, ý thành: Giữ cho tâm được ngay chính, cho ý được chân
thành. Đó là những phương pháp tu dưỡng thân tâm, có xuất xứ từ sách Đại
học.
10, 11. Thi, thư, lễ, nhạc: Tên bốn kinh: Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh
nhạc, trong Ngũ kinh (thêm Kinh dịch) của đạo nho.
12. Bát quái, cửu trù: Bát quái là 8 quẻ, gồm: Càn, Khảm, Cán, Chấn,
Tốn, Li, Khôn, Đoài trong Kinh dịch. Cửu trù tức chín trù, gồm: 1. Ngũ hành, 2.
Kính dụng ngũ sự, 3. Nông dụng bát chính, 4. Hiệp dụng ngũ kỉ, 5. Kiến dụng
hoàng cực, 6. Ngải dụng tam đức, 7. Minh dụng kê nghi, 8. Niệm dụng thứ
trưng, 9. Hưởng dụng ngũ phúc, uy dụng lục cực, có xuất xứ từ thiên Hồng
phạm, Kinh thư. Bát quái, cửu trù ở đây chỉ Kinh dịch, Kinh thư.
13. Bách gia chư tử: Thuật ngữ chỉ 10 môn phái triết học tiêu biểu thời
cổ đại Trung Quốc, gồm: Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia, Âm
dương gia, Tung hoành gia, Tạp gia (Lã Thị Xuân Thu, Hoài Nam tử…), Nông
gia, Tiểu thuyết gia.
14. Có định có tĩnh, có lực có đắc: Chỉ sự tập trung tư tưởng cao độ
(định, tĩnh) đào sâu suy nghĩ (lực) thì học tập mới có kết quả (đắc), có xuất xứ
từ sách Đại học.
15. Như thiết như tha, như trác như ma: Như cắt như cứa, như mài
như rùa. Chỉ người học có nhu cầu bức xúc, thôi thúc học tập (như thiết như
tha) và hàng ngày cần cù chăm chỉ (như trác như ma), có xuất xứ từ sách Đại
học, và Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.
16. Câu này lấy ý từ câu “học muốn hay thì ra làm quan” (học nhi ưu
tắc sĩ), có xuất xứ từ sách Luận ngữ, chương Tử Trương thứ 19. Người xưa
cho rằng, làm quan là cách tốt nhất để có cơ hội thi thố, ứng dụng những điều
sở học của mình, góp phần đồng góp cho xã hội. Bên cạnh đó giúp mình
được hưởng bổng lộc vinh hoa, là thành quả gặt hái được nhờ học tập mà có.
17. Giành chức quan cao: Dịch thoát chữ “thanh tử” tức là hai màu
xanh tía, mầu áo của bậc khanh, đại phu đời Hán. Cúi nhặt hạt cải: Hạ Hầu
Thắng khi dạy học thường bảo học trò rằng: “Kẻ sĩ chỉ lo ở việc không sáng tỏ
kinh thuật. Một khi kinh thuật sáng tỏ rồi, thì việc giành lấy chức quan cao, chỉ
dễ như cúi nhặt hạt cải vậy” (Hán Thư, Hạ Hầu Thắng truyện).
18. Đường mây nhẹ bước: Dịch câu “thanh vân đắc lộ”, chỉ những
người may mắn, học giỏi đỗ đạt có địa vị cao trên con đường hoan lộ.
19. Bổng lộc sẵn ở trong: Lấy ý từ câu nói của Khổng Tử “Học dã, lộc
tại kì trung hĩ”, trong sách Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công thứ 15.
20. Lời dạy ở mô điển: Mô điển là những thể văn răn giới về chính sự ở
các đời Hạ, Thương, Chu chép trong Kinh thi.
21. Cái tâm kê khuyển: Chì những ham muốn vật dục trong con người,
nếu không biết chế ngự thì rất dễ bị buông thả, sa ngã.
22. Chí hồng hộc: Hồng hộc là tên hai loài chim bay cao, bay xa. Chí
hồng hộc là chỉ những người có chí, có hoài bão, có lí tưởng lớn lao.
23. Tể Dư, gỗ mục chẳng thể dùng: Tể Dư là học trò của Khổng Tử, có
tài nói năng, theo học khoa ngôn ngữ, nhưng kém ý chí, hay ngủ ngày, nên bị
Khổng Tử chê là khác nào cây gỗ mục, không thể dùng để đẽo gọt, chạm trổ
được. Chuyện này có xuất xứ từ sách Luận ngữ, thiên Công Dã Tràng thứ 5.
24. Từ Tử: chưa rõ.
25. Câu này ý khuyên người học phải tự cường, cố gắng không biết
ngừng nghỉ, tích thiểu thành đa, nếu giữa đường dừng lại thì công phu trước
vứt hết, như quả núi cao, thiếu một sọt đất cũng chẳng thành, có xuất xứ từ
sách Luận ngữ thiên Tử hãn thứ 9: “Thí như vi sơn, vi thành nhất quỹ, chỉ,
ngô chỉ dã” (Ví như ngọn núi, thiếu một sọt đất không thành, dừng lại, là ta
dừng vậy).
Phụ lục 3BIA TIẾN SĨ NĂM NHÂM TUẤT (1442)
DO THÂN NHÂN TRUNG SOẠN (NĂM 1484)
Lớn lao thay thánh triều ta!
Đức Thái Tổ cao hoàng đế trí dũng trời cho, dựng xây nghiệp lớn, diệt
trừ tàn bạo, cứu dân lầm than. Khi vũ công đã ổn định, văn đức liền mở
mang, thu nạp anh tài, đổi mới chính trị. Bèn xuống chiếu cho thiên hạ xây
nhà học, bồi dưỡng hiền tài. Trong kinh đô có Quốc Tử Giám, ngoài các phủ
có nhà học, người thân hành chọn con cháu các quan và thường dân tuấn tú
vào làm học sinh các cục nhập thị, các cận thị ngự điển và làm giám sinh
Quốc Tử Giám. Lại sai quan chuyên trách tuyển rộng trong dân gian lấy con
em các nhà lương thiện vào làm sinh đồ ở các phủ, cử thầy dạy bảo khắc
sách ban cho, nền tảng bồi dưỡng nhân tài thực là rộng lớn vậy. Còn như kén
kẻ sĩ thì hoặc làm bài Minh Kinh hoặc phú, hoặc luận, hoặc vua ra đề văn
sách, rồi tùy tài mà cất nhắc trọng dụng. Thuở ấy chưa đặt tên khoa tiến sĩ,
nhưng thực chất việc sùng nho và phương pháp chọn người tài đại khác đã
đủ đặt nền móng thái bình cho muôn đời từ đấy.
Vẻ vang thay! Đức Thái Tông văn hoàng đế nối tiếp nghiệp lớn, làm
rạng nếp xưa, xem xét nhân văn, giáo hóa thiên hạ coi trọng đạo nho là việc
hàng đầu, cho cầu hiền, kính trời là mưu kế tốt. Người nghĩ rằng: mở khoa thi,
chọn kẻ sĩ là việc phải làm trước hết trong phép trị nước. Tổ tiên, cơ đồ mở
mang, cho đời thịnh trị là nhờ ở đó. Sửa sang chính trị, sắp đặt mọi việc giáo
hóa nhân dân, gây phong tục tốt cũng là nhờ ở đó. Các bậc đế vương xưa
làm nên sự nghiệp trị bình không ai không bằng con đường đó. Năm Nhâm
Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) bèn mở rộng Xuân Vi họp thi kẻ sĩ. Khi
ấy có 450 người ứng thí qua 4 kì; 33 người trúng cách. Quan chuyên trách kê
tên dâng lên, vua sai chọn ngày vào đối sách ở sân rồng. Ngày 2 tháng 2 vua
ngự ở sân điện Hội Anh, thân hành ra đề sách vấn. Ngày hôm sau, các quan
đọc quyển là bầy tôi Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Trần Thuấn Du,
Nguyễn Tử Tấn đem quyển đang đọc, rồi đệ lên vua xem xét, định thứ bậc
cao; thấp. Vua cho Nguyễn Trực đỗ trạng nguyên, Đỗ Như Hổ đỗ bảng nhãn,
Lương Như Hội đỗ thám hoa, 7 người đỗ tiến sĩ, 23 người đỗ phụ bảng. Ngày
3 tháng 3, xướng danh, treo bảng để tỏ rõ cho đông đảo sĩ phu thấy sự vẻ
vang. Ân ban tước trật để biểu dương, cấp mũ đai, y phục để tô điểm, cho dự
yến Quỳnh Lâm để tỏ lòng yêu mến, cho ngựa tốt về quê để tỏ rõ ý ân cần. Sĩ
thứ đất Tràng An đâu đâu cũng tụ tập lại xem, đều ca ngợi thánh hiền chuộng
nho, xưa nay ít thấy.
Ngày mồng 4, Trạng nguyên Nguyễn Trực dâng biểu tạ ơn, ngày mồng
9 từ giã bệ ngọc, vinh quy. Đó là khoa đầu tiên thánh triều ban ơn long trọng.
Cho đến nay sĩ phu còn ca ngợi. Từ đấy về sau, thánh nối, thần truyền, vẫn
theo lộ cũ.
Kẻ bầy tôi này kính vâng lời thánh, nghĩ rằng: việc dựng bia một khi
được cử hành thì ý tốt cầu hiền tài, mưu thịnh trị của Thánh tổ Thần Tông
được lưu truyền lâu dài. Đó chính là phép lớn để rèn giũa người đời và là điều
rất may cho nho học.
Tôi dẫu nông cạn, vụng về, nhưng đâu dám từ chối, xin kính cẩn chắp
tay, cúi đầu mà làm bút kí rằng:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh, rồi lên cao. Nguyên khí suy thì thế nước suy yếu, rơi xuống thấp. Vì
vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân
tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với
quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là
cùng. Đã yêu mến khoa danh, lại đề cao bằng tước trật, ban ân rất lớn, mà
vẫn cho là chưa đủ, lại tên ở tháp Nhạn ban danh hiệu Long hổ, bầy tiệc Văn
hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao
nhất.
Nay thánh minh lại cho rằng chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng
lẫy, những lời khen, tiếng thơm chưa đủ lưu vẻ sáng lâu dài, cho nên, lại
dựng đá đề danh đặt ở Hiền quan khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn,
hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua. Họ chỉ là chuộng văn suông,
ham tiếng hão mà thôi đâu!
Ôi, kẻ sĩ chốn trường ốc, lều tranh, phận thật nhỏ mọn mà được triều
đình đề cao nhất mực như thế, thì họ phải làm thế nào để tự trọng tấm thân
mà ra sức báo đáp.
Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này mà điểm lại có nhiều người
đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị binh suốt mấy chục năm,
được quốc gia tin dùng. Cũng không phải không có những kẻ vì nhận hối lộ
mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn quan ác. Có lẽ, vì lúc sống họ chưa
được nhìn thấy tấm bia này. Ví thử hỏi đã được mắt thấy thì lòng thiện tràn
đầy, ý xấu bị ngăn chặn, đâu còn dám nẩy sinh như vậy được. Thế thì, việc
dựng tấm bia đá này ích lợi rất nhiều. Kẻ ác lấy đó làm răn. Người tham theo
đó mà gắng. Dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng
cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Thánh hiền đặt ra đâu
phải là vô dụng. Ai xem bia nên hiểu ý sâu này.”
Chú thích:
(1) Minh Kinh: tức bài kinh nghĩa, làm sáng tỏ ý nghĩa một vấn đề trong
sách Nho giáo.
(2) Xuân vi: thi Hội, thường tổ chức vào mùa xuân.
(3) Quỳnh Lâm: tên vườn hoa ở phía tây thành phủ Khai Phong (Trung
Quốc) nội nhà Tống khao yến tiệc cho các vị tân khoa. Lấy điển tích Trung
Quốc để nói công việc của triều đình nước ta.
(4) Nguyên khí: sức sống của đất nước.
(5) Tháp ở chùa Từ ân Thiểm Tây (Trung Quốc)
(6) Long hổ: chỉ người đỗ tiến sĩ
(7) Văn hỉ: Tiệc mừng tân khoa
(8) Hiền quan: chỉ Quốc Tử Giám
(9) Mệnh mạch: tính mạng và huyết mạch, chỉ vận mệnh đất nước.
Phụ lục 4CHIẾU CỦA VUA QUANG TRUNG KHEN THƯỞNG
NGUYỄN THIẾP VÀ NHỮNG NGƯỜI CỘNG SỰDỊCH SÁCH “TIỂU HỌC TỨ THƯ”
“Chiếu cho Sùng chính Viên viện trưởng, La Sơn tiên sinh Nguyễn Khải
Xuyên được biết:
“Nguyên kì trước diễn dịch các sách Tiểu học đã đệ tiến nộp. Kì này,
diễn dịch Tứ thư đã xong. Cộng được ba mươi hai tập; trấn quan đã chuyển
đệ về kinh tiến nộp. Trẫm đã từng xem. Tiên sinh giảng bài, phu diễn, kể đã
chăm chỉ. Những tên giúp việc là Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định,
mùi Dương Lịch đều có công.
“Vậy đặc ban thưởng cổ tiền một trăm quan, do văn quan chiểu theo
mà cấp, lĩnh để chung hưởng ân tứ.
“Khi xong công việc bộn bề, trẫm nghỉ ngơi, vui ý đọc sách. Tiên sinh
học vấn uyên bác, nên vì trẫm mà phát huy những ý thư, khiến cho bổ ích
thêm. Nay chiếu giao tiên sinh việc giải thích ba kinh Thi, Thư, Dịch. Thể theo
kinh văn và tập chú mà lấy từng chữ, từng câu diễn ra quốc âm: cứu xét tinh
tường để đọc cho hay. Tiên sinh nên thúc giục những viện hàn lâm Nguyễn
Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch theo lệnh bản viện mà
làm việc. Và nói với quan bản trần giao cho hai mươi ba viên văn thuộc từ lại,
giúp việc biên lực cho Viện, để cho tiện công việc.
Kinh Thi thì dịch gấp đi. Dịch xong, soạn gửi trước để tiến nộp. Còn hai
kinh Thư, Dịch sẽ gửi theo sau.
“Cẩn thận chớ chậm trễ.
Khâm tai! Đặc chiếu.
“Quang Trung năm thứ 5, ngày mồng 1 tháng sáu (1792)
(Hoàng Xuân Hãn, sách đã dàn, trang 151)
Phụ lục 5PHƯƠNG PHÁP HỌC CỦA TRẺ CON
BÙI DƯƠNG LỊCH
Do dụng công khốn khó mới biết, do cố gắng làm mãi mới được.
Tuy nhu nhược rồi nhất định cũng cương cường.
Tuy ngu muội tới nhất định cũng sáng suốt.
Hi vọng làm hiền, hi vọng làm thánh, cũng chẳng ngoài cách ấy.
Lối học nho ta như thế mà thôi.
Tính do tập quen mới thành; đức cùng tuổi cùng tấn tới. Đến khi dần
dần lớn lên, hết thảy đều do từng trải thực tiễn mà làm được.
Bây giờ mới học trường đại học, dạy cho biết lí.
Đã cùng cực biết được lí, càng làm toàn vẹn được sự việc. Chứ không
ai trông thấy cũng vẫn giới thận; chỗ không ai nghe thấy cũng vẫn khưng cụ.
Công phu tồn dưỡng đôn đốc mười phân vẹn mười. Chẳng gì rõ ràng hơn
việc tế vị, chẳng gì hiển hiện hơn việc bí ẩn.
Công phu tỉnh sát, càng nên thêm phần kính cẩn. Một ngày 12 giờ,
kiểm điểm thân ta tâm ta.
Đi không xấu hổ với bóng, nằm không xấu hổ với chăn. Bất tất bình
phẩm so sánh người, chi cần sao cho mình thành người khá.
Chẳng cần cầu người biết, chỉ cần ở ta sao cho hết đạo làm người.
Trẻ em (nay ta dạy các ngươi, không việc gì phải cầu ở đâu cả) cứ
trước hết tuần tự làm việc gần, học việc nhỏ. Chớ nên học những việc không
thiết thực và viển vông.
Khởi cư, ngồi đứng, nên đoan trang, chúng thiên lệch.
Khi tiến, khi thoái, khi bước một, khi đi nhanh, nên cẩn trọng mới quý.
Chính thân nên khiêm tốn, cư xử với người, nên hòa và kính.
Hết thảy các việc, nên cẩn thận. Đi học nên chuyên cần. Cho xem sách
nhảm, chớ nói chuyện phiếm. Chớ mải vội học văn, từ chớ ham chuộng
những truyện bí ẩn kì quái.
Trích từ “Bùi gia huấn hài” của Bùi Dương Lịch. Bản dịch tiếng Việt của
Trần Lê Nhân. Tài liệu chép tay của Tổ Lịch sử Triết học, Viện Triết học, chưa
xuất bản.
(Chúng tôi trích tài liệu này qua cuốn “Tư tưởng Việt Nam thế kỉ 18”,
Tập 11, trang 149, bản in rônêô của Viện triết học).
Tác giả
TÀI LIỆU THAM KHẢOI. SÁCH THAM KHẢO
1 – Bùi Văn Nguyên “Nguyên Bỉnh Khiêm”. NXB Hải Phòng, 1986.
2 – Cao Xuân Dục – “Quốc triều hương khoa lục”. NXB TP Hồ Chí
Minh, 1993.
3 – Cao Xuân Dục – “Sự đạo trong sách Nhân thế tu tri”. Thư viện Hán
Nôm, Hà Nội, 1917.
4 – Chương Thâu – Đặng Huy Vận – “Những đề nghị cải cách của
Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỉ XIX”. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1961.
5 – Chương Thâu – “Đông kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn
hóa đầu thế kỉ XX”. Hà Nội, 1982
6 – Dương Quảng Hàm – “Việt Nam thi văn hợp tuyển”. Bộ giáo dục,
Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1968.
7 – Dương Quảng Hàm – “Việt Nam văn học sử yếu”. Bộ giáo dục,
trung tâm học liệu Sài Gòn, 1973.
8 – Dương Mạnh Huy – “Minh tâm bửu giám”. Nhà xuất bản Mũi Cà
Mau – 1996.
9 – Dương Kinh Quốc – “Việt Nam, những sự kiện lịch sử”. Ban nghiên
cứu lịch sử Đảng, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội.
10 – Đào Duy Anh – “Lịch sử việt Nam” – Hà Nội, 1958.
11 – Đào Duy Anh – “Chữ nôm, nguồn gốc – cấu tạo – diễn biến”. NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975.
12 – Đàm Văn Chí – “Lịch cử văn hóa Viết Nam”. NXB Trẻ, TP Hồ Chí
Minh, 1992.
13 – Đặng Thai Mai – “Vần thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX–
1900 - 1925.” NXB Văn học, Hà Nội, 1964.
14 – Đặng Huy Vận – Chương Thâu – “Những đề nghị cải cách của
Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỉ XIX”. NXBGD, Hà Nội, 1961.
15 – Đoàn Trung Còn – “Tứ thư – Đại học, Trung Dung, Luận ngữ,
Mạnh Tử”. Trí đức tòng thơ, Sài Gòn, 1950.
16 – Đoàn Trung Còn – “Tam Thiên tự”. NXB Đồng Nai, 1995.
17 – Đoàn Trung Còn – “Tam tự kinh”. NXB Đồng Nai, 1995.
18 – Đoàn Trung Còn – “Các tông phái đạo Phật”. NXB Thuận Hóa,
1995
19 – Đỗ Huy (chủ biên) – “Chân – Thiện – Mĩ – Sự thống nhất và đa
dạng trong văn hóa nghệ thuật.” NXB KHXH, Hà Nội, 1994.
20 – Hàn Phi – (Phan Ngọc dịch) – “Hàn Phi tử” – 2 tập. NXB Văn học,
Hà Nội, 1990.
21 – Hòa thượng Kim Cương tử – “Chùa Trấn Quốc – Cảnh đẹp Hồ
Tây”. NXb Lao động, Hà Nội, 1994.
22 – Hòa thượng Kim Cương tử – “Bứt tích của Hòa thượng Kim
Cương tử” – Hà Nội, 1990.
23 – Hạnh Hương – “Lễ giáo – Xưa và nay” (Dùng trong học đường).
NXB Đồng Nai, 1995.
24 – Hoàng Xuân Hãn – “La Sơn phu tử”. NXB Minh Tân, Paris, 1952.
25 – Hoa Bằng – “Quang Trung, anh hùng của dân tộc”
26 – Hoàng Văn Lân và Đặng Huy Vận – “Mưu đồ chính trị của
Alêchxăngđơrốt. Và vấn đề chữ quốc ngữ”. Nghiên cứu lịch sử số 63
tháng 6–1964.
27 – Hồ Chí Minh – “Tuyển tập”, tập 1, 2. NXB Sự thật, Hà Nội, 1980.
28 – Hoàng Quốc Việt – “Nhân dân ta rất anh hùng”. NXB Văn học, Hà
Nội, 1 960.
29 – Lão tử – (Thu Giang, Nguyễn Duy Cần dịch và chú thích) – “Đạo
đức kinh”. NXB Văn học, TP Hồ Chí Minh, 1992.
30 – Lê Quý Đôn – “Kiến văn tiểu lục”. NXB Sử học, Hà Nội, 1962.
31 – Ngô Đức Thọ (chủ biên) – “Các nhà khoa bảng Việt Nam”. 1075–
1919. NXB Văn học, Hà Nội, 1993.
32 – Ngô Sĩ Liên – “Đại Việt sử kí toàn thư”. NXB KHXH, Hà Nội, 1967–
1968.
33 – Ngô Tất Tố – “Kinh Dịch” (trọn bộ). NXB TP Hồ Chí Minh, 1991.
34 – Ngô Tất Tố – “Lều chõng”. NXB Văn học, Hà Nội,
35 – Ngô gia văn phái – “Hoàng Lê nhất thống chí”. NXB Văn học, Hà
Nội, 1964.
36 – Nguyễn Ái Quốc – “Đây công lí của thực dân Pháp ở Đông
Dương”. NXB Sự thật, Hà Nội, 1962.
37 – Nguyễn Hiến Lê – “Khổng Tử”. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1991.
38 – Nguyễn Khánh Toàn – “Lịch sử Việt Nam”. Tập I và II NXB KHXH,
Hà Nội, 1971.
39 – Nguyễn Đăng Thục – “Lịch sử triết học phương Đông” (5 tập).
NXB TP Hồ Chí Minh, 1991.
40 – Nguyễn Lân – “Lịch sử giáo dục học thế giới”. NXBGD, 1958.
41 – Nguyễn Khắc Viện – “Bàn về đạo Nho” – Trần Văn Quý chú giải.
NXB Thế giới, Hà Nội, 1993.
42 – Nguyễn Đăng Thục – “Lịch sử tư tưởng Viết Nam” Tập II. NXB TP
Hồ Chí Minh, 1992.
43 – Nguyễn Khắc Thuần (chủ biên) – “Trần Hưng Đạo - Tiểu sử – Sự
nghiệp – Tác phẩm”. NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1987.
44 – Nguyễn Thắng – “Khoa cử và giáo dục”. NXB văn hóa, Thông tin,
1993.
45 – Nguyễn Thế Long – “Nho học ở Việt Nam”. NXB Giáo dục, Hà Nội,
1995.
46 – Nguyễn Trọng Thuật – “Thăm lăng Sĩ vương”. Báo Nam Phong số
175, trang 109–110.
47 – Nguyễn Duy Cần (Thu Giang) – “Phật học tinh hoa”. NXB TP Hồ
Chí Minh, 1992.
48 – Nguyễn Nghiệp – “Trạng Trình”. NXb Văn hóa, Hà Nội, 1990.
49 – Nguyễn Văn Ngọc (Ôn Như) – Trần Lê Nhân (Tử An) – “Cố học
tinh hoa” – Tập I và II. NXB Trẻ. TP. HCM, 1988.
50 – Nguyễn Ngọc Tỉnh (phiên dịch) – Đào Duy Anh (hiệu đính) – “Đại
Nam thực lục” – Tiền biên và Chính biên. NXB Sử học – Viện Sử học,
1962.
51 – Nguyễn Định Chú – Nguyễn Khâm – “Văn tuyển văn học Việt Nam
1858 – 1930”. NXB Giáo dục, 1981.
52 – Nguyễn Tài Thư (chủ biên) và tập thể tác giả – “Lịch sử Phật giáo
Việt Nam”. NXB KHXH, Hà Nội, 1988.
53 – Phan Trọng Báu – “Giáo dục Việt Nam thời cận đại”. NXB KHXH,
Hà Nội, 1994.
54 – Phan Kế Bính – “Việt Nam phong tục”. NXB Tổng hợp Đồng Tháp,
1990.
55 – Chương Thâu – “Phan Bội Châu toàn tập” – Tập 2 và 6. NXB
Thuận Hóa, Huế, 1990.
56 – Phan Huy Chú – “Lịch triều hiến chương loại chí”. NXB Sử học, Hà
Nội, 1960–1961.
57 – Phan Trần Chúc – “Việt Nam sử học”. Mai Linh xuất bản, Hà Nội,
1942.
58 – Phan Hữu Dật (chủ biên) – “Phương sách dùng người của ông
cha ta trong lịch sử”.
59 – Phan Huy Lê – “Chế độ ruộng đất và nông nghiệp Việt Nam thời
Lê sơ”. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1959.
60 – Phan Huy Lê – “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam – Tập II”.
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1962.
61 – Phan Huy Lê – Phan Đại Doãn – “Khởi nghĩa Lam Sơn và phong
trào giải phóng đất nước vào đầu thế kỉ XV”. Hà Nội, 1969.
62 – Phan Ngọc – “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới”. NXB Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội, 1994.
63 – Phong Lê (chủ biên) và nhiều tác giả – “Dương Quảng Hàm, nhà
giáo yêu nước Vệt Nam”. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
64 – Trần Văn Giầu – “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam”. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.
65 – Trần Văn Giầu – “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ
XIX đến Cách mạng tháng Tám” – Tập I và tập II. NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1973
66 – Trần Đình Hượu – “Đến hiện đại từ truyền thống”. Hà Nội, 1994.
67 – Trần Đình Hượu – “Nho giáo và văn học trung cận đại”. NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 1995.
68 - Trần Trọng Kim – “Nho giáo”. Trung Bắc tân văn xuất bản, Hà Nội,
1932.
69 – Trần Trọng Kim – “Việt Nam sử lược”. Hà Nội,
70 – Trần Đình Luyện – “Vai trò của Sĩ Nhiếp trong lịch sử văn hóa giáo
dục và khoa cử phong kiến Việt Nam”. Tạp chí Văn học, số 3/1994,
trang 17
71 – Trần Huy Liệu, Nguyễn Công Bình, Phan Khôi, Văn Tạo – “Cách
mạng cận đại Việt Nam” – Tập 3. Ban nghiên cứu Văn Sử Địa xuất bản,
Hà Nội, 1955.
72 – Trần Lê Sáng – “Cuộc đời và thơ văn Chu Văn An”. NXB Hà Nội,
1981.
73 – Trần Văn Hải Minh (Thảo đường cư sĩ) – “Bách gia chư tử”. Hội
nghiên cứu và giảng dạy văn học TP HCM, 1991.
74 – Tư Mã Thiên – Phan Ngọc dịch và giới thiệu – “Sử kí” (Tập I và II).
NXB Văn học, Hà Nội, 1988.
75 – Văn Tân – “Cách mạng Tây Sơn”. Hà Nội, 1958.
76 – Văn Tân – “Lịch sử Viết Nam sơ giản”. NXB Sử học, Hà Nội, 1963.
77 – Việt Đăng Lê Văn Được – “Thuật tri nước của người xưa”. NXB
TP Hồ Chí Minh, 1991.
78 – Vũ Khiêu (chủ biên) và nhiều tác giả – “Nho giáo xưa và nay”. NXB
KHXH, Hà Nội, 1991.
79 – Vũ Khiêu chủ biên – “Đạo đức mới”. NXB KHXH, Hà Nội, 1974.
80 – Vũ Khiêu – “Người trí thức Viết Nam qua các chặng đường lịch
sử”. NXB TP HCM, 1987.
81 – Vũ Ngọc Khánh – “Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945”.
NXB Giáo dục, 1985.
82 – Vũ Quỳnh – “Tân đính Lĩnh Nam chích quái”. NXB KHXH, Hà Nội,
1993.
83 – Vũ Thanh Sơn – “Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão”. NXB Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội, 1994.
84 – Vương Kiêm Toàn – Vũ Lâm – “Hội truyền bá quốc ngữ”. NXBGD,
1980.
85 – Ngô Kính Tử – Phan Võ và Như Thành dịch – “Chuyện làng nho”
(Nho lâm ngoại sử) – 2 tập. NXB Văn học, Hà Nội, 1989.
85 – Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga dịch và chú thích – “Thiền uyển
tập anh” (Anh tú vườn Thiền). Phân viện nghiên cứu Phật học. NXB
văn học, Hà Nội, 1990.
87 – Phan Huy Lê – PGS, TS Vũ Minh Giang (chủ biên) và nhiều tác
giả – “Các giá trị truyền thống vì con người Việt Nam hiện nay”. Hà Nội,
1994 (tập I), 1996 (tập II).
88 – Chu Thiên – “Bút nghiên”. NXB tổng hợp An Giang, 1989.
89 – Nhiều tác giả – “Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lí – Trần”. NXB
KHXH, Hà Nội, 1981.
90 – Phòng Lịch sử giáo dục – Trung tâm Giáo dục học – Viện khoa
học giáo dục.
Các tư liệu công trình của tập thể tác giả đã nghiên cứu về lịch
sử giáo dục thế giới, Việt Nam từ 1961 đến 1996.
(Nguyễn Trọng Hoàng, Lê Hữu Nhiệm, Nguyễn Thị Bạch Đào,
Trần Xuân Đài, Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Tiến Doãn, Hoàng
Mạnh Kha, Hồ Thị Hồng, Nguyễn Thị Bảo Hiền, Trần Kim
Đồng…).
II. CÁC TẠP CHÍ, BÁO CHÍ
1 – Văn hóa và đời sống.
2 – Triết học.
3 – Tập san Văn – Sử – Địa.
4 – Văn học.
5 – Nghiên cứu lịch sử.
6 – Nghiên cứu giáo dục.
7 – Thông tin khoa học giáo dục.
8 – Thế giới mới.
9 – Kiến thức ngày nay.
10 – Một cửa sổ nhìn ra thế giới.
11 – Giáo dục và thời đại. v.v…
MỤC LỤCLời giới thiệu
Chương I. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỶ X
1. Đất nước Việt Nam và truyền thống văn hiến lâu đời
2. Giáo dục Việt Nam trong thời kì Bắc thuộc
Chương II. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI CÁC THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ LÍ – TRẦN – HỒ (TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XIV)
1. Giáo dục dưới các thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
2. Giáo dục dưới các thời Lí – Trần – Hồ
3. Chu Văn An, Nhà giáo dục lớn ở thời nhà Trần
4. Hồ Quý Li với giáo dục.
Kết luận
Chương III. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI THỜI LÊ SƠ
1. Vài nét về bối cảnh Kinh tế – xã hội thời Lê sơ
2. Giáo dục Việt Nam dưới thời Lê Sơ
3. Chính sách sử dụng và đãi ngộ hiền tài.
4. Nguyễn Trãi, nhà giáo dục lớn của Việt Nam
5. Vai trò của Lê Thành Tông đối với giáo dục thời Lê Sơ
Chương IV. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI THỜI LÊ – MẠC – TRỊNH – NGUYỄN (TỪ THẾ KỈ XIV ĐẾN THẾ KỈ XVIII)
1. Đặc điểm xã hội phong kiến Việt Nam thời Lê – Nguyễn phân tranh.
2. Tình hình giáo dục dưới thời Lê – Mạc và Trịnh Nguyễn
3. Sự suy đồi của tư tưởng Nho giáo.
4. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585)
Chương V. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC DƯỚI TRIỀU TÂY SƠN
1. Quang Trung củng cố, xây dựng triều đại mới
2. Chính sách giáo dục dưới thời Tây Sơn
3. La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (1723 – 1804)
4. Bùi Dương Lịch (1758 - 1828)
Chương VI. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1945)
1. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XIX
2. Sự phục hồi chế độ khoa cử dưới triều Nguyễn
3. Việc học, thi võ thế kỉ XVIII – XIX
4. Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871)
5. Vài nét về các thầy giáo Ngô Thế Vinh, Nguyễn Đức Đạt, Nguyên
Văn Siêu.
6. Võ Trường Toản, vị tôn sư nổi tiếng miền Nam (? – 1792)
7. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888)
Chương VII. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC (1858 – 1945)
A. Sự hình thành và phát triển hệ thống giáo dục Pháp – Việt
I. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam nửa sau thế kỉ XIX
II. Giáo dục Pháp – Việt từ 1858 – 1885
III. Nền giáo dục Nho học và Pháp – Việt
IV. Cải cách giáo dục lần thứ hai (1917 – 1929). Sự hoàn chỉnh nền
giáo dục Việt Nam (1930 – 1945)
B. Sự hình thành, phát triển dòng giáo dục yêu nước trong nửa đầu thế kỉ XX
1. Tại sao có dòng giáo dục yêu nước?
2. Quá trình diễn biến, phát triển của dòng giáo dục yêu nước do sĩ phu
phong kiến chỉ đạo.
3. Dòng giáo dục yêu nước do tổ chức chính trị của giai cấp vô sản Việt
Nam trước 8 – 1945 chỉ đạo.
4. Dương Quảng Hàm, nhà giáo yêu nước
5. Đặng Thai Mai, người thầy nhân hậu, tài năng (1902 – 1984)
Kết luận
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3
Phục lục 4
Phụ lục 5
Tài liệu tham khảo
---//---
LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAMTRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8-1945
Tác giả:
NGUYỄN ĐĂNG TIẾN (chủ biên)
NGUYỄN TIẾN DOÃN – HỒ THỊ HỒNG – HOÀNG MẠNH KHA
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
NĂM 1996