Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU LẬP
V¡N HO¸ CHÝNH TRÞ Hå CHÝ MINH - GI¸ TRÞLý LUËN Vµ THùC TIÔN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: Chính trị học
Hà Nội - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU LẬP
V¡N HO¸ CHÝNH TRÞ Hå CHÝ MINH - GI¸ TRÞLý LUËN Vµ THùC TIÔN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: Chính trị họcMã số: 62 31 20 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Văn Vĩnh
Hà Nội - 2015
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ
Nguyễn Hữu Lập
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
ĐLDT: Độc lập dân tộc
GPDT: Giải phóng dân tộc
GS: Giáo sư
Nxb: Nhà xuất bản
PGS: Phó giáo sư
TS: Tiến sĩ
VHCT: Văn hóa chính trị
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌALỜI CAM ĐOANDANH MỤC CHỮ VIẾT TẮTMỤC LỤCMỞ ĐẦU 5Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 11
1.1. Các tài liệu, công trình nghiên cứu ở nước ngoài 11
1.2. Các tài liệu, công trình nghiên cứu ở trong nước 15
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 27
2.1. Khái niệm và cấu trúc văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 27
2.2. Cách tiếp cận văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 44
2.3. Cơ sở hình thành, phát triển văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 56
Chương 3: GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 79
3.1. Giá trị của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 79
3.2. Những đặc trưng cơ bản của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 108
Chương 4: Ý NGHĨA VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VĂN HÓA
CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 122
4.1. Ý nghĩa của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 122
4.2. Định hướng xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay 148
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
156
159
160
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Thực tế đã cho thấy, văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống, là sản
phẩm của hoạt động thực tiễn, nhưng lại có vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn của
con người. Văn hóa là tổng hòa những giá trị Chân, Thiện, Mĩ được vận động và
sàng lọc trong thực tiễn cuộc sống qua nhiều thế hệ. Sự vận động và sàng lọc đó
càng rộng về không gian, càng dài về thời gian, thì các giá trị còn lại càng sâu sắc,
bền vững và tính phổ quát càng cao. Vì thế, văn hóa nói chung không phải là sản
phẩm của con người với tính cách cá nhân, bởi mỗi cá nhân cụ thể ấy thực chất chỉ
là một trong những sản phẩm sáng tạo của văn hóa, là nơi biểu hiện của văn hóa,
chỉ có vai trò bảo tồn và phát triển văn hóa. Tuy nhiên, trong số những con người cá
nhân với tính cách là sản phẩm của văn hóa lại có những nhân vật tiêu biểu, xuất
chúng, có khả năng thâu thái, tích hợp được các giá trị văn hóa của cộng đồng dân
tộc và thời đại. Bởi vậy, họ là những người góp phần quan trọng nhất trong việc bảo
tồn, phát triển và nâng nền văn hóa của cộng đồng, dân tộc lên một tầm cao mới,
thậm chí còn là định hướng cho sự phát triển bền vững của cả một nền văn hóa.
Cũng như nhiều lĩnh vực khác, VHCT chỉ là một bộ phận, một phương
diện của văn hóa, nhưng là bộ phận quan trọng nhất, ra đời trong quá trình con
người ứng xử với các thành tố của hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước -
một hình thức tập trung ý chí của cộng đồng, có vai trò quyết định trong việc
thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển xã hội. VHCT bắt đầu hình thành và phát
triển khi xã hội loài người có sự phân hóa giai cấp, xuất hiện quyền lực chính
trị, đảng chính trị và nhà nước. Vì vậy, xét đến cùng, VHCT là văn hóa sử dụng
quyền lực, là nghệ thuật cai trị hay nghệ thuật lãnh đạo, là nhân tố quyết định
đến sự phát triển, tiến bộ của xã hội nói chung, đến việc bảo đảm các quyền
con người và quyền dân tộc nói riêng.
Văn hóa chính trị là những giá trị của tư tưởng cùng hành vi chính trị
được cộng đồng thừa nhận, chia sẻ, vận dụng trong việc thiết lập và vận hành
một thể chế chính trị nhất định, nó được biểu hiện thông qua hành vi chính trị
5
của mỗi công dân, trước hết là các nhà chính trị chuyên nghiệp, các lãnh tụ
chính trị. Vì vậy, nghiên cứu VHCT nói chung không thể không nghiên cứu về
con người chính trị, đặc biệt là những lãnh tụ chính trị, những vĩ nhân của lịch
sử. Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh là sản phẩm của VHCT Việt Nam, nhưng cũng
là người đã nâng VHCT truyền thống của dân tộc lên một tầm cao mới với một
chất lượng mới. Vì thế, có thể coi Hồ Chí Minh là kết tinh những gì tốt đẹp
nhất của văn hóa Việt Nam. Với tính chất cách mạng, nhân văn, vì sự nghiệp
GPDT, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và xây dựng một xã hội nhân
văn, tiến bộ, VHCT Hồ Chí Minh đã và đang là một trong những đối tượng
nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng của khoa học chính trị ở Việt Nam.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển và hoàn thiện
trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người, là một bộ phận cốt lõi và
là phương diện nổi bật nhất của văn hoá Hồ Chí Minh; là sản phẩm của sự tích
hợp, kế thừa, phát triển VHCT của cộng đồng dân tộc Việt Nam, giá trị VHCT
của nhân loại, đặc biệt là giá trị VHCT của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam; có nội dung cốt lõi là tư tưởng và hành động nhằm
thực hiện triệt để quyền dân tộc cơ bản và quyền con người chân chính; là nền
tảng của tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người; có giá trị lý luận và thực
tiễn to lớn, là yếu tố nền tảng tạo nên mọi thắng lợi mà cách mạng Việt Nam đã
giành được. Mặt khác, VHCT Hồ Chí Minh luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam, là hạt nhân cốt lõi và là chất keo cố kết mọi con dân
nước Việt thuộc các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Nhờ đó mà tạo nên nguồn
lực to lớn, đủ sức đánh bại các thế lực xâm lược và góp phần cùng loài người
ngăn chặn và thủ tiêu hoàn toàn sự tha hóa của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế
giới, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng một
nền chính trị dân chủ, độc lập, tự chủ, cách mạng và tiến bộ.
Hơn nữa, với tính cách là một bộ phận không thể thiếu trong nền tảng tư
tưởng của Đảng - Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được các lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, các nhà khoa học tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nội dung và giá
6
trị vận dụng, xác lập cơ sở lý luận cho việc hoạch định các chủ trương, đường
lối của Đảng. Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam phát động cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tư tưởng và
tấm gương đạo đức của Người không chỉ là nội dung học tập, làm theo mà còn
là đối tượng nghiên cứu của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều bộ môn khoa học.
Mặc dù vậy, việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển các giá trị của VHCT Hồ
Chí Minh còn khá khiêm tốn, chưa xứng với tầm vóc của một lãnh tụ chính trị
xuất sắc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Phạm trù VHCT Hồ
Chí Minh gần đây đã được đặt ra và quan tâm nghiên cứu. Mặc dù vậy, các
công trình nghiên cứu về VHCT Hồ Chí Minh còn đang ở trạng thái tiếp cận
từng nội dung đơn lẻ, tính hệ thống, khái quát còn hạn chế. Do đó, cho đến nay
nhận thức về VHCT Hồ Chí Minh chưa thực sự rõ ràng và sâu sắc, thậm chí
còn có những quan điểm khá khác nhau về việc có hay không có VHCT Hồ
Chí Minh.
Thực tiễn thế giới đã cho thấy, sự phát triển của một dân tộc phụ thuộc rất
lớn vào sự đồng thuận xã hội và khả năng quy tụ nhân tâm, trí tuệ, tiềm năng
của mọi tầng lớp nhân dân nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp. Tuy nhiên, sự
đồng thuận xã hội lại phụ thuộc vào tính chất, phạm vi và mức độ của nền dân
chủ mà nền dân chủ thì phụ thuộc vào thể chế chính trị. Cuối cùng, tất cả
những yếu tố trên đây lại phụ thuộc vào VHCT của một dân tộc, tức là phụ
thuộc vào nhận thức, thái độ, trách nhiệm của mỗi người dân đối với quyền lực
chính trị và khả năng thiết kế một hệ thống chính trị bảo đảm quyền tự do, dân
chủ, phát huy được trí tuệ của mọi công dân.
Hiện nay, nước ta đang quá độ lên CNXH, sự nghiệp đổi mới sau chặng
đường gần 30 năm đã thu được những kết quả to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy
nhiên, những kết quả đó còn hạn chế và chưa tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh của đất nước và con người Việt Nam. Đổi mới chính trị chưa theo kịp
đổi mới kinh tế. Hệ thống chính trị và nền dân chủ đang có những bất cập
gây khó khăn cho việc phòng chống tham nhũng và nâng cao sức mạnh của
7
bộ máy nhà nước, cản trở sự phát triển bền vững của dân tộc, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Trước
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, VHCT Hồ Chí Minh càng tỏ rõ giá trị to lớn đối với các chủ thể
chính trị, trước hết là cán bộ, đảng viên. Do đó, việc nghiên cứu và phát huy
giá trị của VHCT của Người trong đời sống chính trị ở nước ta hiện nay
càng trở lên cấp thiết.
Những lý do trên đây cho thấy, việc nghiên cứu để khẳng định và làm sáng
tỏ thêm các chiều cạnh của VHCT Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp
phần gia tăng tri thức về khoa học chính trị ở Việt Nam nói chung, Hồ Chí Minh
học nói riêng. Trên cơ sở đó những phát huy giá trị tốt đẹp của VHCT Hồ Chí
Minh trong giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn vấn đề:
“Văn hoá chính trị Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận án
tiến sĩ của mình.
Với đề tài đã lựa chọn, tác giả luận án xác định một số giả thuyết nghiên cứu
sau đây: Thứ nhất, VHCT Hồ Chí Minh là VHCT của một cá nhân, nhưng là cá
nhân tiêu biểu với tính cách là một lãnh tụ chính trị và là một nhà quản lý tối cao
của dân tộc. Thứ hai, VHCT Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, bao gồm các giá trị về
tư tưởng, hành vi và nhân cách chính trị, có cấu trúc và đặc trưng riêng. Thứ ba,
VHCT Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tích hợp và phát triển nhiều giá trị tiêu
biểu của VHCT dân tộc, nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó VHCT Mác
- Lênin là yếu tố quyết định. Thứ tư, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa
lịch sử mà còn có ý nghĩa hiện thực to lớn đối với cách mạng Việt Nam và thế giới.
Mặt khác, VHCT Hồ Chí Minh còn có ý nghĩa to lớn đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về VHCT và VHCT Hồ Chí
Minh, luận án chỉ ra những giá trị và đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh,
8
nêu lên ý nghĩa và một số định hướng xây dựng VHCT của Người cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về VHCT và VHCT Hồ Chí Minh.
- Làm rõ những giá trị và đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.
- Phân tích ý nghĩa của VHCT Hồ Chí Minh và đề xuất một số định
hướng xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHCT Hồ Chí Minh ở khía cạnh giá trị
lý luận và thực tiễn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Cùng với việc tập trung nghiên cứu, khảo sát các giá trị mà Hồ Chí Minh
đã sáng tạo ra trong sự nghiệp chính trị của mình thông qua hệ thống tư liệu, di
sản mà Người để lại và các kết quả nghiên cứu có liên quan dưới góc độ tiếp cận
chính trị học, luận án sẽ khảo sát các đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ đảng viên nói chung, cán bộ
lãnh đạo quản lý nói riêng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và
các lý thuyết về khoa học chính trị, VHCT hiện đại; về chính trị; về văn
hóa; về mối quan hệ giữa chính trị với văn hóa và vai trò của văn hóa đối
với sự phát triển xã hội nói chung, cách mạng xã hội chủ nghĩa nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
9
Trên cơ sở tiếp cận khảo sát tài liệu về các vấn đề có liên quan đến VHCT Hồ
Chí Minh và thực trạng VHCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
hiện nay, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp hệ thống; lôgích, lịch sử;
phân tích, tổng hợp; so sánh…phù hợp với từng nhiệm vụ cụ thể của luận án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài góp phần hoàn thiện khái niệm, xác định cấu trúc của VHCT Hồ Chí
Minh.
- Chỉ ra cách tiếp cận và cơ sở hình thành, phát triển VHCT Hồ Chí Minh.
- Xác định giá trị lý luận, thực tiễn; các đặc trưng cơ bản và ý nghĩa của
VHCT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và thế giới.
- Góp phần khẳng định tính toàn diện của di sản Hồ Chí Minh và sự cần thiết
phải xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về lý luận: luận án góp phần gia tăng tri thức về khoa học chính trị
nói chung, Hồ Chí Minh học nói riêng và làm cơ sở để đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng.
Về thực tiễn: luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, học tập trong các chuyên ngành của khoa học chính trị như:
chính trị học, Hồ Chí Minh học, xây dựng Đảng cũng như trong công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
6. Kết cấu của án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận
án được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. CÁC TÀI LIỆU, CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến văn hóa chính trịVăn hóa chính trị với tính cách là những giá trị của chính trị gắn liền với
vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước để bảo
đảm cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Do đó, VHCT ra đời từ rất sớm cả ở
phương Đông và phương Tây, gắn liền với sự ra đời của giai cấp và nhà nước.
Thực tế cho thấy, những quy định về các mối quan hệ và cách ứng xử giữa con
người với chế độ chính trị mà họ đang sống đã được các nhà tư tưởng chính trị
cổ đại như Khổng Tử, Lão Tử, Hàn Phi Tử, Plato, Aristotle… đề cập đến, và
ngày nay những tư tưởng đó vẫn đang là đối tượng nghiên cứu của khoa học
chính trị ở nhiều nước trên thế giới.
Mặc dù không trực tiếp bàn về VHCT nhưng hai tác giả nổi tiếng được
coi là cha đẻ của tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây là
Montesquieu (1689 - 1775) với tác phẩm Tinh thần pháp luật và Rousseau
(1712 – 1778) với tác phẩm Bàn về khế ước xã hội là những nghiên cứu có
ảnh hưởng lớn đến các nghiên cứu chính trị nói chung, VHCT nói riêng của
các nhà khoa học chính trị trên thế giới.Kế thừa tri thức chính trị của các nhà tư tưởng đi trước, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã luận giải một cách khoa học và cách mạng về tính tất yếu khách
quan của chính trị trong khi xã hội còn giai cấp và đấu tranh giai cấp; về vai trò của
chính trị trong đời sống xã hội; về mối quan hệ giữa cá nhân, cộng đồng với chính trị;
về quy luật vận động phát triển của hình thái kinh tế - xã hội kéo theo sự phát triển của
chính trị và đòi hỏi sự ứng xử của con người với sự phát triển đó. Mặc dù chưa đi sâu
nghiên cứu nhằm đưa ra một định nghĩa đầy đủ về VHCT nhưng toàn bộ tư tưởng và
hành động chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin là một phần quan trọng trong
tinh hoa VHCT của nhân loại. Vì vậy, tư tưởng và hành động chính trị của các nhà kinh
điển Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, định hướng lập trường giai cấp và phương
hướng cho các nghiên cứu về chính trị và VHCT.
11
Mặc dù vấn đề chính trị nói chung, VHCT nói riêng ra đời rất sớm, nhưng
trong một thời gian dài, nó chỉ được nghiên cứu với tính cách là một bộ phận hợp
thành của triết học hay các môn khoa học xã hội khác. Từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, chính trị học với tính cách là một khoa học độc lập, chuyên nghiên cứu về
chính trị mới thực sự ra đời ở phương Tây và ngay khi ra đời, VHCT đã là một đối
tượng nghiên cứu có vị trí quan trọng của ngành khoa học xã hội này.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu của các học giả nước ngoài có liên quan
trực tiếp đến VHCT như: Cuốn The Civic Culture - Political Attitudes and
Democracy in Five Nations (Văn hoá công dân - Những thái độ chính trị và nền
dân chủ ở năm quốc gia) của Almond G. và Verba S [115]. Cuốn Modern Politics
(Chính trị hiện đại) của Row E [120]. Cuốn Modern Politics and Government
(Chính trị hiện đại và Chính phủ hiện đại) của Ball A.R [116]. Cuốn Democracy in
America (Dân chủ ở Mĩ) của Tocqueville A [122]. Cuốn Political Culture (văn hóa
chính trị) của Walter A. Rosenbaum [123].
Trong các công trình nêu trên, đáng chú ý nhất là công trình nghiên cứu của
Almond G. và Verba S. Đây là tác phẩm chuyên khảo của hai nhà chính trị học
người Mỹ, đã đặt nền tảng đầu tiên cho các nghiên cứu văn hóa chính trị của thế
giới hiện đại. Nghiên cứu này ra đời từ nhu cầu khái quát các đặc tính VHCT của
một số nền dân chủ khác nhau ở phương Tây, để trên cơ sở đó chỉ ra những yếu tố
quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định chính trị của chế độ dân chủ, tự do. Công trình
này dựa trên khuôn mẫu của một nghiên cứu chính trị học so sánh, nhưng ở đây
VHCT được xác định là đối tượng nghiên cứu trung tâm. Các tác giả đã đặt phạm
trù VHCT trong phạm vi quốc gia, dân tộc để xem xét, trên cơ sở đó đưa ra định
nghĩa, cách tiếp cận và tiêu chí phân loại. Mặc dù vậy, tác phẩm này chưa đề cập
đến VHCT của cá nhân.
Tuy nhiên, trong cuốn Political Culture, Walter A. Rosenbaum đã chia
VHCT thành hai cấp độ cá nhân và tập thể: ở cấp độ cá nhân, VHCT tập trung
ở khía cạnh tâm lý; và ở cấp độ tập thể, VHCT tập trung vào sự định hướng
chính trị của số đông. Walter A. Rosenbaum còn chia sự định hướng ấy thành
ba loại: thứ nhất, định hướng về cấu trúc chính quyền, bao gồm hai khía cạnh:
đối với thể chế và đối với các thành tựu của chính phủ; thứ hai, định hướng về
12
các yếu tố khác trong hệ thống chính trị như: bản sắc chính trị, sự tin tưởng
trong lĩnh vực chính trị và luật lệ trong sinh hoạt chính trị; thứ ba, định hướng
về các hoạt động chính trị của cá nhân bao gồm (thái độ và cách thức tham gia
cũng như ý thức về tính hiệu quả của sự tham gia vào chính trị). Như vậy, cuốn
sách đã đề cập đến VHCT cá nhân, nhưng mới chỉ tiếp cận những biểu hiện cụ
thể của nó trong đời sống chính trị của cá nhân mà chưa làm rõ sự hình thành,
vận động, phát triển và vai trò của nó với VHCT cộng đồng.
Ngoài các công trình lớn trên đây, còn có các bài báo và tạp chí nghiên cứu
về VHCT như: Bài “Comparative Political System” (Hệ thống chính trị so sánh)
của Almond G [114]. Bài “Political Cutulre” (Văn hóa chính trị) của Pye L. [118].
Bài “Choosing Preferences by Constructing Institutions: A cultural Theory of
Preference Formation” (Lựa chọn sở thích bằng việc xây dựng các thể chế: một lý
thuyết của hệ thống ưa thích), trong: American Political Science Review của
Wildavsky, Aaron [124]. Bài “Political Culture and Public opinion” (Văn hóa
chính trị và ý kiến cộng đồng), trong: Politics and the American future, Dilemmas
of Democracy, của Harrigan J.J. [117]. Bài “Political Culture and Political
Pyschology” (Văn hóa chính trị và tâm lý chính trị), trong Comparative politics: A
global Introduction, của Sodaro M.J. [121].
Nhìn chung việc nghiên cứu VHCT ở nước ngoài, đặc biệt là ở châu
Âu được bắt đầu sớm, nhưng theo Phạm Hồng Tung, tác giả cuốn sách Văn
hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa chính trị: “trên lĩnh vực
Việt Nam học, cho tới nay chưa xuất hiện nghiên cứu chuyên biệt nào của
giới học giả phương Tây về văn hóa chính trị Việt Nam” [104, tr.132]. Mặt
khác, mặc dù có rất nhiều tác phẩm viết về các chính trị gia nổi tiếng
nhưng số các công trình nghiên cứu chuyên sâu về cá nhân, hay lãnh tụ
chính trị cụ thể dưới góc độ tiếp cận VHCT vẫn còn hạn chế.
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến VHCT Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị của nhân dân Việt Nam, tuy nhiên quá trình
hoạt động cách mạng của Người đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn bè
quốc tế. Mặt khác, những giá trị nhân văn, nhân đạo trong tư tưởng và hành động
13
chính trị của Người đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, mang tầm vóc quốc tế và nhân
loại. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu về Người đã được các nhà chính trị,
nhà khoa học nước ngoài với lập trường giai cấp khác nhau quan tâm sâu sắc ngay
từ khi Người còn sống. Đặc biệt, sau khi Hồ Chí Minh qua đời và được cộng đồng
quốc tế vinh danh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của Việt Nam,
các nghiên cứu, đánh giá của các chính trị gia, các học giả nước ngoài về Người
càng trở nên phong phú.
Cuốn sách viết về Hồ Chí Minh và xuất bản từ khi Người còn sống đó là cuốn
Hồ Chí Minh của tác giả Jean Lacouture - một nhà báo, nhà sử học và nhà văn
Pháp. Với 270 trang sách được cấu trúc thành 15 chương, cuốn sách đã khái quát
khá đầy đủ về tiểu sử chính trị Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã khắc họa chân dung của
một vị lãnh tụ mà tác giả đánh giá là một trong những nhà Quốc tế Cộng sản lỗi lạc
nhất trong mọi thời đại.
Một công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài được cho là đầy đủ nhất về
Hồ Chí Minh, đó là cuốn Hồ Chí Minh - Một cuộc đời của tác giả người Mỹ
William J. Duiker. Cuốn sách đã được nhà xuất bản Hyperion, New York xuất bản
năm 2000, và được Phòng Phiên dịch - Bộ ngoại giao Việt Nam dịch sang tiếng
Việt năm 2001. Tác phẩm đã trình bày khá tỷ mỷ những tư tưởng và hoạt động thực
tiễn chính trị của Hồ Chí Minh dưới góc độ tiếp cận sử học gắn liền với bối cảnh cụ
thể. Mặc dù chưa được chính thức xuất bản tại Việt Nam, nhưng cuốn sách là tài
liệu tham khảo rất bổ ích về cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh.
Cuốn sách Hồ Chí Minh Một biên niên sử, của Hellmut Kapfenberger [29],
với kết cấu 25 chương và một biên niên sử về Hồ Chí Minh, tác giả đã làm nổi bật
tầm vóc những giá trị và đóng góp vĩ đại không thể phủ nhận của Người không chỉ
ở phạm vi quốc gia mà còn trên bình diện quốc tế. Mặc dù không tiếp cận dưới góc
độ VHCT nhưng cuốn sách đã cho thấy, cuộc đời, nhân cách và tư tưởng Hồ Chí
Minh không chỉ soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam mà
còn là nguồn cổ vũ, khích lệ to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người trên thế giới.
14
Cuốn sách của Nguyễn Đài Trang - một nhà nghiên cứu người Việt Nam
đang sinh sống và làm việc tại Canađa có tiêu đề, Hồ Chí Minh - Nhân văn và
phát triển, với 395 trang sách được kết cấu thành 7 chương, tác giả đã làm nổi
bật lý tưởng và phương pháp chính trị Hồ Chí Minh. Mặc dù không đề cập trực
tiếp đến VHCT của Người, nhưng cuốn sách là tài liệu bổ ích về nhân cách
chính trị Hồ Chí Minh.1.2. CÁC TÀI LIỆU, CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Người đã để
lại cho Đảng và dân tộc ta một di sản vô cùng phong phú. Mặc dù vậy, lúc đương
thời Người chỉ nhận mình là một nhà chính trị chuyên nghiệp. Với những cống hiến
to lớn trong quá trình đấu tranh cách mạng, Người được thế giới vinh danh là anh
hùng GPDT, nhà văn hóa lớn. Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và tấm gương đạo đức
của Người đã được các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cùng nhiều nhà khoa học trong
và ngoài nước tìm hiểu, nghiên cứu. Trong số các tác phẩm đã công bố liên quan
đến VHCT và VHCT Hồ Chí Minh có những công trình sau:
1.2.1. Các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về văn hóachính trị Hồ Chí Minh
- Các sách liên quan đến lý luận về VHCT Hồ Chí Minh:
Trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu của các lãnh đạo Đảng, Nhà
nước có liên quan đến chính trị, VHCT và VHCT Hồ Chí Minh với các tác phẩm
nổi bật như: cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại,
một sự nghiệp, của Phạm Văn Đồng [18]; cuốn Những nhận thức cơ bản về tư
tưởng Hồ Chí Minh, của Phạm Văn Đồng [19]; cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh và
cách mạng Việt Nam, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp [22].
Trên đây là những công trình của các nhân chứng lịch sử, những học trò xuất
sắc, thân cận, gần gũi và đã cùng với Hồ Chí Minh chỉ đạo phong trào cách mạng
Việt Nam, từng bước hiện thực hóa các mục tiêu chính trị của con đường cách mạng
vô sản là ĐLDT gắn liền với CNXH mà Người đã lựa chọn. Những tác phẩm này đã
đánh giá sâu sắc, trung thực, quá trình cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên
nhiều lĩnh vực, bao quát trên phạm vi rộng lớn về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại
giao của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy vậy, chưa có công trình nào chuyên sâu nghiên
cứu về VHCT của Người.
15
Một trong những công trình khoa học có liên quan mật thiết đến chính trị,
VHCT đó là cuốn sách: Luật hiến pháp và chính trị học của Nguyễn văn Bông [7].
Mặc dù với lập trường phi vô sản và thái độ đối lập với quan điểm mácxít và mô
hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhưng nội dung cuốn sách là những nhận thức và
luận giải khá khoa học về những vấn đề quan trọng của chính trị học như: về chính
quyền và tổ chức chính quyền, về hiến pháp, về những hình thức tham gia chính trị
và về những thể chế chính trị tiêu biểu ở cả châu Âu và châu Á. Do đó, cuốn sách là
tài liệu tham khảo cần thiết cho đề tài này. Tuy nhiên, cuốn sách chưa trực tiếp bàn
đến VHCT và VHCT Hồ Chí Minh.
- Những công trình của các nhà khoa học có các tác phẩm tiêu biểu:
Cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng
Tháng Tám - (tập III) Thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, của Trần Văn Giàu [26], bằng cách tiếp cận lôgích và lịch sử, cuốn sách đã
đề cập một cách sâu sắc, toàn diện vai trò của Hồ Chí Minh trong việc xác định con
đường cứu nước, lựa chọn hệ tư tưởng vô sản và truyền bá vào Việt Nam để chuẩn
bị các điều kiện cần và đủ cho cách mạng nổ ra và giành được các mục tiêu chính trị
đã xác định. Cuốn sách cho thấy quá trình vận động phát triển của tư tưởng Hồ Chí
Minh và sự hiện thực hóa tư tưởng đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi
Người ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 đến khi Cách mạng Tháng tám thành
công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng với việc công bố bản
Tuyên ngôn độc lập vào ngày 02-9-1945. Mặc dù toàn bộ những quan điểm, tư
tưởng và hành động chính trị của Hồ Chí Minh mà cuốn sách đề cập đến là một sự
nghiệp văn hóa, hướng đến các mục tiêu văn hóa, nhằm mang lại một nền chính trị
thỏa mãn nhu cầu và bảo vệ quyền lợi chính trị của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên,
tác giả cuốn sách chưa có ý định khái quát những giá trị của tư tưởng và hành động
cách mạng đó thành VHCT Hồ Chí Minh.
Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam, của Bùi
Đình Phong (chủ biên) [81] đã trình bày quá trình hình thành, những nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam và vận dụng
tư tưởng đó vào xây dựng nền văn hóa mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Mặc dù tác giả không trực tiếp bàn về VHCT mà chỉ đề cập đến
16
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể
thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về nền văn hóa mới ở Việt Nam là một nội dung quan
trọng trong tư tưởng chính trị của Người.
Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con người, của Đặng
Xuân Kỳ (Chủ biên) [43], được kết cấu thành ba phần với nhiều nội dung như: đặc
điểm và vai trò của văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam trong lịch sử dân tộc; Hồ
Chí Minh với tư tưởng phương Đông về văn hóa và con người; tư tưởng phương Tây
về văn hóa và con người; những vấn đề chung của văn hóa và nền văn hóa mới; tư
tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực của văn hóa; tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và xây dựng con người mới; văn hóa, con người Việt Nam hiện nay và yêu cầu phát
triển văn hóa, xây dựng con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong đó, tác giả có đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về VHCT, đưa ra quan niệm
về VHCT và nhận định rằng: VHCT không chỉ ở trong tư tưởng chính trị mà còn ở
trong hoạt động chính trị thực tiễn của Hồ Chí Minh và sự thống nhất đó tạo thành
VHCT của Người. Sau đó, tác giả cũng chỉ ra một số nội dung cơ bản của tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh như: tư tưởng về mục tiêu chính trị; về dân; về mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Như vậy, cuốn sách mới chỉ đề cập một số nội
dung của tư tưởng chính trị với tính cách là bộ phận cấu thành VHCT Hồ Chí Minh.
Cuốn Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam thế kỷ X-XV, của Nguyễn
Hoài Văn (Chủ biên) [109] có kết cấu ba chương: Cơ sở hình thành tư tưởng chính
trị Việt Nam nhìn từ cội nguồn văn hóa - lịch sử; “Tam giáo đồng nguyên” và sự
phát triển của tư tưởng chính trị Nho giáo thời Lý - Trần; Sự phát triển mạnh mẽ
của tư tưởng chính trị Việt Nam trong thế kỷ XV dưới ảnh hưởng của Nho giáo.
Cuốn sách đã trình bày cơ sở hình thành của tư tưởng chính trị Việt Nam và sự phát
triển của tư tưởng chính trị Nho giáo thời Lý - Trần từ (thế kỷ XI đến thế kỷ XIV),
thời Lê Sơ (thế kỷ XV). Mặc dù chưa đề cập đến VHCT nhưng dưới góc độ lịch sử
và hệ thống, đây là một bộ phận quan trọng của VHCT truyền thống Việt Nam và
cội nguồn của VHCT Hồ Chí Minh.
Cuốn Văn hoá chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hoá chính trị, của Phạm
Hồng Tung [104] bao gồm 14 chuyên luận, được tác giả bàn về nhiều vấn đề liên
17
quan đến văn hóa và VHCT, trong đó ba chuyên luận đầu có liên quan trực tiếp đến
đề tài. Ở chuyên luận thứ nhất, tác giả đã trình bày một số khái niệm và cách tiếp
cận VHCT của khoa học chính trị ở phương Tây; chỉ ra mối quan hệ và vai trò của
cá nhân đối với VHCT và cho rằng, do sự khác nhau về vị trí, vai trò của mỗi cá
nhân trong hoạt động chính trị, nên không thể khảo sát đặc tính chính trị của tất cả
các cá nhân nhưng cần thiết phải nghiên cứu những cá nhân tiêu biểu, nổi bật theo
cách tiếp cận từ trên xuống và cùng với cách tiếp cận từ dưới lên để có những lý
giải cân bằng, thực chứng. Ở chuyên luận thứ hai, tác giả trình bày mối quan hệ
giữa môi trường chính trị, hệ thống chính trị, quá trình chính trị và VHCT. Trong
chuyên luận thứ ba, tác giả trình bày một số cách tiếp cận nghiên cứu và luận điểm
của một số học giả tiêu biểu ở phương Tây về VHCT. Tóm lại, cuốn sách đã trình
bày một số khái niệm, cách tiếp cận và sự cần thiết phải nghiên cứu VHCT nói
chung, VHCT của những cá nhân tiêu biểu nói riêng nhưng do mục tiêu nghiên cứu,
cuốn sách chưa đề cập đến VHCT Hồ Chí Minh.
Cuốn Chính trị học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, do Nguyễn Văn
Huyên (Chủ biên) [38] đã đề cập đến những vấn đề về VHCT và con người chính trị
với những nội dung cụ thể như: quan niệm và bản chất của VHCT, đặc trưng, nội
dung, giải pháp xây dựng VHCT Việt Nam hiện nay; tư tưởng chính trị phương
Đông và phương Tây về phẩm chất của người lãnh đạo chính trị; bản lĩnh chính trị
Hồ Chí Minh và quan điểm Hồ Chí Minh về nghệ thuật hoạt động chính trị. Có thể
thấy, mặc dù đã đề cập nhưng cuốn sách mới chỉ dừng lại ở một số biểu hiện cụ thể
trong VHCT Hồ Chí Minh.
Cuốn Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển, của Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình
Phong [2] bao gồm hai phần: phần 1, Hồ Chí Minh và văn hóa; phần 2, tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người và phát triển. Cuốn sách đã trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nền văn hóa mới; về văn hóa chính trị Hồ Chí Minh; văn hóa đạo đức
Hồ Chí Minh; tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, về giáo dục, về báo chí
cách mạng, về tính văn hóa trong thiết kế bộ máy nhà nước và phương hướng vận
dụng các tư tưởng đó trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Đặc biệt, trong mười
trang sách (từ 61-71), các tác giả đã đi sâu trình bày VHCT và VHCT Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc khái quát một số cách nhìn nhận và
18
đưa ra quan niệm ban đầu về VHCT và nhận định về quá trình hình thành, phát
triển, hoàn thiện của VHCT Hồ Chí Minh.
Cuốn Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh
(Sách chuyên khảo) của Lê Minh Quân [88] bao gồm bẩy chương, chia làm ba
phần: phần thứ nhất trình bày tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin và
Hồ Chí Minh; phần thứ hai trình bày một số tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
Lênin và Hồ Chí Minh về chính trị; phần thứ ba, tác giả khái quát một số tác phẩm
của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về đấu tranh bảo vệ, phát triển tư tưởng chính
trị của chủ nghĩa Mác. Cuốn sách không chỉ là nguồn tri thức quan trọng góp phần
luận giải nguồn gốc, bản chất cách mạng của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh nói
riêng, VHCT Hồ Chí Minh nói chung mà còn cho phép tiếp cận VHCT Hồ Chí
Minh từ góc độ giá trị của những tư tưởng chính trị.
Cuốn Hồ Chí Minh nhà văn hoá kiệt xuất, của Song Thành [96] bao gồm 16
chương, đề cập một cách toàn diện về văn hóa Hồ Chí Minh, trong đó có chương
thứ 5 bàn trực tiếp vào VHCT Hồ Chí Minh. Trong chương này, sau khi trình bày
khái niệm, cấu trúc và vai trò của VHCT nói chung đối với sự phát triển đất nước,
tác giả đã trình bày cơ sở hình thành và hệ quan điểm VHCT Hồ Chí Minh. Mặc dù
vậy, tác giả mới tạm rút ra định nghĩa về VHCT nói chung mà chưa đưa ra một khái
niệm cụ thể về VHCT Hồ Chí Minh. Mặt khác, ở đây, VHCT Hồ Chí Minh được
nhìn nhận với tính cách là một tập hợp các quan điểm, tư tưởng nhằm thực hiện các
mục tiêu, lý tưởng chính trị mà Người đã xác định. Về cơ sở hình thành VHCT Hồ
Chí Minh, theo tác giả, VHCT Hồ Chí Minh được hình thành trước hết là từ những
giá trị VHCT truyền thống Việt Nam và sau khi ra nước ngoài khảo sát thế giới, Hồ
Chí Minh tiếp nhận thêm những giá trị mới mẻ và tiến bộ của VHCT phương Tây.
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, do
Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) [43], trong phần thứ hai (chương 2): Tư tưởng Hồ Chí
Minh về các lĩnh vực của văn hóa, các tác giả đã đề cập đến VHCT, đưa ra khái
niệm chính trị và VHCT. Về cơ sở hình thành của VHCT Hồ Chí Minh, các tác giả
khẳng định: Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kế thừa những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc, thâu thái tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh đã
xác lập một hệ thống tư tưởng chính trị mang tính cách mạng triệt để, tính khoa học
sâu sắc và tính nhân văn cao cả.
19
Những tác phẩm nêu trên đã đề cập một cách khá toàn diện về VHCT nói
chung và VHCT Việt Nam nói riêng. Nhiều tác phẩm đã làm rõ sự phát triển của tư
tưởng chính trị Việt Nam, những giá trị của VHCT truyền thống Việt Nam. Đặc
biệt, một số tác giả đã trực tiếp đề cập đến VHCT Hồ Chí Minh ở những khía cạnh
và phạm vi nhất định. Tuy vậy, chưa có một công trình độc lập, nghiên cứu chuyên
sâu về VHCT Hồ Chí Minh.
- Ngoài ra còn có khá nhiều các nghiên cứu đã công bố trên các báo, tạp chí,
kỷ yếu hội thảo khoa học có liên quan đến VHCT và VHCT Hồ Chí Minh như: Bài
Phát huy ưu thế của nền văn hoá chính trị Việt Nam tạo động lực cho công cuộc đổi
mới, của tác giả Trần Ngọc Hiên [30]. Bài Văn hoá và văn hoá chính trị từ cách tiếp
cận của triết học chính trị mácxít, của Nguyễn Văn Huyên [36]. Bài Văn hóa Đảng
- nhận thức và vấn đề đặt ra, của Đỗ Nguyên Phương [86]. Trong bài này, tác giả
khẳng định: “Văn hóa Đảng là một bộ phận của văn hóa chính trị”; trong điều kiện
và đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam, đề cập đến VHCT chính là đề cập đến
văn hóa Đảng và cũng chỉ rõ: “Điểm nổi bật trong quan niệm của Hồ Chí Minh về
văn hóa chính trị là tư tưởng về dân” và “Tư tưởng văn hóa chính trị, văn hóa Đảng
của Hồ Chí Minh có ý nghĩa là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu văn hóa chính trị,
văn hóa Đảng ngày nay”.
Tóm lại, phần lớn các công trình đã công bố chủ yếu nhìn nhận VHCT Hồ Chí
Minh ở góc độ tư tưởng. Do vậy, những tư tưởng về Dân, về Nhà nước, về Đảng,
về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, đặc biệt là trong điều kiện đảng
cầm quyền được coi là những yếu tố cấu thành VHCT Hồ Chí Minh. Một số ít công
trình đã coi VHCT Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư duy với hành động nhưng
cũng chưa đi sâu làm rõ cấu trúc của sự thống nhất đó. Vấn đề cơ sở hình thành
VHCT Hồ Chí Minh đã được nhiều tác giả đề cập nhưng mới dừng lại ở việc định
danh những tiền đề, những yếu tố cấu thành nguồn gốc của VHCT Hồ Chí Minh
mà chưa đi sâu phân tích vai trò của các yếu tố đó; nhất là chưa làm rõ mối quan hệ
biện chứng giữa truyền thống với hiện tại, giữa cộng đồng với cá nhân, giữa khách
quan với chủ quan trong việc hình thành VHCT Hồ Chí Minh. Vì vậy, dưới góc độ
khoa học chính trị, tác giả luận án mạnh dạn coi VHCT Hồ Chí Minh là đối tượng
20
nghiên cứu độc lập nhằm góp phần khắc họa chân dung nhà chính trị chuyên
nghiệp, nhà văn hóa của tương lai và gợi mở một cách tiếp cận mới về VHCT của
cá nhân nói chung, của lãnh tụ chính trị nói riêng.
1.2.2. Các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến đặc trưng và giá
trị của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh
+ Các sách liên quan đến đặc trưng và giá trị của VHCT Hồ Chí Minh:
Trong cuốn Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển, của Phạm Ngọc Anh và
Bùi Đình Phong [2], các tác giả đã chỉ ra biểu hiện của VHCT Hồ Chí Minh là:
nắm chắc linh hồn của chủ nghĩa Mác và hoàn cảnh cụ thể của đất nước để xác
định mục tiêu cách mạng; đề cao quyền lực của nhân dân; luôn khách quan,
trung thực, nhận rõ đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác, có tư duy phê phán, sáng tạo
với bản lĩnh và cái tâm, cái trí của người cộng sản; VHCT Hồ Chí Minh là sự
thống nhất giữa tư duy với hành động và luôn chú trọng xây dựng văn hóa của
Đảng cầm quyền. Cuốn sách không phải là một tác phẩm chuyên bàn về VHCT
Hồ Chí Minh, do vậy nội dung này chỉ được đề cập với tính cách là một bộ
phận cấu thành của văn hóa Hồ Chí Minh và cũng mới chỉ tập trung phân tích
một số biểu hiện cụ thể của VHCT Hồ Chí Minh.
Cuốn Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, của Song Thành [95], với ba
phần, gồm hai mươi chương, cuốn sách đã làm nổi bật hình ảnh, vị trí, vai trò
của Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Tác giả đã làm rõ quan
niệm và tiêu chí của một nhà tư tưởng, khái quát những cống hiến sáng tạo về
tư tưởng, lý luận của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và khẳng định
giá trị thời đại của những tư tưởng đó để làm rõ vị thế nhà tư tưởng lỗi lạc của
cách mạng Việt Nam. Cuốn sách đã trình bày những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh theo một hệ thống lôgích, từ việc xác định mục tiêu chính
trị, lựa chọn con đường, xác định phương pháp, chuẩn bị lực lượng và xác định
những nội dung cơ bản cần thiết lập trong xây dựng chế độ xã hội mới sau khi
giành ĐLDT. Đặc biệt, tác giả đã khái quát những sáng tạo lý luận làm lên tầm
vóc nhà tư tưởng Hồ Chí Minh như: sáng tạo trong giải quyết mối quan hệ giữa
21
dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; sáng tạo
trong lựa chọn, vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lênin; sáng tạo trong xây
dựng đảng kiểu mới ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến; sáng tạo trong lựa
chọn và thiết kế mô hình nhà nước; sáng tạo trong xác định con đường, biện
pháp quá độ lên CNXH; sáng tạo trong nghệ thuật chính trị… Mặc dù chưa đề
cập trực tiếp, nhưng bằng việc chỉ ra những sáng tạo lý luận đó đã làm toát lên
bản chất, nội dung và giá trị của VHCT Hồ Chí Minh.
Tác phẩm đề cập một cách toàn diện nhất về nội dung VHCT Hồ Chí Minh là
tác phẩm Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất, của Song Thành [96]. Trong cuốn
sách, tác giả đã nêu nên một hệ quan điểm VHCT Hồ Chí Minh, đó là: “Dân là gốc,
dân là chủ”, chính trị sáng suốt là chính trị “được lòng dân”; lấy đại đoàn kết toàn
dân tộc làm sức mạnh nền tảng; thi hành một nền chính trị liêm khiết, kết hợp chặt
chẽ đức trị với pháp trị; kiên trì giáo dục đạo đức gắn với đề cao vai trò của pháp
luật, thực hiện đức trị đi đôi với pháp trị; tôn trọng hiền tài, tin dùng trí thức; suốt
đời phấn đấu trở thành nhà chính trị sáng suốt, người công bộc, tận tụy của nhân
dân. Mặc dù vậy, cuốn sách chỉ tập trung phân tích VHCT Hồ Chí Minh dưới góc
độ tư tưởng mà thôi.
Cùng với việc luận giải nội dung, các nhà khoa học đã nhận định, VHCT Hồ
Chí Minh có giá trị như là yếu tố quyết định tạo nên sự nghiệp của Người và thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển vănhóa và con người, của Đặng Xuân Kỳ [43], tác giả đưa ra đánh giá khái quát:
VHCT Hồ Chí Minh đã có ý nghĩa to lớn trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Nó vẫn đang định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa rất chính trị và một
nền chính trị rất văn hóa khi đất nước bước vào thế kỷ XXI. Mặc dù vậy, vấn đề giá
trị của VHCT Hồ Chí Minh chưa được trình bày một cách có hệ thống và sâu sắc
để thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của VHCT Hồ Chí Minh trong tiến
trình cách mạng Việt Nam và sự cần thiết phải xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và phát huy VHCT của Người trong đời sống
chính trị ở nước ta hiện nay.
+ Các báo, tạp chí và kỷ yếu hội thảo khoa học có liên quan:
22
Trong bài Văn hóa lãnh đạo - quản lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh, của Bùi
Nguyễn [72], tác giả đã khẳng định: Văn hóa lãnh đạo - quản lý thuộc phạm trù
VHCT, được nhận thức trong điều kiện Đảng cầm quyền và, tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa lãnh đạo - quản lý là một hệ thống quan điểm sâu sắc của Người về
những giá trị trong lãnh đạo - quản lý, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh, trình độ “người” và
mức độ được “vun trồng” của Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và người
lãnh đạo - quản lý. Với cách tiếp cận như trên, tác giả bài viết mặc dù không đề cập
toàn diện và trực tiếp, nhưng đã gián tiếp khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa lãnh đạo - quản lý là một bộ phận cấu thành nội dung VHCT Hồ Chí Minh.
Trong bài Nhân dân: Một phạm trù văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, của Bùi Đình
Phong[84], tác giả khẳng định: phương Đông hay phương Tây đều đề cập tới phạm
trù dân trong VHCT. Nhưng dân như là một phạm trù trong VHCT Hồ Chí Minh
có sắc thái riêng. Đó là VHCT “dân quyền”, “dân sinh”, “dân trí”, “dân chủ”. Trong
phạm vi bài viết này, tác giả đã đi sâu phân tích một trong những đặc trưng cơ bản
của VHCT Hồ Chí Minh đó là tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc và tất cả vì nhân
dân. Bài Văn hoá Hồ Chí Minh - giá trị và ý nghĩa, của Hoàng Chí Bảo [4]. Trên cơ
sở khái quát những nét chính trong sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh, tác giả đã
chỉ ra cách tiếp cận và nêu lên ba loại hình cơ bản, nổi bật nhất của văn hóa Hồ Chí
Minh đó là: văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức và văn hóa ứng xử. Đề cập đến giá
trị và ý nghĩa của VHCT Hồ Chí Minh, tác giả khẳng định: “Hồ Chí Minh đã đưa
dân tộc Việt Nam vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thời đại, có mặt một
cách xứng đáng trong thế giới nhân loại” [tr.587], và “Văn hóa Hồ Chí Minh và di
sản tinh thần Hồ Chí Minh cũng đồng thời là đóng góp đầy tự hào của dân tộc Việt
Nam vào kho tàng văn hóa của nhân loại” [tr.587].
Các tác phẩm nêu trên cho thấy, vấn đề đặc trưng của VHCT Hồ Chí Minh
mới chỉ được đề cập đến ở một số khía cạnh như: tính cách mạng, khoa học và nhân
văn của những tư tưởng và hành động chính trị; sự quan tâm đặc biệt của Người
đến dân sinh, dân trí, dân chủ, dân quyền, mà chưa khái quát được những nét đặc
sắc nhất của VHCT Hồ Chí Minh. Những giá trị cơ bản nhất của VHCT Hồ Chí
Minh đã được nêu lên nhưng vẫn cần phải làm sáng tỏ hơn.
23
1.2.3. Các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến ý nghĩa và định
hướng xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam hiện nay
- Các sách có liên quan:
Cuốn Vai trò văn hoá trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện nay, của tác
giả Trần Văn Bính (chủ biên) [6] có kết cấu gồm hai phần: phần thứ nhất: Lý luận
về văn hóa chính trị; phần thứ hai: Yêu cầu và kinh nghiệm thực tiễn về xây dựng
văn hóa trong hoạt động chính trị. Trong phần thứ nhất, các tác giả đã đề cập đến
một số nội dung như: văn hóa trong lãnh đạo chính trị của Đảng ta hiện nay; tìm
hiểu quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của văn hóa
trong lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản. Đặc biệt, trong phần này, tác giả đã đi
sâu làm rõ vai trò của văn hóa với sự nghiệp chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mặc dù vậy, với mục đích của cuốn sách, tác giả chưa đi vào nghiên cứu VHCT Hồ
Chí Minh mà mới chỉ đề cập đến vai trò của văn hóa trong hoạt động chính trị của
Người để làm nổi bật sự cần thiết phải phát huy vai trò của văn hóa trong hoạt động
chính trị của Đảng ta hiện nay.
- Các báo, tạp chí và kỷ yếu hội thảo khoa học có liên quan:
Trong bài Đảng Cộng sản Việt Nam trong văn hóa chính trị, của Vũ Minh
Giang [21], tác giả đã đưa ra khái niệm chung nhất về VHCT, luận giải quá
trình hình thành, những đặc điểm của VHCT Việt Nam và khẳng định, Đảng
Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của VHCT Việt Nam. Trong bài Văn hoá
Đảng được hoàn thiện từ nền văn hoá chính trị, của Lương Hoàng Mai [52],
tác giả cho rằng văn hóa đảng là một sản phẩm trong văn hóa chính trị của dân
tộc và việc xây dựng môi trường VHCT Việt Nam tiên tiến, hiện đại là điều
kiện để hoàn thiện VHCT của đảng. Ngoài ra còn một số bài khác có đề cập
đến VHCT Hồ Chí Minh như: bài Nhân dân: Một phạm trù văn hoá chính trị
Hồ Chí Minh, của Bùi Đình Phong [84]; bài Vấn đề văn hoá trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển đất nước, của Tạ Ngọc Tấn [92]; bài Xây dựng văn hoá
chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, của tác giả
24
Đoàn Thị Minh Oanh [79]; bài Học và hành theo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hoá cầm quyền, của Bùi Đình Phong [85]...
- Các luận văn, luận án có liên quan:
Một số luận văn, luận án có đề cập đến VHCT như: cuốn Văn hóa chính trị ở
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, của tác giả Khăm Mặn
ChănThạLăngSy [41]; cuốn Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở tỉnh Kon Tum hiện nay - thực trạng và giải pháp, của tác giả Nguyễn Minh
Đức [20]; cuốn Nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, của tác giả Lâm Quốc Tuấn [94]; cuốn Văn hóa chính trị Hồ
Chí Minh với việc xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay, của tác giả
Nguyễn Minh Khoa [44]; cuốn Văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối
với công cuộc đổi mới ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, của tác giả
Aloun Bounmixay [1].
Các luận văn, luận án nêu trên mới chỉ nghiên cứu VHCT ở những cấp độ,
phạm vi địa phương hay quốc gia nhất định. Trong đó, một số công trình cụ thể đã
đề cập đến VHCT Hồ Chí Minh nhưng chủ yếu tập trung phân tích vai trò của
VHCT Hồ Chí Minh với việc xây dựng VHCT Việt Nam hiện nay. Do vậy, chưa có
công trình nào phản ánh VHCT Hồ Chí Minh với tính cách là một chỉnh thể có
nguồn gốc, cấu trúc, đặc trưng, có quy luật vận động phát triển và giá trị riêng, để
trên cơ sở đó định hướng cụ thể cho việc xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Như vậy, đề tài “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn”
với mục tiêu nghiên cứu đã xác định mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với các
công trình đã công bố. Kết quả nghiên cứu của đề tài hy vọng sẽ đem lại những
đóng góp mới về khoa học. Trên cơ sở tổng hợp các kết quả đã nghiên cứu, luận án
sẽ cung cấp một cách nhìn khái quát và đầy đủ hơn về VHCT nói chung và VHCT
Việt Nam nói riêng, đồng thời đưa ra một bức tranh toàn diện và hệ thống, bao gồm
khái niệm, cấu trúc, cơ sở hình thành, đặc trưng, giá trị và ý nghĩa của VHCT Hồ
Chí Minh, trên cơ sở đó đề xuất một số định hướng xây dựng VHCT Hồ Chí Minh
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
25
Tiểu kết chương 1
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và
sự giao thoa, tiếp biến những giá trị văn hóa chung của nhân loại, VHCT bắt đầu
được quan tâm nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong
quá trình nghiên cứu, VHCT được tiếp cận từ nhiều cách khác nhau và do đó cũng
có nhiều cách định nghĩa khác nhau, tùy theo từng mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên,
các kết quả nghiên cứu đều nhìn nhận VHCT là sản phẩm của con người, được hun
đúc trong quá trình đấu tranh giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước, trở thành
những giá trị bền vững chi phối nhận thức và hành vi chính trị của con người. Do
đó, trên một góc độ nhất định, VHCT là sự tích hợp VHCT cá nhân, mang tính
cộng đồng nhưng lại có sự chi phối VHCT cá nhân. Các nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng, với một số cá nhân xuất chúng, những lãnh tụ chính trị xuất sắc thì VHCT của
họ có vai trò to lớn trong việc hình thành những giá trị chung, thậm chí tạo ra bước
ngoặt trong quá trình phát triển VHCT của cộng đồng, dân tộc.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị của Đảng, của dân tộc,
bằng tư tưởng và hoạt động chính trị của mình, Người đã đưa đất nước bước sang
một kỷ nguyên mới, hòa cùng dòng chảy của thời đại trong quá trình phát triển. Với
những công lao to lớn đó, Người được thế giới vinh danh là anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa lớn. Vì thế, VHCT Hồ Chí Minh đã được các nhà khoa học đề
cập đến ở nhiều góc độ khác nhau, khá phong phú và toàn diện. Do vậy, việc kế
thừa các thành quả nghiên cứu VHCT nói chung, VHCT Hồ Chí Minh nói riêng để
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận án là hết sức quan trọng và cần thiết.
Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các nghiên cứu có
liên quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây là cơ sở để xác định nhiệm
vụ nghiên cứu và là nguồn tư liệu chính để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và phát
triển, phục vụ cho việc hoàn thành luận án của mình.
26
Chương 2
LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.1. KHÁI NIỆM VÀ CẤU TRÚC VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Khái niệm
2.1.1.1. Khái niệm giá trị và giá trị văn hóa
Trong phạm vi của đề tài này chưa có điều kiện đi sâu vào một vấn đề lý
luận lớn và phức tạp của văn hóa học - vấn đề giá trị. Do vậy, chỉ khái quát và
nêu lên một quan niệm chung nhất về giá trị và giá trị văn hóa. Theo từ điển
tiếng Việt: giá trị “là: cái làm cho một vật có lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về
một mặt nào đó; là: tác dụng, hiệu lực; là: lao động xã hội của những người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong sản phẩm hàng hóa; là: số đo của một đại lượng,
hay số được thay thế bằng một kí hiệu”[106, tr.501]. Như vậy, giá trị là một
khái niệm có độ bao quát lớn, một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều
lĩnh vực. Tuy nhiên, theo Trần Ngọc Thêm, tác giả cuốn sách “Những vấn đề
văn hóa học lý luận và ứng dụng”, “ở khái niệm này còn tồn đọng rất nhiều
vấn đề lý luận chưa được giải quyết thấu đáo”[97, tr.92].
Giá trị được phân ra làm hai loại là giá trị tự nhiên và giá trị xã hội,
trong đó giá trị tự nhiên là những tính chất, sự vật có ích nhưng không do
con người sáng tạo ra, còn giá trị xã hội gắn liền với con người, do con
người sáng tạo ra. Như vậy, giá trị văn hóa đồng nghĩa với giá trị xã hội và
bao hàm trong nó các loại giá trị như: kinh tế, chính trị, đạo đức, khoa học,
pháp luật... Do đó, không được đồng nhất hoặc đặt giá trị văn hóa ngang
hàng với các loại giá trị khác, bởi vì mọi giá trị do con người sáng tạo ra đều
thuộc về văn hóa. Giá trị có tính chủ quan, tính lịch sử và tính tương đối.
Một sự vật, hiện tượng có giá trị nhiều hay ít phụ thuộc vào năng lực và tâm
lý của chủ thể định giá. Mặt khác, một sự vật có giá trị ở giai đoạn lịch sử
này, chưa chắc đã còn giá trị ở giai đoạn lịch sử khác, có giá trị ở vùng này
và với dân tộc này chưa hẳn đã có giá trị ở vùng khác và với dân tộc khác.
27
Tính tương đối của khái niệm giá trị cho phép nhìn nhận và phân loại các giá
trị thành: giá trị đang hình thành, giá trị đang hiện hành, giá trị đã lỗi thời,
giá trị vĩnh cửu, giá trị lịch sử, giá trị hiện thực....
2.1.1.2. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một vấn đề rộng lớn, gắn liền với mọi lĩnh vực hoạt động sống
của con người. Do vậy, từ khi xuất hiện lần đầu (1871) cho đến nay đã có rất
nhiều định nghĩa văn hóa, và một số nhà khoa học nhận định rằng, có bao nhiêu
nhà nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu định nghĩa về văn hóa. Về cách định
nghĩa văn hóa, trong công trình nghiên cứu, “Văn hóa trong chủ thuyết phát
triển của Việt Nam”, các nhà khoa học đã thống kê 6 cách định nghĩa chính đó
là: cách định nghĩa miêu tả, cách định nghĩa lịch sử, cách định nghĩa chuẩn mực,
cách định nghĩa tâm lý, cách định nghĩa cấu trúc và cách định nghĩa nguồn gốc.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song theo Trần Ngọc Thêm, khái
niệm văn hóa bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính, đó là: theo nghĩa
rộng và theo nghĩa hẹp.
Với phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ liệt kê một số định nghĩa
tiêu biểu và có những điểm chung, với tính cách là cơ sở cho những khái niệm
công cụ của đề tài nhưng có liên quan trực tiếp đến văn hóa.
Định nghĩa của Từ điển Triết học:
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội lịch sử và tiêu biểu cho
trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn,
người ta vẫn quen nói về văn hóa vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản
xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ thuật và
văn học, triết học, đạo đức, giáo dục…). Văn hóa là một hiện tượng
lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế xã
hội.[107, tr.1329 - 1330].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, văn hóa gắn liền với con
người và có nguồn gốc từ hoạt động lao động sáng tạo của con người. Trong tác
28
phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”, C.Mác viết: “Căn cứ vào mức độ tự nhiên
được con người khai thác, cải tạo thì có thể xét được trình độ văn hóa chung của
con người”[51, tr.507]. Theo tập thể tác giả của công trình nghiên cứu “Văn hóa
trong chủ thuyết phát triển của Việt Nam”, mặc dù không chính thức đưa ra định
nghĩa của mình về văn hóa, song “trong công trình “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước” xuất bản lần đầu tiên năm 1884,
Ph.Ăngghen đã có ngụ ý chứng minh: Văn hóa là toàn bộ những sản phẩm vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát
triển của mình trong tiến trình lịch sử”[35, tr.24].
Một số định nghĩa tiêu biểu của các nhà nghiên cứu văn hóa nước ngoài:
Năm 1871, trong tác phẩm Văn hóa nguyên thủy, xuất bản lần đầu tại London,
nhà nhân học người Anh Edward Burnett Tylor đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hay
văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất về dân tộc học của nó, là toàn bộ phức thể bao
gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi khả
năng và thói quen khác mà con người có được với tư cách một thành viên của xã
hội”[103, tr.13]. Với cách định nghĩa miêu tả này, tác giả đã liệt kê một số thành tố
của văn hóa và chỉ ra mối liên hệ biện chứng giữa văn hóa và con người với tư cách
là con người xã hội. Đây là khái niệm văn hóa theo nghĩa hẹp, và có lẽ hạn chế của
khái niệm này là tác giả đã đồng nhất văn hóa với văn minh.
Một khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng, do ông Federico Mayor, nguyên tổng
giám đốc UNESCO trong khoảng thời gian từ 1987 đến 1999 đã nêu ra như
sau: "Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và
cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế hệ, các hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu -
những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[74, tr.11].
Khái niệm này được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính
phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise. Năm 1988, tổ chức
Văn hóa Khoa học Giáo dục Liên Hiệp Quốc UNESCO đã đưa ra định nghĩa:
“Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị, bao gồm các mặt tình cảm, tri thức,
29
vật chất, tinh thần của xã hội. Nó không thuần túy bó hẹp trong sáng tác nghệ
thuật, mà bao gồm cả phương thức sống, những quyền cơ bản về con người,
truyền thống tín ngưỡng”[dẫn theo 105, tr.16].
Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa được Người ghi lại trong mục đọc
sách ở những trang cuối cùng của tập thơ “Nhật ký trong tù”, Người viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn.[56, tr.458].
Từ quan niệm trên, Hồ Chí Minh đã chỉ ra các yếu tố cấu thành của văn hóa,
nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo và phát minh, đồng thời chỉ ra mục tiêu của văn hóa
là vì sự sinh tồn và mục đích cuộc sống con người.
Một số định nghĩa của các nhà nghiên cứu văn hóa trong nước: theo nhà
nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc:
Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá
nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá
nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại
trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này,
đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu
lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác với các kiểu lựa chọn
của các cá nhân hay các tộc người khác.[71, tr,19-20].
Định nghĩa trên nhấn mạnh đến tính biểu tượng của các giá trị văn hóa chi
phối các mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh được biểu hiện thông
qua việc lựa chọn các giá trị.
Theo tác giả Song Thành:
30
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do một cộng đồng người sáng tạo ra, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
tồn và phát triển trong quá trình lịch sử. Trên ý nghĩa đó, văn hóa phản
ánh mức độ phát triển của toàn bộ cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân
về trình độ sản xuất - kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nếp sống - đạo đức,
phong tục - tập quán, v.v.[96, tr.7].
Định nghĩa trên nhấn mạnh tính lịch sử của các giá trị do con người sáng
tạo ra, thể hiện trình độ phát triển của cộng đồng người.
Tác giả Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống giá trị
mang tính biểu tượng do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”[97,
tr.56]. Định nghĩa này được cho là khá hoàn chỉnh, cho phép nhận diện và phân
biệt văn hóa. Như vậy, mặc dù các định nghĩa nêu trên đề cập văn hóa ở những
phạm vi rộng, hẹp khác nhau, nhưng tựu chung lại đã làm nổi bật khái niệm
văn hóa ở những nội dung cơ bản đó là: Văn hóa gắn liền với con người, do
con người và vì con người; nguồn gốc của văn hóa là tự nhiên, ra đời thông qua
hoạt động thực tiễn; văn hóa là hệ thống các giá trị và biểu tượng được bồi đắp
trong chiều dài lịch sử, có tính Chân, Thiện, Mĩ, tính sáng tạo và có đặc trưng,
bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình tồn tại
và phát triển trên một khu vực địa lý nhất định.
Tóm lại, văn hóa là một chỉnh thể các giá trị Chân, Thiện, Mĩ của con
người, do con người, vì con người, được sáng tạo, bồi đắp trong suốt quá trình
lịch sử thông qua sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
2.1.1.3. Khái niệm văn hóa chính trị
Chính trị là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, dùng để chỉ những
công việc liên quan đến nhà nước, là nghệ thuật cai trị của nhà nước và là
phương pháp để thực hiện các mục tiêu của quốc gia. Chính trị xuất hiện từ khi
xã hội có phân hóa giai cấp và tác động, chi phối đến tất cả mọi người thuộc
các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Chính vì thế mà Aristotle cho rằng, con người
31
là động vật chính trị. Mặc dù vậy, trong thực tế, chính trị đã từng là công cụ
đặc quyền để giai cấp thống trị buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của
mình. Tuy nhiên, cùng với quá trình dân chủ hóa, chính trị dần trở thành công
việc của đông đảo quần chúng nhân dân. Mọi công dân đều có quyền tham gia
vào công việc của nhà nước ở những mức độ, phạm vi khác nhau, phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa của mỗi công dân.
Vậy, chính trị có cần thiết hay không?, là tốt hay xấu đối với con người?.
Trước hết cần khẳng định là, chính trị là một hiện tượng lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại
cùng với sự ra đời và tồn tại của giai cấp, nhưng nó rất cần thiết cho sự phát triển
của xã hội, là một nấc thang trong tiến trình phát triển của nhân loại. Xung quanh
vấn đề chính trị, từ xưa đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau. Ở phương
Tây, một triết gia Hy Lạp cổ đại - Plato - người thầy của Aristotle cho rằng, chính
trị là nghệ thuật cai trị và cai trị bằng sức mạnh là độc tài, còn cai trị bằng thuyết
phục mới là cai trị đích thực. Gần đây, nhà kinh tế, chính trị và xã hội học người
Đức Maximilan Carl Emil weber cho rằng, chính trị là khát vọng tham gia vào
quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong
quốc gia hay giữa các tập đoàn người trong một quốc gia. Với quan điểm này, một
số học giả cho rằng, chính trị là sự khôn khéo, là nghệ thuật, là thủ đoạn, là trường
đấu tranh, chiếm quyền hành, tước vị mà kẻ thắng thế chưa hẳn là người tốt.
Các quan niệm trên đây tuy có những yếu tố hợp lý nhưng chưa phản ánh
đúng nội dung cơ bản nhất trong phạm trù chính trị, đó là tính giai cấp của nó. Chỉ
khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, phạm trù chính trị mới có được những quan niệm
đúng đắn, cách mạng và khoa học. Theo Lênin, về bản chất, “Chính trị là cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp; chính trị là thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự giải
phóng mình chống giai cấp tư sản toàn thế giới”[47, tr.482]. Về phương thức của
chính trị, Lênin cho rằng, “Chính trị là một khoa học và nghệ thuật không phải từ
trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi một sự cố gắng, rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai
cấp tư sản thì phải đào tạo lấy “những nhà chính trị giai cấp” thực sự của mình,những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư
sản”[47, tr.80-81].
32
Về mối quan hệ giữa chính trị với văn hóa, chủ nghĩa Mác - Lênin cho
rằng, văn hóa là tiền đề, điều kiện của chính trị và luôn bị chi phối bởi chính trị.
Lênin viết: “Chừng nào ở nước ta còn có một hiện tượng như nạn mù chữ, thì
rất khó có thể nói đến giáo dục chính trị. Đó không phải là một nhiệm vụ chính
trị, đó là một điều kiện mà nếu thiếu, thì không thể nói đến chính trị được. Một
người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”[48, tr.218]. Tóm lại, dù
theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng, văn hóa và chính trị luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Theo nghĩa rộng, chính trị là một hệ sản phẩm, một phương thức
biểu hiện của văn hóa, nằm trong văn hóa. Theo nghĩa hẹp, văn hóa bị chi phối
bởi chính trị và phải phục vụ cho chính trị.
Như vậy, chính trị luôn gắn liền với con người kể từ khi nhà nước ra
đời và đó là một lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của đời sống xã hội.
Mọi thành quả lý luận và thực tiễn do con người sáng tạo ra liên quan đến
việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước đều thuộc về VHCT. Với
cách nhìn nhận như vậy, cùng với quá trình ra đời và phát triển của nhà
nước, khái niệm VHCT đã hình thành và từng bước hoàn thiện.
Việc định nghĩa VHCT tùy thuộc vào mục đích và cách tiếp cận của mỗi
chủ thể nghiên cứu. Cùng với sự phát triển của khoa học chính trị ở các nước
nói chung, ở phương Tây nói riêng, cho đến nay đã có khá nhiều định nghĩa về
VHCT. Có thể kể đến một số định nghĩa tiêu biểu sau:
Người đầu tiên đưa ra khái niệm VHCT là nhà chính trị học người Mĩ
G.Almond. Trong bài “Các hệ thống chính trị so sánh” đăng trên tạp chí chính
trị học (The Journal of politics), số 8-1956, Almond đã đưa ra định nghĩa: “Văn
hóa chính trị của một dân tộc là cách chia sẻ riêng của các thành viên của dân
tộc ấy những dạng thức của sự định hướng quan tâm tới các khách thể chính
trị”[114, tr.14-15]. Sau khi ra đời, khái niệm VHCT này đã được giới chính trị
học thế giới quan tâm nghiên cứu.
Trong cuốn “Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế”, được biên soạn
năm 1961, nhà chính trị học người Anh L.Pye đã đưa ra định nghĩa: “văn hóa chính
33
trị là hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá
trình chính trị; nó đưa ra tiền đề cơ bản và quy tắc chế ước hành vi của hệ thống
chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính
thể”[118, tr.218]. Định nghĩa này cho thấy, tác giả không những chưa đề cập đến
vấn đề giai cấp của VHCT mà nội hàm của VHCT cũng chỉ được đề cập đến ở góc
độ nhận thức tư tưởng.
Theo tác giả Phạm Hồng Tung, gần đây, ở phương Tây có hai cách định nghĩa
tiêu biểu về văn hóa chính trị của giới khoa học chính trị Đức đó là: cách định nghĩa
thứ nhất của Werner J.Patzelt, được đưa ra trong cuốn sách “Nhập môn khoa họcchính trị”, xuất bản năm 1992. Tác giả định nghĩa:
Văn hóa chính trị là một khái niệm tập hợp dùng để chỉ những giá trị
chính trị quan trọng, tri thức, quan niệm và thái độ trong một xã hội;
những dạng thức được bộc lộ ra thông qua hoạt động chính trị và tham
dự chính trị; những quy tắc công khai hay mặc nhiên được thừa nhận của
quá trình chính trị và những cơ sở thường nhật của các hệ thống chính
trị.[dẫn theo 104, tr.22].
Cách định nghĩa thứ hai của các nhà khoa học chính trị Đức được nêu ra trong
cuốn “Từ điển chính trị” xuất bản năm 2007. Ở đây, VHCT được định nghĩa:
Là khái niệm dùng để chỉ chiều cạnh chủ quan của những cơ sở xã hội
của các hệ thống chính trị. Văn hóa chính trị liên quan tới những bộ phận
khác nhau của ý thức chính trị, những phong thái, những lối nghĩ và ứng
xử điển hình của những nhóm xã hội hoặc toàn xã hội. Văn hóa chính trị
bao gồm tất cả những đặc tính chính trị cá nhân của từng cá thể, tiềm ẩn
trong những thái độ và các giá trị, bắt rễ trong những động cơ bẩm sinh
của hành vi chính trị, và cả trong những hình thức bộc lộ có tính chất
biểu tượng và những ứng xử chính trị cụ thể.[dẫn theo 104, tr.23-24].
Hai định nghĩa trên đây cho thấy, VHCT không chỉ là các giá trị của tri thức
chính trị, thái độ chính trị mà còn bao gồm những dạng thức của hành vi và sự tham
dự chính trị. Mặt khác, hai định nghĩa này lần đầu tiên đề cập đến tính chất cá nhân
của VHCT.
34
Kế thừa các kết quả nghiên cứu của thế giới, các nhà khoa học Việt Nam đã
có sự nhìn nhận rõ hơn về VHCT. Trong cuốn sách “Văn hóa chính trị và việc bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” do Phạm Ngọc Quang (chủ
biên), xuất bản năm 1995 đã định nghĩa:
Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa; nó nói lên tri
thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên sự nhận
thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế
chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của
giai cấp hay của nhân dân phù hợp sự phát triển của lịch sử. Văn hóa
chính trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con
người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện những
lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng.[87, tr.19].
Trong cuốn sách “Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất” của Song Thành, xuất
bản năm 2010, tác giả định nghĩa:
Văn hóa chính trị là một bộ phận cấu thành của văn hóa, kết tinh
trong đó cả tri thức, lý tưởng, đạo đức và năng lực hoạt động chính
trị, có ảnh hưởng đến thái độ, hành vi chính trị của một cá nhân hay
một cộng đồng xã hội nhất định. Văn hóa chính trị được hình thành
từ kinh nghiệm lịch sử của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa chính
trị hiện đại, dưới sự chi phối của hệ tư tưởng chính trị của giai cấp
hay đảng cầm quyền.[96, tr.86].
Trong cuốn “Các chuyên đề bài giảng chính trị học”, dành cho cao
học chuyên chính trị học, do Phan Xuân Sơn chủ biên, đã đưa ra định
nghĩa: “Văn hóa chính trị là một loại hình văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ
giá trị, phẩm chất, năng lực, trình độ và phương thức hoạt động chính trị,
được hình thành trên cơ sở một nền chính trị với thể chế, hệ thống và thiết
chế đúng đắn, khoa học, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia, phù
hợp với tiến bộ xã hội - con người”.[91, tr.260].
35
Như vậy, mặc dù về cơ bản, các định nghĩa nêu trên có điểm chung, đều
coi VHCT là một bộ phận, một lĩnh vực của văn hóa nói chung; được cấu thành
bởi các giá trị do con người sáng tạo trong quá trình hoạt động chính trị; ra đời
nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi chính trị của cá nhân hoặc cộng đồng và
luôn bị chi phối bởi hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Tuy nhiên, các
khái niệm trên đây vẫn còn những khác biệt về nguồn gốc, cấu trúc, đặc trưng
biểu hiện của VHCT. Do vậy, việc bổ sung, hoàn thiện khái niệm VHCT để có
được một công cụ có tính phổ biến trong việc nghiên cứu VHCT nói riêng,
chính trị học nói chung là cần thiết và có ý nghĩa khoa học. Kế thừa các định
nghĩa khái niệm VHCT nêu trên và qua phân tích các dấu hiệu nội hàm của
khái niệm VHCT, có thể rút ra một định nghĩa VHCT như sau:
“Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương thức biểu hiện của văn hóa,ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp. Là tổng hòa các giá trị của tư tưởng,
hành vi và các thiết chế chính cụ thể phù hợp với tiến bộ xã hội, do con người sángtạo ra và bồi đắp trong suốt quá trình ứng xử với quyền lực nhà nước. Văn hóa
chính trị biểu hiện qua các mô hình tổ chức thể chế chính trị, các chuẩn mực, phẩmchất, năng lực tham dự chính trị của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Khái niệm này cho thấy, VHCT là những giá trị chung mà cộng đồng người
đã sáng tạo ra trong suốt quá trình ứng xử với quyền lực nhà nước, nhằm tạo ra các
thiết chế chính trị phù hợp với tiến bộ xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên,
cần nhận rõ, giá trị chung là tổng hòa của nhiều giá trị riêng không ngang bằng
nhau. Như vậy, trong giá trị chung đó, sẽ có những giá trị riêng tiêu biểu của những
cá nhân xuất chúng, những lãnh tụ chính trị của dân tộc, vĩ nhân của thời đại mà
những sáng tạo mang dấu ấn cá nhân của họ được cộng đồng thừa nhận trở thành
giá trị chung. Những giá trị đó được thực tiễn kiểm nghiệm, chắt lọc và tích lũy
trong quá trình lịch sử gắn liền với sự ra đời, phát triển của giai cấp và nhà nước.
VHCT không chỉ bao gồm các giá trị tư tưởng, lý luận mà còn bao hàm cả những
hành vi cũng như nghệ thuật thể hiện hành vi trong quá trình tham dự chính trị được
cộng đồng thừa nhận, chia sẻ và vận dụng trong việc thiết lập và vận hành một nền
chính trị nhất định.
36
2.1.1.4. Khái niệm văn hóa chính trị Hồ Chí MinhViệc thừa nhận vai trò của cá nhân trong việc sáng tạo văn hóa nói chung,
VHCT nói riêng đã cho phép nhìn nhận một cách khách quan về VHCT Hồ
Chí Minh. Bởi lẽ, cùng với tư cách là sản phẩm của VHCT Việt Nam, Người
còn đồng thời là một chủ thể sáng tạo VHCT. Mọi hoạt động cách mạng của
Người, từ học tập, lao động, nhận thức tư tưởng hay ứng xử với các vấn đề
chính trị cụ thể đều hướng vào một lý tưởng cao cả là các dân tộc trên thế giới
được bình đẳng, đoàn kết và cùng chung sống hòa bình trên sơ sở tôn trọng sự
đa dạng về bản sắc văn hóa; trong xã hội không còn tình trạng giai cấp này áp
bức, bóc lột giai cấp khác; con người được giải phóng khỏi mọi sự ràng buộc,
có điều kiện để phát triển toàn diện và được hưởng mọi thành quả văn hóa do
chính con người sáng tạo ra. Trong đó, mục tiêu trước mắt là độc lập cho dân
tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Mục tiêu đó luôn là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt trong tư duy và được biểu hiện nhất quán trong hoạt động
thực tiễn của Người. Chính vì vậy, ngay từ năm 1923, một nhà báo Liên Xô đã
viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu
châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”[54, tr.463].
Thực tế nêu trên đặt ra yêu cầu tìm hiểu và định hình khái niệm VHCT Hồ
Chí Minh với tính cách là một đối tượng nghiên cứu của khoa học chính trị, trong
đó trực tiếp nhất là chính trị học và Hồ Chí Minh học. Một số năm gần đây, khái
niệm VHCT Hồ Chí Minh đã được đề cập đến ở những mức độ và phạm vi
khác nhau, khá phong phú và đa dạng. Trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển văn hóa và con người”, do Đặng Xuân Kỳ (chủ biên),
VHCT được coi là một trong các lĩnh vực như: văn hóa giáo dục; văn hóa
văn nghệ; văn hóa đời sống - đạo đức, lối sống và nếp sống cấu thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Cuốn sách viết: “Ở Hồ Chí Minh, sự kết
hợp chặt chẽ vấn đề giai cấp và dân tộc, truyền thống và hiện đại, dân tộc và
nhân loại được thực hiện cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn ba tính chất
cách mạng, khoa học và nhân văn,… Vì vậy, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
37
mang tính văn hóa rất sâu đậm”.[43, tr.249]. Quan niệm này mới chỉ đề cập
đến tính chất văn hóa trong các tư tưởng chính trị của Người mà chưa đề cập
đến VHCT Hồ Chí Minh với tính cách là một hệ thống các giá trị của chính
trị có tính chỉnh thể. Trong cuốn sách Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển
của Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong, các tác giả có đề cập đến VHCT
Hồ Chí Minh nhưng chưa đưa ra một khái niệm cụ thể. Trong cuốn sách, Hồ
Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất, của Song Thành, tác giả đã đề cập đến cơ
sở hình thành và hệ quan điểm VHCT Hồ Chí Minh, nhưng cũng chưa đưa
ra một quan niệm đầy đủ về VHCT Hồ Chí Minh.
Như vậy, cho đến nay khái niệm VHCT Hồ Chí Minh vẫn chưa có được
một định nghĩa thực sự đầy đủ. Tuy nhiên, những quan niệm đó đã là nền
tảng quan trọng để các nghiên cứu tiếp sau có cái nhìn bao quát hơn về
VHCT Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kế thừa các định nghĩa đã có, tác giả luận
án đưa ra định nghĩa với tính cách là một giả thuyết khoa học chung nhất về
VHCT Hồ Chí Minh như sau:
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là phương diện nổi bật của văn hóa Hồ Chí
Minh, bao gồm tổng hòa các giá trị về tư tưởng và hành vi chính trị mang tính
Chân, Thiện, Mĩ mà Người sáng tạo ra trong suốt quá trình đấu tranh cho sự
nghiệp GPDT, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trên lập trường giai
cấp công nhân; là sự tích hợp, vận dụng, phát triển các giá trị VHCT của dân
tộc, nhân loại, và chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam; được
biểu hiện ở tư tưởng, chuẩn mực và nhân cách chính trị mang đặc trưng riêng;
có giá trị, ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và
góp phần làm phong phú thêm các giá trị VHCT của nhân loại.
Định nghĩa nêu trên đã tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh ở phạm vi rộng nhất,
với tính cách là một chỉnh thể, một đối tượng nghiên cứu độc lập và chỉ ra những
nội dung cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh. Đó là:
Thứ nhất, VHCT Hồ Chí Minh là một phương diện nhưng là phương diện cơ
bản và nổi bật nhất của văn hóa Hồ Chí Minh, bao gồm cả giá trị tư tưởng và giá trị
38
hành vi, nhưng không phải tất cả mọi giá trị đã được tạo ra mà chỉ đề cập đến những
giá trị Chân, Thiện, Mĩ, có tính sáng tạo. Đề cập đến VHCT Hồ Chí Minh là đề cập
đến tính chỉnh thể và hệ thống của mối quan hệ giữa con người, sự nghiệp cùng
những sản phẩm của tư tưởng và hành vi chính trị mà Người sáng tạo ra. Tuy nhiên,
những sản phẩm đó phải xuất phát từ thực tại khách quan, có tính phổ quát cao, tính
nhân văn, nhân đạo và nhằm mang lại cho con người một đời sống chính trị tốt đẹp
hơn, phù hợp với xu thế thời đại và tiến bộ xã hội.
Thứ hai, VHCT Hồ Chí Minh mang bản chất của giai cấp công nhân và
hướng tới mục tiêu GPDT, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Nghĩa là,
bản chất giai cấp công nhân và sự kết hợp chặt chẽ ba sự nghiệp giải phóng nói trên
không chỉ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và chỉ đạo mọi tư tưởng và hành động cách
mạng Hồ Chí Minh, mà còn là một đặc trưng cơ bản trong VHCT của Người.
Thứ ba, cơ sở hình thành, phát triển VHCT Hồ Chí Minh là sự tích hợp, vận
dụng và phát triển các giá trị VHCT của dân tộc, nhân loại và chủ nghĩa Mác -
Lênin để giải quyết vấn đề của thực tiễn chính trị Việt Nam trong bối cảnh chung
của thế giới. Nghĩa là, việc hình thành, phát triển của VHCT Hồ Chí Minh có cả cơ
sở lý luận và thực tiễn gắn liền với nhân tố chủ quan của Người. Trong đó, cơ sở lý
luận là những hạt nhân tích cực, hợp lý của tư tưởng nhân loại và những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Người tiếp thu được thông qua khả năng tự
học và thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú.
Thứ tư, sản phẩm của VHCT Hồ Chí Minh là những tư tưởng, chuẩn mực và
nhân cách chính trị của Người. Trong đó, tư tưởng chính trị là hệ thống các quan
điểm lý luận về quá trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng GPDT đến cách
mạng XHCN. Chuẩn mực là những nguyên tắc, quy tắc, quy định của các hành vi
chính trị mà Người sáng tạo ra, đáp ứng yêu cầu của cách mạng, phù hợp với xu thế
thời đại và nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Nhân cách chính trị Hồ Chí
Minh là những phẩm chất về ý chí, nghị lực, phương pháp, phong cách, sự thống
nhất giữa nói và làm, giữa lý luận và thực hành, cùng những phẩm chất đạo đức
cách mạng mà Người đã sáng tạo ra và suốt đời gương mẫu thực hiện.
39
Thứ năm, VHCT Hồ Chí Minh có giá trị, ý nghĩa to lớn đối với cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới. Nghĩa là, VHCT Hồ Chí Minh vừa có tính dân
tộc, vừa có tính nhân loại. Bởi lẽ, bất kỳ một giá trị nào được coi là văn hóa đều có
tính nhân văn và khả năng tự lan tỏa. Đặc biệt, VHCT Hồ Chí Minh được hình
thành, phát triển trong quá trình giải quyết mâu thuẫn lớn của thời đại đó là mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa thực dân với các dân tộc bị áp bức. Mặt khác, với tính lịch sử
và tính kế thừa của văn hóa, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị lịch sử mà
còn có giá trị hiện thực to lớn.
2.1.2. Cấu trúc
Cấu trúc là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa các thành phần, các
yếu tố tạo nên một sự vật và làm cho nó có những nội dung và đặc trưng
nhất định. Mỗi thành tố cấu thành sự vật có vai trò, chức năng khác nhau
nhưng có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau để quy định bản chất
của sự vật ấy. Với tính cách là một chỉnh thể các giá trị Chân, Thiện, Mĩ của
lý luận và thực tiễn chính trị, VHCT nói chung, VHCT Hồ Chí Minh nói
riêng được cấu thành từ những yếu tố góp phần bảo đảm tính văn hóa của
chính trị, làm nên sự nghiệp chính trị của Người và thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Theo đó, cấu trúc VHCT và VHCT Hồ Chí Minh bao gồm các
thành tố sau:
2.1.2.1. Cấu trúc văn hóa
Đề cập đến cấu trúc không chỉ đơn thuần là việc liệt kê các thành tố tạo nên
văn hóa, mà phải xác định được trình tự, cách thức các thành tố đó liên hệ với
nhau và mối quan hệ giữa chúng. Theo đó, trong các thành tố văn hóa ta thấy: có
con người, có tự nhiên, có hoạt động thực tiễn của con người, có các sản phẩm
về vật chất và các sản phẩm về tinh thần. Với tính cách là tổng hòa các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo nhu ra nhằm thỏa mãn cầu cuộc sống và
sự sinh tồn, văn hóa thường được chia ra thành hai bộ phận đó là văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất được hiểu là những sản phẩm, những
hiện vật có thể cảm giác được. Văn hóa tinh thần là những giá trị trừu tượng
40
không cảm giác được như các quan điểm, quan niệm, tình cảm, ý chí, phong tục,
tập quán, thói quen…Tuy nhiên, nhiều sản phẩm vừa mang giá trị vật chất, vừa
mang giá trị tinh thần. Chẳng hạn, một cuốn sách với hình thức đẹp, chất lượng
giấy tốt biểu hiện giá trị vật chất. Nhưng, nội dung của cuốn sách giúp người đọc
được phát triển tri thức, nâng cao hiểu biết và cảm thấy được thư giãn tinh thần
khi đọc lại biểu hiện giá trị tinh thần. Vì vậy, để phân biệt rõ hơn giữa hai tính
chất này, UNESCO đã đưa ra quan niệm về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
thể, hai tính chất này có thể cùng tồn tại trong một sản phẩm văn hóa cụ thể. Như
vậy, những phân tích trên đây mới chỉ nêu được quan niệm về các thành tố của
văn hóa mà chưa nêu được cấu trúc của nó.
Với các thành tố của văn hóa đã liệt kê ở trên có thể thấy, đề cập đến cấu trúc
văn hóa trước hết phải nói đến con người. Là sản phẩm của quá trình vận động lâu
dài của thế giới tự nhiên, nhưng ngay sau khi ra đời, con người đã giữ vai trò chủ
thể của thế giới, và tự nhiên lại trở thành đối tượng cải tạo của con người. Với tính
cách vừa là khách thể, vừa là chủ thể của văn hóa, con người thông qua hoạt động
thực tiễn tác động vào thế giới tự nhiên để sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật thể và
phi vật thể. Ngược lại, sau khi ra đời và được kiểm nghiệm, bồi đắp trở thành các
chuẩn mực, các biểu tượng văn hóa, các sản phẩm văn hóa lại tác động trở lại, chỉ
đạo hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội để phục vụ cho sự sinh tồn và
mục đích cuộc sống của con người. Như vậy, cấu trúc của văn hóa là một chỉnh thể
thống nhất giữa các yếu tố: con người, tự nhiên, hoạt động thực tiễn, các giá trị vật
thể và phi vật thể liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng có vai trò không ngang bằng
nhau. Trong đó, con người giữ vai trò quyết định.
2.1.2.2. Cấu trúc văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị bao gồm các thành tố: con người chính trị, hoạt động thực
tiễn chính trị và các sản phẩm chính trị. Do vậy, cấu trúc VHCT được biểu hiện ở
mối quan hệ và vai trò của các thành tố nêu trên.
Một là, con người chính trị với tư cách là những chủ thể trong xã hội có phân
hóa giai cấp, trong đó có con người cá nhân và con người tập thể. Con người cá
41
nhân luôn chịu sự chi phối của môi trường chính trị mà họ đang sống, mà thông
thường, môi trường đó do giai cấp thống trị tạo ra và áp đặt cho toàn xã hội. Do vậy,
những cá nhân này biểu thị VHCT của mình bằng việc nhận thức về tính chính
đáng của thể chế chính trị đang chi phối mình và tỏ thái độ tự hào, tin tưởng, muốn
bảo vệ hay bất mãn, căm ghét và muốn thay thế bằng một thể chế chính trị khác.
Bên cạnh đó, con người tập thể với tính cách là những cộng đồng, những tổ chức,
tập hợp các thành viên có chung lợi ích, chung mục đích, lý tưởng, có thể đại diện
cho quyền lợi của một giai cấp, một dân tộc (Đảng Cộng sản), hay một nhóm người
nhất định (các hội, hiệp hội, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hay của xã hội dân sự ở các nước phương Tây). Những tổ chức này tạo dựng nên
các giá trị và phong cách riêng của mình trong quá trình tham dự chính trị. Con
người tập thể biểu hiện VHCT của mình thông qua các mục tiêu, lý tưởng, các
chuẩn mực và cách thức tiếp cận với quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Tóm
lại, VHCT của tổ chức là tổng hòa VHCT của cá nhân, trong đó người đứng đầu,
lãnh tụ chính trị giữ vai trò chi phối. Các tổ chức với tư cách chủ thể chính trị, đặc
biệt là các đảng chính trị có vai trò quan trọng trong hoạt động tham dự chính trị và
sáng tạo các giá trị mới của VHCT.
Hai là, hoạt động thực tiễn chính trị với tính cách là cầu nối giữa chủ thể chính
trị với môi trường chính trị. Hoạt động thực tiễn chính trị của con người bao gồm
một số lĩnh vực chủ yếu như: hoạt động nhận thức chính trị, hoạt động ứng xử
chính trị và hoạt động tổ chức đời sống chính trị. Trong đó, hoạt động nhận thức
chính trị có đối tượng là các tri thức, tư tưởng, học thuyết và các thể chế chính trị
hiện thực mà loài người đã sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử. Trên cơ sở nhận thức
chính trị sẽ nảy sinh những so sánh, đánh giá, phán xét và hình thành trạng thái tâm
lý, thái độ, động cơ, tình cảm và cách ứng xử với một giá trị chính trị cụ thể. Hoạt
động ứng xử chính trị là giai đoạn tiếp theo của hoạt động nhận thức chính trị. Nếu
có nhận thức chính trị phong phú, biết lựa chọn những giá trị ưu việt, có tính phổ
quát cao thì sẽ có những ứng xử đúng đắn và ngược lại. Đây là cơ sở lý luận để thực
dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân và tiến hành bưng bít các thông tin về tình
42
hình chính trị thế giới ở Việt Nam. Và, có lẽ đây cũng chính là cơ sở để Hồ Chí
Minh cho rằng, “Phải đi ra nước ngoài xem người ta làm như thế nào rồi trở về giúp
đồng bào mình”. Cùng với hoạt động nhận thức và ứng xử chính trị, hoạt động tổ
chức đời sống chính trị chính là quá trình tham dự chính trị. Đối tượng của hoạt
động này là việc thiết lập, tổ chức và vận hành một thiết chế chính trị cụ thể. Tính
thống nhất hay mâu thuẫn của hoạt động tổ chức đời sống chính trị phụ thuộc vào
tính chính đáng của thể chế chính trị đang tồn tại. Hoạt động tổ chức đời sống chính
trị bao gồm các hành động cụ thể như, tìm cách bảo vệ hay lật đổ một chế độ chính
trị, thông qua các hình thức dân chủ để thiết lập môi trường pháp lý, lựa chọn người
đại diện, tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và hiện thực hóa các quyết
sách chính trị…Hoạt động thực tiễn chính trị từ nhận thức, ứng xử, đến tham dự
chính trị cũng có quá trình vận động, phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn. Do
vậy, bản thân hoạt động thực tiễn chính trị đã là một giá trị quan trọng của VHCT.
Nói cách khác, tính nhân văn, nhân đạo của phương pháp và thủ đoạn chính trị
chính là một giá trị của VHCT.
Ba là, các sản phẩm chính trị bao gồm các giá trị vật thể và phi vật thể. Trong
đó, các giá trị vật thể bao gồm: các mô hình tổ chức đời sống chính trị; các kiểu nhà
nước; các phương pháp, cách thức bầu cử và tham dự vào quá trình hình thành các
quyết sách chính trị của nhà nước; các thể chế, thiết chế chính trị; các phương tiện,
công cụ bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của một nền chính trị…Các giá trị phi vật
thể bao gồm: các tri thức chính trị của nhân loại; các học thuyết, lý thuyết chính trị,
tôn giáo; các hệ tư tưởng; các lý tưởng, niềm tin chính trị; các chuẩn mực và truyền
thống chính trị…
2.1.2.3. Cấu trúc văn hóa chính trị Hồ Chí Minh
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là VHCT cá nhân với tính cách là lãnh tụ
chính trị của một dân tộc. Do vậy, cấu trúc của VHCT Hồ Chí Minh phản ánh
mối quan hệ giữa các yếu tố có tính chỉnh thể về tư tưởng và hành vi chính trị
gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Người, biểu hiện qua nhân cách
và các di sản chính trị mà Người để lại trong đời sống chính trị hiện thực.
43
Trong đó, các giá trị tư tưởng với ý nghĩa là thành tố của VHCT Hồ Chí
Minh biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, những tri thức chính trị
bao gồm, sự am hiểu về truyền thống VHCT của dân tộc, các học thuyết chính
trị, tôn giáo biêu biểu trên thế giới và đặc biệt là học thuyết Mác - Lênin. Thứ
hai, những tri thức về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới như, cách mạng tư
sản của Mĩ, của Pháp và cách mạng vô sản Nga. Thứ ba, những tri thức về bản
chất của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và về thực trạng phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc; phong
trào đấu tranh GPDT ở các thuộc địa và phong trào cách mạng của nhân dân
Việt Nam. Thứ tư, những tác phẩm lý luận quan trọng như: Bản yêu sách tám
điểm của nhân dân An Nam (1919); Bản án chế độ thực dân Pháp (1925);
Đường cách mệnh (1927); Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930); tuyên ngôn
độc lập (1945); Sửa đổi lối làm việc (1947); Dân vận (1949); Thường thức
chính trị (1953); Đạo đức cách mạng (1955, 1958); Di chúc (1969)… ngoài ra
còn nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết khác đều là những di sản tinh thần đậm
chất nhân văn, nhân đạo, hướng tới hiện thực hóa một nền chính trị vì sự phát
triển tự do, bình đẳng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng xã hội.
Các giá trị của hành vi chính trị Hồ Chí Minh biểu hiện ở: Sự dấn thân
vào quá trình đấu tranh chính trị đầy hiểm nguy, gian khổ vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng, chủ
động khắc phục khó khăn để sống, để học tập và làm cách mạng; luôn đề cao
và tôn trọng dân, lắng nghe dân, học hỏi dân; luôn tự giác nêu gương về đạo
đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lối sống giản dị, khiêm
tốn, không tự ti cũng không tự cao, tự đại, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo,
tiếng nói, màu da trong giao lưu, hợp tác và đoàn kết quốc tế. Những hành vi
với tính cách là yếu tố cấu thành VHCT Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khoan
dung, độ lượng, tôn trọng các giá trị khác biệt, tôn trọng nhân phẩm con người
kể cả những đối thủ chính trị hay binh lính đối phương.
44
Một trong những yếu tố cấu thành VHCT Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở
cách thức mà Người sáng tạo ra các sản phẩm với tính cách là các giá trị tư
tưởng và giá trị hành vi chính trị. Cách thức đó là, luôn xuất phát từ thực tiễn,
tôn trọng thực tiễn, lấy mục tiêu thay đổi diện mạo và đời sống chính trị của
nhân dân Việt Nam làm bảng tham chiếu và chỉ đạo mọi tư tưởng và hành động
chính trị. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, hành vi chính trị có giá trị nhất đó là, việc gì
có lợi cho dân thì hết sức làm, còn việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Hồ
Chí Minh xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và nhằm biến đổi hiện thực chính trị
ở Việt Nam, do đó, mọi lý thuyết, học thuyết chỉ là phương tiện, mọi kinh
nghiệm chỉ để tham khảo, mọi sự kế thừa, vận dụng lý luận và kinh nghiệm đều
phải được phát triển. Nghĩa là, Hồ Chí Minh xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn
để vận dụng, sáng tạo và phát triển lý luận chứ không xuất phát từ lý luận để
bắt thực tiễn phải khuôn theo. Thực tế cho thấy, mặc dù là một người cộng sản,
chịu sự chi phối của Quốc tế Cộng sản và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng nhưng không phải lúc nào Người cũng vận dụng y nguyên các quan điểm
của Quốc tế Cộng sản kể cả khi tổ chức này đang còn chi phối triệt để phong
trào Cộng sản và công nhân quốc tế.
Tóm lại, cấu trúc của VHCT Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống các
giá trị tư tưởng và hành vi chính trị được sản sinh ra bằng ý chí, nghị lực và
cách thức riêng của Người.2.2. CÁCH TIẾP CẬN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.2.1. Cách tiếp cận văn hóaCách tiếp cận là cách thức mà chủ thể nghiên cứu lựa chọn nhằm đến
được với đối tượng, trên cơ sở đó sử dụng các phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu cụ thể để nhận thức đối tượng. Do vậy, đối tượng nghiên cứu
khác nhau thì có cách tiếp cận khác nhau. Cách tiếp cận đúng, phù hợp với đối
tượng sẽ tạo điều kiện cho nhận thức đến gần hơn với bản chất của sự vật và
ngược lại. Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, người nghiên cứu có thể lựa
chọn và sử dụng một hay nhiều cách tiếp cận cùng lúc. Theo cách hiểu chung
nhất, văn hóa là một khái niệm dùng để chỉ mọi giá trị mang tính Chân, Thiện,
45
Mĩ mà loài người sáng tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển. Vì vậy, văn
hóa là vấn đề rộng lớn và phức tạp, nó liên quan đến mọi hoạt động sống của
con người, nó bao gồm cả tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân
loại, nó mang cả dấu ấn của các yếu tố tạo nên môi trường sống của con người
như điều kiện tự nhiên, địa hình, thời tiết, khí hậu…Với tính cách là một chỉnh
thể tồn tại gắn liền với con người và xã hội, văn hóa có nguồn gốc hình thành,
có cấu trúc, chức năng, giá trị và ý nghĩa đối với mỗi cá nhân và cả cộng đồng
trong những lĩnh vực khác nhau của hoạt động sống. Do đó, để nhận thức đầy
đủ mọi chiều cạnh của văn hóa, phải cần đến nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Trong phạm vi của luận án này, với mục đích nghiên cứu là làm rõ mối liên hệ
giữa tính cộng đồng với tính cá nhân của văn hóa và vai trò của cá nhân, đặc biệt là
của các lãnh tụ chính trị trong việc đóng góp vào văn hóa của cộng đồng, của quốc
gia dân tộc và của cả nhân loại. Do vậy, tác giả lựa chọn và sử dụng một số cách
tiếp cận văn hóa chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tiếp cận văn hóa với tính cách là những giá trị được sản sinh ra trong
quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Với cách tiếp cận này, văn hóa được
nhìn nhận ở phạm vi rộng nhất cả về không gian và thời gian, gắn liền với khái
niệm con người, là thuộc tính của con người. Tức là, khi nào và ở đâu có con người
thì ở đó có văn hóa, và văn hóa là tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống con người
và được con người tạo ra một cách có ý thức thông qua hoạt động thực tiễn. Như
vậy, khái niệm văn hóa cần được tiếp cận từ các khái niệm liên quan.
Trong mối liên hệ với văn hóa, con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của
văn hóa ở những cấp độ và tính chất khác nhau. Ở cấp độ rộng nhất, con người
mang tính khái quát và trừu tượng, với vai trò chủ thể đã liên tục làm giàu các giá trị
văn hóa và làm cho văn hóa có tính nhân loại trong đó chính bản thân con người với
sự hoàn thiện không ngừng cũng là một giá trị của văn hóa. Ngược lại, với tư cách
là sản phẩm của văn hóa, con người là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là vật
mang văn hóa đặc biệt, có khả năng tự tái tạo văn hóa. Thực tế cho thấy, nhiều giá
trị có thể bị mất đi bởi những biến cố khách quan hoặc chủ quan, nhưng còn con
46
người thì văn hóa vẫn tồn tại và phát triển. Lịch sử phát triển của nền văn hóa Việt
Nam đã cho thấy, sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, với thủ đoạn đồng hóa của
phong kiến phương Bắc, nhiều giá trị văn hóa cả vật thể và phi vật thể của dân tộc
đã bị phá hủy, nhưng con người Việt Nam còn, cho nên nền văn hóa của dân tộc
Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển đến ngày nay. Ở cấp độ quốc gia, con người
mang tính tập thể và cộng đồng, đây chính là sản phẩm của văn hóa tổ chức. Nhờ
có văn hóa mà con người biết tổ chức, liên kết cộng đồng từ gia đình, thị tộc, bộ lạc,
đến quốc gia dân tộc và các tổ chức quốc tế…những sáng tạo của chủ thể văn hóa
với tính cách cộng đồng đã tạo nên tính dân tộc và bản sắc văn hóa của cộng đồng,
dân tộc và đặc trưng văn hóa của các tổ chức. Ở cấp độ nhỏ nhất, con người mang
tính cá nhân. Với tính chất này, văn hóa là nguồn gốc xã hội tạo nên con người cụ
thể, làm cho mỗi cá nhân không chỉ có một nhân cách văn hóa nhất định, là những
biểu hiện sinh động của văn hóa mà còn là nhân tố tạo thành chủ thể của văn hóa.
Không có con người với tính cách cá nhân liên kết lại với nhau trong không gian sẽ
chẳng có con người mang tính tập thể hay cộng đồng. Không có nhiều tập thể, cộng
đồng liên kết với nhau trong thời gian sẽ không có con người mang tính khái quát,
trừu tượng. Những phân tích trên đây đòi hỏi, trong nghiên cứu văn hóa, cùng với
việc quan tâm đến tính xã hội, tính cộng đồng, không thể bỏ qua hoặc coi nhẹ vai
trò của cá nhân, đặc biệt là những cá nhân kiệt xuất, những người có vai trò to lớn
đối với sự phát triển của văn hóa.
Trong mối liên hệ giữa con người và văn hóa, không thể không nhắc đến
tự nhiên và hoạt động thực tiễn. Bởi lẽ, tự nhiên là tính thứ nhất so với văn hóa,
là nguồn gốc của văn hóa. Tự nhiên vận động tạo ra con người, ngược lại con
người bằng hoạt động thực tiễn tác động vào tự nhiên để tạo ra những giá trị
đáp ứng nhu cầu của chính mình. Thực tế cho thấy, tự nhiên vô cùng phong
phú, đa dạng với những vùng miền khác nhau, ở những giai đoạn lịch sử khác
nhau, điều đó làm cho văn hóa vừa có tính lịch sử, vừa có tính dân tộc và tính
địa lý. Như vậy, hoạt động thực tiễn là cầu nối giữa con người với tự nhiên, có
con người và tự nhiên mà thiếu hoạt động thực tiễn sẽ không có văn hóa. Mặt
47
khác, hoạt động thực tiễn cũng có quá trình vận động, phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Hoạt động sẽ tạo ra văn hóa, nhưng bản thân
hoạt động cũng là văn hóa, vì nó không có sẵn trong tự nhiên mà phải do con
người tự sáng tạo ra. Qua những phân tích trên đây thấy rằng, văn hóa không
chỉ là sản phẩm mà còn là quá trình và quy trình làm ra sản phẩm đó.
Thứ hai, tiếp cận văn hóa từ tính chất Chân, Thiện, Mĩ và tính chuẩn mực của
các giá trị mà con người tạo ra. Giá trị, theo cách hiểu chung nhất, là tính có ích của
một sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, giá trị vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ
quan. Bên cạnh tính khách quan, một sự vật, hiện tượng được cho là có ích hay
không lại phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người đánh giá. Vì vậy, một sự vật
thậm chí được cho là có ích, đáp ứng mục đích của nhóm người này lại phản lại
mục đích của nhóm người khác. Do đó, không phải tất cả mọi cái được cho là có
giá trị đều là văn hóa, để giới hạn và nhận diện cho rõ thì chỉ những giá trị nào đáp
ứng được tiêu chuẩn Chân, Thiện, Mĩ, được nhiều người thừa nhận và chia sẻ mới
là văn hóa. Tức là những giá trị đó phải có tính nhân văn, nhân đạo, vì sự phát triển,
tiến bộ của con người, của đồng loại, đáp ứng lợi ích của bản thân hay nhóm người
này nhưng không xâm hại đến lợi ích của cá nhân hay nhóm người khác.
Bên cạnh các tiêu chí Chân, Thiện, Mĩ, các giá trị do con người sáng tạo ra
còn được đánh giá bằng các chuẩn mực văn hóa. Chuẩn mực là sự kết tinh của giá
trị, là những khuôn mẫu định sẵn để làm thước đo thang bậc và đánh giá mức phổ
quát của các giá trị. Việc khái quát các giá trị thành chuẩn mực cũng là một sáng tạo
văn hóa. Chuẩn mực cũng có tính lịch sử, tính giai cấp và tính chủ quan. Thông
thường, các giá trị được đánh giá bằng các chuẩn mực để xem xét tính hợp chuẩn
hay lệch chuẩn của giá trị ấy. Tuy nhiên, do tính lịch sử và tính chủ quan của nó mà
trong những điều kiện cụ thể một số chuẩn mực cũ sẽ không còn phù hợp và việc
phá bỏ, thay thế các chuẩn mực ấy cũng mang tính văn hóa. Chẳng hạn, cùng là
chuẩn mực đạo đức “Trung”, “Hiếu” nhưng trong quan niệm của đạo đức cách
mạng Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với trong quan niệm của đạo đức Nho giáo.
Như vậy, khái niệm chuẩn mực luôn gắn liền với khái niệm văn hóa và là hình thức
48
biểu hiện tập trung nhất của văn hóa. Tóm lại, cách tiếp cận này không chỉ cho phép
nhìn nhận và phân loại các giá trị nào là văn hóa, các giá trị nào không phải là văn
hóa; đánh giá được các thang bậc giá trị mà còn vạch trần thủ đoạn ngụy văn hóa,
áp đặt quan điểm giá trị của một nhóm người hay một quốc gia dân tộc nào đó cho
các quốc gia, dân tộc khác.
Thứ ba, tiếp cận văn hóa từ tính sáng tạo, tính biểu tượng và tính hệ thống của
các giá trị. Tính sáng tạo là yếu tố làm nên đặc trưng của nhân cách văn hóa và bản
sắc của mỗi nền văn hóa, là điều kiện cho văn hóa phát triển. Không có tính sáng
tạo, văn hóa sẽ nghèo nàn, đơn điệu và thiếu sức sống. Tính sáng tạo một mặt biểu
hiện ở sự tiếp biến các giá trị văn hóa của các cộng đồng, các quốc gia dân tộc khác
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển của dân tộc mình. Mặt khác, quan trọng hơn cả là việc tạo ra những giá trị văn
hóa mới đáp ứng đòi hỏi của thực tế và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Cùng với tính sáng tạo, tính biểu tượng cũng là một đặc trưng của văn
hóa. Biểu tượng là cái được gắn vào đó các ý niệm, các khái niệm, các tư tưởng
về một sự vật, hiện tượng mà con người mong muốn nó trong thực tiễn cuộc
sống. Thực tế cho thấy, mọi hoạt động sáng tạo ra các giá trị của con người đều
bắt nguồn từ những tư tưởng, ý nghĩa nhất định, hoặc nhằm đạt tới tư tưởng và
ý nghĩa nào đó. Tư tưởng và ý nghĩa có nguồn gốc từ thực tiễn nhưng luôn có
yêu cầu cao hơn thực tiễn. Do đó, con người thường lựa chọn những hình ảnh
khách quan hoặc chủ quan và gắn cho nó một ý nghĩa, tư tưởng hay khái niệm
để nó trở thành những giá trị chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Biểu tượng văn hóa
thường có giá trị tinh thần hơn là giá trị vật chất. Bên cạnh tính sáng tạo và tính
biểu tượng, văn hóa còn có tính hệ thống. Tính hệ thống của văn hóa không
đồng nghĩa với tính bộ phận của nó. Bởi vì, văn hóa không phải là phép cộng
đơn thuần của các giá trị bộ phận, mà ngược lại, các giá trị của một bộ phận
nào đó là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Tóm lại, các cách tiếp cận trên
đây mặc dù chưa phải là toàn bộ nhưng đã cho phép trả lời các câu hỏi liên
quan đến mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu rằng: văn hóa là cái gì, được hình
thành từ đâu, bao gồm những thành tố nào, có những tính chất và đặc trưng gì.
49
2.2.2. Cách tiếp cận văn hóa chính trị
Cách tiếp cận VHCT là việc lựa chọn cách thức nhằm thu nhận những tri thức
nhất định về các giá trị do con người sáng tạo ra và sử dụng những giá trị ấy trong
một lĩnh vực hoạt động sống hết sức phổ biến của xã hội loài người, đó là lĩnh vực
chính trị. Thực tế cho thấy, khi xã hội có phân hóa giai cấp cũng là lúc xuất hiện
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp xung quanh vấn đề nhà nước. Cuộc đấu tranh đó
trước hết để mỗi nhà nước, trong khi sử dụng quyền lực công phục vụ lợi ích giai
cấp mình phải đồng thời bảo đảm lợi ích của các giai cấp khác trong xã hội. Khi
một nhà nước nào đó không bảo đảm được sự cân bằng giữa hai chức năng này
trong một giới hạn cho phép, lúc đó cách mạng xã hội sẽ nổ ra và giai cấp tiên tiến
nhất, có nguồn lực mạnh nhất của thời đại sẽ giành quyền kiểm soát, điều hành và
sử dụng nhà nước. Đây chính là những chu trình chính trị vận động theo hình xoáy
ốc, diễn ra bằng những lần phủ định biện chứng của các mô hình nhà nước.
Trong các công trình nghiên cứu của giới khoa học chính trị phương Tây nổi
lên hai cách tiếp cận VHCT tiêu biểu được coi là tiền đề lý luận cho các nghiên cứu
VHCT tiếp theo. Cụ thể là:
Thứ nhất, tiếp cận dựa trên lý thuyết về các định hướng chính trị của chủ thể.
Đại biểu là hai nhà khoa học Mĩ là Gabriel A. Almond và Sidney Verba, với công
trình nghiên cứu có tiêu đề "The Civic Culture. Political Attitudes and Democracy
in Five Nations”, do trường đại học Princeton ấn hành lần đầu vào năm 1963.
Trong cách tiếp cận này, các tác giả phân khách thể chính trị ra thành bốn loại, đó
là: hệ thống chính trị với tính cách là một chỉnh thể; các yếu tố đầu vào của quá
trình chính trị như các kênh, các thiết chế cung cấp thông tin; các yếu tố đầu ra của
quá trình chính trị như các quyết định, chính sách, pháp luật và bản thân công dân
với nghĩa là các chế định và quan niệm về vai trò của công dân đối với chính trị.
Với mỗi loại khách thể chính trị, VHCT sẽ thể hiện ở ba loại định hướng đó là: định
hướng tri nhận, tức là nhận thức về nó; định hướng cảm nhận, tức là thái độ đối với
nó và định hướng đánh giá, tức là những phán xét về nó.
50
Như vậy, cách tiếp cận này đã đưa ra những công cụ bảo đảm tính
khách quan trong nghiên cứu so sánh các nền VHCT, cho phép đánh giá sự
tương hợp hay không tương hợp giữa VHCT với một thể chế chính trị cụ
thể. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế nhất định: một là, mới chỉ nhìn
nhận VHCT ở phạm vi quốc gia, dân tộc, do đó chưa thể đưa ra một định
nghĩa tổng quát về VHCT theo nghĩa rộng; hai là, mới chỉ nhìn VHCT ở
góc độ nhận thức và ứng xử của người dân nói chung đối với quá trình
chính trị hiện tại nên chưa thấy được nguồn gốc và tính chất của VHCT.
Thứ hai, tiếp cận VHCT dựa trên lý thuyết lựa chọn chính trị, đại biểu
là Aaron Wildavsky đã đưa ra trong tác phẩm: Choosing Preferences by
Constructing Institutions: A cultural Theory of Preference Formation. Với
cách tiếp cận này, VHCT được coi là tính chất chủ quan của việc lựa chọn
giữa các phương án chính trị mà trong những điều kiện nhất định, các
phương án không phải là vô hạn. Tức là, cũng giống như cách tiếp cận định
hướng chính trị, tác giả coi VHCT là chiều cạnh chủ quan của hệ thống
chính trị và quá trình chính trị. Cách tiếp cận lựa chọn chính trị đã bổ sung
cho cách tiếp cận định hướng chính trị những công cụ hữu hiệu để nhận
diện nguồn gốc và tính chất của VHCT. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chủ
yếu đề cập đến vai trò của nhóm mà chưa cung cấp một cách nhìn tổng
quát hơn về VHCT.
Qua phân tích một số cách tiếp cận nêu trên thấy rằng, để nhìn nhận VHCT
một cách khái quát nhất, cần bổ sung một số cách tiếp cận sau đây:
Một là, tiếp cận VHCT từ văn hóa và tính hệ thống của văn hóa. Thực ra đây
là việc thu hẹp phạm vi tiếp cận của văn hóa. Cách tiếp cận này cho phép nhìn nhận
VHCT với tính cách là những giá trị được sáng tạo ra trong lĩnh vực chính trị, là
một trong nhiều chiều cạnh của văn hóa, là một tiểu hệ thống trong tính chỉnh thể hệ
thống của văn hóa. Theo đó, VHCT thực chất là tính văn hóa của chính trị, là văn
hóa hòa quyện vào và biểu hiện ra trong tất cả các khâu, các bước của quá trình
chính trị, hay nói cách khác, là chính trị có văn hóa. Tức là, các yếu tố của chính trị
51
như: con người chính trị; đảng chính trị; nhà nước; mục tiêu, lý tưởng chính trị; quy
trình, phương pháp chính trị và các sản phẩm của chính trị là các chủ trương, đường
lối, các quyết sách chính trị phải hướng tới các giá trị Chân, Thiện Mĩ, vì sự phát
triển, tiến bộ của số đông quần chúng.
Hai là, tiếp cận VHCT từ tính giai cấp của văn hóa. Cách tiếp cận văn hóa
nói chung đã cho phép khẳng định rằng, văn hóa ra đời cùng với con người và
trong một thời gian dài khi xã hội chưa có phân hóa giai cấp thì văn hóa chưa
có tính giai cấp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, khi chưa có giai cấp thì
VHCT chưa xuất hiện. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển của xã hội, trước
nhu cầu phối hợp hành động chung để nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực
tiễn, con người đã liên kết lại với nhau và tổ chức thành các cộng đồng. Hình
thức cộng đồng phát triển cao và hoàn thiện nhất là quốc gia, dân tộc. Cùng với
sự phát triển của các hình thức liên kết đã diễn ra sự phân hóa giai cấp và dẫn
đến sự xuất hiện của nhà nước. Sự ra đời của giai cấp và nhà nước là sản phẩm
của sự sáng tạo văn hóa trong lĩnh vực tổ chức xã hội, là bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Ngay khi giai cấp và nhà nước ra đời thì toàn bộ những sáng tạo văn hóa
của con người đều mang tính giai cấp. Bởi vì, khi đó con người với tính cách là
động vật chính trị bắt đầu xuất hiện và dù ở giai cấp nào, con người cũng bị chi
phối bởi chính trị, giai cấp và nhà nước. Bản thân nhà nước ra đời từ mâu thuẫn
giai cấp trong xã hội và dù có mang bản chất của giai cấp nào thì nhà nước
cũng luôn bao hàm trong nó những mâu thuẫn nội tại đó là: mâu thuẫn giữa
nhu cầu duy trì sự tồn tại lâu dài của mình với sự đấu tranh không ngừng nghỉ
của các giai cấp khác (các nhà nước tiền vô sản); mâu thuẫn giữa nhu cầu ngày
càng hoàn thiện hơn để đưa xã hội tiến tới chỗ không còn giai cấp và nhà nước
với sự chống phá quyết liệt của các giai cấp phi vô sản (nhà nước vô sản). Thực
tế đó đã là tiền đề để các nhà kinh điển, nhà văn hóa chính trị của chủ nghĩa
Mác - Lênin dự báo rằng, nhà nước chỉ là một hiện tượng lịch sử, nó sẽ tiêu
vong cùng với sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, sự tồn tại của giai cấp, nhà
52
nước là lâu dài và không thể phủ nhận vai trò của nó trong quá trình phát triển
của nhân loại. Do vậy, toàn bộ những sáng tạo, những giá trị mà con người đạt
được trong việc giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước là một lĩnh vực biểu
hiện hết sức quan trọng của văn hóa và thuộc phạm trù VHCT. Cách tiếp cận
này cho thấy, VHCT không phải là của một giai cấp mà là của tất cả các giai
cấp và VHCT cũng mang tính lịch sử. Điều này đòi hỏi, trong nghiên cứu
VHCT phải có quan điểm giai cấp, quan điểm lịch sử, cụ thể và phát triển. Để
nhìn nhận một giá trị VHCT nào đó phải đặt nó trong một bối cảnh lịch sử cụ
thể, gắn với mục tiêu, lý tưởng và tính chất của giai cấp đã sản sinh ra nó.
Ba là, tiếp cận VHCT từ mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị. Như trên
đã phân tích, trong xã hội có sự tồn tại của chính trị, giai cấp và nhà nước thì
mọi hoạt động của con người đều bị chi phối bởi chính trị và đều xoay quanh
chính trị. Do vậy, văn hóa không thể tách rời chính trị, nó phải phục vụ chính
trị. Vấn đề là ở chỗ văn hóa phục vụ chính trị nào, hoặc là phục vụ cho việc
duy trì sự tồn tại của giai cấp thống trị, bóc lột, hoặc là phục vụ cho việc thiết
lập và hoàn thiện một nền chính trị mới tiến bộ hơn. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sự
nghiệp văn học phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể giai cấp
vô sản, phải thành “một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc” trong bộ máy dân
chủ - xã hội vĩ đại, thống nhất, do toàn đội tiên phong giác ngộ của toàn bộ giai cấp
công nhân điều khiển”[46, tr.123]. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
khi bàn về về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, Hồ Chí Minh đã nói: “Văn
hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở
trong kinh tế và chính trị”[60, tr.246]. Nghĩa là, theo Người, văn hóa không nên và
không thể phi chính trị, đứng ngoài chính trị hoặc độc lập với chính trị. Chính trị ở
đây theo quan điểm Hồ Chí Minh là chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc (ĐLDT)
gắn liền với CNXH, tự do, công bằng, bình đẳng và sự phát triển toàn diện của mỗi
cá nhân. Văn hóa ở trong chính trị tức là, văn hóa thấm sâu vào chính trị trở thành
mục tiêu và động lực của chính trị, bảo đảm cho tính nhân văn, nhân đạo, tính
53
Chân, Thiện, Mĩ trong các chủ trương, đường lối chính trị của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước. Như vậy, cách tiếp cận này cho phép nhìn nhận một cách
khách quan, khoa học về VHCT, tránh rơi vào thái độ quá tả hoặc quá hữu trong
xem xét các giá trị chính trị.
2.2.3. Cách tiếp cận văn hóa chính trị cá nhânCách tiếp cận văn hóa và VHCT đã cho thấy những tính chất, cấp độ khác
nhau của văn hóa nói chung, VHCT nói riêng, cũng như cho thấy vai trò của cá
nhân trong quá trình hình thành, phát triển của văn hóa. Mỗi cá nhân đều vừa là
chủ thể, vừa là khách thể của văn hóa. Điều đó đặt ra yêu cầu, khi nghiên cứu
sự phát triển của văn hóa không thể bỏ qua vai trò của cá nhân, đặc biệt là trong
sự phát triển của VHCT. Trong xã hội có giai cấp, mỗi cá nhân thuộc các giai
cấp khác nhau dù muốn hay không, cũng luôn gắn liền với chính trị và bị chi
phối bởi chính trị. Tuy nhiên, do sự khác nhau về địa vị giai cấp mà họ đang là
thành viên dẫn đến sự khác nhau về cách ứng xử với chính trị.
Do vậy, tiếp cận VHCT cá nhân, trước hết phải bắt đầu từ VHCT. Bởi vì, mỗi
cá nhân vừa là một thành tố chủ thể của VHCT, vừa là nơi biểu hiện của một nền
VHCT. Việc nhìn nhận vị trí, vai trò của cá nhân trong văn hóa nói chung, VHCT
nói riêng là một tất yếu, thể hiện quan điểm biện chứng và cụ thể trong nghiên cứu
văn hóa. Điều này không có nghĩa là, khi nghiên cứu VHCT, buộc phải khảo sát
đặc tính chính trị của tất cả các cá nhân, mà chính là để người nghiên cứu nhìn nhận
đúng đắn, sâu sắc hơn những đặc điểm VHCT của các nhóm hay cộng đồng, dân
tộc dưới sự tác động của một cá nhân, người đứng đầu nào đó. Trong tổng thể các
cá nhân với tính cách là chủ thể của văn hóa, đương nhiên sẽ có những cá nhân do
năng lực, khả năng, ý chí, quyết tâm của mình mà họ chiếm lĩnh được nhiều giá trị
xã hội hơn, nên họ có uy tín và quyền lực hơn những cá nhân khác; thậm chí, họ có
thể thu phục, thuyết phục, tác động, ảnh hưởng và chi phối những cá nhân khác.
Mức độ, phạm vi, số lượng các cá nhân bị chi phối, ảnh hưởng bởi một người nào
đó luôn tỷ lệ thuận với năng lực của người đó. Một cá nhân có thể là người chi phối
hành động chính trị của một nhóm, một cộng đồng, một tộc người, một cuộc biểu
tình, thậm chí là một cuộc cách mạng xã hội.
54
Thực tế cho thấy, trong những hành vi chính trị có tính cộng đồng đều được
hiện thực hóa thông qua hành vi và sự tham dự của cá nhân. Tuy nhiên, vai trò
của từng cá nhân trong quá trình chính trị không ngang bằng nhau. Mỗi cá nhân
là một chỉnh thể của sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội. Do đó, mặc
dù có những điểm chung, nhưng mỗi cá nhân luôn có tính độc lập tương đối và
sự phát triển không đều giữa các cá nhân là một tất yếu khách quan. Vì vậy, mỗi
cá nhân đóng góp VHCT của mình vào VHCT của cộng đồng với những mức
độ, phạm vi khác nhau. Sự đóng góp đó có thể chỉ là việc đồng thuận, tin tưởng,
chia sẻ, bảo vệ và phát huy các giá trị về chính trị đã được cộng đồng thừa nhận
hay tỏ thái độ yêu, ghét đối với một thể chế chính trị nhất định. Tuy nhiên, ở cấp
độ cao hơn, một cá nhân có thể đóng góp những giá trị mới về lý luận và thực
tiễn chính trị, góp phần làm thay đổi về chất những giá trị truyền thống và tạo ra
bước phát triển mới trong đời sống chính trị hiện thực.
Mặt khác, VHCT cá nhân cần được tiếp cận từ các yếu tố cấu thành
VHCT. Nếu VHCT được cấu thành từ con người chính trị, hệ tư tưởng chính
trị, chuẩn mực chính trị và các thiết chế chính trị thì VHCT cá nhân bao gồm
các yếu tố như nhận thức chính trị, hoạt động chính trị thực tiễn và nhân cách
chính trị. Trong đó, tri thức chính trị là những hiểu biết về các lý thuyết, học
thuyết chính trị, các kinh nghiệm về đấu tranh chính trị, tham dự chính trị và
các lý thuyết, kinh nghiệm về lãnh đạo, quản lý… Hoạt động chính trị thực tiễn
là khả năng và cách thức tham dự và dấn thân vào chính trị, tham gia vào việc
xây dựng và hoàn thiện một thể chế chính trị nhất định. Nhân cách chính trị cá
nhân là toàn bộ những yếu tố như lý tưởng, niềm tin, động cơ, thái độ và phong
cách ứng xử với một thể chế chính trị cụ thể. Trong xã hội có giai cấp, nếu ở
tầm vĩ mô, văn hóa phải ở trong chính trị, thấm vào chính trị, mang bản chất
của giai cấp thống trị, phục vụ cho mục tiêu, lý tưởng của giai cấp ấy, thì ở tầm
vi mô, con người chính trị trước hết phải là một nhân cách văn hóa. VHCT cá
nhân biểu hiện rõ nét ở các lãnh tụ chính trị, các chủ thể lãnh đạo, quản lý.
55
2.2.4. Cách tiếp cận văn hóa chính trị Hồ Chí Minh
Việc thừa nhận vị trí, vai trò của cá nhân trong VHCT đặt ra sự cần thiết phải
nghiên cứu VHCT của những nhân vật tiêu biểu, những lãnh tụ chính trị. Mặc dù
vậy, việc nhìn nhận VHCT của cá nhân như một đối tượng nghiên cứu độc lập của
khoa học chính trị vẫn chưa có sự nhất trí cao, do đó chưa có nhiều các công trình
nghiên cứu về VHCT với tính cách là cá nhân hay lãnh tụ chính trị. Hồ Chí Minh
là lãnh tụ chính trị vĩ đại, nhà văn hóa lớn của Việt Nam, Người không chỉ là
nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là nhà hoạt động thực tiễn kiệt xuất. Người không
chỉ sáng tạo lý luận mà còn để lại những chuẩn mực về phong cách ứng xử và
tham dự chính trị. Vì vậy, VHCT Hồ Chí Minh cần được tiếp cận nghiên cứu
từ những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh từ mối quan hệ giữa cá nhân, dân
tộc và thời đại.
Thực tế cho thấy, mỗi cá nhân không thể tách rời cộng đồng, quốc gia, dân
tộc. Bởi lẽ, mỗi cá nhân chỉ có thể chứng tỏ sự tồn tại của mình trong mối quan hệ
với cộng đồng bằng việc đáp ứng các chuẩn mực văn hóa và đóng góp vào sự phát
triển của cộng đồng. Do đó, mỗi cá nhân sẽ mang dấu ấn và bản sắc văn hóa của
cộng đồng mà mình được sinh ra. Hồ Chí Minh là người con của dân tộc Việt Nam,
là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam. Người ra đi tìm đường cứu nước và hoạt
động cách mạng từ thực tiễn chính trị Việt Nam và nhằm thay đổi diện mạo đời
sống chính trị của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh cụ thể của chính trị thế giới.
Vì vậy, khi nghiên cứu VHCT của Người không thể tách rời con người chính trị Hồ
Chí Minh với truyền thống gia đình, đặc trưng văn hóa của quê hương và thực tiễn
bối cảnh chính trị trong nước và quốc tế. Tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh từ mối quan
hệ giữa cá nhân với dân tộc và thời đại, cho phép xác định đúng nguồn gốc, cơ sở
hình thành, phát triển và tầm vóc của những giá trị chính trị mà Người sáng tạo ra.
Qua đó khẳng định, Hồ Chí Minh là nhà chính trị, lãnh tụ chính trị của nhân dân
Việt Nam nhưng có tầm vóc quốc tế.
56
Thứ hai, tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh từ VHCT và VHCT của cá nhân.
Bởi vì, Hồ Chí Minh là một cá nhân, con người chính trị cụ thể. Như trên
đã trình bày, VHCT là những giá trị, chuẩn mực được hình thành trong quá
trình đấu tranh giai cấp. Do vậy, VHCT Hồ Chí Minh cũng phải được xem xét
gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, cụ thể là gắn liền với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó làm rõ thực chất VHCT Hồ Chí Minh
và đánh giá những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người đã đóng góp cho thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, tiếp cận từ VHCT của cá nhân để làm
rõ cấu trúc của VHCT Hồ Chí Minh. Cụ thể là, làm rõ các yếu tố như nhận
thức chính trị, hành vi chính trị và nhân cách chính trị của Người.
Thứ ba, tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh từ thực tiễn cách thức hoạt động chính
trị của Người.
Hồ Chí Minh dấn thân vào sự nghiệp cách mạng từ thực tiễn chính trị Việt
Nam, lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát và mục tiêu cuối cùng là cải biến
và thúc đẩy sự phát triển đời sống chính trị của nhân dân Việt Nam. Do vậy, ở Hồ
Chí Minh, các giá trị hành vi phong phú hơn các giá trị tư tưởng. Mặc dù, Người đã
để lại một di sản lớn các tác phẩm, các bài nói, bài viết không chỉ có giá trị lý luận
mà còn có giá trị văn học hết sức quý giá, nhưng những hành vi, ứng xử chính trị cụ
thể trong suốt cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Người mới là những giá trị và đóng
góp nổi bật, không chỉ cho các chủ thể chính trị lãnh đạo, quản lý mà cho cả dân tộc
Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới. Với Hồ Chí Minh, giữa lý luận và thực
tiễn hầu như không có khoảng cách, mà luôn gắn liền và đi đôi với nhau.
Theo Hồ Chí Minh, lý thuyết không có chức năng tự thân, mà chỉ có chức
năng duy nhất là phục vụ cho sự cải tạo và biến đổi hiện thực, bao gồm cả hiện
thực tự nhiên và hiện thực xã hội. Với đặc trưng về cách thức tham dự chính trị
của Hồ Chí Minh, một số chính khách nước ngoài đã cho rằng Hồ Chí Minh là
một nhà chính trị thực dụng. Nhận định này mang tính hạn hẹp nhưng không sai,
bởi lẽ sự thực dụng ở đây không vì lợi ích cá nhân mà vì lợi ích của quốc gia,
57
dân tộc, vì sự phát triển của phong trào Cộng sản, Công nhân quốc tế nói riêng
và cách mạng thế giới nói chung. Như vậy, với cách tiếp cận này sẽ chỉ ra được
sự khác biệt và những đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.
Tóm lại, VHCT Hồ Chí Minh với tính cách một chỉnh thể thì cách tiếp
cận phải là tổng hòa các phương pháp bảo đảm tính khoa học và khách quan để
đi đến các khái quát về nguồn gốc, bản chất, cấu trúc, đặc trưng, giá trị và ý
nghĩa VHCT của một cá nhân tiêu biểu trong lịch sử dân tộc và khả năng chia
sẻ các giá trị đó trong đời sống chính trị hiện nay.2.3. CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.3.1. Nền tảng văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và tinh hoa văn
hóa nhân loại
2.3.1.1. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
Lịch sử tồn tại và phát triển của bất kỳ quốc gia nào cũng đều ghi nhận
công lao to lớn, sự đóng góp vượt bậc của những anh hùng dân tộc, danh
nhân văn hóa và lãnh tụ chính trị của mình. Tuy nhiên, những danh nhân đó
bao giờ cũng mang đậm dấu ấn của một dân tộc, và mọi tư tưởng, hành
động, nhân cách của họ luôn chịu sự chi phối, tác động của nền văn hóa đã
sản sinh, nuôi dưỡng họ. Sở dĩ văn hóa Hồ Chí Minh nói chung, VHCT Hồ
Chí Minh nói riêng có được sức sống như hiện nay là bởi những giá trị đó ra
đời từ VHCT truyền thống Việt Nam và nhằm giải quyết vấn đề thực tiễn
của cách mạng Việt Nam. Những giá trị VHCT truyền thống của dân tộc với
tính cách là một trong những cơ sở tư tưởng, lý luận không thể thiếu cho
việc hình thành và phát triển VHCT Hồ Chí Minh bao gồm:
Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước và tính cộng đồng của quốc gia dân tộc.
Lịch sử đã cho thấy, để tồn tại và phát triển, ngay từ rất sớm, các thế hệ người
Việt đã phải quan tâm đến việc chế ước, cải tạo tự nhiên phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp. Đó là công việc mà một người, một nhà không thể làm nổi mà phải cần đến
sức mạnh tập thể. Mặt khác, không chỉ phải đoàn kết để đối phó với thiên nhiên
khắc nghiệt mà muốn giữ đất, giữ làng, Các thế hệ người Việt Nam còn phải đoàn
58
kết để chống giặc ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử. Thực trạng đó đòi hỏi phải
có một chính quyền tập trung, thống nhất, để tổ chức, điều hành các hoạt động
chung, chăm lo củng cố quốc phòng, lãnh đạo nhân dân đánh bại được các cuộc
xâm lăng của ngoại bang, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và thành quả lao động của nhân
dân. Nhu cầu này được hiện thực hóa trải qua một quá trình, khởi điểm từ Ngô
Quyền sau thắng lợi năm 938, mở ra thời kỳ ĐLDT sau hơn một nghìn năm Bắc
thuộc. Sau đó, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục sự nghiệp xây dựng chính quyền quân chủ tập
trung bằng công cuộc dẹp loạn mười hai sứ quân, tạo tiền đề cho chế độ quân chủ
tập trung được xác lập một cách đầy đủ từ khi Lý Công Uẩn lên ngôi và xây dựng
Kinh đô tại Thăng Long.
Kể từ đó, những triều đại có thể lãnh đạo nhân dân giữ vững giang sơn, bờ
cõi thì được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ và ngược lại. Vì vậy, lòng
trung thành của người Việt Nam là trung thành với lợi ích và sự độc lập, thống
nhất của quốc gia dân tộc chứ không đơn thuần là trung với Vua. Theo nhà
nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc, “Người Việt Nam là con người Tổ quốc
luận”[71, tr.35], tức là đối với mỗi con dân nước Việt, Tổ quốc lớn hơn tất cả.
Truyền thống yêu nước Việt Nam được bồi đắp qua nhiều thế hệ, đã trở thành
bản sắc của dân tộc, thành lẽ sống, bản tính tự nhiên của mỗi người dân, và có
thể so sánh một cách hình tượng như “Con cá sinh ra là biết bơi. Đối với con
người Việt Nam sinh ra là đã biết yêu nước”[71, tr.130].
Giá trị VHCT truyền thống trên đây là một trong những yếu tố quan trọng
tác động đến tâm hồn, nhân cách chính trị Hồ Chí Minh. Trước thực trạng đất
nước bị nô lệ, nhân dân đói khổ lầm than, Nguyễn Tất Thành đã sớm hình
thành chí hướng và nung nấu tư tưởng tìm một con đường để cứu nước, GPDT
và giúp đồng bào mình thoát khỏi cảnh thống khổ của thân phận mất nước. Để
thực hiện hoài bão cao cả đó, Người đã không quản ngại gian khổ, hy sinh khi
quyết định vượt đại dương đi tìm đường cứu nước chỉ với hành trang ban đầu
là lòng yêu nước và khát vọng ĐLDT, cái mà Người có được từ truyền thống
VHCT của dân tộc. Hành trang đó đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác -
59
Lênin là một tất yếu khách quan của lịch sử, và Người đã tin theo Lênin, quyết
định đi theo con đường cách mạng vô sản, thực hiện mục tiêu ĐLDT gắn liền
với CNXH. Người từng nói, “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa
phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”[65,
tr.563]. Như vậy, đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã có sự
phát triển mới về chất, yêu nước gắn liền với yêu CNXH.
Thứ hai, truyền thống đề cao vai trò của nhân dân, yêu nước gắn liền với
thương dân, lấy dân làm gốc.
Ở Việt Nam, “Nước - đất nước - Tổ quốc” là sự liên kết của nhiều làng xã, mà
làng xã là của dân, do dân lập nên. Làng xã là cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của
quốc gia, dân tộc; là đơn vị hành chính nhỏ nhất nhưng vững chắc nhất; là nơi cung
cấp cho chính quyền Trung ương sức người, sức của; là căn cứ địa của các cuộc
khởi nghĩa, địa bàn của các cuộc kháng chiến. Văn hóa làng xã là những giá trị
được hình thành trong quá trình giải quyết các mối quan hệ giữa cá nhân với nhau,
giữa cá nhân với tập thể, giữa làng này với làng khác, giữa làng với nước…và nó
trở thành cơ sở của văn hóa dân tộc.
Trải qua quá trình đấu tranh chống thiên tai, địch họa để tồn tại và phát
triển, nhân dân Việt Nam thấu hiểu sâu sắc sức mạnh của cộng đồng và mối
quan hệ chặt chẽ giữa Nhà với Làng, với Nước. Từ đó hình thành những triết
lý dân gian, những giá trị văn hóa bền vững của dân tộc. Vì vậy, tục ngữ có
câu (Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn;
Thương người như thể thương thân, hay, Một con ngựa đau cả tàu không ăn
cỏ). Về mối quan hệ và trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi gia đình với
quốc gia, dân tộc, tục ngữ có câu, (Nước lụt thì lút cả làng/ Đắp đê chống
lụt, thiếp chàng cùng lo; hay, Nước mất thì nhà tan)…
Truyền thống yêu nước, thương dân trong VHCT Việt Nam được biểu hiện ở
tư tưởng và hành động đề cao vai trò của nhân dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân của
các triều đại phong kiến. Thực tiễn đã chứng minh, toàn bộ sự hưng vong của một
triều đại phụ thuộc vào “lòng dân”. Các triều đại phong kiến tiến bộ, biết yêu
60
thương dân, trọng dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân, được nhân dân tin tưởng thì
cường thịnh; các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa có được những thành công
rực rỡ trong sự nghiệp chính trị, văn hóa, được nhân dân ghi lòng tạc dạ là do có
tình thương yêu nhân dân sâu sắc, vô bờ. Trong “Chiếu dời đô”, Lý Thái Tổ đã coi
ý Dân như ý Trời và việc tìm một nơi trung tâm của đất nước để định đô nhằm xây
dựng quốc gia thịnh vượng lâu dài cũng là mưu cho ích nước, lợi dân. Trần Quốc
Tuấn đã rút ra một trong những nguyên nhân lớn nhất của ba lần chiến thắng quân
Nguyên Mông là “vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức” và đưa ra
di huấn về kế sách giữ nước lâu dài rằng “Phải khoan thư sức dân để làm kế bền
gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”.
Tư tưởng yêu nước, thương dân của các triều đại phong kiến Việt Nam biểu
hiện tập trung nhất ở các nhà chính trị, nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, anh hùng dân
tộc, trong đó nổi bật là Nguyễn Trãi (1380 - 1442). Với tấm lòng tràn đầy tình
thương người, thương dân, Nguyễn Trãi luôn xem đó là phương châm của đạo trị
nước và là một tiêu chí quan trọng để quy chiếu mọi suy nghĩ và hành động của
triều đình. Vì vậy, khi được sai soạn nhạc, Nguyễn Trãi cho rằng, nhạc là cần thiết
trong trị nước ở thời bình, song, nhạc sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi nhân dân chưa
được no ấm, dân gian vẫn còn tiếng kêu than, nên Ông đã viết và tâu trong sớ rằng:
“Xin Bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn
than, như thế mới không mất cái gốc của nhạc”[50, tr.393].
Như vậy, tình yêu thương nhân dân chính là nguồn cội của những tư tưởng
nhân văn có sức sống vững bền cùng với thời gian. Đó chẳng những là nguyên
nhân của những thành tựu đỉnh cao trong chính trị, quân sự, trở thành một giá trị cơ
bản của VHCT Việt Nam truyền thống, mà còn là một trong những lý do để cắt
nghĩa sự tồn tại của bản sắc văn hóa Việt Nam sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc.
Giá trị trên đây của VHCT Việt Nam truyền thống là một trong những yếu
tố quan trọng trong việc hình, phát triển của VHCT Hồ Chí Minh nói chung,
chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh nói riêng. Người luôn tự hào rằng: “Dân ta
có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.”[60, tr.38].
61
Truyền thống đó không chỉ nuôi dưỡng tâm hồn, động lực thúc đẩy mà còn trở
thành niềm tin mãnh liệt để Hồ Chí Minh dấn thân vào sự nghiệp cách mạng
bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, bảo đảm cho thành công của sự nghiệp
cách mạng. Với những phẩm chất tốt đẹp được kết tụ rồi tỏa sáng từ con người
Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu người Mỹ Jules Archer đã viết: “Cụ Hồ Chí
Minh chắc chắn sẽ đi vào lịch sử với tư cách là một nhà yêu nước vĩ đại nhất,
một trong những con người kỳ diệu của thế kỷ.”[8, tr.11].
Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc vai trò chủ thể của nhân dân trong
mối quan hệ với đất nước. Vì vậy, trong tư tưởng và hành động cách mạng của
Người luôn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước gắn liền với thương dân, vì
dân. Quan điểm đó trở thành một chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh. Không chỉ thấu hiểu, cảm thông với nỗi khổ đau của đồng bào
mình, mà trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh còn nhận thấy,
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới cũng là những người
cùng khổ, cần phải đoàn kết chặt chẽ với nhau để trở thành đồng minh chống
lại kẻ thù chung là bọn thực dân, đế quốc. Vì thế, tình yêu thương con người
của Hồ Chí Minh bao hàm cả tính dân tộc, tính giai cấp và tính nhân loại, mang
bản chất của giai cấp công nhân, gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản.
Thứ ba, VHCT truyền thống Việt Nam luôn đề cao độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường.
Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc hơn một nghìn năm, trước âm mưu đồng
hóa của một kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần, các thế hệ người Việt Nam luôn
ý thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ nơi sinh sống, bảo vệ nhà
nước và các giá trị văn hóa của quốc gia. Vì không muốn người Việt trở thành
người Hán, không muốn đất đai và chính quyền của người Việt trở thành một
bộ phận của nước Hán, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ, lâu dài
để chống lại sự đồng hóa. Một mặt, để tạo sự khác biệt về mặt hình thể cũng
như về văn hóa so với người Hán, người Việt đã kiên quyết bám đất, bám làng,
duy trì tục nhuộm răng đen; xăm mình; đánh trống đồng để tế lễ; việt hóa chữ
62
Hán; giữ gìn tiếng nói riêng; lập đền thờ và duy trì các nghi lễ thờ cúng đối với
những người có công với làng, với nước. Mặt khác, trong suốt thời gian đó, các
cuộc khởi nghĩa có tính chất dân tộc để giành độc lập, khôi phục nền tự chủ
liên tiếp nổ ra. Sau những cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, ông cha ta đều xưng
vương, xưng đế, đặt mình ngang hàng với hoàng đế phương Bắc. Các cuộc
khởi nghĩa có lần thắng, có lúc thất bại nhưng qua đó ý chí độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường dân tộc ngày càng được bồi đắp.
Thời kỳ phong kiến dân tộc, bắt đầu từ Ngô Quyền, sau khi chiến thắng quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc, ý thức độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường của quốc gia đã được nâng cao một bước. Trong suốt
thời kỳ từ đầu thế kỷ thứ X đến giữa thế kỷ thứ XIX, tư tưởng và hành động độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc luôn được khẳng định và phát huy. Những
giá trị đó được biểu hiện nổi bật không chỉ trong những cuộc kháng chiến toàn dân
chống xâm lược dưới sự tổ chức và lãnh đạo của các triều đại phong kiến mà còn
trong tư tưởng của các nhà chính trị, quân sự, nhà văn hóa tiêu biểu của dân tộc
như: Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung…
Đến thời kỳ cận, hiện đại, trước sự tàn bạo, thâm độc của chủ nghĩa thực dân
và đế quốc Pháp, trước những thử thách lớn lao của dân tộc, tinh thần độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường vẫn được các sĩ phu yêu nước khơi dậy và được đông đảo
quần chúng nhân dân hưởng ứng.
Như vậy, giá trị độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của VHCT Việt Nam truyền
thống cùng với sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX của nhân dân ta đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành
VHCT Hồ Chí Minh. Các giá trị đó không chỉ là hành trang, là động lực bảo đảm
cho Hồ Chí Minh vững bước trong suốt quá trình xác định con đường, mục tiêu,
biện pháp, lực lượng để lật đổ nhà nước thuộc địa, nửa phong kiến, giành ĐLDT và
xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Thứ tư, lòng tự hào, tự tôn dân tộc và coi trọng hiền tài trong chính trị.
63
Ngay từ buổi đầu lập nước, người Việt đã tự ý thức về nguồn gốc con Rồng,
cháu Tiên, về cộng đồng dân tộc và chủ quyền quốc gia của mình. Tinh thần độc
lập, tự chủ, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc thì quốc gia nào cũng có nhưng với Việt
Nam, tinh thần đó được tạo nên một cách đặc biệt từ văn hóa làng xã trong dựng
nước và giữ nước. Chính văn hóa làng xã với nhiều mối quan hệ đan xen đã cung
cấp cho mỗi thành viên cộng đồng một thân phận nhất định và việc giải quyết hài
hòa các mối quan hệ đó là tiêu chuẩn đánh giá nhân cách, đạo đức con người. Vì
vậy, người Việt luôn gắn liền và tự hào về làng, nước, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ
Tổ quốc của mình.
Lòng tự hào, tự tôn dân tộc luôn là nền tảng tinh thần để mỗi người Việt
Nam có cách ứng xử có trách nhiệm với vận mệnh của quốc gia, dân tộc mình
và với các dân tộc khác. Tư tưởng này đã được thể hiện trong suốt quá trình
lịch sử dựng nước và giữ nước như, trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn,
trong bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt. Đặc biệt, trong lời tuyên bố
của người anh hùng Trần Bình Trọng trước sự dụ dỗ của kẻ thù: “Ta thà làm
ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Lòng tự hào, tự tôn dân tộc thể
hiện rõ nhất khi Nguyễn Trãi khẳng định trong Bình Ngô đại cáo rằng: “Như
nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Tuy mạnh yếu có lúc
khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có”[110, tr.77].
Một dân tộc nhỏ, đất không rộng, người không đông mà có thể vượt qua
được sự đồng hóa có hệ thống, kéo dài hàng nghìn năm của phong kiến phương
Bắc và đánh bại sự xâm lược của nhiều kẻ thù lớn đã tạo nên niềm kiêu hãnh
của mỗi người Việt Nam. Nền văn hiến lâu đời không chỉ tạo nên một dân tộc
anh hùng mà còn sản sinh ra những danh nhân văn hóa và đội ngũ những hiền
tài, trí thức góp phần quan trọng vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vua Lê
Lợi đã hạ lệnh cho các đại thần văn võ, công hầu đại phu từ tam phẩm trở lên
phải tiến cử hiền tài. Tờ chiếu viết: "Trẫm nghĩ, muốn thịnh trị phải được người
hiền tài, muốn được người hiền tài phải do tiến cử. Cho nên người đứng đầu
thiên hạ phải lo việc ấy trước tiên”[50, tr.368]. Thân Nhân Trung, một trọng
64
thần nhà Lê đã kế thừa và phát triển tư tưởng đó khi ông soạn bài văn bia cho
bia tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất (1442), đặt tại văn Miếu - Quốc Tử Giám:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà
vươn cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp”.
Thực tế cho thấy, các triều đại phong kiến Việt Nam luôn quan tâm và có
nhiều biện pháp để giữ gìn, bồi đắp, phát huy giá trị của nền văn hiến dân tộc. Một
trong những biện pháp đó là đề cao giáo dục, đào tạo và coi trọng việc tuyển chọn
hiền tài vào bộ máy nhà nước. Do vậy, cùng với việc chăm lo bồi dưỡng các hoàng
tử để có người nối ngôi xứng đáng, các triều đại đều coi việc tuyển dụng hiền tài là
một quốc sách. Chủ trương đó không chỉ bảo đảm cho quốc gia có vua sáng, tôi
hiền mà còn không ngừng nâng cao nền văn hiến của dân tộc.
Truyền thống tự hào, tự tôn dân tộc đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành
VHCT Hồ Chí Minh. Đầu năm 1921, trong một lần gặp Bộ trưởng thuộc địa Pháp
Anbe Xarô, trước ý kiến cho rằng chưa thể để Đông Dương độc lập được, vì Đông
Dương chưa có lực lượng vũ trang, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Nếu nước
Pháp trả lại nền độc lập cho chúng tôi, ông sẽ thấy là chúng tôi biết cầm quyền cai
trị lấy” [53, tr.96]. Quá trình tiến hành cách mạng GPDT, Hồ Chí Minh luôn kêu
gọi nhân dân các nước thuộc địa nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng phát huy
tinh thần tự lực, tự cường, đem sức ta mà giải phóng cho ta.
Theo Hồ Chí Minh, “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”[60, tr.445]. Trong
kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Người khẳng định: “Kháng chiến nhất định thắng
lợi, nhưng phải trường kỳ và gian khổ, phải tự lực cánh sinh”[60, tr.386].
Người còn nhấn mạnh, một trong những yếu tố bảo đảm cho thắng lợi của cuộc
kháng chiến là phải phát huy cao độ truyền thống yêu nước và tinh thần tự hào,
tự tôn dân tộc. Người nói: “Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại
chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những
trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung, v.v…Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân
tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”[60, tr.38].
65
Thứ năm, tinh thần khoan dung, độ lượng, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
cùng phát triển.
Truyền thống này là tập hợp những giá trị trong các quan hệ về chính trị, được
hình thành, bồi đắp liên tục trong lịch sử dựng nước và giữ nước, trở thành một
trong những giá trị xuyên suốt, nhất quán và là nét đặc sắc của VHCT truyền thống
Việt Nam. Xuất phát từ nhu cầu sinh tồn và chung sống lâu dài trước những tác
động bất ngờ của thiên tai, địch họa, ngay từ buổi đầu dựng nước, con người trên
mảnh đất Việt Nam đã dựa vào nhau, liên kết với nhau, yêu thương, đùm bọc lẫn
nhau. Cùng với sự phát triển của nhà nước và quá trình mở rộng địa bàn sinh sống,
những giá trị đó đã lan tỏa theo dấu chân của người Việt. Cho đến nay, mặc dù trên
dải đất Việt Nam hiện nay với 54 tộc người có thể khác nhau về phong tục, tập
quán nhưng đều coi nhau như anh em ruột thịt.
Để có thể yêu thương nhau, đoàn kết với nhau, đòi hỏi mỗi người phải có một
tấm lòng vị tha, khoan dung, độ lượng. Và yêu cầu này đã trở thành tiêu chí để đánh
giá đạo đức, nhân cách của mỗi người trong các quan hệ xã hội. Do ý thức rõ vị trí,
vai trò của mình trước cộng đồng và trước thiên nhiên, người Việt luôn có tư tưởng
khiêm tốn, cầu thị, sẵn sàng giúp đỡ đồng loại, không đối xử thái quá với những hạn
chế, sai lầm của người khác.
Truyền thống khoan dung, độ lượng, hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển được hình thành từ mối quan hệ kinh tế rồi từng bước trở thành nền tảng của
quan hệ chính trị cũng như các quan hệ khác cả trong đối nội và đối ngoại. Thiết
chế chính trị của cơ cấu nhà, làng, nước với những yếu tố dân chủ ở cơ sở đã bảo
đảm cho mỗi thành viên một thân phận, một diện mạo trong các tổ chức từ gia đình,
dòng họ đến các hội theo tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp và các cấp chính quyền.
Diện mạo là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các cá nhân và các mối quan hệ xã hội
với những tôn ti, trật tự và chuẩn mực đạo đức nhất định.
Cuộc đấu tranh bền bỉ hơn một nghìn năm chống lại sự đồng hóa của phong
kiến phương Bắc, cũng như các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến chống xâm lược,
chính là cuộc đấu tranh để giành lại thân phận và danh dự của người dân một đất
66
nước có chủ quyền, có bản sắc văn hóa. Và, với vị trí địa lý là trung tâm giao lưu
kinh tế, chính trị, văn hóa từ bắc xuống nam, từ đông sang tây của Việt Nam thì
truyền thống khoan dung là một trong nhiều nguyên nhân của những thắng lợi đó.
Truyền thống khoan dung của VHCT Việt Nam không chỉ thể hiện ở việc đối nội
mà còn thể hiện rõ trong đối ngoại, đặc biệt là với quân sự và ngoại giao. Trong lịch
sử dân tộc, Việt Nam chỉ tiến hành chiến tranh tự vệ khi tình thế bắt buộc và luôn
tìm mọi cách để giảm bớt sự hy sinh, đổ máu mà vẫn đạt mục đích của cuộc chiến.
Truyền thống khoan dung của dân tộc đã góp phần hình thành ở Hồ Chí Minh
tư tưởng và tấm gương nhất mực yêu thương, khoan dung độ lượng và luôn tin
tưởng vào khả năng hướng thiện của con người, thừa nhận sự khác biệt giữa các cá
nhân như một quy luật. Người nói, “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón
dài…Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế
khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”[57, tr.280].
Sau Cách mạng tháng Tám, Người đã viết thư căn dặn đồng bào Nam Bộ, “Đối với
những người Pháp bị bắt trong lúc chiến tranh, ta phải canh phòng cẩn thận, nhưng
phải đối đãi với họ cho khoan hồng... làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân
tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước”[57, tr.29-30].
Truyền thống khoan dung của dân tộc đã được Hồ Chí Minh kế thừa và
phát triển vượt khỏi phạm vi quốc gia, dân tộc. Người không chỉ đấu tranh
cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của các dân tộc
khác trên thế giới, coi việc giúp bạn là tự giúp mình. Người luôn chủ trương
chung sống hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với các nước có chế
độ chính trị khác nhau. Ngày 13-01-1947, trong thư gửi lãnh tụ và nhân dân
các nước Hồ Chí Minh đã viết: “Việt Nam chỉ muốn hoà bình và độc lập để
cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới...Việt Nam chỉ muốn giữ
quyền độc lập của mình, chứ không hề xâm phạm đến ai” [58, tr.30].
Thứ sáu, truyền thống đề cao đạo đức và pháp luật trong đời sống chính trị.
Sau khi trở thành quốc gia độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam đều
rất chú trọng xây dựng, ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật.
67
Trong thời kỳ này, các bộ luật lớn đã được soạn thảo, ban hành và có tác
động to lớn đến sự ổn định và phát triển của xã hội Phong kiến Việt Nam. Các
bộ luật tiêu biểu không thể không nhắc đến đó là: bộ Hình thư thời Lý được
ban hành năm 1042; bộ Hoàng triều đại điển và bộ Hình thư đời Trần, ban hành
năm 1341; bộ Quốc triều hình luật thời Lê, ban hành năm 1483. “Đây là thành
tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam, là đỉnh cao so
với những thành tựu pháp luật không chỉ của các triều đại trước đó, mà còn đối với
cả bộ Hoàng Việt luật lệ được biên soạn vào đầu triều Nguyễn sau này”[40, tr.151].
Những “hạt nhân hợp lý” từ truyền thống đề cao đạo đức và pháp luật
trong VHCT Việt Nam đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng sáng tạo
trong giai đoạn lịch sử mới. Năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân
An Nam” gửi tới Hội nghị Véc xây, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp
thực hiện chế độ cai trị bằng luật pháp thay cho chế độ cai trị bằng sắc lệnh.
Hồ Chí Minh cũng luôn đề cao vai trò của đạo đức cách mạng đối với sự
phát triển của xã hội, bởi theo Người, cách mạng “là một công việc to tát,
mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa
thì còn làm nổi việc gì?”[58, tr.293]. Bắt tay vào xây dựng nhà nước kiểu
mới sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch
nước, Người đã chủ trì soạn thảo hai bản Hiến pháp, ký công bố 16 đạo luật,
ban hành 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. Người là một mẫu
mực của sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật, luôn chú trọng giáo dục đạo
đức nhưng cũng không ngừng đề cao vai trò, sức mạnh của pháp luật. Điều
đó đã tạo nên nét đặc sắc trong văn hoá chính trị Hồ Chí Minh.
Như vậy, thực tế đã cho thấy, những giá trị VHCT truyền thống của dân
tộc Việt Nam là tiền đề, nền tảng cho việc hình thành và phát triển của VHCT
Hồ Chí Minh. Ngược lại, Hồ Chí Minh đã tích hợp và chắt lọc tất cả những
giá trị đó trở thành nét đặc trưng trong VHCT của cá nhân và đưa VHCT của
dân tộc lên một tầm cao mới. Điều này đã được Đảng ta đã khẳng định: “Dân
68
tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra HỒ CHỦ TỊCH, người
anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân
ta và non sông đất nước ta”[68, tr.627].
2.3.1.2. Những tinh hoa văn hóa chính trị của nhân loại
Tinh hoa VHCT của nhân loại là những giá trị nổi bật về tư tưởng và thực tiễn
chính trị mà loài người đã sản sinh ra, được chia sẻ, vận dụng trong đời sống chính
trị hiện thực. Tư tưởng chính trị phương Đông thể hiện trong các giáo lý và học
thuyết của các nhà tư tưởng tiêu biểu như: giáo lý của Phật giáo ở Ấn Độ; tư
tưởng Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia ở Trung Quốc. Những giáo lý và tư
tưởng chính trị trên đây đều ít nhiều có ảnh hưởng đến Việt Nam, trong đó ảnh
hưởng mạnh mẽ và sâu rộng hơn cả là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Tuy
mức độ ảnh hưởng không ngang bằng nhau nhưng nhìn chung cả ba tôn giáo
này hòa đồng với nhau và đều có chỗ đứng nhất định trong chính trị cũng như
trong xã hội, đây chính là tinh thần tam giáo đồng nguyên diễn ra dưới thời nhà
Trần. Mặc dù không trực tiếp bàn về chính trị, nhưng với tư tưởng từ bi, bình
đẳng, bác ái, Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu, rộng trong dân gian nói chung,
trong chính trị nói riêng, đã tô đậm thêm truyền thống, đạo lý nhân văn, nhân
đạo của người Việt, trong đó có Hồ Chí Minh. Những giá trị của nhân cách
chính trị Hồ Chí Minh như: tình cảm yêu thương đồng loại; đề cao lao động;
khoan dung độ lượng, vị tha...trong cuộc sống đời thường cũng như trong đấu
tranh chính trị đã cho thấy sự tác động của Phật giáo đến việc hình thành, phát
triển VHCT của Người.
Bên cạnh Phật giáo, với tính cách là một học thuyết chuyên về chính trị -
Nho giáo không được nhân dân Việt Nam đề cao trong thời kỳ Bắc thuộc. Tuy
nhiên, vào thời độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam lại phải dựa vào Nho
giáo. Chính vì vậy, thời kỳ này, Nho giáo phát triển mạnh hơn và bắt đầu từ thời Lê,
Nho giáo trở thành quốc giáo. Với vị trí thống trị về tư tưởng trong suốt hơn nửa thế
kỷ, Nho giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống của nhân dân ta và có
đóng góp to lớn vào sự phát triển của các triều đại phong kiến Việt Nam. Hồ Chí
69
Minh sinh ra, lớn lên trong một gia đình nhà nho, nhưng trước sự bất lực của tư
tưởng Nho giáo, Người đã đi tìm con đường cứu nước mới. Tuy nhiên, với quan
điểm kế thừa và phát triển, Hồ Chí Minh đã lựa chọn những yếu tố tích cực để phục
vụ cho sự nghiệp cách mạng. Cùng với việc trân trọng, kế thừa những hạt nhân hợp
lý, Người cũng triệt để phê phán những hạn chế của Nho giáo. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Những ông vua tôn sùng Khổng Tử không phải chỉ vì ông không phải là người
cách mạng, mà còn là vì ông tiến hành một cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho
họ. Họ khai thác Khổng giáo như bọn đế quốc đang khai thác Kitô giáo”[55,
tr.562]. Và, theo Hồ Chí Minh, Khổng Tử “rõ ràng là người phát ngôn bênh vực
những người bóc lột chống lại những người bị áp bức”[55, tr.562].
Một trong những tư tưởng chính trị Trung Hoa cổ đại có ảnh hưởng
nhất định ở Việt Nam và tác động phần nào đến việc hình thành VHCT Hồ
Chí Chí Minh đó là tư tưởng của Đạo giáo. Tư tưởng chính trị của Đạo giáo
phản ánh quyền lợi của người lao động và thấm đượm tình thương đồng loại,
chủ trương xây dựng một xã hội dựa trên sự bình đẳng và không có áp bức,
bóc lột. Từ quan niệm về Đạo và Đức, Lão Tử đề xướng xây dựng một chính
quyền vì dân, đem lại hạnh phúc cho dân và chính quyền như thế cần phải
biết tôn trọng các quy tắc tự nhiên của cuộc sống con người. Ông còn cho
rằng, nhà nước không phải để cai trị dân mà để làm chỗ dựa cho dân, tạo ra
môi trường để dân yên ổn làm ăn. Ông cũng đặt ra tiêu chuẩn của người cầm
quyền cai trị là phải có Đức, phải quan tâm đến lợi ích của dân, nói phải đi
đôi với làm, phải biết đứng sau, ngồi dưới, có công mà không kể công. Hồ
Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu và kế thừa tư tưởng của Đạo giáo khi nhắc
nhở việc giữ gìn an ninh trật tự ở Thủ đô sau ngày giải phóng (10-10-1954).
Người viết: “Chính quyền và nhân dân chúng ta phải đồng tâm hiệp lực, giữ
gìn trật tự an ninh, sao cho “Dạ bất bế hộ, lộ bất thập di”[62, tr.77], nghĩa là:
Ban đêm không cần đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi. Sự kế
thừa Đạo giáo còn biểu hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người nói:
“Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng
sức làm…Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui…Riêng phần
70
tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ,…sớm chiều làm bạn với cụ già hái củi, em
trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”[57, tr.187]. Mặc dù trích
dẫn Đạo giáo không nhiều nhưng thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh là người
hiện thực hóa nhiều nhất các quan điểm, tư tưởng tích cực của Đạo giáo
trong điều kiện mới.
Cùng với những tinh hoa VHCT phương Đông, những giá trị của tư tưởng
chính trị phương Tây giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và
phát triển VHCT Hồ Chí Minh. Chính khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của
văn hóa Pháp mà Hồ Chí Minh được tiếp xúc từ khi học tiểu học là yếu tố quan
trọng thúc đẩy Người đi sang phương Tây. Trên hành trình tìm đường cứu nước,
đặc biệt khi ở phương Tây, Nguyễn Ái Quốc đã được nghiên cứu trực tiếp các tác
phẩm về chính trị, tư tưởng, văn học, nghệ thuật của các nhà triết học, nhà văn hóa
lớn như: Rousseau, Voltair, Montesquieu... Bên cạnh giá trị xuyên suốt là Tự do,
Bình đẳng, Bác ái; những quan điểm duy lý trong khoa học, duy vật về xã hội trong
tư duy triết học phương Tây; những tư tưởng về nhà nước pháp quyền, về dân chủ,
về quyền con người... của VHCT phương Tây không những đã thấm vào tư tưởng
và hành động chính trị Hồ Chí Minh mà còn bộc lộ rõ nét trong các văn kiện chính
trị quan trọng của Người. Một chính khách nước ngoài - Ủy viên Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Úc đã viết: “Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng xã hội
chủ nghĩa sáng tạo vĩ đại và một người hành động…Tư tưởng chính trị của Người
chịu ảnh hưởng của những nhà tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa lớn ở châu Âu
được áp dụng vào một hoàn cảnh châu Á, và điều đó đã đem lại cho nó một ý nghĩa
thế giới”[8, tr.85].
Tuy nhiên, yếu tố tư tưởng, lý luận có vai trò quyết định nhất tác động đến
việc hình thành VHCT Hồ Chí Minh, được Người tiếp thu trong quá trình tìm
đường cứu nước, đó là tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin. Học thuyết
Mác - Lênin nói chung, tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác nói riêng được
C.Mác, Ph.Ăngghen khái quát dựa trên nền tảng triết học phương Tây và thực tiễn
đấu tranh giai cấp ở châu Âu, được Lênin bảo vệ, bổ sung, phát triển trong thực tiễn
đấu tranh cách mạng ở nước Nga. Với tính chất nhân văn, nhân đạo triệt để, với
71
mục tiêu giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, tạo môi trường
chính trị để con người được phát triển toàn diện, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ
là tinh hoa văn hóa của phương Tây, mà còn là tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Tư tưởng chính trị nói riêng, VHCT Hồ Chí Minh nói chung có sự thay
đổi về chất khi Người được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt sau
khi đọc được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa, đăng trên báo Nhân đạo tại Pari vào tháng 7.1920. Sau này, Người đã
nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao?...Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ
ba”[65, tr.562]. Người còn cho rằng, “Chủ nghĩa Lênin…, không những là
cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời
soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản”[65, tr.563]. Kể từ đó, Người không chỉ vận dụng
triệt để thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong quá trình hoạt động cách mạng của mình mà còn tìm cách
truyền bá, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin trong điều
kiện thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận rõ bước nhảy vọt về chất của
VHCT Hồ Chí Minh sau khi Người tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tế
cho thấy, mặc dù chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết chính trị nhân văn
nhất, được thể hiện ở mục tiêu chính trị mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã tuyên
bố trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, nhưng giá trị văn hóa của học
thuyết đó lại bị giới hạn bởi quan niệm về tiến trình đi đến mục tiêu cuối
cùng khi cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều cho rằng, các dân tộc
thuộc địa chỉ có thể được giải phóng khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành
được chính quyền. Tiếp thu thế giới quan và phương pháp luận chính trị của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cách mạng thuộc địa hoàn
toàn có thể chủ động nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc. Mặt khác, sau khi giành được quyền tự quyết dân tộc, các nước
đó có thể bỏ qua thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên CNXH.
72
Nhận định này là biểu hiện rõ nét một giá trị mới của VHCT Hồ Chí Minh
và đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm.
Tóm lại, VHCT Hồ Chí Minh có sự tích hợp và chắt lọc các giá trị VHCT
truyền thống của dân tộc, tinh hoa VHCT của nhân loại và VHCT của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Người trở thành biểu tượng của sự kết hợp hài hòa giữa các
nền văn hóa, giữa dân tộc và nhân loại, giữa quá khứ và hiện tại. Như nhà thơ
Xuân Thủy đã miêu tả: Một con người gồm kim cổ, tây đông/ Giàu quốc tế,
đậm Việt Nam từng nét.
2.3.2. Bối cảnh chính trị Việt Nam và thế giới tác động đến việc hình
thành, phát triển VHCT Hồ Chí Minh
2.3.2.1. Thực tiễn chính trị Việt NamHồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong bối cảnh tình hình chính trị của đất nước
có sự biến động lớn. Nhân dân Việt Nam lần đầu phải đối phó với một loại kẻ thù
mới, đó là thực dân Pháp, chẳng những mạnh hơn về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ
thuật mà còn khác biệt về hệ tư tưởng và văn hóa. Trước thực trạng đó, triều đình
nhà Nguyễn với hệ tư tưởng Nho giáo đã bộc lộ rõ sự bất lực trước nhiệm vụ giữ
vững nền độc lập, tự chủ của đất nước, lần lượt ký các hiệp ước đầu hàng, chấp
nhận sự đô hộ của thực dân Pháp. Việt Nam từ một nước quân chủ chuyên chế, trở
thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sau khi đã đặt ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành
đẩy mạnh khai thác thuộc địa nhằm chiếm đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ
mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Dưới sự đô hộ của chủ nghĩa thực
dân, nhân dân Việt Nam chịu cảnh nước mất, nhà tan, bị bóc lột đến tận xương tủy,
bị đầu độc về văn hóa, bị đọa đày trong đói rách, lầm than, bệnh tật. Hồ Chí Minh
đã vạch trần bản chất cái gọi là chế độ bảo hộ của Pháp rằng: “Ở Đông Dương,
chúng ta đang sống dưới sự “bảo hộ” của nước Pháp. Bảo hộ có nghĩa là che chở.
Nước Pháp đang để cho hàng triệu anh em chúng ta chết đói, trong khi đó hàng
nghìn người khác bị đưa sang Tiểu Á làm bia đỡ đạn”[54, tr.27- 28].
Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, ở Việt Nam đã ra đời hai giai cấp mới,
đó là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Lúc này, trong xã hội tồn tại hai mâu
73
thuẫn cơ bản đó là: mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến dân
tộc là mâu thuẫn cũ, còn mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, mà chủ yếu là công
nhân với giai cấp tư sản và giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là
mâu thuẫn mới. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước
với thực dân Pháp và phong kiến, tay sai là gay gắt và bức xúc nhất. Vì vậy, mặc dù
nhà nước phong kiến đã chính thức đầu hàng thực dân pháp, nhưng với chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần độc lập, tự chủ, các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh
chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã bùng lên và lan rộng khắp cả nước. Tiêu
biểu như phong trào Cần Vương, kéo dài từ 1885 đến 1896 với nhiều cuộc khởi
nghĩa diễn ra ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, đỉnh cao là khởi nghĩa Hương Khê. Cùng thời
gian này còn có cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo,
kéo dài đến năm 1913. Mặc dù vậy, do các cuộc khởi nghĩa và đấu tranh đó đều
được khởi xướng bởi các sĩ phu yêu nước mang ý thức hệ phong kiến, chủ trương
đánh đuổi Pháp để khôi phục lại chế độ phong kiến, nhưng lại chưa hiểu rõ kẻ thù,
chưa thật tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, chưa có phương pháp đấu tranh
đúng đắn, nên cuối cùng đều không giành thắng lợi. Thất bại của các phong trào
yêu nước cuối thế kỷ XIX một lần nữa chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong
kiến trước nhiệm vụ giành độc lập dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.
Bước sang đầu thế kỷ XX, sau một thời gian tiếp xúc với văn hóa phương
Tây, mà trực tiếp là văn hóa Pháp, cùng với sự ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng Tân
hợi (1911) của Trung Quốc, đã hình thành một phong trào cứu nước mới theo hệ tư
tưởng tư sản. Những sĩ phu yêu nước theo hệ tư tưởng này chủ trương, gắn cuộc
đấu tranh giành ĐLDT với việc xóa bỏ chế độ phong kiến để xây dựng một chế độ
xã hội mới, đáp ứng đòi hỏi của đất nước và xu thế phát triển chung của thời đại.
Tiêu biểu cho trào lưu cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản là Phan Bội Châu và Phan
Châu Trinh với hai phương pháp đấu tranh là bạo động và cải lương. Trong khi
Phan Bội Châu lập ra Hội Duy tân, tổ chức phong trào Đông Du sang Nhật để học
tập và tìm kiếm sự giúp đỡ của Nhật để đánh Pháp bằng con đường bạo động, thì
Phan Châu Trinh chủ trương đấu tranh bằng con đường nghị trường, tiến hành các
cải cách kinh tế, văn hóa trong khuôn khổ sự cai trị của Pháp, sau đó đòi thực dân
74
Pháp trao trả độc lập. Tuy nhiên, con đường cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản cũng
sớm thất bại, bởi lẽ, trên thực tế, giai cấp tư sản đã và đang thể hiện sự hiếu chiến,
phản động, vô nhân đạo đối với các dân tộc thuộc địa.
Sự chán ghét chế độ thuộc địa nửa phong kiến của nhân dân cộng với sự thất
bại của các phong trào cứu nước đã cho thấy sự khủng hoảng và bế tắc về chính trị
ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sau này, Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Từ ngày bị đế quốc Pháp xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy
mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra”[65, tr.401].
Thực tế đó đã đặt ra cho nhân dân ta câu hỏi bức xúc là dựa vào lực lượng nào hay
làm thế nào để giành lại độc lập, tự do, GPDT, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Câu hỏi lớn đó đã tác động đến Hồ Chí Minh từ khi Người còn là một thiếu
niên, và sau này khi nhắc lại thời điểm đó, Người đã nói với một nhà văn Mỹ rằng:
“Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường hỏi nhau ai
sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có
người lại cho là Mỹ”[dẫn theo 100, tr.20]. Như vậy, bối cảnh chính trị Việt Nam
giai đoạn Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên không chỉ là yếu tố thôi thúc Người đi tìm
con đường cứu nước mới mà còn là cơ sở để Người tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin, một học thuyết chính trị duy nhất trả lời được câu hỏi của thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Như Người đã nhận xét: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”[55, tr.289].
2.3.2.2. Thực tiễn chính trị thế giới
Bắt đầu từ nửa sau của thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế hàng hóa dưới chủ nghĩa đế quốc với những đòi hỏi bức xúc về nguồn
nguyên liệu, thị trường tiêu thụ và lợi nhuận, là nguyên nhân chính thúc đẩy
các nước đế quốc tiến hành chiến tranh xâm lược các quốc gia nhỏ yếu trên
thế giới, biến các nước này thành thuộc địa của chúng. Chủ nghĩa đế quốc,
một mặt tranh giành với nhau về lợi ích và quyền lực đối với các thuộc địa,
75
mặt khác chúng liên kết với nhau thành hệ thống thế giới để nô dịch các
nước là thuộc địa. Vì vậy, trên thế giới đã xuất hiện một mâu thuẫn xã hội
mới giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc bên cạnh mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân quốc tế với chủ nghĩa tư bản vốn đã gay gắt và kéo
dài trong suốt thế kỷ XIX.
Trong khoảng thời gian giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác với tư cách là
một học thuyết chính trị đã lan rộng khắp châu Âu và một số châu lục khác.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Lênin ra đời trong bối cảnh
CNTB phát triển thành chủ nghĩa đế quốc và học thuyết của C.Mác đang bị chủ
nghĩa xét lại xuyên tạc, phủ nhận. Với những nhận thức về một giai đoạn phát
triển mới của lịch sử xã hội, chủ nghĩa Lênin đã trở thành “lý luận và thực tiễn
của chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa”[77, tr.14]. Trong nhiều
tác phẩm của mình, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa,
ngoài các cuộc chiến tranh giữa các nước đế quốc để tranh giành thuộc địa, có
thể xảy ra các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc (GPDT), và giai cấp vô sản
thế giới phải kiên quyết ủng hộ các cuộc chiến tranh này.
Bước sang thế kỷ XX, cuộc đấu tranh GPDT không còn là hành động đơn lẻ
của quốc gia này chống lại sự xâm lược và thống trị của quốc gia khác như trước
đây. Thực tế đó đã tạo ra tiền đề khách quan, chẳng những để các nước bị áp bức
trên thế giới liên kết với nhau mà còn tạo điều kiện để phong trào đấu tranh GPDT
ở thuộc địa gắn kết với phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp ở các nước chính
quốc. Hồ Chí Minh đã khẳng định, “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc
biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với
vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”[54, tr.295].
Tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa đến sự kiện có tính chất
bước ngoặt trong lịch sử phát triển của nhân loại, đó là thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga năm 1917. Cách mạng tháng Mười Nga không những đã đưa chủ
nghĩa cộng sản từ khoa học trở thành hiện thực bằng việc lật đổ nhà nước tư sản,
thiết lập nhà nước vô sản mà còn nêu tấm gương sáng về việc giải phóng các dân
76
tộc bị áp bức, và gây tiếng vang lớn, tác động mạnh mẽ đến các dân tộc thuộc địa.
Sự lãnh đạo của Lênin và ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười đã dẫn đến việc ra
đời của một loạt các Đảng Cộng sản ở cả châu Âu và châu Á. Đặc biệt là sự ra đời
của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3-1919, do Lênin sáng lập, đã thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tại Đại
hội II của Quốc tế Cộng sản, bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố. Luận cương này đã chỉ ra
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức và đã tác động mạnh mẽ
đến tư tưởng chính trị và lập trường giai cấp của Hồ Chí Minh.
Như vậy, khi Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị cũng là lúc tình hình
chính trị thế giới có sự thay đổi lớn. Chủ nghĩa đế quốc đã bộc lộ rõ bản chất hiếu
chiến, xâm lược và phản động; chủ nghĩa cộng sản khoa học đã trở thành hiện thực;
phong trào đấu tranh GPDT và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có sự phát
triển mạnh mẽ; một tổ chức quốc tế của giai cấp vô sản toàn thế giới đã ra đời và
ủng hộ cho cuộc đấu tranh GPDT của các thuộc địa…Đó là những tiền đề thực tiễn,
những yếu tố khách quan tác động mạnh mẽ đến việc hình thành và phát triển
VHCT Hồ Chí Minh.
2.3.3. Nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh
Một cá nhân, cho dù là một vĩ nhân hay người bình thường cũng đều là sản
phẩm của hoàn cảnh, là một phần giá trị của xã hội. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa
những sản phẩm ấy là ở mức độ mỗi cá nhân chiếm lĩnh các giá trị xã hội, làm chủ
hoàn cảnh và có thể tác động, thúc đẩy sự vận động của hoàn cảnh theo đúng quy
luật, đáp ứng nhu cầu của bản thân và cộng đồng như thế nào. Với những vĩ nhân,
những nhà tư tưởng, họ không chỉ nhận thức đúng hiện thực khách quan, mà còn dự
báo được xu hướng, quy luật vận động, phát triển của hiện thực và đề ra được cách
thức tổ chức lực lượng, lựa chọn hình thức, biện pháp tác động phù hợp để cải tạo
hiện thực đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Như vậy, nhân tố chủ quan là một tập hợp các yếu tố riêng có của mỗi
cá nhân. Trong cùng một tiền đề khách quan nhưng với mỗi nhân tố chủ
77
quan sẽ đưa đến những kết quả khác nhau trong hoạt động thực tiễn. Do vậy,
cùng với những tiền đề khách quan, việc hình thành VHCT Hồ Chí Minh
không thể thiếu những nhân tố chủ quan của Người.
2.3.3.1. Lý tưởng, mục tiêu chính trị cao đẹp và phong cách tư duy độc lập,
tự chủ, sáng tạo
Một trong những nhân tố chủ quan góp phần tạo nên VHCT Hồ Chí Minh
chính là lý tưởng và mục tiêu chính trị mà như Người đã công bố rằng: “làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[57, tr.187]. Có thể nói, mọi người đều
có lý tưởng, đặc biệt là các sĩ phu yêu nước, ai cũng có mục tiêu, lý tưởng giành độc
lập cho dân tộc. Tuy nhiên, quan niệm về độc lập của Hồ Chí Minh khác hẳn về
chất so với các bậc tiền bối. Trong khi đại biểu của các phong trào cứu nước theo hệ
tư tưởng phong kiến hay tư sản coi ĐLDT là trở về với chế độ quân chủ chuyên chế
hoặc chế độ dân chủ tư sản mà ở đó, giai cấp địa chủ hay giai cấp tư sản là người
thống trị còn nhân dân lao động là người bị trị. Hồ Chí Minh cho rằng, ĐLDT phải
gắn liền với tự do, ấm no, hạnh phúc, công bằng, bình đẳng cho tất cả mọi người.
Bởi lẽ, theo Người “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”[57, tr.64].
Quan niệm về ĐLDT như trên là nguyên nhân chính của việc Hồ Chí
Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng lại không
tán thành cách làm của một người nào và đã khước từ con đường Đông Du
theo gợi ý của Phan Bội Châu. Và, đó cũng là nguyên nhân của việc Người đã
tiếp xúc với nhiều học thuyết, nhiều hệ tư tưởng, đã nghiên cứu, khảo sát,
thậm chí đã sống ở các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn của chủ nghĩa
tư bản nhưng Người chỉ lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường
của Cách mạng tháng Mười Nga. Điều này cũng giải thích tại sao, có một số
người đã tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin trước Hồ Chí Minh, nhưng lại
không xác định được con đường cứu nước như Người.
78
Cùng với mục tiêu, lý tưởng chính trị cao đẹp, phong cách tư duy độc lập, tự
chủ và sáng tạo là một yếu tố chủ quan của việc hình thành, phát triển VHCT Hồ
Chí Minh. Thực tiễn đã cho thấy, cùng một hiện thực xã hội Việt Nam thuộc địa
nửa phong kiến với nhu cầu giành ĐLDT và cùng một bối cảnh quốc tế với những
tiền đề chính trị, văn hóa, xã hội, nhưng với phong cách tư duy truyền thống, bảo
thủ thì có con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến; với phong cách tư duy
đổi mới nhưng rập khuôn máy móc lại đưa đến con đường cứu nước theo hệ tư
tưởng tư sản; trong khi đó, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo đã đưa Hồ
Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, với con đường cách mạng vô sản và một
kết luận có tính chân lý rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[65, tr.30].
Với phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Người chỉ coi chủ nghĩa Mác
- Lênin là kim chỉ nam chứ không phải kinh thánh. Do vậy, quá trình vận dụng phải
kiên định về mục tiêu, con đường; về phương hướng, chiến lược nhưng phải linh
hoạt, sáng tạo về sách lược. Phong cách trên đây không chỉ có giá trị bởi sự vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể đã tạo nên
những thắng lợi to lớn đối với cách mạng Việt Nam, mà còn mở rộng không gian,
nâng cao sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tạo lên nét đặc trưng trong VHCT
Hồ Chí Minh.
2.3.2.2. Ý chí, nghị lực phi thường và thực tiễn hoạt động cách
mạng phong phú
Ý chí và nghị lực là yếu tố chủ quan quyết định nhất tạo nên thành công và sự
khác biệt giữa các cá nhân. Và, đây là một trong những nhân tố chủ quan của việc
hình thành và phát triển VHCT Hồ Chí Minh. Để có thể học tập kinh nghiệm, khám
phá và chiếm lĩnh tri thức, giá trị của các nền văn hóa lớn trên thế giới, Người đã
khổ công học tập và thông thạo nhiều ngoại ngữ. Mặt khác, để đạt được mục tiêu
chính trị của mình, Người luôn chủ động chấp nhận và vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ, hiểm nguy để sống, để học tập và làm cách mạng. Trước mọi khó khăn, gian
khổ, Người chỉ tâm niệm một điều là “muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải
79
cao”. Vì vậy, ở Hồ Chí Minh hội tụ nhiều mẫu người, từ người lao động chân tay,
đến nhà trí thức, nhà chính trị, nhà văn, nhà báo, nhà thơ, chủ tịch Đảng, chủ tịch
nước. Người đã để lại tấm gương mẫu mực về ý chí, quyết tâm, nghị lực phi thường
và về sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động.
Với chủ trương xóa bỏ tận gốc những yếu tố làm tha hóa con người, tạo
dựng môi trường xã hội mới để mỗi cá nhân có điều kiện phát triển toàn diện,
Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản và khơi dậy, phát huy
sức mạnh của nhân dân để thực hiện mục tiêu chính trị là ĐLDT gắn liền với
CNXH. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong cách mạng GPDT, khi thời cơ
đến, Hồ Chí Minh khẳng định: "Dù có phải đốt cháy cả dãy trường sơn cũng
phải cương quyết giành cho được độc lập"[trích theo 24, tr.212-213]. Với quyết
tâm đó, khi thực dân Pháp thực hiện mưu đồ nô dịch nước ta một lần nữa,
Người đã cùng với Đảng chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa kháng chiến với kiến
quốc, nhằm từng bước đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và
đánh bại sự xâm lược của đế quốc Pháp.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù đất nước ta còn tạm
thời chia cắt làm hai miền, nhưng trung thành với mục tiêu chính trị đã xác định, Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã quyết tâm đưa miền Bắc quá độ lên CNXH. Bởi lẽ, theo
Người: "Trong gần một trăm năm qua, Việt Nam ta là một nước thuộc địa và nửa
phong kiến. Kinh tế rất lạc hậu và gồm có nhiều thành phần phức tạp, sức sản suất
chưa được phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Muốn
biến đổi tình hình nghèo nàn ấy thì miền Bắc phải tiến lên chủ nghĩa xã hội"[61,
tr.372]. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, mang không quân đánh phá miền
Bắc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa…song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”[68, tr.131]. Trước khi qua đời, trong Di chúc, Người viết: "Điều
mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"[68, tr.624].
80
Nhân tố chủ quan của VHCT Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tính phong phú, đa
dạng của các hoạt động cách mạng mà Người đã trải qua nhưng chỉ nhằm một mục
tiêu duy nhất là vì dân, vì nước. Người đã đến nhiều nơi, hòa mình vào cuộc sống
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước mà Người đã đi qua, tham
gia nhiều tổ chức chính trị như: Hội những người lao động hải ngoại tại Anh; Công
đoàn xí nghiệp kim khí quận 17 Paris; tham gia Đảng xã hội Pháp và là thành viên
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa; tham gia
thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức; sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên; Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam…Những hoạt động đó đã làm cho
tư tưởng và hành động chính trị của Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị dân tộc mà
còn có giá trị thời đại.
Tiểu kết chương 2
Văn hóa chính trị của mỗi cá nhân là sản phẩm của một nền VHCT, chịu
sự chi phối, tác động bởi VHCT của cộng đồng, nhưng cũng có vai trò nhất
định trong việc bảo tồn, duy trì và phát triển VHCT của cộng đồng. Trong đó,
một số cá nhân tiêu biểu như các lãnh tụ chính trị, danh nhân văn hóa, anh hùng
dân tộc…thì VHCT của riêng họ không chỉ là sự hội tụ và tỏa sáng của VHCT
truyền thống mà còn là nhân tố tác động, làm thay đổi về chất VHCT truyền
thống của cả một cộng đồng, dân tộc.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là những giá trị nhân văn, nhân đạo của tư
tưởng và hành động chính trị thực tiễn, là bộ phận cơ bản, nền tảng trong chỉnh
thể văn hóa của Người. Mọi tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh đều
hướng tới mục tiêu, lý tưởng chính trị mà Người đã xác định. Vì vậy, VHCT
Hồ Chí Minh cần được tiếp cận theo nghĩa rộng với tính cách là tổng hòa các
giá trị Chân, Thiện, Mĩ của những tư tưởng và hành vi chính trị mà Người đã
sáng tạo ra trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Mặt khác, VHCT Hồ Chí
Minh là VHCT của một cá nhân, nhưng là một cá nhân tiêu biểu, một lãnh tụ
chính trị của Đảng và của dân tộc Việt Nam. Do đó, những phẩm chất, nhân
81
cách trong ứng xử chính trị; cách thức tham dự và dấn thân vào sự nghiệp
chính trị để sáng tạo ra những sản phẩm có giá trị Chân, Thiện, Mĩ, có tính
nhân văn, nhân đạo về tư tưởng và hành vi chính trị cùng trật tự có tính hệ
thống của những yếu tố đó chính là cấu trúc của VHCT Hồ Chí Minh.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là kết quả của sự tích hợp, thâu thái, chắt
lọc các giá trị bền vững trong VHCT truyền thống của dân tộc và nhân loại, đặc
biệt là giá trị VHCT của chủ nghĩa Mác - Lênin, để giải quyết mâu thuẫn của
thực tiễn chính trị Việt Nam trong bối cảnh chung của tình hình chính trị thế
giới. Vì vậy, VHCT Hồ Chí Minh phản ánh sâu sắc những điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan của Người. Sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố khách
quan và chủ quan đó đã sản sinh ra một bộ phận quan trọng trong kho tàng di
sản của VHCT Việt Nam.
82
Chương 3
GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
3.1. GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
Văn hóa là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo ra, mang tính xã hội,
trong đó VHCT là một bộ phận và là bộ phận quan trọng, có vai trò chi phối mọi
loại hình văn hóa khác. Văn hóa Hồ Chí Minh là một hệ thống các giá trị do bản
thân Người sáng tạo ra, trong đó VHCT là một bộ phận hợp thành. Bộ phận đó
đóng vai trò nền tảng và chi phối việc hình thành, phát triển các bộ phận khác của
văn hóa Hồ Chí Minh. Với tính cách là một nhà chính trị chuyên nghiệp, VHCT Hồ
Chí Minh là một tập hợp bao gồm ba nhóm giá trị cơ bản đã được nhân dân Việt
Nam và cộng đồng quốc tế ghi nhận, bao gồm:
3.1.1. Các giá trị tư tưởng
3.1.1.1. Tri thức chính trị của Hồ Chí Minh
Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã
hội, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn, có liên hệ mật thiết với thế giới khách
quan và môi trường sống của con người. Tri thức chính trị là những hiểu biết về bản
chất các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân với cộng đồng; giữa các giai cấp, tầng lớp
với nhau trong một quốc gia dân tộc; giữa quốc gia này với quốc gia khác và thái độ
của số đông quần chúng nhân dân với mỗi thể chế chính trị hiện thực. Theo đó, tri
thức chính trị bao gồm học vấn chính trị và các kinh nghiệm chính trị đã diễn ra
trong thực tiễn đời sống. Tri thức chính trị có vai trò hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của mỗi chủ thể chính trị. V.I.Lênin đã chỉ rõ, không có lý luận cách mạng
thì không thể có phong trào cách mạng. Do vậy, tri thức chính trị không chỉ là một
trong những yếu tố cấu thành mà còn là yếu tố nền tảng của VHCT.
Sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh là sự nghiệp tìm kiếm lý luận, kinh
nghiệm và mô hình chính trị để thực hiện mục tiêu GPDT gắn liền với giải
phóng nhân dân lao động khỏi sự thống trị, áp bức, bóc lột, bất công. Vì vậy,
83
Người đã lựa chọn cách thức tiếp thu và làm chủ tri thức chính trị hết sức thiết
thực. Người quan niệm, mọi lý thuyết và kinh nghiệm chỉ là phương tiện,
phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị đã xác định. Trước hết, với chủ
trương đi ra nước ngoài xem người ta làm như thế nào rồi về giúp đồng bào
mình, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con tàu buôn của Pháp - một phương tiện có
thể đi đến nhiều nơi, nhiều trung tâm kinh tế, chính trị của châu Âu và thế
giới. Tại những trung tâm lớn như Pari, NewYork, London, Người không bị
cám dỗ bởi danh lợi cá nhân mà đã tự đặt mình vào địa vị của các giai cấp,
tầng lớp cần được giải phóng, không chỉ để thấu hiểu bản chất của các chế
độ chính trị mà ở đó người lao động đang là đối tượng bị bóc lột mà chính là
để chia sẻ kinh nghiệm đấu tranh của một giai cấp tiên tiến đang kiên quyết
đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Không chỉ tiếp thu tri thức chính trị thông qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí
Minh còn dành nhiều thời gian để học ngoại ngữ và đến các thư viện, bảo tàng để
đọc các tác phẩm lý luận, văn học, nghệ thuật của các nhà tư tưởng, nhà chính trị,
nhà văn hóa lớn của châu Âu và thế giới. Với khả năng ngoại ngữ xuất sắc, Người
đã thông thạo lịch sử châu Âu, châu Mỹ, hiểu rõ diễn biến, kết quả của các cuộc
cách mạng lớn ở phương Tây, như cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp năm
1789. Từ thực tiễn sinh động và nhiều tri thức đã thu nhận được thông qua tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn bám sát mục đích, Hồ Chí Minh đã rút ra những kết
luận chính trị quan trọng, trở thành vốn tri thức chính trị phong phú, sâu rộng.
Ngay sau khi đặt chân lên nước Pháp, Người đã có kết luận, “Người Pháp ở
Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông Dương”[99, tr.17]. Đây là kết luận quan
trọng đầu tiên của Hồ Chí Minh trong nhận diện bạn, thù, xác định đồng minh của
cách mạng và là cơ sở của kết luận, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một
mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[54, tr.287]. Sau khi nghiên cứu,
khảo sát thực tế chế độ chính trị và mô hình nhà nước tư sản, đặc biệt sau khi tiếp
xúc với Luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng
84
sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người…sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa
bình, hạnh phúc”[54, tr.496]. Với các cuộc cách mạng tư sản điển hình, Hồ Chí
Minh đã kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh
tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mạng đã 4 lần rồi, mà nay
công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng
áp bức”[55, tr.296]. Nhận thức rõ điều đó, Người đã nhắc nhở, “Chúng ta đã hy
sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền trao cho dân chúng số nhiều…Thế mới khỏi phải hy sinh nhiều lần, thế dân
chúng mới được hạnh phúc”[55, tr.292].
Chứng kiến nỗi thống khổ của nhân dân lao động ở thuộc địa và của giai cấp
công nhân ở chính quốc, Người đã kết luận: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có
một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai
cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả
hai vòi”[55, tr.130]. Và, để cùng nhau chống kẻ thù chung, Người kêu gọi nhân dân
lao động ở tất cả các nước đoàn kết lại.
Tham gia hoạt động trong phong trào công nhân, trong Đảng Xã hội và Đảng
Cộng sản Pháp đã giúp Hồ Chí Minh nhận rõ vai trò quan trọng của Đảng đối với
sự thành bại của cách mạng. Người chỉ rõ, “Cách mệnh…Trước hết phải có đảng
cách mệnh…Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy”[55, tr.289]. Với tri thức chính trị của mình, Hồ Chí Minh đã
tiến hành chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.
Đặc biệt, kinh nghiệm tiếp thu tri thức chính trị đã được Người vận dụng trong quá
trình chuẩn bị thành lập Đảng. Thông qua các lớp bồi dưỡng chính trị và tổ chức
phong trào vô sản hóa, Người đã biến các thanh niên tiểu tư sản, tư sản yêu nước
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thành những hạt nhân cốt cán của Đảng và
đào tạo được một thế hệ cán bộ thực sự tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, kiên
cường, bất khuất, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạngViệt Nam.
85
Cùng với việc tìm kiếm tri thức để tiến hành lật đổ chế độ thực dân, phong
kiến, Hồ Chí Minh còn tìm hiểu rất kỹ về mô hình, cách thức và nguyên tắc
pháp lý của một nhà nước dân chủ. Tiếp thu mô hình nhà nước Xô Viết của
cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Người chủ trương xây dựng nhà nước công nông binh. Mặc dù vậy, khi về
nước, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam, Người đã điều chỉnh và đề
nghị, “không nên nói công nông liên hợp và lập chính quyền Xô viết, mà phải
nói toàn thể nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”[15, tr.127].
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, để bảo đảm cho tính chính đáng của
Chính phủ lâm thời sau khi lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, Hồ Chí Minh
đã triệu tập Đại hội Quốc dân Tân trào, với sự tham dự của các đại biểu đại diện cho
ba miền Bắc, Trung, Nam, kiều bào ta ở nước ngoài và đại biểu của các đảng phái
chính trị, các đoàn thể nhân dân, các dân tộc, tôn giáo. Kiên định mục tiêu ĐLDT
gắn liền với CNXH, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù đất
nước còn tạm thời chia cắt, Hồ Chí Minh cùng với Đảng vẫn quyết tâm đưa miền
Bắc quá độ lên CNXH. Bởi theo Người, sự thay đổi của công cụ lao động và cách
sản xuất kéo theo sự thay đổi của chế độ xã hội. Do đó, tiến lên CNXH là tất yếu
khách quan, “Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”[64, tr.601].
Giá trị của tri thức chính trị Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở việc Người đã lựa
chọn và tiếp thu hệ tư tưởng cách mạng nhất của thời đại để truyền bá về Việt Nam.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tiếp xúc với nhiều hệ tư tưởng, cả ở
phương Đông và phương Tây, cả truyền thống và hiện đại, cả của dân tộc và nhân
loại, nhưng xuyên qua tất cả, Người lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tư tưởng chính trị của mình và sau đó là của cả dân tộc Việt Nam. Người đã khẳng
định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân
dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ
nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi
tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[65, tr.563]. Với quan điểm đó, Hồ Chí
86
Minh luôn quán triệt sâu sắc, tiếp thu, vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể nước ta, mang lại thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam,
mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của dân tộc, kỷ nguyên ĐLDT
gắn liền với CNXH. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là thành công của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh tiếp thu hệ tư tưởng chính trị Mác - Lênin nhưng không dập
khuôn máy móc, mà luôn có sự phát triển sáng tạo, cùng với sự tích hợp và vượt
gộp mọi tinh hoa tư tưởng chính trị của nhân loại. Do đó, trong tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và là động lực chủ yếu của
cách mạng; mục tiêu chính trị là GPDT, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Tuy nhiên, trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có lòng từ bi của Phật, lòng
bác ái của Chúa, tư tưởng đức trị của Khổng tử, tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử,
tư tưởng tiêu giao, thanh bạch của Lão Tử, tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn
và tư tưởng đề cao cá nhân con người của chủ nghĩa nhân văn phương Tây.
Hồ Chí Minh thừa nhận đấu tranh giai cấp nhưng không coi đó là động
lực chính của sự phát triển xã hội. Người chủ trương xây dựng Nhà nước Dân
chủ Nhân dân và từng bước quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ chính trị tư bản
chủ nghĩa nhưng tiếp thu những thành quả mà loài người đã đạt được dưới
CNTB. Người chủ trương xây dựng chế độ kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, bảo đảm các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
và tính chất của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tế của Việt Nam.
Hệ tư tưởng chính trị mà Hồ Chí Minh tiếp thu không chỉ là yếu tố bảo đảm
cho tính đúng đắn, cách mạng, khoa học trong các quyết sách chính trị, ứng xử
chính trị và đường lối chính trị, mà còn là ngọn cờ tư tưởng để đoàn kết, tập hợp
mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tín ngưỡng, tôn
giáo thành một khối thống nhất trong Mặt trận dân tộc thống nhất để thực hiện mục
tiêu chính trị phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân và xu
thế thời đại. Như vậy, tri thức chính trị là một trong những điều kiện cần và đủ để
các cá nhân tham gia vào đời sống chính trị. Với Hồ Chí Minh, tri thức chính trị vừa
87
là một bộ phận cấu thành, vừa là yếu tố có vai trò to lớn làm nên tính cách mạng,
khoa học, giá trị và sức sống cho VHCT của Người.
3.1.1.2. Niềm tin chính trị của Hồ Chí Minh
Niềm tin là sản phẩm của nhận thức, là trạng thái tâm lý thừa nhận một kết
quả tất yếu nào đó trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, là cơ
sở của thái độ, động cơ và hành động thực tiễn. Nền tảng và mức độ của niềm tin về
một kết quả nhất định sẽ xảy ra hay không thể xảy ra trong hiện thực, là mức độ
nhận thức về sự vật đó. Nếu niềm tin là kết quả của nhận thức cảm tính thì nó được
hình thành một cách nhanh chóng nhưng mang nặng tính chất chủ quan, kinh
nghiệm, có thể đúng đắn mà cũng có thể sai lầm và tính kiên định không cao.
Ngược lại, nếu niềm tin là kết quả của nhận thức lý tính, khoa học, hơn nữa khoa
học đó đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, khách quan thì nó có tính vững
chắc cao, ít bị dao động hay thay đổi cho dù có bất kỳ sự tác động nào đến quá trình
vận động của sự vật. Niềm tin sẽ quy định thái độ, động cơ và cách ứng xử cụ thể
của con người đối với sự vật, hiện tượng. Niềm tin chỉ có ở con người, gắn liền với
con người, là động lực thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình
nhận thức và cải tạo thế giới.
Niềm tin chính trị là sự thừa nhận tính đúng đắn, xác thực, ưu việt, hoặc tính
lỗi thời, lạc hậu của một hệ tư tưởng hay một thể chế chính trị nhất định. Niềm tin
đó sẽ quy định thái độ, động cơ, hành động ứng xử thực tế của các chủ thể chính trị
đối với việc tiến hành duy trì, bảo vệ hay xóa bỏ một hệ tư tưởng, một chế độ chính
trị cụ thể nào đó để thiết lập một chế độ chính trị mới. Một hệ tư tưởng, một chế độ
chính trị nhất định chỉ có thể đứng vững khi nó làm cho quần chúng nhân dân tin
rằng nó còn hợp lý và chính đáng. Niềm tin đó càng sâu rộng thì độ vững chắc càng
cao và ngược lại. Tuy nhiên, với quần chúng nhân dân, niềm tin chủ yếu được hình
thành một cách cảm tính theo số đông và phụ thuộc vào các tấm gương trong thực
tế cuộc sống, đặc biệt là tấm gương của những người đứng đầu.
Do đó, để xây dựng niềm tin chính trị vững chắc, một mặt, phải đề cao
việc nêu gương, trước hết là của lãnh tụ chính trị, đảng chính trị, mặt khác,
88
phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị để
từ đó hình thành và củng cố niềm tin. Nhận rõ điều đó, sau khi xác định
được con đường cứu nước đúng đắn, việc đầu tiên Hồ Chí Minh nghĩ tới là
thức tỉnh quần chúng. Người viết: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về
nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ…đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc
lập”[54, tr.209]. Sau này, để củng cố niềm tin của nhân dân vào tính ưu việt
của chế độ chính trị mới, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải
nêu gương về đạo đức cách mạng, bởi theo Người “một tấm gương sống còn
có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[54, tr.284]. Thực tế cho
thấy, niềm tin chính trị không chỉ là sản phẩm của tấm gương chính trị mà
còn là sản phẩm của giáo dục chính trị. Mặt khác, niềm chính chính trị
không những là cơ sở của việc tự tu dưỡng rèn luyện để hình thành các tấm
gương chính trị mà còn là động lực thúc đẩy các hành động chính trị, các
phong trào chính trị của quần chúng trong việc ứng xử với thể chế chính trị.
Vì vậy, niềm tin chính trị là một bộ phận cấu thành quan trọng của VHCT và
là một hình thức biểu hiện của VHCT.
Với Hồ Chí Minh, niềm tin chính trị là một bộ phận quan trọng trong VHCT
của Người. Nếu không có niềm tin chính trị thì mọi mục tiêu, lý tưởng chính trị chỉ
là mơ ước. Và nếu không có niềm tin chính trị, Hồ Chí Minh khó có thể vượt qua
được những khó khăn, thách thức để trở thành một nhà chính trị chuyên nghiệp có
những cống hiến vĩ đại không chỉ cho sự phát triển của VHCT Việt Nam mà còn
cho sự phát triển mọi mặt của đất nước. Với mục tiêu, lý tưởng và nhận thức chính
trị của mình, Hồ Chí Minh luôn có một niềm tin chính trị sâu sắc. Đó là niềm tin
vào quy luật khách quan và xu thế thời đại; tin vào học thuyết Mác - Lênin; tin vào
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; tin vào mục tiêu, động lực, phương pháp
của con đường cách mạng vô sản; tin vào sức mạnh của nhân dân yêu chuộng hòa
bình trên thế giới và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tin vào những phẩm chất tốt
đẹp và khả năng hướng thiện của con người. Niềm tin chính trị Hồ Chí Minh là cơ
sở để Người có thái độ, động cơ, cách ứng xử đúng đắn và quyết tâm cao nhất trong
việc thực hiện các chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
89
Với tính cách là một bộ phận cấu thành của VHCT, niềm tin chính trị Hồ Chí
Minh là một niềm tin lý tính, sâu sắc, cách mạng, khoa học, có giá trị to lớn, cho
phép Người đưa ra những dự báo chính xác trước những diễn biến phức tạp, mau lẹ
của tình hình chính trị thế giới và trong nước. Năm 1944, trong Thư gửi đồng bào
toàn quốc, Hồ Chí Minh đã dự báo: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở
trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”[56,
tr.538]. Sau Cách mạng tháng Tám, khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược
nước ta lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục
khẳng định một niềm tin mãnh liệt rằng, “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng
với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”[57, tr.534].
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước một kẻ thù mạnh hơn ta về nhiều
mặt, nhưng Hồ Chí Minh luôn tin rằng, dù chiến tranh có thể kéo dài nhưng
nhân dân ta nhất định sẽ đánh thắng giặc Mỹ.
Trên cơ sở niềm tin chính trị, Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng tích cực nắm bắt
tình hình, có sách lược phù hợp, chuẩn bị tốt những điều kiện cần và đủ để thời cơ
cách mạng xuất hiện và chủ động nắm bắt, tận dụng thời cơ một cách triệt để, hiệu
quả nhất. Niềm tin chính trị Hồ Chí Minh có sức lan tỏa mạnh mẽ đến các thế hệ
cách mạng và quần chúng nhân dân, đã khích lệ ý chí, nghị lực, niềm tin và sức
sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
3.1.1.3. Phương pháp và phong cách chính trị của Hồ Chí Minh
Phương pháp chính trị là tổng hợp các cách thức, biện pháp để thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, lý tưởng chính trị, là một khâu hết sức quan trọng của quá trình
chính trị và có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của các quyết sách chính trị. Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ, một trong những nguyên nhân thất bại của các cuộc đấu tranh nhằm
thay đổi thể chế chính trị thuộc địa nửa phong kiến mà các sĩ phu yêu nước và nhân
dân Việt Nam tiến hành trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là do chưa
có phương pháp đấu tranh đúng đắn.
90
Trên cơ sở nhận rõ những hạn chế về phương pháp của các bậc tiền bối,
tiếp thu và vận dụng sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một hệ thống các
phương pháp cách mạng đó là: lấy thực tiễn Việt Nam làm cơ sở xuất phát để
hướng đến mục tiêu cải tạo và phát triển đời sống chính trị của nhân dân; động
lực cách mạng là toàn dân nên phải huy động lực lượng của toàn dân; kiên định
về chiến lược nhưng linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; tích cực, chủ động tạo
lực, lập thế và nắm bắt thời cơ cách mạng; đi từ nhỏ đến lớn, từ bộ phận đến
toàn thể, giành thắng lợi từng phần để đi đến thắng lợi hoàn toàn. Trong thực
tiễn đấu tranh cách mạng, các phương pháp trên đây luôn được Người sử dụng
đồng thời với tính cách là một phương pháp tổng hợp. Với việc sáng tạo các
phương pháp cách mạng, Hồ Chí Minh đã từng bước hiện thực hóa các mục
tiêu chính trị đã xác định, góp phần hình thành và phát triển VHCT.
Phương pháp kết hợp với phong cách trở thành một yếu tố quan trọng cấu
thành VHCT Hồ Chí Minh. Phong cách chính trị là những hoạt động có ý thức,
được rèn luyện trở thành nền nếp ổn định của một cá nhân, tập thể hay cộng
đồng người nhất định, tạo nên nét đặc trưng, có giá trị cho xã hội. Phong cách
có nguồn gốc từ thói quen, nhưng không phải mọi thói quen đều trở thành
phong cách. Những nền nếp, thói quen chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của một cá
nhân, một tập thể hay một bộ phận người nào đó mà ảnh hưởng đến quyền tự
nhiên bất khả xâm phạm của người khác hay đi ngược lại với lợi ích của số
đông thì không được gọi là phong cách. Phong cách không chỉ được phản ánh
trong một lĩnh vực cụ thể nào, mà nó được biểu hiện trong mọi hoạt động sống
của con người. Mỗi cá nhân và tập thể trong quá trình tồn tại và phát triển luôn
phải giải quyết nhiều mối quan hệ khác nhau, đáp ứng những chuẩn mực, yêu
cầu, đòi hỏi chung của xã hội. Vì vậy, phong cách gắn liền với mỗi cá nhân,
mỗi tập thể, cộng đồng và được phản ánh trong từng mối quan hệ, từng hoạt
động cụ thể. Một cá nhân hay tập thể có phong cách ở lĩnh vực này nhưng chưa
91
hẳn đã có phong cách ở lĩnh vực khác. Phong cách với tính cách là một bộ phận
cấu thành của văn hóa phải là những thói quen có thể tạo ra những giá trị vượt
trội hơn so với người khác, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, có tính
chất nhân văn, nhân đạo, được cộng đồng thừa nhận và chia sẻ.
Từ khi xã hội có phân hóa giai cấp, không một cá nhân nào có thể sống tách
rời khỏi chính trị mà luôn là một phần của chính trị, luôn có sự tương tác với bộ
phận quan trọng nhất của chính trị là nhà nước. Vì vậy, phong cách chính trị là
những nền nếp, thói quen có ý thức của các chủ thể trong quá trình ứng xử và tham
gia đời sống chính trị. Đó là những thói quen trong nhìn nhận mối quan hệ giữa thể
chế chính trị, hệ thống chính trị với công dân và vai trò của công dân trong thể chế
chính trị đó. Phong cách chính trị không chỉ thể hiện trong việc nhận thức tính chính
đáng hay không chính đáng của hệ thống chính trị hiện hành; vị trí, vai trò của giai
cấp đang thống trị về chính trị mà còn thể hiện trong những hành động thực tiễn để
duy trì, bảo vệ, củng cố, phát triển hay thay đổi một thể chế chính trị này bằng một
thể chế chính trị khác, tiến bộ, nhân văn và ưu việt hơn.
Phong cách chính trị Hồ Chí Minh là những nguyên tắc, lề lối được lặp đi, lặp
lại trong hoạt động lý luận và thực tiễn chính trị, tạo nên sự khác biệt và những giá
trị to lớn cho cách mạng Việt Nam, được biểu hiện ra trong quá trình tư duy chính
trị, diễn đạt tư tưởng chính trị, ứng xử chính trị và sử dụng quyền lực chính trị. Với
tính cách là một yếu tố cấu thành của VHCT, phong cách chính trị Hồ Chí Minh là
sự kết hợp nhuần nhuyễn, chắt lọc tinh hoa từ nhiều mẫu chủ thể chính trị khác
nhau. Ở đó, có nguyên tắc, nền nếp ứng xử của người lao động, chấp hành pháp
luật; của người cách mạng; của người lãnh đạo, người quản lý. Tuy nhiên, tất cả
những nguyên tắc, nền nếp, thói quen ứng xử chính trị đó đều xuất phát từ nhân dân
và trở về với nhân dân. Tức là, Người luôn lấy việc bảo đảm quyền con người và
quyền dân tộc làm tiêu chuẩn, thước đo để nhìn nhận, đánh giá và ứng xử với
những vấn đề chính trị cụ thể.
Phong cách chính trị Hồ Chí Minh thể hiện tập trung nhất ở nguyên tắc hành
động là “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
92
tránh”[57, tr.51]. Nguyên tắc đó luôn được quán triệt và thể hiện xuyên suốt, nhất
quán, chỉ đạo mọi ứng xử chính trị của Người, từ việc phân tích, đánh giá bản chất,
vị trí, vai trò của các giai cấp trong xã hội, lựa chọn hệ tư tưởng, mô hình nhà nước
đến việc xác định tiêu chí của một thể chế chính trị mới, cũng như đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong bộ máy nhà nước. Với phong cách chính trị Hồ Chí Minh: người
dân là chủ thể của chính trị, một thể chế chính trị thực sự chính đáng phải là đại diện
tin cậy cho lợi ích của các giai cấp, tầng lớp và phải đưa xã hội phát triển đúng quy
luật khách quan, xu thế thời đại; nhà nước là của dân, do dân, vì dân; cán bộ, công
chức là công bộc của dân; Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân. Phong cách chính trị Hồ Chí Minh không chỉ góp
phần tạo nên thành công trong sự nghiệp chính trị của Người, đưa lại những thắng
lợi to lớn có ý nghĩa thời đại cho cách mạng Việt Nam, mà còn phát huy cao độ vai
trò của nhân dân trong đời sống chính trị; làm cho những người mù chữ cũng không
đứng ngoài chính trị.
3.1.2. Các giá trị hành vi
3.1.2.1. Những hoạt động sáng tạo lý luận và thực tiễn chính trịNăng lực là khả năng tiến hành và đạt được các mục tiêu, lý tưởng trong quá
trình nhận thức và biến đổi hiện thực. Nguồn gốc của năng lực là những phẩm chất
nhân cách và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho phép chủ thể hoạt động hoàn
thành nhiệm vụ ở một hay một số lĩnh vực nhất định. Năng lực biểu hiện sự thống
nhất giữa những giá trị khách quan với những phẩm chất chủ quan và được nhìn
nhận ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau, vừa có tính chất cá nhân, vừa có tính chất
xã hội. Năng lực cá nhân không chỉ là sản phẩm, mà còn là một dạng biểu hiện của
năng lực xã hội, bị chi phối bởi năng lực của xã hội. Mặc dù vậy, năng lực của mỗi
cá nhân lại góp phần bồi đắp, nâng cao năng lực của tập thể, của cộng đồng, xã hội.
Mặt khác, dù là năng lực của cá nhân hay tập thể cũng chỉ được nhìn nhận thông
qua các hoạt động xã hội, trong môi trường xã hội. Và, hoạt động xã hội hay hoạt
động thực tiễn chính là thước đo năng lực của mỗi cá nhân, tập thể. Quá trình hình
thành năng lực của mỗi cá nhân vừa có nhân tố chủ quan, vừa có yếu tố khách
93
quan, trong đó nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định. Việc chủ động tiếp thu
những giá trị khách quan hay đem những tri thức, kinh nghiệm khách quan tác động
một cách có chủ đích để khơi dậy, phát huy những nhân tố chủ quan chính là con
đường cơ bản để hình thành năng lực cho mỗi cá nhân.
Năng lực chính trị không những là khả năng chiếm lĩnh, làm chủ các tri thức
chính trị, đánh giá đúng giá trị và hạn chế của các tri thức đó, lựa chọn, kế thừa,
phát triển và sáng tạo những tri thức mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn; mà còn
là khả năng biến những tri thức đó thành hiện thực trong đời sống chính trị, đáp ứng
nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân và phù hợp với xu thế thời đại.
Năng lực chính trị vừa là một khâu trong quá trình chính trị, vừa là một yếu tố quan
trọng tạo nên các giá trị hiện thực của chính trị. Nếu quá trình chính trị không đi đến
đích, không trở thành hiện thực thì mọi nhận thức đúng đắn, mục tiêu, lý tưởng
chính trị cao đẹp chỉ là lý thuyết, niềm tin chính trị sẽ trở thành chủ quan duy ý chí.
Với ý nghĩa đó, năng lực chính trị thực sự là một giá trị quan trọng của VHCT.
Năng lực chính trị Hồ Chí Minh biểu hiện trước hết trong việc lựa chọn, vận
dụng và phát triển sáng tạo một lý luận chính trị cách mạng, khoa học nhất, có thể
trả lời thấu đáo các câu hỏi lớn của cách mạng Việt Nam như: làm thế nào để giành
ĐLDT trước một kẻ thù có tính chất quốc tế là thực dân Pháp?; làm thế nào để có
được một đảng cách mạng chân chính của giai cấp vô sản dưới chế độ thuộc địa
nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn nhỏ bé?, và làm thế nào để giải quyết vấn
đề ĐLDT gắn liền với CNXH trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu như
Việt Nam?. Mặt khác, Hồ Chí Minh còn thể hiện một năng lực tuyệt vời trong việc
lựa chọn nội dung, hình thức và cách thức truyền bá lý luận vào quần chúng, trong
điều kiện chính quyền thực dân đang thực hiện chính sách ngu dân.
Năng lực chính trị Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở khả năng tổng kết lịch sử,
tổng kết thực tiễn và dự báo trước các diễn biến chính trị. Với tầm nhìn chiến lược
có phạm vi bao quát thời đại, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, Người đều đưa
ra những dự báo có độ chính xác gần như tuyệt đối. Khả năng dự báo của Hồ Chí
Minh là sản phẩm của việc nắm vững các nguyên tắc phương pháp luận của của
94
chủ nghĩa Mác - Lênin; nắm vững quy luật vận động, phát triển khách quan của
mỗi sự vật, hiện tượng; nhận thức đúng đắn vai trò và mối quan hệ biện chứng giữa
các yếu tố khách quan, chủ quan và khả năng phân tích hàng loạt các dữ kiện chính
trị trong nước và quốc tế. Những dự báo đó có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ
vững lập trường, củng cố niềm tin của bản thân Người và của nhân dân ta vào mục
tiêu, con đường chính trị đã lựa chọn. Mặt khác, những dự báo đó còn giúp Đảng ta
điều chỉnh kịp thời các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể để tạo ra sự tương hợp giữa các
yếu tố khách quan - chủ quan, trong nước - quốc tế, dân tộc - thời đại mà từ đó sẽ
xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng.
Nội dung quan trọng nhất của năng lực chính trị Hồ Chí Minh là khả năng sử
dụng các lực lượng vật chất để hiện thực hóa các mục tiêu chính trị. Với tri thức và
kinh nghiệm chính trị phong phú, Người đã sử dụng các lực lượng vật chất như báo
chí và các diễn đàn quốc tế để vạch trần bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân
và tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào Cộng sản, công nhân quốc tế cho sự nghiệp
GPDT của Việt Nam; Người không chỉ sáng lập mà còn rèn luyện Đảng Cộng sản
Việt Nam trở thành một Đảng cách mạng chân chính, nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Người đã sáng lập Mặt trận Việt Minh và kêu gọi mọi
người Việt Nam yêu nước tích cực tham gia vào các tổ chức, đoàn thể nhân dân,
phát huy tinh thần tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng. Mặc dù chưa có
chính quyền, nhưng cần có bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng
trong quá trình lật đổ nhà nước thực dân, phong kiến và thiết lập nhà nước Dân chủ
Nhân dân, Người đã chỉ đạo thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
- tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này.
Với khả năng dự báo và hiện thực hóa mục tiêu chính trị, Hồ Chí Minh đã
sớm chuẩn bị cho tính chính đáng, tính nhân dân và tính hợp pháp, hợp hiến của
một nhà nước dân chủ. Trong 24 năm trên cương vị đứng đầu nhà nước, năng lực
chính trị Hồ Chí Minh còn thể hiện ở khả năng truyền cảm hứng cách mạng; cảm
hóa, thu phục nhân tâm để tạo nên sự đồng thuận xã hội đối với các chủ trương lớn
của Đảng, nhà nước; xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng, củng cố, tăng
95
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thiết lập và tăng cường sự đoàn kết giữa các
Đảng Cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và nhân dân yêu chuộng hòa
bình trên thế giới. Với kết quả vận dụng, phát triển sáng tạo và hiện thực hóa chủ
nghĩa Mác - Lênin trên nhiều lĩnh vực, Hồ Chí Minh đã trở thành mẫu mực của sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa nói và làm, giữa tư tưởng và tấm gương
đạo đức. Mặt khác, năng lực tư duy lý luận, tổ chức thực tiễn cùng những đóng góp
to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng
GPDT, nhà văn hóa kiệt xuất mà còn trở thành nhà chính trị, nhà tư tưởng lỗi lạc
của Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX.
3.1.2.2. Xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
để thực hiện các mục tiêu chính trị
Đoàn kết là sự liên kết chặt chẽ của số đông người có chung mục đích, lý
tưởng, lợi ích, nguyện vọng để tạo nên sự đồng thuận về ý chí và hành động nhằm
đạt được hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn. Với tính cách là một bộ phận,
nhưng là bộ phận năng động nhất của thế giới, con người luôn là chủ thể của mọi
hoạt động nhận thức cũng như cải tạo tự nhiên và xã hội. Để chống lại sự tác động
tiêu cực của tự nhiên và sự xâm hại từ những cá nhân hay cộng đồng khác, ngay từ
sớm, con người đã liên kết với nhau thành từng nhóm. Cùng với quá trình phát triển
của xã hội, hình thức của sự liên kết đó cũng dần thay đổi, từ hình thức thị tộc, bộ
lạc phát triển thành các quốc gia, dân tộc. Bản chất của đoàn kết không chỉ là sự tự
nguyện đóng góp sức mạnh của mỗi cá nhân để tạo nên một động lực lớn hơn trong
việc bảo vệ các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của mỗi người, đoàn kết còn là
sự thỏa thuận về mặt ý chí trong việc thiết lập một môi trường xã hội mà ở đó, ý chí
riêng của cá nhân phải tôn trọng và tuân thủ ý chí chung của cộng đồng.
Đoàn kết là yêu cầu khách quan, là yếu tố cực kỳ quan trọng trong quá trình
tồn tại, phát triển của con người, không chỉ là cơ sở nền tảng, mà còn là động lực
của chính trị, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo, tất cả vì sự tiến bộ của xã hội. Thực
tế cho thấy, nhà nước nói riêng, chế độ chính trị nói chung chính là kết quả của sự
đoàn kết. Nhân dân có thể đoàn kết lại để thiết lập, bảo vệ một chế độ chính trị này,
96
hay lật đổ nó để thiết lập một chế độ chính trị khác. Mặc dù là sản phẩm của sự
đoàn kết, nhưng nhà nước lại có vai trò ảnh hưởng to lớn đến tính chất, mức độ,
phạm vi của đoàn kết. Bởi lẽ, đoàn kết chỉ có được trên cơ sở nhận thức rõ sự cần
thiết, mục tiêu, lợi ích và có hình thức, cơ chế phù hợp, thuận tiện để mọi người
đóng góp sức lực, trí tuệ của mình. Như vậy, giữa đoàn kết và chính trị có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, đoàn kết vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chính
trị. Việc giải quyết hài hòa mối quan hệ này vì lợi ích, nguyện vọng của quảng đại
quần chúng nhân dân, vì sự tiến bộ chung của nhân loại chính là một trong những
nội dung cơ bản, quan trọng nhất của VHCT.
Hồ Chí Minh luôn cho rằng, đoàn kết là vấn đề chiến lược, lâu dài, không chỉ
trong cách mạng GPDT mà cả trong cách mạng XHCN; không chỉ đoàn kết toàn
dân tộc mà còn kết hợp đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế để mở rộng phạm vi
đại đoàn kết. Tư tưởng này là kết quả của việc nhận thức rõ nét tương đồng về thân
phận và quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn thế giới trước sự
bóc lột, áp bức của giai cấp tư sản và sự cần thiết phải thực hiện đoàn kết quốc tế
trong quá trình đấu tranh chống kẻ thù chung. Vì vậy, Người đã mở rộng khẩu hiệu
đoàn kết của Lênin “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”
thành khẩu hiệu “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”[54, tr.496]. Trên cơ sở
thấu hiểu sâu sắc đặc điểm, cấu trúc kinh tế, xã hội của các nước phương Đông,
trong đó có Việt Nam, Người cho rằng, việc đánh đuổi thực dân Pháp, giành ĐLDT
và quyền tự quyết định con đường phát triển của đất nước vừa là trách nhiệm, vừa
là quyền lợi của mọi người, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tín ngưỡng, tôn
giáo... Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hòa tính phổ biến của thế giới với tính đặc thù
của Việt Nam trong khi đồng thời thừa nhận quy luật chung về vai trò của đấu tranh
giai cấp cũng như đoàn kết giai cấp trong phát triển xã hội.
Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung, của sự nghiệp chính trị Hồ
Chí Minh nói riêng đều bắt nguồn từ việc Người đã nhận thức đúng và giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề đoàn kết với quá trình thực hiện các mục tiêu
chính trị. Cùng với việc lựa chọn hệ tư tưởng, xác định mục tiêu, con đường cách
97
mạng, vấn đề được Người quan tâm hàng đầu là xây dựng sự đoàn kết. Theo
Người, chỉ có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh cần thiết để xóa bỏ chế độ thuộc địa,
nửa phong kiến - một chế độ chính trị phản dân chủ, tàn bạo, bất công, vô nhân đạo,
đã và đang xâm phạm nghiêm trọng quyền con người và quyền dân tộc. Người chỉ
rõ: “Nếu bọn đế quốc áp bức chúng ta và đối xử với chúng ta như loài vật, đó là vì
chúng ta không đoàn kết! Nếu chúng ta đoàn kết chúng ta sẽ trở nên đáng gờm” và
Người kêu gọi: “Chúng ta nên sớm đoàn kết lại! hãy hợp lực để đòi quyền lợi và tự
do của chúng ta! Hãy hợp lực để cứu lấy nòi giống chúng ta”[55, tr.499].
Trong tư tưởng và hành động chính trị Hồ Chí Minh, đoàn kết vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Theo Người, đoàn kết là cội
nguồn của mọi thắng lợi, mọi thành công trong cải tạo hiện thực; tính chất,
mức độ, phạm vi của đoàn kết và thành công luôn tỷ lệ thuận với nhau, có
đoàn kết mới có thành công, đoàn kết càng chặt chẽ, sâu rộng, thành công
càng lớn và ngược lại. Vì vậy, Người xác định, đại đoàn kết vừa là mục tiêu,
vừa là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và của dân tộc. Đảng chỉ có thể đạt
được mục tiêu, lý tưởng của mình khi có đủ lực lượng để thực hiện các chủ
trương, đường lối đã xác định. Điều đó đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng
là Đảng phải đoàn kết mọi người có thể đoàn kết được, tranh thủ mọi lực
lượng có thể tranh thủ được. Mặt khác, đoàn kết để có đủ lực lượng trong cải
tạo và biến đổi hiện thực vì lợi ích của nhân dân, do đó nó phải là trách
nhiệm của toàn dân, của cả dân tộc. Trong buổi ra mắt của Đảng Lao động
Việt Nam ngày (3.3.1951) Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước
toàn thể dân tộc rằng: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm
trong tám chữ là “Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”[60, tr.49]. Phụng sự
Tổ quốc không chỉ là GPDT mà quan trọng hơn là đưa dân tộc phát triển
đúng quy luật khách quan, xu thế thời đại, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh
phúc, được tạo điều kiện để phát triển toàn diện. Vì vậy, trong bài nói
chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi ngày (31.8.1963) về cách mạng
XHCN. Người chỉ rõ: “Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là
98
đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước
nhà”[67, tr.161]. Ba nhiệm vụ chiến lược trên đây có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Đoàn kết để xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất nước
nhà. Ngược lại, muốn xây dựng CNXH và đấu tranh cho sự nghiệp thống
nhất Tổ quốc phải thực hiện đoàn kết và đại đoàn kết.
Để hiện thực hóa các mục tiêu, lý tưởng chính trị, Hồ Chí Minh luôn
quan tâm xây dựng và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Và, theo Người,
đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân, mà toàn dân là mọi người Việt
Nam yêu nước, trong đó, công nhân, nông dân là lực lượng đông đảo nhất,
cho nên họ là nền tảng của khối đại đoàn kết. Toàn dân tộc là một khối vừa
thống nhất, vừa đa dạng về giai cấp, tầng lớp, nguyện vọng, lợi ích… nhưng
có mục tiêu chung là thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng. Do đó,
Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết phải trên cơ sở lập trường của giai cấp công
nhân, đoàn kết phải gắn liền với đấu tranh và đấu tranh để đoàn kết được
đúng hướng và ngày càng được củng cố, tăng cường. Mặt khác, muốn đoàn
kết phải xóa bỏ hết mọi thành kiến, thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ; phải đề cao tinh thần khoan dung, độ lượng với những sai lầm,
khuyết điểm của con người, tin vào khả năng hướng thiện của con người;
đồng thời phải tôn trọng những nét riêng, sự khác biệt về bản sắc văn hóa,
nguyện vọng, lợi ích mà không ảnh hưởng, không xâm hại đến mục tiêu, lợi
ích chung của cộng đồng, của quốc gia dân tộc. Người thường căn dặn rằng,
“Bất kỳ ai, dù quá khứ của họ thế nào, miễn là ngày nay họ thật lòng ủng hộ
công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, thì chúng ta
đoàn kết với họ”[66, tr.453]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, muốn có đoàn kết
phải thực hiện phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy ĐLDT, thống nhất Tổ
quốc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm điểm tương đồng để đoàn kết.
Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở quan điểm, tư tưởng đề cao vai trò của
đoàn kết mà bằng các hoạt động thực tiễn, Người đã tạo ra các hình thức tổ
chức phù hợp với từng thời kỳ cách mạng để đoàn kết thực sự trở thành sức
99
mạnh vật chất trong quá trình hiện thực hóa các mục tiêu chính trị. Người đã
khẳng định: “Cách mạng nhờ đoàn kết mà thắng lợi, kháng chiến nhờ đoàn kết
mà thành công”[64, tr.367]. Như vậy, chiến lược đại đoàn kết là một khâu quan
trọng trong quá trình chính trị, là yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp
chính trị Hồ Chí Minh và là một giá trị quan trọng trong VHCT của Người.
3.1.2.3. Xây dựng hệ thống chính trị bảo đảm mọi quyền lực thuộc
về nhân dân
Hệ thống chính trị là mô hình tổ chức quyền lực chính trị, bao gồm một
tập hợp các yếu tố, các bộ phận quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh
thể thống nhất, có chức năng thực thi quyền lực của giai cấp thống trị và chi
phối toàn bộ các quan hệ lợi ích của xã hội. Các bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị bao gồm, các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức xã hội dân sự,
trong đó nhà nước là bộ phận chi phối trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến đời sống
chính trị của mọi công dân. Hệ thống chính trị với các yếu tố đặc trưng như:
bản chất giai cấp; hệ tư tưởng; mục tiêu, lý tưởng và các thiết chế mà nó tạo ra
để phân bổ các giá trị xã hội là biểu hiện tập trung nhất VHCT của một quốc
gia, dân tộc. Thực tế cho thấy, do đặc trưng giai cấp của hệ thống chính trị cũng
như tính đa dạng của nhân dân mà cùng một hệ thống chính trị luôn có những
xu hướng đánh giá, ứng xử khác nhau và tính chính đáng, đúng đắn của hệ
thống chính trị cũng như của VHCT luôn thuộc về số đông. Mặc dù vậy, việc
thay đổi hệ thống chính trị này bằng một hệ thống chính trị khác bao giờ cũng
bắt đầu từ một cá nhân nhà chính trị hay lãnh tụ chính trị cụ thể.
Nhận rõ vai trò quan trọng của đảng chính trị, Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ
động chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức để xây dựng một chính đảng cách
mạng ở Việt Nam. Cuộc vận động thành lập Đảng do Hồ Chí Minh tiến hành với
cách làm thận trọng, sáng tạo, kết hợp quy luật phổ biến mà chủ nghĩa Mác - Lênin
đã chỉ ra với quy luật đặc thù của Việt Nam, một chính đảng thực sự cách mạng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc đã ra đời vào đầu năm
1930. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
100
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đại biểu trung thành cho lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của
dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”[65, tr.402]. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước và đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nói về vai trò của Đảng đối với
cách mạng, Người chỉ rõ: “Có Đảng lãnh đạo, cách mạng và kháng chiến mới thắng
lợi, kiến quốc mới thành công”[61, tr.273].
Cuộc cách mạng mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn và nhân dân ta tiến hành dưới
sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH là cuộc cách mạng
sâu sắc, toàn diện, triệt để nhất trong lịch sử nhân loại và chưa từng có tiền lệ trong
lịch sử dân tộc. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phải đi từng bước, giành
thắng lợi từng phần để tiến tới thắng lợi cuối cùng. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng là
hết sức quan trọng và cần thiết, cả trong cách mạng GPDT cũng như trong cách
mạng XHCN. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng
biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách
mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”[68, tr.391].
Với sự quan tâm sâu sắc của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không
ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, luôn quán triệt và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể để đề ra chủ trương,
đường lối lãnh đạo đúng đắn, xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đạt được những
thắng lợi ấy là do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó nguyên nhân cơ bản nhất là:
“Đảng ta luôn luôn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối trung thành
với lợi ích của giai cấp và của nhân dân, biết vận dụng lý luận Mác - Lênin vào tình
hình thực tế của nước ta và đề ra đường lối, chính sách đúng đắn”[65, tr.416].
Để bảo đảm cho Đảng giữ vững vai trò là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống
chính trị dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh
101
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng. Người đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để đáp
ứng những yêu cầu mới luôn được đặt ra trong quá trình vận động, phát triển của
cách mạng. Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, nhận rõ cơ sở ra đời, tồn
tại và mục tiêu phấn đấu của Đảng chính là lợi ích, nguyện vọng của nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền kể từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945 và từ đó đến nay, Đảng luôn giữ vững vị trí hạt nhân lãnh đạo và
vai trò là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, giữa
Đảng và Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Nhà nước mang bản chất giai
cấp của Đảng, là bộ máy quyền lực công, là nơi thể chế các chủ trương, đường lối
của Đảng thành chính sách, pháp luật và hiện thực hóa các mục tiêu, lý tưởng của
Đảng trong đời sống chính trị. Cùng với việc quan tâm xây dựng Đảng, Hồ Chí
Minh đã rất quan tâm đến việc xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước.
Tiếp thu giá trị VHCT của nhân loại về quyền bình đẳng giữa tất cả mọi
người, Hồ Chí Minh cho rằng, nhà nước phải là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Với chủ trương trên, sau khi lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, Hồ
Chí Minh sớm nghĩ đến việc bảo đảm tính hợp pháp, hợp hiến cho Chính phủ lâm
thời, mặc dù Chính phủ đó đã có tính chính đáng về mặt hình thức và đang trong
tình thế khó khăn bởi sự chống phá của thù trong, giặc ngoài. Tuy nhiên, ngay trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời vào ngày 03-9-1945, Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh việc, dưới chế độ cũ, nước ta không có Hiến pháp nên nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do dân chủ. Do vậy, Người đề nghị “Chính phủ tổ
chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”[57,
tr.7]. Sau đó, trong bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của dân tộc, do Người chủ trì
soạn thảo - bản Hiến Pháp thể hiện đậm nét tính dân chủ, nhân văn và khoa học, là
cơ sở cho sự phát triển của lịch sử lập Hiến ở Việt Nam. Bản Hiến pháp đã khẳng
định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả mọi quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”[dẫn theo 70, tr.14].
102
Cùng với việc chăm lo bảo đảm tính hợp hiến và hiệu lực pháp lý của nhà
nước, Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đức,
có tài, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người nói,
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy
cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân
công làm đày tớ cho dân”[60, tr.434]. Để Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa thực sự là nơi đại diện, tập trung ý chí chính trị, là công cụ thực thi quyền
lực chính trị của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chính phủ phải thi hành
một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống nhân dân, cứu tế thất
nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế văn hóa…Có như thế, dân
chúng mới đoàn kết chung quanh chính phủ”[57, tr.258-259].
Với tư cách là người sáng lập Đảng (1930) và là Chủ tịch nước (1945),
Chủ tịch Đảng (1951), Hồ Chí Minh đã xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam luôn hoàn thành tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ, góp phần
hoàn thiện hệ thống chính trị thực sự vì nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị biểu hiện ở trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước đối với nhân dân. Người nói: “chính sách của Đảng và
Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân
đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và chính phủ có lỗi; nếu
dân dốt là Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi”[62, tr.518].
Tư tưởng và hoạt động cụ thể của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nhà
nước trong hệ thống chính trị đã thể hiện những giá trị mới của VHCT Việt
Nam. Tuy nhiên, để bảo đảm sự tham gia ngày càng sâu, rộng của nhân dân
vào đời sống chính trị và tạo điều kiện để người dân đóng góp sức lực, trí
tuệ của mình cho sự nghiệp cách mạng, Người đã rất quan tâm đến việc xây
dựng các tổ chức, đoàn thể phù hợp với lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp của
nhân dân. Các tổ chức đó không chỉ là cơ sở xã hội của Đảng, Nhà nước, là
103
động lực để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng mà còn là nơi đại diện cho
tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng,
Nhà nước, bảo đảm cho nhân dân đóng vai trò ngày càng tích cực trong đời
sống chính trị.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh nhằm lật đổ chế độ chính
trị cũ, thiết lập chế độ chính trị mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Do đó, Người luôn tìm tòi, sáng tạo các hình thức phù hợp để đoàn kết và phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, “đem hết sức dân, tài dân, của dân…làm lợi cho
dân”[58, tr.75]. Một hình thức rộng lớn, bao trùm nhất bảo đảm cho sức mạnh của
khối đại đoàn kết ngày càng được mở rộng và phát huy, đó là hình thức Mặt trận.
Mặc dù có những tên gọi khác nhau trong từng thời kỳ cách mạng nhưng về bản
chất, nó chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi để tập hợp tất cả mọi giai cấp, tầng lớp
với nguyên tắc đặt mục tiêu, lợi ích, nguyện vọng chung lên trên mục tiêu, lợi ích
của bộ phận giai cấp. Nguyên tắc này không những chỉ đạo việc giải quyết mối
quan hệ giữa dân tộc với giai cấp mà còn chỉ đạo việc xác định tôn chỉ, mục đích
hoạt động của Mặt trận và vị trí, vai trò của các thành viên trong Mặt trận.
Về mối quan hệ giữa Mặt trận với các bộ phận khác của hệ thống chính
trị, Hồ Chí Minh cho rằng, Mặt trận dân tộc thống nhất bao hàm trong nó
mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, là nơi tập hợp sức mạnh của nhân dân để
thực hiện các mục tiêu chung phù hợp với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp
công nhân mà Đảng là người đại diện. Người chỉ rõ, “Công tác Mặt trận là
một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng... Trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của
cách mạng Việt Nam”[66, tr.453]. Do vậy, Đảng là lực lượng lãnh đạo toàn
xã hội, đương nhiên Mặt trận phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng
Đảng chỉ là một thành viên của Mặt trận, có trách nhiệm tuân thủ tôn chỉ,
mục đích và nguyên tắc hoạt động của Mặt trận. Với nguyên tắc, nhân dân là
tối cao, tất cả đều vì dân, nhân dân chỉ đoàn kết vì lợi ích chung, chỉ thừa
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng khi Đảng thực sự vì dân. Hồ Chí Minh đã chỉ
104
rõ: “Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của
mình...chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi
thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới
giành được địa vị lãnh đạo”[56, tr.168].
Thực tiễn luôn chứng minh tính đúng đắn của quan điểm Hồ Chí Minh,
“Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết của nhân dân”[63, tr.453]. Tuy nhiên, sức mạnh đó chỉ có thể
vượt qua trạng thái tiềm năng để trở thành hiện thực thông qua hoạt động của Mặt
trận dân tộc thống nhất mà cụ thể là các tổ chức, đoàn thể nhân dân. Vì vậy, trong
xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị dân chủ nhân dân, cùng với việc chăm lo
xây dựng Đảng, Nhà nước, Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng, củng cố, mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất để bảo đảm cho nhân dân thực thi quyền lực chính trị
của mình. Đây là một giá trị cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.
3.1.3. Các giá trị nhân cách
3.1.3.1. Luôn đề cao vai trò của nhân dân, trọng dân, thân dân, mọi suy
nghĩ và hành động cách mạng đều vì quyền lợi của dân
Tư tưởng và hành động cụ thể trong ứng xử với nhân dân không chỉ là nguồn
gốc sâu xa tạo nên sự nghiệp chính trị Hồ Chí Minh mà còn là một giá trị nổi bật
của VHCT mà Người để lại cho Đảng và dân tộc ta. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhân dân là cộng đồng người bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau nhưng
đều là gốc của quốc gia, dân tộc; vừa là cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của
chính trị vừa là chủ thể của chính trị. Mặc dù vậy, trên thực tế quyền lực chính trị
thường chỉ được bảo đảm cho những người thuộc giai cấp thống trị. Do đó, lịch sử
phát triển của xã hội loài người cũng đồng thời là lịch sử đấu tranh cho việc mở
rộng đối tượng là chủ thể của chính trị và bảo đảm cho các chủ thể đó tham gia
ngày càng sâu, rộng và thể hiện ngày càng rõ hơn vai trò của mình trong đời sống
chính trị. Thực tiễn lịch sử cho thấy, chỉ có quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nhân dân là quan điểm đúng đắn, cách mạng, khoa học nhất và cũng chỉ có
CNXH là chế độ xã hội bảo đảm đầy đủ nhất quyền lực chính trị của nhân dân. Vì
105
vậy, việc đề cao vai trò của nhân dân trong đời sống chính trị và hướng mọi hoạt
động của các chủ thể chính trị đến mục tiêu xây dựng thành công CNXH là tiêu chí
đánh giá VHCT trong thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh có nhiều cách diễn đạt và tiếp cận khác nhau về nhân dân,
nhưng đều đề cập đến số đông quần chúng trong xã hội. Tiếp cận từ góc độ nguồn
gốc, Người cho rằng, nhân dân là những người có chung một cội nguồn, chung một
tổ tiên, đều là “con Lạc, cháu Hồng”, đều là anh em, ruột thịt. Từ góc độ bản sắc
văn hóa của cộng đồng người, Hồ Chí Minh quan niệm, nhân dân là những người
trong cùng một quốc gia, một lãnh thổ thống nhất, có những nét chung về tiếng nói,
chữ viết, phong tục, tập quán…Từ góc độ chính trị, Người quan niệm “Nhân dân là
bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu
nước”[61, tr.264]. Nội hàm khái niệm nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn
được đề cập ở phạm vi rộng hơn, bao hàm cả nghĩa quốc tế, nhân loại, đó là giai cấp
công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đang đấu tranh chống lại sự nô dịch,
áp bức để giành ĐLDT, tự do và một môi trường thế giới hòa bình, tiến bộ.
Với quan điểm, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, Hồ Chí Minh luôn
khẳng định, cách mạng là một quá trình nhằm trả lại địa vị chủ thể quyền lực chính
trị của nhân dân, không phân biệt, giai cấp, tầng lớp, tín ngưỡng, tôn giáo. Để thực
hiện mục tiêu đó, Người đã xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân để lựa chọn hệ
tư tưởng, lý tưởng và mục tiêu chính trị. Trước khi tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân, Người đã tiếp xúc với nhiều học thuyết chính trị khác nhau, nhưng cuối
cùng, chính chủ nghĩa nhân văn, lòng yêu thương con người và tư tưởng tất cả vì
nhân dân đã giúp Hồ Chí Minh lựa chọn, tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn
lý tưởng xây dựng một chế độ chính trị thực sự của dân, do dân, vì dân. Thấu hiểu
nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của nhân dân là được độc lập, tự do, ấm no, hạnh
phúc. Hồ Chí Minh đã lựa chọn và đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường
cách mạng vô sản, với mục tiêu chính trị là ĐLDT gắn liền với CNXH. Đây là con
đường duy nhất đúng đắn đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
106
VHCT Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư tưởng và hành động đề cao vai trò của
nhân dân, tôn trọng dân, học hỏi dân, xuất phát từ dân để xác định lực lượng và
phương pháp cách mạng. Với quan điểm: “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”[65, tr.672], Người
luôn chủ trương làm tốt công tác dân vận để tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp và phát
huy sức mạnh của toàn dân, làm cho nhân dân hiểu rõ nghĩa vụ, trách nhiệm và
quyền lợi của mình trong đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng, “Vì bị áp
bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng
bền, chí cách mệnh càng quyết”[55, tr.288]. Do vậy, ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến như Việt Nam, giai cấp công nhân cùng với giai cấp nông dân là động
lực chủ yếu của cách mạng và trong cuộc đấu tranh đó “nếu thua thì chỉ mất một cái
kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới”[55, tr.288]. Xuất phát từ quan điểm, cách
mạng là của dân, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng bạo lực cách mạng, tức là bạo
lực của toàn dân có tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng để phát huy được sức
mạnh của toàn dân. Người khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ
thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”[68, tr.391]. Với quan
điểm, nhân dân là cội nguồn của mọi tri thức, mọi sáng tạo lịch sử, Hồ Chí Minh
không chỉ tự mình chân thành học hỏi dân mà còn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải
tích cực, chủ động gần dân, học dân, đúc rút kinh nghiệm từ nhân dân. Người chỉ
rõ: “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học
dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng”[58, tr.333].
Trong VHCT Hồ Chí Minh, vấn đề độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vừa là điểm khởi đầu, vừa
là mục tiêu cuối cùng của mọi chiến lược và sách lược cách mạng. Trên cơ sở kiên
định mục tiêu chiến lược là ĐLDT gắn liền với CNXH, trong chỉ đạo thực tiễn, Hồ
Chí Minh luôn xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng thiết thực của nhân dân và thực
tiễn đất nước trong từng thời kỳ để xác định sách lược cụ thể trên các lĩnh vực,
107
chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, bảo đảm linh hoạt, mềm dẻo và mang lại hiệu
quả thiết thực cho cuộc sống của nhân dân.
Hồ Chí Minh nhất mực đề cao vai trò của nhân dân nói chung nhưng
không đánh đồng vai trò đó ở mọi bộ phận dân cư. Theo Người, trong nhân
dân luôn có ba hạng người, đó là, “hạng hăng hái, hạng vừa và hạng kém.
Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa, nhiều hơn hết, hạng hăng
hái và hạng kém đều ít hơn”[58, tr.329]. Vì vậy, trong mỗi tổ chức, mỗi cấp,
mỗi ngành, trước khi triển khai thực hiện một nhiệm vụ nào đó, người lãnh
đạo cần phải dùng nhóm hăng hái làm trung kiên, nòng cốt. Và, thông qua
hoạt động thực tiễn để sàng lọc, bổ sung nhóm hăng hái, trung kiên, nâng
cao hạng vừa và kéo hạng kém tiến lên. Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ
khẳng định vai trò nền tảng của nhân dân mà còn nhận thấy vai trò to lớn có
tính chất quyết định của đảng chính trị cũng như của các nhà chính trị và đội
ngũ cán bộ, đảng viên với việc phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân
trong tiến trình lịch sử.
3.1.3.2. Luôn hài hòa giữa đạo đức với pháp luật, giữa đạo đức chính trị với
cách thức đạt được các mục tiêu chính trị
Hồ Chí Minh là một lãnh tụ chính trị quan tâm nhiều nhất đến đạo đức, Người
không những chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa đạo đức với hiệu quả lãnh đạo của
người đảng viên, giữa đạo đức với tồn tại xã hội, mà còn chỉ rõ tính vượt trước của
đạo đức đối với sự vận động, phát triển của xã hội. Theo Hồ Chí Minh, người cách
mạng nếu không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân. Mặt khác, Người còn khẳng định vai trò của đạo đức là yếu tố thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của cách mạng, sự ra đời của chế độ xã hội mới khi
chứng minh rằng, chủ nghĩa cá nhân là một trở lực lớn của CNXH. Vì vậy, Người
quan tâm rất nhiều đến việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên,
nhằm góp phần tạo ra một môi trường xã hội mới, làm cơ sở để xây dựng một nền
đạo đức mới. Với nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết và sự nêu gương về đạo đức, Hồ
Chí Minh đã chỉ ra vị trí, vai trò, chuẩn mực và nguyên tắc xây dựng đạo đức cách
108
mạng và để lại một tấm gương sáng ngời về đạo đức của người cộng sản - một giá
trị mang tầm biểu tượng trong VHCT của Người.
Coi trọng và đề cao vai trò của đạo đức cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không
tuyệt đối hóa đạo đức, mà Người luôn chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa đạo đức
với pháp luật. Trong đó, đạo đức là gốc, là cơ sở, nền tảng của pháp luật, nhưng
pháp luật lại là yếu tố bảo đảm cho đạo đức được hoàn thiện và phát triển phù hợp
với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, ngay từ năm 1919, Người đã đòi hỏi
chính quyền thực dân Pháp phải cai trị nhân dân An Nam bằng pháp luật. Tuy
nhiên, yêu cầu đó chỉ được hiện thực hóa khi chính quyền về tay nhân dân sau Cách
mạng Tháng tám 1945. Trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh không chỉ quan
tâm xây dựng nền đạo đức mới, mà còn quan tâm sâu sắc đến việc hoàn thiện Hiến
pháp, pháp luật và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Người yêu cầu “Pháp
luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề
nghiệp gì”[59, tr.127].
Đạo đức chính trị là bộ phận cốt lõi của đạo đức cách mạng, bao gồm những
nguyên tắc, chuẩn mực và định hướng ứng xử, có tác dụng chi phối, điều chỉnh
hành vi của mỗi chủ thể trong đời sống chính trị, góp phần xây dựng một nền chính
trị nhân văn, nhân đạo, tất cả vì con người. Chính trị chỉ thực sự trở thành văn hóa,
có giá trị văn hóa khi tất cả hệ thống cùng các yếu tố cấu thành của nó như: mục
tiêu, lý tưởng, phương pháp, phương tiện và mỗi chủ thể đều lấy nhân dân làm đối
tượng tối cao để phục vụ và hướng tới việc bảo đảm cho con người ngày càng được
giải phóng. Nếu đi ngược lại hoặc không bảo đảm được tiêu chí này, chính trị chỉ là
những thủ đoạn của cá nhân hay nhóm lợi ích nào đó, và khi ấy, chính trị thậm chí
còn là phản văn hóa. Vì vậy, việc lựa chọn, xác lập và xây dựng một mô hình chính
trị mà các yếu tố, các bộ phận của nó đều đặt lợi ích của cộng đồng, quốc gia dân
tộc lên trên hết là một giá trị hết sức quan trọng của VHCT.
Hồ Chí Minh đã hy sinh cả cuộc đời để làm chính trị nhưng không vì bản
thân mình mà chỉ có một mục đích là đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân. Vì vậy, Người không chỉ để lại một di sản chính trị vẻ vang mà còn
109
để lại một tấm gương sáng ngời về đạo đức chính trị, làm cho sự nghiệp cách
mạng của Người cũng như của nhân dân Việt Nam thực sự có giá trị văn hóa
cao. Nguyên tắc bất biến chỉ đạo mọi hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh là
GPDT phải gắn liền với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Nguyên tắc này
là cơ sở để Người xác lập các chuẩn mực đạo đức: trung, hiếu, cần kiệm liêm
chính, yêu thương con người…và định hướng cho các hành vi chính trị. Đạo
đức chính trị là cơ sở để Hồ Chí Minh ứng xử với các học thuyết chính trị, nhìn
nhận tấm gương của các nhà chính trị và lựa chọn xây dựng thể chế chính trị.
Với đạo đức chính trị Hồ Chí Minh, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là học
thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất; chỉ có Cách mạng Tháng
mười Nga là thành công đến nơi; chỉ có Lênin là tấm gương mẫu mực về đạo đức
chính trị của người cộng sản. Viết về tấm gương đạo đức của Lênin, Hồ Chí Minh
cho rằng, “Không chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh
thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và
cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á…”[53, tr.317].
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập tấm gương đạo đức của Lênin, Hồ
Chí Minh đã để lại một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân, suốt
đời phấn đấu làm công bộc tận tụy của dân; về sự giản dị, khiêm tốn, nhiệt tình,
trách nhiệm với công việc; về ý chí nghị lực, tinh thần chủ động, sáng tạo vượt
qua mọi khó khăn để đạt được mục tiêu chính trị đã xác định. Người đã khẳng
định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và
hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào
chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”[57, tr.272].
Đạo đức chính trị Hồ Chí Minh là cơ sở để Người đoàn kết, tập hợp được
đông đảo quần chúng nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng, tranh thủ được sự
giúp đỡ to lớn cả về vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới cho sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc của nhân dân ta. Đạo đức chính trị làm cho Hồ Chí
Minh trở nên gần gũi với tất cả mọi người dù họ ở địa vị, cương vị và giai cấp,
110
tầng lớp nào, kể cả những người đối lập về hệ tư tưởng cũng như mục tiêu, lý
tưởng. Bởi vì, với tinh thần nhân văn cao cả và tấm lòng khoan dung, độ lượng,
Hồ Chí Minh không coi ai vĩnh viễn là kẻ thù. Người luôn nhìn nhận sự vật,
hiện tượng với trạng thái biểu hiện của quá trình vận động, phát sinh, phát triển
trong môi trường tự nhiên, chính trị, xã hội nhất định. Do vậy, trong tư tưởng
và hành động chính trị Hồ Chí Minh, việc đánh đổ chủ nghĩa thực dân là đánh
đổ địa vị giai cấp và tước bỏ những điều kiện thống trị của nó chứ không phải
là tiêu diệt những cá nhân thuộc giai cấp tư sản.
Không chỉ tự mình rèn luyện và nêu tấm gương sáng về đạo đức chính trị, Hồ
Chí Minh còn luôn quan tâm xây dựng đạo đức cách mạng, đặc biệt là đạo đức
chính trị cho cán bộ, đảng viên. Người cho rằng “Đảng có vững cách mệnh mới
thành công”. Do vậy, Đảng phải thực sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho
lương tâm, trí tuệ, danh dự của dân tộc. VHCT của Đảng là hiện thân VHCT của
dân tộc, VHCT của Đảng lại được biểu hiện ở mỗi cán bộ, đảng viên thông qua lý
tưởng, niềm tin, lập trường chính trị, những phẩm chất đạo đức chính trị, năng lực
và phong cách lãnh đạo của Đảng, phong cách làm việc của mỗi cán bộ, đảng viên.
VHCT của Đảng nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến
VHCT của nhân dân. Do đó, để lãnh đạo được nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu,
Đảng phải làm tốt hai tư cách “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”.
Hồ Chí Minh đã để lại một tấm gương sáng ngời về một nhà chính trị vì dân,
một vị lãnh tụ của nhân dân, thực sự gần dân, tin dân, coi trọng dân, lắng nghe ý
kiến của dân, chăm lo đến đời sống của dân. Người luôn coi mình “Như một người
lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nói chung, đạo đức chính trị nói riêng và những
đóng góp to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam là giá trị nhân cách nổi bật
của VHCT Hồ Chí Minh.
Thực tế cho thấy, chính trị là vấn đề liên quan mật thiết đến quyền lợi
của các giai cấp, tập đoàn người trong xã hội. Bởi vì, bản chất, cốt lõi của
111
vấn đề chính trị là quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào, phục vụ
cho lợi ích của ai. Do đó, trong quá trình đấu tranh giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước, giai cấp giành chiến thắng chưa hẳn đã là giai cấp tiến
bộ nhất. Mặt khác, ngay cả khi giai cấp tiến bộ nhất giành được chính quyền
thì việc bảo đảm cho chính quyền ấy luôn giữ được tính chính đáng cũng là
một vấn đề cơ bản của chính trị. Bởi lẽ, quyền lực nhà nước là quyền được
đại diện và ủy nhiệm, đây chính là cơ sở để quyền lực nhà nước luôn có
nguy cơ bị tha hóa và giai cấp nắm chính quyền cũng như những người được
ủy quyền luôn sử dụng các thủ đoạn chính trị để giữ gìn quyền lực của mình,
hoặc lạm dụng quyền lực để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Do vậy, theo
những quan niệm chủ quan, chính trị bao giờ cũng là sự đan xen giữa đạo
đức và phản đạo đức. Đây chính là mâu thuẫn nội tại của chính trị và việc
giải quyết mâu thuẫn này chính là quá trình ngăn chặn sự tha hóa của quyền
lực nhà nước và là giá trị quan trọng bậc nhất của VHCT.
Theo đó, việc giải quyết hài hòa giữa đạo đức chính trị với cách thức hay
nghệ thuật hiện thực hóa các mục tiêu chính trị là một giá trị nổi bật của nhân
cách chính trị Hồ Chí Minh. Người luôn tự đặt mình ở vị trí là đầy tớ, là công
bộc của dân. Do vậy, mọi suy nghĩ và hành động chính trị từ việc xác định
mục tiêu, đến phương pháp và cách thức thực hiện đều lấy quyền lợi, tính
mạng, tài sản của dân làm cơ sở để lựa chọn, không bao giờ bất chấp thủ đoạn
để đạt được mục đích. Ở Hồ Chí Minh, tính nhân văn, nhân đạo luôn xuyên
suốt trong mục tiêu và phương thức chính trị, kể cả khi sử dụng phương thức
bạo lực. Bởi lẽ, bạo lực chỉ được sử dụng sau mọi nỗ lực hòa bình không
được đối phương chấp nhận và cũng chỉ nhằm mục đích hòa bình.
3.1.3.3. Suốt đời tu dưỡng đạo đức cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng,
của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân
Tính kiên trì, bền bỉ, tự giác trong tu dưỡng đạo đức cách mạng là một
trong những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị nhân cách của VHCT Hồ Chí
Minh. Người là tấm gương sáng ngời về sự cần cù, tiết kiệm, liêm khiết và
112
chính trực. Người không chỉ tự mình cần cù, mà còn luôn nhắc nhở cán bộ,
đảng viên và nhân dân phải cần cù để không ngừng tiến bộ trong công tác,
đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp kháng chến, kiến quốc. Với tinh
thần cần cù, vượt khó, Người đã làm nhiều công việc khác nhau để sống và
để hoạt động cách mạng, luôn tự học, tự nghiên cứu, không ngừng mở rộng
vốn kiến thức và tích lũy kinh nghiệm hoạt động cách mạng.
Khi là Chủ tịch nước, Người cũng không bao giờ xa hoa, hoang phí. Để động
viên, cổ vũ đồng bào vượt qua nạn đói, Người đã tự giác thực hiện mười ngày nhịn
ăn một bữa, (mỗi bữa một bơ) để đem gạo đó cứu dân nghèo. Trước khi qua đời
Người còn dặn lại chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thì giờ và
tiền bạc của nhân dân. Người còn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân tiết
kiệm để giúp đỡ đồng bào, đồng chí; tiết kiệm để kháng chiến, kiến quốc; tiết kiệm
để xây dựng CNXH.
Cùng với cần kiệm, tấm gương về sự liêm khiết là một biểu hiện tất yếu của
đạo đức Hồ Chí Minh. Người không tham tiền tài, địa vị, vinh hoa phú quý,
không bao giờ đòi hỏi đặc quyền, đặc lợi; luôn công minh, chính trực; luôn “Dĩ
công vi thượng”, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Thực tế cho thấy,
cả đời Hồ Chí Minh thực hành cần, kiệm, liêm, chính cho nên Người là tấm
gương tuyệt vời của sự quang minh, chính đại, tất cả vì lợi ích của quốc gia, dân
tộc, vì uy tín của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Người coi chức Chủ tịch
nước chỉ như “người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Người luôn
nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng: "Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và
cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là
nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là "tính Đảng"”[58, tr.290-291].
Trong Thư gửi Họ Nguyễn Sinh (9/11/1950), Người viết: “Nghe tin anh
Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách,
lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.
Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng
cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”[59, tr.463]. Thủ
113
tướng Phạm Văn Đồng là người có nhiều năm sống và làm việc bên cạnh Hồ
Chí Minh đã khẳng định: "Hồ Chủ tịch không có cái gì riêng; cái gì của dân
là của Người. Quyền lợi tối cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân, là sự lo
lắng hàng ngày của Người. Gia đình của Người là đại gia đình Việt
Nam"[27, tr.443].3.2. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
Đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh chính là những dấu hiệu chủ
yếu để nhận diện và khẳng định những nét khác biệt, sự phát triển mới so với
VHCT của những chủ thể chính trị khác. Thực tế cho thấy, VHCT Hồ Chí
Minh được hình thành, phát triển, và khẳng định trong bối cảnh lịch sử của thế
kỷ XX, khi mà chế độ thực dân được thiết lập trên phạm vi thế giới, đã xâm
phạm nghiêm trọng đến quyền con người và quyền dân tộc. Thế kỷ XX để lại
những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nhân loại, đánh dấu bước phát triển mạnh
mẽ của phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, hòa bình, ổn định và tiến xã
hội của nhân dân lao động toàn thế giới; thế kỷ mà giai cấp công nhân khẳng
định địa vị kinh tế của mình và bước lên vũ đài chính trị với tính cách là lực
lượng có sứ mệnh đưa nhân loại phát triển đúng quy luật.
Mặt khác, VHCT Hồ Chí Minh gắn liền với những đặc điểm của dân tộc Việt
Nam: một dân tộc luôn phải đương đầu với sự xâm lược của các thế lực ngoại bang,
thấu hiểu hơn ai hết giá trị của tự do, độc lập; một dân tộc yêu chuộng hòa bình, yêu
thương, đùm bọc, đoàn kết chặt chẽ với nhau và luôn đề cao chính nghĩa. Do vậy,
đặc trưng của VHCT Hồ Chí Minh là những khía cạnh thuộc về bản chất, tính chất,
mục tiêu chính trị, chịu sự tác động, chi phối của các yếu tố lịch sử và đương thời,
quốc gia và quốc tế. Những đặc trưng này được biểu hiện qua tư tưởng và hành
động chính trị mà Người đã xác lập trong thực tiễn đấu tranh cho một nền chính trị
dân chủ, nhân văn, nhân đạo ở Việt Nam, mà cụ thể là ở văn hóa lãnh đạo, quản lý
và phong cách chính trị. Với cách tiếp cận đó, VHCT Hồ Chí Minh có những đặc
trưng cơ bản sau đây:
114
3.2.1. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là sự tích hợp, chắt lọc nhiều giá trị
và mang bản chất của giai cấp công nhân
Giáo sư, anh hùng lao động Vũ Khiêu đã đề đôi câu đối đặt tại Nhà tưởng
niệm Hồ Chí Minh ở ATK rằng: “Thâu thái Đông, Tây, Kim, Cổ lại/ Xây cao văn
hiến nước non này”. Đây là sự khái quát tinh tế và sâu sắc, làm nổi bật một đặc
trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh, đó là sự tích tụ cả ở bề rộng và chiều sâu
nhiều giá trị VHCT mà nhân loại đã sáng tạo ra để góp phần xây dựng nền chính trị
nhân văn, tiến bộ ở Việt Nam. Bởi lẽ, Hồ Chí Minh là một trong số ít những nhà
chính trị trên thế giới có trải nghiệm thực tế với thời gian dài và không gian rộng ở
ngoài phạm vi biên giới quốc gia của dân tộc mình. Bằng ý chí, nghị lực và khả
năng tự học siêu việt, Người đã tiếp xúc với hầu hết các học thuyết chính trị, các hệ
tư tưởng cổ, kim, Đông, Tây trên thế giới. Một học giả nước ngoài đã viết: “Ông
Hồ Chí Minh là một nhân vật kỳ lạ nhất trong thời đại chúng ta; ông có chút gì
giống Găngđi, có chút ít giống Lênin, nhưng hoàn toàn có tính cách Việt Nam. Có
lẽ hơn bất kỳ một người nào khác trong thế kỷ này, ông Hồ là hiện thân sinh động
của cách mạng đối với nhân dân ông và cả đối với thế giới nữa”[8, tr.63]. Mặc dù
vậy, Người không sùng bái hay thiên kiến với riêng học thuyết nào. Theo Người,
mọi học thuyết đều là tinh hoa tư tưởng của nhân loại và đều mang tính lịch sử, cụ
thể của nó. Mỗi học thuyết đều nhằm giải quyết một hay một số vấn đề cụ thể nào
đó của thực tiễn. Vì vậy, nó không có lợi cho giai tầng này thì lại có lợi cho giai
tầng khác. Với tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, Người đã chắt lọc và tích hợp tất
cả những giá trị nhân sinh, những yếu tố phù hợp, có lợi cho sự nghiệp GPDT và
hướng tới giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tuy nhiên, cần thấy rõ, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, nguồn
gốc chủ yếu quyết định nhất cho việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng như VHCT của Người. Không có chủ nghĩa Mác - Lênin thì
Hồ Chí Minh chỉ là một trong số nhiều sĩ phu yêu nước cùng thời, và tư
tưởng cũng như VHCT của Người không vượt qua được cái bóng của VHCT
truyền thống. Thực tiễn cho thấy, chỉ sau khi tiếp xúc với Luận cương của
115
Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Hồ Chí Minh mới xác định
chắc chắn con đường cách mạng cần phải đi; mới chuyển từ lập trường yêu
nước truyền thống sang lập trường của giai cấp vô sản và lấy Cách mạng
tháng Mười Nga làm tấm gương, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ
nam cho mọi tư tưởng và hành động chính trị của mình. Người khẳng định:
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào
công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước. Nó là “Khoa học về các quy luật
phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức
và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước; khoa
học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản”[64, tr.96].
Hồ Chí Minh đã ứng xử với chủ nghĩa Mác - Lênin bằng lập trường của người
cộng sản và bằng chính những nguyên tắc phương pháp luận mà chủ nghĩa Mác -
Lênin đã đề ra. Người coi chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của khoa học xã hội
nhưng không phải kinh thánh. Do vậy, theo Người, “Học tập chủ nghĩa Mác -
Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc…học tập những chân lý phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta”[64,
tr.611]. Với tinh thần đó, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin để giải quyết tất cả những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt
Nam. Từ việc xác định mục tiêu, con đường đến chiến lược, sách lược của từng giai
đoạn cách mạng; từ lực lượng, phương pháp đến hình thức, cách thức, bước đi
trong từng nhiệm vụ cụ thể. Phát biểu tại khóa họp Xôviết tối cao Liên Xô nhân kỷ
niệm bốn mươi năm Cách mạng tháng Mười, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “chủ
nghĩa Mác - Lênin là ngọn đuốc soi sáng con đường cho dân tộc chúng tôi tiến tới
tương lai tươi sáng. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin,...nhân dân Việt Nam
tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của mình, quyết tâm đi tới một tương lai hạnh
phúc tươi đẹp, đi tới xã hội xã hội chủ nghĩa”[64, tr.181].
Như vậy, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là sự tích hợp với tính
cách là sự cộng lại những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại. Bởi lẽ, trên nền
116
tảng những giá trị đó, bằng năng lực chủ quan của mình, Người đã vượt gộp tất cả
để sáng tạo ra những giá trị mới. Do đó, VHCT Hồ Chí Minh không xa lạ với
VHCT truyền thống của dân tộc nhưng lại khắc phục được sự bất lực của VHCT
truyền thống trong cuộc đối đầu với VHCT của chủ nghĩa thực dân. Một nhà báo
nước ngoài đã viết: “Hồ Chí Minh là một hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp: đức
khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, tinh thần cách mạng
của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc. Tất cả đều hòa hợp trong một
dáng dấp rất tự nhiên”[8, tr.124].
Một trong những nét đặc trưng của VHCT Hồ Chí Minh là tư tưởng và hành
động ứng xử với giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng. Vượt lên so với các
bậc tiền bối và các nhà chính trị đương thời, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu
tiên nhận ra vai trò to lớn và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Người cho
rằng, địa vị của mỗi giai cấp trong công việc sản xuất khác nhau, cho nên đặc tính
của mỗi giai cấp cũng khác nhau và vai trò cách mạng cũng khác nhau, trong đó:
Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có
tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách
nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp
công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp
khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân
đều giữ vai trò lãnh đạo.[61, tr.256].
Trên cơ sở kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng và nắm chắc thực tiễn đất
nước, cùng với việc đề cao vai trò lãnh đạo, Hồ Chí Minh luôn đề cao giai cấp công
nhân với tính cách là động lực chủ yếu của cách mạng. Theo Người, động lực cách
mạng là toàn dân, bao gồm bốn giai cấp, trong đó, công nhân và nông dân là gốc
của cách mạng. Người cho rằng, giai cấp công nhân sẽ ngày càng được tăng cường
cả về số lượng và chất lượng cùng với tiến trình công nghiệp hóa tất yếu của một
nước nông nghiệp quá độ lên CNXH. Hồ Chí Minh đã nêu câu hỏi và trả lời: “Ai
xây dựng chủ nghĩa xã hội? Nói chung là những người lao động trong xã hội gồm
117
công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, v.v…nhưng lực lượng chủ chốt xây dựng
chủ nghĩa xã hội là công nhân”[68, tr.679].
Nội dung biểu hiện rõ nét đặc trưng bản chất giai cấp công nhân trong VHCT
Hồ Chí Minh là việc, Người thường xuyên chăm lo củng cố, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng và của Nhà nước. Người yêu cầu, Đảng phải là đảng
của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn thể dân tộc; nhà nước phải mang bản chất của giai cấp công
nhân, do đảng cộng sản lãnh đạo và với chức năng của mình, nhà nước phải hướng
tới mục tiêu xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Tóm lại, VHCT Hồ Chí
Minh mang bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và đây là yếu tố cơ bản để phân
biệt với VHCT của các chủ thể khác. Tuy nhiên không thể đồng nhất VHCT Hồ
Chí Minh với VHCT Mác - Lênin, mà cần nhận rõ, đó là mối quan hệ biện chứng
giữa cái chung, cái phổ biến với cái riêng, cái đặc thù.
3.2.2. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh luôn hài hòa giữa tính dân tộc và
tính quốc tế, tôn trọng các giá trị phổ biến của nhân loại trên cơ sở đề cao tínhđặc thù của Việt Nam
Tính dân tộc và tính nhân loại của VHCT là hai dấu hiệu cơ bản biểu hiện tính
chất của các yếu tố cấu thành và phạm vi tác động của VHCT. Trên thực tế, không
ít những tư tưởng và hành động chính trị chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia, dân
tộc mà không có hoặc có rất ít sự tác động ảnh hưởng đến đời sống chính trị của
khu vực và thế giới. Vì vậy, có những giá trị VHCT có tính dân tộc nhưng chưa hẳn
đã có tính nhân loại. Nhưng ngược lại, đã là những giá trị mang tính nhân loại thì
đương nhiên phải hàm chứa tính dân tộc. Giữa tính dân tộc và tính nhân loại có mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại, không mâu thuẫn hay triệt tiêu lẫn nhau mà
chỉ làm phong phú, sâu sắc thêm tính chất của nhau. Tính dân tộc và tính nhân loại
của VHCT Hồ Chí Minh biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Một là, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có nguồn gốc dân tộc mà còn có
nguồn gốc nhân loại.
Tất cả các tinh hoa VHCT của dân tộc và nhân loại, lịch sử và đương thời
đều được tích hợp và tỏa sáng thông qua nhân cách chính trị của Người. Thực
118
tế cho thấy, mặc dù lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, tin theo Cách mạng tháng
Mười và Quốc tế III, nhưng không có nghĩa là Người phủ định tuyệt đối tất cả
những quan điểm, tư tưởng và kinh nghiệm tổ chức thực tiễn mà Người từng
gặp trên hành trình tìm đường cứu nước. Những giá trị chính trị có tính chất
quốc tế vừa là yếu tố tác động, thúc đẩy việc hình thành, phát triển và sáng tạo
những giá trị mới vừa được tiếp biến để trở thành những giá trị cụ thể trong
VHCT của Người như: tư tưởng trọng đạo đức của Nho giáo, tư tưởng từ bi
của Phật giáo; tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng tư sản; đặc biệt,
những tư tưởng bất hủ trong hai bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và nước
Pháp đã biểu hiện rõ trong VHCT Hồ Chí Minh.
Hai là, Hồ Chí Minh vừa là một nhà dân tộc chủ nghĩa chân chính, vừa là một
chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trước hết cần khẳng định, chủ nghĩa dân tộc chân chính không đồng nghĩa
với tư tưởng đề cao đặc điểm và quyền lợi dân tộc mình mà tách rời, thậm chí hạ
thấp, coi thường dân tộc khác. Đây là khái niệm dùng để chỉ tư tưởng coi ĐLDT là
quyền bình đẳng của tất cả các quốc gia, đề cao độc lập của dân tộc mình đồng thời
tôn trọng độc lập của các dân tộc khác.
Mong muốn lớn nhất của Hồ Chí Minh là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng
bào. Tuy nhiên, quan niệm của Người về ĐLDT có sự phát triển mới về chất so với
các sĩ phu yêu nước đương thời. Theo đó, ĐLDT là quyền tự quyết của một quốc
gia về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…ĐLDT còn là sự
thống nhất về chế độ chính trị giữa các cộng đồng người có chung lịch sử và truyền
thống văn hóa; là sự toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển;
ĐLDT phải là tiền đề để mang lại công bằng, bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân. Quan niệm này đòi hỏi phải đặt vấn đề dân tộc trong mối quan hệ
chặt chẽ với vấn đề quốc tế, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp, ĐLDT và CNXH. Như vậy, ĐLDT không phải là tách rời, cô lập hẳn với phần
còn lại của thế giới, mà nội hàm của nó đã thể hiện sự ràng buộc và bị tác động ảnh
119
hưởng bởi các quốc gia, dân tộc khác. Mỗi quốc gia chỉ có độc lập thật sự khi biết
tôn trọng và đề cao độc lập của quốc gia khác.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước và nó
có lợi cho chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Bởi vì, giai cấp công nhân và
các dân tộc thuộc địa có chung kẻ thù là chủ nghĩa tư bản, mà sức sống của CNTB
lại tập trung chủ yếu ở thuộc địa. Do đó, nếu các nước thuộc địa đánh đổ chủ nghĩa
thực dân thì sẽ làm cho CNTB suy yếu và tạo điều kiện cho thắng lợi của cách
mạng vô sản ở các nước chính quốc. Thực tế cho thấy, khi chưa kết hợp với chủ
nghĩa quốc tế, chủ nghĩa dân tộc ở các nước thuộc địa chưa giành được thắng lợi vì
họ còn thiếu tổ chức và thiếu người lãnh đạo. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề nghị
“Quốc tế cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh
đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”[54, tr.311].
Bên cạnh việc nhận rõ vị trí, vai trò của chủ nghĩa dân tộc ở các nước thuộc
địa, Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò và giá trị thời đại của cuộc cách mạng vô sản.
Bởi vì, “mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước
nào đó, nhất là trong một quốc gia đế quốc chủ nghĩa thì đó càng là thắng lợi cả cho
người An Nam”[54, tr.520]. Hơn nữa, trên thực tế chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
đáp ứng được lý tưởng, nguyện vọng đầy nhân văn, nhân đạo của Người. Do vậy,
Người đã khẳng định: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”[68, tr.392].
Tóm lại, với việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam để hiện thực hóa tư tưởng “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”; đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; kiên
định mục tiêu ĐLDT và CNXH; luôn đặt cách mạng Việt Nam vào dòng chảy
chung của cách mạng thế giới đã khẳng định sự hài hòa giữa tính dân tộc với tính
nhân loại và góp phần tạo nên nét đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.
Ba là, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đối với dân tộc Việt Nam,
mà còn có giá trị to lớn đối với nhân loại, đặc biệt là nhân dân yêu chuộng hòa
bình trên thế giới.
120
Những tư tưởng và hành động chính trị của Người, một mặt thức tỉnh tinh
thần cách mạng của nhân dân Việt Nam, mặt khác cũng thức tỉnh tinh thần độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “đem sức ta mà giải phóng cho ta” của nhân dân
các nước thuộc địa khác. Mục tiêu, lý tưởng chính trị mà Người nêu lên và
quyết tâm thực hiện đã là ngọn cờ đoàn kết, tập hợp đông đảo các tầng lớp
nhân dân trong nước và tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, bởi nó vừa
đáp ứng nguyện vọng của dân tộc, lại phù hợp với xu thế tiến bộ chung của
nhân loại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết:
Những người trên thế giới này, ngay trong một nước cũng như từ nước này, sang
nước khác, có bao nhiêu điều không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau về cảnh
ngộ sống, về trình độ hiểu biết, về xu hướng chính trị, xã hội hay tôn giáo; nhưng
miễn là không phải bọn áp bức bóc lột, bọn xâm lược và tay sai của chúng, thì mỗi
người đều có thể thấy ở cuộc chiến đấu và cuộc sống của Hồ Chủ tịch, những điều
mà mình hàng ngày mong mỏi, những giá trị tinh thần mà mình thiết tha, những
mục tiêu mà mình khao khát muốn vươn tới.[dẫn theo 27, tr.439-440].
Tính phổ biến và đặc thù của VHCT là biểu hiện sự thống nhất giữa
những giá trị riêng, cá biệt với những giá trị chung. VHCT Hồ Chí Minh là
những giá trị được kết tinh từ việc vận dụng những quy luật phổ biến của
thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hơn nữa, những giá trị đó,
không chỉ có ý nghĩa trong đời sống chính trị của dân tộc Việt Nam mà còn
có tác động đến đời sống chính trị quốc tế.
Hồ Chí Minh luôn tôn trọng và đề cao các giá trị phổ biến, bởi nó sẽ là
những giá trị được kiểm nghiệm với một thực tiễn rộng lớn hơn trong khoảng
thời gian dài hơn, được nhiều người thừa nhận hơn và tính chân lý cũng cao hơn.
Vì thế, những giá trị phổ biến không phải là cái riêng và sẽ không đúng với một
cái riêng cụ thể nào. Do đó, khi tiếp thu, vận dụng hay kế thừa các giá trị phổ
biến cần phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể. Hồ Chí Minh cho rằng:
Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh
nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa
121
giáo điều. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận những
giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn…thì sẽ mắc sai lầm nghiêm
trọng của chủ nghĩa xét lại.[64, tr.97-98].
Chính vì vậy, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như khi học tập kinh
nghiệm quốc tế trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn lấy thực tiễn Việt
Nam làm điểm xuất phát. Điều này một mặt làm cho các giá trị, kinh nghiệm phổ
biến phát huy tác dụng trong điều kiện cụ thể, mặt khác lại bổ sung, làm phong phú
và vững chắc thêm nền tảng thực tiễn của các giá trị đó. Hàng loạt các quan điểm,
tư tưởng và hành động chính trị của Hồ Chí Minh thể hiện rõ sự kết hợp giữa tính
phổ biến và tính đặc thù để có được sự chỉ đạo đúng đắn, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của cách mạng.
Trước hết, Người cho rằng, trong sự vận động phát triển tất yếu của lịch sử,
chủ nghĩa Mác sẽ đúng cả ở phương Đông, nhưng cần phải bổ sung cơ sở lịch sử
của chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn và dân tộc học phương Đông. Nhận định rõ, cuộc
đấu tranh giai cấp ở phương Đông diễn ra không giống như ở phương Tây, nên Hồ
Chí Minh đã phê phán quan điểm, “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng
ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để
làm cho đúng”[58, tr.312]. Trên cơ sở thực tiễn Việt Nam và để thực hiện mục tiêu
ĐLDT, Hồ Chí Minh không nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, mà chủ trương đoàn kết
các giai tầng trong xã hội. Người cho rằng, “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà
chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc”[59, tr.528].
Hồ Chí Minh đã vận dụng quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về
xây dựng đảng vào điều kiện cụ thể Việt Nam để thành lập một chính đảng cách
mạng vừa mang bản chất của giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc
sâu sắc. Với chủ trương xây dựng một nhà nước kiểu mới phù hợp với đặc điểm
Việt Nam, Người đã thay đổi quan điểm của mình, từ “Chính quyền Xô viết” đến
“Chính phủ công nông binh” và cuối cùng là “Nhà nước Dân chủ nhân dân”. Bám
sát mục tiêu chính trị và tình hình cụ thể của đất nước, Hồ Chí Minh đã cùng với
122
Đảng ta chủ trương tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng là Cách mạng
XHCN ở miền Bắc và Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Và
“đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội là…tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên
chủ nghĩa xã hội”[65, tr.372]. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính phổ biến với tính
đặc thù đã tạo nên sự nghiệp cách mạng và VHCT Hồ Chí Minh, là một trong
những đặc trưng cơ bản để nhận diện và phân biệt với VHCT của các chủ thể khác.
3.2.3. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh thống nhất chặt chẽ giữa giá trị tư
tưởng và giá trị hành vi
Văn hóa chính trị là hệ giá trị được tạo thành trong quá trình ứng xử chính
trị, có thể biểu hiện ở những tư tưởng, lý luận hoặc ở những hành động chính
trị thực tiễn. Cả hai dạng thức này đều dễ thấy trong VHCT của một cộng
đồng, dân tộc, hay một giai cấp, nhưng sẽ là hiếm có ở VHCT của cá nhân. Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh là một trong số ít các chủ thể với tính cách là cá nhân sở
hữu cả hai dạng thức này. Bởi lẽ, với Hồ Chí Minh, vì thực tiễn mà phải tìm
tòi, học tập, nghiên cứu và sáng tạo lý luận. Ngược lại, nghiên cứu, sáng tạo lý
luận là để giải đáp đòi hỏi của thực tiễn, cải tạo và biến đổi hiện thực. Vì vậy,
mặc dù không chủ trương phấn đấu để trở thành nhà tư tưởng, nhưng với
những sáng tạo lý luận trong quá trình hoạt động cách mạng, Người đã xứng
đáng là nhà tư tưởng lỗi lạc, được cộng đồng quốc tế công nhận là “Anh hùng
giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của lý luận, Người cho rằng, “Lý luận như
cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không
có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[58, tr.273-274]. Với quan điểm đó,
Người không chỉ tự mình học tập, nghiên cứu lý luận, mà còn rất quan tâm đến việc
bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, học tập nghiên cứu lý luận là
để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn, cho nên, lý luận phải được áp
dụng vào thực tiễn, vừa để giải quyết công việc thực tế, vừa để kiểm nghiệm tính
đúng đắn của lý luận. Là một nhà hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh cho rằng, lý
luận không áp dụng vào thực tiễn là lý luận suông, còn thực tiễn mà không có lý
123
luận dẫn đường là thực tiễn mù quáng. Do vậy, lý luận và thực tiễn phải luôn gắn
liền với nhau, trong đó thực tiễn luôn là tính thứ nhất, là điểm xuất phát, là đối
tượng để nghiên cứu và khái quát lý luận. Người chỉ rõ: “Thực hành sinh ra hiểu
biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành”[60, tr.120].
Trong di sản VHCT Hồ Chí Minh, giá trị tư tưởng và giá trị hành vi luôn
thống nhất chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Những tư tưởng chính trị của Người
đều từng bước được hiện thực hóa và được kiểm nghiệm bằng thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước, thương dân và lòng tự tôn dân tộc
không chỉ dừng lại ở giá trị tư tưởng mà đã trở thành hành động cụ thể vượt
trùng dương đi tìm đường cứu nước; tìm mọi cách để lật đổ chế độ thuộc địa,
nửa phong kiến, thiết lập chế độ chính trị của dân, do dân, vì dân. Cùng với
việc nhận thức rõ, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới, Người đã tham gia sáng lập một số tổ chức có tính chất quốc tế
và đặt nền móng cho quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các nước có chủ
quyền với những chế độ chính trị khác nhau trên thế giới. Không chỉ là một
nhà chính trị nói nhiều, bàn nhiều về đạo đức, Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương
sáng ngời về thực hành đạo đức mới với những biểu hiện cụ thể của hành
động trung thành với mục tiêu, lý tưởng và quyền lợi của dân tộc; yêu thương
nhân dân, khoan dung, độ lượng với con người; suốt đời cần cù, tiết kiệm,
trung thực, thẳng thắn, “Dĩ công vi thượng”…Tấm gương mẫu mực về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành vi, nói và làm của Hồ
Chí Minh được biểu hiện sinh động trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp cách
mạng của Người và trở thành nét đặc sắc của VHCT Hồ Chí Minh.
3.2.4. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh luôn thể hiện tính nhân văn triệt để
cả trong tư tưởng và hành động chính trị
Một trong những nét nổi bật và là đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí
Minh là ở tính nhân văn triệt để của những tư tưởng và hành động chính trị
mà Người đã thực hiện trong suốt quá trình hoạt động cách mạng. Điều đó
không chỉ thể hiện ở quan niệm về con người, ở mục tiêu, lý tưởng mang lại
124
độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân mà còn ở sự ứng xử cụ thể với mỗi nhân cách, phẩm
giá và thân phận con người. Quan niệm về con người của Hồ Chí Minh có cả
nghĩa hẹp và nghĩa rộng, bao hàm cả tính cá nhân và tính cộng đồng. Người
đã chỉ rõ: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa
rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”[59, tr.130].
Với quan niệm đó, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chung
chung, trừu tượng, mà trái lại, rất cụ thể, thiết thực, rộng lớn và bao trùm.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trừ những kẻ thực dân, đế quốc, những kẻ áp
bức, bóc lột, còn lại những người lao động, những người bị áp bức trên khắp
thế giới, không phân biệt màu da, tiếng nói, chữ viết đều là anh em, đều là
những người cần được giải phóng, được yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ. Đề
cao con người, nhất mực yêu thương, quý trọng con người nên trong đấu
tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn tìm phương pháp ít đổ máu nhất. Chính
vì lẽ đó mà trong khởi nghĩa giành chính quyền, Người luôn chủ trương kết
hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, trong đó đấu
tranh chính trị của quần chúng đóng vai trò quyết định. Trong kháng chiến
chống Pháp, Người đã từng nói, “máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu,
người Pháp hay người Việt cũng đều là người”[57, tr.510].
Trong quá trình bảo vệ thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh luôn tìm mọi
cách ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh. Người đã khẳng định với các phóng viên
Pháp rằng: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không
muốn chiến tranh”[57, tr.526]. Để ngăn chặn chiến tranh, Hồ Chí Minh đã ký
với Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Tuy nhiên, khi
thực dân Pháp bội ước, cố tình gây chiến tranh, Hồ Chí Minh và Đảng ta kiên
quyết phát động toàn dân đứng lên chiến đấu, kết hợp tiến công quân sự với
công tác binh, địch vận và khi có thời cơ, tiến hành đấu tranh ngoại giao buộc
Pháp ký kết hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh, nhằm hạn chế đến mức
thấp nhất việc đổ máu cho cả hai bên tham chiến. Một chính trị gia của Pháp
125
là Jean Sainteny - người đại diện cho chính phủ Pháp ký với Hồ Chí Minh Hiệp
định sơ bộ năm 1946 đã viết: “Ngay từ những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Hồ
Chí Minh, tôi đã có cảm tưởng rằng con người khắc khổ đó, với bộ mặt thể
hiện đồng thời sự thông minh, mưu trí và tinh tế, là một nhân vật thượng
đẳng…Những hành động, thái độ của Người, tất cả đều thuyết phục là Người
không muốn dùng giải pháp bạo lực”[8, tr.102]. Trong kháng chiến chống Mỹ,
Hồ Chí Minh đặt mục tiêu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” để thu non
sông về một mối chứ không chủ trương tiêu diệt nhiều binh lính đối phương.
Tính nhân văn triệt để của VHCT Hồ Chí Minh còn được khẳng định bởi
tính chất và phạm vi của sự nghiệp giải phóng được thể hiện trong lý tưởng và
hành động chính trị của Người. Với Hồ Chí Minh một chế độ chính trị ưu việt
phải gắn liền với ĐLDT, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và độc lập của
dân tộc mình phải trên cơ sở tôn trọng độc lập của các dân tộc khác. Một
chính khách nước ngoài đã viết:
Ưu điểm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là không chỉ đấu tranh
cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài, Người
muốn tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự
giải phóng và phúc lợi của toàn dân và nhờ thế mà cuộc cách mạng
do Người phát động đã mang tầm cỡ thế giới.[8, tr.112].
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị mà cả tư tưởng và hành động đều thể
hiện rõ sự kết hợp chặt chẽ giữa ba sự nghiệp giải phóng. Trong đó, GPDT là
tiền đề để giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Ngược lại, giải phóng
giai cấp và con người là điều kiện bảo đảm cho GPDT được bền vững. Ba sự
nghiệp giải phóng này là ba cấp độ mục tiêu khác nhau của con đường cách
mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam. Tuy nhiên,
chúng không tách rời nhau mà có mối quan hệ biện chứng, trong GPDT đã
bao hàm một phần giải phóng giai cấp và con người. Mỗi bước phát triển của
cách mạng GPDT cũng như cách mạng XHCN phải là một bước tiến mới của
126
sự nghiệp giải phóng giai cấp và con người. Do đó, ngay sau khi giành độc
lập, Người phát động phong trào xóa đói, xóa mù chữ; sớm xây dựng thể chế
chính trị dân chủ; kết hợp kháng chiến với kiến quốc; kết hợp cách mạng
XHCN ở miền Bắc với cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Trong Di
chúc, đoạn viết năm 1968, Người đã căn dặn Đảng ta phải quan tâm đầu tiên
đến con người, đặc biệt là những người đã cống hiến sức lực, trí tuệ, đã hy
sinh xương máu và tính mạng của họ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc. Tư tưởng và hành động kết hợp chặt chẽ ba sự nghiệp giải phóng nêu
trên là một trong những đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.
Tiểu kết chương 3
Với tính cách là một chỉnh thể thống nhất giữa con người chính trị, hoạt động
chính trị và sản phẩm chính trị nhằm giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn chính trị
Việt Nam, giá trị của VHCT Hồ Chí Minh được thể hiện ở ba nhóm giá trị cơ bản,
đó là: nhóm những giá trị tư tưởng bao gồm: tri thức chính trị, niềm tin chính trị và
phương pháp, phong cách chính trị của Người; nhóm các giá trị hành vi thể hiện ở
năng lực hoạt động lý luận và thực tiễn chính trị, ở việc xây dựng và phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng hệ thống chính trị thực sự của
dân, do dân, vì dân; nhóm các giá trị nhân cách chính trị biểu hiện ở việc: luôn đề
cao vai trò của nhân dân, lấy dân làm gốc, luôn giải quyết hài hòa giữa đạo đức
chính trị với cách thức đạt được các mục tiêu chính trị và ở phẩm chất cần kiệm
liêm chính, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là VHCT của một cá nhân với tính cách là
lãnh tụ chính trị của Đảng, của dân tộc, có những đặc trưng nổi bật dễ nhận biết và
phân biệt với VHCT của những cá nhân lãnh tụ khác: thứ nhất, VHCT Hồ Chí
Minh là biểu tượng của sự kết hợp các giá trị chính trị cổ, kim, đông, tây, truyền
thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại. Tất cả được tích hợp, bổ sung cho nhau và
tỏa sáng thông qua nhân cách chính trị của Người; thứ hai, VHCT Hồ Chí Minh
luôn thể hiện sự hài hòa giữa tính dân tộc và tính quốc tế, tính phổ biến và tính đặc
127
thù; thứ ba, VHCT Hồ Chí Minh thống nhất giữa những giá trị tư tưởng với những
giá trị hành vi, giữa nói và làm, chú trọng nêu gương; thứ tư, VHCT Hồ Chí Minh
luôn thể hiện rõ tính nhân văn triệt để cả trong tư tưởng và hành động chính trị.
Tóm lại, VHCT Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa các yếu tố tư
tưởng, hành vi và nhân cách chính trị có đặc trưng riêng và có giá trị bền vững trong
nền VHCT Việt Nam.
128
Chương 4
Ý NGHĨA VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
HỒ CHÍ MINH CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Ý NGHĨA CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
4.1.1. Ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam
4.1.1.1. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh tạo nên sự phát triển mới của tư
tưởng, lý luận chính trị ở Việt Nam
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, với những giá trị của tư tưởng và của thực
tiễn ứng xử chính trị không chỉ đánh dấu bước phát triển mới về chất của VHCT
Việt Nam truyền thống mà còn trở thành tiền đề quyết định nhất cho mọi thắng lợi
của cách mạng kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ý nghĩa lý luận của
VHCT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam được biểu hiện ở một số nội
dung chủ yếu sau đây:
Một là, VHCT Hồ Chí Minh đã khắc phục sự khủng hoảng về ý thức hệ và
đường lối cứu nước; thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân; đưa đến cho dân
tộc Việt Nam hệ tư tưởng đúng đắn, cách mạng nhất của thời đại; tìm ra con đường
phát triển hợp quy luật với mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, phù hợp với giá trị chung
của nhân loại.
Thực tiễn cho thấy, sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, các phong trào
yêu nước chống Pháp theo các hệ tư tưởng phong kiến và tư sản liên tiếp nổ ra
nhưng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ sự khủng hoảng về ý thức hệ và con đường
cứu nước của giai cấp địa chủ, phong kiến. Mặt khác, với việc thực hiện chính sách
ngu dân, chia nước ta ra thành các vùng biệt lập với nhau và tiến hành bưng bít
thông tin, thực dân Pháp đã triệt tiêu gần như hoàn toàn tinh thần cách mạng của
nhân dân Việt Nam. Mặc dù, phong trào GPDT đã và đang phát triển mạnh ở nhiều
nơi trên thế giới do có sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng
tháng Mười, trong khi đó ở Việt Nam, sau những thất bại của các phong trào yêu
129
nước chống pháp, vẫn chưa có được một đường lối đấu tranh đúng đắn. Hồ Chí
Minh viết: “Một luồng gió giải phóng mạnh mẽ đã làm cho các dân tộc bị áp bức
vùng lên…tất cả những người chiến bại hôm qua và nô lệ hôm nay đó, đương đấu
tranh dũng cảm cho nền độc lập ngày mai của họ. Riêng người Việt Nam, thì vẫn
cứ thế: sẵn sàng làm nô lệ”[55, tr.140].
Trước thực trạng đó, Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ động, bằng nhiều biện
pháp để thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân. Trong tác phẩm Đường cách
mệnh, Người viết: “Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi
thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh. Văn chương và
hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!”[55,
tr.283]. Bằng các hoạt động lý luận và thực tiễn chính trị, Người đã tiếp thu và
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, đưa đến cho dân tộc hệ tư tưởng
tiên tiến nhất của thời đại, đó là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Người cũng đã
tìm ra cho nhân dân ta con đường phát triển đúng đắn, hợp quy luật, đó là con
đường cách mạng vô sản với mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH. Với kết quả
nghiên cứu, phát triển lý luận cùng các hoạt động chính trị thực tiễn, Hồ Chí Minh
đã làm cho nhân dân nhận rõ rằng, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một
mối tình hữu ái thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[54, tr.287]. Trên cơ sở đó, nhân
dân Việt Nam cũng nhận rõ, kẻ thù của mình không phải là tất cả mọi người Pháp
hay người phương Tây, mà là chủ nghĩa thực dân, trong đó có thực dân Pháp và tay
sai. Cũng trên cơ sở đó, nhân dân ta đã hiểu rõ sự cần thiết phải đoàn kết dân tộc và
đoàn kết quốc tế, phải gắn bó với giai cấp công nhân, phải đi theo Đảng và tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở lý luận, nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, chiến lược, sách
lược của Đảng.
Do kết hợp chặt chẽ tính phổ biến với tính đặc thù và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước, Hồ Chí Minh đã đưa
130
ra quan điểm lý luận sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng như: mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; giữa hai giai đoạn cách mạng
GPDT và cách mạng XHCN, giữa nhiệm vụ đánh đế quốc với đánh phong kiến
trong cách mạng GPDT; về động lực, hình thức, biện pháp, bước đi trong từng
giai đoạn cách mạng cụ thể.
Đặc biệt các quan điểm của Người về chủ nghĩa thực dân; về tiềm năng, khả
năng cách mạng và vị trí, vai trò, mối quan hệ của cách mạng thuộc địa nói chung,
Việt Nam nói riêng đối với cách mạng vô sản thế giới đã cho thấy, cách mạng
GPDT hoàn toàn có thể chủ động nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản
ở chính quốc. Bởi lẽ, như Hồ Chí Minh đã nhận định, “Hiện nay nọc độc và sức
sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính
quốc” [54, tr.296]. Vì thế:
Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh
để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy,
họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có
thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ
giải phóng hoàn toàn. [54, tr.48].
Các quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã là cơ sở tư tưởng để Đảng hoạch
định đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng GPDT. Trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng, đã xác định chủ trương “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[56, tr.1]. Trong Sách lược vắn tắt của
Đảng cũng chỉ rõ “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải
đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”[56, tr.3]. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ tám (5- 1941), Đảng ta đã xác định vấn đề dân tộc trước hết phải được
giải quyết trong phạm vi từng nước trên nguyên tắc tôn trọng tự nguyện và tự quyết
dân tộc. Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, Hồ Chí Minh đã nhấn
131
mạnh “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[56, tr.596].
Quan điểm Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại
bạo lực phản cách mạng trong đấu tranh giành và giữ chính quyền; về tiến
hành khởi nghĩa vũ tranh từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa; về sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân… đã trở thành cơ sở tư tưởng để Đảng ta
lãnh đạo tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đặc
biệt, quan điểm về ĐLDT phải đi liền với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân
dân là nội dung tư tưởng chủ yếu để xác lập đường lối tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam của Đảng. Quan điểm Hồ Chí Minh về
bản chất, tính chất, mục tiêu, động lực, hình thức, bước đi của cách mạng
XHCN ở một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH, đã giúp cho
Đảng nhận thức ngày càng rõ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH.
Mặt khác, những quan điểm đó còn là một trong những yếu tố thúc đẩy sự ra
đời đường lối đổi mới của Đảng vào năm 1986.
Nhận rõ giá trị lý luận to lớn của VHCT Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1951,
Đảng ta đã đặt vấn đề phải học tập và phát huy các giá trị đó, đồng thời coi đây là
nhân tố đầu tiên bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II (2-1951), đã khẳng định:
Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của
Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ
tịch,…Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác
phong và đạo đức Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy là điều kiện tiên
quyết làm cho Đảng mạnh, và làm cho cách mạng đi mau đến
thắng lợi hoàn toàn.[16, tr.9].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3-1982), Đảng khẳng định: “Đảng
phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức, học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo
132
đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng”[14, tr.61]. Đến Đại hội
VI của Đảng (12-1986), đại hội đánh dấu sự đổi mới tư duy của Đảng và mở đầu
công cuộc đổi mới đất nước, Đảng chỉ rõ: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm
vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản
quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”[9, tr.125].
Những kết quả khả quan sau thời gian đầu tiến hành công cuộc đổi mới, sự kiểm
nghiệm của thời gian và thực tiễn đối với quá trình phát triển đất nước và sự biến
động của tình hình chính trị thế giới cuối thế kỷ XX càng chứng tỏ giá trị to lớn của
VHCT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991), Đảng đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm về tư
tưởng Hồ Chí Minh và chính thức ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình rằng,
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động”[10, tr.127]. Đến Đại hội IX của Đảng (4-2001), Đảng
đã đưa ra một khái niệm tương đối hoàn chỉnh về tư tưởng Hồ Chí Minh. Khái
niệm đã chỉ rõ bản chất, nguồn gốc, các yếu tố cấu thành và giá trị của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với sự phát triển của đất nước. Trước yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới, ngày 07-1-2007, Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X đã ra chỉ thị số 06-CT/TW, tổ chức cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", trong toàn Đảng, toàn
dân. Sau hơn bốn năm thực hiện cuộc vận động, đến năm 2011, Bộ Chính trị Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục ra chỉ thị số 03/CT-TW, ngày 14-5-
2011 “Về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Như vậy, thời gian hơn nửa thế kỷ đã cho thấy VHCT Hồ Chí Minh có ý
nghĩa to lớn đối với sự phát triển mới của tư tưởng, lý luận chính trị ở Việt
Nam, trở thành một bộ phận quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng và là
yếu tố tiên quyết nhất bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng mà nhân dân
Việt Nam đã giành được.
Ba là, văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã xác lập một hệ thống những quan
điểm lý luận sâu sắc về một nền chính trị có văn hoá, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân, xu thế thời đại và quy luật phát triển tất yếu của nhân loại.
133
Là người luôn đề cao vai trò của lý luận trong việc hướng dẫn hoạt động
thực tiễn, cho nên, cùng với sự phát triển và sáng tạo các quan điểm, lý luận chỉ
đạo việc đấu tranh xóa bỏ chế độ chính trị thuộc địa, nửa phong kiến, Hồ Chí
Minh cũng hết sức quan tâm đến việc bảo đảm cơ sở lý luận của chế độ chính
trị mới. Những quan điểm, tư tưởng của Người về các vấn đề liên quan đến bản
chất, mục tiêu, cấu trúc, cơ chế vận hành của nền chính trị mới cho thấy, đó
phải là một nền chính trị của dân, do dân, vì dân, mang bản chất của giai cấp
công nhân, trong đó: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước
và toàn xã hội; Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là bộ máy quản lý mọi
mặt của đời sống xã hội và nhân dân lao động là người chủ thực sự của quyền
lực chính trị nói riêng, một nền chính trị nói chung.
Theo Hồ Chí Minh, một nền chính trị tất cả vì nhân dân, chỉ có thể là nền
chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bởi vì, Đảng là đội tiền phong,
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, bao gồm những người ưu tú nhất
của giai cấp tiên tiến nhất - giai cấp đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là cần thiết
trong mọi giai đoạn và thời kỳ cách mạng. Tuy nhiên, Đảng phải thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn để đáp ứng với sự vận động phát triển của cách mạng và thực
sự tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ, danh dự của dân tộc. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ họ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[68,
tr.672]. Thực tiễn đã chứng minh, vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhưng thực tiễn cũng cho thấy, hiệu quả
lãnh đạo của Đảng, một mặt phụ thuộc vào tính tự giác của quần chúng, nhưng mặt
khác lại phụ thuộc rất lớn vào vai trò, năng lực quản lý, điều hành của nhà nước. Do
đó, một nhà nước mạnh là yếu tố quyết định của quá trình hiện thực hóa các mục
tiêu, lý tưởng của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, một nhà nước mạnh là một nhà nước không chỉ hợp pháp,
hợp hiến, có tính chính đáng mà còn phải là một nhà nước pháp quyền, của nhân
134
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong tư tưởng của Người, pháp luật là một công cụ
quan trọng và chủ yếu nhất để nhà nước bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa các
công dân. Tuy nhiên, với Hồ Chí Minh, vấn đề quan trọng hơn là pháp luật đó do ai
làm ra và nhằm bảo vệ ai. Trong chế độ chính trị dân chủ, pháp luật phải được làm
ra bởi các đại biểu dân cử, phải thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân và nhằm
bảo đảm sự công bằng cho mọi công dân. Theo Hồ Chí Minh, một nền chính trị
nhân văn, nhân đạo thì nhân dân phải là chủ thể tối cao, mọi hoạt động của Đảng,
nhà nước, phải hướng vào việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân.
Bốn là, văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã là động lực tinh thần giúp cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
của cách mạng, kiên định con đường phát triển của đất nước là ĐLDT gắn
liền với CNXH.
Với mục tiêu, lý tưởng cao đẹp và con đường phát triển đúng đắn, Hồ
Chí Minh chẳng những đưa đến cho nhân dân một động lực tinh thần mạnh
mẽ, đủ sức lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, vượt qua mọi gian khổ, hy
sinh để đánh bại sự xâm lược của hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, giữ vững
ĐLDT mà còn là động lực chủ yếu để nhân dân ta quá độ lên CNXH. Thực tế
cho thấy, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và tấm gương đạo đức chính trị Hồ
Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc
thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới, đưa cả một dân tộc
trở thành anh hùng. Với tính cách là lực lượng tiên phong nhất, cách mạng
nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng Cộng sản Việt Nam
là biểu hiện tập trung nhất chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc. Dưới
sự tác động của VHCT Hồ Chí Minh, các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng
đã chủ động, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, kể cả hy sinh tính mạng vì
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, lợi ích của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Tại
Lễ kỷ niệm Ba mươi năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã nêu rõ:
135
Trong 15 năm đấu tranh trước Cách mạng tháng Tám và trong tám, chín
năm kháng chiến, biết bao đảng viên ưu tú và quần chúng cách mạng đã
vì dân, vì Đảng mà hy sinh một cách cực kỳ oanh liệt. Chỉ riêng trong
cấp Trung ương của Đảng đã có 14 đồng chí bị đế quốc Pháp bắn, chém,
hoặc đập chết trong nhà tù…Trong 31 đồng chí hiện nay là Ủy viên
Trung ương ta, trước ngày khởi nghĩa đã được đế quốc Pháp tặng cho
222 năm tù đày.[65, tr.401].
Không chỉ cán bộ, đảng viên mà mỗi người dân Việt Nam đều tìm thấy ở Hồ
Chí Minh một động lực để cống hiến, hy sinh. Trong cách mạng và kháng chiến,
người dân đã không quản ngại hy sinh để nuôi dưỡng bộ đội, chở che cho cán bộ,
đảng viên, sẵn sàng dỡ cả nhà của mình để lót đường cho xe đi hay làm chất đốt cho
bộ đội; biết bao bà Mẹ Việt Nam anh hùng đã chấp nhận cả sự hy sinh của những
người thân yêu nhất cho thắng lợi của cách mạng. Một nhà báo Cu ba đã viết:
“thông qua chủ nghĩa anh hùng nảy sinh ra hàng ngày trong nhân dân Việt Nam,
người ta đã tìm thấy lời giải thích hay nhất về học thuyết vì độc lập tự do của Hồ
Chủ tịch”[dẫn theo 27, tr.453].
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh không chỉ đóng vai trò là động lực tinh thần
để nhân dân ta đạp bằng mọi trở ngại mà đi tới mục tiêu ĐLDT, thống nhất Tổ quốc
mà còn là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH, góp phần giữ vững niềm tin của
nhân dân vào mục tiêu cuối cùng của cách mạng là xây dựng thành công CNXH ở
Việt Nam. Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để nhất,
làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội - một cuộc cách mạng chưa từng có tiền
lệ trong lịch sử. Vì vậy, đây là cuộc cách mạng khó khăn, phức tạp và lâu dài nhưng
đầy tính nhân văn, nhân đạo, vì sự nghiệp giải phóng con người. Do đó, xây dựng
CNXH không thể một sớm, một chiều, không thể bằng một, hai thế hệ mà phải
bằng sự chung tay góp sức của nhiều thế hệ. Mặc dù vậy, theo Hồ Chí Minh, trong
mỗi bước phát triển của quá trình cách mạng lâu dài đó phải là một bước hiện thực
hóa các mục tiêu của CNXH ở một mức độ cao hơn. Người cũng khẳng định rằng,
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có
136
con người xã hội chủ nghĩa thì phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng
xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”[65, tr.11].
Hồ Chí Minh chính là biểu tượng cao đẹp nhất của con người xã hội chủ
nghĩa. VHCT của Người đã minh chứng cho khả năng hiện thực hóa CNXH,
củng cố niềm tin của nhân dân vào lý tưởng cao đẹp của Đảng, và trở thành
động lực tinh thần thúc đẩy các phong trào hành động cách mạng của nhân dân
ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hiện nay, cách mạng nước ta có cả những
thuận lợi và thách thức đan xen, nguy cơ đe dọa đến nền độc lập, tự chủ vẫn
còn. Tình hình thế giới liên tiếp có những diễn biến phức tạp, khó lường. Do
vậy, để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia, hơn lúc nào hết phải học tập, vận dụng và phát huy các giá trị VHCT
Hồ Chí Minh vào mọi hoạt động của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
nắm chắc nguyên lý, quy luật vận động, phát triển của cách mạng; kết hợp chặt
chẽ lý luận với thực tiễn, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý
luận, khắc phục mọi biểu hiện giáo điều, rập khuôn máy móc; quán triệt sâu sắc
phương pháp luận “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong mọi lĩnh vực hoạt động,
đặc biệt là hoạt động chính trị. Trong tình hình hiện nay, để giữ vững độc lập,
tự chủ của đất nước phải kiên trì mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức
đoàn kết quốc tế.
3.1.1.2. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đem lại một diện mạo mới trong
thực tiễn đời sống chính trị của dân tộc
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị thực tiễn, mọi hoạt động của Người đều
nhằm cải tạo và biến đổi hiện thực, đem lại cho nhân dân Việt Nam một sự thay đổi
thật sự trong đời sống chính trị. Cách mạng Việt Nam đã khẳng định ý nghĩa thực
tiễn to lớn của VHCT Hồ Chí Minh. Với sự tích hợp và tỏa sáng các giá trị của dân
tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh đã đưa VHCT truyền thống của dân tộc Việt Nam
lên một tầm cao mới, đánh dấu bước phát triển về chất của văn hoá dân tộc trong sự
phát triển chung của văn hoá nhân loại. Với những quan điểm, lý luận về con đường
137
phát triển của dân tộc, Hồ Chí Minh đã đặt dấu chấm hết cho một thời kỳ khủng
hoảng về hệ tư tưởng và đường lối cứu nước.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã lan tỏa và tác động đến nhận thức, tình
cảm, ý chí của mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt giai cấp, dân tộc,
tôn giáo, tất cả đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm đi theo Đảng.
Với chủ trương thiết lập một nền chính trị tất cả vì dân và một tấm gương suốt đời
tận tụy làm công bộc của dân dù ở bất cứ cương vị nào, Hồ Chí Minh đã giành
được niềm tin tuyệt đối của nhân dân, làm cho toàn dân luôn hướng về Người. Do
đó, đã trực tiếp phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, chẳng những đủ sức
đánh đổ chế độ thực dân, đưa đến thắng lợi trong cách mạng Tháng 8-1945, mà còn
đánh bại hai đế quốc hùng mạnh nhất là Pháp và Mỹ, bảo vệ vững chắc nền chính
trị độc lập, tự chủ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết, “Tất cả những gì tốt đẹp của
dân tộc trong bốn nghìn năm lịch sử đều sống dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ
hết trong thời đại Hồ Chí Minh”[dẫn theo 27, tr.439].
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã đưa dân tộc Việt Nam bước sang một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên ĐLDT với quyền tự do lựa chọn con đường phát triển
đất nước phù hợp với quy luật tự nhiên và xu thế thời đại; đưa nhân dân Việt
Nam từ thân phận là nô lệ, là đối tượng áp bức của quyền lực nhà nước bước lên
địa vị người làm chủ đất nước, làm chủ quyền lực chính trị. Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động. Vậy công nhân,
nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: hiện nay, nhân dân lao động ta là
những người làm chủ nước ta, chứ không phải là những người làm thuê cho giai
cấp bóc lột như thời cũ nữa”[66, tr.66].
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã góp phần xây dựng nên một Đảng cách
mạng chân chính với nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên thực sự vì dân, vì nước, bảo
đảm cho Đảng sớm trở thành đảng cầm quyền và giành được quyền lãnh đạo tuyệt
đối, được nhân dân tin tưởng, chăm lo xây dựng, bảo vệ. Mặt khác, với những tư
tưởng, phương pháp và tác phong ứng xử chính trị cụ thể, chẳng những Người đã
để lại cho nhân dân ta những bài học kinh nghiệm, những tấm gương mẫu mực về
phẩm chất, năng lực, phong cách của người làm chính trị, của một nhà chính trị thân
138
dân, vì dân, mà còn trở thành yêu cầu đào tạo và tiêu chí đánh giá các nhà chính trị
chân chính.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa lịch sử to lớn mà
ngày nay còn đang tiếp tục soi đường cho sự nghiệp xây dựng một nền chính
trị thực sự có văn hoá, thực sự vì con người. Trong bối cảnh chung của thế
giới với xu thế dân chủ hóa ngày càng mạnh mẽ, kế thừa và phát triển các
giá trị của VHCT Hồ Chí Minh trong điều kiện lịch sử mới, Đảng ta đã khởi
xướng và tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhằm tạo ra
những điều kiện để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Hàng loạt các quan điểm, tư tưởng, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đã thể hiện tinh thần của VHCT
Hồ Chí Minh. Để có thể tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, phát huy
cao độ sức mạnh toàn dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã
phát động và đang tiếp tục duy trì cuộc vận động “Học tập, làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhằm làm cho tư tưởng, phương pháp,
phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục phát huy giá trị trong đời sống chính trị
của đất nước hiện nay. Theo đó, Đảng đã tập trung nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước và toàn xã hội; xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân; củng cố Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia có hiệu quả vào
công việc của nhà nước; cải cách nền hành chính theo hướng tạo thuận lợi
nhất để mọi công dân được bảo đảm các quyền lợi chính trị; chăm lo xây
dựng giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức, đổi mới toàn diện giáo dục,
đào tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy
mạnh xây dựng nông thôn mới; kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa hai
nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế và tăng cường quốc phòng an ninh,
kiên quyết đấu tranh làm thất bại các âm mưu và hành động chống phá của
139
các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo
môi trường hòa bình để phát triển đất nước; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo,
chăm lo các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng…Có thể
thấy, Hồ Chí Minh đã đi xa gần nửa thế kỷ, nhưng VHCT của Người đang
tiếp tục tỏ rõ ý nghĩa to lớn trong giai đoạn cách mạng mới.
4.1.2. Ý nghĩa đối với cách mạng thế giới
4.1.2.1. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú thêm hệ
giá trị của tư tưởng chính trị thế giới
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh không chỉ là một bộ phận hợp thành mà còn là
bộ phận quan trọng quyết định nhất đưa VHCT Việt Nam bước sang một thời kỳ
mới, có sức lan tỏa và tác động mạnh mẽ đến VHCT của nhân dân thế giới. Mặt
khác, VHCT Hồ Chí Minh thuộc hệ giá trị của VHCT Mác - Lênin, mang bản chất
của giai cấp công nhân. Vì vậy, ý nghĩa của VHCT Hồ Chí Minh đối với sự phát
triển tư tưởng chính trị trên thế giới được nhìn nhận trên hai bình diện chủ yếu đó
là: đối với tư tưởng chính trị của nhân loại và đối với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã đóng góp vào kho tàng tư tưởng chính trị của nhân
loại nhiều luận điểm quan trọng có giá trị lý luận to lớn.
Tư tưởng của Người về chiến lược đại đoàn kết không chỉ có ý nghĩa đối
với cách mạng Việt Nam mà còn cho thế giới thấy rõ vai trò của nó trong việc
thực hiện các mục tiêu chính trị có tính chất quốc tế. Trong đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh đã chủ trương đoàn kết chặt chẽ giữa các
nước thuộc địa với nhau và giữa các dân tộc bị áp bức với giai cấp vô sản ở các
nước tư bản. Người không chỉ nêu khẩu hiệu, “Lao động tất cả các nước đoàn
kết lại”, mà còn chứng tỏ hiệu quả của việc sáng lập và tích cực hoạt động
trong các tổ chức quốc tế để phát huy vai trò của đoàn kết như: sáng lập Hội
Liên hiệp thuộc địa (1922); Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (1925). Trên
báo chí nước ngoài đã có bài viết khẳng định rằng:
Trong những năm 1920, khi có rất ít người cộng sản hiểu được
đúng đắn bản chất của chủ nghĩa đế quốc - sự tàn bạo và chính
140
sách ngu dân cũng như tính chất quốc tế của nó và những lực
lượng to lớn mà nó chi phối - thì Cụ Hồ Chí Minh đã nhận thức
được tầm quan trọng quyết định của sự đoàn kết giữa các dân tộc
bị áp bức đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và sự liên minh
giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp công nhân ở các nước đế
quốc.[8, tr.49].
Ngày nay, thế giới càng phát triển càng chứng tỏ sự cần thiết phải tăng
cường đoàn kết, xây dựng lòng tin chiến lược giữa các nước có chế độ chính trị
khác nhau để giải quyết những vấn đề chung như: dịch bệnh, khủng bố, ô nhiễm
môi trường, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, chạy đua vũ trang...
Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH thực sự là một đóng góp cho thế giới
về triết lý phát triển nhân văn, hài hòa. Người không đưa ra một định nghĩa đầy đủ
về CNXH theo kiểu xác lập một mô hình có sẵn trong tư duy sau đó bắt thực tiễn
phải khuôn theo để vô tình phạm vào chủ quan duy ý chí. Căn cứ vào đòi hỏi của
thực tiễn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể để tiếp cận và đưa ra các quan niệm về
CNXH như: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh...”[63, tr.390],
“Chủ nghĩa xã hội là công bằng, hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng
ít...”[63, tr.404], “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống một
đời hạnh phúc”[65, tr.415], và mục đích của CNXH là “không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”[66,
tr.30]… Những định nghĩa trên đây đã phản ánh một chế độ xã hội mà ở đó cả
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và động lực xây dựng đều do nhân dân và vì nhân
dân. Với quan niệm về một xã hội lấy con người làm trung tâm, Hồ Chí Minh đã
làm cho CNXH không chỉ phù hợp với tất cả mọi giai cấp, tầng lớp mà còn phù hợp
với mọi trình độ phát triển.
Những vấn đề mà thế giới hiện đại ngày nay đang đặt ra như: sự sụp đổ của
các mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu trong thập niên cuối của thế kỷ XX; sự
khủng hoảng kinh tế của CNTB trong thập niên đầu của thế kỷ XXI; vấn đề khoảng
141
cách giàu nghèo; vấn đề suy thoái đạo đức, khủng hoảng lối sống; vấn đề xung đột
tôn giáo, dân tộc, sắc tộc...đang là những minh chứng thực tiễn cho tính đúng đắn
của triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Một nhà sử học Ấn Độ đã viết: “Ở giữa cơn
khủng hoảng này, nhân loại đã sản sinh ra những danh nhân lỗi lạc làm nên thời đại
như Lênin, Hồ Chí Minh và Găngđi là những người đã để lại những dấu ấn không
thể sai lầm của mình để được tiếp tục theo đuổi trong các đảo lộn nhiều biến
động”[108, tr.259-260].
Quan điểm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh chẳng
những đã thức tỉnh và cổ vũ tinh thần đấu tranh của các dân tộc thuộc địa mà còn
trở thành một giá trị phổ biến và tiêu chí trong quan hệ quốc tế. Nhận rõ quy luật
phát triển không đều và sự đan xen tất yếu của các chế độ chính trị khác nhau,
Hồ Chí Minh luôn chủ trương chung sống hòa bình và thực hiện hợp tác quốc tế
trên cơ sở tôn trọng sự khác biệt và không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau. Người khẳng định:
Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều
có thể giải quyết bằng cách hoà bình; tin chắc rằng các nước dù có chế
độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức có khác nhau cũng đều có thể
chung sống hoà bình được. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn
sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên
nguyên tắc: Tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của
nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau,
bình đẳng cùng có lợi và chung sống hoà bình.[63, tr.12].
Xu hướng và mong muốn giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội hiện nay cho thấy, thế giới đang tìm đến với những giá trị mà Hồ Chí Minh
đã nêu lên cách đây hơn nửa thế kỷ. Đó thực sự là một đóng góp lý luận có ý nghĩa
to lớn trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Thứ hai, kế thừa và phát triển VHCT Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chẳng những đã làm phong phú thêm giá trị mà
còn mở rộng và nâng cao sức sống của VHCT Mác - Lênin.
142
Phần lớn các quan điểm chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Người
kế thừa, vận dụng và phát triển. Trên lĩnh vực lý luận chính trị, có thể chỉ ra những
đóng góp nổi bật sau đây của VHCT Hồ Chí Minh vào các giá trị của kho tàng
VHCT Mác - Lênin .
- Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về
con đường cách mạng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời ở phương Tây trong điều kiện các nước tư
bản đã có ĐLDT và mâu thuẫn gay gắt nhất trong xã hội là mâu thuẫn giữa tư
sản với vô sản. Vì vậy, C.Mác, Ph.Ăngghen quan tâm chủ yếu tới vai trò, sứ
mệnh cũng như lợi ích của giai cấp công nhân, và cho rằng, chỉ có giải phóng
giai cấp mới giải phóng được các dân tộc. Do đó, việc thực hiện sứ mệnh của
giai cấp công nhân phải đi theo con đường từ giải phóng giai cấp đến GPDT và
giải phóng con người.
Khi mới tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
“Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới”[54, tr.441]. Tuy nhiên, trong quá trình kết hợp lý luận với thực tiễn và xuất
phát từ thực tế thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thay đổi lập luận của mình, Người cho
rằng: với các nước thuộc địa, có GPDT mới giải phóng được giai cấp, coi GPDT đã
bao hàm một phần giải phóng giai cấp và là tiền đề để tiến tới giải phóng giai cấp
một cách triệt để. Tại Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), dưới sự chủ trì của Hồ Chí
Minh, Hội nghị đã phân tích: “…Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được”[15, tr.113].
Như vậy, con đường cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa phải đi từ GPDT
đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Việc nhận thức và giải quyết đúng
143
đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng GPDT của Hồ Chí Minh
là vấn đề lý luận hết sức quan trọng thể hiện sự sáng tạo lớn. Điều này liên quan đến
tính chủ động, sáng tạo của cách mạng GPDT ở các nước thuộc địa, đến việc xác
định động lực và tập hợp lực lượng cho cách mạng GPDT.
- Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin về tiềm năng, khả năng của cách mạng thuộc địa và vị trí, vai trò của
nó với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Thực tế cho thấy, ở nửa đầu thế kỷ XIX, vấn đề thuộc địa chưa trở
thành vấn đề cơ bản của đời sống chính trị quốc tế, cho nên theo C.Mác và
Ph.Ăngghen, cách mạng GPDT phụ thuộc vào cách mạng giải phóng giai
cấp. Đến thời Lênin, CNTB đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, chúng
đẩy mạnh xâm chiếm và mở rộng thuộc địa, làm cho vấn đề dân tộc trở
thành vấn đề quốc tế và trở nên hết sức gay gắt. Thời kỳ này phong trào đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân của các nước thuộc địa bắt đầu phát triển
mạnh. Trước thực tế đó, Lênin đã đánh giá cao vai trò của cách mạng thuộc
địa và coi đó là một bộ phận quan trọng của cách mạng vô sản. Mặc dù vậy,
các lãnh tụ của Quốc tế cộng sản vẫn coi thắng lợi của cách mạng thuộc địa
phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu. Trong Tuyên
ngôn của Quốc tế cộng sản đã ghi, “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể
tiến hành với việc giải phóng công nhân ở chính quốc”[dẫn theo 49, tr.143].
Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thừa nhận vấn
đề đấu tranh giai cấp và vị trí vai trò nhất định của cách mạng vô sản ở chính quốc
đối với sự nghiệp giải phóng của các nước thuộc địa, nhưng với tư duy độc lập, tự
chủ, Người đã có nhận định khác về khả năng của cách mạng GPDT. Là người dân
của một nước thuộc địa, lại có sự trải nghiệm thực tế trên hành trình tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc tình hình các nước thuộc địa. Người cho rằng,
thuộc địa là nơi bị áp bức, bóc lột nặng nề, nơi tập trung những mâu thuẫn dân tộc
và giai cấp sâu sắc, là mắt khâu yếu nhất trong sợi dây truyền của chủ nghĩa đế
144
quốc. Từ một quy luật tự nhiên, một nguyên lý đơn giản, có áp bức thì có đấu tranh,
Người đã nhìn thấy một tiềm năng cách mạng to lớn ở các nước thuộc địa. Mặt
khác, Người đã thu thập các số liệu về nguồn lực con người, về tài nguyên
thiên nhiên để so sánh giữa chính quốc với thuộc địa và đi đến nhận định rằng,
các nước thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn, nếu biết khơi dậy, động viên,
tập hợp thì sẽ tạo thành động lực cách mạng khổng lồ trong đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc.
Trên cơ sở nhận thức rõ tiềm năng, vai trò của cách mạng thuộc địa đối
với sự tồn tại của CNTB, và mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách
mạng vô sản ở chính quốc; đề cao tinh thần tự lực, tự cường, Hồ Chí Minh cho
rằng, cách mạng GPDT ở thuộc địa hoàn toàn có thể chủ động nổ ra và giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm trên chẳng những
đã thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức, với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường đứng lên tự giải phóng dân tộc mình, mà còn thể hiện rõ sự kế thừa và
phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa.
Cống hiến của Hồ Chí Minh có thể đem so sánh với cống hiến của C.Mác và
Lênin. C.Mác là người có công lớn nhất trong việc phân tích bản chất của
CNTB, phát kiến ra học thuyết giá trị thặng dư và chỉ ra sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản. Lênin là người có công lớn nhất trong việc phân tích bản chất
của chủ nghĩa đế quốc tìm ra quy luật phát triển không đều của nó và chỉ ra:
Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước, nếu ở đó là mắt
khâu yếu nhất trong sợi dây truyền của chủ nghĩa đế quốc. Bên cạnh đó, Hồ
Chí Minh lại là người có công lớn nhất trong việc phân tích bản chất của chủ
nghĩa thực dân và chỉ ra mắt khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc là ở thuộc
địa. Nói về đóng góp của Hồ Chí Minh trong việc thức tỉnh tinh thần tích cực,
chủ động, tự lực, tự cường trong đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với
loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế gới văn minh,
xoá đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa”[75, tr.73].
145
Tại Hội thảo quốc tế nhân kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của Hồ Chí Minh,
Giám đốc Trung tâm nghiên cứu triết học chính trị và xã hội Mê-hi-cô đã nói:
Chúng ta có thể khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Hồ Chí Minh và lý luận của Người về chiến tranh nhân dân
đã góp phần làm phong phú học thuyết Mác - Lênin về phương pháp
mà các dân tộc phải làm theo khi tiến hành một cuộc cách mạng dân
chủ…Đó là cống hiến to lớn của Người vào cuộc đấu tranh giải phóng
của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.[8, tr.76-77].
- Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã phát triển học thuyết Mác - Lênin về
nguồn gốc, tính chất của Đảng Cộng sản và việc xây dựng đảng cầm quyền ở một
nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH.
Đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị chỉ ra đời khi phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đạt đến trình độ tự giác.
Tức là khi và chỉ khi giai cấp công nhân nhận rõ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử
của mình trong đời sống chính trị - xã hội và tự giác bước lên vũ đài chính trị
đấu tranh với mục tiêu lật đổ địa vị thống trị của giai cấp tư sản. Khi đó, sẽ xuất
hiện những người ưu tú nhất trong phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân, tự nguyện liên kết với nhau dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp mình, tức là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Do vậy, Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác và phong trào công nhân. Thiếu một trong hai yếu tố này không thể có
Đảng Cộng sản. Nói cách khác, một tổ chức chính trị nào đó không thể mang
tên Đảng Cộng sản nếu thiếu một trong hai yếu tố này. Tuy nhiên, có hai yếu tố
này cũng chưa hẳn sẽ có Đảng Cộng sản nếu hai yếu tố đó chỉ tồn tại một cách
biệt lập, đứng cạnh nhau mà chưa thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau. Đây là
nguyên lý phổ biến về sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới.
Lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ
Chí Minh nhận rõ sự cần thiết phải có Đảng để lãnh đạo công cuộc đấu tranh GPDT
và xây dựng CNXH của nhân dân Việt Nam. Mặc dù vậy, vào thời điểm Người tiếp
thu chủ nghĩa Mác - Lênin, ở Việt Nam chưa hội đủ những yếu tố và điều kiện cần
146
thiết để thành lập một chính đảng thực sự cách mạng của giai cấp công nhân. Bởi
vì, lúc đó thực dân Pháp đang thực hiện chính sách ngu dân, chúng tiến hành bưng
bít thông tin và ngăn cấm mọi hình thức sinh hoạt tư tưởng. Do vậy, giai cấp công
nhân Việt Nam tuy đã ra đời cùng với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, nhưng số lượng còn ít và trình độ nhận thức chính trị còn rất hạn chế. Tuy
nhiên, giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những đặc điểm chung đó là, họ đại
diện cho phương thức sản xuất mới, có đầy đủ phẩm chất của giai cấp công nhân
quốc tế, làm việc tập trung ở các trung tâm kinh tế, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh
thần cách mạng cao. Bên cạnh đó cũng có những đặc điểm riêng do môi trường và
quá trình hình thành tạo nên đó là: ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, lại trong lúc
chủ nghĩa đế quốc đang đi xuống nên có ưu thế hơn trong việc giành quyền lãnh
đạo; chịu ba tầng áp bức của đế quốc, phong kiến và tư sản nên có thể vừa đại diện
cho quyền lợi của dân tộc, vừa đại diện cho quyền lợi của các giai cấp khác; xuất
thân chủ yếu từ nông dân nên có mối quan hệ mật thiết với các giá trị truyền thống
và lợi ích của dân tộc, là bạn đồng minh tự nhiên của nông dân.
Những đặc điểm trên đây có nhiều yếu tố thuận lợi nhưng cũng chỉ là
tiềm năng và cần phải có sự chuẩn bị để biến các tiềm năng đó thành hiện
thực. Nhận rõ điều này, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ nguyên lý phổ
biến với các yếu tố đặc thù trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người đã giành một khoảng thời gian để tiến hành các hoạt động truyền bá
lý luận, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Lý luận cách mạng được
truyền vào cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng và xuất hiện những cá nhân
ưu tú nhất. Khi hội đủ các điều kiện, các tổ chức cộng sản tự xuất hiện và
sau đó, Hồ Chí Minh đã đứng ra hợp nhất các tổ chức đó lại, sáng lập ra
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây là quan điểm, tư tưởng và cách làm độc đáo, sáng tạo trong quá trình xây
dựng Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Người đã làm cho chủ
nghĩa Mác - Lênin không chỉ kết hợp với phong trào công nhân mà còn kết hợp với
147
phong trào yêu nước và làm cho chủ nghĩa dân tộc phát triển thành chủ nghĩa cộng
sản. Sau này, nhân kỷ niệm ba mươi năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Sự sáng tạo về nguồn gốc ra đời của Đảng cũng đồng thời đưa đến sự sáng tạo
về tính chất của đảng. Vì là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, nên Đảng Cộng sản Việt Nam
không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động
và của cả dân tộc. Theo đó, Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong suốt tiến trình cách
mạng, cho nên Người rất quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều
kiện Đảng cầm quyền. Điều này chưa được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đề cập nhiều. Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, là Chủ tịch Đảng
nhưng đồng thời là Chủ tịch nước; nhận rõ những thuận lợi, khó khăn trong công
tác xây dựng Đảng ở một nước nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu:
Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn để đáp ứng đòi hỏi mới của sự
nghiệp cách mạng; mỗi đảng viên phải có đức, có tài, hết lòng vì dân, vì nước để
Đảng thực sự tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ, danh dự của dân tộc. Những quan
điểm, tư tưởng trên đây thực sự đã làm phong phú và sâu sắc thêm lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản.
- Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã bổ sung và làm phong phú thêm lý luận
Mác - Lênin về mô hình, bản chất, tính chất của nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH.
Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của C.Mác là nhà
nước chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân, có nhiệm vụ chuyển toàn bộ sở
hữu tư nhân của tư sản thành sở hữu công cộng, trấn áp sự nổi dậy của giai cấp tư
sản, liên minh với nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân để xây dựng CNXH.
Nhà nước chuyên chính vô sản mang tính chất là chính quyền của giai cấp công
148
nhân. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước Nga được gọi là chính quyền công nông, có tính chất là nhà nước
của giai cấp công nhân và nông dân.
Hồ Chí Minh đã vận dụng lý luận Mác - Lênin về nhà nước vào điều kiện cụ
thể Việt Nam và sáng tạo ra mô hình nhà nước Dân chủ nhân dân, mang bản chất
của giai cấp công nhân nhưng có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Một nhà
nước mà như Nghị quyết Trung ương 8 (5-1941) đã viết:
Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới không phải thuộc quyền
riêng của một giai cấp nào mà là của chung toàn thể dân tộc, chỉ trừ bọn
tay sai của đế quốc Pháp - Nhật và những bọn phản quốc…, còn ai là
người dân sống trên dải đất Việt Nam, thảy đều được một phần tham gia
giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính
quyền ấy.[15, tr.114].
Như vậy, nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là nhà
nước của dân, do dân, vì dân, mang bản chất của giai cấp công nhân, do giai
cấp công nhân lãnh đạo. Đây vừa là một trong những sáng tạo lý luận chính trị
hết sức quan trọng, cho phép tạo ra sự đồng thuận xã hội và phát huy vai trò,
trách nhiệm của mọi giai cấp, tầng lớp trong xây dựng CNXH, vừa là một đóng
góp lớn của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin về nhà nước.
4.1.2.2. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh góp phần thúc đẩy sự phát triển,
tiến bộ trong đời sống chính trị của thế giới đương đại
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trong một giai đoạn
đầy biến động của lịch sử thế giới. Đó là những giá trị về chính trị được hình thành
trong thực tiễn đấu tranh để thoát khỏi sự áp bức của chủ nghĩa thực dân cũ và tìm
một con đường hiện thực cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Do vậy, ý nghĩa
thực tiễn của VHCT Hồ Chí Minh đối với thế giới được nhìn nhận gắn liền với tính
chất của từng giai đoạn lịch sử cụ thể kể từ khi những giá trị đầu tiên được xác lập.
Theo đó, có thể khái quát một số ý nghĩa quan trọng của VHCT Hồ Chí Minh đối
với sự phát triển, tiến bộ của đời sống chính trị quốc tế như sau:
149
Một là, Hồ Chí Minh đã làm cho nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới
xích lại gần nhau, hiểu biết nhau hơn và động viên nhân dân các nước thuộc địa
đứng lên làm cách mạng GPDT, góp phần tạo ra động lực mới cho cách mạng thế
giới trong nửa đầu thế kỷ XX.
Thực tế cho thấy rằng, chủ nghĩa thực dân đã liên kết với nhau thành một hệ
thống thế giới, chẳng những để thỏa hiệp việc phân chia thuộc địa, mà còn để chống
lại phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc và sự nổi dậy của
nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Do vậy, sự liên kết chặt chẽ giữa các lực
lượng ở khắp nơi của phong trào cách mạng thế giới là một tất yếu khách quan. Tuy
nhiên, kể cả khi Quốc tế Cộng sản đã ra đời thì trong phong trào cách mạng thế giới
vẫn tồn tại sự biệt lập, tách rời giữa các nước thuộc địa với nhau và giữa cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân ở các nước chính quốc với cuộc đấu tranh giành
ĐLDT của nhân dân các nước thuộc địa. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động
ở các nước chính quốc nói chung, ở Pháp nói riêng chưa có hiểu biết đúng đắn về
điều kiện tự nhiên, xã hội của các thuộc địa.
Hồ Chí Minh cho rằng, do không hiểu biết lẫn nhau nên đã nảy sinh
những thành kiến làm ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Người chỉ rõ: “Đối với công nhân Pháp, thì người bản xứ là một hạng người
thấp kém, không đáng kể, không có khả năng để hiểu biết được và lại càng
không có khả năng hoạt động. Đối với người bản xứ, những người Pháp -
mặc dầu họ là hạng người nào cũng đều là những kẻ bóc lột độc ác”[54,
tr.81]. Sự hiểu biết sai lầm đó có nguyên nhân khách quan từ sự xa cách địa
lý, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ nghĩa thực dân đã che dấu sự thật,
bưng bít, cấm vận thông tin và lợi dụng sự phân biệt đó để chia rẽ các lực
lượng cách mạng quốc tế.
Trước thực trạng đó, Hồ Chí Minh đã tiến hành các hoạt động cụ thể như,
phản ánh tình hình thuộc địa thông qua việc tham gia Đảng xã hội Pháp; thành lập
Hội Liên hiệp thuộc địa để thống nhất hành động đấu tranh; viết bài tuyên truyền và
tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân trên báo Người cùng khổ - cơ quan ngôn luận
150
của Hội Liên hiệp thuộc địa; tham gia hoạt động của các tổ chức Quốc tế, yêu cầu
các tổ chức này, đặc biệt là Quốc tế Cộng sản phải tăng cường giúp đỡ các nước
thuộc và làm cho các Đảng Cộng sản cùng giai cấp công nhân ở chính quốc hiểu
biết nhiều hơn về thuộc địa và thấy được sự cần thiết phải đoàn kết với phong trào
đấu tranh GPDT. Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê
phán quan điểm coi nhẹ cách mạng thuộc địa đang tồn tại ở một số Đảng Cộng sản
và yêu cầu cần phải đẩy mạnh tuyên truyền để đoàn kết các nước thuộc địa với
nhau và giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Người nói:
Khi các đồng chí muốn đập vỡ một quả trứng hay một hòn đá, thì các
đồng chí phải nghĩ đến việc tìm kiếm một công cụ mà sức bền của nó
tương xứng với sự vững chắc của đối tượng định đập tan…Tại sao các
đồng chí lại xem thường các thuộc địa trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa
vào nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng chí.[54, tr.296].
Với những hoạt động đó, Hồ Chí Minh đã góp phần làm cho các nước thuộc
địa liên kết với nhau thành “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”[55,
tr.134] và sự đoàn kết, giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản cũng như của phong trào cách
mạng vô sản ở các nước chính quốc với phong trào GPDT đã tạo ra động lực mới
cho cách mạng thế giới.
Hai là, Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng làm tan rã hệ thống thuộc địa
của CNTB và thiết lập một diện mạo mới cho đời sống chính trị quốc tế.
Trong quá trình phát triển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thành chủ
nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản đã “xuất khẩu” sự bóc lột sang các nước lạc hậu, biến
các nước đó thành thuộc địa của chúng. Với việc áp bức, bóc lột và nô dịch các
nước thuộc địa, CNTB đã tạo ra trong đời sống chính trị thế giới thêm một mâu
thuẫn mới là mâu thuẫn giữa CNTB với các dân tộc thuộc địa. Thực trạng việc giai
cấp tư sản cùng lúc thống trị và bóc lột giai cấp vô sản ở các nước tư bản và nhân
dân lao động ở các nước thuộc địa chính là diện mạo của đời sống chính trị quốc tế
giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
151
Với việc đánh giá đúng điểm yếu của chủ nghĩa đế quốc, dự báo chính xác
tiềm năng và khả năng của các dân tộc bị áp bức, Hồ Chí Minh đã khắc phục tâm lý
thụ động, thức tỉnh tinh thần tích cực, chủ động, tự lực, tự cường của các nước
thuộc địa trong đấu tranh xóa bỏ sự bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị, nô dịch
về tinh thần của chủ nghĩa thực dân. Tư tưởng và hành động chính trị Hồ Chí Minh
trong đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đã dẫn đến thắng lợi trong cách mạng
GPDT ở Việt Nam và hàng loạt các nước thuộc địa khác trên thế giới. Thắng lợi đó
đã góp phần quan trọng làm lung lay nền móng và mở ra thời kỳ suy sụp, tan rã
hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ. Một nhà nghiên cứu đã viết:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, một thay đổi quan trọng trong tình
hình quốc tế là sự tan rã của hệ thống thực dân. Để đập tan ách áp
bức thực dân và gông xiềng nô lệ hàng mấy thế kỷ, biết bao bậc tiền
bối cách mạng đã nối bước nhau, hiến dâng cuộc đời quý báu của
mình trong cuộc đấu tranh máu lửa, trở thành những vị anh hùng
chân chính của phong trào giải phóng dân tộc, được nhân dân mãi
mãi ghi nhớ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt
Nam, chính là một trong những anh hùng kiệt xuất đó. [8, tr.21].
Không chỉ góp phần làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, mà với tư tưởng,
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, Hồ Chí Minh đã huy động được tối đa sức
mạnh của dân tộc Việt Nam và sự giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên
thế giới để đánh bại ý chí xâm lược của hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, giành thắng
lợi trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Sự thất bại của đế quốc Pháp và Mỹ
ở Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị quốc tế, thu hẹp dinh lũy
của chủ nghĩa đế quốc; làm thay đổi tương quan lực lượng giữa hai hệ thống thế
giới là XHCN và TBCN; làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ
nghĩa đế quốc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới và cổ vũ mạnh
mẽ cho phong trào đấu tranh vì hòa bình, ĐLDT, dân chủ và CNXH trên thế giới.
Chủ tịch Cu Ba, Fidel Castro đã viết: “Với cuộc đấu tranh anh hùng của mình, nhân
dân Việt Nam đã cột chặt nanh vuốt của chủ nghĩa đế quốc và đã ngăn không cho
152
chúng gây tội ác ở những nơi khác trên thế giới”[8, tr.82]. Thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân Việt Nam là thắng lợi của thể
chế chính trị tiến bộ được tạo nên từ VHCT Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó đã góp
phần làm thay đổi diện mạo của đời sống chính trị quốc tế, mở ra một thời kỳ mới
trong lịch sử phát triển của nhân loại, thời kỳ các dân tộc độc lập, tự chủ trong lựa
chọn chế độ chính trị với con đường phát triển riêng của mình. Một chính khách
nước ngoài - Chủ tịch Hội đồng cách mạng An-giê-ri, Huari Bumedien đã viết:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đầu cho cuộc đấu tranh của nhân dân
các nước trong thế giới thứ ba để tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của chủ
nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Tên tuổi của Người mãi mãi sẽ là
một biểu tượng, và hoạt động của Người là một gương sáng…Cuộc
chiến đấu của Người cũng là cuộc chiến đấu của tất cả các dân tộc bị áp
bức của châu Phi, của Pa-le-xtin, của Việt Nam, của châu Á và của thế
giới thứ ba, để giành lại phẩm cách và danh dự cho mình.[8, 36-37].
Ba là, Hồ Chí Minh đã góp phần xác lập phương hướng và giải pháp đúng
đắn cho việc khắc phục những khủng hoảng trong đời sống chính trị thế giới.
Với chủ trương thiết lập và xây dựng một nền chính trị nhân văn, nhân
đạo, tất cả vì con người, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện ở việc đấu
tranh giành ĐLDT mà thể hiện ở tư tưởng và hành động chính trị nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Do vậy, VHCT
Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa thực tiễn ở những nơi đang đấu tranh vì sự
nghiệp GPDT và giải phóng giai cấp, mà còn có ý nghĩa thực tiễn ở nhiều lĩnh
vực như: xóa đói, giảm nghèo; xóa mù chữ; xóa bỏ các tệ nạn xã hội, xây dựng
đời sống mới…Ông Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới đã nói:
Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và
công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất
cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó
có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao.[111, tr.90].
153
Mặc dù vậy, GS Wilfried Lulei, khoa nghiên cứu châu Á, trường đại học
Humbol, Cộng hòa dân chủ đức đã chỉ rõ: “Vai trò của Hồ Chí Minh trong việc
phấn đấu cho hòa bình, sự hiểu biết giữa các dân tộc, sự hợp tác thân thiện và việc
giải quyết phi bạo lực mâu thuẫn giữa các quốc gia còn chưa được nghiên cứu đánh
giá đầy đủ” và, ông cho rằng, “Quan điểm của Hồ Chí Minh rất phù hợp với quan
điểm của chúng ta ngày nay trong việc giải quyết các xung đột quốc tế”[8, tr.48].
Lịch sử đã cho thấy, sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, khoa học và
công nghệ của nhân loại ngày nay đang đặt ra nhiều vấn đề bức xức trong đời
sống chính trị thế giới như: việc coi thường luật pháp quốc tế; chủ nghĩa khủng
bố; xung đột sắc tộc, tôn giáo; phân hóa giàu nghèo; bất công, bất bình đẳng;
dịch bệnh; ô nhiễm môi trường; khủng hoảng lối sống, suy giảm niềm tin; suy
thoái đạo đức…Trước thực trạng đó, VHCT Hồ Chí Minh đang nổi lên như
một phương hướng và giải pháp đúng đắn cho việc khắc phục những khủng
hoảng trong đời sống chính trị. Mặt khác, trên thực tế, mô hình XHCN mà Hồ
Chí Minh chủ trương xây dựng không những đang tiếp tục thể hiện bản chất ưu
việt và được duy trì ở các nước đi theo con đường XHCN mà còn mở đầu cho
trào lưu xây dựng CNXH thế kỷ XXI ở các nước Mỹ Latinh. Tổng thống
Venezuela, Hugo Chávez đã cho rằng:
Chủ nghĩa tư bản không thể thực hiện được việc tự vượt qua chính
mình, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chính nghĩa và hòa bình mới vượt qua
được chủ nghĩa tư bản...Chúng ta không thể thực hiện được mục tiêu
của mình trong chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng không thể đi theo con
đường trung gian. Chúng ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI.[dẫn theo 45, tr.163]
Thực tế trên đây không chỉ cho nhân loại thấy rằng, CNTB không phải là
con đường phát triển duy nhất, mà còn chứng minh cho nhận định: “Thế giới
đã và sẽ còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho
tàng văn hóa của nhân loại”[23, tr.72-73].
154
Bốn là, Hồ Chí Minh đã góp phần khẳng định những giá trị mới của
VHCT trong thế giới đương đại, đó là mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự
do với dân chủ, giữa lợi ích quốc gia với quốc tế và giữa đảng chính trị với
chính quyền.
Từ việc tiếp cận quyền tự do với tính cách là một trong những quyền tự nhiên
mà tạo hóa ban cho con người, và từ mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, quốc
gia, dân tộc, Hồ Chí Minh đã cho thấy tự do còn là một quyền của mỗi dân tộc và
muốn có tự do, trước hết phải có độc lập. Với tinh thần, “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”, Người đã khẳng định một quyết tâm sắt đá rằng, “Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”[57, tr.3]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền con người
và quyền dân tộc không thể tách rời nhau, nước bị mất độc lập thì dân không thể có
tự do và “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”[57, tr.64]. Như vậy, độc lập dân tộc là cơ sở để một quốc gia
tự do lựa chọn con đường phát triển của mình và chỉ có độc lập thật sự mới có tự do
chân chính. Tuy nhiên, trong một thể chế chính trị độc lập, quyền tự do của con
người lại phụ thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước và mức độ tham dự của
nhân dân vào xu thế dân chủ hóa. Thực tiễn cho thấy, chỉ có chế độ XHCN dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân mới có thể bảo đảm cho dân tộc một nền độc lập
thật sự và từng bước đem lại tự do, bình đẳng cho con người. Sự vận động của đời
sống chính trị trong thế giới đương đại đang ngày càng khẳng định giá trị to lớn của
độc lập, tự do, dân chủ và mối quan hệ giữa chúng. Hiện nay, việc can thiệp của chủ
nghĩa đế quốc vào độc lập, tự do của các quốc gia dưới những hình thức khác nhau,
việc vi phạm dân chủ của một số chế độ chính trị nhất định là nguyên nhân làm
bùng nổ các xung đột dân tộc, sắc tộc, làm xuất hiện các tổ chức khủng bố và hành
động chạy đua vũ trang trên phạm vi toàn cầu. Để giải quyết những vấn đề nêu trên
không gì khác hơn là một trật tự chính trị thế giới hòa bình giữa những thể chế
chính trị khác nhau, tôn trọng độc lập của nhau, hợp tác cùng phát triển. Và, điều đó
đã có, đã trở thành một giá trị của VHCT Hồ Chí Minh đang tỏa sáng ý nghĩa hiện
thực trong đời sống chính trị đương đại.
155
Hồ Chí Minh đấu tranh cả cuộc đời cho nền độc lập thật sự của nhân dân
Việt Nam, nhưng cần nhận rõ đó không phải là nền độc lập một cách tuyệt đối,
tách rời mà là độc lập trong mối quan hệ biện chứng với các quốc gia, dân tộc
khác. Bởi lẽ, chỉ trong mối quan hệ với các quốc gia khác mới có thể nhận định
được mức độ độc lập của một dân tộc. Vì vậy, trong tư tưởng và hành động
chính trị Hồ Chí Minh, Việt Nam luôn là một bộ phận của thế giới, chịu ảnh
hưởng của thế giới và cũng có vai trò, đóng góp nhất định đối với sự ổn định,
phát triển của thế giới. Trong cách mạng giải phóng cũng như trong xây dựng
đất nước, Người luôn đặt cách mạng Việt Nam vào dòng chảy của cách mạng
thế giới, giải quyết hài hòa giữa dân tộc và giai cấp, ĐLDT và CNXH, giữa lợi
ích quốc gia và quốc tế. Mong muốn cuối cùng của Người trước lúc đi xa là:
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thế giới”[68, tr.614]. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay đang ngày càng chứng minh tính đúng đắn, hiện đại và ý
nghĩa thời đại của VHCT Hồ Chí Minh.
Một trong những giá trị có ý nghĩa hiện thực của VHCT Hồ Chí Minh mà
đang ngày càng được đời sống chính trị của thế giới đương đại khẳng định, đó là tư
tưởng và hành động về mối quan hệ giữa đảng chính trị với chính quyền và vấn đề
đảng cầm quyền. Trong tư tưởng và hành động chính trị Hồ Chí Minh, đảng chính
trị, mà cụ thể là Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là nhân tố mới trong đời sống
chính trị của dân tộc mà còn là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, trở thành đảng cầm quyền và là lực lượng lãnh đạo mọi mặt của đời sống xã
hội. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh luôn giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Đảng với
nhà nước, giữa lãnh đạo với quản lý. Trong đó, nhà nước phải mang bản chất giai
cấp của Đảng, phải hướng tới hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng, cương lĩnh chính trị
của Đảng. Người luôn nhắc nhở rằng, lãnh đạo là hoạt động tuyên truyền, giáo dục,
vận động, thuyết phục quần chúng thông qua cương lĩnh chính trị và tính tiền
phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên. Bên cạnh đó, quản lý là giải thích, áp
156
dụng, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và tự mình tuân thủ pháp luật. Vì
vậy, Người cho rằng, với tư cách là một đảng cầm quyền, đảng viên phải đủ phẩm
chất, năng lực để được nhân dân bầu vào các cơ quan nhà nước, khi đó toàn đảng
nói chung, mỗi đảng viên nói riêng phải thực hiện hai chức năng lãnh đạo và quản
lý. Với quan niệm, các cơ quan dân cử là người đại diện thực thi quyền lực mà nhân
dân ủy nhiệm, Hồ Chí Minh cho rằng “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét
nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”[60,
tr.434]. Và, đảng viên của một đảng cầm quyền phải “xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[68, tr.612]. Vai trò ngày càng tăng
của các đảng chính trị và vấn đề đảng cầm quyền trong các thể chế chính trị đương
đại nói chung, trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay nói riêng đang chứng
minh giá trị và ý nghĩa thời đại của VHCT Hồ Chí Minh.4.2. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lãnh đạo và quản lý là hai
phương diện hoạt động khác nhau nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong đó, lãnh
đạo được hiểu là việc đề ra phương hướng và ý chí để mọi người tuân theo, còn
quản lý là việc đưa ra các mệnh lệnh hành chính và điều khiển các hoạt động chung.
Việc phân biệt rõ lãnh đạo và quản lý là cơ sở để khắc phục hiện tượng chồng chéo
chức năng, bao biện làm thay hoặc dựa dẫm, ỷ lại.
Tuy nhiên, ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền, người
cán bộ thường là đảng viên và có sự thống nhất hai chức năng, lãnh đạo và quản
lý. Trong đó chức năng lãnh đạo luôn đi trước, là tính thứ nhất trong mối quan
hệ đó. Với tính cách là người sáng lập và là Chủ tịch Đảng, đồng thời là Chủ tịch
nước trong một thời gian dài, Hồ Chí Minh thực sự vừa là nhà lãnh đạo, vừa là
nhà quản lý và VHCT của Người cũng chính là văn hóa lãnh đạo, quản lý.
Những phân tích nêu trên cho thấy, việc bồi dưỡng VHCT Hồ Chí Minh cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là hoạt động có ý nghĩa quan trọng và rộng lớn. Do
vậy, việc nghiên cứu sâu sắc về vấn đề đó thuộc đối tượng, phạm vi nghiên cứu
157
của một đề tài khác. Trong phạm vi đề tài này, chỉ trình bày những mục tiêu, giải
pháp chủ yếu với tính cách là điểm nhấn cho các giá trị của VHCT Hồ Chí
Minh, xuất phát từ chính ý nghĩa VHCT của Người và những nhận định đánh giá
của Đảng về thực trạng lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
Xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam hiện nay là một quá trình tác động có chủ đích, nhằm làm cho các giá trị của
VHCT Hồ Chí Minh không chỉ thấm vào nhân cách mỗi cá nhân cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, mà phải được biểu hiện ra ở việc biết vận dụng sáng tạo và phát
huy cao độ các giá trị đó trong đời sống chính trị hiện nay của đất nước. Mục tiêu
này đặt ra một số yêu cầu cụ thể sau:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kiên định và nhất quán
mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH.
Đây không chỉ là mục tiêu chính trị đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với quy
luật phát triển khách quan và xu thế thời đại đã được thực tiễn kiểm nghiệm,
mà còn là lý tưởng chính trị và là giá trị tư tưởng của VHCT Hồ Chí Minh. Xây
dựng CNXH là quá trình lâu dài, nhưng là con đường và mục tiêu tất yếu nhân
loại sẽ tiến đến. Ở Việt Nam, xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của nhà nước. Do vậy, để sự
nghiệp này đi đến đích, trước hết phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tuyệt
đối trung thành với mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH, mà thực chất là trung
thành với lợi ích của nhân dân.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thực sự tiêu biểu về đạo
đức cách mạng.
Đây không chỉ là cơ sở để người cán bộ lãnh đạo, quản lý dấn thân và hy
sinh cho sự nghiệp chung của Đảng, của dân tộc mà còn là cơ sở để đoàn kết,
tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố
niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, đạo đức cách
mạng sẽ làm cho quyền lực tác động vào xã hội không bằng cưỡng bức, ép
buộc thô bạo mà bằng cảm hóa, thuyết phục và thẩm thấu tự nhiên với tính
158
cách là một giá trị văn hóa. Theo đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là những
biểu tượng về nhân cách văn hóa của sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, thực sự là công bộc và là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực, phương pháp
và phong cách chính trị đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.
Hiện nay đất nước đang quá độ lên CNXH trong bối cảnh cạnh tranh giai
cấp và dân tộc ngày càng gay gắt, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu, rộng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có năng lực ngang tầm
và phấn đấu trên tầm của yêu cầu nhiệm vụ. Năng lực đó thể hiện ở những nội
dung cụ thể như: Khả năng nhận thức đúng đắn những vấn đề chính trị quốc tế
và trong nước; có khả năng dự báo tình hình để trên cơ sở đó đưa ra các chủ
trương, đường lối, các quyết sách chính trị đúng đắn, khoa học; có khả năng
vận động, thuyết phục, đoàn kết, tập hợp, tổ chức thực tiễn và phát huy sức
mạnh nội lực kết hợp với sức mạnh ngoại lực để hiện thực hóa các mục tiêu
chính trị; có khả năng bao quát, nắm bắt và giải quyết kịp thời, đúng đắn các
vấn đề chính trị cụ thể, các điểm nóng về chính trị và các xung đột xã hội.
Để hiện thực hóa mục tiêu, yêu cầu nêu trên, cần tập trung làm tốt một số nội
dung có tính nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, nâng cao trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trình độ chính trị không những là yếu tố cấu thành mà còn là nền tảng tư
tưởng, lý luận của VHCT. Để xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, trước hết phải tập trung nâng cao trình độ chính trị cho đội ngũ
này. Nội dung quan trọng quyết định nhất thể hiện trình độ chính trị của người cán
bộ lãnh đạo, quản lý đó là: phải luôn thấm nhuần sâu sắc rằng, lãnh đạo là tự
nguyện hy sinh phấn đấu cho lợi ích của tập thể, của cộng đồng, đặt lợi ích cá nhân
dưới lợi ích cộng đồng, còn quản lý là thay mặt nhân dân, được nhân dân trao cho
những thẩm quyền nhất định để điều hành phối hợp các hoạt động chung vì lợi ích
chung của xã hội. Do vậy, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn quán triệt rõ,
mình vừa là đầy tớ, vừa là công bộc của nhân dân.
159
Nâng cao trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý còn đòi hỏi
mỗi người phải có tri thức nhất định về những vấn đề cơ bản của chính trị, đó là:
nắm chắc quy luật vận động, phát triển khách quan của nhân loại; nắm chắc sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tính chính đáng của Đảng Cộng sản. Bên cạnh
đó, cần nắm chắc lịch sử chính trị của dân tộc, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch...
Để nâng cao trình độ chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cần tiến
hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó một trong những biện pháp quan trọng hiện
nay là, đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Cần có cơ chế, chính sách, biện pháp phù hợp với quyết tâm chính trị cao, tạo nền
tảng và động lực để mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói
riêng tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ chính trị của mình. Bên
cạnh đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với tự đào tạo cán bộ. Một mặt, cần chủ
động đổi mới nội dung, phương pháp và phát huy tính tích cực, chủ động trên tinh
thần tự do tư tưởng, khuyến khích những sáng tạo lý luận đáp ứng đòi hỏi của thực
tiễn cách mạng, trên cơ sở lập trường giai cấp và lợi ích dân tộc. Một trong những
nội dung quan trọng của công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý là giảng dạy,
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về VHCT Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó làm cho
mỗi cán bộ, lãnh đạo, quản lý nắm chắc cơ sở hình thành, cấu trúc, đặc trưng, giá trị
và ý nghĩa to lớn của VHCT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, biết vận
dụng sáng tạo, phát huy cao độ những giá trị đó trong đời sống chính trị hiện nay và
tự giác rèn luyện theo các chuẩn mực của VHCT Hồ Chí Minh.
Thứ hai, xây dựng môi trường VHCT và phát huy vai trò của nhân dân trong
việc giám sát đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Văn hóa chính trị của mỗi cá nhân được hình thành trong một môi trường
VHCT nhất định. Do vậy, để xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay cần quan tâm đến việc xây dựng môi trường
văn hóa. Nghĩa là, mỗi công dân, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung phải có VHCT,
biểu hiện ở nhận thức, thái độ, niềm tin và những hành vi ứng xử với những vấn đề
160
chính trị cụ thể như: mục tiêu, lý tưởng, hệ tư tưởng chính trị, hệ thống chính trị và
các sản phẩm chính trị cụ thể là các chủ trương, đường lối, các quyết định lãnh đạo,
quản lý... Với nhiều loại môi trường VHCT thì môi trường văn hóa trong Đảng là
quan trọng nhất, quyết định nhất đến việc hình thành, phát triển VHCT của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý. Việc xây dựng môi trường VHCT ở Việt Nam hiện nay,
cần kết hợp chặt chẽ các giá trị VHCT truyền thống của dân tộc với các giá trị,
chuẩn mực của VHCT Hồ Chí Minh và các giá trị VHCT của các thể chế chính trị
khác trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người nắm quyền lực, mà
quyền lực luôn có thuộc tính dễ bị tha hóa, lạm dụng. Do vậy, xây dựng VHCT
phải luôn đi đôi với kiểm soát, phòng chống và ngăn chặn sự suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, sự quan liêu, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng,
lãng phí của những người có chức, có quyền. Một trong những cách tốt nhất để
phòng chống những biểu hiện nêu trên là phát huy vai trò của nhân dân. Bởi vì,
nhân dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của sự lãnh đạo, quản lý, là người ủy
nhiệm quyền lực của mình cho các cơ quan đại diện. Do vậy, nhân dân là người
có quyền tối cao giám sát mọi hoạt động của Đảng, nhà nước nói chung, của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.
Để phát huy vai trò giám sát của nhân dân, đòi hỏi phải không ngừng nâng
cao dân trí và có cơ chế, chính sách, pháp luật cụ thể để nhân dân tham gia
ngày càng sâu, rộng vào các hoạt động của Đảng, nhà nước, phản biện các
chính sách, pháp luật và giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Nâng cao dân trí, đặc biệt là trình độ chính trị của nhân dân là một quá trình
lâu dài với nhiều hoạt động và là trách nhiệm của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay cần xây dựng các định chế pháp luật để từng
bước hình thành và phát huy vai trò của xã hội dân sự. Trên cơ sở đó huy động
tính tự giác, tự quản, tự chịu trách nhiệm của mỗi công dân trong học tập,
161
nghiên cứu, tham dự chính trị và đóng góp xây dựng VHCT của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý hiện nay.
Thứ ba, xác lập và hoàn thiện các chuẩn mực VHCT của cán bộ, đảng viên
nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.
Thực tế cho thấy, muốn xây dựng bất cứ một cái gì đó, đều đòi hỏi phải có
một mô hình nhất định, không thể chung chung, trừu tượng. VHCT là những giá trị
Chân, Thiện, Mĩ có tính lịch sử của chính trị, được biểu hiện bằng các biểu tượng,
chuẩn mực và phẩm chất cụ thể. Những giá trị đó luôn được bồi đắp, bổ sung và
phát triển cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Do vậy, xây dựng VHCT cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay đòi hỏi phải xác lập được các chuẩn giá trị
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Chuẩn mực VHCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay trước
hết cần dựa trên các tiêu chí sau: Một là, có đạo đức cách mạng: Nghĩa là phải
trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, lợi ích của dân tộc, yêu
thương con người, tôn trọng nhân dân, có lòng khoan dung, độ lượng, có tính
thần dân tộc chân chính, tinh thần quốc tế cao cả. Hai là, có năng lực toàn
diện: biểu hiện ở năng lực bao quát tình hình, tổng kết thực tiễn, đúc kết lý
luận. Có khả năng nhận thức, phân tích, xác định mâu thuẫn chủ yếu, dự báo
tình hình, đề xuất chủ trương, giải pháp và tổ chức thực hiện. Ngoài ra còn
phải có sức khỏe tốt, có khả năng vận động, thuyết phục, tạo ra sự đồng
thuận, trên cơ sở đó đoàn kết và tập hợp cấp dưới, tập hợp quần chúng nhân
dân thành một khối thống nhất ý chí và hành động. Ba là, có phương pháp và
phong cách công tác phù hợp. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có cách
tiếp cận vấn đề phù hợp, thuần thục phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, biết sử dụng các phương pháp cụ thể phù hợp với từng yêu cầu nhiệm
vụ. Bên cạnh đó phải có phong cách sống, lao động, học tập và làm việc giản
dị, hiệu quả, thiết thực và đậm nét nhân văn, nhân đạo. Luôn giải quyết hài
hòa giữa mục tiêu với phương pháp và cách thức, không bất chấp thủ đoạn để
đạt được mục đích chính trị nhất thời.
162
Thứ tư, nâng cao nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, phân
biệt rõ chức năng lãnh đạo và quản lý làm cơ sở để hoàn thiện chuẩn mực văn hóa
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trước hết cần phân biệt hai khái niệm: đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền.
Đảng lãnh đạo là khái niệm nói lên thuộc tính của các đảng chính trị, còn đảng
cầm quyền là khái niệm dùng để chỉ một đảng chính trị đang nắm chính quyền.
Như vậy, không phải tất cả các đảng chính trị đều là đảng cầm quyền và, ở giai
đoạn cầm quyền, đảng phải thực hiện hai chức năng là lãnh đạo và cầm quyền,
tức là sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý xã hội. Hai chức năng này thống
nhất trong một chủ thể là Đảng, nhưng không đồng nhất. Bởi lẽ, chức năng
lãnh đạo được thực hiện bằng việc đề ra cương lĩnh, chủ trương, đường lối,
nghị quết và chủ yếu sử dụng biện pháp vận động, thuyết phục, nêu gương của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, chức năng cầm quyền là sử dụng
quyền lực nhà nước để quản lý xã hội được thực hiện bằng việc hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật và sử dụng biện pháp cưỡng chế là chính. Việc
phân định hai chức năng trên đây là vấn đề lý luận khá trừu tượng và phức tạp.
Tuy nhiên, nếu phân định rõ chẳng những sẽ khắc phục được tình trạng quyền
lực của Đảng cao hơn quyền lực nhà nước, (tức quyền lực được nhân dân ủy
nhiệm) mà còn khắc phục được một thực tế là các cấp ủy đảng buông lỏng lãnh
đạo hoặc bao biện, làm thay các cơ quan hành chính. Ngược lại, các cơ quan
hành chính dựa dẫm, ỷ lại vào các cấp ủy đảng.
Như vậy, văn hóa lãnh đạo được thể hiện ở tính đúng đắn, sáng tạo của
các chủ trương, đường lối, nghị quyết và ở khả năng vận động, thuyết phục,
nêu gương của đảng viên. Trong xu thế dân chủ hóa và xây dựng nhà nước
pháp quyền hiện nay, hoạt động của đảng viên nói riêng, toàn Đảng nói chung
không thể nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp, pháp luật. Do đó, cần
phải từng bước xây dựng và hoàn thiện luật về hoạt động của Đảng. Bên cạnh
đó, văn hóa quản lý được thể hiện ở khả năng luật hóa các vấn đề của đời sống
và bảo đảm cho pháp luật phát huy tác dụng trong thực tế. Trong điều kiện
163
Đảng cầm quyền, đảng viên phải là người nắm quyền lực thực sự. Do vậy,
cùng với việc nghiên cứu thực tiễn, tổng kết lý luận, từng bước nhất thể hóa
một số chức danh lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu các cấp từ Trung ương
đến địa phương, mỗi đảng viên phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện để được nhân
dân tín nhiệm bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Tóm lại, việc làm sáng tỏ
lý luận và thực tiễn về đảng cầm quyền là vấn đề quan trọng trong xây dựng và
hoàn thiện văn hóa lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
Tiểu kết chương 4
Với tính cách là những giá trị Chân, Thiện, Mĩ của tư tưởng, hành vi và
nhân cách chính trị được sáng tạo ra trong sự nghiệp cách mạng, VHCT Hồ
Chí Minh không chỉ có ý nghĩa dân tộc, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Đối với dân tộc Việt Nam, VHCT Hồ Chí Minh đã chấm dứt sự khủng hoảng
về hệ tư tưởng và đường lối đấu tranh chính trị, đưa đến cho dân tộc hệ tư
tưởng cách mạng, khoa học và tiến bộ nhất - hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân. Với sự vận dụng khéo léo và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của đời sống chính trị Việt Nam, VHCT Hồ Chí Minh đã
tạo ra một hệ thống quan điểm lý luận toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng, từ cách mạng GPDT đến cách mạng XHCN; trở thành
cơ sở tư tưởng, lý luận cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối và là
một một bộ phận quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng; đánh dấu sự
phát triển về chất của VHCT Việt Nam.
Không chỉ có ý nghĩa lý luận, VHCT Hồ Chí Minh còn có ý nghĩa thực
tiễn to lớn, góp phần quan trọng đưa đến những thắng lợi vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới trong đời sống chính trị của dân
tộc, tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển của đất nước bảo đảm đúng quy luật
khách quan, hợp xu thế thời đại và nguyện vọng của nhân dân. Với ý nghĩa lý
luận và thực tiễn trên đây, VHCT Hồ Chí Minh đã đưa tư tưởng Việt Nam trở
thành một trong những tư tưởng nhân văn, tiến bộ nhất của nhân loại.
164
Đối với thế giới, VHCT Hồ Chí Minh đã mở rộng phạm vi, nâng cao sức
sống của chủ nghĩa Mác - Lênin; làm phong phú thêm các giá trị VHCT của
nhân loại; góp phần quan trọng làm tan rã hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ;
làm thay đổi diện mạo của đời sống chính trị quốc tế; đóng góp cho nhân loại
một mô hình phát triển bền vững, một phương hướng đúng đắn cho việc khắc
phục những khủng hoảng trong đời sống chính trị và góp phần khẳng định
những giá trị mới trong VHCT của thế giới đương đại.
Với những giá trị có tính bền vững của tư tưởng, hành vi và nhân cách
chính trị, VHCT Hồ Chí Minh đang tiếp tục phát huy giá trị trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, với tính cách
là một mẫu mực của văn hóa lãnh đạo, quản lý, VHCT Hồ Chí Minh có ý
nghĩa thiết thực đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên CNXH.
165
KẾT LUẬN
Văn hóa chính trị là một loại hình, một phương thức biểu hiện của văn hóa, là
văn hóa đã thâm nhập vào tất cả các bộ phận, các khâu, các bước và cả quá trình
chính trị, làm cho chính trị trở thành giá trị văn hóa, hoặc có tính văn hóa. Ra đời và
phát triển cùng với sự vận động, phát triển của xã hội có giai cấp, VHCT luôn có
tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc, tính quốc tế và có những cấp độ khác nhau,
phụ thuộc vào mức độ, phạm vi bảo đảm quyền con người trong xã hội. Là sản
phẩm của đời sống chính trị hiện thực, nhưng với tính cách là bộ phận năng động
nhất của ý thức xã hội, VHCT có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy hay kìm hãm sự
vận động phát triển của xã hội. Từ ý nghĩa đó, VHCT không chỉ là mục tiêu, mà
còn là động lực trong quá trình tham dự vào đời sống chính trị của mỗi cá nhân và
cộng đồng. Với vị trí và vai trò quan trọng, liên quan trực tiếp đến sự vận động, phát
triển của mỗi quốc gia dân tộc nói riêng, thế giới nói chung, VHCT đã dần trở thành
đối tượng nghiên cứu cơ bản của khoa học chính trị. Bắt đầu phát triển ở phương
Tây kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đến nay, VHCT đã được quan tâm
nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Văn hóa chính trị luôn bao hàm cả tính cá nhân và tính cộng đồng, trong đó
tính cá nhân luôn bị chi phối bởi tính cộng đồng, nhưng lại có vai trò đóng góp để
làm nên tính cộng đồng và là nơi biểu hiện VHCT của cộng đồng. Đặc biệt với
những cá nhân xuất chúng, vượt trội hơn hẳn số đông quần chúng thì VHCT của họ
lại có thể làm thay đổi cả một nền VHCT trên nhiều phương diện. Mặc dù vậy, các
nghiên cứu về VHCT trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng mới chỉ tập
trung vào tính cộng đồng mà chưa đề cập nhiều đến bình diện cá nhân của nó. Với
tính cách là anh hùng GPDT, danh nhân văn hóa, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt
Nam đã được thế giới công nhận, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có vai trò to lớn
trong tiến trình phát triển của dân tộc mà còn góp phần vào sự phát triển của thế
giới. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu VHCT Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn của khoa học chính trị ở Việt Nam hiện nay.
166
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, trước hết là VHCT của một cá nhân.
Do vậy, cần được tiếp cận nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, trên cơ sở
quán triệt rõ tính hệ thống, toàn diện, lịch sử, cụ thể và tính định hướng của
những tư tưởng và hành động chính trị. Kết quả nghiên cứu cho thấy, VHCT
Hồ Chí Minh là một chỉnh thể các giá trị Chân, Thiện, Mĩ của tư tưởng,
hành vi và nhân cách chính trị mà Người sáng tạo ra trong suốt quá trình
hoạt động cách mạng; là sản phẩm của sự tích hợp và vượt gộp các giá trị
VHCT bền vững của truyền thống dân tộc và nhân loại cả cổ, kim, Đông,
Tây cùng các giá trị chính trị của học thuyết Mác - Lênin; với định hướng và
mục tiêu thực hiện ba sự nghiệp giải phóng; GPDT, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người, trước hết là ở Việt Nam và góp phần quan trọng vào sự
nghiệp chung của cách mạng thế giới.
Với tính cách là những giá trị phổ quát, mang tính Chân, Thiện, Mĩ của chính
trị do Hồ Chí Minh sáng tạo ra nhằm đáp ứng đòi hỏi của đời sống chính trị Việt
Nam, VHCT Hồ Chí Minh được cấu thành và biểu hiện giá trị ở nhân cách chính
trị; phương pháp, phong cách chính trị và các sản phẩm về tư tưởng và hành vi
chính trị. Những giá trị đó đã góp phần quyết định đến việc trả lại tư cách chủ
thể chính trị cho nhân dân Việt Nam và đưa đến cho dân tộc Việt Nam những điều
kiện cần và đủ để thiết lập một nền chính trị dân chủ, nhân văn, thực sự là tiền đề và
động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh dễ dàng nhận biết và phân biệt với VHCT của
những chủ thể chính trị khác ở những đặc trưng cơ bản đó là: VHCT Hồ Chí Minh
là sản phẩm của sự tích hợp nhưng luôn có phong cách thể hiện riêng và mang bản
chất của giai cấp công nhân, tức là hướng tới thực hiện sứ mệnh lịch sử, tất yếu
khách quan của giai cấp công nhân trong tiến trình phát triển của nhân loại; Đòi
hỏi từ thực tiễn đời sống chính trị của dân tộc là nơi khởi đầu của mọi suy
nghĩ và hành động chính trị Hồ Chí Minh. Do vậy, VHCT của Người luôn
thể hiện rõ sự thống nhất giữa tính dân tộc quốc tế, tính bản thể và đại
167
chúng; Hồ Chí Minh là nhà cách mạng hiện thực nhưng luôn coi trọng, đề
cao vai trò của lý luận, đặc biệt là lý luận cách mạng. Vì vậy, VHCT Hồ Chí
Minh luôn là sự thống nhất giữa những giá trị tư tưởng và giá trị hành vi;
Vừa là một đại biểu trung thành của chủ nghĩa dân tộc chân chính, vừa là
một chiến sĩ tiên phong của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
VHCT Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất hài hòa giữa GPDT với giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn, chẳng những góp phần đưa
VHCT truyền thống của dân tộc Việt Nam lên một tầm cao mới, nâng cao sức sống
của VHCT Mác - Lênin, mà còn làm phong phú thêm VHCT của nhân loại; mở ra
một kỷ nguyên mới trong đời sống chính trị của nhân dân Việt Nam và góp phần
quan trọng vào sự phát triển, tiến bộ của đời sống chính trị quốc tế.
Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn
giữa văn hóa lãnh đạo và văn hóa quản lý. Vì vậy, việc xây dựng VHCT
Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay
nhằm giữ vững và phát huy những giá trị đó trong đời sống chính trị hiện
tại là vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong việc đẩy mạnh cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
168
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Hữu Lập (2010), “Rèn luyện phong cách làm việc Hồ Chí Minh
cho đội ngũ chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay”, Tạp chí Giáo dục LLCTQS, số
4 (122), tr.35-38.
2. Nguyễn Hữu Lập (2011), “Quan điểm Hồ Chí Minh về thái độ đối với các
sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên - ý nghĩa trong đấu tranh phòng, chống
diễn biến hòa bình hiện nay” Tạp chí Giáo dục LLCTQS, số 5 (129), tr.64-66.
3. Nguyễn Hữu Lập (2012), “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay”, Tạp chí Giáo dục LLCTQS, số 3 (133), tr.94-97.
4. Nguyễn Hữu Lập (2012), “Nét mới trong công tác dân vận ở đơn vị cơ sở
quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Thông tin khoa học xã hội và nhân văn
quân sự, số 144, (11-12/2012), tr.27-29.
5. Nguyễn Hữu Lập (2013), “Phát huy vai trò của văn hóa chính trị Việt Nam
trong quá trình xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, Tạp chí Giáo dục
LLCTQS, số 3 (139), tr.23-26.
6. Nguyễn Hữu Lập (2013), “Bồi dưỡng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho
đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay”, Thông tin khoa học xã hội
và nhân văn quân sự, số 148, (07-08/2013), tr.11-13.
7. Nguyễn Hữu Lập (2013), “Phát huy vai trò của mặt trận văn hóa trong xây
dựng quân đội về chính trị hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Quân
huấn, số 556, (9-2013) tr.41-43.
8. Nguyễn Hữu Lập (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ mô hình
nhà nước với đại đoàn kết toàn dân tộc”, Tạp chí Khoa học chính trị quân sự, số 5
(12), tháng 9&10/2013, tr.20-23.
9. Nguyễn Hữu Lập (2014), “Bồi dưỡng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho
đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà trường quân đội”,
Tạp chí Giáo dục LLCTQS, số 5 (147), tr.42-44.
169
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt1. Aloun Bounmixay (2013), Văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với
công cuộc đổi mới ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ
chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
2. Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh văn hoá và phát triển,
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
3. Lưu Văn An và Dương Xuân Ngọc (2011), Hỏi và đáp những vấn đề cơ bản của
chính trị học, Nxb Chính trị - Hành Chính.
4. Hoàng Chí Bảo (2010), “Văn hoá Hồ Chí Minh - giá trị và ý nghĩa”, Hội thảo
khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà
Nội, tr.571-588.
5. Hoàng Chí Bảo (2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
6. Trần Văn Bính (chủ biên) (2000), Vai trò văn hoá trong hoạt động chính trị của
Đảng ta hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Bông (1969), Luật hiến pháp và chính trị học,Nxb Sài gòn.
8. Đề tài KX.02.09 (1993), Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay
(Qua sách báo nước ngoài), Trường Đại học sư phạm Hà Nội I, Viện Thông
tin khoa học xã hội - Viện KHXHVN, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
170
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
18. Phạm Văn Đồng (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc,
một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Minh Đức (2003), Văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở tỉnh Kon Tum hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ
chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Vũ Minh Giang (2008), “Đảng Cộng sản Việt Nam trong văn hóa chính trị”,
Tạp chí Xây dựng Đảng, (9), tr.40-43.
22. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
23. Võ Nguyên Giáp (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình hình thành và phát
triển, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Võ Nguyên Giáp (1969), Từ nhân dân mà ra, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
25. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm
vụ lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
Cách mạng Tháng tám – (tập III) Thành công của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
171
27. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Văn Hải (2001), “Về văn hóa chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.81-84, 88.
29. Hellmut Kapfenberger (2010), Hồ Chí Minh một biên niên sử, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
30. Trần Ngọc Hiên (2005), “Phát huy ưu thế của nền văn hóa chính trị
Việt Nam tạo động lực cho công cuộc đổi mới”, Tạp chí Thông tin
khoa học xã hội, tháng 6, tại trang http://www.cpv.org.vn [truy cập
ngày 23/8]
31. Học viện Quốc phòng và Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2000), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về dựng nước và giữ nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
32. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
33. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), “Di sản Hồ Chí
Minh trong thời đại ngày nay”, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm
ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2010), Nxb Chính trị -
Hành chính, Hà Nội.
34. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2011), Hội thảo khoa
học kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Nxb Chính trị -
Hành chính.
35. Hội đồng lý luận, phê bình VHNT Trung ương (2013), Báo cáo tổng quan
đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, “Văn hóa trong chủ thuyết phát triển
của Việt Nam”, Mã số: ĐTĐL.01/2011, Chủ nhiệm đề tài: GS,TS Đinh
Xuân Dũng, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
36. Nguyễn Văn Huyên (2005), “Văn hoá và văn hoá chính trị từ cách tiếp cận của
triết học chính trị mácxít”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, tại trang
http://www.cpv.org.vn [truy cập ngày 19/7].
37. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực của sự
phát triển xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172
38. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2009), Chính trị học - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
39. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2009), Con người chính trị Việt Nam truyền
thống và hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn và Nguyễn Văn Vĩnh (2009) (Sách
chuyên khảo), Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Khăm Mặn Chăn Thạ Lăng Sỷ (2002), Văn hóa chính trị ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
42. Đặng Xuân Kỳ (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh người chiến sĩ kiên cường của
phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
43. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá
và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Minh Khoa (2010), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây
dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị chuyên ngành Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị - hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Đinh Xuân Lâm và Bùi Đình Phong (2010), “Giá trị thời đại trong di sản Hồ
Chí Minh”, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.160-165.
46. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
48. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
49. Đinh Xuân Lý (chủ biên) (2005), Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. C.Mác và Ph.Ăngghen (1956), Những tác phẩm ở thời kỳ đầu, Nxb Tiến bộ
Mátxcơva.
173
52. Lương Hoàng Mai (2006), “Văn hoá Đảng được hoàn thiện từ nền văn hoá
chính trị”, Tạp chí Xây dựng Đảng ONLINE, tại trang
http://www.xaydungdang.org.vn [truy cập ngày 19/ 12].
53. Hồ Chí Minh (1993), Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
54. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Montes Quieu (2010), Tinh thần pháp luật (Thanh Đạm dịch), Nxb Đà Nẵng.
70. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Hiến pháp Việt Nam qua các
thời kỳ (1946-1959-1980-1992-2001), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
71. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
72. Bùi Nguyễn (2006), “Văn hóa lãnh đạo, quản lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh”,
Tạp chí thông tin công tác tư tưởng lý luận, tháng 8, tại trang
http://www.cpv.org.vn [truy cập ngày 21/8].
73. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2012), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1996), Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
174
75. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2008), Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng
Hồ Chí Minh sống mãi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
76. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh di sản văn hóa
dân tộc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
77. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh Nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
78. Trịnh Nhu và Vũ Dương Ninh (1996), Về con đường giải phóng dân tộc của
Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Đoàn Thị Minh Oanh (2010), “Xây dựng văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Hội thảo khoa học kỷ niệm 120 năm
ngày sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý
luận chính trị, Hà Nội, tr.347.
80. Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hoá chính trị Việt Nam truyền thống và hiện
đại, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
81. Bùi Đình Phong (chủ biên) (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền
văn hoá mới Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
82. Bùi Đình Phong (2006), “Văn hoá chính trị Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học
chính trị, (5), tr.17-22.
83. Bùi Đình Phong (2008), Văn hoá, đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
84. Bùi Đình Phong (2010), “Nhân dân: Một phạm trù văn hoá chính trị Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Tuyên giáo, (3), tr. 23-26.
85. Bùi Đình Phong (2011), “Học và hành theo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá
cầm quyền”, Tạp chí Tuyên giáo ONLINE, tại trang http://www.tuyengiao.vn
[truy cập ngày 21/8].
86. Đỗ Nguyên Phương (2004), “Văn hóa Đảng - nhận thức và vấn đề đặt ra”, Tạp
chí Cộng sản, (18), tr.16-22.
87. Phạm Ngọc Quang (1995), Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Lê Minh Quân (2009), (Sách chuyên khảo) Tư tưởng chính trị của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
175
89. Tô Huy Rứa (2005), “Xây dựng văn hóa Đảng trong tình hình mới”, Tạp chí
Cộng sản, (10).
90. Jean Jacquest Rousseau (2010), Bàn về khế ước xã hội (Thanh Đạm dịch),
Nxb Đà Nẵng.
91. Phan Xuân Sơn (2010), (chủ biên) Các chuyên đề bài giảng chính trị học, (tập 2),
(Dành cho cao học chuyên chính trị học), Nxb Chính trị - Hành Chính, Hà Nội.
92. Tạ Ngọc Tấn (2010), “Vấn đề văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển đất nước”, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.522-531.
93. Lâm Quốc Tuấn (2004), “Kế thừa và phát huy truyền thống văn hoá chính trị
Việt Nam”, Tạp chí Tư tưởng văn hoá (10), tại trang
http://www.dangcongsan.vn [truy cập ngày 11/11].
94. Lâm Quốc Tuấn (2005), Nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
95. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
96. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
97. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng,
Nxb Văn hóa văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
98. Hồ Văn Thông (1999), “Suy ngẫm về những giá trị trong lịch sử tư tưởng
chính trị Việt Nam”, Tạp chí thông tin chính trị học, (1).
99. Trần Dân Tiên (2001), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,
Nxb Văn học, Hà Nội.
100. Chu Đức Tính (2009), (Chủ biên) Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
101. Nguyễn Đài Trang (2013), Hồ Chí Minh Nhân văn và Phát triển, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
176
102. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa khái niệm và thực tiễn, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
103. Tylor E.B (2000), Văn hóa nguyên thủy (Huyền Giang dịch), Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội.
104. Phạm Hồng Tung (2008), Văn hoá chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hoá
chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Phạm Ngọc Trung (2012), (Chủ biên), Giáo trình lý luận văn hóa, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
106. Trung tâm Từ điển học (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
107. Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin (2002), Từ điển Triết học, Nxb Văn hóa -
Thông tin, hà Nội.
108. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Ủy ban quốc gia unesco
của Việt Nam (1995), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc,
Nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
109. Nguyễn Hoài Văn (Chủ biên) (2008), Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt
Nam thế kỷ X-XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
111. Viện Hồ Chí Minh (1993), Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại, Nxb Lao
động, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
112. Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2004), Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
113. William J. Duiker. (2000), Hồ Chí Minh - Một cuộc đời, Nxb Hyperion,
New York, (Phòng Phiên dịch - Bộ ngoại giao Việt Nam dịch sang tiếng
Việt năm 2001)
Tiếng Anh114. Almond G. (1956), “Comparative Political System”, in: The journal of Politics
(8), pp. 12-15.
115. Almond G. and Verba S. (1963), The Civic Culture - Political Attitudes and
Democracy in Five Nations, Boston: little, Brown & Co. G.
177
116. Ball A.R. (1977), Modern Politics and Government, 2nd ed, London,
Macmillan.
117. Harrigan J.J. (1995), “Political Culture and Public opinion”, in: Politics and
the American future, Dilemmas of Democracy, The Mc Graw - Hill
Companies, Inc, pp. 80-105.
118. Pye L. (1968), “Political Culture”, in: International Encyclopedia of the Social
Siences, 12, London, Macmillan.
119. Patzelt, Werner J. (1992), Einfuehrung in die Politikwissenschaft. Grundriss
des Faches und studiumbegleitende Orientierung, Wissenchaftsverlag Richard
Rothe, Passau.
120. Row E. (1974), Modern Politics, London, Routlege and Kegan Paul.
121. Sodaro M.J. (1995), “Political Culture and Political Pyschology”, in
Comparative politics: A global Introduction, The Goerge Washington
University, The Mc Graw - Hill Companies. Inc., Aimis Custom Publishing,
pp. 361-385.
122. Tocqueville A. (1996), Democracy in America, ed. by J.P. Mayer, trans. by
George Lawrence, NewYork: Happer &Row.
123. Walter A. Rosenbaum (1975), Political Culture, London: Nelson.
124. Wildavsky, Aaron (1987), Choosing Preferences by Constructing Institutions:
A cultural Theory of Preference Formation, in: American Political Science
Review, (81), No.1 March.