50
Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam vừa làm được chuyến công du Hoa Kỳ như một chuyến đi dối già, theo lối nói của bình luận gia Ngô Nhân Dụng, nghĩa là một chuyến du lịch cho vui trước khi chết, trường hợp của ông Trọng là trước khi về hưu. Dĩ nhiên, toàn bộ nền báo chí công cụ CS đã không ngớt lời tuyên truyền về chuyến đi này: nào là đã được Tổng thống Hoa Kỳ chính thức mời nhiều lần từ 2012 nhưng nay ông mới thuận đi (trong khi thực chất là xin xỏ được gặp lãnh đạo của “Đế quốc Mỹ xâm lược”), nào là một chuyến đi lịch sử chưa từng có, vì lần đầu tiên một tổng bí thư đảng CS được chính phủ Hoa Kỳ đón tiếp nhiệt tình (nhiệt tình đến độ quên trải thảm đỏ -nên thông tấn xã VN phải vẽ thêm vào- tại phi trường Andrews của một căn cứ quân sự thay vì tại phi trường quốc tế Washington Dulles, với vài nhân viên ngoại giao cấp thấp cùng với vài chục Việt kiều thân cộng). Ông lại được mời vào Tòa Bạch ốc, tiếp trong Phòng Bầu dục dù chẳng phải là lãnh đạo chính phủ (báo chí lề đảng quên rằng người Mỹ không mấy câu nệ về nghi thức ngoại giao, lại lờ đi việc Nguyễn Phú Trọng và đoàn tùy tùng phải vào cửa hậu để tránh nghe tiếng hô đả đảo CS, tránh nhìn cả rừng cờ vàng và tránh thấy hình các tù nhân lương tâm; lờ đi việc Nguyễn Phú Trọng không được đón tiếp bằng 21 phát đại bác, duyệt hàng quân danh dự, đứng trên bục nghe cử hai bài quốc ca, dự quốc yến do tổng thống khoản đãi, đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ và lưu trú tại nhà khách chính phủ như Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm một thời!) Thái độ khinh thường đó là điều dễ hiểu, một là vì chính phủ Mỹ luôn biết và luôn coi Việt cộng chỉ là một chính đảng tiếm quyền, một chính phủ tiếm danh; hai là vì Nguyễn Phú Trọng đi ra quốc tế, mang cả thể diện quốc gia, trong ý định bang giao bình đẳng, với cao vọng đóng góp cái gì đó tích cực cho thế giới mà lại với hai bàn tay không: không thành tích kinh tế thương mại, không thành tích giáo dục văn hóa, không thành tích khoa học kỹ thuật, không thành tích an sinh xã hội, chỉ có thành tích đàn áp nhân dân, tàn phá đất nước và bán dần Tổ quốc cho Tàu. Người ta cũng đã hy vọng rằng với lời kêu gọi và sự áp lực của các tổ chức nhân quyền quốc tế cũng như của một số dân biểu nghị sĩ Hoa Kỳ, Hà Nội sẽ phóng thích vài tù nhân lương tâm trọng án như linh mục Nguyễn Văn Lý, mục sư Nguyễn Công Chính, doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, nhà báo Tạ Phong Trần, kỹ sư Đặng Xuân Diệu… như món quà tặng tổng thống và chính phủ Mỹ (loại quà duy nhất là Việt cộng có được và luôn trữ sẵn). Thế mà tuyệt nhiên không! Hai bàn tay không ấy chỉ ngửa ra để xin chính phủ Mỹ công nhận tính chính danh của đảng cầm quyền Việt Cộng, thừa nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, chấp nhận cho Hà Nội sớm được gia nhập Hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, và chuẩn nhận việc bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương. Nguyễn Phú Trọng và đồng đảng quên rằng nhà nước thực dụng Hoa Kỳ đã từng thân thiện với –có khi còn ủng hộ mạnh- nhiều chế độ độc tài miễn có lợi cho họ, theo phương châm: “Không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi vĩnh viễn”. Nixon đã chẳng từng đá Trung Hoa dân quốc bé xíu của Tưởng Giới Thạch để bắt tay với Trung Hoa cộng sản vĩ đại của Mao Trạch Đông đó sao? Về chuyện xin Hoa Kỳ thừa nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, ta hãy nghe ông Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm Minh triết Việt Nam nhắn nhủ Nguyễn Phú Trọng: “Nhiều lần, tôi đã thưa với các vị lãnh đạo rằng chớ nhục nhã đi xin xỏ các nước tiên tiến giàu có “công nhận cho chúng tôi quy chế kinh tế thị trường”, mà hãy quay về xin với nhân dân “hãy làm kinh tế thị trường cho đúng nghĩa, thực chất, văn minh và lành mạnh”. Các nước tiến bộ, giàu mạnh, họ không xin xỏ như vậy. Nhà nước của họ, và các chính đảng dân tộc, dân chủ của họ, phấn đấu để tạo ra luật lệ cần thiết và đầy đủ về mọi yếu tố của kinh tế thị trường để cho nhân dân, trong đó bộ phận dân làm doanh nhân có đầy đủ mọi điều kiện để làm kinh tế thị trường đúng nghĩa và lành mạnh văn minh. Ít thấy những nước Nhật, Hàn, Singapore,Indonesia, Ấn Độ… đi van nài như vậy. Khi đất nước của họ có nền kinh tế thị trường đúng nghĩa rồi thì không cần xin xỏ ai nữa. Cố nhiên, họ không cần cho mọc cáí đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm gì. Tôi xin lưu ý cái sự mọc đuôi là một dấu hiệu của thoái hóa”. Xin được công nhận như nền kinh tế thị trường thì bộ sậu Ba Đình hãy xem lại Hiến pháp điều 51 mục 1. Bọn Mẽo mắt xanh mũi lõ chẳng biết tới điểm hiến định quan trọng này à?

€¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam vừa làm được chuyến công du Hoa Kỳ như một chuyến đi dối già, theo lối nói của bình luận gia Ngô Nhân Dụng, nghĩa là một chuyến du lịch cho vui trước khi chết, trường hợp của ông Trọng là trước khi về hưu.

Dĩ nhiên, toàn bộ nền báo chí công cụ CS đã không ngớt lời tuyên truyền về chuyến đi này: nào là đã được Tổng thống Hoa Kỳ chính thức mời nhiều lần từ 2012 nhưng nay ông mới thuận đi (trong khi thực chất là xin xỏ được gặp lãnh đạo của “Đế quốc Mỹ xâm lược”), nào là một chuyến đi lịch sử chưa từng có, vì lần đầu tiên một tổng bí thư đảng CS được chính phủ Hoa Kỳ đón tiếp nhiệt tình (nhiệt tình đến độ quên trải thảm đỏ -nên thông tấn xã VN phải vẽ thêm vào- tại phi trường Andrews của một căn cứ quân sự thay vì tại phi trường quốc tế Washington Dulles, với vài nhân viên ngoại giao cấp thấp cùng với vài chục Việt kiều thân cộng). Ông lại được mời vào Tòa Bạch ốc, tiếp trong Phòng Bầu dục dù chẳng phải là lãnh đạo chính phủ (báo chí lề đảng quên rằng người Mỹ không mấy câu nệ về nghi thức ngoại giao, lại lờ đi việc Nguyễn Phú Trọng và đoàn tùy tùng phải vào cửa hậu để tránh nghe tiếng hô đả đảo CS, tránh nhìn cả rừng cờ vàng và tránh thấy hình các tù nhân lương tâm; lờ đi việc Nguyễn Phú Trọng không được đón tiếp bằng 21 phát đại bác, duyệt hàng quân danh dự, đứng trên bục nghe cử hai bài quốc ca, dự quốc yến do tổng thống khoản đãi, đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ và lưu trú tại nhà khách chính phủ như Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm một thời!)

Thái độ khinh thường đó là điều dễ hiểu, một là vì chính phủ Mỹ luôn biết và luôn coi Việt cộng chỉ là một chính đảng tiếm quyền, một chính phủ tiếm danh; hai là vì Nguyễn Phú Trọng đi ra quốc tế, mang cả thể diện quốc gia, trong ý định bang giao bình đẳng, với cao vọng đóng góp cái gì đó tích cực cho thế giới mà lại với hai bàn tay không: không thành tích kinh tế thương mại, không thành tích giáo dục văn hóa, không thành tích khoa học kỹ thuật, không thành tích an sinh xã hội, chỉ có thành tích đàn áp nhân dân, tàn phá đất nước và bán dần Tổ quốc cho Tàu. Người ta cũng đã hy vọng rằng với lời kêu gọi và sự áp lực của các tổ chức nhân quyền quốc tế cũng như của một số dân biểu nghị sĩ Hoa Kỳ, Hà Nội sẽ phóng thích vài tù nhân lương tâm trọng án như linh mục Nguyễn Văn Lý, mục sư Nguyễn Công Chính, doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, nhà báo Tạ Phong Trần, kỹ sư Đặng Xuân Diệu… như món quà tặng tổng thống và chính phủ Mỹ (loại quà duy nhất là Việt cộng có được và luôn trữ sẵn). Thế mà tuyệt nhiên không!

Hai bàn tay không ấy chỉ ngửa ra để xin chính phủ Mỹ công nhận tính chính danh của đảng cầm quyền Việt Cộng, thừa nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, chấp nhận cho Hà Nội sớm được gia nhập Hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, và chuẩn nhận việc bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương. Nguyễn Phú Trọng và đồng đảng quên rằng nhà nước thực dụng Hoa Kỳ đã từng thân thiện với –có khi còn ủng hộ mạnh- nhiều chế độ độc tài miễn có lợi cho họ, theo phương châm: “Không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi vĩnh viễn”. Nixon đã chẳng từng đá Trung Hoa dân quốc bé xíu của Tưởng Giới Thạch để bắt tay với Trung Hoa cộng sản vĩ đại của Mao Trạch Đông đó sao? Về chuyện xin Hoa Kỳ thừa nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, ta hãy nghe ông Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm Minh triết Việt Nam nhắn nhủ Nguyễn Phú Trọng: “Nhiều lần, tôi đã thưa với các vị lãnh đạo rằng chớ nhục nhã đi xin xỏ các nước tiên tiến giàu có “công nhận cho chúng tôi quy chế kinh tế thị trường”, mà hãy quay về xin với nhân dân “hãy làm kinh tế thị trường cho đúng nghĩa, thực chất, văn minh và lành mạnh”. Các nước tiến bộ, giàu mạnh, họ không xin xỏ như vậy. Nhà nước của họ, và các chính đảng dân tộc, dân chủ của họ, phấn đấu để tạo ra luật lệ cần thiết và đầy đủ về mọi yếu tố của kinh tế thị trường để cho nhân dân, trong đó bộ phận dân làm doanh nhân có đầy đủ mọi điều kiện để làm kinh tế thị trường đúng nghĩa và lành mạnh văn minh. Ít thấy những nước Nhật, Hàn, Singapore,Indonesia, Ấn Độ… đi van nài như vậy. Khi đất nước của họ có nền kinh tế thị trường đúng nghĩa rồi thì không cần xin xỏ ai nữa. Cố nhiên, họ không cần cho mọc cáí đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm gì. Tôi xin lưu ý cái sự mọc đuôi là một dấu hiệu của thoái hóa”. Xin được công nhận như nền kinh tế thị trường thì bộ sậu Ba Đình hãy xem lại Hiến pháp điều 51 mục 1. Bọn Mẽo mắt xanh mũi lõ chẳng biết tới điểm hiến định quan trọng này à?

Về việc xin sớm gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương, tuy Việt Nam và Hoa Kỳ đã thoả thuận sẽ thúc đẩy việc đàm phán về nó cho mau kết thúc tốt đẹp và thỏa mãn, nhưng không thấy Nguyễn Phú Trọng nói gì về những chuẩn bị của VN trong những lãnh vực thiết yếu như tài chánh, ngân hàng, xí nghiệp, công đoàn và cả nhân quyền... để khai thác một cách thuận lợi hiệp ước TPP cho Việt Nam. Đang khi Việt Nam là nước có nền kinh tế chậm phát triển nhất trong khối 12 nước của TPP, thậm chí trong khối ASEAN, có một thể chế chính trị độc tài, với một nền kinh tế còn mang tính chỉ huy, lấy các công ty quốc doanh, xí nghiệp nhà nước làm chủ đạo, tước bỏ quyền tư hữu đất đai của công dân, trấn áp các công nhân biểu tình hay dự tính thành lập công đoàn độc lập, do đó hoàn toàn không thích hợp cho một thị trường rộng mở cùng với sự cạnh tranh gay gắt, một sân chơi bình đẳng và một sự tôn trọng quyền lợi của người lao động.

Thành ra tuy đã có nhiều cuộc gặp gỡ tiếp xúc với giới lãnh đạo nhiều ngành của Hoa Kỳ, tất cả những gì Tổng Trọng nói chỉ phản ảnh giọng điệu tuyên truyền cố hữu và não trạng bảo thủ thâm căn, như tránh né vấn đề nhân quyền, phủ nhận đàn áp các thành phần dân chủ, chẳng bàn luận cách tích cực vấn đề đối phó với Tàu cộng đang ngày càng lộng hành ở Biển Đông... Trong diễn văn bằng tiếng Việt tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế của Hoa Kỳ (CSIS), Nguyễn Phú Trọng biện bạch: “Vấn đề nhân quyền là vấn đề mà chính giới và dư luận Hoa Kỳ rất quan tâm, cũng là vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước. Tôi khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề quyền con người. Đất nước chúng tôi tuy còn không ít vấn đề cần tiếp tục phải giải quyết, trong đó có vấn đề quyền con người, nhưng chúng tôi đang nỗ lực không mệt mỏi để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người… không để vấn đề này cản trở đà tiến triển tốt đẹp của quan hệ, cũng như ảnh hưởng tới việc xây dựng lòng tin giữa hai nước.” Giữa lúc đó thì tại quê nhà, một dân oan phản đối cướp ruộng bị xe ủi đất cán lên người, một dân nghèo buôn thuốc lá lậu chạy trốn công an bị đạp ngã tử vong, một nhà báo tự do bị gọi lên gọi xuống chất vấn về những gì ông viết và bị buộc phải đóng cửa trang báo mạng ông đang làm chủ nhiệm.

Rồi trong lúc Biển Đông hiện vẫn tiếp tục là điểm nóng với sự lấn chiếm từng bước của Tàu cộng bằng việc cải tạo các đảo đá ngầm ở Trường Sa mà chúng đã chiếm của VN thành đảo đá nổi, xây dựng những công trình dân dụng lẫn quân sự trên đó nhằm đặt các quốc gia ven Đông Hải trước một sự việc đã rồi. Trong lúc Philippin đã công khai kiện tụng Bắc Kinh về Đường lưỡi bò phi pháp, nhằm vô hiệu hóa việc áp đặt chủ quyền của Tàu cộng trên 90% Biển Đông, mới đây là bằng việc cử một phái đoàn cao cấp sang La Haye tham dự phiên xử từ 7-13/7/2015 của Tòa Trọng tài

Page 2: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Số 223 Trang

ảnh hưởng tới việc xây dựng lòng tin giữa hai nước.” Giữa lúc đó thì tại quê nhà, một dân oan phản đối cướp ruộng bị xe ủi đất cán lên người, một dân nghèo buôn thuốc lá lậu chạy trốn công an bị đạp ngã tử vong, một nhà báo tự do bị gọi lên gọi xuống chất vấn về những gì ông viết và bị buộc phải đóng cửa trang báo mạng ông đang làm chủ nhiệm.

Rồi trong lúc Biển Đông hiện vẫn tiếp tục là điểm nóng với sự lấn chiếm từng bước của Tàu cộng bằng việc cải tạo các đảo đá ngầm ở Trường Sa mà chúng đã chiếm của VN thành đảo đá nổi, xây dựng những công trình dân dụng lẫn quân sự trên đó nhằm đặt các quốc gia ven Đông Hải trước một sự việc đã rồi. Trong lúc Philippin đã công khai kiện tụng Bắc Kinh về Đường lưỡi bò phi pháp, nhằm vô hiệu hóa việc áp đặt chủ quyền của Tàu cộng trên 90% Biển Đông, mới đây là bằng việc cử một phái đoàn cao cấp sang La Haye tham dự phiên xử từ 7-13/7/2015 của Tòa Trọng tài Thường trực. Thì lãnh đạo CSVN, ngoài một số tuyên bố suông để xoa dịu người dân và thành phần quan tâm đến đất nước trong guồng máy đảng, lại chẳng dám có hành động, hay ít ra lời nói cụ thể để lên án Tàu cộng, ngõ hầu ngăn chặn việc chúng khiêu khích, truy đuổi, cướp bóc, bắn chết ngư dân Việt Nam, ngang nhiên đem và tái đem giàn khoan Hải Dương vào vùng đặc quyền khai thác của nước ta trên biển. Trước khi đi Mỹ, Nguyễn Phú Trọng còn đề cao cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của tay này, kẻ đã thân hành đến Thành Đô tái đầu phục kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc và ký kết những mật ước với chúng, mở đường cho sự xâm nhập của Tàu cộng ngày càng sâu trên đất liền biển cả của nước Việt. Ngoài ra, tuy lần đầu tiên được mời công du chính thức Hoa Kỳ, một quốc gia hùng mạnh mà mọi nước dân chủ dù lớn hay nhỏ đều muốn liên minh, Nguyễn Phú Trọng vẫn không dám đưa ra lời tuyên bố nào tỏ ý sẵn sàng hợp tác về quân sự với các quốc gia trong vùng như Philippin, Malaisia, Indonesia cũng như hợp tác với các cường quốc trong khu vực Thái Bình Dương như Hoa Kỳ, Nam Hàn, Nhật Bản, Úc nhằm chống lại sự hiếu chiến và mộng xâm lăng của Tàu cộng.

Một mong muốn khác của Nguyễn Phú Trọng là Washington huỷ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN, nhưng việc này vẫn dậm chân tại chỗ vì thành tích nhân quyền yếu kém của Hà Nội. Thậm chí, ngay khi Tổng Lú còn đang ở trên đất Mỹ, báo chí VN có đăng tải lời tuyên bố của Thượng nghị sĩ John McCain về chuyện hợp tác Việt Mỹ và chuyện hủy bỏ lệnh cấm đó, nhưng lại cắt bỏ những phần quan trọng của lời tuyên bố này liên quan đến việc Hà Nội phải tôn trọng quyền con người, trả tự do cho các tù nhân lương tâm và cải cách hệ thống pháp luật.

Nguyễn Phú Trọng đã đi hai tay không, nay cũng về hai tay không. Cuộc Mỹ du chỉ là chuyến du lịch dối già để tay TBT này đỡ mang tiếng suốt đời thần phục Tàu cộng và có tiếng là được tên “sen đầm quốc tế” trọng thị. Nói tóm lại, Tổng Trọng đi về chẳng đem lại tia hy vọng gì cho nhân dân và đất nước. Bị giam hãm trong ý thức hệ độc tài thâm căn cố đế, trong cuồng vọng duy trì mãi mãi quyền lực của đảng, Việt Cộng sẽ chẳng bao giờ thực thi những hứa hẹn về nhân quyền một khi, nhờ cơ may nào đó, Hà Nội được gia nhập TPP. Có thể còn đàn áp nhân dân dữ dội hơn, như sau khi được làm thành viên Tổ chức Thương mại Quốc tế, thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ. Một dấu hiệu rõ ràng nhất là công an đang tìm cách tiêu diệt tờ Việt Nam Thời Báo và qua đó bóp chết tự do internet lẫn tự do ngôn luận. Ngoài ra, với sự mù quáng trong cái gọi là “tình đồng chí cộng sản”, cộng với cái ách lệ thuộc Trung Nam Hải ngày càng lớn và nặng, Việt cộng sẽ không thể nào trở thành đồng minh đáng tin cậy với Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống Trung Quốc. Mọi lời nói, thậm chí mọi thái độ có vẻ như thiên về nhân quyền, về dân chủ, về Tây phương đều là những đòn hỏa mù lừa gạt, mánh lới tình thế. Nhân dân đất nước chỉ thật sự hy vọng khi cái đảng bất tài, bất tín, bất nhân và bất lực này phải ra đi. BAN BIÊN TẬP

Trg 01Đi hai tay không! Về hai tay không!!!

Trg 0340 năm CS đàn áp quy mô Giáo hội Phật giáo VNTN.-Phòng Thông tin Phật giáo QT.

Trg 05Công an tỉnh An Giang đàn áp Đại lễ Khai sáng PG HòaHảo-Phóng viên PGHH.

Trg 06Giáo sĩ Công giáo có nên “làm chính trị”?-Lm Phan Văn Lợi trả lời pv.

Trg 08Dân Trung Quốc mới mất 2.300 tỷ đôla.-Ngô Nhân Dụng.

Trg 10Chiến lược triệt hạ Trung Hoa của Hoa Kỳ.-Nguyễn Đình Phùng.

Trg 11Người VN sẽ làm „đệm thịt“ bảo vệ Trung Quốc? -Võ Thị Hảo.

Trg 13Chuyến đi dối già của Nguyễn Phú Trọng.

-Ngô Nhân Dụng.Trg 14Chuyến đi HK của ông Ng.

Phú Trọng: có đi như không đi. -Nguyễn Ngọc Bảo.Trg 16Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: Công hay tội?

-Mặc Lâm.Trg 17Từ độc tài Nguyễn Văn Linh

đến độc quyền Ng. Phú Trọng.-Phạm Trần.

Trg 20Từ một cánh vạc kêu sương vụt trở thành cánh đại bàng…-Tô Hải.

Trg 23Quốc hội kết thúc kỳ họp nhưng không ra nghị quyết về…

-Gia Minh.Trg 25Tham gia TPP, Việt Nam được lợi và hại gì?

-Lý Thái Hùng. Trg 27Tội nghiệp cho ông bộ trưởng.

-Văn Quang.Trg 29Rừng Trường Sơn đang kêu

cứu. -Nhóm phóng viên RFA từ VN.

Trg 30Chế độ chính trị và môi sinh. -Huỳnh Ngọc Tuấn.

Trg 31Vụ án Hồ Duy Hải: Oan khiên hay thế mạng?

-Nguyễn Đăng Quang.

--------------------------------

Lú quy mã (Babui, Danchimviet.info)

GIẢI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM 2008

GIẢI TRUYỀN THÔNG LIÊN MẠNG 2011TRONG SỐ NÀY

2

Page 3: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nhân dịp 40 năm Ngày 30 Tháng Tư, Đài Á châu Tự do thực hiện loạt bài “Ký ức 40 Năm” để nhìn lại sinh hoạt của nhân dân qua mọi lĩnh vực của đời sống kể từ ngày Bộ đội Bắc Việt xé Hiệp định Hoà bình Paris, cưỡng chiếm Miền Nam nước Việt. Riêng trường hợp Phật giáo, Đài thực hiện 3 chương trình dưới tiêu đề “40 năm cuộc đàn áp quy mô Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) sau 30 tháng Tư” trong 2 chương trình, và chương trình thứ ba là cuộc phỏng vấn Đức Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ tổng kết tình hình Phật giáo 40 năm dưới chế độ độc tài toàn trị.

Hôm nay, chúng tôi xin gửi tới bạn đọc bản chép lại 2 chương trình nói trên. Hai chương trình này cũng đã phát lại trên Đài Phật giáo Việt Nam hôm thứ sáu 26-6-2015. Quý vị có thể bấm vào đây để nghe :

http://pttpgqt.net/2015/06/26/dai-phat-giao-viet-nam-ngay-26-6-2015

http://www.queme.net/vie/radio_detail.php?numb=2481

Đặc biệt trong 2 chương trình này quý vị sẽ nghe tiếng nói của Tam vị Tăng Thống Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ. Nhất là tiếng nói nhân chứng của Đức Cố Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu tố cáo Cộng sản thảm sát Cố Hoà thượng Thích Thiện Minh trong tù, lần đầu tiên được phát sóng trên một Đài quốc tế, là tài liệu lưu trữ đặc biệt do Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế cung cấp ; hay tiếng nói dõng dạc của Đức Cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang từ năm 1991 tại chùa Linh Mụ, Tp Huế. 

Cuộc đàn áp quy môGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Thống Nhất sau 30/4Ỷ Lan, Phóng viên RFA, Paris

2015-04-27

Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời tại Sài Gòn ngày 04-01-1964, sau cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng năm 63. Vì trước đó, Dụ số 10 của Pháp bó buộc phải hoạt động theo quy chế

Hiệp hội.Kể từ tháng 9 năm 75, cuộc đàn

áp Gíao hội Phật giáo VN Thống nhất bắt đầu theo Chỉ thị số 20 của Đảng do ông Lê Duẩn ký năm 1960, khiến Phật giáo miền Bắc bị tiêu vong. Nay đem thực hiện tại Miền Nam.  Cuối tháng 9 năm 75, Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Viện Hoá đạo đã có văn thư phản đối Chủ tịch Cách mạng Lâm thời về việc đập phá các tượng Phật lộ thiên.

Nhiều hiện tượng khác, như bắt treo hình Hồ Chí Minh trên bàn thờ tổ tiên, áp lực chư Tăng hoàn tục, hoặc đưa sang chiến trường Kampuchia, cấm treo cờ Phật giáo trong các chùa viện, cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, v.v…, hàng chục nghìn Tăng ni, Phật tử bị đưa vào trại cải tạo.

Trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng ni, Phật tử bị cầm tù đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.

Tình trạng đàn áp bức thiết khiến 12 Tăng ni tự thiêu tập thể ngày 02-11-75 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ “Chết vinh hơn sống nhục”. Đại đức Thích Huệ Hiền để lại chúc thư yêu sách chính quyền Cách mạng thực hiện nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp GHPGVNTN.

Tình trạng đàn áp có chủ trương và chính sách này, không ai lên tiếng rõ hơn Đức cố Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu Thân 68, ngài bị cộng sản bắt đưa lên rừng rồi đưa ra Hà Nội áp lực tuyên truyền cho chế độ, nhằm đánh lừa dư luận quốc tế là Phật giáo ủng hộ Bắc Việt. Thế nhưng, trở về lại miền Nam, ngài từ nhiệm tất cả các chức vụ mà Hà Nội gán cho, lại còn tố cáo đàn áp Phật giáo và thảm sát cố Hoà thượng Thích Thiện Minh. Sau đây là tiếng Ngài qua một băng thu âm, được đăng tải trên tạp chí Quê Mẹ tại Paris :

“Từ khi giải phóng đến nay, Phật giáo đồ chúng tôi bị bao nhiêu khổ đau tan tác. Đi bất cứ đâu, đạo khác thì chúng tôi không biết, chớ về gặp các nhà chùa Phật giáo, cán bộ, bộ

đội phát biểu “Hòa bình Độc lập rồi, tu mà làm gì nữa ? Tuân thủ thờ Cách mạng hơn là thờ Phật”.

“Bắt đầu từ đó, sự vận động, khủng bố không cho họ được làm lễ. Phá hoại tượng Phật lộ thiên ở Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột, Biện Hồ, Vũng Tàu, Quy Nhơn, Quảng Ngãi… Bộ đội cột giây lên kéo xuống, đập vỡ tan hết.

“Sau đây còn bắt các vị tu sĩ lấy lý do mấy ông Sư đó phản động theo CIA, theo Mỹ, theo Nguỵ. Rồi lần lượt bắt cho đến các vị lãnh đạo trong Viện Hoá đạo nữa, Thượng toạ Huyền Quang, Thượng toạ Quảng Độ, rồi đến bắt Thượng toạ Thiện Minh nữa, để Thiện Minh chết nữa.

“Thiện Minh không có tội chi hết, thì tại sao chính phủ làm cái việc lạ lùng hết sức. Đi bắt tội người không có tội chi hết là Thiện Minh mà lại dung tha cho người có tội là cơ quan. Tôi thì không biết rõ luật quốc tế lắm. Nhưng tôi đoán chắc rằng, luật quốc tế không cho phép để cho người bị bắt chết trong trại giam. Mà đây Thiện Minh đã chết trong trại giam. Cơ quan nói Thiện Minh chết vì xuất huyết não. Tôi có thể kết luận, Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì bàn tay tội ác chính trong cơ quan tạo ra. Là bởi được tin Thiện Minh chết, Viện Hoá đạo về liền, thấy các ông bỏ trong hòm mà liệm rồi, chỉ chừa cái mặt. Viện Hoá đạo xin đem về chôn cất, các ông không cho.

“Tại sao vậy ? Đây thấy rõ ràng quá. Rõ ràng như hai với hai là bốn. Là trong người của Thiện Minh đầy cả thương tích. Muốn che đậy thương tích đó, muốn che đậy lấp liếm cái việc làm của mình, bằng cách bỏ trong hòm liệm đi. Bởi vì sợ người ta thấy những cái vết thương mà các ông đã đánh đập.

“Là một công dân, tôi không thể để cho cơ quan làm những việc bất chính như vậy. Tôi xin nhắc lại ba điều yêu cầu :

“Một là yêu cầu chánh phủ trả tự do cho tất cả các tu sĩ bị bắt giam cầm đã lâu mà không can án ; Thứ hai là đưa cái chết của Thượng toạ Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết ; Thứ ba phải chấm dứt tình trạng khủng bố các tín đồ ở các địa phương”.

Ngày 16-4-1977, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo kêu gọi Phật tử Sài Gòn đấu tranh chống lại GHPGVNTN. Thông báo cho rằng “trong giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống

Số 223 Trang 3

Page 4: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

nhất phái Ấn Quang có nhiều người vốn có mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cọng sản” (…) Số này đã thao túng Giáo hội âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước”. Thông báo còn hăm doạ ra tay đàn áp.

Hăm doạ biến thành sự thật, bảy vị lãnh đạo Viện Hoá Đạo bị bắt giam. Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ bị giam 20 tháng, nhờ áp lực quốc tế mới được thả nhưng bị quản chế. Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết tại Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn, như Hoà thượng Đôn Hậu tố giác.

Suốt 5 năm đàn áp, khủng bố, nhưng không thành công tiêu diệt GHPGVNTN. Năm 1981, nhà cầm quyền Cộng sản chuyển qua chiêu bài mới, gọi là “Thống nhất Phật giáo”, thành lập “Hội Phật giáo VN” tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày 4-11để làm công cụ chính trị cho Đảng và Nhà nước. Ép buộc Tăng ni, Phật tử thuộc GHPGVNTN phải gia nhập.

Ông Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân vận chỉ thị cho ông Đỗ Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo vận, thực hiện cuộc Thống nhất Phật giáo này. Ông giải thích cho ông Hiếu vì sao phải dẹp bỏ GHPGVNTN như sau :  “Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ VN”.

Năm 1994, hối hận việc làm sai lạc của mình, ông Đỗ Trung Hiếu cho phát hành tập sách “Thống nhất Phật giáo” nói lên tất cả sự thật và tiết lộ :

“Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội. Hội Phật giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Kể từ đó, GHPGVNTN bị đưa ra ngoài vòng pháp luật, dù Nhà nước không có văn kiện nào chính thức giải thể. Một cuộc đàn áp mới sắp khai trương.  Vài tháng sau Giáo hội Phật giáo nhà nước ra đời tại Hà Nội. Ngày 24-2-1982, Ủy ban Nhân dân thành phố

Hồ Chí Minh ra Quyết định trục xuất hai Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ về quản chế tại quê quán Quảng Ngãi và Thái Bình, không qua sự xét xử của toà án. Ngày 7-7 cùng năm, cưỡng chiếm chùa Ấn Quang là trụ sở của GHPGVNTN. Toàn bộ tư liệu, hồ sơ của Viện Hoá đạo bị đốt sạch trong năm ngày mới hết.

Năm 1991, Đức cố Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, Huế. Nhà nước muốn lợi dụng tang lễ này tuyên truyền chính trị cho Đảng. Nhưng Di chúc Ngài ngăn cấm không tổ chức rầm rộ, không đọc điếu văn, ca tụng, v.v… Nên 50 Tăng ni tuyệt thực phản đối tại chùa Linh Mụ. Có vị đòi tự thiêu. Ngài để lại khuôn dấu Giáo hội và trao quyền cho 2 Hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ tiếp tục lãnh đạo GHPGVNTN để phục hồi quyền pháp lý cho Giáo hội. Mặc dù bị công an phong toả, cấm đoán, tại lễ tang, Hoà thượng Huyền Quang dõng dạc tuyên bố trước Linh đài quyết tâm thực hiện Di chúc giao phó :

“Pháp lý là cái gì ? Giấy tờ chỉ được viết ra cho một tổ chức tân lập, còn Giáo hội ta đã có mặt trên dải đất này 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý. Trần đã chấp nhận Phật giáo.

“Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm truyền đạo trên dải đất Việt Nam này. Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo hội.  “Như vậy Pháp lý có thể cho ra và có thể thu lại. Vậy cho nên đừng đặt vấn đề pháp lý của thời đại, mà phải đặt lịch sử truyền đạo và sự chấp nhận của dân chúng Phật tử”.

Trước sự bùng dậy của khối Phật giáo đồ sau tang lễ, tài liệu tuyệt mật của Bộ Nội vụ viết ngày 18-8-1992 chỉ thị 5 biện pháp đấu tranh chống khối Phật giáo Thống Nhất, đặc biệt là phân hoá cao hàng ngũ giáo sĩ ; “cắt đứt chân tay” với số cực đoan chống đối ; và thâm nhập đặc tình trong Tăng tín đồ Phật giáo.

Vì thực hiện và phổ biến Di chúc ngài Đôn Hậu, chư Tăng chùa Linh Mụ bị đàn áp dữ dội, đưa tới cuộc biểu tình bốn mươi nghìn (40.000) Phật tử Huế xuống đường ngày 24-5-1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo. Đây là cuộc biểu tình lớn nhất chưa hề có dưới chế độ Cộng sản. Tại Hội nghị “Diễn biến Hoà bình” ở Hải Phòng ngày 26-6 cùng năm, Tướng Đặng Vũ Hiệp đánh giá cuộc biểu tình của Phật tử Huế có “nguy cơ mất nước”.

Sự kiện hi hữu xẩy ra là ngày 2-4-2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Hoà thượng Thích Huyền Quang, nhân dịp ngài ra Hà Nội giải phẫu khối u ở mặt. Một thủ tướng tiếp một tù nhân ! Thủ tướng xin Hòa thượng hỉ xả cho chuyện đã qua, vì cán bộ cấp địa phương làm sai. Nhiều nhà quan sát tưởng rằng vấn đề Phật giáo được lắng yên.

Thế nhưng, sau Đại hội Phật giáo kỳ VIII do Hoà thượng Huyền Quang triệu tập tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, ngày 1-10-2003, để bổ sung nhân sự vào hai Viện Tăng thống và Viện Hoá đạo, thì chuyến xe chở 10 vị giáo phẩm về lại Sài Gòn bị chận bắt tại Lương Sơn hôm 8-10, trong số có hai ngài Huyền Quang và Quảng Độ. Tất cả đều bị bắt đi “làm việc” và ra khẩu lệnh quản chế.

Từ đó đến nay Giáo hội luôn bị đàn áp, sách nhiễu thường trực. Mọi hoạt động của 20 Ban Đại diện Giáo hội tại các tỉnh thành đều bị ngăn cấm. Chùa Giác Minh của Hoà thượng Thanh Quang ở Đà Nẵng bị phong toả thường trực, các Đại lễ Phật Đản, Vu Lan hay Tết bị ngăn cấm tổ chức.

Thế nhưng Giáo hội không ngừng lên tiếng cho những vấn nạn xã hội hay đất nước. Từ nơi quản chế Quảng Ngãi, ngày 20-11-1993, Hoà thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn, yêu sách bỏ điều 4 trên Hiến pháp và bầu cử lại Quốc hội dưới sự giám sát của LHQ với sự tham gia của tất cả các đảng phái quốc gia.

Đầu năm 1994, HT Thích Quảng Độ bị bắt khi dẫn phái đoàn Viện Hoá đạo đi cứu trợ nạn bão lụt khủng khiếp ở đồng bằng sông Cửu Long. Bị kết án 5 năm tù, giam tại nhà tù Ba Sao. Được ân xá năm 1998, nhưng vẫn còn quản chế tại Thanh Minh Thiền viện, SG. Ngài tuyên bố: “Tôi đi từ nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn”.

Năm 2001 ngài công bố “Lời kêu gọi cho Dân chủ” với giải pháp 8 điểm thực hiện, mà ngài xem như giải pháp duy nhất cứu nguy dân tộc.

Ngày 17-5-2007, HT Quảng Độ đến uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho Dân oan khiếu kiện trước tiền đình Quốc hội II ở Sài Gòn. Việc làm bị báo chí truyền thông nhà nước tố cáo, hăm doạ trong vòng 3 tháng. Ngài cũng nhiều lần lên tiếng tố cáo về việc Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ và biển đảo, nạn bô-xít Tây nguyên nơi Trung Quốc nắm yết hầu quân sự, chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa, cho đến gần đây, năm 2014, biến cố giàn khoan Hải Dương 981.

Số 223 Trang 4

Page 5: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nhiều vị Đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Na Uy, Đức, Anh, Pháp… vẫn thường xuyên đến vấn an, trao đổi với Đức Tăng thống Thích Quảng Độ. Liên tiếp nhiều năm, ngài được đề cử ứng viên Giải Nobel Hoà bình. Năm 2003, ngài và ngài Huyền Quang được trao Giải Nhân quyền của Tiệp dưới sự chủ trì của cựu Tổng thống Vaclav Havel ; năm 2006 ngài được Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto của Vương quốc Na Uy.

Nhờ sự lưu tâm quốc tế này mà ngài và hàng giáo phẩm Giáo hội không bị khủng bố, bắt giam tuỳ tiện như những năm sau 30-04-1975.

Ngài xác nhận lập trường Giáo hội suốt 40 năm qua không hề thay đổi như sau :

“Chừng nào mà chế độ Xã hội Chủ nghĩa VN còn, thì Giáo hội không được sinh hoạt bình thường đâu.

“Họ dùng đủ cách để mà xoá sổ, xoá sạch cái danh nghĩa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên đất nước Việt Nam. Mà chưa hết đâu, còn nhiều. Vì thế cho nên cứ sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để đón nhận, để đương đầu.

“Cho nên trước khi tiễn đưa Đức Tăng thống đến nơi an nghỉ cuối cùng, thì chúng tôi đã nói rồi : Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đi của Ngài. Còn rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều chông gai, nhưng sẵn sàng vượt qua. Còn hơi thở thì vẫn cứ tiếp tục. Đó là chí nguyện của Giáo hội”.

Bản Tin KhẩnCÔNG AN TỈNH AN GIANG ĐÀN ÁP NGÀY ĐẠI LỄ 18/5Sáng nay ngày 18/5 Ất Mùi (3-

7-2015), Giáo hội Trung ương PGHH Thuần túy tổ chức ngày Đại lễ kỷ niệm lần thứ 76 năm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng đạo PGHH (18/5 Kỷ Mão 1939 –18/5 Ất Mùi 2015).

Mờ mờ sáng nay công an tỉnh An Giang và huyện Chợ Mới bắt đầu triển khai lực lượng  bủa vây hai đầu điểm lễ, không cho ai vào.

Khác với mọi năm, lực  lượng công an triển khai đóng chốt từ rất sớm. Năm nay các ngày trước không một bóng công an, ra vào tự do. Ông Hà Văn Duy Hồ trưởng ban tổ chức cho biết.

Còn các tỉnh cũng thế, ông Nguyễn Ngọc Tân, Tổng Vụ trưởng vụ truyền thông GHTƯPGHH Thuần túy cho biết: năm nay gần đến ngày đại lễ 18/5 không thấy họ bủa lực lượng canh giữ. Chỉ thấy một vài tên an ninh thụp ló rình trước nhà. Tôi nghĩ rằng năm nay csVN đang đàm phán để gia nhập TPP và chuyến viếng thăm Mỹ sắp tới nên họ tôn trọng nhân quyền, để cho PGHH Thuần túy tự do tổ chức ngày lễ  này.

Tại tỉnh Đồng Tháp, cụ Nguyễn Văn Điền Phó hội trưởng GHTƯPGHH Thuần túy, sáng nay vừa ra khỏi nhà, bọn chúng áp tải ông trở lại.

Ông  Nguyễn Văn Thơ  Hội trưởng tỉnh Đồng Tháp và ông Nguyễn Văn Thiết phó hội trưởng đều chung hoàn cảnh, bọn côn an chặn đường tại địa phương không cho đi.

Ông Nguyễn Văn Thiết bức xúc cho biết: công an  tỉnh Đồng Tháp là lũ côn đồ thất học thì phải, chẳng

có dùng luật gì hết.Nhiều phái đoàn đến điểm lễ đều

bị công an tỉnh An Giang đuổi về.Đến 8h sáng nay, một phái đoàn

gần 50 người từ Ô Môn, tp Cần Thơ  và Vĩnh Long, đến gần điểm lễ, đang qua cầu thì bọn chúng đưa các đoàn thể, công an, côn đồ cản lại gây sự.

Nếu như hôm nay các trị sự viên của Giáo hội và Đồng đạo không giữ được bình tĩnh thì có cuộc xô xát xảy ra vì bọn chúng rất hung hăng. Ông Lê Văn Sóc Phó hội

trưởng GHTƯPGHH Thuần túy cho biết. Trước  áp lực của đám công an về số lượng người đông hơn bên PGHH, sau cùng đồng đạo PGHH cầu nguyện tập thể tại chỗ rồi ra về.

Năm nào GHPGHH TT cũng cố gắng quyết tâm tổ chức các ngày lễ, nhưng cường quyền đã dùng mọi thủ đoạn để đàn áp.

Nhóm Phóng viên PGHHTỔ CHỨC KỶ NIỆM NGÀY KHAI ĐẠO, Tín đồ PGHH

Thuần Túy bị đàn áp nặng nề  Ngày 18 tháng 5 Âm Lịch hàng năm là LỄ KỶ NIỆM KHAI ĐẠO của Phật giáo Hòa Hảo. Năm nay, Lễ khai đạo nhằm ngày 3-7-2015.

Ngay từ 8g30 sáng, rất đông tín đồ Phật giáo Hòa hảo Thuần túy các nơi kéo nhau qui tụ về nhà Ông Nguyễn Văn Vinh ở xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang để cùng nhau tiến hành nghi lễ kỷ niệm.

Nhưng lực lực lượng công an của chính quyền địa phương đã xử dụng đông đảo du đãng, côn đồ thẳng tay ngăn trở, đàn áp, không cho đồng bào thi hành tự do tín ngưỡng của Phật giáo Hòa Hảo.Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Công Giáo, Tin Lành, Phât Giáo Thống Nhất là những tôn giáo lớn, chính yếu trong xã hội Việt Nam.

Là thành viên của Liên Hiệp quốc và cũng là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc, đúng lý Việt Nam nên tôn trọng những gì đã ký kết, trong đó có ghi rõ nhiệm vụ phải tôn trọng những nhân quyền căn bản, đặc biệt là tư do tôn giáo.

Việt Nam đang bị Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ đề nghị chính phủ Hoa Kỳ liệt kê vào danh sách Những Quốc Gia Cần Quan Tâm Đặc Biệt (tiếng Anh viết tắt là danh sách CPC).

Hơn nữa, nhân chuyến thăm Mỹ của tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 7-7, mà lại đánh dã man các blogger (Nguyễn Chí Tuyến, Đinh Quang Tuyến), khủng bố trắng nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, đòi đóng cửa Việt Nam Thời Báo, nay lại công khai đàn áp

Số 223 Trang 5

Page 6: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

không cho làm kỷ niệm Lễ Khai Đạo của Phât Giáo Hòa Hảo, có phải đây thực sự là những món quà đảng cộng sản Việt Nam muốn tặng Mỹ để mong được kết nạp làm 1 trong 12 thành viên của Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương (viết tắt tiếng Anh là TPP) do Mỹ chủ xướng?

NC, P/v Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm

Pv Trần Quang Thành (đài Chân Trời Mới): Thưa linh mục Phan Văn Lợi, Đức Thánh cha François có nói rằng: “Người Công giáo có bổn phận phải tham gia chính trị”. Người còn nói: “Chúng ta luôn mang tính cách mạng”. Người lại phân tích một điều rất rõ ràng là: “Các-Mác không sáng tạo gì cả. Cộng sản đánh cắp ngọn cở của chúng ta, ngọn cờ của người nghèo là ngọn cờ của người theo đạo Thiên Chúa. Linh mục hiểu ý nghĩa của những lời nói này của Đức Thánh cha François là thế nào?

Lm Phan Văn Lợi: Kính thưa Quý vị, những lời của Đức Giáo hoàng François liên quan tới một vấn đề rộng lớn: Người Công giáo có nên làm chính trị không và nhất là các Giáo sĩ Công giáo có nên làm chính trị không. Đây là một vấn đề luôn luôn được đặt ra, được tranh cãi ngay giữa lòng Giáo hội Công giáo. Cho nên có lẽ hôm nay là một dịp rất tốt để chúng ta đào sâu vấn đề này.

Chúng tôi xin được trình bày vấn đề qua 3 điểm. Thứ nhất: chính trị là gì. Thứ hai: Giáo sĩ Công giáo và chính trị. Thứ ba: Giáo sĩ Công giáo và hiện tình chính trị Việt Nam.

I- Chính trị là gì ?Theo định nghĩa của tác giả Đào

Duy Anh trong Từ điển Hán Việt: “Gọi chung những việc sắp đặt và thi hành để sửa trị một nước”. Chiết tự hai chữ “chính” và “trị” thì có thể hiểu đó là cai trị cho công minh, cho công chính. Thành ra có những từ liên hệ và đối nghịch là “tà trị, ngụy trị”

Cai trị hoặc giúp cai trị đất nước cho công minh, công chính, theo công lý, công bình, được hòa bình, được phát triển, đó là ước vọng đồng thời là bổn phận của mọi công dân.

Để đạt tới mục tiêu này, thành tựu ước vọng này, chu toàn bổn phận này, thì có hai cách:- Cách thứ nhất: tham gia vào các tổ chức chính trị, các tổ chức công

quyền như các chính đảng, bộ máy nhà nước (gồm quốc hội, chính phủ, tòa án…). Đây là chính trị chuyên nghiệp mà chỉ một số công dân làm được. Người ta còn gọi là chính trị đảng phái. Làm chính trị kiểu này mà không có khả năng và tâm huyết thì dễ tạo ra tranh chấp, phản kháng, có khi thoái hóa thành độc tài, lộng quyền, bạo hành, tham nhũng, đàn áp, bóc lột nhân dân. - Cách thứ hai: lên tiếng về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v… nghĩa là các vấn đề liên quan tới công lý sự thật, nhân quyền dân chủ, phát triển hòa bình của đất nước xã hội để phê phán lên án hoặc để góp ý xây dựng; hoặc tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự để có sức mạnh tập thể mà thúc đẩy đòi buộc các tổ chức chính trị phải làm tốt phận sự của họ. Đây là chính trị công dân mà ai cũng có thể làm và buộc phải làm xét như thành viên xã hội.

II- Giáo sĩ Công giáo và chính trịGiáo sĩ Công giáo cũng là một

thành viên của xã hội, nhưng ngoài ra còn là thành viên của Giáo hội, có nhiệm vụ duy trì hòa bình và hòa hợp giữa mọi người, dựa trên nền tảng công lý (theo Giáo luật năm 1983, điều 287.1). Thành ra Giáo sĩ bị “cấm đảm nhận những chức vụ công quyền bao hàm sự tham gia vào việc hành sử quyền bính dân sự” (GL 285.3), “không được tích cực tham gia vào các đảng phái chính trị, hoặc lãnh đạo các nghiệp đoàn, trừ khi theo phán đoán của nhà chức trách có thẩm quyền trong Giáo hội, việc bảo vệ quyền lợi của Giáo hội và việc cổ vũ công ích đòi hỏi như vậy” (GL 287.2).

Nhưng vì Giáo sĩ cũng là một công dân của đất nước, hơn nữa còn là một lãnh đạo tinh thần, nên hơn ai hết, Giáo sĩ có nghĩa vụ làm chính trị công dân. Nghĩa vụ đó là:- công bố và bênh vực sự thật,- bảo vệ và thực thi công lý,- cổ vũ và thể hiện tình thương,Nhất là khi cả ba giá trị mang tính nhân bản và xã hội này bị cường quyền chà đạp, bị những chế độ độc tài, dối trá, tàn bạo và khinh dân coi thường. Ba nghĩa vụ vừa nói nhiều khi phải được thực thi tới độ tạo nên hiệu quả là thanh toán các chế độ độc tài. Ngoài ra Giáo sĩ còn có bổn phận thúc đẩy, hỗ trợ, hướng dẫn Giáo dân tham gia vào hoạt động chính trị đảng phái, chính trị công quyền, để Giáo

hội góp phần xây dựng xã hội, để đạo ra tay cứu đời, như giáo huấn xã hội xưa rày của Công giáo, hoặc như lời của đức giáo hoàng Phan-xi-cô mới đây trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 183 và 205.

Lịch sử thế giới và lịch sử Giáo hội Công giáo thế kỷ 20-21 đã ghi nhận nhiều trường hợp Giáo sĩ làm chính trị công dân:

* Trước hết là Đức Giáo hoàng Pi-ô XI với thông điệp Divini Redemp-toris (Đấng Cứu Chuộc Thần Linh) ban hành từ năm 1937 nhằm kết án chủ nghĩa và chế độ CS với một cái nhìn mang tính tiên tri sáng suốt và một cung giọng mang tính ngôn sứ mạnh mẽ. Đức Giáo hoàng Pi-ô XII thì có những thông điệp truyền thanh kết án các chế độ CS, nhất là tại Hoa lục của Mao Trạch Đông. Và ngay từ năm 1949, Đức Giáo hoàng Piô XII còn ra sắc chỉ cấm tín hữu Công giáo cộng tác với các tổ chức Cộng sản và phạt vạ tuyệt thông bất cứ người Công giáo nào gia nhập đảng CS.

* Tại châu Mỹ latinh, các Giám mục một đàng lên án nền thần học giải phóng vốn chủ trương xóa bỏ các bất công xã hội tại Nam Mỹ theo kiểu cách Mác-xít (trong số các vị này có đức đương kim giáo hoàng Phan-xi-cô vốn từng là Tổng giám mục thủ đô Buenos Aires của Ác-hen-ti-na), đàng khác các vị còn lên tiếng chống lại các chế độ độc tài quân phiệt và cổ vũ công lý hòa bình. Tiêu biểu có - Tổng Giám mục Oscar Roméro (1917-1980) của El Salvador bị nhà cầm quyền độc tài giết chết và sắp được GH phong lên bậc chân phước. - Tổng Giám mục Helder Câmara (1909-1999) của Bra-xin. Ngài từng bị ám sát hụt, từng được trao giải Nobel song hành năm 1973 do một số tổ chức quốc tế phản đối giải Nobel trao lầm năm ấy cho H. Kissinger và Lê Đức Thọ.

* Tại châu Á thì có - Đức Hồng y Jaime Sin, tổng

giám mục thủ đô Manila Philippin (1928-2005) từng cầm đầu hai cuộc biểu tình nửa triệu dân để lật đổ hai tổng thống tham nhũng là Ferdinand Marcos và Joseph Estrada.

- Đức Giám mục Ximenes Belo (sinh 1948) từng cùng với lãnh tụ José Ramos-Horta của Đông Timor đấu tranh chống lại ách cai trị của Indonesia và được trao giải Nobel Hòa bình 1996.

- Đức Hồng y Joseph Zen (Trần Nhật Quân, sinh 1932), tổng giám mục giáo phận Hong Kong, từng lên tiếng phê phán nhà cầm quyền Hoa lục, và nay tuy về hưu vẫn luôn đấu

Số 223 Trang 6

Page 7: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tranh cho dân chủ tại Hong Kong. * Tại châu Âu phía đông thì có một

loạt hồng y, giám mục từng đứng lên chống lại chế độ Cộng sản vô thần độc tài và bị bách hại khốc liệt:- ĐHY Joseph Mindszenty (1892-1975) của Hung-ga-ri từng phải vào tòa đại sứ Mỹ xin tỵ nạn để khỏi bị trục xuất khỏi nước. - ĐHY Stefan Wyszynski (1901-1981) của Ba-lan- ĐHY Joseph Beran (1888-1969) của Tiệp Khắc.- ĐHY Josyf Slipyj (1892-1984) của Ukraine

Những vị từng đấu tranh chống chế độ và đã thành công thì có - ĐHY Frantisek Tomasek (1899-1992) của Tiệp Khắc. Ngài từng có một bức thư công bố ngày 21-11-1989, trước 200.000 người biểu tình tại Praha và được đọc tại các nhà thờ Chúa nhật 26-11-1989.- ĐHY Karol Wojtyla (1920-2005), Tổng giám mục Krakow của Ba Lan, sau này trở thành Giáo hoàng Gioan-Phaolô 2, người được lịch sử xem như một trong 3 nhân vật chính thanh toán chế độ CS Đông Âu.

III- Giáo sĩ và tình hình chính trị Việt Nam.

Tại VN, chế độ CS vô thần toàn trị độc tài đã bao trùm miền Bắc từ năm 1954 và cả nước từ năm 1975. Các Giáo sĩ Công giáo đã chịu chung số phận với toàn dân và cũng đã nhiều lần thực hiện nhiệm vụ chính trị công dân mà theo ngôn ngữ Công giáo là thực hiện vai trò chứng nhân, tác nhân và ngôn sứ cho Thiên Chúa, cho công lý và sự thật.

* Chịu bách hai thì có:- ĐHY Giu-se Maria Trịnh Như Khuê, Tổng giáo phận Hà Nội, bị quản thúc nhiều năm trong tòa giám mục.- ĐHY Phan-xi-cô Xa-vi-e Nguyễn Văn Thuận, TGP Sài Gòn, bị cầm tù và quản thúc 13 năm, sau đó bị trục xuất khỏi nước.- TGM Phi-lip-phê Nguyễn Kim Điền, TGP Huế, bị quản thúc rồi bị đầu độc cho đến chết.- TGM Giu-se Ngô Quang Kiệt, TGM Hà Nội, bị đẩy khỏi ngai tòa Hà Nội và đang như bị quản thúc giam lỏng tại tu viện Châu Sơn, Ninh Bình.- GM Phê-rô Phạm Ngọc Chi, Giáo phận Đà Nẵng, bị đầu độc đến điên loạn. - GM Gioan Phan Đình Phùng, GP Phát Diệm và GM Giu-se Phan Văn Hoa, GP Quy Nhơn, nghi bị đầu độc mà chết.- GM Nguyễn Quang Tuyến, GP Bắc Ninh, GM Nguyễn Huy Mai, GP Ban Mê Thuột, GM Hoàng Đức Oanh, GP

Kontum và nhiều vị khác bị gây khó dễ trong việc mục vụ.- Linh mục thì cũng có nhiều vị bị bách hại. Nổi tiếng nhất là linh mục Nguyễn Văn Vinh, Tổng đại diện TGP Hà Nội, bị giam cầm đến chết tại trại Cồng Trời. Linh mục Phạm Hân Quynh, GP Hải Phòng, bị quản thúc nhiều năm. Ba linh mục trong Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền bị cầm tù nhiều năm….- Nhiều tu sĩ và giáo dân cũng bị cầm tù nhất là ở miền Bắc trước 1975.

* Lên tiếng thì có:- Thư chung của các Giám mục Đông Dương, trong đó có 5 GMVN, cảnh báo về chế độ Cộng sản năm 1951.- Thư Chung về vấn đề Cộng sản vô thần của Các Đức Giám mục Miền Nam năm 1960.- Thư góp ý với Nhà nước năm 1991 của ĐGM Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, về tình hình xã hội và Giáo hội.- Thư ĐHY Quốc vụ khanh Angelo Sodano gởi ĐGM Chủ tịch Hội đồng GMVN năm 1992 cấm các linh mục tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo. - Kiến nghị của HĐGM/VN năm 1992 gởi Thủ tướng về các khó khăn của Giáo hội.- Thư ngỏ của HĐGM VN gởi cho các Cơ quan Lập pháp của Nhà nước Việt Nam tháng 10-2002 yêu cầu xóa giảm những khuyết tật hiện hữu của xã hội và phát huy những giá trị nhân bản.- Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay tháng 09-2008- Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp tháng 03-2013- Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam về tình hình Biển Đông tháng 05-2014.- Và mới đây nhất là bản lên tiếng của HĐGMVN về Dự thảo Luật tôn giáo và tín ngưỡng.

Ngoài sự lên tiếng của các Giám mục nói trên, chúng ta còn thấy sự lên tiếng của nhiều linh mục tại VN. Trước hết có Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền mà từ khi xuất hiện vào năm 2001 cho tới hôm nay đã có trên 100 văn bản về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, dân sự tại đất nước. Rồi là hoạt động của Dòng Chúa Cứu Thế. Chúng ta biết rằng từ bao năm nay, DCCT Việt Nam đã nổi lên như là một tổ chức bênh vực cho công lý, cho nhân quyền; và họ đã có nhiều hoạt động trong chiều hướng đó. Ví dụ trang mạng “Truyền thông Chúa Cứu Thế” và nay là trang mạng “Tin Mừng cho người nghèo”, đăng lên tất

cả những tin tức, nhận định về các vấn đề xã hội, chính trị tại VN. Các cha DCCT, vào cuối mỗi tháng, có Thánh lễ cầu cho công lý hòa bình tại nhà thờ DCCT Thái Hà cũng như nhà thờ DCCT Sài Gòn, với những bài giảng sấm sét khiến các khán giả, các người tham dự lấy làm thích thú và cảm thấy các cha đã nói thay cho họ. Các vị lại thiết lập văn phòng Công lý hòa bình để cứu giúp các nạn nhân của chế độ, cụ thể là các dân oan bị cướp đất, các thương phế binh VNCH bị đọa đày. Ngoài ra còn có những video clip phổ biến trên mạng để cấp thời lên tiếng báo động về những vấn đề của đất nước, như của Tv Đức Mẹ, Cà Phê Tối. Ngoài ra còn nhiều hoạt động khác nữa. DCCT đã ý thức được vai trò ngôn sứ của hàng Giáo sĩ, Tu sĩ nên đã đứng ra làm những việc đó. Chúng ta mong rằng công việc đó vẫn tiếp tục dài dài, mặc dầu trước mắt có vài hoạt động xem ra bị chững lại.

Đấy là những trường hợp thực hiện vai trò ngôn sứ của các Giáo sĩ Công giáo tại VN. Giáo sĩ đây, chúng ta hiểu là các Hồng y, các Giám mục và các Linh mục.

Nhưng có một điều trái khoáy tại VN, đó là lại có những linh mục tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo, tham gia Mặt trận Tổ quốc là cơ quan ngoại vi của đảng CS. Đã có những vị linh mục làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng ND tỉnh huyện và điều đó trái với giáo huấn của Giáo hội Công giáo nói chung và Giáo hội Công giáo VN nói riêng. Những vị này đúng là làm chính trị nghịch với nguyên tắc cấm hàng giáo sĩ “đảm nhận những chức vụ công quyền bao hàm sự tham gia vào việc hành sử quyền bính dân sự” và là một thứ chính trị tồi tệ bởi vì họ phục vụ cho chế độ Cộng sản. Chính vì thế Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, tháng 05-2011, đã gởi lên các Giám mục Việt Nam thư phản đối việc các Linh mục ứng cử đại biểu Quốc hội Cộng sản, và tháng 5-2014, đã ra tuyên bố lên án Ủy ban Đoàn kết Công giáo.

Pv TQT: Lm vừa đề cập đến truyền thống làm chính trị vì dân vì nước của các vị Giáo sĩ. Truyền thống này đâu phải mới có mà đã có nhiều năm rồi. Linh mục đánh giá thế nào về sự đóng góp đó của các Giáo sĩ Công giáo đối với đất nước VN chúng ta trong những năm vừa qua?

Lm PVL: Thưa Quý vị, vai trò của các Giáo sĩ Công giáo kể từ Hồng y, Giám mục, Linh mục là làm chứng cho Thiên Chúa và bênh vực cho con người, bênh vực các quyền lợi của

Số 223 Trang 7

Page 8: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Thiên Chúa và bênh vực các quyền lợi của con người. Vì vậy chúng ta thấy các vị Giáo sĩ tại VN vẫn luôn luôn thao thức để làm sao công bố sự thật, bênh vực công lý, bảo vệ nhân quyền, che chở những người bị áp bức và góp phần để canh tân xã hội, vì cái đó nằm trong sứ mạng cứu đời, nằm trong sứ mạng đổi mới trần gian mà các Giáo sĩ đã nhận từ Phúc Âm, từ Chúa Giê-su Ki-tô và phải làm cho dù phải gặp bao nhiêu khó khăn và trắc trở. Nhiều người không biết, cho rằng Giáo hội chen mình vào chính trị. Nhưng như chúng tôi đã trình bày, chính trị đây không phải là chính trị đảng phái (mà các Giáo sĩ không được làm) song là làm chính trị công dân, làm chính trị của một thành viên trong xã hội và của một con người có trách nhiệm đối với sự hung vong của Tổ quốc, sự phát triển hay suy bại của đất nước. Điều đó không có gì lạ cả! Điều đó nằm trong chức năng “lãnh đạo tinh thần” và “ngôn sứ” của mọi Giáo sĩ tại VN.

Pv TQT: Thưa Lm, tất cả những gì Lm vừa trình bày ở trên đã đi đến chỗ khẳng định rằng Giáo sĩ không chỉ làm phận sự đối với Đức Chúa, mà còn phải làm bổn phận một công dân. Vậy trong những bổn phận như vậy, các Giáo sĩ có thấy tự hào khi mình làm việc gì có ích, và có biết rõ việc gì có hại cho đất nước không ạ?

Lm PVL: Dĩ nhiên các Giáo sĩ phải luôn tự vấn, xem mình đang làm gì cho đất nước, đang làm gì cho đồng bào. Mà chúng ta biết rằng đất nước VN, đồng bào VN đang ở dưới sự cai trị của một chủ nghĩa phi nhân, một chế độ tàn bạo, của một chính đảng bất tài và bất lực. Cho nên các Giáo sĩ cần thấy rằng phải làm sao cho chủ nghĩa ấy không còn đầu độc tâm trí con người, chế độ ấy –chế độ Cộng sản- không còn hoành hành trên đất nước, và cái đảng CS vốn đã bao nhiêu năm chứng tỏ chỉ có sai lầm, tội ác và thất bại phải ra đi. Dĩ nhiên các Giáo sĩ sẽ không trực tiếp làm việc này, nhưng sẽ thúc đẩy các Giáo dân –Giáo dân Công giáo- làm công việc đó, bắt chước các vị lãnh đạo tinh thần bên Đông Âu đã huy động tín hữu của mình giật sập, làm cách mạng xóa bỏ các chế độ CS tại Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Lat-via, Estonia và rất nhiều nước khác nữa.

Còn những vị giáo sĩ nào bây giờ vẫn tiếp tục cộng tác với chế độ trong Ủy ban Đoàn kết, trong vai trò dân biểu chậu cảnh, bù nhìn, hoặc trong vai trò thành viên các Hội đồng nhân dân nhằm củng cố chế độ CS này, thì thật sự họ đang làm hại cho đất

nước, đang gây khốn cho đồng bào.Nhân cơ hội này, chúng tôi xin nói

rằng sắp tới đây sẽ có cuộc bầu cử Quốc hội thứ 13 của CS. Trong những lần bầu cử trước đây, rất nhiều linh mục trong đó có chúng tôi đã từ chối đi bầu, vì cho rằng đó là một sự cưỡng bức, sự lừa gạt, sự vô ích. Cho nên lần tới đây, chúng tôi cũng mong rằng các Giáo sĩ phải làm gương, phải tẩy chay những cuộc bầu cử kiểu “Đảng cừ dân bầu”, bởi vì lương tâm một Giáo sĩ không cho phép làm điều đó. Còn những ai đi bầu, nhất là các Giáo sĩ tham gia vào cuộc bầu cử sắp tới để làm cho Quốc hội của CS tiếp tục tồn tại, thì đó là làm 1 hành vi chính trị tồi tệ, sẽ đem lại nguy cơ tiếp tục cho đất nước.

Pv TQT: Xin chân thành cảm ơn

linh mục Phan Văn Lợi. Trong khi cả thế giới đang theo

dõi chuyện kinh tế nước Hy Lạp, ít người để ý chuyện dân Trung Hoa vừa mới mất 2,360 tỷ đôla trong thị trường chứng khoán. Số thiệt hại trong vòng ba tuần lễ lớn bằng 35% tổng sản lượng nội địa nước Trung Quốc và lớn gấp 10 lần GDP của Hy Lạp.

Quý vị độc giả người Việt có thể “bình chân như vại” vì chẳng mấy ai đang làm chủ các cổ phiếu ở Thượng Hải hay Thẩm Quyến. Khác với các thị trường New York hay London, trong tổng số cổ phiếu tại thị trường Trung Quốc, người ngoại quốc chỉ làm chủ 1.5%. Trong ngày 3-7-2015, thị trường Thượng Hải lên xuống lung tung, một phút lên 5% rồi phút sau xuống 6%, vào cuối ngày đã mất 6%.

Ngày 12-06, thị trường Thượng Hải lên cao nhất trong bảy năm, hôm nay đã giảm mất 29% giá trị, thị trường Thẩm Quyến mất 32%. Tại sao các cổ phiếu Trung Quốc lại xuống nhanh như vậy? Lý do chính là nó đã lên quá nhanh một cách bất thường, Thượng Hải tăng thêm 40% và Thẩm Quyến tăng hơn 90% từ đầu năm cho tới khi sụt giá.

Giá cổ phần thường tăng lên khi lợi nhuận của các công ty cũng như triển vọng sản xuất trong nước tốt

đẹp hơn. Nhưng kinh tế Trung Quốc hiện nay yếu nhất kể từ năm 2009, khi chính phủ Bắc Kinh bơm thêm 800 tỷ đôla kích thích. Triển vọng phát triển trong các năm tới cũng xuống thấp so với mười năm trước. Trong khi đó, lợi nhuận của các công ty trong nước đã sút giảm.

Nghĩa là cổ phiếu ở Trung Quốc đã tăng giá một cách bất thường, tất cả là do các nhà đầu tư hy vọng vào các kế hoạch kích thích của nhà nước để cứu vãn thị trường. Mối hy vọng của giới đầu tư là một ảo ảnh. Nhiều người đã chuyển tiền từ thị trường địa ốc đang suy yếu sang thị trường chứng khoán, đẩy cho giá cổ

phiếu lên cao. Trong tháng 12 năm ngoái, 700,000 người mở trương mục mới mua cổ phiếu. Ðến giữa Tháng 04 trong một tuần lễ có thêm tới bốn triệu trương mục mới, theo số liệu của công ty nghiên cứu BlackRock. Với nhiều người mới tham gia vào thị trường, số hoạt động mua bán cũng tăng rất nhanh, một trạng thái không bình thường.

Bình thường, trị giá tổng số các cổ phiếu đổi tay trong một năm vẫn lớn hơn giá trị tất cả các cổ phiếu ghi tên. Khi thị trường khủng hoảng, số đổi tay tăng lên bất thường. Ở Mỹ, năm 2008 lúc cơn khủng hoảng tài chánh lên cao nhất, số cổ phiếu đổi tay lớn bằng bốn lần giá trị trung bình của tất cả các cổ phiếu ghi tên, gọi là “vòng quay” (turnover) 400%. Trong năm 2011 và 2012, tỷ lệ “vòng quay” ở Trung Quốc là 180% và 160%, còn ở Mỹ là 178% và 124%, theo thống kê của Ngân hàng Thế giới. Hiện tượng lạ lùng diễn ra ở Trung Quốc gần đây là các cổ phiếu mua đi bán lại nhiều quá, trị giá số cổ phiếu đổi tay trong một tháng lớn gấp 6 lần trị giá của cả thị trường, theo tài liệu của Ngân hàng Credit Suisse.

Nhưng mối lo lớn nhất trong thị trường chứng khoán Trung Quốc là càng ngày càng nhiều người vay nợ để đầu tư, gọi là “margin trading

Số 223 Trang 8

Page 9: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

accounts”. Vì lãi suất khi vay tiền rất thấp so với hy vọng lợi suất cao khi đem tiền mua cổ phiếu. Số trương mục vay nợ để đầu tư đã tăng 86% trong năm 2014, theo Oxford Economics. Mối nguy hiểm ẩn tàng là khi người vay nợ mua một số cổ phần rồi giá các cổ phần đó xuống, họ phải lo trả bớt nợ theo luật định. Họ sẽ phải bán các cổ phần của mình ngay để có tiền trả, kéo theo các cổ phần khác cùng xuống. Ðó là một lý do nữa khiến các thị trường Thượng Hải hay Thẩm Quyến mất gần một phần ba giá trị trong mấy tuần lễ qua.

Ai là người đã mất tiền ? Rất nhiều ngân hàng, xí nghiệp và doanh nghiệp nhà nước mua cổ phiếu, nhưng những người mất tiền nặng nhất là các nhà đầu tư nhỏ, gọi là “mua lẻ”. Chỉ có 10% đến 12% người dân Trung Hoa làm chủ các cổ phần. Những người mua lẻ cũng là nhóm hay đi vay nợ để mua. Họ tiết kiệm nhưng không muốn gửi tiền vào các ngân hàng của nhà nước vì lãi suất thấp quá. Họ cũng có máu cờ bạc, và lại tin tưởng rằng nhà nước thế nào cũng bảo vệ giá trị các thị trường chứng khoán.

Nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa hoàn toàn thị trường hóa, phần lớn còn nằm trong tay nhà nước, tức là trong tay đảng Cộng sản. Nhiều nhà đầu tư thuộc gia đình giới cầm quyền giàu có, sẵn tiền mà không thích kinh doanh. Cho nên chính quyền nâng giá các cổ phiếu cũng là giúp bảo vệ tài sản của các đảng viên cao cấp. Cuối tuần trước, Ngân hàng Trung ương (Nhân dân Ngân hàng) đã nới lỏng tiền tệ để kích thích đầu tư, vừa cắt lãi suất lần thứ tư trong năm, vừa giảm bớt số tiền mà các ngân hàng thương mại phải dự trữ theo luật định. Ngày Thứ Năm, Sở Chứng khoán lại bãi bỏ một điều lệ có mục đích ngăn chặn việc vay tiền quá nhiều khi mua cổ phiếu. Trong khi đó, đáng lẽ phải đặt ra các điều kiện gắt gao hơn mới cản bớt được các tay đầu cơ liều lĩnh vay tiền mua cổ phiếu.

Ngoài các biện pháp tiền tệ, chính phủ Bắc Kinh còn dùng các

thủ đoạn “phi tài chánh” để giữ giá và đẩy giá chứng khoán lên cao. Bắc Kinh mới loan tin sẽ cho phép các quỹ hưu bổng công chức địa phương được mua các cổ phiếu, tức là đầu tư tiền hưu bổng vào các chứng khoán nhiều rủi ro hơn. Tức là nâng giá thị trường bằng một bản tin! Nhưng suốt mấy tháng qua, các báo, đài do đảng Cộng sản kiểm soát đã đưa ra những tin tức và bình luận về tương lai tốt đẹp của thị trường chứng khoán, một cách thúc đẩy các nhà đầu tư lẻ mua cổ phiếu. Trong ngày Thứ Ba, 30-06 vừa qua, trong lúc thị trường đã tụt giảm hơn hai tuần, trang mạng Thepaper.cn đã cho chiếu một hoạt họa hình một bà lên tiếng cảm ơn nhà nước đang hỗ trợ thị trường chứng khoán. Bà này cũng tố cáo “các thế lực thù địch ngoại quốc” đang ngấm ngầm phá thị trường chứng khoán Trung Quốc! Trang Thepaper.cn do đảng Cộng sản chỉ huy, có nội dung nhắm vào giới trẻ. Phim hoạt họa này lập tức được truyền đi trên các mạng nhiều người vào nhất là Weibo và WeChat. Nhiều công dân mạng đã hùa theo, chỉ trích “bàn tay ngoại quốc can thiệp”, trong đó tên của công ty đầu tư Mỹ Goldman Sachs đã được nêu ra.

Cũng trong ngày Thứ Ba, Hiệp hội các Quỹ Ðầu tư Trung Quốc, một cơ quan do chế độ đảng Cộng sản cầm đầu, công bố một thư ngỏ kêu gọi các quỹ đầu tư hãy đoàn kết cùng nhau giúp ổn định thị trường! Nói cách khác, họ khuyến khích mọi người Trung Hoa hãy ngưng bán các cổ phiếu, và hãy mua, vì lòng yêu nước! Với các hành động khuyến khích rầm rộ này, chỉ số các thị trường đã tăng lên bất ngờ, được một thời gian, nhưng không kéo dài.

Ðảng Cộng sản Trung Quốc đã dùng một thủ đoạn quen thuộc, là mỗi khi gặp khó khăn lại đổ tội cho “bàn tay ngoại quốc”. Bộ máy kiểm duyệt của Bắc Kinh đã làm ngơ cho những tin đồn đại trên được lưu hành, phổ biến trên mạng Internet hơn một ngày. Theo tin Reuters thì phải đợi tới chiều Thứ Tư, Bắc Kinh mới xác định rằng không hề

có chuyện công ty Goldman Sachs hoặc các nhà đầu tư ngoại quốc nào đã lũng đoạn thị trường Trung Quốc! Hoàn Cầu Thời Báo viết rằng “Vốn ngoại quốc chỉ đóng vai một phần nhỏ trong cả thị trường. Không có dấu hiệu nào cho thấy người ngoại quốc bán ‘short,’ tức là mượn cổ phiếu để bán trong khi chờ thị trường xuống giá”.

Những nhà đầu tư lẻ chiếm 80% các hoạt động mua bán cổ phiếu, khác hẳn với thị trường Mỹ, nơi hơn 80% các vụ mua bán trong thị trường là do các công ty tài chánh lớn với số vốn hàng tỷ đôla. Nhiều người đầu cơ vay tiền mua cổ phiếu để đẩy giá lên, chờ đến ngày bán tháo chạy trước khi giá xuống. Trên thị trường có loại các cổ phiếu A chỉ các công dân Trung Quốc mới được mua, loại này lên giá cao nhất khiến cho giá một cổ phần lớn gấp 50 đến 100 lần lợi nhuận đã đạt được trong năm trước, tiếng nhà nghề gọi là tỷ số P/E (Price/ Earnings). Cùng thời gian đó, tỷ số P/E của những cổ phần khác chỉ lên tới 10 lần.

Dù chỉ có dưới 10% dân Trung Hoa tham dự thị trường chứng khoán, nhưng con số cũng lên tới hàng trăm triệu. Hiện nay nhiều nhà đầu tư mất tiền đã coi chính đảng Cộng sản chịu trách nhiệm, vì đảng đã khuyến khích người dân đi mua cổ phiếu. Hàng chục triệu các nhà đầu tư lẻ đã mất tiền và có thể đã mất hết những món tiền dành dụm suốt đời. Ðây là một rủi ro chính trị cho cả đảng CS vì những người này cũng thuộc giai cấp trung lưu xưa nay vẫn ủng hộ đảng. Họ không những oán trách đảng Cộng sản để cho thị trường sụp đổ khiến họ mất tiền, mà còn oán đảng đã khuyến khích họ bỏ tiền vào một “sòng bạc” là thị trường chứng khoán.

Trong tuần tới, trước khi thị trường mở cửa, đảng CS Trung Quốc sẽ đưa ra nhiều biện pháp trấn an và nâng giá thị trường. Nói cách khác, họ sẽ bơm thêm hơi vào một trái bóng mong manh, có thể chỉ còn chờ tới ngày trái bóng nổ lớn hơn. Trong khi chờ đợi, Bắc Kinh

Số 223 Trang 9

Page 10: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

sẽ mở cuộc điều tra để truy tố một số người đầu cơ thị trường để tìm ra người chịu tội thay cho đảng CS.

Vụ sút giảm của thị trường Trung Quốc sẽ không ảnh hưởng lớn đến kinh tế thế giới. Thứ nhất, dù số người mất tiền sẽ bớt chi tiêu nhưng họ chỉ bớt mua các món hàng xa xỉ, cho nên nói chung, số tiêu thụ của hơn một tỷ người Trung Hoa sẽ không thay đổi. Hơn nữa, giá cổ phiếu tụt giảm lần này là một hiện tượng tự nhiên, đã được giới đầu tư quốc tế chờ đợi. Khi nền kinh tế một nước giảm bớt tốc độ tăng trưởng và các doanh nghiệp cũng bớt kiếm lời thì không có lý do nào để thị trường chứng khoán tăng lên hàng 40% hay 90% như ở Thượng Hải và Thẩm Quyến trong sáu tháng qua. Ngày Thứ Sáu, thị trường chứng khoán Hồng Kông cũng xuống theo lục địa nhưng nhẹ hơn nhiều, còn các thị trường Mỹ và Châu Âu chỉ mất từ 0.1% đến 0.4%.

Nhưng ông Tập Cận Bình sẽ còn lo. Bắc Kinh đã tìm đủ cách để giữ giá các cổ phiếu mà không quan tâm đến hậu quả lâu dài. Theo tiên đoán của Oxford Economics, một công ty nghiên cứu, thì giá chứng khoán ở Trung Quốc sẽ giảm thêm chừng 35% nữa mới vào thế quân bình, phản ảnh đúng tình hình kinh tế. Tức là giới đầu tư Trung Quốc có thể sẽ mất hơn một ngàn tỷ đôla nữa. Trong lúc đang lo củng cố quyền hành, như vụ đưa tập đoàn Chu Vĩnh Khang ra tòa về tội tham nhũng mới đây, chắc Tập Cận Bình không muốn thấy thị trường giảm sút thêm nữa, tạo cơ hội cho các đối

thủ chính trị có cơ hội phản công, lật ngược thế cờ.

Cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa (TH) có thể đã và đang xảy ra, nhanh chóng hơn tất cả những tiên đoán từ trước đến nay! Những diễn tiến dồn dập xảy đến trong khoảng thời gian gần đây cho thấy Hoa Kỳ đã sửa soạn cho một bối cảnh xung đột với TH và có thể đã cho bắt đầu một chiến dịch để triệt hạ quốc gia đối thủ

là TH, càng ngày càng ra mặt để khiêu khích Hoa Kỳ, bất chấp hậu quả!

Cuộc chiến tranh này không bắt đầu bằng những đụng độ quân sự qui ước như những chiến tranh trước đây trong lịch sử, nhưng khởi sự bằng kinh tế và đặc biệt bằng cyberwarfare, chiến tranh vi tính! Và những biến chuyển của tuần lễ vừa qua, đặc biệt là sự sụp đổ thị trường chứng khoán của TH, đã đưa đến nghi vấn có phải Hoa Kỳ đã bắt đầu chiến lược triệt hạ TH về mặt kinh tế bằng cách nhúng tay vào việc sụp đổ thị trường chứng khoán này của TH?

Ngày thứ sáu 3 tháng 7 vừa qua, chỉ số về stock của TH là Shangai Composite Index mất đi 5.8% đứng ở mức 3687. So với ngày 12 tháng 6, chỉ số này đứng ở mức 5166, có nghĩa chỉ trong vòng 3 tuần lễ, stock của TH đã mất đi 29% giá trị. Sự sụp đổ nhanh chóng này đã làm mất đi 2.7 trillion tức 2700 tỷ Mỹ kim giá trị của chứng khoán TH. Và sự mất mát này đã đổ trên đầu của hàng trăm triệu gia đình dân Tàu, mấy năm nay đã đổ xô như điên cuồng vào việc chơi stock để làm giàu nhanh chóng, nay mất hết cơ nghiệp và tài sản vì sự sụp đổ này! 

Thị trường chứng khoán Shangai có 112 triệu trương mục, thị trường chứng khoán tại Shenzhen có 142 triệu trương mục. Chỉ trong mùa xuân năm 2015, mỗi thị trường đã có thêm 20 triệu accounts do dân Tàu nhảy vào chơi stock! Khác với Hoa Kỳ, hiện nay cá nhân ít chơi stock, tại TH 4/5 các trương mục trên thị trường chứng khoán hai nơi là của tư nhân, do dân Tàu giới trung lưu có ít tiền vốn để dành nhảy vào chơi stock kiểu đánh bạc, ăn thua đủ! Nay với stock sụp, cả trăm triệu người mất tiền hay sạt nghiệp. Trường hợp này còn lớn lao hơn thời sụp đổ của Wall Street

thập niên 30’s dẫn dắt đến tai họa Great Depression cho Hoa Kỳ và toàn cầu.

Lý do thiệt hại nặng là dân Tàu chơi stock kiểu margin rất nhiều, có nghĩa đi vay để chơi stock, chỉ cần bỏ ra 10–20% vốn, phần còn lại đi vay của ngân hàng hay công ty đầu tư. Khi stock lên, chơi kiểu margin này lời lớn. Nhưng khi stock xuống, sẽ bị trường hợp gọi là margin call, khi giá trị stock xuống nhiều và nhanh, công

ty đầu tư sẽ bắt châm thêm tiền vào, nếu không có, sẽ đương nhiên bị bán số stock đang có và tiền vốn bỏ ra lúc đầu sẽ mất sạch! Như thế, chơi stock kiểu đi vay margin rất nguy hiểm và như tuần lễ vừa qua tại Thượng Hải, khi stock đã mất đi gần 1/3 giá trị, hàng trăm triệu dân Tàu chơi stock kiểu margin này mất hết, tán gia bại sản!

Trong ba tuần lễ qua, Ngân hàng Trung ương tại Bắc Kinh đã tìm cách cứu thị trường chứng khoán Tàu bằng cách hạ lãi xuất, giảm bớt luật lệ hạn chế v.v… nhưng không đi đến đâu. Các công ty lớn của TH cũng tung tiền vào để mua stock nhằm giữ giá trị và Hiệp hội Chứng khoán của TH, do chính quyền kiểm soát, cũng dự định sẽ tung tiền vào đến mức 120 tỷ nhân dân tệ hay renminbi, tương đương với 19.4 tỷ Mỹ kim. Nhưng con số này được coi là quá ít ỏi, khó lòng làm thị trường chứng khoán tại Thượng Hải và tại Shenzhen đứng vững được. Có thể sẽ lên được vài ngày nhưng nhiều phần sẽ tiếp tục đi xuống.

Một trong những lý do stock của Tàu xuống nhiều và nhanh như vậy vì các công ty đầu tư đổ xô vào để bán short – selling, tức vay tiền để bán stock đi. Khi giá xuống nhiều sẽ mua lại để trả cho chủ nhân và kiếm lời bằng tiền sai biệt. Với kiểu bán stock short này, các công đầu tư kiếm lợi nhiều và làm giá xuống còn nhanh hơn!

Chính quyền Tàu hiện đang la hoảng vì short selling này của các công ty đầu tư ngoại quốc, đặc biệt là của Hoa Kỳ. Công ty đầu tư của Wall Street bị vạch mặt chỉ tên là Morgan Stanley, đã dùng phương cách short selling để kiếm lời tối đa. Nhưng câu hỏi sau hậu trường là các công ty đầu tư của Hoa Kỳ đã có sự khuyến khích hay giúp đỡ nào không của chính quyền Obama để lũng đoạn thị trường chứng khoán TH, cũng như làm tình trạng trở nên tồi tệ hơn, gây ra sụp đổ toàn diện cho stock market của TH?

Dĩ nhiên tình trạng thị trường chứng khoán của TH sụp đổ là chuyện không sớm thì muộn cũng xảy ra. Lý do là kinh tế TH đã chậm đi nhiều, mức tăng trưởng trước kia từ 15–20%, nay chỉ còn 7% và năm nay 2015 sẽ còn xuống nhiều hơn. Với quả bóng địa ốc vỡ tan, khi các thành phố xây cất thành thành phố ma, các mall vĩ đại không một bóng người, các building xây cất bỏ không vì không có ai thuê, kinh tế TH đang sụp đổ. Nhưng chỉ vì chính quyền Cộng

Số 223 Trang 10

Page 11: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

sản tìm đủ cách để ém nhẹm và bịp bợm các nhà đầu tư ngoại quốc, hậu quả của quả bóng địa ốc vỡ nổ chưa lan rộng lắm. Nhưng kế tiếp cho sự tan vỡ kinh tế của TH chính là thị trường chứng khoán như việc sụp đổ trong ba tuần lễ vừa qua, chính quyền TH không che giấu nổi!

Có thể nói thời điểm cho thị trường chứng khoán của TH tan vỡ đã chín mùi, bắt buộc phải xảy ra kế tiếp cho quả bóng địa ốc vỡ tan. Và các công ty đầu tư Wall Street đã đánh hơi và tính toán đúng để nhảy vào lũng đoạn và giúp cho thị trường chứng khoán Tàu sụp nhanh hơn bằng kiểu short selling! Nhưng bàn tay của chính quyền Hoa Kỳ có thể đứng đằng sau giật dây là chuyện nhiều phần đã xảy ra! Lý do là gần đây chính quyền Obama đã hứa hẹn là sẽ trả đũa TH về tội dùng hacking để lấy tài liệu cá nhân của hơn 4 triệu nhân viên làm việc trong chính quyền. Và tuy không nói ra, chính quyền Obama có thể đã dùng việc hacking vào chính các cơ sở của TH và tại thị trường chứng khoán Thượng Hải để giúp cho thị trường stock này của Tàu sụp nhanh hơn?!!

Một khi quả bóng địa ốc vỡ tan và thị trường chứng khoán bị sụp, kinh tế sẽ đi vào suy thoái nặng nề. Trường hợp Nhật Bản thập niên 80’s đã có kinh nghiệm này và mất đến hơn 20 năm vẫn chưa ra khỏi được suy thoái. Dĩ nhiên các chiến lược gia của Hoa Kỳ cũng hy vọng lịch sử sẽ tái diễn với TH đi vào suy thoái nặng và mất đi tiềm năng kinh tế với việc sụp đổ vừa qua. 

Trong chiến lược kinh tế tầm xa hơn, chính quyền Obama đã thành công khi cả 2 viện tại Quốc hội đã thông qua luật để Obama thương thảo nhanh chóng cho Thỏa ước Mậu dịch Thái Bình Dương TPP, Trans Pacific Partnership. Đây là đòn để triệt hạ kinh tế TH về lâu về dài, với Hoa Kỳ và các nước Thái Bình Dương khác, trong đó có Việt Nam, trao đổi mua bán với nhau và gạt hẳn TH ra ngoài!

Điểm quan trọng của Thỏa ước Mậu dịch TPP này là Hoa Kỳ đã nhắm vào Việt Nam. Lý do là trong 12 quốc gia hợp thành tổ chức mậu dịch này, quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất về mậu dịch và đầu tư là Việt Nam. Và Hoa Kỳ đã dùng việc thông qua thoả ước mậu dịch TPP, hy vọng sẽ hoàn tất vào năm đến để tách rời Việt Nam ra khỏi quĩ đạo của TH và thành đồng minh của Hoa Kỳ.

Lý do để Hoa Kỳ mong muốn và tìm đủ cách để kéo Việt Nam từ bỏ

chuyện đi hàng đôi và trở thành đồng minh với Hoa Kỳ nằm trong hai chữ: Cam Ranh! Trong chiến lược kiềm tỏa TH về mặt quân sự, vị thế đặc biệt của Cam Ranh nắm giữ tầm quan trọng bậc nhất với Ngũ Giác Đài. Phi Luật Tân đã mong muốn Hoa Kỳ trở lại Subic Bay tái lập căn cứ quân sự tại đây, nhưng Subic Bay không thể sánh với Cam Ranh về vị thế chiến lược hàng đầu được.

Một căn cứ quân sự của Hoa Kỳ tại Cam Ranh sẽ trấn áp được hạm đội tiềm thủy đĩnh nguyên tử của TH hiện đang đặt tại đảo Hải Nam. Hải

quân Hoa Kỳ ở Cam Ranh sẽ giữ cho biển Đông tự do giao thông, không e dè gì về việc TH đang cho xây cất các hòn đảo nhân tạo làm phi đạo và thiết lập các căn cứ quân sự trên quần đảo Hoàng Sa, kiểm soát toàn thể vùng biển Đông. Hơn nữa căn cứ Cam Ranh sẽ giúp cho Hoa Kỳ tạo thành vòng đai nguyên tử bao vây TH với các phi đạn gắn đầu đạn nguyên tử tầm gần loại Pershing như đã đặt tại Âu Châu thời chiến tranh lạnh, không cần đến hoả tiễn liên lục địa bắn đến TH lâu hơn!

Tập Cận Bình đã đi sai một nước cờ khi cho kéo giàn khoan vào hải phận của Việt Nam và tạo nên làn sóng chống Tàu năm ngoái. Việc Hoa Kỳ cho chiếu các video với đài CNN thu hình chuyện TH cho lập đảo nhân tạo và xây phi đạo cho phản lực cơ quân sự gần Hoàng Sa là sự cố ý của chính quyền Obama, trước hết để đánh thức dư luận dân chúng Hoa Kỳ về hiểm họa TH, nhưng cũng là để lôi kéo Việt Nam ra khỏi quĩ đạo Tàu và đi hẳn với Hoa Kỳ.

Những diễn biến gần đây tại Việt

Nam cho thấy chiến lược này của Hoa Kỳ đang thành hình. Trước hết một loạt các yếu nhân của Hoa Kỳ đã sang Việt Nam trong vài tháng nay như bộ trưởng quốc phòng Aston Carter, chủ tịch ủy ban quân lực tại Thượng viện John McCain và gần đây nhất vào lễ quốc khánh Hoa Kỳ 4 tháng 7 là cựu tổng thống Bill Clinton. Clinton có thể là người đại diện cho Obama để thương thảo và đi đến thỏa thuận sau cùng về việc Việt Nam thành đồng minh của Hoa Kỳ và cho thiết lập căn cứ quân sự Hoa Kỳ tại Cam Ranh. 

Đồng thời trong tuần này, tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam là Nguyễn Phú Trọng sẽ đi với phái đoàn chính phủ hàng 150 người sang Hoa Kỳ và sẽ gặp Obama. Nguyễn Phú Trọng không phải là chủ tịch nước nhưng được tòa Bạch Cung phá lệ để tiếp đón như thủ lĩnh quốc gia. Điều này cho thấy tay này đã đi theo phe thân Hoa Kỳ và gạt bỏ được Chủ tịch Trương Tấn Sang được coi như phe thân Tàu.

Một nhân vật theo phe thân Tàu là đại tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng không có tên trong phái đoàn sang Hoa Kỳ vào giờ chót. Tin chính thức của chính phủ Cộng sản là Phùng Quang Thanh chữa bệnh tại Pháp, tuy có tin đồn không kiểm chứng được là tay này bị ám sát khi sang đến Pháp?

Tất cả những diễn biến này cho thấy Hoa Kỳ đã thành công trong việc lôi kéo Việt Nam ra khỏi quĩ đạo của TH và nhiều phần sẽ được thoả thuận để lập căn cứ quân sự tại Cam Ranh, có thể sau chuyến Obama sang thăm Việt Nam vào tháng 11 năm nay.

Số 223 Trang

*Trung Quốc đã sẵn sàng đưa Việt Nam ra trận?Đến nay, theo nhận định của nhiều chuyên gia có uy tín, chiến tranh

Trung – Mỹ có nhiều khả năng xẩy ra trên biển Đông.Cuộc xung đột trong khu vực này xuất phát từ việc TQ chiếm cứ và xây

dựng các đảo trên quần đảo Trường Sa của VN để mở rộng thêm căn cứ không quân, hải quân về phía Nam, tiến tới giành quyền kiểm soát tất cả các vùng nước của biển Đông, nhằm hạn chế tự do hàng hải và hàng không của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Mỹ.

Đương nhiên là Mỹ và khối đồng minh sẽ không chấp nhận sự ngang ngược đó. Nếu TQ không lùi bước, chiến tranh sẽ xẩy ra.

Phạm vi tàn hại của cuộc chiến sẽ rộng lớn, nhưng là điểm chốt của chiến địa, tổn thất trước hết là VN. Không chỉ trên biển, ngay trên đất liền VN, TQ cũng đã khéo léo chiếm dụng những vùng hiểm yếu có thể sử dụng

11

Page 12: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Tuy nhiên điều quan trọng đối với Việt Nam là việc phải thương thảo để Hoa Kỳ ký kết một hiệp ước hỗ tương phòng thủ như Hoa Kỳ đã ký kết các hiệp ước này với Nhật Bản và Phi Luật Tân trước đây. Thực sự gọi là hỗ tương phòng thủ, nhưng điều đó có nghĩa Hoa Kỳ sẽ nhẩy vào bảo vệ Việt Nam một khi bị TH tấn công. Vì phản ứng của TH trước thế kiềm tỏa và chiến lược triệt hạ TH của Hoa Kỳ sẽ làm cho Việt Nam ở vào thế nguy hiểm dễ dàng bị TH tấn công và xâm lăng. Chỉ một khi có được hiệp ước hỗ tương phòng thủ với Hoa Kỳ và căn cứ quân sự Hoa Kỳ tại Cam Ranh thiết lập xong xuôi, lúc đó Việt Nam mới ở vào thế an toàn trước đe dọa của TH được.

Tóm lại, chiến lược triệt hạ TH của Hoa Kỳ đã thành hình và đã bắt đầu được thi hành, về phương diện kinh tế cũng như quân sự. Điều tốt nhất cho toàn cầu vẫn là TH suy yếu và tan rã một khi dân chúng Tàu bị khó khăn kinh tế và thất nghiệp nổi loạn và thay đổi được chính quyền Cộng sản TH hiện tại. 

Cũng như Việt Nam một khi đi với Hoa Kỳ, sẽ phải chịu điều kiện để đi đến dân chủ hóa, nếu muốn hưởng lợi do thỏa ước mậu dịch TPP và được chiếc dù quân sự của Hoa Kỳ bảo vệ với căn cứ Hoa Kỳ tại Cam Ranh. Các chuyện này tuy còn xa vời nhưng điều gì cũng có thể xảy ra được. Và thời gian sẽ cho chúng ta câu trả lời rõ ràng nhất!

www,nguyendinhphung.com

VN, TQ cũng đã khéo léo chiếm dụng những vùng hiểm yếu có thể sử dụng làm căn cứ địa cho chiến tranh biển Đông. Những đường cao tốc nối từ TQ tới VN ngoài nhiệm vụ cho một cuộc chiến tranh kinh tế triệt hạ VN, cướp công ăn việc làm của người VN, còn một chức năng vô cùng quan trọng là để chuyển quân, lương thực vũ khí để chỉ trong vài giờ đã có thể san phẳng VN và tiến ra biển Đông đọ sức với phe Mỹ.

* Địa ngục trần gianChiến tranh của thế kỷ 21 khác

xưa. Đã kết thúc từ lâu cái thời VN có thể tự hào dùng hầm chông, lối đánh du kích, súng bắn tỉa và hầm bí mật để đánh giặc.

Chiến tranh Trung - Mỹ sẽ là cuộc đối đầu giữa hai cường quốc quân sự với những vũ khí siêu tối

tân với khả năng hủy diệt rộng lớn. Và cũng không loại trừ chiến tranh hạt nhân.

Phó Viện trưởng về nghiên cứu toàn cầu của Viện Công nghệ Hoàng gia Melbuorne (Úc) khẳng định: Mỹ và TQ đang chực chờ xông vào một cuộc chiến, bất kể giữa hai nước đang tồn tại một sợi dây quan hệ kinh tế không thể tách rời. Biển Đông trở thành ngòi nổ chiến sự.

Theo báo cáo của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm, hiện nhiều nước đang gấp rút nâng cấp kho vũ khí hạt nhân.

“Nói trắng ra, một cuộc chiến Mỹ - Trung sẽ là địa ngục trần gian. Nhiều khả năng thế chiến thứ 3 sẽ bắt đầu trong thời gian tới đây. Sẽ có hàng triệu, thậm chí hàng tỉ người chết bởi vũ khí hạt nhân. Những người may mắn sống sót sẽ phải đối mặt với tình trạng nền kinh tế toàn cầu sụp đổ. Đó là tất cả những gì mà thế giới sẽ phải chứng kiến khi giữa hai cường quốc của thế giới xẩy ra xung đột vũ trang”(theo nguoivietaz.com.us).

Mọi người đều biết rằng, nếu VN đứng về phía TQ, giống một nước chư hầu cong tấm lưng còng bọc lấy đất TQ trước biển Đông như hiện nay, thì sẽ không tránh khỏi số phận phải làm „chiếc đệm thịt”đầu tiên trên chiến trường và tan nát trước khi Mỹ tiến đánh Trung quốc lục địa.

Do vị trí địa chính trị, sự lựa chọn của VN hiện nay có thể gớp phần cùng thế giới ngăn chặn thảm họa đó hoặc nhập khẩu thảm họa đó vào VN nếu cuộc chiến tranh Trung - Mỹ xẩy ra.

VN với truyền thống nhập khẩu chiến tranh

Với sự tham lam và thiển cận của nhà cầm quyền VN, họ đã tạo điều kiện tốt chưa từng có để TQ dễ dàng chiếm cứ VN trên mọi mặt và sử dụng người VN đi đánh nhau với Mỹ để bảo vệ TQ khi cần.

VN lựa chọn lệ thuộc TQ và thực hiện mọi mệnh lệnh của TQ là tự sát nếu chiến tranh Trung - Mỹ xẩy ra.

Nhập khẩu chiến tranh vào nước của mình và hớn hở đi chết cho kẻ khác trong khi giết dân mình, đó là năng khiếu của nhiều thế hệ cầm quyền VN.

Trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn miền Nam miền Bắc, bên Nam đánh nhau với sự viện trợ và vũ khí của Mỹ, bên Bắc đánh nhau để thực hiện nhiêm vụ „tiền đồn cho phe xã hội chủ nghĩa”với vũ khí và lương thực của Nga và TQ. Nga và TQ không hề hấn gì, VN chỉ còn lại hoang tàn và hàng triệu người chết.

Nếu nhà cầm quyền VN tiếp tục tăm tối như vậy, lịch sử đớn đau sẽ lặp lại. Khi chiến tranh Trung- Mỹ xẩy ra, dân VN sẽ có được một hân hạnh cũ: làm cái „đệm thịt người”đi chết cho quyền lợi của TQ, để TQ được yên ổn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người TQ sẽ giẫm lên những xác chết của người VN mà tiến ra biển Đông. Người VN sẽ lại bị ép buộc mà chết hoặc ngu muội mà chết hoặc bị lừa đảo mà chết nhưng vẫn tự hào rằng chúng ta sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ thành trì của đất nước và chủ nghĩa xã hội.

Nghe thế tưởng như chuyện đùa, nhưng không đùa một chút nào, nếu chúng ta nghe phát biểu của các vị lãnh đạo cao cấp VN và xem hành xử của họ.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến năm 2009 còn tuyên bố: „Việt Nam Cuba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì VN ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ”(phát biểu trong chuyến thăm Cuba năm 2009).

Nay thì Cuba đã ngủ theo Mỹ, bỏ nhiệm vụ cùng VN thức canh hòa bình thế giới. Vậy còn VN lẻ loi thì thức canh hòa bình cho TQ vậy! Việc đó đã có Đảng CS VN trước sau kiên định lập trường lo liệu chu toàn.

Một dải đất sạch bóng người VN sau chiến tranh Trung - Mỹ là điều người TQ thấy vô cùng quyến rũ. Đặc biệt là cái chết ấy lại do chiến tranh và do Mỹ chịu trách nhiệm..

Số 223 Trang 12

Page 13: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Xuất khẩu chiến tranh ra ngoài lục địa Trung hoa để thực hiện những mưu đồ khác là điều mà nhà cầm quyền TQ khôn ngoan chí ít cũng đã làm cho dân của họ. Còn VN thì lại chỉ có khả năng nhập khẩu chiến tranh về tàn hại đồng bào của mình.

Thời cơ cứu nước và chặn chiến tranh

Để bảo vệ mạng sống, người dân VN cần tỉnh táo chống lại khuynh hướng „nhập khẩu chiến tranh“. Đấu tranh bảo vệ đất nước bằng cách chống lại việc bán nước cho TQ của một số kẻ cầm quyền tham lam và đớn hèn chính là cách để ngăn chặn hữu hiệu.

Vì sao Hồng Kông - một thành phố nhỏ, dù đã bị trao trả cho TQ nhưng chính quyền nơi này đã không chấp nhận sự áp đặt chính trị của TQ, TQ dù hận tận xương tủy vẫn không dám giở trò đàn áp?

Vì sao Đài Loan cũng là lãnh thổ đã bị trao trả cho TQ nhưng Đài Loan vẫn ngang nhiên thách thức TQ mỗi khi TQ định làm điều gì đó ảnh hưởng đến sự độc lập và quyền lợi đảo này?

Vì sao Hàn Quốc sống ngay bên cạnh Triều Tiên hung hãn luôn muốn triệt phá Hàn Quốc bằng chiến tranh hạt nhân nhưng Hàn quốc vẫn phát triển lớn mạnh?

Vì sao nước Nhật yên ổn có một nền chính trị tiên tiến, ổn định và văn minh, mức sống cao gấp khoảng 30 lần so với người VN?

Là vì họ đã không nhập khẩu chiến tranh, đã kiên quyết nói không với Cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Họ không cần đầu tư nhiều tiền vào quân sự vì được bảo vệ bởi những lực lượng quân sự đứng đầu thế giới như Mỹ và khối NATO. Khối này chưa bao giờ phản bội họ.

Người VN hoàn toàn có thể làm được một việc lớn là ngăn chiến tranh Trung - Mỹ xẩy ra.

Thời cơ cứu nước càng đến gần với VN khi vào ngày 24-6-2015, Thượng viện Mỹ đã chính thức thông qua Dự luật HR1314 trong đó có Dự luật trao quyền đàm phán thương mại cho Tổng thống Mỹ và Dự luật hỗ trợ tổn thất cho những

người Mỹ bị ảnh hưởng bởi các hiệp định tự do thương mại quốc tế.

Không nghi ngờ gì nữa, nước Mỹ đã rất linh hoạt trong việc giao cho Tổng thống Obama một đặc cách để quyết định đẩy nhanh đàm phán Thỏa thuận quan hệ đối tác thương mại T-Tip và đầu tư Xuyên Đại Tây Dương cũng như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và đặc biệt phục vụ cho quyền lợi của Mỹ ở biển Đông trong đó có liên quan đến việc liên kết chặt chẽ với VN.

VN cần phải nắm lấy bàn tay mà tổng thống Mỹ đưa ra để trở thành đồng minh thực sự của Mỹ và khối NATO. Đây là khoảnh khắc mà Mỹ mở rộng vòng tay hơn bao giờ hết, bởi chính quyền lợi của Mỹ ở biển Đông. Lúc đó Mỹ và khối NATO sẽ tự động bảo vệ VN theo hiệp định tương hỗ quân sự.

Trong tình thế đó, TQ bị buộc phải thay đổi cách hành xử, từ bỏ ảo vọng chiếm VN và và độc chiếm biển Đông. Chỉ có như thế, chiến tranh mới không xẩy ra.

Như thế, người VN mới thoát được ách nô lệ ngàn năm của TQ và ách nô lệ Cộng sản.Và trước hết, gần nhất, là thoát được cuộc chiến tranh mà người VN không những chịu mất nước về tay TQ mà còn phải chết cho TQ. Cuộc chiến đó không đưa VN trở về thời kỳ đồ đá vì ngay cả đá cũng nát và chỉ còn tro xương của người VN cọ vào nhau trong gió của những cánh đồng chết.

Võ Thị Hảo

Trước khi ông Nguyễn Phú

Trọng tới Mỹ, nhiều người nghi rằng ông sẽ không được tiếp đón tại phòng Bầu Dục. Bởi vì ông chỉ là tổng bí thư đảng, không là một nguyên thủ quốc gia hay người cầm đầu chính phủ. Nhưng cựu Tổng thống Jimmy Carter đã tiếp ông Ðặng Tiểu Bình ngày 29-01-1979 ở đó. Hai người đã ký nhiều thỏa ước quan trọng, mặc dù lúc đó Ðặng

Tiểu Bình chỉ giữ chức phó thủ tướng chính phủ Trung Cộng, ngoài chức chủ tịch hội đánh bài Bridges. Họ còn biểu diễn đứng trên bao lơn Tòa Bạch Ốc vẫy tay chào dân chúng, cùng hai bà phu nhân.

Tuy vậy, Ðặng Tiểu Bình khác hẳn Nguyễn Phú Trọng. Tuy cả hai đều là chủ tịch Quân ủy Trung ương đảng, nhưng họ Ðặng nắm quyền sinh sát cho đến khi chết; còn Nguyễn Phú Trọng thì không có thực quyền suốt từ lúc lên chức tổng bí thư; tới bây giờ thì chỉ ngồi làm hư vị, chờ về hưu.

Cho nên chuyến đi Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng phải gọi là “Chuyến đi dối già.” Ðại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (1998) giải nghĩa: “Dối già” là trối già, thí dụ, “đi chơi trối già một chuyến.” Tự điển Anh Việt của Nguyễn Ðình Hòa (1966) dịch: “Dối già - to do as a joy in one’s old age,” hưởng thú vui lúc về già. Tân Ðại Tự Ðiển Việt-Anh của Nguyễn Văn Tạo (1986) cũng cho thí dụ: “Dối già - đi chơi dối già, to make a trip before one dies,” đi chơi một chuyến trước khi chết. Ông Nguyễn Phú Trọng đang đi một chuyến dối già; mặc dù mới 71 tuổi, ông có thể sẽ còn sống vài ba chục năm nữa. Khác với Nông Ðức Mạnh đã an phận đóng vai bù nhìn, ông Nguyễn Phú Trọng có cố gắng giành quyền hành về cho guồng máy Ðảng, không để Nguyễn Tấn Dũng thao túng hết. Ông lập ra một Ủy ban Chống Tham nhũng trong Trung ương Ðảng, tổng bí thư làm trưởng

ban. Nhưng ông là một tướng không có quân, một nhà buôn không có vốn; cái ủy ban của ông chẳng thấy đụng được tới lông chân thằng tham nhũng nào cả. Cuối cùng, giành được quyền rồi lại chỉ chứng tỏ mình vô tài hoặc bất lực, hoặc cả hai.

Nguyễn Phú Trọng cố gắng tấn công Nguyễn Tấn Dũng mấy lần, dùng guồng máy Trung ương Ðảng

Số 223 Trang 13

Page 14: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

mà trên nguyên tắc ông ta đứng trùm. Trọng ra quân lần thứ nhất năm 2013, trong hội nghị Trung ương 6 nhân cơ hội Dũng làm kinh tế thất bại nặng nề với các vụ tham ô làm nhục quốc thể như Vinashin, Vinalines, vân vân. Nhưng Hội nghị 6 lại kết luận: “Trung ương tiếp tục khẳng định... những kết quả quan trọng đã đạt được của doanh nghiệp nhà nước (tức là những Vinashin, Vinalines)!” Bản thông cáo chính thức viết, “Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị... một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí ủy viên Bộ Chính trị.” Nói đến “kỷ luật một đồng chí” mà không dám khai họ tên là gì cả. Thông cáo lại viết tiếp: “Ban Chấp hành Trung ương đã... đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị!” Cũng lại “một đồng chí” mà không dám nói tên; Trương Tấn Sang sau vẫn sợ, chỉ dám gọi là “đồng chí X.”

Trận tranh quyền giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng diễn màn kế tiếp trong Hội nghị Trung ương 7. Trọng và Dũng mỗi người đề nghị hai ứng viên vào Bộ Chính trị, hai con gà của Dũng (Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân) đá bại gà của Trọng (Nguyễn Bá Thanh và Vương Ðình Huệ - ông Thanh sau đó đã qua đời). Trận đấu gần đây nhất là Hội nghị Trung ương 10 vào tháng Giêng năm 2015, quyết định phe nào sẽ thắng trong Đại hội Ðảng lần thứ 12 năm tới. Họ bầy trò 197 Ủy viên và dự khuyết bỏ phiếu tín nhiệm 20 người trong Bộ Chính trị và Ban Bí Thư. Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu, được 152 phiếu “tín nhiệm cao.” Nguyễn Phú Trọng đứng hàng thứ 8 với 135 phiếu; thua Trương Tấn Sang 149 phiếu, Nguyễn Thị Kim Ngân 145 và Phùng Quang Thanh 144. Ðồng minh của Nguyễn Phú Trọng là Tô Huy Rứa đứng hàng thứ 17, Phạm Quang Nghị hàng 19, và Hà Thị Khiết đứng chót. Hội nghị 10 coi như chấm dứt cuộc đời chính trị của Nguyễn Phú Trọng. Mặc dù Trọng

là trưởng Tiểu ban Nhân sự đại hội sang năm nhưng sẽ đành để cho Dũng làm đạo diễn.

Tại sao nhiều ủy viên Trung ương Ðảng nghiêng về ông thủ tướng như vậy? Bởi vì Dũng đã thu nắm hết quyền quyết định kinh tế; trong 10 năm qua họ đều được chia quyền, chia lợi. “Trong tay đã có đồng tiền,” Dũng có thể đem phân phát, còn Trọng thì tay trắng. Từ khi đảng Cộng sản bắt chước làm kinh tế tư bản, các “luật lệ cuộc chơi” đã thay đổi. Danh phận và địa vị trong guồng máy đảng không có giá trị nào nữa. Ðồng tiền, nhất là đồng đôla, mới đóng vai quyết định. Sau cùng, ba phần tư các ủy viên Trung ương Ðảng chạy theo Dũng vì cần bảo vệ cái hệ thống chia chác cho họ được hưởng phần xôi thịt béo bở!

Nhưng tại sao Nguyễn Phú Trọng vẫn muốn đi Mỹ và được đi Mỹ dối già? Ðối với phe cánh Dũng thì việc vận động cho Trọng đi Mỹ, xin bằng được cho vào ngồi trong phòng Bầu Dục, là một cách nhục mạ công khai. Cả cuộc đời chính trị của Trọng đã bị gán cho nhãn hiệu “thờ Thiên triều!” Nay phải quay 180 độ để sang Mỹ, tức là đã chịu thua - không những thua trong nội bộ đảng mà còn thua cả trong chính sách ngoại giao.

Nhưng Nguyễn Phú Trọng vui vẻ chịu nhục, vì chuyến đi này lại là một cách rửa mặt trước khi về vườn. Một người Việt biết mình sắp chấm dứt cuộc đời chính trị, không ai muốn để lại trong lịch sử cái tiếng “tay sai Tàu!” Trọng cần phải rửa sạch cái nhãn hiệu đó, trong khi còn giữ chức tổng bí thư. Nhìn thấy làn sóng phẫn nộ của 90 triệu người dân Việt Nam, Trọng biết rằng sớm muộn ngọn triều dâng sẽ thay đổi hết. Ðảng Cộng sản Việt Nam sớm muộn sẽ phải quay sang nhờ vả Mỹ; chỉ mong quên mối nhục đem con voi Tàu về dày mả tổ tiên rồi bám theo ăn bã mía hơn nửa thế kỷ vừa qua. Trọng cần đi Mỹ một chuyến, chuyến đi dối già không phải để hưởng thú vui nào mà chỉ để rửa cái mặt đầy những vết chàm Trung

Cộng.Cho nên trước khi đi Trọng đã

tuyên bố hoan nghênh vai trò của Mỹ trong vùng Biển Ðông Nam Á, và báo trước sẽ thảo luận việc hợp tác quân sự với Mỹ. Hoan nghênh Mỹ là đi ngược với đường lối Thiên triều, vì Trung Cộng vừa mới nhắc lại lời phản đối Mỹ, một xứ ở tuốt bờ xa mà cứ xía vô chuyện biển, đảo bên trong Cửu Ðoạn Tuyến!

Như vậy có phải Nguyễn Phú Trọng đã bỏ chủ trương theo Tàu để theo Mỹ hay không? Thực ra các lãnh tụ Cộng sản chỉ lo đến quyền hành và lợi lộc của chính họ, chẳng có anh nào theo nước lớn nào cả. Hồ Chí Minh đã từng xin ôm chân Mỹ nhưng bị gạt ra ngoài vì tình báo cả thế giới biết tay này là gián điệp của Stalin từ hơn 20 năm. Thế là Hồ phải bám chân Mao Chủ tịch. Lê Duẩn đã ôm chân Mao để thanh toán các đối thủ “xét lại chống đảng;” nhưng sau lại bỏ Tàu để ôm chân Liên Xô; nhẫn tâm phản phúc đến mức ghi cả vào Hiến pháp rằng nước Tàu là kẻ thù truyền kiếp.

Trong cuộc tranh chấp quyền hành giữa các thủ lãnh Cộng sản Việt Nam, họ đóng trò thân nước này hay nước khác chỉ vì nhu cầu giai đoạn. Tất cả chỉ là bôi mặt vẽ hề trên sân khấu, khi tấn tuồng đổi màn thì các diễn viên cũng rửa mặt, bôi lại lớp son phấn mới, vẽ râu ria đội mũ màng mới. Vì vậy, ngày 30-04 vừa qua, khi đã nắm chắc phần thắng trong Đại hội 12 sang năm, Nguyễn Tấn Dũng đã biểu diễn một bài diễn văn chống Mỹ. Bởi vì Dũng biết rằng mình chỉ đóng tuồng, nói cho các đảng viên ngớ ngẩn đứng nghe, chẳng có báo, đài nào ở nước Mỹ nó nhắc tới cả! Trước khi Dũng nắm toàn quyền và đảng Cộng sản quay đầu xin nương tựa vào nước Mỹ, Dũng cần phải chứng tỏ mình không phải là tay sai Mỹ!

Chuyến đi dối già của ông Nguyễn Phú Trọng là một cảnh phụ trong tấn tuồng chính trị nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam, được đưa qua diễn ở nước Mỹ, nhưng nhắm cho người Việt Nam ở trong nước

Số 223 Trang 14

Page 15: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

coi. Ông Trọng chính thức mời ông bà Obama sang thăm Việt Nam, không phải Sang, không phải Dũng. Ông còn dám khoe rằng mình đã chia sẻ quan điểm với tổng thống Mỹ về “những khai triển gần đây ở Biển Ðông và mối lo ngại về các hoạt động gần đây không theo đúng luật lệ quốc tế khiến tình hình thêm phức tạp.” Nghe câu này, nhiều người ở Hà Nội, Sài Gòn sẽ trầm trồ: Ðấy nhé, Ðồng chí Nguyễn Phú Trọng đâu phải là tay sai của Tàu! Ðó là điều ông Nguyễn Phú Trọng mong ước trước khi về vườn!

Rồi tới đầu năm 2016, Nguyễn Tấn Dũng lên ngồi ghế tổng bí thư, có thể kiêm luôn chức chủ tịch nước. Dưới áp lực của nhân dân cả nước, đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phải dần dần quay lưng với các “đồng chí anh em” Trung Quốc, cách này hay cách khác. Chẳng phải vì họ yêu nước hay chán cái chủ nghĩa Cộng sản; nhưng đó là cách duy nhất để chính họ vẫn nắm quyền nắm lợi trong tay trong một thời gian nữa. Cũng giống năm 1986 các lãnh tụ Cộng sản thấy “không đổi mới thì chết;” bây giờ họ cũng thấy nếu không lánh xa Tàu thì dân sẽ giết! Mục đích chính vẫn là phải bám lấy quyền hành! Ðó là ý nghĩa thật tình đằng sau lời bình luận trên mấy tờ báo đảng về chuyến đi dối già của Nguyễn Phú Trọng: “Chuyến thăm sẽ... khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam.”

Quần chúng quan tâm đến chuyến công du Hoa Kỳ của ông

Nguyễn Phú Trọng vừa qua và tác động của chuyến công du này đối với tương lai Việt Nam có lẽ không kỳ vọng gì nhiều vào kết quả của nó. Những nội dung các cuộc tiếp xúc của ông Trọng với giới lãnh đạo Hoa Kỳ chỉ phản ảnh một sự thờ ơ, giọng điệu tuyên truyền cố hữu, tránh né vấn đề nhân quyền, phủ nhận đàn áp các thành phần dân chủ, tránh né vấn đề cần phải đối phó ở Biển Đông... Nhìn chung thì sau chuyến đi Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng, những gì được coi là “đối tác toàn diện” vốn đã có từ sau chuyến đi của ông Trương Tấn Sang cách đây 2 năm vẫn chỉ ở mức độ hời hợt, không có mấy thực chất.

Biển Đông hiện nay vẫn tiếp tục là điểm nóng với sự lấn chiếm từng bước của TQ qua việc họ tôn tạo, xây dựng công trình nhân tạo trên các bãi đá ngầm tại quần đảo Trường Sa, vùng biển Tây Phi Luật Tân, nhằm đặt các quốc gia ven biển như Phi Luật Tân, Việt Nam, Mã Lai, Nam Dương,... trước một sự việc đã rồi.

Trong lúc Phi Luật Tân đã công khai dám đứng ra kiện Trung Quốc về vùng biển lưỡi bò phi pháp, nhằm vô hiệu hóa việc áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên 90% Biển Đông; họ cũng gởi một phái đoàn cao cấp sang The Hague tham dự phiên tòa từ 7-13/7/2015 của Tòa Trọng tài Thường trực, thì lãnh đạo CSVN ngoài một số lời tuyên bố suông để xoa dịu người dân và thành phần quan tâm đến đất nước trong guồng máy đảng, họ không dám có hành động, hay thậm chí lời nói cụ thể để lên án và ngăn chặn các hành động khiêu khích, truy đuổi, bắn chết ngư dân Việt Nam, ngang nhiên đem giàn khoan vào vùng thuộc đặc quyền khai thác kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông. Nhiều người hy vọng rằng chuyến đi Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ tạo được điều kiện thay đổi thái độ thụ động, lẩn tránh đó

của CSVN.Giới lãnh đạo Cộng sản Việt

Nam và đặc biệt Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lần đầu tiên được mời công du chính thức tại Hoa Kỳ, nhưng ông không dám đưa ra lời tuyên bố nào tỏ ý sẵn sàng hợp tác về quân sự với các quốc gia trong vùng như Phi Luật Tân, Mã Lai, cũng như hợp tác với các cường quốc trong vùng Á Châu Thái Bình Dương như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc Châu nhằm chống lại sự hiếu chiến của Trung Quốc.

Một mong muốn của phía VN là Hoa Kỳ huỷ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN, nhưng việc này vẫn dậm chân tại chỗ vì thành tích nhân quyền yếu kém của CSVN. Trước khi ông Trọng đến Mỹ đã có nhiều nhận định cho rằng việc cấm bán vũ khí sát thương có triển vọng sẽ được giải toả, và hai bên sẽ có thông báo chung về điều này một khi trở ngại chính là vấn đề nhân quyền được đả thông trong cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa tổng thống Obama và tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên, điều này đã không xẩy ra. Thậm chí, ngay khi ông Nguyễn Phú Trọng còn đang ở trên đất Mỹ, báo chí VN đăng tải lời tuyên bố của Thượng Nghị sĩ John McCain về hợp tác Việt Mỹ, nhưng lại cắt bỏ những phần quan trọng nhất của lời tuyên bố này.

Thật ra, bản tuyên bố của TNS McCain dài hơn và hay hơn nhiều so với trích dẫn của Thông Tấn xã Việt Nam. Ông McCain nhắc đến vấn đề Tàu cộng đang hung hăng trên Biển Đông, về việc Mỹ viện trợ 425 triệu mỹ kim để giúp nâng cao năng lực quốc phòng cho ASEAN, kể cả cho Việt Nam. Ông McCain còn nhắc đến giàn khoan HD-981. Đặc biệt ông đề cập đến nhân quyền 2 lần cũng như nói đến việc yểm trợ các hoạt động vì xã hội dân sự. Ông McCain kêu gọi trả tự do cho các tù nhân lương tâm. Ông cũng kêu gọi Chính phủ Mỹ nên tháo gỡ những qui định về bán vũ khí cho VN, nhưng ông nhấn mạnh rằng việc xoá bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí chỉ với điều kiện VN phải tỏ ra tôn trọng

Số 223 Trang 15

Page 16: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

quyền con người, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, và cải cách pháp lý. Tất cả những điều vừa kể đã bị báo chí VN giấu đi khi đăng tải.

Về phần Hiệp ước xuyên Thái Bình Dương (TPP), tuy Việt Nam và Hoa Kỳ thoả thuận sẽ thúc đẩy để kết thúc đàm phán, nhưng không thấy ông Nguyễn Phú Trọng nói gì về những chuẩn bị của VN trong những lãnh vực thiết yếu như tài chánh, ngân hàng, xí nghiệp, công đoàn,... để khai thác một cách thuận lợi hiệp ước TPP cho Việt Nam. Trong khi VN là nước có nền kinh tế chậm phát triển nhất trong khối 12 nước của TPP, và có một thể chế chính trị độc tài, hoàn toàn không thích hợp cho một thị trường rộng mở cùng với sự cạnh tranh gay gắt.

Người ta chỉ thấy ông Nguyễn Phú Trọng xin Mỹ công nhận VN có một nền kinh tế thị trường. Một lời cầu xin ẩn chứa đầy sự dối trá, trong khi CSVN vẫn khăng khăng ghép thêm cái đuôi XHCN vào nền kinh tế của mình. Thậm chí ngay cả hiến pháp cũng được viết thêm điều này. Có thể phía Hoa Kỳ sẽ châm chước điều này, rồi sau đó CSVN sẽ lợi dụng để luồn lách bằng những trò láu cá vặt như người ta đã thấy trong việc CSVN thực thi các hiệp ước quốc tế, mà một chuyện tiếu lâm trong nước kể về các “biệt tài” của CSVN, trong đó có “biệt tài” bội ước. Điều cần xác định là, kinh tế thị trường phải do chính quốc gia chủ thể thực hiện để có thể tương hợp với môi trường tự do mậu dịch TPP, chứ không do xin xỏ những quốc gia đối tác khác mà có được.

Tóm lại, chuyến đi Hoa Kỳ lần này của ông Nguyễn Phú Trọng, với bao chuẩn bị (theo báo chí ngoại quốc thì CSVN đã chuẩn bị suốt một năm cho chuyến công du này) cùng những tốn kém tiền bạc đi kèm, thực sự không mang lại một gì mới, tốt hay có lợi cho người dân. Đây là một chuyến đi nhưng có giá trị như không đi.

Đã từ khá lâu, người dân Việt Nam yêu nước không cần chờ đợi một số “biến cố” như Đại hội Đảng CS lần thứ 12 sắp đến để trông cậy

giới chóp bu đảng CS sẽ tự nguyện từ bỏ con đường gây tàn hại đất nước mà họ đã bám giữ từ mấy chục năm qua, hoặc họ tự nguyện từ bỏ quyền lực. Người ta cũng không trông mong gì vào những chuyến đi nước ngoài của các thành phần lãnh đạo CSVN, hay những chuyến viếng thăm đáp lễ của các nhân vật chính trị cao cấp nước ngoài đến VN; vì kinh nghiệm và thực tế cho thấy, tất cả đều không tác động gì nhiều vào yếu tố quan trọng làm nền tảng cho sự phát triển của VN là tự do và dân chủ, khi mà chính người Việt Nam không tự mình tạo dựng được nền tảng cho nó.

Trong bối cảnh hiện nay, VN phải mở cửa với thế giới, nên khả năng trấn áp của CSVN bị giới hạn rất nhiều. Từ đó có những khoảng trống cho các lực lượng dân chủ, các thành phần tiến bộ trong guồng máy đảng tạo áp lực ảnh hưởng một cách thuận lợi lên nội tình VN, thuận lợi cho quyền lợi dân tộc.

Điều căn bản là, chế độc độc tài sẽ không tự nguyện lùi bước nếu không có áp lực đủ mạnh để buộc họ phải chấp nhận lùi bước. Vì vậy, những việc làm cụ thể của các thành phần dân tộc là tự đứng lên, đẩy mạnh sự phát triển của xã hội dân sự ngoài vòng kiểm soát của đảng CSVN, kết hợp các thành phần dân tộc dân chủ thành một liên minh dân tộc rộng lớn nhằm đối trọng với đảng CSVN; vận động quần chúng thể hiện các đòi hỏi chính đáng về nhân quyền, công bằng, công lý để chuẩn bị cho các cuộc xuống đường đông đảo tạo nên áp lực mạnh mẽ đối với chế độ sau này. Đó là những việc làm hữu ích lâu dài cho quyền lợi dân tộc, hơn là đặt niềm tin mơ hồ vào những chuyến đi như không có đi của Tổng Bí thư đảng CSVN.

Việt Nam đang rầm rộ tổ chức nhiều sự kiện kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh như một khuôn mặt đại diện cho đổi mới và một người Cộng sản kiên trung, điển hình cho những thế hệ Cộng sản tiếp nối.

Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc sinh ngày 1-7-1915. Năm nay kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông và nhân cơ hội này nhiều vấn đề lịch sử được xem xét lại trong khi đảng CS Việt Nam vẫn còn cầm quyền và Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là đại diện cho phe bảo thủ một cách toàn vẹn và kiên trung nhất.

Người cởi trói cho giới văn hóa văn nghệ ?

Giới văn nghệ sĩ cũng như báo chí vào thời kỳ “Đổi mới” không ai có thể quên những bài viết vào cuối tháng 5 năm 1997 ký tên NVL trên báo Nhân Dân trong mục “Nói và Làm”. Loạt bài “Những việc cần làm ngay” của ông đã thổi vào không khí chính trị u ám của Việt Nam lúc ấy một hy vọng mới về quyền tự do phát biểu, quyền căn bản phát triển dân chủ và công bằng xã hội vốn vắng bóng dưới sự cầm quyền của đảng CS. Thế nhưng đáng buồn cái gọi là cởi trói này chỉ là gáo nước chữa sự cháy bỏng của lòng dân. Chỉ một thời gian ngắn sau khi hô hào thay đổi đổi nếp nghĩ cách viết cho báo chí, bút hiệu NVL đã biến mất trên báo Nhân Dân và mọi tờ báo khác lại bắt đầu siết chặt sợi giây kiểm duyệt.

Đại tá nhà báo quân đội Phạm

Số 223 Trang 16

Page 17: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Đình Trọng nhận xét việc này: “Đổi mới kinh tế thì đúng là ông Trường Chinh là người khởi xướng và đổi mới quyết liệt trong kinh tế. Còn trong lĩnh vực văn nghệ báo chí thì ông Ng. Văn Linh thực sự cũng có vai trò là người cởi trói cho giới văn hóa văn nghệ. Thế nhưng ông ấy cởi và chính ông ấy trói lại. Ông ấy cởi và cầm sợi giây trong tay chưa kịp vứt đi thì chính ông lại trói lại! Khi đổi mới có xu thế bắt đầu thì ông ấy cũng hăng hái nói rằng phải tự cứu mình trước khi trời cứu và rồi chính ông ấy trói lại và trói chặt hơn trước khi được cởi trói.”

Nhớ lại việc này TS Hà Sĩ Phu kể lại những điều mà ông biết trước đây: “Có một đoạn ông ấy muốn đổi mới, ông ấy nói phải tự cởi trói trước khi chờ trói, rồi thì ông ấy bảo văn nghệ sĩ không nên bẻ cong ngòi bút… Cái giai đoạn ấy ông làm cho nhiều người tưởng đâu là tốt nhưng thật ra về lập trường thì ông ấy rất là bảo thủ. Thứ nhất là giữa quan hệ với ông Võ Văn Kiệt và ông Nguyễn Hộ thì kẻ bảo thủ số một trong ba người này chính là ông Nguyễn Văn Linh.

Ông Linh còn định bắt xử tội ông Nguyễn Hộ và bắt hai lần rồi và có lẽ suýt nữa bắt luôn Võ Văn Kiệt. Ông này rất bảo thủ, rất Maoist. Thứ ba nữa, sau khi viết một số bài có vẻ muốn đổi mới thì tôi có được nghe một câu chuyện: có lần ông Lê Đức Thọ nói trong nội bộ về ông Linh cho rằng ông này trình độ thật ra chỉ đáng làm cán bộ địa phương thôi thế nhưng giao cho ông ta cây đại đao ông không biết múa, để cho kẻ địch nó cướp mất. Tóm lại phía bảo thủ họ coi rằng ông ấy nêu ngọn cờ đổi mới rất là bất lợi cho sự độc tôn của Đảng và như thế phía Lê Đức Thọ họ quyết là phải phê phán ông Nguyễn Văn Linh.”

Tội nhiều hơn công?Dấu hiệu Liên xô bị giải thể từ

năm 1989 đã làm cho chế độ Cộng sản tại Việt Nam lung lay tận gốc rễ. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là người có công giữ cho Việt Nam thoát khỏi cơn bão cách mạng quét

sạch chủ nghĩa Cộng sản trên hầu hết các phần đất đã tôn thờ nó bằng việc tiến tới tìm sự nương dựa vào Trung Quốc, thành trì thứ hai trong thế giới Cộng sản. Thành trì này tuy có tì vết của chiến tranh biên giới với Việt Nam vào năm 1979 nhưng đảng Cộng sản Việt Nam quyết định chọn Hội nghị Thành Đô làm khởi đầu cho một cuộc hôn phối chắp vá mới và Tổng bí thư Linh là người dẫn đầu phái đoàn này. TS Hà Sĩ Phu nêu ý kiến của ông:

“Cuối cùng do sự bố trí của phe thân Trung Cộng, ông Nguyễn Văn Linh đã cầm đầu phái đoàn đi sang Thành Đô, là hành động vô cùng tệ hại, đưa Việt Nam vào một quỹ đạo không thể ra được. Tôi nghĩ rằng ông Nguyễn Văn Linh đổi mới cũng chẳng qua là cứu Đảng thôi, nhưng cũng do chuyện cứu Đảng mà trình độ lại non và quan điểm lại bảo thủ nên cuối cùng phải đi vào quỹ đạo Thành Đô, cho nên cái tội nhiều hơn công rất nhiều.”

Ông Nguyễn Văn Linh được người Cộng sản xem là có ý chí sắt đá bảo vệ thành trì Cộng sản Việt Nam với lập trường kiên định không thay đổi về chủ thuyết độc tôn lãnh đạo.

Trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, tờ VietnamNet đưa lại quan điểm của ông trước đây như một slogan trong vai trò của người giữ ngôi đền bảo thủ: “Người không chấp nhận đa nguyên đa nguyên đa đảng”.

Nhà báo Kha Lương Ngãi, nguyên phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng cho biết ý kiến của ông về quan điểm này:

“Cái câu đó quá lỗi thời! Câu này cản trở sự chuyển hóa đổi mới của Đảng theo chiều hướng tích cực tiến bộ. Bây giờ thấy trên mạng cũng đưa ông Nguyễn Phú Trọng nói đồng chí Ng. Văn Linh là người kiên định lập trường nhất. Là người không bao giờ chấp nhận đa nguyên đa đảng. Bây giờ cái đó nó chống

lại xu thế phát triển của thời đại.Ông Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị

đi Mỹ và nhân dân người ta hy vọng ông ấy sẽ thiết lập một mối quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ tạo sức, tạo lực để mà chống lại Trung Quốc xâm lược; nhưng ông Trọng ca ngợi ông Linh là người không bao giờ chấp nhận đa nguyên đa đảng thì phát biểu của ông Trọng cũng rất lỗi thời, do đó hy vọng vào chuyến đi Mỹ của ông ta cũng giảm đi rất nhiều. Với xu thế tình hình hiện nay, ông Nguyễn Phú Trọng nên trở về với nhân dân, nắm lấy ngọn cờ dân tộc, thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với Mỹ với thế giới văn minh tiến bộ để chống Trung Quốc.

Nhân dân cán bộ người ta đều mong muốn như vậy nhưng mà ông ta phát biểu như thế thì niềm tin niềm hy vọng đó mất đi rất nhiều.”

Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh dưới mắt những người Cộng sản giữ sự kiên trinh tới phút chót thì ông vẫn sáng ngời như một ngôi sao dẫn đường, tuy nhiên với hầu hết những thành phần khác trong xã hội VN, có lẽ họ không quan tâm lắm tới việc đổi mới của ông, và như TS Hà Sĩ Phu phát biểu, Hội nghị Thành

Đô vĩnh viễn dính theo cái tên của ông như một vết cắt lịch sử rất sâu vào da thịt VN.

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1/7/1915–1/7/2015), lãnh đạo CSVN đã công khai tái khẳng định sẽ tiếp tục độc tài, độc đảng và độc quyền cai trị như ông Linh đã vạch ra.

Chủ trương này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang đưa ra bằng lời nói và bài viết có cùng lập trường nhất quyết không từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản và chống đa nguyên đa đảng. Tuy nhiên cả hai người lại không có bất cứ lời nào lên án Trung Quốc đang biến 7 bãi đá chiếm được của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988 thành các đảo để sinh sống và căn cứ quân sự ở

Số 223 Trang 17

Page 18: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Biển Đông, có lẽ vì sợ gây phiền não cho vong linh người qúa cố ?

Điều này dễ hiểu vì Trung Quốc coi ông Nguyễn Văn Linh là người có công với Bắc Kinh tại Hội nghị bí mật Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc trong 2 ngày 3-4/9/1990.

Ông Linh đi Thành Đô cùng với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn chuyện nối lại bang giao với Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Trung Hoa Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.

Tại Thành Đô, theo các giới ngọai giao của Việt Nam thời bấy giờ như cố Thứ trưởng Ngọai giao Trần Quang Cơ và Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thì ông Linh đã chấp nhận 3 đòi hỏi quan trọng của Giang Trạch Dân để được tái lập quan hệ ngọai giao. Ba điều kiện đó là : Việt Nam phải rút quân vô điều kiện khỏi Kampuchia và đồng ý một giải pháp chính trị không loại phe Khmer đỏ thân Trung Quốc; công khai chỉ trích và cam kết thay đổi chính sách thân Liên Xô trước đó của Tổng Bí thư tiền nhiệm Lê Duẩn; cất chức Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch, người có tư tưởng độc lập với Trung Quốc và loại ông khỏi Bộ Chính trị.

Vì các văn kiện Thành Đô, kể cả tài liệu quan trọng được gọi là Kỷ yếu Hội nghị do Lý Bằng sọan cho ông Linh ký kết với phiá Trung Quốc chưa được bạch hóa nên không ai biết ông Linh còn cam kết dành cho TQ những đặc quyền đặc lợi nào khác.

Chỉ biết những việc sau đây đã xẩy ra từ sau Hội nghị Thành Đô:

- Đảng nghiêm cấm không cho tổ chức kỷ niệm hay nhắc đến cuộc chiến xâm lược qua biên giới VN của quân Trung Quốc từ 1979 đến 1987.

- Không đòi lại những phần đất, khỏang gần một ngàn cây số vuông đã bị mất vào tay Trung Hoa sau cuộc chiến biên giới, trong đó có nhiều điểm cao chiến lược, tiêu biểu như điểm cao 1509 mà Trung Hoa gọi là Laoshan (Lão Sơn hay Núi Đất) và Gỉa Âm Sơn (điểm cao 1250) ở tỉnh Hà Giang (trước là Hà Tuyên).

- Ngăn chặn mọi nỗ lực tưởng niệm hay tuyên dương 74 chiến sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến đấu chống quân Tầu xâm lược Hòang Sa tháng 1-1974. Không có hành động đòi lại mà chỉ biết nói đi nói lại “Hoàng Sa là của Việt Nam”.

- Chỉ cho tổ chức rất hạn chế và cục bộ để tưởng nhớ đến 64 chiến sỹ Quân đội ND đã bỏ mình trong trận chiến bảo vệ biển đảo Trường Sa

năm 1988, nhưng khg có hành động nào nhằm lấy lại lãnh thổ đã mất.

- Sách lịch sử của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ nói rất sơ sài về những biến cố lịch sử này.

- Việt Nam cũng đã để mất 2/3 thác Bản Giốc và chịu nhận đường biên giới hai nước nằm ở phiá nam Ải Nam Quan, thay vì phiá bắc Ải này, căn cứ theo Hiệp định biên giới trên đất liền ký ngày 30-12-1999. Như vậy Ải lịch sử Nam Quan nay nằm bên phiá Trung Quốc.

Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ từng tham gia đàm phán với Trung Quốc nói : “Căn cứ vào các tư liệu có giá trị pháp lý theo Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ mà Việt Nam và Trung Quốc ký năm 1993, thì rõ ràng đường biên giới tại khu vực này luôn nằm về phía nam Ải Nam Quan, chứ không phải đi qua Ải Nam Quan theo tiềm thức của người Việt Nam. Như vậy không có chuyện Việt Nam đã nhường Ải Nam Quan cho Trung Quốc như nhiều người suy diễn theo cảm tính và dựa vào những thông tin thiếu khách quan, không có giá trị pháp lý.” (VNExpress 31-01-2015)

Tuy nhiên, ông Trục đã quên rằng sách sử Việt Nam đều đã từng nói “nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu” !

- Ngoài mất mát trên đất liền, Việt Nam còn đồng ý ký 2 Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hợp tác Nghề cá với Trung Quốc năm 2000 có nhiều bất lợi cho Việt Nam, theo quan điểm của một số chuyên viên của Qũy nghiên cứu Biển Đông.

Các chuyên viên biển đảo Việt Nam ở trong nước và nước ngoài của Qũy này cho biết : “Vịnh Bắc Bộ được bao bọc bởi Việt Nam và Trung Quốc có diện tích 123.700 km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 320 km (176 hải lý) và nơi hẹp nhất khoảng 220 km (119 hải lý). Chiều dài bờ biển phía Việt Nam khoảng 763 km, còn phía Trung Quốc khoảng 695 km. Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 1.300 hòn đảo ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền nước ta khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km. Vịnh có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc về an ninh và quốc phòng”. (Trích bài viết “Đàm phán Việt - Trung về khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ” ngày 24-02-2014)

Nguyên Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Dy Niên cho biết: “Việt Nam được hưởng 53,23% diện tích Vịnh và

Trung Quốc được hưởng 46,77% diện tích Vịnh”.

Như vậy, phiá Việt Nam hơn Trung Quốc 6,46%, hay khỏang 8,205 cây số vuông, theo ước tính của Qũy Biển Đông.

Hợp tác cùng phát triểnĐáng chú ý là trong Hiệp định này,

VN đã đồng ý “hợp tác cùng phát triển” với TQ ở vùng biển này, và nay cả ở khu vực bên ngoài vịnh Bắc Bộ. Nội dung này phù hợp với chủ trương cốt lõi của Trung Quốc từ thời Đặng Tiểu Bình đưa ra năm 1979 và được tái khẳng định bởi Tập Cận Bình năm 2013, theo đó Trung Hoa luôn luôn coi Biển Đông là “biển của ta, gác tranh chấp để cùng khai thác” !

Việc Trung Quốc tự nhận chủ quyền trong hình Lưỡi bò chiếm ¾ diện tích 3.5 triệu cây số vuông Biển Đông là một bằng chứng.

Dù Trung Quốc không giấu diếm tham vọng, nhưng vào ngày 11-10-2011, tân Tổng Bí thư đảng CSVN khoá XI Nguyễn Phú Trọng vẫn vội vã sang Tầu họp với Tổng Bí thư-Chủ tịch nhà nước Trung Hoa Hồ Cẩm Đào để tái cam kết 6 điểm về “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung”. Tại Bắc Kinh, ông Trọng đã đồng ý “Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này.” (điểm 5)

Sau chuyến đi của ông Trọng, phiá Trung Quốc tiếp tục áp lực Việt Nam phải mau chóng thi hành những cam kết đã ký qua các chuyến qua lại của lãnh đạo hai nước, trong đó có các chuyến đến Việt Nam của Thủ tướng Lý Khắc Cường, Ủy viên Quốc vụ viện phụ trách biên giới-biển đảo Dương Khiết Trì và của Ngoại trưởng Vương Nghị.

Diễn biến mới nhất là chuyến sang Tầu của ông Nguyễn Phú Trọng từ ngày 7 đến 10 tháng 4-2015 để gặp TBT đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình, trước khi ông Trọng thực hiện chuyến đi lịch sử sang Hoa Kỳ gặp Tổng thống Barrack Obama, dự kiến từ ngày 07-09/7/2015.

Tại Bắc Kinh, theo tin Việt Nam Thống tấn xã thì hai bên tái khẳng định: “Đối với vấn đề trên biển, (hai bên) nhấn mạnh tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-

Số 223 Trang 18

Page 19: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Trung Quốc;” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.”

Sau đó, khỏang 2 tuần lễ trước ngày ông Trọng đến Hoa Thịnh Đốn, Bộ trưởng Ngọai giao Phạm Bình Minh lại đi Bắc Kinh họp với Ủy viên Quốc vụ Quốc vụ viện Dương Khiết Trì, từ ngày 17-19/06/2015, trong khuôn khổ của Phiên họp lần thứ 8 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc.

Ngoài Dương Khiết Trì, ông Minh còn gặp Thủ tướng Lý Khắc Cường và Bộ trưởng Ngọai giao Vương Nghị để hai bên cam kết “không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; xử lý kịp thời thỏa đáng vấn đề nảy sinh, duy trì đại cục quan hệ Việt - Trung và hòa bình, ổn định ở Biển Đông.”

Tuy cam kết như thế, nhưng phiá Trung Quốc đã và đang làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp với các hoạt động bành trướng lãnh thổ và chiếm đóng biển đảo của VN.

Đáng chú ý là không thấy ông Minh đề xuất Trung Quốc phải ngưng ngay lập tức việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết lập các căn cứ quân sự ở Biển Đông, hay đòi chấm dứt các cuộc tấn công tầu cá Việt Nam.

Bởi vì, theo Cục Kiểm ngư Việt Nam thì “nhiều tàu cá của ngư dân ở hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi đã bị một số lượng lớn tàu cá vỏ sắt của Trung Quốc liên tiếp đâm uy hiếp và đe dọa. Trong đó, riêng tại Quảng Ngãi, Trung Quốc đã uy hiếp, tấn công 23 tàu cá của ngư dân.” (theo Thông tấn Xã Việt Nam [TTXVN] ngày 30-06-2015)

Cùng thời gian này, nhiều tầu cá Trung Quốc đã công khai xâm nhập sâu vào vùng biển Việt Nam để đánh bắt nhưng chỉ bị cảnh cáo, xử phạt hành chính và xua đuổi đi nơi khác.

Việc làm này của phiá Việt Nam trái ngược với các vụ tấn công, đánh ngư dân và tịch thu tài sản tầu cá Việt Nam của các tầu hải giám Trung Hoa.

Tại sao Việt Nam lại yếu mềm và sợ Trung Quốc trước ngày ông Trọng đi Mỹ như thế thì chỉ có lãnh đạo và nhà nước VN mới có thể trả lời được.

- Phía Việt Nam còn bị “mắc họng” khó nói với thế giới vì sao năm 1958

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hòang Sa và Trường Sa. Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà (miền Bắc) cũng không hề lên tiếng phản đối khi quân Trung Quốc chiếm Hòang Sa từ tay Quân đội Việt Nam Cộng hòa năm 1974. Do đó báo chí Trung Hoa trong những ngày cuối tháng 6-2015 đã gia tăng chỉ trích Việt Nam đã quên những cam kết qúa khứ và thay đổi lập trường sau ngày thống nhất đất nước năm 1976.

- Song song với những việc làm tréo cẳng ngỗng khó hiểu này, Đại tướng Lê Đức Anh, trong chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng, đã phạm lỗi lầm lịch sử tại mặt trận Trường Sa năm 1988, khi ông ra lệnh cho binh sỹ bảo vệ đá Gạc Ma không được nổ súng chống lại quân Tầu khi chúng xâm lược và chiếm 7 bãi đá. 64 binh sỹ của Việt Nam đã bị quân Tầu giết hạ trong cuộc chiến “bị bó tay” này !

Vì vậy ông Anh đã được phiá Trung Hoa sử dụng làm quân cờ đi đêm với Đại sứ Trung Hoa ở Hà Nội, qua mặt Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch, để phối trí đưa phái đòan Nguyễn Văn Linh đi Hội nghị Thành Đô dàn xếp chuyện Kampuchia theo những điều kiện của Trung Hoa.

Sau Hội nghị Thành Đô, ông Đỗ Mười, người năng nổ nhất trí với phiá TQ sau ông Nguyễn Văn Linh, đã lên làm Tổng Bí thư khoá đảng VII và Đại tướng Lê Đức Anh được tưởng thưởng chức Chủ tịch nước khiến Trung Hoa hả dạ cười tươi. Vì vậy, trước những nhượng bộ chính trị làm mất thể diện quốc gia và tư cách lãnh đạo của các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Lê Đức Anh ở Thành Đô, ông Nguyễn Cơ Thạch đã thốt lên câu nói lịch sử: “Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự”.

Lời cảnh giác của ông Nguyễn Cơ Thạch đã dẫn chứng trong 2 Hiệp định biên giới và Vịnh Bắc Bộ bất lợi cho VN của thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (khoá đảng VIII). Đến thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (hai khoá IX và X) thì ông Mạnh lại nghe theo lời đường mật của Trung Quốc cho họ vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên mà hiệu qủa kinh tế còn rất mờ mịt.

Theo tài liệu của Bách khoa Tòan thư mở thì Tiến sỹ Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, khẳng định : "Dự án bô-xít Tây Nguyên vừa lỗ nặng, vừa gây ô nhiễm đến môi trường cả trước mắt và lâu dài". Cũng theo ông Trường thì "Nhà đầu tư TKV (Tập

đòan Khoáng sản Việt Nam, Vinaco-min) đã được Bộ Tài nguyên & Môi trường "bao cấp" không tính phí tài nguyên môi trường, Bộ GTVT "hỗ trợ" tuyến đường vận chuyển (bằng tiền ngân sách), Bộ Công Thương dự trù "biếu không" nhà máy thủy điện Đồng Nai 5 để phục vụ cho dự án bô-xit... Tất cả các công trình nói trên là tiền ngân sách, thực chất là tiền thuế của dân, cần phải hết sức thận trọng, suy tính sử dụng cho có hiệu quả vì nợ công đã đến mức báo động đỏ."

Theo ước tính của một số chuyên gia thì tổng số tiền lỗ của mỗi năm ít nhất là 33 triệu.

Đó là “thành tích” lệ thuộc Tầu của ông Nông Đức Mạnh, sau 10 năm cầm quyền (1992-2001).

Chuyện bây giờVới bối cảnh lịch sử và những hệ

lụy xẩy ra sau đó cho Việt Nam từ sau Hội nghị Thành Đô trong 30 năm qua các thời đại Nguyễn Văn Linh (khoá đảng VI), Đỗ Mười (khoá VII), Lê Khả Phiêu (khoá VIII), Nông Đức Mạnh (hai khoá IX và X) cho đến ông Nguyễn Phú Trọng (khoá đảng XI), Việt Nam tiếp tục bị Trung Quốc xỏ mũi kéo đi phiêu lưu để kiệt quệ cả nhân lực và tài lực.

Đó là hậu qủa lời cám ơn Giang Trạch Dân của ông Nguyễn Văn Linh tại Hội nghị Thành Đô năm 1990 khi ông ca ngợi quan hệ hữu nghị giữa VN và TQc là “vừa là đồng chí vừa là anh em” như ông Hồ Chí Minh đã nói, căn cứ theo tác gỉa Trung Quốc Trương Thanh, lúc đó là Vụ phó Vụ Á châu 1 Bộ Ngoại giao Trung Quốc, người tham dự hội nghị. (Tài liệu của chuyên gia về Trung Quốc Dương Danh Dy, BBC, 23-10-2014)

Nguyễn Phú Trọng-Trần Đại Quang

Vậy mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong diễn văn kỷ niệm 100 năm ngày sinh tại quê hương Hưng Yên của ông Nguyễn Văn Linh sáng 30-06-2015 đã không ngớt ca ngợi lập trường kiên trì chủ nghĩa Cộng sản thân Trung Quốc của ông Linh và coi đó như khuôn vàng thước ngọc để bảo vệ quyền lực cho đảng.

Ông Trọng lập lại lời Nguyễn Văn Linh nói rằng: “Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng ta... Chẳng lẽ bao nhiêu thành quả cách mạng giành được bằng xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam lại đem trao vào tay những lực lượng đưa đất nước đi vào con đường tư bản chủ nghĩa, con đường chắc chắn không thể bảo đảm độc lập thật sự cho dân tộc, tự do hạnh phúc thật sự cho tuyệt

Số 223 Trang 19

Page 20: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đại đa số nhân dân”.Ông cũng không quên đọc lời ông

Linh qủa quyết : “Kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo. Chúng ta phải đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ phía những thế lực thù địch, những kẻ cơ hội.

Đồng chí kịch liệt phê phán quan điểm đòi "đa nguyên, đa đảng". Đồng chí nói: "Trong điều kiện nước ta, không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động... hoạt động chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều mà nhân dân ta dứt khoát không chấp nhận.”

Khi ông Trọng mượn lời Nguyễn Văn Linh để nói vào thời điểm đảng CSVN chuẩn bị Đại hội đảng XII chính là ông muốn nói với đảng viên và người dân về chủ trương lạc hậu và phản dân chủ của những người cầm quyền bây giờ.

Quan điểm độc quyền cai trị của đảng CSVN và chống đa nguyên đa đảng, chống bầu cử dân chủ tự do đã được ông Trọng nói trắng ra mà không cần biết nhân dân và cán bộ đảng viên có còn muốn nghe theo hay không.

Nhưng tại sao ông Trọng lại phải mượn những lời sặc mùi bảo thủ Cộng sản của ông Linh để hù họa người dân vào lúc giặc ngọai xâm Trung Quốc đã vào bên trong ngôi nhà VN từ Biển Đông đến đất liền ?

Phải chăng ông muốn gửi một thông điệp cho người bạn láng giềng TQ Tập Cận Bình biết để yên tâm ông sẽ không thay lòng đổi dạ trong chuyến đi Hoa Kỳ gặp Tổng thống Obama trong những ngày sắp tới ?

Song song với diễn văn của ông Trọng là bài viết của Đại tướng Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang được báo đảng CSVN phổ biến có tựa đề “Tiếp tục giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước”.

Bài viết cũng chỉ nhằm ca tụng quan điểm chính trị tuyệt đối trung

thành với chủ nghĩa Cộng sản và chống đa nguyên đa đảng của Nguyễn Văn Linh.

Ông Quang viết: “Đồng chí kịch liệt phê phán những tư tưởng, quan điểm chính trị sai trái, không phù hợp với cách mạng nước ta, nhất là quan điểm “đa nguyên, đa đảng”, đòi Đảng ta từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Đồng chí kiên quyết khẳng định: “Trong điều kiện nước ta không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động, phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều mà nhân dân ta dứt khoát không

chấp nhận.”Ám chỉ đến tình trạng “tự diễn

biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ đang đe dọa sự sống còn của đảng, ông Quang đã mượn hòan cảnh dao động của đảng viên thời Nguyễn Văn Linh cầm quyền (1986-1991), đúng là lúc Nhà nước Cộng sản sụp đổ ở Nga và các nước Cộng sản Đông Âu để quyết tâm giữ vững lập trường.

Ông viết: “Lập trường, quan điểm rõ ràng, dứt khoát, không khoan nhượng của Trung ương Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vừa quyết tâm đổi mới đến thắng lợi, vừa kiên định tuyệt đối nguyên tắc cách mạng trong cuộc đấu tranh với những biểu hiện dao động, cơ hội, hữu khuynh của một số người trong và ngoài Đảng đã kịp thời chỉnh đốn về tư tưởng và hành động của cán bộ, đảng viên, đẩy lùi âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chống chủ nghĩa xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo tiền đề để sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục phát triển.”

Nhưng sau 17 năm ngày ông Linh qua đời (1998), tình hình thế giới đã thay đổi, thế giới Cộng sản đã tan biến và những con người Cộng sản ở Việt Nam và Trung Quốc cũng đã nhìn ra ánh sáng của dân chủ và tự do cần thiết cho đời sống con người như thế nào.

Nhưng ông tướng Công an đã tát

nước theo mưa với ông Trọng để mượn lời Nguyễn Văn Linh mà cao rao: “Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn”… Cũng không có lý do gì để chúng ta phải “lùi lại” giai đoạn dân chủ nhân dân, mà lịch sử đã vượt qua. Nếu có những việc của giai đoạn trước chưa làm xong hoặc chưa làm tốt thì chúng ta tiếp tục giải quyết nốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoài con đường XHCN.”

Nhưng tại sao người cầm đầu Bộ Công an, lực lượng bảo vệ đảng thứ hai sau Quân đội phải lên giọng quyết liệt bảo vệ chủ nghĩa Cộng sản và bảo vệ đảng đến tận răng như thế vào lúc này ?

Phải chăng Công an cũng đang

“tự diễn biến” và “tự chuyền hoá” như Quân đội và một số không nhỏ cán bộ, đảng viên ?

Hay Trần Đại Quang cũng muốn chuyển một tín hiệu qua biên giới cho Công an Trung Quốc để họ yên tâm trước chuyến Mỹ du lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ? -/-

Suốt cả tuần qua, cỗ máy tuyên

truyền của đảng họ đã mở hết cỡ, hết tốc độ để nhồi nhét vào lớp trẻ thời nay một hiện tượng lịch sử chưa bao giờ được học, được biết. Đó là công ơn vĩ đại, toàn diện và thành công rực rỡ chưa từng có của một nhân vật lãnh tụ Cộng sản từ nay sẽ trở thành “thánh sống” của những trang lịch sử huy hoàng, rực rỡ vinh quang hơn tất cả mọi nhân vật “nửa thánh nửa người” của đảng họ ở mọi thời đại... trừ ông Hồ!

Đó là: nhân vật Nguyễn văn Linh, người nắm chức vụ tổng bí thư chỉ độc có một nhiệm kỳ (1986-1991) rồi... “xin rút” (?!), để lại không biết bao nhiêu giai thoại cũng như chuyện tiếu lâm do cái đức “tính” quá ư... chân thật, nói và làm... đến dại dột của ông ta.

Là một người được làm việc dưới sự lãnh đạo trực tiếp hoặc gián tiếp của ông ta khi còn công tác tại Nhà xuất bản văn Nghệ trực thuộc Ban Tuyên huấn Thành ủy mà ông đã hai lần lên trung ương rồi lại về làm bí thư, từ 1975 đến 1986, mình đã hơn một lần được gặp ông và nghe ông

Số 223 Trang 20

Page 21: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

nói chuyện... “thật thà như đếm”, chứng kiến tận mắt ông gương mẫu thật sự khi không chịu đổi xe Lada cổ lỗ sĩ của Liên Xô cũ lấy xe đời mới, không chịu dùng chuyên cơ mà mua vé “dân thường” khi bắt buộc phải có mặt tại Sài-gòn!...

Những năm đầu của thập niên 90 thế kỷ trước, sau khi chủ nghĩa xã hội với thành trì Liên Sô sụp đổ hàng loạt, mình khấp khởi mừng thầm: phải chăng đang có một loạt Góoc-ba, Eltsine... Việt ra đời?

Nhưng than ôi! Sự đời ngược lại hoàn toàn! Té ra, cái ông NVL này... sợ cuống cuồng vì lo mất cái “đảng đổi mới” nhưng không rời bỏ một ly ông cụ cái chủ nghĩa Mác-Lênin của ông sẽ... “đi tiêu” nên... (xin lỗi!), ông đã quay ngoắt 180 độ lên tiếng chửi: “Góocba là tên cơ hội chính trị nhất hành tinh” và... dẫn đầu đoàn nãnh tụ cấp cao đi “quì gối lai hàng” Đại Hán bành trướng, chấp nhận quên hết những gì và hứa hẹn những gì với “ông anh 4 tốt”, thì... đến nay, vẫn là điều mà các nhà chính trị, đảng viên lão thành, “cán bộ cách mạng thứ thiệt” đang đòi hỏi cần “bạch hóa”!

Hãy đọc thử mấy dòng báo động và kiến nghị: 

“Những đảng viên Cộng sản lão thành như: Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng Lê Duy Mật, Giáo sư Hoàng Tụy, Giáo sư Tương Lai, Giáo sư Nguyễn Khắc Mai, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, Nữ nghệ sĩ ưu tú Nguyễn thị Kim Chi… đồng gửi Thư Ngỏ BCH TW ngày 28-7-2014, thư có đoạn viết:

“Từ nhiều năm nay, đảng Cộng sản Việt Nam dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba mươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc tài toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc...

“Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay, Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt. Càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới...

Còn nhiều cách đánh giá một cách khá là... “thương cảm” cho ông về cái sự “đổi mới” chưa phải lúc của ông. Đơn cử một ý kiến kiểu này là ý của ông Võ Trần Chí, nguyên bí thư thành

ủy Sài-gòn: “Trong cuộc đời mình, tôi chưa

từng thấy vị lãnh đạo nào dám lội ngược giòng chính trị, ngược giòng lịch sử - lội ngược mà không chìm như anh Nguyễn Văn Linh... Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đang nằm trong Bộ Chính trị thì đến cuối nhiệm kỳ, anh Linh đã xin rút rồi được phân công trở về làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh vào đúng thời kỳ cam go nhất. Anh đã vực dậy kinh tế TP, trở lại tham gia Bộ Chính trị rồi trở thành Tổng Bí thư. Mọi biến động, thăng trầm trong cuộc đời làm cách mạng, làm chính trị đi ngang qua anh và anh đón nhận tất cả với một thái độ bình thản đến lạ lùng...” 

Cùng một nhận định về “con đường gồ ghề” khúc khuỷu của ông NVL, Ủy viên trung ương Phạm Quang Nghị cũng xót xa: 

“Hiếm có một nhà lãnh đạo nào đã trải qua những chặng đường như đồng chí đã trải qua: vào, rồi lại ra, rồi lại được Trung ương bầu lại vào Bộ Chính trị. Dù lịch sử có những lúc phải đi qua những chặng hiếm đường gồ ghề, khúc khuỷu; phải trải qua những lựa chọn hết sức khó khăn...” 

Còn Huy Đức một nhà báo trẻ nhưng có trong tay khá nhiều tư liệu về “chuyện cung đình”, khi viết “Bên thắng cuộc”, sau khi lôi ra hàng loạt chuyện “gồ ghề khúc khuỷu” cụ thể thì kết luận khá là “bi hùng” như sau: 

“Cho dù không thể đưa một xã hội đã bắt đầu thức tỉnh quay trở lại vào lồng, ông Nguyễn Văn Linh đã bỏ lỡ cơ hội để được lịch sử đánh giá như một tổng bí thư đổi mới” (Huy Đức, Bên thắng cuộc) 

Tóm lại, chỉ vì nguy cơ mất Đảng, ông NVL đã bắt buộc chọn con đường “cài số lui”, tự xóa sạch mọi dấu ấn “đổi mới” chưa kịp... “hết... cũ” của mình, bỏ rơi luôn các đồng chí đồng hướng của mình, mặc cho những tư tưởng bảo thủ trong và ngoài nước phanh thây xé xác mà đắng cay nhất là ông Trần Độ, trung ương ủy viên, trưởng Ban văn hóa-tư tưởng, người đã đồng hành với ông những ngày đầu muốn “cởi trói” cho văn nghệ!

Riêng về vụ mật đàm Thành Đô thì ông NVL đã hiện nguyên hình là một “cánh vạc kêu sương” mất hết mọi uy tín “hiền lành”, “gương mẫu”, “khiêm tốn”, “giản dị” còn lại!

Hãy nghe một lời “báo động đến rợn người” về hậu quả của “mật đàm Thành Đô” của tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ tại Hà Lan, nguyên trưởng nhóm tư vấn lãnh đạo Bộ Ngoại giao viết trong Hồi ký

của mình. Ông Thắng viết: “Chắc hẳn nhiều người còn nhớ

buổi giao ban năm ấy... Với sắc mặt thất thần, ông Trần Quang Cơ gần như gào to giữa phòng họp: “Mọi người biết không, người ta (đoàn quy hàng do NVL dẫn đầu) sắp cắt thủ cấp Nguyễn Cơ Thạch để dâng cho nước ngoài rồi”... Đoán “triều đình” có biến, lũ chúng tôi (những đứa lần đầu được dự giao ban), chẳng ai bảo ai, im thin thít. Tôi cố gắng tập trung vào “Bản tin A” (*) nhưng đầu óc thì nghĩ mông lung”. 

Riêng đối với văn nghệ sỹ thì NVL phạm “tội” cụ thể nhất! Đó là tội “đánh trống bỏ dùi”, “mang con bỏ chợ”... Nhân danh “đổi mới tư duy”, “cởi trói cho văn nghệ” ông bốc nhằng như sau: 

“...Các đồng chí có nói nhiều đến sự cởi trói”. Có như vậy mới phát huy được hết khả năng trong lãnh vực của các đồng chí. Cởi trói như thế nào? Cởi trói nói ở đây, trước hết tôi nghĩ: Đảng phải cởi trói:

“Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách, trong các quy chế, chế độ... Nghe các đồng chí phát biểu tôi cũng không ngờ rằng trong lĩnh vực này cũng có kiểu quản lý hành chính bao cấp, tới đây phải sửa chữa và phải xây dựng những văn bản pháp quy nhằm bảo đảm sự phát triển cho ngành cách đồng chí. Đảng và Nhà nước phải bắt tay mau lẹ vào công việc này. 

“Một mặt khác, tôi nghĩ, trong lĩnh vực của các đồng chí, không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm. Hồi sáng, nhân có ý kiến đồng chí nào đó phát biểu, tôi có nói chen vào "Hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu" là trên ý nghĩa như vậy. Chính các đồng chí cũng đòi hỏi rằng trong lĩnh vực của các đồng chí, không được áp đặt mọi công việc như đặt con tàu chạy trên đường ray, các đồng chí cần được tự do lo liệu cho các công việc của mình. Nếu như trong lĩnh vực kinh tế hiện nay cần phát huy dân chủ cho người sản xuất thì ở lĩnh vực của các đồng chí, các đồng chí cũng phải làm chủ. 

“Tôi nghe nhiều đồng chí nói văn nghệ sĩ còn bị cấm đoán, sát phạt... Và, cái các đồng chí lo sợ nhất là cái thường lơ lửng đâu đó trong không trung. Các đồng chí sợ nó hơn sợ sự kiểm duyệt. Đó là nỗi sợ những thứ dư luận nào đó kết tội các đồng chí viết không đúng lập trường, chống lại đường lối, chủ trương của Đảng v.v... Nghe các đồng chí nói lên điều lo ngại này, tôi rất thông cảm. Chính vì thông cảm mà sáng nay khi nghe các

Số 223 Trang 21

Page 22: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đồng chí phát biểu, tôi đã "ngửa miệng" kêu: "Hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu". Mình phải chặt chẽ với mình. Khi thấy mình là đúng, có ý thức xây dựng thì phải kiên quyết bảo vệ chân lý... 

“Tôi nghĩ, dù thế nào, các đồng chí cũng không nên uốn cong ngòi bút của mình. Thà rằng chưa viết được thì cứ đi vào thực tế đời sống tích lũy thêm vốn hiểu biết, chứ không viết theo kiểu tùy thời. Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, người nghệ sỹ phải dũng cảm, có tấm lòng trong sáng, đừng chùn bước..."

Nghe thật... sướng cái lỗ tai, sáng cả đôi mắt, rung động mọi trái tim nhậy cảm của giới văn nghệ sỹ tràn đầy niềm hy vọng cho cái Chân, Thiện, Mỹ phen này lại được trở về với bản chất của mọi nền văn nghệ ở mọi thời đại...

Nhưng than ôi! Cái gì đã xảy ra sau vụ “Cái đêm hôm ấy đêm gì?” (1), “Phẩm tiết” (2) và nhất là “Nỗi buồn chiến tranh” (3) bị lên mâm chửi bới đi theo sự mất chức tổng biên tập của nhà văn lão thành Nguyên Ngọc, người đã có nhận định “Nỗi buồn chiến tranh” là tác phẩm nổi bật nhất của thời kỳ “Đổi mới”! 

Rồi sau đó là... tất cả lại... ô rơ lui về điểm cũ: văn nghệ được tự do nhưng phải đi theo đường lối của đảng, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin!

Đánh giá việc “đánh trống bỏ dùi” này, có rất nhiều ý kiến của giới văn nghệ, Nhưng có lẽ sâu sắc và thẳng thừng nhất là tiến sỹ Hà Sỹ Phu, nạn nhân sự “đổi mới tư duy” quá sớm nên bị cú rơ-ve: nhập kho! Ông viết: 

“Có một đoạn ông ấy muốn đổi mới ông ấy nói phải tự cởi trói trước khi chờ trói, rồi thì ông ấy bảo văn nghệ sĩ không nên bẻ cong ngòi bút... cái giai đoạn ấy ông làm cho nhiều người tưởng đâu là tốt nhưng thật ra về lập trường thì ông ấy rất là bảo thủ. Thứ nhất là giữa quan hệ với ông Võ Văn Kiệt và ông Nguyễn Hộ thì người bảo thủ số một trong ba người này chính là ông Nguyễn Văn Linh. 

“Ông Linh còn định bắt xử tội ông Nguyễn Hộ và bắt hai lần rồi và có lẽ suýt nữa bắt luôn Võ Văn Kiệt. Ông này rất bảo thủ, rất Maoist. Thứ ba nữa, sau khi viết một số bài có vẻ muốn đổi mới thì tôi có được nghe một câu chuyện: có lần ông Lê Đức Thọ nói trong nội bộ về ông Nguyễn Văn Linh cho rằng ông này trình độ thật ra chỉ đáng làm cán bộ địa phương thôi, thế nhưng giao cho ông ta cây đại đao ông không biết múa, để cho kẻ địch nó cướp mất. Tóm lại

phía bảo thủ họ coi rằng ông ấy nêu ngọn cờ đổi mới rất là bất lợi cho sự độc tôn của Đảng và như thế phía Lê Đức Thọ họ quyết là phải phê phán ông Nguyễn Văn Linh.” 

Tóm lại: Chỉ với những đánh giá về NVL không thống nhất ngay trong hàng ngũ cán bộ đảng viên kỳ cựu, trong dư luận của những người cùng thời với ông thì: NVL không phải là một ngôi sao sáng đặc biệt, càng không phải là một cánh đại bàng vượt lên mọi “cánh chim cách mạng” của mọi thời đại và cũng không phải ngẫu nhiên mà ông chỉ giữ chiếc ghế tổng bí thư có độc một nhiệm kỳ rồi... xin rút lui vì “ngoài ấy người ta không thích tôi”!

Chưa kể không ít những tài liệu và chính do ông thổ lộ đã cho thấy:

- Giữa ông và ông Võ Văn Kiệt có những nguồn bất đồng đến đối kháng... mà VVK suýt “tiêu tùng” vì chính ông đã phát hiện VVK xử dụng “lực lượng tại chỗ” vào công cuộc xây dựng kinh tế nên đã giao cho cả “phần tử CIA” như Dương Văn Ba làm Phó giám đốc Cimexcol Minh Hải thời trước 1987 (4)!

- Người đề ra “Đổi mới hay là chết” không phải là ông NVL mà chính là Tổng bí thư cũ Trường Chinh, đã vượt qua hàng rào bảo thủ trình bày đề án “đổi mới toàn diện” trước khi xin nghỉ. Chuyện này chính ông NVL cũng công nhận chứ chẳng phải ai khác!

Wikipedia đang còn ghi chép: Theo Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn

Linh: "Năm 1986, ở cương vị Tổng Bí

thư, đồng chí Trường Chinh đã sớm nhận rõ được xu thế của thời đại, thực trạng của đất nước, yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân, đồng chí đã có nhiều đóng góp rất quan trọng vào việc đề ra chủ trương đổi mới. Vang mãi trong lòng nhân dân ta lời phát biểu của đồng chí trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI: Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn". [12] 

https://vi. wikipedia. org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Chinh

Và... cả một thời gian dài, cái tên NVL ít khi được nhắc tới trong các buổi chào mừng, kỷ niệm quan trọng, ít xuất hiện trên tivi, báo chí của đảng...

Vậy mà năm nay, sau khi phái đoàn hùng hậu chưa từng thấy của vua Trọng đi chầu Thiên Triều về, và trước khi lên đường sang sứ kẻ thù là đế quốc Mỹ xâm lược, người ta (gần như toàn bộ Bộ Chính trị) kéo nhau về trung tâm Phố Hiến (thứ nhất kinh

kỳ, thứ nhì Phố Hiến, Hưng Yên) để làm lễ “phong thánh” (để rồi đây bắt toàn dân phải phụng thờ) cho ông Linh tới hai lần! Một dưới chân tượng đài vĩ đại, hoành tráng, to, cao (và chắc tốn kém bậc nhất). Hai là tại Trung tâm hội nghị tỉnh cũng hoành tráng chẳng thua các trung tâm thành phố lớn. Ở đó, ông tổng Trọng tranh thủ “nhét vô mồm người đã chết” những câu nói, những cụm từ lý luận cách mạng Mác-Lê mà lúc sinh thời, ông Linh người ưa nói nôm na, hơn là lý luận kiểu tiến sỹ Mác-Lê, không dùng bao giờ... Lần này, lợi dụng ông Linh, ông Trọng đã hơn một lần chửi cái “bọn Đế quốc Mỹ xâm lược và bọn tay sai”, và lải nhải đi lải nhải lại 4 cái chữ “xã hội chủ nghĩa” và “chủ nghĩa Mác-Lê” nghe vừa phát bực lại phát... buồn cười như những tuyên bố của một xác chết từ... âm ty! Chỉ trong có mấy dòng mà cái Mác cái Lê cứ được dõng dạc vung lên tí mẹt như sau: 

“Đồng chí (NVL) khẳng định: Kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước ta góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo. Chúng ta phải đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghiã Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh từ phía những thế lực thù địch, những kẻ cơ hội...” (trích Tuổi Trẻ 1-7-2015 tg 2 cột 3... không cắt ghép, không thêm bớt một chữ).

Hai cái tên Tây điên khùng râu xồm, đầu hói này đã chết từ đời tám hoánh nào trong lòng dân của nước chúng nó, cũng như nhân dân toàn thế giới... Vậy mà hôm nay, ông Trọng, chỉ trong có 2 câu liền nhau, đã lại “gọi hồn” lên đến... 5 lần (!) để nhét vào mồm ông Linh như để khẳng định: Những gì tôi nói gần đây “Thánh NVL” đã nói từ lâu rồi. “Tôi chỉ là học trò của “người chiến sỹ cách mạng vĩ đại” này, mà nhắc lại lời Người mà thôi!” 

Có điều ông Trọng hoàn toàn tránh né kể đến công lao to lớn của đ/c NVL trong mật nghị Thành Đô... mà “các đồng chí 4 tốt” đang dần dần “bạch hóa” bằng hành động và lời nói: “quyết tâm đòi lại biển Nam Trung Hoa và Nam Sa (Trường Sa) trong tay VN xâm lược” (lời của Vương Nghị, Bộ trưởng ngoại giao Trung cộng).

Số 223 Trang 22

Page 23: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

  Còn chuyện lên giọng chửi Mỹ, kiên định “con đường XHCN đi không biết bao giờ đến” trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhân vật NVL thì... phải chăng Ông Trọng muốn ra thông điệp trước lúc lên đường sang xứ Cờ hoa: Lập trường của chúng tôi là không thay đổi, tương lai của chúng tôi đã được vạch ra từ thời NVL với mật nghị Thành Đô... ký kết gì cũng thể vượt qua khuôn khổ những gì chúng tôi đã thỏa thuận với người đồng chí Trung Hoa vĩ đại của chúng tôi, được vì chúng tôi với họ là... một! 

Và... “tương kế tựu kế”: - Nhằm bịt miệng mọi kẻ đòi bạch

hóa Mật nghị Thành Đô.  - Nhằm công khai tỏ lòng trung thành với những gì mà VN đã đặt bút ký kết ở nơi đó thì... kỷ niệm 100 năm ngày sinh NVL phải làm cho thật đình đám, huy hoàng... 

Thế là từ một cánh vạc ăn sương bỗng vụt trở thành đôi cánh đại bàng che khuất mặt trời!

Một lần nữa lịch sử lại bị xuyên tạc đến... trắng trợn!

http://to-hai.blogspot.de/

DÂN OAN HẢI DƯƠNG BỊ XE ỦI ĐẤT CÁN LÊN NGƯỜI

Vào ngày 10 tháng 7 vừa qua trên mạng xã hội xuất hiện một đoạn clip ngắn ghi lại hình ảnh một bà nông dân bị một xe ủi đất loại bánh xích cán lên phần mặt, còn lộ phần thân và chân vẫy vùng quẩy đạp trọng đau đớn cùng với những tiếng gào thét của những nông dân khác khi chứng kiến cảnh tượng hãi hùng này, cùng lúc đó là một trận mưa đá gạch trút về phía người điều khiển chiếc máy xúc đất đang cố thủ trong cabin, như là một sự phẫn nộ tột cùng của những nông dân, những thanh niên khi chứng kiến hành động giết người một cách dã man tàn bạo này. Thì ra đó là những gì xãy ra tại khu công nghiệp Cẩm Điền - Lương Điền thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, khi những người dân oan đang cố ngăn chặn hành vi cướp đất của bọn cường hào đỏ thời nhà sản.

Ấy vậy mà khi trả lời các báo chí về sự kiện trên, một bậc "phụ mẫu chi dân" là quan huyện Cẩm Giàng, Vũ Hồng Khiêm khẳng định rằng: "Đó là hình ảnh lắp ghép" rằng: “Tôi đã xem clip trên mạng, người ta đã cắt ghép kinh khủng quá, không đúng sự thật."

Và rằng: "Bà Châm ở Hoàng Xá cùng những người dân ra đó ngăn cản xe máy xúc tiến từ ngoài cổng vào công trường. Trong lúc ẩu đả xô xát thì gầu máy xúc đã va phải khiến bà Châm phải nhập viện vì chấn thương. Chúng tôi đang trên đường đến Ủy ban tỉnh và sẽ báo cáo cụ thể về việc này”. Và rồi vào chiều cùng ngày 10-7 vừa qua, UBND tỉnh Hải Dương đã tổ chức họp báo thông tin về vụ việc xảy ra sáng cùng ngày tại Khu công nghiệp Cẩm Điền-Lương Điền. Ông Nguyễn Mạnh Hiển, Chủ tịch UBND tỉnh, tức một bậc "phụ mẫu chi dân" khác không phải ở cấp huyện mà là cấp phủ lại khẳng định một cách xanh rờn rằng: "Không có chuyện máy xúc chèn qua người dân: Do tập trung đông người đã xảy ra xô xát khiến bà Lê Thị Châm, sinh năm 1962, trú tại xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng bị thương - Tuy nhiên, một số đối tượng đã tung tin máy xúc đè chết người dân...".

Đúng là miệng lưỡi của loài sản. Chuyện sờ sờ trước mắt, giữa thanh thiên bạch nhật, với sự chứng kiến của cả trăm người dân địa phương như thế mà các quan phủ, quan huyện nhà sản còn khua môi múa mép nói có thành không, nói đen thành trắng được, thì có gì lạ khi không chỉ riêng loài nhà sản VN, mà cả thế giới loài sản đều suy tôn các lãnh tụ nhà sản, vốn là những đao phủ đại sát nhân, những tội đồ chống lại nhân loại lên hàng thần thánh, bậc vĩ nhân, lên "đấng" cha già dân tộc!

Trích Nguyễn Thu TrâmQuốc hội Việt Nam khóa 13 kết

thúc kỳ họp thứ chín vào ngày 26 tháng 6 vừa qua sau hơn một tháng họp nhưng không ra nghị quyết về Biển Đông. Sau đó các đại biểu về địa phương gặp cử tri, cũng có người cho rằng Việt Nam hiện đang yếu nên không thể đương đầu với Trung Quốc.

Nhiều người dân quan tâm đến vấn đề Biển Đông không đồng ý với quan điểm của quốc hội như thế.

Lập luận của những người phản đối lập trường của quốc hội và đại biểu quốc hội trong chuyện Biển Đông như vừa qua là gì?

Sẽ ra nghị quyết Biển Đông khi cần thiết

Trong cuộc họp báo sau phiên bế mạc kỳ họp quốc hội, chủ nhiệm

văn phòng quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc nói với báo giới là tán thành tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam trong vấn đề Biển Đông hiện nay. Quốc hội tiếp tục theo dõi và sẽ có tuyên bố chính thức khi thấy cần thiết.

Theo nhiều người quan tâm tình hình tại khu vực Biển Đông hiện nay, sau khi Trung Quốc chính thức tuyên bố hoàn thành việc cải tạo một số bãi đá thành đảo nhân tạo, thì thực tế như thế là quá nguy cấp đối với Việt Nam chứ không thể nói là chưa đến lúc cần thiết.

Facebooker Trần Bang từ Sài Gòn trình bày về vấn đề này:

“Theo tôi Quốc hội Việt Nam không độc lập, phụ thuộc vào đảng nên chẳng qua chỉ là nơi để thực hiện các nghị quyết của đảng. Cho nên nói quốc hội Việt Nam đại diện cho dân VN thì không đúng lắm.

Còn việc ra nghị quyết về Biển Đông theo tôi không phải chậm trễ mà là quá chậm trễ. Ngay từ năm ngoái khi giàn khoan HD981 đưa vào Biển Đông vào ngày 1 tháng 5, đến nay họ vẫn tiếp tục không ra nghị quyết. Trong khi đó nguyện vọng của nhân dân là quốc hội phải có tiếng nói để chứng minh rằng việc Trung Quốc cứ lấn tới ở Biển Đông là việc nghiêm trọng và nhân dân VN phải lên tiếng cho nhân dân thế giới và nhân dân Trung Quốc biết việc Trung Quốc làm như thế là không chính đáng, tham lam, là sử dụng sức mạnh của một cường quốc mới nổi để ăn hiếp Việt Nam.”

Nhà nghiên cứu về Biển Đông, ông Trương Nhân Tuấn, từ Pháp cũng đưa ra những ý kiến về việc quốc hội Việt Nam qua mấy kỳ họp vẫn không có một nghị quyết nào về Biển Đông, mà trái lại còn cho là chưa cần thiết:

“Chương năm bản Hiến pháp nói về vai trò Quốc hội. Điều 13 nói về thẩm quyền của quốc hội, nguyên văn như sau :

Quốc hội có quyền: “Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;”

Số 223 Trang 23

Page 24: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Sự toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia của VN bị đe dọa. Những công trình mà TQ vừa xây xong, trong những ngày tới sẽ trở thành những căn cứ quân sự, không quân và hải quân, một số có thể trở thành những pháo đài trên biển. Tất cả các đảo hiện do VN kiểm soát đều bị các căn cứ này đe dọa. Trong khi tham vọng của TQ, họ không giấu diếm, là làm chủ 90% Biển Đông. Thời gian tới họ sẽ ra tuyên bố vùng nhận diện phòng không (ADIZ). Vùng biển của VN cũng bị đe dọa sẽ mất cho TQ.

Trước một tình huống như vậy, nếu ta so sánh với Phi, thì ta thấy thái độ của đại biểu VN khi cho rằng chưa cần thiết để ra một nghị quyết về Biển Đông là vô trách nhiệm.

Theo tôi, hợp lý thì quốc hội phải cấp thời ra nghị quyết về Biển Đông, ban bố tình trạng khẩn cấp ở Biển Đông, hoặc tuyên bố một biện pháp đặc biệt nào đó. Thí dụ kiện TQ ra Tòa. Hoặc là quốc hội ra văn bản chính thức yêu cầu LHQ can thiệp, yêu cầu TQ “tôn trọng luật quốc tế”. Điều này dễ dàng thực hiện vì thời gian qua các viên chức Mỹ đã nhiều lần yêu cầu TQ phải tôn trọng luật lệ quốc tế.”

Không thể đánh lại T.Quốc ?Phó chủ tịch quốc hội Huỳnh

Ngọc Sơn, trong cuộc gặp cử tri thành phố Đà Nẵng sau kỳ họp quốc hội vào ngày 29 tháng 6, được báo chí trong nước trích dẫn nói rằng “Chúng ta cũng đã nghĩ đến việc lấy lại, nhưng hiện nay chưa thể thực hiện được thì đời con cháu chúng ta sẽ làm việc đó. Bà con cử tri cũng hiểu cho các đồng chí lãnh đạo, không phải chúng ta lúc nào cũng hô hào đánh nhau. Hiện đã có phương án, giải pháp cho vấn đề Biển Đông. Khi cần chúng ta sẽ ra nghị quyết và đã ra nghị quyết thì phải có hiệu lực”.

Cư dân mạng bàn tán xôn xao về bài phát biểu của phó chủ tịch quốc hội, thượng tướng Huỳnh Ngọc Sơn và có những phản ứng như trình bày của facebooker Trần Bang:

“Điều này tôi có đọc lại một số

báo thì thấy không hoàn toàn chính xác như Internet đưa. Còn nếu đúng như Internet đưa thì ông ấy không xứng đáng làm tướng, làm người dân Việt Nam cũng chưa được chứ đừng nói là làm tướng. Bởi vì như Internet đưa thì ông ta nói Trung Quốc mạnh lắm, mình không xâm phạm được nó. Nói như thế tức mình xâm phạm Trung Quốc, mà thực tế là Trung Quốc xâm phạm mình. Mình phải bảo vệ, bây giờ chúng ta chưa được mạnh thì chúng ta kêu gọi đồng bào, kêu gọi thế giới, tìm mọi biện pháp. Giống như chúng ta phải có Hội nghị Diên Hồng, kêu gọi người dân có kế gì hiến cho Nhà nước để đòi lại biển đảo. Trước mắt phải không để cho Trung Quốc xâm phạm nữa; sau đó chúng ta đòi lại từng phần đã mất. Phải kêu gọi như thế, ông ta là tướng khi kêu gọi phải ra được những ý như thế: chúng tôi cũng đã tìm cách đòi lại, lấy lại và trước mắt không cho Trung Quốc lấn tới nữa. Trung Quốc cứ nói hữu hảo mà cứ lấn tới hằng ngày, hằng giờ. Dân Việt Nam vẫn bị Trung Quốc xâm phạm. Ví dụ họ cấm không cho tàu thuyền của Việt Nam ra vùng Hoàng Sa từ tháng 6 đến tháng 8…

Về mặt pháp lý chúng ta hoàn toàn đủ sức chứ không yếu được. Mặt khác nếu thấy chưa đủ mạnh thì phải kêu gọi nhân dân, đồng bào, các nước ủng hộ chứ không thể nói yếu không dám chống giặc.”

Các biện pháp khả thỉNhà nghiên cứu Biển Đông

Trương Nhân Tuấn trình bày quan điểm về việc nhắc đến biện pháp chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc trong tình hình hiện nay:

“Mình đâu có yêu cầu Việt Nam đánh, Phi cũng đâu chủ trương đánh; không ai chủ trương đánh cả.

Mình phải sử dụng những biện pháp mà luật pháp quốc tế cho phép. Vấn đề là Việt Nam có dư thừa những phương tiện để sử dụng, để chống lại Trung Quốc một cách hợp lý thì lại không sử dụng, ví dụ như Trọng tài Quốc tế, hay sử dụng diễn đàn của Liên Hiệp quốc để yêu cầu Liên Hiệp quốc đưa ra những

nghị quyết để buộc Trung Quốc tôn trọng luật lệ. Hoặc là Việt Nam có thể thắt chặt đồng minh với Mỹ như Phi họ đang làm. Mục đích để tạo ra một thế đối trọng. Mình biết yếu không thể nào thắng được; nhưng từ bao lâu nay một nước yếu luôn liên minh với một nước mạnh khác để bảo vệ mình. Hành vi của Việt Nam hiện nay là thái độ tự cô lập mình. Thái độ này gọi là ‘tự sát’.”

Theo nhiều người dân ở Việt Nam thì họ cho rằng chính quyền Hà Nội cần phải để cho dân chúng cùng tham gia lên tiếng về tình hình Biển Đông hiện nay. Đa số những người từng tham gia các lần biểu tình chống Trung Quốc gây hấn với Việt Nam trước đây đểu nêu chất vấn tại sao chính quyền Hà Nội lại mạnh tay đàn áp với người dân yêu nước; cũng như mạnh mẽ chỉ trích, tuyên truyền về các thế lực thù địch mà không nói đủ cho người dân trong nước và cả thế giới về tình hình nóng bỏng tại Biển Đông

Lời bình của GS Nguyễn Văn Tuấn:

“Ta như thế này thì bà con thấy ta ăn thua với họ được không?”

Tôi đọc trên một website lề dân thấy tác giả trích câu nói của ông Phó chủ tịch Quốc hội làm tôi kinh ngạc. Đại khái ông nói rằng VN mình coi như bó tay, không thể đòi hay lấy lại Hoàng Sa & Trường Sa đã mất vào tay giặc. Ông còn nói như thách thức: “Ai có giỏi thì thử chỉ huy ra đó coi có thắng không”. Tôi không tin vào mắt mình và không tin tác giả trích dẫn đúng, nên tôi thử google thì quả thật câu nói này trong báo phapluat.vn! Nhưng vào trang web thì thấy người ta đã xoá câu nói này.

Báo phapluat.vn có đi bài “Vì sao Quốc hội chưa ra Nghị quyết về biển Đông” (1) mà trong đó ông Phó chủ tịch QH Huỳnh Ngọc Sơn giải thích tại sao không cần ra nghị quyết về Biển Đông. Theo bản tin lề dân thì nguyên văn câu ông nói là:

“Không lẽ bây giờ bà con bảo là đánh nhau… Nhiều lần ta cũng nghĩ tới việc lấy lại nhưng trong lúc này chưa thể lấy lại được. Để đời con

Số 223 Trang 24

Page 25: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đời cháu chúng ta lấy lại. Trung Quốc bây giờ họ củng cố gần như là bất khả xâm phạm rồi”.

Nhưng càng ngạc nhiên hơn, tác giả cũng trích một câu khác của ông: “Ta như thế này thì bà con thấy ta ăn thua với họ được không? Ai tài giỏi thì thử chỉ huy ra đó coi có thắng không? Đánh được rồi nhưng có giữ được không?”

Vào trang phapluat.vn thì thấy người ta đã lược bỏ hai câu “tế nhị” trên. Nhưng trong cache thì hai câu vẫn còn đó. Như vậy, rõ ràng là ông thượng tướng có nói câu đó, và báo lề dân trích dẫn đúng.

Phải nói rằng khó có một đại biểu QH nào mà nói thẳng như thế. Phong cách rất Nam bộ (và tôi đoán ông này chắc là dân miền Nam). Nhưng cũng chính cách nói “ta như thế này…” giúp chúng ta hiểu rõ hơn thái độ của chính quyền trước sự hung hãn của Tàu. Càng ngạc nhiên hơn khi biết rằng người phát ngôn câu này là một thượng tướng trong quân đội! Không biết các vị khác nghĩ gì về hai câu nói bất hủ này.

ĐỊNH LƯỢNG ĐẤU TRANH

GS Nguyễn Văn Tuấn02-07-2015

Tựa đề của cái note này nghe hơi lạ tai, nhưng ý tôi muốn nói là định lượng sự đấu tranh, nhân đọc một giải thích tại sao Quốc hội không ra nghị quyết về Biển Đông. Ngài Phó Chủ tịch Quốc hội giải thích rằng lí do là vì VN đã có các phản ứng và đấu tranh kịp thời trên mặt trận ngoại giao. Nhưng khác với những quan chức khác quen nói chung chung, lần này ngài Phó chủ tịch nói cụ thể bằng định lượng. Ngài cho biết phía VN đã 14 lần tiếp xúc với phía Tàu, 9 lần trao công hàm, và viên phát ngôn ngoại giao đã 10 lần phát biểu (1). Cộng lại tất cả là VN đã có 14 + 9 + 10 = 33 lần “đấu tranh”. Ngẫm nghĩ hơi tức cười…

Còn ngài Chủ tịch Nước thì có tiết lộ thêm là nhiệt độ đàm phán

khá cao. Ông cho biết rằng trong thời gian qua VN đã có những “đàm phán nảy lửa về chủ quyền Biển Đông” (2). Nhưng hình như không có nhiệt kế để đo “nảy lửa” là bao nhiêu độ, dù chúng ta có thể đoán được là nhiệt độ phòng họp chắc cỡ 20-25 độ, rất thoải mái.

Nhưng tất cả những 33 lần đấu tranh đó có mẫu số chung: bằng chữ. Phản đối chỉ bằng chữ. Trao công hàm là bằng chữ. Tiếp xúc với Tàu cũng dùng chữ. Viên phát ngôn thì khỏi nói chúng ta cũng biết là dùng chữ. Chỉ dùng chữ, chứ không dùng hành động thực tế.

Khác với VN, Tàu chẳng những nói mà họ còn dùng hành động, có khi vũ lực. Họ cho tàu thăm dò dầu hỏa của họ dạo chơi trong vùng biển của VN. Họ đưa dàn khoan HD981 quay lại vùng biển Hoàng Sa. Họ cho tàu hải cảnh của họ cướp bóc tàu của ngư dân VN HÀNG NGÀY. Họ cho báo chí của đảng Cộng sản Tàu viết bài khiêu khích, mỉa mai, khinh bỉ, nói xấu lãnh đạo VN. Họ chẳng từ một thủ đoạn nào để “chơi” Việt Nam. Ấy thế mà có những quan chức Việt Nam ngọt ngào gọi họ là… bạn! Những hành động của Tàu cũng là một minh chứng cho thấy 33 cái đấu tranh bằng chữ trên đây của phía VN chẳng có xi-nhê gì cả.

Đành rằng chẳng có người Việt nào muốn gây chiến tranh với họ (Tàu), nhưng bất cứ người Việt nào cũng cảm thấy danh dự dân tộc bị xúc

phạm trước những hành động gây hấn trên của Tàu. Chính phủ tồn tại là để bảo vệ người dân, kể cả bảo vệ danh dự cho dân. Nếu một Chính phủ không có khả năng bảo vệ ngư trường cho ngư dân, thì người dân hoàn toàn có lí do để thắc mắc: Chính phủ đó đang phục vụ vì lợi ích của ai? Những con số đếm về số lần tiếp xúc, đưa công hàm, và số lần mở miệng chẳng có tương quan gì đến việc bảo vệ danh dự dân tộc.

Phải nói là theo dõi nghị trường

QH ở VN rất thú vị. Thú vị là vì những phát biểu rất ư là khó đoán trước (unpredictable) mà chúng ta –người bình thường– không nghĩ ra được. Ở bên Úc cũng thỉnh thoảng có những dân biểu phát biểu những câu lạ lùng và trực tiếp, nhưng so với đồng nghiệp bên VN thì dân biểu Úc thua xa. Trong cái nhìn của công chúng, đại biểu QH là những người thông thái, suy nghĩ sâu xa, mẫn cảm với thời thế, ăn nói hoạt bát, hay nói chung là những người ưu tú (elite) trong xã hội. Nhưng qua những phát biểu của họ, chúng ta nhận ra một sự thật hiển nhiên là họ cũng tầm thường như chúng ta thôi. Có đại biểu mới đây còn nói người Việt nói chung là… dốt (3). Hay là câu nói “Dân thế nào thì chính phủ thế ấy” nghiệm ứng cho trường hợp VN hiện nay.

____(1) Phó Chủ tịch Quốc hội giải thích việc chưa ra nghị quyết về Biển Đông (Infonet).(2) Chủ tịch nước: ‘Đã đàm phán nảy lửa về chủ quyền Biển Đông’ (VnExpress).(3) Trưng cầu ý dân phải xem lòng Đảng (VNN).

Đấu tranh hòa bình bất bạo động

Giải thể chế độ độc tài cộng sản

Vạch trần bộ mặt Hồ Chí Minh

Trong thời gian vừa qua, dư luận nhắc nhiều đến sự kiện CSVN đang đàm phán với 11 quốc gia để được gia nhập vào TPP, chữ viết tắt của Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partner-ship Agreement).

Hiệp định TPP khởi động từ tháng 3-2010 và đã trải qua hơn 5 năm đàm phán. Nếu được thành lập vào cuối

Số 223 Trang 25

Page 26: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

năm 2015 như dự tính, các quốc gia thành viên của TPP chiếm 40% GDP của cả thế giới và 26% lượng giao dịch hàng hóa toàn cầu. Đây là thị trường không chỉ lớn nhất mà sẽ trở nên năng động nhất của thế giới.

Chính vì lẽ đó mà CSVN hy vọng việc “được” gia nhập vào TPP sẽ giúp cho nền kinh tế Việt Nam lớn mạnh, đặc biệt là giúp tái cơ cấu nền kinh tế vốn đang gặp rất nhiều trì trệ sau khi một số tập đoàn kinh tế bị phá sản từ năm 2010.

Mục tiêu chính của TPP - vượt cao hơn WTO hay những hiệp ước thương mại (FTA) khác - là nhằm xây dựng vùng mậu dịch có 2 đặc điểm:

1/ Xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Trong nỗ lực này, bản thân TPP sẽ tạo ra các điều luật quốc tế có khả năng điều chỉnh chính sách và hướng đi luật pháp của các nước thành viên. Tức là các điều luật về mậu dịch của những quốc gia thành viên phải tuân theo định hướng của TPP.

2/ Thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, an toàn lao động, quyền công nhân, kiểm soát chặt chẽ các công ty quốc doanh không chèn ép tư doanh v.v…

Với nền tảng luật lệ và phạm vi kết nối của 12 quốc gia thành viên trong TPP như vậy, liệu CSVN có khả năng thích ứng hay không và nhất là Việt Nam được hưởng những lợi ích gì khi tham gia TPP?

Việt Nam được lợi gì?Theo thống kê của Bộ tài chánh

CSVN thì trong thời gian gần đây, kim ngạch xuất khẩu của VN đến 11 quốc gia thành viên thuộc TPP đã có những thay đổi đáng kể. Trong 10 tháng đầu năm 2014, VN nhập khẩu gần 28 tỷ Mỹ kim hàng hóa của các nước trong TPP, tương đương với 23% tổng kim ngạch nhập khẩu, xuất khẩu đạt 48 tỷ Mỹ kim chiếm 39% kim ngạch xuất khẩu. Riêng về lãnh vực đầu tư, gần 32% vốn FDI của VN đến từ các nước thành viên TPP.

Với những số liệu thống kê nói trên, trao đổi mậu dịch giữa Việt Nam với các nước trong TPP rất khả quan. Vì thế nếu TPP chính thức ra đời sẽ còn mang nhiều thuận lợi cho VN.

Theo ông Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ công thương CSVN, cho biết việc gia nhập vào TPP sẽ giúp cho Việt Nam đạt 4 lợi điểm như sau:

Thứ nhất, thông qua lộ trình cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên, hàng hóa của Việt Nam

xuất khẩu gia tăng, thu hút đầu tư và mở rộng các hoạt động về dịch vụ mang tính toàn cầu.

Thứ hai, Việt Nam sẽ có lợi thế trong trung hạn trước nhiều đối thủ cạnh tranh khi xâm nhập các thị trường. Trong chiều hướng đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nâng cao chất lượng sản xuất bằng cách đổi mới kỹ thuật, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cao về hàng hóa, nâng cao khả năng quản trị của doanh nghiệp.

Thứ ba, cơ hội để người dân Việt Nam được tiếp cận với nguồn hàng hóa có chất lượng, phong phú, đa dạng về thể loại, giá cả cũng như giúp nâng cao đời sống tốt đẹp hơn.

Thứ tư, giúp tạo ra môi trường chính sách rõ ràng, minh bạch và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư và kinh doanh, qua đó, giúp Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa công cuộc tái phối trí cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Như vậy, điều thuận lợi nhất cho VN khi gia nhập TPP chính là giúp cho hàng hóa xuất khẩu gia tăng và vì thế thu hút đầu tư nhiều hơn.

Việt Nam bị thách đố gì?TPP là một hiệp định có mức độ

tự do hóa cao và sâu giữa các quốc gia thành viên. Trong khi đó, Việt Nam chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường, đa số các doanh nghiệp hoạt động dựa vào vốn bên ngoài, quản lý yếu kém, công nghệ thô sơ nên sẽ gặp một số thách đố, nếu không nỗ lực khắc phục:

Thứ nhất, các mặt hàng nông phẩm của VN khó cạnh tranh nổi các nước thành viên khác. Tiêu chuẩn kỹ thuật thấp, năng xuất lại càng thấp so với tiêu chuẩn quốc tế và nhất là vốn đầu tư còn quá yếu kém nên sẽ khg thể khai thác các lợi thế xuất khẩu, thuế suất giảm của TPP.

Nếu Việt Nam không khắc phục thì nông phẩm của các nước khác sẽ nhập vào giết chết nền nông phẩm xuất khẩu của Việt Nam, như hiện nay hàng hóa Trung Quốc đang khống chế thị trường Việt Nam.

Thứ hai, đa số các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong môi trường kinh tế mang tính “ăn xổi ở thì” và thiếu hiểu biết về luật pháp quốc tế, do đó mà khi hội nhập vào TPP, doanh nghiệp Việt Nam chỉ loay hoay trong sân chơi của mình, trong khi các doanh nghiệp của những quốc gia thành viên TPP sẽ nhảy vào đầu tư ở Việt Nam để “đón sóng” TPP, nhất là các ngành da giày, dệt may - những ngành được cho là thế mạnh của Việt Nam.

Vấn đề đặt ra cho Việt Nam là phải nhanh chóng tái cấu trúc nền kinh tế, qua đó đẩy mạnh phát triển khu vực tư doanh để tận dụng sự nhạy bén thị trường của giới doanh nhân, cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ quản trị thì mới có thể tham gia vào sự cạnh tranh đầy hứa hẹn của TPP. Nếu không thì hàng hóa, sản phẩm của Việt Nam tiếp tục đứng ở bảng thấp nhất trong các nước.

Thứ ba, trong các quốc gia thành viên TPP, Hoa Kỳ là đối tác quan trọng nhất của Việt Nam. Trong quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, vì Hoa Kỳ có một nền kinh tế lớn, đa dạng và phức tạp nên vì thế mà nội dung đàm phán rất gay go, đặc biệt là những đòi hỏi mở rộng thị trường của Hoa Kỳ.

Phía Việt Nam thì ưu tiên đòi hỏi những ưu đãi trong xuất khẩu ngành dệt may, da giày. Trong khi đó phía Hoa Kỳ thì danh sách đàm phán khá dài như yêu cầu Việt Nam mở cửa cho ngành xe hơi, thịt lợn, thịt gà, sắt thép, nông phẩm được nhập vào. Ngoài ra, Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam nâng cao tiêu chuẩn về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chống buôn bán động vật hoang dã và thực hiện công ước CITES (Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora - Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp).

Nếu sau khi đồng ý qua đàm phán mà Việt Nam không đáp ứng hay vi phạm những gì đã cam kết, thì Hoa Kỳ và các quốc gia thành viên khác trong TPP sẽ trừng phạt bằng cách rút lại những ưu đãi. Đây là điều mà Hà Nội lo ngại nhất vì biết là chưa đủ khả năng để đáp ứng các đòi hỏi của những quốc gia đã phát triển về lãnh vực hàng hóa và dịch vụ.

Thứ tư, khi tham gia vào TPP, Việt Nam sẽ phải cam kết thi hành hai điều không có trong WTO. Thứ nhất là phải cam kết công khai hóa về đầu tư công, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh và vấn đề quản trị, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước… Thứ hai là phải điều chỉnh cả những nội dung không trực tiếp mang tính thương mại nhưng có liên quan đến thương mại như quyền của người lao động, các tổ chức xã hội dân sự, môi trường, công đoàn…

Những cam kết nói trên là các vấn đề rất mới và đụng ngay đến nền tảng của cái gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nói cách khác là CSVN sẽ phải điều chỉnh lại vai trò của thị trường, nhà nước, xã hội, trong đó thị trường sẽ

Số 223 Trang 26

Page 27: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

giữ vai trò quyết định trong việc phân bố nguồn lực, thì VN mới tiến đến “nền kinh tế thị trường” đúng nghĩa.

Đó là Việt Nam phải cam kết tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cũng như công nhận sự hoạt động của các công đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi người lao động.

TPP và tương lai Việt NamTPP sẽ không dừng lại ở 12 quốc

gia thành viên mà sẽ thu hút thêm nhiều quốc gia khác tham gia trong tương lai. Tuy mang đặc tính là một thị trường mở để các quốc gia thành viên giao dịch hàng hóa và dịch vụ với nhau, nhưng trên mặt chiến lược, đây là thị trường nằm dưới sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ nhằm đối đầu lại thị trường có hơn 1,3 tỷ người ở Hoa Lục. Nói cách khác, TPP là một công cụ nằm trong chiến lược xoay trục về Á Châu Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, bằng cách dùng các ảnh hưởng kinh tế để hình thành một liên minh chống lại sự bành trướng của TQ.

Trong khi đó, tham vọng bành trướng của Trung Quốc đã bắt đầu đẩy mạnh dưới thời Tập Cận Bình qua mục tiêu xây dựng Con đường Tơ lụa kinh tế xuyên qua vòng đai trung tâm Âu–Á và Con đường Tơ lụa hàng hải xuyên qua biển Đông và Ấn Độ Dương.

Với chiến lược bành trướng nói trên, Trung Quốc sẽ nối kết 64 quốc gia trong khu vực với tổng nhân số lên đến 4,4 tỷ người, chiếm 29% GDP của cả thế giới.

Điều này cho thấy là tại Á Châu sẽ có hai thị trường lớn được hình thành song song, trong đó TPP có nhiều ưu thế hơn vì là thị trường có hai cường quốc Hoa Kỳ và Nhật Bản dẫn đầu.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam sẽ có hai chọn lựa:

Một là tích cực cải cách để hội nhập tốt đẹp vào TPP hầu tạo cơ hội phát triển đất nước, và nhất là thoát khỏi sự khống chế của nền kinh tế Trung Quốc hiện nay mà cụ thể là chấm dứt nạn nhập siêu quá lớn từ hàng hóa Trung Quốc.

Hai là tiếp tục đu dây như hiện nay để tham gia vào cả hai thị trường TPP và Con đường Tơ lụa của Bắc Kinh hầu không làm Trung Quốc khó chịu. Nhưng khác với trước đây, việc đu dây lần này sẽ bị chính những thành viên TPP tạo áp lực và bị chế tài vì không chu toàn trách nhiệm.

Nhìn thuần tuý trên mặt kinh tế, TPP là một thách đố rất lớn cho Việt Nam để thoát xác nghèo đói. Còn nếu nhìn trên mặt quyền lợi dân tộc, TPP

là một cơ hội để thoát khỏi gọng kềm Bắc Phương.

TPP và nhân quyền Việt NamTrong Hiệp định TPP, các quốc

gia thành viên phải cam kết công khai hóa về đầu tư công, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh và vấn đề quản trị, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước… Đồng thời phải điều chỉnh cả những nội dung không trực tiếp mang tính thương mại nhưng có liên quan đến thương mại như quyền của người lao động, các tổ chức xã hội dân sự, môi trường, công đoàn…

Trong một bài đăng trên tạp chí Politico Magazine ngày 11-6-2015, có tựa đề “TPP sẽ giúp người lao động ở VN theo đuổi nhân quyền”, ông Tom Malinowski, Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ về dân chủ, nhân quyền và lao động, đã viết như sau:

“Hiệp định TPP sẽ bao gồm đòi hỏi về việc Việt Nam phải bảo đảm quyền tự do lập hội, bằng cách cho phép người lao động thành lập công đoàn độc lập thực sự. TPP sẽ đòi hỏi tất cả các nước tham gia hiệp định này phải thay đổi luật pháp và tập quán theo những nguyên tắc và quyền lao động căn bản.

“Việt Nam sẽ phải thực hiện những cải cách cần thiết hoặc bị mất những lợi ích của hiệp định.

“Những diễn tiến này không tự chúng bảo đảm sự tôn trọng đầy đủ quyền con người và quyền lao động ở Việt Nam nhưng là những bước cần thiết và quan trọng để đi đến hướng đó”.

Với những quy định nói trên, nhiều người hy vọng là qua Hiệp định TPP, CSVN sẽ phải công nhận quyền thành lập Công đoàn Độc lập của người lao động tại Việt Nam, chấm dứt sự khống chế của Tổng liên đoàn Lao động trên người lao động trong những năm vừa qua. Và khi Công đoàn Độc lập xuất hiện thì dù có luật hay không có luật về quyền lập hội, lần lượt các tổ chức, đoàn thể xã hội và chính trị sẽ ra đời hoạt động công khai như các đoàn thể xã hội dân sự hiện nay.

Nhưng cũng có người không lạc quan như thế mà cho rằng CSVN sẽ tiếp tục trì hoãn bằng cách giao cho quốc hội nghiên cứu nhưng không bao giờ mang ra biểu quyết như tình trạng Luật Biểu tình, Luật về Quyền lập hội như hiện nay. Hơn thế nữa, trong lúc cần Hoa Kỳ và Nhật Bản ủng hộ cho việc tham gia TPP, CSVN sẽ hứa làm tất cả, nhưng sau khi gia nhập rồi thì Hà Nội làm ngơ, hay đàn áp thô bạo hơn. Sự tráo trở của Hà

Nội khiến cho người ta không tin vào các cam kết của CSVN.

Tuy nhiên, nếu chúng ta coi các ràng buộc về quyền của người lao động, sự hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự trong TPP là những cam kết mà các quốc gia thành viên của TPP phải thi hành, thì đó là những lý cớ tốt nhất để tiếp tục vận động tạo áp lực buộc Hà Nội phải tôn trọng và thi hành.

Không có áp lực nào mạnh mẽ, buộc đối phương cam kết thi hành nếu không có đấu tranh. Vì thế, chúng ta nên coi việc CSVN đàm phán với các quốc gia, đặc biệt là đối với Hoa Kỳ để tham gia vào TPP, là một cơ hội nhằm mở rộng các cuộc vận động buộc Hà Nội phải trả tự do cho các tù nhân lương tâm, cũng như tôn trọng các hoạt động của những đoàn thể xã hội.

Kết luậnTPP không phải là chiếc đũa thần

sẽ mang lại phồn vinh nhanh chóng cho Việt Nam nhờ vào gia tăng xuất khẩu và thu hút đầu tư của thị trường chiếm 40% GDP toàn thế giới.

Điều quan trọng là CSVN có nghiêm chỉnh thi hành những khuyến cáo của các quốc gia thành viên trong quá trình đàm phán và cam kết áp dụng quy định của TPP để không bị chế tài, thì mới tạo ra một không gian phát triển thuận lợi hơn cho VN.

Muốn như vậy, thì đây là thời điểm thuận lợi cho đảng CSVN nhìn lại toàn bộ chủ trương, đường lối và các chính sách phát triển kinh tế nhân tổ chức đại hội đảng lần thứ XII dự trù diễn ra vào tháng 1-2016.

Thứ nhất là CSVN nên sớm chính thức chia tay chủ nghĩa Mác Lê-nin lạc hậu đã kéo đất nước trì trệ từ hàng chục năm qua và chấm dứt mọi hình thức độc quyền của đảng CSVN.

Thứ hai là nên bỏ chính sách ba không, tích cực đẩy mạnh các quan hệ với Hoa Kỳ để cùng hợp tác bảo vệ con đường tự do hàng hải trên biển Đông, vì nếu TQ khống chế sẽ làm ảnh hưởng rất lớn cho TPP.

Nếu lãnh đạo CSVN làm được 2 điều nói trên thì việc gia nhập TPP mới thực sự mang lại nhiều lợi ích cho dân tộc và đất nước Việt Nam.

Nhưng từ bỏ quyền lực hay thực hiện một chính sách tôn trọng nhân quyền là điều mà không một chế độ độc tài nào tự ý làm nếu không có nỗ lực đấu tranh của người dân. Vì thế, chúng ta nên coi việc CSVN đàm phán với các quốc gia, đặc biệt là đối với Hoa Kỳ để tham gia vào TPP, là một cơ hội nhằm mở rộng các cuộc vận động buộc Hà Nội phải trả tự do

Số 223 Trang 27

Page 28: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

cho các tù nhân lương tâm cũng như tôn trọng các hoạt động của những đoàn thể xã hội. Đồng thời, những đòi hỏi gắn liền TPP với cải thiện nhân quyền của CSVN cũng gởi một thông điệp cụ thể tới chính phủ Hoa Kỳ và các quốc gia thành viên TPP về chính nghĩa và mục tiêu đấutranh bất khoan nhượng của người Việt yêu nước.

(Dân Luận)

Trong tuần này, dư luận tại VN lại nóng lên bởi những chi tiết mà chắc chưa có người dân nào được biết ngoài mấy ông Bộ trưởng. Và, bỗng dưng… tôi thấy “thương” mấy ông này quá. Nhất là khi nghe trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình cho biết dù qua 3 lần điều chỉnh tăng lương nhưng mức lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở) đối với người hưởng lương từ ngân sách nhà nước còn rất thấp, chưa hợp lý, ngay cả lương bộ trưởng cũng thế.

“Do mức lương cơ sở thấp nên lương tính theo ngạch, bậc, chức vụ thấp theo. Tính cả 25% phụ cấp công vụ thì mức tiền lương của người vừa tốt nghiệp ĐH khoảng 3,58 triệu đồng/tháng, bộ trưởng cũng chỉ 14,4 triệu đồng/tháng. Với lương như vậy, đời sống của người hưởng lương từ ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn”.

Quả là tội nghiệp cho các ông Bộ trưởng VN, lương có hơn 14,4 triệu đồng một tháng thì quả thật không đủ tiền cho vợ đi chợ, cho con đi học, cho cả nhà ăn sáng, trả lương cho mấy cô người giúp việc.

Chưa nói đến chuyện làm bộ trưởng thì phải có dăm ba bộ com-lê, vài chục cái cravate, vài chục cái chemise, năm bảy đôi giày thật xịn… chưa kể các thứ linh tinh khác. Chắc là phải đi vay nợ mới làm được bộ trưởng. Thế mà nhiều ông vẫn cứ thích làm bộ trưởng mới lạ. Thoạt nghe thấy thương ghê! Nhưng sự thật dân không thương mà lại có những phản ứng ngược hẳn. Bởi người dân ngu gì mà không biết ngoài lương ra, các vị còn có lậu, có bổng lộc gấp trăm ngàn lần lương chính thức.

Ngay trong Quốc hội cũng đã có nhiều ý kiến phản kháng. Đại biểu Dương Trung Quốc cho rằng dư luận phản ứng với thông tin lương Bộ trưởng cũng khó sống thì phải đặt vấn đề thế nào là “sống”?

Ông nói: “Nhưng tại sao lương thấp vậy người ta vẫn muốn làm Bộ trưởng? Tôi chỉ thấy chắc chắn một điều là thu nhập của họ rất cao. Cứ trông cách sống của họ là biết họ thu nhập cao rồi. Vậy nên nói “khó sống” người dân phản ứng là phải, khi thu nhập người lao động bình thường là 2-3 triệu đồng/tháng, công chức như chúng ta cũng chỉ 4-5 triệu đồng/ tháng thôi người ta vẫn sống thì 14-

15 triệu đồng/tháng sao bảo là khó”.Ông Cao Sĩ Kiêm Đại biểu QH

Thái Bình, thẳng thắn: “Nếu nói mức lương của Bộ trưởng hiện nay khó sống thì rất vô cùng. Thực tế thì không ai khó sống, mà lại sống rất đàng hoàng so với tiêu pha. Thu nhập “thực” của họ, tôi biết, gấp xa nghìn lần mức lương mà họ đang hưởng. Số liệu đó không phản ánh chính xác thực tế. Vì còn nhiều khoản thu nhập… ngoài không được kê khai, tính vào lương mà mình không biết, không thống kê được”.

Còn ĐB Nguyễn Thị Khá (Trà Vinh) thì nhận xét: “Nói lương là thế, nhưng tổng thu nhập của Bộ trưởng khác với lương, họ không khai làm sao mà biết được. Khoản này thì không có văn bản nào quy định”.  Trên các trang báo, người dân cũng “bóc mẽ” cái sự lương thấp này. Người dân phân tích bổng lộc là những khoản được nhà nước cấp cho như đất đai, xe hơi, nhà cửa, đặc quyền, kinh doanh… Và người ta thường nói “lương lậu” tức là lương đi đôi với lậu. Cái khoản “lậu” này mới đáng sợ. Và rõ ràng, có những quan chức trong xã hội, lương chỉ là danh chính ngôn thuận để ký tên trong sổ sách. Thực chất, “lương thật” của họ phải bao gồm: Lương (theo quy định) + bổng lộc + lậu nữa, mới có thể xênh xang nhà lầu, xe hơi, con cái du học các nước tư bản.

Chính những con sâu này đang là kẻ nội thù nguy hiểm nhất làm mất niềm tin của dân, làm suy sụp chế độ.

Đó là chuyện trong Quốc hội ở kỳ họp này. Ngoài Quốc hội cũng có một vị bộ trưởng đáng thương nữa. Đó là Ông Đinh La Thăng - Bộ trưởng bộ Giao thông- đau đớn xác nhận một sự thật đau lòng.

Muốn thay nhà thầu Trung Quốc cũng không được

Nói chuyện với báo chí sáng 9/6 vừa qua, ông Thăng than thở: "Nhà thầu Trung Quốc rất yếu kém, nhiều

lần tôi muốn thay thế song không thể vì ràng buộc các điều kiện hiệp định vay vốn. Do đó, rất mong mọi người chia sẻ".

Tại cuộc gặp gỡ này, Bộ trưởng Đinh La Thăng đã lý giải vì sao Việt Nam phải mua 13 đoàn tàu của Trung Quốc cho dự án đường sắt đô thị Cát Linh-Hà Đông mà không phải là của các nước khác, đồng thời tại sao lại không thể "đuổi" nhà thầu Trung Quốc yếu kém về năng lực.

Theo Bộ trưởng Giao thông, việc mua các đoàn tàu của Trung Quốc cho dự án này đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của nhân dân cũng như các cơ quan truyền thông.

“Vì mua đoàn tàu của Trung Quốc mà tôi đã nhận được rất nhiều tin nhắn, đe dọa có, khuyên giải cũng có mà đề nghị cũng có. Thậm chí có người còn bảo: ông Thăng ơi! ông đừng mua các đoàn tàu của Trung Quốc. Tại sao lại mua, ông có vấn đề gì với Trung Quốc không?”.

Tại sao ông Thăng bị dân nghi ngờ?

Có nghĩa là ông Thăng cũng bị dân nghi ngờ là có “chấm mút” gì với anh chủ thầu Trung Quốc. Cũng như 6 sếp ban quản lý dự án đường sắt tiêu 11 tỷ đồng lót tay của nhà thầu Nhật Bản vừa bị khui ra ánh sáng vào ngày 4/6 vừa qua.

Những vụ ăn chia giữa quan chức với nhà thầu ở VN như đã thành… tiền lệ, lớn nhỏ gì có thầu là có thông đồng, có lót tay. Đó là ưu tiên hàng đầu trước và sau khi chọn nhà thầu. Ông Thăng có bị nghi ngờ thậm chí chửi bới cũng chẳng có gì lạ.

Ông Bùi Danh Liên (Chủ tịch hiệp hội vận tải Hà Nội) bày tỏ mối lo ngại: “Từ xưa đến nay, hàng Trung Quốc vẫn thật giả lẫn lộn, rất khó để phát hiện ra. Thực tế, chất lượng các loại sản phẩm của Trung Quốc đã mất lòng tin với rất nhiều người trên khắp thế giới. Ông nhấn mạnh: “Thông qua việc xây dựng tuyến đường sắt và mua tàu Trung Quốc lần này, chúng ta cũng nên rút ra kinh nghiệm rằng, đối với nhà đầu tư, cho dù có vốn nhưng khi đã mất niềm tin cũng không nên bắt tay với họ trong bất kỳ dự án nào nữa”

Nhưng trong vụ này, có vẻ như ông Thăng hoàn toàn không chấm mút gì nên ông cứ ngang nhiên nói thẳng ra nỗi đau tím ruột của mình cho dân thông cảm.

Ông kể: “Dự án được thực hiện theo Hiệp định được ký giữa Chính phủ 2 nước Việt Nam và Trung Quốc từ năm 2008”. Theo Hiệp định này, phía Trung Quốc tài trợ vốn. Các nhà

Số 223 Trang 28

Page 29: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

thầu thi công, giám sát, cung cấp thiết bị cũng là của Trung Quốc. Bộ trưởng Đinh La Thăng cho biết đây là các điều kiện trong Hiệp định đã được ký giữa hai Chính phủ, là việc rất khó khăn nên không thể muốn thay đổi là có thể thay đổi được”.

Điều đó cũng có nghĩa là ông Bộ trưởng Thăng bị Chính phủ đặt vào tình thế “đã rồi” không thể làm gì hơn được. Nếu ông có quyền thì ông đã tống cổ anh nhà thầu Trung Quốc này đi từ lâu rồi. Bởi từ khi thực hiện dự án, nhà thầu này đã làm ăn rất tắc trách, bê bối, coi tính mạng người dân như sâu bọ. Hãy thử nhìn qua những gì họ đã gây ra:

Làm ăn lề mề để kiếm thêm tiềnDự án được chính thức phát lệnh

khởi công từ ngày 10-10-2011 và dự định sẽ hoàn thành cuối năm 2014 để đưa vào khai thác sử dụng từ quý II-2015. Sau hàng loạt lý do dẫn đến sự chậm trễ, dự án được chuyển sang cuối năm 2015 mới xong và đưa vào chạy thử vào đầu năm 2016. Ngoài chậm tiến độ, sau 5 năm thi công, tổng mức đầu tư dự án này đã phải điều chỉnh từ 552 triệu USD lên 868 triệu USD, tăng 316 triệu USD so với ban đầu. Đó cũng là chiêu láu cá của mấy anh ba Tàu. Làm ăn lề mề để buộc chủ nhà phải tăng vốn mới hoạt động tiếp. Chủ đầu tư lại bị dồn thế không tăng không được vì đó là vốn mượn của Tàu, phải làm cho xong.

Làm ẩu, làm liều không kể đến tính mạng người dân

Hàng vạn người dân thủ đô đang phải lưu thông ở những nơi mà tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, những lưỡi hái tử thần luôn treo trên đầu họ, mỗi ngày.

Trong một khoảng thời gian ngắn, tai nạn liên tục xảy ra, với mức độ, hình thức khác nhau, nhưng có chung nguyên nhân được tuyên bố là do “thi công ẩu”. Đó là tội coi thường tính mạng của người dân.

Vài thí dụ gần nhất:- Tối 10-5 xảy ra vụ rơi cọc thép

dài 9m, rộng 0,3m, nặng khoảng 630kg tại công trường thi công nhà ga số 4 (phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), suýt trúng hai người đi xe máy.

- Ngày 12-5, vụ sập cần cẩu trước số nhà 561 và 539 đường Cầu Giấy đè trúng một phụ nữ đang mang thai   và một thanh niên đang lưu thông trên đường.

- Chưa kể đến việc vào khoảng 9h30 cùng ngày (12/5), trên đường Nguyễn Trãi (Thanh Xuân, Hà Nội), một thanh sắt từ công trình đường

sắt trên cao đã rơi xuống đường và trúng vào chiếc ô - tô Honda Civic.

- Trước đó, cuối năm 2014, tại các công trường thi công dự án đường sắt trên cao tuyến Cát Linh - Hà Đông cũng đã xảy ra 2 vụ rơi vật liệu xuống đường khiến 1 người chết, 3 người bị thương.

- Khi xảy ra vụ rơi dầm thép công trình đường sắt Cát Linh - Hà Đông hôm 6-11-2014, Bộ trưởng Giao thông cam kết rằng: Sẽ không có tai nạn nào như vậy nữa. Hàng loạt cán bộ thuộc Ban quản lý dự án bị giáng chức, điều chuyển. Nhưng ngay khi dự án được thi công trở lại, ngày 28-12, tai nạn lại tiếp tục xảy ra, thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Lần này, Bộ trưởng GTVT lần đầu tiên đề cập đến nguyên nhân tư vấn giám sát. Theo đó, ông yêu cầu phải chấm dứt hợp đồng với tư vấn giám sát (Trung Quốc), ký hợp đồng với một công ty giám sát của VN, do Bộ GTVT chỉ định. Nhưng trả lời PV báo chí, ông Lê Kim Thành, Tổng giám đốc BQL dự án đường sắt (Bộ GTVT), nói rằng chỉ thay người đứng đầu đơn vị, còn tư vấn giám sát vẫn là nhà thầu Trung Quốc.

Nói như vậy có nghĩa là cùng với việc tổng thầu Trung Quốc ngang nhiên nuốt lời hứa về tiến độ, vốn, an toàn lao động…, để thấy rằng, chủ đầu tư dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông đang không thể kiểm soát được những gì đang diễn ra ở đại dự án gần 9.000 tỉ đồng này.

Phải nói thẳng là ngay cả đến cấp Bộ trưởng cũng bất lực trước sự tung hoành ngang ngược của nhà thầu Trung Quốc, không chỉ ở các dự án giao thông mà trong rất nhiều lãnh vực khác.

Tội nghiệp cho ông Bộ trưởng, nhưng ông đau một thì dân đau mười bởi bao nhiêu tai ương dân chiụ hết và mỗi người còng lưng gánh món nợ đến 21 triệu đồng, trả đến đời con đời cháu cũng chưa hết. Nói thẳng ra Trung Quốc bất chấp mọi thủ đoạn để khống chế cả nền kinh tế VN.

Mộng bành trướng của họ chẳng bao giờ chấm dứt.

Văn Quang

Rừng Trường Sơn cách đây chưa

đầy ba năm còn rậm rạp, dày ken những gốc cổ thụ, bây giờ hiện ra trước mắt chúng tôi là những đồi trọc và cây con chưa tới nửa tuổi.

Chúng tôi tiếp tục đi dọc đường mòn Hồ Chí Minh, một cảnh tượng tiêu điều hiện ra trước mắt: không còn những cánh rừng cổ thụ như cách đây ba năm mà thay vào đó là những nông trường và những đồi cây mới mọc liu phiu, chưa chắc đã trụ qua được mùa nắng hạn và gió Lào này.

Còn đâu chuyện “hạt muối bỏ biển”

Có thể nói rằng với tốc độ khai thác kinh hồn bạt vía mà cho đến hiện tại, không thể nói được là ai đã biến núi rừng Trường Sơn thành đất trống đồi trọc, hầu như toàn bộ các loại danh mộc trên tuyến đường Trường Sơn đã biến mất. Rừng cũng đã trơ trọi, thay vào đó là hàng ngàn ngôi nhà mới mọc và hàng triệu lô đất đợi người mua dọc hai bên đường.

Một người chuyên cung cấp các loại dịch vụ địa ốc trên tuyến đường Trường Sơn từ Nghệ An đến Ninh Bình, không muốn nêu tên, chia sẻ: “Xây dựng thì dễ chứ có gì mà khó. Mình có đất thì mình xây. Chẳng hạn mình có 200 mét thổ cư, 800 mét lâm nghiệp chứ có ai cấp cho mình cả ngàn mét thổ cư. Nhưng đất của mình thì mình muốn làm gì mình làm, ai lấy của mình chứ!”

Theo ông này, chuyện mua đất ở hai bên đường mòn Hồ Chí Minh rất dễ dàng bởi đây là một trong những chính sách mở của nhà nước. Người mua sẽ không được cấp chủ quyền xây dựng nhà ở, chỉ được cấp giấy đất trồng rừng nhưng cứ im lặng mà xây dựng, kinh doanh, biết chung chi một chút thì mọi chuyện sẽ suôn sẻ, cũng chẳng có ai hỏi han hay cấm kị xây dựng gì. Cứ im lặng mà làm thì được.

Trong trường hợp có khả năng mua đất, xây nhà nhưng cảm thấy

khó khăn, sợ nhà cầm quyền địa phương sờ gáy thì tốt nhất nên mua những ngôi nhà hoặc những nhà trọ, khách sạn đã được xây dựng, đã đi vào hoạt động vài ba năm nay. Điều

Số 223 Trang 29

Page 30: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đó chứng tỏ một điều là những ngôi nhà, khách sạn hay nhà trọ này không bị sờ gáy, vẫn ăn nên làm ra và có độ ổn định.

Hơn nữa, hiện tại, số lượng lô đất đã được bán dọc hai bên đường mòn Hồ Chí Minh đã lên đến hàng trăm ngàn lô đã được xây dựng kiên cố, có hàng triệu lô đang chuẩn bị xây dựng. Chuyện này chắc chắn phải nằm trong chính sách của nhà nước, nếu không nằm trong chính sách nhà nước thì không ai dám xây dựng như vậy. Theo người đàn ông này, chuyện xây dựng, kinh doanh trên đường Trường Sơn đã là chuyện gạo đã thành cơm, khó bề thay đổi. Hơn nữa, có con đường thì phải có người ở, có người làm ăn, kinh doanh và có những khu phố sầm uất, đó mới là con đường.

Hiện tại, đi dọc đường mòn Hồ Chí Minh, người ta có thể bắt gặp đủ các loại hàng quán phục vụ du lịch, phụ vụ dân ăn chơi và có thể nếm tất cả các loại đặc sản rừng như thịt nai, thịt cầy rừng, thịt nhím, thịt lợn rừng, thịt mang, thịt gà rừng, thịt sóc, thịt thỏ, thịt chồn, thậm chí thỉnh thoảng có cả thịt hổ, thịt báo, thịt các loại kì đà, rắn… Nói chung, các loại thú quí hiếm đang nằm trong danh sách đỏ đều được biến thành đặc sản trong các hàng quán hai bên đường mòn Hồ Chí Minh.

Và điều này không phải giấu diếm hay dấm dúi gì, mọi bảng hiệu quảng cáo của các nhà hàng, trạm dừng chân hay quán cơm xe đường dài đều có ghi tên các loại đặc sản rừng. Một số quán ghi tên cả loại thú bị giết thịt, một số quán chỉ ghi nội dung là có đặc sản rừng và đặc sản biển. Và cách kinh doanh của các hàng quán ở đây khá công khai, hầu như không có gì phải ngần ngại, mặc dù trên các phương tiện thông tin báo chí nhà nước luôn kêu gọi, hô hào bảo vệ rừng và bảo vệ động vật quí hiếm. Và nhà nước cũng từng tuyên bố sẽ đóng cửa rừng để bảo vệ cây cối cùng hệ động vật của Trường Sơn.

Trước đây ba năm, khi chúng tôi đi dọc trên đường Trường Sơn, ghé thăm những bản Mường, một vị

trưởng lão trong bản đã nói với chúng tôi rằng sở dĩ miền Bắc thắng miền Nam, đưa quân vào miền Nam được là nhờ rừng núi Trường Sơn. Nơi đây, với hệ thực vật phú, có thể cứu đói và chữa bệnh, với lượng cây rừng dày đặc, nếu máy bay phe đối phương ném bom, chỉ cần chạy vào rừng cây thì bao nhiêu bom dội xuống cũng chẳng khác gì muối bỏ biển. 

Nhưng hiện tại, cũng vị trưởng lão này nhận xét, ông lắc đầu ngao ngán, nói rằng Trường Sơn bây giờ là những quả đồi trọc, nếu có chiến tranh thì không cần bỏ bom vì bom đã được cài sẵn trong núi. Những quả bom mà vị trưởng lão này muốn nói đến có cái tên khá quen thuộc là “china boom”.

China boomMột người không muốn nêu tên,

sống ở Nghệ An, từng là thợ rừng thuộc hàng có số có má trong giới lâm tặc, chia sẻ với chúng tôi: “Mỗi ngày mà phá cả rừng, không có kiểm lâm, không có chuyện gì thì cưa được khoảng 2 hecta. Nhưng mà tùy cây, loại có đường kính khoảng cái thùng nước thì quá đơn giản, đi cái rẹt. Chứ loại cây mà đường kính to cả mét thì ngày hạ được vài chục cây.”

Theo anh, chuyện rừng Trường Sơn bị đốn hạ là chuyện chẳng có gì phải ngạc nhiên, bởi có những cánh rừng ở sát sườn cơ quan quản lý nhà nước như rừng thông ở Lâm Đồng, người ta vẫn ngang nhiên chặt phá trơ trọi thì nghĩa lý gì những cánh rừng bạt ngàn cây quí như Trường Sơn. Chỉ riêng bản thân anh ta, mỗi đêm có thể dùng cưa lốc để phang từ bốn đến sáu hecta rừng già. Điều này hoàn toàn trong khả năng, chẳng có gì là đặc biệt.

Vì với giới lâm tặc, động cơ đồng tiền thôi thúc họ mạnh nhất. Chỉ cần bên nhà cầm quyền bật đèn xanh, thông báo tỉ lệ (thường thì tỉ lệ lâm tặc hưởng trong vài năm trở lại đây rất thấp, kiểm lâm hưởng 80% để chung chi

cho các quan chức, còn lâm tặc hưởng 20%, khỏi phải chung chi cho ai nhưng nếu có sự cố báo giới thì lâm tặc phải hy sinh, chịu làm tốt thí) và tiến hành khai thác rừng. Việc khai thác luôn diễn ra vào ban đêm và phải diễn kịch theo kiểu rừng bị khai thác trộm, đây là kịch bản bắt buộc.

Và khi cầm chiếc cưa lốc trên tay, chỉ cần nghĩ đến những khối gỗ quí mà trong đó mình được hưởng chừng 5% sau khi chia lại trong số 20% kia, trong đó nếu may mắn sẽ gặp những cây gỗ huỳnh đàn, chỉ cần giấu một khúc thì giàu to, tay chân lâm tặc trở nên mạnh mẽ khác thường; mỗi nhát cưa của anh ta trở nên có thần lực và điều anh ta mong mỏi duy nhất là đụng phải một cây gỗ mà thớ gỗ khiến cho lưỡi cưa tóe lửa, cứng đến độ hỏng cả máy. Đó chắc chắc là gỗ huỳnh đàn lâu năm. Anh ta chỉ mong như vậy thôi! Và cứ như thế, chiếc máy cưa trở nên linh hoạt lạ thường, đi phăng phắc, càng lâu bị tóe lửa, anh ta cưa càng hăng say. Rừng đổ gục sau lưng.

Với đà này, cả trăm Trường Sơn cũng chết chứ nghĩa lý gì một Trường Sơn. Và nguồn gỗ này về đâu? Anh ta nói rằng phần lớn bán cho Trung Quốc và chỉ có Trung Quốc rộng lớn mới cần đến số gỗ của Trường Sơn. Nhà buôn đồng bằng có tích trữ thì cũng chỉ để bán cho Trung Quốc mà thôi.

Và không những vậy, người Trung Quốc đã tiến hành thuê đất dọc Trường Sơn với thời hạn 49 năm để trồng rừng. Họ xây dựng cũng khá nhiều, theo cách của người Việt đang xây dựng hai bên đường Hồ Chí Minh bấy lâu nay. Sắp tới đây, việc xây dựng của họ sẽ thuận lợi hơn khi luật nhà đất

2014 có hiệu lực. Và rồi đây Trường Sơn sẽ ra sao? Có lẽ chỉ có lịch sử mới trả lời được.

Thoạt nhìn chế độ chính trị của một quốc gia và môi trường sống là biệt lập không có quan hệ gì với

Số 223 Trang 30

Page 31: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

nhau, nhưng thực ra chế độ chính trị và môi trường sống có quan hệ hỗ tương một cách khá kỳ lạ.

Nhìn trên bản đồ thế giới, chúng ta thấy các nước Tự do Dân chủ luôn có môi trường sống tốt hơn rất nhiều so với các chế độ độc tài chuyên chế.

Điển hình là Trung cộng. Hiện nay Trung cộng là “công xưởng” của thế giới với một mức tăng trưởng kinh tế có thể được gọi là “lý tưởng” cho các quốc gia mưu tìm sự phát triển kinh tế- xã hội.

Có một khoảnh khắc nào đó trong tư duy chiến lược của các nhà hoạch định chính sách của thế giới, người ta có cảm tưởng rằng mô hình chính trị và kinh tế hiện nay của Trung cộng là “mẫu mực” của sự phát triển cho thế giới trong tương lai và đã hình thành cái gọi là “Đồng thuận Bắc Kinh”, coi mô hình phát triển của Trung cộng là một nhân tố sẽ thay thế cho mô hình phát triển của Mỹ và sẽ là lựa chọn cho nhân loại trong tương lai?

Nhưng thực tế lại nghiệt ngã và “sáng suốt” hơn tư duy nóng vội của các nhà hoạch định chính sách. Điều này cũng là một minh chứng cho sự bất cập của các nhà “tư tưởng” phương Tây dễ bị cái hào nhoáng bên ngoài đánh lừa.

Trung Cộng ngày hôm nay là một “bệnh nhân” với nhiều căn bệnh nan y. Trong đó ô nhiễm môi trường là một căn bệnh trầm trọng nhất sau căn bệnh bất bình đẳng xã hội có thể dẫn đến bạo loạn khi thời cơ đến làm sụp đổ chế độ độc tài, độc ác nhất hành tinh này.

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một mô hình thu nhỏ của người đàn anh Trung Cộng.

Tăng trưởng kinh tế theo kiểu “mì ăn liền” đã để lại một hậu quả trầm trọng về môi sinh mà bản thân năng lực nền kinh tế của Việt Nam không giải quyết nổi.

Nếu ở Bắc Kinh khói bụi có thể làm mờ đi sự hào nhoáng của nó trong con mắt của thế giới và của chính người dân Trung cộng, thì môi trường tại Hà Nội cũng “kinh hoàng” không kém.

Hà Nội với những ao hồ đẹp nên thơ một thời hoàng kim, đẹp đến mức khó tả trong âm nhạc, thơ ca và hội họa một thời như hồ Hoàn Kiếm, hồ Trúc Bạch và đặc biệt là hồ Tây.

Hồ Tây rất rộng từ bên này nhìn sang bờ bên kia mờ mờ trong những ngày mùa đông sương giá, có cảm tường xa vời vợi. Hồ Tây tuyệt đẹp nếu môi trường ở đây không làm nản lòng bất cứ ai một lần đứng bên bờ hồ trong ráng chiều rực rỡ!

Nhưng Hồ Tây ngày hôm nay là một ổ vi trùng, với khối nước đục lờ nhờ, đặc quánh vì nước thải, vì rác, vì xác động vật nổi lềnh bềnh. Mùi hôi thối xông lên nồng nặc, những mảng rêu xanh, vàng đóng kín mặt hồ… Và người dân Hà Nội như đã “lờn” với thực trạng kinh khủng đó, họ bình thản bước đi trong cái mùi xú uế vây quanh, ám vào mũi và quần áo.

Không khí ở Hà Nội và cả miền Bắc Việt Nam thuộc dạng ô nhiễm nhất nước. Ai một lần ra Hà Nội bằng tàu hỏa, nếu “lỡ dại” mở cửa để đón không khí trong lành thì khi đến Hà Nội họ sẽ không nhìn ra được mình trong gương, một khuôn mặt đen đủi, lạ hoắc vì khói bụi!

Còn Sài Gòn, “hòn ngọc Viễn Đông” của một thời vang bóng cũng đã là quá khứ.

Sài Gòn ngày hôm nay bừa bộn, hỗn tạp và nhếch nhác về quy hoạch và kiến trúc bởi nạn đầu cơ bất động sản của nhà cầm quyền CSVN biến đất ở đây thành vàng, cho nên việc mua được một miếng đất đã ngốn hết ngân sách của một công ty, một gia đình và vì vậy để đối phó, họ xây dựng vá víu cho qua miễn sao có mái nhà để ở, có một cơ ngơi để làm việc… Và cũng vì quy hoạch, kiến trúc lộn xộn không có tầm nhìn xa, đã biến Sài Gòn thành sông, sau những cơn mưa lớn mùa hè. Nước từ cống rãnh tràn lên đường, đem vào nhà dân tất cả những thứ bẩn thỉu khủng khiếp..

Tại VN ngày hôm nay, những

dòng sông lớn, sông nhỏ đẹp nên thơ đã chết, chỉ còn lại những dòng nước tù đọng, đen ngòm, cá chết hàng loạt trôi nổi đầy mặt nước, làm cho môi trường ô nhiễm thêm.

Vì tăng trưởng theo kiểu “mì ăn liền” nên dân số Sài Gòn tăng lên một cách chóng mặt, đẩy giá sinh hoạt lên cao ngất ngưởng.

Những khu ổ chuột cũng mọc lên như nấm và từ những khu ổ chuột này, người dân lại xả ra môi trường chung quanh những chất bẩn như phân người, phân súc vật, bao nilon, xác chết của động vật..

Những con kênh ở Sài Gòn, những con đường trong những khu dân cư nghèo tràn ngập rác, mùi hôi thối nồng nặc vì một hệ thống vệ sinh môi trường què quặt bởi tham nhũng và vô trách nhiệm.

Nhưng quan trọng nhất là ý thức của người dân đặc biệt đáng lo ngại.

Người dân Việt Nam ngày hôm nay xả rác một cách “vô tư”. Họ ném ra môi trường chung quanh bất cứ thứ gì bỏ đi như rác, bao nilon, xác súc vật, họ không thèm bỏ vào thùng rác cho dù thùng rác chỉ nằm cách một tầm tay với. Họ “vô ý thức” và “vô trách nhiệm” đến cùng cực, họ chỉ giữ cho chỗ ở của mình tương đối sạch sẽ còn môi trường chung quanh thì mặc kệ vì nó không là của họ, không thuộc về họ!?

Họ sống trên đất nước của họ, với gia đình và người thân, và những thế hệ con cháu họ cũng sẽ tiếp tục sống ở đây, vậy mà họ không hề thiết tha gì đến môi trường sống. Thậm chí khái niệm về môi trường sống là một khái niệm xa vời và xa xỉ chỉ để dành cho

người giàu..!? Ai cũng có thể “kết án” họ nhưng mấy ai hiểu đợc cái tâm thế của họ đây?

Người dân Việt hiểu rất rõ rằng họ chỉ là thân phận bèo bọt trong một đất nước mà đảng CSVN và gia tộc là những người chủ, họ chỉ là những người sống nhờ trên đất nước này, họ bị bóc lột, bị khinh miệt đến

Số 223 Trang 31

Page 32: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tận cùng, họ bị đối xử như “tá điền” mà địa chủ là đảng CSVN..

Hằng năm cứ vào những dịp lễ tết, nhà cầm quyền CSVN rủ lòng “từ bi” hỗ trợ cho họ một chút để gọi là “chiếu cố”, hành động này có khác chi hành động bố thí của giới địa chủ ngày xưa..? Như vậy đất nước này đâu phải của họ… họ chỉ là “ông chủ” hờ để đảng CSVN đem ra làm trò che mắt thế giới.

Mỗi lần CSVN tổ chức cái gọi là “bầu cử Quốc hội” thì mấy ông chủ hờ bị lùa đi như vịt đến các phòng phiếu để làm cho xong cái “quyền lợi” bất đắc dĩ..!

Người dân Việt cũng thừa hiểu rằng với thân phận con tôm cái tép, họ đâu có quyền lực gì để thay đổi cái cần thay đổi… Họ thấy các tập đoàn doanh nghiệp quốc doanh và tư bản nước ngoài cùng tư bản đỏ mặc sức hủy hoại môi trường bằng những hồ chứa nước, những đập thủy điện khổng lồ, nhà máy nhiệt điện, nhà máy phân bón, nhà máy bột ngọt v.v…

Cho dù họ có ý thức, có cố gắng cũng là vô ích, vì không ai có thể ngăn nổi bàn tay của đảng CSVN đang đưa đất nước đến hố thẳm vì sự tham lam và ngu dốt.

Người dân Việt bất lực nhìn cả tiền đồ tổ tiên để lại bị phá hoại một cách có hệ thống. Cảm thấy bất lực, người dân Việt trở nên chai lì với mọi việc xảy ra, họ bỏ mặc cho mọi việc đến đâu thì đến. Đâu có gì là khó hiểu khi người Việt lựa chọn một thái độ “bất cần đời” như vậy vì không ai lại đi bảo vệ giữ gìn cái không thuộc về mình cả!

Một chế độ chính trị tốt sẽ tạo nên một môi trường sống tốt và ngược lại một chế độ chính trị xấu sẽ tạo nên một môi trường xấu, điều này đúng với CSVN, Trung cộng hay bất cứ chế độ độc tài nào..

Một dân tộc không coi đất nước là của mình thì hiểm họa đang treo lơ lửng trên đầu đất nước đó..

Nếu khẳng định tử tù Hồ Duy Hải là bị oan sai, e rằng có thể các quan tòa của tòa án nhân dân tỉnh Long An và tòa án nhân dân tối cao ở Hà Nội sẽ kiện tôi là nói sai sự thực, vì bản

án còn nguyên đó, chưa ai tuyên hủy, việc tuyên tử hình Hồ Duy Hải -theo họ- là “đúng người, đúng tội!”, việc thi hành án mới chỉ là tạm hoãn, rồi sẽ sớm thi hành nay mai thôi! Nhưng trong cả 2 phiên tòa sơ thẩm kết án lẫn phiên tòa chung thẩm y án tử hình đối với Hồ Duy Hải, các cơ quan tố tụng đã phạm phải rất nhiều sai sót, và những sai sót này là vô cùng nghiêm trọng!

Vâng, sai sót không phải chỉ của 1 mà của cả 3 cơ quan tố tụng là điều tra (công an), truy tố (kiểm sát) và xét xử (tòa án), đặc biệt là ở khâu điều tra và xét xử! Mọi người đều biết là trong tất cả các vụ án hình sự, đặc biệt là các vụ án giết người, thì chứng cứ quan trọng bậc nhất là dấu vân tay của thủ phạm để lại tại hiện trường và trên các hung khí gây án. Nhưng trong vụ án này thì Cơ quan Điều tra không tìm thấy dấu vân tay của Hồ Duy Hải tại hiện trường cũng như trên các hung khí gây án! Bản kết luận giám định số 158/KL-PC21 ngày 11-4-2008 của Phòng Khoa học Hình sự Công an tỉnh Long An ghi: “Các dấu vết vân tay thu được tại hiện trường vụ án ngày 14-01-2008 tại bưu cục Cầu Voi không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón tay in trên chỉ bản của Hồ Duy Hải”. Các hung khí mà Cơ quan Điều tra xác định Hải đã sử dụng để sát hại 2 nạn nhân thì Ban Chuyên án cũng không thu giữ được. Con dao và cái thớt thì nhờ người ra chợ mua mới thay thế. Chiếc ghế inox có dính máu do không xác định chính xác là chiếc nào nên buộc Ban Chuyên án phải lấy chiếc khác tương tự thay vào! Tất nhiên 3 hung khí thay thế này không thể có dấu vân tay và vết máu của Hồ Duy Hải và của thủ phạm thực thụ (mà tôi cho rằng hiện đang giấu mặt hoặc lẩn trốn) cũng như của cả 2 nạn nhân! Ấy vậy nhưng Cơ quan Điều tra công an Long An vẫn đưa ra được hồ sơ vụ án “đúng quy trình” với đầy đủ “tang vật” và kết luận Hồ Duy Hải là thủ phạm duy nhất để rồi viện kiểm sát truy tố và sau đó tòa án nhân dân tỉnh Long An tuyên án tử hình! Việc tuyên án tử hình Hồ Duy Hải chỉ dựa trên cơ sở duy nhất là lời khai nhận của nghi phạm Hồ Duy Hải với Cơ quan Điều tra! Xem ra, ở nước ta ngày nay, việc tước đoạt sinh mạng con người sao thật dễ dàng và đơn giản đến vậy sao ?!

Điều quan trọng bậc nhất là Cơ quan Điều tra phải làm rõ các dấu vân tay thu được tại hiện trường nếu không phải là của Hồ Duy Hải thì là của ai ? Đây là nút thắt rất quan

trọng, không được bỏ qua và cũng không thể bỏ qua! Vì trong số các dấu vân tay thu được trên hiện trường, chắc chắn phải có vân tay của kẻ gây án. Được biết, ngay sau khi vụ án xảy ra, Cơ quan Điều tra công an Long An có triệu tập trên dưới 20 nghi can. Sau khi sàng lọc, Ban Chuyên án tập trung và “khoanh” vào 4 nghi can có dấu hiệu đáng ngờ nhất. Trước hết và nổi bật nhất là Nguyễn Văn Nghị được xác định là nghi can số một. Ba nghi can tiếp theo là 3 thợ bạc (kim hoàn) tạm trú tại địa phương. Cả 4 nghi can này đều có quen biết 2 nạn nhân và đều có mặt tại hiện trường trong buổi tối xảy ra vụ án. Nhưng sau đó Cơ quan Điều tra lại trả tự do cho tất cả các nghi can này, kể cả 4 nghi can nói trên, trong đó có Nguyễn Văn Nghị. Thế rồi bẵng đi hơn 2 tháng sau, ngày 21-3-2008, Ban Chuyên án mới triệu tập Hồ Duy Hải để hỏi về tội cá độ bóng đá, nhưng lại đọc lệnh bắt và truy tố Hải với tội danh là thủ phạm giết hại 2 nữ nhân viên bưu cục Cầu Voi! Ba tuần lễ sau, ngày 11-4-2008, Phòng Khoa học Hình sự Công an tỉnh Long An khẳng định dấu vân tay để lại trên hiện trường không phải là của Hồ Duy Hải như đã nói ở trên. Vậy các dấu vân tay để lại trên hiện trường không phải của Hồ Duy Hải thì là của ai trong số những nghi can mà Cơ quan Điều tra đã triệu tập và lấy mẫu vân tay ? Đây là tình tiết hết sức quan trọng, không thể không làm rõ! Với phương châm “Thượng tôn pháp luật”, “Không bắt oan người ngay và không bỏ lọt tội phạm” và “Trọng chứng hơn trọng cung”, thiết nghĩ các cơ quan thực thi pháp luật tỉnh Long An phải giải thích cho công luận rõ vấn đề này!

Trong vụ án này, việc Ban Chuyên án (Cơ quan Điều tra) lấy mẫu vân tay và gửi trưng cầu giám định để xem trong các nghi can bị triệu tập, đặc biệt là 4 nghi can có mặt tại bưu cục Cầu Voi trong buổi tối ngày 13-1-2008, xem ai là người có vân tay “trùng” với các dấu vân tay thu thập được tại hiện trường là việc đương nhiên và bắt buộc phải làm. Nếu Cơ quan Điều tra không thực hiện công đoạn này, thì đây là một sai sót nghiệp vụ rất ấu trĩ, không một ai có thể chấp nhận được! Còn đối với Hồ Duy Hải, ngoài lời khai “tự nhận tội” ra, Cơ quan Điều tra cũng cần giải thích rõ, trên cơ sở chứng cứ pháp lý và khoa học nào lại kết luận Hồ Duy Hải là thủ phạm duy nhất giết hại 2 nữ nhân viên bưu cục Cầu Voi, trong khi các dấu vân tay thu được tại hiện trường đều không phải là của Hồ Duy

Số 223 Trang 32

Page 33: €¦ · Web viewĐịa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Hải, và vật chứng (hung khí gây án) cũng không thu giữ được, phải cho người ra chợ mua mới để thế vào theo “lời mô tả” của nghi can. Ngay cả động cơ gây án của Hải cũng cần được xác định cho thật rõ! Tôi không khẳng định việc Hồ Duy Hải buộc phải khai nhận tội là do bị bức cung, bị tra tấn, bị nhục hình. Đây chỉ là một trong những giả thiết! Cũng có thể do Hải bị tâm thần hoang tưởng, do buồn chán, bế tắc trong cuộc sống, mà khai bừa, tội nào cũng sẵn sàng nhận để sớm được chết! Đây chỉ là những khả năng giả tưởng, song cũng không nên loại trừ khả năng hay giả thiết nào cả! Trong thực tế ở nước ta đã xảy ra rất nhiều vụ án oan sai rồi, đặc biệt là do không chịu đựng nổi mỗi khi bị bức cung, ép cung hay bị tra tấn, nhục hình hoặc do bị cả 2 hình thức này mà nghi can buộc phải nhân tội trước Cơ quan Điều tra, mà ví dụ mới nhất là vụ án oan chấn động dư luận Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang vừa qua, hoăc như vụ nạn nhân Ngô Thanh Kiều bị đánh và tra tấn đến chết tại trại tạm giam của công an thành phố Tuy Hòa tỉnh Phú Yên hồi tháng 5-2012 vừa qua khiến cho 5 sĩ quan công an phải ngồi tù!

Trong vụ án bưu cục Cầu Voi này, có một chi tiết rất đáng nghi ngờ và cần phải làm rõ là sau khi được thả, nghi can số một Nguyễn Văn Nghị đã biến mất tăm, và không rõ hiện anh ta trốn ở đâu ? Nếu là Cơ quan Điều tra, tôi sẽ tìm lại Nguyễn Văn Nghị bằng được để lấy điểm chỉ 10 ngón tay của nghi can này gửi đi giám định xem có trùng với các dấu vân tay đã thu thập được tại hiện trường vụ án hay không ? Một khuất tất nữa là vì sao mọi thông tin, tài liệu, lời khai, bút lục của các nghi can -nhất là của nghi can Nguyễn Văn Nghị- lại được rút ra khỏi hồ sơ vụ án ? Ai là người làm việc này và nhằm mục đích gì ? Tại địa phương (Long An) hiện đang có dư luận râm ran rằng Nguyễn Văn Nghị là cháu ruột một quan chức rất quan trọng trong bộ máy chính quyền nhà nước và Nghị còn có người chú dượng chức vụ rất to đang công tác tại địa phương! Vậy thực hư việc này ra sao, rất cần được làm sáng tỏ để giải tỏa hồ nghi của dư luận, kể cả dư luận nói rằng Hồ Duy Hải phải chết để thế mạng cho Nguyễn Văn Nghị!

Những ai quan tâm và theo dõi vụ trọng án xảy ra tại bưu cục Cầu Voi (Long An) đêm 13-1-2008 và các phiên xét xử sau đó rất dễ nhận ra những dấu hiệu oan sai hiển nhiên đối với Hồ Duy Hải, chỉ xin điểm qua 4 dấu hiệu oan sai rõ nhất sau đây:

- Dấu vân tay để lại tại hiện trường không phải là của Hồ Duy Hải.

- Không nhân chứng nào nhận diện HDH có mặt tại hiệntrường trong buổi tối xảy ra vụ án (13-1-2008).

- Không thu giữ được hung khí mà thủ phạm dùng gây án, thế vào chỉ là “hung khí giả” thay cho “hung khí thật” mà thôi.

- Hồ sơ vụ án bị làm sai lệch, lời khai của bị cáo trong bản cung bị tự tiện sửa chữa, tẩy xóa mà không có sự xác nhận của bị cáo.

Thật không thể hình dung nổi, ở giữa thập niên thứ hai của thế kỷ 21 này, loài người lại có những bản án cướp đoạt sinh mạng con người một cách sơ đẳng và tàn nhẫn đến như vậy ?! Ở thời đại văn minh ngày nay, tại sao lại vẫn còn những phiên tòa phạm phải nhiều sai sót cực kỳ ấu trĩ và nghiêm trọng như vậy ?! Người dân có quyền đặt câu hỏi CÔNG LÝ ở đâu, có đứng về phía dân lành không.

Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Hình sự nói rõ chỉ cần có 1 trong 4 căn cứ theo quy định là đủ điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm. Vụ án Hồ Duy Hải này không chỉ có 1 mà có đủ cả 4 căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm! Điều đáng mừng là, ngày 20-3-2015, Đoàn Giám sát của Quốc hội về tình hình án oan sai đã xem xét rất kỹ vụ án Hồ Duy Hải và đã thống nhất yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm vụ án này! Tất cả 3 luật sư bào chữa và nhiều Đại biểu Quốc hội là thành viên của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cũng yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm vụ án nói trên! Song không hiểu vì lý do gì mà Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho đến nay vẫn nhất quyết không chấp nhận kháng nghị vụ án này theo trình tự giám đốc thẩm ?

Nước ta đang tiến hành công cuộc Cải cách Tư pháp mà trọng tâm là cải cách ngành tòa án, lấy tòa án làm trung tâm trong quá trình Cải cách Tư pháp để sớm đưa nước ta thành nhà nước pháp quyền. Các cơ quan tố tụng như tòa án, viện kiểm sát, công an, đặc biệt là tòa án phải gương mẫu đi tiên phong trong công cuộc cải cách quan trọng này. Việc Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao chấp nhận giám đốc thẩm vụ án này -theo kiến nghị của Đoàn Giám sát của Quốc hội tháng 3-2015 vừa qua- sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc Cải cách Tư pháp, giúp nước ta đẩy nhanh hội nhập với thế giới, góp sức làm xã hội ta công bằng và tốt đẹp hơn, góp phần xây dựng nước ta sớm trở thành nhà nước pháp quyền, thực sự

của dân, do dân và vì dân! Việc này cũng sẽ ít nhiều khôi phục lại lòng tin của nhân dân trong toàn quốc nói chung, cũng như là của người dân tỉnh Long An nói riêng, vào hệ thống TƯ PHÁP và CÔNG LÝ nước nhà!

Số 223 Trang 33