179
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN HỮU LẬP V¡N HO¸ CHÝNH TRÞ Hå CHÝ MINH - GI¸ TRÞ Lý LUËN Vµ THùC TIÔN LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: Chính trị học Hà Nội - 2015

V¡N HO¸ CHÝNH TRÞ Hå CHÝ MINH - hcma.vn · công trình nghiên cứu về VHCT Hồ Chí Minh còn đang ở trạng thái tiếp cận từng nội dung đơn lẻ, tính

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỮU LẬP

V¡N HO¸ CHÝNH TRÞ Hå CHÝ MINH - GI¸ TRÞLý LUËN Vµ THùC TIÔN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: Chính trị học

Hà Nội - 2015

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỮU LẬP

V¡N HO¸ CHÝNH TRÞ Hå CHÝ MINH - GI¸ TRÞLý LUËN Vµ THùC TIÔN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: Chính trị họcMã số: 62 31 20 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Nguyễn Văn Vĩnh

Hà Nội - 2015

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ

ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ

Nguyễn Hữu Lập

2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

CNTB: Chủ nghĩa tư bản

ĐLDT: Độc lập dân tộc

GPDT: Giải phóng dân tộc

GS: Giáo sư

Nxb: Nhà xuất bản

PGS: Phó giáo sư

TS: Tiến sĩ

VHCT: Văn hóa chính trị

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

3

MỤC LỤC

Trang

TRANG PHỤ BÌALỜI CAM ĐOANDANH MỤC CHỮ VIẾT TẮTMỤC LỤCMỞ ĐẦU 5Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 11

1.1. Các tài liệu, công trình nghiên cứu ở nước ngoài 11

1.2. Các tài liệu, công trình nghiên cứu ở trong nước 15

Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 27

2.1. Khái niệm và cấu trúc văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 27

2.2. Cách tiếp cận văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 44

2.3. Cơ sở hình thành, phát triển văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 56

Chương 3: GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN

CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 79

3.1. Giá trị của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 79

3.2. Những đặc trưng cơ bản của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 108

Chương 4: Ý NGHĨA VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VĂN HÓA

CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 122

4.1. Ý nghĩa của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 122

4.2. Định hướng xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay 148

KẾT LUẬN

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG

BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

156

159

160

4

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Thực tế đã cho thấy, văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống, là sản

phẩm của hoạt động thực tiễn, nhưng lại có vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn của

con người. Văn hóa là tổng hòa những giá trị Chân, Thiện, Mĩ được vận động và

sàng lọc trong thực tiễn cuộc sống qua nhiều thế hệ. Sự vận động và sàng lọc đó

càng rộng về không gian, càng dài về thời gian, thì các giá trị còn lại càng sâu sắc,

bền vững và tính phổ quát càng cao. Vì thế, văn hóa nói chung không phải là sản

phẩm của con người với tính cách cá nhân, bởi mỗi cá nhân cụ thể ấy thực chất chỉ

là một trong những sản phẩm sáng tạo của văn hóa, là nơi biểu hiện của văn hóa,

chỉ có vai trò bảo tồn và phát triển văn hóa. Tuy nhiên, trong số những con người cá

nhân với tính cách là sản phẩm của văn hóa lại có những nhân vật tiêu biểu, xuất

chúng, có khả năng thâu thái, tích hợp được các giá trị văn hóa của cộng đồng dân

tộc và thời đại. Bởi vậy, họ là những người góp phần quan trọng nhất trong việc bảo

tồn, phát triển và nâng nền văn hóa của cộng đồng, dân tộc lên một tầm cao mới,

thậm chí còn là định hướng cho sự phát triển bền vững của cả một nền văn hóa.

Cũng như nhiều lĩnh vực khác, VHCT chỉ là một bộ phận, một phương

diện của văn hóa, nhưng là bộ phận quan trọng nhất, ra đời trong quá trình con

người ứng xử với các thành tố của hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước -

một hình thức tập trung ý chí của cộng đồng, có vai trò quyết định trong việc

thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển xã hội. VHCT bắt đầu hình thành và phát

triển khi xã hội loài người có sự phân hóa giai cấp, xuất hiện quyền lực chính

trị, đảng chính trị và nhà nước. Vì vậy, xét đến cùng, VHCT là văn hóa sử dụng

quyền lực, là nghệ thuật cai trị hay nghệ thuật lãnh đạo, là nhân tố quyết định

đến sự phát triển, tiến bộ của xã hội nói chung, đến việc bảo đảm các quyền

con người và quyền dân tộc nói riêng.

Văn hóa chính trị là những giá trị của tư tưởng cùng hành vi chính trị

được cộng đồng thừa nhận, chia sẻ, vận dụng trong việc thiết lập và vận hành

một thể chế chính trị nhất định, nó được biểu hiện thông qua hành vi chính trị

5

của mỗi công dân, trước hết là các nhà chính trị chuyên nghiệp, các lãnh tụ

chính trị. Vì vậy, nghiên cứu VHCT nói chung không thể không nghiên cứu về

con người chính trị, đặc biệt là những lãnh tụ chính trị, những vĩ nhân của lịch

sử. Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh là sản phẩm của VHCT Việt Nam, nhưng cũng

là người đã nâng VHCT truyền thống của dân tộc lên một tầm cao mới với một

chất lượng mới. Vì thế, có thể coi Hồ Chí Minh là kết tinh những gì tốt đẹp

nhất của văn hóa Việt Nam. Với tính chất cách mạng, nhân văn, vì sự nghiệp

GPDT, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và xây dựng một xã hội nhân

văn, tiến bộ, VHCT Hồ Chí Minh đã và đang là một trong những đối tượng

nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng của khoa học chính trị ở Việt Nam.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển và hoàn thiện

trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người, là một bộ phận cốt lõi và

là phương diện nổi bật nhất của văn hoá Hồ Chí Minh; là sản phẩm của sự tích

hợp, kế thừa, phát triển VHCT của cộng đồng dân tộc Việt Nam, giá trị VHCT

của nhân loại, đặc biệt là giá trị VHCT của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều

kiện cụ thể của Việt Nam; có nội dung cốt lõi là tư tưởng và hành động nhằm

thực hiện triệt để quyền dân tộc cơ bản và quyền con người chân chính; là nền

tảng của tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người; có giá trị lý luận và thực

tiễn to lớn, là yếu tố nền tảng tạo nên mọi thắng lợi mà cách mạng Việt Nam đã

giành được. Mặt khác, VHCT Hồ Chí Minh luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến

trình cách mạng Việt Nam, là hạt nhân cốt lõi và là chất keo cố kết mọi con dân

nước Việt thuộc các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Nhờ đó mà tạo nên nguồn

lực to lớn, đủ sức đánh bại các thế lực xâm lược và góp phần cùng loài người

ngăn chặn và thủ tiêu hoàn toàn sự tha hóa của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế

giới, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng một

nền chính trị dân chủ, độc lập, tự chủ, cách mạng và tiến bộ.

Hơn nữa, với tính cách là một bộ phận không thể thiếu trong nền tảng tư

tưởng của Đảng - Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được các lãnh đạo Đảng, Nhà

nước, các nhà khoa học tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nội dung và giá

6

trị vận dụng, xác lập cơ sở lý luận cho việc hoạch định các chủ trương, đường

lối của Đảng. Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam phát động cuộc vận

động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tư tưởng và

tấm gương đạo đức của Người không chỉ là nội dung học tập, làm theo mà còn

là đối tượng nghiên cứu của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều bộ môn khoa học.

Mặc dù vậy, việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển các giá trị của VHCT Hồ

Chí Minh còn khá khiêm tốn, chưa xứng với tầm vóc của một lãnh tụ chính trị

xuất sắc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Phạm trù VHCT Hồ

Chí Minh gần đây đã được đặt ra và quan tâm nghiên cứu. Mặc dù vậy, các

công trình nghiên cứu về VHCT Hồ Chí Minh còn đang ở trạng thái tiếp cận

từng nội dung đơn lẻ, tính hệ thống, khái quát còn hạn chế. Do đó, cho đến nay

nhận thức về VHCT Hồ Chí Minh chưa thực sự rõ ràng và sâu sắc, thậm chí

còn có những quan điểm khá khác nhau về việc có hay không có VHCT Hồ

Chí Minh.

Thực tiễn thế giới đã cho thấy, sự phát triển của một dân tộc phụ thuộc rất

lớn vào sự đồng thuận xã hội và khả năng quy tụ nhân tâm, trí tuệ, tiềm năng

của mọi tầng lớp nhân dân nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp. Tuy nhiên, sự

đồng thuận xã hội lại phụ thuộc vào tính chất, phạm vi và mức độ của nền dân

chủ mà nền dân chủ thì phụ thuộc vào thể chế chính trị. Cuối cùng, tất cả

những yếu tố trên đây lại phụ thuộc vào VHCT của một dân tộc, tức là phụ

thuộc vào nhận thức, thái độ, trách nhiệm của mỗi người dân đối với quyền lực

chính trị và khả năng thiết kế một hệ thống chính trị bảo đảm quyền tự do, dân

chủ, phát huy được trí tuệ của mọi công dân.

Hiện nay, nước ta đang quá độ lên CNXH, sự nghiệp đổi mới sau chặng

đường gần 30 năm đã thu được những kết quả to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy

nhiên, những kết quả đó còn hạn chế và chưa tương xứng với tiềm năng, thế

mạnh của đất nước và con người Việt Nam. Đổi mới chính trị chưa theo kịp

đổi mới kinh tế. Hệ thống chính trị và nền dân chủ đang có những bất cập

gây khó khăn cho việc phòng chống tham nhũng và nâng cao sức mạnh của

7

bộ máy nhà nước, cản trở sự phát triển bền vững của dân tộc, làm giảm sút

lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Trước

yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ

lên CNXH, VHCT Hồ Chí Minh càng tỏ rõ giá trị to lớn đối với các chủ thể

chính trị, trước hết là cán bộ, đảng viên. Do đó, việc nghiên cứu và phát huy

giá trị của VHCT của Người trong đời sống chính trị ở nước ta hiện nay

càng trở lên cấp thiết.

Những lý do trên đây cho thấy, việc nghiên cứu để khẳng định và làm sáng

tỏ thêm các chiều cạnh của VHCT Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp

phần gia tăng tri thức về khoa học chính trị ở Việt Nam nói chung, Hồ Chí Minh

học nói riêng. Trên cơ sở đó những phát huy giá trị tốt đẹp của VHCT Hồ Chí

Minh trong giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn vấn đề:

“Văn hoá chính trị Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận án

tiến sĩ của mình.

Với đề tài đã lựa chọn, tác giả luận án xác định một số giả thuyết nghiên cứu

sau đây: Thứ nhất, VHCT Hồ Chí Minh là VHCT của một cá nhân, nhưng là cá

nhân tiêu biểu với tính cách là một lãnh tụ chính trị và là một nhà quản lý tối cao

của dân tộc. Thứ hai, VHCT Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, bao gồm các giá trị về

tư tưởng, hành vi và nhân cách chính trị, có cấu trúc và đặc trưng riêng. Thứ ba,

VHCT Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tích hợp và phát triển nhiều giá trị tiêu

biểu của VHCT dân tộc, nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó VHCT Mác

- Lênin là yếu tố quyết định. Thứ tư, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa

lịch sử mà còn có ý nghĩa hiện thực to lớn đối với cách mạng Việt Nam và thế giới.

Mặt khác, VHCT Hồ Chí Minh còn có ý nghĩa to lớn đối với đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về VHCT và VHCT Hồ Chí

Minh, luận án chỉ ra những giá trị và đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh,

8

nêu lên ý nghĩa và một số định hướng xây dựng VHCT của Người cho đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về VHCT và VHCT Hồ Chí Minh.

- Làm rõ những giá trị và đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.

- Phân tích ý nghĩa của VHCT Hồ Chí Minh và đề xuất một số định

hướng xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

ở Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHCT Hồ Chí Minh ở khía cạnh giá trị

lý luận và thực tiễn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Cùng với việc tập trung nghiên cứu, khảo sát các giá trị mà Hồ Chí Minh

đã sáng tạo ra trong sự nghiệp chính trị của mình thông qua hệ thống tư liệu, di

sản mà Người để lại và các kết quả nghiên cứu có liên quan dưới góc độ tiếp cận

chính trị học, luận án sẽ khảo sát các đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam về

phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ đảng viên nói chung, cán bộ

lãnh đạo quản lý nói riêng.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và

các lý thuyết về khoa học chính trị, VHCT hiện đại; về chính trị; về văn

hóa; về mối quan hệ giữa chính trị với văn hóa và vai trò của văn hóa đối

với sự phát triển xã hội nói chung, cách mạng xã hội chủ nghĩa nói riêng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

9

Trên cơ sở tiếp cận khảo sát tài liệu về các vấn đề có liên quan đến VHCT Hồ

Chí Minh và thực trạng VHCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam

hiện nay, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng

các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp hệ thống; lôgích, lịch sử;

phân tích, tổng hợp; so sánh…phù hợp với từng nhiệm vụ cụ thể của luận án.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

5.1. Ý nghĩa khoa học

- Đề tài góp phần hoàn thiện khái niệm, xác định cấu trúc của VHCT Hồ Chí

Minh.

- Chỉ ra cách tiếp cận và cơ sở hình thành, phát triển VHCT Hồ Chí Minh.

- Xác định giá trị lý luận, thực tiễn; các đặc trưng cơ bản và ý nghĩa của

VHCT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và thế giới.

- Góp phần khẳng định tính toàn diện của di sản Hồ Chí Minh và sự cần thiết

phải xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt

Nam hiện nay.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn

Về lý luận: luận án góp phần gia tăng tri thức về khoa học chính trị

nói chung, Hồ Chí Minh học nói riêng và làm cơ sở để đấu tranh bảo vệ

nền tảng tư tưởng của Đảng.

Về thực tiễn: luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc

nghiên cứu, học tập trong các chuyên ngành của khoa học chính trị như:

chính trị học, Hồ Chí Minh học, xây dựng Đảng cũng như trong công tác

xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

6. Kết cấu của án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận

án được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.

10

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. CÁC TÀI LIỆU, CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến văn hóa chính trịVăn hóa chính trị với tính cách là những giá trị của chính trị gắn liền với

vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước để bảo

đảm cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Do đó, VHCT ra đời từ rất sớm cả ở

phương Đông và phương Tây, gắn liền với sự ra đời của giai cấp và nhà nước.

Thực tế cho thấy, những quy định về các mối quan hệ và cách ứng xử giữa con

người với chế độ chính trị mà họ đang sống đã được các nhà tư tưởng chính trị

cổ đại như Khổng Tử, Lão Tử, Hàn Phi Tử, Plato, Aristotle… đề cập đến, và

ngày nay những tư tưởng đó vẫn đang là đối tượng nghiên cứu của khoa học

chính trị ở nhiều nước trên thế giới.

Mặc dù không trực tiếp bàn về VHCT nhưng hai tác giả nổi tiếng được

coi là cha đẻ của tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây là

Montesquieu (1689 - 1775) với tác phẩm Tinh thần pháp luật và Rousseau

(1712 – 1778) với tác phẩm Bàn về khế ước xã hội là những nghiên cứu có

ảnh hưởng lớn đến các nghiên cứu chính trị nói chung, VHCT nói riêng của

các nhà khoa học chính trị trên thế giới.Kế thừa tri thức chính trị của các nhà tư tưởng đi trước, các nhà kinh điển của chủ

nghĩa Mác - Lênin đã luận giải một cách khoa học và cách mạng về tính tất yếu khách

quan của chính trị trong khi xã hội còn giai cấp và đấu tranh giai cấp; về vai trò của

chính trị trong đời sống xã hội; về mối quan hệ giữa cá nhân, cộng đồng với chính trị;

về quy luật vận động phát triển của hình thái kinh tế - xã hội kéo theo sự phát triển của

chính trị và đòi hỏi sự ứng xử của con người với sự phát triển đó. Mặc dù chưa đi sâu

nghiên cứu nhằm đưa ra một định nghĩa đầy đủ về VHCT nhưng toàn bộ tư tưởng và

hành động chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin là một phần quan trọng trong

tinh hoa VHCT của nhân loại. Vì vậy, tư tưởng và hành động chính trị của các nhà kinh

điển Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, định hướng lập trường giai cấp và phương

hướng cho các nghiên cứu về chính trị và VHCT.

11

Mặc dù vấn đề chính trị nói chung, VHCT nói riêng ra đời rất sớm, nhưng

trong một thời gian dài, nó chỉ được nghiên cứu với tính cách là một bộ phận hợp

thành của triết học hay các môn khoa học xã hội khác. Từ sau Chiến tranh thế giới

thứ hai, chính trị học với tính cách là một khoa học độc lập, chuyên nghiên cứu về

chính trị mới thực sự ra đời ở phương Tây và ngay khi ra đời, VHCT đã là một đối

tượng nghiên cứu có vị trí quan trọng của ngành khoa học xã hội này.

Các công trình nghiên cứu tiêu biểu của các học giả nước ngoài có liên quan

trực tiếp đến VHCT như: Cuốn The Civic Culture - Political Attitudes and

Democracy in Five Nations (Văn hoá công dân - Những thái độ chính trị và nền

dân chủ ở năm quốc gia) của Almond G. và Verba S [115]. Cuốn Modern Politics

(Chính trị hiện đại) của Row E [120]. Cuốn Modern Politics and Government

(Chính trị hiện đại và Chính phủ hiện đại) của Ball A.R [116]. Cuốn Democracy in

America (Dân chủ ở Mĩ) của Tocqueville A [122]. Cuốn Political Culture (văn hóa

chính trị) của Walter A. Rosenbaum [123].

Trong các công trình nêu trên, đáng chú ý nhất là công trình nghiên cứu của

Almond G. và Verba S. Đây là tác phẩm chuyên khảo của hai nhà chính trị học

người Mỹ, đã đặt nền tảng đầu tiên cho các nghiên cứu văn hóa chính trị của thế

giới hiện đại. Nghiên cứu này ra đời từ nhu cầu khái quát các đặc tính VHCT của

một số nền dân chủ khác nhau ở phương Tây, để trên cơ sở đó chỉ ra những yếu tố

quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định chính trị của chế độ dân chủ, tự do. Công trình

này dựa trên khuôn mẫu của một nghiên cứu chính trị học so sánh, nhưng ở đây

VHCT được xác định là đối tượng nghiên cứu trung tâm. Các tác giả đã đặt phạm

trù VHCT trong phạm vi quốc gia, dân tộc để xem xét, trên cơ sở đó đưa ra định

nghĩa, cách tiếp cận và tiêu chí phân loại. Mặc dù vậy, tác phẩm này chưa đề cập

đến VHCT của cá nhân.

Tuy nhiên, trong cuốn Political Culture, Walter A. Rosenbaum đã chia

VHCT thành hai cấp độ cá nhân và tập thể: ở cấp độ cá nhân, VHCT tập trung

ở khía cạnh tâm lý; và ở cấp độ tập thể, VHCT tập trung vào sự định hướng

chính trị của số đông. Walter A. Rosenbaum còn chia sự định hướng ấy thành

ba loại: thứ nhất, định hướng về cấu trúc chính quyền, bao gồm hai khía cạnh:

đối với thể chế và đối với các thành tựu của chính phủ; thứ hai, định hướng về

12

các yếu tố khác trong hệ thống chính trị như: bản sắc chính trị, sự tin tưởng

trong lĩnh vực chính trị và luật lệ trong sinh hoạt chính trị; thứ ba, định hướng

về các hoạt động chính trị của cá nhân bao gồm (thái độ và cách thức tham gia

cũng như ý thức về tính hiệu quả của sự tham gia vào chính trị). Như vậy, cuốn

sách đã đề cập đến VHCT cá nhân, nhưng mới chỉ tiếp cận những biểu hiện cụ

thể của nó trong đời sống chính trị của cá nhân mà chưa làm rõ sự hình thành,

vận động, phát triển và vai trò của nó với VHCT cộng đồng.

Ngoài các công trình lớn trên đây, còn có các bài báo và tạp chí nghiên cứu

về VHCT như: Bài “Comparative Political System” (Hệ thống chính trị so sánh)

của Almond G [114]. Bài “Political Cutulre” (Văn hóa chính trị) của Pye L. [118].

Bài “Choosing Preferences by Constructing Institutions: A cultural Theory of

Preference Formation” (Lựa chọn sở thích bằng việc xây dựng các thể chế: một lý

thuyết của hệ thống ưa thích), trong: American Political Science Review của

Wildavsky, Aaron [124]. Bài “Political Culture and Public opinion” (Văn hóa

chính trị và ý kiến cộng đồng), trong: Politics and the American future, Dilemmas

of Democracy, của Harrigan J.J. [117]. Bài “Political Culture and Political

Pyschology” (Văn hóa chính trị và tâm lý chính trị), trong Comparative politics: A

global Introduction, của Sodaro M.J. [121].

Nhìn chung việc nghiên cứu VHCT ở nước ngoài, đặc biệt là ở châu

Âu được bắt đầu sớm, nhưng theo Phạm Hồng Tung, tác giả cuốn sách Văn

hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa chính trị: “trên lĩnh vực

Việt Nam học, cho tới nay chưa xuất hiện nghiên cứu chuyên biệt nào của

giới học giả phương Tây về văn hóa chính trị Việt Nam” [104, tr.132]. Mặt

khác, mặc dù có rất nhiều tác phẩm viết về các chính trị gia nổi tiếng

nhưng số các công trình nghiên cứu chuyên sâu về cá nhân, hay lãnh tụ

chính trị cụ thể dưới góc độ tiếp cận VHCT vẫn còn hạn chế.

1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến VHCT Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị của nhân dân Việt Nam, tuy nhiên quá trình

hoạt động cách mạng của Người đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn bè

quốc tế. Mặt khác, những giá trị nhân văn, nhân đạo trong tư tưởng và hành động

13

chính trị của Người đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, mang tầm vóc quốc tế và nhân

loại. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu về Người đã được các nhà chính trị,

nhà khoa học nước ngoài với lập trường giai cấp khác nhau quan tâm sâu sắc ngay

từ khi Người còn sống. Đặc biệt, sau khi Hồ Chí Minh qua đời và được cộng đồng

quốc tế vinh danh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của Việt Nam,

các nghiên cứu, đánh giá của các chính trị gia, các học giả nước ngoài về Người

càng trở nên phong phú.

Cuốn sách viết về Hồ Chí Minh và xuất bản từ khi Người còn sống đó là cuốn

Hồ Chí Minh của tác giả Jean Lacouture - một nhà báo, nhà sử học và nhà văn

Pháp. Với 270 trang sách được cấu trúc thành 15 chương, cuốn sách đã khái quát

khá đầy đủ về tiểu sử chính trị Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã khắc họa chân dung của

một vị lãnh tụ mà tác giả đánh giá là một trong những nhà Quốc tế Cộng sản lỗi lạc

nhất trong mọi thời đại.

Một công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài được cho là đầy đủ nhất về

Hồ Chí Minh, đó là cuốn Hồ Chí Minh - Một cuộc đời của tác giả người Mỹ

William J. Duiker. Cuốn sách đã được nhà xuất bản Hyperion, New York xuất bản

năm 2000, và được Phòng Phiên dịch - Bộ ngoại giao Việt Nam dịch sang tiếng

Việt năm 2001. Tác phẩm đã trình bày khá tỷ mỷ những tư tưởng và hoạt động thực

tiễn chính trị của Hồ Chí Minh dưới góc độ tiếp cận sử học gắn liền với bối cảnh cụ

thể. Mặc dù chưa được chính thức xuất bản tại Việt Nam, nhưng cuốn sách là tài

liệu tham khảo rất bổ ích về cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh.

Cuốn sách Hồ Chí Minh Một biên niên sử, của Hellmut Kapfenberger [29],

với kết cấu 25 chương và một biên niên sử về Hồ Chí Minh, tác giả đã làm nổi bật

tầm vóc những giá trị và đóng góp vĩ đại không thể phủ nhận của Người không chỉ

ở phạm vi quốc gia mà còn trên bình diện quốc tế. Mặc dù không tiếp cận dưới góc

độ VHCT nhưng cuốn sách đã cho thấy, cuộc đời, nhân cách và tư tưởng Hồ Chí

Minh không chỉ soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam mà

còn là nguồn cổ vũ, khích lệ to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp và giải phóng con người trên thế giới.

14

Cuốn sách của Nguyễn Đài Trang - một nhà nghiên cứu người Việt Nam

đang sinh sống và làm việc tại Canađa có tiêu đề, Hồ Chí Minh - Nhân văn và

phát triển, với 395 trang sách được kết cấu thành 7 chương, tác giả đã làm nổi

bật lý tưởng và phương pháp chính trị Hồ Chí Minh. Mặc dù không đề cập trực

tiếp đến VHCT của Người, nhưng cuốn sách là tài liệu bổ ích về nhân cách

chính trị Hồ Chí Minh.1.2. CÁC TÀI LIỆU, CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC

Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Người đã để

lại cho Đảng và dân tộc ta một di sản vô cùng phong phú. Mặc dù vậy, lúc đương

thời Người chỉ nhận mình là một nhà chính trị chuyên nghiệp. Với những cống hiến

to lớn trong quá trình đấu tranh cách mạng, Người được thế giới vinh danh là anh

hùng GPDT, nhà văn hóa lớn. Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và tấm gương đạo đức

của Người đã được các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cùng nhiều nhà khoa học trong

và ngoài nước tìm hiểu, nghiên cứu. Trong số các tác phẩm đã công bố liên quan

đến VHCT và VHCT Hồ Chí Minh có những công trình sau:

1.2.1. Các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về văn hóachính trị Hồ Chí Minh

- Các sách liên quan đến lý luận về VHCT Hồ Chí Minh:

Trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu của các lãnh đạo Đảng, Nhà

nước có liên quan đến chính trị, VHCT và VHCT Hồ Chí Minh với các tác phẩm

nổi bật như: cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại,

một sự nghiệp, của Phạm Văn Đồng [18]; cuốn Những nhận thức cơ bản về tư

tưởng Hồ Chí Minh, của Phạm Văn Đồng [19]; cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh và

cách mạng Việt Nam, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp [22].

Trên đây là những công trình của các nhân chứng lịch sử, những học trò xuất

sắc, thân cận, gần gũi và đã cùng với Hồ Chí Minh chỉ đạo phong trào cách mạng

Việt Nam, từng bước hiện thực hóa các mục tiêu chính trị của con đường cách mạng

vô sản là ĐLDT gắn liền với CNXH mà Người đã lựa chọn. Những tác phẩm này đã

đánh giá sâu sắc, trung thực, quá trình cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên

nhiều lĩnh vực, bao quát trên phạm vi rộng lớn về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại

giao của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy vậy, chưa có công trình nào chuyên sâu nghiên

cứu về VHCT của Người.

15

Một trong những công trình khoa học có liên quan mật thiết đến chính trị,

VHCT đó là cuốn sách: Luật hiến pháp và chính trị học của Nguyễn văn Bông [7].

Mặc dù với lập trường phi vô sản và thái độ đối lập với quan điểm mácxít và mô

hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhưng nội dung cuốn sách là những nhận thức và

luận giải khá khoa học về những vấn đề quan trọng của chính trị học như: về chính

quyền và tổ chức chính quyền, về hiến pháp, về những hình thức tham gia chính trị

và về những thể chế chính trị tiêu biểu ở cả châu Âu và châu Á. Do đó, cuốn sách là

tài liệu tham khảo cần thiết cho đề tài này. Tuy nhiên, cuốn sách chưa trực tiếp bàn

đến VHCT và VHCT Hồ Chí Minh.

- Những công trình của các nhà khoa học có các tác phẩm tiêu biểu:

Cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng

Tháng Tám - (tập III) Thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, của Trần Văn Giàu [26], bằng cách tiếp cận lôgích và lịch sử, cuốn sách đã

đề cập một cách sâu sắc, toàn diện vai trò của Hồ Chí Minh trong việc xác định con

đường cứu nước, lựa chọn hệ tư tưởng vô sản và truyền bá vào Việt Nam để chuẩn

bị các điều kiện cần và đủ cho cách mạng nổ ra và giành được các mục tiêu chính trị

đã xác định. Cuốn sách cho thấy quá trình vận động phát triển của tư tưởng Hồ Chí

Minh và sự hiện thực hóa tư tưởng đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi

Người ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 đến khi Cách mạng Tháng tám thành

công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng với việc công bố bản

Tuyên ngôn độc lập vào ngày 02-9-1945. Mặc dù toàn bộ những quan điểm, tư

tưởng và hành động chính trị của Hồ Chí Minh mà cuốn sách đề cập đến là một sự

nghiệp văn hóa, hướng đến các mục tiêu văn hóa, nhằm mang lại một nền chính trị

thỏa mãn nhu cầu và bảo vệ quyền lợi chính trị của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên,

tác giả cuốn sách chưa có ý định khái quát những giá trị của tư tưởng và hành động

cách mạng đó thành VHCT Hồ Chí Minh.

Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam, của Bùi

Đình Phong (chủ biên) [81] đã trình bày quá trình hình thành, những nội dung cơ

bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam và vận dụng

tư tưởng đó vào xây dựng nền văn hóa mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa. Mặc dù tác giả không trực tiếp bàn về VHCT mà chỉ đề cập đến

16

tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể

thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về nền văn hóa mới ở Việt Nam là một nội dung quan

trọng trong tư tưởng chính trị của Người.

Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con người, của Đặng

Xuân Kỳ (Chủ biên) [43], được kết cấu thành ba phần với nhiều nội dung như: đặc

điểm và vai trò của văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam trong lịch sử dân tộc; Hồ

Chí Minh với tư tưởng phương Đông về văn hóa và con người; tư tưởng phương Tây

về văn hóa và con người; những vấn đề chung của văn hóa và nền văn hóa mới; tư

tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực của văn hóa; tư tưởng Hồ Chí Minh về con người

và xây dựng con người mới; văn hóa, con người Việt Nam hiện nay và yêu cầu phát

triển văn hóa, xây dựng con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa;

phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong đó, tác giả có đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về VHCT, đưa ra quan niệm

về VHCT và nhận định rằng: VHCT không chỉ ở trong tư tưởng chính trị mà còn ở

trong hoạt động chính trị thực tiễn của Hồ Chí Minh và sự thống nhất đó tạo thành

VHCT của Người. Sau đó, tác giả cũng chỉ ra một số nội dung cơ bản của tư tưởng

chính trị Hồ Chí Minh như: tư tưởng về mục tiêu chính trị; về dân; về mối quan hệ

giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Như vậy, cuốn sách mới chỉ đề cập một số nội

dung của tư tưởng chính trị với tính cách là bộ phận cấu thành VHCT Hồ Chí Minh.

Cuốn Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam thế kỷ X-XV, của Nguyễn

Hoài Văn (Chủ biên) [109] có kết cấu ba chương: Cơ sở hình thành tư tưởng chính

trị Việt Nam nhìn từ cội nguồn văn hóa - lịch sử; “Tam giáo đồng nguyên” và sự

phát triển của tư tưởng chính trị Nho giáo thời Lý - Trần; Sự phát triển mạnh mẽ

của tư tưởng chính trị Việt Nam trong thế kỷ XV dưới ảnh hưởng của Nho giáo.

Cuốn sách đã trình bày cơ sở hình thành của tư tưởng chính trị Việt Nam và sự phát

triển của tư tưởng chính trị Nho giáo thời Lý - Trần từ (thế kỷ XI đến thế kỷ XIV),

thời Lê Sơ (thế kỷ XV). Mặc dù chưa đề cập đến VHCT nhưng dưới góc độ lịch sử

và hệ thống, đây là một bộ phận quan trọng của VHCT truyền thống Việt Nam và

cội nguồn của VHCT Hồ Chí Minh.

Cuốn Văn hoá chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hoá chính trị, của Phạm

Hồng Tung [104] bao gồm 14 chuyên luận, được tác giả bàn về nhiều vấn đề liên

17

quan đến văn hóa và VHCT, trong đó ba chuyên luận đầu có liên quan trực tiếp đến

đề tài. Ở chuyên luận thứ nhất, tác giả đã trình bày một số khái niệm và cách tiếp

cận VHCT của khoa học chính trị ở phương Tây; chỉ ra mối quan hệ và vai trò của

cá nhân đối với VHCT và cho rằng, do sự khác nhau về vị trí, vai trò của mỗi cá

nhân trong hoạt động chính trị, nên không thể khảo sát đặc tính chính trị của tất cả

các cá nhân nhưng cần thiết phải nghiên cứu những cá nhân tiêu biểu, nổi bật theo

cách tiếp cận từ trên xuống và cùng với cách tiếp cận từ dưới lên để có những lý

giải cân bằng, thực chứng. Ở chuyên luận thứ hai, tác giả trình bày mối quan hệ

giữa môi trường chính trị, hệ thống chính trị, quá trình chính trị và VHCT. Trong

chuyên luận thứ ba, tác giả trình bày một số cách tiếp cận nghiên cứu và luận điểm

của một số học giả tiêu biểu ở phương Tây về VHCT. Tóm lại, cuốn sách đã trình

bày một số khái niệm, cách tiếp cận và sự cần thiết phải nghiên cứu VHCT nói

chung, VHCT của những cá nhân tiêu biểu nói riêng nhưng do mục tiêu nghiên cứu,

cuốn sách chưa đề cập đến VHCT Hồ Chí Minh.

Cuốn Chính trị học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, do Nguyễn Văn

Huyên (Chủ biên) [38] đã đề cập đến những vấn đề về VHCT và con người chính trị

với những nội dung cụ thể như: quan niệm và bản chất của VHCT, đặc trưng, nội

dung, giải pháp xây dựng VHCT Việt Nam hiện nay; tư tưởng chính trị phương

Đông và phương Tây về phẩm chất của người lãnh đạo chính trị; bản lĩnh chính trị

Hồ Chí Minh và quan điểm Hồ Chí Minh về nghệ thuật hoạt động chính trị. Có thể

thấy, mặc dù đã đề cập nhưng cuốn sách mới chỉ dừng lại ở một số biểu hiện cụ thể

trong VHCT Hồ Chí Minh.

Cuốn Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển, của Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình

Phong [2] bao gồm hai phần: phần 1, Hồ Chí Minh và văn hóa; phần 2, tư tưởng Hồ

Chí Minh về con người và phát triển. Cuốn sách đã trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh

về xây dựng nền văn hóa mới; về văn hóa chính trị Hồ Chí Minh; văn hóa đạo đức

Hồ Chí Minh; tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, về giáo dục, về báo chí

cách mạng, về tính văn hóa trong thiết kế bộ máy nhà nước và phương hướng vận

dụng các tư tưởng đó trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Đặc biệt, trong mười

trang sách (từ 61-71), các tác giả đã đi sâu trình bày VHCT và VHCT Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc khái quát một số cách nhìn nhận và

18

đưa ra quan niệm ban đầu về VHCT và nhận định về quá trình hình thành, phát

triển, hoàn thiện của VHCT Hồ Chí Minh.

Cuốn Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh

(Sách chuyên khảo) của Lê Minh Quân [88] bao gồm bẩy chương, chia làm ba

phần: phần thứ nhất trình bày tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin và

Hồ Chí Minh; phần thứ hai trình bày một số tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen,

Lênin và Hồ Chí Minh về chính trị; phần thứ ba, tác giả khái quát một số tác phẩm

của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về đấu tranh bảo vệ, phát triển tư tưởng chính

trị của chủ nghĩa Mác. Cuốn sách không chỉ là nguồn tri thức quan trọng góp phần

luận giải nguồn gốc, bản chất cách mạng của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh nói

riêng, VHCT Hồ Chí Minh nói chung mà còn cho phép tiếp cận VHCT Hồ Chí

Minh từ góc độ giá trị của những tư tưởng chính trị.

Cuốn Hồ Chí Minh nhà văn hoá kiệt xuất, của Song Thành [96] bao gồm 16

chương, đề cập một cách toàn diện về văn hóa Hồ Chí Minh, trong đó có chương

thứ 5 bàn trực tiếp vào VHCT Hồ Chí Minh. Trong chương này, sau khi trình bày

khái niệm, cấu trúc và vai trò của VHCT nói chung đối với sự phát triển đất nước,

tác giả đã trình bày cơ sở hình thành và hệ quan điểm VHCT Hồ Chí Minh. Mặc dù

vậy, tác giả mới tạm rút ra định nghĩa về VHCT nói chung mà chưa đưa ra một khái

niệm cụ thể về VHCT Hồ Chí Minh. Mặt khác, ở đây, VHCT Hồ Chí Minh được

nhìn nhận với tính cách là một tập hợp các quan điểm, tư tưởng nhằm thực hiện các

mục tiêu, lý tưởng chính trị mà Người đã xác định. Về cơ sở hình thành VHCT Hồ

Chí Minh, theo tác giả, VHCT Hồ Chí Minh được hình thành trước hết là từ những

giá trị VHCT truyền thống Việt Nam và sau khi ra nước ngoài khảo sát thế giới, Hồ

Chí Minh tiếp nhận thêm những giá trị mới mẻ và tiến bộ của VHCT phương Tây.

Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, do

Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) [43], trong phần thứ hai (chương 2): Tư tưởng Hồ Chí

Minh về các lĩnh vực của văn hóa, các tác giả đã đề cập đến VHCT, đưa ra khái

niệm chính trị và VHCT. Về cơ sở hình thành của VHCT Hồ Chí Minh, các tác giả

khẳng định: Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kế thừa những truyền thống

văn hóa tốt đẹp của dân tộc, thâu thái tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh đã

xác lập một hệ thống tư tưởng chính trị mang tính cách mạng triệt để, tính khoa học

sâu sắc và tính nhân văn cao cả.

19

Những tác phẩm nêu trên đã đề cập một cách khá toàn diện về VHCT nói

chung và VHCT Việt Nam nói riêng. Nhiều tác phẩm đã làm rõ sự phát triển của tư

tưởng chính trị Việt Nam, những giá trị của VHCT truyền thống Việt Nam. Đặc

biệt, một số tác giả đã trực tiếp đề cập đến VHCT Hồ Chí Minh ở những khía cạnh

và phạm vi nhất định. Tuy vậy, chưa có một công trình độc lập, nghiên cứu chuyên

sâu về VHCT Hồ Chí Minh.

- Ngoài ra còn có khá nhiều các nghiên cứu đã công bố trên các báo, tạp chí,

kỷ yếu hội thảo khoa học có liên quan đến VHCT và VHCT Hồ Chí Minh như: Bài

Phát huy ưu thế của nền văn hoá chính trị Việt Nam tạo động lực cho công cuộc đổi

mới, của tác giả Trần Ngọc Hiên [30]. Bài Văn hoá và văn hoá chính trị từ cách tiếp

cận của triết học chính trị mácxít, của Nguyễn Văn Huyên [36]. Bài Văn hóa Đảng

- nhận thức và vấn đề đặt ra, của Đỗ Nguyên Phương [86]. Trong bài này, tác giả

khẳng định: “Văn hóa Đảng là một bộ phận của văn hóa chính trị”; trong điều kiện

và đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam, đề cập đến VHCT chính là đề cập đến

văn hóa Đảng và cũng chỉ rõ: “Điểm nổi bật trong quan niệm của Hồ Chí Minh về

văn hóa chính trị là tư tưởng về dân” và “Tư tưởng văn hóa chính trị, văn hóa Đảng

của Hồ Chí Minh có ý nghĩa là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu văn hóa chính trị,

văn hóa Đảng ngày nay”.

Tóm lại, phần lớn các công trình đã công bố chủ yếu nhìn nhận VHCT Hồ Chí

Minh ở góc độ tư tưởng. Do vậy, những tư tưởng về Dân, về Nhà nước, về Đảng,

về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, đặc biệt là trong điều kiện đảng

cầm quyền được coi là những yếu tố cấu thành VHCT Hồ Chí Minh. Một số ít công

trình đã coi VHCT Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư duy với hành động nhưng

cũng chưa đi sâu làm rõ cấu trúc của sự thống nhất đó. Vấn đề cơ sở hình thành

VHCT Hồ Chí Minh đã được nhiều tác giả đề cập nhưng mới dừng lại ở việc định

danh những tiền đề, những yếu tố cấu thành nguồn gốc của VHCT Hồ Chí Minh

mà chưa đi sâu phân tích vai trò của các yếu tố đó; nhất là chưa làm rõ mối quan hệ

biện chứng giữa truyền thống với hiện tại, giữa cộng đồng với cá nhân, giữa khách

quan với chủ quan trong việc hình thành VHCT Hồ Chí Minh. Vì vậy, dưới góc độ

khoa học chính trị, tác giả luận án mạnh dạn coi VHCT Hồ Chí Minh là đối tượng

20

nghiên cứu độc lập nhằm góp phần khắc họa chân dung nhà chính trị chuyên

nghiệp, nhà văn hóa của tương lai và gợi mở một cách tiếp cận mới về VHCT của

cá nhân nói chung, của lãnh tụ chính trị nói riêng.

1.2.2. Các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến đặc trưng và giá

trị của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh

+ Các sách liên quan đến đặc trưng và giá trị của VHCT Hồ Chí Minh:

Trong cuốn Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển, của Phạm Ngọc Anh và

Bùi Đình Phong [2], các tác giả đã chỉ ra biểu hiện của VHCT Hồ Chí Minh là:

nắm chắc linh hồn của chủ nghĩa Mác và hoàn cảnh cụ thể của đất nước để xác

định mục tiêu cách mạng; đề cao quyền lực của nhân dân; luôn khách quan,

trung thực, nhận rõ đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác, có tư duy phê phán, sáng tạo

với bản lĩnh và cái tâm, cái trí của người cộng sản; VHCT Hồ Chí Minh là sự

thống nhất giữa tư duy với hành động và luôn chú trọng xây dựng văn hóa của

Đảng cầm quyền. Cuốn sách không phải là một tác phẩm chuyên bàn về VHCT

Hồ Chí Minh, do vậy nội dung này chỉ được đề cập với tính cách là một bộ

phận cấu thành của văn hóa Hồ Chí Minh và cũng mới chỉ tập trung phân tích

một số biểu hiện cụ thể của VHCT Hồ Chí Minh.

Cuốn Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, của Song Thành [95], với ba

phần, gồm hai mươi chương, cuốn sách đã làm nổi bật hình ảnh, vị trí, vai trò

của Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Tác giả đã làm rõ quan

niệm và tiêu chí của một nhà tư tưởng, khái quát những cống hiến sáng tạo về

tư tưởng, lý luận của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và khẳng định

giá trị thời đại của những tư tưởng đó để làm rõ vị thế nhà tư tưởng lỗi lạc của

cách mạng Việt Nam. Cuốn sách đã trình bày những nội dung cơ bản của tư

tưởng Hồ Chí Minh theo một hệ thống lôgích, từ việc xác định mục tiêu chính

trị, lựa chọn con đường, xác định phương pháp, chuẩn bị lực lượng và xác định

những nội dung cơ bản cần thiết lập trong xây dựng chế độ xã hội mới sau khi

giành ĐLDT. Đặc biệt, tác giả đã khái quát những sáng tạo lý luận làm lên tầm

vóc nhà tư tưởng Hồ Chí Minh như: sáng tạo trong giải quyết mối quan hệ giữa

21

dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; sáng tạo

trong lựa chọn, vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lênin; sáng tạo trong xây

dựng đảng kiểu mới ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến; sáng tạo trong lựa

chọn và thiết kế mô hình nhà nước; sáng tạo trong xác định con đường, biện

pháp quá độ lên CNXH; sáng tạo trong nghệ thuật chính trị… Mặc dù chưa đề

cập trực tiếp, nhưng bằng việc chỉ ra những sáng tạo lý luận đó đã làm toát lên

bản chất, nội dung và giá trị của VHCT Hồ Chí Minh.

Tác phẩm đề cập một cách toàn diện nhất về nội dung VHCT Hồ Chí Minh là

tác phẩm Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất, của Song Thành [96]. Trong cuốn

sách, tác giả đã nêu nên một hệ quan điểm VHCT Hồ Chí Minh, đó là: “Dân là gốc,

dân là chủ”, chính trị sáng suốt là chính trị “được lòng dân”; lấy đại đoàn kết toàn

dân tộc làm sức mạnh nền tảng; thi hành một nền chính trị liêm khiết, kết hợp chặt

chẽ đức trị với pháp trị; kiên trì giáo dục đạo đức gắn với đề cao vai trò của pháp

luật, thực hiện đức trị đi đôi với pháp trị; tôn trọng hiền tài, tin dùng trí thức; suốt

đời phấn đấu trở thành nhà chính trị sáng suốt, người công bộc, tận tụy của nhân

dân. Mặc dù vậy, cuốn sách chỉ tập trung phân tích VHCT Hồ Chí Minh dưới góc

độ tư tưởng mà thôi.

Cùng với việc luận giải nội dung, các nhà khoa học đã nhận định, VHCT Hồ

Chí Minh có giá trị như là yếu tố quyết định tạo nên sự nghiệp của Người và thắng

lợi của cách mạng Việt Nam. Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển vănhóa và con người, của Đặng Xuân Kỳ [43], tác giả đưa ra đánh giá khái quát:

VHCT Hồ Chí Minh đã có ý nghĩa to lớn trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.

Nó vẫn đang định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa rất chính trị và một

nền chính trị rất văn hóa khi đất nước bước vào thế kỷ XXI. Mặc dù vậy, vấn đề giá

trị của VHCT Hồ Chí Minh chưa được trình bày một cách có hệ thống và sâu sắc

để thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của VHCT Hồ Chí Minh trong tiến

trình cách mạng Việt Nam và sự cần thiết phải xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và phát huy VHCT của Người trong đời sống

chính trị ở nước ta hiện nay.

+ Các báo, tạp chí và kỷ yếu hội thảo khoa học có liên quan:

22

Trong bài Văn hóa lãnh đạo - quản lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh, của Bùi

Nguyễn [72], tác giả đã khẳng định: Văn hóa lãnh đạo - quản lý thuộc phạm trù

VHCT, được nhận thức trong điều kiện Đảng cầm quyền và, tư tưởng Hồ Chí Minh

về văn hóa lãnh đạo - quản lý là một hệ thống quan điểm sâu sắc của Người về

những giá trị trong lãnh đạo - quản lý, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh, trình độ “người” và

mức độ được “vun trồng” của Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và người

lãnh đạo - quản lý. Với cách tiếp cận như trên, tác giả bài viết mặc dù không đề cập

toàn diện và trực tiếp, nhưng đã gián tiếp khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về văn

hóa lãnh đạo - quản lý là một bộ phận cấu thành nội dung VHCT Hồ Chí Minh.

Trong bài Nhân dân: Một phạm trù văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, của Bùi Đình

Phong[84], tác giả khẳng định: phương Đông hay phương Tây đều đề cập tới phạm

trù dân trong VHCT. Nhưng dân như là một phạm trù trong VHCT Hồ Chí Minh

có sắc thái riêng. Đó là VHCT “dân quyền”, “dân sinh”, “dân trí”, “dân chủ”. Trong

phạm vi bài viết này, tác giả đã đi sâu phân tích một trong những đặc trưng cơ bản

của VHCT Hồ Chí Minh đó là tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc và tất cả vì nhân

dân. Bài Văn hoá Hồ Chí Minh - giá trị và ý nghĩa, của Hoàng Chí Bảo [4]. Trên cơ

sở khái quát những nét chính trong sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh, tác giả đã

chỉ ra cách tiếp cận và nêu lên ba loại hình cơ bản, nổi bật nhất của văn hóa Hồ Chí

Minh đó là: văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức và văn hóa ứng xử. Đề cập đến giá

trị và ý nghĩa của VHCT Hồ Chí Minh, tác giả khẳng định: “Hồ Chí Minh đã đưa

dân tộc Việt Nam vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thời đại, có mặt một

cách xứng đáng trong thế giới nhân loại” [tr.587], và “Văn hóa Hồ Chí Minh và di

sản tinh thần Hồ Chí Minh cũng đồng thời là đóng góp đầy tự hào của dân tộc Việt

Nam vào kho tàng văn hóa của nhân loại” [tr.587].

Các tác phẩm nêu trên cho thấy, vấn đề đặc trưng của VHCT Hồ Chí Minh

mới chỉ được đề cập đến ở một số khía cạnh như: tính cách mạng, khoa học và nhân

văn của những tư tưởng và hành động chính trị; sự quan tâm đặc biệt của Người

đến dân sinh, dân trí, dân chủ, dân quyền, mà chưa khái quát được những nét đặc

sắc nhất của VHCT Hồ Chí Minh. Những giá trị cơ bản nhất của VHCT Hồ Chí

Minh đã được nêu lên nhưng vẫn cần phải làm sáng tỏ hơn.

23

1.2.3. Các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến ý nghĩa và định

hướng xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý ở Việt Nam hiện nay

- Các sách có liên quan:

Cuốn Vai trò văn hoá trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện nay, của tác

giả Trần Văn Bính (chủ biên) [6] có kết cấu gồm hai phần: phần thứ nhất: Lý luận

về văn hóa chính trị; phần thứ hai: Yêu cầu và kinh nghiệm thực tiễn về xây dựng

văn hóa trong hoạt động chính trị. Trong phần thứ nhất, các tác giả đã đề cập đến

một số nội dung như: văn hóa trong lãnh đạo chính trị của Đảng ta hiện nay; tìm

hiểu quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của văn hóa

trong lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản. Đặc biệt, trong phần này, tác giả đã đi

sâu làm rõ vai trò của văn hóa với sự nghiệp chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Mặc dù vậy, với mục đích của cuốn sách, tác giả chưa đi vào nghiên cứu VHCT Hồ

Chí Minh mà mới chỉ đề cập đến vai trò của văn hóa trong hoạt động chính trị của

Người để làm nổi bật sự cần thiết phải phát huy vai trò của văn hóa trong hoạt động

chính trị của Đảng ta hiện nay.

- Các báo, tạp chí và kỷ yếu hội thảo khoa học có liên quan:

Trong bài Đảng Cộng sản Việt Nam trong văn hóa chính trị, của Vũ Minh

Giang [21], tác giả đã đưa ra khái niệm chung nhất về VHCT, luận giải quá

trình hình thành, những đặc điểm của VHCT Việt Nam và khẳng định, Đảng

Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của VHCT Việt Nam. Trong bài Văn hoá

Đảng được hoàn thiện từ nền văn hoá chính trị, của Lương Hoàng Mai [52],

tác giả cho rằng văn hóa đảng là một sản phẩm trong văn hóa chính trị của dân

tộc và việc xây dựng môi trường VHCT Việt Nam tiên tiến, hiện đại là điều

kiện để hoàn thiện VHCT của đảng. Ngoài ra còn một số bài khác có đề cập

đến VHCT Hồ Chí Minh như: bài Nhân dân: Một phạm trù văn hoá chính trị

Hồ Chí Minh, của Bùi Đình Phong [84]; bài Vấn đề văn hoá trong tư tưởng Hồ

Chí Minh về phát triển đất nước, của Tạ Ngọc Tấn [92]; bài Xây dựng văn hoá

chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, của tác giả

24

Đoàn Thị Minh Oanh [79]; bài Học và hành theo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn

hoá cầm quyền, của Bùi Đình Phong [85]...

- Các luận văn, luận án có liên quan:

Một số luận văn, luận án có đề cập đến VHCT như: cuốn Văn hóa chính trị ở

Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, của tác giả Khăm Mặn

ChănThạLăngSy [41]; cuốn Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện ở tỉnh Kon Tum hiện nay - thực trạng và giải pháp, của tác giả Nguyễn Minh

Đức [20]; cuốn Nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nước ta trong

giai đoạn hiện nay, của tác giả Lâm Quốc Tuấn [94]; cuốn Văn hóa chính trị Hồ

Chí Minh với việc xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay, của tác giả

Nguyễn Minh Khoa [44]; cuốn Văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối

với công cuộc đổi mới ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, của tác giả

Aloun Bounmixay [1].

Các luận văn, luận án nêu trên mới chỉ nghiên cứu VHCT ở những cấp độ,

phạm vi địa phương hay quốc gia nhất định. Trong đó, một số công trình cụ thể đã

đề cập đến VHCT Hồ Chí Minh nhưng chủ yếu tập trung phân tích vai trò của

VHCT Hồ Chí Minh với việc xây dựng VHCT Việt Nam hiện nay. Do vậy, chưa có

công trình nào phản ánh VHCT Hồ Chí Minh với tính cách là một chỉnh thể có

nguồn gốc, cấu trúc, đặc trưng, có quy luật vận động phát triển và giá trị riêng, để

trên cơ sở đó định hướng cụ thể cho việc xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội

ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay.

Như vậy, đề tài “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn”

với mục tiêu nghiên cứu đã xác định mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với các

công trình đã công bố. Kết quả nghiên cứu của đề tài hy vọng sẽ đem lại những

đóng góp mới về khoa học. Trên cơ sở tổng hợp các kết quả đã nghiên cứu, luận án

sẽ cung cấp một cách nhìn khái quát và đầy đủ hơn về VHCT nói chung và VHCT

Việt Nam nói riêng, đồng thời đưa ra một bức tranh toàn diện và hệ thống, bao gồm

khái niệm, cấu trúc, cơ sở hình thành, đặc trưng, giá trị và ý nghĩa của VHCT Hồ

Chí Minh, trên cơ sở đó đề xuất một số định hướng xây dựng VHCT Hồ Chí Minh

cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

25

Tiểu kết chương 1

Trong những năm gần đây, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và

sự giao thoa, tiếp biến những giá trị văn hóa chung của nhân loại, VHCT bắt đầu

được quan tâm nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong

quá trình nghiên cứu, VHCT được tiếp cận từ nhiều cách khác nhau và do đó cũng

có nhiều cách định nghĩa khác nhau, tùy theo từng mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên,

các kết quả nghiên cứu đều nhìn nhận VHCT là sản phẩm của con người, được hun

đúc trong quá trình đấu tranh giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước, trở thành

những giá trị bền vững chi phối nhận thức và hành vi chính trị của con người. Do

đó, trên một góc độ nhất định, VHCT là sự tích hợp VHCT cá nhân, mang tính

cộng đồng nhưng lại có sự chi phối VHCT cá nhân. Các nghiên cứu cũng chỉ ra

rằng, với một số cá nhân xuất chúng, những lãnh tụ chính trị xuất sắc thì VHCT của

họ có vai trò to lớn trong việc hình thành những giá trị chung, thậm chí tạo ra bước

ngoặt trong quá trình phát triển VHCT của cộng đồng, dân tộc.

Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị của Đảng, của dân tộc,

bằng tư tưởng và hoạt động chính trị của mình, Người đã đưa đất nước bước sang

một kỷ nguyên mới, hòa cùng dòng chảy của thời đại trong quá trình phát triển. Với

những công lao to lớn đó, Người được thế giới vinh danh là anh hùng giải phóng

dân tộc, nhà văn hóa lớn. Vì thế, VHCT Hồ Chí Minh đã được các nhà khoa học đề

cập đến ở nhiều góc độ khác nhau, khá phong phú và toàn diện. Do vậy, việc kế

thừa các thành quả nghiên cứu VHCT nói chung, VHCT Hồ Chí Minh nói riêng để

thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận án là hết sức quan trọng và cần thiết.

Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các nghiên cứu có

liên quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây là cơ sở để xác định nhiệm

vụ nghiên cứu và là nguồn tư liệu chính để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và phát

triển, phục vụ cho việc hoàn thành luận án của mình.

26

Chương 2

LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

2.1. KHÁI NIỆM VÀ CẤU TRÚC VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

2.1.1. Khái niệm

2.1.1.1. Khái niệm giá trị và giá trị văn hóa

Trong phạm vi của đề tài này chưa có điều kiện đi sâu vào một vấn đề lý

luận lớn và phức tạp của văn hóa học - vấn đề giá trị. Do vậy, chỉ khái quát và

nêu lên một quan niệm chung nhất về giá trị và giá trị văn hóa. Theo từ điển

tiếng Việt: giá trị “là: cái làm cho một vật có lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về

một mặt nào đó; là: tác dụng, hiệu lực; là: lao động xã hội của những người sản

xuất hàng hóa kết tinh trong sản phẩm hàng hóa; là: số đo của một đại lượng,

hay số được thay thế bằng một kí hiệu”[106, tr.501]. Như vậy, giá trị là một

khái niệm có độ bao quát lớn, một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều

lĩnh vực. Tuy nhiên, theo Trần Ngọc Thêm, tác giả cuốn sách “Những vấn đề

văn hóa học lý luận và ứng dụng”, “ở khái niệm này còn tồn đọng rất nhiều

vấn đề lý luận chưa được giải quyết thấu đáo”[97, tr.92].

Giá trị được phân ra làm hai loại là giá trị tự nhiên và giá trị xã hội,

trong đó giá trị tự nhiên là những tính chất, sự vật có ích nhưng không do

con người sáng tạo ra, còn giá trị xã hội gắn liền với con người, do con

người sáng tạo ra. Như vậy, giá trị văn hóa đồng nghĩa với giá trị xã hội và

bao hàm trong nó các loại giá trị như: kinh tế, chính trị, đạo đức, khoa học,

pháp luật... Do đó, không được đồng nhất hoặc đặt giá trị văn hóa ngang

hàng với các loại giá trị khác, bởi vì mọi giá trị do con người sáng tạo ra đều

thuộc về văn hóa. Giá trị có tính chủ quan, tính lịch sử và tính tương đối.

Một sự vật, hiện tượng có giá trị nhiều hay ít phụ thuộc vào năng lực và tâm

lý của chủ thể định giá. Mặt khác, một sự vật có giá trị ở giai đoạn lịch sử

này, chưa chắc đã còn giá trị ở giai đoạn lịch sử khác, có giá trị ở vùng này

và với dân tộc này chưa hẳn đã có giá trị ở vùng khác và với dân tộc khác.

27

Tính tương đối của khái niệm giá trị cho phép nhìn nhận và phân loại các giá

trị thành: giá trị đang hình thành, giá trị đang hiện hành, giá trị đã lỗi thời,

giá trị vĩnh cửu, giá trị lịch sử, giá trị hiện thực....

2.1.1.2. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là một vấn đề rộng lớn, gắn liền với mọi lĩnh vực hoạt động sống

của con người. Do vậy, từ khi xuất hiện lần đầu (1871) cho đến nay đã có rất

nhiều định nghĩa văn hóa, và một số nhà khoa học nhận định rằng, có bao nhiêu

nhà nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu định nghĩa về văn hóa. Về cách định

nghĩa văn hóa, trong công trình nghiên cứu, “Văn hóa trong chủ thuyết phát

triển của Việt Nam”, các nhà khoa học đã thống kê 6 cách định nghĩa chính đó

là: cách định nghĩa miêu tả, cách định nghĩa lịch sử, cách định nghĩa chuẩn mực,

cách định nghĩa tâm lý, cách định nghĩa cấu trúc và cách định nghĩa nguồn gốc.

Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song theo Trần Ngọc Thêm, khái

niệm văn hóa bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính, đó là: theo nghĩa

rộng và theo nghĩa hẹp.

Với phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ liệt kê một số định nghĩa

tiêu biểu và có những điểm chung, với tính cách là cơ sở cho những khái niệm

công cụ của đề tài nhưng có liên quan trực tiếp đến văn hóa.

Định nghĩa của Từ điển Triết học:

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người

sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội lịch sử và tiêu biểu cho

trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn,

người ta vẫn quen nói về văn hóa vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản

xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ thuật và

văn học, triết học, đạo đức, giáo dục…). Văn hóa là một hiện tượng

lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế xã

hội.[107, tr.1329 - 1330].

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, văn hóa gắn liền với con

người và có nguồn gốc từ hoạt động lao động sáng tạo của con người. Trong tác

28

phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”, C.Mác viết: “Căn cứ vào mức độ tự nhiên

được con người khai thác, cải tạo thì có thể xét được trình độ văn hóa chung của

con người”[51, tr.507]. Theo tập thể tác giả của công trình nghiên cứu “Văn hóa

trong chủ thuyết phát triển của Việt Nam”, mặc dù không chính thức đưa ra định

nghĩa của mình về văn hóa, song “trong công trình “Nguồn gốc của gia đình,

của chế độ tư hữu và của nhà nước” xuất bản lần đầu tiên năm 1884,

Ph.Ăngghen đã có ngụ ý chứng minh: Văn hóa là toàn bộ những sản phẩm vật

chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát

triển của mình trong tiến trình lịch sử”[35, tr.24].

Một số định nghĩa tiêu biểu của các nhà nghiên cứu văn hóa nước ngoài:

Năm 1871, trong tác phẩm Văn hóa nguyên thủy, xuất bản lần đầu tại London,

nhà nhân học người Anh Edward Burnett Tylor đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hay

văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất về dân tộc học của nó, là toàn bộ phức thể bao

gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi khả

năng và thói quen khác mà con người có được với tư cách một thành viên của xã

hội”[103, tr.13]. Với cách định nghĩa miêu tả này, tác giả đã liệt kê một số thành tố

của văn hóa và chỉ ra mối liên hệ biện chứng giữa văn hóa và con người với tư cách

là con người xã hội. Đây là khái niệm văn hóa theo nghĩa hẹp, và có lẽ hạn chế của

khái niệm này là tác giả đã đồng nhất văn hóa với văn minh.

Một khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng, do ông Federico Mayor, nguyên tổng

giám đốc UNESCO trong khoảng thời gian từ 1987 đến 1999 đã nêu ra như

sau: "Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và

cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế hệ, các hoạt động sáng

tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu -

những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[74, tr.11].

Khái niệm này được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính

phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise. Năm 1988, tổ chức

Văn hóa Khoa học Giáo dục Liên Hiệp Quốc UNESCO đã đưa ra định nghĩa:

“Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị, bao gồm các mặt tình cảm, tri thức,

29

vật chất, tinh thần của xã hội. Nó không thuần túy bó hẹp trong sáng tác nghệ

thuật, mà bao gồm cả phương thức sống, những quyền cơ bản về con người,

truyền thống tín ngưỡng”[dẫn theo 105, tr.16].

Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa được Người ghi lại trong mục đọc

sách ở những trang cuối cùng của tập thơ “Nhật ký trong tù”, Người viết:

Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng

tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,

tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng

ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng

tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi

phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã

sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự

sinh tồn.[56, tr.458].

Từ quan niệm trên, Hồ Chí Minh đã chỉ ra các yếu tố cấu thành của văn hóa,

nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo và phát minh, đồng thời chỉ ra mục tiêu của văn hóa

là vì sự sinh tồn và mục đích cuộc sống con người.

Một số định nghĩa của các nhà nghiên cứu văn hóa trong nước: theo nhà

nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc:

Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá

nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá

nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại

trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này,

đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu

lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác với các kiểu lựa chọn

của các cá nhân hay các tộc người khác.[71, tr,19-20].

Định nghĩa trên nhấn mạnh đến tính biểu tượng của các giá trị văn hóa chi

phối các mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh được biểu hiện thông

qua việc lựa chọn các giá trị.

Theo tác giả Song Thành:

30

Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh

thần do một cộng đồng người sáng tạo ra, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh

tồn và phát triển trong quá trình lịch sử. Trên ý nghĩa đó, văn hóa phản

ánh mức độ phát triển của toàn bộ cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân

về trình độ sản xuất - kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nếp sống - đạo đức,

phong tục - tập quán, v.v.[96, tr.7].

Định nghĩa trên nhấn mạnh tính lịch sử của các giá trị do con người sáng

tạo ra, thể hiện trình độ phát triển của cộng đồng người.

Tác giả Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống giá trị

mang tính biểu tượng do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động

thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”[97,

tr.56]. Định nghĩa này được cho là khá hoàn chỉnh, cho phép nhận diện và phân

biệt văn hóa. Như vậy, mặc dù các định nghĩa nêu trên đề cập văn hóa ở những

phạm vi rộng, hẹp khác nhau, nhưng tựu chung lại đã làm nổi bật khái niệm

văn hóa ở những nội dung cơ bản đó là: Văn hóa gắn liền với con người, do

con người và vì con người; nguồn gốc của văn hóa là tự nhiên, ra đời thông qua

hoạt động thực tiễn; văn hóa là hệ thống các giá trị và biểu tượng được bồi đắp

trong chiều dài lịch sử, có tính Chân, Thiện, Mĩ, tính sáng tạo và có đặc trưng,

bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình tồn tại

và phát triển trên một khu vực địa lý nhất định.

Tóm lại, văn hóa là một chỉnh thể các giá trị Chân, Thiện, Mĩ của con

người, do con người, vì con người, được sáng tạo, bồi đắp trong suốt quá trình

lịch sử thông qua sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.

2.1.1.3. Khái niệm văn hóa chính trị

Chính trị là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, dùng để chỉ những

công việc liên quan đến nhà nước, là nghệ thuật cai trị của nhà nước và là

phương pháp để thực hiện các mục tiêu của quốc gia. Chính trị xuất hiện từ khi

xã hội có phân hóa giai cấp và tác động, chi phối đến tất cả mọi người thuộc

các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Chính vì thế mà Aristotle cho rằng, con người

31

là động vật chính trị. Mặc dù vậy, trong thực tế, chính trị đã từng là công cụ

đặc quyền để giai cấp thống trị buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của

mình. Tuy nhiên, cùng với quá trình dân chủ hóa, chính trị dần trở thành công

việc của đông đảo quần chúng nhân dân. Mọi công dân đều có quyền tham gia

vào công việc của nhà nước ở những mức độ, phạm vi khác nhau, phụ thuộc

vào điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa của mỗi công dân.

Vậy, chính trị có cần thiết hay không?, là tốt hay xấu đối với con người?.

Trước hết cần khẳng định là, chính trị là một hiện tượng lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại

cùng với sự ra đời và tồn tại của giai cấp, nhưng nó rất cần thiết cho sự phát triển

của xã hội, là một nấc thang trong tiến trình phát triển của nhân loại. Xung quanh

vấn đề chính trị, từ xưa đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau. Ở phương

Tây, một triết gia Hy Lạp cổ đại - Plato - người thầy của Aristotle cho rằng, chính

trị là nghệ thuật cai trị và cai trị bằng sức mạnh là độc tài, còn cai trị bằng thuyết

phục mới là cai trị đích thực. Gần đây, nhà kinh tế, chính trị và xã hội học người

Đức Maximilan Carl Emil weber cho rằng, chính trị là khát vọng tham gia vào

quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong

quốc gia hay giữa các tập đoàn người trong một quốc gia. Với quan điểm này, một

số học giả cho rằng, chính trị là sự khôn khéo, là nghệ thuật, là thủ đoạn, là trường

đấu tranh, chiếm quyền hành, tước vị mà kẻ thắng thế chưa hẳn là người tốt.

Các quan niệm trên đây tuy có những yếu tố hợp lý nhưng chưa phản ánh

đúng nội dung cơ bản nhất trong phạm trù chính trị, đó là tính giai cấp của nó. Chỉ

khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, phạm trù chính trị mới có được những quan niệm

đúng đắn, cách mạng và khoa học. Theo Lênin, về bản chất, “Chính trị là cuộc đấu

tranh giữa các giai cấp; chính trị là thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự giải

phóng mình chống giai cấp tư sản toàn thế giới”[47, tr.482]. Về phương thức của

chính trị, Lênin cho rằng, “Chính trị là một khoa học và nghệ thuật không phải từ

trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi một sự cố gắng, rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai

cấp tư sản thì phải đào tạo lấy “những nhà chính trị giai cấp” thực sự của mình,những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư

sản”[47, tr.80-81].

32

Về mối quan hệ giữa chính trị với văn hóa, chủ nghĩa Mác - Lênin cho

rằng, văn hóa là tiền đề, điều kiện của chính trị và luôn bị chi phối bởi chính trị.

Lênin viết: “Chừng nào ở nước ta còn có một hiện tượng như nạn mù chữ, thì

rất khó có thể nói đến giáo dục chính trị. Đó không phải là một nhiệm vụ chính

trị, đó là một điều kiện mà nếu thiếu, thì không thể nói đến chính trị được. Một

người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”[48, tr.218]. Tóm lại, dù

theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng, văn hóa và chính trị luôn có mối quan hệ chặt

chẽ với nhau. Theo nghĩa rộng, chính trị là một hệ sản phẩm, một phương thức

biểu hiện của văn hóa, nằm trong văn hóa. Theo nghĩa hẹp, văn hóa bị chi phối

bởi chính trị và phải phục vụ cho chính trị.

Như vậy, chính trị luôn gắn liền với con người kể từ khi nhà nước ra

đời và đó là một lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của đời sống xã hội.

Mọi thành quả lý luận và thực tiễn do con người sáng tạo ra liên quan đến

việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước đều thuộc về VHCT. Với

cách nhìn nhận như vậy, cùng với quá trình ra đời và phát triển của nhà

nước, khái niệm VHCT đã hình thành và từng bước hoàn thiện.

Việc định nghĩa VHCT tùy thuộc vào mục đích và cách tiếp cận của mỗi

chủ thể nghiên cứu. Cùng với sự phát triển của khoa học chính trị ở các nước

nói chung, ở phương Tây nói riêng, cho đến nay đã có khá nhiều định nghĩa về

VHCT. Có thể kể đến một số định nghĩa tiêu biểu sau:

Người đầu tiên đưa ra khái niệm VHCT là nhà chính trị học người Mĩ

G.Almond. Trong bài “Các hệ thống chính trị so sánh” đăng trên tạp chí chính

trị học (The Journal of politics), số 8-1956, Almond đã đưa ra định nghĩa: “Văn

hóa chính trị của một dân tộc là cách chia sẻ riêng của các thành viên của dân

tộc ấy những dạng thức của sự định hướng quan tâm tới các khách thể chính

trị”[114, tr.14-15]. Sau khi ra đời, khái niệm VHCT này đã được giới chính trị

học thế giới quan tâm nghiên cứu.

Trong cuốn “Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế”, được biên soạn

năm 1961, nhà chính trị học người Anh L.Pye đã đưa ra định nghĩa: “văn hóa chính

33

trị là hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá

trình chính trị; nó đưa ra tiền đề cơ bản và quy tắc chế ước hành vi của hệ thống

chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính

thể”[118, tr.218]. Định nghĩa này cho thấy, tác giả không những chưa đề cập đến

vấn đề giai cấp của VHCT mà nội hàm của VHCT cũng chỉ được đề cập đến ở góc

độ nhận thức tư tưởng.

Theo tác giả Phạm Hồng Tung, gần đây, ở phương Tây có hai cách định nghĩa

tiêu biểu về văn hóa chính trị của giới khoa học chính trị Đức đó là: cách định nghĩa

thứ nhất của Werner J.Patzelt, được đưa ra trong cuốn sách “Nhập môn khoa họcchính trị”, xuất bản năm 1992. Tác giả định nghĩa:

Văn hóa chính trị là một khái niệm tập hợp dùng để chỉ những giá trị

chính trị quan trọng, tri thức, quan niệm và thái độ trong một xã hội;

những dạng thức được bộc lộ ra thông qua hoạt động chính trị và tham

dự chính trị; những quy tắc công khai hay mặc nhiên được thừa nhận của

quá trình chính trị và những cơ sở thường nhật của các hệ thống chính

trị.[dẫn theo 104, tr.22].

Cách định nghĩa thứ hai của các nhà khoa học chính trị Đức được nêu ra trong

cuốn “Từ điển chính trị” xuất bản năm 2007. Ở đây, VHCT được định nghĩa:

Là khái niệm dùng để chỉ chiều cạnh chủ quan của những cơ sở xã hội

của các hệ thống chính trị. Văn hóa chính trị liên quan tới những bộ phận

khác nhau của ý thức chính trị, những phong thái, những lối nghĩ và ứng

xử điển hình của những nhóm xã hội hoặc toàn xã hội. Văn hóa chính trị

bao gồm tất cả những đặc tính chính trị cá nhân của từng cá thể, tiềm ẩn

trong những thái độ và các giá trị, bắt rễ trong những động cơ bẩm sinh

của hành vi chính trị, và cả trong những hình thức bộc lộ có tính chất

biểu tượng và những ứng xử chính trị cụ thể.[dẫn theo 104, tr.23-24].

Hai định nghĩa trên đây cho thấy, VHCT không chỉ là các giá trị của tri thức

chính trị, thái độ chính trị mà còn bao gồm những dạng thức của hành vi và sự tham

dự chính trị. Mặt khác, hai định nghĩa này lần đầu tiên đề cập đến tính chất cá nhân

của VHCT.

34

Kế thừa các kết quả nghiên cứu của thế giới, các nhà khoa học Việt Nam đã

có sự nhìn nhận rõ hơn về VHCT. Trong cuốn sách “Văn hóa chính trị và việc bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” do Phạm Ngọc Quang (chủ

biên), xuất bản năm 1995 đã định nghĩa:

Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa; nó nói lên tri

thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên sự nhận

thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế

chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của

giai cấp hay của nhân dân phù hợp sự phát triển của lịch sử. Văn hóa

chính trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con

người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện những

lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng.[87, tr.19].

Trong cuốn sách “Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất” của Song Thành, xuất

bản năm 2010, tác giả định nghĩa:

Văn hóa chính trị là một bộ phận cấu thành của văn hóa, kết tinh

trong đó cả tri thức, lý tưởng, đạo đức và năng lực hoạt động chính

trị, có ảnh hưởng đến thái độ, hành vi chính trị của một cá nhân hay

một cộng đồng xã hội nhất định. Văn hóa chính trị được hình thành

từ kinh nghiệm lịch sử của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa chính

trị hiện đại, dưới sự chi phối của hệ tư tưởng chính trị của giai cấp

hay đảng cầm quyền.[96, tr.86].

Trong cuốn “Các chuyên đề bài giảng chính trị học”, dành cho cao

học chuyên chính trị học, do Phan Xuân Sơn chủ biên, đã đưa ra định

nghĩa: “Văn hóa chính trị là một loại hình văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ

giá trị, phẩm chất, năng lực, trình độ và phương thức hoạt động chính trị,

được hình thành trên cơ sở một nền chính trị với thể chế, hệ thống và thiết

chế đúng đắn, khoa học, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia, phù

hợp với tiến bộ xã hội - con người”.[91, tr.260].

35

Như vậy, mặc dù về cơ bản, các định nghĩa nêu trên có điểm chung, đều

coi VHCT là một bộ phận, một lĩnh vực của văn hóa nói chung; được cấu thành

bởi các giá trị do con người sáng tạo trong quá trình hoạt động chính trị; ra đời

nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi chính trị của cá nhân hoặc cộng đồng và

luôn bị chi phối bởi hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Tuy nhiên, các

khái niệm trên đây vẫn còn những khác biệt về nguồn gốc, cấu trúc, đặc trưng

biểu hiện của VHCT. Do vậy, việc bổ sung, hoàn thiện khái niệm VHCT để có

được một công cụ có tính phổ biến trong việc nghiên cứu VHCT nói riêng,

chính trị học nói chung là cần thiết và có ý nghĩa khoa học. Kế thừa các định

nghĩa khái niệm VHCT nêu trên và qua phân tích các dấu hiệu nội hàm của

khái niệm VHCT, có thể rút ra một định nghĩa VHCT như sau:

“Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương thức biểu hiện của văn hóa,ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp. Là tổng hòa các giá trị của tư tưởng,

hành vi và các thiết chế chính cụ thể phù hợp với tiến bộ xã hội, do con người sángtạo ra và bồi đắp trong suốt quá trình ứng xử với quyền lực nhà nước. Văn hóa

chính trị biểu hiện qua các mô hình tổ chức thể chế chính trị, các chuẩn mực, phẩmchất, năng lực tham dự chính trị của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.

Khái niệm này cho thấy, VHCT là những giá trị chung mà cộng đồng người

đã sáng tạo ra trong suốt quá trình ứng xử với quyền lực nhà nước, nhằm tạo ra các

thiết chế chính trị phù hợp với tiến bộ xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên,

cần nhận rõ, giá trị chung là tổng hòa của nhiều giá trị riêng không ngang bằng

nhau. Như vậy, trong giá trị chung đó, sẽ có những giá trị riêng tiêu biểu của những

cá nhân xuất chúng, những lãnh tụ chính trị của dân tộc, vĩ nhân của thời đại mà

những sáng tạo mang dấu ấn cá nhân của họ được cộng đồng thừa nhận trở thành

giá trị chung. Những giá trị đó được thực tiễn kiểm nghiệm, chắt lọc và tích lũy

trong quá trình lịch sử gắn liền với sự ra đời, phát triển của giai cấp và nhà nước.

VHCT không chỉ bao gồm các giá trị tư tưởng, lý luận mà còn bao hàm cả những

hành vi cũng như nghệ thuật thể hiện hành vi trong quá trình tham dự chính trị được

cộng đồng thừa nhận, chia sẻ và vận dụng trong việc thiết lập và vận hành một nền

chính trị nhất định.

36

2.1.1.4. Khái niệm văn hóa chính trị Hồ Chí MinhViệc thừa nhận vai trò của cá nhân trong việc sáng tạo văn hóa nói chung,

VHCT nói riêng đã cho phép nhìn nhận một cách khách quan về VHCT Hồ

Chí Minh. Bởi lẽ, cùng với tư cách là sản phẩm của VHCT Việt Nam, Người

còn đồng thời là một chủ thể sáng tạo VHCT. Mọi hoạt động cách mạng của

Người, từ học tập, lao động, nhận thức tư tưởng hay ứng xử với các vấn đề

chính trị cụ thể đều hướng vào một lý tưởng cao cả là các dân tộc trên thế giới

được bình đẳng, đoàn kết và cùng chung sống hòa bình trên sơ sở tôn trọng sự

đa dạng về bản sắc văn hóa; trong xã hội không còn tình trạng giai cấp này áp

bức, bóc lột giai cấp khác; con người được giải phóng khỏi mọi sự ràng buộc,

có điều kiện để phát triển toàn diện và được hưởng mọi thành quả văn hóa do

chính con người sáng tạo ra. Trong đó, mục tiêu trước mắt là độc lập cho dân

tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Mục tiêu đó luôn là sợi

chỉ đỏ xuyên suốt trong tư duy và được biểu hiện nhất quán trong hoạt động

thực tiễn của Người. Chính vì vậy, ngay từ năm 1923, một nhà báo Liên Xô đã

viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu

châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”[54, tr.463].

Thực tế nêu trên đặt ra yêu cầu tìm hiểu và định hình khái niệm VHCT Hồ

Chí Minh với tính cách là một đối tượng nghiên cứu của khoa học chính trị, trong

đó trực tiếp nhất là chính trị học và Hồ Chí Minh học. Một số năm gần đây, khái

niệm VHCT Hồ Chí Minh đã được đề cập đến ở những mức độ và phạm vi

khác nhau, khá phong phú và đa dạng. Trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí

Minh về phát triển văn hóa và con người”, do Đặng Xuân Kỳ (chủ biên),

VHCT được coi là một trong các lĩnh vực như: văn hóa giáo dục; văn hóa

văn nghệ; văn hóa đời sống - đạo đức, lối sống và nếp sống cấu thành tư

tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Cuốn sách viết: “Ở Hồ Chí Minh, sự kết

hợp chặt chẽ vấn đề giai cấp và dân tộc, truyền thống và hiện đại, dân tộc và

nhân loại được thực hiện cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn ba tính chất

cách mạng, khoa học và nhân văn,… Vì vậy, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh

37

mang tính văn hóa rất sâu đậm”.[43, tr.249]. Quan niệm này mới chỉ đề cập

đến tính chất văn hóa trong các tư tưởng chính trị của Người mà chưa đề cập

đến VHCT Hồ Chí Minh với tính cách là một hệ thống các giá trị của chính

trị có tính chỉnh thể. Trong cuốn sách Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển

của Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong, các tác giả có đề cập đến VHCT

Hồ Chí Minh nhưng chưa đưa ra một khái niệm cụ thể. Trong cuốn sách, Hồ

Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất, của Song Thành, tác giả đã đề cập đến cơ

sở hình thành và hệ quan điểm VHCT Hồ Chí Minh, nhưng cũng chưa đưa

ra một quan niệm đầy đủ về VHCT Hồ Chí Minh.

Như vậy, cho đến nay khái niệm VHCT Hồ Chí Minh vẫn chưa có được

một định nghĩa thực sự đầy đủ. Tuy nhiên, những quan niệm đó đã là nền

tảng quan trọng để các nghiên cứu tiếp sau có cái nhìn bao quát hơn về

VHCT Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kế thừa các định nghĩa đã có, tác giả luận

án đưa ra định nghĩa với tính cách là một giả thuyết khoa học chung nhất về

VHCT Hồ Chí Minh như sau:

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là phương diện nổi bật của văn hóa Hồ Chí

Minh, bao gồm tổng hòa các giá trị về tư tưởng và hành vi chính trị mang tính

Chân, Thiện, Mĩ mà Người sáng tạo ra trong suốt quá trình đấu tranh cho sự

nghiệp GPDT, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trên lập trường giai

cấp công nhân; là sự tích hợp, vận dụng, phát triển các giá trị VHCT của dân

tộc, nhân loại, và chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam; được

biểu hiện ở tư tưởng, chuẩn mực và nhân cách chính trị mang đặc trưng riêng;

có giá trị, ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và

góp phần làm phong phú thêm các giá trị VHCT của nhân loại.

Định nghĩa nêu trên đã tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh ở phạm vi rộng nhất,

với tính cách là một chỉnh thể, một đối tượng nghiên cứu độc lập và chỉ ra những

nội dung cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh. Đó là:

Thứ nhất, VHCT Hồ Chí Minh là một phương diện nhưng là phương diện cơ

bản và nổi bật nhất của văn hóa Hồ Chí Minh, bao gồm cả giá trị tư tưởng và giá trị

38

hành vi, nhưng không phải tất cả mọi giá trị đã được tạo ra mà chỉ đề cập đến những

giá trị Chân, Thiện, Mĩ, có tính sáng tạo. Đề cập đến VHCT Hồ Chí Minh là đề cập

đến tính chỉnh thể và hệ thống của mối quan hệ giữa con người, sự nghiệp cùng

những sản phẩm của tư tưởng và hành vi chính trị mà Người sáng tạo ra. Tuy nhiên,

những sản phẩm đó phải xuất phát từ thực tại khách quan, có tính phổ quát cao, tính

nhân văn, nhân đạo và nhằm mang lại cho con người một đời sống chính trị tốt đẹp

hơn, phù hợp với xu thế thời đại và tiến bộ xã hội.

Thứ hai, VHCT Hồ Chí Minh mang bản chất của giai cấp công nhân và

hướng tới mục tiêu GPDT, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Nghĩa là,

bản chất giai cấp công nhân và sự kết hợp chặt chẽ ba sự nghiệp giải phóng nói trên

không chỉ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và chỉ đạo mọi tư tưởng và hành động cách

mạng Hồ Chí Minh, mà còn là một đặc trưng cơ bản trong VHCT của Người.

Thứ ba, cơ sở hình thành, phát triển VHCT Hồ Chí Minh là sự tích hợp, vận

dụng và phát triển các giá trị VHCT của dân tộc, nhân loại và chủ nghĩa Mác -

Lênin để giải quyết vấn đề của thực tiễn chính trị Việt Nam trong bối cảnh chung

của thế giới. Nghĩa là, việc hình thành, phát triển của VHCT Hồ Chí Minh có cả cơ

sở lý luận và thực tiễn gắn liền với nhân tố chủ quan của Người. Trong đó, cơ sở lý

luận là những hạt nhân tích cực, hợp lý của tư tưởng nhân loại và những nguyên lý

cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Người tiếp thu được thông qua khả năng tự

học và thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú.

Thứ tư, sản phẩm của VHCT Hồ Chí Minh là những tư tưởng, chuẩn mực và

nhân cách chính trị của Người. Trong đó, tư tưởng chính trị là hệ thống các quan

điểm lý luận về quá trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng GPDT đến cách

mạng XHCN. Chuẩn mực là những nguyên tắc, quy tắc, quy định của các hành vi

chính trị mà Người sáng tạo ra, đáp ứng yêu cầu của cách mạng, phù hợp với xu thế

thời đại và nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Nhân cách chính trị Hồ Chí

Minh là những phẩm chất về ý chí, nghị lực, phương pháp, phong cách, sự thống

nhất giữa nói và làm, giữa lý luận và thực hành, cùng những phẩm chất đạo đức

cách mạng mà Người đã sáng tạo ra và suốt đời gương mẫu thực hiện.

39

Thứ năm, VHCT Hồ Chí Minh có giá trị, ý nghĩa to lớn đối với cách mạng

Việt Nam và cách mạng thế giới. Nghĩa là, VHCT Hồ Chí Minh vừa có tính dân

tộc, vừa có tính nhân loại. Bởi lẽ, bất kỳ một giá trị nào được coi là văn hóa đều có

tính nhân văn và khả năng tự lan tỏa. Đặc biệt, VHCT Hồ Chí Minh được hình

thành, phát triển trong quá trình giải quyết mâu thuẫn lớn của thời đại đó là mâu

thuẫn giữa chủ nghĩa thực dân với các dân tộc bị áp bức. Mặt khác, với tính lịch sử

và tính kế thừa của văn hóa, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị lịch sử mà

còn có giá trị hiện thực to lớn.

2.1.2. Cấu trúc

Cấu trúc là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa các thành phần, các

yếu tố tạo nên một sự vật và làm cho nó có những nội dung và đặc trưng

nhất định. Mỗi thành tố cấu thành sự vật có vai trò, chức năng khác nhau

nhưng có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau để quy định bản chất

của sự vật ấy. Với tính cách là một chỉnh thể các giá trị Chân, Thiện, Mĩ của

lý luận và thực tiễn chính trị, VHCT nói chung, VHCT Hồ Chí Minh nói

riêng được cấu thành từ những yếu tố góp phần bảo đảm tính văn hóa của

chính trị, làm nên sự nghiệp chính trị của Người và thắng lợi của cách mạng

Việt Nam. Theo đó, cấu trúc VHCT và VHCT Hồ Chí Minh bao gồm các

thành tố sau:

2.1.2.1. Cấu trúc văn hóa

Đề cập đến cấu trúc không chỉ đơn thuần là việc liệt kê các thành tố tạo nên

văn hóa, mà phải xác định được trình tự, cách thức các thành tố đó liên hệ với

nhau và mối quan hệ giữa chúng. Theo đó, trong các thành tố văn hóa ta thấy: có

con người, có tự nhiên, có hoạt động thực tiễn của con người, có các sản phẩm

về vật chất và các sản phẩm về tinh thần. Với tính cách là tổng hòa các giá trị vật

chất và tinh thần do con người sáng tạo nhu ra nhằm thỏa mãn cầu cuộc sống và

sự sinh tồn, văn hóa thường được chia ra thành hai bộ phận đó là văn hóa vật

chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất được hiểu là những sản phẩm, những

hiện vật có thể cảm giác được. Văn hóa tinh thần là những giá trị trừu tượng

40

không cảm giác được như các quan điểm, quan niệm, tình cảm, ý chí, phong tục,

tập quán, thói quen…Tuy nhiên, nhiều sản phẩm vừa mang giá trị vật chất, vừa

mang giá trị tinh thần. Chẳng hạn, một cuốn sách với hình thức đẹp, chất lượng

giấy tốt biểu hiện giá trị vật chất. Nhưng, nội dung của cuốn sách giúp người đọc

được phát triển tri thức, nâng cao hiểu biết và cảm thấy được thư giãn tinh thần

khi đọc lại biểu hiện giá trị tinh thần. Vì vậy, để phân biệt rõ hơn giữa hai tính

chất này, UNESCO đã đưa ra quan niệm về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật

thể, hai tính chất này có thể cùng tồn tại trong một sản phẩm văn hóa cụ thể. Như

vậy, những phân tích trên đây mới chỉ nêu được quan niệm về các thành tố của

văn hóa mà chưa nêu được cấu trúc của nó.

Với các thành tố của văn hóa đã liệt kê ở trên có thể thấy, đề cập đến cấu trúc

văn hóa trước hết phải nói đến con người. Là sản phẩm của quá trình vận động lâu

dài của thế giới tự nhiên, nhưng ngay sau khi ra đời, con người đã giữ vai trò chủ

thể của thế giới, và tự nhiên lại trở thành đối tượng cải tạo của con người. Với tính

cách vừa là khách thể, vừa là chủ thể của văn hóa, con người thông qua hoạt động

thực tiễn tác động vào thế giới tự nhiên để sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật thể và

phi vật thể. Ngược lại, sau khi ra đời và được kiểm nghiệm, bồi đắp trở thành các

chuẩn mực, các biểu tượng văn hóa, các sản phẩm văn hóa lại tác động trở lại, chỉ

đạo hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội để phục vụ cho sự sinh tồn và

mục đích cuộc sống của con người. Như vậy, cấu trúc của văn hóa là một chỉnh thể

thống nhất giữa các yếu tố: con người, tự nhiên, hoạt động thực tiễn, các giá trị vật

thể và phi vật thể liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng có vai trò không ngang bằng

nhau. Trong đó, con người giữ vai trò quyết định.

2.1.2.2. Cấu trúc văn hóa chính trị

Văn hóa chính trị bao gồm các thành tố: con người chính trị, hoạt động thực

tiễn chính trị và các sản phẩm chính trị. Do vậy, cấu trúc VHCT được biểu hiện ở

mối quan hệ và vai trò của các thành tố nêu trên.

Một là, con người chính trị với tư cách là những chủ thể trong xã hội có phân

hóa giai cấp, trong đó có con người cá nhân và con người tập thể. Con người cá

41

nhân luôn chịu sự chi phối của môi trường chính trị mà họ đang sống, mà thông

thường, môi trường đó do giai cấp thống trị tạo ra và áp đặt cho toàn xã hội. Do vậy,

những cá nhân này biểu thị VHCT của mình bằng việc nhận thức về tính chính

đáng của thể chế chính trị đang chi phối mình và tỏ thái độ tự hào, tin tưởng, muốn

bảo vệ hay bất mãn, căm ghét và muốn thay thế bằng một thể chế chính trị khác.

Bên cạnh đó, con người tập thể với tính cách là những cộng đồng, những tổ chức,

tập hợp các thành viên có chung lợi ích, chung mục đích, lý tưởng, có thể đại diện

cho quyền lợi của một giai cấp, một dân tộc (Đảng Cộng sản), hay một nhóm người

nhất định (các hội, hiệp hội, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

hay của xã hội dân sự ở các nước phương Tây). Những tổ chức này tạo dựng nên

các giá trị và phong cách riêng của mình trong quá trình tham dự chính trị. Con

người tập thể biểu hiện VHCT của mình thông qua các mục tiêu, lý tưởng, các

chuẩn mực và cách thức tiếp cận với quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Tóm

lại, VHCT của tổ chức là tổng hòa VHCT của cá nhân, trong đó người đứng đầu,

lãnh tụ chính trị giữ vai trò chi phối. Các tổ chức với tư cách chủ thể chính trị, đặc

biệt là các đảng chính trị có vai trò quan trọng trong hoạt động tham dự chính trị và

sáng tạo các giá trị mới của VHCT.

Hai là, hoạt động thực tiễn chính trị với tính cách là cầu nối giữa chủ thể chính

trị với môi trường chính trị. Hoạt động thực tiễn chính trị của con người bao gồm

một số lĩnh vực chủ yếu như: hoạt động nhận thức chính trị, hoạt động ứng xử

chính trị và hoạt động tổ chức đời sống chính trị. Trong đó, hoạt động nhận thức

chính trị có đối tượng là các tri thức, tư tưởng, học thuyết và các thể chế chính trị

hiện thực mà loài người đã sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử. Trên cơ sở nhận thức

chính trị sẽ nảy sinh những so sánh, đánh giá, phán xét và hình thành trạng thái tâm

lý, thái độ, động cơ, tình cảm và cách ứng xử với một giá trị chính trị cụ thể. Hoạt

động ứng xử chính trị là giai đoạn tiếp theo của hoạt động nhận thức chính trị. Nếu

có nhận thức chính trị phong phú, biết lựa chọn những giá trị ưu việt, có tính phổ

quát cao thì sẽ có những ứng xử đúng đắn và ngược lại. Đây là cơ sở lý luận để thực

dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân và tiến hành bưng bít các thông tin về tình

42

hình chính trị thế giới ở Việt Nam. Và, có lẽ đây cũng chính là cơ sở để Hồ Chí

Minh cho rằng, “Phải đi ra nước ngoài xem người ta làm như thế nào rồi trở về giúp

đồng bào mình”. Cùng với hoạt động nhận thức và ứng xử chính trị, hoạt động tổ

chức đời sống chính trị chính là quá trình tham dự chính trị. Đối tượng của hoạt

động này là việc thiết lập, tổ chức và vận hành một thiết chế chính trị cụ thể. Tính

thống nhất hay mâu thuẫn của hoạt động tổ chức đời sống chính trị phụ thuộc vào

tính chính đáng của thể chế chính trị đang tồn tại. Hoạt động tổ chức đời sống chính

trị bao gồm các hành động cụ thể như, tìm cách bảo vệ hay lật đổ một chế độ chính

trị, thông qua các hình thức dân chủ để thiết lập môi trường pháp lý, lựa chọn người

đại diện, tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và hiện thực hóa các quyết

sách chính trị…Hoạt động thực tiễn chính trị từ nhận thức, ứng xử, đến tham dự

chính trị cũng có quá trình vận động, phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn. Do

vậy, bản thân hoạt động thực tiễn chính trị đã là một giá trị quan trọng của VHCT.

Nói cách khác, tính nhân văn, nhân đạo của phương pháp và thủ đoạn chính trị

chính là một giá trị của VHCT.

Ba là, các sản phẩm chính trị bao gồm các giá trị vật thể và phi vật thể. Trong

đó, các giá trị vật thể bao gồm: các mô hình tổ chức đời sống chính trị; các kiểu nhà

nước; các phương pháp, cách thức bầu cử và tham dự vào quá trình hình thành các

quyết sách chính trị của nhà nước; các thể chế, thiết chế chính trị; các phương tiện,

công cụ bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của một nền chính trị…Các giá trị phi vật

thể bao gồm: các tri thức chính trị của nhân loại; các học thuyết, lý thuyết chính trị,

tôn giáo; các hệ tư tưởng; các lý tưởng, niềm tin chính trị; các chuẩn mực và truyền

thống chính trị…

2.1.2.3. Cấu trúc văn hóa chính trị Hồ Chí Minh

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là VHCT cá nhân với tính cách là lãnh tụ

chính trị của một dân tộc. Do vậy, cấu trúc của VHCT Hồ Chí Minh phản ánh

mối quan hệ giữa các yếu tố có tính chỉnh thể về tư tưởng và hành vi chính trị

gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Người, biểu hiện qua nhân cách

và các di sản chính trị mà Người để lại trong đời sống chính trị hiện thực.

43

Trong đó, các giá trị tư tưởng với ý nghĩa là thành tố của VHCT Hồ Chí

Minh biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, những tri thức chính trị

bao gồm, sự am hiểu về truyền thống VHCT của dân tộc, các học thuyết chính

trị, tôn giáo biêu biểu trên thế giới và đặc biệt là học thuyết Mác - Lênin. Thứ

hai, những tri thức về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới như, cách mạng tư

sản của Mĩ, của Pháp và cách mạng vô sản Nga. Thứ ba, những tri thức về bản

chất của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và về thực trạng phong trào

cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc; phong

trào đấu tranh GPDT ở các thuộc địa và phong trào cách mạng của nhân dân

Việt Nam. Thứ tư, những tác phẩm lý luận quan trọng như: Bản yêu sách tám

điểm của nhân dân An Nam (1919); Bản án chế độ thực dân Pháp (1925);

Đường cách mệnh (1927); Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930); tuyên ngôn

độc lập (1945); Sửa đổi lối làm việc (1947); Dân vận (1949); Thường thức

chính trị (1953); Đạo đức cách mạng (1955, 1958); Di chúc (1969)… ngoài ra

còn nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết khác đều là những di sản tinh thần đậm

chất nhân văn, nhân đạo, hướng tới hiện thực hóa một nền chính trị vì sự phát

triển tự do, bình đẳng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng xã hội.

Các giá trị của hành vi chính trị Hồ Chí Minh biểu hiện ở: Sự dấn thân

vào quá trình đấu tranh chính trị đầy hiểm nguy, gian khổ vì độc lập tự do của

Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng, chủ

động khắc phục khó khăn để sống, để học tập và làm cách mạng; luôn đề cao

và tôn trọng dân, lắng nghe dân, học hỏi dân; luôn tự giác nêu gương về đạo

đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lối sống giản dị, khiêm

tốn, không tự ti cũng không tự cao, tự đại, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo,

tiếng nói, màu da trong giao lưu, hợp tác và đoàn kết quốc tế. Những hành vi

với tính cách là yếu tố cấu thành VHCT Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khoan

dung, độ lượng, tôn trọng các giá trị khác biệt, tôn trọng nhân phẩm con người

kể cả những đối thủ chính trị hay binh lính đối phương.

44

Một trong những yếu tố cấu thành VHCT Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở

cách thức mà Người sáng tạo ra các sản phẩm với tính cách là các giá trị tư

tưởng và giá trị hành vi chính trị. Cách thức đó là, luôn xuất phát từ thực tiễn,

tôn trọng thực tiễn, lấy mục tiêu thay đổi diện mạo và đời sống chính trị của

nhân dân Việt Nam làm bảng tham chiếu và chỉ đạo mọi tư tưởng và hành động

chính trị. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, hành vi chính trị có giá trị nhất đó là, việc gì

có lợi cho dân thì hết sức làm, còn việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Hồ

Chí Minh xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và nhằm biến đổi hiện thực chính trị

ở Việt Nam, do đó, mọi lý thuyết, học thuyết chỉ là phương tiện, mọi kinh

nghiệm chỉ để tham khảo, mọi sự kế thừa, vận dụng lý luận và kinh nghiệm đều

phải được phát triển. Nghĩa là, Hồ Chí Minh xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn

để vận dụng, sáng tạo và phát triển lý luận chứ không xuất phát từ lý luận để

bắt thực tiễn phải khuôn theo. Thực tế cho thấy, mặc dù là một người cộng sản,

chịu sự chi phối của Quốc tế Cộng sản và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền

tảng nhưng không phải lúc nào Người cũng vận dụng y nguyên các quan điểm

của Quốc tế Cộng sản kể cả khi tổ chức này đang còn chi phối triệt để phong

trào Cộng sản và công nhân quốc tế.

Tóm lại, cấu trúc của VHCT Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống các

giá trị tư tưởng và hành vi chính trị được sản sinh ra bằng ý chí, nghị lực và

cách thức riêng của Người.2.2. CÁCH TIẾP CẬN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

2.2.1. Cách tiếp cận văn hóaCách tiếp cận là cách thức mà chủ thể nghiên cứu lựa chọn nhằm đến

được với đối tượng, trên cơ sở đó sử dụng các phương pháp luận và phương

pháp nghiên cứu cụ thể để nhận thức đối tượng. Do vậy, đối tượng nghiên cứu

khác nhau thì có cách tiếp cận khác nhau. Cách tiếp cận đúng, phù hợp với đối

tượng sẽ tạo điều kiện cho nhận thức đến gần hơn với bản chất của sự vật và

ngược lại. Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, người nghiên cứu có thể lựa

chọn và sử dụng một hay nhiều cách tiếp cận cùng lúc. Theo cách hiểu chung

nhất, văn hóa là một khái niệm dùng để chỉ mọi giá trị mang tính Chân, Thiện,

45

Mĩ mà loài người sáng tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển. Vì vậy, văn

hóa là vấn đề rộng lớn và phức tạp, nó liên quan đến mọi hoạt động sống của

con người, nó bao gồm cả tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân

loại, nó mang cả dấu ấn của các yếu tố tạo nên môi trường sống của con người

như điều kiện tự nhiên, địa hình, thời tiết, khí hậu…Với tính cách là một chỉnh

thể tồn tại gắn liền với con người và xã hội, văn hóa có nguồn gốc hình thành,

có cấu trúc, chức năng, giá trị và ý nghĩa đối với mỗi cá nhân và cả cộng đồng

trong những lĩnh vực khác nhau của hoạt động sống. Do đó, để nhận thức đầy

đủ mọi chiều cạnh của văn hóa, phải cần đến nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Trong phạm vi của luận án này, với mục đích nghiên cứu là làm rõ mối liên hệ

giữa tính cộng đồng với tính cá nhân của văn hóa và vai trò của cá nhân, đặc biệt là

của các lãnh tụ chính trị trong việc đóng góp vào văn hóa của cộng đồng, của quốc

gia dân tộc và của cả nhân loại. Do vậy, tác giả lựa chọn và sử dụng một số cách

tiếp cận văn hóa chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tiếp cận văn hóa với tính cách là những giá trị được sản sinh ra trong

quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Với cách tiếp cận này, văn hóa được

nhìn nhận ở phạm vi rộng nhất cả về không gian và thời gian, gắn liền với khái

niệm con người, là thuộc tính của con người. Tức là, khi nào và ở đâu có con người

thì ở đó có văn hóa, và văn hóa là tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống con người

và được con người tạo ra một cách có ý thức thông qua hoạt động thực tiễn. Như

vậy, khái niệm văn hóa cần được tiếp cận từ các khái niệm liên quan.

Trong mối liên hệ với văn hóa, con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của

văn hóa ở những cấp độ và tính chất khác nhau. Ở cấp độ rộng nhất, con người

mang tính khái quát và trừu tượng, với vai trò chủ thể đã liên tục làm giàu các giá trị

văn hóa và làm cho văn hóa có tính nhân loại trong đó chính bản thân con người với

sự hoàn thiện không ngừng cũng là một giá trị của văn hóa. Ngược lại, với tư cách

là sản phẩm của văn hóa, con người là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là vật

mang văn hóa đặc biệt, có khả năng tự tái tạo văn hóa. Thực tế cho thấy, nhiều giá

trị có thể bị mất đi bởi những biến cố khách quan hoặc chủ quan, nhưng còn con

46

người thì văn hóa vẫn tồn tại và phát triển. Lịch sử phát triển của nền văn hóa Việt

Nam đã cho thấy, sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, với thủ đoạn đồng hóa của

phong kiến phương Bắc, nhiều giá trị văn hóa cả vật thể và phi vật thể của dân tộc

đã bị phá hủy, nhưng con người Việt Nam còn, cho nên nền văn hóa của dân tộc

Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển đến ngày nay. Ở cấp độ quốc gia, con người

mang tính tập thể và cộng đồng, đây chính là sản phẩm của văn hóa tổ chức. Nhờ

có văn hóa mà con người biết tổ chức, liên kết cộng đồng từ gia đình, thị tộc, bộ lạc,

đến quốc gia dân tộc và các tổ chức quốc tế…những sáng tạo của chủ thể văn hóa

với tính cách cộng đồng đã tạo nên tính dân tộc và bản sắc văn hóa của cộng đồng,

dân tộc và đặc trưng văn hóa của các tổ chức. Ở cấp độ nhỏ nhất, con người mang

tính cá nhân. Với tính chất này, văn hóa là nguồn gốc xã hội tạo nên con người cụ

thể, làm cho mỗi cá nhân không chỉ có một nhân cách văn hóa nhất định, là những

biểu hiện sinh động của văn hóa mà còn là nhân tố tạo thành chủ thể của văn hóa.

Không có con người với tính cách cá nhân liên kết lại với nhau trong không gian sẽ

chẳng có con người mang tính tập thể hay cộng đồng. Không có nhiều tập thể, cộng

đồng liên kết với nhau trong thời gian sẽ không có con người mang tính khái quát,

trừu tượng. Những phân tích trên đây đòi hỏi, trong nghiên cứu văn hóa, cùng với

việc quan tâm đến tính xã hội, tính cộng đồng, không thể bỏ qua hoặc coi nhẹ vai

trò của cá nhân, đặc biệt là những cá nhân kiệt xuất, những người có vai trò to lớn

đối với sự phát triển của văn hóa.

Trong mối liên hệ giữa con người và văn hóa, không thể không nhắc đến

tự nhiên và hoạt động thực tiễn. Bởi lẽ, tự nhiên là tính thứ nhất so với văn hóa,

là nguồn gốc của văn hóa. Tự nhiên vận động tạo ra con người, ngược lại con

người bằng hoạt động thực tiễn tác động vào tự nhiên để tạo ra những giá trị

đáp ứng nhu cầu của chính mình. Thực tế cho thấy, tự nhiên vô cùng phong

phú, đa dạng với những vùng miền khác nhau, ở những giai đoạn lịch sử khác

nhau, điều đó làm cho văn hóa vừa có tính lịch sử, vừa có tính dân tộc và tính

địa lý. Như vậy, hoạt động thực tiễn là cầu nối giữa con người với tự nhiên, có

con người và tự nhiên mà thiếu hoạt động thực tiễn sẽ không có văn hóa. Mặt

47

khác, hoạt động thực tiễn cũng có quá trình vận động, phát triển từ thấp đến

cao, từ đơn giản đến phức tạp. Hoạt động sẽ tạo ra văn hóa, nhưng bản thân

hoạt động cũng là văn hóa, vì nó không có sẵn trong tự nhiên mà phải do con

người tự sáng tạo ra. Qua những phân tích trên đây thấy rằng, văn hóa không

chỉ là sản phẩm mà còn là quá trình và quy trình làm ra sản phẩm đó.

Thứ hai, tiếp cận văn hóa từ tính chất Chân, Thiện, Mĩ và tính chuẩn mực của

các giá trị mà con người tạo ra. Giá trị, theo cách hiểu chung nhất, là tính có ích của

một sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, giá trị vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ

quan. Bên cạnh tính khách quan, một sự vật, hiện tượng được cho là có ích hay

không lại phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người đánh giá. Vì vậy, một sự vật

thậm chí được cho là có ích, đáp ứng mục đích của nhóm người này lại phản lại

mục đích của nhóm người khác. Do đó, không phải tất cả mọi cái được cho là có

giá trị đều là văn hóa, để giới hạn và nhận diện cho rõ thì chỉ những giá trị nào đáp

ứng được tiêu chuẩn Chân, Thiện, Mĩ, được nhiều người thừa nhận và chia sẻ mới

là văn hóa. Tức là những giá trị đó phải có tính nhân văn, nhân đạo, vì sự phát triển,

tiến bộ của con người, của đồng loại, đáp ứng lợi ích của bản thân hay nhóm người

này nhưng không xâm hại đến lợi ích của cá nhân hay nhóm người khác.

Bên cạnh các tiêu chí Chân, Thiện, Mĩ, các giá trị do con người sáng tạo ra

còn được đánh giá bằng các chuẩn mực văn hóa. Chuẩn mực là sự kết tinh của giá

trị, là những khuôn mẫu định sẵn để làm thước đo thang bậc và đánh giá mức phổ

quát của các giá trị. Việc khái quát các giá trị thành chuẩn mực cũng là một sáng tạo

văn hóa. Chuẩn mực cũng có tính lịch sử, tính giai cấp và tính chủ quan. Thông

thường, các giá trị được đánh giá bằng các chuẩn mực để xem xét tính hợp chuẩn

hay lệch chuẩn của giá trị ấy. Tuy nhiên, do tính lịch sử và tính chủ quan của nó mà

trong những điều kiện cụ thể một số chuẩn mực cũ sẽ không còn phù hợp và việc

phá bỏ, thay thế các chuẩn mực ấy cũng mang tính văn hóa. Chẳng hạn, cùng là

chuẩn mực đạo đức “Trung”, “Hiếu” nhưng trong quan niệm của đạo đức cách

mạng Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với trong quan niệm của đạo đức Nho giáo.

Như vậy, khái niệm chuẩn mực luôn gắn liền với khái niệm văn hóa và là hình thức

48

biểu hiện tập trung nhất của văn hóa. Tóm lại, cách tiếp cận này không chỉ cho phép

nhìn nhận và phân loại các giá trị nào là văn hóa, các giá trị nào không phải là văn

hóa; đánh giá được các thang bậc giá trị mà còn vạch trần thủ đoạn ngụy văn hóa,

áp đặt quan điểm giá trị của một nhóm người hay một quốc gia dân tộc nào đó cho

các quốc gia, dân tộc khác.

Thứ ba, tiếp cận văn hóa từ tính sáng tạo, tính biểu tượng và tính hệ thống của

các giá trị. Tính sáng tạo là yếu tố làm nên đặc trưng của nhân cách văn hóa và bản

sắc của mỗi nền văn hóa, là điều kiện cho văn hóa phát triển. Không có tính sáng

tạo, văn hóa sẽ nghèo nàn, đơn điệu và thiếu sức sống. Tính sáng tạo một mặt biểu

hiện ở sự tiếp biến các giá trị văn hóa của các cộng đồng, các quốc gia dân tộc khác

và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát

triển của dân tộc mình. Mặt khác, quan trọng hơn cả là việc tạo ra những giá trị văn

hóa mới đáp ứng đòi hỏi của thực tế và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

Cùng với tính sáng tạo, tính biểu tượng cũng là một đặc trưng của văn

hóa. Biểu tượng là cái được gắn vào đó các ý niệm, các khái niệm, các tư tưởng

về một sự vật, hiện tượng mà con người mong muốn nó trong thực tiễn cuộc

sống. Thực tế cho thấy, mọi hoạt động sáng tạo ra các giá trị của con người đều

bắt nguồn từ những tư tưởng, ý nghĩa nhất định, hoặc nhằm đạt tới tư tưởng và

ý nghĩa nào đó. Tư tưởng và ý nghĩa có nguồn gốc từ thực tiễn nhưng luôn có

yêu cầu cao hơn thực tiễn. Do đó, con người thường lựa chọn những hình ảnh

khách quan hoặc chủ quan và gắn cho nó một ý nghĩa, tư tưởng hay khái niệm

để nó trở thành những giá trị chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Biểu tượng văn hóa

thường có giá trị tinh thần hơn là giá trị vật chất. Bên cạnh tính sáng tạo và tính

biểu tượng, văn hóa còn có tính hệ thống. Tính hệ thống của văn hóa không

đồng nghĩa với tính bộ phận của nó. Bởi vì, văn hóa không phải là phép cộng

đơn thuần của các giá trị bộ phận, mà ngược lại, các giá trị của một bộ phận

nào đó là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Tóm lại, các cách tiếp cận trên

đây mặc dù chưa phải là toàn bộ nhưng đã cho phép trả lời các câu hỏi liên

quan đến mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu rằng: văn hóa là cái gì, được hình

thành từ đâu, bao gồm những thành tố nào, có những tính chất và đặc trưng gì.

49

2.2.2. Cách tiếp cận văn hóa chính trị

Cách tiếp cận VHCT là việc lựa chọn cách thức nhằm thu nhận những tri thức

nhất định về các giá trị do con người sáng tạo ra và sử dụng những giá trị ấy trong

một lĩnh vực hoạt động sống hết sức phổ biến của xã hội loài người, đó là lĩnh vực

chính trị. Thực tế cho thấy, khi xã hội có phân hóa giai cấp cũng là lúc xuất hiện

cuộc đấu tranh giữa các giai cấp xung quanh vấn đề nhà nước. Cuộc đấu tranh đó

trước hết để mỗi nhà nước, trong khi sử dụng quyền lực công phục vụ lợi ích giai

cấp mình phải đồng thời bảo đảm lợi ích của các giai cấp khác trong xã hội. Khi

một nhà nước nào đó không bảo đảm được sự cân bằng giữa hai chức năng này

trong một giới hạn cho phép, lúc đó cách mạng xã hội sẽ nổ ra và giai cấp tiên tiến

nhất, có nguồn lực mạnh nhất của thời đại sẽ giành quyền kiểm soát, điều hành và

sử dụng nhà nước. Đây chính là những chu trình chính trị vận động theo hình xoáy

ốc, diễn ra bằng những lần phủ định biện chứng của các mô hình nhà nước.

Trong các công trình nghiên cứu của giới khoa học chính trị phương Tây nổi

lên hai cách tiếp cận VHCT tiêu biểu được coi là tiền đề lý luận cho các nghiên cứu

VHCT tiếp theo. Cụ thể là:

Thứ nhất, tiếp cận dựa trên lý thuyết về các định hướng chính trị của chủ thể.

Đại biểu là hai nhà khoa học Mĩ là Gabriel A. Almond và Sidney Verba, với công

trình nghiên cứu có tiêu đề "The Civic Culture. Political Attitudes and Democracy

in Five Nations”, do trường đại học Princeton ấn hành lần đầu vào năm 1963.

Trong cách tiếp cận này, các tác giả phân khách thể chính trị ra thành bốn loại, đó

là: hệ thống chính trị với tính cách là một chỉnh thể; các yếu tố đầu vào của quá

trình chính trị như các kênh, các thiết chế cung cấp thông tin; các yếu tố đầu ra của

quá trình chính trị như các quyết định, chính sách, pháp luật và bản thân công dân

với nghĩa là các chế định và quan niệm về vai trò của công dân đối với chính trị.

Với mỗi loại khách thể chính trị, VHCT sẽ thể hiện ở ba loại định hướng đó là: định

hướng tri nhận, tức là nhận thức về nó; định hướng cảm nhận, tức là thái độ đối với

nó và định hướng đánh giá, tức là những phán xét về nó.

50

Như vậy, cách tiếp cận này đã đưa ra những công cụ bảo đảm tính

khách quan trong nghiên cứu so sánh các nền VHCT, cho phép đánh giá sự

tương hợp hay không tương hợp giữa VHCT với một thể chế chính trị cụ

thể. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế nhất định: một là, mới chỉ nhìn

nhận VHCT ở phạm vi quốc gia, dân tộc, do đó chưa thể đưa ra một định

nghĩa tổng quát về VHCT theo nghĩa rộng; hai là, mới chỉ nhìn VHCT ở

góc độ nhận thức và ứng xử của người dân nói chung đối với quá trình

chính trị hiện tại nên chưa thấy được nguồn gốc và tính chất của VHCT.

Thứ hai, tiếp cận VHCT dựa trên lý thuyết lựa chọn chính trị, đại biểu

là Aaron Wildavsky đã đưa ra trong tác phẩm: Choosing Preferences by

Constructing Institutions: A cultural Theory of Preference Formation. Với

cách tiếp cận này, VHCT được coi là tính chất chủ quan của việc lựa chọn

giữa các phương án chính trị mà trong những điều kiện nhất định, các

phương án không phải là vô hạn. Tức là, cũng giống như cách tiếp cận định

hướng chính trị, tác giả coi VHCT là chiều cạnh chủ quan của hệ thống

chính trị và quá trình chính trị. Cách tiếp cận lựa chọn chính trị đã bổ sung

cho cách tiếp cận định hướng chính trị những công cụ hữu hiệu để nhận

diện nguồn gốc và tính chất của VHCT. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chủ

yếu đề cập đến vai trò của nhóm mà chưa cung cấp một cách nhìn tổng

quát hơn về VHCT.

Qua phân tích một số cách tiếp cận nêu trên thấy rằng, để nhìn nhận VHCT

một cách khái quát nhất, cần bổ sung một số cách tiếp cận sau đây:

Một là, tiếp cận VHCT từ văn hóa và tính hệ thống của văn hóa. Thực ra đây

là việc thu hẹp phạm vi tiếp cận của văn hóa. Cách tiếp cận này cho phép nhìn nhận

VHCT với tính cách là những giá trị được sáng tạo ra trong lĩnh vực chính trị, là

một trong nhiều chiều cạnh của văn hóa, là một tiểu hệ thống trong tính chỉnh thể hệ

thống của văn hóa. Theo đó, VHCT thực chất là tính văn hóa của chính trị, là văn

hóa hòa quyện vào và biểu hiện ra trong tất cả các khâu, các bước của quá trình

chính trị, hay nói cách khác, là chính trị có văn hóa. Tức là, các yếu tố của chính trị

51

như: con người chính trị; đảng chính trị; nhà nước; mục tiêu, lý tưởng chính trị; quy

trình, phương pháp chính trị và các sản phẩm của chính trị là các chủ trương, đường

lối, các quyết sách chính trị phải hướng tới các giá trị Chân, Thiện Mĩ, vì sự phát

triển, tiến bộ của số đông quần chúng.

Hai là, tiếp cận VHCT từ tính giai cấp của văn hóa. Cách tiếp cận văn hóa

nói chung đã cho phép khẳng định rằng, văn hóa ra đời cùng với con người và

trong một thời gian dài khi xã hội chưa có phân hóa giai cấp thì văn hóa chưa

có tính giai cấp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, khi chưa có giai cấp thì

VHCT chưa xuất hiện. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển của xã hội, trước

nhu cầu phối hợp hành động chung để nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực

tiễn, con người đã liên kết lại với nhau và tổ chức thành các cộng đồng. Hình

thức cộng đồng phát triển cao và hoàn thiện nhất là quốc gia, dân tộc. Cùng với

sự phát triển của các hình thức liên kết đã diễn ra sự phân hóa giai cấp và dẫn

đến sự xuất hiện của nhà nước. Sự ra đời của giai cấp và nhà nước là sản phẩm

của sự sáng tạo văn hóa trong lĩnh vực tổ chức xã hội, là bước ngoặt vĩ đại

trong lịch sử phát triển của nhân loại.

Ngay khi giai cấp và nhà nước ra đời thì toàn bộ những sáng tạo văn hóa

của con người đều mang tính giai cấp. Bởi vì, khi đó con người với tính cách là

động vật chính trị bắt đầu xuất hiện và dù ở giai cấp nào, con người cũng bị chi

phối bởi chính trị, giai cấp và nhà nước. Bản thân nhà nước ra đời từ mâu thuẫn

giai cấp trong xã hội và dù có mang bản chất của giai cấp nào thì nhà nước

cũng luôn bao hàm trong nó những mâu thuẫn nội tại đó là: mâu thuẫn giữa

nhu cầu duy trì sự tồn tại lâu dài của mình với sự đấu tranh không ngừng nghỉ

của các giai cấp khác (các nhà nước tiền vô sản); mâu thuẫn giữa nhu cầu ngày

càng hoàn thiện hơn để đưa xã hội tiến tới chỗ không còn giai cấp và nhà nước

với sự chống phá quyết liệt của các giai cấp phi vô sản (nhà nước vô sản). Thực

tế đó đã là tiền đề để các nhà kinh điển, nhà văn hóa chính trị của chủ nghĩa

Mác - Lênin dự báo rằng, nhà nước chỉ là một hiện tượng lịch sử, nó sẽ tiêu

vong cùng với sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, sự tồn tại của giai cấp, nhà

52

nước là lâu dài và không thể phủ nhận vai trò của nó trong quá trình phát triển

của nhân loại. Do vậy, toàn bộ những sáng tạo, những giá trị mà con người đạt

được trong việc giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước là một lĩnh vực biểu

hiện hết sức quan trọng của văn hóa và thuộc phạm trù VHCT. Cách tiếp cận

này cho thấy, VHCT không phải là của một giai cấp mà là của tất cả các giai

cấp và VHCT cũng mang tính lịch sử. Điều này đòi hỏi, trong nghiên cứu

VHCT phải có quan điểm giai cấp, quan điểm lịch sử, cụ thể và phát triển. Để

nhìn nhận một giá trị VHCT nào đó phải đặt nó trong một bối cảnh lịch sử cụ

thể, gắn với mục tiêu, lý tưởng và tính chất của giai cấp đã sản sinh ra nó.

Ba là, tiếp cận VHCT từ mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị. Như trên

đã phân tích, trong xã hội có sự tồn tại của chính trị, giai cấp và nhà nước thì

mọi hoạt động của con người đều bị chi phối bởi chính trị và đều xoay quanh

chính trị. Do vậy, văn hóa không thể tách rời chính trị, nó phải phục vụ chính

trị. Vấn đề là ở chỗ văn hóa phục vụ chính trị nào, hoặc là phục vụ cho việc

duy trì sự tồn tại của giai cấp thống trị, bóc lột, hoặc là phục vụ cho việc thiết

lập và hoàn thiện một nền chính trị mới tiến bộ hơn. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sự

nghiệp văn học phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể giai cấp

vô sản, phải thành “một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc” trong bộ máy dân

chủ - xã hội vĩ đại, thống nhất, do toàn đội tiên phong giác ngộ của toàn bộ giai cấp

công nhân điều khiển”[46, tr.123]. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

khi bàn về về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, Hồ Chí Minh đã nói: “Văn

hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở

trong kinh tế và chính trị”[60, tr.246]. Nghĩa là, theo Người, văn hóa không nên và

không thể phi chính trị, đứng ngoài chính trị hoặc độc lập với chính trị. Chính trị ở

đây theo quan điểm Hồ Chí Minh là chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân

lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc (ĐLDT)

gắn liền với CNXH, tự do, công bằng, bình đẳng và sự phát triển toàn diện của mỗi

cá nhân. Văn hóa ở trong chính trị tức là, văn hóa thấm sâu vào chính trị trở thành

mục tiêu và động lực của chính trị, bảo đảm cho tính nhân văn, nhân đạo, tính

53

Chân, Thiện, Mĩ trong các chủ trương, đường lối chính trị của Đảng, chính sách,

pháp luật của nhà nước. Như vậy, cách tiếp cận này cho phép nhìn nhận một cách

khách quan, khoa học về VHCT, tránh rơi vào thái độ quá tả hoặc quá hữu trong

xem xét các giá trị chính trị.

2.2.3. Cách tiếp cận văn hóa chính trị cá nhânCách tiếp cận văn hóa và VHCT đã cho thấy những tính chất, cấp độ khác

nhau của văn hóa nói chung, VHCT nói riêng, cũng như cho thấy vai trò của cá

nhân trong quá trình hình thành, phát triển của văn hóa. Mỗi cá nhân đều vừa là

chủ thể, vừa là khách thể của văn hóa. Điều đó đặt ra yêu cầu, khi nghiên cứu

sự phát triển của văn hóa không thể bỏ qua vai trò của cá nhân, đặc biệt là trong

sự phát triển của VHCT. Trong xã hội có giai cấp, mỗi cá nhân thuộc các giai

cấp khác nhau dù muốn hay không, cũng luôn gắn liền với chính trị và bị chi

phối bởi chính trị. Tuy nhiên, do sự khác nhau về địa vị giai cấp mà họ đang là

thành viên dẫn đến sự khác nhau về cách ứng xử với chính trị.

Do vậy, tiếp cận VHCT cá nhân, trước hết phải bắt đầu từ VHCT. Bởi vì, mỗi

cá nhân vừa là một thành tố chủ thể của VHCT, vừa là nơi biểu hiện của một nền

VHCT. Việc nhìn nhận vị trí, vai trò của cá nhân trong văn hóa nói chung, VHCT

nói riêng là một tất yếu, thể hiện quan điểm biện chứng và cụ thể trong nghiên cứu

văn hóa. Điều này không có nghĩa là, khi nghiên cứu VHCT, buộc phải khảo sát

đặc tính chính trị của tất cả các cá nhân, mà chính là để người nghiên cứu nhìn nhận

đúng đắn, sâu sắc hơn những đặc điểm VHCT của các nhóm hay cộng đồng, dân

tộc dưới sự tác động của một cá nhân, người đứng đầu nào đó. Trong tổng thể các

cá nhân với tính cách là chủ thể của văn hóa, đương nhiên sẽ có những cá nhân do

năng lực, khả năng, ý chí, quyết tâm của mình mà họ chiếm lĩnh được nhiều giá trị

xã hội hơn, nên họ có uy tín và quyền lực hơn những cá nhân khác; thậm chí, họ có

thể thu phục, thuyết phục, tác động, ảnh hưởng và chi phối những cá nhân khác.

Mức độ, phạm vi, số lượng các cá nhân bị chi phối, ảnh hưởng bởi một người nào

đó luôn tỷ lệ thuận với năng lực của người đó. Một cá nhân có thể là người chi phối

hành động chính trị của một nhóm, một cộng đồng, một tộc người, một cuộc biểu

tình, thậm chí là một cuộc cách mạng xã hội.

54

Thực tế cho thấy, trong những hành vi chính trị có tính cộng đồng đều được

hiện thực hóa thông qua hành vi và sự tham dự của cá nhân. Tuy nhiên, vai trò

của từng cá nhân trong quá trình chính trị không ngang bằng nhau. Mỗi cá nhân

là một chỉnh thể của sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội. Do đó, mặc

dù có những điểm chung, nhưng mỗi cá nhân luôn có tính độc lập tương đối và

sự phát triển không đều giữa các cá nhân là một tất yếu khách quan. Vì vậy, mỗi

cá nhân đóng góp VHCT của mình vào VHCT của cộng đồng với những mức

độ, phạm vi khác nhau. Sự đóng góp đó có thể chỉ là việc đồng thuận, tin tưởng,

chia sẻ, bảo vệ và phát huy các giá trị về chính trị đã được cộng đồng thừa nhận

hay tỏ thái độ yêu, ghét đối với một thể chế chính trị nhất định. Tuy nhiên, ở cấp

độ cao hơn, một cá nhân có thể đóng góp những giá trị mới về lý luận và thực

tiễn chính trị, góp phần làm thay đổi về chất những giá trị truyền thống và tạo ra

bước phát triển mới trong đời sống chính trị hiện thực.

Mặt khác, VHCT cá nhân cần được tiếp cận từ các yếu tố cấu thành

VHCT. Nếu VHCT được cấu thành từ con người chính trị, hệ tư tưởng chính

trị, chuẩn mực chính trị và các thiết chế chính trị thì VHCT cá nhân bao gồm

các yếu tố như nhận thức chính trị, hoạt động chính trị thực tiễn và nhân cách

chính trị. Trong đó, tri thức chính trị là những hiểu biết về các lý thuyết, học

thuyết chính trị, các kinh nghiệm về đấu tranh chính trị, tham dự chính trị và

các lý thuyết, kinh nghiệm về lãnh đạo, quản lý… Hoạt động chính trị thực tiễn

là khả năng và cách thức tham dự và dấn thân vào chính trị, tham gia vào việc

xây dựng và hoàn thiện một thể chế chính trị nhất định. Nhân cách chính trị cá

nhân là toàn bộ những yếu tố như lý tưởng, niềm tin, động cơ, thái độ và phong

cách ứng xử với một thể chế chính trị cụ thể. Trong xã hội có giai cấp, nếu ở

tầm vĩ mô, văn hóa phải ở trong chính trị, thấm vào chính trị, mang bản chất

của giai cấp thống trị, phục vụ cho mục tiêu, lý tưởng của giai cấp ấy, thì ở tầm

vi mô, con người chính trị trước hết phải là một nhân cách văn hóa. VHCT cá

nhân biểu hiện rõ nét ở các lãnh tụ chính trị, các chủ thể lãnh đạo, quản lý.

55

2.2.4. Cách tiếp cận văn hóa chính trị Hồ Chí Minh

Việc thừa nhận vị trí, vai trò của cá nhân trong VHCT đặt ra sự cần thiết phải

nghiên cứu VHCT của những nhân vật tiêu biểu, những lãnh tụ chính trị. Mặc dù

vậy, việc nhìn nhận VHCT của cá nhân như một đối tượng nghiên cứu độc lập của

khoa học chính trị vẫn chưa có sự nhất trí cao, do đó chưa có nhiều các công trình

nghiên cứu về VHCT với tính cách là cá nhân hay lãnh tụ chính trị. Hồ Chí Minh

là lãnh tụ chính trị vĩ đại, nhà văn hóa lớn của Việt Nam, Người không chỉ là

nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là nhà hoạt động thực tiễn kiệt xuất. Người không

chỉ sáng tạo lý luận mà còn để lại những chuẩn mực về phong cách ứng xử và

tham dự chính trị. Vì vậy, VHCT Hồ Chí Minh cần được tiếp cận nghiên cứu

từ những khía cạnh chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh từ mối quan hệ giữa cá nhân, dân

tộc và thời đại.

Thực tế cho thấy, mỗi cá nhân không thể tách rời cộng đồng, quốc gia, dân

tộc. Bởi lẽ, mỗi cá nhân chỉ có thể chứng tỏ sự tồn tại của mình trong mối quan hệ

với cộng đồng bằng việc đáp ứng các chuẩn mực văn hóa và đóng góp vào sự phát

triển của cộng đồng. Do đó, mỗi cá nhân sẽ mang dấu ấn và bản sắc văn hóa của

cộng đồng mà mình được sinh ra. Hồ Chí Minh là người con của dân tộc Việt Nam,

là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam. Người ra đi tìm đường cứu nước và hoạt

động cách mạng từ thực tiễn chính trị Việt Nam và nhằm thay đổi diện mạo đời

sống chính trị của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh cụ thể của chính trị thế giới.

Vì vậy, khi nghiên cứu VHCT của Người không thể tách rời con người chính trị Hồ

Chí Minh với truyền thống gia đình, đặc trưng văn hóa của quê hương và thực tiễn

bối cảnh chính trị trong nước và quốc tế. Tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh từ mối quan

hệ giữa cá nhân với dân tộc và thời đại, cho phép xác định đúng nguồn gốc, cơ sở

hình thành, phát triển và tầm vóc của những giá trị chính trị mà Người sáng tạo ra.

Qua đó khẳng định, Hồ Chí Minh là nhà chính trị, lãnh tụ chính trị của nhân dân

Việt Nam nhưng có tầm vóc quốc tế.

56

Thứ hai, tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh từ VHCT và VHCT của cá nhân.

Bởi vì, Hồ Chí Minh là một cá nhân, con người chính trị cụ thể. Như trên

đã trình bày, VHCT là những giá trị, chuẩn mực được hình thành trong quá

trình đấu tranh giai cấp. Do vậy, VHCT Hồ Chí Minh cũng phải được xem xét

gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, cụ thể là gắn liền với sự nghiệp cách mạng

của nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó làm rõ thực chất VHCT Hồ Chí Minh

và đánh giá những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người đã đóng góp cho thắng

lợi của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, tiếp cận từ VHCT của cá nhân để làm

rõ cấu trúc của VHCT Hồ Chí Minh. Cụ thể là, làm rõ các yếu tố như nhận

thức chính trị, hành vi chính trị và nhân cách chính trị của Người.

Thứ ba, tiếp cận VHCT Hồ Chí Minh từ thực tiễn cách thức hoạt động chính

trị của Người.

Hồ Chí Minh dấn thân vào sự nghiệp cách mạng từ thực tiễn chính trị Việt

Nam, lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát và mục tiêu cuối cùng là cải biến

và thúc đẩy sự phát triển đời sống chính trị của nhân dân Việt Nam. Do vậy, ở Hồ

Chí Minh, các giá trị hành vi phong phú hơn các giá trị tư tưởng. Mặc dù, Người đã

để lại một di sản lớn các tác phẩm, các bài nói, bài viết không chỉ có giá trị lý luận

mà còn có giá trị văn học hết sức quý giá, nhưng những hành vi, ứng xử chính trị cụ

thể trong suốt cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Người mới là những giá trị và đóng

góp nổi bật, không chỉ cho các chủ thể chính trị lãnh đạo, quản lý mà cho cả dân tộc

Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới. Với Hồ Chí Minh, giữa lý luận và thực

tiễn hầu như không có khoảng cách, mà luôn gắn liền và đi đôi với nhau.

Theo Hồ Chí Minh, lý thuyết không có chức năng tự thân, mà chỉ có chức

năng duy nhất là phục vụ cho sự cải tạo và biến đổi hiện thực, bao gồm cả hiện

thực tự nhiên và hiện thực xã hội. Với đặc trưng về cách thức tham dự chính trị

của Hồ Chí Minh, một số chính khách nước ngoài đã cho rằng Hồ Chí Minh là

một nhà chính trị thực dụng. Nhận định này mang tính hạn hẹp nhưng không sai,

bởi lẽ sự thực dụng ở đây không vì lợi ích cá nhân mà vì lợi ích của quốc gia,

57

dân tộc, vì sự phát triển của phong trào Cộng sản, Công nhân quốc tế nói riêng

và cách mạng thế giới nói chung. Như vậy, với cách tiếp cận này sẽ chỉ ra được

sự khác biệt và những đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.

Tóm lại, VHCT Hồ Chí Minh với tính cách một chỉnh thể thì cách tiếp

cận phải là tổng hòa các phương pháp bảo đảm tính khoa học và khách quan để

đi đến các khái quát về nguồn gốc, bản chất, cấu trúc, đặc trưng, giá trị và ý

nghĩa VHCT của một cá nhân tiêu biểu trong lịch sử dân tộc và khả năng chia

sẻ các giá trị đó trong đời sống chính trị hiện nay.2.3. CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

2.3.1. Nền tảng văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và tinh hoa văn

hóa nhân loại

2.3.1.1. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống của dân tộc Việt Nam

Lịch sử tồn tại và phát triển của bất kỳ quốc gia nào cũng đều ghi nhận

công lao to lớn, sự đóng góp vượt bậc của những anh hùng dân tộc, danh

nhân văn hóa và lãnh tụ chính trị của mình. Tuy nhiên, những danh nhân đó

bao giờ cũng mang đậm dấu ấn của một dân tộc, và mọi tư tưởng, hành

động, nhân cách của họ luôn chịu sự chi phối, tác động của nền văn hóa đã

sản sinh, nuôi dưỡng họ. Sở dĩ văn hóa Hồ Chí Minh nói chung, VHCT Hồ

Chí Minh nói riêng có được sức sống như hiện nay là bởi những giá trị đó ra

đời từ VHCT truyền thống Việt Nam và nhằm giải quyết vấn đề thực tiễn

của cách mạng Việt Nam. Những giá trị VHCT truyền thống của dân tộc với

tính cách là một trong những cơ sở tư tưởng, lý luận không thể thiếu cho

việc hình thành và phát triển VHCT Hồ Chí Minh bao gồm:

Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước và tính cộng đồng của quốc gia dân tộc.

Lịch sử đã cho thấy, để tồn tại và phát triển, ngay từ rất sớm, các thế hệ người

Việt đã phải quan tâm đến việc chế ước, cải tạo tự nhiên phục vụ cho sản xuất nông

nghiệp. Đó là công việc mà một người, một nhà không thể làm nổi mà phải cần đến

sức mạnh tập thể. Mặt khác, không chỉ phải đoàn kết để đối phó với thiên nhiên

khắc nghiệt mà muốn giữ đất, giữ làng, Các thế hệ người Việt Nam còn phải đoàn

58

kết để chống giặc ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử. Thực trạng đó đòi hỏi phải

có một chính quyền tập trung, thống nhất, để tổ chức, điều hành các hoạt động

chung, chăm lo củng cố quốc phòng, lãnh đạo nhân dân đánh bại được các cuộc

xâm lăng của ngoại bang, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và thành quả lao động của nhân

dân. Nhu cầu này được hiện thực hóa trải qua một quá trình, khởi điểm từ Ngô

Quyền sau thắng lợi năm 938, mở ra thời kỳ ĐLDT sau hơn một nghìn năm Bắc

thuộc. Sau đó, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục sự nghiệp xây dựng chính quyền quân chủ tập

trung bằng công cuộc dẹp loạn mười hai sứ quân, tạo tiền đề cho chế độ quân chủ

tập trung được xác lập một cách đầy đủ từ khi Lý Công Uẩn lên ngôi và xây dựng

Kinh đô tại Thăng Long.

Kể từ đó, những triều đại có thể lãnh đạo nhân dân giữ vững giang sơn, bờ

cõi thì được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ và ngược lại. Vì vậy, lòng

trung thành của người Việt Nam là trung thành với lợi ích và sự độc lập, thống

nhất của quốc gia dân tộc chứ không đơn thuần là trung với Vua. Theo nhà

nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc, “Người Việt Nam là con người Tổ quốc

luận”[71, tr.35], tức là đối với mỗi con dân nước Việt, Tổ quốc lớn hơn tất cả.

Truyền thống yêu nước Việt Nam được bồi đắp qua nhiều thế hệ, đã trở thành

bản sắc của dân tộc, thành lẽ sống, bản tính tự nhiên của mỗi người dân, và có

thể so sánh một cách hình tượng như “Con cá sinh ra là biết bơi. Đối với con

người Việt Nam sinh ra là đã biết yêu nước”[71, tr.130].

Giá trị VHCT truyền thống trên đây là một trong những yếu tố quan trọng

tác động đến tâm hồn, nhân cách chính trị Hồ Chí Minh. Trước thực trạng đất

nước bị nô lệ, nhân dân đói khổ lầm than, Nguyễn Tất Thành đã sớm hình

thành chí hướng và nung nấu tư tưởng tìm một con đường để cứu nước, GPDT

và giúp đồng bào mình thoát khỏi cảnh thống khổ của thân phận mất nước. Để

thực hiện hoài bão cao cả đó, Người đã không quản ngại gian khổ, hy sinh khi

quyết định vượt đại dương đi tìm đường cứu nước chỉ với hành trang ban đầu

là lòng yêu nước và khát vọng ĐLDT, cái mà Người có được từ truyền thống

VHCT của dân tộc. Hành trang đó đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác -

59

Lênin là một tất yếu khách quan của lịch sử, và Người đã tin theo Lênin, quyết

định đi theo con đường cách mạng vô sản, thực hiện mục tiêu ĐLDT gắn liền

với CNXH. Người từng nói, “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa

phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”[65,

tr.563]. Như vậy, đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã có sự

phát triển mới về chất, yêu nước gắn liền với yêu CNXH.

Thứ hai, truyền thống đề cao vai trò của nhân dân, yêu nước gắn liền với

thương dân, lấy dân làm gốc.

Ở Việt Nam, “Nước - đất nước - Tổ quốc” là sự liên kết của nhiều làng xã, mà

làng xã là của dân, do dân lập nên. Làng xã là cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của

quốc gia, dân tộc; là đơn vị hành chính nhỏ nhất nhưng vững chắc nhất; là nơi cung

cấp cho chính quyền Trung ương sức người, sức của; là căn cứ địa của các cuộc

khởi nghĩa, địa bàn của các cuộc kháng chiến. Văn hóa làng xã là những giá trị

được hình thành trong quá trình giải quyết các mối quan hệ giữa cá nhân với nhau,

giữa cá nhân với tập thể, giữa làng này với làng khác, giữa làng với nước…và nó

trở thành cơ sở của văn hóa dân tộc.

Trải qua quá trình đấu tranh chống thiên tai, địch họa để tồn tại và phát

triển, nhân dân Việt Nam thấu hiểu sâu sắc sức mạnh của cộng đồng và mối

quan hệ chặt chẽ giữa Nhà với Làng, với Nước. Từ đó hình thành những triết

lý dân gian, những giá trị văn hóa bền vững của dân tộc. Vì vậy, tục ngữ có

câu (Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn;

Thương người như thể thương thân, hay, Một con ngựa đau cả tàu không ăn

cỏ). Về mối quan hệ và trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi gia đình với

quốc gia, dân tộc, tục ngữ có câu, (Nước lụt thì lút cả làng/ Đắp đê chống

lụt, thiếp chàng cùng lo; hay, Nước mất thì nhà tan)…

Truyền thống yêu nước, thương dân trong VHCT Việt Nam được biểu hiện ở

tư tưởng và hành động đề cao vai trò của nhân dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân của

các triều đại phong kiến. Thực tiễn đã chứng minh, toàn bộ sự hưng vong của một

triều đại phụ thuộc vào “lòng dân”. Các triều đại phong kiến tiến bộ, biết yêu

60

thương dân, trọng dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân, được nhân dân tin tưởng thì

cường thịnh; các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa có được những thành công

rực rỡ trong sự nghiệp chính trị, văn hóa, được nhân dân ghi lòng tạc dạ là do có

tình thương yêu nhân dân sâu sắc, vô bờ. Trong “Chiếu dời đô”, Lý Thái Tổ đã coi

ý Dân như ý Trời và việc tìm một nơi trung tâm của đất nước để định đô nhằm xây

dựng quốc gia thịnh vượng lâu dài cũng là mưu cho ích nước, lợi dân. Trần Quốc

Tuấn đã rút ra một trong những nguyên nhân lớn nhất của ba lần chiến thắng quân

Nguyên Mông là “vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức” và đưa ra

di huấn về kế sách giữ nước lâu dài rằng “Phải khoan thư sức dân để làm kế bền

gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”.

Tư tưởng yêu nước, thương dân của các triều đại phong kiến Việt Nam biểu

hiện tập trung nhất ở các nhà chính trị, nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, anh hùng dân

tộc, trong đó nổi bật là Nguyễn Trãi (1380 - 1442). Với tấm lòng tràn đầy tình

thương người, thương dân, Nguyễn Trãi luôn xem đó là phương châm của đạo trị

nước và là một tiêu chí quan trọng để quy chiếu mọi suy nghĩ và hành động của

triều đình. Vì vậy, khi được sai soạn nhạc, Nguyễn Trãi cho rằng, nhạc là cần thiết

trong trị nước ở thời bình, song, nhạc sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi nhân dân chưa

được no ấm, dân gian vẫn còn tiếng kêu than, nên Ông đã viết và tâu trong sớ rằng:

“Xin Bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn

than, như thế mới không mất cái gốc của nhạc”[50, tr.393].

Như vậy, tình yêu thương nhân dân chính là nguồn cội của những tư tưởng

nhân văn có sức sống vững bền cùng với thời gian. Đó chẳng những là nguyên

nhân của những thành tựu đỉnh cao trong chính trị, quân sự, trở thành một giá trị cơ

bản của VHCT Việt Nam truyền thống, mà còn là một trong những lý do để cắt

nghĩa sự tồn tại của bản sắc văn hóa Việt Nam sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc.

Giá trị trên đây của VHCT Việt Nam truyền thống là một trong những yếu

tố quan trọng trong việc hình, phát triển của VHCT Hồ Chí Minh nói chung,

chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh nói riêng. Người luôn tự hào rằng: “Dân ta

có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.”[60, tr.38].

61

Truyền thống đó không chỉ nuôi dưỡng tâm hồn, động lực thúc đẩy mà còn trở

thành niềm tin mãnh liệt để Hồ Chí Minh dấn thân vào sự nghiệp cách mạng

bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, bảo đảm cho thành công của sự nghiệp

cách mạng. Với những phẩm chất tốt đẹp được kết tụ rồi tỏa sáng từ con người

Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu người Mỹ Jules Archer đã viết: “Cụ Hồ Chí

Minh chắc chắn sẽ đi vào lịch sử với tư cách là một nhà yêu nước vĩ đại nhất,

một trong những con người kỳ diệu của thế kỷ.”[8, tr.11].

Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc vai trò chủ thể của nhân dân trong

mối quan hệ với đất nước. Vì vậy, trong tư tưởng và hành động cách mạng của

Người luôn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước gắn liền với thương dân, vì

dân. Quan điểm đó trở thành một chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng

Hồ Chí Minh. Không chỉ thấu hiểu, cảm thông với nỗi khổ đau của đồng bào

mình, mà trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh còn nhận thấy,

giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới cũng là những người

cùng khổ, cần phải đoàn kết chặt chẽ với nhau để trở thành đồng minh chống

lại kẻ thù chung là bọn thực dân, đế quốc. Vì thế, tình yêu thương con người

của Hồ Chí Minh bao hàm cả tính dân tộc, tính giai cấp và tính nhân loại, mang

bản chất của giai cấp công nhân, gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản.

Thứ ba, VHCT truyền thống Việt Nam luôn đề cao độc lập, tự chủ, tự

lực, tự cường.

Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc hơn một nghìn năm, trước âm mưu đồng

hóa của một kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần, các thế hệ người Việt Nam luôn

ý thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ nơi sinh sống, bảo vệ nhà

nước và các giá trị văn hóa của quốc gia. Vì không muốn người Việt trở thành

người Hán, không muốn đất đai và chính quyền của người Việt trở thành một

bộ phận của nước Hán, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ, lâu dài

để chống lại sự đồng hóa. Một mặt, để tạo sự khác biệt về mặt hình thể cũng

như về văn hóa so với người Hán, người Việt đã kiên quyết bám đất, bám làng,

duy trì tục nhuộm răng đen; xăm mình; đánh trống đồng để tế lễ; việt hóa chữ

62

Hán; giữ gìn tiếng nói riêng; lập đền thờ và duy trì các nghi lễ thờ cúng đối với

những người có công với làng, với nước. Mặt khác, trong suốt thời gian đó, các

cuộc khởi nghĩa có tính chất dân tộc để giành độc lập, khôi phục nền tự chủ

liên tiếp nổ ra. Sau những cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, ông cha ta đều xưng

vương, xưng đế, đặt mình ngang hàng với hoàng đế phương Bắc. Các cuộc

khởi nghĩa có lần thắng, có lúc thất bại nhưng qua đó ý chí độc lập, tự chủ, tự

lực, tự cường dân tộc ngày càng được bồi đắp.

Thời kỳ phong kiến dân tộc, bắt đầu từ Ngô Quyền, sau khi chiến thắng quân

Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc, ý thức độc

lập, tự chủ, tự lực, tự cường của quốc gia đã được nâng cao một bước. Trong suốt

thời kỳ từ đầu thế kỷ thứ X đến giữa thế kỷ thứ XIX, tư tưởng và hành động độc

lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc luôn được khẳng định và phát huy. Những

giá trị đó được biểu hiện nổi bật không chỉ trong những cuộc kháng chiến toàn dân

chống xâm lược dưới sự tổ chức và lãnh đạo của các triều đại phong kiến mà còn

trong tư tưởng của các nhà chính trị, quân sự, nhà văn hóa tiêu biểu của dân tộc

như: Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung…

Đến thời kỳ cận, hiện đại, trước sự tàn bạo, thâm độc của chủ nghĩa thực dân

và đế quốc Pháp, trước những thử thách lớn lao của dân tộc, tinh thần độc lập, tự

chủ, tự lực, tự cường vẫn được các sĩ phu yêu nước khơi dậy và được đông đảo

quần chúng nhân dân hưởng ứng.

Như vậy, giá trị độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của VHCT Việt Nam truyền

thống cùng với sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ

XIX, đầu thế kỷ XX của nhân dân ta đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành

VHCT Hồ Chí Minh. Các giá trị đó không chỉ là hành trang, là động lực bảo đảm

cho Hồ Chí Minh vững bước trong suốt quá trình xác định con đường, mục tiêu,

biện pháp, lực lượng để lật đổ nhà nước thuộc địa, nửa phong kiến, giành ĐLDT và

xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.

Thứ tư, lòng tự hào, tự tôn dân tộc và coi trọng hiền tài trong chính trị.

63

Ngay từ buổi đầu lập nước, người Việt đã tự ý thức về nguồn gốc con Rồng,

cháu Tiên, về cộng đồng dân tộc và chủ quyền quốc gia của mình. Tinh thần độc

lập, tự chủ, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc thì quốc gia nào cũng có nhưng với Việt

Nam, tinh thần đó được tạo nên một cách đặc biệt từ văn hóa làng xã trong dựng

nước và giữ nước. Chính văn hóa làng xã với nhiều mối quan hệ đan xen đã cung

cấp cho mỗi thành viên cộng đồng một thân phận nhất định và việc giải quyết hài

hòa các mối quan hệ đó là tiêu chuẩn đánh giá nhân cách, đạo đức con người. Vì

vậy, người Việt luôn gắn liền và tự hào về làng, nước, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ

Tổ quốc của mình.

Lòng tự hào, tự tôn dân tộc luôn là nền tảng tinh thần để mỗi người Việt

Nam có cách ứng xử có trách nhiệm với vận mệnh của quốc gia, dân tộc mình

và với các dân tộc khác. Tư tưởng này đã được thể hiện trong suốt quá trình

lịch sử dựng nước và giữ nước như, trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn,

trong bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt. Đặc biệt, trong lời tuyên bố

của người anh hùng Trần Bình Trọng trước sự dụ dỗ của kẻ thù: “Ta thà làm

ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Lòng tự hào, tự tôn dân tộc thể

hiện rõ nhất khi Nguyễn Trãi khẳng định trong Bình Ngô đại cáo rằng: “Như

nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Tuy mạnh yếu có lúc

khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có”[110, tr.77].

Một dân tộc nhỏ, đất không rộng, người không đông mà có thể vượt qua

được sự đồng hóa có hệ thống, kéo dài hàng nghìn năm của phong kiến phương

Bắc và đánh bại sự xâm lược của nhiều kẻ thù lớn đã tạo nên niềm kiêu hãnh

của mỗi người Việt Nam. Nền văn hiến lâu đời không chỉ tạo nên một dân tộc

anh hùng mà còn sản sinh ra những danh nhân văn hóa và đội ngũ những hiền

tài, trí thức góp phần quan trọng vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vua Lê

Lợi đã hạ lệnh cho các đại thần văn võ, công hầu đại phu từ tam phẩm trở lên

phải tiến cử hiền tài. Tờ chiếu viết: "Trẫm nghĩ, muốn thịnh trị phải được người

hiền tài, muốn được người hiền tài phải do tiến cử. Cho nên người đứng đầu

thiên hạ phải lo việc ấy trước tiên”[50, tr.368]. Thân Nhân Trung, một trọng

64

thần nhà Lê đã kế thừa và phát triển tư tưởng đó khi ông soạn bài văn bia cho

bia tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất (1442), đặt tại văn Miếu - Quốc Tử Giám:

“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà

vươn cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp”.

Thực tế cho thấy, các triều đại phong kiến Việt Nam luôn quan tâm và có

nhiều biện pháp để giữ gìn, bồi đắp, phát huy giá trị của nền văn hiến dân tộc. Một

trong những biện pháp đó là đề cao giáo dục, đào tạo và coi trọng việc tuyển chọn

hiền tài vào bộ máy nhà nước. Do vậy, cùng với việc chăm lo bồi dưỡng các hoàng

tử để có người nối ngôi xứng đáng, các triều đại đều coi việc tuyển dụng hiền tài là

một quốc sách. Chủ trương đó không chỉ bảo đảm cho quốc gia có vua sáng, tôi

hiền mà còn không ngừng nâng cao nền văn hiến của dân tộc.

Truyền thống tự hào, tự tôn dân tộc đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành

VHCT Hồ Chí Minh. Đầu năm 1921, trong một lần gặp Bộ trưởng thuộc địa Pháp

Anbe Xarô, trước ý kiến cho rằng chưa thể để Đông Dương độc lập được, vì Đông

Dương chưa có lực lượng vũ trang, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Nếu nước

Pháp trả lại nền độc lập cho chúng tôi, ông sẽ thấy là chúng tôi biết cầm quyền cai

trị lấy” [53, tr.96]. Quá trình tiến hành cách mạng GPDT, Hồ Chí Minh luôn kêu

gọi nhân dân các nước thuộc địa nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng phát huy

tinh thần tự lực, tự cường, đem sức ta mà giải phóng cho ta.

Theo Hồ Chí Minh, “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ

dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”[60, tr.445]. Trong

kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Người khẳng định: “Kháng chiến nhất định thắng

lợi, nhưng phải trường kỳ và gian khổ, phải tự lực cánh sinh”[60, tr.386].

Người còn nhấn mạnh, một trong những yếu tố bảo đảm cho thắng lợi của cuộc

kháng chiến là phải phát huy cao độ truyền thống yêu nước và tinh thần tự hào,

tự tôn dân tộc. Người nói: “Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại

chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những

trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,

Quang Trung, v.v…Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân

tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”[60, tr.38].

65

Thứ năm, tinh thần khoan dung, độ lượng, hòa bình, hữu nghị, hợp tác

cùng phát triển.

Truyền thống này là tập hợp những giá trị trong các quan hệ về chính trị, được

hình thành, bồi đắp liên tục trong lịch sử dựng nước và giữ nước, trở thành một

trong những giá trị xuyên suốt, nhất quán và là nét đặc sắc của VHCT truyền thống

Việt Nam. Xuất phát từ nhu cầu sinh tồn và chung sống lâu dài trước những tác

động bất ngờ của thiên tai, địch họa, ngay từ buổi đầu dựng nước, con người trên

mảnh đất Việt Nam đã dựa vào nhau, liên kết với nhau, yêu thương, đùm bọc lẫn

nhau. Cùng với sự phát triển của nhà nước và quá trình mở rộng địa bàn sinh sống,

những giá trị đó đã lan tỏa theo dấu chân của người Việt. Cho đến nay, mặc dù trên

dải đất Việt Nam hiện nay với 54 tộc người có thể khác nhau về phong tục, tập

quán nhưng đều coi nhau như anh em ruột thịt.

Để có thể yêu thương nhau, đoàn kết với nhau, đòi hỏi mỗi người phải có một

tấm lòng vị tha, khoan dung, độ lượng. Và yêu cầu này đã trở thành tiêu chí để đánh

giá đạo đức, nhân cách của mỗi người trong các quan hệ xã hội. Do ý thức rõ vị trí,

vai trò của mình trước cộng đồng và trước thiên nhiên, người Việt luôn có tư tưởng

khiêm tốn, cầu thị, sẵn sàng giúp đỡ đồng loại, không đối xử thái quá với những hạn

chế, sai lầm của người khác.

Truyền thống khoan dung, độ lượng, hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát

triển được hình thành từ mối quan hệ kinh tế rồi từng bước trở thành nền tảng của

quan hệ chính trị cũng như các quan hệ khác cả trong đối nội và đối ngoại. Thiết

chế chính trị của cơ cấu nhà, làng, nước với những yếu tố dân chủ ở cơ sở đã bảo

đảm cho mỗi thành viên một thân phận, một diện mạo trong các tổ chức từ gia đình,

dòng họ đến các hội theo tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp và các cấp chính quyền.

Diện mạo là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các cá nhân và các mối quan hệ xã hội

với những tôn ti, trật tự và chuẩn mực đạo đức nhất định.

Cuộc đấu tranh bền bỉ hơn một nghìn năm chống lại sự đồng hóa của phong

kiến phương Bắc, cũng như các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến chống xâm lược,

chính là cuộc đấu tranh để giành lại thân phận và danh dự của người dân một đất

66

nước có chủ quyền, có bản sắc văn hóa. Và, với vị trí địa lý là trung tâm giao lưu

kinh tế, chính trị, văn hóa từ bắc xuống nam, từ đông sang tây của Việt Nam thì

truyền thống khoan dung là một trong nhiều nguyên nhân của những thắng lợi đó.

Truyền thống khoan dung của VHCT Việt Nam không chỉ thể hiện ở việc đối nội

mà còn thể hiện rõ trong đối ngoại, đặc biệt là với quân sự và ngoại giao. Trong lịch

sử dân tộc, Việt Nam chỉ tiến hành chiến tranh tự vệ khi tình thế bắt buộc và luôn

tìm mọi cách để giảm bớt sự hy sinh, đổ máu mà vẫn đạt mục đích của cuộc chiến.

Truyền thống khoan dung của dân tộc đã góp phần hình thành ở Hồ Chí Minh

tư tưởng và tấm gương nhất mực yêu thương, khoan dung độ lượng và luôn tin

tưởng vào khả năng hướng thiện của con người, thừa nhận sự khác biệt giữa các cá

nhân như một quy luật. Người nói, “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón

dài…Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế

khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”[57, tr.280].

Sau Cách mạng tháng Tám, Người đã viết thư căn dặn đồng bào Nam Bộ, “Đối với

những người Pháp bị bắt trong lúc chiến tranh, ta phải canh phòng cẩn thận, nhưng

phải đối đãi với họ cho khoan hồng... làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân

tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước”[57, tr.29-30].

Truyền thống khoan dung của dân tộc đã được Hồ Chí Minh kế thừa và

phát triển vượt khỏi phạm vi quốc gia, dân tộc. Người không chỉ đấu tranh

cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của các dân tộc

khác trên thế giới, coi việc giúp bạn là tự giúp mình. Người luôn chủ trương

chung sống hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với các nước có chế

độ chính trị khác nhau. Ngày 13-01-1947, trong thư gửi lãnh tụ và nhân dân

các nước Hồ Chí Minh đã viết: “Việt Nam chỉ muốn hoà bình và độc lập để

cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới...Việt Nam chỉ muốn giữ

quyền độc lập của mình, chứ không hề xâm phạm đến ai” [58, tr.30].

Thứ sáu, truyền thống đề cao đạo đức và pháp luật trong đời sống chính trị.

Sau khi trở thành quốc gia độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam đều

rất chú trọng xây dựng, ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật.

67

Trong thời kỳ này, các bộ luật lớn đã được soạn thảo, ban hành và có tác

động to lớn đến sự ổn định và phát triển của xã hội Phong kiến Việt Nam. Các

bộ luật tiêu biểu không thể không nhắc đến đó là: bộ Hình thư thời Lý được

ban hành năm 1042; bộ Hoàng triều đại điển và bộ Hình thư đời Trần, ban hành

năm 1341; bộ Quốc triều hình luật thời Lê, ban hành năm 1483. “Đây là thành

tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam, là đỉnh cao so

với những thành tựu pháp luật không chỉ của các triều đại trước đó, mà còn đối với

cả bộ Hoàng Việt luật lệ được biên soạn vào đầu triều Nguyễn sau này”[40, tr.151].

Những “hạt nhân hợp lý” từ truyền thống đề cao đạo đức và pháp luật

trong VHCT Việt Nam đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng sáng tạo

trong giai đoạn lịch sử mới. Năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân

An Nam” gửi tới Hội nghị Véc xây, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp

thực hiện chế độ cai trị bằng luật pháp thay cho chế độ cai trị bằng sắc lệnh.

Hồ Chí Minh cũng luôn đề cao vai trò của đạo đức cách mạng đối với sự

phát triển của xã hội, bởi theo Người, cách mạng “là một công việc to tát,

mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa

thì còn làm nổi việc gì?”[58, tr.293]. Bắt tay vào xây dựng nhà nước kiểu

mới sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch

nước, Người đã chủ trì soạn thảo hai bản Hiến pháp, ký công bố 16 đạo luật,

ban hành 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. Người là một mẫu

mực của sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật, luôn chú trọng giáo dục đạo

đức nhưng cũng không ngừng đề cao vai trò, sức mạnh của pháp luật. Điều

đó đã tạo nên nét đặc sắc trong văn hoá chính trị Hồ Chí Minh.

Như vậy, thực tế đã cho thấy, những giá trị VHCT truyền thống của dân

tộc Việt Nam là tiền đề, nền tảng cho việc hình thành và phát triển của VHCT

Hồ Chí Minh. Ngược lại, Hồ Chí Minh đã tích hợp và chắt lọc tất cả những

giá trị đó trở thành nét đặc trưng trong VHCT của cá nhân và đưa VHCT của

dân tộc lên một tầm cao mới. Điều này đã được Đảng ta đã khẳng định: “Dân

68

tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra HỒ CHỦ TỊCH, người

anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân

ta và non sông đất nước ta”[68, tr.627].

2.3.1.2. Những tinh hoa văn hóa chính trị của nhân loại

Tinh hoa VHCT của nhân loại là những giá trị nổi bật về tư tưởng và thực tiễn

chính trị mà loài người đã sản sinh ra, được chia sẻ, vận dụng trong đời sống chính

trị hiện thực. Tư tưởng chính trị phương Đông thể hiện trong các giáo lý và học

thuyết của các nhà tư tưởng tiêu biểu như: giáo lý của Phật giáo ở Ấn Độ; tư

tưởng Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia ở Trung Quốc. Những giáo lý và tư

tưởng chính trị trên đây đều ít nhiều có ảnh hưởng đến Việt Nam, trong đó ảnh

hưởng mạnh mẽ và sâu rộng hơn cả là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Tuy

mức độ ảnh hưởng không ngang bằng nhau nhưng nhìn chung cả ba tôn giáo

này hòa đồng với nhau và đều có chỗ đứng nhất định trong chính trị cũng như

trong xã hội, đây chính là tinh thần tam giáo đồng nguyên diễn ra dưới thời nhà

Trần. Mặc dù không trực tiếp bàn về chính trị, nhưng với tư tưởng từ bi, bình

đẳng, bác ái, Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu, rộng trong dân gian nói chung,

trong chính trị nói riêng, đã tô đậm thêm truyền thống, đạo lý nhân văn, nhân

đạo của người Việt, trong đó có Hồ Chí Minh. Những giá trị của nhân cách

chính trị Hồ Chí Minh như: tình cảm yêu thương đồng loại; đề cao lao động;

khoan dung độ lượng, vị tha...trong cuộc sống đời thường cũng như trong đấu

tranh chính trị đã cho thấy sự tác động của Phật giáo đến việc hình thành, phát

triển VHCT của Người.

Bên cạnh Phật giáo, với tính cách là một học thuyết chuyên về chính trị -

Nho giáo không được nhân dân Việt Nam đề cao trong thời kỳ Bắc thuộc. Tuy

nhiên, vào thời độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam lại phải dựa vào Nho

giáo. Chính vì vậy, thời kỳ này, Nho giáo phát triển mạnh hơn và bắt đầu từ thời Lê,

Nho giáo trở thành quốc giáo. Với vị trí thống trị về tư tưởng trong suốt hơn nửa thế

kỷ, Nho giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống của nhân dân ta và có

đóng góp to lớn vào sự phát triển của các triều đại phong kiến Việt Nam. Hồ Chí

69

Minh sinh ra, lớn lên trong một gia đình nhà nho, nhưng trước sự bất lực của tư

tưởng Nho giáo, Người đã đi tìm con đường cứu nước mới. Tuy nhiên, với quan

điểm kế thừa và phát triển, Hồ Chí Minh đã lựa chọn những yếu tố tích cực để phục

vụ cho sự nghiệp cách mạng. Cùng với việc trân trọng, kế thừa những hạt nhân hợp

lý, Người cũng triệt để phê phán những hạn chế của Nho giáo. Hồ Chí Minh chỉ rõ:

“Những ông vua tôn sùng Khổng Tử không phải chỉ vì ông không phải là người

cách mạng, mà còn là vì ông tiến hành một cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho

họ. Họ khai thác Khổng giáo như bọn đế quốc đang khai thác Kitô giáo”[55,

tr.562]. Và, theo Hồ Chí Minh, Khổng Tử “rõ ràng là người phát ngôn bênh vực

những người bóc lột chống lại những người bị áp bức”[55, tr.562].

Một trong những tư tưởng chính trị Trung Hoa cổ đại có ảnh hưởng

nhất định ở Việt Nam và tác động phần nào đến việc hình thành VHCT Hồ

Chí Chí Minh đó là tư tưởng của Đạo giáo. Tư tưởng chính trị của Đạo giáo

phản ánh quyền lợi của người lao động và thấm đượm tình thương đồng loại,

chủ trương xây dựng một xã hội dựa trên sự bình đẳng và không có áp bức,

bóc lột. Từ quan niệm về Đạo và Đức, Lão Tử đề xướng xây dựng một chính

quyền vì dân, đem lại hạnh phúc cho dân và chính quyền như thế cần phải

biết tôn trọng các quy tắc tự nhiên của cuộc sống con người. Ông còn cho

rằng, nhà nước không phải để cai trị dân mà để làm chỗ dựa cho dân, tạo ra

môi trường để dân yên ổn làm ăn. Ông cũng đặt ra tiêu chuẩn của người cầm

quyền cai trị là phải có Đức, phải quan tâm đến lợi ích của dân, nói phải đi

đôi với làm, phải biết đứng sau, ngồi dưới, có công mà không kể công. Hồ

Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu và kế thừa tư tưởng của Đạo giáo khi nhắc

nhở việc giữ gìn an ninh trật tự ở Thủ đô sau ngày giải phóng (10-10-1954).

Người viết: “Chính quyền và nhân dân chúng ta phải đồng tâm hiệp lực, giữ

gìn trật tự an ninh, sao cho “Dạ bất bế hộ, lộ bất thập di”[62, tr.77], nghĩa là:

Ban đêm không cần đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi. Sự kế

thừa Đạo giáo còn biểu hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người nói:

“Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng

sức làm…Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui…Riêng phần

70

tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ,…sớm chiều làm bạn với cụ già hái củi, em

trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”[57, tr.187]. Mặc dù trích

dẫn Đạo giáo không nhiều nhưng thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh là người

hiện thực hóa nhiều nhất các quan điểm, tư tưởng tích cực của Đạo giáo

trong điều kiện mới.

Cùng với những tinh hoa VHCT phương Đông, những giá trị của tư tưởng

chính trị phương Tây giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và

phát triển VHCT Hồ Chí Minh. Chính khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của

văn hóa Pháp mà Hồ Chí Minh được tiếp xúc từ khi học tiểu học là yếu tố quan

trọng thúc đẩy Người đi sang phương Tây. Trên hành trình tìm đường cứu nước,

đặc biệt khi ở phương Tây, Nguyễn Ái Quốc đã được nghiên cứu trực tiếp các tác

phẩm về chính trị, tư tưởng, văn học, nghệ thuật của các nhà triết học, nhà văn hóa

lớn như: Rousseau, Voltair, Montesquieu... Bên cạnh giá trị xuyên suốt là Tự do,

Bình đẳng, Bác ái; những quan điểm duy lý trong khoa học, duy vật về xã hội trong

tư duy triết học phương Tây; những tư tưởng về nhà nước pháp quyền, về dân chủ,

về quyền con người... của VHCT phương Tây không những đã thấm vào tư tưởng

và hành động chính trị Hồ Chí Minh mà còn bộc lộ rõ nét trong các văn kiện chính

trị quan trọng của Người. Một chính khách nước ngoài - Ủy viên Ban chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Úc đã viết: “Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng xã hội

chủ nghĩa sáng tạo vĩ đại và một người hành động…Tư tưởng chính trị của Người

chịu ảnh hưởng của những nhà tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa lớn ở châu Âu

được áp dụng vào một hoàn cảnh châu Á, và điều đó đã đem lại cho nó một ý nghĩa

thế giới”[8, tr.85].

Tuy nhiên, yếu tố tư tưởng, lý luận có vai trò quyết định nhất tác động đến

việc hình thành VHCT Hồ Chí Minh, được Người tiếp thu trong quá trình tìm

đường cứu nước, đó là tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin. Học thuyết

Mác - Lênin nói chung, tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác nói riêng được

C.Mác, Ph.Ăngghen khái quát dựa trên nền tảng triết học phương Tây và thực tiễn

đấu tranh giai cấp ở châu Âu, được Lênin bảo vệ, bổ sung, phát triển trong thực tiễn

đấu tranh cách mạng ở nước Nga. Với tính chất nhân văn, nhân đạo triệt để, với

71

mục tiêu giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, tạo môi trường

chính trị để con người được phát triển toàn diện, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ

là tinh hoa văn hóa của phương Tây, mà còn là tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Tư tưởng chính trị nói riêng, VHCT Hồ Chí Minh nói chung có sự thay

đổi về chất khi Người được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt sau

khi đọc được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc

địa, đăng trên báo Nhân đạo tại Pari vào tháng 7.1920. Sau này, Người đã

nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,

tin tưởng biết bao?...Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ

ba”[65, tr.562]. Người còn cho rằng, “Chủ nghĩa Lênin…, không những là

cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời

soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã

hội và chủ nghĩa cộng sản”[65, tr.563]. Kể từ đó, Người không chỉ vận dụng

triệt để thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác -

Lênin trong quá trình hoạt động cách mạng của mình mà còn tìm cách

truyền bá, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin trong điều

kiện thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận rõ bước nhảy vọt về chất của

VHCT Hồ Chí Minh sau khi Người tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tế

cho thấy, mặc dù chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết chính trị nhân văn

nhất, được thể hiện ở mục tiêu chính trị mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã tuyên

bố trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, nhưng giá trị văn hóa của học

thuyết đó lại bị giới hạn bởi quan niệm về tiến trình đi đến mục tiêu cuối

cùng khi cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều cho rằng, các dân tộc

thuộc địa chỉ có thể được giải phóng khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành

được chính quyền. Tiếp thu thế giới quan và phương pháp luận chính trị của

chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cách mạng thuộc địa hoàn

toàn có thể chủ động nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở

chính quốc. Mặt khác, sau khi giành được quyền tự quyết dân tộc, các nước

đó có thể bỏ qua thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên CNXH.

72

Nhận định này là biểu hiện rõ nét một giá trị mới của VHCT Hồ Chí Minh

và đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm.

Tóm lại, VHCT Hồ Chí Minh có sự tích hợp và chắt lọc các giá trị VHCT

truyền thống của dân tộc, tinh hoa VHCT của nhân loại và VHCT của chủ

nghĩa Mác - Lênin. Người trở thành biểu tượng của sự kết hợp hài hòa giữa các

nền văn hóa, giữa dân tộc và nhân loại, giữa quá khứ và hiện tại. Như nhà thơ

Xuân Thủy đã miêu tả: Một con người gồm kim cổ, tây đông/ Giàu quốc tế,

đậm Việt Nam từng nét.

2.3.2. Bối cảnh chính trị Việt Nam và thế giới tác động đến việc hình

thành, phát triển VHCT Hồ Chí Minh

2.3.2.1. Thực tiễn chính trị Việt NamHồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong bối cảnh tình hình chính trị của đất nước

có sự biến động lớn. Nhân dân Việt Nam lần đầu phải đối phó với một loại kẻ thù

mới, đó là thực dân Pháp, chẳng những mạnh hơn về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ

thuật mà còn khác biệt về hệ tư tưởng và văn hóa. Trước thực trạng đó, triều đình

nhà Nguyễn với hệ tư tưởng Nho giáo đã bộc lộ rõ sự bất lực trước nhiệm vụ giữ

vững nền độc lập, tự chủ của đất nước, lần lượt ký các hiệp ước đầu hàng, chấp

nhận sự đô hộ của thực dân Pháp. Việt Nam từ một nước quân chủ chuyên chế, trở

thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

Sau khi đã đặt ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành

đẩy mạnh khai thác thuộc địa nhằm chiếm đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ

mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Dưới sự đô hộ của chủ nghĩa thực

dân, nhân dân Việt Nam chịu cảnh nước mất, nhà tan, bị bóc lột đến tận xương tủy,

bị đầu độc về văn hóa, bị đọa đày trong đói rách, lầm than, bệnh tật. Hồ Chí Minh

đã vạch trần bản chất cái gọi là chế độ bảo hộ của Pháp rằng: “Ở Đông Dương,

chúng ta đang sống dưới sự “bảo hộ” của nước Pháp. Bảo hộ có nghĩa là che chở.

Nước Pháp đang để cho hàng triệu anh em chúng ta chết đói, trong khi đó hàng

nghìn người khác bị đưa sang Tiểu Á làm bia đỡ đạn”[54, tr.27- 28].

Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, ở Việt Nam đã ra đời hai giai cấp mới,

đó là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Lúc này, trong xã hội tồn tại hai mâu

73

thuẫn cơ bản đó là: mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến dân

tộc là mâu thuẫn cũ, còn mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, mà chủ yếu là công

nhân với giai cấp tư sản và giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là

mâu thuẫn mới. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước

với thực dân Pháp và phong kiến, tay sai là gay gắt và bức xúc nhất. Vì vậy, mặc dù

nhà nước phong kiến đã chính thức đầu hàng thực dân pháp, nhưng với chủ nghĩa

yêu nước và tinh thần độc lập, tự chủ, các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh

chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã bùng lên và lan rộng khắp cả nước. Tiêu

biểu như phong trào Cần Vương, kéo dài từ 1885 đến 1896 với nhiều cuộc khởi

nghĩa diễn ra ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, đỉnh cao là khởi nghĩa Hương Khê. Cùng thời

gian này còn có cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo,

kéo dài đến năm 1913. Mặc dù vậy, do các cuộc khởi nghĩa và đấu tranh đó đều

được khởi xướng bởi các sĩ phu yêu nước mang ý thức hệ phong kiến, chủ trương

đánh đuổi Pháp để khôi phục lại chế độ phong kiến, nhưng lại chưa hiểu rõ kẻ thù,

chưa thật tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, chưa có phương pháp đấu tranh

đúng đắn, nên cuối cùng đều không giành thắng lợi. Thất bại của các phong trào

yêu nước cuối thế kỷ XIX một lần nữa chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong

kiến trước nhiệm vụ giành độc lập dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.

Bước sang đầu thế kỷ XX, sau một thời gian tiếp xúc với văn hóa phương

Tây, mà trực tiếp là văn hóa Pháp, cùng với sự ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng Tân

hợi (1911) của Trung Quốc, đã hình thành một phong trào cứu nước mới theo hệ tư

tưởng tư sản. Những sĩ phu yêu nước theo hệ tư tưởng này chủ trương, gắn cuộc

đấu tranh giành ĐLDT với việc xóa bỏ chế độ phong kiến để xây dựng một chế độ

xã hội mới, đáp ứng đòi hỏi của đất nước và xu thế phát triển chung của thời đại.

Tiêu biểu cho trào lưu cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản là Phan Bội Châu và Phan

Châu Trinh với hai phương pháp đấu tranh là bạo động và cải lương. Trong khi

Phan Bội Châu lập ra Hội Duy tân, tổ chức phong trào Đông Du sang Nhật để học

tập và tìm kiếm sự giúp đỡ của Nhật để đánh Pháp bằng con đường bạo động, thì

Phan Châu Trinh chủ trương đấu tranh bằng con đường nghị trường, tiến hành các

cải cách kinh tế, văn hóa trong khuôn khổ sự cai trị của Pháp, sau đó đòi thực dân

74

Pháp trao trả độc lập. Tuy nhiên, con đường cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản cũng

sớm thất bại, bởi lẽ, trên thực tế, giai cấp tư sản đã và đang thể hiện sự hiếu chiến,

phản động, vô nhân đạo đối với các dân tộc thuộc địa.

Sự chán ghét chế độ thuộc địa nửa phong kiến của nhân dân cộng với sự thất

bại của các phong trào cứu nước đã cho thấy sự khủng hoảng và bế tắc về chính trị

ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sau này, Hồ Chí Minh đã

chỉ rõ: “Từ ngày bị đế quốc Pháp xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là

vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy

mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra”[65, tr.401].

Thực tế đó đã đặt ra cho nhân dân ta câu hỏi bức xúc là dựa vào lực lượng nào hay

làm thế nào để giành lại độc lập, tự do, GPDT, giải phóng giai cấp, giải phóng con

người. Câu hỏi lớn đó đã tác động đến Hồ Chí Minh từ khi Người còn là một thiếu

niên, và sau này khi nhắc lại thời điểm đó, Người đã nói với một nhà văn Mỹ rằng:

“Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường hỏi nhau ai

sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có

người lại cho là Mỹ”[dẫn theo 100, tr.20]. Như vậy, bối cảnh chính trị Việt Nam

giai đoạn Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên không chỉ là yếu tố thôi thúc Người đi tìm

con đường cứu nước mới mà còn là cơ sở để Người tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa

Mác - Lênin, một học thuyết chính trị duy nhất trả lời được câu hỏi của thực tiễn

cách mạng Việt Nam. Như Người đã nhận xét: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ

nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là

chủ nghĩa Lênin”[55, tr.289].

2.3.2.2. Thực tiễn chính trị thế giới

Bắt đầu từ nửa sau của thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh

tế hàng hóa dưới chủ nghĩa đế quốc với những đòi hỏi bức xúc về nguồn

nguyên liệu, thị trường tiêu thụ và lợi nhuận, là nguyên nhân chính thúc đẩy

các nước đế quốc tiến hành chiến tranh xâm lược các quốc gia nhỏ yếu trên

thế giới, biến các nước này thành thuộc địa của chúng. Chủ nghĩa đế quốc,

một mặt tranh giành với nhau về lợi ích và quyền lực đối với các thuộc địa,

75

mặt khác chúng liên kết với nhau thành hệ thống thế giới để nô dịch các

nước là thuộc địa. Vì vậy, trên thế giới đã xuất hiện một mâu thuẫn xã hội

mới giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc bên cạnh mâu thuẫn

giữa giai cấp công nhân quốc tế với chủ nghĩa tư bản vốn đã gay gắt và kéo

dài trong suốt thế kỷ XIX.

Trong khoảng thời gian giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác với tư cách là

một học thuyết chính trị đã lan rộng khắp châu Âu và một số châu lục khác.

Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Lênin ra đời trong bối cảnh

CNTB phát triển thành chủ nghĩa đế quốc và học thuyết của C.Mác đang bị chủ

nghĩa xét lại xuyên tạc, phủ nhận. Với những nhận thức về một giai đoạn phát

triển mới của lịch sử xã hội, chủ nghĩa Lênin đã trở thành “lý luận và thực tiễn

của chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa”[77, tr.14]. Trong nhiều

tác phẩm của mình, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa,

ngoài các cuộc chiến tranh giữa các nước đế quốc để tranh giành thuộc địa, có

thể xảy ra các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc (GPDT), và giai cấp vô sản

thế giới phải kiên quyết ủng hộ các cuộc chiến tranh này.

Bước sang thế kỷ XX, cuộc đấu tranh GPDT không còn là hành động đơn lẻ

của quốc gia này chống lại sự xâm lược và thống trị của quốc gia khác như trước

đây. Thực tế đó đã tạo ra tiền đề khách quan, chẳng những để các nước bị áp bức

trên thế giới liên kết với nhau mà còn tạo điều kiện để phong trào đấu tranh GPDT

ở thuộc địa gắn kết với phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp ở các nước chính

quốc. Hồ Chí Minh đã khẳng định, “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc

biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với

vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”[54, tr.295].

Tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa đến sự kiện có tính chất

bước ngoặt trong lịch sử phát triển của nhân loại, đó là thắng lợi của Cách mạng

tháng Mười Nga năm 1917. Cách mạng tháng Mười Nga không những đã đưa chủ

nghĩa cộng sản từ khoa học trở thành hiện thực bằng việc lật đổ nhà nước tư sản,

thiết lập nhà nước vô sản mà còn nêu tấm gương sáng về việc giải phóng các dân

76

tộc bị áp bức, và gây tiếng vang lớn, tác động mạnh mẽ đến các dân tộc thuộc địa.

Sự lãnh đạo của Lênin và ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười đã dẫn đến việc ra

đời của một loạt các Đảng Cộng sản ở cả châu Âu và châu Á. Đặc biệt là sự ra đời

của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3-1919, do Lênin sáng lập, đã thúc

đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tại Đại

hội II của Quốc tế Cộng sản, bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề

dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố. Luận cương này đã chỉ ra

phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức và đã tác động mạnh mẽ

đến tư tưởng chính trị và lập trường giai cấp của Hồ Chí Minh.

Như vậy, khi Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị cũng là lúc tình hình

chính trị thế giới có sự thay đổi lớn. Chủ nghĩa đế quốc đã bộc lộ rõ bản chất hiếu

chiến, xâm lược và phản động; chủ nghĩa cộng sản khoa học đã trở thành hiện thực;

phong trào đấu tranh GPDT và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có sự phát

triển mạnh mẽ; một tổ chức quốc tế của giai cấp vô sản toàn thế giới đã ra đời và

ủng hộ cho cuộc đấu tranh GPDT của các thuộc địa…Đó là những tiền đề thực tiễn,

những yếu tố khách quan tác động mạnh mẽ đến việc hình thành và phát triển

VHCT Hồ Chí Minh.

2.3.3. Nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh

Một cá nhân, cho dù là một vĩ nhân hay người bình thường cũng đều là sản

phẩm của hoàn cảnh, là một phần giá trị của xã hội. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa

những sản phẩm ấy là ở mức độ mỗi cá nhân chiếm lĩnh các giá trị xã hội, làm chủ

hoàn cảnh và có thể tác động, thúc đẩy sự vận động của hoàn cảnh theo đúng quy

luật, đáp ứng nhu cầu của bản thân và cộng đồng như thế nào. Với những vĩ nhân,

những nhà tư tưởng, họ không chỉ nhận thức đúng hiện thực khách quan, mà còn dự

báo được xu hướng, quy luật vận động, phát triển của hiện thực và đề ra được cách

thức tổ chức lực lượng, lựa chọn hình thức, biện pháp tác động phù hợp để cải tạo

hiện thực đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

Như vậy, nhân tố chủ quan là một tập hợp các yếu tố riêng có của mỗi

cá nhân. Trong cùng một tiền đề khách quan nhưng với mỗi nhân tố chủ

77

quan sẽ đưa đến những kết quả khác nhau trong hoạt động thực tiễn. Do vậy,

cùng với những tiền đề khách quan, việc hình thành VHCT Hồ Chí Minh

không thể thiếu những nhân tố chủ quan của Người.

2.3.3.1. Lý tưởng, mục tiêu chính trị cao đẹp và phong cách tư duy độc lập,

tự chủ, sáng tạo

Một trong những nhân tố chủ quan góp phần tạo nên VHCT Hồ Chí Minh

chính là lý tưởng và mục tiêu chính trị mà như Người đã công bố rằng: “làm sao

cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng

có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[57, tr.187]. Có thể nói, mọi người đều

có lý tưởng, đặc biệt là các sĩ phu yêu nước, ai cũng có mục tiêu, lý tưởng giành độc

lập cho dân tộc. Tuy nhiên, quan niệm về độc lập của Hồ Chí Minh khác hẳn về

chất so với các bậc tiền bối. Trong khi đại biểu của các phong trào cứu nước theo hệ

tư tưởng phong kiến hay tư sản coi ĐLDT là trở về với chế độ quân chủ chuyên chế

hoặc chế độ dân chủ tư sản mà ở đó, giai cấp địa chủ hay giai cấp tư sản là người

thống trị còn nhân dân lao động là người bị trị. Hồ Chí Minh cho rằng, ĐLDT phải

gắn liền với tự do, ấm no, hạnh phúc, công bằng, bình đẳng cho tất cả mọi người.

Bởi lẽ, theo Người “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập

cũng chẳng có nghĩa lý gì”[57, tr.64].

Quan niệm về ĐLDT như trên là nguyên nhân chính của việc Hồ Chí

Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng lại không

tán thành cách làm của một người nào và đã khước từ con đường Đông Du

theo gợi ý của Phan Bội Châu. Và, đó cũng là nguyên nhân của việc Người đã

tiếp xúc với nhiều học thuyết, nhiều hệ tư tưởng, đã nghiên cứu, khảo sát,

thậm chí đã sống ở các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn của chủ nghĩa

tư bản nhưng Người chỉ lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường

của Cách mạng tháng Mười Nga. Điều này cũng giải thích tại sao, có một số

người đã tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin trước Hồ Chí Minh, nhưng lại

không xác định được con đường cứu nước như Người.

78

Cùng với mục tiêu, lý tưởng chính trị cao đẹp, phong cách tư duy độc lập, tự

chủ và sáng tạo là một yếu tố chủ quan của việc hình thành, phát triển VHCT Hồ

Chí Minh. Thực tiễn đã cho thấy, cùng một hiện thực xã hội Việt Nam thuộc địa

nửa phong kiến với nhu cầu giành ĐLDT và cùng một bối cảnh quốc tế với những

tiền đề chính trị, văn hóa, xã hội, nhưng với phong cách tư duy truyền thống, bảo

thủ thì có con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến; với phong cách tư duy

đổi mới nhưng rập khuôn máy móc lại đưa đến con đường cứu nước theo hệ tư

tưởng tư sản; trong khi đó, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo đã đưa Hồ

Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, với con đường cách mạng vô sản và một

kết luận có tính chân lý rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con

đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[65, tr.30].

Với phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Người chỉ coi chủ nghĩa Mác

- Lênin là kim chỉ nam chứ không phải kinh thánh. Do vậy, quá trình vận dụng phải

kiên định về mục tiêu, con đường; về phương hướng, chiến lược nhưng phải linh

hoạt, sáng tạo về sách lược. Phong cách trên đây không chỉ có giá trị bởi sự vận

dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể đã tạo nên

những thắng lợi to lớn đối với cách mạng Việt Nam, mà còn mở rộng không gian,

nâng cao sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tạo lên nét đặc trưng trong VHCT

Hồ Chí Minh.

2.3.2.2. Ý chí, nghị lực phi thường và thực tiễn hoạt động cách

mạng phong phú

Ý chí và nghị lực là yếu tố chủ quan quyết định nhất tạo nên thành công và sự

khác biệt giữa các cá nhân. Và, đây là một trong những nhân tố chủ quan của việc

hình thành và phát triển VHCT Hồ Chí Minh. Để có thể học tập kinh nghiệm, khám

phá và chiếm lĩnh tri thức, giá trị của các nền văn hóa lớn trên thế giới, Người đã

khổ công học tập và thông thạo nhiều ngoại ngữ. Mặt khác, để đạt được mục tiêu

chính trị của mình, Người luôn chủ động chấp nhận và vượt qua mọi khó khăn, gian

khổ, hiểm nguy để sống, để học tập và làm cách mạng. Trước mọi khó khăn, gian

khổ, Người chỉ tâm niệm một điều là “muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải

79

cao”. Vì vậy, ở Hồ Chí Minh hội tụ nhiều mẫu người, từ người lao động chân tay,

đến nhà trí thức, nhà chính trị, nhà văn, nhà báo, nhà thơ, chủ tịch Đảng, chủ tịch

nước. Người đã để lại tấm gương mẫu mực về ý chí, quyết tâm, nghị lực phi thường

và về sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động.

Với chủ trương xóa bỏ tận gốc những yếu tố làm tha hóa con người, tạo

dựng môi trường xã hội mới để mỗi cá nhân có điều kiện phát triển toàn diện,

Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản và khơi dậy, phát huy

sức mạnh của nhân dân để thực hiện mục tiêu chính trị là ĐLDT gắn liền với

CNXH. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong cách mạng GPDT, khi thời cơ

đến, Hồ Chí Minh khẳng định: "Dù có phải đốt cháy cả dãy trường sơn cũng

phải cương quyết giành cho được độc lập"[trích theo 24, tr.212-213]. Với quyết

tâm đó, khi thực dân Pháp thực hiện mưu đồ nô dịch nước ta một lần nữa,

Người đã cùng với Đảng chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa kháng chiến với kiến

quốc, nhằm từng bước đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và

đánh bại sự xâm lược của đế quốc Pháp.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù đất nước ta còn tạm

thời chia cắt làm hai miền, nhưng trung thành với mục tiêu chính trị đã xác định, Hồ

Chí Minh và Đảng ta đã quyết tâm đưa miền Bắc quá độ lên CNXH. Bởi lẽ, theo

Người: "Trong gần một trăm năm qua, Việt Nam ta là một nước thuộc địa và nửa

phong kiến. Kinh tế rất lạc hậu và gồm có nhiều thành phần phức tạp, sức sản suất

chưa được phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Muốn

biến đổi tình hình nghèo nàn ấy thì miền Bắc phải tiến lên chủ nghĩa xã hội"[61,

tr.372]. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, mang không quân đánh phá miền

Bắc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20

năm hoặc lâu hơn nữa…song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý

hơn độc lập, tự do”[68, tr.131]. Trước khi qua đời, trong Di chúc, Người viết: "Điều

mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây

dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và

góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"[68, tr.624].

80

Nhân tố chủ quan của VHCT Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tính phong phú, đa

dạng của các hoạt động cách mạng mà Người đã trải qua nhưng chỉ nhằm một mục

tiêu duy nhất là vì dân, vì nước. Người đã đến nhiều nơi, hòa mình vào cuộc sống

của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước mà Người đã đi qua, tham

gia nhiều tổ chức chính trị như: Hội những người lao động hải ngoại tại Anh; Công

đoàn xí nghiệp kim khí quận 17 Paris; tham gia Đảng xã hội Pháp và là thành viên

sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa; tham gia

thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức; sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng

Thanh niên; Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam…Những hoạt động đó đã làm cho

tư tưởng và hành động chính trị của Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị dân tộc mà

còn có giá trị thời đại.

Tiểu kết chương 2

Văn hóa chính trị của mỗi cá nhân là sản phẩm của một nền VHCT, chịu

sự chi phối, tác động bởi VHCT của cộng đồng, nhưng cũng có vai trò nhất

định trong việc bảo tồn, duy trì và phát triển VHCT của cộng đồng. Trong đó,

một số cá nhân tiêu biểu như các lãnh tụ chính trị, danh nhân văn hóa, anh hùng

dân tộc…thì VHCT của riêng họ không chỉ là sự hội tụ và tỏa sáng của VHCT

truyền thống mà còn là nhân tố tác động, làm thay đổi về chất VHCT truyền

thống của cả một cộng đồng, dân tộc.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là những giá trị nhân văn, nhân đạo của tư

tưởng và hành động chính trị thực tiễn, là bộ phận cơ bản, nền tảng trong chỉnh

thể văn hóa của Người. Mọi tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh đều

hướng tới mục tiêu, lý tưởng chính trị mà Người đã xác định. Vì vậy, VHCT

Hồ Chí Minh cần được tiếp cận theo nghĩa rộng với tính cách là tổng hòa các

giá trị Chân, Thiện, Mĩ của những tư tưởng và hành vi chính trị mà Người đã

sáng tạo ra trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Mặt khác, VHCT Hồ Chí

Minh là VHCT của một cá nhân, nhưng là một cá nhân tiêu biểu, một lãnh tụ

chính trị của Đảng và của dân tộc Việt Nam. Do đó, những phẩm chất, nhân

81

cách trong ứng xử chính trị; cách thức tham dự và dấn thân vào sự nghiệp

chính trị để sáng tạo ra những sản phẩm có giá trị Chân, Thiện, Mĩ, có tính

nhân văn, nhân đạo về tư tưởng và hành vi chính trị cùng trật tự có tính hệ

thống của những yếu tố đó chính là cấu trúc của VHCT Hồ Chí Minh.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là kết quả của sự tích hợp, thâu thái, chắt

lọc các giá trị bền vững trong VHCT truyền thống của dân tộc và nhân loại, đặc

biệt là giá trị VHCT của chủ nghĩa Mác - Lênin, để giải quyết mâu thuẫn của

thực tiễn chính trị Việt Nam trong bối cảnh chung của tình hình chính trị thế

giới. Vì vậy, VHCT Hồ Chí Minh phản ánh sâu sắc những điều kiện khách

quan và nhân tố chủ quan của Người. Sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố khách

quan và chủ quan đó đã sản sinh ra một bộ phận quan trọng trong kho tàng di

sản của VHCT Việt Nam.

82

Chương 3

GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN

CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

3.1. GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

Văn hóa là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo ra, mang tính xã hội,

trong đó VHCT là một bộ phận và là bộ phận quan trọng, có vai trò chi phối mọi

loại hình văn hóa khác. Văn hóa Hồ Chí Minh là một hệ thống các giá trị do bản

thân Người sáng tạo ra, trong đó VHCT là một bộ phận hợp thành. Bộ phận đó

đóng vai trò nền tảng và chi phối việc hình thành, phát triển các bộ phận khác của

văn hóa Hồ Chí Minh. Với tính cách là một nhà chính trị chuyên nghiệp, VHCT Hồ

Chí Minh là một tập hợp bao gồm ba nhóm giá trị cơ bản đã được nhân dân Việt

Nam và cộng đồng quốc tế ghi nhận, bao gồm:

3.1.1. Các giá trị tư tưởng

3.1.1.1. Tri thức chính trị của Hồ Chí Minh

Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã

hội, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn, có liên hệ mật thiết với thế giới khách

quan và môi trường sống của con người. Tri thức chính trị là những hiểu biết về bản

chất các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân với cộng đồng; giữa các giai cấp, tầng lớp

với nhau trong một quốc gia dân tộc; giữa quốc gia này với quốc gia khác và thái độ

của số đông quần chúng nhân dân với mỗi thể chế chính trị hiện thực. Theo đó, tri

thức chính trị bao gồm học vấn chính trị và các kinh nghiệm chính trị đã diễn ra

trong thực tiễn đời sống. Tri thức chính trị có vai trò hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động

thực tiễn của mỗi chủ thể chính trị. V.I.Lênin đã chỉ rõ, không có lý luận cách mạng

thì không thể có phong trào cách mạng. Do vậy, tri thức chính trị không chỉ là một

trong những yếu tố cấu thành mà còn là yếu tố nền tảng của VHCT.

Sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh là sự nghiệp tìm kiếm lý luận, kinh

nghiệm và mô hình chính trị để thực hiện mục tiêu GPDT gắn liền với giải

phóng nhân dân lao động khỏi sự thống trị, áp bức, bóc lột, bất công. Vì vậy,

83

Người đã lựa chọn cách thức tiếp thu và làm chủ tri thức chính trị hết sức thiết

thực. Người quan niệm, mọi lý thuyết và kinh nghiệm chỉ là phương tiện,

phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị đã xác định. Trước hết, với chủ

trương đi ra nước ngoài xem người ta làm như thế nào rồi về giúp đồng bào

mình, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con tàu buôn của Pháp - một phương tiện có

thể đi đến nhiều nơi, nhiều trung tâm kinh tế, chính trị của châu Âu và thế

giới. Tại những trung tâm lớn như Pari, NewYork, London, Người không bị

cám dỗ bởi danh lợi cá nhân mà đã tự đặt mình vào địa vị của các giai cấp,

tầng lớp cần được giải phóng, không chỉ để thấu hiểu bản chất của các chế

độ chính trị mà ở đó người lao động đang là đối tượng bị bóc lột mà chính là

để chia sẻ kinh nghiệm đấu tranh của một giai cấp tiên tiến đang kiên quyết

đấu tranh chống giai cấp tư sản.

Không chỉ tiếp thu tri thức chính trị thông qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí

Minh còn dành nhiều thời gian để học ngoại ngữ và đến các thư viện, bảo tàng để

đọc các tác phẩm lý luận, văn học, nghệ thuật của các nhà tư tưởng, nhà chính trị,

nhà văn hóa lớn của châu Âu và thế giới. Với khả năng ngoại ngữ xuất sắc, Người

đã thông thạo lịch sử châu Âu, châu Mỹ, hiểu rõ diễn biến, kết quả của các cuộc

cách mạng lớn ở phương Tây, như cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp năm

1789. Từ thực tiễn sinh động và nhiều tri thức đã thu nhận được thông qua tư duy

độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn bám sát mục đích, Hồ Chí Minh đã rút ra những kết

luận chính trị quan trọng, trở thành vốn tri thức chính trị phong phú, sâu rộng.

Ngay sau khi đặt chân lên nước Pháp, Người đã có kết luận, “Người Pháp ở

Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông Dương”[99, tr.17]. Đây là kết luận quan

trọng đầu tiên của Hồ Chí Minh trong nhận diện bạn, thù, xác định đồng minh của

cách mạng và là cơ sở của kết luận, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có

hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một

mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[54, tr.287]. Sau khi nghiên cứu,

khảo sát thực tế chế độ chính trị và mô hình nhà nước tư sản, đặc biệt sau khi tiếp

xúc với Luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng

84

sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người…sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn

kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa

bình, hạnh phúc”[54, tr.496]. Với các cuộc cách mạng tư sản điển hình, Hồ Chí

Minh đã kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh

tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó

tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mạng đã 4 lần rồi, mà nay

công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng

áp bức”[55, tr.296]. Nhận thức rõ điều đó, Người đã nhắc nhở, “Chúng ta đã hy

sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì

quyền trao cho dân chúng số nhiều…Thế mới khỏi phải hy sinh nhiều lần, thế dân

chúng mới được hạnh phúc”[55, tr.292].

Chứng kiến nỗi thống khổ của nhân dân lao động ở thuộc địa và của giai cấp

công nhân ở chính quốc, Người đã kết luận: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có

một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai

cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả

hai vòi”[55, tr.130]. Và, để cùng nhau chống kẻ thù chung, Người kêu gọi nhân dân

lao động ở tất cả các nước đoàn kết lại.

Tham gia hoạt động trong phong trào công nhân, trong Đảng Xã hội và Đảng

Cộng sản Pháp đã giúp Hồ Chí Minh nhận rõ vai trò quan trọng của Đảng đối với

sự thành bại của cách mạng. Người chỉ rõ, “Cách mệnh…Trước hết phải có đảng

cách mệnh…Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có

vững thuyền mới chạy”[55, tr.289]. Với tri thức chính trị của mình, Hồ Chí Minh đã

tiến hành chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.

Đặc biệt, kinh nghiệm tiếp thu tri thức chính trị đã được Người vận dụng trong quá

trình chuẩn bị thành lập Đảng. Thông qua các lớp bồi dưỡng chính trị và tổ chức

phong trào vô sản hóa, Người đã biến các thanh niên tiểu tư sản, tư sản yêu nước

của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thành những hạt nhân cốt cán của Đảng và

đào tạo được một thế hệ cán bộ thực sự tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, kiên

cường, bất khuất, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạngViệt Nam.

85

Cùng với việc tìm kiếm tri thức để tiến hành lật đổ chế độ thực dân, phong

kiến, Hồ Chí Minh còn tìm hiểu rất kỹ về mô hình, cách thức và nguyên tắc

pháp lý của một nhà nước dân chủ. Tiếp thu mô hình nhà nước Xô Viết của

cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng,

Người chủ trương xây dựng nhà nước công nông binh. Mặc dù vậy, khi về

nước, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam, Người đã điều chỉnh và đề

nghị, “không nên nói công nông liên hợp và lập chính quyền Xô viết, mà phải

nói toàn thể nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”[15, tr.127].

Trước Cách mạng tháng Tám 1945, để bảo đảm cho tính chính đáng của

Chính phủ lâm thời sau khi lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, Hồ Chí Minh

đã triệu tập Đại hội Quốc dân Tân trào, với sự tham dự của các đại biểu đại diện cho

ba miền Bắc, Trung, Nam, kiều bào ta ở nước ngoài và đại biểu của các đảng phái

chính trị, các đoàn thể nhân dân, các dân tộc, tôn giáo. Kiên định mục tiêu ĐLDT

gắn liền với CNXH, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù đất

nước còn tạm thời chia cắt, Hồ Chí Minh cùng với Đảng vẫn quyết tâm đưa miền

Bắc quá độ lên CNXH. Bởi theo Người, sự thay đổi của công cụ lao động và cách

sản xuất kéo theo sự thay đổi của chế độ xã hội. Do đó, tiến lên CNXH là tất yếu

khách quan, “Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”[64, tr.601].

Giá trị của tri thức chính trị Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở việc Người đã lựa

chọn và tiếp thu hệ tư tưởng cách mạng nhất của thời đại để truyền bá về Việt Nam.

Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tiếp xúc với nhiều hệ tư tưởng, cả ở

phương Đông và phương Tây, cả truyền thống và hiện đại, cả của dân tộc và nhân

loại, nhưng xuyên qua tất cả, Người lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng

tư tưởng chính trị của mình và sau đó là của cả dân tộc Việt Nam. Người đã khẳng

định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân

dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ

nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi

tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[65, tr.563]. Với quan điểm đó, Hồ Chí

86

Minh luôn quán triệt sâu sắc, tiếp thu, vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin

vào điều kiện cụ thể nước ta, mang lại thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam,

mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của dân tộc, kỷ nguyên ĐLDT

gắn liền với CNXH. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là thành công của

chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh tiếp thu hệ tư tưởng chính trị Mác - Lênin nhưng không dập

khuôn máy móc, mà luôn có sự phát triển sáng tạo, cùng với sự tích hợp và vượt

gộp mọi tinh hoa tư tưởng chính trị của nhân loại. Do đó, trong tư tưởng chính trị

Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và là động lực chủ yếu của

cách mạng; mục tiêu chính trị là GPDT, giải phóng giai cấp và giải phóng con

người. Tuy nhiên, trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có lòng từ bi của Phật, lòng

bác ái của Chúa, tư tưởng đức trị của Khổng tử, tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử,

tư tưởng tiêu giao, thanh bạch của Lão Tử, tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn

và tư tưởng đề cao cá nhân con người của chủ nghĩa nhân văn phương Tây.

Hồ Chí Minh thừa nhận đấu tranh giai cấp nhưng không coi đó là động

lực chính của sự phát triển xã hội. Người chủ trương xây dựng Nhà nước Dân

chủ Nhân dân và từng bước quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ chính trị tư bản

chủ nghĩa nhưng tiếp thu những thành quả mà loài người đã đạt được dưới

CNTB. Người chủ trương xây dựng chế độ kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,

nhiều thành phần kinh tế, bảo đảm các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ

và tính chất của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tế của Việt Nam.

Hệ tư tưởng chính trị mà Hồ Chí Minh tiếp thu không chỉ là yếu tố bảo đảm

cho tính đúng đắn, cách mạng, khoa học trong các quyết sách chính trị, ứng xử

chính trị và đường lối chính trị, mà còn là ngọn cờ tư tưởng để đoàn kết, tập hợp

mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tín ngưỡng, tôn

giáo thành một khối thống nhất trong Mặt trận dân tộc thống nhất để thực hiện mục

tiêu chính trị phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân và xu

thế thời đại. Như vậy, tri thức chính trị là một trong những điều kiện cần và đủ để

các cá nhân tham gia vào đời sống chính trị. Với Hồ Chí Minh, tri thức chính trị vừa

87

là một bộ phận cấu thành, vừa là yếu tố có vai trò to lớn làm nên tính cách mạng,

khoa học, giá trị và sức sống cho VHCT của Người.

3.1.1.2. Niềm tin chính trị của Hồ Chí Minh

Niềm tin là sản phẩm của nhận thức, là trạng thái tâm lý thừa nhận một kết

quả tất yếu nào đó trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, là cơ

sở của thái độ, động cơ và hành động thực tiễn. Nền tảng và mức độ của niềm tin về

một kết quả nhất định sẽ xảy ra hay không thể xảy ra trong hiện thực, là mức độ

nhận thức về sự vật đó. Nếu niềm tin là kết quả của nhận thức cảm tính thì nó được

hình thành một cách nhanh chóng nhưng mang nặng tính chất chủ quan, kinh

nghiệm, có thể đúng đắn mà cũng có thể sai lầm và tính kiên định không cao.

Ngược lại, nếu niềm tin là kết quả của nhận thức lý tính, khoa học, hơn nữa khoa

học đó đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, khách quan thì nó có tính vững

chắc cao, ít bị dao động hay thay đổi cho dù có bất kỳ sự tác động nào đến quá trình

vận động của sự vật. Niềm tin sẽ quy định thái độ, động cơ và cách ứng xử cụ thể

của con người đối với sự vật, hiện tượng. Niềm tin chỉ có ở con người, gắn liền với

con người, là động lực thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình

nhận thức và cải tạo thế giới.

Niềm tin chính trị là sự thừa nhận tính đúng đắn, xác thực, ưu việt, hoặc tính

lỗi thời, lạc hậu của một hệ tư tưởng hay một thể chế chính trị nhất định. Niềm tin

đó sẽ quy định thái độ, động cơ, hành động ứng xử thực tế của các chủ thể chính trị

đối với việc tiến hành duy trì, bảo vệ hay xóa bỏ một hệ tư tưởng, một chế độ chính

trị cụ thể nào đó để thiết lập một chế độ chính trị mới. Một hệ tư tưởng, một chế độ

chính trị nhất định chỉ có thể đứng vững khi nó làm cho quần chúng nhân dân tin

rằng nó còn hợp lý và chính đáng. Niềm tin đó càng sâu rộng thì độ vững chắc càng

cao và ngược lại. Tuy nhiên, với quần chúng nhân dân, niềm tin chủ yếu được hình

thành một cách cảm tính theo số đông và phụ thuộc vào các tấm gương trong thực

tế cuộc sống, đặc biệt là tấm gương của những người đứng đầu.

Do đó, để xây dựng niềm tin chính trị vững chắc, một mặt, phải đề cao

việc nêu gương, trước hết là của lãnh tụ chính trị, đảng chính trị, mặt khác,

88

phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị để

từ đó hình thành và củng cố niềm tin. Nhận rõ điều đó, sau khi xác định

được con đường cứu nước đúng đắn, việc đầu tiên Hồ Chí Minh nghĩ tới là

thức tỉnh quần chúng. Người viết: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về

nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ…đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc

lập”[54, tr.209]. Sau này, để củng cố niềm tin của nhân dân vào tính ưu việt

của chế độ chính trị mới, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải

nêu gương về đạo đức cách mạng, bởi theo Người “một tấm gương sống còn

có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[54, tr.284]. Thực tế cho

thấy, niềm tin chính trị không chỉ là sản phẩm của tấm gương chính trị mà

còn là sản phẩm của giáo dục chính trị. Mặt khác, niềm chính chính trị

không những là cơ sở của việc tự tu dưỡng rèn luyện để hình thành các tấm

gương chính trị mà còn là động lực thúc đẩy các hành động chính trị, các

phong trào chính trị của quần chúng trong việc ứng xử với thể chế chính trị.

Vì vậy, niềm tin chính trị là một bộ phận cấu thành quan trọng của VHCT và

là một hình thức biểu hiện của VHCT.

Với Hồ Chí Minh, niềm tin chính trị là một bộ phận quan trọng trong VHCT

của Người. Nếu không có niềm tin chính trị thì mọi mục tiêu, lý tưởng chính trị chỉ

là mơ ước. Và nếu không có niềm tin chính trị, Hồ Chí Minh khó có thể vượt qua

được những khó khăn, thách thức để trở thành một nhà chính trị chuyên nghiệp có

những cống hiến vĩ đại không chỉ cho sự phát triển của VHCT Việt Nam mà còn

cho sự phát triển mọi mặt của đất nước. Với mục tiêu, lý tưởng và nhận thức chính

trị của mình, Hồ Chí Minh luôn có một niềm tin chính trị sâu sắc. Đó là niềm tin

vào quy luật khách quan và xu thế thời đại; tin vào học thuyết Mác - Lênin; tin vào

sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; tin vào mục tiêu, động lực, phương pháp

của con đường cách mạng vô sản; tin vào sức mạnh của nhân dân yêu chuộng hòa

bình trên thế giới và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tin vào những phẩm chất tốt

đẹp và khả năng hướng thiện của con người. Niềm tin chính trị Hồ Chí Minh là cơ

sở để Người có thái độ, động cơ, cách ứng xử đúng đắn và quyết tâm cao nhất trong

việc thực hiện các chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.

89

Với tính cách là một bộ phận cấu thành của VHCT, niềm tin chính trị Hồ Chí

Minh là một niềm tin lý tính, sâu sắc, cách mạng, khoa học, có giá trị to lớn, cho

phép Người đưa ra những dự báo chính xác trước những diễn biến phức tạp, mau lẹ

của tình hình chính trị thế giới và trong nước. Năm 1944, trong Thư gửi đồng bào

toàn quốc, Hồ Chí Minh đã dự báo: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở

trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”[56,

tr.538]. Sau Cách mạng tháng Tám, khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược

nước ta lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục

khẳng định một niềm tin mãnh liệt rằng, “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng

với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”[57, tr.534].

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước một kẻ thù mạnh hơn ta về nhiều

mặt, nhưng Hồ Chí Minh luôn tin rằng, dù chiến tranh có thể kéo dài nhưng

nhân dân ta nhất định sẽ đánh thắng giặc Mỹ.

Trên cơ sở niềm tin chính trị, Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng tích cực nắm bắt

tình hình, có sách lược phù hợp, chuẩn bị tốt những điều kiện cần và đủ để thời cơ

cách mạng xuất hiện và chủ động nắm bắt, tận dụng thời cơ một cách triệt để, hiệu

quả nhất. Niềm tin chính trị Hồ Chí Minh có sức lan tỏa mạnh mẽ đến các thế hệ

cách mạng và quần chúng nhân dân, đã khích lệ ý chí, nghị lực, niềm tin và sức

sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho cách mạng Việt

Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

3.1.1.3. Phương pháp và phong cách chính trị của Hồ Chí Minh

Phương pháp chính trị là tổng hợp các cách thức, biện pháp để thực hiện thắng

lợi các mục tiêu, lý tưởng chính trị, là một khâu hết sức quan trọng của quá trình

chính trị và có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của các quyết sách chính trị. Hồ Chí

Minh đã chỉ rõ, một trong những nguyên nhân thất bại của các cuộc đấu tranh nhằm

thay đổi thể chế chính trị thuộc địa nửa phong kiến mà các sĩ phu yêu nước và nhân

dân Việt Nam tiến hành trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là do chưa

có phương pháp đấu tranh đúng đắn.

90

Trên cơ sở nhận rõ những hạn chế về phương pháp của các bậc tiền bối,

tiếp thu và vận dụng sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào

điều kiện cụ thể Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một hệ thống các

phương pháp cách mạng đó là: lấy thực tiễn Việt Nam làm cơ sở xuất phát để

hướng đến mục tiêu cải tạo và phát triển đời sống chính trị của nhân dân; động

lực cách mạng là toàn dân nên phải huy động lực lượng của toàn dân; kiên định

về chiến lược nhưng linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; tích cực, chủ động tạo

lực, lập thế và nắm bắt thời cơ cách mạng; đi từ nhỏ đến lớn, từ bộ phận đến

toàn thể, giành thắng lợi từng phần để đi đến thắng lợi hoàn toàn. Trong thực

tiễn đấu tranh cách mạng, các phương pháp trên đây luôn được Người sử dụng

đồng thời với tính cách là một phương pháp tổng hợp. Với việc sáng tạo các

phương pháp cách mạng, Hồ Chí Minh đã từng bước hiện thực hóa các mục

tiêu chính trị đã xác định, góp phần hình thành và phát triển VHCT.

Phương pháp kết hợp với phong cách trở thành một yếu tố quan trọng cấu

thành VHCT Hồ Chí Minh. Phong cách chính trị là những hoạt động có ý thức,

được rèn luyện trở thành nền nếp ổn định của một cá nhân, tập thể hay cộng

đồng người nhất định, tạo nên nét đặc trưng, có giá trị cho xã hội. Phong cách

có nguồn gốc từ thói quen, nhưng không phải mọi thói quen đều trở thành

phong cách. Những nền nếp, thói quen chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của một cá

nhân, một tập thể hay một bộ phận người nào đó mà ảnh hưởng đến quyền tự

nhiên bất khả xâm phạm của người khác hay đi ngược lại với lợi ích của số

đông thì không được gọi là phong cách. Phong cách không chỉ được phản ánh

trong một lĩnh vực cụ thể nào, mà nó được biểu hiện trong mọi hoạt động sống

của con người. Mỗi cá nhân và tập thể trong quá trình tồn tại và phát triển luôn

phải giải quyết nhiều mối quan hệ khác nhau, đáp ứng những chuẩn mực, yêu

cầu, đòi hỏi chung của xã hội. Vì vậy, phong cách gắn liền với mỗi cá nhân,

mỗi tập thể, cộng đồng và được phản ánh trong từng mối quan hệ, từng hoạt

động cụ thể. Một cá nhân hay tập thể có phong cách ở lĩnh vực này nhưng chưa

91

hẳn đã có phong cách ở lĩnh vực khác. Phong cách với tính cách là một bộ phận

cấu thành của văn hóa phải là những thói quen có thể tạo ra những giá trị vượt

trội hơn so với người khác, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, có tính

chất nhân văn, nhân đạo, được cộng đồng thừa nhận và chia sẻ.

Từ khi xã hội có phân hóa giai cấp, không một cá nhân nào có thể sống tách

rời khỏi chính trị mà luôn là một phần của chính trị, luôn có sự tương tác với bộ

phận quan trọng nhất của chính trị là nhà nước. Vì vậy, phong cách chính trị là

những nền nếp, thói quen có ý thức của các chủ thể trong quá trình ứng xử và tham

gia đời sống chính trị. Đó là những thói quen trong nhìn nhận mối quan hệ giữa thể

chế chính trị, hệ thống chính trị với công dân và vai trò của công dân trong thể chế

chính trị đó. Phong cách chính trị không chỉ thể hiện trong việc nhận thức tính chính

đáng hay không chính đáng của hệ thống chính trị hiện hành; vị trí, vai trò của giai

cấp đang thống trị về chính trị mà còn thể hiện trong những hành động thực tiễn để

duy trì, bảo vệ, củng cố, phát triển hay thay đổi một thể chế chính trị này bằng một

thể chế chính trị khác, tiến bộ, nhân văn và ưu việt hơn.

Phong cách chính trị Hồ Chí Minh là những nguyên tắc, lề lối được lặp đi, lặp

lại trong hoạt động lý luận và thực tiễn chính trị, tạo nên sự khác biệt và những giá

trị to lớn cho cách mạng Việt Nam, được biểu hiện ra trong quá trình tư duy chính

trị, diễn đạt tư tưởng chính trị, ứng xử chính trị và sử dụng quyền lực chính trị. Với

tính cách là một yếu tố cấu thành của VHCT, phong cách chính trị Hồ Chí Minh là

sự kết hợp nhuần nhuyễn, chắt lọc tinh hoa từ nhiều mẫu chủ thể chính trị khác

nhau. Ở đó, có nguyên tắc, nền nếp ứng xử của người lao động, chấp hành pháp

luật; của người cách mạng; của người lãnh đạo, người quản lý. Tuy nhiên, tất cả

những nguyên tắc, nền nếp, thói quen ứng xử chính trị đó đều xuất phát từ nhân dân

và trở về với nhân dân. Tức là, Người luôn lấy việc bảo đảm quyền con người và

quyền dân tộc làm tiêu chuẩn, thước đo để nhìn nhận, đánh giá và ứng xử với

những vấn đề chính trị cụ thể.

Phong cách chính trị Hồ Chí Minh thể hiện tập trung nhất ở nguyên tắc hành

động là “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức

92

tránh”[57, tr.51]. Nguyên tắc đó luôn được quán triệt và thể hiện xuyên suốt, nhất

quán, chỉ đạo mọi ứng xử chính trị của Người, từ việc phân tích, đánh giá bản chất,

vị trí, vai trò của các giai cấp trong xã hội, lựa chọn hệ tư tưởng, mô hình nhà nước

đến việc xác định tiêu chí của một thể chế chính trị mới, cũng như đội ngũ cán bộ,

đảng viên trong bộ máy nhà nước. Với phong cách chính trị Hồ Chí Minh: người

dân là chủ thể của chính trị, một thể chế chính trị thực sự chính đáng phải là đại diện

tin cậy cho lợi ích của các giai cấp, tầng lớp và phải đưa xã hội phát triển đúng quy

luật khách quan, xu thế thời đại; nhà nước là của dân, do dân, vì dân; cán bộ, công

chức là công bộc của dân; Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ

thật trung thành của nhân dân. Phong cách chính trị Hồ Chí Minh không chỉ góp

phần tạo nên thành công trong sự nghiệp chính trị của Người, đưa lại những thắng

lợi to lớn có ý nghĩa thời đại cho cách mạng Việt Nam, mà còn phát huy cao độ vai

trò của nhân dân trong đời sống chính trị; làm cho những người mù chữ cũng không

đứng ngoài chính trị.

3.1.2. Các giá trị hành vi

3.1.2.1. Những hoạt động sáng tạo lý luận và thực tiễn chính trịNăng lực là khả năng tiến hành và đạt được các mục tiêu, lý tưởng trong quá

trình nhận thức và biến đổi hiện thực. Nguồn gốc của năng lực là những phẩm chất

nhân cách và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho phép chủ thể hoạt động hoàn

thành nhiệm vụ ở một hay một số lĩnh vực nhất định. Năng lực biểu hiện sự thống

nhất giữa những giá trị khách quan với những phẩm chất chủ quan và được nhìn

nhận ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau, vừa có tính chất cá nhân, vừa có tính chất

xã hội. Năng lực cá nhân không chỉ là sản phẩm, mà còn là một dạng biểu hiện của

năng lực xã hội, bị chi phối bởi năng lực của xã hội. Mặc dù vậy, năng lực của mỗi

cá nhân lại góp phần bồi đắp, nâng cao năng lực của tập thể, của cộng đồng, xã hội.

Mặt khác, dù là năng lực của cá nhân hay tập thể cũng chỉ được nhìn nhận thông

qua các hoạt động xã hội, trong môi trường xã hội. Và, hoạt động xã hội hay hoạt

động thực tiễn chính là thước đo năng lực của mỗi cá nhân, tập thể. Quá trình hình

thành năng lực của mỗi cá nhân vừa có nhân tố chủ quan, vừa có yếu tố khách

93

quan, trong đó nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định. Việc chủ động tiếp thu

những giá trị khách quan hay đem những tri thức, kinh nghiệm khách quan tác động

một cách có chủ đích để khơi dậy, phát huy những nhân tố chủ quan chính là con

đường cơ bản để hình thành năng lực cho mỗi cá nhân.

Năng lực chính trị không những là khả năng chiếm lĩnh, làm chủ các tri thức

chính trị, đánh giá đúng giá trị và hạn chế của các tri thức đó, lựa chọn, kế thừa,

phát triển và sáng tạo những tri thức mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn; mà còn

là khả năng biến những tri thức đó thành hiện thực trong đời sống chính trị, đáp ứng

nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân và phù hợp với xu thế thời đại.

Năng lực chính trị vừa là một khâu trong quá trình chính trị, vừa là một yếu tố quan

trọng tạo nên các giá trị hiện thực của chính trị. Nếu quá trình chính trị không đi đến

đích, không trở thành hiện thực thì mọi nhận thức đúng đắn, mục tiêu, lý tưởng

chính trị cao đẹp chỉ là lý thuyết, niềm tin chính trị sẽ trở thành chủ quan duy ý chí.

Với ý nghĩa đó, năng lực chính trị thực sự là một giá trị quan trọng của VHCT.

Năng lực chính trị Hồ Chí Minh biểu hiện trước hết trong việc lựa chọn, vận

dụng và phát triển sáng tạo một lý luận chính trị cách mạng, khoa học nhất, có thể

trả lời thấu đáo các câu hỏi lớn của cách mạng Việt Nam như: làm thế nào để giành

ĐLDT trước một kẻ thù có tính chất quốc tế là thực dân Pháp?; làm thế nào để có

được một đảng cách mạng chân chính của giai cấp vô sản dưới chế độ thuộc địa

nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn nhỏ bé?, và làm thế nào để giải quyết vấn

đề ĐLDT gắn liền với CNXH trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu như

Việt Nam?. Mặt khác, Hồ Chí Minh còn thể hiện một năng lực tuyệt vời trong việc

lựa chọn nội dung, hình thức và cách thức truyền bá lý luận vào quần chúng, trong

điều kiện chính quyền thực dân đang thực hiện chính sách ngu dân.

Năng lực chính trị Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở khả năng tổng kết lịch sử,

tổng kết thực tiễn và dự báo trước các diễn biến chính trị. Với tầm nhìn chiến lược

có phạm vi bao quát thời đại, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, Người đều đưa

ra những dự báo có độ chính xác gần như tuyệt đối. Khả năng dự báo của Hồ Chí

Minh là sản phẩm của việc nắm vững các nguyên tắc phương pháp luận của của

94

chủ nghĩa Mác - Lênin; nắm vững quy luật vận động, phát triển khách quan của

mỗi sự vật, hiện tượng; nhận thức đúng đắn vai trò và mối quan hệ biện chứng giữa

các yếu tố khách quan, chủ quan và khả năng phân tích hàng loạt các dữ kiện chính

trị trong nước và quốc tế. Những dự báo đó có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ

vững lập trường, củng cố niềm tin của bản thân Người và của nhân dân ta vào mục

tiêu, con đường chính trị đã lựa chọn. Mặt khác, những dự báo đó còn giúp Đảng ta

điều chỉnh kịp thời các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể để tạo ra sự tương hợp giữa các

yếu tố khách quan - chủ quan, trong nước - quốc tế, dân tộc - thời đại mà từ đó sẽ

xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng.

Nội dung quan trọng nhất của năng lực chính trị Hồ Chí Minh là khả năng sử

dụng các lực lượng vật chất để hiện thực hóa các mục tiêu chính trị. Với tri thức và

kinh nghiệm chính trị phong phú, Người đã sử dụng các lực lượng vật chất như báo

chí và các diễn đàn quốc tế để vạch trần bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân

và tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào Cộng sản, công nhân quốc tế cho sự nghiệp

GPDT của Việt Nam; Người không chỉ sáng lập mà còn rèn luyện Đảng Cộng sản

Việt Nam trở thành một Đảng cách mạng chân chính, nhân tố quyết định mọi thắng

lợi của cách mạng Việt Nam. Người đã sáng lập Mặt trận Việt Minh và kêu gọi mọi

người Việt Nam yêu nước tích cực tham gia vào các tổ chức, đoàn thể nhân dân,

phát huy tinh thần tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng. Mặc dù chưa có

chính quyền, nhưng cần có bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng

trong quá trình lật đổ nhà nước thực dân, phong kiến và thiết lập nhà nước Dân chủ

Nhân dân, Người đã chỉ đạo thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

- tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này.

Với khả năng dự báo và hiện thực hóa mục tiêu chính trị, Hồ Chí Minh đã

sớm chuẩn bị cho tính chính đáng, tính nhân dân và tính hợp pháp, hợp hiến của

một nhà nước dân chủ. Trong 24 năm trên cương vị đứng đầu nhà nước, năng lực

chính trị Hồ Chí Minh còn thể hiện ở khả năng truyền cảm hứng cách mạng; cảm

hóa, thu phục nhân tâm để tạo nên sự đồng thuận xã hội đối với các chủ trương lớn

của Đảng, nhà nước; xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng, củng cố, tăng

95

cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thiết lập và tăng cường sự đoàn kết giữa các

Đảng Cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và nhân dân yêu chuộng hòa

bình trên thế giới. Với kết quả vận dụng, phát triển sáng tạo và hiện thực hóa chủ

nghĩa Mác - Lênin trên nhiều lĩnh vực, Hồ Chí Minh đã trở thành mẫu mực của sự

thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa nói và làm, giữa tư tưởng và tấm gương

đạo đức. Mặt khác, năng lực tư duy lý luận, tổ chức thực tiễn cùng những đóng góp

to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng

GPDT, nhà văn hóa kiệt xuất mà còn trở thành nhà chính trị, nhà tư tưởng lỗi lạc

của Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX.

3.1.2.2. Xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

để thực hiện các mục tiêu chính trị

Đoàn kết là sự liên kết chặt chẽ của số đông người có chung mục đích, lý

tưởng, lợi ích, nguyện vọng để tạo nên sự đồng thuận về ý chí và hành động nhằm

đạt được hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn. Với tính cách là một bộ phận,

nhưng là bộ phận năng động nhất của thế giới, con người luôn là chủ thể của mọi

hoạt động nhận thức cũng như cải tạo tự nhiên và xã hội. Để chống lại sự tác động

tiêu cực của tự nhiên và sự xâm hại từ những cá nhân hay cộng đồng khác, ngay từ

sớm, con người đã liên kết với nhau thành từng nhóm. Cùng với quá trình phát triển

của xã hội, hình thức của sự liên kết đó cũng dần thay đổi, từ hình thức thị tộc, bộ

lạc phát triển thành các quốc gia, dân tộc. Bản chất của đoàn kết không chỉ là sự tự

nguyện đóng góp sức mạnh của mỗi cá nhân để tạo nên một động lực lớn hơn trong

việc bảo vệ các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của mỗi người, đoàn kết còn là

sự thỏa thuận về mặt ý chí trong việc thiết lập một môi trường xã hội mà ở đó, ý chí

riêng của cá nhân phải tôn trọng và tuân thủ ý chí chung của cộng đồng.

Đoàn kết là yêu cầu khách quan, là yếu tố cực kỳ quan trọng trong quá trình

tồn tại, phát triển của con người, không chỉ là cơ sở nền tảng, mà còn là động lực

của chính trị, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo, tất cả vì sự tiến bộ của xã hội. Thực

tế cho thấy, nhà nước nói riêng, chế độ chính trị nói chung chính là kết quả của sự

đoàn kết. Nhân dân có thể đoàn kết lại để thiết lập, bảo vệ một chế độ chính trị này,

96

hay lật đổ nó để thiết lập một chế độ chính trị khác. Mặc dù là sản phẩm của sự

đoàn kết, nhưng nhà nước lại có vai trò ảnh hưởng to lớn đến tính chất, mức độ,

phạm vi của đoàn kết. Bởi lẽ, đoàn kết chỉ có được trên cơ sở nhận thức rõ sự cần

thiết, mục tiêu, lợi ích và có hình thức, cơ chế phù hợp, thuận tiện để mọi người

đóng góp sức lực, trí tuệ của mình. Như vậy, giữa đoàn kết và chính trị có mối quan

hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, đoàn kết vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chính

trị. Việc giải quyết hài hòa mối quan hệ này vì lợi ích, nguyện vọng của quảng đại

quần chúng nhân dân, vì sự tiến bộ chung của nhân loại chính là một trong những

nội dung cơ bản, quan trọng nhất của VHCT.

Hồ Chí Minh luôn cho rằng, đoàn kết là vấn đề chiến lược, lâu dài, không chỉ

trong cách mạng GPDT mà cả trong cách mạng XHCN; không chỉ đoàn kết toàn

dân tộc mà còn kết hợp đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế để mở rộng phạm vi

đại đoàn kết. Tư tưởng này là kết quả của việc nhận thức rõ nét tương đồng về thân

phận và quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn thế giới trước sự

bóc lột, áp bức của giai cấp tư sản và sự cần thiết phải thực hiện đoàn kết quốc tế

trong quá trình đấu tranh chống kẻ thù chung. Vì vậy, Người đã mở rộng khẩu hiệu

đoàn kết của Lênin “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”

thành khẩu hiệu “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”[54, tr.496]. Trên cơ sở

thấu hiểu sâu sắc đặc điểm, cấu trúc kinh tế, xã hội của các nước phương Đông,

trong đó có Việt Nam, Người cho rằng, việc đánh đuổi thực dân Pháp, giành ĐLDT

và quyền tự quyết định con đường phát triển của đất nước vừa là trách nhiệm, vừa

là quyền lợi của mọi người, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tín ngưỡng, tôn

giáo... Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hòa tính phổ biến của thế giới với tính đặc thù

của Việt Nam trong khi đồng thời thừa nhận quy luật chung về vai trò của đấu tranh

giai cấp cũng như đoàn kết giai cấp trong phát triển xã hội.

Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung, của sự nghiệp chính trị Hồ

Chí Minh nói riêng đều bắt nguồn từ việc Người đã nhận thức đúng và giải quyết

hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề đoàn kết với quá trình thực hiện các mục tiêu

chính trị. Cùng với việc lựa chọn hệ tư tưởng, xác định mục tiêu, con đường cách

97

mạng, vấn đề được Người quan tâm hàng đầu là xây dựng sự đoàn kết. Theo

Người, chỉ có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh cần thiết để xóa bỏ chế độ thuộc địa,

nửa phong kiến - một chế độ chính trị phản dân chủ, tàn bạo, bất công, vô nhân đạo,

đã và đang xâm phạm nghiêm trọng quyền con người và quyền dân tộc. Người chỉ

rõ: “Nếu bọn đế quốc áp bức chúng ta và đối xử với chúng ta như loài vật, đó là vì

chúng ta không đoàn kết! Nếu chúng ta đoàn kết chúng ta sẽ trở nên đáng gờm” và

Người kêu gọi: “Chúng ta nên sớm đoàn kết lại! hãy hợp lực để đòi quyền lợi và tự

do của chúng ta! Hãy hợp lực để cứu lấy nòi giống chúng ta”[55, tr.499].

Trong tư tưởng và hành động chính trị Hồ Chí Minh, đoàn kết vừa là

mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Theo Người, đoàn kết là cội

nguồn của mọi thắng lợi, mọi thành công trong cải tạo hiện thực; tính chất,

mức độ, phạm vi của đoàn kết và thành công luôn tỷ lệ thuận với nhau, có

đoàn kết mới có thành công, đoàn kết càng chặt chẽ, sâu rộng, thành công

càng lớn và ngược lại. Vì vậy, Người xác định, đại đoàn kết vừa là mục tiêu,

vừa là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và của dân tộc. Đảng chỉ có thể đạt

được mục tiêu, lý tưởng của mình khi có đủ lực lượng để thực hiện các chủ

trương, đường lối đã xác định. Điều đó đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng

là Đảng phải đoàn kết mọi người có thể đoàn kết được, tranh thủ mọi lực

lượng có thể tranh thủ được. Mặt khác, đoàn kết để có đủ lực lượng trong cải

tạo và biến đổi hiện thực vì lợi ích của nhân dân, do đó nó phải là trách

nhiệm của toàn dân, của cả dân tộc. Trong buổi ra mắt của Đảng Lao động

Việt Nam ngày (3.3.1951) Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước

toàn thể dân tộc rằng: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm

trong tám chữ là “Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”[60, tr.49]. Phụng sự

Tổ quốc không chỉ là GPDT mà quan trọng hơn là đưa dân tộc phát triển

đúng quy luật khách quan, xu thế thời đại, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh

phúc, được tạo điều kiện để phát triển toàn diện. Vì vậy, trong bài nói

chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi ngày (31.8.1963) về cách mạng

XHCN. Người chỉ rõ: “Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là

98

đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước

nhà”[67, tr.161]. Ba nhiệm vụ chiến lược trên đây có mối quan hệ biện

chứng với nhau. Đoàn kết để xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất nước

nhà. Ngược lại, muốn xây dựng CNXH và đấu tranh cho sự nghiệp thống

nhất Tổ quốc phải thực hiện đoàn kết và đại đoàn kết.

Để hiện thực hóa các mục tiêu, lý tưởng chính trị, Hồ Chí Minh luôn

quan tâm xây dựng và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Và, theo Người,

đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân, mà toàn dân là mọi người Việt

Nam yêu nước, trong đó, công nhân, nông dân là lực lượng đông đảo nhất,

cho nên họ là nền tảng của khối đại đoàn kết. Toàn dân tộc là một khối vừa

thống nhất, vừa đa dạng về giai cấp, tầng lớp, nguyện vọng, lợi ích… nhưng

có mục tiêu chung là thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng. Do đó,

Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết phải trên cơ sở lập trường của giai cấp công

nhân, đoàn kết phải gắn liền với đấu tranh và đấu tranh để đoàn kết được

đúng hướng và ngày càng được củng cố, tăng cường. Mặt khác, muốn đoàn

kết phải xóa bỏ hết mọi thành kiến, thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau

cùng tiến bộ; phải đề cao tinh thần khoan dung, độ lượng với những sai lầm,

khuyết điểm của con người, tin vào khả năng hướng thiện của con người;

đồng thời phải tôn trọng những nét riêng, sự khác biệt về bản sắc văn hóa,

nguyện vọng, lợi ích mà không ảnh hưởng, không xâm hại đến mục tiêu, lợi

ích chung của cộng đồng, của quốc gia dân tộc. Người thường căn dặn rằng,

“Bất kỳ ai, dù quá khứ của họ thế nào, miễn là ngày nay họ thật lòng ủng hộ

công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, thì chúng ta

đoàn kết với họ”[66, tr.453]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, muốn có đoàn kết

phải thực hiện phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy ĐLDT, thống nhất Tổ

quốc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm điểm tương đồng để đoàn kết.

Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở quan điểm, tư tưởng đề cao vai trò của

đoàn kết mà bằng các hoạt động thực tiễn, Người đã tạo ra các hình thức tổ

chức phù hợp với từng thời kỳ cách mạng để đoàn kết thực sự trở thành sức

99

mạnh vật chất trong quá trình hiện thực hóa các mục tiêu chính trị. Người đã

khẳng định: “Cách mạng nhờ đoàn kết mà thắng lợi, kháng chiến nhờ đoàn kết

mà thành công”[64, tr.367]. Như vậy, chiến lược đại đoàn kết là một khâu quan

trọng trong quá trình chính trị, là yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp

chính trị Hồ Chí Minh và là một giá trị quan trọng trong VHCT của Người.

3.1.2.3. Xây dựng hệ thống chính trị bảo đảm mọi quyền lực thuộc

về nhân dân

Hệ thống chính trị là mô hình tổ chức quyền lực chính trị, bao gồm một

tập hợp các yếu tố, các bộ phận quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh

thể thống nhất, có chức năng thực thi quyền lực của giai cấp thống trị và chi

phối toàn bộ các quan hệ lợi ích của xã hội. Các bộ phận cấu thành hệ thống

chính trị bao gồm, các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức xã hội dân sự,

trong đó nhà nước là bộ phận chi phối trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến đời sống

chính trị của mọi công dân. Hệ thống chính trị với các yếu tố đặc trưng như:

bản chất giai cấp; hệ tư tưởng; mục tiêu, lý tưởng và các thiết chế mà nó tạo ra

để phân bổ các giá trị xã hội là biểu hiện tập trung nhất VHCT của một quốc

gia, dân tộc. Thực tế cho thấy, do đặc trưng giai cấp của hệ thống chính trị cũng

như tính đa dạng của nhân dân mà cùng một hệ thống chính trị luôn có những

xu hướng đánh giá, ứng xử khác nhau và tính chính đáng, đúng đắn của hệ

thống chính trị cũng như của VHCT luôn thuộc về số đông. Mặc dù vậy, việc

thay đổi hệ thống chính trị này bằng một hệ thống chính trị khác bao giờ cũng

bắt đầu từ một cá nhân nhà chính trị hay lãnh tụ chính trị cụ thể.

Nhận rõ vai trò quan trọng của đảng chính trị, Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ

động chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức để xây dựng một chính đảng cách

mạng ở Việt Nam. Cuộc vận động thành lập Đảng do Hồ Chí Minh tiến hành với

cách làm thận trọng, sáng tạo, kết hợp quy luật phổ biến mà chủ nghĩa Mác - Lênin

đã chỉ ra với quy luật đặc thù của Việt Nam, một chính đảng thực sự cách mạng của

giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc đã ra đời vào đầu năm

1930. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin

100

với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đại biểu trung thành cho lợi ích

của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Hồ Chí

Minh khẳng định: “Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của

dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”[65, tr.402]. Đảng Cộng sản Việt Nam ra

đời đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước và đưa cách mạng

Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nói về vai trò của Đảng đối với

cách mạng, Người chỉ rõ: “Có Đảng lãnh đạo, cách mạng và kháng chiến mới thắng

lợi, kiến quốc mới thành công”[61, tr.273].

Cuộc cách mạng mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn và nhân dân ta tiến hành dưới

sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH là cuộc cách mạng

sâu sắc, toàn diện, triệt để nhất trong lịch sử nhân loại và chưa từng có tiền lệ trong

lịch sử dân tộc. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phải đi từng bước, giành

thắng lợi từng phần để tiến tới thắng lợi cuối cùng. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng là

hết sức quan trọng và cần thiết, cả trong cách mạng GPDT cũng như trong cách

mạng XHCN. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng

biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của

nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách

mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”[68, tr.391].

Với sự quan tâm sâu sắc của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không

ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, luôn quán triệt và vận

dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể để đề ra chủ trương,

đường lối lãnh đạo đúng đắn, xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại

đoàn kết toàn dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đạt được những

thắng lợi ấy là do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó nguyên nhân cơ bản nhất là:

“Đảng ta luôn luôn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối trung thành

với lợi ích của giai cấp và của nhân dân, biết vận dụng lý luận Mác - Lênin vào tình

hình thực tế của nước ta và đề ra đường lối, chính sách đúng đắn”[65, tr.416].

Để bảo đảm cho Đảng giữ vững vai trò là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống

chính trị dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh

101

về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên

của Đảng. Người đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để đáp

ứng những yêu cầu mới luôn được đặt ra trong quá trình vận động, phát triển của

cách mạng. Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, nhận rõ cơ sở ra đời, tồn

tại và mục tiêu phấn đấu của Đảng chính là lợi ích, nguyện vọng của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền kể từ sau Cách mạng

tháng Tám 1945 và từ đó đến nay, Đảng luôn giữ vững vị trí hạt nhân lãnh đạo và

vai trò là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, giữa

Đảng và Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Nhà nước mang bản chất giai

cấp của Đảng, là bộ máy quyền lực công, là nơi thể chế các chủ trương, đường lối

của Đảng thành chính sách, pháp luật và hiện thực hóa các mục tiêu, lý tưởng của

Đảng trong đời sống chính trị. Cùng với việc quan tâm xây dựng Đảng, Hồ Chí

Minh đã rất quan tâm đến việc xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước.

Tiếp thu giá trị VHCT của nhân loại về quyền bình đẳng giữa tất cả mọi

người, Hồ Chí Minh cho rằng, nhà nước phải là của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân. Với chủ trương trên, sau khi lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, Hồ

Chí Minh sớm nghĩ đến việc bảo đảm tính hợp pháp, hợp hiến cho Chính phủ lâm

thời, mặc dù Chính phủ đó đã có tính chính đáng về mặt hình thức và đang trong

tình thế khó khăn bởi sự chống phá của thù trong, giặc ngoài. Tuy nhiên, ngay trong

phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời vào ngày 03-9-1945, Hồ Chí Minh đã

nhấn mạnh việc, dưới chế độ cũ, nước ta không có Hiến pháp nên nhân dân ta

không được hưởng quyền tự do dân chủ. Do vậy, Người đề nghị “Chính phủ tổ

chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”[57,

tr.7]. Sau đó, trong bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của dân tộc, do Người chủ trì

soạn thảo - bản Hiến Pháp thể hiện đậm nét tính dân chủ, nhân văn và khoa học, là

cơ sở cho sự phát triển của lịch sử lập Hiến ở Việt Nam. Bản Hiến pháp đã khẳng

định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả mọi quyền bính trong

nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu

nghèo, giai cấp, tôn giáo”[dẫn theo 70, tr.14].

102

Cùng với việc chăm lo bảo đảm tính hợp hiến và hiệu lực pháp lý của nhà

nước, Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đức,

có tài, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người nói,

“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy

cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân

công làm đày tớ cho dân”[60, tr.434]. Để Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa thực sự là nơi đại diện, tập trung ý chí chính trị, là công cụ thực thi quyền

lực chính trị của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chính phủ phải thi hành

một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống nhân dân, cứu tế thất

nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế văn hóa…Có như thế, dân

chúng mới đoàn kết chung quanh chính phủ”[57, tr.258-259].

Với tư cách là người sáng lập Đảng (1930) và là Chủ tịch nước (1945),

Chủ tịch Đảng (1951), Hồ Chí Minh đã xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam

và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội chủ

nghĩa Việt Nam luôn hoàn thành tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ, góp phần

hoàn thiện hệ thống chính trị thực sự vì nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí

Minh, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị biểu hiện ở trách nhiệm của

Đảng và Nhà nước đối với nhân dân. Người nói: “chính sách của Đảng và

Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân

đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và chính phủ có lỗi; nếu

dân dốt là Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có

lỗi”[62, tr.518].

Tư tưởng và hoạt động cụ thể của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nhà

nước trong hệ thống chính trị đã thể hiện những giá trị mới của VHCT Việt

Nam. Tuy nhiên, để bảo đảm sự tham gia ngày càng sâu, rộng của nhân dân

vào đời sống chính trị và tạo điều kiện để người dân đóng góp sức lực, trí

tuệ của mình cho sự nghiệp cách mạng, Người đã rất quan tâm đến việc xây

dựng các tổ chức, đoàn thể phù hợp với lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp của

nhân dân. Các tổ chức đó không chỉ là cơ sở xã hội của Đảng, Nhà nước, là

103

động lực để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng mà còn là nơi đại diện cho

tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng,

Nhà nước, bảo đảm cho nhân dân đóng vai trò ngày càng tích cực trong đời

sống chính trị.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh nhằm lật đổ chế độ chính

trị cũ, thiết lập chế độ chính trị mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân. Do đó, Người luôn tìm tòi, sáng tạo các hình thức phù hợp để đoàn kết và phát

huy sức mạnh toàn dân tộc, “đem hết sức dân, tài dân, của dân…làm lợi cho

dân”[58, tr.75]. Một hình thức rộng lớn, bao trùm nhất bảo đảm cho sức mạnh của

khối đại đoàn kết ngày càng được mở rộng và phát huy, đó là hình thức Mặt trận.

Mặc dù có những tên gọi khác nhau trong từng thời kỳ cách mạng nhưng về bản

chất, nó chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi để tập hợp tất cả mọi giai cấp, tầng lớp

với nguyên tắc đặt mục tiêu, lợi ích, nguyện vọng chung lên trên mục tiêu, lợi ích

của bộ phận giai cấp. Nguyên tắc này không những chỉ đạo việc giải quyết mối

quan hệ giữa dân tộc với giai cấp mà còn chỉ đạo việc xác định tôn chỉ, mục đích

hoạt động của Mặt trận và vị trí, vai trò của các thành viên trong Mặt trận.

Về mối quan hệ giữa Mặt trận với các bộ phận khác của hệ thống chính

trị, Hồ Chí Minh cho rằng, Mặt trận dân tộc thống nhất bao hàm trong nó

mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, là nơi tập hợp sức mạnh của nhân dân để

thực hiện các mục tiêu chung phù hợp với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp

công nhân mà Đảng là người đại diện. Người chỉ rõ, “Công tác Mặt trận là

một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng... Trong cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,

Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của

cách mạng Việt Nam”[66, tr.453]. Do vậy, Đảng là lực lượng lãnh đạo toàn

xã hội, đương nhiên Mặt trận phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng

Đảng chỉ là một thành viên của Mặt trận, có trách nhiệm tuân thủ tôn chỉ,

mục đích và nguyên tắc hoạt động của Mặt trận. Với nguyên tắc, nhân dân là

tối cao, tất cả đều vì dân, nhân dân chỉ đoàn kết vì lợi ích chung, chỉ thừa

nhận vai trò lãnh đạo của Đảng khi Đảng thực sự vì dân. Hồ Chí Minh đã chỉ

104

rõ: “Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của

mình...chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi

thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới

giành được địa vị lãnh đạo”[56, tr.168].

Thực tiễn luôn chứng minh tính đúng đắn của quan điểm Hồ Chí Minh,

“Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng

lực lượng đoàn kết của nhân dân”[63, tr.453]. Tuy nhiên, sức mạnh đó chỉ có thể

vượt qua trạng thái tiềm năng để trở thành hiện thực thông qua hoạt động của Mặt

trận dân tộc thống nhất mà cụ thể là các tổ chức, đoàn thể nhân dân. Vì vậy, trong

xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị dân chủ nhân dân, cùng với việc chăm lo

xây dựng Đảng, Nhà nước, Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng, củng cố, mở rộng

Mặt trận dân tộc thống nhất để bảo đảm cho nhân dân thực thi quyền lực chính trị

của mình. Đây là một giá trị cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.

3.1.3. Các giá trị nhân cách

3.1.3.1. Luôn đề cao vai trò của nhân dân, trọng dân, thân dân, mọi suy

nghĩ và hành động cách mạng đều vì quyền lợi của dân

Tư tưởng và hành động cụ thể trong ứng xử với nhân dân không chỉ là nguồn

gốc sâu xa tạo nên sự nghiệp chính trị Hồ Chí Minh mà còn là một giá trị nổi bật

của VHCT mà Người để lại cho Đảng và dân tộc ta. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,

nhân dân là cộng đồng người bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau nhưng

đều là gốc của quốc gia, dân tộc; vừa là cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của

chính trị vừa là chủ thể của chính trị. Mặc dù vậy, trên thực tế quyền lực chính trị

thường chỉ được bảo đảm cho những người thuộc giai cấp thống trị. Do đó, lịch sử

phát triển của xã hội loài người cũng đồng thời là lịch sử đấu tranh cho việc mở

rộng đối tượng là chủ thể của chính trị và bảo đảm cho các chủ thể đó tham gia

ngày càng sâu, rộng và thể hiện ngày càng rõ hơn vai trò của mình trong đời sống

chính trị. Thực tiễn lịch sử cho thấy, chỉ có quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin

về nhân dân là quan điểm đúng đắn, cách mạng, khoa học nhất và cũng chỉ có

CNXH là chế độ xã hội bảo đảm đầy đủ nhất quyền lực chính trị của nhân dân. Vì

105

vậy, việc đề cao vai trò của nhân dân trong đời sống chính trị và hướng mọi hoạt

động của các chủ thể chính trị đến mục tiêu xây dựng thành công CNXH là tiêu chí

đánh giá VHCT trong thời đại ngày nay.

Hồ Chí Minh có nhiều cách diễn đạt và tiếp cận khác nhau về nhân dân,

nhưng đều đề cập đến số đông quần chúng trong xã hội. Tiếp cận từ góc độ nguồn

gốc, Người cho rằng, nhân dân là những người có chung một cội nguồn, chung một

tổ tiên, đều là “con Lạc, cháu Hồng”, đều là anh em, ruột thịt. Từ góc độ bản sắc

văn hóa của cộng đồng người, Hồ Chí Minh quan niệm, nhân dân là những người

trong cùng một quốc gia, một lãnh thổ thống nhất, có những nét chung về tiếng nói,

chữ viết, phong tục, tập quán…Từ góc độ chính trị, Người quan niệm “Nhân dân là

bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu

nước”[61, tr.264]. Nội hàm khái niệm nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn

được đề cập ở phạm vi rộng hơn, bao hàm cả nghĩa quốc tế, nhân loại, đó là giai cấp

công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đang đấu tranh chống lại sự nô dịch,

áp bức để giành ĐLDT, tự do và một môi trường thế giới hòa bình, tiến bộ.

Với quan điểm, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, Hồ Chí Minh luôn

khẳng định, cách mạng là một quá trình nhằm trả lại địa vị chủ thể quyền lực chính

trị của nhân dân, không phân biệt, giai cấp, tầng lớp, tín ngưỡng, tôn giáo. Để thực

hiện mục tiêu đó, Người đã xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân để lựa chọn hệ

tư tưởng, lý tưởng và mục tiêu chính trị. Trước khi tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp

công nhân, Người đã tiếp xúc với nhiều học thuyết chính trị khác nhau, nhưng cuối

cùng, chính chủ nghĩa nhân văn, lòng yêu thương con người và tư tưởng tất cả vì

nhân dân đã giúp Hồ Chí Minh lựa chọn, tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn

lý tưởng xây dựng một chế độ chính trị thực sự của dân, do dân, vì dân. Thấu hiểu

nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của nhân dân là được độc lập, tự do, ấm no, hạnh

phúc. Hồ Chí Minh đã lựa chọn và đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường

cách mạng vô sản, với mục tiêu chính trị là ĐLDT gắn liền với CNXH. Đây là con

đường duy nhất đúng đắn đã được thực tiễn kiểm nghiệm.

106

VHCT Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư tưởng và hành động đề cao vai trò của

nhân dân, tôn trọng dân, học hỏi dân, xuất phát từ dân để xác định lực lượng và

phương pháp cách mạng. Với quan điểm: “Cách mạng là sự nghiệp của quần

chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”[65, tr.672], Người

luôn chủ trương làm tốt công tác dân vận để tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp và phát

huy sức mạnh của toàn dân, làm cho nhân dân hiểu rõ nghĩa vụ, trách nhiệm và

quyền lợi của mình trong đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng, “Vì bị áp

bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng

bền, chí cách mệnh càng quyết”[55, tr.288]. Do vậy, ở một nước thuộc địa nửa

phong kiến như Việt Nam, giai cấp công nhân cùng với giai cấp nông dân là động

lực chủ yếu của cách mạng và trong cuộc đấu tranh đó “nếu thua thì chỉ mất một cái

kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới”[55, tr.288]. Xuất phát từ quan điểm, cách

mạng là của dân, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng bạo lực cách mạng, tức là bạo

lực của toàn dân có tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng để phát huy được sức

mạnh của toàn dân. Người khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ

thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản

cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”[68, tr.391]. Với quan

điểm, nhân dân là cội nguồn của mọi tri thức, mọi sáng tạo lịch sử, Hồ Chí Minh

không chỉ tự mình chân thành học hỏi dân mà còn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải

tích cực, chủ động gần dân, học dân, đúc rút kinh nghiệm từ nhân dân. Người chỉ

rõ: “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học

dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng”[58, tr.333].

Trong VHCT Hồ Chí Minh, vấn đề độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc và không

ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vừa là điểm khởi đầu, vừa

là mục tiêu cuối cùng của mọi chiến lược và sách lược cách mạng. Trên cơ sở kiên

định mục tiêu chiến lược là ĐLDT gắn liền với CNXH, trong chỉ đạo thực tiễn, Hồ

Chí Minh luôn xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng thiết thực của nhân dân và thực

tiễn đất nước trong từng thời kỳ để xác định sách lược cụ thể trên các lĩnh vực,

107

chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, bảo đảm linh hoạt, mềm dẻo và mang lại hiệu

quả thiết thực cho cuộc sống của nhân dân.

Hồ Chí Minh nhất mực đề cao vai trò của nhân dân nói chung nhưng

không đánh đồng vai trò đó ở mọi bộ phận dân cư. Theo Người, trong nhân

dân luôn có ba hạng người, đó là, “hạng hăng hái, hạng vừa và hạng kém.

Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa, nhiều hơn hết, hạng hăng

hái và hạng kém đều ít hơn”[58, tr.329]. Vì vậy, trong mỗi tổ chức, mỗi cấp,

mỗi ngành, trước khi triển khai thực hiện một nhiệm vụ nào đó, người lãnh

đạo cần phải dùng nhóm hăng hái làm trung kiên, nòng cốt. Và, thông qua

hoạt động thực tiễn để sàng lọc, bổ sung nhóm hăng hái, trung kiên, nâng

cao hạng vừa và kéo hạng kém tiến lên. Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ

khẳng định vai trò nền tảng của nhân dân mà còn nhận thấy vai trò to lớn có

tính chất quyết định của đảng chính trị cũng như của các nhà chính trị và đội

ngũ cán bộ, đảng viên với việc phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân

trong tiến trình lịch sử.

3.1.3.2. Luôn hài hòa giữa đạo đức với pháp luật, giữa đạo đức chính trị với

cách thức đạt được các mục tiêu chính trị

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ chính trị quan tâm nhiều nhất đến đạo đức, Người

không những chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa đạo đức với hiệu quả lãnh đạo của

người đảng viên, giữa đạo đức với tồn tại xã hội, mà còn chỉ rõ tính vượt trước của

đạo đức đối với sự vận động, phát triển của xã hội. Theo Hồ Chí Minh, người cách

mạng nếu không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo

được nhân dân. Mặt khác, Người còn khẳng định vai trò của đạo đức là yếu tố thúc

đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của cách mạng, sự ra đời của chế độ xã hội mới khi

chứng minh rằng, chủ nghĩa cá nhân là một trở lực lớn của CNXH. Vì vậy, Người

quan tâm rất nhiều đến việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên,

nhằm góp phần tạo ra một môi trường xã hội mới, làm cơ sở để xây dựng một nền

đạo đức mới. Với nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết và sự nêu gương về đạo đức, Hồ

Chí Minh đã chỉ ra vị trí, vai trò, chuẩn mực và nguyên tắc xây dựng đạo đức cách

108

mạng và để lại một tấm gương sáng ngời về đạo đức của người cộng sản - một giá

trị mang tầm biểu tượng trong VHCT của Người.

Coi trọng và đề cao vai trò của đạo đức cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không

tuyệt đối hóa đạo đức, mà Người luôn chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa đạo đức

với pháp luật. Trong đó, đạo đức là gốc, là cơ sở, nền tảng của pháp luật, nhưng

pháp luật lại là yếu tố bảo đảm cho đạo đức được hoàn thiện và phát triển phù hợp

với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, ngay từ năm 1919, Người đã đòi hỏi

chính quyền thực dân Pháp phải cai trị nhân dân An Nam bằng pháp luật. Tuy

nhiên, yêu cầu đó chỉ được hiện thực hóa khi chính quyền về tay nhân dân sau Cách

mạng Tháng tám 1945. Trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh không chỉ quan

tâm xây dựng nền đạo đức mới, mà còn quan tâm sâu sắc đến việc hoàn thiện Hiến

pháp, pháp luật và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Người yêu cầu “Pháp

luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề

nghiệp gì”[59, tr.127].

Đạo đức chính trị là bộ phận cốt lõi của đạo đức cách mạng, bao gồm những

nguyên tắc, chuẩn mực và định hướng ứng xử, có tác dụng chi phối, điều chỉnh

hành vi của mỗi chủ thể trong đời sống chính trị, góp phần xây dựng một nền chính

trị nhân văn, nhân đạo, tất cả vì con người. Chính trị chỉ thực sự trở thành văn hóa,

có giá trị văn hóa khi tất cả hệ thống cùng các yếu tố cấu thành của nó như: mục

tiêu, lý tưởng, phương pháp, phương tiện và mỗi chủ thể đều lấy nhân dân làm đối

tượng tối cao để phục vụ và hướng tới việc bảo đảm cho con người ngày càng được

giải phóng. Nếu đi ngược lại hoặc không bảo đảm được tiêu chí này, chính trị chỉ là

những thủ đoạn của cá nhân hay nhóm lợi ích nào đó, và khi ấy, chính trị thậm chí

còn là phản văn hóa. Vì vậy, việc lựa chọn, xác lập và xây dựng một mô hình chính

trị mà các yếu tố, các bộ phận của nó đều đặt lợi ích của cộng đồng, quốc gia dân

tộc lên trên hết là một giá trị hết sức quan trọng của VHCT.

Hồ Chí Minh đã hy sinh cả cuộc đời để làm chính trị nhưng không vì bản

thân mình mà chỉ có một mục đích là đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho

nhân dân. Vì vậy, Người không chỉ để lại một di sản chính trị vẻ vang mà còn

109

để lại một tấm gương sáng ngời về đạo đức chính trị, làm cho sự nghiệp cách

mạng của Người cũng như của nhân dân Việt Nam thực sự có giá trị văn hóa

cao. Nguyên tắc bất biến chỉ đạo mọi hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh là

GPDT phải gắn liền với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Nguyên tắc này

là cơ sở để Người xác lập các chuẩn mực đạo đức: trung, hiếu, cần kiệm liêm

chính, yêu thương con người…và định hướng cho các hành vi chính trị. Đạo

đức chính trị là cơ sở để Hồ Chí Minh ứng xử với các học thuyết chính trị, nhìn

nhận tấm gương của các nhà chính trị và lựa chọn xây dựng thể chế chính trị.

Với đạo đức chính trị Hồ Chí Minh, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là học

thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất; chỉ có Cách mạng Tháng

mười Nga là thành công đến nơi; chỉ có Lênin là tấm gương mẫu mực về đạo đức

chính trị của người cộng sản. Viết về tấm gương đạo đức của Lênin, Hồ Chí Minh

cho rằng, “Không chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh

thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và

cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á…”[53, tr.317].

Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập tấm gương đạo đức của Lênin, Hồ

Chí Minh đã để lại một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân, suốt

đời phấn đấu làm công bộc tận tụy của dân; về sự giản dị, khiêm tốn, nhiệt tình,

trách nhiệm với công việc; về ý chí nghị lực, tinh thần chủ động, sáng tạo vượt

qua mọi khó khăn để đạt được mục tiêu chính trị đã xác định. Người đã khẳng

định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và

hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào

chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”[57, tr.272].

Đạo đức chính trị Hồ Chí Minh là cơ sở để Người đoàn kết, tập hợp được

đông đảo quần chúng nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng, tranh thủ được sự

giúp đỡ to lớn cả về vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao

động và các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới cho sự nghiệp

kháng chiến, kiến quốc của nhân dân ta. Đạo đức chính trị làm cho Hồ Chí

Minh trở nên gần gũi với tất cả mọi người dù họ ở địa vị, cương vị và giai cấp,

110

tầng lớp nào, kể cả những người đối lập về hệ tư tưởng cũng như mục tiêu, lý

tưởng. Bởi vì, với tinh thần nhân văn cao cả và tấm lòng khoan dung, độ lượng,

Hồ Chí Minh không coi ai vĩnh viễn là kẻ thù. Người luôn nhìn nhận sự vật,

hiện tượng với trạng thái biểu hiện của quá trình vận động, phát sinh, phát triển

trong môi trường tự nhiên, chính trị, xã hội nhất định. Do vậy, trong tư tưởng

và hành động chính trị Hồ Chí Minh, việc đánh đổ chủ nghĩa thực dân là đánh

đổ địa vị giai cấp và tước bỏ những điều kiện thống trị của nó chứ không phải

là tiêu diệt những cá nhân thuộc giai cấp tư sản.

Không chỉ tự mình rèn luyện và nêu tấm gương sáng về đạo đức chính trị, Hồ

Chí Minh còn luôn quan tâm xây dựng đạo đức cách mạng, đặc biệt là đạo đức

chính trị cho cán bộ, đảng viên. Người cho rằng “Đảng có vững cách mệnh mới

thành công”. Do vậy, Đảng phải thực sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho

lương tâm, trí tuệ, danh dự của dân tộc. VHCT của Đảng là hiện thân VHCT của

dân tộc, VHCT của Đảng lại được biểu hiện ở mỗi cán bộ, đảng viên thông qua lý

tưởng, niềm tin, lập trường chính trị, những phẩm chất đạo đức chính trị, năng lực

và phong cách lãnh đạo của Đảng, phong cách làm việc của mỗi cán bộ, đảng viên.

VHCT của Đảng nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến

VHCT của nhân dân. Do đó, để lãnh đạo được nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu,

Đảng phải làm tốt hai tư cách “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung

thành của nhân dân”.

Hồ Chí Minh đã để lại một tấm gương sáng ngời về một nhà chính trị vì dân,

một vị lãnh tụ của nhân dân, thực sự gần dân, tin dân, coi trọng dân, lắng nghe ý

kiến của dân, chăm lo đến đời sống của dân. Người luôn coi mình “Như một người

lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng,

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nói chung, đạo đức chính trị nói riêng và những

đóng góp to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam là giá trị nhân cách nổi bật

của VHCT Hồ Chí Minh.

Thực tế cho thấy, chính trị là vấn đề liên quan mật thiết đến quyền lợi

của các giai cấp, tập đoàn người trong xã hội. Bởi vì, bản chất, cốt lõi của

111

vấn đề chính trị là quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào, phục vụ

cho lợi ích của ai. Do đó, trong quá trình đấu tranh giành, giữ và sử dụng

quyền lực nhà nước, giai cấp giành chiến thắng chưa hẳn đã là giai cấp tiến

bộ nhất. Mặt khác, ngay cả khi giai cấp tiến bộ nhất giành được chính quyền

thì việc bảo đảm cho chính quyền ấy luôn giữ được tính chính đáng cũng là

một vấn đề cơ bản của chính trị. Bởi lẽ, quyền lực nhà nước là quyền được

đại diện và ủy nhiệm, đây chính là cơ sở để quyền lực nhà nước luôn có

nguy cơ bị tha hóa và giai cấp nắm chính quyền cũng như những người được

ủy quyền luôn sử dụng các thủ đoạn chính trị để giữ gìn quyền lực của mình,

hoặc lạm dụng quyền lực để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Do vậy, theo

những quan niệm chủ quan, chính trị bao giờ cũng là sự đan xen giữa đạo

đức và phản đạo đức. Đây chính là mâu thuẫn nội tại của chính trị và việc

giải quyết mâu thuẫn này chính là quá trình ngăn chặn sự tha hóa của quyền

lực nhà nước và là giá trị quan trọng bậc nhất của VHCT.

Theo đó, việc giải quyết hài hòa giữa đạo đức chính trị với cách thức hay

nghệ thuật hiện thực hóa các mục tiêu chính trị là một giá trị nổi bật của nhân

cách chính trị Hồ Chí Minh. Người luôn tự đặt mình ở vị trí là đầy tớ, là công

bộc của dân. Do vậy, mọi suy nghĩ và hành động chính trị từ việc xác định

mục tiêu, đến phương pháp và cách thức thực hiện đều lấy quyền lợi, tính

mạng, tài sản của dân làm cơ sở để lựa chọn, không bao giờ bất chấp thủ đoạn

để đạt được mục đích. Ở Hồ Chí Minh, tính nhân văn, nhân đạo luôn xuyên

suốt trong mục tiêu và phương thức chính trị, kể cả khi sử dụng phương thức

bạo lực. Bởi lẽ, bạo lực chỉ được sử dụng sau mọi nỗ lực hòa bình không

được đối phương chấp nhận và cũng chỉ nhằm mục đích hòa bình.

3.1.3.3. Suốt đời tu dưỡng đạo đức cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng,

của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân

Tính kiên trì, bền bỉ, tự giác trong tu dưỡng đạo đức cách mạng là một

trong những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị nhân cách của VHCT Hồ Chí

Minh. Người là tấm gương sáng ngời về sự cần cù, tiết kiệm, liêm khiết và

112

chính trực. Người không chỉ tự mình cần cù, mà còn luôn nhắc nhở cán bộ,

đảng viên và nhân dân phải cần cù để không ngừng tiến bộ trong công tác,

đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp kháng chến, kiến quốc. Với tinh

thần cần cù, vượt khó, Người đã làm nhiều công việc khác nhau để sống và

để hoạt động cách mạng, luôn tự học, tự nghiên cứu, không ngừng mở rộng

vốn kiến thức và tích lũy kinh nghiệm hoạt động cách mạng.

Khi là Chủ tịch nước, Người cũng không bao giờ xa hoa, hoang phí. Để động

viên, cổ vũ đồng bào vượt qua nạn đói, Người đã tự giác thực hiện mười ngày nhịn

ăn một bữa, (mỗi bữa một bơ) để đem gạo đó cứu dân nghèo. Trước khi qua đời

Người còn dặn lại chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thì giờ và

tiền bạc của nhân dân. Người còn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân tiết

kiệm để giúp đỡ đồng bào, đồng chí; tiết kiệm để kháng chiến, kiến quốc; tiết kiệm

để xây dựng CNXH.

Cùng với cần kiệm, tấm gương về sự liêm khiết là một biểu hiện tất yếu của

đạo đức Hồ Chí Minh. Người không tham tiền tài, địa vị, vinh hoa phú quý,

không bao giờ đòi hỏi đặc quyền, đặc lợi; luôn công minh, chính trực; luôn “Dĩ

công vi thượng”, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Thực tế cho thấy,

cả đời Hồ Chí Minh thực hành cần, kiệm, liêm, chính cho nên Người là tấm

gương tuyệt vời của sự quang minh, chính đại, tất cả vì lợi ích của quốc gia, dân

tộc, vì uy tín của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Người coi chức Chủ tịch

nước chỉ như “người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Người luôn

nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng: "Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và

cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là

nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là "tính Đảng"”[58, tr.290-291].

Trong Thư gửi Họ Nguyễn Sinh (9/11/1950), Người viết: “Nghe tin anh

Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách,

lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.

Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng

cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”[59, tr.463]. Thủ

113

tướng Phạm Văn Đồng là người có nhiều năm sống và làm việc bên cạnh Hồ

Chí Minh đã khẳng định: "Hồ Chủ tịch không có cái gì riêng; cái gì của dân

là của Người. Quyền lợi tối cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân, là sự lo

lắng hàng ngày của Người. Gia đình của Người là đại gia đình Việt

Nam"[27, tr.443].3.2. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

Đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh chính là những dấu hiệu chủ

yếu để nhận diện và khẳng định những nét khác biệt, sự phát triển mới so với

VHCT của những chủ thể chính trị khác. Thực tế cho thấy, VHCT Hồ Chí

Minh được hình thành, phát triển, và khẳng định trong bối cảnh lịch sử của thế

kỷ XX, khi mà chế độ thực dân được thiết lập trên phạm vi thế giới, đã xâm

phạm nghiêm trọng đến quyền con người và quyền dân tộc. Thế kỷ XX để lại

những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nhân loại, đánh dấu bước phát triển mạnh

mẽ của phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, hòa bình, ổn định và tiến xã

hội của nhân dân lao động toàn thế giới; thế kỷ mà giai cấp công nhân khẳng

định địa vị kinh tế của mình và bước lên vũ đài chính trị với tính cách là lực

lượng có sứ mệnh đưa nhân loại phát triển đúng quy luật.

Mặt khác, VHCT Hồ Chí Minh gắn liền với những đặc điểm của dân tộc Việt

Nam: một dân tộc luôn phải đương đầu với sự xâm lược của các thế lực ngoại bang,

thấu hiểu hơn ai hết giá trị của tự do, độc lập; một dân tộc yêu chuộng hòa bình, yêu

thương, đùm bọc, đoàn kết chặt chẽ với nhau và luôn đề cao chính nghĩa. Do vậy,

đặc trưng của VHCT Hồ Chí Minh là những khía cạnh thuộc về bản chất, tính chất,

mục tiêu chính trị, chịu sự tác động, chi phối của các yếu tố lịch sử và đương thời,

quốc gia và quốc tế. Những đặc trưng này được biểu hiện qua tư tưởng và hành

động chính trị mà Người đã xác lập trong thực tiễn đấu tranh cho một nền chính trị

dân chủ, nhân văn, nhân đạo ở Việt Nam, mà cụ thể là ở văn hóa lãnh đạo, quản lý

và phong cách chính trị. Với cách tiếp cận đó, VHCT Hồ Chí Minh có những đặc

trưng cơ bản sau đây:

114

3.2.1. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là sự tích hợp, chắt lọc nhiều giá trị

và mang bản chất của giai cấp công nhân

Giáo sư, anh hùng lao động Vũ Khiêu đã đề đôi câu đối đặt tại Nhà tưởng

niệm Hồ Chí Minh ở ATK rằng: “Thâu thái Đông, Tây, Kim, Cổ lại/ Xây cao văn

hiến nước non này”. Đây là sự khái quát tinh tế và sâu sắc, làm nổi bật một đặc

trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh, đó là sự tích tụ cả ở bề rộng và chiều sâu

nhiều giá trị VHCT mà nhân loại đã sáng tạo ra để góp phần xây dựng nền chính trị

nhân văn, tiến bộ ở Việt Nam. Bởi lẽ, Hồ Chí Minh là một trong số ít những nhà

chính trị trên thế giới có trải nghiệm thực tế với thời gian dài và không gian rộng ở

ngoài phạm vi biên giới quốc gia của dân tộc mình. Bằng ý chí, nghị lực và khả

năng tự học siêu việt, Người đã tiếp xúc với hầu hết các học thuyết chính trị, các hệ

tư tưởng cổ, kim, Đông, Tây trên thế giới. Một học giả nước ngoài đã viết: “Ông

Hồ Chí Minh là một nhân vật kỳ lạ nhất trong thời đại chúng ta; ông có chút gì

giống Găngđi, có chút ít giống Lênin, nhưng hoàn toàn có tính cách Việt Nam. Có

lẽ hơn bất kỳ một người nào khác trong thế kỷ này, ông Hồ là hiện thân sinh động

của cách mạng đối với nhân dân ông và cả đối với thế giới nữa”[8, tr.63]. Mặc dù

vậy, Người không sùng bái hay thiên kiến với riêng học thuyết nào. Theo Người,

mọi học thuyết đều là tinh hoa tư tưởng của nhân loại và đều mang tính lịch sử, cụ

thể của nó. Mỗi học thuyết đều nhằm giải quyết một hay một số vấn đề cụ thể nào

đó của thực tiễn. Vì vậy, nó không có lợi cho giai tầng này thì lại có lợi cho giai

tầng khác. Với tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, Người đã chắt lọc và tích hợp tất

cả những giá trị nhân sinh, những yếu tố phù hợp, có lợi cho sự nghiệp GPDT và

hướng tới giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Tuy nhiên, cần thấy rõ, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, nguồn

gốc chủ yếu quyết định nhất cho việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ

Chí Minh cũng như VHCT của Người. Không có chủ nghĩa Mác - Lênin thì

Hồ Chí Minh chỉ là một trong số nhiều sĩ phu yêu nước cùng thời, và tư

tưởng cũng như VHCT của Người không vượt qua được cái bóng của VHCT

truyền thống. Thực tiễn cho thấy, chỉ sau khi tiếp xúc với Luận cương của

115

Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Hồ Chí Minh mới xác định

chắc chắn con đường cách mạng cần phải đi; mới chuyển từ lập trường yêu

nước truyền thống sang lập trường của giai cấp vô sản và lấy Cách mạng

tháng Mười Nga làm tấm gương, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ

nam cho mọi tư tưởng và hành động chính trị của mình. Người khẳng định:

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào

công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước. Nó là “Khoa học về các quy luật

phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức

và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước; khoa

học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản”[64, tr.96].

Hồ Chí Minh đã ứng xử với chủ nghĩa Mác - Lênin bằng lập trường của người

cộng sản và bằng chính những nguyên tắc phương pháp luận mà chủ nghĩa Mác -

Lênin đã đề ra. Người coi chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của khoa học xã hội

nhưng không phải kinh thánh. Do vậy, theo Người, “Học tập chủ nghĩa Mác -

Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc…học tập những chân lý phổ biến của

chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta”[64,

tr.611]. Với tinh thần đó, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -

Lênin để giải quyết tất cả những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt

Nam. Từ việc xác định mục tiêu, con đường đến chiến lược, sách lược của từng giai

đoạn cách mạng; từ lực lượng, phương pháp đến hình thức, cách thức, bước đi

trong từng nhiệm vụ cụ thể. Phát biểu tại khóa họp Xôviết tối cao Liên Xô nhân kỷ

niệm bốn mươi năm Cách mạng tháng Mười, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “chủ

nghĩa Mác - Lênin là ngọn đuốc soi sáng con đường cho dân tộc chúng tôi tiến tới

tương lai tươi sáng. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin,...nhân dân Việt Nam

tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của mình, quyết tâm đi tới một tương lai hạnh

phúc tươi đẹp, đi tới xã hội xã hội chủ nghĩa”[64, tr.181].

Như vậy, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là sự tích hợp với tính

cách là sự cộng lại những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại. Bởi lẽ, trên nền

116

tảng những giá trị đó, bằng năng lực chủ quan của mình, Người đã vượt gộp tất cả

để sáng tạo ra những giá trị mới. Do đó, VHCT Hồ Chí Minh không xa lạ với

VHCT truyền thống của dân tộc nhưng lại khắc phục được sự bất lực của VHCT

truyền thống trong cuộc đối đầu với VHCT của chủ nghĩa thực dân. Một nhà báo

nước ngoài đã viết: “Hồ Chí Minh là một hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp: đức

khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, tinh thần cách mạng

của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc. Tất cả đều hòa hợp trong một

dáng dấp rất tự nhiên”[8, tr.124].

Một trong những nét đặc trưng của VHCT Hồ Chí Minh là tư tưởng và hành

động ứng xử với giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng. Vượt lên so với các

bậc tiền bối và các nhà chính trị đương thời, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu

tiên nhận ra vai trò to lớn và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Người cho

rằng, địa vị của mỗi giai cấp trong công việc sản xuất khác nhau, cho nên đặc tính

của mỗi giai cấp cũng khác nhau và vai trò cách mạng cũng khác nhau, trong đó:

Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có

tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách

nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp

công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác -

Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp

khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân

đều giữ vai trò lãnh đạo.[61, tr.256].

Trên cơ sở kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng và nắm chắc thực tiễn đất

nước, cùng với việc đề cao vai trò lãnh đạo, Hồ Chí Minh luôn đề cao giai cấp công

nhân với tính cách là động lực chủ yếu của cách mạng. Theo Người, động lực cách

mạng là toàn dân, bao gồm bốn giai cấp, trong đó, công nhân và nông dân là gốc

của cách mạng. Người cho rằng, giai cấp công nhân sẽ ngày càng được tăng cường

cả về số lượng và chất lượng cùng với tiến trình công nghiệp hóa tất yếu của một

nước nông nghiệp quá độ lên CNXH. Hồ Chí Minh đã nêu câu hỏi và trả lời: “Ai

xây dựng chủ nghĩa xã hội? Nói chung là những người lao động trong xã hội gồm

117

công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, v.v…nhưng lực lượng chủ chốt xây dựng

chủ nghĩa xã hội là công nhân”[68, tr.679].

Nội dung biểu hiện rõ nét đặc trưng bản chất giai cấp công nhân trong VHCT

Hồ Chí Minh là việc, Người thường xuyên chăm lo củng cố, tăng cường bản chất

giai cấp công nhân của Đảng và của Nhà nước. Người yêu cầu, Đảng phải là đảng

của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân

dân lao động và toàn thể dân tộc; nhà nước phải mang bản chất của giai cấp công

nhân, do đảng cộng sản lãnh đạo và với chức năng của mình, nhà nước phải hướng

tới mục tiêu xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Tóm lại, VHCT Hồ Chí

Minh mang bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và đây là yếu tố cơ bản để phân

biệt với VHCT của các chủ thể khác. Tuy nhiên không thể đồng nhất VHCT Hồ

Chí Minh với VHCT Mác - Lênin, mà cần nhận rõ, đó là mối quan hệ biện chứng

giữa cái chung, cái phổ biến với cái riêng, cái đặc thù.

3.2.2. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh luôn hài hòa giữa tính dân tộc và

tính quốc tế, tôn trọng các giá trị phổ biến của nhân loại trên cơ sở đề cao tínhđặc thù của Việt Nam

Tính dân tộc và tính nhân loại của VHCT là hai dấu hiệu cơ bản biểu hiện tính

chất của các yếu tố cấu thành và phạm vi tác động của VHCT. Trên thực tế, không

ít những tư tưởng và hành động chính trị chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia, dân

tộc mà không có hoặc có rất ít sự tác động ảnh hưởng đến đời sống chính trị của

khu vực và thế giới. Vì vậy, có những giá trị VHCT có tính dân tộc nhưng chưa hẳn

đã có tính nhân loại. Nhưng ngược lại, đã là những giá trị mang tính nhân loại thì

đương nhiên phải hàm chứa tính dân tộc. Giữa tính dân tộc và tính nhân loại có mối

quan hệ biện chứng, tác động qua lại, không mâu thuẫn hay triệt tiêu lẫn nhau mà

chỉ làm phong phú, sâu sắc thêm tính chất của nhau. Tính dân tộc và tính nhân loại

của VHCT Hồ Chí Minh biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Một là, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có nguồn gốc dân tộc mà còn có

nguồn gốc nhân loại.

Tất cả các tinh hoa VHCT của dân tộc và nhân loại, lịch sử và đương thời

đều được tích hợp và tỏa sáng thông qua nhân cách chính trị của Người. Thực

118

tế cho thấy, mặc dù lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, tin theo Cách mạng tháng

Mười và Quốc tế III, nhưng không có nghĩa là Người phủ định tuyệt đối tất cả

những quan điểm, tư tưởng và kinh nghiệm tổ chức thực tiễn mà Người từng

gặp trên hành trình tìm đường cứu nước. Những giá trị chính trị có tính chất

quốc tế vừa là yếu tố tác động, thúc đẩy việc hình thành, phát triển và sáng tạo

những giá trị mới vừa được tiếp biến để trở thành những giá trị cụ thể trong

VHCT của Người như: tư tưởng trọng đạo đức của Nho giáo, tư tưởng từ bi

của Phật giáo; tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng tư sản; đặc biệt,

những tư tưởng bất hủ trong hai bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và nước

Pháp đã biểu hiện rõ trong VHCT Hồ Chí Minh.

Hai là, Hồ Chí Minh vừa là một nhà dân tộc chủ nghĩa chân chính, vừa là một

chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Trước hết cần khẳng định, chủ nghĩa dân tộc chân chính không đồng nghĩa

với tư tưởng đề cao đặc điểm và quyền lợi dân tộc mình mà tách rời, thậm chí hạ

thấp, coi thường dân tộc khác. Đây là khái niệm dùng để chỉ tư tưởng coi ĐLDT là

quyền bình đẳng của tất cả các quốc gia, đề cao độc lập của dân tộc mình đồng thời

tôn trọng độc lập của các dân tộc khác.

Mong muốn lớn nhất của Hồ Chí Minh là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng

bào. Tuy nhiên, quan niệm của Người về ĐLDT có sự phát triển mới về chất so với

các sĩ phu yêu nước đương thời. Theo đó, ĐLDT là quyền tự quyết của một quốc

gia về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…ĐLDT còn là sự

thống nhất về chế độ chính trị giữa các cộng đồng người có chung lịch sử và truyền

thống văn hóa; là sự toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển;

ĐLDT phải là tiền đề để mang lại công bằng, bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc

cho nhân dân. Quan niệm này đòi hỏi phải đặt vấn đề dân tộc trong mối quan hệ

chặt chẽ với vấn đề quốc tế, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai

cấp, ĐLDT và CNXH. Như vậy, ĐLDT không phải là tách rời, cô lập hẳn với phần

còn lại của thế giới, mà nội hàm của nó đã thể hiện sự ràng buộc và bị tác động ảnh

119

hưởng bởi các quốc gia, dân tộc khác. Mỗi quốc gia chỉ có độc lập thật sự khi biết

tôn trọng và đề cao độc lập của quốc gia khác.

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước và nó

có lợi cho chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Bởi vì, giai cấp công nhân và

các dân tộc thuộc địa có chung kẻ thù là chủ nghĩa tư bản, mà sức sống của CNTB

lại tập trung chủ yếu ở thuộc địa. Do đó, nếu các nước thuộc địa đánh đổ chủ nghĩa

thực dân thì sẽ làm cho CNTB suy yếu và tạo điều kiện cho thắng lợi của cách

mạng vô sản ở các nước chính quốc. Thực tế cho thấy, khi chưa kết hợp với chủ

nghĩa quốc tế, chủ nghĩa dân tộc ở các nước thuộc địa chưa giành được thắng lợi vì

họ còn thiếu tổ chức và thiếu người lãnh đạo. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề nghị

“Quốc tế cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh

đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”[54, tr.311].

Bên cạnh việc nhận rõ vị trí, vai trò của chủ nghĩa dân tộc ở các nước thuộc

địa, Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò và giá trị thời đại của cuộc cách mạng vô sản.

Bởi vì, “mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước

nào đó, nhất là trong một quốc gia đế quốc chủ nghĩa thì đó càng là thắng lợi cả cho

người An Nam”[54, tr.520]. Hơn nữa, trên thực tế chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới

đáp ứng được lý tưởng, nguyện vọng đầy nhân văn, nhân đạo của Người. Do vậy,

Người đã khẳng định: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách

mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”[68, tr.392].

Tóm lại, với việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào

điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam để hiện thực hóa tư tưởng “Không có gì

quý hơn độc lập, tự do”; đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; kiên

định mục tiêu ĐLDT và CNXH; luôn đặt cách mạng Việt Nam vào dòng chảy

chung của cách mạng thế giới đã khẳng định sự hài hòa giữa tính dân tộc với tính

nhân loại và góp phần tạo nên nét đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.

Ba là, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đối với dân tộc Việt Nam,

mà còn có giá trị to lớn đối với nhân loại, đặc biệt là nhân dân yêu chuộng hòa

bình trên thế giới.

120

Những tư tưởng và hành động chính trị của Người, một mặt thức tỉnh tinh

thần cách mạng của nhân dân Việt Nam, mặt khác cũng thức tỉnh tinh thần độc

lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “đem sức ta mà giải phóng cho ta” của nhân dân

các nước thuộc địa khác. Mục tiêu, lý tưởng chính trị mà Người nêu lên và

quyết tâm thực hiện đã là ngọn cờ đoàn kết, tập hợp đông đảo các tầng lớp

nhân dân trong nước và tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, bởi nó vừa

đáp ứng nguyện vọng của dân tộc, lại phù hợp với xu thế tiến bộ chung của

nhân loại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết:

Những người trên thế giới này, ngay trong một nước cũng như từ nước này, sang

nước khác, có bao nhiêu điều không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau về cảnh

ngộ sống, về trình độ hiểu biết, về xu hướng chính trị, xã hội hay tôn giáo; nhưng

miễn là không phải bọn áp bức bóc lột, bọn xâm lược và tay sai của chúng, thì mỗi

người đều có thể thấy ở cuộc chiến đấu và cuộc sống của Hồ Chủ tịch, những điều

mà mình hàng ngày mong mỏi, những giá trị tinh thần mà mình thiết tha, những

mục tiêu mà mình khao khát muốn vươn tới.[dẫn theo 27, tr.439-440].

Tính phổ biến và đặc thù của VHCT là biểu hiện sự thống nhất giữa

những giá trị riêng, cá biệt với những giá trị chung. VHCT Hồ Chí Minh là

những giá trị được kết tinh từ việc vận dụng những quy luật phổ biến của

thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hơn nữa, những giá trị đó,

không chỉ có ý nghĩa trong đời sống chính trị của dân tộc Việt Nam mà còn

có tác động đến đời sống chính trị quốc tế.

Hồ Chí Minh luôn tôn trọng và đề cao các giá trị phổ biến, bởi nó sẽ là

những giá trị được kiểm nghiệm với một thực tiễn rộng lớn hơn trong khoảng

thời gian dài hơn, được nhiều người thừa nhận hơn và tính chân lý cũng cao hơn.

Vì thế, những giá trị phổ biến không phải là cái riêng và sẽ không đúng với một

cái riêng cụ thể nào. Do đó, khi tiếp thu, vận dụng hay kế thừa các giá trị phổ

biến cần phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể. Hồ Chí Minh cho rằng:

Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh

nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa

121

giáo điều. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận những

giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn…thì sẽ mắc sai lầm nghiêm

trọng của chủ nghĩa xét lại.[64, tr.97-98].

Chính vì vậy, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như khi học tập kinh

nghiệm quốc tế trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn lấy thực tiễn Việt

Nam làm điểm xuất phát. Điều này một mặt làm cho các giá trị, kinh nghiệm phổ

biến phát huy tác dụng trong điều kiện cụ thể, mặt khác lại bổ sung, làm phong phú

và vững chắc thêm nền tảng thực tiễn của các giá trị đó. Hàng loạt các quan điểm,

tư tưởng và hành động chính trị của Hồ Chí Minh thể hiện rõ sự kết hợp giữa tính

phổ biến và tính đặc thù để có được sự chỉ đạo đúng đắn, góp phần quan trọng vào

thắng lợi của cách mạng.

Trước hết, Người cho rằng, trong sự vận động phát triển tất yếu của lịch sử,

chủ nghĩa Mác sẽ đúng cả ở phương Đông, nhưng cần phải bổ sung cơ sở lịch sử

của chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn và dân tộc học phương Đông. Nhận định rõ, cuộc

đấu tranh giai cấp ở phương Đông diễn ra không giống như ở phương Tây, nên Hồ

Chí Minh đã phê phán quan điểm, “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng

ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để

làm cho đúng”[58, tr.312]. Trên cơ sở thực tiễn Việt Nam và để thực hiện mục tiêu

ĐLDT, Hồ Chí Minh không nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, mà chủ trương đoàn kết

các giai tầng trong xã hội. Người cho rằng, “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà

chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc”[59, tr.528].

Hồ Chí Minh đã vận dụng quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về

xây dựng đảng vào điều kiện cụ thể Việt Nam để thành lập một chính đảng cách

mạng vừa mang bản chất của giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc

sâu sắc. Với chủ trương xây dựng một nhà nước kiểu mới phù hợp với đặc điểm

Việt Nam, Người đã thay đổi quan điểm của mình, từ “Chính quyền Xô viết” đến

“Chính phủ công nông binh” và cuối cùng là “Nhà nước Dân chủ nhân dân”. Bám

sát mục tiêu chính trị và tình hình cụ thể của đất nước, Hồ Chí Minh đã cùng với

122

Đảng ta chủ trương tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng là Cách mạng

XHCN ở miền Bắc và Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Và

“đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội là…tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên

chủ nghĩa xã hội”[65, tr.372]. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính phổ biến với tính

đặc thù đã tạo nên sự nghiệp cách mạng và VHCT Hồ Chí Minh, là một trong

những đặc trưng cơ bản để nhận diện và phân biệt với VHCT của các chủ thể khác.

3.2.3. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh thống nhất chặt chẽ giữa giá trị tư

tưởng và giá trị hành vi

Văn hóa chính trị là hệ giá trị được tạo thành trong quá trình ứng xử chính

trị, có thể biểu hiện ở những tư tưởng, lý luận hoặc ở những hành động chính

trị thực tiễn. Cả hai dạng thức này đều dễ thấy trong VHCT của một cộng

đồng, dân tộc, hay một giai cấp, nhưng sẽ là hiếm có ở VHCT của cá nhân. Tuy

nhiên, Hồ Chí Minh là một trong số ít các chủ thể với tính cách là cá nhân sở

hữu cả hai dạng thức này. Bởi lẽ, với Hồ Chí Minh, vì thực tiễn mà phải tìm

tòi, học tập, nghiên cứu và sáng tạo lý luận. Ngược lại, nghiên cứu, sáng tạo lý

luận là để giải đáp đòi hỏi của thực tiễn, cải tạo và biến đổi hiện thực. Vì vậy,

mặc dù không chủ trương phấn đấu để trở thành nhà tư tưởng, nhưng với

những sáng tạo lý luận trong quá trình hoạt động cách mạng, Người đã xứng

đáng là nhà tư tưởng lỗi lạc, được cộng đồng quốc tế công nhận là “Anh hùng

giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.

Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của lý luận, Người cho rằng, “Lý luận như

cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không

có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[58, tr.273-274]. Với quan điểm đó,

Người không chỉ tự mình học tập, nghiên cứu lý luận, mà còn rất quan tâm đến việc

bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, học tập nghiên cứu lý luận là

để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn, cho nên, lý luận phải được áp

dụng vào thực tiễn, vừa để giải quyết công việc thực tế, vừa để kiểm nghiệm tính

đúng đắn của lý luận. Là một nhà hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh cho rằng, lý

luận không áp dụng vào thực tiễn là lý luận suông, còn thực tiễn mà không có lý

123

luận dẫn đường là thực tiễn mù quáng. Do vậy, lý luận và thực tiễn phải luôn gắn

liền với nhau, trong đó thực tiễn luôn là tính thứ nhất, là điểm xuất phát, là đối

tượng để nghiên cứu và khái quát lý luận. Người chỉ rõ: “Thực hành sinh ra hiểu

biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành”[60, tr.120].

Trong di sản VHCT Hồ Chí Minh, giá trị tư tưởng và giá trị hành vi luôn

thống nhất chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Những tư tưởng chính trị của Người

đều từng bước được hiện thực hóa và được kiểm nghiệm bằng thực tiễn cách

mạng Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước, thương dân và lòng tự tôn dân tộc

không chỉ dừng lại ở giá trị tư tưởng mà đã trở thành hành động cụ thể vượt

trùng dương đi tìm đường cứu nước; tìm mọi cách để lật đổ chế độ thuộc địa,

nửa phong kiến, thiết lập chế độ chính trị của dân, do dân, vì dân. Cùng với

việc nhận thức rõ, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách

mạng thế giới, Người đã tham gia sáng lập một số tổ chức có tính chất quốc tế

và đặt nền móng cho quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các nước có chủ

quyền với những chế độ chính trị khác nhau trên thế giới. Không chỉ là một

nhà chính trị nói nhiều, bàn nhiều về đạo đức, Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương

sáng ngời về thực hành đạo đức mới với những biểu hiện cụ thể của hành

động trung thành với mục tiêu, lý tưởng và quyền lợi của dân tộc; yêu thương

nhân dân, khoan dung, độ lượng với con người; suốt đời cần cù, tiết kiệm,

trung thực, thẳng thắn, “Dĩ công vi thượng”…Tấm gương mẫu mực về sự

thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành vi, nói và làm của Hồ

Chí Minh được biểu hiện sinh động trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp cách

mạng của Người và trở thành nét đặc sắc của VHCT Hồ Chí Minh.

3.2.4. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh luôn thể hiện tính nhân văn triệt để

cả trong tư tưởng và hành động chính trị

Một trong những nét nổi bật và là đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí

Minh là ở tính nhân văn triệt để của những tư tưởng và hành động chính trị

mà Người đã thực hiện trong suốt quá trình hoạt động cách mạng. Điều đó

không chỉ thể hiện ở quan niệm về con người, ở mục tiêu, lý tưởng mang lại

124

độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần cho nhân dân mà còn ở sự ứng xử cụ thể với mỗi nhân cách, phẩm

giá và thân phận con người. Quan niệm về con người của Hồ Chí Minh có cả

nghĩa hẹp và nghĩa rộng, bao hàm cả tính cá nhân và tính cộng đồng. Người

đã chỉ rõ: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa

rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”[59, tr.130].

Với quan niệm đó, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chung

chung, trừu tượng, mà trái lại, rất cụ thể, thiết thực, rộng lớn và bao trùm.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trừ những kẻ thực dân, đế quốc, những kẻ áp

bức, bóc lột, còn lại những người lao động, những người bị áp bức trên khắp

thế giới, không phân biệt màu da, tiếng nói, chữ viết đều là anh em, đều là

những người cần được giải phóng, được yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ. Đề

cao con người, nhất mực yêu thương, quý trọng con người nên trong đấu

tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn tìm phương pháp ít đổ máu nhất. Chính

vì lẽ đó mà trong khởi nghĩa giành chính quyền, Người luôn chủ trương kết

hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, trong đó đấu

tranh chính trị của quần chúng đóng vai trò quyết định. Trong kháng chiến

chống Pháp, Người đã từng nói, “máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu,

người Pháp hay người Việt cũng đều là người”[57, tr.510].

Trong quá trình bảo vệ thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh luôn tìm mọi

cách ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh. Người đã khẳng định với các phóng viên

Pháp rằng: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không

muốn chiến tranh”[57, tr.526]. Để ngăn chặn chiến tranh, Hồ Chí Minh đã ký

với Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Tuy nhiên, khi

thực dân Pháp bội ước, cố tình gây chiến tranh, Hồ Chí Minh và Đảng ta kiên

quyết phát động toàn dân đứng lên chiến đấu, kết hợp tiến công quân sự với

công tác binh, địch vận và khi có thời cơ, tiến hành đấu tranh ngoại giao buộc

Pháp ký kết hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh, nhằm hạn chế đến mức

thấp nhất việc đổ máu cho cả hai bên tham chiến. Một chính trị gia của Pháp

125

là Jean Sainteny - người đại diện cho chính phủ Pháp ký với Hồ Chí Minh Hiệp

định sơ bộ năm 1946 đã viết: “Ngay từ những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Hồ

Chí Minh, tôi đã có cảm tưởng rằng con người khắc khổ đó, với bộ mặt thể

hiện đồng thời sự thông minh, mưu trí và tinh tế, là một nhân vật thượng

đẳng…Những hành động, thái độ của Người, tất cả đều thuyết phục là Người

không muốn dùng giải pháp bạo lực”[8, tr.102]. Trong kháng chiến chống Mỹ,

Hồ Chí Minh đặt mục tiêu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” để thu non

sông về một mối chứ không chủ trương tiêu diệt nhiều binh lính đối phương.

Tính nhân văn triệt để của VHCT Hồ Chí Minh còn được khẳng định bởi

tính chất và phạm vi của sự nghiệp giải phóng được thể hiện trong lý tưởng và

hành động chính trị của Người. Với Hồ Chí Minh một chế độ chính trị ưu việt

phải gắn liền với ĐLDT, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và độc lập của

dân tộc mình phải trên cơ sở tôn trọng độc lập của các dân tộc khác. Một

chính khách nước ngoài đã viết:

Ưu điểm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là không chỉ đấu tranh

cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài, Người

muốn tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự

giải phóng và phúc lợi của toàn dân và nhờ thế mà cuộc cách mạng

do Người phát động đã mang tầm cỡ thế giới.[8, tr.112].

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị mà cả tư tưởng và hành động đều thể

hiện rõ sự kết hợp chặt chẽ giữa ba sự nghiệp giải phóng. Trong đó, GPDT là

tiền đề để giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Ngược lại, giải phóng

giai cấp và con người là điều kiện bảo đảm cho GPDT được bền vững. Ba sự

nghiệp giải phóng này là ba cấp độ mục tiêu khác nhau của con đường cách

mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam. Tuy nhiên,

chúng không tách rời nhau mà có mối quan hệ biện chứng, trong GPDT đã

bao hàm một phần giải phóng giai cấp và con người. Mỗi bước phát triển của

cách mạng GPDT cũng như cách mạng XHCN phải là một bước tiến mới của

126

sự nghiệp giải phóng giai cấp và con người. Do đó, ngay sau khi giành độc

lập, Người phát động phong trào xóa đói, xóa mù chữ; sớm xây dựng thể chế

chính trị dân chủ; kết hợp kháng chiến với kiến quốc; kết hợp cách mạng

XHCN ở miền Bắc với cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Trong Di

chúc, đoạn viết năm 1968, Người đã căn dặn Đảng ta phải quan tâm đầu tiên

đến con người, đặc biệt là những người đã cống hiến sức lực, trí tuệ, đã hy

sinh xương máu và tính mạng của họ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của

dân tộc. Tư tưởng và hành động kết hợp chặt chẽ ba sự nghiệp giải phóng nêu

trên là một trong những đặc trưng cơ bản của VHCT Hồ Chí Minh.

Tiểu kết chương 3

Với tính cách là một chỉnh thể thống nhất giữa con người chính trị, hoạt động

chính trị và sản phẩm chính trị nhằm giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn chính trị

Việt Nam, giá trị của VHCT Hồ Chí Minh được thể hiện ở ba nhóm giá trị cơ bản,

đó là: nhóm những giá trị tư tưởng bao gồm: tri thức chính trị, niềm tin chính trị và

phương pháp, phong cách chính trị của Người; nhóm các giá trị hành vi thể hiện ở

năng lực hoạt động lý luận và thực tiễn chính trị, ở việc xây dựng và phát huy sức

mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng hệ thống chính trị thực sự của

dân, do dân, vì dân; nhóm các giá trị nhân cách chính trị biểu hiện ở việc: luôn đề

cao vai trò của nhân dân, lấy dân làm gốc, luôn giải quyết hài hòa giữa đạo đức

chính trị với cách thức đạt được các mục tiêu chính trị và ở phẩm chất cần kiệm

liêm chính, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là VHCT của một cá nhân với tính cách là

lãnh tụ chính trị của Đảng, của dân tộc, có những đặc trưng nổi bật dễ nhận biết và

phân biệt với VHCT của những cá nhân lãnh tụ khác: thứ nhất, VHCT Hồ Chí

Minh là biểu tượng của sự kết hợp các giá trị chính trị cổ, kim, đông, tây, truyền

thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại. Tất cả được tích hợp, bổ sung cho nhau và

tỏa sáng thông qua nhân cách chính trị của Người; thứ hai, VHCT Hồ Chí Minh

luôn thể hiện sự hài hòa giữa tính dân tộc và tính quốc tế, tính phổ biến và tính đặc

127

thù; thứ ba, VHCT Hồ Chí Minh thống nhất giữa những giá trị tư tưởng với những

giá trị hành vi, giữa nói và làm, chú trọng nêu gương; thứ tư, VHCT Hồ Chí Minh

luôn thể hiện rõ tính nhân văn triệt để cả trong tư tưởng và hành động chính trị.

Tóm lại, VHCT Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa các yếu tố tư

tưởng, hành vi và nhân cách chính trị có đặc trưng riêng và có giá trị bền vững trong

nền VHCT Việt Nam.

128

Chương 4

Ý NGHĨA VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

HỒ CHÍ MINH CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Ý NGHĨA CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

4.1.1. Ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam

4.1.1.1. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh tạo nên sự phát triển mới của tư

tưởng, lý luận chính trị ở Việt Nam

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, với những giá trị của tư tưởng và của thực

tiễn ứng xử chính trị không chỉ đánh dấu bước phát triển mới về chất của VHCT

Việt Nam truyền thống mà còn trở thành tiền đề quyết định nhất cho mọi thắng lợi

của cách mạng kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ý nghĩa lý luận của

VHCT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam được biểu hiện ở một số nội

dung chủ yếu sau đây:

Một là, VHCT Hồ Chí Minh đã khắc phục sự khủng hoảng về ý thức hệ và

đường lối cứu nước; thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân; đưa đến cho dân

tộc Việt Nam hệ tư tưởng đúng đắn, cách mạng nhất của thời đại; tìm ra con đường

phát triển hợp quy luật với mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, phù hợp với giá trị chung

của nhân loại.

Thực tiễn cho thấy, sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, các phong trào

yêu nước chống Pháp theo các hệ tư tưởng phong kiến và tư sản liên tiếp nổ ra

nhưng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ sự khủng hoảng về ý thức hệ và con đường

cứu nước của giai cấp địa chủ, phong kiến. Mặt khác, với việc thực hiện chính sách

ngu dân, chia nước ta ra thành các vùng biệt lập với nhau và tiến hành bưng bít

thông tin, thực dân Pháp đã triệt tiêu gần như hoàn toàn tinh thần cách mạng của

nhân dân Việt Nam. Mặc dù, phong trào GPDT đã và đang phát triển mạnh ở nhiều

nơi trên thế giới do có sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng

tháng Mười, trong khi đó ở Việt Nam, sau những thất bại của các phong trào yêu

129

nước chống pháp, vẫn chưa có được một đường lối đấu tranh đúng đắn. Hồ Chí

Minh viết: “Một luồng gió giải phóng mạnh mẽ đã làm cho các dân tộc bị áp bức

vùng lên…tất cả những người chiến bại hôm qua và nô lệ hôm nay đó, đương đấu

tranh dũng cảm cho nền độc lập ngày mai của họ. Riêng người Việt Nam, thì vẫn

cứ thế: sẵn sàng làm nô lệ”[55, tr.140].

Trước thực trạng đó, Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ động, bằng nhiều biện

pháp để thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân. Trong tác phẩm Đường cách

mệnh, Người viết: “Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi

thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh. Văn chương và

hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!”[55,

tr.283]. Bằng các hoạt động lý luận và thực tiễn chính trị, Người đã tiếp thu và

truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, đưa đến cho dân tộc hệ tư tưởng

tiên tiến nhất của thời đại, đó là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Người cũng đã

tìm ra cho nhân dân ta con đường phát triển đúng đắn, hợp quy luật, đó là con

đường cách mạng vô sản với mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH. Với kết quả

nghiên cứu, phát triển lý luận cùng các hoạt động chính trị thực tiễn, Hồ Chí Minh

đã làm cho nhân dân nhận rõ rằng, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai

giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một

mối tình hữu ái thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[54, tr.287]. Trên cơ sở đó, nhân

dân Việt Nam cũng nhận rõ, kẻ thù của mình không phải là tất cả mọi người Pháp

hay người phương Tây, mà là chủ nghĩa thực dân, trong đó có thực dân Pháp và tay

sai. Cũng trên cơ sở đó, nhân dân ta đã hiểu rõ sự cần thiết phải đoàn kết dân tộc và

đoàn kết quốc tế, phải gắn bó với giai cấp công nhân, phải đi theo Đảng và tin

tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Hai là, văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở lý luận, nền tảng tư

tưởng, kim chỉ nam cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, chiến lược, sách

lược của Đảng.

Do kết hợp chặt chẽ tính phổ biến với tính đặc thù và vận dụng sáng tạo

chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước, Hồ Chí Minh đã đưa

130

ra quan điểm lý luận sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng như: mối

quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; giữa hai giai đoạn cách mạng

GPDT và cách mạng XHCN, giữa nhiệm vụ đánh đế quốc với đánh phong kiến

trong cách mạng GPDT; về động lực, hình thức, biện pháp, bước đi trong từng

giai đoạn cách mạng cụ thể.

Đặc biệt các quan điểm của Người về chủ nghĩa thực dân; về tiềm năng, khả

năng cách mạng và vị trí, vai trò, mối quan hệ của cách mạng thuộc địa nói chung,

Việt Nam nói riêng đối với cách mạng vô sản thế giới đã cho thấy, cách mạng

GPDT hoàn toàn có thể chủ động nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản

ở chính quốc. Bởi lẽ, như Hồ Chí Minh đã nhận định, “Hiện nay nọc độc và sức

sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính

quốc” [54, tr.296]. Vì thế:

Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh

để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy,

họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong

những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có

thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ

giải phóng hoàn toàn. [54, tr.48].

Các quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã là cơ sở tư tưởng để Đảng hoạch

định đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng GPDT. Trong Chánh cương

vắn tắt của Đảng, đã xác định chủ trương “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ

địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[56, tr.1]. Trong Sách lược vắn tắt của

Đảng cũng chỉ rõ “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải

đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế

giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”[56, tr.3]. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung

ương lần thứ tám (5- 1941), Đảng ta đã xác định vấn đề dân tộc trước hết phải được

giải quyết trong phạm vi từng nước trên nguyên tắc tôn trọng tự nguyện và tự quyết

dân tộc. Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, Hồ Chí Minh đã nhấn

131

mạnh “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy

đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[56, tr.596].

Quan điểm Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại

bạo lực phản cách mạng trong đấu tranh giành và giữ chính quyền; về tiến

hành khởi nghĩa vũ tranh từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa; về sức mạnh

của khối đại đoàn kết toàn dân… đã trở thành cơ sở tư tưởng để Đảng ta

lãnh đạo tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực

cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đặc

biệt, quan điểm về ĐLDT phải đi liền với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân

dân là nội dung tư tưởng chủ yếu để xác lập đường lối tiến hành đồng thời

hai chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân

tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam của Đảng. Quan điểm Hồ Chí Minh về

bản chất, tính chất, mục tiêu, động lực, hình thức, bước đi của cách mạng

XHCN ở một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH, đã giúp cho

Đảng nhận thức ngày càng rõ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH.

Mặt khác, những quan điểm đó còn là một trong những yếu tố thúc đẩy sự ra

đời đường lối đổi mới của Đảng vào năm 1986.

Nhận rõ giá trị lý luận to lớn của VHCT Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1951,

Đảng ta đã đặt vấn đề phải học tập và phát huy các giá trị đó, đồng thời coi đây là

nhân tố đầu tiên bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ II (2-1951), đã khẳng định:

Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của

Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ

tịch,…Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác

phong và đạo đức Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy là điều kiện tiên

quyết làm cho Đảng mạnh, và làm cho cách mạng đi mau đến

thắng lợi hoàn toàn.[16, tr.9].

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3-1982), Đảng khẳng định: “Đảng

phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức, học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo

132

đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng”[14, tr.61]. Đến Đại hội

VI của Đảng (12-1986), đại hội đánh dấu sự đổi mới tư duy của Đảng và mở đầu

công cuộc đổi mới đất nước, Đảng chỉ rõ: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm

vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản

quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”[9, tr.125].

Những kết quả khả quan sau thời gian đầu tiến hành công cuộc đổi mới, sự kiểm

nghiệm của thời gian và thực tiễn đối với quá trình phát triển đất nước và sự biến

động của tình hình chính trị thế giới cuối thế kỷ XX càng chứng tỏ giá trị to lớn của

VHCT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991), Đảng đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm về tư

tưởng Hồ Chí Minh và chính thức ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình rằng,

“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,

kim chỉ nam cho hành động”[10, tr.127]. Đến Đại hội IX của Đảng (4-2001), Đảng

đã đưa ra một khái niệm tương đối hoàn chỉnh về tư tưởng Hồ Chí Minh. Khái

niệm đã chỉ rõ bản chất, nguồn gốc, các yếu tố cấu thành và giá trị của tư tưởng Hồ

Chí Minh đối với sự phát triển của đất nước. Trước yêu cầu của sự nghiệp xây

dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới, ngày 07-1-2007, Bộ Chính trị Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa X đã ra chỉ thị số 06-CT/TW, tổ chức cuộc vận động

"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", trong toàn Đảng, toàn

dân. Sau hơn bốn năm thực hiện cuộc vận động, đến năm 2011, Bộ Chính trị Ban

chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục ra chỉ thị số 03/CT-TW, ngày 14-5-

2011 “Về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Như vậy, thời gian hơn nửa thế kỷ đã cho thấy VHCT Hồ Chí Minh có ý

nghĩa to lớn đối với sự phát triển mới của tư tưởng, lý luận chính trị ở Việt

Nam, trở thành một bộ phận quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng và là

yếu tố tiên quyết nhất bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng mà nhân dân

Việt Nam đã giành được.

Ba là, văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã xác lập một hệ thống những quan

điểm lý luận sâu sắc về một nền chính trị có văn hoá, phù hợp với nguyện vọng của

nhân dân, xu thế thời đại và quy luật phát triển tất yếu của nhân loại.

133

Là người luôn đề cao vai trò của lý luận trong việc hướng dẫn hoạt động

thực tiễn, cho nên, cùng với sự phát triển và sáng tạo các quan điểm, lý luận chỉ

đạo việc đấu tranh xóa bỏ chế độ chính trị thuộc địa, nửa phong kiến, Hồ Chí

Minh cũng hết sức quan tâm đến việc bảo đảm cơ sở lý luận của chế độ chính

trị mới. Những quan điểm, tư tưởng của Người về các vấn đề liên quan đến bản

chất, mục tiêu, cấu trúc, cơ chế vận hành của nền chính trị mới cho thấy, đó

phải là một nền chính trị của dân, do dân, vì dân, mang bản chất của giai cấp

công nhân, trong đó: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước

và toàn xã hội; Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là bộ máy quản lý mọi

mặt của đời sống xã hội và nhân dân lao động là người chủ thực sự của quyền

lực chính trị nói riêng, một nền chính trị nói chung.

Theo Hồ Chí Minh, một nền chính trị tất cả vì nhân dân, chỉ có thể là nền

chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bởi vì, Đảng là đội tiền phong,

bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, bao gồm những người ưu tú nhất

của giai cấp tiên tiến nhất - giai cấp đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp

công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là cần thiết

trong mọi giai đoạn và thời kỳ cách mạng. Tuy nhiên, Đảng phải thường xuyên tự

đổi mới, tự chỉnh đốn để đáp ứng với sự vận động phát triển của cách mạng và thực

sự tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ, danh dự của dân tộc. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:

“Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn

lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca

ngợi, nếu lòng dạ họ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[68,

tr.672]. Thực tiễn đã chứng minh, vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định

mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhưng thực tiễn cũng cho thấy, hiệu quả

lãnh đạo của Đảng, một mặt phụ thuộc vào tính tự giác của quần chúng, nhưng mặt

khác lại phụ thuộc rất lớn vào vai trò, năng lực quản lý, điều hành của nhà nước. Do

đó, một nhà nước mạnh là yếu tố quyết định của quá trình hiện thực hóa các mục

tiêu, lý tưởng của Đảng.

Theo Hồ Chí Minh, một nhà nước mạnh là một nhà nước không chỉ hợp pháp,

hợp hiến, có tính chính đáng mà còn phải là một nhà nước pháp quyền, của nhân

134

dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong tư tưởng của Người, pháp luật là một công cụ

quan trọng và chủ yếu nhất để nhà nước bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa các

công dân. Tuy nhiên, với Hồ Chí Minh, vấn đề quan trọng hơn là pháp luật đó do ai

làm ra và nhằm bảo vệ ai. Trong chế độ chính trị dân chủ, pháp luật phải được làm

ra bởi các đại biểu dân cử, phải thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân và nhằm

bảo đảm sự công bằng cho mọi công dân. Theo Hồ Chí Minh, một nền chính trị

nhân văn, nhân đạo thì nhân dân phải là chủ thể tối cao, mọi hoạt động của Đảng,

nhà nước, phải hướng vào việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần

của nhân dân.

Bốn là, văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã là động lực tinh thần giúp cho

cán bộ, đảng viên và nhân dân ta tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng,

của cách mạng, kiên định con đường phát triển của đất nước là ĐLDT gắn

liền với CNXH.

Với mục tiêu, lý tưởng cao đẹp và con đường phát triển đúng đắn, Hồ

Chí Minh chẳng những đưa đến cho nhân dân một động lực tinh thần mạnh

mẽ, đủ sức lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, vượt qua mọi gian khổ, hy

sinh để đánh bại sự xâm lược của hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, giữ vững

ĐLDT mà còn là động lực chủ yếu để nhân dân ta quá độ lên CNXH. Thực tế

cho thấy, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và tấm gương đạo đức chính trị Hồ

Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc

thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới, đưa cả một dân tộc

trở thành anh hùng. Với tính cách là lực lượng tiên phong nhất, cách mạng

nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng Cộng sản Việt Nam

là biểu hiện tập trung nhất chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc. Dưới

sự tác động của VHCT Hồ Chí Minh, các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng

đã chủ động, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, kể cả hy sinh tính mạng vì

mục tiêu, lý tưởng của Đảng, lợi ích của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Tại

Lễ kỷ niệm Ba mươi năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã nêu rõ:

135

Trong 15 năm đấu tranh trước Cách mạng tháng Tám và trong tám, chín

năm kháng chiến, biết bao đảng viên ưu tú và quần chúng cách mạng đã

vì dân, vì Đảng mà hy sinh một cách cực kỳ oanh liệt. Chỉ riêng trong

cấp Trung ương của Đảng đã có 14 đồng chí bị đế quốc Pháp bắn, chém,

hoặc đập chết trong nhà tù…Trong 31 đồng chí hiện nay là Ủy viên

Trung ương ta, trước ngày khởi nghĩa đã được đế quốc Pháp tặng cho

222 năm tù đày.[65, tr.401].

Không chỉ cán bộ, đảng viên mà mỗi người dân Việt Nam đều tìm thấy ở Hồ

Chí Minh một động lực để cống hiến, hy sinh. Trong cách mạng và kháng chiến,

người dân đã không quản ngại hy sinh để nuôi dưỡng bộ đội, chở che cho cán bộ,

đảng viên, sẵn sàng dỡ cả nhà của mình để lót đường cho xe đi hay làm chất đốt cho

bộ đội; biết bao bà Mẹ Việt Nam anh hùng đã chấp nhận cả sự hy sinh của những

người thân yêu nhất cho thắng lợi của cách mạng. Một nhà báo Cu ba đã viết:

“thông qua chủ nghĩa anh hùng nảy sinh ra hàng ngày trong nhân dân Việt Nam,

người ta đã tìm thấy lời giải thích hay nhất về học thuyết vì độc lập tự do của Hồ

Chủ tịch”[dẫn theo 27, tr.453].

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh không chỉ đóng vai trò là động lực tinh thần

để nhân dân ta đạp bằng mọi trở ngại mà đi tới mục tiêu ĐLDT, thống nhất Tổ quốc

mà còn là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH, góp phần giữ vững niềm tin của

nhân dân vào mục tiêu cuối cùng của cách mạng là xây dựng thành công CNXH ở

Việt Nam. Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để nhất,

làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội - một cuộc cách mạng chưa từng có tiền

lệ trong lịch sử. Vì vậy, đây là cuộc cách mạng khó khăn, phức tạp và lâu dài nhưng

đầy tính nhân văn, nhân đạo, vì sự nghiệp giải phóng con người. Do đó, xây dựng

CNXH không thể một sớm, một chiều, không thể bằng một, hai thế hệ mà phải

bằng sự chung tay góp sức của nhiều thế hệ. Mặc dù vậy, theo Hồ Chí Minh, trong

mỗi bước phát triển của quá trình cách mạng lâu dài đó phải là một bước hiện thực

hóa các mục tiêu của CNXH ở một mức độ cao hơn. Người cũng khẳng định rằng,

“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có

136

con người xã hội chủ nghĩa thì phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng

xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”[65, tr.11].

Hồ Chí Minh chính là biểu tượng cao đẹp nhất của con người xã hội chủ

nghĩa. VHCT của Người đã minh chứng cho khả năng hiện thực hóa CNXH,

củng cố niềm tin của nhân dân vào lý tưởng cao đẹp của Đảng, và trở thành

động lực tinh thần thúc đẩy các phong trào hành động cách mạng của nhân dân

ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hiện nay, cách mạng nước ta có cả những

thuận lợi và thách thức đan xen, nguy cơ đe dọa đến nền độc lập, tự chủ vẫn

còn. Tình hình thế giới liên tiếp có những diễn biến phức tạp, khó lường. Do

vậy, để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ

quốc gia, hơn lúc nào hết phải học tập, vận dụng và phát huy các giá trị VHCT

Hồ Chí Minh vào mọi hoạt động của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:

nắm chắc nguyên lý, quy luật vận động, phát triển của cách mạng; kết hợp chặt

chẽ lý luận với thực tiễn, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý

luận, khắc phục mọi biểu hiện giáo điều, rập khuôn máy móc; quán triệt sâu sắc

phương pháp luận “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong mọi lĩnh vực hoạt động,

đặc biệt là hoạt động chính trị. Trong tình hình hiện nay, để giữ vững độc lập,

tự chủ của đất nước phải kiên trì mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH, tăng

cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức

đoàn kết quốc tế.

3.1.1.2. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đem lại một diện mạo mới trong

thực tiễn đời sống chính trị của dân tộc

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị thực tiễn, mọi hoạt động của Người đều

nhằm cải tạo và biến đổi hiện thực, đem lại cho nhân dân Việt Nam một sự thay đổi

thật sự trong đời sống chính trị. Cách mạng Việt Nam đã khẳng định ý nghĩa thực

tiễn to lớn của VHCT Hồ Chí Minh. Với sự tích hợp và tỏa sáng các giá trị của dân

tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh đã đưa VHCT truyền thống của dân tộc Việt Nam

lên một tầm cao mới, đánh dấu bước phát triển về chất của văn hoá dân tộc trong sự

phát triển chung của văn hoá nhân loại. Với những quan điểm, lý luận về con đường

137

phát triển của dân tộc, Hồ Chí Minh đã đặt dấu chấm hết cho một thời kỳ khủng

hoảng về hệ tư tưởng và đường lối cứu nước.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã lan tỏa và tác động đến nhận thức, tình

cảm, ý chí của mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt giai cấp, dân tộc,

tôn giáo, tất cả đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm đi theo Đảng.

Với chủ trương thiết lập một nền chính trị tất cả vì dân và một tấm gương suốt đời

tận tụy làm công bộc của dân dù ở bất cứ cương vị nào, Hồ Chí Minh đã giành

được niềm tin tuyệt đối của nhân dân, làm cho toàn dân luôn hướng về Người. Do

đó, đã trực tiếp phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, chẳng những đủ sức

đánh đổ chế độ thực dân, đưa đến thắng lợi trong cách mạng Tháng 8-1945, mà còn

đánh bại hai đế quốc hùng mạnh nhất là Pháp và Mỹ, bảo vệ vững chắc nền chính

trị độc lập, tự chủ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết, “Tất cả những gì tốt đẹp của

dân tộc trong bốn nghìn năm lịch sử đều sống dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ

hết trong thời đại Hồ Chí Minh”[dẫn theo 27, tr.439].

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã đưa dân tộc Việt Nam bước sang một kỷ

nguyên mới, kỷ nguyên ĐLDT với quyền tự do lựa chọn con đường phát triển

đất nước phù hợp với quy luật tự nhiên và xu thế thời đại; đưa nhân dân Việt

Nam từ thân phận là nô lệ, là đối tượng áp bức của quyền lực nhà nước bước lên

địa vị người làm chủ đất nước, làm chủ quyền lực chính trị. Hồ Chí Minh đã chỉ

rõ: “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động. Vậy công nhân,

nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: hiện nay, nhân dân lao động ta là

những người làm chủ nước ta, chứ không phải là những người làm thuê cho giai

cấp bóc lột như thời cũ nữa”[66, tr.66].

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã góp phần xây dựng nên một Đảng cách

mạng chân chính với nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên thực sự vì dân, vì nước, bảo

đảm cho Đảng sớm trở thành đảng cầm quyền và giành được quyền lãnh đạo tuyệt

đối, được nhân dân tin tưởng, chăm lo xây dựng, bảo vệ. Mặt khác, với những tư

tưởng, phương pháp và tác phong ứng xử chính trị cụ thể, chẳng những Người đã

để lại cho nhân dân ta những bài học kinh nghiệm, những tấm gương mẫu mực về

phẩm chất, năng lực, phong cách của người làm chính trị, của một nhà chính trị thân

138

dân, vì dân, mà còn trở thành yêu cầu đào tạo và tiêu chí đánh giá các nhà chính trị

chân chính.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa lịch sử to lớn mà

ngày nay còn đang tiếp tục soi đường cho sự nghiệp xây dựng một nền chính

trị thực sự có văn hoá, thực sự vì con người. Trong bối cảnh chung của thế

giới với xu thế dân chủ hóa ngày càng mạnh mẽ, kế thừa và phát triển các

giá trị của VHCT Hồ Chí Minh trong điều kiện lịch sử mới, Đảng ta đã khởi

xướng và tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhằm tạo ra

những điều kiện để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của

nhân dân. Hàng loạt các quan điểm, tư tưởng, chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đã thể hiện tinh thần của VHCT

Hồ Chí Minh. Để có thể tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, phát huy

cao độ sức mạnh toàn dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã

phát động và đang tiếp tục duy trì cuộc vận động “Học tập, làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhằm làm cho tư tưởng, phương pháp,

phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục phát huy giá trị trong đời sống chính trị

của đất nước hiện nay. Theo đó, Đảng đã tập trung nâng cao chất lượng,

hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương thức lãnh

đạo của Đảng đối với nhà nước và toàn xã hội; xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân; củng cố Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tăng cường khối

đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia có hiệu quả vào

công việc của nhà nước; cải cách nền hành chính theo hướng tạo thuận lợi

nhất để mọi công dân được bảo đảm các quyền lợi chính trị; chăm lo xây

dựng giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức, đổi mới toàn diện giáo dục,

đào tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy

mạnh xây dựng nông thôn mới; kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa hai

nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế và tăng cường quốc phòng an ninh,

kiên quyết đấu tranh làm thất bại các âm mưu và hành động chống phá của

139

các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo

môi trường hòa bình để phát triển đất nước; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo,

chăm lo các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng…Có thể

thấy, Hồ Chí Minh đã đi xa gần nửa thế kỷ, nhưng VHCT của Người đang

tiếp tục tỏ rõ ý nghĩa to lớn trong giai đoạn cách mạng mới.

4.1.2. Ý nghĩa đối với cách mạng thế giới

4.1.2.1. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú thêm hệ

giá trị của tư tưởng chính trị thế giới

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh không chỉ là một bộ phận hợp thành mà còn là

bộ phận quan trọng quyết định nhất đưa VHCT Việt Nam bước sang một thời kỳ

mới, có sức lan tỏa và tác động mạnh mẽ đến VHCT của nhân dân thế giới. Mặt

khác, VHCT Hồ Chí Minh thuộc hệ giá trị của VHCT Mác - Lênin, mang bản chất

của giai cấp công nhân. Vì vậy, ý nghĩa của VHCT Hồ Chí Minh đối với sự phát

triển tư tưởng chính trị trên thế giới được nhìn nhận trên hai bình diện chủ yếu đó

là: đối với tư tưởng chính trị của nhân loại và đối với chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã đóng góp vào kho tàng tư tưởng chính trị của nhân

loại nhiều luận điểm quan trọng có giá trị lý luận to lớn.

Tư tưởng của Người về chiến lược đại đoàn kết không chỉ có ý nghĩa đối

với cách mạng Việt Nam mà còn cho thế giới thấy rõ vai trò của nó trong việc

thực hiện các mục tiêu chính trị có tính chất quốc tế. Trong đấu tranh chống

chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh đã chủ trương đoàn kết chặt chẽ giữa các

nước thuộc địa với nhau và giữa các dân tộc bị áp bức với giai cấp vô sản ở các

nước tư bản. Người không chỉ nêu khẩu hiệu, “Lao động tất cả các nước đoàn

kết lại”, mà còn chứng tỏ hiệu quả của việc sáng lập và tích cực hoạt động

trong các tổ chức quốc tế để phát huy vai trò của đoàn kết như: sáng lập Hội

Liên hiệp thuộc địa (1922); Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (1925). Trên

báo chí nước ngoài đã có bài viết khẳng định rằng:

Trong những năm 1920, khi có rất ít người cộng sản hiểu được

đúng đắn bản chất của chủ nghĩa đế quốc - sự tàn bạo và chính

140

sách ngu dân cũng như tính chất quốc tế của nó và những lực

lượng to lớn mà nó chi phối - thì Cụ Hồ Chí Minh đã nhận thức

được tầm quan trọng quyết định của sự đoàn kết giữa các dân tộc

bị áp bức đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và sự liên minh

giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp công nhân ở các nước đế

quốc.[8, tr.49].

Ngày nay, thế giới càng phát triển càng chứng tỏ sự cần thiết phải tăng

cường đoàn kết, xây dựng lòng tin chiến lược giữa các nước có chế độ chính trị

khác nhau để giải quyết những vấn đề chung như: dịch bệnh, khủng bố, ô nhiễm

môi trường, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, chạy đua vũ trang...

Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH thực sự là một đóng góp cho thế giới

về triết lý phát triển nhân văn, hài hòa. Người không đưa ra một định nghĩa đầy đủ

về CNXH theo kiểu xác lập một mô hình có sẵn trong tư duy sau đó bắt thực tiễn

phải khuôn theo để vô tình phạm vào chủ quan duy ý chí. Căn cứ vào đòi hỏi của

thực tiễn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể để tiếp cận và đưa ra các quan niệm về

CNXH như: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh...”[63, tr.390],

“Chủ nghĩa xã hội là công bằng, hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng

ít...”[63, tr.404], “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát

nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống một

đời hạnh phúc”[65, tr.415], và mục đích của CNXH là “không ngừng nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”[66,

tr.30]… Những định nghĩa trên đây đã phản ánh một chế độ xã hội mà ở đó cả

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và động lực xây dựng đều do nhân dân và vì nhân

dân. Với quan niệm về một xã hội lấy con người làm trung tâm, Hồ Chí Minh đã

làm cho CNXH không chỉ phù hợp với tất cả mọi giai cấp, tầng lớp mà còn phù hợp

với mọi trình độ phát triển.

Những vấn đề mà thế giới hiện đại ngày nay đang đặt ra như: sự sụp đổ của

các mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu trong thập niên cuối của thế kỷ XX; sự

khủng hoảng kinh tế của CNTB trong thập niên đầu của thế kỷ XXI; vấn đề khoảng

141

cách giàu nghèo; vấn đề suy thoái đạo đức, khủng hoảng lối sống; vấn đề xung đột

tôn giáo, dân tộc, sắc tộc...đang là những minh chứng thực tiễn cho tính đúng đắn

của triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Một nhà sử học Ấn Độ đã viết: “Ở giữa cơn

khủng hoảng này, nhân loại đã sản sinh ra những danh nhân lỗi lạc làm nên thời đại

như Lênin, Hồ Chí Minh và Găngđi là những người đã để lại những dấu ấn không

thể sai lầm của mình để được tiếp tục theo đuổi trong các đảo lộn nhiều biến

động”[108, tr.259-260].

Quan điểm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh chẳng

những đã thức tỉnh và cổ vũ tinh thần đấu tranh của các dân tộc thuộc địa mà còn

trở thành một giá trị phổ biến và tiêu chí trong quan hệ quốc tế. Nhận rõ quy luật

phát triển không đều và sự đan xen tất yếu của các chế độ chính trị khác nhau,

Hồ Chí Minh luôn chủ trương chung sống hòa bình và thực hiện hợp tác quốc tế

trên cơ sở tôn trọng sự khác biệt và không can thiệp vào công việc nội bộ của

nhau. Người khẳng định:

Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều

có thể giải quyết bằng cách hoà bình; tin chắc rằng các nước dù có chế

độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức có khác nhau cũng đều có thể

chung sống hoà bình được. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn

sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên

nguyên tắc: Tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của

nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau,

bình đẳng cùng có lợi và chung sống hoà bình.[63, tr.12].

Xu hướng và mong muốn giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa,

xã hội hiện nay cho thấy, thế giới đang tìm đến với những giá trị mà Hồ Chí Minh

đã nêu lên cách đây hơn nửa thế kỷ. Đó thực sự là một đóng góp lý luận có ý nghĩa

to lớn trong tiến trình phát triển của nhân loại.

Thứ hai, kế thừa và phát triển VHCT Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của

cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chẳng những đã làm phong phú thêm giá trị mà

còn mở rộng và nâng cao sức sống của VHCT Mác - Lênin.

142

Phần lớn các quan điểm chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Người

kế thừa, vận dụng và phát triển. Trên lĩnh vực lý luận chính trị, có thể chỉ ra những

đóng góp nổi bật sau đây của VHCT Hồ Chí Minh vào các giá trị của kho tàng

VHCT Mác - Lênin .

- Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về

con đường cách mạng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và

vấn đề giai cấp ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời ở phương Tây trong điều kiện các nước tư

bản đã có ĐLDT và mâu thuẫn gay gắt nhất trong xã hội là mâu thuẫn giữa tư

sản với vô sản. Vì vậy, C.Mác, Ph.Ăngghen quan tâm chủ yếu tới vai trò, sứ

mệnh cũng như lợi ích của giai cấp công nhân, và cho rằng, chỉ có giải phóng

giai cấp mới giải phóng được các dân tộc. Do đó, việc thực hiện sứ mệnh của

giai cấp công nhân phải đi theo con đường từ giải phóng giai cấp đến GPDT và

giải phóng con người.

Khi mới tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:

“Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải

phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế

giới”[54, tr.441]. Tuy nhiên, trong quá trình kết hợp lý luận với thực tiễn và xuất

phát từ thực tế thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thay đổi lập luận của mình, Người cho

rằng: với các nước thuộc địa, có GPDT mới giải phóng được giai cấp, coi GPDT đã

bao hàm một phần giải phóng giai cấp và là tiền đề để tiến tới giải phóng giai cấp

một cách triệt để. Tại Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), dưới sự chủ trì của Hồ Chí

Minh, Hội nghị đã phân tích: “…Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải

phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể

quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến

vạn năm cũng không đòi lại được”[15, tr.113].

Như vậy, con đường cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa phải đi từ GPDT

đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Việc nhận thức và giải quyết đúng

143

đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng GPDT của Hồ Chí Minh

là vấn đề lý luận hết sức quan trọng thể hiện sự sáng tạo lớn. Điều này liên quan đến

tính chủ động, sáng tạo của cách mạng GPDT ở các nước thuộc địa, đến việc xác

định động lực và tập hợp lực lượng cho cách mạng GPDT.

- Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác -

Lênin về tiềm năng, khả năng của cách mạng thuộc địa và vị trí, vai trò của

nó với cách mạng vô sản ở chính quốc.

Thực tế cho thấy, ở nửa đầu thế kỷ XIX, vấn đề thuộc địa chưa trở

thành vấn đề cơ bản của đời sống chính trị quốc tế, cho nên theo C.Mác và

Ph.Ăngghen, cách mạng GPDT phụ thuộc vào cách mạng giải phóng giai

cấp. Đến thời Lênin, CNTB đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, chúng

đẩy mạnh xâm chiếm và mở rộng thuộc địa, làm cho vấn đề dân tộc trở

thành vấn đề quốc tế và trở nên hết sức gay gắt. Thời kỳ này phong trào đấu

tranh chống chủ nghĩa thực dân của các nước thuộc địa bắt đầu phát triển

mạnh. Trước thực tế đó, Lênin đã đánh giá cao vai trò của cách mạng thuộc

địa và coi đó là một bộ phận quan trọng của cách mạng vô sản. Mặc dù vậy,

các lãnh tụ của Quốc tế cộng sản vẫn coi thắng lợi của cách mạng thuộc địa

phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu. Trong Tuyên

ngôn của Quốc tế cộng sản đã ghi, “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể

tiến hành với việc giải phóng công nhân ở chính quốc”[dẫn theo 49, tr.143].

Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thừa nhận vấn

đề đấu tranh giai cấp và vị trí vai trò nhất định của cách mạng vô sản ở chính quốc

đối với sự nghiệp giải phóng của các nước thuộc địa, nhưng với tư duy độc lập, tự

chủ, Người đã có nhận định khác về khả năng của cách mạng GPDT. Là người dân

của một nước thuộc địa, lại có sự trải nghiệm thực tế trên hành trình tìm đường cứu

nước, Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc tình hình các nước thuộc địa. Người cho rằng,

thuộc địa là nơi bị áp bức, bóc lột nặng nề, nơi tập trung những mâu thuẫn dân tộc

và giai cấp sâu sắc, là mắt khâu yếu nhất trong sợi dây truyền của chủ nghĩa đế

144

quốc. Từ một quy luật tự nhiên, một nguyên lý đơn giản, có áp bức thì có đấu tranh,

Người đã nhìn thấy một tiềm năng cách mạng to lớn ở các nước thuộc địa. Mặt

khác, Người đã thu thập các số liệu về nguồn lực con người, về tài nguyên

thiên nhiên để so sánh giữa chính quốc với thuộc địa và đi đến nhận định rằng,

các nước thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn, nếu biết khơi dậy, động viên,

tập hợp thì sẽ tạo thành động lực cách mạng khổng lồ trong đấu tranh chống

chủ nghĩa đế quốc.

Trên cơ sở nhận thức rõ tiềm năng, vai trò của cách mạng thuộc địa đối

với sự tồn tại của CNTB, và mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách

mạng vô sản ở chính quốc; đề cao tinh thần tự lực, tự cường, Hồ Chí Minh cho

rằng, cách mạng GPDT ở thuộc địa hoàn toàn có thể chủ động nổ ra và giành

thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm trên chẳng những

đã thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức, với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực,

tự cường đứng lên tự giải phóng dân tộc mình, mà còn thể hiện rõ sự kế thừa và

phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa.

Cống hiến của Hồ Chí Minh có thể đem so sánh với cống hiến của C.Mác và

Lênin. C.Mác là người có công lớn nhất trong việc phân tích bản chất của

CNTB, phát kiến ra học thuyết giá trị thặng dư và chỉ ra sứ mệnh lịch sử của

giai cấp vô sản. Lênin là người có công lớn nhất trong việc phân tích bản chất

của chủ nghĩa đế quốc tìm ra quy luật phát triển không đều của nó và chỉ ra:

Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước, nếu ở đó là mắt

khâu yếu nhất trong sợi dây truyền của chủ nghĩa đế quốc. Bên cạnh đó, Hồ

Chí Minh lại là người có công lớn nhất trong việc phân tích bản chất của chủ

nghĩa thực dân và chỉ ra mắt khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc là ở thuộc

địa. Nói về đóng góp của Hồ Chí Minh trong việc thức tỉnh tinh thần tích cực,

chủ động, tự lực, tự cường trong đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, Đại

tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với

loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế gới văn minh,

xoá đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa”[75, tr.73].

145

Tại Hội thảo quốc tế nhân kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của Hồ Chí Minh,

Giám đốc Trung tâm nghiên cứu triết học chính trị và xã hội Mê-hi-cô đã nói:

Chúng ta có thể khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh

đạo của Hồ Chí Minh và lý luận của Người về chiến tranh nhân dân

đã góp phần làm phong phú học thuyết Mác - Lênin về phương pháp

mà các dân tộc phải làm theo khi tiến hành một cuộc cách mạng dân

chủ…Đó là cống hiến to lớn của Người vào cuộc đấu tranh giải phóng

của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.[8, tr.76-77].

- Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã phát triển học thuyết Mác - Lênin về

nguồn gốc, tính chất của Đảng Cộng sản và việc xây dựng đảng cầm quyền ở một

nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH.

Đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị chỉ ra đời khi phong trào đấu

tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đạt đến trình độ tự giác.

Tức là khi và chỉ khi giai cấp công nhân nhận rõ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử

của mình trong đời sống chính trị - xã hội và tự giác bước lên vũ đài chính trị

đấu tranh với mục tiêu lật đổ địa vị thống trị của giai cấp tư sản. Khi đó, sẽ xuất

hiện những người ưu tú nhất trong phong trào đấu tranh của giai cấp công

nhân, tự nguyện liên kết với nhau dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp mình, tức là

chủ nghĩa Mác - Lênin. Do vậy, Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa chủ nghĩa

Mác và phong trào công nhân. Thiếu một trong hai yếu tố này không thể có

Đảng Cộng sản. Nói cách khác, một tổ chức chính trị nào đó không thể mang

tên Đảng Cộng sản nếu thiếu một trong hai yếu tố này. Tuy nhiên, có hai yếu tố

này cũng chưa hẳn sẽ có Đảng Cộng sản nếu hai yếu tố đó chỉ tồn tại một cách

biệt lập, đứng cạnh nhau mà chưa thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau. Đây là

nguyên lý phổ biến về sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới.

Lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ

Chí Minh nhận rõ sự cần thiết phải có Đảng để lãnh đạo công cuộc đấu tranh GPDT

và xây dựng CNXH của nhân dân Việt Nam. Mặc dù vậy, vào thời điểm Người tiếp

thu chủ nghĩa Mác - Lênin, ở Việt Nam chưa hội đủ những yếu tố và điều kiện cần

146

thiết để thành lập một chính đảng thực sự cách mạng của giai cấp công nhân. Bởi

vì, lúc đó thực dân Pháp đang thực hiện chính sách ngu dân, chúng tiến hành bưng

bít thông tin và ngăn cấm mọi hình thức sinh hoạt tư tưởng. Do vậy, giai cấp công

nhân Việt Nam tuy đã ra đời cùng với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân

Pháp, nhưng số lượng còn ít và trình độ nhận thức chính trị còn rất hạn chế. Tuy

nhiên, giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những đặc điểm chung đó là, họ đại

diện cho phương thức sản xuất mới, có đầy đủ phẩm chất của giai cấp công nhân

quốc tế, làm việc tập trung ở các trung tâm kinh tế, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh

thần cách mạng cao. Bên cạnh đó cũng có những đặc điểm riêng do môi trường và

quá trình hình thành tạo nên đó là: ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, lại trong lúc

chủ nghĩa đế quốc đang đi xuống nên có ưu thế hơn trong việc giành quyền lãnh

đạo; chịu ba tầng áp bức của đế quốc, phong kiến và tư sản nên có thể vừa đại diện

cho quyền lợi của dân tộc, vừa đại diện cho quyền lợi của các giai cấp khác; xuất

thân chủ yếu từ nông dân nên có mối quan hệ mật thiết với các giá trị truyền thống

và lợi ích của dân tộc, là bạn đồng minh tự nhiên của nông dân.

Những đặc điểm trên đây có nhiều yếu tố thuận lợi nhưng cũng chỉ là

tiềm năng và cần phải có sự chuẩn bị để biến các tiềm năng đó thành hiện

thực. Nhận rõ điều này, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ nguyên lý phổ

biến với các yếu tố đặc thù trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Người đã giành một khoảng thời gian để tiến hành các hoạt động truyền bá

lý luận, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Lý luận cách mạng được

truyền vào cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã thúc đẩy sự

phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng và xuất hiện những cá nhân

ưu tú nhất. Khi hội đủ các điều kiện, các tổ chức cộng sản tự xuất hiện và

sau đó, Hồ Chí Minh đã đứng ra hợp nhất các tổ chức đó lại, sáng lập ra

Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đây là quan điểm, tư tưởng và cách làm độc đáo, sáng tạo trong quá trình xây

dựng Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Người đã làm cho chủ

nghĩa Mác - Lênin không chỉ kết hợp với phong trào công nhân mà còn kết hợp với

147

phong trào yêu nước và làm cho chủ nghĩa dân tộc phát triển thành chủ nghĩa cộng

sản. Sau này, nhân kỷ niệm ba mươi năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:

Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với

phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

Sự sáng tạo về nguồn gốc ra đời của Đảng cũng đồng thời đưa đến sự sáng tạo

về tính chất của đảng. Vì là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin

với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, nên Đảng Cộng sản Việt Nam

không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động

và của cả dân tộc. Theo đó, Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính

nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong suốt tiến trình cách

mạng, cho nên Người rất quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều

kiện Đảng cầm quyền. Điều này chưa được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -

Lênin đề cập nhiều. Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, là Chủ tịch Đảng

nhưng đồng thời là Chủ tịch nước; nhận rõ những thuận lợi, khó khăn trong công

tác xây dựng Đảng ở một nước nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu:

Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn để đáp ứng đòi hỏi mới của sự

nghiệp cách mạng; mỗi đảng viên phải có đức, có tài, hết lòng vì dân, vì nước để

Đảng thực sự tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ, danh dự của dân tộc. Những quan

điểm, tư tưởng trên đây thực sự đã làm phong phú và sâu sắc thêm lý luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản.

- Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã bổ sung và làm phong phú thêm lý luận

Mác - Lênin về mô hình, bản chất, tính chất của nhà nước trong thời kỳ quá độ lên

CNXH.

Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của C.Mác là nhà

nước chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân, có nhiệm vụ chuyển toàn bộ sở

hữu tư nhân của tư sản thành sở hữu công cộng, trấn áp sự nổi dậy của giai cấp tư

sản, liên minh với nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân để xây dựng CNXH.

Nhà nước chuyên chính vô sản mang tính chất là chính quyền của giai cấp công

148

nhân. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, nhà nước trong thời kỳ quá độ lên

CNXH ở nước Nga được gọi là chính quyền công nông, có tính chất là nhà nước

của giai cấp công nhân và nông dân.

Hồ Chí Minh đã vận dụng lý luận Mác - Lênin về nhà nước vào điều kiện cụ

thể Việt Nam và sáng tạo ra mô hình nhà nước Dân chủ nhân dân, mang bản chất

của giai cấp công nhân nhưng có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Một nhà

nước mà như Nghị quyết Trung ương 8 (5-1941) đã viết:

Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới không phải thuộc quyền

riêng của một giai cấp nào mà là của chung toàn thể dân tộc, chỉ trừ bọn

tay sai của đế quốc Pháp - Nhật và những bọn phản quốc…, còn ai là

người dân sống trên dải đất Việt Nam, thảy đều được một phần tham gia

giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính

quyền ấy.[15, tr.114].

Như vậy, nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là nhà

nước của dân, do dân, vì dân, mang bản chất của giai cấp công nhân, do giai

cấp công nhân lãnh đạo. Đây vừa là một trong những sáng tạo lý luận chính trị

hết sức quan trọng, cho phép tạo ra sự đồng thuận xã hội và phát huy vai trò,

trách nhiệm của mọi giai cấp, tầng lớp trong xây dựng CNXH, vừa là một đóng

góp lớn của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin về nhà nước.

4.1.2.2. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh góp phần thúc đẩy sự phát triển,

tiến bộ trong đời sống chính trị của thế giới đương đại

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trong một giai đoạn

đầy biến động của lịch sử thế giới. Đó là những giá trị về chính trị được hình thành

trong thực tiễn đấu tranh để thoát khỏi sự áp bức của chủ nghĩa thực dân cũ và tìm

một con đường hiện thực cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Do vậy, ý nghĩa

thực tiễn của VHCT Hồ Chí Minh đối với thế giới được nhìn nhận gắn liền với tính

chất của từng giai đoạn lịch sử cụ thể kể từ khi những giá trị đầu tiên được xác lập.

Theo đó, có thể khái quát một số ý nghĩa quan trọng của VHCT Hồ Chí Minh đối

với sự phát triển, tiến bộ của đời sống chính trị quốc tế như sau:

149

Một là, Hồ Chí Minh đã làm cho nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới

xích lại gần nhau, hiểu biết nhau hơn và động viên nhân dân các nước thuộc địa

đứng lên làm cách mạng GPDT, góp phần tạo ra động lực mới cho cách mạng thế

giới trong nửa đầu thế kỷ XX.

Thực tế cho thấy rằng, chủ nghĩa thực dân đã liên kết với nhau thành một hệ

thống thế giới, chẳng những để thỏa hiệp việc phân chia thuộc địa, mà còn để chống

lại phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc và sự nổi dậy của

nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Do vậy, sự liên kết chặt chẽ giữa các lực

lượng ở khắp nơi của phong trào cách mạng thế giới là một tất yếu khách quan. Tuy

nhiên, kể cả khi Quốc tế Cộng sản đã ra đời thì trong phong trào cách mạng thế giới

vẫn tồn tại sự biệt lập, tách rời giữa các nước thuộc địa với nhau và giữa cuộc đấu

tranh của giai cấp công nhân ở các nước chính quốc với cuộc đấu tranh giành

ĐLDT của nhân dân các nước thuộc địa. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động

ở các nước chính quốc nói chung, ở Pháp nói riêng chưa có hiểu biết đúng đắn về

điều kiện tự nhiên, xã hội của các thuộc địa.

Hồ Chí Minh cho rằng, do không hiểu biết lẫn nhau nên đã nảy sinh

những thành kiến làm ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của cách mạng.

Người chỉ rõ: “Đối với công nhân Pháp, thì người bản xứ là một hạng người

thấp kém, không đáng kể, không có khả năng để hiểu biết được và lại càng

không có khả năng hoạt động. Đối với người bản xứ, những người Pháp -

mặc dầu họ là hạng người nào cũng đều là những kẻ bóc lột độc ác”[54,

tr.81]. Sự hiểu biết sai lầm đó có nguyên nhân khách quan từ sự xa cách địa

lý, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ nghĩa thực dân đã che dấu sự thật,

bưng bít, cấm vận thông tin và lợi dụng sự phân biệt đó để chia rẽ các lực

lượng cách mạng quốc tế.

Trước thực trạng đó, Hồ Chí Minh đã tiến hành các hoạt động cụ thể như,

phản ánh tình hình thuộc địa thông qua việc tham gia Đảng xã hội Pháp; thành lập

Hội Liên hiệp thuộc địa để thống nhất hành động đấu tranh; viết bài tuyên truyền và

tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân trên báo Người cùng khổ - cơ quan ngôn luận

150

của Hội Liên hiệp thuộc địa; tham gia hoạt động của các tổ chức Quốc tế, yêu cầu

các tổ chức này, đặc biệt là Quốc tế Cộng sản phải tăng cường giúp đỡ các nước

thuộc và làm cho các Đảng Cộng sản cùng giai cấp công nhân ở chính quốc hiểu

biết nhiều hơn về thuộc địa và thấy được sự cần thiết phải đoàn kết với phong trào

đấu tranh GPDT. Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê

phán quan điểm coi nhẹ cách mạng thuộc địa đang tồn tại ở một số Đảng Cộng sản

và yêu cầu cần phải đẩy mạnh tuyên truyền để đoàn kết các nước thuộc địa với

nhau và giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Người nói:

Khi các đồng chí muốn đập vỡ một quả trứng hay một hòn đá, thì các

đồng chí phải nghĩ đến việc tìm kiếm một công cụ mà sức bền của nó

tương xứng với sự vững chắc của đối tượng định đập tan…Tại sao các

đồng chí lại xem thường các thuộc địa trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa

vào nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng chí.[54, tr.296].

Với những hoạt động đó, Hồ Chí Minh đã góp phần làm cho các nước thuộc

địa liên kết với nhau thành “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”[55,

tr.134] và sự đoàn kết, giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản cũng như của phong trào cách

mạng vô sản ở các nước chính quốc với phong trào GPDT đã tạo ra động lực mới

cho cách mạng thế giới.

Hai là, Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng làm tan rã hệ thống thuộc địa

của CNTB và thiết lập một diện mạo mới cho đời sống chính trị quốc tế.

Trong quá trình phát triển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thành chủ

nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản đã “xuất khẩu” sự bóc lột sang các nước lạc hậu, biến

các nước đó thành thuộc địa của chúng. Với việc áp bức, bóc lột và nô dịch các

nước thuộc địa, CNTB đã tạo ra trong đời sống chính trị thế giới thêm một mâu

thuẫn mới là mâu thuẫn giữa CNTB với các dân tộc thuộc địa. Thực trạng việc giai

cấp tư sản cùng lúc thống trị và bóc lột giai cấp vô sản ở các nước tư bản và nhân

dân lao động ở các nước thuộc địa chính là diện mạo của đời sống chính trị quốc tế

giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

151

Với việc đánh giá đúng điểm yếu của chủ nghĩa đế quốc, dự báo chính xác

tiềm năng và khả năng của các dân tộc bị áp bức, Hồ Chí Minh đã khắc phục tâm lý

thụ động, thức tỉnh tinh thần tích cực, chủ động, tự lực, tự cường của các nước

thuộc địa trong đấu tranh xóa bỏ sự bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị, nô dịch

về tinh thần của chủ nghĩa thực dân. Tư tưởng và hành động chính trị Hồ Chí Minh

trong đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đã dẫn đến thắng lợi trong cách mạng

GPDT ở Việt Nam và hàng loạt các nước thuộc địa khác trên thế giới. Thắng lợi đó

đã góp phần quan trọng làm lung lay nền móng và mở ra thời kỳ suy sụp, tan rã

hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ. Một nhà nghiên cứu đã viết:

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, một thay đổi quan trọng trong tình

hình quốc tế là sự tan rã của hệ thống thực dân. Để đập tan ách áp

bức thực dân và gông xiềng nô lệ hàng mấy thế kỷ, biết bao bậc tiền

bối cách mạng đã nối bước nhau, hiến dâng cuộc đời quý báu của

mình trong cuộc đấu tranh máu lửa, trở thành những vị anh hùng

chân chính của phong trào giải phóng dân tộc, được nhân dân mãi

mãi ghi nhớ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt

Nam, chính là một trong những anh hùng kiệt xuất đó. [8, tr.21].

Không chỉ góp phần làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, mà với tư tưởng,

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, Hồ Chí Minh đã huy động được tối đa sức

mạnh của dân tộc Việt Nam và sự giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên

thế giới để đánh bại ý chí xâm lược của hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, giành thắng

lợi trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Sự thất bại của đế quốc Pháp và Mỹ

ở Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị quốc tế, thu hẹp dinh lũy

của chủ nghĩa đế quốc; làm thay đổi tương quan lực lượng giữa hai hệ thống thế

giới là XHCN và TBCN; làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ

nghĩa đế quốc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới và cổ vũ mạnh

mẽ cho phong trào đấu tranh vì hòa bình, ĐLDT, dân chủ và CNXH trên thế giới.

Chủ tịch Cu Ba, Fidel Castro đã viết: “Với cuộc đấu tranh anh hùng của mình, nhân

dân Việt Nam đã cột chặt nanh vuốt của chủ nghĩa đế quốc và đã ngăn không cho

152

chúng gây tội ác ở những nơi khác trên thế giới”[8, tr.82]. Thắng lợi của cuộc

kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân Việt Nam là thắng lợi của thể

chế chính trị tiến bộ được tạo nên từ VHCT Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó đã góp

phần làm thay đổi diện mạo của đời sống chính trị quốc tế, mở ra một thời kỳ mới

trong lịch sử phát triển của nhân loại, thời kỳ các dân tộc độc lập, tự chủ trong lựa

chọn chế độ chính trị với con đường phát triển riêng của mình. Một chính khách

nước ngoài - Chủ tịch Hội đồng cách mạng An-giê-ri, Huari Bumedien đã viết:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đầu cho cuộc đấu tranh của nhân dân

các nước trong thế giới thứ ba để tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của chủ

nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Tên tuổi của Người mãi mãi sẽ là

một biểu tượng, và hoạt động của Người là một gương sáng…Cuộc

chiến đấu của Người cũng là cuộc chiến đấu của tất cả các dân tộc bị áp

bức của châu Phi, của Pa-le-xtin, của Việt Nam, của châu Á và của thế

giới thứ ba, để giành lại phẩm cách và danh dự cho mình.[8, 36-37].

Ba là, Hồ Chí Minh đã góp phần xác lập phương hướng và giải pháp đúng

đắn cho việc khắc phục những khủng hoảng trong đời sống chính trị thế giới.

Với chủ trương thiết lập và xây dựng một nền chính trị nhân văn, nhân

đạo, tất cả vì con người, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện ở việc đấu

tranh giành ĐLDT mà thể hiện ở tư tưởng và hành động chính trị nhằm không

ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Do vậy, VHCT

Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa thực tiễn ở những nơi đang đấu tranh vì sự

nghiệp GPDT và giải phóng giai cấp, mà còn có ý nghĩa thực tiễn ở nhiều lĩnh

vực như: xóa đói, giảm nghèo; xóa mù chữ; xóa bỏ các tệ nạn xã hội, xây dựng

đời sống mới…Ông Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới đã nói:

Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và

ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và

công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất

cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó

có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao.[111, tr.90].

153

Mặc dù vậy, GS Wilfried Lulei, khoa nghiên cứu châu Á, trường đại học

Humbol, Cộng hòa dân chủ đức đã chỉ rõ: “Vai trò của Hồ Chí Minh trong việc

phấn đấu cho hòa bình, sự hiểu biết giữa các dân tộc, sự hợp tác thân thiện và việc

giải quyết phi bạo lực mâu thuẫn giữa các quốc gia còn chưa được nghiên cứu đánh

giá đầy đủ” và, ông cho rằng, “Quan điểm của Hồ Chí Minh rất phù hợp với quan

điểm của chúng ta ngày nay trong việc giải quyết các xung đột quốc tế”[8, tr.48].

Lịch sử đã cho thấy, sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, khoa học và

công nghệ của nhân loại ngày nay đang đặt ra nhiều vấn đề bức xức trong đời

sống chính trị thế giới như: việc coi thường luật pháp quốc tế; chủ nghĩa khủng

bố; xung đột sắc tộc, tôn giáo; phân hóa giàu nghèo; bất công, bất bình đẳng;

dịch bệnh; ô nhiễm môi trường; khủng hoảng lối sống, suy giảm niềm tin; suy

thoái đạo đức…Trước thực trạng đó, VHCT Hồ Chí Minh đang nổi lên như

một phương hướng và giải pháp đúng đắn cho việc khắc phục những khủng

hoảng trong đời sống chính trị. Mặt khác, trên thực tế, mô hình XHCN mà Hồ

Chí Minh chủ trương xây dựng không những đang tiếp tục thể hiện bản chất ưu

việt và được duy trì ở các nước đi theo con đường XHCN mà còn mở đầu cho

trào lưu xây dựng CNXH thế kỷ XXI ở các nước Mỹ Latinh. Tổng thống

Venezuela, Hugo Chávez đã cho rằng:

Chủ nghĩa tư bản không thể thực hiện được việc tự vượt qua chính

mình, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chính nghĩa và hòa bình mới vượt qua

được chủ nghĩa tư bản...Chúng ta không thể thực hiện được mục tiêu

của mình trong chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng không thể đi theo con

đường trung gian. Chúng ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ

XXI.[dẫn theo 45, tr.163]

Thực tế trên đây không chỉ cho nhân loại thấy rằng, CNTB không phải là

con đường phát triển duy nhất, mà còn chứng minh cho nhận định: “Thế giới

đã và sẽ còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho

tàng văn hóa của nhân loại”[23, tr.72-73].

154

Bốn là, Hồ Chí Minh đã góp phần khẳng định những giá trị mới của

VHCT trong thế giới đương đại, đó là mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự

do với dân chủ, giữa lợi ích quốc gia với quốc tế và giữa đảng chính trị với

chính quyền.

Từ việc tiếp cận quyền tự do với tính cách là một trong những quyền tự nhiên

mà tạo hóa ban cho con người, và từ mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, quốc

gia, dân tộc, Hồ Chí Minh đã cho thấy tự do còn là một quyền của mỗi dân tộc và

muốn có tự do, trước hết phải có độc lập. Với tinh thần, “Không có gì quý hơn độc

lập, tự do”, Người đã khẳng định một quyết tâm sắt đá rằng, “Toàn thể dân tộc Việt

Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững

quyền tự do, độc lập ấy”[57, tr.3]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền con người

và quyền dân tộc không thể tách rời nhau, nước bị mất độc lập thì dân không thể có

tự do và “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng

chẳng có nghĩa lý gì”[57, tr.64]. Như vậy, độc lập dân tộc là cơ sở để một quốc gia

tự do lựa chọn con đường phát triển của mình và chỉ có độc lập thật sự mới có tự do

chân chính. Tuy nhiên, trong một thể chế chính trị độc lập, quyền tự do của con

người lại phụ thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước và mức độ tham dự của

nhân dân vào xu thế dân chủ hóa. Thực tiễn cho thấy, chỉ có chế độ XHCN dưới sự

lãnh đạo của giai cấp công nhân mới có thể bảo đảm cho dân tộc một nền độc lập

thật sự và từng bước đem lại tự do, bình đẳng cho con người. Sự vận động của đời

sống chính trị trong thế giới đương đại đang ngày càng khẳng định giá trị to lớn của

độc lập, tự do, dân chủ và mối quan hệ giữa chúng. Hiện nay, việc can thiệp của chủ

nghĩa đế quốc vào độc lập, tự do của các quốc gia dưới những hình thức khác nhau,

việc vi phạm dân chủ của một số chế độ chính trị nhất định là nguyên nhân làm

bùng nổ các xung đột dân tộc, sắc tộc, làm xuất hiện các tổ chức khủng bố và hành

động chạy đua vũ trang trên phạm vi toàn cầu. Để giải quyết những vấn đề nêu trên

không gì khác hơn là một trật tự chính trị thế giới hòa bình giữa những thể chế

chính trị khác nhau, tôn trọng độc lập của nhau, hợp tác cùng phát triển. Và, điều đó

đã có, đã trở thành một giá trị của VHCT Hồ Chí Minh đang tỏa sáng ý nghĩa hiện

thực trong đời sống chính trị đương đại.

155

Hồ Chí Minh đấu tranh cả cuộc đời cho nền độc lập thật sự của nhân dân

Việt Nam, nhưng cần nhận rõ đó không phải là nền độc lập một cách tuyệt đối,

tách rời mà là độc lập trong mối quan hệ biện chứng với các quốc gia, dân tộc

khác. Bởi lẽ, chỉ trong mối quan hệ với các quốc gia khác mới có thể nhận định

được mức độ độc lập của một dân tộc. Vì vậy, trong tư tưởng và hành động

chính trị Hồ Chí Minh, Việt Nam luôn là một bộ phận của thế giới, chịu ảnh

hưởng của thế giới và cũng có vai trò, đóng góp nhất định đối với sự ổn định,

phát triển của thế giới. Trong cách mạng giải phóng cũng như trong xây dựng

đất nước, Người luôn đặt cách mạng Việt Nam vào dòng chảy của cách mạng

thế giới, giải quyết hài hòa giữa dân tộc và giai cấp, ĐLDT và CNXH, giữa lợi

ích quốc gia và quốc tế. Mong muốn cuối cùng của Người trước lúc đi xa là:

“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa

bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào

sự nghiệp cách mạng thế giới”[68, tr.614]. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế hiện nay đang ngày càng chứng minh tính đúng đắn, hiện đại và ý

nghĩa thời đại của VHCT Hồ Chí Minh.

Một trong những giá trị có ý nghĩa hiện thực của VHCT Hồ Chí Minh mà

đang ngày càng được đời sống chính trị của thế giới đương đại khẳng định, đó là tư

tưởng và hành động về mối quan hệ giữa đảng chính trị với chính quyền và vấn đề

đảng cầm quyền. Trong tư tưởng và hành động chính trị Hồ Chí Minh, đảng chính

trị, mà cụ thể là Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là nhân tố mới trong đời sống

chính trị của dân tộc mà còn là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt

Nam, trở thành đảng cầm quyền và là lực lượng lãnh đạo mọi mặt của đời sống xã

hội. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh luôn giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Đảng với

nhà nước, giữa lãnh đạo với quản lý. Trong đó, nhà nước phải mang bản chất giai

cấp của Đảng, phải hướng tới hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng, cương lĩnh chính trị

của Đảng. Người luôn nhắc nhở rằng, lãnh đạo là hoạt động tuyên truyền, giáo dục,

vận động, thuyết phục quần chúng thông qua cương lĩnh chính trị và tính tiền

phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên. Bên cạnh đó, quản lý là giải thích, áp

156

dụng, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và tự mình tuân thủ pháp luật. Vì

vậy, Người cho rằng, với tư cách là một đảng cầm quyền, đảng viên phải đủ phẩm

chất, năng lực để được nhân dân bầu vào các cơ quan nhà nước, khi đó toàn đảng

nói chung, mỗi đảng viên nói riêng phải thực hiện hai chức năng lãnh đạo và quản

lý. Với quan niệm, các cơ quan dân cử là người đại diện thực thi quyền lực mà nhân

dân ủy nhiệm, Hồ Chí Minh cho rằng “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét

nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”[60,

tr.434]. Và, đảng viên của một đảng cầm quyền phải “xứng đáng là người lãnh đạo,

là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[68, tr.612]. Vai trò ngày càng tăng

của các đảng chính trị và vấn đề đảng cầm quyền trong các thể chế chính trị đương

đại nói chung, trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay nói riêng đang chứng

minh giá trị và ý nghĩa thời đại của VHCT Hồ Chí Minh.4.2. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH CHO ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lãnh đạo và quản lý là hai

phương diện hoạt động khác nhau nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong đó, lãnh

đạo được hiểu là việc đề ra phương hướng và ý chí để mọi người tuân theo, còn

quản lý là việc đưa ra các mệnh lệnh hành chính và điều khiển các hoạt động chung.

Việc phân biệt rõ lãnh đạo và quản lý là cơ sở để khắc phục hiện tượng chồng chéo

chức năng, bao biện làm thay hoặc dựa dẫm, ỷ lại.

Tuy nhiên, ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền, người

cán bộ thường là đảng viên và có sự thống nhất hai chức năng, lãnh đạo và quản

lý. Trong đó chức năng lãnh đạo luôn đi trước, là tính thứ nhất trong mối quan

hệ đó. Với tính cách là người sáng lập và là Chủ tịch Đảng, đồng thời là Chủ tịch

nước trong một thời gian dài, Hồ Chí Minh thực sự vừa là nhà lãnh đạo, vừa là

nhà quản lý và VHCT của Người cũng chính là văn hóa lãnh đạo, quản lý.

Những phân tích nêu trên cho thấy, việc bồi dưỡng VHCT Hồ Chí Minh cho đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là hoạt động có ý nghĩa quan trọng và rộng lớn. Do

vậy, việc nghiên cứu sâu sắc về vấn đề đó thuộc đối tượng, phạm vi nghiên cứu

157

của một đề tài khác. Trong phạm vi đề tài này, chỉ trình bày những mục tiêu, giải

pháp chủ yếu với tính cách là điểm nhấn cho các giá trị của VHCT Hồ Chí

Minh, xuất phát từ chính ý nghĩa VHCT của Người và những nhận định đánh giá

của Đảng về thực trạng lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.

Xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt

Nam hiện nay là một quá trình tác động có chủ đích, nhằm làm cho các giá trị của

VHCT Hồ Chí Minh không chỉ thấm vào nhân cách mỗi cá nhân cán bộ lãnh đạo,

quản lý các cấp, mà phải được biểu hiện ra ở việc biết vận dụng sáng tạo và phát

huy cao độ các giá trị đó trong đời sống chính trị hiện nay của đất nước. Mục tiêu

này đặt ra một số yêu cầu cụ thể sau:

Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kiên định và nhất quán

mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH.

Đây không chỉ là mục tiêu chính trị đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với quy

luật phát triển khách quan và xu thế thời đại đã được thực tiễn kiểm nghiệm,

mà còn là lý tưởng chính trị và là giá trị tư tưởng của VHCT Hồ Chí Minh. Xây

dựng CNXH là quá trình lâu dài, nhưng là con đường và mục tiêu tất yếu nhân

loại sẽ tiến đến. Ở Việt Nam, xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân, dưới

sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của nhà nước. Do vậy, để sự

nghiệp này đi đến đích, trước hết phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tuyệt

đối trung thành với mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH, mà thực chất là trung

thành với lợi ích của nhân dân.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thực sự tiêu biểu về đạo

đức cách mạng.

Đây không chỉ là cơ sở để người cán bộ lãnh đạo, quản lý dấn thân và hy

sinh cho sự nghiệp chung của Đảng, của dân tộc mà còn là cơ sở để đoàn kết,

tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố

niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, đạo đức cách

mạng sẽ làm cho quyền lực tác động vào xã hội không bằng cưỡng bức, ép

buộc thô bạo mà bằng cảm hóa, thuyết phục và thẩm thấu tự nhiên với tính

158

cách là một giá trị văn hóa. Theo đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là những

biểu tượng về nhân cách văn hóa của sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô

tư, thực sự là công bộc và là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực, phương pháp

và phong cách chính trị đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.

Hiện nay đất nước đang quá độ lên CNXH trong bối cảnh cạnh tranh giai

cấp và dân tộc ngày càng gay gắt, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng

sâu, rộng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có năng lực ngang tầm

và phấn đấu trên tầm của yêu cầu nhiệm vụ. Năng lực đó thể hiện ở những nội

dung cụ thể như: Khả năng nhận thức đúng đắn những vấn đề chính trị quốc tế

và trong nước; có khả năng dự báo tình hình để trên cơ sở đó đưa ra các chủ

trương, đường lối, các quyết sách chính trị đúng đắn, khoa học; có khả năng

vận động, thuyết phục, đoàn kết, tập hợp, tổ chức thực tiễn và phát huy sức

mạnh nội lực kết hợp với sức mạnh ngoại lực để hiện thực hóa các mục tiêu

chính trị; có khả năng bao quát, nắm bắt và giải quyết kịp thời, đúng đắn các

vấn đề chính trị cụ thể, các điểm nóng về chính trị và các xung đột xã hội.

Để hiện thực hóa mục tiêu, yêu cầu nêu trên, cần tập trung làm tốt một số nội

dung có tính nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, nâng cao trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Trình độ chính trị không những là yếu tố cấu thành mà còn là nền tảng tư

tưởng, lý luận của VHCT. Để xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý, trước hết phải tập trung nâng cao trình độ chính trị cho đội ngũ

này. Nội dung quan trọng quyết định nhất thể hiện trình độ chính trị của người cán

bộ lãnh đạo, quản lý đó là: phải luôn thấm nhuần sâu sắc rằng, lãnh đạo là tự

nguyện hy sinh phấn đấu cho lợi ích của tập thể, của cộng đồng, đặt lợi ích cá nhân

dưới lợi ích cộng đồng, còn quản lý là thay mặt nhân dân, được nhân dân trao cho

những thẩm quyền nhất định để điều hành phối hợp các hoạt động chung vì lợi ích

chung của xã hội. Do vậy, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn quán triệt rõ,

mình vừa là đầy tớ, vừa là công bộc của nhân dân.

159

Nâng cao trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý còn đòi hỏi

mỗi người phải có tri thức nhất định về những vấn đề cơ bản của chính trị, đó là:

nắm chắc quy luật vận động, phát triển khách quan của nhân loại; nắm chắc sứ

mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tính chính đáng của Đảng Cộng sản. Bên cạnh

đó, cần nắm chắc lịch sử chính trị của dân tộc, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và

âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch...

Để nâng cao trình độ chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cần tiến

hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó một trong những biện pháp quan trọng hiện

nay là, đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Cần có cơ chế, chính sách, biện pháp phù hợp với quyết tâm chính trị cao, tạo nền

tảng và động lực để mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói

riêng tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ chính trị của mình. Bên

cạnh đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với tự đào tạo cán bộ. Một mặt, cần chủ

động đổi mới nội dung, phương pháp và phát huy tính tích cực, chủ động trên tinh

thần tự do tư tưởng, khuyến khích những sáng tạo lý luận đáp ứng đòi hỏi của thực

tiễn cách mạng, trên cơ sở lập trường giai cấp và lợi ích dân tộc. Một trong những

nội dung quan trọng của công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý là giảng dạy,

tuyên truyền, nâng cao nhận thức về VHCT Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó làm cho

mỗi cán bộ, lãnh đạo, quản lý nắm chắc cơ sở hình thành, cấu trúc, đặc trưng, giá trị

và ý nghĩa to lớn của VHCT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, biết vận

dụng sáng tạo, phát huy cao độ những giá trị đó trong đời sống chính trị hiện nay và

tự giác rèn luyện theo các chuẩn mực của VHCT Hồ Chí Minh.

Thứ hai, xây dựng môi trường VHCT và phát huy vai trò của nhân dân trong

việc giám sát đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Văn hóa chính trị của mỗi cá nhân được hình thành trong một môi trường

VHCT nhất định. Do vậy, để xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay cần quan tâm đến việc xây dựng môi trường

văn hóa. Nghĩa là, mỗi công dân, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung phải có VHCT,

biểu hiện ở nhận thức, thái độ, niềm tin và những hành vi ứng xử với những vấn đề

160

chính trị cụ thể như: mục tiêu, lý tưởng, hệ tư tưởng chính trị, hệ thống chính trị và

các sản phẩm chính trị cụ thể là các chủ trương, đường lối, các quyết định lãnh đạo,

quản lý... Với nhiều loại môi trường VHCT thì môi trường văn hóa trong Đảng là

quan trọng nhất, quyết định nhất đến việc hình thành, phát triển VHCT của đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý. Việc xây dựng môi trường VHCT ở Việt Nam hiện nay,

cần kết hợp chặt chẽ các giá trị VHCT truyền thống của dân tộc với các giá trị,

chuẩn mực của VHCT Hồ Chí Minh và các giá trị VHCT của các thể chế chính trị

khác trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người nắm quyền lực, mà

quyền lực luôn có thuộc tính dễ bị tha hóa, lạm dụng. Do vậy, xây dựng VHCT

phải luôn đi đôi với kiểm soát, phòng chống và ngăn chặn sự suy thoái tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, sự quan liêu, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng,

lãng phí của những người có chức, có quyền. Một trong những cách tốt nhất để

phòng chống những biểu hiện nêu trên là phát huy vai trò của nhân dân. Bởi vì,

nhân dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của sự lãnh đạo, quản lý, là người ủy

nhiệm quyền lực của mình cho các cơ quan đại diện. Do vậy, nhân dân là người

có quyền tối cao giám sát mọi hoạt động của Đảng, nhà nước nói chung, của

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.

Để phát huy vai trò giám sát của nhân dân, đòi hỏi phải không ngừng nâng

cao dân trí và có cơ chế, chính sách, pháp luật cụ thể để nhân dân tham gia

ngày càng sâu, rộng vào các hoạt động của Đảng, nhà nước, phản biện các

chính sách, pháp luật và giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý. Nâng cao dân trí, đặc biệt là trình độ chính trị của nhân dân là một quá trình

lâu dài với nhiều hoạt động và là trách nhiệm của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo

của Đảng, sự quản lý của nhà nước.

Trong điều kiện hiện nay cần xây dựng các định chế pháp luật để từng

bước hình thành và phát huy vai trò của xã hội dân sự. Trên cơ sở đó huy động

tính tự giác, tự quản, tự chịu trách nhiệm của mỗi công dân trong học tập,

161

nghiên cứu, tham dự chính trị và đóng góp xây dựng VHCT của đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý hiện nay.

Thứ ba, xác lập và hoàn thiện các chuẩn mực VHCT của cán bộ, đảng viên

nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.

Thực tế cho thấy, muốn xây dựng bất cứ một cái gì đó, đều đòi hỏi phải có

một mô hình nhất định, không thể chung chung, trừu tượng. VHCT là những giá trị

Chân, Thiện, Mĩ có tính lịch sử của chính trị, được biểu hiện bằng các biểu tượng,

chuẩn mực và phẩm chất cụ thể. Những giá trị đó luôn được bồi đắp, bổ sung và

phát triển cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Do vậy, xây dựng VHCT cho đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay đòi hỏi phải xác lập được các chuẩn giá trị

phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.

Chuẩn mực VHCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay trước

hết cần dựa trên các tiêu chí sau: Một là, có đạo đức cách mạng: Nghĩa là phải

trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, lợi ích của dân tộc, yêu

thương con người, tôn trọng nhân dân, có lòng khoan dung, độ lượng, có tính

thần dân tộc chân chính, tinh thần quốc tế cao cả. Hai là, có năng lực toàn

diện: biểu hiện ở năng lực bao quát tình hình, tổng kết thực tiễn, đúc kết lý

luận. Có khả năng nhận thức, phân tích, xác định mâu thuẫn chủ yếu, dự báo

tình hình, đề xuất chủ trương, giải pháp và tổ chức thực hiện. Ngoài ra còn

phải có sức khỏe tốt, có khả năng vận động, thuyết phục, tạo ra sự đồng

thuận, trên cơ sở đó đoàn kết và tập hợp cấp dưới, tập hợp quần chúng nhân

dân thành một khối thống nhất ý chí và hành động. Ba là, có phương pháp và

phong cách công tác phù hợp. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có cách

tiếp cận vấn đề phù hợp, thuần thục phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, biết sử dụng các phương pháp cụ thể phù hợp với từng yêu cầu nhiệm

vụ. Bên cạnh đó phải có phong cách sống, lao động, học tập và làm việc giản

dị, hiệu quả, thiết thực và đậm nét nhân văn, nhân đạo. Luôn giải quyết hài

hòa giữa mục tiêu với phương pháp và cách thức, không bất chấp thủ đoạn để

đạt được mục đích chính trị nhất thời.

162

Thứ tư, nâng cao nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, phân

biệt rõ chức năng lãnh đạo và quản lý làm cơ sở để hoàn thiện chuẩn mực văn hóa

của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Trước hết cần phân biệt hai khái niệm: đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền.

Đảng lãnh đạo là khái niệm nói lên thuộc tính của các đảng chính trị, còn đảng

cầm quyền là khái niệm dùng để chỉ một đảng chính trị đang nắm chính quyền.

Như vậy, không phải tất cả các đảng chính trị đều là đảng cầm quyền và, ở giai

đoạn cầm quyền, đảng phải thực hiện hai chức năng là lãnh đạo và cầm quyền,

tức là sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý xã hội. Hai chức năng này thống

nhất trong một chủ thể là Đảng, nhưng không đồng nhất. Bởi lẽ, chức năng

lãnh đạo được thực hiện bằng việc đề ra cương lĩnh, chủ trương, đường lối,

nghị quết và chủ yếu sử dụng biện pháp vận động, thuyết phục, nêu gương của

đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, chức năng cầm quyền là sử dụng

quyền lực nhà nước để quản lý xã hội được thực hiện bằng việc hoàn thiện hệ

thống chính sách, pháp luật và sử dụng biện pháp cưỡng chế là chính. Việc

phân định hai chức năng trên đây là vấn đề lý luận khá trừu tượng và phức tạp.

Tuy nhiên, nếu phân định rõ chẳng những sẽ khắc phục được tình trạng quyền

lực của Đảng cao hơn quyền lực nhà nước, (tức quyền lực được nhân dân ủy

nhiệm) mà còn khắc phục được một thực tế là các cấp ủy đảng buông lỏng lãnh

đạo hoặc bao biện, làm thay các cơ quan hành chính. Ngược lại, các cơ quan

hành chính dựa dẫm, ỷ lại vào các cấp ủy đảng.

Như vậy, văn hóa lãnh đạo được thể hiện ở tính đúng đắn, sáng tạo của

các chủ trương, đường lối, nghị quyết và ở khả năng vận động, thuyết phục,

nêu gương của đảng viên. Trong xu thế dân chủ hóa và xây dựng nhà nước

pháp quyền hiện nay, hoạt động của đảng viên nói riêng, toàn Đảng nói chung

không thể nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp, pháp luật. Do đó, cần

phải từng bước xây dựng và hoàn thiện luật về hoạt động của Đảng. Bên cạnh

đó, văn hóa quản lý được thể hiện ở khả năng luật hóa các vấn đề của đời sống

và bảo đảm cho pháp luật phát huy tác dụng trong thực tế. Trong điều kiện

163

Đảng cầm quyền, đảng viên phải là người nắm quyền lực thực sự. Do vậy,

cùng với việc nghiên cứu thực tiễn, tổng kết lý luận, từng bước nhất thể hóa

một số chức danh lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu các cấp từ Trung ương

đến địa phương, mỗi đảng viên phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện để được nhân

dân tín nhiệm bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Tóm lại, việc làm sáng tỏ

lý luận và thực tiễn về đảng cầm quyền là vấn đề quan trọng trong xây dựng và

hoàn thiện văn hóa lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.

Tiểu kết chương 4

Với tính cách là những giá trị Chân, Thiện, Mĩ của tư tưởng, hành vi và

nhân cách chính trị được sáng tạo ra trong sự nghiệp cách mạng, VHCT Hồ

Chí Minh không chỉ có ý nghĩa dân tộc, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Đối với dân tộc Việt Nam, VHCT Hồ Chí Minh đã chấm dứt sự khủng hoảng

về hệ tư tưởng và đường lối đấu tranh chính trị, đưa đến cho dân tộc hệ tư

tưởng cách mạng, khoa học và tiến bộ nhất - hệ tư tưởng của giai cấp công

nhân. Với sự vận dụng khéo léo và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin

vào điều kiện cụ thể của đời sống chính trị Việt Nam, VHCT Hồ Chí Minh đã

tạo ra một hệ thống quan điểm lý luận toàn diện và sâu sắc về những vấn đề

cơ bản của cách mạng, từ cách mạng GPDT đến cách mạng XHCN; trở thành

cơ sở tư tưởng, lý luận cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối và là

một một bộ phận quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng; đánh dấu sự

phát triển về chất của VHCT Việt Nam.

Không chỉ có ý nghĩa lý luận, VHCT Hồ Chí Minh còn có ý nghĩa thực

tiễn to lớn, góp phần quan trọng đưa đến những thắng lợi vĩ đại của cách

mạng Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới trong đời sống chính trị của dân

tộc, tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển của đất nước bảo đảm đúng quy luật

khách quan, hợp xu thế thời đại và nguyện vọng của nhân dân. Với ý nghĩa lý

luận và thực tiễn trên đây, VHCT Hồ Chí Minh đã đưa tư tưởng Việt Nam trở

thành một trong những tư tưởng nhân văn, tiến bộ nhất của nhân loại.

164

Đối với thế giới, VHCT Hồ Chí Minh đã mở rộng phạm vi, nâng cao sức

sống của chủ nghĩa Mác - Lênin; làm phong phú thêm các giá trị VHCT của

nhân loại; góp phần quan trọng làm tan rã hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ;

làm thay đổi diện mạo của đời sống chính trị quốc tế; đóng góp cho nhân loại

một mô hình phát triển bền vững, một phương hướng đúng đắn cho việc khắc

phục những khủng hoảng trong đời sống chính trị và góp phần khẳng định

những giá trị mới trong VHCT của thế giới đương đại.

Với những giá trị có tính bền vững của tư tưởng, hành vi và nhân cách

chính trị, VHCT Hồ Chí Minh đang tiếp tục phát huy giá trị trong sự nghiệp

cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, với tính cách

là một mẫu mực của văn hóa lãnh đạo, quản lý, VHCT Hồ Chí Minh có ý

nghĩa thiết thực đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong

thời kỳ quá độ lên CNXH.

165

KẾT LUẬN

Văn hóa chính trị là một loại hình, một phương thức biểu hiện của văn hóa, là

văn hóa đã thâm nhập vào tất cả các bộ phận, các khâu, các bước và cả quá trình

chính trị, làm cho chính trị trở thành giá trị văn hóa, hoặc có tính văn hóa. Ra đời và

phát triển cùng với sự vận động, phát triển của xã hội có giai cấp, VHCT luôn có

tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc, tính quốc tế và có những cấp độ khác nhau,

phụ thuộc vào mức độ, phạm vi bảo đảm quyền con người trong xã hội. Là sản

phẩm của đời sống chính trị hiện thực, nhưng với tính cách là bộ phận năng động

nhất của ý thức xã hội, VHCT có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy hay kìm hãm sự

vận động phát triển của xã hội. Từ ý nghĩa đó, VHCT không chỉ là mục tiêu, mà

còn là động lực trong quá trình tham dự vào đời sống chính trị của mỗi cá nhân và

cộng đồng. Với vị trí và vai trò quan trọng, liên quan trực tiếp đến sự vận động, phát

triển của mỗi quốc gia dân tộc nói riêng, thế giới nói chung, VHCT đã dần trở thành

đối tượng nghiên cứu cơ bản của khoa học chính trị. Bắt đầu phát triển ở phương

Tây kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đến nay, VHCT đã được quan tâm

nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Văn hóa chính trị luôn bao hàm cả tính cá nhân và tính cộng đồng, trong đó

tính cá nhân luôn bị chi phối bởi tính cộng đồng, nhưng lại có vai trò đóng góp để

làm nên tính cộng đồng và là nơi biểu hiện VHCT của cộng đồng. Đặc biệt với

những cá nhân xuất chúng, vượt trội hơn hẳn số đông quần chúng thì VHCT của họ

lại có thể làm thay đổi cả một nền VHCT trên nhiều phương diện. Mặc dù vậy, các

nghiên cứu về VHCT trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng mới chỉ tập

trung vào tính cộng đồng mà chưa đề cập nhiều đến bình diện cá nhân của nó. Với

tính cách là anh hùng GPDT, danh nhân văn hóa, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt

Nam đã được thế giới công nhận, VHCT Hồ Chí Minh không chỉ có vai trò to lớn

trong tiến trình phát triển của dân tộc mà còn góp phần vào sự phát triển của thế

giới. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu VHCT Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa lý

luận và thực tiễn của khoa học chính trị ở Việt Nam hiện nay.

166

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, trước hết là VHCT của một cá nhân.

Do vậy, cần được tiếp cận nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, trên cơ sở

quán triệt rõ tính hệ thống, toàn diện, lịch sử, cụ thể và tính định hướng của

những tư tưởng và hành động chính trị. Kết quả nghiên cứu cho thấy, VHCT

Hồ Chí Minh là một chỉnh thể các giá trị Chân, Thiện, Mĩ của tư tưởng,

hành vi và nhân cách chính trị mà Người sáng tạo ra trong suốt quá trình

hoạt động cách mạng; là sản phẩm của sự tích hợp và vượt gộp các giá trị

VHCT bền vững của truyền thống dân tộc và nhân loại cả cổ, kim, Đông,

Tây cùng các giá trị chính trị của học thuyết Mác - Lênin; với định hướng và

mục tiêu thực hiện ba sự nghiệp giải phóng; GPDT, giải phóng giai cấp, giải

phóng con người, trước hết là ở Việt Nam và góp phần quan trọng vào sự

nghiệp chung của cách mạng thế giới.

Với tính cách là những giá trị phổ quát, mang tính Chân, Thiện, Mĩ của chính

trị do Hồ Chí Minh sáng tạo ra nhằm đáp ứng đòi hỏi của đời sống chính trị Việt

Nam, VHCT Hồ Chí Minh được cấu thành và biểu hiện giá trị ở nhân cách chính

trị; phương pháp, phong cách chính trị và các sản phẩm về tư tưởng và hành vi

chính trị. Những giá trị đó đã góp phần quyết định đến việc trả lại tư cách chủ

thể chính trị cho nhân dân Việt Nam và đưa đến cho dân tộc Việt Nam những điều

kiện cần và đủ để thiết lập một nền chính trị dân chủ, nhân văn, thực sự là tiền đề và

động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh dễ dàng nhận biết và phân biệt với VHCT của

những chủ thể chính trị khác ở những đặc trưng cơ bản đó là: VHCT Hồ Chí Minh

là sản phẩm của sự tích hợp nhưng luôn có phong cách thể hiện riêng và mang bản

chất của giai cấp công nhân, tức là hướng tới thực hiện sứ mệnh lịch sử, tất yếu

khách quan của giai cấp công nhân trong tiến trình phát triển của nhân loại; Đòi

hỏi từ thực tiễn đời sống chính trị của dân tộc là nơi khởi đầu của mọi suy

nghĩ và hành động chính trị Hồ Chí Minh. Do vậy, VHCT của Người luôn

thể hiện rõ sự thống nhất giữa tính dân tộc quốc tế, tính bản thể và đại

167

chúng; Hồ Chí Minh là nhà cách mạng hiện thực nhưng luôn coi trọng, đề

cao vai trò của lý luận, đặc biệt là lý luận cách mạng. Vì vậy, VHCT Hồ Chí

Minh luôn là sự thống nhất giữa những giá trị tư tưởng và giá trị hành vi;

Vừa là một đại biểu trung thành của chủ nghĩa dân tộc chân chính, vừa là

một chiến sĩ tiên phong của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,

VHCT Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất hài hòa giữa GPDT với giải

phóng giai cấp, giải phóng con người.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn, chẳng những góp phần đưa

VHCT truyền thống của dân tộc Việt Nam lên một tầm cao mới, nâng cao sức sống

của VHCT Mác - Lênin, mà còn làm phong phú thêm VHCT của nhân loại; mở ra

một kỷ nguyên mới trong đời sống chính trị của nhân dân Việt Nam và góp phần

quan trọng vào sự phát triển, tiến bộ của đời sống chính trị quốc tế.

Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn

giữa văn hóa lãnh đạo và văn hóa quản lý. Vì vậy, việc xây dựng VHCT

Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay

nhằm giữ vững và phát huy những giá trị đó trong đời sống chính trị hiện

tại là vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong việc đẩy mạnh cuộc vận động “Học

tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

168

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Hữu Lập (2010), “Rèn luyện phong cách làm việc Hồ Chí Minh

cho đội ngũ chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay”, Tạp chí Giáo dục LLCTQS, số

4 (122), tr.35-38.

2. Nguyễn Hữu Lập (2011), “Quan điểm Hồ Chí Minh về thái độ đối với các

sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên - ý nghĩa trong đấu tranh phòng, chống

diễn biến hòa bình hiện nay” Tạp chí Giáo dục LLCTQS, số 5 (129), tr.64-66.

3. Nguyễn Hữu Lập (2012), “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với công tác xây

dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay”, Tạp chí Giáo dục LLCTQS, số 3 (133), tr.94-97.

4. Nguyễn Hữu Lập (2012), “Nét mới trong công tác dân vận ở đơn vị cơ sở

quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Thông tin khoa học xã hội và nhân văn

quân sự, số 144, (11-12/2012), tr.27-29.

5. Nguyễn Hữu Lập (2013), “Phát huy vai trò của văn hóa chính trị Việt Nam

trong quá trình xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, Tạp chí Giáo dục

LLCTQS, số 3 (139), tr.23-26.

6. Nguyễn Hữu Lập (2013), “Bồi dưỡng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho

đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay”, Thông tin khoa học xã hội

và nhân văn quân sự, số 148, (07-08/2013), tr.11-13.

7. Nguyễn Hữu Lập (2013), “Phát huy vai trò của mặt trận văn hóa trong xây

dựng quân đội về chính trị hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Quân

huấn, số 556, (9-2013) tr.41-43.

8. Nguyễn Hữu Lập (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ mô hình

nhà nước với đại đoàn kết toàn dân tộc”, Tạp chí Khoa học chính trị quân sự, số 5

(12), tháng 9&10/2013, tr.20-23.

9. Nguyễn Hữu Lập (2014), “Bồi dưỡng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho

đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà trường quân đội”,

Tạp chí Giáo dục LLCTQS, số 5 (147), tr.42-44.

169

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt1. Aloun Bounmixay (2013), Văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với

công cuộc đổi mới ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ

chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội

2. Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh văn hoá và phát triển,

Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

3. Lưu Văn An và Dương Xuân Ngọc (2011), Hỏi và đáp những vấn đề cơ bản của

chính trị học, Nxb Chính trị - Hành Chính.

4. Hoàng Chí Bảo (2010), “Văn hoá Hồ Chí Minh - giá trị và ý nghĩa”, Hội thảo

khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà

Nội, tr.571-588.

5. Hoàng Chí Bảo (2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính

trị, Hà Nội.

6. Trần Văn Bính (chủ biên) (2000), Vai trò văn hoá trong hoạt động chính trị của

Đảng ta hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Bông (1969), Luật hiến pháp và chính trị học,Nxb Sài gòn.

8. Đề tài KX.02.09 (1993), Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay

(Qua sách báo nước ngoài), Trường Đại học sư phạm Hà Nội I, Viện Thông

tin khoa học xã hội - Viện KHXHVN, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp

hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

170

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

18. Phạm Văn Đồng (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc,

một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội.

19. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Nguyễn Minh Đức (2003), Văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện ở tỉnh Kon Tum hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ

chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

21. Vũ Minh Giang (2008), “Đảng Cộng sản Việt Nam trong văn hóa chính trị”,

Tạp chí Xây dựng Đảng, (9), tr.40-43.

22. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

23. Võ Nguyên Giáp (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình hình thành và phát

triển, Nxb Sự thật, Hà Nội.

24. Võ Nguyên Giáp (1969), Từ nhân dân mà ra, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

25. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm

vụ lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến

Cách mạng Tháng tám – (tập III) Thành công của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

171

27. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Văn Hải (2001), “Về văn hóa chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.81-84, 88.

29. Hellmut Kapfenberger (2010), Hồ Chí Minh một biên niên sử, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

30. Trần Ngọc Hiên (2005), “Phát huy ưu thế của nền văn hóa chính trị

Việt Nam tạo động lực cho công cuộc đổi mới”, Tạp chí Thông tin

khoa học xã hội, tháng 6, tại trang http://www.cpv.org.vn [truy cập

ngày 23/8]

31. Học viện Quốc phòng và Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2000), Tư tưởng Hồ

Chí Minh về dựng nước và giữ nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

32. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội.

33. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), “Di sản Hồ Chí

Minh trong thời đại ngày nay”, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm

ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2010), Nxb Chính trị -

Hành chính, Hà Nội.

34. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2011), Hội thảo khoa

học kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Nxb Chính trị -

Hành chính.

35. Hội đồng lý luận, phê bình VHNT Trung ương (2013), Báo cáo tổng quan

đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, “Văn hóa trong chủ thuyết phát triển

của Việt Nam”, Mã số: ĐTĐL.01/2011, Chủ nhiệm đề tài: GS,TS Đinh

Xuân Dũng, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].

36. Nguyễn Văn Huyên (2005), “Văn hoá và văn hoá chính trị từ cách tiếp cận của

triết học chính trị mácxít”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, tại trang

http://www.cpv.org.vn [truy cập ngày 19/7].

37. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực của sự

phát triển xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

172

38. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2009), Chính trị học - Những vấn đề lý luận và

thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

39. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2009), Con người chính trị Việt Nam truyền

thống và hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn và Nguyễn Văn Vĩnh (2009) (Sách

chuyên khảo), Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Khăm Mặn Chăn Thạ Lăng Sỷ (2002), Văn hóa chính trị ở Cộng hòa dân chủ

nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

42. Đặng Xuân Kỳ (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh người chiến sĩ kiên cường của

phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,

Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.

43. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá

và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Nguyễn Minh Khoa (2010), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây

dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học

chính trị chuyên ngành Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị - hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

45. Đinh Xuân Lâm và Bùi Đình Phong (2010), “Giá trị thời đại trong di sản Hồ

Chí Minh”, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch

Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.160-165.

46. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

48. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

49. Đinh Xuân Lý (chủ biên) (2005), Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự

nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

51. C.Mác và Ph.Ăngghen (1956), Những tác phẩm ở thời kỳ đầu, Nxb Tiến bộ

Mátxcơva.

173

52. Lương Hoàng Mai (2006), “Văn hoá Đảng được hoàn thiện từ nền văn hoá

chính trị”, Tạp chí Xây dựng Đảng ONLINE, tại trang

http://www.xaydungdang.org.vn [truy cập ngày 19/ 12].

53. Hồ Chí Minh (1993), Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

54. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

68. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Montes Quieu (2010), Tinh thần pháp luật (Thanh Đạm dịch), Nxb Đà Nẵng.

70. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Hiến pháp Việt Nam qua các

thời kỳ (1946-1959-1980-1992-2001), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

71. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

72. Bùi Nguyễn (2006), “Văn hóa lãnh đạo, quản lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh”,

Tạp chí thông tin công tác tư tưởng lý luận, tháng 8, tại trang

http://www.cpv.org.vn [truy cập ngày 21/8].

73. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2012), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới

chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1996), Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

174

75. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2008), Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng

Hồ Chí Minh sống mãi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

76. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh di sản văn hóa

dân tộc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

77. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh Nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

78. Trịnh Nhu và Vũ Dương Ninh (1996), Về con đường giải phóng dân tộc của

Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Đoàn Thị Minh Oanh (2010), “Xây dựng văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản

Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Hội thảo khoa học kỷ niệm 120 năm

ngày sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý

luận chính trị, Hà Nội, tr.347.

80. Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hoá chính trị Việt Nam truyền thống và hiện

đại, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

81. Bùi Đình Phong (chủ biên) (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền

văn hoá mới Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

82. Bùi Đình Phong (2006), “Văn hoá chính trị Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học

chính trị, (5), tr.17-22.

83. Bùi Đình Phong (2008), Văn hoá, đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

84. Bùi Đình Phong (2010), “Nhân dân: Một phạm trù văn hoá chính trị Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Tuyên giáo, (3), tr. 23-26.

85. Bùi Đình Phong (2011), “Học và hành theo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá

cầm quyền”, Tạp chí Tuyên giáo ONLINE, tại trang http://www.tuyengiao.vn

[truy cập ngày 21/8].

86. Đỗ Nguyên Phương (2004), “Văn hóa Đảng - nhận thức và vấn đề đặt ra”, Tạp

chí Cộng sản, (18), tr.16-22.

87. Phạm Ngọc Quang (1995), Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán

bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Lê Minh Quân (2009), (Sách chuyên khảo) Tư tưởng chính trị của C.Mác,

Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

175

89. Tô Huy Rứa (2005), “Xây dựng văn hóa Đảng trong tình hình mới”, Tạp chí

Cộng sản, (10).

90. Jean Jacquest Rousseau (2010), Bàn về khế ước xã hội (Thanh Đạm dịch),

Nxb Đà Nẵng.

91. Phan Xuân Sơn (2010), (chủ biên) Các chuyên đề bài giảng chính trị học, (tập 2),

(Dành cho cao học chuyên chính trị học), Nxb Chính trị - Hành Chính, Hà Nội.

92. Tạ Ngọc Tấn (2010), “Vấn đề văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát

triển đất nước”, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ

tịch Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.522-531.

93. Lâm Quốc Tuấn (2004), “Kế thừa và phát huy truyền thống văn hoá chính trị

Việt Nam”, Tạp chí Tư tưởng văn hoá (10), tại trang

http://www.dangcongsan.vn [truy cập ngày 11/11].

94. Lâm Quốc Tuấn (2005), Nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

95. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

96. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

97. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng,

Nxb Văn hóa văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

98. Hồ Văn Thông (1999), “Suy ngẫm về những giá trị trong lịch sử tư tưởng

chính trị Việt Nam”, Tạp chí thông tin chính trị học, (1).

99. Trần Dân Tiên (2001), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,

Nxb Văn học, Hà Nội.

100. Chu Đức Tính (2009), (Chủ biên) Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

101. Nguyễn Đài Trang (2013), Hồ Chí Minh Nhân văn và Phát triển, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

176

102. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa khái niệm và thực tiễn, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

103. Tylor E.B (2000), Văn hóa nguyên thủy (Huyền Giang dịch), Nxb Văn hóa

Dân tộc, Hà Nội.

104. Phạm Hồng Tung (2008), Văn hoá chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hoá

chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

105. Phạm Ngọc Trung (2012), (Chủ biên), Giáo trình lý luận văn hóa, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

106. Trung tâm Từ điển học (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

107. Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin (2002), Từ điển Triết học, Nxb Văn hóa -

Thông tin, hà Nội.

108. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Ủy ban quốc gia unesco

của Việt Nam (1995), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc,

Nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

109. Nguyễn Hoài Văn (Chủ biên) (2008), Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt

Nam thế kỷ X-XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

111. Viện Hồ Chí Minh (1993), Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại, Nxb Lao

động, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

112. Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2004), Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

113. William J. Duiker. (2000), Hồ Chí Minh - Một cuộc đời, Nxb Hyperion,

New York, (Phòng Phiên dịch - Bộ ngoại giao Việt Nam dịch sang tiếng

Việt năm 2001)

Tiếng Anh114. Almond G. (1956), “Comparative Political System”, in: The journal of Politics

(8), pp. 12-15.

115. Almond G. and Verba S. (1963), The Civic Culture - Political Attitudes and

Democracy in Five Nations, Boston: little, Brown & Co. G.

177

116. Ball A.R. (1977), Modern Politics and Government, 2nd ed, London,

Macmillan.

117. Harrigan J.J. (1995), “Political Culture and Public opinion”, in: Politics and

the American future, Dilemmas of Democracy, The Mc Graw - Hill

Companies, Inc, pp. 80-105.

118. Pye L. (1968), “Political Culture”, in: International Encyclopedia of the Social

Siences, 12, London, Macmillan.

119. Patzelt, Werner J. (1992), Einfuehrung in die Politikwissenschaft. Grundriss

des Faches und studiumbegleitende Orientierung, Wissenchaftsverlag Richard

Rothe, Passau.

120. Row E. (1974), Modern Politics, London, Routlege and Kegan Paul.

121. Sodaro M.J. (1995), “Political Culture and Political Pyschology”, in

Comparative politics: A global Introduction, The Goerge Washington

University, The Mc Graw - Hill Companies. Inc., Aimis Custom Publishing,

pp. 361-385.

122. Tocqueville A. (1996), Democracy in America, ed. by J.P. Mayer, trans. by

George Lawrence, NewYork: Happer &Row.

123. Walter A. Rosenbaum (1975), Political Culture, London: Nelson.

124. Wildavsky, Aaron (1987), Choosing Preferences by Constructing Institutions:

A cultural Theory of Preference Formation, in: American Political Science

Review, (81), No.1 March.