195
Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014 1 Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TS. Đoàn Đức Lân Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tây Bắc Tóm tắt: Bài báo chia sẻ các ý kiến về quan điểm xây dựng kế hoạch khoa học công nghệ, nhấn mạnh đến tính phù hợp của kế hoạch với chiến lược phát triển và thực tiễn của Nhà trường, phù hợp với tính thực tiễn của ngành Giáo dục và Đào tạo, của địa phương và khu vực trong bối cảnh đổi mới và toàn cầu hóa. Kế hoạch cũng cần chú ý đến tính khả thi và đảm bảo sự tham gia của các giảng viên, cán bộ khi xây dựng kế hoạch. Bài báo cũng tư vấn về các bước lập kế hoạch và một số các công cụ có thể sử dụng, về một số hướng nghiên cứu phù hợp. Nhà trường đang triển khai xây dựng kế hoạch năm học mới 2014 - 2015. Để tư vấn cho các đơn vị, cá nhân về hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, chúng tôi có một số ý kiến trao đổi như sau: Từ khóa: Khoa học công nghệ, sự tham gia, lập kế hoạch. 1. Đặt vấn đề Về quan điểm xây dựng kế hoạch: Kế hoạch cần phù hợp với chiến lược và định hướng phát triển của Nhà trường. Chúng ta đã và đang rất chú trọng đến việc nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ. Đây là công việc có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính chất quyết định đối với sự nghiệp phát triển. Công tác đào tạo đội ngũ được thực hiện thông qua các khóa học dài hạn (sau đại học), các khóa học, tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn, hoạt động tự học, tự bồi dưỡng, kể cả các hội nghị, hội thảo khoa học, seminar chuyên môn, thảo luận đánh giá giờ giảng dạy…Đối với các khóa học đại học, sau đại học, sinh viên và học viên thường kết thúc khóa học bằng việc báo cáo luận văn, luận án - kết quả của thực hiện một đề tài nghiên cứu tốt nghiệp. Trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học ở các cấp (cấp cơ sở, cấp Bộ, Tỉnh…) các chương trình và dự án hợp tác, chúng tôi thấy rằng một trong những yêu cầu về hiệu quả của các nhiệm vụ khoa học công nghệ cần đạt được là hiệu quả về đào tạo. Điều đó có nghĩa là việc gắn kết công tác đào tạo cán bộ với các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học không chỉ được khuyến khích, mà là yêu cầu đặt ra khi sử dụng các nguồn lực khoa học công nghệ. 2. Nội dung nghiên cứu Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ không chỉ là nhiệm vụ của một nhà trường, mà ở tầm quốc gia thì đó là quốc sách, như Đảng ta từng khẳng định: "Giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu". Nhiều nước phát triển, trong đó có các nước châu Á không quá xa xôi với Việt Nam, đã đạt được sự tiến bộ vượt bậc là nhờ thực hiện chiến lược đúng đắn về phát triển nguồn nhân lực. Nước Singapore nhỏ bé, với nền tảng ban đầu là những làng chài ven biển lạc hậu, khan hiếm tài nguyên đã trở thành con rồng châu Á: thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 3 trên thế giới, trở thành trung tâm tài chính thứ 4 thế giới. Điều khiến quốc gia nghèo tài nguyên này đạt được những thứ hạng như vậy, chính là yếu tố con người, là trí tuệ, sự phát triển nền kinh tế dựa trên tri thức (4). Người Nhật Bản thường cúi mình rất thấp khi chào nhau, nhưng đằng sau vẻ khiêm nhường ấy tiềm ẩn một sức mạnh vô biên để vươn lên trước thiên nhiên khắc nghiệt, tài nguyên nghèo nàn, thảm họa nguyên tử, để vươn lên tiếp thu và phát triển khoa học công nghệ với ý chí, lòng tự tôn dân tộc, tinh thần võ sĩ đạo (Bushido) và nền tảng văn hóa với những nét đẹp như ngọn núi Phú Sĩ và hoa Anh đào! Có thể nói, chính con người là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển.

Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

  • Upload
    dangdan

  • View
    243

  • Download
    4

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

1

Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ

TS. Đoàn Đức Lân Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tây Bắc

Tóm tắt: Bài báo chia sẻ các ý kiến về quan điểm xây dựng kế hoạch khoa học công nghệ, nhấn mạnh đến tính

phù hợp của kế hoạch với chiến lược phát triển và thực tiễn của Nhà trường, phù hợp với tính thực tiễn của ngành Giáo dục và Đào tạo, của địa phương và khu vực trong bối cảnh đổi mới và toàn cầu hóa. Kế hoạch cũng cần chú ý đến tính khả thi và đảm bảo sự tham gia của các giảng viên, cán bộ khi xây dựng kế hoạch. Bài báo cũng tư vấn về các bước lập kế hoạch và một số các công cụ có thể sử dụng, về một số hướng nghiên cứu phù hợp.

Nhà trường đang triển khai xây dựng kế hoạch năm học mới 2014 - 2015. Để tư vấn cho các đơn vị, cá nhân về hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, chúng tôi có một số ý kiến trao đổi như sau:

Từ khóa: Khoa học công nghệ, sự tham gia, lập kế hoạch. 1. Đặt vấn đề Về quan điểm xây dựng kế hoạch: Kế hoạch cần phù hợp với chiến lược và định hướng phát

triển của Nhà trường. Chúng ta đã và đang rất chú trọng đến việc nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ. Đây là công việc có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính chất quyết định đối với sự nghiệp phát triển. Công tác đào tạo đội ngũ được thực hiện thông qua các khóa học dài hạn (sau đại học), các khóa học, tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn, hoạt động tự học, tự bồi dưỡng, kể cả các hội nghị, hội thảo khoa học, seminar chuyên môn, thảo luận đánh giá giờ giảng dạy…Đối với các khóa học đại học, sau đại học, sinh viên và học viên thường kết thúc khóa học bằng việc báo cáo luận văn, luận án - kết quả của thực hiện một đề tài nghiên cứu tốt nghiệp. Trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học ở các cấp (cấp cơ sở, cấp Bộ, Tỉnh…) các chương trình và dự án hợp tác, chúng tôi thấy rằng một trong những yêu cầu về hiệu quả của các nhiệm vụ khoa học công nghệ cần đạt được là hiệu quả về đào tạo. Điều đó có nghĩa là việc gắn kết công tác đào tạo cán bộ với các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học không chỉ được khuyến khích, mà là yêu cầu đặt ra khi sử dụng các nguồn lực khoa học công nghệ.

2. Nội dung nghiên cứu Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ không chỉ là nhiệm vụ của một nhà trường, mà ở tầm quốc gia thì đó là quốc sách, như Đảng ta từng khẳng định: "Giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu". Nhiều nước phát triển, trong đó có các nước châu Á không quá xa xôi với Việt Nam, đã đạt được sự tiến bộ vượt bậc là nhờ thực hiện chiến lược đúng đắn về phát triển nguồn nhân lực. Nước Singapore nhỏ bé, với nền tảng ban đầu là những làng chài ven biển lạc hậu, khan hiếm tài nguyên đã trở thành con rồng châu Á: thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 3 trên thế giới, trở thành trung tâm tài chính thứ 4 thế giới. Điều khiến quốc gia nghèo tài nguyên này đạt được những thứ hạng như vậy, chính là yếu tố con người, là trí tuệ, sự phát triển nền kinh tế dựa trên tri thức (4). Người Nhật Bản thường cúi mình rất thấp khi chào nhau, nhưng đằng sau vẻ khiêm nhường ấy tiềm ẩn một sức mạnh vô biên để vươn lên trước thiên nhiên khắc nghiệt, tài nguyên nghèo nàn, thảm họa nguyên tử, để vươn lên tiếp thu và phát triển khoa học công nghệ với ý chí, lòng tự tôn dân tộc, tinh thần võ sĩ đạo (Bushido) và nền tảng văn hóa với những nét đẹp như ngọn núi Phú Sĩ và hoa Anh đào! Có thể nói, chính con người là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển.

Page 2: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

2

Phương châm đào tạo của Nhà trường cũng chú trọng đến nâng cao chât lượng thực hành, bên cạnh đảm bảo kiến thức lý thuyết. Do vậy, hoạt động khoa học công nghệ cũng cần gắn kết với thực tiễn của ngành, của địa phương và khu vực. Nhiều giảng viên đã khẳng định rằng nếu kết quả của các nghiên cứu khoa học trong thực tiễn được phản ánh vào bài giảng, thì giờ dạy sẽ có sức hấp dẫn, sinh động, lôi cuốn người học hơn. Các chủ điểm nghiên cứu cần liên quan mật thiết với đổi mới chương trình, đào tạo, với phương pháp giảng dạy đặc thù của các Khoa, Bộ môn, liên quan mật thiết với học phần giảng dạy của các giảng viên. Các nghiên cứu cần gắn kết với những vấn đề thời sự toàn cầu (như bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, toàn cầu hóa…), với chiến lược đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo, với thực tiễn của các tỉnh Tây Bắc và chiến lược phát triển bền vững kinh tế - xã hội của Quốc gia và khu vực. Kế hoạch khoa học công nghệ cũng cần đảm bảo tính khả thi, trên cơ sở phân tích khách quan đặc điểm tình hình của đơn vị về đội ngũ giảng viên, cán bộ, các lĩnh vực hoạt động, nguồn lực về tài chính và cơ sở vật chất (phòng thí nghiệm, khu thực nghiệm, các thiết bị, phương tiện, tài sản liên quan), phân tích những cơ hội và thách thức trong thực tế. Để đảm bảo nguồn lực cho các hướng nghiên cứu dài hạn, chuyên sâu, việc thiết kế và đề xuất các nhiệm vụ khoa học công nghệ cần chú ý kế thừa các hoạt động nghiên cứu trước đó. Mỗi công trình nghiên cứu, khi kết thúc sẽ còn nhiều vấn đề mở ra, còn những công việc dang dở. Nhiều nhà khoa học đã dành trọn thời gian làm việc trong cuộc đời để theo đuổi một công trình, một hướng nghiên cứu và dù trải qua nhiều khó khăn, họ cũng đóng góp cho kho tàng tri thức của chúng ta những phát hiện thú vị. Nếu chúng ta thay đổi quá nhiều chủ điểm nghiên cứu, sẽ khó thu được những kết quả chuyên sâu, nhất là hiện tại điều kiện nghiên cứu của chúng ta còn nhiều hạn chế. Việc huy động sự tham gia của toàn bộ giảng viên, cán bộ trong việc xây dựng kế hoạch là rất cần thiết để phát huy trí tuệ tập thể, đảm bảo tính phù hợp thực tiễn, sáng tạo và khả thi của kế hoạch. Với kinh nghiệm đã được JICA tập huấn tại Việt Nam và Nhật Bản về quản lý chu trình dự án (PCM - Project Cycle Management), chúng tôi cho rằng việc xác định rõ rệt các đầu vào, thiết kế các hoạt động cụ thể kèm theo kế hoạch thời gian, chỉ ra các đầu ra (kết quả) cần đạt được - là rất cần thiết (2).

2.1. Tư vấn về các bước để xây dựng kế hoạch Trước hết, chúng ta cần đánh giá được thực trạng hoạt động khoa học, công nghệ của đơn vị, xác định những thành công đạt được và những điểm còn tồn tại, hạn chế, phân tích những nguyên nhân nhân của thành công và hạn chế, phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức. Phân tích SWOT sẽ là một công cụ hiệu quả có thể sử dụng.

Công việc tiếp theo là rà soát các văn bản về đường lối, văn bản pháp quy, quy định, kế hoạch, chiến lược, chương trình phát triển khoa học, công nghệ của Trung ương, địa phương và của Nhà trường (1).

Nếu điều kiện cho phép, có thể tổ chức các chuyến thăm quan, học tập, tham khảo kinh nghiệm, thành tựu của các Trường Đại học, Học viện, Viện, Trung tâm nghiên cứu và các đối tác liên quan.

Tiến hành khảo sát thực tiễn tại một số địa phương Tây Bắc để xác định phương hướng, chủ điểm cần thực hiện các nghiên cứu (khoa học cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học giáo dục, khoa học công nghệ), các hoạt động công nghệ, phù hợp với đặc thù của Nhà trường, của địa phương và khu vực.

Page 3: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

3

Trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, các cuộc thăm quan, học tập, khảo sát thực tế không thực hiện được thì chúng ta có thể tìm hiểu qua các nguồn tài liệu, bằng các phương tiện thông tin như sử dụng internet, trao đổi qua mail, khai thác website, kết hợp các chuyến công tác…

Dựa vào kết quả của các hoạt động nêu trên, chúng ta xác định các vấn đề, chủ điểm, các hoạt động khoa học công nghệ cần thực hiện. Phân tích cây vấn đề và cây mục tiêu cũng là các công cụ trợ giúp hiệu quả. Các kết quả dự kiến đạt được (đầu ra) cần được xác định bằng các chỉ số cụ thể.

Dự thảo kế hoạch cần được thông qua hội thảo lấy ý kiến của các giảng viên cán bộ trong đơn vị, nếu điều kiện cho phép có thể ý kiến tư vấn của các chuyên gia, đối tác liên quan.

Các đơn vị xem xét, căn cứ vào đặc điểm tình hình của đơn vị để lựa chọn các nội dung mà chúng tôi tư vấn, vận dụng linh hoạt cho phù hợp với thực tiễn.

2.2. Tư vấn một số hướng nghiên cứu khoa học Đổi mới toàn diện nền giáo dục bao hàm đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy, đổi mới phương thức quản lý giáo dục. Các nghiên cứu khoa học sư phạm cần tập trung theo hướng này nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ các thầy cô giáo tương lai. Do vậy việc nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung, sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy ở các bậc học phổ thông cũng rất cần thiết. Đối với các ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học kinh tế và công nghệ, cần chú ý đến định hướng phát triển bền vững cho khu vực Tây Bắc, tức là cải thiện cuộc sống của người dân, phát triển kinh tế địa phương, gắn liền với bảo vệ và khai thác hợp lý tài nguyên, môi trường. Định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Sơn La trong thời gian tới là đẩy mạnh phát triển sản xuât nông nghiệp bền vững và du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Tây Bắc với diện tích đất tự nhiên rộng, tài nguyên phong phú và sự đa dạng bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc - là không gian tiềm năng cho các nghiên cứu nông lâm nghiệp, nghiên cứu văn hóa và phát triển cộng đồng.

3. Kết luận Tây Bắc là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Tây Bắc luôn thu hút được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, của các ban, ngành, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, các địa phương trong cả nước và bạn bè quốc tế (3). Chúng ta có nhiều thuận lợi trong việc phấn đấu trở thành một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cho, khẳng định vị thế của Nhà trường trong bối cảnh đổi mới và hội nhập. Việc xây dựng kế hoạch khoa học công nghệ phù hợp và sự nỗ lực, chủ động, kiên nhẫn, sáng tạo để tổ chức thực hiện kế hoạch đó - sẽ giúp chúng ta có thêm những thành tựu, đạt được nhiều hơn nữa các sản phẩm có giá trị khoa học và thực tiễn, góp phần thực hiện thành công kế hoạch năm học mới của Nhà trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 22/2011/TT-BGDĐT ngày 30/5/2011 về nội dung hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học.

[2] Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), 2007. Tài liệu tập huấn Quản lý Chu trình Dự án. [3] Đoàn Đức Lân, 2014. Bài viết: "Nỗ lực vì sự phát triển vùng Tây Bắc". Website: utb.edu.vn.

Nguồn: http://www.utb.edu.vn/index.php/2013-05-25-09-32-25/news/428-na-la-c-va-sa-pha-t-tria-n-va-ng-ta-y-ba-c/.

Page 4: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

4

[4] Công ty tư vấn du học ASCI, 2014. Giáo dục Singapore phát huy tiềm năng con người. Nguồn: http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/du-hoc/giao-duc-singapore-phat-huy-tiem-nang-con-nguoi-2940560.html/16/1/2004/.

SOME IDEAS ON PLAN-MAKING OF SCIENTIFIC

AND TECHNOLOGICAL ACTIVITIES Dr. Doan Duc Lan Vice-rector, Tay Bac University

Abstract: This paper presents the author’s viewpoint towards plan-making of scientific and technological activities and emphasizes on feasibility of the plan in relation to the university’s strategic directions and practices, regional and local education in the context of renovation and globalization. Some guidelines are also proposed so that plan-makers can base on to make the plan more workable and well-participated by lecturers. The paper also recommends some necessary steps for the plan-making, the needed tools, and some possible research directions in the future.

Keywords: Sciencetific and technological, participated, plan-making.

Page 5: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

5

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA NÔNG NGHIỆP BẢO TỒN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CHO VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM

ThS. Nguyễn Hoàng Phương Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm Nông Lâm nghiệp

Tóm tắt: Nông nghiệp bảo tồn sử dụng năng lượng sinh học không làm hại đến môi trường nhờ lớp phủ thực vật

và các chức năng nông học chính được đảm bảo. Kỹ thuật này khắc phục các trở ngại nông học, giúp các nhà nông học chủ động giải quyết nguyên nhân, chứ không phải triệu chứng của các vấn đề. Tuy nhiên, để thực hiện được chúng ta cần đảm bảo duy trì một ngưỡng sinh khối cần hoàn trả cho đất tối thiểu để hệ thống Nông nghiệp bảo tồn vận hành hiệu quả đồng thời cần đạt được một sự chênh lệch lớn giữa “sinh khối hoàn trả cho đất - sinh khối mất đi” ngay trong những năm đầu tiên. Để áp dụng nông nghiệp bảo tồn cho vùng cao Tây Bắc Việt Nam cần giải quyết triệt để các vấn đề về kỹ thuật làm đất, diện tích đất sử dụng cho sản xuất, lựa chọn đúng đối tượng cây trồng chính và cây trồng xen đồng thời truyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về nông nghiệp bảo tồn.

Từ khóa: Nông nghiệp bảo tồn, che phủ, sinh thái, sinh khối, bơm sinh học, Tây Bắc. 1. Đặt vấn đề Một số đặc điểm nổi bật của Nông nghiệp bảo tồn: Kỹ thuật gieo thẳng trên lớp phủ thực vật

thường xuyên lấy ý tưởng từ hệ sinh thái tự nhiên, không làm đảo lộn đất mà thậm chí còn thâm canh đất. Như vậy, hoạt tính của chất hữu cơ trong Nông nghiệp bảo tồn gần giống trong hệ sinh thái tự nhiên và các sinh vật sống của đất đóng một vai trò quan trọng. Nhìn chung, việc sử dụng hàng loạt năng lượng công nghiệp phục vụ canh tác của nền nông nghiệp truyền thống được thay thế bằng việc sử dụng năng lượng canh tác sinh học không làm hại đến môi trường.

Việc quản lý các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn dựa trên mô hình vận hành tổng hợp của hệ sinh thái trồng trọt. Trước tiên, thông qua sản lượng và mức độ hoàn trả sinh khối cao, việc quản lý này có mục đích là tăng tỷ lệ chất hữu cơ của đất (và duy trì tỷ lệ ở mức cần thiết) và tăng hoạt tính sinh học (cường độ và đa dạng sinh học) vốn là hai yếu tố cơ bản cho sự vận hành hiệu quả của Nông nghiệp bảo tồn và thực hiện các chức năng bổ trợ khác nhau:

- Tích trữ, huy động và điều tiết các dòng chất dinh dưỡng và nước; - Điều hòa các bất thường về thời tiết; - Phòng chống dịch hại, v.v. Như vậy, các chức năng nông học chính được đảm bảo trước tiên là nhờ sự đa dạng chức năng

sinh học trong các hệ thống (điều mà các hệ thống truyền thống đã đánh mất). Với mục đích là đảm bảo sản lượng các cây trồng chính (để đáp ứng nhu cầu của người nông dân và các đòi hỏi của thị trường), các hệ thống này bao gồm cả các cây che phủ được lựa chọn để đảm nhiệm các chức năng sinh thái hệ cơ bản (làm tơi xốp đất, tuần hoàn và huy động các chất dinh dưỡng, kiểm soát cỏ dại và côn trùng có hại, v.v.).

Hơn nữa, phương thức vận hành của các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn giúp cho tác động tới môi trường của các “hành vi sai lầm” (bón nhiều phân hóa học hoặc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sai quy định) được hạn chế nhờ lớp phủ thực vật và hoạt tính sinh học, ngược lại so với các hệ thống truyền thống mà trong đó việc sử dụng thái quá các chất nêu trên thường dẫn đến tình trạng ô nhiễm cao.

Các hệ thống cây trồng trong Nông nghiệp bảo tồn được thiết kế và làm phù hợp để khắc phục các trở ngại nông học chính đã được xác định và xếp theo thứ tự ưu tiên. Chúng chủ động giải quyết nguyên nhân, chứ không phải triệu chứng của các vấn đề thông qua việc bảo vệ (phòng ngừa) và phục hồi (điều trị) đất đai và sự cân bằng sinh thái. Hơn nữa, chúng còn cung cấp một số dịch vụ sinh thái

Page 6: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

6

hệ, đặc biệt với một tác động rất tích cực trong lĩnh vực lưu giữ cacbon và giảm khí gây hiệu ứng nhà kính (trong khi các hệ thống truyền thống lại “làm mất” cacbon).

Các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn “sung sức” nhất là các hệ thống có khả năng đảm bảo các chức năng sinh thái hệ trong những điều kiện thực hiện khác nhau. Người ta cũng tìm cách biến các hệ thống này càng bền vững càng tốt, nghĩa là có khả năng phục hồi và phát triển bình thường sau khi đã chịu một sự cố lớn.

Cuối cùng, các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn được điều chỉnh phải hài hòa với điều kiện của các nông hộ, với các hạn chế và các phương tiện của người nông dân, và tài sản của họ, trong một bối cảnh kinh tế - xã hội cụ thể (nhu cầu và cơ hội của thị trường, hạn chế rủi ro, v.v)[1].

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Điều kiện triển khai các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn Các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn chủ yếu dựa vào chất lượng và khối lượng của sinh khối

được sản xuất và hoàn trả cho lớp phủ và cho đất (sinh khối bề mặt và rễ). Chất lượng sinh khối có vai trò trong các dạng chức năng sinh thái hệ cần thực hiện, trong khi khối lượng lại ảnh hưởng trực tiếp tới cường độ của các chức năng này. Tồn tại một ngưỡng sinh khối cần hoàn trả cho đất, nếu đạt hoặc vượt ngưỡng này thì các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn sẽ vận hành hiệu quả, dưới ngưỡng này thì chúng sẽ vận hành kém. Ngưỡng này tương ứng với khối lượng chất hữu cơ được khoáng hóa. Nó thay đổi chủ yếu tùy theo khí hậu, chất lượng sinh khối, đất và phương thức quản lý đất (cày cuốc hay không). Nếu sự cung cấp cao hơn ngưỡng này, đất (và cây trồng) sẽ hưởng lợi từ chúng theo tỷ lệ thuận với hiệu số “sinh khối hoàn trả - sinh khối mất đi do khoáng hóa”.

Ngược lại, các hệ thống với mức hoàn trả chất hữu cơ thấp hơn khối lượng đã mất đi (trường hợp của các hệ thống có sản lượng sinh khối thấp và/hoặc khai thác quá mức, đặc biệt là để làm thức ăn gia súc) không cho phép duy trì bền vững định mức chất hữu cơ của đất. Chúng chỉ có thể làm chậm sự suy thoái của đất và đảm nhiệm một vài chức năng nông học, điều này sẽ hạn chế hiệu quả và lợi ích của chúng. Thông thường, các hệ thống này được xếp vào trong một thuật ngữ chung là nông nghiệp bảo tồn, chúng không cho phép duy trì một lớp phủ thực vật thường xuyên. Vì vậy, chúng không đáp ứng được định nghĩa về kỹ thuật gieo thẳng trên lớp phủ thực vật thường xuyên vốn là một dạng đặc biệt của nông nghiệp bảo tồn (và dạng này cung cấp rất nhiều hệ thống khác nhau, dựa trên một số nguyên tắc cần tuân thủ).

Page 7: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

7

Để nhanh được hưởng lợi từ tác động của các thực hành Nông nghiệp bảo tồn, cần đạt được một sự chênh lệch lớn giữa “sinh khối hoàn trả cho đất - sinh khối mất đi” ngay trong những năm đầu tiên sau khi triển khai các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn. Sự chênh lệch lớn sẽ cho phép các hệ thống này thực hiện các chức năng sinh thái hệ của chúng, và dẫn đến sự cải tạo nhanh đất đai và sự phục hồi cân bằng sinh thái. Sự cải thiện này sẽ tạo thuận lợi để đạt được sản lượng sinh khối cao và cho phép tiếp tế dễ dàng cho “máy bơm” của các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn trong những năm tiếp theo.

Trên đất nghèo kiệt, việc thu được sản lượng sinh khối cao trong những năm đầu được thực hiện thông qua sự phục hồi độ phì bằng phân bón (hữu cơ hoặc vô cơ), hun đất và/hoặc sử dụng các cây che phủ có khả năng sản xuất sinh khối cao trên đất có độ phì kém. Đất càng suy thoái thì việc “khởi động” các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn càng khó, càng lâu và/hoặc tốn kém.

Dưới một mức độ suy thoái nhất định thì việc triển khai Nông nghiệp bảo tồn không mang lại hiệu quả kinh tế trong những năm đầu và cần có sự đầu tư. Ngược lại, trong rất nhiều bối cảnh nông nghiệp, sự đa dạng cao của các hệ thống và của các quy trình kỹ thuật trong Nông nghiệp bảo tồn cho phép thích ứng với đa số các tình hình kinh tế - xã hội. Nó cho phép đề xuất các hệ thống có hiệu quả kinh tế, bền vững và có lợi, phù hợp với điều kiện và có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được đối với các dạng nông hộ khác nhau. Tuy nhiên, sự đa dạng của các hệ thống và lợi ích của chúng, cũng như mức độ dễ triển khai của chúng, phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện tự nhiên (khí hậu, đất đai, v.v.) và kinh tế - xã hội (hệ thống nông nghiệp, hệ thống chăn nuôi, điều kiện thị trường, các quy tắc cộng đồng, v.v.). Nếu môi trường càng ít bị hạn chế (không gian và các phương tiện sẵn có, sức ép lên sinh khối thấp, v.v.) thì khả năng cải thiện càng cao, với các hệ thống dễ quản lý. Ngược lại, nếu môi trường càng bị hạn chế (sức ép lên sinh khối cao, tiềm năng sản lượng thấp, các phương tiện bị hạn chế, v.v.) thì càng phải cẩn trọng để lựa chọn các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn và phương thức quản lý phù hợp[1].

2.2. Khả năng ứng dụng Nông nghiệp bảo tồn tại vùng Tây Bắc Việt Nam 2.2.1. Mức độ đáp ứng và giải pháp về đất canh tác và cây trồng Đất canh tác vùng cao Tây Bắc Việt Nam đa phần là đất dốc với diện tích khoảng 284.345 ha,

trong đó 75% là đất đang bị suy thoái nghiêm trọng do phương thức canh tác truyền thống của người dân là phát - đốt.

Đây là khó khăn lớn cho các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn vì thời gian để xây dựng hệ thống sẽ lâu dài hoặc tốn kém chi phí ban đầu cho việc cải tạo đất. Như vậy một số giải pháp có thể áp dụng cho vùng Tây Bắc là:

- Dừng việc đốt nương, tiến hành phát dọn nương nhưng không đốt; - Chuyển dịch ngay diện tích đất còn tốt, đất mới khai hoang sau bỏ hóa sang canh tác theo

hướng nông nghiệp bảo tồn để giảm thời gian và công sức cải tạo đất; - Áp dụng kỹ thuật canh tác không làm đất hoặc làm đất tối thiểu; - Bỏ hóa diện tích đất canh tác đã bị thoái hóa để phục hổi lại sức sản xuất của đất; - Tăng cường thâm canh đất bằng để đảm bảo an ninh lương thực và giảm áp lực lên đất dốc. Hiện nay đất canh tác đang được sử dụng chủ yếu đề trồng các loài cây lương thực như Ngô,

Lúa, Sắn và Cây công nghiệp như Cà phê, Cao su. Trong các loài cây trồng trên không phải loài cây nào cũng có thể áp dụng các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn do đặc điểm sinh học và nhu cầu sinh thái

Page 8: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

8

khác nhau dẫn đến việc áp dụng biện pháp làm đất cần phải nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện. Một số loài cây trồng có thể áp dụng ngay các biện pháp kỹ thuật của Nông nghiệp bảo tồn gồm:

- Cây lương thực: Cây Ngô, cây Lúa nương, cây Sắn. - Cây công nghiệp: Cây Cà phê, cây Chè. 2.2.2. Mức độ đáp ứng và giải pháp về điều kiện khí hậu Vùng Tây Bắc Việt Nam với đặc trưng khí hậu có một mùa đông lạnh kéo dài từ tháng 11 đến

tháng 3 năm sau với điều kiện khô hạn và lạnh dẫn đến việc cung cấp nước cho cây trồng xen - bơm sinh học rất khó khăn. Đa phần các loài cỏ sử dụng cho Nông nghiệp bảo tồn hiện nay đều cần nước đều đặn và ổn định trong cả năm dù không nhiều. Việc thiếu nước kết hợp với lạnh giá là yếu tố hạn chế lớn đến việc áp dụng kỹ thuật bơm sinh học và sử dụng các loài cỏ nhập ngoại. Một số giải pháp có thể áp dụng cho khu vực như sau:

- Sử dụng các loài cây họ đậu bản địa để trồng xen như các giống: Đậu Nho Nhe, Đậu H’Mông…

- Sử dụng các loài cỏ hòa thảo bản địa trồng thành băng sau đó cắt và che phủ vào giữa luống các loài cây trồng.

2.2.3. Mức độ đáp ứng và giải pháp về kinh tế - xã hội Điều kiện sống của nông dân vùng Tây Bắc còn khá khó khăn mức thu nhập bình quân đầu

người chỉ đạt khoảng 904 nghìn đồng/năm. Trình độ dân trí còn nhiều hạn chế, mức độ tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa cao dẫn đến việc áp dụng kỹ thuật canh tác theo Nông nghiệp bảo tồn sẽ gặp khó khăn lớn. Hơn nữa do giải pháp Nông nghiệp bảo tồn không mang lại lợi ích kinh tế ngay trước mắt nên việc thuyết phục người dân chấp nhận và áp dụng kỹ thuật này là vấn đề không hề dễ dàng. Để áp dụng được kỹ thuật Nông nghiệp bảo tồn cần tiến hành một số giải pháp sau:

- Tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho người dân về tác hại của xói mòn đất, canh tác theo hình thức phát đốt và những ưu điểm của Nông nghiệp bảo tồn;

- Xây dựng các mô hình trình diễn kỹ thuật để người dân thăm quan, học tập; - Tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật cho cán bộ và người dân khu vực. 3. Kết luận Hệ thống Nông nghiệp bảo tồn giúp việc sử dụng hàng loạt năng lượng công nghiệp phục vụ

canh tác của nền nông nghiệp truyền thống được thay thế bằng việc sử dụng năng lượng canh tác sinh học không làm hại đến môi trường. Đồng thời các chức năng nông học chính được đảm bảo: Sản lượng các cây trồng chính, Các chức năng sinh thái hệ cơ bản. Phương thức vận hành của các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn giúp cho tác động tới môi trường của việc lạm dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu được hạn chế nhờ lớp phủ thực vật và hoạt tính sinh học. Các hệ thống cây trồng trong Nông nghiệp bảo tồn được thiết kế và làm phù hợp để khắc phục các trở ngại nông học giúp chủ động giải quyết nguyên nhân, chứ không phải triệu chứng của các vấn đề thông qua việc bảo vệ (phòng ngừa) và phục hồi (điều trị) đất đai và sự cân bằng sinh thái.

Các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn được điều chỉnh phải hài hòa với điều kiện của các nông hộ, với các hạn chế và các phương tiện của người nông dân, và tài sản của họ, trong một bối cảnh kinh tế - xã hội cụ thể (nhu cầu và cơ hội của thị trường, hạn chế rủi ro, v.v).

Page 9: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

9

Tồn tại một ngưỡng sinh khối cần hoàn trả cho đất và nếu đạt hoặc vượt ngưỡng này thì các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn sẽ vận hành hiệu quả, và dưới ngưỡng này thì chúng sẽ vận hành kém. Để nhanh hưởng lợi từ nông nghiệp bảo tồn cần đạt được một sự chênh lệch lớn giữa “sinh khối hoàn trả cho đất - sinh khối mất đi” ngay trong những năm đầu tiên sau khi triển khai các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn. Đất càng suy thoái thì việc “khởi động” các hệ thống Nông nghiệp bảo tồn càng khó, càng lâu, càng tốn kém.

Để áp dụng Nông nghiệp bảo tồn cho vùng cao Tây Bắc Việt Nam cần giải quyết triệt để các vấn đề về kỹ thuật làm đất canh tác, diện tích đất sử dụng cho sản xuất, lựa chọn đúng đối tượng cây trồng chính và cây trồng xen đồng thời truyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về Nông nghiệp bảo tồn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Hải Thanh, 2010. Sổ tay thực hành gieo thẳng tại Madagasca (Bản dịch tiếng

Pháp). Dự án: Hỗ Trợ Phát Triển Nông Nghiệp Sinh Thái tại khu vực Miền Núi Việt Nam. [2] Boulakia S, Kou P. Leng V, Sar V, 2011. Introduction to DMC cropp.ing systems - Case

study of Cambodia. CA Workshop 2nd. [3] Chabierski S, Sona S, & Séguy L, 2011. Design of DMC cropp.ing system for sustainable maize

production in Cambodia. CA Workshop 2nd. [4] Jean A. Saludadez, 2011. Technology knowledge network in CA narrative of a farmer. CA

Workshop 2nd. [5] João Carlos de Moraes Sá, 2011. History of Conservation Agriculture in Brazil. CA Workshop 2nd. [6] João Carlos de Moraes Sá, 2011. Managing C by CS in CA for C sequestration, soil quality,

crop profitability and enviroments. CA Workshop 2nd.

ADVANTAGES OF CONSERVATION AGRICULTURE AND THE ABILITY TO APP.LY FOR THE NORTHWEST REGION OF VIET NAM

Nguyen Hoang Phuong M.A Center of Agriculture and Forestry Science

Abstract: Bioenergical conservation agriculture does not harm the environment because vegetation and major

agronomic functions is guaranteed. This technique overcome agronomic obstacles helps ogronomic scientist proactively address the cause, but not only the symptoms of the problem. However, there exists a threshold biomass required to reimburse the land and if they meet or exceed this threshold, the system of new Conservation agriculture should operate efficiently and gain a big difference between " biomass reimburse soil-biomass loss " within the first year. To app.ly this agricultural conservation to the upland northwest Vietnam needs to thoroughly solve the technical problems of soil, land use for production, choosing right crops and simultaneous intercrop Council propagate the awareness of the people about conservation agriculture.

Keywords: Conservation agriculture, mulch, ecology, biomass, bio-pum, North-Western.

Page 10: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

10

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÍCH NGHI VÀ TIỀM NĂNG CỦA MỘT SỐ GIỐNG CỎ TRỒNG TẠI KHU VỰC NÚI CAO TÂY BẮC

TRONG GIAI ĐOẠN TUỔI THIẾT LẬP

CN. Bùi Văn Hảo, CN. Lê Xuân Tùng, CN. Nguyễn Thị Quyên, ThS. Vũ Thị Thảo Khoa Nông Lâm

Tóm tắt: Để khắc phục tình trạng thiếu thức ăn cho gia súc vào vụ đông ở vùng núi Tây Bắc. Qua quá trình khảo sát thực tế tại địa phương và những ưu điểm khi trồng cây thức ăn như giải quyết được tình trạng thiếu thức ăn nói chung, góp phần tăng cường độ màu mỡ đất, chống xói mòn, giải quyết được tình trạng thiếu lao động, phát triển mang tính bền vững, chúng tôi đã tiến hành trồng 6 giống cỏ nhập nội (cỏ Mulato, cỏ Guatemala, cỏ ghine, cỏ pát, cỏ Voi, cỏ VA06), hai giống cỏ bản địa(cỏ Lau, cỏ Gai) tại khu vườn thực nghiệm Khoa Nông Lâm - Trường Đại học Tây Bắc trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 12 năm 2013 với mục đích đánh giá khả năng sinh trưởng và năng suất chất xanh của 8 giống cỏ trong giai đoạn tuổi thiết lập. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB) với 8 công thức và 3 lần nhắc lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy bước đầu có thể lựa chọn một số giống cỏ có tỷ lệ sống và năng suất cao như cỏ Voi (94,12%; 21,31tấn/ha/lứa), cỏ Guatemala (95,61%; 13,24 tấn/ha/lứa), cỏ Mulato (93,50%; 15,30 tấn/ha/lứa) để trồng ở khu vực Tây Bắc.

Từ khóa: Cỏ Mulato, cỏ VA06, cỏ Voi, cỏ Ghine, cỏ Pát, cỏ Guatemala. 1. Đặt vấn đề Khu vực Tây Bắc được biết tới là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, bao gồm 6 tỉnh là Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hoà Bình, Lào Cai, Yên Bái. Đây là khu vực rộng lớn (5,64 triệu ha) và mật độ dân số thấp (dân số toàn khu vực chỉ có 3,5 triệu người). Với địa hình đồi núi hiểm trở, diện tích đất rừng và đất đồi chiếm chủ yếu nên Tây Bắc rất có tiềm năng về phát triển chăn nuôi đại gia súc ăn cỏ. Hàng năm số lượng đàn trâu bò của các tỉnh không ngừng được tăng lên. Cụ thể với tỉnh Sơn La, năm 2000 tổng số lượng bò của toàn tỉnh mới chỉ là 87.600 con thì đến năm 2011 đã tăng lên 188.000 con, Việc phát triển ngành chăn nuôi trâu bò không chỉ giúp người dân tăng thêm thu nhập mà còn gọp phần tạo công ăn việc làm cho người dân. Mặc dù ngành chăn nuôi trâu bò của khu vực Tây Bắc đã đạt được những thành công, tuy nhiên nó còn gặp không ít những khó khăn, thách thức như vấn đề giống, nguồn thức ăn... Với đặc điểm thời tiết của khu vực, mùa đông khô, lạnh và kéo dài. Vì vậy tình trạng thiếu thức ăn cho trâu bò vào mùa đông diễn ra phổ biến. Số lượng trâu bò bị chết rét trong mùa đông do thiếu thức ăn không ngừng tăng lên. Xuất phát từ vấn đề thực tiễn này, trong khuôn khổ hoạt động của dự án JICA nhóm chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá khả năng thích nghi và tiềm năng của một số giống cỏ trồng tại khu vực núi cao Tây Bắc trong giai đoạn tuổi thiết lập”. 2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Nội dung nghiên cứu Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất chất xanh của các giống trong

giai đoạn tuổi thiết lập. 2.2 Phương pháp nghiên cứu

Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB) với 8 công thức và 3 lần nhắc lại. Trong thí nghiệm đảm bảo sự đồng đều về thời gian, địa điểm, phân bón,….Chỉ khác nhau về yếu tố thí nghiệm, đó là giống cỏ khác nhau.

Page 11: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

11

2.3. Kết quả và thảo luận 2.3.1. Tỷ lệ sống của các giống cỏ

Bảng 2.1. Tỷ lệ sống của các giống cỏ thí nghiệm sau trồng 30 ngày (%) STT Giống cỏ Tỷ lệ sống (%)

1 Cỏ Voi 94,12 2 Cỏ VA06 93,54 3 Cỏ Guatemala 95, 61 4 Cỏ Mulato 93,50 5 Cỏ Ghinê 97,24 6 Cỏ Pát 96,32 7 Cỏ Gai 63,37 8 Cỏ Lau 45,23

Tỷ lệ sống của các giống cỏ thí nghiệm sau khi trồng 30 ngày đều đạt ở mức cao. Hầu hết các giống cỏ đều đạt tỷ lệ sống trên 90% do được trồng bằng hệ thống hom thân và rảnh thân nên khả năng mọc mầm nảy chồi và ra rễ tốt hơn so với gieo bằng hạt. Trong các giống cỏ thí nghiệm chỉ riêng 2 giống cỏ bản địa đạt tỷ lệ sống thấp cỏ Lau (45,23%), cỏ Gai (63,37%). 2.3.2. Chiều cao của các giống cỏ

Bảng 2.2. Chiều cao của các giống cỏ ở các ngày tuổi Giống cỏ Chiều cao của cỏ ở các ngày tuổi (cm)

45 ngày tuổi 60 ngày tuổi 75 ngày tuổi 90 ngày tuổi Cỏ Voi 69,56 ± 4,47 123,67 ± 3,21 151,45± 2,61 175,34±2,56 Cỏ VA06 68,43 ± 3,48 117,72 ± 5,87 144,86±5,83 168,23±1,65 Cỏ Guatemala 41,25 ± 3,16 68,14 ± 3,26 102,92± 1,76 125,65±2,76 Cỏ Lau 69,25 ± 4,93 114,67 ± 7,43 147,85 ± 5,98 181,67±4,23 Cỏ Mulato 73,00 ± 2,12 93,60 ± 6,84 - - Cỏ Ghinê 74,24 ± 5,27 92,80 ± 6,32 - - Cỏ Pát 71,29 ± 3,66 88,93 ± 4,56 - - Cỏ Gai 40,81 ± 2,95 60,34 ± 3,78 - -

Chiều cao của các giống cỏ có sự khác biệt giữa các nhóm cỏ. Nhóm cỏ thân bụi (cỏ Ghinê, cỏ Pát, cỏ Mulato….) ở thời điểm 45 ngày tuổi, đạt được chiều cao tốt hơn so với nhóm cỏ thân đứng (cỏ Voi, cỏ VA06…). Tuy nhiên đến thời điểm 60 ngày tuổi thì lại có sự thay đổi ngược lại, nhóm cỏ thân đứng phát triển chiều cao nhanh và mạnh hơn nhóm cỏ thân bụi. Ở 60 ngày tuổi chiều cao của cỏ Voi đạt 123,67 cm, trong khi đó chiều cao của cỏ Mulato chỉ đạt 93,60 cm. Sở dĩ có sự thay đổi lớn giữa 2 nhóm cỏ vì nhóm cỏ thân bụi đến thời điểm 60 ngày tuổi, cỏ đã cơ bản thành thục nên sự tăng về chiều cao châm hơn so với nhóm có thân đứng (đang trong giai đoạn phát triển mạnh về chiều cao). Ở giai đoạn 90 ngày tuổi, chiều cao của 4 giống cỏ thân đứng đều đạt mức trên 100 cm. Trong đó cao nhất là cỏ Lau với chiều cao đạt 1,81 cm. Cỏ VA06 và cỏ Voi có chiều cao gần tương đương nhau, lần lượt là 168,23 cm và 175,34 cm. Riêng chỉ có cỏ Guatemala đạt chiều cao thấp nhất, chiều cao của cỏ này chỉ đạt 125,65 cm.

Page 12: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

12

2.4. Năng suất chất xanh của các giống cỏ Bảng 2.3. Năng suất chất xanh của các giống cỏ ở ngày tuổi khác nhau

Giống cỏ Năng suất chất xanh của các giống cỏ ở các ngày tuổi (tấn/ha/lứa) 45

ngày tuổi 60

ngày tuổi 75

ngày tuổi 90

ngày tuổi Cỏ Voi 11,39b 21,31b 26,07b 30,38b

Cỏ VA06 12,51a 22,30a 27,27a 31,58a

Cỏ Guatemala 8,01d 13,24d 19,38c 24,12c

Cỏ Lau 6,59e 8,13f 11,42d 12,75d

Cỏ Mulato 11,86b 15,30c Cỏ Ghinê 8,13d 10,32e Cỏ Pát 10,66c 13,32d Cỏ Gai 4,26f 6,41g

CV% 3,8 1,1 1,2 1,9 LSD0,05 0,61 0,27 0,52 0,92

Năng suất chất xanh của các giống cỏ có sự khác biệt rõ rệt. Ở 45 ngày tuổi thì cỏ VA06 và cỏ Mulato là 2 giống cỏ cho năng suất chất xanh cao nhất tương ứng với 12,51 tấn/ha/lứa và 11,86 tấn/ha/lứa. Ở thời điểm này cỏ Lau và cỏ Gai cho năng suất chất xanh thấp nhất với mức năng suất lần lượt tương ứng là 6,59 tấn/ha/lứa và 42,6 tấn/ha/lứa. Sang tới giai đoạn 60 ngày tuổi, năng suất chất xanh của các giống cỏ có sự tăng mạnh. Cỏ Voi đạt mức năng suất chất xanh 21,31 tấn/ha/lứa, cỏ Mulato đạt 15,30 tấn/ha/lứa. Đến thời điểm 90 ngày tuổi thì năng suất chất xanh của cỏ Voi, VA06 cũng đạt được mức cao. Cụ thể mức năng suất của cỏ Voi đạt 30,38 tấn/ha/lứa, cỏ VA06 đạt mức 31,58 tấn/ha/lứa. Qua đây có thể thấy, nhóm cỏ Ghinê, cỏ Voi, cỏ VA06, cỏ Pát, cỏ Mulato và cỏ Guatemala là những giống cỏ có tiềm năng cho năng suất chất xanh cao, phù hợp với việc phát triển các mô hình trồng cỏ để chăn nuôi đại gia súc.

Năng suất chất xanh của các giống cỏ tại thời điểm 90 ngày tuổi

05

101520253035

Giống cỏ

Năng

suất ch

ất xanh

(tấn/h

a/lứa

)

Series1

3. Kết luận

Trong quá trình nghiên cứu bước đầu nhóm chúng tôi nhận thấy: Tỷ lệ sống của các giống cỏ nhập nội (cỏ Mulato, cỏ Guatemala, cỏ ghine, cỏ pát, cỏ Voi, cỏ VA06) đều cao trên 90%, còn hai giống cỏ bản địa (cỏ Lau, cỏ Gai) thì thấp, chiếm tỷ lệ 45,23% và 63,37% .

Page 13: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

13

Năng suất chất xanh của các giống cỏ nhập nội cũng rất tốt, đạt cao nhất là cỏ VA06 với 31,58 tấn/ha/lứa ở thời điểm 90 ngày tuổi.

Bước đầu chúng tôi đã lựa chọn được một số giống cỏ năng suất cao như cỏ VA06, cỏ Voi, cỏ Guatemala để trồng tại vùng núi cao Tây Bắc phù hợp với mô hình phát triển chăn nuôi gia súc góp phần giải quyết tình trạng thiều thức ăn cho gia súc trong vụ đông.

Lời cám ơn: Chúng tôi gửi lời cám ơn tới Dự án TBU - JICA và các đối tác liên quan đã hỗ trợ cho nghiên cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đoàn Ân, Võ Văn Trị, 1976. Gây giống và sử dụng một số giống cỏ năng suất cao. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[2] Nguyễn Ngọc Hà, Lê Hòa Bình, Bùi Xuân An, Ngô Văn Mậu, 1985. Kết quả nghiên cứu tập đoàn cỏ nhập nội, Tạp chí KHKT Nông nghiệp.

[3] Từ Quang Hiển, Nguyễn Khánh Quắc, 1995. Các yếu tố tác động đến đồng cỏ, Giáo trình đồng cỏ và cây thức ăn gia súc. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [4] Trần Tấn Khanh, 2003. Đánh giá hiện trạng đồng cỏ tự nhiên và nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nhằm cải thiện nguồn thức ăn xanh cho gia súc (Luận án tiến sỹ nông nghiệp). EVALUATION ON ADAPTABILITY AND POTENTIALITY OF SOME FORAGE SPECIES

IN NORTHWESTERN ALPINE REGIONS OF VIETNAM IN THE YEAR OF ESTABLISHMENT

Bui Van Hao B.A, Le Xuan Tung B.A,

Nguyen Thi Quyen B.A, Vu Thi Thao M.A Faculty of Agriculture and Forestry

Abstract: To overcome the lack of food for cattle in winter in the mountainous areas in the Northwest and through our actual experiments in local community, planting food crops has proved to be of great advantages. It helps solve to the problem of food shortage, make the soil more productive, control erosion, and resolve the lack of labors. We has just planted 06 types of exotic grass (such as: Mulato grass, Guatemala grass, Ghine grass, Pat grass, Voi grass, VA06 grass). Among them, 02 types are local grass (Lau grass, Gai grass) which are in the garden of Faculty of Agriculture and Forestry - Tay Bac University (from March to December 2013) with the pupose of evaluating the possible potential of growth and yield of 8 species of grass in the year of establlishment. The experiment was arranged in a randomized complete block design (RCB) with 8 treatments and 3 replicates. The results show that we can choose some kinds of grass which have high possibility of survival and productivity such as elephant grass (94.12%; 21,31 tone/ha/ages), Guatemala grass (95.61%; 13,24 tone/ha/ages ), Mulato grass (93.50%; 15,30 tone/ha/ages) to be planted in the local areas.

Keywords: Mulato grass, King grass, Guatemala grass, VA06 grass, Ghine grass.

Page 14: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

14

THỰC TRẠNG CHĂN NUÔI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ LOÀI CÂY THỨC ĂN CHO TRÂU BÒ TẠI SƠN LA

ThS. Vũ Đức Toàn, CN. Nguyễn Thị Quyên, CN. Nguyễn Thùy Trang, ThS. Nguyễn Hoàng Phương, CN. Bùi Văn Hảo Khoa Nông Lâm

Tóm tắt: Để khắc phục vấn đề thiếu thức ăn cho trâu bò trong vụ đông, một trong những giải pháp được đưa ra là

khảo sát cụ thể tình hình chăn nuôi trâu bò, tìm ra loài cây, cỏ có tiềm năng để trồng thử nghiệm và nhân rộng các mô hình. Kết quả khảo sát cho thấy tại tỉnh Sơn La, tập quán chăn nuôi của mỗi dân tộc có những đặc điểm khác nhau nhưng hầu hết tất cả đều sử dụng phương pháp chăn thả tự do và phương pháp chăn dắt, phương pháp thâm canh không phổ biến. Có rất nhiều loài cây, cỏ được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi nhưng tập trung chủ yếu vào 10 loài, trong đó có hai loài cỏ tiềm năng có thể phát triển, đó là cỏ Gai và cỏ Lau. Bên cạnh đó, người dân đã và đang sử dụng 7 loại phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn chăn nuôi. Ngoài ra, một số giống cỏ nhập nội có năng suất cao cũng đã bước đầu được người dân đưa vào trồng làm thức ăn cho trâu bò.

Từ khóa: Chăn nuôi, trâu bò, cỏ bản địa, thức ăn gia súc. 1. Đặt vấn đề Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc của tổ quốc, là nơi sinh sống của 12 dân tộc anh em,

nhân dân trong vùng có truyền thống chăn nuôi từ lâu đời, ngoài việc cung cấp cho nhu cầu thực phẩm của người dân, trâu bò còn là nguồn sức kéo không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp của địa phương. Tốc độ tăng trưởng đàn trâu, bò hàng năm tăng khá (5,7%/năm), từ 263.700 con năm 2005 tăng lên 354.100 con năm 2011.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, 2 năm trở lại đây, đàn trâu bò ở một số địa phương, nhất là ở các vùng núi cao, có xu hướng tăng trưởng chậm lại. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng giảm sút về số lượng, nhưng chủ yếu xuất phát từ việc thiếu nguồn thức ăn trong mùa đông và dịch bệnh. Mặt khác, diện tích rừng, bãi chăn thả cho trâu bò ngày càng bị thu hẹp do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, người dân hầu hết vẫn áp dụng phương thức chăn nuôi quảng canh, chăn thả tự do, ít trồng cỏ. Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng chăn nuôi cũng như các loài cây bản địa, nhập nội có tiềm năng để gây trồng phát triển làm thức ăn cho trâu bò là hết sức cấp thiết đối với khu vực nghiên cứu.

Trong khuôn khổ Dự án TBU - JICA, Nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu phát triển một số cây thức ăn gia súc”, với mục đích điều tra khảo sát tình hình chăn nuôi trâu bò tại khu vực Tây Bắc; thu thập một số giống cây thức ăn gia súc bản địa và nhập nội để gây trồng thử nghiệm. Đợt khảo sát được tiến hành từ tháng 9 đến hết tháng 12 năm 2012.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu tình hình chăn nuôi trâu bò, tình hình trồng và sử dụng thức ăn cho gia súc nhai tại

khu vực tỉnh Sơn La và thu thập thông tin về các giống cây thức ăn gia súc nhập nội tại các Viện, Trung tâm tại Hà Nội và các vùng lân cận.

2.2. Nội dung nghiên cứu - Khảo sát tình hình tình hình trồng và sử dụng các loài cây làm thức ăn chăn nuôi trâu bò tại

khu vực nghiên cứu. - Thu thập thông tin và đưa ra danh sách các loại cây, cỏ bản địa có khả năng gây trồng, phát

triển làm thức ăn cho trâu bò trong mùa đông. - Điều tra, khảo sát, thu thập thông tin về các giống cây thức ăn gia súc nhập nội tại các viện,

Page 15: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

15

trung tâm, nông trường. 2.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra, phỏng vấn các nông

hộ chăn nuôi tại 3 huyện Thuận Châu, Mai Sơn và Mộc Châu của tỉnh Sơn La bằng hệ thống câu hỏi được thiết kế sẵn trong phiếu điều tra, kết hợp quan sát thực tế tại thực địa. Đồng thời, tiến hành điều tra, tìm hiểu về các loài cỏ nhập nội tại 3 đơn vị: Trung tâm Nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì – Hà Nội; Viện Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI) Phú Thọ; Trung tâm Nghiên cứu phát triển chăn nuôi miền núi Sông Công - Thái Nguyên.

Phương pháp xử lí, phân tích, tổng hợp thông tin: Ghi chép chi tiết các thông tin dựa trên quan sát, phỏng vấn để tổng hợp số liệu, đánh giá về việc cung cấp nguồn thức ăn, phương thức chăn nuôi và nguyên nhân dẫn đến thiếu thức ăn cho trâu bò vào mùa đông. Các thông tin được tổng hợp dựa trên kết quả thống kê và phân tích định lượng, định tính để đưa ra được những đánh giá chung về thực trạng chăn nuôi và sử dụng các loài cây cỏ làm thức ăn cho trâu bò tại khu vực nghiên cứu.

3. Kết quả và thảo luận 3.1. Tình hình chăn nuôi gia súc tại địa phương 3.1.1. Quy mô chăn nuôi Quy mô chăn nuôi được chia thành 3 mức độ: Nuôi ít hơn 5 con; Từ 5 - 10 con và trên 10 con.

Kết quả điều tra theo từng huyện được tổng hợp trong Hình 3.1.1.

Hình 3.1.1. Biểu đồ quy mô chăn nuôi theo từng huyện

Kết quả điều tra cho thấy, quy mô chăn nuôi có sự khác biệt giữa 3 huyện: Mộc Châu có số hộ chăn nuôi quy mô trên 10 con cao nhất với 25% số hộ được phỏng vấn, tỷ lệ này ở Thuận Châu và Mai Sơn tương ứng với 15% và 0%. Số hộ nuôi dưới 5 con chiếm tỷ lệ cao nhất là huyện Mai Sơn (82,5%; Thuận Châu 47,5%; Mộc Châu 40%), lý do chính Mai Sơn là vùng canh tác Ngô và cây công nghiệp như Cà Phê, mía điển hình của tỉnh, không có nhiều bãi chăn thả, diện tích trồng cỏ ít. Mặt khác, theo ý kiến của người dân việc sử dụng tràn làn không kiểm soát thuốc trừ cỏ trong canh tác Ngô, đã gây ngộ độc cho trâu bò khi ăn cỏ tại những khu vực này, nên các hộ gia đình thường nuôi nhốt với số lượng ít. Nguồn thức ăn chính cho trâu bò người dân tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp, như thân cây Ngô, ngọn mía, rơm rạ. Thuận Châu và Mộc Châu diện tích rừng còn nhiều, nên số hộ nuôi từ 5 con trở lên cao hơn, do áp dụng phương thức chăn thả tự do, phụ thuộc vào tự nhiên là chính, mất ít công chăm sóc.

Page 16: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

16

3.1.2. Cơ cấu đàn trâu bò theo từng huyện

Hình 3.1.2. Biểu đồ cơ cấu đàn trâu bò theo từng huyện

Cơ cấu đàn là một chỉ tiêu quan trọng cho biết mục tiêu chăn nuôi lấy sức kéo hay sản xuất thịt. Tại khu vực nghiên cứu, giống trâu bò chủ yếu là giống bản địa, hoàn toàn thích hợp với phương thức chăn thả tự do. Về tỷ lệ đực cái, Mai Sơn có tỷ lệ trâu bò đực cao nhất với 64%, con số này tại Thuận Châu và Mộc Châu là 30% và 36%, với lý do người dân nuôi lấy sức kéo là chính. Các huyện Thuận Châu và Mộc Châu, ngoài sử dụng làm sức kéo, các hộ gia đình chăn nuôi trâu bò sinh sản và lấy thịt, nên cơ cấu đàn tương đối đồng đều.

3.1.3. Phương thức chăn nuôi

Hình 3.1.3. Biểu đồ phương thức chăn nuôi theo từng huyện

Phương thức nuôi, đề tài chia thành 3 phương thức: Quảng canh; bán thâm canh và thâm canh. Kết quả điều tra cho thấy, phương thức nuôi quảng canh vẫn là phương thức phổ biến tại khu vực nghiên cứu, với tỷ lệ cao (88 - 100%) tại 2 huyện Thuận Châu và Mộc Châu, khu vực còn nhiều rừng làm nơi chăn thả, người dân không có thói quen dự trữ thức ăn cho trâu bò trong mùa đông, đây cũng là nguyên nhân làm trâu bò chết nhiều do thiếu sức chống chịu. Tại Mai Sơn tỷ lệ nuôi quảng canh thấp nhất với 27% số hộ trả lời áp dụng, còn lại là chăn nuôi theo phương thức thâm canh và bán thâm canh (chăn dắt kết hợp nuôi nhốt) với tỷ lệ tương ứng là 40% và 33%.

3.2. Tình hình trồng và sử dụng cây, cỏ làm thức ăn cho trâu bò 3.2.1. Các loài cây, cỏ bản địa Kết quả điều tra cho thấy, tại khu vực nghiên cứu thành phần các loài thực vật vô cùng đa dạng

nên thức ăn tự nhiên của trâu bò theo phương thức chăn thả tự do cũng rất phong phú, nhóm nghiên cứu đã thống kê được 10 loài cây cỏ phổ biến và trâu bò thường ăn nhiều, trong đó có 2 loài cây tiềm năng có khả năng gây trồng là Cỏ Lau và Cỏ Gai.

Page 17: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

17

Bảng 3.2.1. Danh mục các loài cây, cỏ bản địa dùng làm thức ăn cho trâu bò

Ngoài các loài cây cỏ tự nhiên thì phụ phẩm nông nghiệp cũng là nguồn thức ăn cho trâu bò, đặc biệt là vào mùa đông, được người dân tận dụng. Địa phương sử dụng nhiều nhất là Mai Sơn, do đây là vùng chuyên canh Ngô, Mía điển hình của tỉnh Sơn La. Phương pháp xử lý thức ăn tích trữ cho mùa đông chủ yếu là dự trữ rơm khô và bổ sung thức ăn xanh bằng thân cây chuối, ngọn mía, lá tre,...

3.2.2. Phụ phẩm nông nghiệp

Bảng 3.2.2. Danh mục một số loài cây cho phụ phẩm làm thức ăn cho trâu bò tại khu vực STT Tên phổ

thông Tên khoa học Phương thức sử dụng

1 Đậu tương Glycine max (L.) Merr Người dân sử dụng thân lá sau thu hoạch cho trâu bò ăn thêm.

2 Cây ngô Zea mays L. Một số hộ sử dụng thân lá cây ngô còn tươi cho trâu bò ăn.

3 Sắn Manihot esculanta Crantf Thân cây sắn tươi được băm nhỏ cho trâu bò ăn thêm vào mùa đông. 4 Khoai lang Ipomoea batats L. Thân và lá khoai lang tươi 5 Rơm lúa Oryza sativa L. Rơm khô được tích trữ làm thức ăn dự trữ cho trâu bò

vào mùa đông. 6 Cây chuối Musa cocinea Andr Lá chuối tươi thường làm thức ăn cho trâu bò khi

hiếm thức ăn trong mùa đông. 7 Cây mía Saccharum officinarum Ngọn và lá mía là thức ăn ưa thích của trâu bò, nhưng

chỉ có nhiều ở Mai Sơn. 3.2.3. Các giống cỏ nhập nội Qua điều tra tại các đơn vị ngoài tỉnh, nhóm nghiên cứu đã thu thập được 14 giống cỏ nhập nội,

đã được nghiên cứu và trồng thử nghiệm tại nhiều địa phương trong cả nước, trong đó có nhiều loài cỏ có khả năng thích nghi với điều kiện khô, lạnh của vùng cao như cỏ Voi, Mulato,….

STT Tên địa phương Tên khoa học 1 Cỏ Lau Saccharum arundinaceum Rotz 2 Cỏ Chít Thysanolena maxima (Roxb) Kantz 3 Cỏ Tranh Imperata cylindrica (Linn) Beauv 4 Cỏ Mần Trầu Eleusine indica (Linn) Gaertn 5 Thài lài rừng Forrestica marginatus Hassk 6 Giang Ampelocalamus patellaris (Gambl) 7 Tre lộc ngộc Bambusa bambos (L.) Voss 8 Bương Dendrocalamus fragelliferus 9 Cỏ Cứt lợn Ageratum conyzoides L. 10 Cỏ Gai Cynodon dactylon L.

Page 18: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

18

Bảng 3.2.3. Danh mục một số loài cây cỏ nhập nội phổ biến STT Tên phổ thông Tên khoa học

1 Cỏ Sả/Ghinê Panicum maximum Jacq.,TD58 2 Cỏ Voi Pennisetum purpureum Schumach 3 Cỏ VA06 P. purpureum x P. americanum 4 Cỏ Stylo Stylosanthes guianensis (Aul) Swaptf 5 Cỏ Pangola Digitaria decumbens 6 Cỏ Pát Paspalum attratum 7 Cỏ Signal Brachiaria decumbens 8 Cỏ Vetiver Chrysopogon zizanioides 9 Cỏ Mutalo B. ruziziensis x B. decumbens x B. brizantha

10 Cỏ Guatemala Tripsacum andersonii 11 Keo dậu Leucaena leucocephala 12 Cỏ Lông para Brachiaria mutica 13 Cỏ Ruzi Brachiaria ruziziensis 14 Cỏ Setaria Setaria anceps 4. Kết luận - Tình hình chăn nuôi trâu bò tại khu vực nghiên cứu chưa phát triển do người dân chăn nuôi

chủ yếu theo quy mô nhỏ lẻ, lấy sức kéo, ít đầu tư, nguồn thức ăn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên; - Tình hình trồng và sử dụng thức ăn cho gia súc tại khu vực nghiên cứu chưa phổ biến; - Nguyên nhân gây chết trâu bò vào mùa đông một phần do thiếu thức ăn, công tác phòng

chống rét cho trâu bò chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là các bản vùng cao; - Có 2 loại cỏ bản địa có tiềm năng cần gây trồng thử nghiệm làm thức ăn cho trâu bò trong

mùa đông là Cây Lau và Cỏ Gai; - 6 giống cỏ nhập nội có đặc tính sinh thái phù hợp với điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu

gồm: Cỏ Voi, Mulato, VA06, cỏ Sả, cỏ Pát, cỏ Guatemala, có thể gây trồng ở vùng cao. Lời cám ơn: Chúng tôi gửi lời cám ơn tới Dự án TBU – JICA và các đối tác liên quan đã hỗ trợ

cho nghiên cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nghiêm Văn Cường, 2008. Đánh giá khả năng thích nghi của một số loài cỏ trồng nhập nội trong quy trình thức ăn gia súc tại Công ty Giống bò sữa Mộc Châu, Luận văn thạc sĩ sinh học, Đại học Thái Nguyên.

[2] Nguyễn Thiện, Lê Hòa Bình, 1994. Thức ăn cho gia súc nhai lại kỹ thuật trồng và sử dụng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[3] Nguyễn Thiện, 2004. Trồng cỏ nuôi bò sữa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [4] Viện Chăn nuôi Quốc gia, 2001. Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc-gia cầm

Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [5] Viện Sinh thái tài nguyên sinh vật, 1993.1900 loài cây có ích ở Việt Nam, Nxb Thế giới.

Page 19: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

19

BREEDING SITUATION AND DEVELOPING POTENTIAL OF SOME PLANTS USED FOR CATTLE IN SON LA, TBU - JICA PROJECT, 2012

Vu Duc Toan M.A, Nguyen Thi Quyen B.A, Nguyen Thuy Trang B.A, Nguyen Hoang Phuong M.A, Bui Van Hao B.A Faculty of Agriculture and Forestry

Abstract: Breeding cattle among ethnic minority communities in the North West area in recent years tend to

decline. One of the causes is that cattle often die of cold and lack of food during the winter. It is, therefore, necessary to give out some solutions to this problem. We have made a survey on the situation to find out the kinds of grass for trial planting and replicate the pattern. Also, it will contribute to solve the problems mentioned above. The survey results show that in Son La province, Each ethnic group has different ways of husbandry practice but most use the method of free grazing and shepherding, the method of intensive farming is not common. There are many species of feeding plants for cattle but the local people mainly make use of 10 species, including Gai and Lau. In addition, people often use 7 kinds of agricultural by products for cattle. Besides, some exotic kinds of grass have been planted in some areas but not common.

Keywords: Breeding, cattle, local-grass, agricultural products for cattle.

Page 20: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

20

TÌNH HÌNH THU HÁI VÀ TIÊU THỤ NẤM MỐI (TERMITOMYCES ALBUMINOSUS) TRONG TỰ NHIÊN TẠI TỈNH SƠN LA

ThS. Đặng Văn Công, TS. Đoàn Đức Lân, ThS. Trần Quang Khải, CN. Vũ Phương Liên Khoa Nông Lâm

Tóm tắt: Khảo sát nhằm thu thập các thông tin liên quan đến tình hình thu hái và tiêu thụ nấm Mối trong tự nhiên

phục vụ cho nghiên cứu và nuôi trồng nấm Mối trong điều kiện nhân tạo. Khảo sát được tiến hành tại huyện Quỳnh Nhai, huyện Thuận Châu và khu vực Thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2013. Đối tượng được khảo sát đó là người thu hái và người bán nấm Mối. Kết quả khảo sát đã cho thấy việc thu hái nấm Mối trong tự nhiên hoàn toàn dựa theo kinh nghiệm bản địa, sau đó được tiêu thụ ngay tại các chợ địa phương với giá 80.000 - 150.000 đồng/kg nấm tươi.

Từ khóa: Nấm Mối, thu hái, tiêu thụ. 1. Đặt vấn đề Nấm là loại thực vật làm thức ăn rất ngon và nhiều chất bổ dưỡng, nhưng bên cạnh đó nấm

cũng đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ngộ độc ở người. Hiện nay do người nông dân quá lạm dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật làm cho cây nấm mọc tự nhiên cũng ảnh hưởng và nhiễm độc hại. Khi thu hái nấm về ăn có thể xảy ra tình trạng ngộ độc cho người sử dụng.

Những năm gần đây thời tiết không thuận lợi, nắng nhiều hơn mưa nên nấm mọc giảm hơn so với các năm trước. Đôi khi trong một khu vực mọc nấm Mối thỉnh thoảng cũng có đan xen một vài cây nấm trông rất giống nhau nhưng nếu tinh mắt để ý kỹ sẽ thấy khác “loài”. Những người chuyên nghiệp hái nấm nhiều khi cũng bị nhầm lẫn, vì mắt thường cũng rất khó để phân biệt giữa nấm độc và không độc, đặc biệt là nấm mọc hoang ở vườn, ruộng và nấm hái trong rừng. Mặc dù đã có rất nhiều bài viết cảnh báo về các vụ ngộ độc do ăn nấm dại, nấm rừng nhưng tình trạng này vẫn xảy ra thường xuyên trong mùa thu hái nấm, nếu không kịp thời cứu chữa có thể dẫn đến tử vong hoặc làm tổn hại đến sức khỏe.

Xuất phát từ thực tế trên, để góp phần thu thập cơ sở dữ liệu về nấm Mối phục vụ nghiên cứu nhân giống và nuôi trồng nấm Mối trong điều kiện nhân tạo chúng tôi tiến hành “Khảo sát tình hình thu hái và tiêu thụ nấm Mối trong tự nhiên tại tỉnh Sơn La”.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Thời gian, địa điểm nghiên cứu - Thời gian: Từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2013. - Địa điểm: Huyện Quỳnh Nhai, huyện Thuận Châu; Thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. 2.2. Vật liệu nghiên cứu: Giống nấm Mối.

2.3. Nội dung nghiên cứu: Tình hình thu hái và tiêu thụ nấm Mối trong tự nhiên. 2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Quan sát trực tiếp: Quan sát tại các khu vực có nấm Mối mọc xác định vị trí mọc nấm (Rừng, vườn nhà hay nương rẫy). 2.4.2. Phỏng vấn: Sử dụng bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng với hai đối tượng: các hộ

dân thu hái nấm Mối, người bán nấm Mối ngoài chợ. Mỗi đối tượng phỏng vấn 30 phiếu được lựa chọn dựa trên thông tin thu thập được từ khảo sát thực địa.

Các thông tin cần thu thập: + Đối tượng người thu hái nấm Mối: Khu vực mọc nấm Mối; diện tích tổ nấm Mối; Thời điểm

mọc nấm Mối trong năm; Số đợt nấm Mối mọc/năm; Dấu hiệu thời tiết nhận biết sắp có nấm Mối

Page 21: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

21

mọc; Thời gian từ khi thấy nấm Mối mọc lên khỏi mặt đất đến khi thu hái; đặc điểm của tổ nấm Mối; Dụng cụ đào/lấy nấm Mối; độ sâu đào; Thời gian hái nấm Mối; Bộ phận thu hái; Số lượng nấm Mối thu hái được/1 lần; Mục đích sử dụng sau khi thu hái; Cách sử dụng nấm Mối làm thực phẩm; Cảm quan về mùi vị nấm Mối.

+ Đối tượng người bán nấm Mối: Thu mua của người thu hái hay trực tiếp thu hái được rồi mang bán; Địa điểm bán nấm Mối; giá bán/1 kg; Bán cho đối tượng nào; Cách bảo quản và thời gian bảo quản.

2.4.3. Thu thập các tài liệu thứ cấp: Thu thập các thông tin về nấm Mối thông qua các báo cáo khoa học, tài liệu tham khảo, tài liệu trên Internet.

3. Kết quả 3.1. Tình hình thu hái nấm Mối trong tự nhiên tại Sơn La

Bảng 1. Tổng hợp kết quả phỏng vấn người thu hái nấm Mối STT Nội dung Trả lời % Trên số người

được hỏi 1 Khu vực mọc nấm Mối Vườn nhà (vườn cà phê) 10

Nương rẫy (nương ngô) 30 Rừng tự nhiên 60

2 Diện tích tổ nấm Mối Rộng khoảng 3 – 5 m2 100 3 Thời điểm mọc nấm Mối trong năm Tháng 5 dương lịch 83,33 Tháng 5 và tháng 7 dương lịch 16,67 4 Số đợt nấm Mối mọc/năm Chỉ mọc 1 lần: tháng 5 83,33

Mọc 2 lần/năm: tháng 5 và tháng 7 16,67 5 Dấu hiệu thời tiết nhận biết

sắp có nấm Mối mọc Thời tiết oi bức, sau đó trời có mưa khoảng 2 – 3 ngày là nấm mọc

100 6 Thời gian từ khi thấy nấm

Mối mọc lên khỏi mặt đất đến khi thu hái

Khoảng 3 – 4 ngày 23,33 Thu hái ngay khi tìm thấy tổ nấm Mối 76,67

7 Phân bố của cây nấm tại tổ nấm Mối

Mọc chụm 2 – 3 cây/1 vị trí 26,67 Nấm mọc rải rác từng cây không đều 73,33

8 Dụng cụ đào/lấy nấm Mối Đào bằng thuổng, dao 86,67 Nhổ bằng tay 13,33

9 Thời điểm hái nấm Mối trong ngày

Hái bất cứ khi nào tìm thấy nấm Mối 76,67 Hái vào sáng sớm (5-6 giờ sáng) 23,33

10 Độ sâu đào Đào sâu khoảng 20 – 30 cm 100 11 Bộ phận thu hái Thu tận gốc (toàn bộ cây nấm) 70

Thu phần thân (để lại gốc nấm) 30 12 Số lượng nấm Mối thu được/ 1 lần (kg hoặc số cây nấm) Khoảng 2 – 3 kg/ tổ/ lần hái Nếu tổ nấm mọc 2 lần/năm thì lần sau thu

được ít hơn lần trước 66,67

Được một vài cây 33,33 13 Mục đích thu hái Để làm món ăn 36,67

Đem ra chợ bán 63,33 14 Cách chế biến Nấu canh, hoặc xào 100 15 Mùi, vị khi ăn nấm Mối. Ăn có vị ngọt, giòn, không có mùi 100

Hàng năm nấm Mối xuất hiện vào đầu mùa mưa, khoảng từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm. Thường nấm Mối xuất hiện ở nơi đất cao vì mối không thể làm ổ ở nơi đất quá ẩm ướt. Nấm Mối chủ yếu mọc ở rừng tự nhiên (60%), một số mọc ở vườn cà phê (10%) hoặc nương ngô (30%), do một số mảnh rừng bị chặt phá để trồng ngô và cà phê.

Theo thông tin thu thập từ người dân thì nấm Mối chủ yếu chỉ mọc 1 đợt/năm vào đầu tháng 5

Page 22: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

22

dương lịch (83,33%), một số tổ Mối mọc 2 lần/năm (16,67%): Đợt 1 khoảng đầu tháng 5, đợt 2 vào đầu tháng 7, đợt 2 nấm sẽ ra ít hơn đợt 1.

Kinh nghiệm từ những người thu hái nấm Mối cho biết khi trời nóng bức chuẩn bị có mưa, sau khi mưa xong nấm Mối sẽ mọc (100%). Nấm Mối thường mọc tại những vị trí có tổ Mối (Kiểm tra bằng cách: Đào xung quanh vị trí có nấm Mối mọc sẽ phát hiện thấy con Mối, hoặc khi trời mưa sẽ thấy Mối cánh bay ra từ khu vực có nấm Mối mọc).

Thời điểm thu hái: Nấm Mối được thu hái vào sáng sớm, khoảng 5 - 6 giờ sáng (23,33%) đối với các tổ nấm Mối mọc ở vườn nhà hoặc nương ngô gần nhà. Tuy nhiên phần lớn nấm Mối được thu hái ngay khi người dân tìm thấy cây nấm Mối mọc (76,67%) vì nếu để lâu thì cây nấm bị già hoặc bị người khác thu hái mất.

Cách thu hái: Việc thu hái nấm Mối diễn ra một cách tự nhiên, người dân vào rừng phát hiện thấy nấm Mối thì thu hái. Một số người có kinh nghiệm thì đánh dấu vị trí nấm Mối mọc để năm sau tìm đến thu hái. Theo kinh nghiệm của người dân nấm Mối sẽ tiếp tục mọc ra ở vị trí năm trước đã mọc.

Khu vực nấm Mối mọc rộng khoảng 3 - 5 m2. Khi phát hiện thấy nấm Mối, nếu như đất mềm và ẩm thì có thể dùng tay nhổ cả cây (13,33%), nếu như đất cứng thì phải dùng dao hoặc thuổng đào sâu khoảng 20 - 30 cm, sau đó nhổ cây nấm lên (86,67%).

Cây nấm mọc rải rác từng cây phân bố không đều (73,33%) hoặc mọc chụm 2 - 3cây/1 vị trí (26,67%) từ sâu bên trong tổ Mối, nên khi thu hái người dân đào sâu 20 - 30 cm (100%) mới có thể thu hái được cây nấm.

Phần lớn người dân thu hái toàn bộ cây nấm từ gốc đến mũ nấm (70%), một số người cho rằng nên để lại phần gốc nấm để làm thức ăn cho Mối, năm sau nấm sẽ mọc nhiều hơn (30%).

Năng suất: Khối lượng nấm Mối thu hái được tùy thuộc vào từng tổ nấm Mối và tùy theo năm. Có những tổ nấm Mối thu hái 2 - 3 kg (66,67%), có tổ chỉ thu hái được khoảng một vài cây nấm (33,33%).

Mục đích thu hái: Nấm Mối sau khi thu hái chủ yếu được mang ra chợ bán (63,33%) do hiện nay nấm Mối có giá trị cao, một số hộ sử dụng làm thức ăn (36,67%).

Chế biến và mùi vị khi ăn nấm Mối: Nấm Mối có hương vị ngon, vị ngọt, giòn và không có mùi khó chịu đặc trưng (100%). Sau khi thu hái nấm Mối được mang về nhà rửa sạch để bỏ phần đất bám bên ngoài, sau đó có thể chế biến thành nhiều món ăn tùy thuộc vào sở thích và điều kiện của từng gia đình. Một số hộ thì nấu canh nấm Mối cùng với rau ngót, một số hộ thì xào với thịt bò, các hộ gia đình có điều kiện kinh tế thì cuốn nấm Mối với thịt rồi nướng, hoặc các món ăn khác.

Page 23: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

23

3.2. Tình hình tiêu thụ nấm Mối tại Sơn La Bảng 2. Tổng hợp kết quả phỏng vấn người bán nấm Mối

STT Nội dung Trả lời % trên số người được hỏi

1 Cách thức thu mua và mang bán

Thu mua lại của người thu hái được 40 Thu hái được và mang bán 60

2 Địa điểm bán nấm Mối Chợ địa phương 50 Bán dong trên đường 13,33 Bán buôn cho các hộ dân bán rau ở chợ. 33,33 Bán cho nhà hàng, quán ăn 3,33

3 Giá bán 80.000 – 100.000 đồng/kg 76,67 100.000 – 150.000/kg 23,33

4 Khoảng thời gian từ lúc hái nấm xong đến khi mang bán

Mang đi bán ngay sau khi thu hái 80 Để bảo quản 20

5 Cách bảo quản Tủ lạnh 3,33 Điều kiện thường (chỗ râm mát) 96,67

6 Thời gian bảo quản 1 ngày 96,67 2 ngày 3,33

Vì nấm Mối chỉ mọc trong tự nhiên nên lượng nấm Mối thu hái được ít. Trước đây phần lớn nấm Mối sau khi thu hái về sử dụng trong gia đình, một số hộ dân thu hái được nhiều thì mới đem ra chợ bán. Nhưng do giá nấm Mối cao nên hiện nay khi có nấm Mối người dân đều mang nấm ra chợ bán (60%) hoặc đi thu mua lại của người dân để bán (40%).

Địa điểm bán: Nấm Mối chủ yếu được bán tại các chợ địa phương (50%), bán buôn cho người bán rau ở chợ (33,33%) hoặc bán rong trên đường (13,33%), chỉ có 3,33% người dân bán cho nhà hàng và quán ăn.

Cách bảo quản: Đa phần nấm Mối sau khi thu hái được mang đi bán và bán hết trong ngày (80%), tuy nhiên có những thời điểm nấm Mối mọc rộ, không bán hết nên người dân bảo quản để bán vào ngày hôm sau (20%). Khoảng 96,67% người dân bảo quản nấm Mối trong điều kiện thường, để nơi râm mát, thời gian bảo quản được 1 ngày; Chỉ có 3,33 % người dân bảo quản nấm Mối trong tủ lạnh (hộ có điều kiện kinh tế), thời gian bảo quản được 2 ngày.

Giá bán: Giá nấm Mối dao động từ 80.000 - 150.000 đồng/kg, tùy vào thời điểm và tùy vào lượng nấm nhiều hay ít. Vào đầu mùa, nấm Mối mới mọc nhu sử dụng nấm Mối cao, trong khi lượng nấm Mối thu hái được ít nên bán được giá 100.000 - 150.000 đồng/kg (23,33%). Khi nấm mọc rộ thì giá bán chỉ còn 80.000 - 100.000 đồng/kg (76,67%). Tuy vậy, nấm Mối vẫn được coi là có giá trị hơn một số loại nấm trồng hiện nay (nấm Sò, nấm Rơm…).

Nhu cầu tiêu dùng: Nấm Mối rất được ưa thích nên lượng nấm Mối thu hái được không đủ đáp ứng nhu cầu. Khách hàng muốn mua được nấm Mối thì phải đi ra chợ từ rất sớm (khoảng 6 - 7 giờ sáng), vì lượng nấm Mối ít nếu không đi sớm sẽ không mua được, ngoài ra đi chợ sớm sẽ mua được cây nấm tươi ngon hơn.

4. Kết luận 4.1. Kết luận Thu hái: Nấm Mối được thu hái trong tự nhiên theo kinh nghiệm bản địa của người dân. Sau

khi thu hái nấm Mối được sử dụng để làm thức ăn hoặc mang bán. Tiêu thụ: Nấm Mối được bán tại các chợ địa phương với giá từ 80.000 - 150.000 đồng/kg.

Lượng sản phẩm nấm Mối thu hái được không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường.

Page 24: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

24

4.2. Đề nghị Nấm Mối có giá trị kinh tế cao, hiện nay chưa có công trình khoa học nào công bố trồng thành

công nấm Mối trong điều kiện nhân tạo. Trường Đại học Tây Bắc đóng trên địa bàn tỉnh Sơn La - Nơi có loài nấm Mối phát triển cần có những nghiên cứu chuyên sâu để nuôi trồng loại nấm này, góp phần bảo tồn và phát triển những loại thực vật bản địa có giá trị.

Lời cảm ơn: Chúng tôi gửi lời cảm ơn tới Dự án TBU - JICA và các đối tác liên quan đã hỗ trợ cho nghiên cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] G2V Star, 2009 . Nấm và mối - Mối quan hệ cộng s inh . Nguồn: PhysOrg.

ht tp:/ /www.khoahoc.com.vn/khampha/kham-pha/25471_Nam-va-moi-Moi-quan-he cong-sinh.aspx/.

[2] Hồ Đình Hải, 2012. Nấm mối. Nguồn: https://sites.google.com/site/raurungvietnam/nam-an-dhuoc/nam-moi/.

THE HARVEST AND CONSUME TO SELL (TERMITOMYCES ALBUMINOSUS)

IN NATURE IN SON LA PROVINCE Dang Van Cong M.A, Dr. Doan Duc Lan,

Tran Quang Khai M.A, Vu Phuong Lien B.A Faculty of Agriculture and Forestry

Abstract: The survey aims to collect information related to the collecting and consuming of Termite mushrooms in nature and cater to research and cultivation Termite mushroom in the artificial conditions. The survey was conducted in Quynh Nhai, Thuan Chau and Son La city area, Son La province during the period from April to November 2013, with two objects that are surveyed person harvest and person sell Termite mushroom. Survey results showed that Termite mushrooms to harvesting in nature based on local experience, immediately after harvest it is consumed in the local market with prices 80.000 - 150.000/kg of fresh mushrooms.

Keywords: Termite, harvest, sell.

Page 25: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

25

SÂU HẠI CÀ PHÊ CHÈ VÀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ SÂU HẠI CHÍNH BẰNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP CANH TÁC

ThS. Bùi Thị Sửu, TS. Vũ Quang Giảng Khoa Nông Lâm

Tóm tắt: Sâu hại trên cà phê chè tại xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La được nghiên cứu năm 2013. Kết quả cho thấy, 20 loài côn trùng trên cà phê, tập chung ở 7 bộ côn trùng đã được ghi nhận. Trong đó, 4 loài côn trùng gây hại chính (Rệp sáp mềm nâu; Sâu đục thân mình trắng; Mọt đục quả; Bọ xít muỗi). Dọn sạch cỏ và quả của năm ngoái làm giảm sự gây hại của rệp sáp mềm nâu (22,2% cây bị hại) và mọt đục quả cả phê (10,2% quả bị hại). Tỉa cành tạo tán đúng kĩ thuật làm giảm sự gây hại của rệp sáp mềm nâu (2,6 % cây bị hại) và sâu đục thân hại cà phê (5,13% quả bị hại).

Từ khóa: Sâu hại cà phê, rệp sáp mềm nâu, sâu đục thân mình trắng, mọt đục quả, biện pháp canh tác. 1. Đặt vấn đề Với sự ưu đãi đặc biệt về điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng cùng với sự sôi động của thị trường

cà phê, diện tích cà phê chè ở các tỉnh Tây Bắc đã liên tục tăng mạnh. Theo quyết định số 1987/QĐ-BNN-TT ngày 21/8/2012 của Bộ NN-PTNT phê duyệt "Quy hoạch ngành cà phê VN đến năm 2020 - tầm nhìn đến 2030" thì đến năm 2020, diện tích cà phê chè ở vùng Tây Bắc được quy hoạch khoảng 9.500 ha. Trong khi đó, theo báo cáo của Cục Trồng trọt, đến hết năm 2011, tổng diện tích cà phê chè ở vùng Tây Bắc (Chủ yếu tại Sơn La và Điện Biên) đã lên tới gần 9.000 ha. Tại tỉnh Sơn La, UBND tỉnh cuối năm 2011 đã phê duyệt quy hoạch diện tích cây cà phê chè đến năm 2020 sẽ ổn định khoảng 10.000 ha. Tỉnh Điện Biên cũng cho biết, quy hoạch diện tích cà phê của tỉnh này đến năm 2020 sẽ khoảng trên 6.000 ha. Như vậy theo “quy hoạch riêng” của Sơn La và Điện Biên thì đến năm 2020, tổng diện tích cà phê chè ở 2 tỉnh này sẽ lên tới trên 16.000 ha, vượt 6.500 ha so với quy hoạch mà Bộ NN-PTNT phê duyệt.

Bên cạnh những thành công kể trên thì cà phê Việt Nam nói chung cũng như vùng Tây Bắc nói riêng gặp không ít khó khăn. Một trong những khó khăn đó là vấn đề dịch hại liên tiếp gây hại, làm giảm năng suất và chất lượng cà phê.

Biện pháp hóa học là biện pháp có những ưu điểm dập dịch nhanh, dễ sử dụng. Biện pháp này được áp dụng rộng rãi để phòng trừ sâu hại cà phê và là biện pháp không thể thiếu để ngăn chặn sự bùng phát về số lượng của dịch hại. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và cần thiết của thuốc hóa học thì biện pháp này luôn tồn tại những nhược điểm rất lớn. Trước hết, sử dụng thuốc hóa học gây ô nhiễm môi trường sống, ảnh hưởng sức khỏe của con người. Sau đó, là vấn đề hình thành các nòi sâu chống thuốc; Làm một số loài sâu thứ yếu trở thành loài sâu nguy hiểm hơn; Làm chết nhiều loài côn trùng có ích; Dư lượng trong nông sản làm độc cho người. Đặc biệt, việc sử dụng thuốc hóa học với lượng lớn cho cà phê như hiện nay dễ làm ô nhiễm môi trường sống, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân.

Trong khuôn khổ Dự án TBU - JICA, Nhóm nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu “Phòng chống sâu hại cà phê theo hướng phòng trừ tổng hợp” với biện pháp canh tác kỹ thuật là biện pháp nền kết hợp với biện pháp sinh học để đạt hiệu quả phòng trừ cao mà không ảnh hưởng đến con người, môi trường sống. Sử dụng thuốc hóa học khi quân thê dich hai đạt ngưỡng phòng trừ và chọn lựa các loại thuốc phân giải nhanh, ít ảnh hưởng đến con người, môi trường.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu đề xuất một số biện pháp phòng trừ sâu hại cà phê chè theo hướng phòng trừ tổng hợp.

Page 26: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

26

2.1.2. Nội dung nghiên cứu - Điều tra thành phần sâu hại cà phê chè tại xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. - Đánh giá hiệu quả khống chế các sâu hại chính trên cà phê của biện pháp làm cỏ dọn vườn. - Đánh giá hiệu quả khống chế các sâu hại chính trên cà phê của biện pháp tỉa cành, tạo tán. 2.1.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp điều tra thành phần sâu hại: Số điểm điều tra không hạn chế. Tại mỗi điểm

điều tra 10 cây. Trên mỗi cây quan sát, phát hiện sự có mặt của các loài sâu hại; các dấu vết và triệu chứng bị hại.

Phương pháp điều tra các loài sâu hại chính trong các thí nghiệm ngoài thực địa: - Rệp sáp mềm nâu: Trong mỗi ô thí nghiệm, điều tra theo kiểu cuốn chiếu, 5 cây điều tra 1

cây; 5 hàng điều tra 1 hàng. Trên mỗi cây bị rệp điều tra 12 cành phân bố đều 3 tầng, 4 hướng. Phân cấp cành bị hại. Từ đó, xác định các chỉ tiêu: Tỷ lệ cây bị hại (%); Tỷ lệ cành bị hại (%) và chỉ số hại (%).

- Sâu đục thân: Trong mỗi ô thí nghiệm, điều tra theo kiểu cuốn chiếu, 5 cây điều tra 1 cây; 5 hàng điều tra 1 hàng. Từ đó, xác định tỷ lệ cây bị hại (%).

- Mọt đục quả: Trong mỗi ô thí nghiệm điều tra 1000 quả ngẫu nhiên. Từ đó, xác định tỷ lệ quả bị hại.

Phương pháp bố trí thí nghiệm ngoài thực địa: Bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB); 2 công thức; 3 lần nhắc lại:

- Thí nghiệm 1: Hiệu quả khống chế sâu hại cà phê của biện pháp làm cỏ dọn vườn. + Công thức 1 (CT1m): Làm sạch cỏ và dọn sạch quả xót lại trên cây (Lần 1: làm cỏ kết hợp

dọn các quả còn xót lại trên cây vào đầu tháng 2; Các lần sau: 1 tháng/lần đến khi thu quả). + Công thức 1 (CT2m): Làm cỏ theo tập quán của dân (Lần 1: làm cỏ , không dọn tàn dư và

các quả cà phê còn xót lại trên cây vào đầu tháng 2; Lần 2: Tháng 4 - 5). - Thí nghiệm 2: Hiệu quả khống chế sâu hại cà phê của biện pháp tỉa cành tạo tán.

+ Công thức 1 (CT1h): Tỉa cành tạo tán theo quy trình (Nguyên tắc tỉa theo hình ống khói; Lần 1: Sau vụ thu hoạch (Tháng 1) cắt bỏ những cành vượt, cành tăm, cành vòi voi, cành xà gần mặt đất, cành yếu ớt có sâu bệnh, cành cấp 1 cách thân chính dưới 20cm; Lần 2,3,4,5: Cắt bỏ những cành vượt, cành tăm (tháng 4, 6,8, 11).

+ Công thức 2(CT2h): Tỉa cành tạo tán theo tập quán của dân. (Lần 1: Sau vụ thu hoạch; Lần 2: Tháng 4 - 5).

Phương pháp xử lí, phân tích: Ghi chép chi tiết các thông tin dựa trên quan sát, điều tra để tổng hợp thông tin, xác định thành phần sâu hại cà phê, mức độ phổ biến của chúng. Qua đó xác định các sâu hại chính trên cà phê chè. Tổng hợp các số liệu điều tra và xử lý thống kê ở độ tin cậy 95% để xác định hiệu quả khống chế sâu hại cà phê của các biện pháp canh tác áp dụng trên nương cà phê.

Page 27: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

27

3. Kết quả và thảo luận 3.1. Thành phần sâu hại cà phê chè và mức độ phổ biến của chúng.

Bảng 3.1. Thành phần sâu hại cà phê chè tại Chiềng Ban - Mai Sơn - Sơn La năm 2013 STT Tên Việt Nam Tên khoa học Bộ/ Họ BPBH MĐPB

I Bộ cánh vảy (Lepidoptera) 1 Sâu hồng Zeuzera coffea Nietner Cossidae Thân,

cành +

2 Sâu róm Euproctis pseudoconspersa Strand

Lymantriidae Lá ++ 3 Bọ nẹt Thosea chinensis Walker Eucleidae Lá - II Bộ cánh cứng (Coleoptera) 4 Câu cấu xanh lớn Hypomeces squamosus

Fabricius., Curculionidae Lá, cành ++

5 Sâu đục thân mình trắng Xylotrechus quadripes Chevrolat Cerambycidae Thân, cành +++ 6 Mọt đục cành Xyleborus morstatti Haged Ipidae Cành - 7 Mọt đục quả Stephanoderes hampei Fer. Ipidae Quả +++ 8 Sâu tiện vỏ Dihammus cervinus Hope Cerambycidae Thân + III Bộ cánh đều (Homoptera) 9 Rệp mềm xanh Coccus viridis Green Coccidae Cành lá,

quả +

10 Rệp sáp hại quả, rễ

Pseudococcus citri Risso Pseudococcidae Cành, lá, quả, rễ

++ 11 Rệp sáp mềm nâu Coccus hesperidum Linnaeus Coccidae Cành, là,

quả +++

12 Rệp sáp hình bán cầu Saissetia coffeae Walker Coccidae Cành, lá,quả + 13 Rệp muội nâu Toxoptera aurantii Fouse Aphididae Lá, cành + 14 Ve sầu Chưa định danh Cicadidae Rễ ++

15 Rầy xanh Chlorita flavescens Fabricius Jassidae Búp - IV Bộ cánh thẳng (Orthoptera) 16 Dế mèn lớn Brachytrupes portentorus (Licht) Gryllidae Rễ ++ 17 Châu chấu Oxya chinensis Thunberg Acrididae Lá + V Bộ mối (Isoptera) 18 Mối Macrotermes sp. Termitidae Rễ, thân + VI Bộ cánh tơ (Thysanoptera) 19 Bọ trĩ Diarthrothrips coffeae Williams Thripidae Lá - VII Bộ cánh nửa (Hemiptera) 20 Bọ xít muỗi Helopeltis theivora Waterh Miridae Chồi búp +++

Ghi chú: BPBH: Bộ phận bị hại; MĐPB: Mức độ phổ biến. - : ít gặp < 1% điểm có sâu

+ : gặp lẻ tẻ từ 1% - 5% điểm có sâu ++ : phổ biến > 5% - 25% điểm có sâu +++ : nhiều > 25% - 45% điểm có sâu

++++ : Rất nhiều > 45% điểm có sâu Kết quả điều tra cho thấy, thành phần sâu hại trên cà phê chè rất đa dạng, có 20 loài sâu hại có mặt

trên nương cà phê, tập chung ở 7 bộ côn trùng. Bộ Cánh vảy (Lepidoptera) 3 loài chiếm 15% tổng số loài; Bộ Cánh thẳng (Orthoptera) 2 loài, chiếm 10%; Bộ Cánh đều (Homoptera) 7 loài, chiếm 35%; Bộ Cánh cứng (Coleoptera) 5 loài, chiếm 25%; Bộ Cánh nửa (Hemiptera) 1 loài, chiếm 5% ; Bộ mối (Isoptera) 1 loài, chiếm 5% và Bộ Cánh tơ (Thysanoptera) 1 loài, chiếm 5%. Trong các loài trên có 4 loài sâu hại chính: Rệp sáp mềm nâu (Coccus hesperidum Linnaeus); Sâu đục thân mình trắng

Page 28: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

28

(Xylotrechus quadripes Chevrolat); Mọt đục quả (Stephanoderes hampei Fer.); Bọ xít muỗi (Helopeltis theivora Waterh).

3.2. Hiệu quả khống chế sâu hại cà phê của biện pháp làm cỏ dọn vườn 3.2.1. Hiệu quả khống chế rệp sáp mềm nâu (Coccus hesperidum Linnaeus) của biện pháp làm cỏ dọn vườn

Bảng 3.2.1. Tỷ lệ hại và chỉ số rệp hại (%) trên vườn cà phê làm cỏ theo quy trình và vườn làm cỏ theo tập quán của dân tại Chiềng ban - Mai Sơn - Sơn La năm 2013

Công thức thí nghiệm Tháng 5/2013 Tháng 6/2013 Tháng 7/2013

Tỷ lệ cây rệp (%)

Tỷ lệ cành rệp (%)

Chỉ số hại (%)

Tỷ lệ cây rệp (%)

Tỷ lệ cành rệp (%)

Chỉ số hại (%)

Tỷ lệ cây rệp (%)

Tỷ lệ cành rệp (%)

Chỉ số hại (%)

CT1m 10.5b 73.0b 24.4b 14.3b 71.7b 21.3b 15.2b 72.1b 20.75b CT2m 26.6a 87.2a 38.8a 35.4a 75.9a 27.9a 37.4a 78.6a 28.83a

Utn 5.9 5,5 6.3 8.1 4.0 4.70 9.6 5.6 5.9 U(0.05) = 1,96

Kết quả điều tra cho thấy, làm cỏ dọn vườn theo quy trình góp phần giảm 16,1 % - 22,2% số cây bị rệp; Trên 12,2% số cành bị rệp và trên 8,08% chỉ số hại so với làm cỏ theo tập quán của dân. Trên thực tế, trong quá trình theo dõi chúng tôi thấy ở công thức làm cỏ theo tập quán của dân, nhiều loài cỏ tồn tại trên vườn trong thời gian dài tạo điều kiện cho kiến làm tổ. Đây là tác nhân phân tán rệp từ cành này sang cành khác, từ cây này sang cây khác nên tỷ lệ cây bị rệp, tỷ lệ cành bị rệp và chỉ số rệp hại cao.

3.2.2. Hiệu quả khống chế sâu đục thân mình trắng (Xylotrechus quadripes Chevrolat) của biện pháp làm cỏ dọn vườn

Bảng 3.2.2. Tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng trên vườn cà phê làm cỏ theo quy trình và vườn làm cỏ theo tập quán của dân tại Chiềng ban - Mai Sơn - Sơn La năm 2013

Ngày ĐT Tỷ lệ cây bị hại (%) Utn CT1m CT2m

Tháng 5/2013 5.03a 5.63a Utn=1.69 Tháng 6/2013 11.95a 12.23a Utn=1.47 Tháng 7/2013 13.47a 13.78a Utn=1.54 Tháng 9/2013 13.62a 14.07a Utn=1.55

U0,05=1.96 Kết quả điều tra và so sánh 2 tỷ lệ ở mức ý nghĩa 95%, chúng tôi thấy ở cả 4 kì điều tra tỷ lệ

cây cà phê bị sâu đục thân trên công thức cà phê làm cỏ theo quy trình và công thức làm cỏ theo tập quán của dân đều tương đương nhau.

Page 29: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

29

3.2.3. Hiệu quả khống chế mọt đục quả (Stephanoderes hampei Fer.) của biện pháp làm cỏ dọn vườn

Bảng 3.2.3. Tỷ lệ quả cà phê bị mọt hại trên vườn cà phê làm cỏ dọn vườn theo quy trình và vườn làm cỏ theo tập quán của dân tại Chiềng ban - Mai Sơn - Sơn La năm 2013

Công thức thí nghiệm Tỷ lệ quả bị mọt hại (%)

Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 9 CT1m - 1,17a 8,18a 20,5a

CT2m - 4,28b 14,57b 30,7b

Utn=2.85 Utn=5.78 Utn=4.54 U0,05=1,96

Tuổi quả cà phê phù hợp cho mọt phát sinh gây hại là giai đoạn quả được hơn 100 ngày sau ra hoa.

Mặt khác, so sánh 2 tỷ lệ ở độ tin cây 95% cho thấy từ khi có sự xuất hiện mọt đục vào quả cà phê, tỷ lệ quả bi đục ở công thức làm cỏ theo quy trình luôn thấp hơn công thức làm cỏ theo tập quán của dân (khoảng 3,11% - 10,2%).

Như vậy, làm cỏ dọn vườn đúng kĩ thuật hạn chế sự phát triển, gây hại của rệp sáp mềm nâu và mọt đục quả cả phê.

3.3. Đánh giá hiệu quả khống chế sâu hại cà phê của biện pháp tỉa cành tạo tán 3.3.1. Hiệu quả khống chế rệp sáp mềm nâu (Coccus hesperidum Linnaeus) của biện pháp

tỉa cành tạo tán Bảng 3.3.1. Tỷ lệ hại và chỉ số rệp hại trên vườn cà phê tỉa cành theo tập quán của dân và vườn cà

phê tỉa cành quy trình tại Chiềng ban - Mai Sơn - Sơn La năm 2013 Công thức thí nghiệm Tháng 4/2013 Tháng 6/2013 Tháng 8/2013

Tỷ lệ cây rệp

(%)

Tỷ lệ cành rệp (%)

Chỉ số hại (%)

Tỷ lệ

cây rệp (%)

Tỷ lệ cành

rệp (%) Chỉ số

hại (%)

Tỷ lệ cây rệp

(%)

Tỷ lệ cành rệp (%)

Chỉ số hại (%)

CT1h 20,23a 76,35b 22,25b 24,80a 72.51b 20.40b 24.25a 72.95b 20.83b

CT2h 21,12a 85,87a 33,89a 25,94a 81,32a 25.24a 26.78a 81.67a 43.75a

Utn 1.49 3.45 6.37 1.19 3.00 2.70 1.69 5.65 9.96 U0.05 = 1,96

Ghi chú: Các chữ a,b - Biểu thị sự sai khác nhau về tỷ lệ và chỉ số rệp hại ở độ tin cậy 95% Kết quả so sánh ở độ tin cậy 95% nhận thấy, tỉa cành tạo tán theo quy trình có thể giảm tỷ lệ

cây bị rệp (khoảng 2,6 %), tỷ lệ cành bị rệp hại (khoảng 9 %) và chỉ số hại (khoảng 22, 9%) so với tỉa cành theo tập quán của dân. Lý do chính, tỉa cành tạo tán theo đúng quy trình đã loại bỏ được các cành vô hiệu (chồi vượt, cành tăm, cành không thể cho quả) qua đó loại bỏ chồi có rệp, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt, tăng khả năng chống chịu rệp. Mặt khác, tỉa cành tạo tán giúp vườn thông thoáng, thay đổi môi trường sống theo chiều hướng bất lợi cho rệp.

Page 30: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

30

3.3.2. Hiệu quả khống chế sâu đục thân mình trắng (Xylotrechus quadripes Chevrolat) của biện pháp tỉa cành tạo tán

Bảng 3.3.2. Tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng (Xylotrechus quadripes Chevrolat) trên công thức tỉa cành tạo tán theo quy trình và tỉa cành tạo tán theo tập quán của dân

tại Chiềng ban - Mai Sơn - Sơn La năm 2013 Công thức Tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân

Tháng 4/2013 Tháng 6/2013 Tháng 8/2013 CT1h 2.04a 6.47b 8.72b CT2h 2.01a 12.45a 13.85a

Utn=1.45 Utn=3.12 Utn=2.87 U0,05=1.96

Tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân của công thức tỉa cành theo tập quán của dân và tiả cành tạo tán theo quy trình ở kì điều tra thứ nhất là tương đương nhau. Tuy nhiên, ở 2 kì điều tra sau tỷ lệ cây cà phê bị sâu đục thân ở công thứ tỉa cành theo quy trình luôn thấp hơn công thức tỉa cành theo tập quán của dân (5,13%). Lý do chính, tỉa cành tạo tán đúng kĩ thuật giúp cây cà phê có một bộ tán cân đối; thân cây cà phê được tán lá che phủ là điều kiện bất lợi cho sâu đục thân xâm nhập.

3.3.3. Hiệu quả khống chế mọt đục quả (Stephanoderes hampei Fer.) của biện pháp tỉa cành tạo tán

Bảng 3.3.3. Tỷ lệ quả bị mọt đục quả trên công thức tỉa cành tạo tán theo quy trình và tỉa cành tạo tán theo tập quán của dân tại Chiềng ban - Mai Sơn - Sơn La năm 2013

Công thức thí nghiệm

Tỷ lệ quả bị mọt hại (%)

20/4 29/ 6 31/8 CT1h - 3,8a 25,5a CT2h - 3,2a 26,3a

Utn=1.15 Utn=1.24 U0,05=1,96

Kết quả cho thấy, tỷ lệ quả cà phê bị mọt đục quả của công thức tỉa cành theo tập quán của dân và tỉa cành tạo tán theo quy trình ở các 2 công thức là tương đương nhau. Qua đó, chúng tôi nhận thấy mặc dù tỉa cành theo đúng quy trình nhưng khâu làm cỏ dọn vườn không tốt, không loại bỏ được các quả khô rụng dưới đất là nơi mọt ẩn náu từ vụ trước sẽ có điều kiện tấn công sang vụ sau.

Như vậy, tỉa cành tạo tán đúng kĩ thuật hạn chế sự phát triển, gây hại của rệp sáp mềm nâu và sâu đục thân hại cà phê.

Qua đó, chúng tôi nhận thấy để khống chế sự gây hại của các sâu hại chính trên cà phê cần làm cỏ dọn vườn kết hợp tỉa cành tạo tán đúng kỹ thuật.

4. Kết luận - Thành phần sâu hại trên cà phê chè rất đa dạng, có 20 loài sâu hại có mặt trên nương cà phê, tập

chung ở 6 bộ côn trùng. Trong đó, 4 loài xuất hiện rất nhiều trên đồng ruộng là: Rệp sáp mềm nâu (Coccus hesperidum Linnaeus); Sâu đục thân mình trắng (Xylotrechus quadripes Chevrolat); Mọt đục quả (Stephanoderes hampei Fer.); Bọ xít muỗi (Helopeltis theivora Waterh).

- Làm cỏ dọn vườn đúng kĩ thuật hạn chế sự phát triển, gây hại của rệp sáp mềm nâu (22,2% cây) và mọt đục quả cả phê (10,2% quả).

Page 31: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

31

- Tỉa cành tạo tán đúng kĩ thuật hạn chế sự phát triển, gây hại của rệp sáp mềm nâu (2,6% cây) và sâu đục thân hại cà phê (5,13% cây).

Lời cảm ơn: Chúng tôi gửi lời cảm ơn tới Dự án TBU - JICA và các đối tác liên quan đã hỗ trợ cho nghiên cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Thị Chắt, 1999. Cà phê sâu bệnh, cỏ dại và biện pháp phòng trừ. Nxb Nông nghiệp, tr.19 - 21.

[2] Võ Chấp, 1997. Nghiên cứu vai trò của một số biện pháp ký thuật đối với cây cà phê tại Dak Lak đến rệp sáp hại rễ và biện pháp phòng trừ bằng hóa học (Luận văn Thạc sĩ khoa học Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội).

[3] Vũ Quang Giảng, 2008. Sự phân bố của rệp sáp mềm nâu (Coccus hesperidum L) trên cây cà phê chè và hiệu lực của một số thuốc hóa học. Hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 6 - HN 2008, tr.540.

[4] Nguyễn Văn Hành và Ctv, 1999. Một vài suy nghĩ về hường phòng trừ sâu Bore (Xylotrechus quadripes Chev) hại cà phê. Tạp chí BVTV số 5 - 1990.

[5] Phan Quốc Sủng, 1995. “Những sâu hại chủ yếu ở cà phê Việt Nam và biện pháp phòng trừ đối với sâu đục thân (Xylotrechus quadripes Chev)”. Kỷ yếu 10 năm nghiên cứu khoa học (1983 - 1993). Viện nghiên cứu cà phê, tr.441.

INSECT PESTS CATIMOR COFFEE AND EFFECT OF SOME NATURAL CONTROL

FOR MAJOR INSECT PESTS Bui Thi Suu M.A, Dr. Vu Quang Giang Faculty of Agriculture and Forestry

Abstract: Insect pests on Catimor coffee in Chieng Ban commune, Mai Son district, Son La province were

studied in 2013. Twenty species of insect belong sevent order from coffee gardens are recorded during present study. In which, four insect species (Soft brown scales; White coffee stem borer; Coffee berry bore; Mosquito bug) are major pests on coffee. Weeding and removing remnant fruit reduce damage of soft brown scale (22,2% infested plants) and coffee berry bore (10,2% infested berry). Pruning non-fruit branches reduce damage of soft brown scale (2,6% infested plants) and white coffee stem borer (5,13% infested plants).

Keywords: Coffee pests, soft brown scales, white coffee stem borer, coffee berry bore, cultural control.

Page 32: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

32

XÁC ĐỊNH NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH RƠM LÁ THÔNG MÃ VĨ (PINUS MASONIA LAMB) TẠI MỘT SỐ KHU VỰC

RỪNG TRỒNG THÔNG MÃ VĨ THUỘC TỈNH SƠN LA ThS. Trần Quang Khải, ThS. Đào Thị Mai Hồng Khoa Nông Lâm

Tóm tắt: Trong mấy thập kỷ gần đây, rừng bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng. Nguyên nhân

chủ yếu là do công tác bảo vệ rừng, phòng chống sâu bệnh hại chưa được quan tâm đúng mức. Để có cơ sở cho việc quản lý bệnh rơm lá Thông ở hiện tại và trong tương lai, nhằm tạo ra những khu rừng trồng năng suất cao và ổn định, chúng tôi tiến hành điều tra thu mẫu và xác định nguyên nhân gây bệnh để hạn chế tác hại của bệnh đến rừng trồng Thông tại Sơn La. Kết quả nghiên cứu đã xác định được loài Nấm gây bệnh có hai giai đoạn sinh trưởng, phát triển. Giai đoạn vô tính là Nấm Cercosporapini densiflorace Hori et Nambu, giai đoạn hữu tính là Nấm Mycosphaerellaa gibsonni H.EranS gây ra bệnh rơm lá thông và đề xuất một số biện pháp hạn chế bệnh rơm lá Thông hại theo hướng IPM.

Từ khóa: Rừng Thông, bệnh rơm lá Thông, sâu bệnh hại, bảo vệ rừng. 1. Đặt vấn đề

Sơn La là tỉnh miền núi vùng Tây Bắc, rừng chiếm vị trí chiến lược và có ý nghĩa phòng hộ, bảo vệ tài nguyên môi trường rất quan trọng. Thực tế cho thấy diện tích rừng của Sơn La đã và đang bị tàn phá nghiêm trọng, dẫn đến suy giảm cả về diện tích, trữ lượng, chất lượng và độ che phủ, diện tích đất trống đồi núi trọc ngày càng tăng cao.

Thông mã vĩ là loài cây có khả năng thích ứng rộng với các điều kiện lập địa, sinh trưởng tốt trên đất trống đồi núi trọc, đất feralit nghèo, tầng đất mỏng, tỷ lệ đá lẫn cao. Thông mã vĩ có giá trị lớn về mặt kinh tế và môi trường, chúng cung cấp nguyên vật liệu cho ngành khai thác than, ngành xây dựng. Gỗ Thông mã vĩ bền đẹp được sử dụng trong công nghiệp chế biến ván dăm, ván dán và làm đồ trang trí. Nhựa Thông mã vĩ là nguyên liệu cần thiết cho ngành chế biến clophan, dầu Thông mã vĩ dùng trong công nghiệp tạo sơn, xà phòng, vec-ni, dược liệu và nhiều mặt hàng khác. Thông mã vĩ giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường sinh thái, chống xói mòn, bảo vệ đất, giữ và điều tiết nguồn nước, chất phytonxit trong rừng Thông có tác dụng diệt vi khuẩn gây bệnh. Vì vậy, Thông được trồng rộng rãi ở nhiều nước ôn đới và á nhiệt đới. Ở Việt Nam, Thông không chỉ được trồng ở Sơn La mà còn được trồng ở Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, … và phát triển mạnh ở Miền Trung. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chất lượng Thông mã vĩ trồng ở Sơn La không đáp ứng được yêu cầu mục tiêu của nhà kinh doanh cũng như của người dân. Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng là công tác bảo vệ rừng, phòng chống sâu bệnh hại chưa được quan tâm đúng mức.

Bệnh cây rừng là một loại tác hại tự nhiên vô cùng phổ biến. Bệnh hại thường làm cho cây rừng sinh trưởng kém, lượng sinh trưởng hàng năm của cây gỗ giảm xuống, một số bệnh hại có thể làm cho cây chết, thậm chí có thể gây chết hàng loạt. Trong các loài sâu bệnh hại chủ yếu ở rừng trồng Thông mã vĩ phải kể đến bệnh Rơm lá Thông. Bệnh hại cả cây con và cây trưởng thành, lá bị hại thường khô không rụng tạo thành búi làm ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của cây và làm suy giảm giá trị kinh tế, lợi ích sinh thái môi trường. Để có cơ sở cho việc quản lý bệnh hại này ở hiện tại và trong tương lai, nhằm tạo ra những khu rừng trồng năng suất cao và ổn định, chúng tôi tiến hành điều tra thu mẫu và xác định nguyên nhân gây bệnh làm cơ sở đưa ra một số định hướng giảm thiểu ảnh hưởng của bệnh hại đến rừng trồng Thông mã vĩ tại Sơn La.

Page 33: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

33

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Xác định được nguyên nhân gây bệnh làm cơ sở đề xuất các biện pháp phòng trừ Nấm gây

bệnh rơm lá trên loài cây Thông mã vĩ. 2.2. Nội dung nghiên cứu

- Xác định nguyên nhân gây bệnh rơm lá Thông; - Đề xuất một số biện pháp hạn chế bệnh rơm lá Thông hại theo hướng IPM.

2.3. Phương pháp nghiên cứu Định loại Nấm thông qua việc mô tả triệu chứng của bệnh ngoài hiện trường. Quan sát và mô

tả tổ chức bị bệnh bằng kính lúp cầm tay ở các điểm điều tra tại khu vực rừng trồng Thông mã vĩ và thu thập mẫu bệnh điển hình. Quan sát sợi Nấm, cơ quan sinh sản của Nấm tại phòng thí nghiệm bằng kính hiển vi soi nổi và kính hiển vi quang học. Tiến hành phân lập Nấm bệnh trên môi trường PDA và thí nghiệm lây bệnh nhân tạo. Từ những kết quả nghiên cứu về hình thái và giải phẫu của Nấm bệnh đối chiếu với các chuyên khảo định loại Nấm của các tác giả Zhao Liping(1983), Ainswoth (1973), F.G. Brown (1968), Sutton B. (1980) và Richard T. Hanlin (1990) để định loại Nấm gây bệnh.

3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Xác định vật gây bệnh 3.1.1. Mô tả triệu chứng của bệnh đốm đỏ lá Thông Bệnh rơm lá thông là bệnh phổ biến và nghiêm trọng đối với cây con ở vườn ươm và rừng mới

trồng. Bệnh chủ yếu xuất hiện từ giai đoạn gieo ươm đến khoảng tuổi 10 ở Thông mã vĩ và khoảng tuổi 6 ở các loài Thông khác. Bệnh xâm nhiễm trước hết những lá tán dưới của cây rồi lan dần lên trên, bệnh nặng có thể làm cho cây chết. Nấm bệnh xâm nhiễm giữa lá, trên lá kim xuất hiện các chấm vàng từng đoạn sau đó lan dần lên trên đầu lá. Bệnh nặng làm cho lá cây có màu vàng (như màu vàng của rơm) và khô, rồi xuất hiện màu nâu sẫm hoặc nâu xám, lá bệnh rủ xuống xoăn lại và không rụng, lá bệnh xoăn quấn lại với nhau giống như búi rơm. Trên đốm bệnh có nhiều chấm đen tạo thành từng đám, đó là cuống bào tử và bào tử phân sinh. Các đám chấm đen không liên tục trên lá.

Hình 3.1. Ảnh cây Thông bị bệnh rơm lá

3.1.2. Một số đặc điểm của cơ quan sinh sản Nấm Sau nhiều lần quan sát đo đếm kích thước các bào tử trên kính hiển vi quang học xác định hình

Page 34: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

34

dạng màu sắc và các đặc trưng khác được thể hiện như sau: Bệnh rơm lá Thông do Nấm bào tử đuôi thuộc ngành phụ nấm bất toàn gây ra. Chất đệm trên lá

thường mọc trong xoang khí khổng, cuống bào tử mọc thành bó chìa ra từ khí khổng, màu nâu sẫm, hơi uốn cong, có 2 - 5 vách ngăn, kích thước 10 - 45m x 2 - 2.5m. Bào tử đơn bào, mọc đơn lẻ, hình lưỡi liềm, hình que hoặc roi, hơi uốn cong, có 2 - 7 vách ngăn, kích thước có chiều dài 20m - 60m, chiều rộng 3m - 3.7m, không màu hoặc màu vàng nhạt. Giai đoạn hữu tính mới được phát hiện.

Hình 3.2. Ảnh bào tử Nấm gây bệnh rơm lá Thông

3.1.3. Kết quả định loại Trên cơ sở triệu chứng của bệnh, hình thái và kích thước bào tử, cuống bào tử và tham khảo,

đối chiếu với các tài liệu phân loại Nấm của các tác giả Zhao Liping(1983), F.G. Brown (1968). + Giai đoạn vô tính (Anamorph): Nguyên nhân gây bệnh được xác định là do nấm bào tử đuôi

Cercosporapini densiflorace Hori et Nambu, thuộc chi Nấm bào tử sợi (Cercosporapini), họ Nấm bào tử sợi (Dematiaceae), bộ Nấm bào tử sợi (Hyphales), lớp Nấm bào tử sợi (Hyphomyectes), ngành phụ Nấm bất toàn (Deuteromycotina), ngành Nấm thật (Eumycota), giới Nấm (Fungi).

+ Giai đoạn hữu tính (Telemorph): Trên cơ sở hình thái và kích thước bào tử tham khảo, đối chiếu với tài liệu chuyên khảo Nấm túi của Richard T. Halin 1990, loài Nấm được xác định là nấm xoang cầu Mycosphaerellaa gibsonni H.EranS, chi Nấm xoang cầu (Mycosphaerellaa), họ Nấm túi đệm (Dothideaceae), bộ Nấm túi đệm (Dothidiles), lớp Nấm xoang (Loculoascomycets), ngành phụ Nấm túi (Ascomycotia), ngành Nấm thật (Eumycota), giới Nấm (Fungi).

3.1.4. Điều kiện phát bệnh Khi nuôi cấy Nấm trong môi trường PDA nhân tạo, quan sát thấy Nấm không hình thành bào

tử, nhưng khi cho thêm một ít đường, điều chỉnh độ pH: 5 - 6, tiến hành chiếu đèn huỳnh quang liên tục ở nhiệt độ 20 - 250C sau 5 ngày nuôi đã hình thành nhiều bào tử. Để bào tử Nấm trong điều kiện nhiệt độ 180C nảy mầm chậm, tăng nhiệt độ lên 250C sau 4h quan sát thấy bào tử nảy mầm, Nấm nảy mầm thích hợp nhất ở nhiệt độ 24 - 280C và độ ẩm 95%, nếu ở môi trường khô hạn ống mầm của Nấm ngừng sinh trưởng, sau 24h nếu cho thêm giọt nước Nấm lại tiếp tục sinh trưởng. Chứng tỏ Nấm bệnh có khả năng chống chịu khô hạn.

Nấm tiến hành qua đông bằng sợi Nấm nằm trong mô bệnh. Khi lấy lá bệnh vùi trong đất quan sát thấy khả năng sống của Nấm tùy theo độ sâu khi vùi, càng sâu thì khả năng sống của Nấm càng giảm. Sau khi qua đông vào mùa sinh trưởng mới Nấm tiến hành lây lan, nếu gặp điều kiện thích hợp

Page 35: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

35

Nấm hình thành bào tử phân sinh. Bào tử lây lan nhờ gió. Cây con gieo ươm 2 năm lá bệnh già, vào mùa xuân hè nhất là tháng 4 - 5 hình thành hàng loạt

bào tử và là nguồn xâm nhiễm quan trọng, tháng 8 - 9 bệnh phát triển mạnh nhất, tháng 11 bệnh giảm dần xuống. Nhiệt độ và độ ẩm cao rất có lợi cho sự xâm nhiễm của vật gây bệnh.

Cây Thông được gieo ươm mọc trong điều kiện tầng đất mỏng, đất cày thô, giữ nước kém, cây trồng hay gieo ươm với mật độ cao, sinh trưởng kém bệnh thường nặng. Vườn ươm liên canh, không loại bỏ cây bệnh, đất không cày sâu bệnh cũng rất nặng.

Bệnh phát sinh nhiều trên cây Thông nhựa, sau 1 - 2 năm bệnh vẫn nhiều. Đối với Thông mã vĩ tuy dễ bị bệnh nhưng sau 2 - 3 năm bị bệnh, thậm chí 10 năm vẫn bị bệnh nhưng bệnh nhẹ do sức đề kháng tăng lên. Đối với Thông Caribbeae khả năng đề kháng tốt nên ít bị bệnh.

3.2. Đề xuất một số biện pháp phong trừ theo hướng IPM Mục đích cuối cùng của nghiên cứu bệnh cây rừng là phòng trừ bệnh, bảo vệ sự sinh trưởng và

phát triển của cây rừng, làm tăng thêm lợi ích kinh tế và lợi ích sinh thái môi trường. Dựa vào những kết quả nghiên cứu trên và của các tác giả trong và ngoài nước, giải pháp phòng trừ bệnh theo hướng IPM được đề xuất với việc tuân thủ nguyên tắc: “Phòng là chính, trừ là phụ, lấy biện pháp kỹ thuật lâm nghiệp là chính, biện pháp hoá học là phụ, lấy phòng bệnh bảo vệ cây kết hợp với các biện pháp làm tăng sản lượng và phẩm chất của gỗ rừng”. Trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp phòng trừ sau:

- Vào các tháng mưa nhiều, độ ẩm lớn (điều kiện thích hợp cho nấm bệnh phát sinh, phát triển) ta cần tiến hành chặt bỏ cây, cành bị bệnh nặng và làm tốt công tác vệ sinh rừng, chặt tỉa thưa loại bỏ những cây sinh trưởng kém, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng phát triển tốt, nâng cao sức đề kháng với bệnh hại. Ngoài ra ta cần phải theo dõi thường xuyên, kịp thời ngăn chặn bệnh không để cho bệnh lây lan và phát triển. - Chọn đất và cây trồng thích hợp vùng sinh thái với phương châm “đất nào cây ấy” để nâng cao tính chống chịu của cây. Không nên trồng Thông trên vùng đất quá chua, những lập địa thoát nước kém, bị ngập úng cục bộ trong mùa mưa hay những nơi đất quá nghèo dinh dưỡng. - Sau khi rừng khép tán phải tiến hành tỉa thưa hợp lý, tránh để cây chứa nhiều nước mưa, độ ẩm cao, tạo điều kiện cho bào tử nấm nảy mầm. Mùa tỉa thưa tốt nhất là mùa khô. - Nên trồng rừng hỗn giao để hạn chế sự lây lan và phát triển của bệnh rơm lá Thông. Trồng rừng với mật độ phù hợp và thực hiện đúng quy trình kỹ thuật. - Cần tuyển chọn những giống cho năng xuất cao, có tính kháng bệnh và có khả năng chống chịu tốt với điều kiện khắc nghiệt của môi trường. Nên chọn giống từ những rừng có sức sống cao, sinh trưởng tốt, không sâu bệnh. Đối với những hạt để làm giống thì ta cần phải qua kiểm nghiệm trước. - Tránh lập vườn ươm gần những khu vực bị bệnh, vườn ươm được xây dựng cần cách xa nơi rừng trồng cùng loài để tránh sự lây lan của vật gây bệnh từ cây rừng đến cây con. - Làm tốt công tác kiểm dịch, không đem cây con bị bệnh từ vùng này sang vùng khác. Khoanh vùng những khu vực có dịch bệnh xuất hiện, không cho chúng lây lan rộng và tích cực áp dụng các biện pháp tiêu diệt ngay. Nếu bệnh lây lan tới các khu vực mới cần áp dụng các biện pháp khẩn cấp để tiêu diệt như: chặt bỏ cây, cành bị bệnh, lá bệnh rụng đem đốt hoặc chôn sâu dưới đất. Không thu hái hạt giống từ những cây mẹ ở vùng bị bệnh và mang cây con bị bệnh đem đi trồng.

Page 36: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

36

- Nghiêm cấm các hành vi đốt rừng, chặt phá rừng, chăn thả gia súc bừa bãi vì dễ dẫn đến gây tổn thương cơ giới cho cây. Đây là cơ hội thụân lợi cho nấm gây bệnh rơm lá Thông xâm nhiễm. - Tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ rừng cho các cán bộ, người dân ở những khu vực gần rừng. - Đồng thời cần phun thuốc nước Bordo 1% hoặc Tuzet (Hỗn hợp Monzet, Zineb, Thiram), hoặc Benlate 0.1%, với chu kỳ phun 5 - 7 ngày phun một lần, phun 3 - 4 lần.

4. Kết luận - Xác định được nguyên nhân gây bệnh: Giai đoạn vô tính (Anamorph) là do Nấm bào tử đuôi Cercosporapini densiflorace Hori et Nambu, Giai đoạn hữu tính (Telemorph) là Nấm xoang cầu Mycosphaerellaa gibsonni H.EranS gây ra. - Đề xuất được một số biện pháp phòng trừ Nấm bệnh dựa trên nguyên tắc tổng hợp (IPM).

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trân Văn Mao, 1997. Bênh cây rưng. Nxb Nông nghiêp, Ha Nôi.

[2] Nguyên Thê Nha, Trân Công Loanh, Trân Văn Mao, 2001. Điêu tra dư tınh dư bao sâu bênh hai trong lâm nghiêp. Nxb nông nghiêp, Ha Nôi.

[3] Nguyên Thê Nha, Trân Văn Mao, 2004. Bao vê thưc vât. Nxb Nông nghiêp, Ha Nôi. [4] Ainsworth G.C ,1973. The fungi. London, New York. [5] Brian C. Sutton, 1980. The Coleomycetes, Fungi Imperfecri with Pyenidia, Commonwealth

Mycological Institute. Printed in Great Bristain. [6] Brown G.F, 1968. Forest tree pests and deseases in plantation. London. [7] Richard T. Hanlin, 1990. Illustrated Genera of Ascomycetes, The American Phythopathological

Society. St. Paul. Minesota. [8] Zhao L.P, 1983. Systema Mycologycum. Beijing.

IDENTIFY THE CAUSES OF PINE MAWEI STRAW (PINUS MASONIANA LAMB)

IN SOME PINE MAWEI PLANTATION AREAS IN SON LA PROVINCE Tran Quang Khai M.A, Dao Thi Mai Hong M.A Faculty of Agriculture and Forestry

Abstract: In recent decades, forests have been severely reduced in both quantity and quality. It is mainly because forest protection, pest and disease prevention have not been given due attention. To have a basis for the disease management of pine needles straw currently and future, from that to create high-yield and stable plantations, we conducted sampling survey and identify causes for mitigate the impacts of the disease in Son La pine plantation. The research results have identified pathogenic fungi which has two phases of growth and development. Asexual stage is fungus is Cercosporapini densiflorace Hori et Nambu, sexual stage is fungi cause disease Mycosphaerellaa gibsonni H.EranS which causes disease for pine straw we also proposed some measures to limit harmful diseases pine straw towards IPM.

Keywords: Forest protection, pest and disease, disease pine leaf straw, forest pine.

Page 37: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

37

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

ThS. Hoàng Phúc Khoa Lý luận Chính trị Tóm tắt: Giáo dục thế kỷ XXI đang đứng trước sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ, đặc biệt xu thế hội

nhập, toàn cầu hóa đã và đang tác động đến phát triển giáo dục đại học. Trước bối cảnh quốc tế đó, triết lý về giáo dục của thế kỷ XXI có những biến đổi to lớn, trong đó đặc biệt coi trọng đến sự phát triển năng lực tự học của người học, chính hoạt động tự giác, tích cực của cá nhân trong quá trình tự học đóng vai trò quyết định đến việc hình thành và phát triển nhân cách nghề nghiệp của sinh viên.

Thế kỉ XXI đang chứng kiến sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ, đặc biệt xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, tri thức hóa nền kinh tế đã và đang tác động đến phát triển giáo dục đại học. Trước bối cảnh quốc tế đó, triết lý về giáo dục của thế kỷ XXI có những biến đổi to lớn, được thể hiện vào tư tưởng chủ đạo là lấy việc học là học để biết, học để làm, học để chung sống cùng nhau, học để làm người và hướng tới xây dựng một xã hội học tập, học tập suốt đời.

Từ khóa: Tự học, năng lực, năng lực tự học. 1. Đặt vấn đề Nhận thức chung về xu thế giáo dục đại học thế kỷ XXI : Tại hội nghị Thế giới về “Giáo dục đại học

thế kỉ XXI: Tầm nhìn và hành động” (5/10/1998 tại trụ sở UNESCO ở Paris). Hội nghị có 115 bộ trưởng và 4300 chuyên gia tham gia. Đây là hội nghị thế giới đầu tiên về giáo dục đại học. Hội nghị tập trung thảo luận về giáo dục đại học và để thỏa thuận về một nền giáo dục đại học mà chúng ta cần cho thế giới sắp tới, đó là: Nền giáo dục đại học vì ai, do ai và tại sao như vậy, và nền giáo dục đại học đáp ứng cho một kiểu xã hội và một thế giới như thế nào. Trong báo cáo bế mạc, hội nghị đã nêu ra bối cảnh những thách thức chủ yếu mà giáo dục đại học phải đối mặt trong thế kỷ XXI. Đó là khoa học, công nghệ thông tin và truyền thông, nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa, với những thách thức về hội nhập, hợp tác quốc tế, giữa sự vô hạn về tri thức và khả năng có hạn của nhận thức con người để tiếp thu... Đặc biệt là một số quan niệm học tập là một kho báu tiềm ẩn, học tập suốt đời và xã hội học tập. Thập niên đầu của thế kỷ XXI, giáo dục đại học thế giới phát triển rất nhanh chóng với những xu hướng biểu hiện rõ rệt: đại chúng hóa, thị trường hóa, đa dạng hóa và quốc tế hóa. Sứ mạng của giáo dục đại học càng được khẳng định: đào tạo những con người có trình độ chuyên môn cao, có trách nhiệm công dân, tạo ra một không gian mở cho đào tạo và học tập suốt đời; thúc đẩy và truyền bá tri thức qua giảng dạy và nghiên cứu; giúp hiểu biết, giải thích, bảo vệ, truyền bá văn hóa dân tộc và khu vực, quốc tế và lịch sử; đóng góp vào sự phát triển và cải tiến giáo dục nhất là trong việc đào tạo giáo viên…Trong đó, xu thế đào tạo lấy mục tiêu phát triển năng lực tự học của người học được xem là một trong những định hướng chủ đạo.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Giáo dục đại học định hướng phát triển năng lực tự học Trong khoa học giáo dục, chương trình dạy học mang tính hàn lâm còn được gọi là chương trình định

hướng nội dung dạy học. Chương trình định hướng nội dung tồn tại phổ biến trên thế giới cho đến giữa thế kỷ XX và ngày nay vẫn còn ở nhiều nước. Đặc điểm cơ bản của chương trình giáo dục này là chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các học phần đã được quy định trong chương trình đào tạo mỗi ngành. Ngày nay, chương trình dạy học định hướng nội dung không còn thích hợp, do có những nguyên nhân cơ bản sau: Nội dung tri thức nhanh thay đổi và bị lạc hậu, việc quy định những nội dung chi tiết trong chương trình dạy học dẫn đến tình trạng nội dung chương trình dạy học nhanh chóng bị lạc hậu so với tri thức hiện đại. Do đó việc tự học ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng học tập suốt đời.

Page 38: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

38

Chương trình dạy học định hướng nội dung dẫn đến xu hướng việc kiểm tra đánh giá chủ yếu dựa trên việc kiểm tra khả năng tái hiện tri thức đã học trên lớp mà không hướng vào đánh giá năng lực vận dụng tri thức trong thực tiễn.

Do phương pháp dạy học mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng ứng dụng nên sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động cao, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động. Do đó chương trình giáo dục này không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động mang tính khu vực hóa, toàn cầu hóa đối với người lao động. Với yêu cầu về kiến thức, kỹ năng không ngừng thay đổi phát triển đòi hỏi người lao động phải có khả năng thích ứng nhanh, điều đó đòi hỏi năng lực tự học, tự bồi dưỡng kỹ năng của mỗi cá nhân là vô cùng quan trọng, năng lực này phải được ươm mầm phát triển từ các cơ sở đào tạo, đặc biệt là bậc đại học.

2.1.1. Năng lực và năng lực tự học Khái niêm năng lực (competency) có nguồn gốc tiếng la tinh “competentia” có nghĩa là gặp gỡ. Ngày nay khái niệm năng lực được hiểu nhiều nghĩa khác nhau. Năng lực được hiểu như sự thành thạo, khả năng thực hiện của cá nhân đối với một công việc. Năng lực còn được hiểu là khả năng, công suất của một doanh nghiệp, thẩm quyền pháp lý của một cơ quan... Theo từ điển tâm lý học (Vũ Dũng, 2000) “Năng lực là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt đông nhất định”. Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học. Như vậy, năng lực là những khả năng và kỹ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ, xã hội và khả năng vận dụng cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt. Với tư cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm, hiểu một cách khái quát, năng lực là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. Năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tòi, nhận thức và vận dụng kiến thức vào tình huống mới hoặc tương tự với chất lượng cao cũng như là khả năng thực hiện có hiệu quả hoạt động học tập cả về chuyên môn và nghiệp vụ. Quá trình đào tạo ở các trường đại học chỉ là sự đào tạo ban đầu, trang bị kiến thức cơ bản nền tảng làm cơ sở cho quá trình đào tạo tiếp theo. Do đó việc tự học, tự đào tạo đóng vai trò quan trọng, quyết định cho sự thành đạt của mỗi người. Như vậy, năng lực tự học là năng lực hết sức quan trọng, là điều kiện cần mà sinh viên đại học phải có, vì nó là chìa khóa tiến vào thế kỉ XXI - thế kỉ với quan niệm học suốt đời, xã hội học tập. Có năng lực tự học mới có thể tự học suốt đời được. Vì vậy học tập ở trường đại học, mà quan trọng nhất là học cách học, cách tiếp cận tri thức.

2.1.2. Vai trò của tự học đối với sự phát triển nhân cách của người học Tự học có ý nghĩa quan trọng, quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách sinh viên (SV). Các nhà

Page 39: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

39

Tâm lý học duy vật biện chứng cho rằng: Bản chất của sự hình thành và phát triển tâm lý con người là quá trình tiếp thu, lĩnh hội hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà loài người đã phát hiện, tích lũy và tồn tại dưới dạng hệ thống những tri thức khoa học.

Để lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, người học phải tự tìm tòi, tự tổ chức việc chiếm lĩnh những tri thức khoa học của nhân loại, tức là SV phải tự học. Điều đó còn có ý nghĩa rất lớn trong môi trường dạy học ở bậc đại học, vì nếu không có tự học thì SV không thể hoàn thành nhiệm vụ học tập theo phương châm biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Nhờ có hoạt động tự học mà SV có thể hình thành được những năng lực cơ bản để có thể “học tập suốt đời”. Nó cho phép SV sau khi ra trường có thể tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng với những yêu cầu mới của xã hội. Như vậy, mỗi người đều suốt đời cứ bổ sung, bổ sung mãi cho những kiến thức đã được học ở nhà trường. Cuộc sống đòi hỏi rất nhiều kiến thức mà chúng ta phải tự học để tích lũy tri thức.

Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người có nhiều yếu tố, đó là: yếu tố bẩm sinh di truyền, yếu tố môi trường, điều kiện xã hội, yếu tố giáo dục và hoạt động tự giác tích lũy kiến thức của cá nhân. Trong các yếu tố đó thì hoạt động của cá nhân đóng vai trò là yếu tố quyết định sự phát triển nhân cách của người học.

Như vậy, hoạt động tự giác, tích cực của cá nhân trong quá trình tự học đóng vai trò quyết định đến việc hình thành và phát triển nhân cách nghề nghiệp của SV bậc đại học. Vì nhân cách nghề (gồm tri thức, kỹ năng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp…) chỉ có được trong quá trình tự học, tự rèn luyện của mỗi SV. Tuy nhiên, tự học của SV vẫn cần thiết phải có sự hướng dẫn, tổ chức của giảng viên nhằm giúp SV thực hiện những nhiệm vụ học tập trong quá trình đào tạo ở trường. Phương pháp dạy học trong nhà trường được thực hiện theo đặc trưng từng môn học, dưới sự tổ chức, điều khiển của người dạy buộc người học tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của bản thân. Hay nói cách khác, muốn hoạt động học tập đạt kết quả thì người dạy phải tổ chức và điều khiển người học hoạt động tự học, tự nghiên cứu một cách có kế hoạch, hệ thống và hoàn toàn chủ động.

2.1.3. Một số năng lực tự học cơ bản cần trang bị cho người học trong quá trình dạy học Phát triển năng lực tự học của mỗi người cần huy động và sử dụng tổ hợp nhiều năng lực, trong đó có

các năng lực cơ bản sau: Năng lực tự nhận biết tìm tòi và phát hiện vấn đề

Năng lực nhận biết, tìm tòi, phát hiện vấn đề hết sức quan trọng đối với SV trong quá trình học tập ở trường đại học. Năng lực này sẽ giúp SV tự làm giàu kiến thức của mình, vừa rèn luyện các kĩ năng tư duy, thói quen phát hiện, tìm tòi, những kiến thức mới của môn học. Năng lực này đòi hỏi SV phải quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu khoa học. Trên cơ sở những lý luận và hiểu biết đã có của mình, SV phát hiện ra các khó khăn, những hạn chế, các điểm chưa hoàn chỉnh cần giải quyết, bổ sung, các tri thức muốn khám phá... Việc thường xuyên rèn luyện năng lực này tạo cho SV thói quen hoạt động trí tuệ, tìm tòi, nhìn nhận các kiến thức trong học tập, thực hành, thực nghiệm, nghiên cứu khoa học một cách sáng tạo.

Năng lực tự giải quyết vấn đề Quá trình học tập của SV là một quá trình tự lĩnh hội, tự phát triển kiến thức thông qua việc giải quyết các mâu thuẫn giữa nhu cầu hiểu biết kiến thức và kĩ năng của nghề nghiệp với năng lực tự học của SV. Mâu thuẫn này luôn tồn tại, nảy sinh trong học tập, thí nghiệm, rèn kĩ năng dạy học nhưng cũng liên tục được giải

Page 40: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

40

quyêt bởi chính bản thân SV. Vì vậy ở trường đại học, cần bồi dưỡng cho SV năng lực giải quyết vấn đề trong học tập, nghiên cứu khoa học để họ có khả năng xử lý tốt các tình huống, các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn công tác sau này. Năng lực tự giải quyết vấn đề bao gồm: Khả năng trình bày vấn đề, xác định cách thức tiếp cận đối tượng, lập kế hoạch giải quyết vấn đề, thu thập và xử lý thông tin, đề xuất các nguồn lực, giải pháp giải quyết vấn đề... Thực tế cho thấy nhiều SV hoàn toàn bị động, không biết hệ thống hóa và xử lí thông tin như thế nào khi tiếp cận một vấn đề mới. Để phát triển năng lực này, vai trò hướng dẫn, giúp đỡ của giảng viên ngay từ những hoạt động ban đầu khi giải quyết vấn đề của SV là rất cần thiết.

Thực tế trong dạy học hiện nay, đa số sinh viên lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch tự học chưa nhiều và hiệu quả, đa số sinh viên chưa thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học, tự nghiên cứu. Vì vậy, với chức năng và nhiệm vụ của mình, giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên biết cách xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học trên cơ sở kế hoạch chung của khoa, nhà trường. Kế hoạch được xây dựng phải có mục đích, nội dung, phương pháp rõ ràng và có tính khả thi cao, phù hợp với năng lực của cá nhân và thời gian tự học cho phép, phải đảm bảo sự cân đối hợp lý trong việc sử dụng thời gian vào các hoạt động học tập, lao động, vui chơi, giải trí. Đồng thời, có thể dự báo được các tình huống, các biến động có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến đến việc thực hiện kế hoạch học tập của cá nhân hoặc lớp.

Năng lực hệ thống hóa và khái quát hóa tài liệu học tập, tham khảo Giáo trình và tài liệu tham khảo là nguồn tri thức đa dạng và phong phú, giúp người học mở rộng đào

sâu tri thức, tăng vốn hiểu biết của mình và thoả mãn nhu cầu nhận thức của bản thân. Tuy nhiên, đọc giáo trình và tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động tự nghiên cứu của bản thân không đơn giản như đọc sách báo mang tính chất giải trí, mà đọc ở đây là học tập, mà muốn đọc hiểu phải có tư duy phân biệt đúng sai, có thái độ phê phán, có sự tập trung cao độ hay nói cách khác là phải có thái độ nghiêm túc và phương pháp khoa học, phù hợp thì mới mang lại hiệu quả. Vì vậy, không phải sinh viên nào cũng dễ dàng thực hiện được, cho nên trong dạy học giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên có kỹ năng đọc sách và tài liệu tham khảo, điều này không chỉ thuận lợi trong quá trình học mà còn có ý nghĩa to lớn trong những năm tháng sau này để sinh viên có thể tự học, tự nghiên cứu trau dồi tri thức liên tục trong quá trình công tác.

Việc hướng dẫn sinh viên kỹ năng hệ thống hóa, khái quát hóa tài liệu là công việc rất quan trọng, nó giúp người học phát triển năng lực nhận thức của bản thân, có khả năng khái quát, hệ thống hoá tài liệu dưới hình thức làm dàn ý, đề cương, sơ đồ, mô hình…Và giúp sinh viên nắm được tài liệu nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện và có chiều sâu. Hiện nay, nhiều sinh viên chưa thực hiện tốt được kỹ năng này bởi vì để thực hiện được, sinh viên cần phải nỗ lực tư duy ở mức độ cao để khái quát hệ thống hoá kiến thức những yếu tố cơ bản, có cùng đặc điểm, sắp xếp theo một trật tự lôgíc nhất định bằng những từ ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ.

Trong quá trình đọc, sinh viên phải phân tích, nghiên cứu kỹ tài liệu để hiểu sâu sắc vấn đề thì mới khái quát được và phải tùy theo khả năng của mình để khái quát hoá, hệ thống hóa vấn đề dưới dạng đề cương, sơ đồ cho phù hợp. Để giúp sinh viên có kỹ năng hệ thống hóa, khái quát hóa tài liệu trong hoạt động tự học, giảng viên phải giúp các sinh viên hiểu hệ thống hóa, khái quát hóa là gì, được thực hiện dưới hình thức, thao tác nào.

Hệ thống hoá là năng lực nhận biết được tính lôgíc của nội dung đã đọc, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của sự vật, hiện tượng để sắp xếp các ý, phần thành một hệ thống chặt chẽ. Thực hiện được như vậy sẽ giúp người học nắm kiến thức có hệ thống, nhanh chóng, rõ ràng, dễ hiểu hơn.

Page 41: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

41

Kỹ năng khái quát hóa vấn đề rất cần thiết đối với mọi môn học của sinh viên. Nhờ có kỹ năng này mà sinh viên có thể khái quát một vấn đề nào đó qua nhiều tài liệu khác nhau để nắm được cái chung nhất, và từ cái chung này khi làm bài kiểm tra có thể triển khai mở rộng ra thành một bài luận hoàn chỉnh, mà sinh viên không nhất thiết phải học thuộc lòng một khối lượng lớn tri thức của môn học.

Năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn Việc học tập và rèn luyện của sinh viên đồng thời cũng là quá trình rèn luyện tư duy trong việc phát hiện vấn đề, kỹ năng vận dụng kiến thức đã học trong việc giải quyết vấn đề. Kết quả việc học tập của sinh viên được thể hiện ngay trong thực tiễn quá trình học tập, thực hành, khả năng thu thập và lĩnh hội tri thức.

Rèn luyện năng lực vận dụng, là từng bước giúp cho sinh viên có khả năng định hướng và nhanh chóng nắm bắt đúng đối tượng một cách chính xác trong hoạt động trí tuệ, có khả năng xử lý nhạy bén các thông tin trước những tình huống khác nhau (vì bản thân thông tin chưa là tri thức khi chưa được xử lý), biết phê phán, phân tích đánh giá các quan điểm, lý thuyết và phương pháp của người khác để tiếp thu cái hay cái tốt, khắc phục cái lạc hậu, lệch lạc và quan trọng hơn cả là hình thành được tính độc lập trong tư duy và huy động được tri thức lý luận và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra mà không phụ thuộc vào người khác.

Năng lực đánh giá và tự đánh giá Trong dạy học theo kiểu truyền thống, đề cao quyền uy của người thầy, tính tự chủ của SV bị hạn chế rất nhiều, ít có sự phản hồi trực tiếp với giảng viên về mặt tri thức từ phía SV. Dạy học đề cao vai trò tự chủ của SV, đòi hỏi phải tạo điều kiện, cơ hội và khuyến khích, bắt buộc SV đánh giá và tự đánh giá … SV phải biết chính xác mặt mạnh, yếu của bản thân mình mới có thể học tập, có thể tự tin trong phát hiện, giải quyết vấn đề và áp dụng kiến thức đã học. Như vậy, các năng lực đã nêu trên đan xen, tác động hỗ trợ với nhau, tạo nên năng lực tự học ở SV. Các năng lực đó cũng chính là năng lực của người nghiên cứu khoa học. Việc rèn luyện được các năng lực đó, chính là đặt SV vào vị trí của người nghiên cứu khoa học, cách khác đó là sự rèn luyện để phát triển năng lục tự học, tự nghiên cứu cho SV. 3. Kết luận

Dạy học theo hướng phát triển năng lực tự học ở bậc đại học đòi hỏi việc dạy không đơn giảng là truyền thụ kiến thức có sẵn trong chương trình cho SV mà giảng viên phải là người hướng dẫn SV tự nghiên cứu, bản thân bài giảng ở đại học cũng phải là một tài liệu nghiên cứu khoa học. Điều này phù hợp với một trong các khuyến nghị của hội nghị thế giới về giáo dục đại học trong thế kỷ XXI: Tầm nhìn và hành động (Pari, 10/1998), đó là: Cần đặc biệt chú ý việc nâng cao kiến thức thông qua tự nghiên cứu và sự cần thiết phải có một mô hình mới của giáo dục đại học, đó là giáo dục lấy người học làm trung tâm. Học là phương thức để con người tiếp thu tri thức, hành vi trong cuộc sống. Việc học giúp cá nhân lĩnh hội những tri thức và được tích lũy trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt hoạt cộng đồng. Việc lĩnh hội tri thức của mỗi người chỉ đạt được kết quả khi họ tự học. Do vậy phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy con người tích lũy kinh nghiệm, tri thức khoa học để năng cao năng lực nhận thức thế giới khách quan vốn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.

Page 42: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

42

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phan Trọng Ngọ, 2005. Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. Nxb

Đại học Sư phạm Hà Nội. [2] Nguyễn Cảnh Toàn, 2002. Học và dạy cách học. Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. IMPROVING SELF-STUDY CAPACITY - THE PRESENT EDUCATIONAL ISSUES

FOR VIETNAMESE UNIVERSITIES Hoang Phuc M.A Faculty of Political Education

Abstract: Education in the 21st century is facing dramatically changes in science and technology, especially the integrity trend and globalization have had great impact on educational development in universities. In the presence of that international setting, the educational philosophy of the 21st century has changed dramatically which attaches much importance to improving self-study capacity of learners. The consciousness itself and active participation of each individual in self-study process play important role in the formation of career and the development of dignity for students.

Keywords: Self-study, capacity, self-study-capacity.

Page 43: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

43

GIẢI PHÁP HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TIỂU HỌC LÀM QUEN VỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO MÔ HÌNH

TRƯỜNG HỌC MỚI VIỆT NAM (VNEN) TS. Trần Thị Thanh Hồng Khoa Tiểu học Mầm non

Tóm tắt: Mô hình trường học mới (VNEN) là một trong những mô hình nhà trường hướng tới đổi mới phương pháp dạy học tích cực và tích hợp. Hiện nay, sinh viên Trường Đại học Tây Bắc đang gặp nhiều khó khăn trong việc làm quen với đổi mới quá trình sư phạm này. Các giải pháp chính để giúp sinh viên tiếp cận với phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới là giúp các em hiểu được bản chất, cách tổ chức lớp học, cách dạy và cách học.

1. Đặt vấn đề

Mô hình “Trường Tiểu học mới Việt Nam” thuộc Dự án GPE-VNEN, được Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển khai thực hiện thí điểm từ năm học 2011 - 2012 tại 1.447 trường tiểu học trong cả nước. Mô hình này kế thừa những mặt tích cực của mô hình dạy học truyền thống, kết hợp với đổi mới được xem như dấu hiệu khởi đầu cho một bước đổi mới toàn diện mục tiêu giáo dục, nội dung, chương trình, phương pháp,...

Ở tỉnh Sơn La, thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bắt đầu từ năm học 2012-2013, Sở Giáo dục và Đào tạo Sơn La đã triển khai thực hiện thí điểm “Mô hình trường học mới Việt Nam” (VNEN) ở các lớp 2,3 và lớp 4 tại một số trường tiểu học. Những thay đổi về bản chất của mô hình trường học mới đã đặt ra yêu cầu cần trang bị cho sinh viên ngành tiểu học những hiểu biết căn bản về cách tổ chức dạy học theo một quan điểm giáo dục mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay mà trước hết là để phục vụ cho sinh viên thực hành kiến tập và thực tập là rất cần thiết. Đây cũng là nội dung được đề cập tới trong bài viết này.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Thực trạng làm quen với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN của sinh viên

ngành tiểu học tại Trường Đại học Tây Bắc Năm học 2012 - 2013, Trường Tiểu học Quyết Thắng - Thành phố Sơn La đã triển khai mô hình

VNEN cho các khối lớp 2,3,4. Khi thực hành nghiệp vụ sư phạm tại trường tiểu học này, sinh viên gặp khó khăn không nhỏ về tâm lý đứng lớp, lúng túng trong việc soạn giáo án và phương pháp tổ chức các hoạt động dạy học. Có nhiều nguyên nhân gây ra các hạn chế đó, trong đó nguyên nhân có ảnh hưởng nhiều hơn là do sinh viên chưa được trang bị tài liệu học tập và phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới. Nhận thức đúng đắn về thực trạng trên, Ban chủ nhiệm Khoa Tiểu học - Mầm non đã mời giáo viên dạy tại các trường tiểu học có triển khai mô hình VNEN nói chuyện nhằm tháo gỡ phần nào khó khăn cho sinh viên. Tuy vậy, mô hình VNEN vẫn đang chỉ là lý thuyết, vẫn là vấn đề rất mới mẻ đối với sinh viên do đó, việc tìm giải pháp khắc phục những trở ngại trên là việc làm cấp bách.

2.2. Giải pháp hướng dẫn sinh viên ngành tiểu học làm quen với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN

2.2.1. Hướng dẫn sinh viên tìm hiểu tài liệu dạy và học trong mô hình VNEN Trong mô hình VNEN, việc thí điểm được thực hiện ở ba môn Tiếng Việt, Toán và Tự nhiên -

Xã hội ở trường tiểu học. Chương trình của ba môn này vẫn giữ nguyên theo chương trình mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành, chỉ có thay đổi về tài liệu, phương pháp dạy - học và phương pháp đánh giá kết quả học tập của học sinh.

Page 44: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

44

Tài liệu dạy và học được biên soạn lại theo nội dung của sách giáo khoa và yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng hiện hành. Cái khác trước là bài học thiết kế được biên soạn cho từng bài theo ba hoạt động: Hoạt động cơ bản (giúp học sinh trải nghiệm, tìm tòi, khám phá, phát hiện kiến thức, thông qua hoạt động theo nhóm hoặc cá nhân, hoặc hướng dẫn của giáo viên nếu thấy cần thiết); Hoạt động thực hành (giúp học sinh áp dụng trực tiếp kiến thức đã học, củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng); Hoạt động ứng dụng (giúp học sinh vận dụng kiến thức vào thực tế, cùng với sự giúp đỡ của cha mẹ, người lớn). Trong từng hoạt động, tùy theo bộ môn, tài liệu thiết kế theo nhiều kiểu: hoạt động cá nhân, hoạt động đôi, hoạt động nhóm ba người trở lên.

Tài liệu cũng đã sắp xếp “ba trong một”, nghĩa là sách giáo khoa, sách giáo viên và sách hướng dẫn học sinh tự học đều được thể hiện trong một cuốn sách.

Khi sử dụng tài liệu, mặc nhiên giáo viên phải thay đổi hoàn toàn cách dạy (giữ vai trò hỗ trợ, thúc đẩy, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập); Học sinh phải thay đổi hoàn toàn cách học (cách tiếp thu nội dung bài giảng chủ yếu bằng hình thức tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên và dưới sự quản lý của Hội đồng tự quản học sinh trong mỗi lớp) chứ không còn kiểu “thầy giảng, trò nghe” như phương pháp truyền thống lâu nay.

2.2.2. Hướng dẫn sinh viên tìm hiểu cách tổ chức lớp học theo mô hình VNEN Theo mô hình VNEN vào các lớp này, bàn ghế không đặt như trước đây (cùng hướng lên bảng)

mà được sắp xếp, ghép lại cho 5, 6 nhóm học sinh. Học sinh được tổ chức ngồi học theo nhóm, ngồi quay mặt vào nhau để cùng trao đổi và tự học. Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh” do các em bầu ra và đảm nhiệm. Trong các tiết học, học sinh không phải ngồi nghe cô giáo giảng mà thường hoạt động theo nhóm dưới sự hướng dẫn của cô giáo để xây dựng bài học, vì thế cách sắp xếp bàn ghế, chỗ ngồi cho học sinh cũng phải theo nhóm; sắp xếp kiểu như thế này còn giúp cho cô giáo dễ dàng tiếp cận để trao đổi với từng nhóm và từng học sinh trong quá trình giảng dạy.

Lớp học được chia thành từng phần, trang trí thành góc Toán; Góc Tiếng Việt; Góc Tự nhiên - Xã hội; Góc các hoạt động giáo dục; Góc cộng đồng; Hộp thư ý kiến của bạn;… Đây là các góc giúp cô giáo hướng dẫn học sinh tổ chức các hoạt động giáo dục bổ trợ ngoài các tiết học, hoặc giúp cô giáo thu nhận ý kiến góp ý, đề xuất của học sinh (như hộp thư ý kiến của bạn),…Cách trang trí lớp học đã tạo ra môi trường giáo dục thân thiện, an toàn.

Cách tổ chức lớp học cũng khác hoàn toàn so với một lớp học truyền thống. Ban Cán sự lớp trước đây nay được thay thế bằng Hội đồng tự quản học sinh. Hội đồng này thành lập vì học sinh, cho học sinh, bởi học sinh do tập thể lớp bầu ra chứ không phải do cô giáo chủ nhiệm chỉ định. Hội đồng khá đông, có Chủ tịch, hai Phó Chủ tịch và 6 uỷ viên phụ trách 6 ban (Ban Học tập, Ban Thư viện, Ban Đối ngoại, Ban Tư vấn, Ban Văn nghệ - Thể dục - Thể thao, Ban Sức khỏe - Vệ sinh). Hội đồng tự quản đảm nhiệm tổ chức toàn bộ các hoạt động của lớp, khi cần thiết mới nhờ thày giáo trợ giúp.

2.2.3. Hướng dẫn sinh viên tìm hiểu cách dạy và học theo mô hình VNEN Trong VNEN, phương pháp dạy và học có sự thay đổi cơ bản. Đó là thay phương pháp dạy học

truyền thống bằng một phương pháp dạy học mới và tăng cường các hoạt động giáo dục - tổ chức dạy học bằng hoạt động nhóm của học sinh. Ở đây, cách dạy “thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò chép” không còn xuất hiện mà thay vào đó là việc thày giáo đi đến từng nhóm hướng dẫn học sinh đọc tài liệu; thầy nêu câu hỏi, thầy gợi ý để các em trong từng nhóm thảo luận, trao đổi, tự tìm hiểu nội dung

Page 45: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

45

mà chính thầy cần phải truyền thụ cho các em. Lớp học thật sự sôi động (học sinh được trình bày, nói rõ ý kiến, suy nghĩ của mình).

Việc áp dụng phương pháp dạy học mới mang ý nghĩa hiện đại. Phương pháp tổ chức dạy học bằng hoạt động nhóm của học sinh, mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, cộng đồng trách nhiệm, biết thừa nhận ưu điểm của bạn, được học hỏi bạn để tự hoàn thiện. Học sinh luôn chủ động cùng nhau xây dựng nội dung bài học. Vì vậy, các em hiểu nội dung bài học cơ bản hơn, sâu sắc hơn. Cũng từ hoạt động thảo luận nhóm, nhiều kỹ năng của học sinh được hình thành như kỹ năng tổ chức hoạt đông, kỹ năng ứng xử, giao tiếp, kỹ năng phối hợp, kỹ năng tự học, phát huy kỹ năng sống ...

Phương pháp dạy và học theo VNEN đã thể hiện rõ quan điểm dạy học lấy học sinh là trung tâm, giáo viên có vai trò hỗ trợ, thúc đẩy, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập để các em phát triển. Hoạt động học tập của học sinh diễn ra chủ yếu bằng hình thức tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên và dưới sự quản lí của Hội đồng tự quản học sinh trong mỗi lớp. Ở đây, hoạt động học tập không chỉ giới hạn trong sách mà còn mở rộng ra thực tế cuộc sống của chính học sinh ở cộng đồng. Đây được coi là phương pháp học tập hiệu quả, tích cực, làm thay đổi tư duy trong dạy và học. Nhà trường không còn là nơi chỉ dạy chữ mà là nơi giáo dục toàn diện cho học sinh.

2.2.4. Hướng dẫn sinh viên tìm hiểu cách đánh giá quá trình học tập của học sinh theo mô hình VNEN

Mô hình VNEN rất coi trọng việc đánh giá quá trình học tập của học sinh thông qua các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức. Đánh giá cả quá trình học tập (đánh giá vì học của học sinh for), chứ không chỉ đánh giá kết quả học tập (đánh giá về học của học sinh on). Trong các trường tiểu học hiện nay, việc đánh giá học sinh chủ yếu tập trung đánh giá về kiến thức, kỹ năng, còn mô hình Trường tiểu học mới chú trọng:

- Đánh giá năng lực của học sinh theo các tiêu chuẩn như: Đánh giá hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và hoạt động theo từng môn học;

- Đánh giá sự hình thành và phát triển năng lực chung của học sinh như: Khả năng tự phục vụ, tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học, khả năng sáng tạo và giải quyết vấn đề;

- Đánh giá sự hình thành và phát triển các phẩm chất của học sinh (yêu cha mẹ và gia đình, yêu trường lớp, bạn bè, thầy cô, yêu quê hương, đất nước, sự tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm, trung thực, kỷ luật,...);

- Đánh giá sự tiến bộ của học sinh theo chuẩn kiến thức, kỹ năng mà không so sánh với các học sinh khác...

Mô hình VNEN, đánh giá kết hợp nhiều hình thức khác nhau như đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì kết quả học tập, đánh giá tổng hợp cuôi học kì I, cuối năm học. Đánh giá thường xuyên, toàn diện là quan trọng nhất.Tham gia đánh giá thường xuyên đối với học sinh gồm: Giáo viên, học sinh, cha mẹ và những người có trách nhiệm trong cộng đồng (gọi chung là phụ huynh). Trong quá trình đánh giá thường xuyên, giáo viên ghi vào Nhật kí đánh giá của mình những điều cần lưu ý, giúp cho quá trình theo dõi, giáo dục đối với cá nhân hoặc tập thể học sinh được thuận lợi.

3. Kết luận Phương pháp dạy học theo mô hình Trường học mới được coi là phương pháp học tập hiệu quả,

tích cực. Để áp dụng hiệu quả mô hình này khi thực hành nghiệp vụ sư phạm cũng như giảng dạy sau

Page 46: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

46

này thì việc giúp sinh viên tìm hiểu thực tế giáo dục, nắm vững bản chất của mô hình VNEN có ý nghĩa quan trọng. Cần sớm thực hiện các giải pháp giúp sinh viên làm quen với phương pháp dạy học theo mô hình Trường học mới vì đó là những vấn đề liên quan máu thịt tới việc đào tạo giáo viên tiểu học đáp ứng được yêu cầu công cuộc đổi mới trong giáo dục hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2005. Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học. Dự án phát triển

giáo viên tiểu học. Nxb Giáo dục. [2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012. Tài liệu hướng dẫn giáo viên môn Tiếng Việt lớp 3. Dự án

mô hình Trường học mới Việt Nam. Nxb Giáo dục. [3] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012. Tổ chức lớp học theo mô hình trường học kiểu mới. Dự án

mô hình Trường học mới Việt Nam, Hà Nội. [4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dạy học theo mô hình Trường học mới Việt Nam năm 2012.

Tài liệu tập huấn, Hà Nội.

SOLUTIONS GUIDING THE PRIMARY SCHOOL TEACHING UNDER-GRADUATES TO THE TEACHING METHODS OF VIETNAM

NEW SCHOOL MODEL (VNEN) Dr. Tran Thi Thanh Hong

Faculty of Kindergarten and Primary Education Abstract: Viet Nam New School Model (VNEN) is one of the school models which is aiming towards the positive and

integrated teaching methods. As a matter of fact, the primary school teaching under-graduates of Tay Bac University are experiencing difficulties in getting used to this pedagogical process. The main suggested solution is to help the students understand the nature, classroom organization, teaching and learning styles, etc app.lied in Viet Nam New school model.

Page 47: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

47

THỰC TRẠNG CÁC KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO LƯU HỌC SINH LÀO TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

ThS. Nguyễn Quốc Thái Bộ môn Tâm lý Giáo dục

Tóm tắt: Lưu học sinh Lào đang học tập tại Trường Đại học Tây Bắc được tiếp nhận theo thoả thuận hợp tác giáo dục giữa tỉnh Sơn La với 8 tỉnh Bắc Lào: U Đôm Xay, Phông Xa Lỳ, Bò Kẹo, Hủa Phăn, Luông Pha Băng, Luông Nặm Thà, Xiêng Khoảng, Xay Nhạ Bu Ly. Là người nước ngoài đến học tập tại Việt Nam nên Lưu học sinh Lào gặp không ít các khó khăn, do đó việc phát hiện thực trạng và tìm giải pháp khắc phục những khó khăn trong công tác đào tạo lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc nhằm đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo cho các lưu học sinh Lào là việc làm cần thiết và có ý nghĩa.

Từ khóa: Lưu học sinh Lào, khó khăn, học tập, chất lượng đào tạo. 1. Đặt vấn đề Chất lượng đào tạo được xem là một tiêu thức phản ánh các mức độ của kết quả hoạt động giáo

dục và đào tạo có tính liên tục khởi đầu quá trình đào tạo đến kết thúc quá trình đó. Nó chịu nhiều tác động bởi các yếu tố như: Đội ngũ giáo viên, trình độ hiện có của học sinh, chương trình, mục tiêu đào tạo, phương pháp, cách thức quản lí đào tạo... Để có cơ sở xây dựng được hệ thống biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cho các lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc, chúng tôi tiến hành nghiên cứu phát hiện thực trạng các khó khăn trong công tác đào tạo lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc, trong đó tập trung tìm hiểu các vấn đề sau: Thực trạng kết quả học tập, thực trạng đầu vào, thực trạng trình độ tiếng Việt của Lưu học sinh Lào và thực trạng nhận thức của giảng viên trực tiếp giảng dạy lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc.

2. Nội dung nghiên cứu 1.1. Thực trạng kết quả học tập của lưu học sinh Lào

Nhằm đánh giá kết quả học tập tại Trường Đại học Tây Bắc của lưu học sinh Lào, chúng tôi đã tiến hành tổng hợp điểm của các em sau khi năm học 2012 - 2013 kết thúc. Kết quả thể hiện ở bảng 1.

Bảng 1. Kết quả học tập của lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc Mức độ xếp loại SL (52) % X

Giỏi (8,5 đến 10) 0 0 0 Khá (7 đến 8,4) 0 0 0 Trung bình (5,5 đến 6,9) 14 29,6 5,8 Trung bình yếu (4 đến 5,4) 37 68,5 4,8 Kém (Dưới 4) 1 1,9 3,6

X 5 Nhận xét: Kết quả học tập của lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc đến hết năm học

2012 - 2013 xếp loại trung bình yếu với điểm trung bình chung là 5. Kết quả cho trên thấy lưu học sinh Lào gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình học tập tại

Trường Đại học Tây Bắc. Đó cũng là thách thức đặt ra đối công tác đào tạo lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc.

1.2. Thực trạng các khó khăn trong công tác đào tạo lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc 1.2.1. Thực trạng đầu vào của lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc Chất lượng đào tạo ở bậc đại học chịu sự ảnh hưởng rất lớn bởi trình độ đầu vào của sinh viên

Page 48: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

48

nên chúng tôi đã tiến hành đánh giá trình độ đầu vào của lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc. Thông qua việc thống kê kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông, chúng tôi thấy trình độ đầu vào của lưu học sinh Lào như sau:

Bảng 2. Điểm tốt nghiệp trung học phổ thông của lưu học sinh Lào Mức độ

X.Sắc Giỏi Khá TB Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % SL % SL % 3 5,6 9 16,7 21 38,9 14 25,9 4 7,4 3 5,6

Trong kết quả thi tốt nghiệp của lưu học sinh Lào thì số lưu học sinh đạt điểm xuất sắc chiếm 4,8 %, điểm giỏi chiếm 17%, điểm khá chiếm 39,6%, điểm trung bình khá chiếm 26,4 %, điểm trung bình chiếm 7,5 % và điểm yếu chiếm 5,7 %. Như vậy, đa số lưu học sinh Lào sang Việt Nam học tập có điểm thi tốt nghiệp đạt từ trung bình trở lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số em lưu học sinh Lào đạt điểm yếu (5,6 %). Với kết quả học tập như vậy sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng quá trình đào tạo lưu học sinh Lào tại các trường chuyên nghiệp mà họ tham gia học tập, nghiên cứu. Nếu căn cứ theo Quy chế công tác người nước ngoài sang Việt Nam học tập thì những lưu học sinh này vẫn chưa đủ điều kiện để xét tuyển.

Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, khảo sát thực tế tại nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt về thời gian học phổ thông giữa học sinh Lào và Việt Nam. Những lưu học sinh Lào đang học tại Trường Đại học Tây Bắc theo học phổ thông hệ 11 năm trong khi đó ở Việt Nam là 12 năm. Mặt khác, khi phỏng vấn cán bộ Sở Giáo dục và du lịch của Lào với yêu cầu so sánh chương trình học và đề thi tốt nghiệp trung học phổ thông thì đều nhận được câu trả lời là yêu cầu tốt nghiệp trung học phổ thông tại Lào thấp hơn rất nhiều so với ở Việt Nam. Rất có thể những vấn đề này có thể làm ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo lưu học sinh Lào tại Trường Đại học Tây Bắc.

1.2.2. Thực trạng trình độ tiếng Việt của Lưu học sinh Lào Trình độ tiếng Việt là yếu tố quyết định chất lượng đào tạo lưu học sinh nói chung và lưu học

sinh Lào nói riêng. Nhằm đánh giá trình độ tiếng Việt của lưu học sinh Lào, chúng tôi đã sử dụng bài trắc nghiệm đo 3 kĩ năng: Đọc, viết, nghe (tương đương trình độ B) - những kĩ năng lưu học sinh Lào sử dụng nhiều hơn cả trong quá trình sinh hoạt và học tập, nghiên cứu gồm ba dạng: Chọn từ đúng; Đọc và trả lời câu hỏi; Điền từ thích hợp. Kết quả như bảng 3:

Bảng 3. Trình độ tiếng Việt của lưu học sinh Lào Kĩ năng Đạt Chưa đạt

SL % SL % Nghe 5 11.4 39 88.6 Nói 15 34.1 29 65.9 Đọc 7 15.9 37 84.1 X 9 18,75 39 81,25

Kết quả Bảng 3 cho thấy, chỉ có 18,75% lưu học sinh Lào đạt yêu cầu trình độ tiếng Việt tương đương trình độ B. Qua quan sát và trò chuyện, chúng tôi thấy lưu học sinh Lào có thể đọc và nắm thông tin theo kiểu miêu tả. Vốn từ của lưu học sinh Lào ở mức khá đối với việc giao tiếp, sinh hoạt

Page 49: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

49

hàng ngày, thường mắc các lỗi dùng danh từ đơn vị (cái, con, chiếc, tấm); Lỗi dùng từ không đúng sắc thái (được, bị)…Ở nhóm kĩ năng viết, lưu học sinh Lào có thể viết những câu tiếng Việt đơn giản với kết cấu một chủ ngữ, một vị ngữ. Với những câu phức có kết cấu phức tạp, các em thường viết sai ngữ pháp. Hiện tượng viết sai chính tả rất phổ biến. Ở nhóm kĩ năng nghe, lưu học sinh Lào có thể nghe và nắm bắt được những thông tin đơn giản, tường minh, các khái niệm, thuật ngữ khoa học của một số môn học các em không hiểu rõ nội dung.

Từ kết quả trên, chúng tôi kết luận về trình độ tiếng Việt của lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc như sau: - Lưu học sinh Lào có thể sử dụng tiếng Việt phục vụ sinh hoạt và học tập nhưng ở mức độ đơn giản. Tiếng Việt của lưu học sinh Lào đạt trình độ cơ bản, không phải là tiếng Việt nâng cao. - Trong các kĩ năng sử dụng tiếng Việt, kĩ năng nghe của lưu học sinh Lào còn nhiều hạn chế khi phải vừa nghe, vừa nắm thông tin, vừa phân tích và ghi chép. Lưu học sinh Lào rất khó khăn để tiếp cận, hiểu và nhớ được những nội dung học tập trong chương trình đào tạo đại học.

- Trình độ tiếng Việt giữa lưu học sinh Lào các khoá không có sự chênh lệch quá lớn. 1.2.3. Thực trạng nhận thức của giảng viên trực tiếp giảng dạy lưu học sinh Lào

Trường Đại học Tây Bắc Giảng viên là người quyết định chất lượng đào tạo trong trường đại học, do đó chúng tôi tiến

hành khảo sát sự ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy của giảng viên tới kết quả học tập của lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu những giảng viên trực tiếp giảng dạy tại các lớp có lưu học sinh Lào tham gia học tập với các câu hỏi xung quanh nội dung “Giảng viên có chú ý sử các phương pháp dạy học phù hợp với các lưu học sinh Lào hay không?”. Kết quả là: Đại đa số giảng viên giảng dạy tại các lớp có lưu học sinh Lào đều không có các biện pháp hỗ trợ hay thay đổi phương pháp giảng dạy phù hợp với việc tiếp thu của lưu học sinh Lào. Lí giải cho sự không thay đổi phương pháp dạy học của mình, các giảng viên cho rằng trong quá trình giao tiếp với lưu học sinh Lào thì họ nhận thấy các em cũng nghe, nói, giao tiếp được bằng tiếng Việt như sinh viên Việt Nam nên không cần thiết cần có sự hỗ trợ hay thay đổi về phương phương giảng dạy cho phù hợp.

Theo chúng tôi, chính những nhận thức trên của các giảng viên đã góp phần dẫn tới những khó khăn và kết quả học tập thấp của lưu học sinh Lào vì trên thực tế trình độ tiếng Việt của lưu học sinh Lào mới chỉ đáp ứng được việc giao tiếp thông thường còn việc học tập và nghiên cứu thì rất hạn chế nên các em thường gặp khó khăn trong ghi chép và nghe giảng với tốc độ dành cho sinh viên Việt Nam và xuất hiện nhiều thuật ngữ chuyên ngành. Để kiểm chứng cho kết luận này, chúng tôi đã khảo sát mức độ khó khăn khi tiến hành các khâu trong hoạt động học tập (Căn cứ vào thang điểm Likert, chúng tôi quy ước mức độ khó khăn như sau: 1 1, 4X : Khó khăn mức thấp; 1,5 2,4X : Khó khăn mức trung bình; 2,5 3X : Khó khăn mức cao) và các nguyên nhân dẫn đến các khó khăn trong quá trình học tập của lưu học sinh Lào (Căn cứ vào thang điểm Likert). Kết quả thu được thể hiện ở Bảng 4 và Bảng 5.

Page 50: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

50

Bảng 4. Mức độ khó khăn về kỹ năng tiến hành các khâu của hoạt động học tập của lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc

Các khâu của HĐHT X TB 1 Ghi chép, tiếp thu bài giảng 144 3 2,5 2 Ôn tập, hệ thống hoá tri thức 139,2 2,9 5 3 Chuẩn bị bài trước khi lên lớp 115,2 2,4 7 4 Tự học, sắp xếp thời gian học tập 129,6 2,7 6 5 Làm việc độc lập với sách, tài liệu 144 3,0 2,5 6 Chuẩn bị và tiến hành xemina 144 3,0 2,5 7 Kiểm tra, đánh giá 144 3,0 2,5 X 2,9

Kết quả Bảng 4 cho thấy: - Lưu học sinh Lào khi tiến hành các kỹ năng trong từng khâu của hoạt động học tập đều gặp

phải những khó khăn ở mức độ cao với điểm trung bình X = 2,9. - Mức độ khó khăn giữa các khâu là không đồng đều xếp theo một hệ thống thứ bậc nhất định,

trong đó lưu học sinh Lào gặp khó khăn cao nhất trong việc tiến hành kỹ năng “Ghi chép, tiếp thu bài giảng”, “ Làm việc độc lập với sách, tài liệu”, “ Chuẩn bị và tiến hành xemina”, “ Kiểm tra, đánh giá” với X = 3.

Bảng 5. Nguyên nhân khách quan đến khó khăn trong hoạt động học tập của lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc

STT Các nguyên nhân chủ quan X TB 1 Do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phù hợp 134,4 2,8 1,5 2 Do ít được hướng dẫn về phương pháp học tập 134,4 2,8 1,5 3 Do ảnh hưởng cách dạy cũ ở phổ thông 120 2,5 4,5 4 Do thiếu sách, giáo trình, tài liệu tham khảo 120 2,5 4,5 5 Kiến thức tiếp thu trong ngày là quá nhiều 86,4 1,8 7 6 Do lượng tri thức phải tiếp thu ở trường sư phạm là quá lớn 110,4 2,3 6 7 Do tính chất học tập ở trường đại học 124,8 2,6 3 X 2,5

Bảng 5 cho thấy: Khó khăn trong học tập của Lưu học sinh Lào chịu nhiều ảnh hưởng nhất là nguyên nhân “Do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phù hợp” và nguyên nhân “Do ít được hướng dẫn về phương pháp học tập” cùng có điểm trung bình X = 2,8. Các em cho biết giảng viên thường giảng bài quá nhanh, ít ghi chép lên bảng nên các em thường tiếp thu và ghi chép không kịp vì vậy rất khó để hiểu bài.

Từ các kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy sự nhận thức chưa chính xác của giảng viên về trình độ nhận thức và trình độ tiếng Việt của lưu học sinh Lào đã ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc.

2. Kết luận 2.1. Kết luận - Kết quả học tập của Lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc ở mức trung bình yếu.

Page 51: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

51

- Kết quả học tập trên của Lưu học sinh Lào là do Trường Đại học Tây Bắc gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình đào tạo Lưu học sinh Lào như sau: + Trình độ đầu vào của Lưu học sinh Lào còn hạn chế do yêu cầu chương trình, chất lượng và thời lượng của giáo dục phổ thông giữa Lào và Việt Nam có sự chênh lệch nhau. + Trình độ tiếng Việt của Lưu học sinh Lào mới chỉ đáp ứng được việc phục vụ sinh hoạt và học tập nhưng ở mức độ đơn giản chứ chưa thể đáp ứng được một cách toàn diện yêu cầu đào tạo ở bậc Đại học, nhất là thiếu hệ thống các thuật ngữ chuyên ngành. + Nhận thức của giảng viên trực tiếp giảng dạy lưu học sinh Lào chưa đúng về trình độ nhận thức và tiếng Việt của các em nên chưa chú ý những biện pháp hỗ trợ và phương pháp dạy học phù hợp.

2.2. Kiến nghị - Lưu học sinh Lào cần trải qua thời gian dự bị đại học trước khi vào học chính thức nhằm bổ

trợ thêm các kiến thức phổ thông căn bản cần thiết cho việc học ở đại học mà Lưu học sinh Lào còn thiếu hụt so với chương trình giáo dục phổ thông tại Việt Nam.

- Cần tăng thời gian học tiếng Việt để bổ sung chương trình dạy tiếng Việt nâng cao và chú trọng trang bị tiếng Việt chuyên ngành cho Lưu học sinh Lào nhằm đáp ứng được yêu cầu đào tạo bậc đại học.

- Giảng viên cần phải thay đổi nhận thức về lưu học sinh Lào để qua đó xây dựng hệ thống phương pháp dạy học đặc thù hỗ trợ lưu học sinh Lào để nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và đào tạo, 1999. Quy chế công tác người nước ngoài học tại Việt Nam

(Ban hành theo Quyết định số 33/1999/QĐ-BGD&ĐT ngày 25 tháng 8 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

[2] Nguyễn Hữu Châu, 2008. Chất lượng giáo dục những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục Hà Nội.

[3] Nguyễn Ngọc Chinh, 2007. Giải pháp nâng cao hiệu quả dạy tiếng Việt cho học sinh nước ngoài tại Đại học Đà Nẵng (Đề tài nghiên cứu cấp Bộ. Mã số. MS: B2006 – III - 4).

[4] Bùi Thanh Hoa, 2013. Thực trạng trình độ tiếng Việt của lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo lưu học sinh Lào Trường Đại học Tây Bắc”.

CURRENT SITUATION ON TRAINING LAO’S STUDENTS

AT TAY BAC UNIVERSITY Nguyen Quoc Thai M.A Department of Psychology Education

Abstract: According to the agreements between Son La province and eight provinces in the North of Laos (U

Dom Xay, Phong Xa Ly, Bo Keo, Hua Phan, Luong Pha Bang, Luong Nam Tha, Xien Khoang and Xay Nha Bu Ly), many Lao’s students have been sent to study at Tay Bac University. Being foreign students in Vietnam, Lao’s students are facing a lot of difficulties. Therefore, it is extremely essential and significant to find out the shortcomings and give some suggestions to solve those problems. This will contribute to improvement of training quality.

Keywords: Lao’s students, difficulties, study, traning quality.

Page 52: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

52

BIỆN PHÁP NÂNG CAO TÍNH TÍCH CỰC HỌC VĂN HỌC CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC, GIÁO DỤC

MẦM NON TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ThS. Điêu Thị Tú Uyên Khoa Tiểu học Mầm non

Tóm tắt: Trong chương trình đào tạo đại học giáo dục tiểu học và đại học giáo dục mầm non, các học phần văn

học chỉ là môn học cơ bản nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng. Đó là các học phần tiên quyết để học tập nhiều môn chuyên ngành, là nền tảng kiến thức cho sinh viên trong suốt quá trình học tập cũng như quá trình dạy môn tiếng Việt (đối với bậc học tiểu học) và dạy lĩnh vực phát triển ngôn ngữ (đối với bậc học mầm non) khi trở thành giáo viên. Từ việc đánh giá tình hình học tập văn học của sinh viên hai chuyên ngành trên tại khoa Tiểu học Mầm non, tác giả bài viết đề xuất một số biện pháp cụ thể nhằm giúp nâng cao tính tích cực học tập văn học của sinh viên: Xây dựng và thông báo kế hoạch giảng dạy cho sinh viên; Hướng dẫn sinh viên cách tự học và cách học tập trên lớp; Kết hợp chặt chẽ giữa cung cấp kinh nghiệm học tập gắn với kinh nghiệm thực tiễn cho người học; Tổ chức hoạt động nghiên cứu cho sinh viên hướng đến mục tiêu tạo ra sản phẩm học tập; Tổ chức các hoạt động thực tế, tham quan, ngoại khoá, sinh hoạt chuyên đề văn học; Thi “Sinh viên yêu thích văn học”; Ứng dụng công nghệ thông tin một cách phù hợp đặc trưng môn học và có hiệu quả thiết thực nhằm nâng cao chất lượng giờ học văn.

Từ khóa: Biện pháp, nâng cao, tích cực, học tập, văn học, sinh viên, giáo dục tiểu học, giáo dục mầm non. 1. Đặt vấn đề Vài nét về tình hình học tập văn học của sinh viên chuyên ngành giáo dục tiểu học và giáo dục

mầm non Trường Đại học Tây Bắc: Trong trường đại học, học tập không chỉ là nhiệm vụ chính mà còn là nhiệm vụ mang nhiều tính chất đặc thù của sinh viên so với học sinh ở bậc học phổ thông. Tính chất đặc thù thể hiện ở tính chuyên ngành, chuyên nghiệp, và tính tích cực, chủ động trong tiếp thu và xử lý tri thức khoa học. Nói như vậy, tính tích cực, chủ động chính là một nhiệm vụ quan trọng của sinh viên khiến họ vươn đến một tầm cao mới trong việc làm chủ kho tri thức khoa học của nhân loại.

Trên thực tế, tại khoa Tiểu học Mầm non, Trường Đại học Tây Bắc, đa phần sinh viên ngày càng phát huy được sự tích cực, chủ động trong nắm bắt tri thức khoa học. Đây là hệ quả của việc đổi mới phương pháp dạy học đại học được quan tâm sâu sắc, hình thức dạy học truyền thống (người dạy truyền thụ kiến thức, sinh viên tiếp nhận kiến thức) đã được khắc phục, bổ sung, thay đổi cho phù hợp với yêu cầu lấy người học làm trung tâm. Đặc biệt, trong những năm gần đây, hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ đang được áp dụng ngày càng quy củ, bài bản vào trong chương trình đào tạo đại học nói chung, chương trình đào tạo của Trường Đại học Tây Bắc nói riêng. Nó thể hiện rất rõ xu thế dạy học lấy người học làm trung tâm. Sinh viên được tạo điều kiện để thực sự trở thành chủ thể học tích cực. Họ không chỉ tiếp thu kiến thức thụ động từ người dạy mà phải là những người biết cách học thế nào. Họ còn có thêm vai trò là người cùng trao đổi trong nhóm, trong lớp học, người tham gia vào môi trường cộng tác dạy - học. Khác với đào tạo theo niên chế, trong khối lượng học tập của hệ tín chỉ, số tiết tự học tăng, được tính vào chương trình học, có hướng dẫn, có sự kiểm tra, đánh giá kết quả của giảng viên. Hơn nữa, việc đánh giá thường xuyên theo học chế tín chỉ cũng giảm tình trạng sinh viên đợi đến lúc thi mới học, mới ôn. Với quy chế đánh giá điểm này, sinh viên phải nỗ lực trong suốt quá trình học tập môn học.

Tuy nhiên, cũng phải nghiêm túc nhìn nhận một cách sâu sắc thực tế, để thấy kết quả chưa phải đã hoàn toàn khả quan. Một bộ phận sinh viên trong khoa Tiểu học Mầm non, khi học tập một số học phần khoa học xã hội, nhất là văn học còn chưa thực sự tích cực, chủ động nghiên cứu, nắm bắt và xử lý kiến thức phục vụ cho quá trình học tập của cá nhân. Quan niệm học văn chủ yếu là nghe giảng và ghi chép; Tâm lý thụ động, chờ đợi thầy cô cung cấp kiến thức, ghi chép, làm đề cương, ôn tập, thi theo cách học cũ vẫn còn tồn tại trong một bộ phận sinh viên. Những sinh viên này tỏ ra chưa thích ứng, hoặc chưa quan tâm tới các hoạt động mang tính chủ động trên đây khi học tập. Trong số họ, có

Page 53: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

53

nhiều sinh viên thậm chí còn vụng về ngay cả trong thao tác đơn giản là ghi chép nhanh những thông tin kiến thức cần thiết mà giảng viên trao đổi trên lớp. Nhiều sinh viên còn ấu trĩ trong việc cập nhật thông tin từ nhiều nguồn tư liệu đa dạng, phong phú, hiện đại như báo chí, Internet... Hoặc không quan tâm tìm đọc tác phẩm, đọc các tài liệu tham khảo có liên quan đến môn học (ngay cả khi giảng viên đã giới thiệu tên tài liệu, chỉ dẫn cách đọc)... Có những trường hợp chưa thành thạo trong cách xử lý các đơn vị kiến thức thu được từ các nguồn. Ví dụ: Trong khi dạy bài Truyện ngụ ngôn (chương 2, Các thể tự sự dân gian Việt Nam, học phần Văn học dân gian - đối tượng: Sinh viên Cao đẳng giáo dục Mầm non, năm học 2012 - 2013), chúng tôi yêu cầu sinh viên thực hiện các công việc sau: Chuẩn bị giáo trình; Thu thập tài liệu tham khảo; Đọc bài giới thiệu về Truyện ngụ ngôn trong giáo trình Văn học dân gian (Đinh Gia Khánh chủ biên - Nxb Giáo dục) và các bài giới thiệu có liên quan trong các tài liệu tham khảo khác; Chọn lọc, hệ thống các đơn vị kiến thức trọng tâm (theo hệ thống câu hỏi của giảng viên) và viết báo cáo nhóm; Trình bày báo cáo nhóm, thảo luận tập thể lớp; Thảo luận, trao đổi cùng giảng viên trong giờ học chính khoá để thống nhất kiến thức. Kết quả: Có 2/4 nhóm không biết cách xử lý thông tin kiến thức, nên báo cáo vừa không thể hiện được việc thu thập các đơn vị kiến thức trọng tâm vừa nghèo nàn, đơn điệu, không có dẫn chứng thuyết phục, hành văn rườm rà, thiếu khúc chiết. Đặc biệt, trong thư mục tài liệu tham khảo mà sinh viên báo cáo lại không có nhiều đầu tài liệu. Cá biệt có nhóm chỉ đọc một cuốn giáo trình. Trong khi đó, ngay từ khi bắt đầu học tập học phần, giảng viên đã dành thời gian hướng dẫn sinh viên phương pháp tự học, tự nghiên cứu chuẩn bị kiến thức theo đặc trưng môn. Điều đó chứng tỏ một số sinh viên thiếu năng lực học tập và không quan tâm đến việc phải chủ động chiếm lĩnh tri thức mà chỉ trông đợi vào giảng viên và bạn học cung cấp cho mình. Kết quả, giờ học không thể đạt được hiệu quả tối đa như mong muốn. Hậu quả là những sinh viên đó sẽ mất dần khả năng chủ động, sáng tạo trong học tập. Điều này gây ra ảnh hưởng lâu dài hơn, khi ra công tác, sinh viên sẽ không thể tự lực thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn để trở thành người giáo viên giỏi.

Trong giờ học văn, nhiều sinh viên không quan tâm đến hoạt động thảo luận, thực hành, là những hoạt động quan trọng nhằm giải quyết thấu đáo các đơn vị kiến thức có vấn đề, và giúp tạo sự cộng tác chặt chẽ giữa người học - người học, người học - người dạy. Sức ỳ của những sinh viên này rất lớn. Nếu yêu cầu chuẩn bị thảo luận theo nhóm, họ sẽ ỷ lại, trông đợi vào những bạn học khá đại diện nhóm làm hộ mọi việc. Còn nếu yêu cầu nêu ý kiến trong giờ thảo luận trên lớp, họ sẽ tìm cớ thoái thác hoặc trả lời cho xong việc. Ví dụ: Ý kiến của em cũng giống ý kiến của các bạn; Em cũng đồng ý với ý kiến của bạn...

Văn học là lĩnh vực đặc thù, nó vừa là môn học vừa là một loại hình nghệ thuật. Sinh viên tham gia học văn không chỉ nhằm tích luỹ kiến thức, phục vụ lâu dài cho quá trình học tập và ra giảng dạy sau này mà còn thông qua việc tiếp xúc với văn chương để làm giàu tâm hồn mình, để sống tinh tế, nhạy cảm và sâu sắc hơn. Vì thế, việc yêu văn học, say mê với môn văn và chủ động, tích cực tham gia học tập văn học đối với sinh viên trong xu thế hiện nay cần được quan tâm một cách sâu sắc. Để khắc phục tình trạng trên và nâng cao hơn nữa tính tích cực, chủ động của một bộ phận sinh viên còn thụ động trong học tập văn học, theo tôi, người dạy cần thực hiện một số biện pháp cụ thể nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy trên lớp và phương pháp hướng dẫn sinh viên học tập.

Page 54: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

54

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Biện pháp nâng cao tính tích cực của sinh viên chuyên ngành giáo dục tiểu học và

giáo dục mầm non trong học tập văn học Hiện nay, khung chương trình đào tạo mới của hai chuyên ngành này gồm các học phần cụ thể về

văn học: Đối với đại học giáo dục tiểu học (ĐHGDTH) là học phần Văn học (5 tín chỉ) (Giới thiệu văn học dân gian, văn học thiếu nhi Việt Nam, văn học thiếu nhi nước ngoài), cao đẳng giáo dục tiểu học (CĐGDTH) là học phần Văn học (4 tín chỉ) (Giới thiệu văn học dân gian, văn học thiếu nhi Việt Nam, văn học thiếu nhi nước ngoài); Đối với đại học giáo dục mầm non (ĐHGDMN) và cao đẳng giáo dục mầm non (CĐGDMN) là học phần Văn học dân gian (3 tín chỉ) (Giới thiệu văn học dân gian Việt Nam, văn học dân gian nước ngoài dành cho thiếu nhi) và Văn học thiếu nhi (4 tín chỉ) (Giới thiệu văn học thiếu nhi Việt Nam và văn học thiếu nhi nước ngoài). Do môn học có những nét đặc thù (vừa cung cấp kiến thức khoa học; Rèn kỹ năng cảm thụ văn chương vừa bồi dưỡng tinh thần, bồi dưỡng thái độ, tư tưởng, tình cảm cho người học) nên để đạt được hiệu quả tốt nhất, khi giảng dạy, giảng viên cần quan tâm đến một số biện pháp cơ bản:

2.2. Xây dựng và thông báo kế hoạch giảng dạy (đề cương chi tiết học phần) cho sinh viên Trước khi học tập học phần, giảng viên cần căn cứ vào đề cương chi tiết học phần đã được duyệt để

hoạch định toàn bộ kế hoạch giảng dạy bộ môn và giới thiệu cụ thể với sinh viên để các em nắm bắt được những đơn vị kiến thức sẽ được học tập, nghiên cứu; Phương pháp học tập, nghiên cứu các đơn vị kiến thức đó; Tác phẩm văn học, giáo trình và các nguồn tài liệu tham khảo khác.

2.3. Hướng dẫn sinh viên cách tự học và cách học trên lớp 2.3.1. Đối với việc tự học Giảng viên cần quan tâm và hướng dẫn sinh viên các kỹ năng tự học cụ thể: Kỹ năng đọc tác

phẩm văn học (kỹ năng này nên được quan tâm hàng đầu, vì hiện nay, sinh viên và giới trẻ nói chung thường ngại và thiếu kỹ năng đọc văn, nhất là các tác phẩm văn học cổ, trung đại); Kỹ năng đọc tài liệu, sàng lọc thông tin từ tài liệu; Kỹ năng lựa chọn thông tin mang tính vấn đề; Kỹ năng tạo lập sơ đồ kiến thức trọng tâm; Kỹ năng đặt ra và cùng các đối tác học tập (bạn cùng nhóm, bạn cùng lớp, giảng viên) giải quyết vấn đề...

Ví dụ: Đối với việc chuẩn bị cho bài Truyện ngụ ngôn (Chương 2, Các thể tự sự dân gian Việt Nam, học phần Văn học dân gian, đối tượng: ĐHGDMN, CĐGDMN), giảng viên cần hướng dẫn sinh viên chủ động tự học, tự nghiên cứu trước khi đến lớp bằng các hoạt động cụ thể. Các hoạt động cơ bản là đọc các truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam; Tóm tắt nội dung chính của mỗi truyện; Đọc giáo trình và tài liệu tham khảo, tập trung vào những thông tin chính: Khái niệm, bản chất thể loại, nội dung cơ bản và đặc trưng nghệ thuật của thể loại; Lựa chọn những thông tin mang tính vấn đề để cùng trao đổi, thảo luận với đối tác học tập như: Sự khác nhau về đối tượng và mục đích phản ánh giữa thể loại ngụ ngôn và thể loại cổ tích (nhóm cổ tích loài vật); Sự khác nhau về cách sử dụng tiếng cười giữa truyện ngụ ngôn và truyện cười dân gian; Sự khác nhau về nội dung và nghệ thuật giữa truyện ngụ ngôn Việt Nam và truyện ngụ ngôn thế giới; Những cách quan niệm khác nhau về truyện ngụ ngôn; Quan niệm của con người đương đại về giá trị của truyện ngụ ngôn...

2.3.2. Đối với việc học ở trên lớp Giảng viên cần tạo cho sinh viên nhiều hơn nữa cơ hội phát huy tối đa sự chủ động của cá nhân

đối với các hoạt động học tập. Nói như thế không có nghĩa là giảng viên chỉ nêu yêu cầu học tập để sinh viên tự thực hiện. Trong dạy học, dù hình thức đào tạo có thay đổi, có tiên tiến đến đâu thì vai trò người

Page 55: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

55

hướng dẫn chiếm lĩnh tri thức khoa học vẫn thuộc về người thầy. Chỉ có điều, người thầy trên lớp học hiện nay phải hết sức năng động, linh hoạt để vừa truyền thụ kiến thức hàn lâm vừa thu hút sinh viên vào các hoạt động học tập, khuyến khích họ thể hiện sự năng động, sáng tạo của bản thân. Ví dụ:

- Tổ chức cho sinh viên thực hiện các hoạt động học tập theo nhóm: chuẩn bị báo cáo nhóm (cùng tìm tư liệu, cùng đọc, tìm cách xử lý thông tin phù hợp với yêu cầu môn học, viết báo cáo thu hoạch cá nhân và đối chiếu, thảo luận để chọn thông tin mang tính vấn đề); Thảo luận nhóm trên lớp nhằm thống nhất quan điểm hoặc tranh luận tìm giải pháp giải quyết vấn đề; Thảo luận với giảng viên (trong và ngoài giờ học) để tìm được cái đích của những thắc mắc khoa học; Tiếp tục quan tâm nghiên cứu vấn đề mở, để cập nhật thêm thông tin khoa học mới về vấn đề đã được trao đổi...Trong hoạt động này, giảng viên nên chú ý đều tới các thành viên khác nhau của nhóm học tập chứ không nên chỉ khai thác thông tin từ đại diện nhóm. Việc này sẽ kích thích các sinh viên vốn thụ động hoặc nhút nhát tích cực tham gia vào việc nghiên cứu, học tập.

- Tổ chức cho sinh viên tham gia vào hoạt động sáng tạo trong học tập. Ví dụ: Khi dạy bài Ca dao – dân ca (Chương 3, Các thể trữ tình dân gian Việt Nam, học phần Văn học dân gian – đại học giáo dục mầm non, cao đẳng giáo dục mầm non), giảng viên có thể dàn dựng một hoạt cảnh diễn xướng dân ca cho sinh viên trong lớp trực tiếp tham gia diễn xuất. Đây là hoạt động vừa tạo được cho sinh viên cái nhìn thực tế sâu sắc về đặc trưng nội dung, nghệ thuật của một thể loại văn học truyền thống vừa tạo được một không khí hào hứng, một ấn tượng mới lạ trong giờ học.

Đáng chú ý, do đặc thù của môn học, ở trên lớp, giảng viên không chỉ tạo ra các hoạt động học tập cho sinh viên mà cũng cần thể hiện vai trò của người bình văn một cách rõ nét, tránh biến giờ học văn thành giờ tổ chức các hoạt động học tập khô khan, chỉ thu nhận kiến thức. Để đạt được hiệu quả như mong muốn, cuốn hút sinh viên vào không khí văn chương, người dạy cần có những điểm nhấn kiến thức trọng tâm bằng lời bình hàm súc, có tính nghệ thuật. Đồng thời, người dạy văn cũng cần tạo không khí đặc biệt (có định hướng mà vẫn phóng khoáng tự do) cho giờ văn bằng cách để cho người học được bộc lộ một cách tự nhiên, thoải mái, cởi mở những thắc mắc, suy nghĩ riêng của mình về tác phẩm, về nhà văn, về các hiện tượng văn học. Giảng viên đừng làm người “chạy đua với nhà văn” trên con đường đi đến bạn đọc sinh viên mà nên đóng vai trò là người bạn đọc có kinh nghiệm hơn định hướng, giúp cho quá trình giao tiếp giữa nhà văn và bạn đọc sinh viên diễn ra đúng nghĩa, để nội tâm của nhà văn gặp gỡ nội tâm của bạn đọc trẻ tuổi. Điều đó giúp sinh viên phát huy tối đa vai trò của chủ thể tiếp nhận văn học, kích thích sinh viên yêu thích văn học và hứng thú với môn học hơn bao giờ hết.

2.4. Kết hợp chặt chẽ việc cung cấp kinh nghiệm học tập gắn với kinh nghiệm thực tiễn (nói cách khác là rèn luyện kỹ năng nghề) cho người học

Các học phần văn học trong chương trình đào tạo sinh viên đại học, cao đẳng (cả tiểu học và mầm non) là học phần điều kiện tiên quyết cho việc học nhiều học phần chuyên ngành. Hơn nữa, đây đều là các học phần cung cấp kiến thức cơ bản để khi tốt nghiệp sinh viên sử dụng trong dạy môn tiếng Việt ở bậc tiểu học hoặc dạy lĩnh vực phát triển ngôn ngữ ở bậc mầm non. Vì lý do này, giảng viên nên kết hợp chặt chẽ việc cung cấp kinh nghiệm học tập gắn với kinh nghiệm thực tiễn (rèn luyện kỹ năng nghề) nhằm tăng cường thêm tính tích cực, chủ động cho người học.

Ví dụ: Khi dạy Chương 4, Khái quát văn học thiếu nhi (học phần Văn học – đại học giáo dục tiểu học), ngoài những đơn vị kiến thức cứng trong chương trình, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên tiếp tục tìm hiểu, trao đổi về những thông tin mang tính thời sự như: Quá trình phát triển và những thay đổi về

Page 56: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

56

quan niệm nghệ thuật, về nội dung, thi pháp của văn học thiếu nhi hiện nay; Các tác giả, tác phẩm văn học thiếu nhi được độc giả nhỏ tuổi hiện nay yêu thích; Giá trị giáo dục và những bất cập trong sách, truyện cho đối tượng thiếu nhi hiện nay... Để sau này trở thành giáo viên tiểu học, các em có thể định hướng cho học trò tiếp xúc với những tác phẩm văn học tốt.

- Kết hợp các hoạt động học tập với hoạt động thực hành như rèn kỹ năng phân tích tác phẩm văn học; Kỹ năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học để sinh viên có thêm năng lực cần thiết khi dạy học tiếng Việt, Tập làm văn cho học sinh tiểu học hay dạy thơ, truyện cho trẻ mầm non. Các tác phẩm hoặc trích đoạn làm phương tiện cho hoạt động này thuộc chương trình tiếng Việt tiểu học và chương trình thơ, truyện dành cho trẻ mầm non hiện hành. 2.5. Tổ chức hoạt động nghiên cứu cho sinh viên hướng đến mục tiêu tạo ra sản phẩm học tập

Không chỉ học các môn khoa học tự nhiên mà ngay cả học văn, nếu biết cách, sinh viên vẫn có thể hướng tới mục tiêu tạo ra các sản phẩm học tập. Nên, trong phạm vi và căn cứ vào đặc trưng của môn học, người dạy có thể tổ chức một số hoạt động nghiên cứu, học tập hướng đến mục tiêu tạo ra sản phẩm học tập cho sinh viên. Ví dụ: Khi dạy các học phần văn học, người dạy có thể tập hợp các văn bản tác phẩm liên quan đến chương trình đào tạo, được giới thiệu lại trong chương trình phổ thông, yêu cầu sinh viên thu thập tài liệu (về xuất xứ của tác phẩm, các nhận định, đánh giá hay về tác phẩm, cảm thụ tác phẩm…), viết thu hoạch, tập hợp để giảng viên chỉnh sửa, in ấn thành tập tư liệu học tập. Ví dụ: Những phần có thể tạo thành sản phẩm học tập như Văn học thiếu nhi Việt Nam (với tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài, thơ Trần Đăng Khoa, thơ Phạm Hổ); Văn học thiếu nhi nước ngoài (với thần thoại Hy Lạp, ngụ ngôn La phông ten, truyện cổ Grim, truyện cổ Anđecxen…). Tư liệu này có tác dụng phục vụ chính quá trình học tập bộ môn cũng như quá trình dạy học cho học sinh bậc học tiểu học và mầm non sau này. Kiểu hoạt động học tập hướng đến mục tiêu tạo sản phẩm học tập sẽ thực sự kích thích sự chủ động, tính năng động, sáng tạo của sinh viên vì lợi ích thiết thực của nó.

2.6. Tổ chức các hoạt động thực tế, tham quan, ngoại khoá, sinh hoạt chuyên đề văn học, thi “sinh viên yêu thích văn học” để bồi dưỡng thêm tính tích cực và năng lực văn học

Thông qua các hoạt động thực tế, tham quan, giảng viên có thể định hướng cho sinh viên quan tâm, thu nhận nhiều thông tin có liên quan đến môn học, ghi chép lại thành sổ tay văn học nhằm tích luỹ thêm tư liệu văn học khi cần thiết.

Đồng thời, giảng viên cũng có thể thông qua hoạt động ngoại khoá được tổ chức thường niên tại khoa như (Học vui - vui học, Rung chuông vàng) hoặc sinh hoạt chuyên đề văn học, thi sinh viên yêu thích văn học… Tăng cường khích lệ sinh viên tích cực thể hiện khả năng nắm bắt tri thức văn học, tri thức xã hội, khả năng giao tiếp, tổ chức và điều hành một hoạt động chuyên môn thuộc lĩnh vực văn học. Mỗi một hoạt động dù nhỏ cũng là một cơ hội để sinh viên hiểu đời, hiểu mình, từ đó phát huy tối đa những năng lực đôi khi bị che lấp bởi sự e ngại, sự mặc cảm, tự ti vì không khá bằng bạn học khác. Trong trường hợp này, người dạy cần tinh ý và dành nhiều cơ hội hơn cho những sinh viên còn thụ động trong hoạt động học tập trên lớp.

2.7. Ứng dụng công nghệ thông tin một cách phù hợp đặc trưng môn học và có hiệu quả thiết thực nhằm nâng cao chất lượng giờ học văn

Trong xu thế dạy học hiện đại, công nghệ thông tin trở thành một phần không thể thiếu của hoạt động học tập nhằm cung cấp cho người học những kênh kiến thức mới mẻ, hiện đại, hấp dẫn, thúc đẩy tính năng động, tích cực và sáng tạo của họ. Giờ học văn truyền thống cũng đã dần được thay thế

Page 57: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

57

bởi giờ học văn vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính khoa học, hiện đại bởi những phương tiện công nghệ thông tin hiện đại. Người dạy cần nắm bắt kịp thời, sáng tạo hình thức dạy học hiện đại này để làm mới môn Văn. Ví dụ trong các học phần văn học có một số đơn vị kiến thức như truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao - dân ca, văn học thiếu nhi Việt Nam và văn học thiếu nhi nước ngoài... Có thể thiết kế bài giảng điện tử hoặc các kênh hình, kênh âm thanh minh hoạ nhằm giúp người học có thêm cái nhìn vừa mới mẻ vừa phong phú, sâu sắc kiến thức văn học vốn đã xa, rất xa với thời đại hiện đại. Chú ý, nguồn tư liệu này chỉ sử dụng như một trong các hình thức ví dụ minh hoạ chứ không nên lạm dụng làm mất đi thời gian và cơ hội tham gia các hoạt động học tập, thực hành thực tế của chủ thể sinh viên.

3. Kết luận Văn học là một lĩnh vực đặc thù. Đối với sinh viên, nó vừa là môn học vừa là một loại hình

nghệ thuật. Việc đọc văn, học văn không chỉ giúp sinh viên tích luỹ kiến thức mà còn làm phong phú tâm hồn mình, sống tinh tế, nhạy cảm và sâu sắc hơn. Yêu văn học, say mê với môn văn và chủ động, tích cực tham gia học tập văn học đối với sinh viên sẽ đem lại những lợi ích thiết thức, đầy ý nghĩa cho các em trong những năm tháng học đại học. Vấn đề quan trọng là cách học văn thế nào để đạt được ý nguyện. Những biện pháp đề xuất trên đây dù sao mới chỉ là suy nghĩ, kinh nghiệm tổ chức hoạt động dạy học của cá nhân, và trong khuôn khổ các học phần văn học chúng tôi trực tiếp giảng dạy cho sinh viên đại học giáo dục tiểu học và đại học giáo dục mầm non, cao đẳng giáo dục mầm non. Rất mong nhận được sự quan tâm, trao đổi thêm của các đồng nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Khoa Tiểu học Mầm non, 2013. Chương trình Đại học giáo dục tiểu học; Chương trình

Đại học giáo dục mầm non hiện hàn. Trường Đại học Tây Bắc. [2] Phan Trọng Luận, 2002. Văn học giáo dục thế kỉ XXI. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

MEASURES TO ENHANCE POSITIVE LEARNING ATTITUTE TO LITERATURE

AMONG STUDENTS MAJORING IN PRIMARY AND EARLY CHILDHOOD EDUCATION AT TAY BAC UNIVERSITY

Dieu Thi Tu Uyen M.A Faculty of Kindergarten and Primary Education Abstract: In the training program of Primary and Early Childhood Education, literature is only a basic subject but

it plays an important role. That is the prequisite to study more specialized subjects, the knowledge base for students during the learning process as well as teaching Vietnamese (for primary school level) and teaching areas of language development (preschool to grade school) to become teachers. From the study “Evaluating the actual leaning of literature among students majoring Primary and Early Childhood Education, the author proposes some specific measures to enhance positive learning of literature which include providing students with research and learning methods in the classroom; Providing learning experiences associated with practical experiences (in other words, job skills training), organizing practical activities, field trips, extracurricular literature; App.lication of information technology app.ropriately to characterized subjects and practical efficiency to improve the quality of education.

Keywords: Measures, enhance, positive, studying, literature, students, primary education, preschool education.

Page 58: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

58

THỰC TRẠNG VỀ KỸ NĂNG SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

ThS. Phạm Đức Viễn, ThS. Nguyễn Văn Chiêm,

ThS. Dương Xuân Lượng Khoa Thể dục Thể thao

Tóm tắt: Đánh giá thực trạng về kỹ năng sư phạm của sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất, tôi đưa ra 10 kỹ năng sư phạm cơ bản và điều tra tìm hiểu hầu hết thầy cô giáo cho rằng kỹ năng sư phạm thực hành của sinh viên chuyên ngành Giáo dục thể chất còn nhiều hạn chế dẫn đến kết quả dạy học chưa cao, cần có những giải pháp cụ thể để nâng cao kỹ năng sư phạm thực hành cho sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất.

Từ khóa: Giáo dục thể chất, kỹ năng sư phạm, sinh viên, giải pháp. 1. Đặt vấn đề

Công tác đào tạo chuyên ngành giáo dục thể chất của Trường Đại học Tây Bắc trong những năm gần đây đã có những chuyển biến rất tích cực về chất lượng đào tạo. Số lượng sinh viên khá, giỏi ra trường có chuyên môn vững vàng đã đáp ứng được nhu cầu giảng dạy ở các trường phổ thông. Tuy nhiên nhiều sinh viên vẫn còn rất lúng túng và gặp khó khăn khi thực hiện các thao tác kỹ năng sư phạm xử lý tình huống trong tiết học... Do đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học. Điều này đã đặt ra cho Nhà trường những yêu cầu và giải pháp cụ thể trong công tác đào tạo nghiệp vụ, từng bước “chuẩn hoá” những kỹ năng sư phạm cho sinh viên, giúp các em hoàn thiện được năng lực dạy học môn thể dục ở bậc phổ thông một cách tốt nhất, đáp ứng được mục tiêu dạy học và nhiệm vụ của người giáo viên trước xu thế đổi mới về giáo dục hiện nay.

2. Nội dung nghiên cứu Đánh giá thực trạng về kỹ năng sư phạm của sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất và điều

tra tìm hiểu năng lực sư phạm thực hành của sinh viên để có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng sư phạm thực hành cho sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất.

Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu bao gồm: - Phương pháp đọc và tham khảo tài liệu; - Phương pháp phỏng vấn, toạ đàm; - Phương pháp điều tra sư phạm; - Phương pháp toán học thống kê. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Đánh giá của giáo viên phổ thông về kỹ năng sư phạm của sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất Ý kiến của giáo viên thể dục của các trường phổ thông đã từng có sinh viên chuyên ngành Giáo

dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc về thực hành phổ thông là những người trực tiếp hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ cho sinh viên trong quá trình các em thực hành ở đó, vì vậy ý kiến đánh giá của giáo viên được chúng tôi rất quan tâm. Để tìm hiểu sự đánh giá của giáo viên về vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn 28 giáo viên đang giảng dạy tại các trường Trung học phổ thông và Trung học cơ sở Chiềng Sinh tại thành phố Sơn La, kết quả được trình bày tại Bảng 1.

Page 59: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

59

Bảng 1. Tự đánh giá của giáo viên chuyên ngành Giáo dục thể chất trường Trung học phổ thông và Trung học cơ sở Chiềng Sinh (n=28)

TT Kỹ năng cơ bản Mức độ đánh giá Điểm Rất tốt (4 điểm) Tốt (3 điểm) Trung bình (2 điểm) Yếu (1 điểm) n % n % n % n %

1 Kỹ năng biên soạn kế hoạch, tiến trình, giáo án giảng dạy

0 0 4 14,3 10 35,7 14 50 1,64 2 Kỹ năng tổ chức và quản lý giờ học 4 14,3 7 25 14 50 3 10,7 2,42 3 Kỹ năng làm mẫu (thị phạm)

động tác 8 28,6 13 46,4 7 25 0 0 3,03

4 Kỹ năng phát hiện những sai lầm thường mắc và đưa ra biện pháp sửa chữa

5 17,9 9 32,1 14 50 0 0 2,67

5 Kỹ năng sử dụng bài tập, dụng cụ bổ trợ dẫn dắt (phương tiện dạy học)

6 21,4 10 35,7 12 42,9 0 0 2,78

6 Kỹ năng giảng giải, phân tích kỹ thuật động tác

0 0 2 7,2 13 46,4 13 46,4 1,60 7 Kỹ năng tổ chức, trọng tài thi đấu 8 28,6 13 46,4 7 25 0 0 3,04 8 Kỹ năng bảo hiểm, giúp đỡ và

sơ cứu chấn thương 5 17,9 9 32,1 11 39,3 3 10,7 2,57

9 Kỹ năng tạo tác phong nhà sư phạm

3 10,7 7 25 12 42,9 6 21,4 2,32 10 Kỹ năng kiểm tra, đánh giá kết

quả học tập của học sinh 4 14,3 6 21,4 15 53,6 3 10,7 2,39

Qua Bảng 1 cho thấy đánh giá của những giáo viên thể dục của các trường phổ thông đã từng tham gia hướng dẫn thực tập và thực hành sư phạm cho các sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất, đạt được theo đánh giá của các thầy, cô về kỹ năng sư phạm thực hành (điểm trung bình chung theo cách quy ước của chúng tôi với các mức tương ứng như sau: Rất tốt 4 điểm, Tốt 3 điểm, Trung bình 2 điểm, Yếu 1 điểm), cụ thể các kỹ năng đó là:

* Những kỹ năng đạt loại tốt: - Kỹ năng làm mẫu (thị phạm) động tác đạt 3,03 điểm. - Kỹ năng tổ chức, trọng tài thi đấu đạt 3,04 điểm. * Những kỹ năng đạt loại trung bình: - Kỹ năng tổ chức và quản lý giờ học đạt 2,42 điểm. - Kỹ năng phát hiện những sai lầm thường mắc và đưa ra biện pháp sửa chữa đạt 2,67 điểm. - Kỹ năng sử dụng bài tập, dụng cụ bổ trợ dẫn dắt (phương tiện dạy học) đạt 2,78 điểm. - Kỹ năng bảo hiểm, giúp đỡ và sơ cứu chấn thương đạt 2,57 điểm. - Kỹ năng tạo tác phong nhà sư phạm đạt 2,32 điểm. - Kỹ năng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh đạt 2,39 điểm. * Những kỹ năng đạt loại yếu: - Kỹ năng biên soạn kế hoạch, tiến trình, giáo án giảng dạy đạt 1,64 điểm. - Kỹ năng giảng giải, phân tích kỹ thuật động tác đạt 1,60 điểm.

Page 60: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

60

3.2. Tự đánh giá về kỹ năng sư phạm của sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất năm thứ 4 Để tìm hiểu vấn đề này chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn 60 sinh viên K51 chuyên ngành giáo

dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc. Kết quả phỏng vấn được trình bày tại Bảng 2. Bảng 2. Tự đánh giá của sinh viên chuyên ngành

Giáo dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc (n=60) TT Kỹ năng cơ bản Mức độ đánh giá Điểm

Rất tốt (4 điểm) Tốt (3 điểm) Trung bình (2 điểm) Yếu (1 điểm) n % n % n % n % 1 Kỹ năng biên soạn kế hoạch,

tiến trình, giáo án giảng dạy 12 20 10 16,6 30 50 8 13,4 2,43

2 Kỹ năng tổ chức và quản lý giờ học

0 0 15 25 16 26,6 29 48,4 1,67

3 Kỹ năng làm mẫu (thị phạm) động tác

20 33,4 25 41,6 10 16,6 5 8,34 3,00

4 Kỹ năng phát hiện những sai lầm thường mắc và đưa ra biện pháp sửa chữa

10 16,7 13 21,7 31 51,6 6 10 2,45

5 Kỹ năng sử dụng bài tập, dụng cụ bổ trợ dẫn dắt (phương tiện dạy học)

13 21,6 12 20 29 48,4 6 10 2,53

6 Kỹ năng giảng giải, phân tích kỹ thuật động tác

0 0 12 20 33 55 15 25 1,95 7 Kỹ năng tổ chức, trọng tài thi

đấu 22 36,6 21 35 15 25 2 3,4 3,05

8 Kỹ năng bảo hiểm, giúp đỡ và sơ cứu chấn thương

11 18,3 14 23,3 25 41,7 10 16,7 2,43 9 Kỹ năng tạo tác phong nhà

sư phạm 12 20 10 16,7 27 45 11 18,3 2,38

10 Kỹ năng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

21 35 22 36,6 13 21,7 4 6,7 3,00

Qua Bảng 2 cho thấy theo đánh giá của những sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất đã tham gia thực hành, thực tập tại cơ sở, các em đã tự đánh giá năng lực sư phạm của mình thể hiện có 3 kỹ năng đạt loại tốt, 5 kỹ năng đạt trung bình và 2 kỹ năng đạt loại yếu, kết quả cụ thể như sau:

* Những kỹ năng đạt loại tốt: - Kỹ năng làm mẫu (thị phạm) động tác đạt 3,00 điểm. - Kỹ năng tổ chức, trọng tài thi đấu đạt 3,05 điểm. - Kỹ năng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh đạt 3,00 điểm. * Những kỹ năng đạt loại trung bình: - Kỹ năng biên soạn kế hoạch, tiến trình, giáo án giảng dạy đạt 2,43 điểm. - Kỹ năng phát hiện những sai lầm thường mắc và đưa ra biện pháp sửa chữa đạt 2,45 điểm. - Kỹ năng sử dụng bài tập, dụng cụ bổ trợ dẫn dắt (phương tiện dạy học) đạt 2,53 điểm. - Kỹ năng bảo hiểm, giúp đỡ và sơ cứu chấn thương đạt 2,43 điểm.

Page 61: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

61

- Kỹ năng tạo tác phong nhà sư phạm đạt 2,38 điểm. * Những kỹ năng đạt loại yếu: - Kỹ năng tổ chức và quản lý giờ học đạt 1,76 điểm. - Kỹ năng giảng giải, phân tích kỹ thuật động tác đạt 1,95 điểm. 4. Kết luận Qua kết quả điều tra về sự đánh giá và tự đánh giá của các đối tượng trên, chúng tôi thấy rằng tuy

không lớn nhưng vẫn có sự khác biệt giữa sự đánh giá của các đối tượng về thực trạng trình độ năng lực sư phạm của sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc, cụ thể là: Theo sự đánh giá của đội ngũ giáo viên thể dục đã từng tham gia hướng dẫn kiến tập và hướng dẫn thực hành phổ thông cho sinh viên Trường Đại học Tây Bắc, họ cho rằng trong 10 kỹ năng cơ bản của người giáo viên thể dục thì có 7 kỹ năng là sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc là đạt yêu cầu, 3 kỹ năng còn yếu chưa đáp ứng được yêu cầu của nghề nghiệp trong tương lai. Đối với sinh viên năm cuối hiện nay vẫn đang còn học trong trường thì lại tự đánh giá rằng trong 10 kỹ năng cơ bản của người giáo viên thể dục thì có tới 8 kỹ năng sinh viên cho là thực hiện đạt yêu cầu và chỉ có 2 kỹ năng theo các em là vẫn còn yếu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đỗ Hồng Hạnh, 1995. Tìm hiểu kỹ năng trình bày bảng của sinh viên. Nxb Cao đẳng

Sư phạm Hà Nội. [2] Nguyễn Xuân Sinh, 2008. Năng lực sư phạm của người giáo viên thể dục thể thao.

Nxb Thể dục Thể thao, Hà Nội. [3] Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn, 2007. Lý luận và phương pháp thể dục thể thao.

Nxb Thể dục Thể thao, Hà Nội. [4] Nguyễn Đức Văn, 1987. Phương pháp toán học thống kê thể dục thể thao. Nxb Thể dục

Thể thao, Hà Nội.

THE CURRENT SITUATION OF PEDAGOGICAL SKILLS AMONG STUDENTS OF SPECIALIZED PHYSICAL EDUCATION AT TAY BAC UNIVERSITY

Pham Duc Vien M.A, Nguyen Van Chiem M.A,

Duong Xuan Luong M.A Faculty of Sport

Abstract: To evaluate the reality of the pedagogical skills among students of physical education, we offer 10 basic pedagogical skills and have implemented an investigation into the current situation. The results show that most teachers who participated in the study admit that the actual teaching skills among students of physical education at Tay Bac University are limited in quality. This article aims at giving specific measures to enhance practical teaching ability for students of physical education at Tay Bac University.

Keywords: Physical education, pedagogical skills, student, solution.

THIẾT KẾ SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ

Page 62: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

62

THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

ThS. Nguyễn Thị Huệ Khoa Sử Địa

Tóm tắt: Dạy học với sơ đồ tư duy ngày càng được quan tâm và vận dụng một cách sáng tạo. Sơ đồ tư duy góp phần đổi mới phương pháp dạy học, mang lại hiệu quả cao, phát huy khả năng tư duy, sáng tạo cho sinh viên. Sơ đồ tư duy thực sự là một công cụ hữu ích. Lập sơ đồ tư duy là một cách thức cực kỳ hiệu quả để ghi chú. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả, giúp các em sinh viên trau dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng sáng tạo trong quá trình học tập. Vı vây, viêc năm vưng qui trınh va cac hınh thưc thiêt kê Sơ đô tư duy la rât quan trong va cân thiêt. Đo cung la nhưng vân đê tac gia muôn đê câp trong bai viêt nay.

Từ khóa: Sơ đồ tư duy, dạy học địa lý. 1. Đặt vấn đề Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật và công nghệ, kiến thức loài người

tăng theo cấp số nhân cùng với những thay đổi lớn lao trong đời sống xã hội, đã đặt ngành Giáo dục và Đào tạo trước những thách thức và những vận hội mới: Nhà trường phải đào tạo ra những con người có đạo đức, trí tuệ, năng động, tự chủ, có khả năng lĩnh hội được khối lượng thông tin lớn luôn biến động và vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

Phát triển tư duy cho người học luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu trong giáo dục đại học. Để hướng người học có cách thức học tập, nghiên cứu tích cực và tự chủ, chúng ta không chỉ cần giúp sinh viên khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp họ hệ thống và phát triển được những kiến thức... Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: Ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo… Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là mô hình các Sơ đồ tư duy.

Sơ đồ tư duy hay Bản đồ tư duy (Mind map) do Tony Buzan sáng lập ra là một công cụ tư duy dựa trên cách thức hoạt động tự nhiên của bộ não, là một trong những công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ thông cũng như ở các bậc học cao hơn. Hiện nay Sơ đồ tư duy đang ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới cũng như ở Việt Nam.

Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi rất cao ở người học tính tự giác, tích cực và chủ động. Người học phát huy tối đa khả năng tự học, tự tìm tòi và sáng tạo của họ. Có rất nhiều hướng để thay đổi nội dung và phương pháp dạy học cho phù hợp với mục tiêu đào tạo theo hệ thống tín chỉ đã đặt ra. Trong đó, Sơ đồ tư duy được xem như một phương tiện, đồng thời là một giải pháp hữu hiệu cho việc tổ chức dạy học theo tín theo hệ thống tín chỉ.

Hiện đang công tác ở trường đại học, tôi nhận thấy cần nhanh chóng nắm bắt và cập nhật liên tục thông tin, thay đổi phương pháp dạy học để phù hợp với xu thế dạy học hiện đại. Việc đổi mới theo hướng tích cực, phù hợp với việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các giảng viên. Mỗi giảng viên tự lựa chọn cho mình một “hướng đi” phù hợp nhất. Bản thân tôi nhận thấy việc vận dụng Sơ đồ tư duy vào tổ chức các hoạt động dạy học cho sinh viên là rất cần thiết, góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học địa lí theo hệ thống tín chỉ ở các trường đại học hiện nay.

2. Nội dung nghiên cứu

Page 63: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

63

2.1. Quy trình xây dựng sơ đồ tư duy Theo Tony Buzan có 7 bước để lập Sơ đồ tư duy: - Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm của một tờ giấy trắng kéo sang một bên vì bắt đầu từ trung tâm

cho não sự tự do để trải rộng một cách chủ động và để thể hiện phóng khoáng hơn, tự nhiên hơn. - Bước 2: Dùng một hình ảnh, bức tranh (hay từ ngữ) cho ý tưởng trung tâm một hình ảnh có giá

trị ngàn lời vì nó huy động rất nhiều kỹ năng tư duy trên vỏ não: màu sắc, hình thể, đường nét, kích thước, kết cấu, nhịp điệu thị giác, và đặc biệt là sự tưởng tượng.

- Bước 3: Nối các nhánh tới hình ảnh trung tâm, và nối các nhánh cấp hai, cấp ba với nhánh cấp một và cấp hai….Vì não làm việc bằng sự liên tưởng, nối các nhánh lại sẽ hiểu và nhớ nhiều thứ dễ dàng hơn rất nhiều.

- Bước 4: Vẽ nhiều nhánh cong hơn đường thẳng vì đường thẳng mang lại sự buồn tẻ cho não, giống như các nhánh cây, các đường cong có tổ chức sẽ lôi cuốn và thu hút sự chú ý của mắt hơn rất nhiều.

- Bước 5: Luôn sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang đến cho sơ đồ tư duy những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo.

- Bước 6: Sử dụng một từ khóa trong mỗi dòng. Từ khóa (key word) là những khái niệm trọng tâm mà từ đó hàng loạt các khái niệm khác được triển khai.

- Bước 7: Dùng những hình ảnh xuyên suốt. Hình ảnh: Bao gồm tất cả các hình vẽ, biểu tượng, kí hiệu, tranh ảnh, video…

2.2. Các cách thiết kế Sơ đồ tư duy * Thiết kế Sơ đồ tư duy thủ công Sơ đồ tư duy có thể được sử dụng rộng rãi ở các trường học, nó có thể được thiết kế thủ công

đơn giản trên bảng hoặc trên giấy. Trên bảng: Với một ít phấn màu các loại khác nhau, giảng viên có thể cùng sinh viên lần lượt thể

hiện các ý lên Sơ đồ tư duy bởi các màu khác nhau, và những ý được triển khai từ một nội dung thì có màu giống nhau.

Trên giấy: Giảng viên và sinh viên có thể sử dụng các khổ giấy lớn cùng với bút chì, bút màu để ve Sơ đồ tư duy. Ngoài ra, sinh viên có thể tự thiết kế Sơ đồ tư duy vào vở thể hiện nội dung bài học.

Hình 1. Sơ đồ tư duy trong học phần Đia lı tư nhiên đai cương II (Chương III. Nươc trong khı quyên)

* Thiết kế Sơ đồ tư duy bằng một số phần mềm tin học

Page 64: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

64

Phần mềm Buzan’s iMindmap™: Một phần mềm thương mại, tuy nhiên có thể tải bản dùng thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online Ltd. thực hiện. Đây là một phần mềm rất hữu hiệu bởi các tính năng ưu việt như linh hoạt, dễ trình chiếu, có thể xuất sang powerpoint hay sang ảnh để gắn vào word. Hiện nay, phần mềm inmindmap được sử dụng nhiều nhất là phần mềm mindmap 6.01. Trang chủ tại www.imindmap.com

Phần mềm Inspiration: Sản phẩm thương mại của công ty Inspiration Software, Inc. Sản phẩm có phiên bản dành cho trẻ em (các em từ mẫu giáo đến lớp 5) rất dễ dùng và nhiều màu sắc. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại: www.inspiration.com

Phần mềm Visual Mind: Sản phẩm thương mại của công ty Mind Technologies. Phần mềm dễ sử dụng và linh hoạt trong sắp xếp các nút chứa từ khóa. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại: www.visual-mind.com

Phần mềm FreeMind: sản phẩm hoàn toàn miễn phí, được lập trình trên Java. Các icon chưa được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ chức năng để thực hiện mind mapp.ing. Trang chủ tại: http://freemind.sourceforge.net/wiki/index.php/Main_Page

Ngoài ra, chúng ta còn có thể tham khảo một danh sách các phần mềm loại mind mapp.ing tại địa chỉ sau: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_mind_mapp.ing_software

Trong phạm vi nghiên cứu tôi đã sử dụng phần mềm Buzan’s iMindmap™ để thiết kế hệ thống sơ đồ tư duy phục vụ dạy học một số học phần cụ thể trong chương trình đào tạo ngành đại học sư phạm địa lí.

Hình 2. Sơ đồ tư duy trong học phần Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam III (Chương 2. Trung du miên nui Băc Bô)

2.3. Y nghıa cua viêc thiêt kê va sư dung Sơ đô tư duy trong day hoc Sơ đồ tư duy được mệnh danh "công cụ vạn năng cho bộ não", là phương pháp ghi chú đầy sáng

tạo, hiện đang được hàng triệu người trên thế giới sử dụng, đã và đang đem lại những hiệu quả thực sự đáng kinh ngạc, nhất là trong lĩnh vực giáo dục và kinh doanh. Lập Sơ đồ tư duy là một cách thức cực kỳ hiệu quả để ghi chú. Các Sơ đồ tư duy không chỉ cho thấy các thông tin mà còn cho thấy cấu trúc tổng thể của một chủ đề và mức độ quan trọng của những phần riêng lẻ trong đó đối với nhau. Nó giúp bạn liên kết các ý tưởng và tạo các kết nối với các ý khác.

Page 65: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

65

Trong những năm gần đây, Sơ đồ tư duy đã được sử dụng khá rộng rãi trong dạy và học ở trường phổ thông và bước đầu được đưa vào các trường chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Qua thực tế cho thấy việc giảng dạy này đã đem lại nhiều hiệu quả tích cực. Trong dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng, việc sử dụng sơ đồ tư duy thực sự góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả dạy và học.

Hình 3. Ưu điểm của sơ đồ tư duy trong dạy học Thứ nhất, Sơ đồ tư duy dễ nhìn, dễ hiểu và dễ nhớ. Thông qua Sơ đồ tư duy giảng viên đã chuẩn

bị sẵn hay sinh viên có thể tự lập Sơ đồ tư duy cho mình dưới sự hướng dẫn của giảng viên để bài học trở nên dễ thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Khi giảng viên dạy học bằng Sơ đồ tư duy, thông qua hình ảnh và màu sắc trên bản đồ, kích thích được hứng thú cho sinh viên. Cùng một nội dung nhưng các em có thể thêm nhánh, thêm chú thích dưới dạng hình vẽ nhiều màu sắc tùy vào cách hiểu, cách lĩnh hội kiến thức trong bài học của mình. Sử dụng Sơ đồ tư duy giúp sinh viên dễ dàng hệ thống hóa kiến thức của một bài, một chương hay toàn bộ chương trình học.

Thứ hai, việc sử dụng Sơ đồ tư duy giúp kích thích hứng thú học tập, khả năng tư duy và sáng tạo của sinh viên. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế Sơ đồ tư duy theo mạch tư duy của mỗi người không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ giáo khoa Địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một nội dung nhưng mỗi người có thể thể hiện Sơ đồ tư duy theo một cách riêng. Vì vậy vẽ Sơ đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của sinh viên, tăng tính độc lập và rèn luyện khả năng tự học cho sinh viên cũng như tính thẩm mỹ của các em trong quá trình thành lập Sơ đồ tư duy.

Thứ ba, thiết kế và sử dụng Sơ đồ tư duy giúp phát huy khả năng tư duy và tiềm năng ghi nhớ của bộ não. Sơ đồ tư duy sử dụng các hình ảnh, màu sắc, đường nét theo cách thiết kế của mỗi người, làm cho kiến thức trở nên sinh động hơn. Chính vì vậy, khi tiếp xúc với sơ đồ tư duy, các em sẽ phát huy tối đa khả năng tư duy của cả hai bán cầu não. Nhờ đó, các em sẽ nhớ nhanh được những kiến thức trọng tâm, những kĩ năng đã được học trong bài, tạo cho các em hứng thú trong học tập và sáng tạo không ngừng.

Thứ tư, dạy học với Sơ đồ tư duy từng bước rèn luyện cho sinh viên cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic. Chủ đề của mỗi bài chính là từ khoá trung tâm của bản đồ, từ từ khoá trung tâm, tìm kiếm và phát triển thêm ý chính. Từ các ý chính sẽ triển khai thêm các ý phụ

Page 66: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

66

cấp nhỏ hơn. Như vậy học tập với Sơ đồ tư duy sẽ giúp các em biết tìm kiếm và sắp xếp các ý một cách logic theo mạch tư duy.

Thứ năm, Sơ đồ tư duy giúp giảng viên và sinh viên dễ dàng trình bày ý tưởng trước lớp và tiết kiệm được thời gian ghi chép, tăng sự linh hoạt trong bài giảng. Đồng thời việc học tập theo sơ đồ tư duy giúp hướng dẫn cho sinh viên biết chọn lọc kiến thức và ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của Sơ đồ tư duy nên người thiết kế sơ đồ tư duy phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và logic, vì vậy, sử dụng sơ đồ tư duy sẽ giúp sinh viên dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.

Đặc biệt khi giảng viên dạy học theo Sơ đồ tư duy và hướng dẫn sinh viên cách thức làm việc với sơ đồ tư duy sẽ tường bước cho các em tiếp cận với một phương pháp học tập có hiệu quả. Sơ đồ tư duy là phương pháp dạy học chú trọng vào liên kết các kiến thức theo một mạch logic, chính vì vậy, học tập với Sơ đồ tư duy sẽ giúp sinh viên biết cách liên kết các kiến thức lại với nhau, tránh tình trạng học nhiều nhưng không hiểu hay không nắm được bản chất của vấn đề. Vì vậy, sử dụng Sơ đồ tư duy sẽ giúp sinh viên dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả. Việc rèn luyện phương pháp học tập cho sinh viên không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Tuy nhiên viêc thiêt kê va sư dung Sơ đô tư duy đoi hoi thơi gian, công sưc va trınh đô tin hoc nhât đinh. Do đo nha trương cân tao điêu kiên cho cac giang viên chuyên nganh phương phap dư cac lơp tâp huân vê Sơ đô tư duy do Bô giao duc tô chưc. Cac giang viên va sinh viên cân tiêp cân Sơ đô tư duy môt cach thương xuyên va co kı năng sư dung chung thanh thao trong qua trınh day va hoc.

3. Kết luận Qua nghiên cứu tôi nhận thấy rằng, dạy và học với Sơ đồ tư duy sẽ đem lại hiệu quả rất lớn cho

dạy học Địa lí nói riêng và phục vụ dạy học trong các nhà trường nói chung. Học tập với Sơ đồ tư duy sẽ tạo hướng thú học tập cao hơn, mức độ hiểu bài của sinh viên cũng sâu sắc hơn. Từ đó giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học và góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Địa lí ở trường đại học. Sơ đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp người dạy và người học trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới,…

Sử dụng Sơ đồ tư duy trong tổ chức hoạt động dạy học hiện nay là một trong những nội dung đổi mới phương pháp theo hướng phát huy tính tích cực của người học. Thông qua việc thiết kế Sơ đồ tư duy giảng viên đã tạo ra một hệ thống đối tác trong hoạt động dạy học và với phương tiện này việc dạy học sẽ nhẹ nhàng hơn, mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học.

Qua thực tế cho thấy, tiết học có sử dụng phương pháp Sơ đồ tư duy có hiệu quả cao hơn tiết học thông thường, gây được hứng thú học tập, kích thích tư duy tích cực và khả năng sáng tạo của sinh viên, các em hăng say xây dựng, thành lập Sơ đồ tư duy cùng giảng viên và tự mình thành lập nên các Sơ đồ tư duy. Giảng viên đóng vai trò là người hướng dẫn và tổ chức hoạt động tìm tòi của sinh viên, giúp các em tự xây dựng được mối quan hệ giữa các kiến thức trọng tâm, kiến thức chính và các cấp độ kiến thức thấp hơn. Sinh viên chủ động hơn trong việc tìm kiếm, lĩnh hội tri thức, thiết lập tư duy. Điều đó khẳng định việc vận dụng Sơ đồ tư duy trong tổ chức hoạt động dạy học địa lí ở Trường Đại học Tây Bắc bước đầu đã đem lại hiệu quả cao. Đây sẽ là một hướng đi mới và hết sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở trường đại học hiện nay.

Page 67: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

67

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Trần Đình Châu, Kỳ 2, tháng 9/2009. Sử dụng bản đồ tư duy - một biện pháp hiệu quả hỗ trợ học sinh học tập môn toán. Tạp chí Giáo dục.

[2] Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Số chuyên đề TBDH năm 2009. Sử dụng bản đồ tư duy góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Tạp chí Khoa học giáo dục.

[3] Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, tháng 10, năm 2010. Thiết kế bản đồ tư duy giúp học sinh tự học và tập dượt nghiên cứu toán học. Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ.

[4] Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, 2011. Dạy tốt, học tốt các môn học bằng bản đồ tư duy. Nxb Giáo dục Việt Nam.

[5] Tony Buzan, 2008. Sơ đồ tư duy (The mind map book). Nxb tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. [6] Tony Buzan, 2007. Bản đồ Tư duy trong công việc. Nxb Lao động Xã hội.

DESIGN DIAGRAMS IN TEACHING GEOGRAPHY BY CREDIT SYSTEM

IN TAY BAC UNIVERSITY Nguyen Thi Hue M.A Faculty of History and Geography

Abstract: Teaching method using diagrams (Mind map) is becoming more and more popular and creatively

app.lied. It contributes to innovate the teaching method, provide high efficiency and improve students’ thinking abilities as well as their creativity.

Mind map is a really beneficial learning tool. Mapp.ing is an extremely effective way of thinking to take notes. It is a creative and effective note taking way to help students enhance their knowledge and strengthen their creativities in their learning processes.

Therefore, mastering processes and design forms of thinking diagram is very important and necessary. This article is aiming to clarify this issue.

Keywords: Diagram of thinking, teaching geography.

Page 68: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

68

THỰC TRẠNG THỂ LỰC CỦA NỮ SINH VIÊN NGÀNH SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

ThS. Nguyễn Bá Điệp, ThS. Trần Văn Hạnh Khoa Thể dục thể thao

Tóm tắt: Trên cơ sở đánh giá thực trạng và so sánh thể lực của 316 nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc với quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bài báo đã xác định được những nguyên nhân ảnh hưởng và xây dựng các biện pháp phát triển thể lực cho nữ sinh viên khối sư phạm trong Nhà trường.

Từ khóa: Phát triển thể chất, nữ sinh, ngành sư phạm.

1. Đặt vấn đề Giáo dục thể chất (GDTC) trong nhà trường là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được

của nền giáo dục nói chung. Nó góp phần đào tạo con người mới phát triển toàn diện, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Điều tra khảo sát thể lực của học sinh - sinh viên là một mặt của điều tra thể chất nhân dân, đây là một vấn đề cấp thiết, nhằm đánh giá về mặt thể lực của học sinh - sinh viên. Kết quả đánh giá một cách đúng đắn về tình trạng thể lực sinh viên trong mỗi một giai đoạn khác nhau giúp cho các nhà trường, Nhà nước, các cơ quan chức năng có liên quan có những số liệu khách quan về nguồn lực lao động, làm cơ sở để xây dựng lại cơ cấu đội ngũ lao động, cải tiến nội dung chương trình GDTC trường học, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Để có được những thông tin về quy luật và mức độ phát triển thể lực của nữ sinh viên Trường Đại học Tây Bắc cần có những nghiên cứu theo dõi qua nhiều năm mới cho phép nhận thức được đầy đủ những nhân tố ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và xã hội đến phát triển thể lực của sinh viên. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Thực trạng thể lực của nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc”.

Mục đích nghiên cứu: Bài báo xác định thực trạng về thể lực của nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc, đồng thời tiến hành nghiên cứu xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực của nữ sinh viên sư phạm. Từ đó đề xuất các biện pháp phát triển thể lực cho sinh viên trong nhà trường. Kết quả điều tra cũng là cơ sở cho việc đánh giá có hiệu quả chương trình GDTC trong nhà trường, cải tiến chương trình GDTC trong nhà trường hiện nay. Trong quá trình điều tra, đánh giá bài báo sử dụng các phương pháp: Phương pháp quan sát sư phạm, phương pháp phỏng vấn, phương pháp kiểm tra sư phạm, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp toán học thống kê. Bài báo được tiến hành nghiên cứu ở Trường Đại học Tây Bắc.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Kết quả điều tra và thảo luận Kết quả điều tra thực trạng thể lực của nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc: Để

đánh giá toàn diện quá trình học tập môn giáo dục thể chất của nữ sinh viên Đại học Tây Bắc, đề tài tiến hành kiểm tra thông qua các bài kiểm tra trong tiêu chuẩn rèn luyện thân thể áp dụng cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên cả nước theo Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT ban hành ngày 18 tháng 9 năm 2008, bao gồm:

- Lực bóp tay thuận (KG); - Nằm ngửa gập bụng (lần/30 s); - Bật xa tại chỗ (cm);

Page 69: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

69

- Chạy 30m XPC (s); - Chạy con thoi 4 x 10m (s); - Chạy tuỳ sức 5 phút (m). Đối tượng được kiểm tra bao gồm 316 sinh viên. Kết quả kiểm tra được trình bày ở Bảng 1.

Bảng 1. Kết quả kiểm tra thể lực của nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc theo quy định hiện hành của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo

Tiêu chuẩn/ Đối tượng

Nội dung kiểm tra

Lực bóp tay thuận (kg)

Nằm ngửa gập bụng (lần/30

giây)

Bật xa tại chỗ (cm)

Chạy 30m XPC (giây)

Chạy con thoi 4 x 10m

(giây)

Chạy tuỳ sức 5 m

(phút) Tốt Số lượng 18 18 8 23 19 18

% 5,69 5,69 2,53 7,27 6.01 5,69 Khá Số lượng 34 34 22 31 32 22

% 10,75 10,75 6,96 9,81 10,12 6,96 Đạt Số lượng 156 147 153 151 70 67

% 49,36 46,51 48,41 47,78 22,15 21,2 Không đạt

Số lượng 108 117 133 111 153 276 % 34,17 37,02 42,08 35,12 48,41 87,34

Qua kết quả Bảng 1 cho thấy, nữ sinh viên Trường Đại học Tây Bắc không đạt tiêu chuẩn thể lực ở các nội dung kiểm tra chiếm tỷ lệ lớn, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra đối với sinh viên đại học, cao đẳng. Đặc biệt số đạt theo chuẩn quy định có xu hướng giảm dần với các năm học tiếp theo. Tuy nhiên, số sinh viên đạt chỉ tiêu về sức mạnh chiếm tỷ lệ cao.

Yếu tố ảnh hưởng đến thể lực và công tác giáo dục thể chất của nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc

Để xác định được các yếu tố chính ảnh hưởng tới thể lực của nữ sinh viên ngành sư phạm và hiệu quả GDTC trong Trường Đại học Tây Bắc, bài báo tiến hành lấy kết quả phỏng vấn các giáo viên trực tiếp giảng dạy môn học giáo dục thể chất, các cán bộ quản lý cấp trường... Kết quả phỏng vấn được trình bày ở Bảng 2.

Page 70: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

70

Bảng 2. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác GDTC của nữ sinh viên ngành sư phạm và hiệu quả công tác GDTC tại Trường Đại học Tây Bắc (n = 60)

TT Nội dung Kết quả phỏng vấn Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng

Số lượng

% Số lượng

% Số lượng

% 1 Các văn bản liên quan đến GDTC

trong trường đại học, học viện, cao đẳng 45 70.59 10 17.65 5 11.76

2 Nhận thức về vị trí, vai trò của giáo dục thể chất trong cán bộ quản lý, giáo viên và sinh viên

60 100 0 0 0 0

3 Cơ sở vật chất dành cho giáo dục thể chất

55 52.94 3 17.65 2 29.41 4 Chất lượng và số lượng đội ngũ giáo

viên thể dục 55 52.94 3 29.41 3 17.65

5 Chế độ, chính sách dành cho những người làm công tác GDTC trong nhà trường.

40 66.67 15 25 5 8.33

6 Cải tiến nội dung, chương trình môn học

48 80 7 11.67 5 8.33 7 Công tác nghiên cứu khoa học phục

vụ cho GDTC 52 86.67 5 8.33 3 5

8 Hướng dẫn ngoại khoá các môn thể thao cho sinh viên

53 88.33 1 1.67 6 10 9 Sự quan tâm đầu tư của phụ huynh

sinh viên cho phát triển thể chất 49 81.67 3 5 8 13.33

10 Kinh phí dành cho tập luyện và thi đấu các giải TDTT

50 83.33 6 10 4 6.67 11 Ý thức học tập của sinh viên 56 93.33 4 6.67 0 0.00

Qua kết quả Bảng 2 cho chúng ta thấy, các ý kiến đồng ý ở mức rất quan trọng và quan trọng tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến thể lực của nữ sinh viên ngành sư phạm và hiệu quả công tác GDTC.

Qua đó đề tài tiến hành xây dựng biện pháp phát triển thể lực cho nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc.

2.2. Biện pháp nâng cao thể lực cho nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc Sau khi chọn giả định được 8 biện pháp đề tài tiến hành phỏng vấn các cán bộ giảng viên, các

chuyên gia, các huấn luyện viên của trung tâm huấn luyện tỉnh Sơn La về việc lựa chọn các biện pháp tốt nhất để phát triển thể lực cho nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc. Kết quả phỏng vấn được trình bày ở Bảng 3.

Page 71: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

71

Bảng 3. Kết quả phỏng vấn lựa chọn các giải pháp nhằm nâng cao thể lực của nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc (n=32)

TT Nội dung phỏng vấn Kết quả phỏng vấn Rất cần thiết

Tỷ lệ (%) Cần thiết Tỷ lệ (%) Không cần thiết Tỷ lệ (%)

1 Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền giáo dục về vai trò, ý nghĩa của công tác GDTC

27 84.37 3 9.37 2 6.26

2 Đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục chính khoá.

31 96.88 1 3.12 0 0 3 Đổi mới hình thức quản lý, tổ chức

hướng dẫn sinh viên tập luyện TDTT ngoài giờ học, ngoại khoá.

29 90.63 3 9.37 0 0

4 Khuyến khích mỗi sinh viên tập luyện một môn thể thao tự chọn.

26 81.25 4 18.75 0 0 5 Tăng cường tổ chức thi đấu các môn thể thao giữa các lớp, khoa với nhau trong

nhà trường. 26 81.25 3 9.37 3 9.37

6 Tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động TDTT trong nhà trường.

28 87.50 4 12.50 0 0 7 Cải tiến công tác tuyển sinh, giảm số

lượng tuyển sinh hàng năm. 1 3.12 5 15.62 24 34.37

8 Tăng cường lực lượng giáo viên 4 12.50 15 46.87 11 75.00 Kết quả ở Bảng 3 cho thấy có 6/8 biện pháp đạt từ 80% tán thành trở lên được xác định là rất

cần thiết và cần thiết được đề tài lựa chọn làm biện pháp phát triển thể lực cho nữ sinh viên ngành sư phạm Trường Đại học Tây Bắc.

2.3. Phân tích, bàn luận kết quả nghiên cứu * Kết quả Bảng 1 cho thấy: Hầu hết các kiểm tra mà đề tài lựa chọn kiểm tra thể lực cho sinh

viên Trường Đại học Tây Bắc, tỷ lệ sinh viên không đạt yêu cầu còn rất cao, cụ thể: Ở kiểm tra lực bóp tay thuận: Sinh viên chưa đạt yêu cầu còn chiếm tỷ lệ cao 34,17%, trong khi đó loại tốt chiến tỷ lệ thấp 5,69%; Loại khá chiếm 10,75%; Đạt yêu cầu chiếm 49,36%. Ở kiểm tra nằm ngửa gập bụng: Sinh viên chưa đạt yêu cầu còn chiếm tỷ lệ cao 37,02%, trong khi đó loại tốt chiến tỷ lệ thấp 5,69%; Loại khá chiếm 10,75%; Đạt yêu cầu chiếm 46,51%. Ở kiểm tra bật xa tại chỗ: Sinh viên chưa đạt yêu cầu còn chiếm tỷ lệ cao 42,08%, trong khi đó loại tốt chiến tỷ lệ thấp 2,53%; Loại khá chiếm 6,96%; Đạt yêu cầu chiếm 48,51%. Ở kiểm tra chạy 30m XPC: Sinh viên chưa đạt yêu cầu còn chiếm tỷ lệ cao 35,12%, trong khi đó loại tốt chiến tỷ lệ thấp 7,27%; Loại khá chiếm 9,81%; Đạt yêu cầu chiếm 47,78%. Ở kiểm tra chạy con thoi 4 x 10m: Sinh viên chưa đạt yêu cầu còn chiếm tỷ lệ cao 48,41%, trong khi đó loại tốt chiến tỷ lệ thấp 6,01%; Loại khá chiếm 10,12%; Đạt yêu cầu chiếm 22,15%. Ở kiểm tra chạy tùy sức 5 phút: Sinh viên chưa đạt yêu cầu còn chiếm tỷ lệ cao 87,34%, trong khi đó loại tốt chiến tỷ lệ thấp 5,69%; Loại khá chiếm 6,96%; Đạt yêu cầu chiếm 21,2%. * Qua Bảng 2 cho chúng ta thấy: Tất cả các nguyên nhân mà đề tài đưa ra để phỏng vấn các chuyên gia, các giáo viên, huấn luyện viên đều cho rằng đó là những nguyên nhân chính dẫn đến thể lực của nữ sinh viên Trường Đại học Tây Bắc hiện nay còn chưa tốt. Điều đó chứng tỏ, muốn nâng cao thể lực cho nữ sinh viên thì nhất thiết phải có các biện pháp phù hợp và kịp thời.

Page 72: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

72

* Qua kết quả Bảng 3: Đề tài đã lựa chọn được 6 biện pháp phát triển thể lực cho nữ sinh viên Trường Đại học Tây Bắc, các biện pháp đó là:

- Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền giáo dục về vai trò, ý nghĩa của công tác GDTC; - Đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục chính khoá; - Đổi mới hình thức quản lý, tổ chức hướng dẫn học sinh tập luyện thể dục thể thao (TDTT)

ngoài giờ học, ngoại khoá; - Khuyến khích mỗi học sinh tập luyện một môn thể thao tự chọn; - Tăng cường tổ chức thi đấu các môn thể thao giữa các lớp, khoa với nhau trong nhà trường; - Tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động TDTT trong nhà trường. 3. Kết luận

Kết quả đánh giá thực trạng thể lực đã chỉ ra đặc điểm phát triển thể lực của nữ sinh viên Trường Đại học Tây Bắc hiện nay là chưa đạt yêu cầu so với cùng lứa tuổi, hầu hết ở các bài kiểm tra tỷ lệ chưa đạt yêu cầu còn chiếm tỷ lệ cao. Qua kết quả nghiên cứu, đề tài cũng đã xác định được những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thể lực hiện nay của nữ sinh viên Trường Đại học Tây Bắc còn yếu, đồng thời cũng đã lựa chọn được 6 biện pháp phát triển thể lực cho sinh viên trong nhà trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ GD&ĐT, 1996. Khảo sát học sinh phổ thông từ lớp 1 - 12 trên địa bàn 12 tỉnh và thành

phố. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [2] Ủy ban TDTT, 2003. Điều tra thể chất nhân dân từ 6 đến 60 tuổi. Nxb Thể dục Thể thao,

Hà Nội. [3] Ủy ban TDTT, 2003. Thực trạng thể chất người Việt Nam từ 6 đến 20 tuổi. Nxb Thể dục

Thể thao, Hà Nội. PHYSICAL STATUS OF PEDAGOGIC FEMAL STUDENTS AT TAY BAC UNIVERSITY

Nguyen Ba Diep M.A, Tran Van Hanh M.A Faculty of Sport

Abstract: On the basis of an assessment of the status and power of the 316 pedagogic female students at Tay Bac University in comparison with current regulations of the Ministry of Education and Training, the paper has identified the cause of problems and building measures for the physical development of students in the school teaching blocks.

Keywords: Physical development, female students, padagogic.

Page 73: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

73

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP CHẠY CỰ LY TRUNG BÌNH CHO

SINH VIÊN KHỐI KHÔNG CHUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ThS. Nguyễn Minh Khoa Khoa Thể dục Thể thao

Tóm tắt: Trong thực tiễn dạy và học nội dung chạy cự ly trung bình (CLTB) của khối không chuyên còn những

hạn chế do đó ảnh hưởng đến hiệu quả học tập. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên, đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả học tập nội dung chạy CLTB cho sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc.

1. Đặt vấn đề

Mục đích giáo dục và đào tạo là tạo ra những con người Việt Nam mới có đầy đủ các phẩm chất, năng lực: Trí, Đức, Thể, Mỹ, Lao. Có đầy đủ sức khỏe đáp ứng yêu cầu học tập, lao động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sức khoẻ trí tuệ là những thứ quý giá nhất của mỗi con người, mỗi quốc gia. Sức khoẻ và trí tuệ có mối liên hệ hữu cơ tác động qua lại với nhau: Có sức khoẻ tốt giúp cho học tập, lao động trí óc và nhiều lĩnh vực khác đạt hiệu quả cao, ngược lại có trí tuệ sẽ biết cách giữ gìn sức khoẻ, nâng cao thể lực, sống học tập và làm việc với chất lượng cao. Thực trạng thể lực, sức khỏe của học sinh sinh viên hiện nay nói chung và học sinh sinh viên Đại học Tây Bắc nói riêng còn nhiều hạn chế đặc biệt là tố chất sức bền. Từ thực tiễn giáo dục thể chất (GDTC) cho thấy đa phần sinh viên còn chưa tự giác tích cực trong học tập, chưa thể hiện được sự kiên trì, khả năng sức bền trong hoạt động chạy CLTB và chưa đáp ứng được tiêu chuẩn đánh giá sức bền theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sức bền là tố chất đặc trưng của con người. Thực tiễn chỉ ra rằng để có sức bền tốt người ta phải tập luyện kiên trì cả một quá trình bền bỉ liên tục. Trong chạy CLTB ngoài sức bền chung thì sức bền chuyên môn có vai trò quyết định quan trọng đến thành tích. Nếu sức bền chuyên môn không tốt thì việc thoát “cực điểm”, sự điều tiết diễn biến hoạt động bên trong cơ thể không tốt dẫn tới cơ thể khó có thể duy trì được hoạt động chạy đến hết cự ly hoặc chạy hết với trạng thái thể lực suy kiệt dẫn đến thành tích kém, kết quả là không đạt yêu cầu của môn học.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên cần thiết nghiên cứu: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả học tập chạy cự ly trung bình cho sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng học tập chạy CLTB của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả dạy và học chạy CLTB.

2.2. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu bao gồm: Phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp phỏng vấn, phương pháp quan sát sư phạm, phương pháp toán học thống kê.

2.3. Thực trạng dạy và học tập nội khóa chạy cự ly trung bình của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc

* Về cơ sở vật chất sân bãi: Từ khảo sát thực tế cơ sở vật chất sân bãi hiện nay và theo đánh giá của giáo viên giảng dạy và sinh viên học tập nội dung chạy CLTB cho thấy: Sân bãi học tập thiếu, chất

Page 74: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

74

lượng sân bãi kém, số lượng lớp học đông không đáp ứng được yêu cầu học tập, nhiều khi giáo viên phải tổ chức cho sinh viên học tập trên đường trong nhà trường không đảm bảo an toàn cho dạy và học.

* Về chương trình: Chương trình học tập nội dung chạy CLTB được thể hiện trong chương trình GDTC dành cho sinh viên khối không chuyên được trình bày tại Bảng 1.

Bảng 1. Chương trình Giáo dục thể chất dành cho khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc Học kỳ Nội dung học Tín chỉ Số tiết học Số tuần học

I

Lý thuyết 1,5

2 1 Chạy cự ly trung bình 15 5 Chạy cự ly ngắn 15 5 Nhảy dây 14 4

II

Nhảy cao 1,5

14 5 Đẩy tạ 14 5 Nhảy xa 14 5

Tổng 3 88 30 Qua Bảng 1 cho thấy: Chương trình học tập nội dung chạy CLTB được thực hiện trong học kỳ I

với số tiết học trên lớp là 15 tiết, học trong 5 buổi trong thời gian 5 tuần (15 tiết/ 5 buổi/ 5 tuần). Như vậy việc sắp xếp chương trình trong một tuần học một buổi 3 tiết với thời gian 150 phút là quá nhiều thời gian trong một buổi học, không phù hợp với đối tượng về thời lượng học tập vận động trong giờ học GDTC, trong khi đó số lượng buổi học trong tuần thiếu không đảm bảo tính thường xuyên, khoảng cách giữa hai buổi học cách nhau quá xa do đó không đảm bảo được việc phát phát triển năng lực sức bền.

* Thực trạng triển khai chương trình học tập nội dung chạy cự ly trung bình: Trong chương trình GDTC dành cho sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc diễn ra trong hai kỳ I, II của năm thứ nhất gồm 6 nội dung (trình bày tại Bảng 1), nội dung chạy CLTB được thực hiện trong 5 tuần mỗi tuần 3 tiết trong một buổi. Việc triển khai chương trình còn gặp nhiều khó khăn do cơ sở vật chất sân bãi học tập chưa đáp ứng được yêu cầu nội dung môn học chạy CLTB; Mặt khác do điều kiện khách quan về thời tiết ảnh hưởng đến việc triển khai nội dung chương trình. Do vậy, khó đảm bảo được theo tiến trình giảng dạy, học tập theo kế hoạch ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả học tập nội dung môn học.

* Thực trạng hoạt động học tập của sinh viên: Theo đánh giá của các giáo viên và qua quá trình quan sát sư phạm hoạt động học tập nội dung chạy CLTB cho thấy: Thực trạng hoạt động học tập của sinh viên còn thiếu tính tự giác tích cực, thiếu sự kiên trì trong tập luyện, sợ mệt mỏi, tập luyện mang tính hình thức thiếu sự cố gắng. Do đó làm ảnh hưởng đến chất lượng giờ học và hiệu quả phát triển sức bền chuyên môn nội dung học tập.

* Thực trạng hoạt động dạy: Qua quá trình quan sát sư phạm hoạt động dạy nội dung chạy CLTB cho thấy thực trạng hoạt động tổ chức giờ học chưa thực sự chặt chẽ, thiếu sự nghiêm minh làm cho người học có sự chểnh mảng thiếu tập trung, thiếu nghiêm túc; Trong giờ học còn nặng về phân tích làm cho mật độ vận động của giờ học thấp, rất khó mang lại hiệu quả phát triển thể lực; Thực hiện giờ dạy quá khuôn mẫu, cứng nhắc nên thiếu sự đa dạng, thiếu tính linh hoạt không kích thích được người học tích cực học tập; Việc sử dụng các phương tiện nhằm nâng cao sức bền chuyên môn chạy CLTB là các bài tập vận động chưa hợp lý, chưa phù hợp với đối tượng làm cho việc thực hiện các bài tập quá mức so với tâm lý và thể lực các em, do đó mức độ hoàn thành bài tập không tốt làm ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển sức bền chuyên môn.

Page 75: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

75

2.4. Thực trạng hoạt động ngoại khóa chạy cự ly trung bình của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc

Quá trình nghiên cứu tiến hành tìm hiểu mức độ tham gia hoạt động ngoại khoá chạy CLTB của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc kết quả trình bày tại Bảng 2.

Bảng 2. Mức độ tham gia hoạt động ngoại khoá chạy cự ly trung bình của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc (n = 226)

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không tham gia n % n % n % 5 2,2 70 31 151 66,8

Qua Bảng 2 cho thấy: Mức độ tham gia hoạt động ngoại khoá của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc chỉ đạt 33,2% trong đó tham gia ngoại khóa ở mức độ thường xuyên có 2% và sinh viên không tham gia hoạt động ngoại khóa chạy CLTB chiếm 61%. Như vậy, khó có thể mang lại sự phát triển sức bền chuyên môn khi thời gian học tập bắt buộc là không đủ và giờ lên lớp chỉ mang tính chất tổ chức hướng dẫn người học nắm bắt kiến thức, phương pháp và khả năng tự tổ chức tập luyện chuyên môn.

Quá trình nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu về thời gian của một buổi ngoại khóa chạy CLTB của sinh viên khối không chuyên kết quả được trình bày tại Bảng 3.

Bảng 3. Thời gian vận động một buổi tập ngoại khóa chạy cự ly trung bình của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc (n=226)

< 30 phút 30 – 60 phút 60 – 90 phút > 90 phút N % n % n % n %

196 86,7 25 11,1 5 2,2 0 0 Qua Bảng 3 cho thấy: Đa phần sinh viên tập luyện với thời gian < 30 phút chiếm 86,7%.

Với thời gian tập luyện của một buổi tập ngoại khóa như vậy chưa đủ để đảm bảo hiệu quả phát triển sức bền chuyên môn.

2.5. Kết quả học tập Quá trình nghiên cứu tiến hành đánh giá kết quả học tập nội dung chạy CLTB của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc. Kết quả được trình bày tại Bảng 4.

Bảng 4. Kết quả học tập nội dung chạy CLTB của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc (n = 226)

TT Điểm Xếp loại Kết quả n %

1 < 4 Không đạt 151 68,8 2 > 4 Đạt 75 33,2

Qua Bảng 4 cho thấy: Kết quả học tập nội dung chạy CLTB của sinh viên khối không chuyên không đạt chiếm tỷ lệ cao 68,8%.

2.6. Nguyên nhân Từ thực trạng trên cho thấy có các nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau ảnh hưởng đến hiệu quả học tập chạy CLTB của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc, gồm các nguyên nhân chủ yếu sau:

Page 76: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

76

- Do nhận thức của người học về vị trí, vai trò môn học chưa đúng đắn, coi đây là môn phụ không quan trọng.

- Do tính chất hoạt động của nội dung học là sự lặp đi lặp lại dễ gây nhàm chán ảnh hưởng đến tinh thần, ý trí tập luyện của người tập.

- Do điều kiện sân bãi tập luyện chưa đảm bảo, chưa đáp ứng yêu cầu học tập. - Do thời lượng chương trình học tập GDTC nói chung và thời lượng nội dung CLTB nói riêng

còn quá ít chưa đảm bảo thời gian cho sự phát triển sức bền chuyên môn. - Do sinh viên chưa tích cực tham gia hoạt động ngoại khóa chuyên môn. - Giáo viên còn những hạn chế nhất định trong hoạt động lên lớp nội dung môn học. 2.7. Giải pháp nâng cao hiệu quả học tập nội dung chạy cự ly trung bình cho sinh viên

khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc Căn cứ vào cơ sở khoa học lý luận chuyên ngành, trên cơ sở thực tiễn hoạt động dạy và học tập nội dung chuyên môn, căn cứ vào các điều kiện liên quan, quá trình nghiên cứu đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả học tập chạy CLTB cho sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc. Quá trình nghiên cứu đồng thời tiến hành khảo nghiệm hiệu quả các giải pháp đưa ra từ những đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên giảng dạy chuyên môn. Kết quả được trình bày tại Bảng 5.

Bảng 5. Các giải pháp và đánh giá hiệu quả các giải pháp (n = 33) TT Giải pháp Tính

khoa học Tính

khả thi n % n %

1

Nâng cao nhận thức của người học về vị trí, vai trò của GDTC nói chung và chạy CLTB nói riêng

33 100 32 97

2 Trang bị và nâng cấp sân bãi tập luyện đảm bảo đáp ứng yêu cầu dạy và học

32 97 27 81

3 Tăng thời lượng chương trình học tập GDTC nói chung và thời lượng nội dung chạy CLTB nói riêng

33 100 27 81

4 Nâng cao tính thường xuyên trong hoạt động ngoại khóa chạy CLTB cho sinh viên

33 100 29 87

5 Tổ chức thực hiện kế hoạch giảng dạy theo hướng tăng cường thời lượng cho các bài tập phát triển thể lực chuyên môn

32

97

32

97

6

Thực hiện đổi mới phương pháp tổ chức giờ học theo hướng tăng cường chủ động, sáng tạo của sinh viên

32

97

32

97

7 Tổ chức dự giờ đánh giá chuyên môn giáo viên giảng dạy

33 100 33 100 Qua Bảng 5 cho thấy: Các giải pháp quá trình nghiên cứu đưa ra được đánh giá cao về tính

khoa học (đạt tỷ lệ 97% trở lên) và tính khả thi (đạt tỷ lệ 81% trở lên). Qua đó cho thấy các giải pháp đưa ra đảm bảo khắc phục những hạn chế và nâng cao hiệu quả học tập nội dung chạy CLTB cho sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc.

3. Kết luận Thực trạng hoạt động dạy và học còn những hạn chế do điều kiện chủ quan, khách quan khác nhau làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả học tập nội dung chạy CLTB của sinh viên khối không chuyên Trường Đại học Tây Bắc. Quá trình nghiên cứu đã tìm ra được 7 giải pháp được đánh giá cao trong việc khắc phục những hạn chế từ thực trạng và đảm bảo mang lại chất lượng, hiệu quả học tập nội dung chạy CLTB:

Page 77: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

77

Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức của người học về vị trí, vai trò của GDTC nói chung và chạy CLTB nói riêng.

Giải pháp 2: Trang bị và nâng cấp sân bãi tập luyện đảm bảo đáp ứng yêu cầu dạy và học. Giải pháp 3: Tăng thời lượng chương trình học tập GDTC nói chung và thời lượng nội dung

chạy CLTB nói riêng. Giải pháp 4: Nâng cao tính thường xuyên trong hoạt động ngoại khóa chạy CLTB cho sinh viên. Giải pháp 5: Tổ chức thực hiện kế hoạch giảng dạy theo hướng tăng cường thời lượng cho các

bài tập phát triển thể lực chuyên môn. Giải pháp 6: Thực hiện đổi mới phương pháp tổ chức giờ học theo hướng tăng cường chủ động,

sáng tạo của sinh viên. Giải pháp 7: Tổ chức dự giờ đánh giá chuyên môn giáo viên giảng dạy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ GDĐT, 2012. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về giáo dục thể chất ở trường phổ thông Việt Nam. Nxb Giáo dục Việt Nam.

[2] Bộ GDĐT, Ngày 18/8/2008. Quy định về kiểm tra đánh giá thể lực HS, SV ban hành theo Quyết định số 53/2008/Bộ GD&ĐT .

[3] Bộ GDĐT, 2006. Tuyển tập nghiên cứu khoa học Giáo dục thể chất, Y tế trường học. Nxb Thể dục Thể thao Hà Nội.

[4] Nguyễn Đại Dương, 2006. Sách giáo khoa Điền kinh dùng cho sinh viên đại học Thể dục Thể thao. Nxb Thể dục Thể thao.

[5] Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn, 2007. Lý luận và phương pháp Thể dục Thể thao. Nxb Thể dục Thể thao.

THE CURRENT SITUATION AND MEASURES TO IMPROVE THE PERFORMANCE OF

AVERAGE DISTANCE RUNNING FOR STUDENTS OF NON-MAJOR AT TAY BAC UNIVERSITY

Nguyen Minh Khoa M.A Faculty of Sport Abstract: The limitations of learning and practising average distance running have been the main causes for the

low quality of teaching and learning the subject physical education. The study aims at evaluationg the real situation, find out the causes, and on that basis suggest some solutions to overcome these limitations and improve learning quality of average distance running for non-major students at Tay Bac University.

Page 78: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

78

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG TỈNH SƠN LA GIAI ĐOẠN 2005 -2010

ThS. Đặng Thị Nhuần Khoa Sử Địa

Tóm tắt: Sơn La là một tỉnh miền núi thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Vì vậy, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng có ý nghĩa to lớn nhằm góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế cao đã và đang là vấn đề rất được quan tâm. Bài báo tập trung phân tích sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng của tỉnh Sơn La trong giai đoạn 2005 - 2010. Để từ đó thấy được sự chuyển dịch trong nội bộ cây lương thực, với việc chuyển một phần từ trồng lúa sang trồng ngô và việc chuyển một phần diện tích từ trồng cây công nghiệp hàng năm sang trồng cây công nghiệp lâu năm, cây đặc sản có giá trị kinh tế cao.

Từ khóa: Sơn La, cây trồng, chuyển dịch cơ cấu. 1. Đặt vấn đề Nông nghiệp (theo nghĩa hẹp) ngày càng chiếm vị trí quan trọng về giá trị sản xuất của khu vực I

(nông - lâm - thủy sản) của tỉnh Sơn La. Nếu như năm 2005, nông nghiệp chiếm 81,6 % giá trị nông, lâm, thủy sản thì đến năm 2010 đã tăng lên với 86,0 % [1]. Có sự chuyển dịch này là do Sơn La đã khai thác tốt lợi thế của tỉnh, chú trọng tới việc đảm bảo an ninh lương thực, phát triển sản phẩm có tính hàng hóa, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Trong nông nghiệp cũng đang có sự chuyển dịch từng bước giữa trồng trọt và chăn nuôi theo hướng giảm tỉ trọng ngành trồng trọt (từ 73,5 % năm 2005 xuống còn 70,8 % năm 2010) và tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi (tương ứng là 25,8% và 28,6%), phần còn lại thuộc về dịch vụ hầu như không thay đổi. Trong nội bộ ngành trồng trọt cũng đang diễn ra sự chuyển dịch rõ nét và tích cực, góp phần sử dụng hợp lý tài nguyên, tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao hiệu quả sản xuất.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái quát chung - Trồng trọt là ngành sản xuất chính luôn chiếm > 70 % giá trị sản xuất nông nghiệp tỉnh Sơn La,

giá trị sản xuất của ngành trồng trồng trọt luôn tăng từ 1957,8 tỉ đồng (năm 2005) lên 5095,5 (năm 2010) tăng 2,6 lần so với năm 2005.

- Tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt đạt 9,8 % (năm 2005) và 9,1 % năm 2010 (giá so sánh năm 1994), có sự tăng trưởng như trên là do điều kiện khí hậu đất đai thích hợp đã tạo điều kiện phát triển nhiều loại cây trồng, trong đó có các loại đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao.

- Cơ cấu cây trồng cây trồng của tỉnh gồm có có cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu, thực phẩm...Trong đó cây hàng năm đóng góp phần lớn giá trị sản xuất của ngành trồng trọt.

Hình 1. Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt theo giá thực tế phân theo nhóm cây trồng tỉnh Sơn La năm 2005 và 2010 (đơn vị: %)

56.6

9.14.95.5

9.2

14.758.2

5.96.7

5.8

14.3

9.1Cây lương thựcRau đậuCây công nghiệp hàng nămCây công nghiệp lâu nămCây ăn quảCây khác

Page 79: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

79

Nhóm cây lương thực vẫn giữ vai trò chủ đạo, mặc dù có xu hướng giảm nhẹ trong cơ cấu, do nhóm cây khác có xu hướng tăng lên. Các nhóm cây trồng khác như cây công nghiệp, cây ăn quả tuy có sự giảm nhẹ về tỉ trọng song giá trị tuyệt đối tăng khá nhanh.

Bảng 1. Diện tích các loại cây trồng tỉnh Sơn La giai đoạn 2005 - 2010

Năm

Tổng số (nghìn ha)

Chia ra Cây

lương thực

Cây rau đậu

Cây công nghiệp hàng

năm Cây công

nghiệp lâu năm

Cây ăn quả

Cây khác

2005 275,6 194,8 5,9 19,2 6,5 25,2 24,0 2010 265,7 177,3 6,0 13,5 14,2 22,5 32,2

Nguồn [1] - Về tổng diện tích có xu hướng giảm nhẹ, nhưng trong đó các nhóm cây ăn quả, cây lương thực, cây

công nghiệp hàng năm có xu hướng giảm, một phần do chuyển mục đích sử dụng đất sang đất chuyên dùng và đất thổ cư, mặt khác là do chuyển sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn. Còn cây công nghiệp lâu năm, cây đặc sản có xu hướng tăng lên (đặc biệt là sự gia tăng diện tích cây cao su).

2.2. Sự chuyển dịch trong nhóm cây lương thực có hạt - Cây lương thực là nhóm cây chủ lực trong cơ cấu cây trồng tỉnh Sơn La chiếm 70,7% (2005),

66,7% (2010) trong tổng diện tích các loại cây trồng. Bảng 2. Một số chỉ tiêu sản xuất lương thực Sơn La 2005 - 2010

Chỉ tiêu 2005 2010 Diện tích cây lương thực có hạt (nghìn ha) - Tỉ lệ % so với vùng Trung du miền núi Bắc Bộ - Tỉ lệ % so với vùng Tây Bắc

194,8

50,9

177,3

Năng suất lúa (tạ/ha) Năng suất ngô (tạ/ha)

25,5 27,9

32,97 31,5

Sản lượng lương thực có hạt (nghìn tấn) - Tỉ lệ % so với vùng Trung du miền núi BắcBộ - Tỉ lệ % so với vùng Tây Bắc

529,9

56

564,41

Lương thực có hạt bình quân đầu người(kg/người) 522,2 516,5 Nguồn [3]

Trong những năm qua nhờ đẩy mạnh việc thâm canh, đầu tư cho thủy lợi và tiến bộ khoa học kỹ thuật, nên sản lượng lương thực của tỉnh đã tăng lên đáng kể. Bước đầu đảm bảo an ninh lương thực của tỉnh theo quan điểm sản xuất hàng hóa và chủ động được trong việc đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, đồng thời tạo đà cho sự chuyển dịch trong nội bộ cây lương thực.

- Trong giai đoạn 2005 - 2010 nội bộ cây lương thực cũng có sự chuyển dịch đáng kể.

Page 80: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

80

Bảng 3. Diện tích và sản lượng cây ngô và cây lúa 2005 và 2010

Năm Cây lúa Cây ngô

Diện tích (nghìn ha)

Sản lượng (nghìn tấn)

Diện tích (nghìn ha)

Sản lượng (nghìn tấn)

2005 60,50 154,24 134,31 375,66 2010 44,59 147,00 132,70 417,41

Nguồn [1] + Lúa là cây lương thực chủ đạo, chiếm 25,15% diện tích và 26,04% sản lượng cây lương thực có

hạt của tỉnh năm 2010. Trong giai đoạn 2005 - 2010 diện tích và sản lượng lượng lúa có giảm. Điều này chúng tỏ sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng đang diễn ra, và sự chuyển đổi diện tích sang việc trồng các cây đặc sản có giá trị kinh tế cao (một phần chuyển sang trồng ngô và cây cao su đặc biệt là ở những diện tích trồng lúa nương kém hiệu quả). Lúa nước được trồng tập trung ở các cánh đồng lớn như Mường Tấc (huyện Phù Yên) và được trồng ở các khu ruộng nhỏ, phân tán ở các thung lũng hẹp, ruộng bậc thang ven sông suối ở Thuận Châu, Yên Châu, Sông Mã. Trong những năm qua nhờ việc đưa các giống lúa mới cho năng suất cao và đảm tốt các hệ thống dịch vụ cho phát triển ngành trồng trọt nên năng suất lúa không ngừng tăng từ 25,4 tạ/ha (năm 2005) lên 32,9 tạ/ha (2010).

+ Ngô là cây trồng quan trọng trong sản xuất lương thực ở Sơn La, đang trở thành nông sản hàng hóa mang lại hiệu quả kinh tế cao cho tỉnh. Trong những năm gần đây với việc đưa những giống ngô Lai cho năng suất cao, khả năng chịu hạn tốt đã được đưa vào trồng ở nhiều huyện trong tỉnh. Vì vậy, diện tích trồng ngô tương đối ổn định, nhưng sản lượng ngô thì tăng lên rõ rệt. Diện tích ngô năm 2005 là 143,31 nghìn ha (chiếm 68,94%) và năm 2010 là 132,70 nghìn ha (chiếm 74,85% diện tích trồng cây lương thực có hạt), đứng đầu về diện tích trồng ngô của cả nước và đứng thứ 2 cả nước về sản lượng ngô thu hoạch (sau Đăk Lăc).

Ngô được phân bố hầu khắp ở các huyện trong tỉnh, nhưng tập trung nhiều nhất Mộc Châu (27,69 nghìn ha, chiếm 20,9% diện tích trồng ngô), Mai Sơn (19,9 nghìn ha, chiếm 15,1%), Sông Mã (18,92 nghìn ha, chiếm 14,25%), Phù Yên (14,45 nghìn ha chiếm 10,9%). Riêng bốn huyện trên chiếm năm 2010 đã chiếm tới 61,1 % diện tích trồng ngô của cả tỉnh.

Về sản lượng bốn huyện trên cũng đạt giá trị lớn, với 260,72 nghìn tấn chiếm 62,4% trong tổng sản lượng ngô của toàn tỉnh. Năng suất ngô cũng tăng lên khá nhanh từ 27,9 tạ (năm 2005) lên 31,45 tạ /ha (năm 2010). Trong tổng sản lượng lương thực có hạt của tỉnh Sơn La thì sản lượng lương thực hàng hóa chiếm trên 45%, mà trong đó chủ yếu là ngô. Trong nhóm cây lương thực có hạt, chuyển dịch rõ nét nhất là diện tích từ lúa sang ngô và sự chuyển dịch này đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế cao, với việc đưa các giống ngô lai đã làm cho năng suất và sản lượng ngô không ngừng tăng lên. Có thể nói cây ngô đã góp phần xóa đói giảm nghèo và cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thức ăn gia súc cũng như tạo đà cho sự phát triển ngành chăn nuôi của tỉnh trong những năm qua.

2.3. Suy giảm diện tích cây công nghiệp hàng năm - Cây công nghiệp hàng năm với tổng diện tích gieo trồng khoảng 13,1 nghìn ha, chiếm 7,4% diện

tích cây hàng năm của tỉnh năm 2009. Những năm gần đây, diện tích trồng cây công nghiệp hàng năm có sự suy giảm, từ gần 10% năm 2005 xuống còn 7,4% trong tổng diện tích trồng cây hàng năm năm 2009. Nguyên nhân chính là do thị trường bị thu hẹp, hiệu quả sản xuất thấp và việc mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm. Các loại cây công nghiệp chủ yếu của tỉnh như đậu tương, mía, bông, lạc…

Page 81: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

81

* Đậu tương: là một trong những nông sản hàng hóa có giá trị của tỉnh, do khá thích hợp với điều kiện sinh thái tại địa phương. Tuy vậy, diện tích và sản lượng đậu tương giảm khá nhanh, diện tích giảm gần một nửa, từ trên 12 nghìn ha (2005) xuống còn 7 nghìn ha (2009), sản lượng giảm từ trên 13 nghìn tấn (2005) xuống 10 nghìn tấn (2009). Đậu tương được trồng nhiều nhất ở Phù Yên, trên 3,3 nghìn ha (chiếm 44,4%), Mai Sơn, 2,3 nghìn ha (chiếm 29,6% diện tích đậu tương của tỉnh).

* Mía là cây trồng có diện tích phát triển không ổn định trong thời gian gần đây. Giai đoạn 1995 – 1999, diện tích mía tăng nhanh do nhân dân vùng trồng mía đã tập trung đầu tư thâm canh, đồng thời đưa vào sản xuất những giống mía mới có trữ đường cao, trên thị trường giá đường tăng và ổn định dẫn đến nhà máy thu mua mía cây giá cao có lợi cho người nông dân trồng mía; nhưng từ năm 2000 trở đi thì diện tích trồng mía không ổn định, dao động trong khoảng 3 - 4 nghìn ha. Nguyên nhân là do thị trường bị thu hẹp, sản phẩm bị ứ đọng nhiều do công nghiệp chế biến chưa phát triển; bên cạnh đó, mía được trồng chủ yếu trên đất đồi không được tưới tiêu nên năng suất không cao, hiệu quả thấp hơn các cây trồng khác nên người dân bỏ dần trồng mía.

* Các cây công nghiệp ngắn ngày khác có bông, lạc (được trồng nhiều nhất ở huyện Quỳnh Nhai), cải lấy hạt (được trồng tập trung ở Yên Châu) song diện tích cũng giảm nhẹ.

2.4. Mở rộng diện tích cây công nghiệp lâu năm, một số cây đặc sản có giá trị kinh tế cao - Diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm của tỉnh tăng gần 2 lần trong giai đoạn 2005-2009, năm

2009 đạt trên 11,7 nghìn ha với diện tích cho thu hoạch trên 6,7 nghìn ha, gồm các cây chủ yếu là chè, cà phê, cao su…

Chè: là cây công nghiệp lâu năm chính với diện tích 4,2 nghìn ha và sản lượng chè búp tươi 23,2 nghìn tấn (2009). Chè được trồng tập trung đặc biệt tại cao nguyên Mộc Châu (gần 3 nghìn ha, chiếm 71% diện tích trồng chè của tỉnh), được dùng làm nguyên liệu cho nhà máy chế biến chè hiện có tại tỉnh. Nhiều giống chè mới cho năng suất cao và chất lượng tốt đã được trồng như Ô long, Kim tuyên, San tuyết… việc mở rộng diện tích trồng chè ở những vùng có quy hoạch đã trở thành phong trào tự giác của nhiều hộ gia đình. Trong những năm qua cây chè Kim tuyên đã thể hiện được ưu thế phát triển nhanh, chất lượng tốt, hiệu quả kinh tế cao hơn so với một số cây trồng khác trong tỉnh.

Cà phê: do Sơn La nằm ở vĩ độ cao, có mùa đông lạnh nên có điều kiện để phát triển cà phê chè. Tổng diện tích cà phê của tỉnh năm 2009 trên 3,6 nghìn ha với sản lượng cà phê nhân gần 4,5 nghìn tấn. Cà phê được trồng nhiều nhất tại thành phố Sơn La (1,6 nghìn ha), Mai Sơn (1,5 nghìn ha). Cũng như các tỉnh khác trong vùng, trước đây cà phê chè được trồng với diện tích khá lớn, nhưng trong những năm gần đây, diện tích cà phê ít được mở rộng do bị ảnh hưởng bởi sương muối. Tuy diện tích giảm nhưng nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thâm canh và cải tạo các giống cà phê mới thay dần các giống cà phê cũ, nên năng suất quả tươi năm 2009 tăng 87,84%, sản lượng cà phê nhân tăng gấp 4 lần so với năm 2000. Sản phẩm cà phê chủ yếu là phục vụ cho xuất khẩu, trong 6 năm (2000-2006) Công ty cà phê và cây ăn quả đã xuất khẩu trực tiếp 1.565 tấn, tổng doanh thu xuất khẩu 2,1 triệu USD. Ngoài ra, cây công nghiệp lâu năm của tỉnh còn có dâu tằm nhưng diện tích đang bị thu hẹp mạnh. Đặc biệt, dự án trồng cây cao su đã được triển khai, đến nay, diện tích trồng cao su của tỉnh đạt gần 4 nghìn ha, được trồng tập trung tại Thuận Châu, Mường La, Quỳnh Nhai, mở ra một hướng đi mới cho nông nghiệp của tỉnh trong việc kết hợp hiệu quả kinh tế với bảo vệ môi trường.

Page 82: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

82

- Trong cơ cấu về diện tích các loại cây trồng của tỉnh, nhóm cây ăn quả đứng thứ 2 sau cây lương thực, năm 2009 đạt trên 22 nghìn ha (chiếm 8.6% tổng diện tích các loại cây trồng và 64,8% trong diện tích các cây lâu năm). Tuy diện tích trồng cây ăn quả có sự giảm nhẹ (từ 25 nghìn ha năm 2005 xuống 22 nghìn ha năm 2009) song việc ưu tiên diện tích cho trồng các loại cây đặc sản đã được chú trọng. Nhiều giống cây ăn quả có chất lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế cao đã được khảo nghiệm tại Sơn La, từng bước triển khai, tổng kết nhân rộng các mô hình phục vụ cho cải tạo các vườn tạp của nhân dân. Nhóm cây ăn quả của tỉnh vô cùng phong phú về chủng loại, có nhiều loại cây đặc sản, nhiều nhất là:

Nhóm cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới: Mơ, mận, lê, đào… phân bố ở các vùng núi cao và núi trung bình. Mơ được trồng phổ biến là giống mơ vàng với diện tích 459 ha, đặc biệt là trên cao nguyên Nà Sản (Mai Sơn), cho sản lượng trên 2,2 nghìn tấn (năm 2009). Mận có diện tích trên 2,6 nghìn ha, chủ yếu là mận hậu, đạt sản lượng trên 21,5 nghìn tấn, trong đó nổi tiếng nhất là mận tam hoa ở Mộc Châu.

Nhóm cây ăn quả có nguồn gốc cận nhiệt: Cam, quýt, bưởi, nhãn, hồng… Diện tích cam, quýt của tỉnh năm 2009 là 195 ha, nổi tiếng nhất là giống quýt Bản Hìn. Nhãn được trồng khá phổ biến với diện tích gần 12 nghìn ha, cho sản lượng 32,5 nghìn tấn, tập trung nhiều ở huyện Sông Mã, Mai Sơn, thành phố Sơn La.

Nhóm cây ăn quả có nguồn gốc nhiệt đới: Là nhóm phong phú nhất về chủng loại và phân bố rộng rãi. Trong đó có những loại đặc sản như: chuối tây (Yên Châu), xoài (Yên Châu và cao nguyên Nà Sản). Năm 2009, diện tích trồng xoài toàn tỉnh trên 3,6 nghìn ha, cho sản lượng 8,6 nghìn tấn.

Qua việc phân tích thực tế về việc chuyển dịch trong nhóm cây công nghiệp và sự gia tăng diện tích các cây đặc sản , đó là sự chuyển dịch theo hướng tích cực vì nó đã góp phần đa dạng hóa các loại nông sản hàng hóa, giảm thiểu sự rủi ro cho người nông dân khi chỉ canh tác độc canh cây lương thực hoặc cây công nghiệp lâu năm trên những vùng đất dốc như Sơn La.

3. Kết luận Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng là hướng đi

thích hợp của tỉnh trong thời kì công nghiệp hóa. Hiện tại, trong cơ cấu cây trồng đang diễn ra đồng thời hai xu hướng chuyển dịch: thứ nhất là chuyển dịch trong nội bộ cây lương thực với việc chuyển từ lúa sang ngô, thứ hai là việc chuyển một phần diện tích từ trồng cây công nghiệp hàng năm sang cây rau đậu, thực phẩm, cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, nhất là các loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Với việc chuyển dịch một phần diện tích trồng lúa sang trồng ngô cho năng suất cao và hình thành nên các vùng trồng ngô hàng hóa, bởi vậy diện tích và sản lượng ngô gia tăng nhanh. Bên cạnh đó sự chuyển dịch trong nhóm cây công nghiệp, đó là việc chuyển một phần diện tích từ trồng cây công nghiệp hàng năm sang trồng cây công nghiệp lâu năm và cây đặc sản có giá trị kinh tế cao, điều này không những có ý nghĩa về kinh tế mà còn mang ý nghĩa về môi trường, vì nó cũng phần nào hạn chế được việc xói mòn đất ở những vùng có độ dốc lớn như Sơn La.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Cục thống kê Sơn La, Niên giám thống kê Sơn La năm 2005 và 2010. [2] Báo cáo Kế hoạch Phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Sơn La 5 năm giai đoạn

2010 -2015, Sơn La. [3] Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê Việt Nam năm 2011. Nxb Thống kê 2012. [4] Sở NN&PTNT Sơn La, 2009. Rà soát bổ sung qui hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn

tỉnh Sơn La giai đoạn 2005 - 2020, Sơn La.

Page 83: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

83

A SHIFTING THE CROPS STRUCTURE IN SON LA PROVINCE BETWEEN 2005 AND 2010

Dang Thi Nhuan M.A Faculty of History and Geography

Abstract: Son La is a moutainous province in the Midland and the North region of Vietnam. Its economy mainly depends on agriculture in which farming plays an important role. Therefore, shiftingthe crops structure which is considered to bring alot of benefits and contribute to the agricultural sustainable development is getting more and more concern. This article focuses on analysing crop structural shifting progress in Son la between 2005 - 2010. From that, we can see the transition in the internal food crops such as switching from rice to maize and transfering a part of the industrial annual crops to perennial industrial crops and high economic value specialty crops.

Keywords: Son La, crops, shifting structure.

Page 84: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

84

TIỀM NĂNG TỰ NHIÊN VÀ ĐỀ XUẤT ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH NINH BÌNH

TS. Đỗ Thuý Mùi, Đinh Huy Dũng Khoa Sử Địa

Tóm tắt: Ninh Bình là tỉnh giàu tiềm năng tự nhiên để phát triển du lịch. Nhiều dạng địa hình cácxtơ độc đáo, nhiều phong cảnh thiên nhiên kì thú. Khí hậu, nguồn nước, sinh vật đều mang những nét đặc trưng riêng, đó là điều kiện thuận lợi để thu hút khách du lịch. Bài viết này sẽ đánh giá các điều kiện tự nhiên để phát triển du lịch ở Ninh Bình, trên cơ sở đó, đề xuất một số định hướng góp phần khai thác hợp lý hơn tài nguyên du lịch tự nhiên của tỉnh này.

Từ khóa: Ninh Bình, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, hang động, tiềm năng du lịch tự nhiên.

1. Đặt vấn đề Trong những năm qua, nhất là từ năm 2001 đến nay, du lịch Ninh Bình đã có bước phát triển khá

nhanh, đang dần trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng các mối quan hệ, hợp tác của tỉnh, làm thay đổi hình ảnh Ninh Bình trong nhận thức của bạn bè trong nước và quốc tế. Hạ tầng du lịch của tỉnh được đầu tư lớn, các khu du lịch được hình thành và phát triển. Lượng khách du lịch đến Ninh Bình giai đoạn 2001 - 2008 tăng bình quân 21,4%/năm. Riêng năm 2008, ngành du lịch đón hơn 1,9 triệu lượt khách, trong đó có 584.000 lượt khách quốc tế.

Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao; khách lưu trú, đặc biệt là khách quốc tế còn rất ít. Bài viết đánh giá tiềm năng tự nhiên để phát triển du lịch của tỉnh Ninh Bình, đồng thời đề xuất các định hướng để phát triển du lịch theo hướng bền vững.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Những tiềm năng để phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình Vị trí địa lí: Ninh Bình nằm ở rìa phía nam và tây nam của Đồng bằng sông Hồng. Diện tích tự

nhiên 1.420km2, chiếm 0,04% diện tích của cả nước. Ninh Bình có hệ tọa độ địa lí từ 19055’B đến 20026’B (xóm Lạc Hồng, xã Xích Thổ, huyện Nho Quan) và 105032’Đ (núi Điện thuộc rừng Cúc Phương) đến 10601’Đ (bến đò Mười thuộc xã Xuân Thiện, huyện Yên Khánh). Phía tây bắc giáp Hòa Bình (ranh giới chung dài 66km), phía tây nam giáp Thanh Hóa (ranh giới chung dài 79,5 km), phía đông và đông bắc giáp Nam Định và Hà Nam (ranh giới chung dài 84km), phía nam là vịnh Bắc Bộ với chiều dài dường bờ biển là 16,5km. Ninh Bình có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã, giữa vùng Đồng bằng Bắc Bộ với vùng núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc. Vị trí như vậy rất thuận lợi để hình thành các tuyến du lịch với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, Trung du miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ.

Tài nguyên du lịch tự nhiên: Lãnh thổ Ninh Bình vừa nằm ở rìa Đồng bằng Bắc Bộ, lại vừa nằm trong vùng chuyển tiếp Hòa Bình - Thanh Hóa nên nền địa hình và địa chất có cấu tạo không đồng nhất. Do đặc điểm địa chất, kiến tạo, Ninh Bình có nhiều dạng địa hình, nhất là các hang động rất thuận lợi để phát triển du lịch.

Địa hình: Ninh Bình có hướng từ tây bắc xuống đông nam từ vùng núi Nho Quan, Tam Điệp đến miền đồng bằng Hoa Lư, Yên Khánh rồi thấp dần ra vùng biển Kim Sơn. Phía tây và tây bắc của tỉnh là khu vực đồi cácxtơ xâm thực Cúc Phương. Tiếp đó là dải đồng bằng tích tụ - xâm thực Nho Quan kéo tới Đồng Giao - Tam Điệp... Xét về mặt địa mạo thì địa hình cácxtơ là dạng địa hình đặc

Page 85: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

85

trưng, độc đáo nhất ở Ninh Bình, đồng thời lại có ý nghĩa to lớn đối với du lịch. Kiểu địa hình cácxtơ độc đáo nhất là khu vực Cố Đô Hoa Lư và Tam Cốc - Bích Động. Đây là biển cácxtơ Vịnh Hạ Long hay “Hạ long trên cạn”, Ninh Bình có hàng trăm “hòn đảo” xinh xắn nằm rải rác trong một vùng đồng chiêm trũng. Chân các núi đá vôi có nhiều hang động ngập nước. Đặc biệt, hang cácxtơ rất phổ biến tạo nên nhiều cảnh đẹp ngoạn mục. Những hang động nổi tiếng như Bích Động, Thiên Tôn, động Hoa Lư, hang Dơi (Hoa Lư), Địch Lộng (Gia Viễn). Rừng Cúc Phương có động Người xưa, động Trăng Khuyết... Hang động rất phong phú về hình thái và chủng loại, trong hang có nhiều dạng bồi tụ (thạch nhũ) tạo nên những cảnh đẹp huyền ảo có sức lôi cuốn đặc biệt đối với du khách.

Khí hậu: Là thành phần quan trọng của tự nhiên có ảnh hưởng đến hoạt động du lịch. Trong các chỉ tiêu khí hậu, có 2 chỉ tiêu cần chú ý là: Nhiệt độ và độ ẩm không khí. Ngoài ra còn có một số yếu tố khác như gió, áp suất khí quyển, ánh nắng và các hiện tượng thời tiết đặc biệt. Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch hoặc hoạt động trong du lịch.

Là một bộ phận của Đồng bằng sông Hồng, nên Ninh Bình nẳm trong đới khí hậu gió mùa chí tuyến Á đới có mùa đông lạnh khô. Nhiệt độ trung bình năm là 23,20C - 23,40C. Tổng nhiệt hoạt động trong năm vào khoảng 85000C. Ninh Bình có chế độ nhiệt phân thành hai mùa: Mùa đông kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mùa hạ từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa đông thường có gió mùa đông lạnh làm cho số tháng có nhiệt độ trung bình xuống tới 180C tới 2 - 3 tháng làm cho du lịch mùa này giảm đi rõ rệt.

Do ảnh hưởng của các hệ thống gió mùa nên lượng mưa phân bố không đều trong năm. Lượng mưa trong mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 chiếm tới 86 - 91% lượng mưa cả năm. Lượng mưa trung bình năm là 1870mm, trong đó ở Nho Quan là 1910mm, thị xã Ninh Bình là 1830mm và Kim Sơn là 1870mm. Độ ẩm trung bình là 85%.

Trở ngại lớn nhất của khí hậu Ninh Bình đối với sản xuất là mùa mưa bão. Vào mùa hạ hầu như năm nào cũng xảy ra úng lụt, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải và hoạt động du lịch, đặc biệt đối với vùng trũng Nho Quan, Gia Viễn và Hoa Lư.

Nguồn nước: Với lượng mưa phong phú, hệ thống sông ngòi của Ninh Bình có mật độ khoảng 0,6 – 0,9 km/km2. Mạng lưới sông suối của tỉnh phân bố tương đối đều, gồm hàng chục con sông lớn nhỏ. Một số con sông chính là sông Đáy, sông Nho Quan, sông Hoàng Long, sông Vạc, sông Vân. Ngoài hệ thống sông, Ninh Bình còn có nhiều hồ đầm như: Đầm Cút (Gia Viễn), hồ Thường Sung, hồ Đồng Liên (Nho Quan), hồ Đông Thái và Yên Thắng (Yên Mô). Các hồ này điều có cảnh quan đẹp, nằm ngay chân các núi đa vôi, có thể phát triển du lịch.

Một đặc điểm khá độc đáo của thủy văn Ninh Bình, đồng thời có ý nghĩa quan trọng trong sinh hoạt và du lịch là các suối nước khoáng. Nước suối Kênh Gà nổi tiếng có tác dụng chữa bệnh và dùng làm nước giải khát. Ngoài ra, các suối nước nóng Thường Sung (Cúc Phương), Kỳ Phú (Nho Quan) đều có ý nghĩa chữa bệnh và du lịch. Các nguồn nước cácxto chảy từ trong hang ra cung cấp nước cho các con mương, ngòi rạch có ở hầu hết các chân núi đặc biệt là khu vực núi đá vôi Hoa Lư (Trường Yên, Tam Cốc,...) chúng vừa là nguồn nước sạch, vừa tạo ra các cảnh quan kỳ thú cho du khách chiêm ngưỡng.

Tài nguyên sinh vật: Ninh Bình có thảm thực vật tự nhiên nói chung còn lại rất ít, chủ yếu là các lùm cây bụi. Chỉ có rừng Cúc Phương là nơi có địa hình đá vôi hiểm trở và lại được Nhà nước quy hoạch bảo vệ từ lâu nên rừng còn phong phú. Ngoài ra, ở một số nơi trên các sườn núi đá vôi có thảm thực vật thứ sinh nghèo. Ở ven biển thuộc huyện Kim Sơn có một ít rừng ngập mặn với cây sú vẹt thưa thớt.

Page 86: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

86

Vườn quốc gia Cúc Phương được bao bọc bởi các núi đá vôi có độ cao trung bình 300 - 400m. Đỉnh núi cao nhất là đỉnh núi Mây Bạc, cao 656m. Theo số liệu điều tra, Cúc Phương có: 89 loài thú, 307 loài chim, 110 loài bò sát, 65 loài cá, 2000 loài côn trùng. Đặc biệt, trong rừng có trung tâm bảo tồn các loài linh trưởng và các loài rùa, có sức hấp dẫn nhất định đối với du khách.

Trong các loài thú Cúc Phương, nhiều loài đã được xếp vào loại quý hiếm, như báo gấm, báo lửa, gấu ngựa... Và nhiều loài là đặc hữu của Cúc Phương như sóc bụng đỏ. Ở Cúc Phương, có một loài thú linh trưởng rất đẹp, ngoài Việt Nam ra chúng không còn tồn tại nơi nào khác trên thế giới, đó là loài Vọoc mông trắng - một báu vật của tạo hóa, loài vật này đã được chọn làm biểu tượng của vườn quốc gia Cúc Phương. Cúc Phương là nơi cư trú của nhiều loài chim nhiệt đới với nhiều sắc lông, kích cỡ, âm thanh giọng hót. Trong tổng số 307 loài, Cúc Phương có nhiều loài chim quý hiếm chẳng hạn như gà lôi trắng, chim gõ kiến đầu đỏ, chim phượng hoàng đất, đuôi cụt bụng vằn.... Chính vì vậy, Cúc Phương được chọn là một trong nhưng điểm xem chim lý tưởng của các nhà khoa học và những người có sở thích xem chim trong và ngoài nước. Thế giới của côn trùng Cúc Phương cũng đa dạng. Mùa bướm nở, rừng già như trẻ lại tưng bừng lấp lánh ngàn vàng. Những cánh bướm lấp lánh trong vườn làm cho Cúc Phương trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.

2.2. Những định hướng để phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình Để khai thác hợp lý tài nguyên du lịch tự nhiên của tỉnh, cần phải có một số định hướng lớn

giúp cho Ninh Bình khai thác hợp lý hơn các tài nguyên du lịch của tỉnh. - Trước hết, cần điều tra, khảo sát, quy hoạch hợp lý các tài nguyên du lịch. Đánh giá đúng

tiềm năng và khả năng khai thác để có kế hoạch đầu tư hợp lý, có hiệu quả. - Có những biện pháp bảo vệ các loại tài nguyên này. Một số hang động cần phải được bảo vệ,

tránh đập đẽo các măng đá, nhũ đá làm mất vẻ đẹp hoang sơ trong hang động. Các khu rừng quốc gia, nhất là rừng Cúc Phương phải được quản lí chặt hơn, tránh khai thác gỗ, khai thác các loại lâm sản bừa bãi trong khu vực.

- Xây dựng khu nghỉ dưỡng ở khu vực có suối nước nóng như ở suối Kênh Gà, Thường Sung, Kì Phú. Cần đầu tư để xây dựng được nhiều sản phẩm du lịch đặc trưng hơn như nghỉ dưỡng, ẩm thực, chữa bệnh… Để có thể thu hút được nhiều khách du lịch hơn. Tuy nhiên, cũng cần phải được đánh giá đầy đủ tiềm năng để khai thác hợp lý, tránh khai thác tràn lan, gây suy thoái và ô nhiễm môi trường.

- Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng ở tỉnh và đến các điểm du lịch để có thể thu hút lượng khách du lịch nhiều hơn.

- Xây dựng hệ thống các nhà hàng, khách sạn để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách du lịch cả trong nước và nước ngoài. Các nhà hàng, khách sạn cần được đầu tư đổi mới, nâng cấp trang thiết bị phục vụ khách du lịch, nhất là hệ thống mạng internet trong các khách sạn.

- Làm tốt công tác quảng bá, giới thiệu hình ảnh Ninh Bình, giới thiệu các điểm du lịch của địa phương để có thể đón được khách nhiều hơn, nhất là khách quốc tế.

Có chính sách ưu đãi cho đầu tư về du lịch: Cho vay vốn với lãi suất thấp, cho thuê đất xây dựng khu du lịch nhà ở. Xây dựng cơ chế môi trường đầu tư du lịch thông thoáng để khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

- Đào tạo nguồn lao động trong ngành du lịch, nâng cao chất lượng phục vụ du khách. Chú trọng đào tạo tiếng Anh giao tiếp, đào tạo phẩm chất đạo đức trong kinh doanh để nâng cao hình ảnh đất nước, con người Việt Nam nói chung trong con mắt bạn bè quốc tế.

Page 87: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

87

- Hạn chế hiện tượng chèo kéo du khách, ăn xin, chụp giật ở các điểm du lịch. 3. Kết luận Ninh Bình có nhiều tiềm năng về tự nhiên để phát triển du lịch: Địa hình mang sắc thái riêng,

độc đáo, có nhiều hang động, nhiều dạng địa hình cacxtơ; Khí hậu trong lành, mát mẻ, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế; Nguồn nước, sinh vật cũng rất thuận lợi để phát triển du lịch. Tuy nhiên, Ninh Bình chưa khai thác được các thế mạnh đó, hiệu quả kinh doanh du lịch chưa cao. Cần có các giải pháp để quy hoạch du lịch, xây dựng cơ sở hạ tầng, các nhà hàng, khách sạn, làm tốt công tác quảng bá, giới thiệu hình ảnh Ninh Bình, có chính sách kêu gọi đầu tư. Đào tạo, nâng cao chất lượng lao động trong ngành du lịch. Có những chính sách đổi mới, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có như vậy, mới có thể khai thác được những thế mạnh về du lịch của tỉnh này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Lê Thông (chủ biên), 2002. Địa lý các tỉnh và thành phố (tập 3). Nxb Giáo dục. [2] Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình - Sở Thương mại - Du lịch. Báo cáo kết quả thực hiện kế

hoạch 5 năm 2001 - 2005 và chiến lược phát triển du lịch đến năm 2010. [3] Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình. Chương trình phát triển du lịch Ninh Bình giai đoạn

2002 - 2005 và 2010. [4] Nguồn: http://www.ninhbinh.gov.vn.

POTENTIAL NATURAL AND ORIENTATION FOR PROPSED DEVELOPMENT

OF TOURISM NINH BINH

Dr. Do Thuy Mui, Dinh Huy Dung Faculty of History and Geography

Abstract: Ninh Binh is a province with plenty of natural potential for tourism development. It has various types of unique Caxton terrain and numerous of amazing natural sceneries. Besides, the climate, water resources, and creature here are exclusive, which offers favorable conditions to attract tourists. This article will evaluate the natural conditions for tourism development in Ninh Binh, and then suggest some orientation to exploit more reasonablely the natural tourism resources in this province.

Keywords: Ninh Binh, community tourism, eco-tourism, caves, natural tourism potential.

Page 88: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

88

ẢNH HƯỞNG CỦA KIẾN TẠO MEROZOI ĐẾN KHU VỰC ĐÔNG DƯƠNG

ThS. Nguyễn Văn Minh Khoa Sử Địa

Tóm tắt: Đông Dương nằm ở đông nam của lục địa Á - Âu rộng lớn, bị xô ép bởi mảng Ấn - Úc và mảng Thái Bình Dương. Cũng như các khu vực khác, Đông Dương chịu ảnh hưởng tác động của các chu kỳ địa chất kiến tạo chung trên Trái Đất, mỗi chu kỳ để lại một biểu hiện khác nhau, bài báo đề cập đến thời kỳ Trung Sinh Đại, giai đoạn có ảnh hưởng lớn đến đặc điểm tự nhiên (địa chất, tính chất của đất ,đá) của khu vực này. Bởi ảnh hưởng đó, bài viết chỉ ra sự phong phú về tài nguyên và tự nhiên khác, cùng yêu cầu khai thác hợp lí lãnh thổ này.

1. Đặt vấn đề Nghiên cứu về Đông Dương, về địa chất, địa hình… Đã có nhiều tác giả đề cập, cả các tác giả nước ngoài như Pháp, Liên bang Nga, Anh… Cùng các tác giả của các nước trong khu vực Đông Dương và Việt Nam, nhưng đề thấy tác động của địa chất một thời kỳ lên khu vực này và ảnh hưởng của nó đến việc khai thác lãnh thổ chưa thật nhiều. Với mong muốn đó, bài báo muốn chỉ ra tác động của một thời kỳ địa chất có ảnh hưởng lớn đến khu vực Đông Dương, đó là thời kỳ Trung sinh Đại (Merozoi). 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái quát về khu vực

Đông Dương là một bán đảo ở Đông Nam Á, giáp Ấn Độ về phía tây và Biển Đông về phía đông. Theo nghĩa hẹp thì bán đảo Đông Dương bao gồm ba nước Đông Dương từng là thuộc địa của Pháp: Campuchia, Lào và Việt Nam. Theo nghĩa rộng, với tên Bán đảo Trung Ấn, thì bán đảo Đông Dương bao gồm ba nước trên cùng với: Malaysia bán đảo (phần phía nam của bán đảo Mã Lai, không tính quần đảo Mã Lai), Myanma (tức Miến Điện cũ), một phần của Ấn Độ thuộc Anh (trước 1947), và Thái Lan. Khu vực này ban đầu được người Pháp gọi là Indo - Chine (Ấn Độ - Trung Hoa) để chỉ khu vực nằm phía đông của Ấn Độ và phía nam Trung Quốc, chịu ảnh hưởng văn hóa của hai vùng này. Người Việt thường gọi là Đông Dương để phân biệt với Tây Dương (châu Âu) và Tiểu Tây Dương (khu vực bán đảo Ấn Độ). Đôi khi người ta cũng gọi là bán đảo Trung - Ấn hay bán đảo Ấn - Hoa, theo sát nghĩa của Indochine. Người Trung Quốc dịch âm Indo - Chine thành Ấn Độ - Chi Na (印度支那). Người Hoa tại Đông Nam Á, Đài Loan thì gọi là Trung Nam bán đảo (中南半島). 2.2. Đặc điểm địa chất đại Trung Sinh Khi nghiên cứu về lịch sử địa chất Việt Nam cũng như khu vực Đông Dương, Dovjikov, Trần Đức Lương và những người khác đều có nhận xét chung về kiến tạo khu vực này trong Merôzôi, thường nó được gắn liền với vận động kiến tạo Kimeri. Thời kỳ này là giai đoạn cuối cùng của phá hủy và biến đổi lục địa Đông Dương, khi phần lớn khu vực này được biến thành một nền trẻ, trên cơ sở

Bản đồ - vị trí khu vực Đông Dương [9]

Page 89: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

89

của vỏ lục địa được biến đổi. Theo đó, giai đoạn “Trung Sinh Đại được chia thành hai giai đoạn phụ là Indosini và Nhạn Sơn (còn gọi là Yến Sơn)”[6]. Giai đoạn Indosini: Cuối Paneozoi (kỷ Pecmi), hoạt động hồi sinh đã thay đổi chế độ san bằng kiến tạo (bán bình nguyên)[2] và bắt đầu cho một chuyển động kiến tạo mới. Chuyển động kiến tạo phụ Indosini tác động lên khu vực Đông Dương theo hai khu vực khác nhau. Ở khu vực phía nam [3], các hệ vùng trũng bị thu hẹp và phát triển dưới dạng hai hố sụt sâu, hẹp là Mê Công và Sầm Nưa. Vùng trũng Sầm Nưa nằm ở phía bắc của địa khối trung tâm trung Việt Nam (địa khối Kông Tum), phát triển như một địa máng gối chồng hình thành trên cơ sở của địa khối nâng lên Pu Hoạt - Sông Mã. Do hiện tượng nghịch đảo kiến tạo vào cuối Pecmi, trong vùng trũng rìa sông Cả và sự di chuyển lượn sóng lên phía bắc nên rìa nam của khối nâng Pu Hoạt - Sông Mã bị lôi cuốn vào quá trình sụt lún để hình thành địa máng Sầm Nưa. Địa máng Sầm Nưa hình thành một cấu trúc hẹp, sâu chứa thành hệ flisơ ở phía dưới và các trầm tích lục nguyên ở phía trên. Ở phía tây bắc, địa máng Sầm Nưa nối liền với địa máng Mê Công, là tàn dư của địa máng Trung - Miến. Ở khu vực phía bắc[6], chuyển động hồi sinh kiến tạo đã tăng cường mức độ hoạt động của các kiến trúc phía bắc, đặc biệt là khu vực phía bắc Việt Nam, cụ thể là đã biến đổi các vùng trũng hậu lục địa sông Đà và đông bắc Việt Nam thành những địa máng kiểu mới, phát triển với đặc trưng khác hẳn với kiểu địa máng “kinh điển” đã được mô tả ở khu vực châu Âu, các địa máng này được gọi là “địa máng trên nền kiểu Thái Bình Dương” [6 Tr 23]. Giai đoạn phụ Indosini kết thúc bằng hiện tượng nghịch đảo kiến tạo, hoạt động uốn nếp và thu hẹp diện tích của các miền võng địa máng. Hiện tượng này diễn ra ở khu vực Đông Dương với các loạt đá macma có thành phần biến đổi từ siêu bazơ đến graboit và granit.

Giai đoạn Nhạn Sơn: Đây là khâu cuối cùng của mọi hoạt động kiến tạo biến đổi cơ sở lục địa tuổi Proterozoi ở châu Á nói chung và khu vực Đông Dương nói riêng, để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới của khối lục địa được kết rắn - miền nền trẻ. Giai đoạn phụ Nhạn Sơn là thời gian phát triển của những trầm tích chủ yếu là lục địa chứa phun trào và cũng là thời gian phổ biến rộng rãi nhất thành tạo macma phun trào và xâm nhập có thành phần phức tạp, từ siêu bazơ đến axit. Trong thời gian này, có thể nhận thấy một số đặc điểm sau: Những nét lớn của kiến tạo phụ Indosini vẫn được phát triển mang tính kế thừa, hoạt động macma phun trào và xâm nhập mãnh liệt, thành tạo hệ màu đỏ dày, chuyển động nâng lên tạo địa hình tương phản dạng núi trung bình, đồng thời thu hẹp diện tích lắng đọng ở các vùng trũng. Như vậy, giai đoạn phụ Nhạn Sơn được kết thúc bằng một hoạt động nâng lên tạo núi, đồng thời với sự hoạt động khá mạnh của macma và thu hẹp diện tích trầm đọng các vùng trũng. Điều này giống như hoạt động của các miền máng trong lịch sử địa chất. Chính do hoạt động địa chất trong Merozoi diễn ra, tác động đến khu vực này như vậy, mà nhiều tác giả khi nghiên cứu thường đồng nhất chu kỳ kiến tạo Kimeri với giai đoạn lịch sử địa chất. Tuy nhiên, theo tôi từng giai đoạn trong Merozoi cũng sẽ có những dấu hiệu riêng và tác động của nó đến khu vực này cũng không phải là ít. Vì vậy, ta cũng đi xét đặc điểm địa chất trong từng kỷ của nguyên đại này. Kỷ Triats (T): Là kỷ đầu tiên của nguyên đại Trung sinh. Năm 1840, Đ. Philip đã xác lập Nguyên đại Trung sinh thành ba kỷ là Triats, Jura và Krêta. Hội nghị địa chất quốc tế lần thứ II tại Bôlônhơ đã thông qua và tồn tại cho đến ngày nay.

Page 90: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

90

Triats kéo dài khoảng 45 triệu năm (251 - 203), Triats biểu hiện tác động trên nhiều địa máng trên thế giới, đến địa máng Địa Trung Hải (trong đó có địa máng Đông Dương), địa máng Thái Bình Dương... Nhìn chung, trong đầu và giữa kỷ biển được mở rộng hơn trong khu vực địa máng, nhất là khu vực địa máng Trung - Ấn, đến cuối kỷ thì chế độ lục địa lại được xác lập. Sự tác động của Triats trên Đông Dương khá phức tạp, thành phần tướng đá bị phân dị, các miền võng khác nhau được hình thành, hoạt động phun trào mạnh mẽ, cuối kỷ có hoạt động nghịch đảo. Tác động của Triats đến Đông Dương biểu hiện ở các khu vực khác nhau: Miến Điện - Mã Lai, địa khối Indosini và Việt Nam, mỗi vùng sản phẩm của Triats để lại cũng khác nhau; Nếu như ở trên lãnh thổ Miến Điện là hệ tầng Napang với các loại đá phiến sét màu từ đen đến vàng có chứa nhiều hóa thạch, thì ở Malayxia lại phổ biến các hệ tầng cát kết xen kẹp các lớp đá vôi, đôi khi còn có cả sản phẩm phun trào. Trong khi đó, ở địa khối Indosini (Thái Lan, hạ Lào, nam trung bộ Việt Nam) thì đặc trưng là cuội kết, cát kết, acgilit màu đỏ, tím và hóa thạch phổ biến của nhóm chân rìu của tướng hồ đầm. Kỷ Jura (J): Kỷ kéo dài khoảng 58 triệu năm (195 - 137). Hệ Jura do nhà khoa học A. Bronhia phân định năm 1829, lấy tên theo dãy núi Jura (biên giới giữa Pháp và Thụy Sỹ). Hệ được chia thành ba thống: hạ (Liat), trung (Doge) và thượng (Manmơ). Nếu ở trong Triats muộn, hoạt động nghịch đảo tạo sơn với sự thịnh hành của chế độ lục địa, thì trong Jura vẫn là sự kế thừa của quá trình tạo sơn đó mà trầm tích tướng lục địa hình thành nhiều nơi cùng với thành tạo các tầng đá phun trào. Sự tác động của Jura đến các khu vực địa máng trên thế giới chủ yếu cũng là quá trình tạo lục, vì thế trên địa máng Đông Dương về cơ bản cũng là quá trình tiến triển của lục địa, nhưng biểu hiện của chúng là khác nhau trên các đơn vị. Nếu ở Miến Điện, Jura để lại loạt cuội kết, cát kết thô và đá phiến màu đỏ tím, ở Thái Lan là loạt trầm tích vụn rộng lớn phát triển trên hệ tầng Corat, ở Campuchia hình thành “loạt cát kết”*[9] thì ở Việt Nam và Lào là sản phẩm vụn thô thuộc hệ tầng Hà Cối (đông bắc Việt Nam) phân bố ở nhiều nơi: Nậm Pô, Sầm Nưa, Phông Sa Lỳ cùng cát kết, bột kết màu đỏ tím. Kỷ Krêta (K): Là kỷ tiếp theo Jura, kéo dài khoảng 70 triệu năm (137 - 67), hệ này do nhà địa chất người Bỉ Omaliut Aloy phân định năm 1822. Krêta còn có nghĩa là Phấn trắng, hệ này gồm có 2 thống là: thống hạ với 6 bậc và thống thượng cũng có 6 bậc[5] (Bảng thang địa chất tuổi Merozoi). Trong Krêta tiếp tục quá trình tạo núi sau nền tiếp theo Jura, trầm tích lục địa được hình thành ở nhiều nơi, đồng thời với quá trình đó là các hoạt động phun trào. Vì vậy, tác động của Krêta đến khu vực Đông Dương chủ yếu là các sản phẩm của hai quá trình này và xen lẫn với sản phẩm của Jura. Chúng ta có thể thấy ở Miến Điện trầm tích Krêta có màu đỏ, thành tạo ở những vùng trũng riêng biệt có xen lẫn trầm tích của Jura. Ở Thái Lan, Krêta tiếp tục tích đọng trầm tích lục địa của tầng Corat, với đặc điểm màu đỏ, chủ yếu là cát kết, sản phẩm này cũng bắt gặp ở phía tây Campuchia. Trong khi đó, ở Việt Nam và Lào sản phẩm của Krêta lại là loạt đá cát kết và đá phiến màu đỏ tím rất đặc trưng, tùy từng nơi với võng uốn khác nhau, bề dày của lớp trầm tích Krêta thay đổi; Ở Yên Châu (Việt Nam) độ dày chỉ vài ba trăm mét, nhưng ở Quảng Bình (Việt Nam) và hạ Lào thì độ dày đã lên hàng nghìn mét. Cùng với các loạt trầm tích màu đỏ, đỏ tím ở trên, Krêta cũng hình thành loạt trầm tích phun trào khá dày (trên 1.500m), cấu tạo bởi Otofia và Comendit. Do hoạt động tạo núi diễn ra khá mạnh ở khu vực Đông Dương làm cho xâm nhập mắcma diễn ra khá mạnh, nên sản phẩm này xuất hiện ở nhiều nơi như: Việt Nam, Thái Lan, Lào, thậm chí còn có ở cả Miến Điện và Vân Nam (Trung Quốc).

Page 91: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

91

3. Ảnh hưởng của địa chất Merozoi đến khu vực Đông Dương Sự tác động của địa chất thời kỳ Merozoi có ảnh hưởng to lớn đến khu vực Đông Dương nói riêng cũng như trên toàn thế giới về mọi mặt, sự tác động này biểu hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau từ cổ sinh vật, địa hình cho tới cổ khí hậu. Trong khuôn khổ của một bài nghiên cứu tạp chí tôi không thể trình bày hết từng góc độ một, mà tôi sẽ tập trung vào ba vấn đề chủ yếu là địa chất khoáng sản, cổ địa lí và sản phẩm trầm tích, những thứ có ảnh hưởng lớn tới đời sống và hoạt động kinh tế của khu vực này. 3.1. Cổ địa lí

Trong các dẫn liệu địa chất từ hóa thạch sinh vật, trầm tích và các dấu hiệu địa chất khác, hoàn cảnh cổ địa lí trong Merozoi đã khá rõ ràng. Ta thấy trong từng kỷ đều có sự khác biệt. Trong Triats (T): Do kế tiếp chu kỳ kiến tạo Hecxini nên hoàn cảnh cổ địa lí trong thời kỳ này gần với Pecmi và khí hậu nhìn chung là khô hạn. Trong Jura (J): Hoàn cảnh cổ địa lí đã có sự thay đổi nhiều, tính chất khí hậu có sự dịu bớt, nếu khô hạn ở Triat thì sang Jura đã ấm và ẩm hơn đây là nguyên nhân của hệ sinh thái rừng và trầm tích chứa than đá tuổi Triat. Trong Kreta (K): Nhiều vùng khí hậu khô nóng lại được thiết lập, điều kiện khí hậu khô nóng này là nguyên nhân của các trầm tích chứa muối dạng vụng biến và các thành hệ màu xám có chứa khoáng sản than đá.

3.2. Đặc điểm thổ nhưỡng Với những hoạt động địa chất, ngoài biểu hiện địa hình như hiện nay thổ nhưỡng cũng là một

hệ quả tất yếu. Trong kỷ Triats do hoạt động địa chất là sự phá vỡ tính chất bán bình nguyên của đại Cổ sinh nên chúng ta thấy sự suất hiện của kiểu trầm tích nửa lục địa[9] điều này được chứng minh bởi sự xuất hiện trầm tích Cacbonat ở một số vùng Đông Dương (Sông Đà, An Châu - Việt Nam; Sầm Nưa - Lào,…) và một số vùng khác như Anpơ, Capca. Nhưng đến giữa và cuối kỷ này, ta thấy sự có mặt của trầm tích màu đỏ ở khu vực này và các vùng rộng lớn của lục địa Á - Âu. Sang Jura, liên quan đến sự ít thay đổi của địa chất và cổ khí hậu ấm, ẩm nên thời kỳ này sự phổ biến của trầm tích màu đỏ cuối Triats và những thành hệ màu xám chiếm vị trí đáng chú ý hơn[5]. Đến Kreta, nhìn chung không có sự thay đổi lớn so với Triats, nên cũng không có sự biến động lớn về trầm tích mà chủ yếu là trầm tích màu đỏ, còn trầm tích Cacbonat màu xám bị thu hẹp đáng kể chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực Nam Âu. 3.3. Đặc điểm khoáng sản

Trong Merozoi khá giàu khoáng sản nguồn gốc trầm tích và nguốn gốc macma[5], đây là hệ quả tất yếu của hoạt động địa chất của nguyên đại này, nó được chứng minh cụ thể trong sản phẩm khoáng sản sau: Khoáng sản nhiên liệu: Đầu tiên là khoáng sản nhiên liệu than đá, đây là sản phẩm phổ biến trong Merozoi, phần lớn than đá được hình thành trong các vùng trũng nội địa. Ở khu vực Đông Dương, than đá được hình thành từ cuối Triat (Việt Nam, Miến Điện, hạ Lào) và nam Trung Quốc, nhưng phần lớn than đá được hình thành vào Jura và Kreta. Nhiên liệu cũng là một trong những khoáng sản quý và quan trọng. Trong Merozoi, dầu mỏ hình thành phổ biến ở khu vực thềm lục địa biển Đông của Đông Dương (Việt Nam, Cam Pu Chia, Thái Lan). Ngoài ra sản phẩm này còn hình thành ở Nam Âu, Tây Âu, Bắc Mĩ.

Page 92: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

92

Khoáng sản phi kim loại: Đáng chú ý là các khoáng sản đi kèm thành hệ bay hơi, trong điều kiện khô nóng mà Merozoi đã trải qua ở kỷ Triat như muối mỏ, thạch cao. Khoáng sản kim loại: Liên quan đến sản phẩm phong hóa như boxit và caolanh gặp ở nhiều nơi như Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miễn Điện, nam Trung Quốc… Đặc biệt là ở Việt Nam boxit được đánh giá có trữ lượng khoảng hơn 10 tỉ tấn, trong đó tập trung ở Tây Nguyên khoảng hơn 8 tỉ tấn và là một trong những khu vực có trữ lượng hàng đầu thế giới. Ngoài ra các khoáng sản kim loại khác cũng khá phổ biến ở khu vực này như sắt, florit, đồng… Xuất hiện ở nhiều nơi. Tuy nhiên, các khoáng sản kim loại quý hiếm như vàng, bạc và sắt cổ sinh không xuất hiện ở khu vực này, điều này cũng rất phù hợp với các đặc điểm cổ địa chất và cổ địa lí. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần kể đến các khoáng sản có nguồn gốc nội sinh, do hoạt động macma trong Jura và Kreta rất mạnh (như đã trình bày ở phần trên), nên đã hình thành các khoáng sản nội sinh, khoáng sản công nghiệp như: Thiếc, vonfram, đồng, chì, đá quý… Đặc biệt là vành đai thiếc Thái Bình Dương.

4. Kết luận Như vậy chúng ta có thể kết luận được rằng, kiến tạo Merozoi đã để lại cho khu vực Đông Dương những nét biến đổi cơ bản và ảnh hưởng đến tự nhiên lãnh thổ này như sau: Về mặt địa chất: Hoạt động hồi sinh kiến tạo Merozoi xóa bỏ chế độ kiến tạo Paneozoi. Trong sự hồi sinh của mình, Merozoi (Kimeri) đã thành tạo các địa máng kiểu Thái Bình Dương. Chuyển động nghịch đảo kiến tạo Indosini dẫn đến sự nâng lên dạng uốn nếp khu vực, đồng thời mang tính chất kế thừa. Cuối cùng, chuyển động Nhạn Sơn kết thúc hoạt động địa máng và kèm theo hoạt động xâm nhập, phun trào mạnh mẽ. Ảnh hưởng đến tự nhiên: Merozoi ảnh hưởng đến khu vực Đông Dương nói riêng và các vùng lân cận rất mạnh mẽ, tác động đến cả cổ địa lí, khí hậu, sinh vật; đặc biệt là đến trầm tích - thổ nhưỡng và khoáng sản. Sự tác động của kiến tạo nguyên đại này đã tạo ra đa dạng, sự giàu có về mặt tài nguyên khoáng sản, đất đai và thiên nhiên. Cần có nhiều hơn những nghiên cứu kiến tạo khu vực này, đặc biệt là giai đoạn Trung sinh đại giúp chúng ta hiểu, lí giải được nguyên nhân sự đa dạng về tự nhiên để khai thác, sử dụng lãnh thổ này một cách hợp lí hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Phạm Văn Quang, Đỗ Hữu Hào, Lê Thành Hiên, Cấu trúc địa chất miền Bắc Việt Nam. Nxb KHKT. [2] Vũ Tự Lập, 1978. Địa lí tự nhiên Việt Nam. Nxb KH&KT. [3] Tổng Cục Mỏ và Địa chất, 1989. Địa chất Việt Nam. Tập 1 - Địa tầng. [4] Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, 1995. Địa chất Việt Nam. Tập 2, Các thành tạo magma. [5] Tống Duy Thanh, 1976. Địa sử. Nxb KHKT, Hà Nội. [6] Trần Đức Lương, 1971. Kiến tạo miền bắc Việt Nam và các miền lân cận.Tuyển tập

Nxb KH&KT Hà Nội. [7] Tổng cục ĐCVN, 1965. Hóa thạch chỉ đạo địa tầng Trias miền Bắc Việt Nam. [8] Tổng cục địa chất, 1/4/1969. Địa chất, Tập san khoa học kỹ thuật, Số 83 - 84, Hà Nội. [9] Geology of Cambodia, Laos and Viet Nam, 2000. Published by the Geologycal survey of Viet Nam.

Page 93: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

93

THE AFFECTION OF MEROZIC TECTONIC ON INDOCHINA

Nguyen Van Minh M.A Faculty of History and Geography

Abstract: Indochina is located in the South East of the Asia-Europe continental, It is pressed by India –Australia tectonic and Atlantic tectonic. Indochina has been affected by many mountain processes in the Earth, each has individual effect. The article deals with the Mesozoic period, which affected on natural (geology, soil, stone) of Indochina. The article points out other natural and resources variety, requirement about suitable exploitation in this area.

Page 94: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

94

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN (QUẢNG NGÃI)

PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH ThS. Nguyễn Thanh Tưởng Khoa Địa Lý, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng

Tóm tắt: Lý Sơn hiện nay phát triển du lịch chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu

cầu của khách du lịch. Những thành tựu mà du lịch Lý Sơn đạt được còn hạn chế mà nguyên nhân chủ yếu là chưa đánh giá hết tiềm năng của tài nguyên du lịch, chưa có hoặc rất ít các mô hình du lịch hợp lý với các loại hình du lịch hấp dẫn du khách. Các loại hình du lịch còn đơn điệu, chưa liên kết chặt chẽ trong phát triển giữa các địa phương, một số dự án đầu tư còn nhỏ lẻ, manh mún, mang tính chất tạm thời đã dẫn đến phá vỡ cảnh quan du lịch và quy hoạch du lịch của vùng. Bài viết này tiến hành đánh giá khả năng khai thác các Di tích lịch sử - văn hóa ở huyện đảo Lý Sơn (về mặt số lượng, chất lượng và mức độ thuận lợi trong việc khai thác vào mục đích phát triển du lịch bằng hệ thống các chỉ tiêu), phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp khai thác chúng một cách hợp lý nhằm góp phần phát triển du lịch huyện Lý Sơn theo hướng bền vững và hiệu quả hơn.

Từ khóa: Tài nguyên du lịch, di tích lịch sử - văn hóa, phát triển du lịch, loại hình du lịch, Lý Sơn. 1. Đặt vấn đề Tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để phát triển loại hình du lịch văn hóa, một trong những loại

hình du lịch phổ biển nhất trên thế giới. Để đóng góp vào sự phát triển thành công của một vùng thì sự kết hợp giữa hai loại tài nguyên: Tự nhiên và nhân văn là hết sức quan trọng. Hơn nữa, nằm trong cùng một quần thể thì sự hỗ trợ bổ sung cho nhau của hai loại hình du lịch: Sinh thái và văn hóa là thực sự cần thiết, tạo nên sức hấp dẫn và sự đa dạng cho sản phẩm du lịch của mỗi vùng. Vì vậy, việc đánh giá, phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác các Di tích lịch sử - văn hóa góp phần phát triển du lịch huyện đảo Lý Sơn theo hướng bền vững là vấn đề có ý nghĩa về khoa học và thực tiễn.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Các căn cứ để đánh giá 2.1.1. Khái quát khu vực nghiên cứu Đảo Lý Sơn tục danh là Cù Lao Ré, theo cách lý giải của dân gian là cù lao có nhiều cây ré,

nằm trên vùng biển Đông Bắc tỉnh Quảng Ngãi, trong phạm vi 15o32’04’’ đến 15o38’14’’vĩ độ Bắc và 109o05’04’’ đến 109o14’12’’ kinh độ Đông, là một điểm quan trọng trên đường cơ sở phân định ranh giới quốc gia trên biển của Việt Nam. Nằm cách đảo Lý Sơn khoảng trên 4 km về phía Bắc là đảo Bé (hay còn được gọi là Cù Lao Bờ Bãi). Diện tích của huyện đảo là khoảng 9,97 km² với số dân trên 21.020 nguời. Về mặt hành chính, khu vực đảo Lý Sơn được tổ chức thành đơn vị cấp huyện: Huyện đảo Lý Sơn, bao gồm đảo Lý Sơn và đảo Bé, trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Huyện đảo Lý Sơn có 3 xã là: An Vĩnh, An Hải (trên đảo Lớn) và xã An Bình (trên đảo Bé). Tuy là một đảo nhỏ nhưng Lý Sơn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, thuận lợi cho việc phát triển một số ngành kinh tế như trồng tỏi, đánh bắt thủy sản và đặc biệt là phát triển du lịch.

2.1.2. Mục đích đánh giá Mục đích đánh giá tổng hợp Di tích lịch sử - văn hóa (DTLS - VH) là xác định khả năng (hiện

có, tiềm năng) của các DTLS - VH về mặt số lượng, chất lượng của huyện đảo Lý Sơn từ đó có thể chọn phương án tối ưu nhằm sử dụng chúng một cách hợp lý, có hiệu quả kinh tế, đồng thời bảo vệ được tài nguyên và môi trường.

2.1.3. Xác định các yếu tố và chỉ tiêu đánh giá Để đánh giá các DTLS - VH huyện đảo Lý Sơn, chúng tôi sử dụng một hệ thống bao gồm các chỉ

tiêu: mật độ DTLS - VH; Số lượng DTLS - VH; Số di tích được xếp hạng Quốc tế (theo chứng chỉ của

Page 95: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

95

UNESCO tháng 12/1993); Số di tích được xếp hạng Nhà nước (theo quyết định của Bộ VH - TT); Số di tích được xếp hạng cấp địa phương (theo quyết định của UBND tỉnh Quảng Ngãi); Số di tích đặc biệt quan trọng. Các chỉ tiêu đánh giá có thể là định lượng hoặc định tính.

2.2. Xây dựng thang đánh giá 2.2.1. Điểm của bậc và hệ số của các yếu tố Sau khi lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá, tiến hành phân bậc các chỉ tiêu, bao nhiêu bậc thì có bấy

nhiêu điểm số tương ứng với chúng. Theo mục tiêu đánh giá, các bậc áp dụng cho đánh giá các DTLS - VH huyện đảo Lý Sơn sẽ là:

- Rất nhiều (dày đặc) tương ứng 4 điểm. - Nhiều (dày) tương ứng 3 điểm. - Trung bình tương ứng 2 điểm. - Ít (thưa) tương ứng 1 điểm.

Bảng 1. Điểm từng cấp (bậc) của từng chỉ tiêu Mật độ di tích

Số lượng di tích

Số di tích được xếp hạng

Quốc tế Số di tích được xếp hạng Nhà

nước

Số di tích được xếp hạng

cấp địa phương

Số di tích đặc biệt quan

trọng RN

N TB

I RN

N TB

I RN

N TB

I RN

N TB

I RN

N TB

I RN

N TB

I

4 3 2 1 4 3 2 1 4 3 2 1 4 3 2 1 4 3 2 1 4 3 2 1 Ghi chú: RN: rất nhiều; N: nhiều; TB: trung bình; I: ít

Để tiến hành đánh giá bằng cách tính điểm cần xác định số điểm cho mỗi bậc. Trong thang đánh giá, số điểm của mỗi bậc của các yếu tố điều bằng nhau theo thứ bậc từ cao xuống thấp của 4 bậc là các điểm 4, 3, 2, 1. Sau đó xác định hệ số từ cao xuống thấp là 3,2,1 để xác định sự phân hóa giữa các yếu tố.

Trong số các yếu tố được dùng làm cơ sở đánh giá chúng tôi xác định 2 yếu tố có hệ số 3 (cao nhất) là số di tích được xếp hạng Quốc tế và số di tích đặc biệt quan trọng; 2 yếu tố có hệ số 2 (trung bình) là số di tích được xếp hạng Nhà nước và mật độ DTLS - VH; 2 yếu tố có hệ số 1 (thấp nhất) là số di tích được xếp hạng cấp địa phương và số lượng DTLS - VH.

2.2.2. Điểm đánh giá Bảng 2. Điểm số của các bậc chỉ tiêu

Mật độ di tích

Số lượng di tích

Số di tích được xếp hạng

Quốc tế

Số di tích được xếp hạng

Nhà nước

Số di tích được xếp hạng

cấp tỉnh

Số di tích đặc biệt quan

trọng

RN

N TB I RN

N TB

I RN

N TB

I RN

N TB

I RN

N TB

I RN

N TB

I

8 6 4 2 4 3 2 1 12 9 6 3 8 6 4 2 4 3 2 1 12 9 6 3 Ghi chú: RN: rất nhiều; N: nhiều; TB: trung bình; I: ít

Điểm đánh giá bao gồm điểm đánh giá riêng của từng yếu tố và điểm đánh giá tổng hợp. Điểm đánh giá riêng của từng yếu tố là điểm của các bậc đánh giá nhân với hệ số của yếu tố. Như vậy điểm đánh giá riêng cao nhất dành cho bậc cao nhất của các yếu tố có hệ số cao nhất là 12 điểm (4x3) và điểm đánh giá riêng thấp nhất của các yếu tố có hệ số thấp nhất là 1 điểm (1x1). Điểm đánh giá tổng hợp là

Page 96: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

96

tổng số các điểm đánh giá riêng của từng yếu tố. Trên cơ sở số điểm đánh giá tổng hợp của mỗi khu vực đánh giá có thể xác định mức độ thuận lợi của các DTLS - VH phục vụ mục đích phát triển du lịch.

Bảng 3. Xác định mức độ thuận lợi của các DTLS - VH Mức đánh giá Số điểm Tỷ lệ % so với số điểm tối đa Rất thuận lợi 39 - 48 81 - 100% Khá thuận lợi 29 - 38 61 - 80%

Trung bình 19 - 28 41 - 60% Kém thuận lợi 12 - 18 25 - 40%

2.3. Kết quả đánh giá 2.3.1. Kết quả đánh giá riêng từng chỉ tiêu Số lượng di tích Lý Sơn là một hòn đảo có tài nguyên du lịch nhân văn phong phú, trong đó các DTLS - VH

chiếm một vai trò quan trọng. Huyện đảo Lý Sơn đã và đang là một nơi thu hút sự quan tâm tìm hiểu không chỉ đối với các nhà nghiên cứu, mà còn là một điểm du lịch hấp dẫn.

Bảng 4. Số lượng di tích của huyện đảo Lý Sơn STT Tên các di tích Số di tích

được xếp hạng Quốc tế

Số di tích được xếp hạng

Nhà nước Số di tích

được xếp hạng cấp tỉnh

Số di tích đặc biệt quan

trọng 1 Đình làng An Hải - x - - 2 Chùa Hang - x - - 3 Âm Linh Tự - x - - 4 Nhà thờ Phạm Quang Ảnh - - x - 5 Nhà thờ Võ Văn Khiết - - x - 6 Đền thờ cá ông Lăng Chánh - - x - 7 Dinh bà Thiên Y - A – Na - - x - 8 Di tích dinh Tam Hòa - - x - 9 Nhà lưu niệm đội Hoàng sa

kiêm quản Bắc Hải - - x -

10 Lăng cá Ông (Đông Hải) - - x - Tổng số di tích các cấp 0 3 7 0

Hiện nay Lý sơn có 10 DTLS - VH (03 di tích lịch sử cấp quốc gia và 07 di tích lịch sử cấp tỉnh) so với toàn tỉnh Quảng Ngãi là 137 di tích (23 di tích được Bộ VH, TT & DL công nhận là Di tích cấp Quốc gia, 114 di tích được UBND tỉnh Quảng Ngãi ra quyết định xếp hạng cấp Tỉnh) chiếm 7,3%. Nếu tính tỷ lệ % của các DTLS - VH trên tổng số lượng các huyện, thành phố Quảng Ngãi (Tỉnh Quảng Ngãi có 1 thành phố và 13 huyện) là 7,1%. Như vậy so với toàn tỉnh thì số lượng các DTLS - VH ở Lý Sơn là tương đối nhiều (10/137 di tích). Nhưng nếu tính theo thang số học đệm cho số lượng di tích (từ 0-31: ít; từ 32-62: trung bình; từ 63-93: nhiều; trên 93: rất nhiều) thì mức độ số lượng DTLS - VH ở Lý Sơn là ít. Như vậy qua kết quả đánh giá trên, có thể xếp loại số lượng DTLS - VH ở Lý Sơn là ít với số điểm là 1x1=1. Mật độ di tích Huyện Lý Sơn có mật độ DTLS - VH là 1 di tích (10 di tích/10km2) so với toàn tỉnh Quảng Ngãi mật độ DTLS - VH là 0,026 di tích (137 di tích/5153 km2). Như vậy, mật độ DTLS - VH ở Lý Sơn là rất lớn, gấp 38,5 lần so với toàn tỉnh.

Page 97: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

97

Chỉ số mật độ di tích được thể hiện thang số học đệm (từ 0-0,46: ít; 0,46-0,92: trung bình; từ 0,92-1,38: nhiều; trên 1,38: rất nhiều) thì DTLS - VH ở Lý Sơn là nhiều (dày). Như vậy qua kết quả đánh giá trên, có thể xếp loại mật độ DTLS - VH ở Lý Sơn là nhiều (dày) với số điểm là 3x2=6. Số di tích được xếp hạng Nhà nước Hiện nay Lý sơn có 03 DTLS - VH cấp quốc gia (Chùa Hang, Đình làng An Hải và Âm Linh Tự), chiếm 13% so với tổng DTLS - VH cấp quốc gia của toàn tỉnh Quảng Ngãi (23 di tích). Như vậy so với toàn tỉnh thì số lượng các DTLS - VH cấp quốc gia ở Lý Sơn là lớn (3/23 di tích). Nhưng nếu tính theo thang số học đệm cho số DTLS - VH cấp quốc gia (từ 0-3,25: ít; từ 3,25-6,5: trung bình; từ 6,5-9,75: nhiều; trên 9,75: rất nhiều) thì số lượng DTLS - VH cấp quốc gia ở Lý Sơn là ít. Như vậy qua kết quả đánh giá trên, có thể xếp loại số lượng DTLS - VH cấp quốc gia ở Lý Sơn là ít với số điểm là 2x1=2. Số di tích được xếp hạng cấp địa phương (cấp tỉnh) Lý sơn có 07 DTLS - VH cấp tỉnh so với toàn tỉnh Quảng Ngãi là 114 di tích chiếm 6,1%. Như vậy so với toàn tỉnh thì số lượng các DTLS - VH ở Lý Sơn là ít (7/114 di tích) có thể xếp loại số lượng DTLS - VH cấp tỉnh ở Lý Sơn là ít với số điểm là 1x1=1. Số di tích được xếp hạng Quốc tế và số di tích đặc biệt quan trọng ở huyện đảo Lý Sơn là không có nên không đánh giá.

2.3.2. Kết quả đánh giá tổng hợp Bảng 5. Kết quả đánh giá tổng hợp các DTLS - VH ở huyện đảo Lý Sơn

Các chỉ tiêu/Số điểm

Đánh giá tổng hợp Điểm

tổng hợp Mức

đánh giá Tỷ lệ % so với số điểm

tối đa Số lượng di tích 1

10

Kém thuận lợi

10/48 x 100%=20,8% Mật độ di tích/km2 6 Số di tích được xếp hạng Quốc tế 0 Số di tích được xếp hạng Nhà nước 2 Số di tích được xếp hạng cấp địa phương 1

Số di tích đặc biệt quan trọng 0

Page 98: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

98

Bảng 6. Kết quả đánh giá tổng hợp các DTLS - VH ở tỉnh Quảng Ngãi TT Tên Huyện,

TP SL MĐ Q

T NN

ĐP

ĐB

ĐTC MĐG TL (%)

1 TP Quảng Ngãi

8 8/160,1534 km²=0,056 0 1 7 0 6 Kém TL 12,5 2 Ba Tơ 9 9/1.136,7 km²=0,008 0 1 8 0 6 Kém TL 12,5 3 Bình Sơn 18 19/463,86 km²=0,041 0 4 14 0 6 Kém TL 12,5 4 Đức Phổ 15 15/371,67 km²=0,040 0 2 13 0 6 Kém TL 12,5 5 Minh Long 1 1/216.4 km²=0,005 0 0 1 0 2 Kém TL 5 6 Mộ Đức 14 14/212,23 km2 = 0,066 0 1 13 0 6 Kém TL 12,5 7 Lý Sơn 10 10/10 km²=1 0 3 7 0 10 Kém TL 20,8 8 Tư Nghĩa 15 15/205,3624 km²=0,073 0 2 13 0 6 Kém TL 12,5 9 Trà Bồng 4 4/419,26 km2=0,01 0 1 3 0 6 Kém TL 12,5 10 Tây Trà 0 0/337,76 km2=0 0 0 0 0 0 Kém TL 0 11 Sơn Tịnh 18 18/243,4131 km²=0,074 0 5 13 0 8 Kém TL 16,6 12 Sơn Tây 2 2/382,22 km²=0,005 0 0 2 0 2 Kém TL 5 13 Sơn Hà 3 3/750,31 km²=0,004 0 0 3 0 2 Kém TL 5 14 Nghĩa Hành 10 10/234,12 km²=0,043 0 3 7 0 6 Kém TL 12,5

Ghi chú: SL: số lượng di tích; MĐ: mật độ di tích/km2; QT: Số di tích được xếp hạng cấp Quốc tế; NN: Số di tích được xếp hạng Nhà nước; ĐP: Số di tích được xếp hạng cấp địa phương; ĐB: Số di tích đặc biệt quan trọng; ĐTC: Điểm tổng cộng; MĐG: Mức đánh giá; TL: Tỷ lệ % so với số điểm tối đa.

Qua bảng điểm đánh giá tổng hợp cho thấy: Điểm đánh giá tổng hợp cho các DTLS - VH ở huyện đảo Lý Sơn là rất thấp, với số điểm là 10 điểm - số điểm được đánh giá kém thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng các DTLS - VH phục vụ phát triển du lịch. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là không chỉ xem xét ở kết quả xếp loại mà còn chú ý đến điểm đánh giá tổng hợp và điểm đánh giá thành phần để có thể nhìn nhận toàn diện nhằm đưa ra những giải pháp khai thác, sử dụng các DTLS - VH phục vụ phát triển du lịch phù hợp.

2.4. Phương hướng khai thác các DTLS - VH ở huyện đảo Lý Sơn phục vụ phát triển du lịch 2.4.1. Thực trạng khai thác, sử dụng các DTLS - VH phục vụ phát triển du lịch

- So với toàn tỉnh Quảng Ngãi thì số lượng các DTLS - VH ở Lý Sơn là tương đối nhiều nếu so với tương quan diện tích của đảo, với mật độ di tích là 1 di tích/1 km2. Nhưng chủ yếu là các DTLS - VH ở Lý Sơn xếp hạng cấp tỉnh (7 di tích). Trong khi đó số lượng các DTLS - VH xếp hạng Nhà nước chỉ có 3, còn số lượng các DTLS - VH xếp hạng Quốc tế và số di tích đặc biệt quan trọng là không có. Những DTLS - VH có giá trị lớn là những di tích có kiến trúc độc đáo gắn liền với thẳng cảnh và lễ hội. Nếu như di tích nào hội tụ 3 yếu tố kiến trúc độc đáo: Danh lam, thắng cảnh và lễ hội thì di tích đó có ý nghĩa đối với du lịch cao nhất. Trên thực tế, DTLS - VH ở Lý Sơn chưa hội tụ đủ 3 yếu tố trên. Bên cạnh đó là một huyện đảo nằm cách đất liền 15 hải lý nên việc tiếp cận của du khách, cũng như việc khai thác, sử dụng các DTLS - VH phục vụ phát triển du lịch là hết sức hạn chế, đặc biệt là trong mùa mưa bão.

Page 99: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

99

- Năm 2007, tỉnh Quảng Ngãi đã ra quyết định công nhận và khai trương tuyến du lịch “Biển đảo Lý Sơn”, gồm các điểm du lịch theo tuyến chùa Hang, đình làng An Hải, chùa Đục, miệng núi lửa, di tích lịch sử Hải đội Trường Sa - Hoàng Sa, Âm linh tự và một số ngôi nhà cổ tại huyện Lý Sơn. Bên cạnh đó, huyện Lý Sơn đã thành lập ban chỉ đạo về phát triển du lịch biển đảo, ban hành quy chế quản lý và khai thác thắng cảnh, DTLS - VH, xây dựng kế hoạch số 78 theo chương trình hành động số 17Ctr/HU Lý Sơn ngày 03/7/2007 về phát triển du lịch biển đảo giai đoạn 2007 - 2010 và định hướng đến năm 2015, hoàn thiện việc phân loại di sản văn hóa theo luật di sản, lập hồ sơ đề nghị công nhận các DTLS - VH, danh lam thắng cảnh. Đã tiến hành khảo sát, thống kê số lượng nhà cổ trên địa bàn huyện đưa vào danh mục các điểm tham quan phục vụ du khách. Tuyên truyền vận động toàn dân làm du lịch, theo mô hình du lịch cộng đồng. Thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đã đưa vào khai thác loại hình du lịch sinh thái biển đảo và du lịch dựa vào cộng đồng. Đó là đưa du khách vào ở trong các nhà dân, nhà cổ, đồng thời tìm hiểu văn hóa lịch sử của huyện đảo. Lý Sơn có những điều kiện du lịch hết sức độc đáo mà không nơi nào có được, đó là du lịch sinh thái biển và tìm hiểu DTLS - VH. - Huyện Lý Sơn đã khảo sát và lập danh sách các DTLS - VH cần được đầu tư tôn tạo, bảo tồn và quy hoạch phục vụ phát triển du lịch, bao gồm: Chùa Hang, Chùa Đục, Đình làng Lý Hải, Hang Câu, Lăng cá ông Nam Hải, Cổng tò Vò, Âm Linh Tự, nhà thờ Phạm Quang Ảnh, nhà trưng bày hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, Dinh Bà Thiên Y-A-Na, Dinh Tam Tòa, Nhà cổ, Mù Cu, Nhà Pha, Đình làng An Vĩnh, Lăng Tân, núi Thới Lới, núi Giếng Tiền, nhà thờ Võ Văn Khiết. Tuy nhiên, hiện nay công tác đầu tư tôn tạo, bảo tồn và quy hoạch các DTLS - VH nói trên chỉ mới thực hiện ở một số điểm như đình làng An Vĩnh, nhà trưng bày hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, Âm Linh Tự. Các điểm được đầu tư tôn tạo và bảo tồn mới đạt 3 trong tổng số 19 điểm du lịch (chiếm 15,8%). Chính vì thế, DTLS - VH vẫn chịu một sức ép lớn từ quá trình phát triển kinh tế - xã hội và có xu hướng suy thoái nếu không được đầu tư tôn tạo và bảo tồn đúng mức. - Do sự bảo quản không tốt khiến cho Hương ước của hai làng An Vĩnh (Lý Vĩnh) và An Hải (Lý Hải) cùng nhiều sắc phong, thần phả ở đình làng và đền miếu đến nay không còn. Đây là các tài liệu có giá trị để nghiên cứu, đánh giá chính xác về truyền thống lịch sử văn hóa của người Việt trên đảo Lý Sơn. Bên cạnh đó, do sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền xã đã khiến cho hàng loạt cổ vật ở các đình chùa, lăng, dinh, miếu bị lấy cắp và đưa đi khỏi đảo phân tán ở các nơi. Đồng thời các di tích đình, miếu không được bảo quản chu đáo nên các tài liệu thành văn còn lưu sót lại bị mục nát hư hoại. Thực trạng này đem lại hệ quả Lý Sơn mất đi nguồn tài sản cổ vật vô giá và khiến cho các nhà nghiên cứu và khách du lịch vấp phải khó khăn về tư liệu hiện vật trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các DTLS - VH vùng đảo Lý Sơn. - UBND huyện Lý Sơn đã phối hợp với các cơ quan báo, đài trong và ngoài tỉnh để giới thiệu danh lam thắng cảnh, các khu DTLS - VH và các lễ hội truyền thống của huyện bằng nhiều hình thức: qua kênh thông tin mạng xã hội, tờ rơi, tập gấp, phát hành sách thơ văn ca ngợi thắng cảnh và con người Lý Sơn, làm đĩa DVD truyên truyền quảng bá du lịch biển đảo Lý Sơn trên các tàu cao tốc…Tuy nhiên, công tác tuyên truyền quảng bá du lịch ở Lý Sơn chưa đạt được hiệu quả cao và chưa thường xuyên. Trong thời gian qua, du lịch huyện Lý Sơn cũng đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là lượng khách du lịch đến với Lý Sơn ngày càng đông.

Page 100: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

100

Bảng 7. Số lượng du khách đến Lý Sơn giai đoạn 2008 - 2012 Chỉ tiêu 2008 2009 2010 2011 2012

1. Tổng lượt khách 2.500 4.515 8.800 9.450 10.690 Khách quốc tế (lượt khách) 147 42 120 200 350 Khách nội địa (lượt khách) 2.353 4.473 8.680 9.250 10.340 2. Tổng doanh thu (tỷ đồng) 1.250 2.278 5.280 6.142 7.483

Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Lý Sơn về tình hình phát triển KTXH năm 2013 Tóm lại: Việc khai thác, sử dụng các DTLS - VH phục vụ phát triển du lịch ở huyện Lý Sơn vẫn chưa đạt được hiệu quả cao, sản phẩm du lịch còn hạn chế về số lượng và chất lượng, chỉ mới khai thác được phần nhỏ nguồn tài nguyên du lịch, chỉ có các loại hình tham quan đơn điệu, chưa có các chương trình, sản phẩm lôi cuốn, hấp dẫn cho du khách. Các DTLS - VH ngày càng xuống cấp do thiếu kinh phí trùng tu tôn tạo, bảo quản, ý thức không tốt của người dân và du khách trong việc xả rác thải, gây hư hại xuống cấp di tích và ô nhiễm môi trường, làm mất vẻ mĩ quan, tạo nên môi trường không an toàn cho hoạt động du lịch.

2.4.2. Phương hướng khai thác các DTLS - VH ở huyện đảo Lý Sơn phục vụ phát triển du lịch Vấn đề quy hoạch, khai thác, bảo tồn và tôn tạo các tài nguyên du lịch nhân văn không chỉ là bổn

phận của Nhà nước, của nhân dân Lý Sơn mà còn của cả ngành du lịch đang sử dụng các DTLS - VH làm đối tượng kinh doanh. Bảo tồn, tôn tạo các DTLS - VH là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự thành công của du lịch Lý Sơn trong tương lai. Vấn đề đặt ra là làm sao để các DTLS - VH Lý Sơn phát huy được chức năng kinh tế mà không ảnh hưởng đến tuổi thọ, không phá vỡ không gian vốn có, để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn đầu tư tôn tạo với thực tế nguồn vốn có khả năng khai thác được, mâu thuẫn giữa lợi ích xã hội về bảo vệ di sản với lợi ích dân cư sở tại về sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống, cần phải:

- Lập hồ sơ khoa học để nhìn nhận một cách đầy đủ, khách quan giá trị của các DTLS - VH trên nhiều mặt: lịch sử, kiến trúc, văn hóa, mỹ thuật…

- Quy hoạch chi tiết hệ thống các DTLS - VH của Lý Sơn, trong đó xác định những di tích đặc biệt giá trị, những di tích cần được bảo vệ nguyên trạng, phương án chống xuống cấp các di tích, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho những nơi có các DTLS - VH.

- Không gian cũng là một phần không thể thiếu của kiến trúc, do vậy cẩn thận trong việc cấp giấy phép xây dựng các công trình mới ảnh hưởng đến cảnh quan ở những khu vực nhạy cảm. Cương quyết cưỡng chế phá bỏ những trường hợp lấn chiếm di tích, trả lại không gian cho di tích.

- Thống nhất cơ chế quản lý: Tình trạng quản lý chồng chéo không hiệu quả như hiện nay cần được thay thế bởi duy nhất một đầu mối quản lý. Bảo quản và giữ gìn tốt các cổ vật, tài liệu của các DTLS - VH, tránh tình trạng mất cắp và hư hại như trong thời gian vừa qua.

- Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho người dân về tầm quan trọng và giá trị trên nhiều mặt của các DTLS - VH, qua sự hiểu biết đó sẽ hình thành cho người dân Lý Sơn - những người đang sống cùng các di tích niềm tự hào thiêng liêng về các di sản vô giá mà cha ông đã để lại. Chính sự bảo vệ của người dân mới là sự bảo vệ quan trong nhất, trực tiếp và có tác dụng nhất.

- Xây dựng và không ngừng hoàn thiện, thực hiện nghiêm túc Quy chế quản lý khu di tích, Quy chế quản lý và khai thác các DTLS - VH. Bên cạnh đó, cần phải đào tạo kiến thức về du lịch, về những giá trị của DTLS - VH cho hướng dẫn viên du lịch - đây là người rất quan trọng trong việc giới thiệu, chuyển tải những giá trị của các DTLS - VH đến với khách du lịch.

Page 101: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

101

- Về kinh phí đầu tư, tôn tạo và bảo tồn các DTLS - VH là rất lớn, Lý Sơn phải tích cực huy động vốn từ các nguồn: nguồn ngân sách Nhà nước cấp; kêu gọi sự tài trợ của các thành phần kinh tế, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, các tổ chức phi chính phủ; tổ chức các hội thảo, các sự kiện văn hóa, lập “Bảo tàng cổ vật Lý Sơn” trưng bày cổ vật, giới thiệu đầy đủ về quá trình hình thành và phát triển của Lý Sơn, nhằm tạo kinh phí từ sự đóng góp tự nguyện của khách mời, từ tiền bán vé…

- Việc khai thác phải đi đôi với giữ gìn, trùng tu và tôn tạo các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thể hiện qua các di tích, nhằm tạo ra và duy trì các sản phẩm du lịch văn hóa có chất lượng, khuyến khích phát triển các loại hình du lịch gắn với bảo tồn di tích và văn hóa bản địa… Điều này còn có ý nghĩa đối với việc xác lập chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong mối quan hệ với các di tích lịch sử trên đảo Lý Sơn.

- Để khai thác có hiệu quả các DTLS - VH ở trên huyện đảo Lý Sơn phục vụ phát triển du lịch phải hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật và cơ sở hạ tầng cho du lịch. Đặc biệt chú ý ưu tiên xem xét các dự án đầu tư phát triển hệ thống điện, nước, đường giao thông và bến cảng. Đầu tư phát triển hệ thống khách sạn, nhà hàng và các công trình phục vụ du lịch, vì hiện tại cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn rất hạn chế. Bên cạch đó dầu tư phát triển hệ thống các công trình vui chơi giải trí, đáp ứng ngày càng cao của khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nội địa.

- Liên kết một số doanh nghiệp du lịch, một số điểm du lịch nổi tiếng trong khu vực miền trung (đặc biệt là Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam) để cùng xúc tiến quảng bá sản phẩm du lịch, tổ chức các tour du lịch văn hóa kết hợp với sinh thái biển đảo. Bên cạnh đó, làm các đoạn phim giới thiệu về đảo Lý Sơn, phát xen kẽ giữa các chương trình trên sóng đài phát thanh truyền hình Quảng Ngãi; Thực hiện các phim phóng sự về đảo Lý Sơn trên các kênh VTV; Mời phóng viên các báo trung ương và địa phương viết bài quảng bá, giới thiệu về tài nguyên du lịch đảo Lý Sơn. In tập gấp, bưu ảnh giới thiệu điểm đến đảo Lý Sơn: Các tập gấp này sẽ cung cấp các thông tin về đảo Lý Sơn cho du khách khi tham quan; thiết kế các bưu ảnh với hình ảnh đảo Lý Sơn, các DTLS - VH, cảnh biển hài hòa với hình ảnh cây tỏi bán cho khách tham quan làm sản phẩm lưu niệm, vừa giúp quảng bá hình ảnh đảo Lý Sơn vừa tạo doanh thu. 3. Kết luận Nghiên cứu này đã xác định được toàn bộ các DTLS - VH của huyện đảo Lý Sơn về mặt số lượng, chất lượng, mức độ thuận lợi trong việc khai thác vào mục đích phát triển du lịch bằng hệ thống các chỉ tiêu, phân tích được thực trạng khai thác các DTLS - VH, từ đó đề xuất khai thác chúng một cách hợp lý và bền vững hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Lê Đức An, 1990. Tổng quan hệ thống đảo Việt Nam, Đề tài khoa học thuộc Chương trình Biển cấp Nhà nước (Mã số :48B-12), Hà Nội.

[2] Lê Văn Huy, 2011. Phát triển du lịch huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Đà Nẵng.

[3] Phạm Trung Lương, , 2008. Cơ sở khoa học phát triển du lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội.

[4] Nguyên Thanh Tương, PGS.TS Lê Văn Thăng, sô thang 6/2011. Sơn Tra quan ly môi trương du lich. Tap chı Du Lich Viêt Nam.

[5] Nguyên Thanh Tương, sô thang 10/2011. Ba Na quan ly môi trương du lich. Tap chı Du Lich Viêt Nam. [6] Nguyên Thanh Tương, sô thang 9/2012. VQG Phong Nha - Kẻ Bàng quan ly môi trương du

lich. Tap chı Du Lich Viêt Nam.

Page 102: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

102

[7] Nguyên Thanh Tương, sô 2(01)2012. Giải pháp phát triển bền vững du lịch biển đảo thành phố Đà Nẵng. Tap chı Khoa hoc va Giao duc, Trương ĐHSP Đa Năng.

[8] Nguyên Thanh Tương, sô thang 9/2013. Hội An quan ly môi trương du lich. Tap chı Du Lich Viêt Nam. [9] Nguyên Thanh Tương, sô 03/2013. Đánh giá SWOT đối với phát triển du lịch ở các đảo từ

Quảng Trị đến Quảng Ngãi. Tap chı Khoa hoc, Trương Đại học Quảng Nam.

SITUATION AND SOLUTION OF MINING HISTORIC CULTURAL SITES - LY SON ISLAND DISTRICT (QUANG NGAI) FOR TOURISM DEVELOPMENT

Nguyen Thanh Tuong M.A Faculty of History and Geography, Da Nang University of Education Abstract: Ly Son current tourism development is not commensurate with the existing potential, not yet fully meet

the needs of tourists. Accomplishments achieved by Ly Son tourism is still limited and the main causes as that the potential of tourism resources have not been fully addressed, no or very few reasonable tourism models or types to attract visitors. The types of tourism there is monotonous, yet closely linked in development among locals, some investment projects are small, scattered and temporary which led to gamage landscape and regional tourism planning. This article assessed the ability to exploit the historical cultural sites in Ly Son island district (in terms of quantity, quality and ease of exploitation to serve tourism development purposes with Us target system), analyze the situation and propose some solutions to exploit them in a reasonable way to contribute to tourism development in Ly Son district towards sustainable and more efficient.

Keywords: Tourism resources, historic sites - cultural, tourism development, forms of tourism, Ly Son.

Page 103: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

103

GÓP PHẦN LÀM RÕ THÊM QUÁ TRÌNH HOÁN ĐỔI VƯƠNG QUYỀN TỪ TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ SANG TRIỀU ĐẠI NHÀ TRẦN

ThS. Trần Thị Phượng Khoa Sử Địa Tóm tắt: Sự suy yếu của một triều đại bao giờ cũng là mầm mống cho sự xác lập của một triều đại mới, đây là quy luật tất yếu của lịch sử và hai triều đại Lý - Trần cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng quá trình hoán đổi vương quyền từ nhà Lý sang nhà Trần là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử dân tộc.

Từ khóa: Sự xác lập, vương triều Trần. 1. Đặt vấn đề Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam sự thay thế quyền lực giữa nhà Lý và nhà Trần

có thể nói là một hiện tượng đặc biệt nhất. Nếu như một triều đại mới lên thay cần có một số yếu tố vô cùng quan trọng như sự bùng nổ của phong trào nông dân tiêu biểu phải kể đến hàng loạt các phong trào đầu thế kỉ XVI khiến cho nhà Lê sơ suy yếu đưa đến sự thành lập của nhà Mạc; có thể do tác động của các cuộc nội chiến, sự tranh chấp quyền lực của các thế lực cát cứ đưa đến sự thành lập của một vương triều mới như loạn 12 sứ quân đã đưa đến sự thành lập của nhà Đinh; cũng có thể do nguồn gốc xuất thân từ dòng dõi quý tộc, có quan hệ với hoàng tộc của triều đại trước như trường hợp của Hồ Quý Ly; rồi sự giúp đỡ của các thế lực mạnh trong triều đình để đưa đến sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, hay vai trò to lớn trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc như sự thành lập của nhà Lê sơ sau khi đánh thắng quân Minh… Nhưng sự thay thế giữa nhà Lý và nhà Trần lại không cần đến những yếu tố đó, sự thay thế này như một lẽ tất yếu của lịch sử, một yêu cầu mà lịch sử cần nhà Trần phải đáp ứng.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Sự suy yếu của nhà Lý

Có thể nói vào đời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127), nhà Lý đã đạt đến đỉnh cao của sự thịnh trị. Nhưng từ đời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) trở về sau thì tình hình chính sự dần sút kém. Các vua lên ngôi đều nhỏ tuổi (Thần Tông 11 tuổi, Anh Tông 5 tuổi, Cao Tông 2 tuổi) và đều chết yểu (Thần Tông chết 21 tuổi, Cao Tông 37 tuổi), quyền hành nằm trong tay bọn ngoại thích, gian thần, nịnh thần như Đỗ Anh Vũ, Đỗ Yên Di.

Thêm vào đó, lúc này bọn quý tộc nhà chùa cũng sa sỉ không kém, khiến cho tể tướng Đàm Dĩ Mông phải tâu với vua rằng:"Đương nay số tăng đồ và phu dịch ngang nhau. Chúng tự kết bè lũ, lập càn người chủ, tụ họp từng bọn làm nhiều điều ô uế… Nếu không cấm đi, để lâu ngày tất càng thêm tệ" [19, tr.166]. Nhà vua y lời Đàm Dĩ Mông bắt nhiều tăng đồ phải hoàn tục. Đây là một đòn đả kích vô cùng lớn đối với Phật giáo bởi nhà Lý là triều đại sùng bái đạo Phật nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Nạn mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra, khiến cho đời sống nhân dân cực khổ, phiêu tán, hàng loạt các cuộc nổi dậy của nhân dân đã diễn ra. Tiêu biểu như năm 1140, cuộc khởi nghĩa của Thân Lợi ở vùng Thái Nguyên, Lạng sơn, có lần kéo vào tận kinh thành Thăng Long; cuộc nổi dậy của nhân dân Đại Hoàng do Phí Lang cầm đầu năm 1202 khiến cho Cao Tông phải cầu hòa, nhưng trên thực tế triều đình đã không thể kiểm soát miền tây nam của kinh thành Thăng Long nữa. Các cuộc hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến diễn ra càng làm cho chính quyền trung ương nhà Lý suy yếu. Tiêu biểu là nạn loạn Đoàn Thượng và nạn loạn Quách Bốc. Năm 1207, Đoàn Thượng - một hào trưởng lớn nổi dậy ở Hồng Châu (Hải Dương) khiến cho Cao Tông phải phái quân đi đánh dẹp Hồng Châu. Các tướng lĩnh triều đình nhân đó cũng đánh nhau tranh giành quyền lực.

Page 104: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

104

Đây là những nguyên nhân căn bản đã dẫn đến sự suy yếu của nhà Lý và trong những nguyên nhân đó chúng ta cần quan tâm đặc biệt đến các cuộc hỗn chiến, bởi đây là mầm mống cho việc nhà Trần có thể giành được vương quyền.

2.2. Quá trình xác lập vương triều Trần Mở đầu cho quá trình này chính là việc Trần Lý đã sắp xếp cho con gái của mình là Trần Thị

Dung lấy hoàng tử Lý Sảm (tức Lý Huệ Tông sau này). Trần Lý vốn làm nghề đánh cá, sau trở nên giàu có đã dựa vào thế lực họ Lưu và họ Tô trong vùng để có được một chức quan nhỏ. Nhân loạn lạc, Trần Lý chiếm cứ miền Hải Ấp. Họ Trần có binh lực nổi dậy, tạm về phe Quách Bốc. Với nạn loạn Quách Bốc thì hoàng tử Sảm cùng mẹ là nguyên phi Đàm Thị và hai em gái đã được đưa về miền Hải Ấp (Hưng Hà - Thái Bình) nhờ công của Trần Lý. Trần Lý đã đưa Lý Sảm lên ngôi vua ở Hải Ấp (đối lập với vương triều của Lý Cao Tông). Lúc này Lý Sảm lấy con thứ của Trần Lý là Trần Thị Dung. Về sau Trần Thị Dung một bước trở thành nguyên phi của nhà Lý. Như vậy, đã hình thành một triều đình nhỏ ở vùng Thái Bình, tuy người họ Lý làm vua, nhưng quyền hành thực tế vào tay anh em họ Trần. Họ Trần dần dần tổ chức thành một dòng quý tộc mới. Thế là từ một ông lão đánh cá, một người dân bình thường như bao người khác nhưng nhờ sự tính toán khôn ngoan của Trần Lý đã đặt nền móng cho việc xác lập vương triều Trần sau này.

Bước tiếp theo trong quá trình này, cũng có thể nói là bước quan trọng nhất và gian nan nhất đó chính là quá trình "dọn đường" của Trần Tự Khánh. Năm 1210, Lý Cao Tông mất, Thái tử Sảm trở về kinh đô, lên ngôi vua tức Lý Huệ Tông. Chính quyền Trung ương nhà Lý được phục hồi nhưng lúc này đã suy yếu, cả nước hình thành ba thế lực cát cứ lớn đó là: Thế lực họ Đoàn ở vùng Hải Dương, Hải Phòng; thế lực Nguyễn Nộn ở Sơn Tây; Thế lực Trần Tự Khánh ở Thái Bình, Nam Định và Nam Hưng Yên. Triều đình nhà Lý thực tế chỉ kiểm soát được vùng xung quanh Thăng Long. Trần Tự Khánh là con thứ của Trần Lý, anh vợ của Lý Huệ Tông, đã thay cha thống lĩnh binh chủng, trở thành một thế lực khá mạnh. Khi thế lực họ Trần mạnh lên lại trở thành mục tiêu của nhà Lý. Nhà Lý dựa vào thế lực của họ Đoàn để diệt trừ họ Trần, nhưng càng đánh thế lực họ Trần càng mạnh, kiểm soát cả miền Lý Nhân (Hà Nam), Bắc Ninh, Bắc Giang… Rồi chiếm cả vùng kiểm soát của họ Nguyễn. Huệ Tông lúc này lại tự làm tướng đi đánh Tự Khánh nhưng thất bại. Tuy Tự Khánh đã chiếm được kinh thành Thăng Long nhưng không lên ngôi. Họ Trần vẫn lấy danh nghĩa phò nhà Lý để thu phục lòng dân và dễ bề tiến đánh thế lực họ Đoàn. Về sau, Lý Huệ Tông lại dựa vào thế lực của Nguyễn Nộn, cộng thêm thế lực họ Đoàn chống họ Trần nhưng cũng thất bại. Đến năm 1216, khi bị các tướng Đỗ Át, Đỗ Nhuế chống lại Huệ Tông thì Huệ Tông lại nương nhờ họ Trần. Trần Tự Khánh đem quân đến đón rước Huệ Tông, đưa trở lại ngôi vua. Thế là thế lực họ Trần dần dần nắm hết những chức vụ quan trọng trong triều đình. Trải qua 13 năm đất nước bị chia xẻ bởi các thế lực hào trưởng, chính quyền nhà Lý càng suy yếu, nay được thống nhất lại. Quyền lực chính quyền trung ương lại dần dần tập trung, củng cố dưới sự lãnh đạo của họ Trần. Như vậy, ngay lúc này nhà Trần đã có thể giành lấy quyền bính về tay dòng họ mình bởi nhà Lý đã vô cùng suy yếu, không còn thực quyền nữa, nhưng vì sao nhà Trần không thực hiện việc cướp ngôi của nhà Lý? Có thể có rất nhiều nguyên nhân khác nhau như nhà Trần muốn nhận được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân để sau này khi nắm chính quyền sẽ không gặp phải sự phản kháng nào? Cũng có thể nhà Trần muốn gây dựng mối quan hệ với vua quan nhà Lý để lấy lòng tin của họ? Hoặc là do các thế lực cát cứ mới bị tiêu diệt cần thời gian để loại bỏ hoàn toàn?… Nhưng có lẽ thực tế lịch sử đã cho chúng ta câu trả lời rõ ràng nhất đó chính là bởi màn

Page 105: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

105

kịch đảo chính "thay tên, đổi họ" vô cùng độc đáo và thành công của hai nhân vật Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung.

Trần Thị Dung vốn có tên là Trần Thị Ngừ. Do họ Trần xuất thân chài lưới nên thường đặt tên theo tên các loài cá. Bà người thôn Gia Lưu, Hải Ấp (nay là Làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Bà là con gái của Trần Lý, em gái kế của Trần Thừa và Trần Tự Khánh, tức là cô ruột của Trần Thái Tông (1226 - 1258). Phần trên chúng ta đã đề cập đến bà với sự sắp xếp của Trần Lý và cậu ruột bà là Tô Trung Từ đã trở thành vợ của Lý Huệ Tông với nạn loạn Quách Bốc năm 1209.

Đầu năm 1211, Trần Thị Dung được phong làm nguyên phi. Bà sinh được 2 con gái với Lý Huệ Tông là công chúa Thuận Thiên Lý Ngọc Oanh và công chúa Chiêu Thánh (Phật Kim) - sau này trở thành Lý Chiêu Hoàng.

Sau này do Trần Tự Khánh xung đột với các hào trưởng địa phương thân với nhà Lý và có lần xung đột với quân của Huệ Tông nên bà bị thái hậu Đàm Thị là mẹ Huệ Tông ghét. Huệ Tông nghe lời mẹ, phế truất ngôi phi của bà, cho làm ngự nữ.

Tuy nhiên, sau đó các phe thân nhà Lý cũng như chính Lý Huệ Tông bị Trần Tự Khánh đánh bại. Vì yêu bà, đầu năm 1216, Huệ Tông lại lập bà làm Thuận Trinh phu nhân. Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ Trần Thị Dung mà nói là bè đảng của giặc, bảo Huệ Tông đuổi bỏ đi. Sau đó Đàm Thái hậu lại sai người nói với bà, bảo phải tự sát. Huệ Tông biết bèn ngăn lại. Đàm Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn Huệ Tông thường chia cho bà một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh.

Tháng 4 năm 1216, các tướng ở Cảo Xã (Nhật Tảo, Từ Liêm, Hà Nội) là Đỗ Át, Đỗ Nhuế chống lại triều đình. Lý Huệ Tông dựa vào Lý Bát, sai Bát đánh lại, nhưng không thắng. Trước tình thế đó, Huệ Tông đành lại quay về nương nhờ anh em họ Trần.

Khi đó trong triều, Đàm Thái hậu ngày ngày muốn giết Trần Thị Dung, sai người cầm chén thuốc độc bắt bà phải chết. Huệ Tông ngăn lại không cho, rồi đêm ấy cùng với bà lẻn đi đến chỗ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã sáng, phải nghỉ lại ở nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem binh thuyền đến đón. Huệ Tông bèn đỗ lại ở bãi Cứu Liên và truyền cho Tự Khánh đến chầu. Tự Khánh, vì ý đồ chính trị của họ Trần nên khi đón được Huệ Tông vẫn kính cẩn phò trợ. Họ Trần nắm quyền trong triều, bà được Huệ Tông phong làm hoàng hậu. Trong quá trình xác lập của vương triều Trần thì Trần Thị Dung như một chiếc cầu nối xoa dịu mọi mâu thuẫn giữa nhà Lý và nhà Trần.

Trần Thủ Độ sinh tại làng Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Sau khi Trần Tự Khánh mất vào cuối năm 1223 thì đến đầu năm 1224, Trần Thừa (anh trai Tự Khánh) được cử làm Phụ Quốc Thái úy, Trần Thủ Độ (em họ Trần Tự Khánh) được cử làm Điện Tiền Chỉ huy sứ. Trần Thủ Độ thực sự là người thay thế nắm quyền trong triều đình. Đối với nhà Lý, ông tỏ ra còn cứng rắn hơn Trần Tự Khánh.

Quay trở lại với vương triều nhà Lý, Lý Huệ Tông không có con trai từ lâu đã phát bệnh cuồng, bỏ bê công việc triều chính. Dưới sự sắp xếp của Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung một màn kịch đảo chính “thay tên, đổi họ” giữa nhà Lý và họ Trần đã diễn ra. Năm 1225, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, Huệ Tông đã nhường ngôi cho con gái thứ của mình là công chúa Chiêu Thánh khi đó mới 7 tuổi, tự mình làm Thái Thượng hoàng. Quyền lực trong triều lúc này hoàn toàn nằm trong tay Trần Thủ Độ.

Page 106: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

106

Bước tiếp theo trong kế hoạch của Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung đó là sắp xếp cho Trần Cảnh (con của Trần Thừa, gọi Trần Thị Dung là cô ruột, gọi Trần Thủ Độ là chú họ) vào cung giữ chức Chánh thủ chuyên hầu hạ Lý Chiêu Hoàng. Năm 1226, hai người cùng với Trần Thừa đã ép Lý Chiêu Hoàng phải lấy Trần Cảnh sau đó nhường ngôi cho chồng. Như vậy, dưới sự sắp xếp tài tình của Trần Thủ Độ cộng thêm sự giúp sức của Trần Thị Dung màn đảo chính đã diễn ra nhanh gọn, không gặp phải bất cứ sự phản kháng nào, kể cả của quan lại, quý tộc họ Lý. Đến đây, nhà Lý đã chấm dứt sự tồn tại của mình trên 200 năm, đưa đến sự xác lập của một vương triều mới - vương triều nhà Trần.

3. Kết luận Qua quá trình phân tích chúng ta có thể thấy rằng sự thay thế quyền lực từ nhà Lý sang nhà

Trần có hàng loạt những điểm đặc biệt mà chúng ta khó có thể tìm thấy ở một triều đại nào khác. Trước hết là vị trí trong xã hội: họ Trần có thể biến dòng họ mình từ nông dân trở thành quý tộc, để sau đó lại trở thành những thế lực lớn làm "chỗ dựa" vững chắc cho nhà Lý trấn an đất nước, rồi chính bà Hoàng đế cuối cùng của triều Lý và là vị nữ Hoàng đế duy nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã rút khỏi chính sự, lui về chốn hậu cung để nhường ngôi cho chồng. Việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh là một việc làm thuận theo lẽ tự nhiên, thuận theo lễ nghi của lễ giáo phong kiến, đặc biệt ở một đất nước Nho giáo dù chưa phải là Quốc giáo nhưng mới trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc đã khiến nó ăn sâu, thấm đẫm vào tư tưởng người Việt thì điều này lại càng trở nên bình thường. Trong Nho giáo có Tam cương tức là ba mối quan hệ căn bản trong xã hội gồm: "vua - tôi", "cha - con", "chồng - vợ", người chồng, người đàn ông trong gia đình bao giờ cũng phải được coi trọng, được đặt ở vị trí tối thượng, rồi từ phạm vi gia đình có thể mở rộng ra phạm vi đất nước. Lý Chiêu Hoàng không thể cứ thế mà cai trị đất nước, không thể đặt mình lên vị trí tối cao vì là phụ nữ, vì những ràng buộc của lễ giáo phong kiến nên đã phải nhường ngôi cho chồng. Việc làm đó là thuận theo lẽ tự nhiên nên sẽ không gặp phải bất kì sự phản kháng nào của quần chúng nhân dân, kể cả quý tộc nhà Lý. Đây chính là căn cứ, là cơ sở để Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung có thể thực hiện màn kịch đảo chính của mình. Màn kịch đảo chính "thay tên, đổi họ" của hai nhân vật này đã diễn ra thật êm đẹp, đạt được kết quả viên mãn, đưa đến sự thành lập của triều đại nhà Trần khi nhà Lý đã vô cùng suy yếu.

Như vậy, sự thay thế quyền lực giữa nhà Lý và nhà Trần diễn ra trong một thời gian lâu dài và là kết quả tất yếu của tiến trình lịch sử: khi một triều đại suy yếu cần có một vương triều khác đủ mạnh lên thay thế để lãnh đạo, xây dựng và phát triển đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Trương Hữu Quýnh, 2009. Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam. Nxb Thế giới, Hà Nội.

[2] Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), 1999. Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập I. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [3] Đào Tố Uyên (chủ biên), 2008. Giáo trình Lịch sử Việt Nam, tập II. Nxb Đại học Sư phạm. [4] Nguyễn Thị Phương Chi,Hà Nội 2009. Kinh tế, xã hội thời Trần (Thế kỷ XIII – XIV).

Nxb Giáo dục Việt Nam. [5] Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh, 1980. Lịch sử Việt Nam, quyển I, trước 1427.

Nxb Giáo dục, Hà Nội. [6] Lưu Văn An, 2008. Thể chế chính trị Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám dưới

góc nhìn hiện đại. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [7] Ủy ban KHXH Việt Nam, Viện Sử học, 1980, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần. Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

Page 107: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

107

A CLARIFICATION OF THE SWAPP.ING PROCESS OF KINGSHIP FROM LY DYNASTY TO TRAN DYNASTY

Tran Thi Phuong M.A Faculty of History and Geography

Abstract: The decline of a dynasty always signals the beginning of a new dynasty. This is an indispensable principle of the history; and two dynasties Ly - Tran are not an exception. However, we can see that the process of swapp.ing of the kingship from Ly Dynasty to Tran dynasty is a special phenomenon in the history.

Keywords: Foundation, Tran dynasty’s.

Page 108: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

108

MỘT SỐ THẮNG LỢI TIÊU BIỂU CỦA CỦA LIÊN QUÂN LÀO - VIỆT TRONG CHIẾN CUỘC ĐÔNG XUÂN 1953 - 1954

ThS. Đinh Ngọc Ruẫn Khoa Sử Địa

Tóm tắt: Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, liên quân Lào - Việt, thực hiện hiệp đồng tác chiến chặt chẽ và giành được một số chiến thắng quan trọng trên chiến trường Lào đó là: Trung Lào, Hạ Lào và Thượng Lào. Những chiến thắng này cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ trên chiến trường Việt Nam, đã làm phá sản hoàn toàn kế hoạch Nava và buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán, kí kết Hiệp định Giơnevơ, công nhận chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân ba nước Đông Dương.

Từ khóa: Thắng lợi tiêu biểu, liên quân Lào-Việt, Đông-Xuân 1953-1954, trung Lào, hạ Lào, thượng Lào. 1. Đặt vấn đề Do vị trí địa lí gần gũi và chịu những tác động chung của những yếu tố khách quan bên ngoài,

nên hai quốc gia Lào, Việt đã hình thành một đồng minh mang tính chất hoàn toàn tự nhiên. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, được sự giúp đỡ của Anh, Mỹ, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương. Nhân dân Đông Dương nói chung, đặc biệt quân, dân hai nước Lào - Việt nói riêng, lại sát cánh bên nhau cùng chung chiến hào đánh Pháp. Trong cuộc tiến công chiến lược 1953 - 1954, trên chiến trường Lào, liên quân hai nước tích cực triển khai chiến đấu và giành được những chiến thắng quan trọng. Những thắng lợi trên chiến trường Lào, cùng với những thắng lợi từ chiến trường hai nước Việt Nam và Campuchia, đã buộc thực dân Pháp ngồi vào bản đàm phán, kí kết Hiệp định Giơnevơ công nhận chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân ba nước Đông Dương. Ở nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập tới một số thắng lợi tiêu biểu của liên quân Lào - Việt trên chiến trường Lào trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Hoàn cảnh mới của cuộc kháng chiến Thất bại liên tiếp trên chiến trường Đông Dương, đã buộc thực dân Pháp phải cử tướng Hăngri

Nava sang Đông Dương (19/5/1953), đảm nhận nhiệm vụ Tổng chỉ huy đội quân viễn chinh thay cho Sa lăng bị triệu hồi về nước. Sau một thời gian ngắn thị sát tình hình Đông Dương, Nava đã có một kế hoạch đệ trình trước Hội đồng tham mưu trưởng và Hội đồng quốc phòng tối cao Pháp. Nội dung kế hoach Nava chia làm hai bước:

“Trong chiến cuộc năm 1953 - 1954, thực hiện phòng ngự chiến lược ở phía Bắc vĩ tuyến 18, tránh giao chiến toàn diện, ngược lại, cố gắng thực hiện tiến công ở phía Nam vĩ tuyến 18, nhằm bình định miền Nam và miền Trung Đông Dương, đặc biệt tiến công chiếm đóng Liên khu V (Việt Nam).

Sau khi nắm được ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa Thu năm 1954, sẽ chuyển lên tiến công ở phía Bắc vĩ tuyến 18, tạo nên một cục diện quân sự khiến Pháp có được một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh” [5: tr188-189]

Để thực hiện kế hoạch tác chiến phòng ngự chiến lược ở phía Bắc vĩ tuyến 18 và tiến công ở phía Nam vĩ tuyến 18 trong thời gian năm 1953 - 1954, Bộ tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương đề ra hai giai đoạn tác chiến:

Giai đoạn một, mùa hè và đầu mùa Thu năm 1953: Tiến hành bình định vùng đồng bằng Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ Việt Nam và ở Lào nhằm quấy rối hậu phương của đối phương và mở rộng khu vực chiếm đóng ra các vùng xung quanh LuôngPhabang và cánh đồng Chum.

Page 109: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

109

Giai đoạn hai, mùa khô năm 1953 - 1954, tiến hành những chiến dịch lớn nhằm phá cuộc tiến công của đối phương (vào tháng 10 và 11) và những chiến dịch nhằm chiếm vùng tự do của đối phương ở phía Nam vĩ tuyến 18.

Nhằm đối phó với kế hoạch Nava, Trung ương Mặt trận Lào và Chính phủ Lào kháng chiến đã đề ra chủ trương tích cực củng cố khu giải phóng về mọi mặt, tăng cường xây dựng lực lượng quân chủ lực, xây dựng bộ đội địa phương. Về kế hoạch tác chiến cụ thể, Trung ương Đảng Lào chủ trương phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam mở các cuộc tấn công quy mô lớn vào vùng địch kiểm soát, mở rộng vùng giải phóng. Trong khi đó, Bộ chính trị của ta triệu tập một cuộc họp để bàn về hoạch tác chiến trong Đông - Xuân 1953 - 1954. Kế hoạch tác chiến được thông qua, riêng tại Lào những hướng tiến công được xác định có Trung Lào, Hạ Lào, cùng với việc tấn công lên Tây Bắc Việt Nam, nhằm giải phóng Lai Châu và uy hiếp Thượng Lào.

Như vậy, lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp, hai nước Lào - Việt, có một kế hoạch tác chiến phối hợp trên quy mô hai nước.

2.2. Một số thắng lợi tiêu biểu của liên quân Lào - Việt trên chiến trường Lào trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 Để phá vỡ kế hoạch Nava, lực lượng cách mạng ba nước Đông Dương nói chúng, của liên quân Lào - Việt nói riêng đã được triển khai trong một thế trận hiệp đồng chặt chẽ với ý thức “ Đông Dương là một chiến trường”. Thực hiện kế hoạch tác chiến trong Đông Xuân 1953 - 1954, từ cuối tháng 11 năm 1953, một bộ phận chủ lực của ta tiến lên Lai Châu và cùng thời gian này, một cánh quân khác của ta cũng lên đường tiến sang Trung, Hạ Lào. Lực lượng tham gia tiến công địch ở hướng này có trung đoàn 66 và 101, cùng với các đơn vị quân tình nguyện liên khu 4, Liên khu 5 đã sang phối hợp với bạn hoạt động từ những năm trước và một số đơn vị Pathét Lào. Để tiến hành chiến dịch, một bộ chỉ huy liên quân Lào - Việt được thành lập. Ngày 21/12/1953, liên quân Lào - Việt tập kích tiêu diệt một tiểu đoàn bộ binh và một đại đội pháo của địch ở Khămna, sau đó tiêu diệt gọn một đại đội địch từ Banaphào tới ứng cứu. Đêm 22/12, liên quân Lào - Việt đánh thiệt hại nặng một số tiểu đoàn địch ở Khămna. Đòn tấn công bất ngờ trên đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở Trung Lào, tạo điều kiện cho trung đoàn 66 truy kích tiêu diệt gọn một tiểu đoàn địch ở Pacuội khi chúng rút chạy khỏi Mụgiạ và Banaphào. Trong hai ngày 23 và 24, một đơn vị bộ đội ta và bộ đội bạn tiến công Lạc Sao, Căm Cớt, diệt một loạt vị trí dọc đường số 12, giải phóng thị xã Nhommarát, rồi tiến vào giải phóng thị xã Thà Khẹc và toàn bộ tỉnh Khăm Muộn. Tính chung, trong đợt tiến công này, liên quân Lào - Việt đã giải phóng một khu vực rộng lớn gần 40.000 km2 với khoảng 40 vạn dân. Phòng tuyến của địch ở Trung Lào bị phá vỡ. Báo chí địch cho rằng đây là một thảm kịch đối với quân Pháp bởi Đông Dương đứng trước nguy cơ bị chia cắt làm đôi. Để cứu vãn tình thế, Nava vội vã cho điều động 19 tiểu đoàn bộ binh cơ động, 3 tiểu đoàn pháo binh từ các chiến trường Bắc Bộ, Nam Bộ đến Xavanakhẹt tổ chức thành một tập đoàn cứ điểm lớn ở Sê nô. Đến cuối tháng 12/1953, quân địch ở Trung Lào đã lên tới 26 tiểu đoàn, trở thành nơi tập trung quân lớn thứ ba trên chiến trường Đông Dương. Rõ ràng, với việc tập trung binh lực của địch tại Trung Lào sau đòn tiến công của liên quân Lào - Việt đã bước đầu phá vỡ được kế hoạch tập trung quân của Nava tại đồng bằng Bắc Bộ.

Page 110: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

110

Từ cuối tháng 1 năm 1954, tiếng súng phối hợp trên chiến trường Hạ Lào cũng bắt đầu nổ. Cần phải lưu ý một điều là, trước đó trong cuộc tấn công Trung Lào cuối tháng 12/1953, trung đoàn 101 đã cho mũi thọc sâu đánh xuống Hạ Lào, tạo bàn đạp cho lực lượng lớn của ta phát triển xuống phía Nam. Thực hiện kế hoạch tấn công Hạ Lào, tiểu đoàn 436 thuộc trung đoàn 101 đã gấp rút vận động xuống Hạ Lào cùng phối hợp với 1 đại đội quân tình nguyện liên khu 5 và bộ đội, du kích Pathét Lào mở chiến dịch tiến công quân địch. Từ cuối tháng 1 năm 1954 đến cuối tháng 2 năm 1954, liên quân Lào - Việt liên tục tiến công, truy kích địch, loại khỏi vòng chiến đấu 3000 tên, giải phóng hoàn toàn tỉnh Atôpơ, cao nguyên Bô lô ven và Nam Xaravan rộng hơn 20.000 km2,, nối liền vùng giải phóng Hạ Lào với Trung Lào và vùng giải phóng Bắc Tây Nguyên của Việt Nam. Tiếp đà thắng lợi, liên quân Lào - Việt tiến công giải phóng Chămpaxắc. Từ Chămpaxắc, liên quân Lào - Việt phối hợp với quân giải phóng Khơme Ítxarắc tiến công quân địch trên đất Campuchia, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn thuộc Đông Bắc Campuchia. Những thắng lợi trên, chứng tỏ quyết định mở mặt trận ở Trung, Hạ Lào trong Đông Xuân 1953 - 1954 của ta là chính xác, đã chọn đúng khu vực xung yếu mà địch không thể bỏ. Thắng lợi này còn đồng thời đặt ra một phương án là nếu phối hợp với chiến trường Tây Bắc Việt Nam, một cuộc tiến công khác đồng thời nổ ra tại Thượng Lào thì Nava sẽ phải tiếp tục phân tán lực lượng về phía này. Trong khi liên quân Lào - Việt thực hiện tiến công ở Trung, Hạ Lào, tại chiến trường Việt Nam, quân ta cũng tiến quân lên Tây Bắc (cuối năm 1953). Phát hiện hướng tiến công của ta, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Sau đó, trước cuộc tiến công của ta, địch bỏ Lai Châu, rút về cố thủ tại Điện Biên Phủ, đồng thời Nava quyết định tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm lớn nhất, mạnh nhất trong cuộc chiến tranh Đông Dương nhằm bảo vệ Tây Bắc, che chở cho Thượng Lào và tiêu diệt chủ lực của ta. Đầu tháng 12 năm 1953, Tổng quân ủy Võ Nguyên Giáp đã gửi lên Bộ chính trị dự kiến kế hoạch đánh Điện Biên Phủ. Hạ tuần tháng 12 năm 1953, Bộ chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến lược trong Đông Xuân 1953 - 1954. Triển khai kế hoạch tác chiến, quân dân Việt Nam nhanh chóng thiết lập thế trận bao vây quân địch và tịch cực chuẩn bị mọi mặt cho chiến trường Điện Biên Phủ. Một điều đáng nói là trong quá trình chuẩn bị cho trận chung kết Điện Biên Phủ, nghệ thuật phối hợp chiến trường của liên quân Lào - Việt đã phát triển tới đỉnh cao. Điều này được khẳng định qua cuộc tiến công của liên quân hai nước trong chiến dịch Thượng Lào đầu năm 1954. Như chúng ta đã biết, trong kế hoạch tiến công Điện Biên Phủ, lúc đầu ta chủ trương “đánh nhanh, thắng nhanh”, nhưng qua thực tế chiến trường, Tổng quân ủy quyết định chuyển sang “đánh chắc, tiến chắc”. Với quyết định này, quân ta buộc phải thực hiện việc kéo pháo từ trận địa chuẩn bị ra ngoài, nhằm triển khai chu đáo mọi mặt cho một cuộc tiến công diễn ra sau đó. Để thực hiện kế hoạch mới, Đảng ủy chiến dịch đưa đại đoàn 308 sang Thượng Lào, phối hợp với bạn tiến công địch. Hoạt động của liên quân Lào - Việt trên chiến trường Thượng Lào, trước hết nhằm thu hút không quân và lực lượng cơ động địch, tạo điều kiện cho quân ta tại chiến trường Điện Biên Phủ, đưa pháo ra an toàn theo kế hoạch “ đánh chắc, tiến chắc”. Hơn nữa, hoạt động của liên quân tại đây còn có nhiệm vụ nghi binh chiến dịch, làm sai lạc sự phán đoán của địch, vừa tiêu diệt một bộ phận sinh lực, đập tan con đường hành lang nối liền Luông Phabăng với Điện Biên Phủ, thiết thực chuẩn bị cho trận đánh sắp tới.

Page 111: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

111

Trải qua gần một tháng của chiến dịch Thượng Lào, liên quân Lào - Việt đã truy kích địch trên chặng đường dài 200 km, đánh thiệt hại nặng quân địch ở Mường Khoa (31/1/1954), Mường Ngòi, Nậm Ngà (3/2/1954), giải phóng hoàn toàn tỉnh Phông Xa Lỳ (24/2/1954) và lưu vực sông Nậm Hu. Tính chung, trong toàn chiến dịch, liên quân đã tiêu diệt và làm tan rã 17 đại đội địch, trong đó có 1 tiểu đoàn lính lê dương bị tiêu diệt gọn, thu hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn khoảng 10.000 km2, cô lập hoàn toàn Điện Biên Phủ. Trước đòn tiến công bất ngờ của liên quân Lào - Việt, đặc biệt là Luông Pha Băng bị uy hiếp, Nava phải lập một cầu hàng không tăng viện cho Thượng Lào. Ông ta đã vét từ đồng bằng Bắc Bộ binh đoàn cơ động số 7, tiểu đoàn khinh quân ngụy số 301 từ Xiêng Khoảng, cùng với một số tiếu đoàn, trung đoàn bộ binh từ một số mặt trận khác, tăng cường cho Luông Pha Băng và Mường Sài để thành lập hai tập đoàn cứ điểm mới. Như vậy, qua chiến dịch, Nava phải tiếp tục phân tán khối chủ lực cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ, biến Thượng Lào thành nơi tập binh lực lớn thứ tư của địch trên chiến trường Đông Dương. Đánh giá về chiến dịch Thượng Lào, kí giả người Pháp Rô-Be-Ghi-Lanh trong tập “Kết thúc những ảo tưởng” cho rằng: “Đó là một cuộc chạy việt dã quái đản, xuyên qua rừng rậm, vượt trên sức bất cứ một đội quân nào”, “Mặt trận Lào quả là một cái bơm, bơm cạn hết nguồn sinh lực của các mặt trận khác: đồng bằng, Át Lăng và cả Trung Lào cũng đều phải rút bớt quân để ném cho cái “Chiến trường bị đe dọa là Mường Sài và Luông Pha Băng” [3;tr130]. Việc liên quân Lào - Việt mở chiến dịch Thượng Lào có ý nghĩa hết sức quan trọng và là một bước chuẩn bị chu đáo cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Vì vậy, chiến trường Thượng Lào và chiến trường Điện Biên Phủ gắn liền với vận mệnh của nhau. Chiến dịch Thượng Lào thắng lợi, đã tạo tiền đề trực tiếp cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Để củng cố, mở rộng những thắng lợi to lớn mà quân và dân ba nước đã giành được, đặc biệt là của quân, dân Lào - Việt trong những tháng mở đầu chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, chúng ta tập trung toàn bộ lực tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại hoàn toàn kế hoạch Nava.

3. Kết luận Cùng chung hiểm họa mất nước, vì mục tiêu độc lập tư do, hai dân tộc Lào - Việt đã đoàn kết bên nhau chung chiến hào đánh Pháp. Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1953 - 1954, bộ đội Pathét Lào cùng quân tình nguyện Việt Nam triển khai hiệp đồng tác chiến chặt chẽ và giành được những chiến thắng quan trọng như: Trung Lào, Hạ Lào, nhất là chiến thắng Thượng Lào, đã làm cho kế hoạch Nava bị đảo lộn và bắt đầu phá sản. Những thắng lợi trên còn góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược của quân dân Việt Nam tại chiến trường Điện Biên Phủ. Với chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, thực dân Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, kí kết Hiệp định Giơnevơ công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp. Một trong những nhân tố dẫn tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Đông Dương là tình đoàn kết chiến đấu giữa quân, dân hai nước Lào - Việt. Truyền thống đó tiếp tục được phát huy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai dân tộc hiện nay.

Page 112: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

112

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] 2008. Chiến thắng Điện Biên Phủ - Cột mốc vàng lịch sử. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Phan Gia Bền, Đặng Bích Hà, Phạm Nguyên Long, Huỳnh Lứa..., 1978. Lược sử nước Lào.

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nôi. [3] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 2001. Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử. Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội. [4] Phạm Chí Nhân, 2004. Đại đoàn 308 với chiến dịch Điện Biên Phủ. Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội. [5] Nguyễn Hùng Phi, TS. Buasi Chalơnsúc, 2006. Lịch sử Lào hiện đại (tập I). Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

SOME TYPICAL SUCCESSES OF LAOS - VIET NAM’S COALITION ON THE BATTLEFIELD OF LAOS IN WINTER- SPRING 1953 - 1954

Dinh Ngoc Ruan M.A Faculty of History and Geography

Abstract: In the Winter- Spring 1953- 1954, Laos - Vietnam’s coalition worked close with to attain some important victories in the Laos’s battleground such as: Upp.er land, lower land and midland of Laos. These victories along with the victory of the Battle of Dien Bien Phu in Viet Nam the Navarre plan failed and enforced the French to sign on Geneva Accords to recornise of sovereignty, independence and territorial intergrity of the people in three Indochina countries.

Keywords: Typical successes, Laos - Viet Nam’s coalition, winter-spring 1953 - 1954, upp.er land of Laos, lower land of Laos, midland of Laos.

Page 113: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

113

NHÓM HƯ TỪ TIẾNG VIỆT MANG Ý NGHĨA PHỦ ĐỊNH TRONG SỰ ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG ANH

TS. Bùi Thanh Hoa, Khoa Ngữ văn

ThS. Nguyễn Thị Hương, Khoa Ngoại ngữ

Tóm tắt: Nhóm hư từ phủ định trong tiếng Việt gồm không, chẳng, chả, đâu/ đâu có, nào/ nào có, khỏi, cóc, đếch, ứ, chưa. Về ý nghĩa, các hư từ này phủ nhận, bác bỏ sự tồn tại của một sự tình, một việc, hành động hay đặc điểm nào đó và có thể kèm theo các tình thái đánh giá chủ quan của người nói. Về vị trí và đặc điểm kết hợp, nhóm phụ từ phủ định thường đứng trước biểu thức ngôn ngữ chứa nội dung phủ định, riêng không và đâu có thể đứng sau. Biểu thức ngôn ngữ này có thể là từ hoặc cụm từ, có thể giữ vai trò chủ ngữ, vị ngữ hay các thành phần phụ khác trong câu. Về sử dụng, các hư từ trong nhóm có thể tham gia thực hiện hành động ngôn ngữ trực tiếp thuộc nhóm tường thuật, hay bác bỏ,… có thể bổ sung cho phát ngôn những hiệu lực giao tiếp gián tiếp. Ngoài không có thể tham gia vào mọi phong cách chức năng, các hư từ còn lại trong nhóm thường xuất hiện trong các phong cách nghệ thuật, sinh hoạt hay nghị luận. Trong bài viết này, chúng tôi đặt nhóm hư từ phủ định trong tiếng Việt trong sự đối chiếu với tiếng Anh nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt trong việc biểu hiện nội dung phủ định giữa hai ngôn ngữ. Từ khóa: Hư từ, đồng nghĩa, phủ định.

1. Đặt vấn đề Phủ định hiểu theo nghĩa thông thường là “bác bỏ sự tồn tại, sự cần thiết của cái gì” [6;778]. Như vậy, cùng với khẳng định, phủ định là một thao tác quan trọng trong tình thái nhận thức của con người đối với hiện thực và đối với những điều được nói tới. Phủ định trong phát ngôn được thực hiện bằng các phương tiện từ vựng (thực từ, hư từ) hoặc các cấu trúc câu. Bài viết khảo sát các hư từ tiếng Việt mang ý nghĩa phủ định. Đây là nhóm hư từ đồng nghĩa với sự đồng nhất và khác biệt tinh tế về nghĩa giữa các thành viên, thể hiện sự phong phú và sinh động của việc giao tiếp bằng ngôn ngữ. Những đặc điểm ngữ nghĩa ấy được đặt trong sự đối chiếu với tiếng Anh để tìm hiểu điểm giống và khác giữa hai ngôn ngữ trong việc biểu hiện nội dung phủ định.Các phương diện ngữ pháp, cấu trúc chúng tôi sẽ tìm hiểu trong một bài viết khác.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Nhóm hư từ mang ý nghĩa phủ định trong tiếng Việt

2.1.2. Nhóm hư từ mang ý nghĩa phủ định trong tiếng Việt bao gồm các từ: Không, chẳng/ chả, đâu/ đâu có, nào/ nào có, đếch, cóc, ứ. Cả nhóm có ý nghĩa khái quát chung biểu thị sự phủ định, bác bỏ đối với điều được nêu ra sau đó (đối tượng bị phủ định có thể là một hiện tượng, sự vật, hoạt động, trạng thái, tính chất hoặc tính cách). Ví dụ:

(1) Tôi không tin vào giọt nước mắt của bà. (1) có thể được cải biến thành: (1a) Tôi chẳng/chả tin vào giọt nước mắt của bà. (1b) Tôi nào/nào có/đâu có tin vào giọt nước mắt của bà. (1c) Tôi đếch/cóc/ứ tin vào giọt nước mắt của bà. 2.1.3. Tuy nhiên, mỗi hư từ trong nhóm lại có những sắc thái ý nghĩa phủ định khá riêng biệt Không có khả năng biểu đạt sự phủ định đối với những nội dung, đối tượng rất rộng và phong

phú. Đó có thể là các kiểu sự tình trong câu cũng như các vai nghĩa, các cảnh huống. Trong đó có nhiều loại sự tình, vai nghĩa hay cảnh huống chỉ có thể bị phủ định bởi không. Nhất là các sự tình quan hệ. (2) Bàn chữ nhật không để ăn cơm. (3) Việc này không tại nó.

Page 114: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

114

Nội dung phủ định sự tình quan hệ mục đích và nguyên nhân trong những ví dụ trên chỉ được thực hiện bởi không. Khó có thể thay không bằng các phụ từ khác trong nhóm. Ngữ liệu cho thấy, không được dùng khi người nói muốn phủ nhận sự cho phép thực hiện một hành động, trạng thái nào đó. (4) Mày không được vào đây. Nếu thay không bằng chẳng (4a) Mày chẳng được vào đây. Phát ngôn chỉ còn nội dung miêu tả một sự tình, thông báo một thông tin. Phần nghĩa cho phép và tình thái mệnh lệnh sẽ bị mất đi. Sắc thái phủ định này của không khiến không thường xuất hiện trong những phát ngôn chứa các biểu thức thể hiện ý chí, quyết tâm hay hành động tuyên bố. (5) Nhưng ta nhất định không được chết. Không được chết vào đêm nay. (6) Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. (Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến) Không cũng được dùng khi người nói muốn phủ định sự tồn tại của các hiện tượng có thuộc tính sự vật hay thuộc tính vật chất. (7) Những căn nhà không cả vách che đằng trước vì chẳng ai thèm tham lam của ai cái gì. (8) Đường không. Cầu cũng không.

Sắc thái phủ định sự tồn tại của không có thể tường minh thành không có. Yếu tố sự vật tính trong ý nghĩa phủ định của không khiến phụ từ này thường xuất hiện trong những phát ngôn có tình thái hoàn toàn khách quan. Chẳng/chả thể hiện ý nghĩa phủ định có kèm theo sắc thái đánh giá của người nói đối với nội dung, đối tượng phủ định.

(9) Sau cái chết của lão Hạ, số phận Cún chẳng đổi thay mấy. Nội dung phủ định của chẳng ở đây là sự đổi thay của số phận Cún. Ngoài ý nghĩa phủ định này, chẳng còn có hàm ý: Lẽ ra, số phận Cún phải đổi thay sau cái chết của lão Hạ. Nếu thay chẳng bằng không, phát ngôn trên sẽ mất đi hàm ý nhận xét ấy. Vì vậy, có thể mô tả sắc thái phủ định này của chẳng như sau: Chẳng + A (đối tượng bị phủ định) = Đáng lẽ, lẽ ra phải A. Nói cách khác, chẳng mang ý nghĩa phủ định dùng cho những trường hợp khác với bình thường (với nghĩa không được như bình thường) hay ngược với lẽ thường. Vì vậy, chẳng thường kết hợp với mà tạo thành mô hình a mà chẳng b ( a và b là hai thuộc tính luôn tồn tại song song) thể hiện sự đánh giá nội dung phủ định là ngược với lẽ thường. Chẳng hạn: có lớn mà chẳng có khôn; có đầu mà chẳng có cuối,… Ngữ liệu cho thấy, chẳng trong nhiều trường hợp chỉ mang tính phủ định một cách tương đối chứ không tuyệt đối như không. (10) Ra tù, Bường chẳng chịu làm ăn gì, mở một quán thịt chó nhưng được hơn một năm thì phá sản. Phần nội dung bị phủ định bởi chẳng là chịu làm ăn đã được phát triển tiếp tục trong nội dung của câu thành hành động mở một quán thịt chó ở vế sau. Trường hợp này, nếu thay chẳng bằng không, phát ngôn sẽ trở nên mâu thuẫn và không lôgíc. Theo quan sát của chúng tôi, có một từ trong nhóm có thể thay thế cho chẳng trong các trường hợp kể trên. Đó là chả. Có thể khẳng định, sắc thái ý nghĩa của chẳng và chả là khá đồng nhất. Có khả năng giữa hai từ này có tồn tại quan hệ biến âm nào đó trong lịch sử. Nhưng phạm vi báo cáo của chúng tôi

Page 115: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

115

không tìm hiểu về lịch sử ngữ âm hay từ nguyên nên dùng dự đoán này như một giả thuyết cho sự đồng nhất rất cao về sắc thái ý nghĩa của chẳng và chả. Nào/nào có thể hiện nội dung phủ định nằm ngoài dự đoán, suy nghĩ và sự chấp nhận của người nói. Vì vậy, nào/nào có thường được dùng khi người nói muốn nhấn mạnh sự phủ định hay bác bỏ điều gì đó. (11) - Chết! Lạy ông, con cháu nào dám thế! Sao ông nghĩ vẩn vơ làm vậy? Nào trong trường hợp này lại thể hiện sắc thái phủ định bác bỏ của người nói (con cháu) đối với điều mà người nghe (ông) cho là đúng hoặc cho là đã xảy ra, với hàm ý khẳng định: điều đó không thể xảy ra. Sắc thái nhấn mạnh của nào ở đây có thể tường minh thành không bao giờ, không khi nào, không thể nào. Nội dung này của nào khiến câu có thêm sắc thái phân bua, thanh minh, như trong ví dụ sau: (12) Bà cụ nghển lại, mặt bán diện, gầy rốc rác: - Tôi nào có mở cổng cho nó.Tôi có chìa khoá đâu. Đâu/đâu có thể hiện nội dung phủ định (việc, vật, trạng thái) xảy ra ngoài dự liệu, dự tính của người phủ định. Do đó, đâu có thêm tình thái thời gian quá khứ cho nội dung phủ định. (13) Anh chỉ kể để mà kể chứ đâu biết nàng cứ nằng nặc muốn đến để tận mắt chứng kiến nơi hồi bé anh sống, mơ mộng và đau khổ. Nội dung đâu biết nàng cứ nằng nặc muốn đến là sự việc đã xảy ra và đã kết thúc trước thời điểm nói. Tại thời điểm phát ngôn, nhân vật anh đã biết về việc nàng cứ nằng nặc muốn đến. Chức năng đánh dấu tình thái không chủ định, không mong muốn khiến đâu trong những trường hợp như phát ngôn trên có thể được mô tả tương đương về nghĩa qua biểu thức chứa từ giá mà. Nếu công thức hoá nội dung phủ định của đâu trong trường hợp này thành: a đâu x (a là chủ thể của hành động phủ định, x là đối tượng, hành động, trạng thái bị phủ định) thì công thức này tương đương với giá mà a x. Chẳng hạn, ví dụ sau (14) Tôi cầu cứu rừng già của tôi, nhưng sự thực thì rừng già đâu còn để tôi chạy trốn. Nội dung phủ định a đâu x có thể được giải thích bằng cách nói chứa giá mà a x (14a) Tôi cầu cứu rừng già của tôi, nhưng sự thực thì giá mà rừng già còn để tôi chạy trốn. Sắc thái phủ định này của đâu không lặp lại ở các phụ từ khác trong nhóm đồng nghĩa. Cóc mang sắc thái nhấn mạnh nội dung phủ định với thái độ quyết liệt của người nói. Nội dung phủ định của cóc còn có tình thái liên nhân rõ ràng, nó cho thấy mối quan hệ vai giao tiếp của người nói và người nghe là ngang hàng và không gần gũi, thân thiết, không thiện chí. (15) Tao cóc sợ. Tao chấp cả ba mày. Đếch gia tăng cho nội dung phủ định sự nhấn mạnh với mục đích làm người nghe tin vào điều mình nói. (16) - Kìa, các bác ăn đi. Nóng sốt mới ngon. Sang năm muốn xơi thịt trâu chọi phải xuống sớm, phải có thổ công, đảm bảo với các bác đã ăn, nghiện đếch dứt được. Trường hợp này, sắc thái phủ định của đếch mang tính tuyệt đối hơn không. Tình thái chủ quan trong nội dung phủ định của đếch còn thể hiện ở chỗ, hư từ này thường kèm theo một nội dung đánh giá âm tính hoặc thái độ không tích cực của người nói đối với nội dung hoặc đối tượng, hành động bị phủ định. (17) Ông lại làm thơ. Nhưng báo đếch nào người ta lại đăng thứ thơ ấy. Thành ra ông có tài thi sĩ mà đếch1ai biết. Và do vậy ông cũng đếch2công nhận ai là nhà thơ.

Page 116: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

116

Ứ có nội dung phủ định dùng cho điều mà người nói không muốn, không có nhu cầu hoặc không thích. (18) Con ứ đi học đâu. Ứ ở đây tương đương về nghĩa với không muốn. Sắc thái phủ định này của ứ khiến phát ngôn có thêm tình thái cầu khiến, ở đây là đề nghị: cho con nghỉ học. Mặt khác, vì có tình thái đề nghị nên ứ thường dùng để phủ định những việc, hành động, trạng thái chưa hoặc chuẩn bị diễn ra. Sắc thái phủ định này hoàn toàn khác với nào (phủ định điều mà người nghe cho là đúng hoặc đã xảy ra). Sắc thái phủ định của ứ mang tính tình thái liên nhân cao. Người nói thường dùng hư từ này trong giao tiếp với người có vai giao tiếp cao hơn mình về tuổi tác, đồng thời có quan hệ tình cảm thân thiết, gần gũi như giữa con cái với cha mẹ, giữa con cháu với ông bà hoặc một số quan hệ tình cảm đặc biệt khác. 2.1.4. Ý nghĩa sắc thái hoá của từng hư từ trong nhóm như đã phân tích bên trên cho thấy nội dung phủ định trong phát ngôn tiếng Việt có những đặc điểm rất phong phú và tinh tế. Một cách tổng quát, có thể phân xuất các sắc thái phủ định ấy như sau Về tình thái chủ quan và khách quan. Tình thái khách quan gồm không. Tình thái chủ quan gồm chẳng, chả, nào, nào có, đâu, đâu có, cóc, đếch, ứ. Về tình thái liên nhân và biểu cảm, có thể phân xuất thành các nhóm: Nhóm thể hiện quan hệ liên nhân ngang hàng hoặc trên hàng với sắc thái biểu cảm không tích cực, không thiện chí (đếch, cóc); Nhóm thể hiện quan hệ liên nhân ngang hàng hoặc dưới hàng với sắc thái biểu cảm thân mật, gần gũi (ứ). Về sắc thái phủ định, có thể phân xuất thành các nhóm: Nhóm thể hiện sự nhấn mạnh nội dung phủ định (chẳng, chả, nào, nào có, đâu, đâu có, đếch, cóc, ứ); Nhóm thể hiện sự đánh giá về nội dung phủ định (chẳng, chả, nào, nào có, đâu, đâu có, chưa), trong nhóm này, có đánh giá về sự bất thường của nội dung phủ định (chẳng, chả), có đánh giá về khả năng xảy ra của nội dung phủ định (nào, nào có, đâu, đâu có, chưa); Nhóm thể hiện phủ định miêu tả gồm không; Nhóm thể hiện phủ định bác bỏ gồm nào, nào có, đâu, đâu có, đếch. Về mức độ phủ định, có thể phân xuất hai nhóm: nhóm phủ định tuyệt đối (không, nào, nào có, cóc, đếch) và nhóm phủ định tương đối (chẳng, chả, đâu, đâu có, ứ). Về mặt cấu tạo, các hư từ trong nhóm thường kết hợp với các từ chỉ thời gian (bao giờ, khi nào,lúc nào, hề…), không gian (đâu, ở đâu, chỗ nào, chốn nào…) hoặc phiếm chỉ (ai, gì, sao…)… Tạo thành những biểu thức ngôn ngữ có tính cố định cao.

3. Nhóm từ mang ý nghĩa phủ định trong tiếng Anh 3.1. Nhóm từ mang ý nghĩa phủ định trong tiếng Anh gồm các từ: No, not, never, hardly/ hardly ever, seldom/rarely, barely/scarcely. Về đại thể, các từ này đều biểu thị ý nghĩa phủ định đối với các sự vật, hiện tượng, tính chất, quan hệ, trạng thái… Xuất hiện đi kèm chúng trong một phát ngôn. Ví dụ: (19) There is no answer for this question. (Không có câu trả lời cho câu hỏi này) (20) I do not have anything to say. (Tôi không có gì để nói) (21) He will never do that again. (Anh ta sẽ không bao giờ làm điều đó nữa) (22) She can hardly/hardlyever become a good teacher.

(Cô ấy khó có thể trở thành một người giáo viên tốt) (23) He seldom/rarely comes to my house. (Anh ấy hiếm khi đến nhà tôi)

Page 117: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

117

(24) He can scarcely/barely have said so. (Anh ấy chắc chắn không nói vậy) 3.2. Mỗi phủ định từ nói trên trong tiếng Anh lại có một đặc điểm ngữ nghĩa riêng biệt Và vì là ngôn ngữ biến hình nên những đặc điểm ngữ nghĩa ấy đồng thời biểu hiện cả những khác biệt về mặt ngữ pháp và cấu trúc. No mang ý nghĩa phủ định “không”, trực tiếp đối với các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, đặc điểm… No thường kết hợp trực tiếp với các danh từ, tính từ… Tạo thành những ngữ phủ định như: nowhere, nothing, nobody, no more, no pain no gain… Và có sắc thái nhấn mạnh. Ví dụ: (25) The boys invited no one to their party. (Các cậu bé không mời ai đến bữa tiệc của chúng cả) (26) Tim has gone nowhere this summer. (Tim chưa đi chơi đâu trong dịp hè này) (27) She has no more to add to the discussion. (Cô ấy không có gì để nói thêm vào cuộc tranh luận) Not mang ý nghĩa phủ định “không phải” đối với các hành động, trạng thái hoặc đặc điểm tính chất hay sự vật hiện tượng. So với no, not có biên độ phủ định rộng hơn. Not thường kết hợp với các trợ động từ và đứng trước động từ, tính từ hay cụm danh từ ở trong câu. Ví dụ: (28) She will not come to the party tomorrow. (Cô ấy sẽ không đến bữa tiệc ngày mai)

-> phủ định một hành động. (29) Tom has not finished the report. (Tôm chưa hoàn thành báo cáo) -> phủ định một quá trình. (30) She is not feeling well. (Cô ấy không cảm thấy khỏe cho lắm) -> phủ định một trạng thái. (31) She is not a good teacher. (Cô ấy không phải là một giáo viên tốt)

->phủ định một thuộc tính của một người. Bên cạnh đó, not còn kết hợp với trợ động từ do tạo thành tổ hợp cầu khiến có nội dung phủ định.

Ví dụ: (32) Do not begin without me. (Đừng bắt đầu nếu thiếu tôi) (33) Do not waste any time. (Đừng lãng phí thời gian) (34) Do not think about him. (Đừng nghĩ về hắn) Never mang ý nghĩa phủ định có kèm theo tình thái thời gian “không bao giờ” hoặc “chưa”, có sắc thái nhấn mạnh nội dung phủ định trong câu.

Ví dụ: (35) Snow never falls in summer. (Tuyết không bao giờ rơi vào mùa hè) Sắc thái ngữ nghĩa nhấn mạnh của never khiến từ này thường xuất hiện trong những câu nói có tính thành ngữ, chân lí, khái quát…

Ví dụ: (36) Never say die! (Không bao giờ bỏ cuộc) Hardly/ Hardly ever(khó có thể), Rarely/Seldom (hiếm khi), Barely/Scarcely (chắc chắn

không) mang ý nghĩa phủ định khả năng xảy ra trên thực tế của một hành động, trạng thái. Vì bản thân các từ/ cụm từ này mang ý nghĩa phủ định nên luôn được dùng trong câu khẳng định. Ngoài ra, có một điểm khác biệt với tiếng Việt là các từ này thường được sử dụng trong loại câu đảo ngữ (inverted sentences) nhằm nhấn mạnh ý phủ định trong câu.

Ví dụ: (37) Hardly/ Hardly evercan he come to the party because of his illness. (Anh ấy khó mà đến được bữa tiệc vì đang bị ốm) (38) Rarely/Seldomhave I eaten better food.

Page 118: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

118

(Hiếm khi nào tôi được ăn thức ăn ngon hơn thế) (39) Barely/ Scarely does the mail arrives before noon. (Lá thư chắc chắn không đến trước buổi trưa được) 4. Kết luận

Như vậy, nếu nội dung phủ định trong các phát ngôn tiếng Việt được thực hiện bởi các hư từ có khá nhiều sắc thái như: Phủ định tuyệt đối và phủ định tương đối; Phủ định kèm thái độ và sự đánh giá của người nói; phủ định miêu tả và phủ định bác bỏ… Thì có thể thấy trong tiếng Anh, những sắc thái này phần nào có ít màu sắc hơn. Tính chất tương đối, sự đánh giá (tích cực hay tiêu cực) của người nói là những sắc thái phủ định chúng tôi chưa tìm thấy trong các phủ định từ tiếng Anh. Khi muốn nhấn mạnh nội dung phủ định hay thể hiện tình cảm, thái độ, sự đánh giá của mình đối với nội dung phủ định, người nói tiếng Anh thường thể hiện qua hình thức ngữ âm, ngữ điệu bằng cách thay đổi cao độ, trường độ của giọng nói, hoặc người nghe phải tự tìm hiểu dựa vào ngữ cảnh. Loại câu đảo ngữ sử dụng các từ mang nghĩa phủ định tuy không phổ biến trong văn nói tiếng Anh nhưng cũng thường được sử dụng (phổ biến trong văn viết) nhằm nhấn mạnh ý phủ định của người nói/người viết. Đây là điểm khác biệt mang tính đặc thù không có trong tiếng Việt.

Từ những quan sát trên, có thể thấy nhóm hư từ tiếng Việt mang ý nghĩa phủ định có số lượng phong phú hơn so với nhóm từ phủ định trong tiếng Anh. Sự chi tiết hóa nội dung phủ định thành các mức độ, sắc thái… Khác nhau trong giao tiếp khiến số lượng các hư từ mang ý nghĩa phủ định trong tiếng Việt có sự biến động nhất định chứ không phải là cố định, bất biến.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đỗ Hữu Châu, 1986. Các bình diện của từ và từ tiếng Việt. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [2] Đỗ Hữu Châu, 1982. Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động. Tạp chí Ngôn ngữ

(số 3), tr.18-33. [3] Đỗ Hữu Châu, 1981. Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [4] Alan Cruse, 2004. Meaning in langguage - An introduction to semantics and Pragmatics

(second edition). Oxford University Press. [5] Nguyễn Thiện Giáp, 1985. Từ vựng học tiếng Việt. Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội. [6] Nguyễn Văn Hiệp, 2008. Cơ sở ngữ nghĩa phâp tích cú pháp. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [7] John Lyons, 1995. Linguistisc semantic: an introduction. Cambrigde University Press. [8] Hoàng Phê, 1992. Từ điển tiếng Việt. Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội. [9] Nguyễn Anh Quế, 1988. Hư từ trong tiếng Việt hiện đại. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [10] Nguyễn Đức Tồn, 2006. Từ đồng nghĩa tiếng Việt. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [11] Nguyễn Văn Tu, 1982. Các nhóm từ đồng nghĩa trong tiếng Việt. Nxb Đại học và

Trung học Chuyên nghiệp. [12] Betty Schrampfer Azar, 2001. Understanding and using English Grammar. Pearson Education. [13] John Eastwood, 2006. Oxford Practice Grammar. Oxford University Press. [14] Thomson, A.J and Martinet, A. V, 2006. A practical English Grammar. Oxford University Press. [15] William Bright (Editor in chief), 1992. International encyclopedia of linguistics, Volume 3,

Oxford University Press. [16] Nguồn 1: http://esl.about.com/od/Intermediate_Verbs/a/Negative-Structures.html. [17] Nguồn 2: http://www.onestopenglish.com/grammar/. [18] Nguồn 3: http://www.macmillandictionary.com/.

Page 119: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

119

FUNCTION WORDS OF NEGATION IN VIETNAMESE IN COMPARISON WITH SOME POSSIBLE EQUIVALENTS IN ENGLISH

Dr. Bui Thanh Hoa, Faculty of Literature Nguyen Thi Huong M.A, Faculty of Foreign Language

Abstract: In Vietnamese, function words of negation include không, chẳng, chả, đâu/đâu có, nào/nào có, khỏi,

cóc, đếch, ứ, chưa (no, not at all, do not, never, yet). In a sense, these words, that might be used concomitantly with different subjective evaluation of speaker, deny or refute the existence of a thing, an action or a certain characteristic. These adjuncts, except không and đâu, usually stand before an expression, and can function as the object, the predicative or the complement in a sentence. In use, the above mentioned words of negation can either directly execute a speech act or indirectly supp.lement an utterance. Just không can participate in any functional language styles; others usually app.ear in art, living activities or deliberate writing. In this piece of writing, we intend to make a contrastive analysis between the two languages: English and Vietnamese regarding to the ways of using words of negation. Hopefully, some meaningful similarities and differences would be drawn and they will be of some help for those who are concerned.

Keywords: Function word, synonymy, negation.

Page 120: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

120

MỘT SỐ BIỂU HIỆN SỰ KÌ THỊ GIỚI TÍNH QUA CÁC TÍN HIỆU NGÔN TỪ TRONG CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM

TS. Vũ Tiến Dũng Khoa Tiểu học Mầm non

Tóm tắt: Kì thị giới tính trong ngôn ngữ là một hiện tượng phổ quát trong tất cả các ngôn ngữ trên thế giới và

đang thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học xã hội. Bài viết đề cập tới một hiện tượng kì thị giới tính được biểu hiện khá rõ với nhiều nội dung khác nhau qua các tín hiệu ngôn từ trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

Từ khóa: Tiếng Việt, tín hiệu ngôn từ, kỳ thị giới tính, ca dao, tục ngữ.

1. Đặt vấn đề Con người trong lịch sử hình thành và phát triển đã sáng tạo ra vô vàn những giá trị vật chất

cũng như tinh thần nhằm phục vụ cho cuộc sống của mình. Một trong những sản phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đó chính là việc sáng tạo ra ngôn ngữ (Language). F.De Saussure cho rằng “ngôn ngữ là một hiện thực xã hội". (Dẫn theo[4, tr.7]), nó góp phần không nhỏ trong việc phản ánh thực trạng - hình thái ý thức xã hội mà nó đang tồn tại. Một trong những mối quan tâm của ngôn ngữ học xã hội hiện nay là vấn đề giới tính trong ngôn ngữ. Việc nghiên cứu ngôn ngữ và giới tính có hai hướng tiếp cận chính: ngôn ngữ của giới và quan niệm giới tính (sexism) trong ngôn ngữ. Hướng ngôn ngữ của giới chuyên nghiên cứu sự khác biệt trong cách dùng một ngôn ngữ giữa nữ giới và nam giới. Hướng quan niệm giới tính trong ngôn ngữ chỉ ra cách dùng các tên gọi nghề nghiệp, chức danh thường là những từ chỉ nam giới mặc dù đương sự là nữ giới, tức là không có một tên gọi dành cho nữ giới. Do đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng có tình trạng trọng nam khinh nữ, thiếu bình đẳng trong cách dùng một ngôn ngữ cụ thể. Bài viết nhỏ này tập trung vào hướng thứ hai - quan niệm giới tính trong ngôn ngữ - sẽ phác thảo một cách nhìn có tính chất truyền thống về sự kì thị giới tính (trọng nam khinh nữ) bộc lộ qua ngôn từ trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Về khái niệm kì thị giới tính trong ngôn ngữ Theo Từ điển tiếng Việt, kì thị là sự phân biệt đối xử do thành kiến (thường nói về thái độ đối với

các dân tộc) [9, tr.516]. Hiểu theo hướng này thì sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ là sự phân biệt đối xử do thành kiến xã hội về giới tính trong ngôn ngữ. Sự phân biệt đối xử do thành kiến có nghĩa là sự coi trọng người này và coi khinh người kia do thành kiến xã hội về một mặt nào đó là sự biểu hiện ý nghĩa của từ kì thị. Tuy nhiên, với cách hiểu như vậy, dung lượng của một thuật ngữ có vẻ như chật hẹp, không thuận lợi trong quá trình sử dụng tiếp theo.

Trần Xuân Điệp cho rằng kì thị là sự coi khinh người này và coi trọng người kia về một mặt nào đó do thành kiến xã hội. Trong xã hội loài người đang tồn tại nhiều hình thức kì thị như: kì thị tín ngưỡng, kì thị về sắc tộc, kì thị về tuổi tác, tình trạng sức khỏe, hoàn cảnh kinh tế hay tình trạng hôn nhân v.v… Tất cả những hình thức kì thị đó đều được biểu đạt rất rõ trong ngôn ngữ. Chẳng hạn, với các cách nói như: “Mặt búng ra sữa” là biểu hiện sự kì thị về tuổi tác - coi thường tuổi trẻ hay “người dân tộc mà! Có biết gì đâu” là thể hiện sự kì thị về dân tộc - coi thường sự hiểu biết của người dân tộc.

Miller & Swift (1972) định nghĩa: "Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ hay ngôn ngữ mang tính kì thị giới tính là bất kì cách diễn đạt nào thể hiện thái độ và sự trông mong về giới hoặc bất kì cách diễn đạt nào thể hiện tính trội cố hữu của giới này so với giới kia." (Dẫn theo [4, tr.12])

Kì thị giới tính (KTGT) được hiểu là sự coi thường giới này và coi trọng giới kia. Một biểu hiện

Page 121: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

121

rất cụ thể của sự KTGT trong xã hội loài người là tư tưởng trọng nam khinh nữ. Như vậy, trong ngôn ngữ KTGT là sự biểu đạt bằng ngôn ngữ qua hình thức rất dễ nhận thấy, đó là sự coi thường nữ giới - coi trọng nam giới.

2.2. Các tín hiệu ngôn từ thể hiện sự kì thị giới tính trong ca dao, tục ngữ Việt Nam 2.2.1. Nữ giới thường gắn với tính thụ động - nam giới thường gắn với tính chủ động

Sự thiếu cân đối về mặt ngữ nghĩa được thể hiện trong cặp đối lập giữa nữ giới gắn với tính bị động và nam giới gắn với tính chủ động. Theo Nilsen (1990) cho rằng sự sử dụng ngôn ngữ trong thực tế đã thể hiện quan niệm định kiến về văn hóa, đó là nữ giới đóng vai trò bị động hoặc yếu đuối còn nam giới lại luôn giữ vai trò chủ động hoặc mạnh mẽ. Đặc điểm chung này về giới được thể hiện rất rõ trong ca dao Việt Nam: Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng có lối ai vào hay chưa? Hình ảnh ẩn dụ “mận” trong tư duy của người Việt luôn là nam giới, còn hình ảnh ẩn dụ “đào” trong tư duy của người Việt luôn là nữ giới vì hình ảnh “mận” gắn với tính chủ động: "Hỏi đào", còn “đào” gắn với sự bị động - bị mận hỏi. Tính chủ động gắn với nam giới, tính bị động gắn với nữ giới đã nâng lên thành tính biểu trưng trong tư duy của người Việt. Chúng ta dễ dàng nhận ra được hình ảnh ẩn dụ "thuyền"- luôn di chuyển, chủ động để chỉ nam giới, hình ảnh ẩn dụ "bến" - cố định, thụ động để chỉ nữ giới trong câu ca dao sau: Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

Sự chủ động của nam giới trong tình yêu cũng được thể hiện khá mạnh mẽ trong câu ca dao: Gặp đây anh nắm cổ tay Anh hỏi câu này có lấy anh không? Nữ giới trong xã hội xưa không có quyền chủ động trong tình yêu lứa đôi, họ không có quyền chủ động bày tỏ tình cảm của mình với nam giới: Bồ câu mà đỗ nóc nhà Mấy đời đàn bà đi hỏi đàn ông.

Trong xã hội phong kiến, họ bị biến thành nô lệ cho những luật lệ, những ràng buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến với những quan niệm cổ hủ lạc hậu. Họ không có quyền quyết định cho số phận của mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào bởi quy định “tam tòng” nghiệt ngã : “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Điều ràng buộc ấy dẫn theo bao bất hạnh của người phụ nữ: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai Thân em như hạt mưa sa Hạt vào giếng ngọc, hạt ra ruộng cày Khi cất lên lời than thân, họ so sánh “thân em…” Với những hình ảnh mong manh, yếu đuối như "tấm lụa đào", "hạt mưa sa". Những hình ảnh so sánh ấy làm nổi bật thân phận bơ vơ, bất trắc và bị động, lệ thuộc của người phụ nữ trong xã hội xưa. 2.2.2. Nữ giới gắn với sắc dục - nam giới gắn với tài năng Người Việt nêu lên một quan niệm sống, đánh giá nam - nữ rất khác biệt và đó là biểu hiện sự KTGT rất rõ:

Page 122: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

122

Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình. Nam giới lấy "trung hiếu" làm lẽ sống, nữ giới hướng mục tiêu giữ gìn "tiết hạnh". Khi nói

"trinh tiết", “trinh tiết” thì phần lớn người nghe đều hiểu đó là sự ám chỉ phụ nữ. Quan niệm sống và sự lựa chọn bạn đời trong quan hệ lứa đôi của nữ giới thiên về mặt mặt tài năng; còn nam giới thiên về sắc đẹp là cách nhận thức theo lẽ thường của người Việt: Gái tham tài, trai tham sắc

Nhưng đọc tới câu: “Thứ nhất thịt bò tái, thứ nhì gái đương tơ", chúng ta thấy bộc lộ sự KTGT: xã hội đánh giá giá trị của nữ giới chủ yếu về mặt thể xác, sắc dục.

Chính vì vậy, đại bộ phận những người Việt Nam đều cho rằng việc quan trọng nhất của nữ giới trong cuộc đời họ chính là gia đình (chồng con) còn người nam giới lại đặt sự nghiệp lên hàng đầu.

Trai thì: Lập chí cho bền, chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con. Gái thì: Lấy chồng cho bõ tấm chồng Bõ công trang điểm má hồng răng đen.

2.2.3. Nữ giới gắn với liên tưởng tiêu cực - nam giới gắn với liên tưởng tích cực Trong ứng xử, nhìn nhận về giới, người Việt luôn quan niệm nữ giới - đàn bà luôn đi liền với nghĩa tiêu cực. Đơn cử, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta không khó khăn lắm để bắt gặp những câu nói như: “nói dai như đàn bà” hay “đái không qua ngọn cỏ”… Ám chỉ sự thiển cận của người phụ nữ. Trong ca dao, tục ngữ, người ta cũng gán cho nữ giới những phẩm chất trí tuệ luôn thua kém nam giới. Về trí tuệ thì:

Khôn ngoan cũng thể đàn bà Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông. Hay Đàn ông nông nổi giếng khơi Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

Khổng Tử đã từng cho rằng: “chỉ có đàn bà và tiểu nhân là hạng khó dạy. Khi ta gần thì họ nhờn, xa thì họ oán” hoặc "phụ nhân nan hóa". Chính vì xuất phát từ quan niệm này nên tính định kiến về giới lại càng được thể hiện rõ nét và nổi bật hơn cả là trên phương diện quan niệm về công việc sự nghiệp của nam và nữ. Nam giới trong ca dao, tục ngữ bao giờ cũng thể hiện sinh ra là để làm những công việc lớn: Đã sinh ra kiếp đàn ông Đèo cao, núi thẳm, sông cùng sá chi. Với người đàn ông, không ai chịu bị mang tiếng là bất lực hay núp váy vợ… Dư luận xã hội luôn chế nhạo, mỉa mai với người đàn ông không làm được những việc lớn: Làm trai cho đáng nên trai Khom lưng, gắng sứ, gánh hai hạt vừng. Có thể nói, chính quan niệm "đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm" đã gây nên những sự bất công đối với phụ nữ mà chính bản thân người đàn ông cũng phải chịu nhiều sức ép trong cuộc sống: Họ buộc phải là người thành đạt: người xây nhà. Nếu như quan niệm đàn ông là trụ cột trong gia đình, là người làm việc lớn thì phụ nữ lại làm những việc vặt như cơm nước, bếp núc, quét nhà:

Page 123: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

123

Vắng đàn ông quạnh nhà Vắng đàn bà quạnh bếp. Nếu chẳng may người phụ nữ nào không hoàn thành tốt việc bếp núc thì người ấy bị coi là chẳng phải đàn bà: Đàn bà chẳng phải đàn bà Thổi cơm cơm khét, muối cà cà chua. Bên cạnh đó, cách nhìn tiêu cực về người phụ nữ trong xã hội xưa còn được thể hiện trong việc nếu như người phụ nữ và người nam giới có một đặc điểm nào đó giống nhau thì ngay lập tức ở nam giới sẽ biến thành sự tích cực còn với người phụ nữ được nhìn nhận là nét tiêu cực. Ví dụ, cùng là đặc điểm rộng miệng nhưng cách đánh giá lại khác nhau hoàn toàn: Đàn ông rộng miệng thì sang Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà. Những hình ảnh được sử dụng trong ca dao, tục ngữ cũng luôn có sự phân biệt với hai giới. Nam bao giờ cũng được ví với những hình ảnh to lớn, còn phụ nữ thì đi kèm với những hình ảnh nhỏ bé, yếu đuối. Ví dụ như: Nam thực như hổ, nữ thực như miêu; người phụ nữ luôn là liễu yếu đào tơ, còn nam giới thì đại trượng phu, ăn to nói lớn. 2.2.4. Hình ảnh so sánh và tên gọi thể hiện sự KTGT Nho giáo xâm nhập vào Việt Nam mang theo tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân Việt Nam trong suốt bao năm qua. Với quan niệm “nam nội nữ ngoại”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” nên người phụ nữ trong xã hội xưa trở nên hết sức rẻ rúng. Ý thức được những điều này nên họ thường ví thân mình với những sự vật, vật dụng hết sức tầm thường trong khi đó người đàn ông thì được ví với những sự vật hết sức cao sang. Và ca dao đã phản ánh rất rõ nét về điều đó: - Thân anh như cái hoa sen Thân em như cái bèo hèn trong ao. -Thân anh như cái tàn vàng Thân em như cái chiếu rách nhà hàng bỏ quên.

Những hình ảnh đối lập giữa cái cao sang với cái thấp hèn trong câu ca dao: "cái hoa sen" với "cái bèo hèn" và "cái tán vàng" với “cái chiếu rách” đã bộc lộ thái độ kì thị nữ giới trong xã hội xưa.

Với quan niệm “thuyền theo lái, gái theo chồng”, nữ giới sau khi đi lấy chồng, mất luôn tên gọi của mình và dùng chính tên gọi là chức danh của chồng để gọi cho tên của mình. Ví dụ: Trong làng bà Tú, bà Cai Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng Trong trường hợp này thì bà Tú, bà Cai được hiểu theo nghĩa là vợ của ông Tú, ông Cai.

2.2.5. Cách thức xưng hô và sự KTGT Định kiến nam tôn nữ ti đã được người xưa khái quát lên thành một phương châm ứng xử trong xưng hô giữa nam giới và nữ giới: Đã sinh ra phận đàn bà Hơn ba, bảy tuổi vẫn là đàn em.

Điều đó phản ánh sự bất bình đẳng khá rõ trong xưng hô giữa những người khác giới. Và ngày nay nguyên tắc xưng hô đó vẫn tồn tại trong xưng hô vợ chồng.

Page 124: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

124

2.2.6. Quan niệm trọng nam khinh nữ trong xã hội Văn hóa truyền thống của người Việt vốn trọng tính nữ, đề cao phụ nữ trong việc giáo dục con

cái, gánh vác các công việc gia đình. Sự xâm nhập của các tôn giáo lớn như Nho giáo, Thiên chúa giáo và nhất là Hồi giáo vốn coi

thường phụ nữ. Chế độ phong kiến Việt Nam lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng để thống trị xã hội cho nên quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã trở thành nhận thức tư tưởng của xã hội đương thời. Đây có lẽ là nguyên nhân chính yếu dẫn đến thái độ KTGT trong xã hội xưa, được biểu hiện qua các tín hiệu ngôn từ.

3. Kết luận Nói KTGT trong ngôn ngữ thường chúng ta hiểu đó là sự KTGT trong ngôn ngữ đối với nữ giới. Tìm hiểu những tín hiệu ngôn từ biểu hiện sự kì thị giới tính trong tiếng Việt có lẽ dễ tìm thấy rõ nhất trong ca dao, tục ngữ tiếng Việt.

Ca dao, tục ngữ Việt Nam biểu hiện rất rõ sự KTGT ở rất nhiều khía cạnh: nam giới luôn gắn với tính chủ động, nữ giới gắn với tính thụ động, lệ thuộc; nam giới gắn với tài năng và những việc làm cao cả, nữ giới gắn với những việc là tầm thường; nữ giới lệ thuộc vào nam giới; lệ thuộc vào danh hiệu của người chồng; nam giới có quyền sở hữu nữ giới v.v.. Và những cách nói rập khuôn coi thường nữ giới đang tồn tại trong tư duy của người Việt. Tất cả những biểu hiện về sự KTGT trong ngôn ngữ có nhiều nguyên nhân dẫn tới nhưng ở Việt Nam, sự kì thị đó có nguyên nhân chính yếu bắt nguồn từ tư tưởng của Nho giáo.

Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta đang có chủ trương, chính sách về bình đẳng giới. Những biểu hiện KTGT trong ngôn ngữ dần dần sẽ phai mờ đi trong nhận thức của mỗi người khi mà nam giới và nữ giới xác lập được sự bình đẳng trong đời sống gia đình và xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Vũ Tiến Dũng, 2007. Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính. Nxb Giáo dục. [2] Vũ Tiến Dũng, 2002. “Tìm hiểu một vài biểu thức tình thái gắn với tính lịch sự của nữ giới

trong giao tiếp”. Tạp chí Ngôn ngữ (số 3) tr.59-66. [3] Trần Xuân Điệp, 2004. Sự kì thì giới tính trong ngôn ngữ. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại

học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. [4] Vũ Thị Thanh Hương, 1999. “ Giới tính và lịch sự”. Tạp chí Ngôn ngữ, (số 8) tr.17-30. [5] Lương văn Hy, 2000. “ Ngôn từ và nhóm xã hội: Dẫn nhập những vân đề cơ bản và những

Trường phái lí thuyết chính”, Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 9 - 38.

[6] Nguyễn Văn Khang, 2000. Ngôn ngữ học xã hội - những vấn đề cơ bản. Nxb Khoa học Xã hội. [7] Nguyễn Văn Khang (chủ biên), 1996. “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ”, Ứng

xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt, tr.176-186, Hà Nội. Nxb Văn hóa Thông tin. [8] Vũ Ngọc Phan, 1994. Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội. [9] Hoàng Phê (chủ biên), 1998. Từ điển Tiếng Việt. Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.

Page 125: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

125

SOME MANIFESTATIONS OF GENDER DISCRIMINATION VIA THE LANGUAGE SIGNALS LIKE FOLK - SONG AND PROVERBS IN VIETNAMESE

Dr. Vu Tien Dung Faculty of Kindergarten and Primary Education

Abtract: Gender discrimination - a universal phenomenon in language is getting more and more attraction of

researchers of social linguistics worldwide. This article refers to the gender discrimination phenomenon which is quite clearly expressed in many different aspects via the language signals in Vietnamese folk-songs and proverbs.

Keywords: Vietnamese, language signals, folk-song, proverbs.

Page 126: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

126

BA CON ĐƯỜNG THOÁT LI CỦA NGƯỜI NHO SĨ VÀ TƯ TƯỞNG CỦA NGUYỄN DỮ TRONG “TRUYỀN KỲ MẠN LỤC”

TS. Ngô Thị Phượng Khoa Ngữ Văn

Tóm tắt: Truyền kỳ mạn lục là “thiên cổ tùy bút” của Nguyễn Dữ. Tập truyện xuất hiện 3 nhân vật được xếp vào hàng

ngũ nho sĩ tiêu biểu và họ thoát li vào những con đường khác nhau. Nhân vật Hà Nhân thoát li vào trần thế, sống kiệt cùng trần thế. Nhân vật Từ Thức đến cõi tiên, một chốn xa xăm huyền ảo. Nhân vật ẩn sĩ trong “Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na” tìm đến núi rừng lánh đời. Nguyễn Dữ không mâu thuẫn trong cách tìm đường cho nho sĩ. Ông mượn sự thoát li để phản ánh xã hội biến động và thể hiện quan niệm về nho sĩ lí tưởng.

Từ khóa: Thoát li, nho sĩ, Truyền kỳ mạn lục. 1. Đặt vấn đề Nguyễn Dữ và tập Truyền kỳ mạn lục: Theo nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh, Nguyễn Dữ

(còn phiên âm là Nguyễn Tự, hoặc Nguyễn Dư), người làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Đỗ Lâm, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Có tài liệu ghi rằng, ông quê ở xã Đoàn Tùng, huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Dương. Cha của Nguyễn Dữ là Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 7 (1496) đời Lê Thánh Tông.

Năm sinh và năm mất của Nguyễn Dữ hiện chưa rõ. Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề ghi rằng: Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), và là bạn học của Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613). Nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng suy luận, khẳng định: “Để nói cho vừa phải thì có thể nói Nguyễn Dữ là người có năm sinh xấp xỉ với Nguyễn Bỉnh Khiêm, và có thể kém Nguyễn Bỉnh Khiêm vài ba tuổi… Nguyễn Dữ sinh vào khoảng thập niên cuối thế kỉ XV và mất khoảng thập niên thứ 4, thế kỉ XVI, thọ khoảng 50 tuổi” [4, tr.50].

Theo Vũ Khâm Lân (1702 - ?), người biên soạn Bạch Vân Am cư sỹ phả kí thì Nguyễn Dữ không ra làm quan, ở ẩn ở núi rừng Thanh Hóa mà làm ra sách Truyền kì. Sách đấy được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính trở thành cuốn “thiên cổ kì bút”. Nhưng theo Lê Quý Đôn, trong bài tựa đề ở đầu cuốn Kiến văn tiểu lục, Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển và một số bài tựa của các cuốn Truyền kì in về sau thì Nguyễn Dữ có đi thi Hương, đậu Hương tiến (tức Cử nhân), sau đi thi Hội, “đỗ tam trường” và có ra làm quan Tri huyện Thanh Toàn (nay là huyện Tam Đảo, huyện Vĩnh Phúc) được một năm thì cáo quan về, lấy lí do là phụng dưỡng mẹ già cho tròn đạo hiếu, từ đó “trải mấy năm dư, chân không đặt đến chốn đô hội”. Bài tựa Truyền kì mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm 1547 là tài liệu ghi chép sớm nhất có đoạn: “Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương để truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền. Được một năm, ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý…” [5, tr.204].

Từ khoảng thời gian sinh - mất, có thể thấy rằng, Nguyễn Dữ sinh ra và hành tàng ở cuối thế kỉ XV - nửa đầu thế kỉ XVI. Đây cũng là thời kì rối ren của “vua quỷ” và “vua lợn” triều đại nhà Lê. Dựa vào trước tác mà suy luận, chúng ta có thể thấy, nhiều khả năng, Nguyễn Dữ từng làm quan nhưng một trong những nguyên nhân khiến ông về ở ẩn là do đại thế bất an, bất mãn với kẻ đương quyền. Cũng chính vì từ quan ở ẩn mà ông có điều kiện toàn tâm chấp bút, trở thành “cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam” [7, tr.213].

Page 127: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

127

Truyền kỳ mạn lục là sáng tác duy nhất của Nguyễn Dữ, gồm 4 tập, mỗi tập 5 truyện. Cống hiến này có tính chất “mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt Nam” [2, tr.213], có tính chất bước ngoặt của văn xuôi tự sự trung đại, đánh dấu việc đưa con người thực sự trở thành nhân vật trung tâm của văn học. Tác phẩm thể hiện tiếng nói tố cáo hiện thực và khuynh hướng tư tưởng rõ rệt. Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh khẳng định rằng: thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ... Tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; Những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người… Từ hiện thực đó, người nho sĩ muốn tìm nơi lánh mình. Cuộc chạy trốn của họ toát lên tiếng nói phê phán, đồng thời lột tả suy nghĩ của tác giả về phẩm cách người nho sĩ.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Sự thoát li và con đường thoát li của nhân vật nho sĩ trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ 2.1.1. Sự thoát li Theo nhà lí luận Pháp, Henri Benac “Thoát li” là khái niệm đồng nghĩa với “siêu thoát”. Siêu

thoát “tức là việc trốn chạy để thoát khỏi thế giới quen thuộc, đến một thế giới mới hay thế giới tưởng tượng” [3, tr 301].

Những mong muốn được thoát li vốn đã xuất hiện từ lâu ở con người bởi con người luôn kiếm tìm một cuộc sống được giải thoát khỏi những giới hạn, quay lưng lại thực tế, thoát khỏi sự nhàm chán. Nhà lí luận Pháp cũng cho rằng con người thoát li bởi hai lí do chính: một là, thực tại không làm cho họ thỏa mãn và hai là, bởi sự đi qua không trở lại của thời gian.

2.1.2. Con đường thoát li của nhân vật nho sĩ Trước hết chúng ta cần nắm bắt khái niệm “nho sĩ” để phân biệt kiểu loại nhân vật trong văn

chương trung đại. Hai từ “nho sĩ” gắn liền với Nho giáo - học thuyết bao gồm các nguyên tắc đạo đức, chính trị do Khổng Tử sáng lập, nhằm duy trì trật tự xã hội phong kiến. Còn “nho sĩ” là khái niệm được nhắc đến thường xuyên trong tất cả các giáo trình khảo cứu về văn học giai đoạn này. Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm nho sĩ được hiểu là “người theo Nho giáo, thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến” [8, tr.698].

Theo Hán Việt từ điển thì “nho” là văn tự có cấu tạo hai phần “một bên chữ Nhân, là người, một bên chữ nhu là cầu, nghĩa là các người trong đời cần phải có”. [2, tr.78]. Sự giải thích này nhấn mạnh tầm quan trọng của học thuyết Nho giáo trong một thời điểm cụ thể ở xã hội xưa.

Như vậy, khái niệm “nho sĩ” được hiểu là: Người theo Nho giáo thuộc tầng lớp trí thức, bên cạnh đó, nhấn mạnh Nho giáo cần thiết cho mọi người.

Bên cạnh việc đi tìm câu trả lời thế nào là nho sĩ, các nhà nghiên cứu còn chỉ ra con đường xuất xử - hành tàng của họ. Trong công trình Loại hình học tác giả - nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Trần Ngọc Vương đã cụ thể hóa con đường nhập cuộc của nhà nho thành mô hình: Học - thi cử - đỗ đạt - làm quan - cáo quan - ẩn dật, hoặc học - thi cử - không đỗ đạt, các loại thầy - ẩn dật [11, tr.37 - 39].

Từ căn cứ này, chúng tôi có thể phân loại nhân vật và nhận thấy trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ có xuất hiện 3 nhân vật được xếp vào hàng ngũ nho sĩ tiêu biểu, có người đi học, người từng làm quan, người đang ẩn dật, đó là:

(1) Nhân vật Hà Nhân trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây (Tây viên kỳ ngộ kí) Trong tác phẩm này, Nguyễn Dữ có 5 lần nhắc tới việc đi học:

Page 128: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

128

Lần 1: Mở đầu tác phẩm giới thiệu: “Hà Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường, khoảng năm Thiệu Bình ngụ ở kinh sư để tòng học cụ Ức Trai”. Hiển nhiên, thầy dạy của Hà Nhân, không ai trong nước Nam không biết, đó chính là Nguyễn Trãi, bậc đại danh nho.

Lần 2: Đoạn thứ nhất, khi bắt đầu biến cố: “một buổi đi học, đường tất phải qua phường Khúc Giang”. Lần này, xác minh chàng đang theo học đạo nho thực thụ chứ không còn là tìm thầy để học như trong phần giới thiệu.

Lần 3: Việc đi học của Hà Nhân được xác minh trong bài ca tiễn biệt của người con gái họ Liễu: “Nho sinh bỗng có một người/ Văn chương kinh sử tót vời làu thông”.

Lần 4: Trong lời thưa chuyện cùng cha mẹ, Hà Nhân xác minh việc học của mình: “Con nghĩ mình dòng dõi tấn thân, mà sự học hành chưa thành danh gì cả (…), đợi cho đường mây nhẹ gót, thỏa nguyện bình sinh” thì mới thành gia thất”.

Lần 5: Hà Nhân “sắm lễ, để lại đến trường cũ theo học”. Như vậy, Hà Nhân thực sự là một nho sĩ, bởi chàng theo học đạo Nho, có được thầy dạy danh tiếng,

nhưng sự học đến đâu, thì phải bàn xét. Trong khi đi học, Hà Nhân dần rời xa sách vở, từ bỏ chữ nghĩa thánh hiền, mải mê lạc thú trần tục, “thấy hai người con gái đứng bên trong bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà ném” thì không giữ được mình. Chẳng bao lâu, chàng “lả lơi cợt ghẹo”, “tựa ngọc kề vàng”, “sóng đào nghiêng ngả”. Ngay cả khi về bên cha mẹ mà cùng vẫn không nguôi “tưởng nhớ hai nàng, lúc nào cũng ủ ê rầu rĩ”. Lúc quay trở lại kinh sư “tuy mượn tiếng du học, nhưng bút nghiên chí nản, son phấn tình nồng” quên cả thời gian bóng câu qua cửa. Nguyệt hoa mê mải, khi hai nàng Đào, Liễu đã từ giã cõi đời vẫn chưa tan giấc mây mưa. Đến cuối tác phẩm, khi hai nàng đã tan lìa thân xác, tịnh không thấy tác giả nhắc tới việc Hà Nhân có trở lại sách đèn.

Nghiên cứu hình tượng nho sĩ, Đinh Gia Khánh đã từng chia ra hai khuynh hướng: ẩn dật và nhập thế cứu đời [6, tr.170]. Chàng Hà Nhân chẳng thuộc khuynh hướng nào. Kẻ sĩ trong xã hội xưa thường đứng cao hơn trần tục, chỗ đứng của nho sinh là ở cửa Khổng sân Trình. Vậy mà họ Hà quay về với tục, thoát li vào trần thế, sống kiệt cùng trần thế. Nguyên do vì đâu, đạo Nho không giữ nổi chân chàng khiến lạc bước tìm hoa?

(2) Nhân vật Từ Thức trong tác phẩm Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (Từ Thức tiên hôn lục) Xây dựng chân dung Từ Thức, Nguyễn Dữ không đề cập nhiều tới chuyện dùi mài kinh sử như Hà

Nhân, chỉ điểm xuyết vài chi tiết cho thấy chàng là bậc nho sĩ: Lần 1: “Người ở Hóa Châu tên là Từ Thức, vì có phụ ấm được bổ làm Tri huyện Tiên Du”. Lần 2: Từ vốn hay rượu, hay thơ, bỏ bê việc quan, nên “thường bị quan trên quở trách: - Thân phụ thầy làm đến đại thần mà thầy không làm nổi một chức Tri huyện hay sao?”.

Như vậy, cả hai lần trên, tác giả đều nhắc đến nguồn gốc Từ Thức, vốn dòng dõi nho gia, quý tộc. Thêm vào đó, có nhiều chi tiết, Nguyễn Dữ lấy phẩm chất nho sĩ mà soi chiếu nhân vật. Tình huống truyện mở ra với biến cố “cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gẫy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại”. Từ thấy vậy “động lòng thương, nhân cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy”. Hành động cho thấy chàng là con người nghĩa khí. Còn hành động trả ấn tín cho thấy Từ là người thẳng thắn: “Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh”, nên “bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về”.

Page 129: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

129

Lần 3: Yêu thơ, chàng coi những sáng tác của Đào Tiềm là vật bất li thân nên luôn “mang mấy quyển thơ của Đào Uyên Minh”. Khi gặp cảnh tiên trên bể Thần Phù chàng nghĩ nếu “không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của những bậc lánh đời, như những nơi núi Thứu, nguồn Đào chẳng hạn”.

Đến đây, chúng ta có thể thấy chân dung người nho sĩ phong kiến hoàn bị. Nhưng người nho sĩ này cũng “lạc bước” ngẫu nhiên, chỉ có điều chàng khác Hà Nhân, đi lạc

vào chốn tiên, một chốn xa xăm huyền ảo. Con đường thoát li của Từ là chuyển dịch không ngừng, tiêu khiển “lênh đênh trên áng giang hồ”. Từ đem thiên nhiên đối lập với xã hội, tin ‘nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu”. Không gian chung quanh “toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kì”. Chàng siêu thoát vào thiên đường cách biệt rồi lại muốn trở về? Đó là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Dữ.

(3) Nhân vật ẩn sĩ trong Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na (Na Sơn tiều đối lục) Lần 1: Khác với hai tác phẩm trên, ở đây, nhân vật chính không có tên cụ thể : “ai hỏi họ tên,

nhà cửa, tiều phu chỉ cười không trả lời”, nhưng người viết gián tiếp giới thiệu đầy hàm ý: “Đương thời cho là người thuộc hạng Thần Môn, Tiếp Dư chứ Thái Hòa trở xuống đều không đủ kể”. Cũng cần nói rõ, Thần Môn vốn là người giữ cổng thành, sau là hiền sĩ của Khổng Tử, thấy đời loạn thì không làm nữa mà ẩn thân; còn Tiếp Dư, Thái Hòa là những bậc tài danh, muốn trốn không làm quan liền giả ngông, lánh mình.

Lần 2: Chân dung người nho sĩ hiện lên qua đối thoại giữa người tiều phu và quan hầu của Hồ Hán Thương là Trương công. Mặc dù chỉ nhận mình là “thường dân” nhưng chân khí bậc anh nho vẫn hiện rõ: “- Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng; ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục; bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên ta là tuyết gió trăng hoa; chỉ biết đông kép hè đơn, nằm mây mà ngủ khói; múc khe mà uống, bới núi mà ăn; chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, vua quan nào?”.

Lần 3: Do không thể chối bỏ sự thật về mình, tiều phu đành thẳng thắn thú nhận mình là kẻ sĩ nhưng một mực chối từ con đường quay về triều chính: “xin ông vui lòng trở về, làm ơn từ chối hộ kẻ cư sĩ này”.

Lần 4: Qua lời cảm thán của tác giả: “người tiều phu ấy có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đó chăng?” Như vậy, người tiều phu ẩn dật rõ ràng không lạc bước một cách ngẫu nhiên như hai chàng Hà

Nhân và Từ Thức, con đường siêu thoát có chủ đích rõ ràng. Ông tiều đến với một “thiên đường cách biệt” - rừng núi để ẩn dật.

Chọn nhân vật thoát li để gửi gắm tư tưởng nhưng ba nhân vật lại có 3 con đường khác nhau: Trần tục, lên tiên và rừng núi. Vậy tư tưởng của Nguyễn Dữ thống nhất hay mâu thuẫn?

3. Tư tưởng biểu đạt của Nguyễn Dữ 3.1. Mượn sự thoát li để phản ánh xã hội Trước hết, Nguyễn Dữ đưa nhân vật vào các môi trường khác nhau, nó giống như một phép

thử. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cuộc đời. Ông ngợi ca mối tình tự do đầy nhục tính của nho sĩ Hà Nhân, ông hỉ hả đồng tình với cửa động chốn tiên cùng Từ Thức, ông ngạo nghễ thách thức tiếp sức người tiều phu trong cuộc chiến bảo vệ chính kiến. So với giai đoạn trước, đạo cương thường Nho gia khiến con người phải “thức nhẵn nẻo sơ chung” ,“Trống rời canh còn đọc sách/ Chiêng xế bóng chửa thôi chầu” thì nay đạo học có phần thưa nản: Không lên

Page 130: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

130

tiên, ẩn dật thì chốn vào nhục dục tầm thường. Qua các con đường thoát li, Nguyễn Dữ muốn phản ánh hiện thực xã hội đương thời.

Đạo Nho không đủ sức mạnh giữ chân Hà Nhân. “Kẻ sĩ gánh cặp đến học ở Trường An, tưởng nên chăm chỉ về học nghiệp, tuy không dám mong đến được chỗ vô dục nhưng giá gắng tiến được đến chỗ quả dục thì tốt lắm”. Nguyên do của sự thoát li ẩn sau trong lí do suy tàn học thuật.

Với Từ Thức, chàng thoát li bởi “không thể vì số lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh”. Thực tại chật hẹp, con người rơi vào mệt mỏi, xã hội áp đặt sự đơn điệu, khiến Từ buồn chán mà trả ấn. “Hình ảnh nhân vật Từ Thức mang triết lí về con đường sống của một bộ phận trí thức trước hiện trạng thối nát của xã hội: trả ấn từ quan, thoát li hiện thực, trở về với thiên nhiên, thể hiện tâm trạng bất mãn với kẻ cầm quyền [9, tr.29].

Với người tiều phu ẩn dật, con đường khiến ông tìm vào núi nằm ở chỗ “triều đình vẩn đục, rối loạn”, “nên lo tránh đi” là để “bưng tai chuyện thế eo xèo”. Ông bị ép làm quan nên cuối cùng phải nói thẳng: “ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không vào đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là người thế nào. Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai; phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng; lòng dân động lay…”.

Đến đây, người đọc có thể đã rõ tư tưởng của Nguyễn Dữ, mặc dù ba nhân vật thoát li bằng 3 con đường khác nhau nhưng họ đều có chung nguyên nhân thoát li: Xã hội đương thời chật hẹp, gò bó, thối nát, học thuật Nho giáo suy tàn, kẻ sĩ không có minh chúa để thờ. Trong cơn “ba động” của xã hội, họ không có định hướng chung nên phải tự dò dẫm tìm đường. Khuất Nguyên nước Sở gieo mình xuống dòng Mịch La quyên sinh, mảnh hồn chưa chiêu được, bởi thất thế oan khuất, tài đống từ chối tin dùng, âu không phải là chuyện của riêng Khuất Nguyên nước Sở lắm thay?

3.2. Chân dung người nho sĩ Từ câu chuyện thoát li của các nhân vật, Nguyễn Dữ đã chỉ ra lối sống của người nho sĩ đương thời. Trước hết, trong hiện tại, họ chênh chao dao động chọn đường. Lên tiên không thành, về trần

sai lạc, ở ẩn truy sát. Ở thế kỉ XVI, Nguyễn Dữ đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, tiên nghiệm sự tuyệt giao của xã hội phong kiến với người trí thức. Điều đó, sau này tới thế kỉ XIX, Trần Tế Xương đã xác minh bằng một loạt các sáng tác, khẳng định học thuật suy tàn:

Nào có ra gì cái chữ nho Ông nghè ông cống cũng nằm co Chi bằng đi học làm ông phán Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò. (Chữ nho)

Đưa mỗi nhân vật vào một con đường thoát li khác nhau nhưng dường như kết cục lại không có hậu, nó cho thấy Nguyễn Dữ phân vân với chính phép thử của mình.

Kết cục truyện Cuộc kì ngộ ở Trại Tây, Hà Nhân biết mình chung thân cùng “những hạng gái lẳng lơ dâm đãng nếu không thì là những u hồn trệ phách, hiện lên thành yêu quỷ”, bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, tự nghĩ mình bấy lâu mê mải, chỉ là “đánh bạn với hồn hoa”, bỏ quên cửa Khổng sân Trình. Con đường thoát li của chàng không đem lại hạnh phúc, tiền đồ dang dở.

Từ Thức lấy vợ tiên cũng để lại cho người đọc những băn khoăn tương tự. Xã hội thế kỉ XVI khủng hoảng, đạo Nho không còn mang đến những giá trị tối hậu nên chẳng đủ sức giữ con người ở lại

Page 131: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

131

với trần thế. Hành động phản kháng của nhân vật Từ Thức đã chứng minh điều đó. Trần thế chẳng dung mình, Từ Thức từ quan để lánh đời, giữ mình trong sạch. Chàng thoát lên tiên. Chấm dứt con đường hành đạo của nho sĩ, Từ Thức chuyển mình đi theo con đường lánh thân của Đạo giáo, coi sự nhàn tản, vô vi là tất cả. “Đạo thường vô vi nhi vô bất vi” (Đạo vĩnh hằng là không làm mà làm tất cả). Không can thiệp vào đời sống xã hội, mặc nó vận hành tự nhiên. Cõi tiên từ lâu đã là niềm mơ ước, niềm khát khao của người trần thế. Ở cõi tiên, con người được hưởng hạnh phúc siêu hình. Mơ ước đã đạt được, nhưng sống ở cõi tiên, Từ Thức chẳng cảm thấy hạnh phúc như người ta vẫn tưởng tượng. Từ trở về với trần tục, trần tục không chờ đón. Từ thất bại hai lần khi ở chốn trần và thất bại cả ở cõi tiên, vậy hạnh phúc của con người ở đâu? Một câu hỏi không có lời đáp nhưng gián tiếp chối bỏ cả Nho lẫn Đạo. Từ Thức cô đơn. Hành trình cô độc trên xuất xử hành tàng như một xu thế chung của bậc chính nhân trong xã hội suy tàn. Ngay cả việc ở tiên hay ở trần, chàng cũng chỉ có thể đối thoại với bóng mình. Cô đơn bủa vây Từ tứ phía, cổng đời ngấm ngầm xua đuổi, cửa tiên lại hư vô. Bước chân Từ ngập ngừng, có phần dò dẫm vào chốn tiên, rồi đau đáu về trần, chàng không chắc chắn cho một tương lai phía trước. Chi tiết này cho thấy lòng người, thời cuộc nhiều chênh chao trước biến ảo vô thường, vô định. Sự luẩn quẩn của cuộc đời Từ phản ánh ước mơ thoát tục của nhân dân ta và phản ánh sự dao động của Nguyễn Dữ trên hành trình kiếm tìm chân lí.

Mặc dù con đường thoát li của kẻ sĩ không viên mãn song Nguyễn Dữ muốn gửi gắm niềm tin vào họ và ngầm đưa ra những suy nghĩ của mình về chân dung nho sĩ lí tưởng.

Trước hết người nho sĩ phải lấy sự học làm trọng. Đức thánh Khổng trong Tam tự kinh từng răn dạy học trò rằng: “Ngọc bất trác, bất thành khí/ Nhân bất học, bất tri lý” (Một viên ngọc dù có quý giá nhưng không mài giũa thì không trở thành một dụng cụ tốt, người không học thì không biết đạo nghĩa ở đời). Nếu người tốt mà không học thì sẽ bị u tối che lấp nên dễ thành kẻ ác “Hiếu nhân bất hiếu học kì tế giả ngu”. Người nhiệt tình mà vô học cũng dễ thành phá hoại; có những phẩm chất tốt như “dũng”, “trực”, “trí”... Mà chẳng chịu học cũng dễ thành “cuồng”, “loạn”, (dũng vô học tất cuồng). Con người phải học để “trí giả bất hoặc” [1, tr.292]. Vì vậy, với chàng Hà Nhân, việc thoát li vào chốn trần tục, chểnh mảng học hành, son phấn tình nồng là điều đáng chê trách. Việc làm của Hà Nhân làm nho phong sĩ khí suy đồi, vẻ đẹp nho sinh suy giảm. Thẳng thắn lên án những tỳ vết ở tầng lớp mình, cuối tác phẩm, Nguyễn Dữ bình luận: “Chàng họ Hà lòng trẻ có nhiều vật dục, cho nên loài kia mới thừa cơ quyến rũ. Nếu không thì cũng giống nguyệt quái hoa yêu, mê hoặc sao được mà chẳng thu mình nép bóng ở trước Lương công là một bậc chính nhân. Kẻ sĩ gánh cặp đến Trường An, tưởng nên chăm chỉ về nghiệp học…” Dùng cách phản đề, Nguyễn Dữ rạch ròi phân định, điều gì người Nho sĩ nên làm, điều gì nên tránh.

Phê phán nho sĩ để có cái nhìn công bình, nhưng cảm hứng chung của Nguyễn Dữ là ca ngợi hình ảnh đẹp của người trí thức chân chính. Nho sĩ phải là người thoát vòng danh lợi, có tấm lòng khẳng khái, cương trực.

Chàng Từ Thức không vì “số lượng năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh”, nên từ quan ngao du.

Người tiều phu đứng cao hơn cường quyền danh lợi. Kẻ sĩ có cuộc sống thanh bần an lạc, hưởng vui thú với chuyện “trồng dâu, trồng gai”, áo mặc sẵn cây lá”, cổ đeo chuỗi “cỏ lan”, “Mặc ai xe ngựa/ Mặc ai phố phường”. Quanh năm sống cùng “trúc, mai, rừng suối, muôn vàn cảnh thanh”, an hưởng thú thanh cao: thích ngủ, thích cờ, thích thơ…”.

Page 132: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

132

Nho sĩ không nên tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len lỏi vào đường làm quan, “chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiền, lại còn phụ bạc với vượn hạc” (Người tiều phu ở núi Na)… Quan điểm này cũng xuất hiện trong một số tác phẩm khác của tập truyện, chẳng hạn như Bữa tiệc đêm ở Đà Giang: “Chúng tôi nương mình bên cành khói, nấu vết chốn hang mây, ngủ thì lấy cỏ làm đệm êm, khát thì lấy nước suối làm rượu ngọt, vương chân có khói ráng, kết bạn có hươu nai, chỉ biết ăn bách nhai tùng, ngâm trăng vịnh gió, ngõ hầu mới khỏi vướng lưới trần”. Trong lời hát, người tiều phu hát tiếp: “Khe trong suối biếc nước ngon lành/ Đường thế chi màng đến lợi danh/ Hang đá dễ nương mình phóng khoáng/ Vòng trần khôn đặt bước chông chênh”.

Chấp nhận cuộc sống thanh bần lạc đạo, xã hội không để họ yên mà dồn đến chân tường, không còn cách nào khác kẻ sĩ sẵn sàng đối đầu với cái chết để bảo toàn danh tiết. Sau nhiều lời phủ dụ, ép buộc quay về triều chính phục vụ cường quyền không lay chuyển lòng người, số phận người ẩn sĩ ở núi Na bị đe dọa: “Nếu còn để ý chút nào đến đám dân chúng, mà bỏ lỡ dịp này không ra thì tôi sợ rằng sẽ mục nát cùng cỏ cây, không bao giờ lại có dịp gặp gỡ hay này nữa”. Kết quả, “Hồ Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa”. Có lẽ, con hạc đen là một biểu tượng về sự thanh cao, là sự hóa thân siêu thoát của chính người ẩn sĩ sau cái chết cháy. Qua hình tượng này, Nguyễn Dữ muốn khẳng định, cái đẹp luôn bất tử, dù nó phải chịu sự chà đạp tàn khốc của cái xấu xa.

Nhưng nhìn một cách công bình, cách hành đạo cô thân của các nho sĩ có phần tiêu cực. Giữ mình trong sạch, các nho sĩ tìm cách trốn đời, trong khi dân chúng lầm than, binh lửa rối ren, gia đình li tán, “phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai xưng tay rách rất là khổ sở”. Việc giữ mình cho thấy nho sĩ bất lực trước cường quyền, phải chọn con đường thoát li là bất đắc dĩ. Vì vậy, để hình ảnh người nho sĩ luôn trọn vẹn, Nguyễn Dữ chỉ ra tấm lòng không nguôi quên cuộc đời. Trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên có đoạn: “ Nhưng Từ, từ khi bỏ nhà ra đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay màu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng quấy nhiễu không sao ngủ được”. Truyện Người tiều phu ở núi Na cũng canh cánh nỗi niềm dân - nước: “Ta chân không bước đến thị thành” nhưng “vẫn thường nghe tiếng ông vua bây giờ là người thế nào?...”. Tấm lòng không nguôi hướng về đời cho thấy tinh thần nhập thế của người nho sĩ.

Hiển nhiên, từ những cảm nhận trên của người đọc, Nguyễn Dữ đã xây dựng chân dung người nho sĩ - đại trượng phu hoàn hảo: Xin mượn bài dạy của thầy Mạnh Tử - người học trò xuất sắc của Nho gia để khép lại vấn đề:

“Thế nào là Đại trượng phu? Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất” Ai theo được như vậy thì gọi là Đại trượng phu”. 4. Kết luận Nói tóm lại, mượn con đường thoát li của người nho sĩ, Nguyễn Dữ muốn phơi bày những cái

xấu xa của xã hội phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương

Page 133: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

133

những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động bế tắc của chính tác giả trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Dương Thu Ái - Nguyễn Kim Hanh (sưu tầm và biên dịch), 2011. Khổng Tử với luận ngữ. Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

[2] Đào Duy Anh (biên soạn) - Hãn Mạn Tử (hiệu đính), 2001. Từ điển Hán Việt, quyển hạ. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[3] Henri Benac, 2001. Dẫn giải ý tưởng văn chương. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [4] Lại Văn Hùng, số 10, năm 2002. “Bàn thêm về vấn đề tác giả, tác phẩm Truyền kỳ

mạn lục”, Tạp chí Văn học. [5] Cù Hựu - Nguyễn Dữ, 1999. Tiễn đăng tân thoại - Truyền kì mạn lục. Nxb Văn học, Hà Nội. [6] Đinh Gia Khánh, 1964. Văn học cổ Việt Nam, tập 1. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [7] Nguyên Đăng Na, 1999. Văn xuôi tư sư Viêt Nam thơi trung đai, tâp 1, Truyên ngăn.

Nxb Giao duc, Ha Nôi. [8] Hoàng Phê (chủ biên và các tác giả khác), 1998. Tư điên tiêng Viêt. Nxb Đà Nẵng. Trung tâm

Tư điên ngôn ngư xuất bản, Ha Nôi - Đà Nẵng. [9] Lê Văn Tấn, 2013. Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học trung đại Việt Nam. Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội. [10] Vũ Thanh , 1994. “Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kì Việt Nam”,

Tạp chí Văn học. [11] Trần Ngọc Vương , 1995. Loại hình học tác giả - nhà nho tài tử và văn học Việt Nam.

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

THREE WAYS TO LEAVE OF CONFUCIANS AND THOUGHT OF NGUYEN DU IN “TRUYEN KY MAN LUC”(COLLECTION OF STRANGE TALES)

Dr. Ngo Thi Phuong Faculty of Literature

Abstract: Collection of strange tales is a “thien co tuy but” - a unique and excellent literary work by Nguyen Du. Through classification, it can be seen that there are 3 characters ranked among distinguished Confucian scholars and they escape by three different ways. Character Ha Nhan went into the life, live to die with the life. Character Tu Thuc went to paradise, a magical far-away place. The anchorite in “Chuyen doi dap cua nguoi tieu phu o nui Na” came to mountains and forests to get away from life. With no conflict in finding the way for Confucians scholar, Nguyen Du uses the leave to reflect the changing of society and demonstrated his point of view on ideal man.

Keywords: Leave, confucian scholar thought.

Page 134: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

134

NGHỆ THUẬT SO SÁNH TRONG DÂN CA VỀ TÌNH YÊU TRAI GÁI CỦA DÂN TỘC HMÔNG

ThS. Hà Thị Hải Khoa Ngữ Văn

Tóm tắt: Dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông thường xuyên sử dụng nghệ thuật so sánh. Mọi phương

diện của người tình đều được đem ra so sánh và kiểu lấy người ví vật là kiểu thường gặp nhất. Những hình ảnh được dùng để so sánh rất mộc mạc, giản dị, gần gũi với cuộc sống bình dị của người Hmông. Sử dụng nghệ thuật so sánh đã làm tăng thêm vẻ đẹp và sự lôi cuốn của những áng dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông.

Từ khóa: Nghệ thuật so sánh, dân ca tình yêu, dân tộc H’mông. 1. Đặt vấn đề

Dân ca Hmông vô cùng phong phú, bao gồm nhiều loại như: Tiếng hát tình yêu, tiếng hát làm dâu, tiếng hát mồ côi… trong đó, tiếng hát tình yêu hay còn gọi là dân ca về tình yêu trai gái (Gầu plềnh) là loại hay nhất, hấp dẫn nhất, để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người nghe và cả người hát. Sức cuốn hút của dân ca Hmông về tình yêu trai gái không chỉ ở nội dung phong phú với các cung bậc cảm xúc say đắm lòng người mà còn ở nghệ thuật độc đáo của nó. Những cung bậc cảm xúc về nỗi nhớ người yêu, về niềm vui hạnh phúc khi được yêu, về nỗi buồn khi xa cách và cả những lời thở than, trách móc người yêu đã được thể hiện đầy đủ và sinh động qua những biện pháp nghệ thuật đặc sắc như so sánh, trùng điệp, nhân hóa… Đặc biệt, biện pháp so sánh đã được các tác giả dân gian sử dụng với tần số rất lớn, làm nên nét đặc sắc trong nghệ thuật dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm so sánh

Có nhiều quan niệm của các học giả, các nhà nghiên cứu văn học về biện pháp so sánh. Sau đây, chúng tôi nêu ra quan niệm của Lại Nguyên Ân làm cơ sở cho việc triển khai vấn đề nghiên cứu:

So sánh là “một phương thức chuyển nghĩa (tu từ), một biện pháp nghệ thuật trong đó việc biểu đạt bằng ngôn ngữ hình tượng được thực hiện trên cơ sở đối chiếu và tìm ra những dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật thuộc tính, đặc điểm của sự vật hoặc hiện tượng này qua thuộc tính, đặc điểm của sự vật hoặc hiện tượng khác” [1, tr 385].

Trong phép so sánh thường sử dụng các từ chỉ quan hệ so sánh: như, như là, như thể… đặt giữa hai vế (đối tượng đem so sánh và đối tượng được dùng để đối chiếu, so sánh).

Ví dụ: Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa. Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. (Ca dao) Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người. (Đỗ Trung Quân)

Page 135: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

135

2.2. Nghệ thuật so sánh trong dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông Khảo sát lời dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông, chúng tôi nhận thấy tác giả dân

gian sử dụng nghệ thuật so sánh với tần số rất lớn. Trong tổng số 110 bài dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông trong cuốn Dân ca Mèo và cuốn Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, chúng tôi thống kê thấy có 65 bài sử dụng nghệ thuật so sánh.

Trước hết, trong lời dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông, mọi phương diện của người tình đều được đem ra so sánh: Ngoại hình, hành động, ngôn ngữ (lời hứa, câu hát), cảm xúc, thân phận…

So sánh để làm nổi bật ngoại hình của người tình: Ngón tay ngón chân mình mềm trắng như lông chim câu Ngón tay ngón chân mình mềm trắng như lông con vịt.

Vẻ đẹp mềm mại tinh khiết của đôi tay và bàn chân cô gái đã được cụ thể hóa qua những hình ảnh so sánh đẹp và gần gũi trong đời sống.

So sánh hành động: Cô quấn xà cạp gọn xinh như trôn ốc xây Cô lấy chồng đảm đang được việc nhà việc cửa Cô quấn xà cạp gọn đẹp như trôn ốc xoáy Cô lấy chồng cáng đáng được gia đình.

Trong trang phục truyền thống, phụ nữ Hmông thường dùng một dải vải quấn quanh bắp chân, gọi là quấn xà cạp. Hành động quấn xà cạp của cô gái qua hình ảnh so sánh “gọn xinh như trôn ốc xây”, “như trôn ốc xoáy” chứng tỏ cô rất khéo léo và trong con mắt của chàng trai, một người con gái khéo léo như vậy khi lấy chồng sẽ đảm đang, cáng đáng, chăm lo chu toàn gia đình nhà chồng.

Lời hẹn, câu hát, lời nói của người yêu cũng được tác giả dân gian đem ra so sánh. Ví dụ 1:

Gái Giàng Xay hẹn trai Giàng Tú Xuân qua hè, chẳng thấy Như con cá giỡn đùa nấp trong hốc đá.

…… Gái Giàng Xay hẹn trai Giàng Tú Như mặt trời, mặt trăng, treo lơ lửng từ tận phương trời.

Ví dụ 2:

Câu hát sắp hết, câu hát chưa hết Hết như hang sâu đá bạc.

…… Lời hát không hết Hết như bụi đùm đũm.

Trong ví dụ 1, lối so sánh lời hứa của cô gái như “con cá đùa giỡn…”, như “mặt trăng, mặt trời” của chàng trai mang hàm ý trách cô gái đã đùa giỡn làm khổ chàng, lời hứa của cô không thật tâm nên không bao giờ họ có thể gặp nhau. Còn ở ví dụ 2, qua lối so sánh trực tiếp lại khẳng định lời hát của cô gái còn mãi (đùm đũm là một loại cây lá to, thân có gai, quả như quả dâu, màu đỏ tươi, ăn có vị ngọt mát, lá rụng lại có lá non nẩy tiếp quanh năm).

Page 136: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

136

So sánh tâm trạng, tình yêu: Ví dụ 1:

Buồn lòng ta, buồn như dế than, chim hót mùa đông Tình đôi ta như mặt trăng, mặt trời kết nghĩa

Ví dụ 2:

Ta muốn kết mình như kết ngôi xao xanh Ta ưng kết mình như kết vì sao lơ lửng giữa trời.

Tác giả dân gian trong bài dân ca ở ví dụ 1 đã dùng âm thanh da diết của dế, tiếng hát buồn, đứt đoạn của chim trong mùa đông lạnh giá để so sánh đã làm nổi bật nỗi buồn ảm đạm trong lòng chàng trai vì chưa tìm được người ưng ý. Trong cả hai ví dụ, những hình ảnh so sánh như mặt trăng, mặt trời, ngôi sao đều ở cõi cao xa không cùng đã diễn tả được trọn vẹn tình yêu không bao giờ thành của đôi trai gái, làm tăng lên nỗi buồn lan tỏa trong từng câu hát của chủ thể trữ tình.

So sánh thân phận: Thân em như cây si séng không có rễ Nước dâng em theo nước nổi Thân em như cây si séng không có chân Nước chảy em theo nước trôi.

Dùng hình ảnh si séng - một loài cỏ dại, có mùi thơm như cây kinh giới để so sánh, bài dân ca trên đã diễn tả được thân phận người phụ nữ không nơi nương tựa, dễ bị dòng đời đưa đẩy dập vùi, đó là thân phận đáng thương của người phụ nữ Hmông trong xã hội Phong kiến thuở xưa.

Những cặp sự vật mà dân ca Hmông về tình yêu trai gái dùng để so sánh với nhau về mặt chỉnh thể không giống nhau: Ngón tay ngón chân - lông chim câu; tình yêu - mặt trăng, mặt trời, thân em - cây si séng… Và đó là tiền đề của so sánh. Nếu không, sẽ không cần có sự so sánh làm gì. Song hai sự vật không giống nhau ấy, về mặt cục bộ còn có một số nét tương đồng, gần gũi (độ trắng của ngón chân ngón tay và lông chim câu, sự bồng bềnh trôi nổi của thân phận người phụ nữ và cây si séng không rễ…), đó là chỗ dựa của so sánh. Nếu không “thì sẽ không có cách nào phân biệt được. Hai cái đó đầy đủ cả rồi, lúc ấy mới có thể tạo thành được mối quan hệ của so sánh” đúng như quan niệm của Lưu Hiệp - nhà lí luận văn học Trung Quốc khi nhận xét về thủ pháp này [3, tr 296].

Qua những ví dụ đã nêu ở trên, chúng ta thấy đối tượng được dùng để so sánh trong dân ca về tình yêu của dân tộc Hmông khá phong phú, đa dạng: Từ con vật, cỏ cây đến vũ trụ…, từ hình ảnh đến âm thanh… Tất cả đều có thể là đối tượng dùng để so sánh cốt làm nổi bật điều mà chủ thể trữ tình muốn nói đến.

Một điều thú vị là trong những đối tượng mà dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông dùng để so sánh với người tình và các phương diện của tình yêu như con vật, sự vật, vũ trụ… thì con vật là đối tượng được dùng để so sánh nhiều nhất :

Lớn dậy, em ra ngoài, nét mặt hoa đẹp giòn như con nhện giăng tơ.

Đôi ta như chim khướu lạc đàn Đôi ta như chim mi lạc bạn.

Page 137: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

137

Chàng như con gà trống của mẹ của cha vừa mới tập gáy Ta như con gà mái bới khắp nơi không có chuồng. Bây giờ, thân em như trâu măng đã có chuồng Thân em như ngựa măng đã có tàu.

Em như con ốc bò rờ rẫm trên mỏm đá. Anh như con cào cào chưa mọc cánh.

Đây là kiểu lấy người ví vật. Thông thường, nếu đó là con vật đẹp có nghĩa là tác giả dân gian muốn ca ngợi người được ví, nếu đó là con vật xấu, ác có nghĩa là tác giả dân gian muốn mỉa mai, phê phán người bị ví. Trong dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông, những con vật là đối tượng được dùng để so sánh thường là những con vật bình dị, dân dã như con nhện, chim khướu, chim mi, cá, gà trống, gà mái, trâu, ngựa, con ốc, con cào cào… Và khi so sánh, mục đích của tác giả dân gian chủ yếu là để cụ thể hóa đối tượng so sánh (đôi ta, chàng, em, thân em…) chứ không mang hàm ý ca ngợi hay phê phán con người. Những con vật cao quý như long, li, quy, phượng… Ít được dùng để so sánh.

Dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông không chỉ so sánh đời người với vũ trụ: “Đời người như bóng râm từ từ ngả ngả bên núi. Đời người như bóng râm từ từ ngả bên đồi” để diễn tả tốc độ biến đổi của cuộc đời con người một cách cụ thể, sinh động, từ đó nhắc nhở người yêu về tuổi già mau tới mà còn so sánh ngược lại, nghĩa là so sánh vũ trụ với trang phục của con người, giúp người nghe hình dung ra sự chuyển động của vũ trụ: Gió về, gió thổi cây rừng, rung rung như nếp váy động Gió về, gió thổi cây rừng, rung rung như tà vạt bay. Tuy nhiên, cách so sánh ngược lại như trên rất ít gặp.

Có những bài dân ca tình yêu Hmông sử dụng so sánh liên hoàn. Ví dụ: Ta không được cùng em tâm sự Nhìn thấy em như hoa nở bên đồi Được cùng em tâm sự Thì lòng ta thẫn thờ như ma quỷ ghẹo Ta không được cùng em than thở Ngó thấy em như hoa nở bên núi Được cùng em than thở Thì lòng ta thẫn thờ như quỷ ma trêu. Chỉ trong một đoạn lời hát ngắn, tác giả dân gian đã sử dụng bốn tỉ dụ liên tiếp, điều đó càng

làm nổi bật nỗi lòng và tâm trạng thẫn thờ, bứt rứt không yên của chàng trai khi không được trò chuyện cũng như khi được trò chuyện với người mình yêu.

Có thể thấy, những hình ảnh được dùng để so sánh trong dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông thường rất mộc mạc, giản dị, gần gũi, thân thuộc với cuộc sống lao động bình dị của con người như hình ảnh con trâu, con ốc, chim câu, gà, vịt, vết chân chuột, chiếc quai giày, chai nước lã, chỉ đen, cái nong… Những hình ảnh sang trọng, tươi đẹp, cao quý ít được sử dụng để so sánh.

Page 138: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

138

Là một phương thức tư từ, một thủ pháp nghệ thuật phổ biến nên chúng ta dễ dàng gặp biện pháp so sánh trong văn học của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác. Dân ca tình yêu trai gái của dân tộc Thái cũng sử dụng khá nhiều biện pháp so sánh:

Anh nghèo xơ như bã quả chanh Nghèo dính như vỏ màng quả sung Nghèo mặc áo vỏ cơi, nằm đệm vỏ liếng Thành vợ anh, em sẽ đeo lẵng chạy nhà dưới xin muối… Chàng trai dùng hình ảnh so sánh rất sinh động: nghèo như “bã quả chanh” (không còn gì)

như “vỏ màng quả sung” (rất mỏng) để diễn tả cảnh nghèo đến cùng cực, đến tột đỉnh của mình và vẽ ra một tương lai vất vả nếu cô gái thành vợ mình. Đây có thể là câu hát thử lòng cô gái của chàng trai nhưng cũng có thể là tình cảnh thực của chàng, qua đó ta thấy được sự thật thà, trung thực, một phẩm chất đáng quý của chàng trai Thái trong cách ứng xử với người yêu.

Dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Mường cũng dùng biện pháp so sánh thể hiện ước muốn rất táo bạo của các cô gái Mường:

Thân anh như quạt vẽ rồng Em như chiếu rách vào hàng bỏ quên Ước gì mưa gió nổi lên Cho chiếc chiếu rách nằm trên quạt rồng! Còn dân ca tình yêu của dân tộc Dao đã so sánh vẻ đẹp của con người với vũ trụ bao la: Trần thế sao có người xinh đẹp Như mây che rợp cả vùng trời Ước chi ta được cùng người đẹp Sướng gì hơn chung sống một nơi. Dân ca tình yêu của dân tộc Hán (Trung Quốc) có khá nhiều điểm tương đồng với dân ca

tình yêu trai gái của dân tộc Hmông. Người Hán cũng sử dụng khá đậm đặc biện pháp so sánh trong dân ca của mình:

Tiết thu e sắp đến nơi Gió may đuổi bạt khí trời nắng oi

Trong hòm quạt bỏ quên rồi Giữa đường ân ái ôi thôi còn gì… (Oán ca hành tự)

Người phụ nữ trong bài dân ca này tự ví mình với cái quạt bị bỏ quên giữa mùa thu để diễn tả nỗi đau khổ khi bị chồng ruồng bỏ, thể hiện thân phận của người phụ nữ dưới chế độ Phong kiến bị phụ thuộc, bị quyết định bởi người đàn ông. Như vậy, thông qua biện pháp so sánh, trong lời dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông, những sự vật trừu tượng được cụ thể hóa, sống động hơn, dễ hình dung hơn, tạo nên sự lôi cuốn, hấp dẫn đối với người nghe trong mọi hoàn cảnh diễn xướng.

3. Kết luận Dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông sử dụng biện pháp so sánh với tần số khá lớn.

Giá trị của nghệ thuật so sánh trong lời dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông như một hành vi nhận thức bằng nghệ thuật là ở chỗ: Việc đem xáp lại gần nhau những đối tượng khác nhau (chàng trai, cô gái, tình yêu… Với vũ trụ, sự vật, sự việc…) giúp phát hiện được ở đối tượng - bên cạnh những dấu

Page 139: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

139

hiệu cơ bản - những dấu hiệu bổ sung, làm tăng thêm ấn tượng nghệ thuật của lời dân ca trong lòng người hát và người nghe. Sử dụng nghệ thuật so sánh đã làm tăng thêm vẻ đẹp vốn có của những áng dân ca về tình yêu trai gái của dân tộc Hmông.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Lại Nguyên Ân, 2003. 150 thuật ngữ văn học. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. [2] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, 1998. Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. [3] Khâu Chấn Thanh, 1994. Lí luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [4] Doãn Thanh (sưu tầm - biên dịch), 1967. Dân ca Mèo. Nxb Văn học, Hà Nội.

COMPARISON ART IN FOLK SONGS OF HMONG ETHNIC PEOPLE

Ha Thi Hai M.A Faculty of Literature

Abstract: Comparison art is one of common feature in love folk songs of Hmong ethnic people. All aspects of the lovers compared, and the most popular type is comparing between people and objects. The images taken to make a comparison seem very rustic, casual, close to idyllic life of the Hmong. It is seen that the use of comparation art helps to raise the beauty and attraction of these remarkable pieces of folk songs.

Keywords: Comparison art, folk songs, Hmong ethnic.

Page 140: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

140

TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ HÌNH THÀNH TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VIỆT NAM

ThS. Dương Văn Mạnh Khoa Lý luận Chính trị

Tóm tắt: Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước đã tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc

Việt Nam. Trong đó có thể nói những yếu tố cơ bản hun đúc nên thống đoàn kết dân tộc là: Các dân tộc cùng chung sống trong hoàn cảnh thiên nhiên nhiều tiềm năng nhưng đầy bất trắc, cùng chung lợi ích, vận mệnh lịch sử, có chung ý thức bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc thống nhất trong tính đa dạng. Do đó, bài viết này góp phần làm sáng tỏ cơ sở hình thành truyền thống đoàn kết dân tộc Việt Nam.

1. Đặt vấn đề Đoàn kết là truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Trải qua hàng nghìn

năm, dân tộc ta phải dành nhiều thời gian và nguồn lực cho cuộc đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Trong lịch sử lâu dài và thăng trầm đó, sức mạnh vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Vậy, yếu tố nào hình thành nên truyền thống đoàn kết dân tộc ta (ĐKDT)? Bài viết này nhằm mục đích làm sáng tỏ một số yếu tố hình thành đoàn kết của dân tộc ta.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Các dân tộc nước ta cùng chung sống trong hoàn cảnh thiên nhiên nhiều tiềm năng

nhưng đầy bất trắc Đặc điểm về địa hình, khí hậu, tài nguyên và môi trường sinh thái nước ta chứa đựng nhiều

tiềm năng to lớn, đồng thời lại gây nhiều khó khăn, thách thức hiểm nghèo đối với con người. Qua những tư liệu về lịch sử, kết quả khảo cổ và một số đề tài khoa học khác khẳng định có nhiều chứng cứ cho thấy từ thời cổ đại cư dân ở đây sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt và đánh bắt. Mong muốn của các cư dân khi đến đây là xây dựng một cuộc sống ổn định, văn minh, thoát dần cuộc sống hái lượm, săn bắt bấp bênh đầy nguy hiểm để tìm tới cuộc sống định cư vững vàng và sung túc.

Ở nước ta, trong muôn vàn những yếu tố địa lý có ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của con người thì môi trường sông nước là yếu tố thường xuyên và có tác động mạnh mẽ nhất. Các cư dân đầu tiên đến vùng đất này chọn nơi định cư có địa thế tương đối thuận lợi là khu vực hạ lưu có nhiều sông ngòi chằng chịt nằm giữa một bên là đồi núi cao và một bên là biển cả. Bởi vì địa hình đó thuận lợi cho công việc trồng trọt, chăn nuôi và đánh bắt nhất. Tuy nhiên, công việc khởi đầu của họ không hề dễ dàng do sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Trước cảnh bốn bề "rừng thiêng nước độc", nhiều vùng trũng thấp nên muốn khai hoang, cải tạo đất, phát triển sản xuất thì họ nhất thiết phải dựa vào sức mạnh của tập thể, đồng cam cộng khổ, có phước cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Theo đề tài KX.07.02 (Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước) do GS. Phan Huy Lê chủ biên, thì có nhiều chứng cứ cho thấy cư dân xa xưa ở khu vực phía Bắc nước ta đã khai thác ruộng đất theo phương thức tập thể, đất đai canh tác trong một thời gian dài thuộc chế độ ruộng đất công. Đến nay mô hình ruộng đất công vẫn còn dấu tích ở nhiều nơi.

Nguồn nước dồi dào của các con sông với địa hình dốc đổ ra hướng biển Đông, mưa lớn tập trung chỉ một thời gian ngắn trong năm là nguyên nhân gây ra lũ lụt. Thêm nữa, ngoài khơi vùng biển nước ta là một trong những trung tâm phát sinh bão nhiệt đới, trung bình hàng năm có đến hơn 10 cơn bão đổ bộ vào đất liền tàn phá ghê gớm nhà cửa, mùa màng và cuộc sống con người ở đây. Việc xây dựng hệ thống đê điều ngăn lũ bảo đảm sản xuất và đời sống là mối quan tâm chung của cộng đồng. Hoàn thành hệ thống đê

Page 141: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

141

điều có đến hàng nghìn ki-lô-mét là công trình vĩ đại tốn nhiều công sức của nhiều thế hệ tự nó đã nói lên ý chí mạnh mẽ, sức mạnh to lớn của sự đoàn kết chung lòng xây dựng đất nước của ông cha ta. Thực tế và kinh nghiệm cuộc sống đã dạy cho nhiều thế hệ con người ở đây bài học:

Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.

Thời tiết khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, sâu bệnh phát sinh khiến cho con người phải chống chọi vất vả. Những lúc gặp hoạn nạn, khó khăn thì với tình nghĩa "đồng bào", tinh thần "lá lành đùm lá rách", "thương người như thể thương thân",... Mọi người sẵn sàng giúp đỡ nhau để vượt qua cơn hiểm nghèo.

Ca dao Việt Nam có câu: Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Hay: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Cuộc đấu tranh gần như thường xuyên với thiên nhiên khắc nghiệt là cuộc vật lộn không kém phần ác liệt đã tác động sâu sắc đến sự hình thành và phát triển của truyền thống ĐKDT. Cũng từ đó, mối liên hệ giữa các cộng đồng lớn - nhỏ như gia đình - làng bản - dân tộc - quốc gia tạo thành sợi dây tinh thần kết chặt lại giữa các cá nhân trong cộng đồng ấy.

2.2. Các dân tộc nước ta cùng chung lợi ích và vận mệnh lịch sử Theo những tư liệu lịch sử, nhà nước đầu tiên của Việt Nam được thành lập từ thời các vua

Hùng (khoảng 2879 - 258 tr.CN) có tên gọi là Văn Lang. Nhà nước Văn Lang ra đời trên cơ sở liên minh của 15 bộ lạc thuộc phạm vi miền Bắc cho đến Hoành Sơn và một dải đất thuộc phía Bắc Việt Nam giáp với tỉnh Quảng Tây của Trung Hoa. Trung tâm của nhà nước Văn Lang là vùng đất Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Sơn Tây ngày nay, dân số vào khoảng 50 vạn người [1, 7-11]. Đến thời nhà Nguyễn lãnh thổ Việt Nam mở rộng xuống phía Nam và sang phía Tây thu hút thêm nhiều dân tộc gia nhập vào đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam có đến 54 dân tộc chọn nơi đây làm nơi định cư sinh sống, cùng xem là Tổ quốc thiêng liêng của mình. Mặc dù 54 dân tộc đến đây định cư vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sử nhưng khi chọn Việt Nam là Tổ quốc thiêng liêng, họ đã chung sức cùng nhau xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Việt Nam ở vào một vị trí địa lý - chính trị có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Nơi đây còn là vùng đất phì nhiêu, đường giao thông thủy bộ tiện lợi nằm bên cạnh một đế chế Trung Hoa rộng lớn trở thành nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến những biến cố lịch sử, cuộc sống và truyền thống Việt Nam. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III tr.CN) đến thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam phải thường xuyên đấu tranh chống xâm lược và giải phóng dân tộc với hơn 22 thế kỷ. Thật hiếm thấy một quốc gia - dân tộc nào trên thế giới lại có quá trình đấu tranh chống xâm lược kiên cường, bền bỉ và anh dũng như dân tộc ta mà kẻ thù luôn là những đế chế hoặc đế quốc hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.

Trước cuộc chiến đấu không cân sức như vậy, con đường sống còn và chiến thắng của dân tộc là phải huy động cao độ sức mạnh tổng hợp về vật chất và tinh thần của cả dân tộc. Bởi "nước mất thì nhà tan", mọi người vì nghĩa lớn mà chiến đấu hy sinh "vì nước quên nhà". Đồng bào cả nước từ miền xuôi

Page 142: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

142

đến miền ngược, từ Bắc chí Nam không phân biệt nam nữ, trẻ già, thành phần đều đoàn kết một lòng, chung lưng đấu cật chiến đấu oanh liệt bảo vệ nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Qua nghiên cứu đời sống các dân tộc, các nhà Dân tộc học đã nhận định rằng: Các dân tộc nước ta qua gắn bó máu thịt với quốc gia Việt Nam mà gắn bó máu thịt với nhau. Cùng chung sống trong Tổ quốc, mẹ Việt Nam, các dân tộc no đói có nhau, vinh nhục bên nhau, đồng cam cộng khổ, sống chết một lòng. Tinh thần đoàn kết, tương trợ truyền thống đó được thể hiện qua sự nghiệp dựng nước và giữ nước của đại gia đình các dân tộc trong trường kỳ lịch sử, nó là quy luật phát triển của dân tộc Việt Nam [2, 365].

Thật vậy, lược qua lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước đến thế kỷ XX, tất cả những chiến công hiển hách chống xâm lược chính là thành tích chung của 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Khi nhà Tần xua quân xâm lược nước ta, dưới sự lãnh đạo của Thục Phán, nhân dân Bách Việt đoàn kết một lòng đánh đuổi quân Tần về nước. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã huy động được nhân dân cả 65 thành hồi ấy đồng loạt đứng lên khởi nghĩa. Sang thời nhà Trần, các dân tộc miền núi phía Bắc phối hợp với dân tộc Kinh đã anh dũng chiến đấu thắng giặc Nguyên - Mông. Cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và Nguyễn Trãi chống sự đô hộ của nhà Minh, tụ nghĩa ở Lam Sơn là vùng đất sinh sống của dân tộc Mường, được nhân dân khắp nơi hưởng ứng và lập nên chiến công vang dội ở ải Chi Lăng. Cuộc hành quân thần tốc kỳ lạ từ Nam ra Bắc của Nguyễn Huệ tiêu diệt hơn 20 vạn quân Thanh có sự tham chiến hiệu quả của đội "tượng binh" các dân tộc ở Tây Nguyên. Thời Pháp thuộc (thế kỷ XIX), lịch sử ghi nhận có rất nhiều cuộc nổi dậy của các dân tộc anh em trên khắp cả nước. Từ khi có Đảng với lãnh tụ Hồ Chí Minh, sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc được nhân lên gấp bội. Khắp nơi trong cả nước, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa và miền núi - chính là những vùng căn cứ địa vững chắc của cách mạng. Những chiến công vang dội như Việt Bắc, Điện Biên Phủ, Buôn Mê Thuột, Tây Nguyên làm kinh hoàng quân giặc đều thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Nhìn lại những trang vàng ấy của lịch sử, ta thấy bên cạnh chiến công hiển hách của các vị anh hùng dân tộc như: Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Hồ Chí Minh,... Còn có các đại biểu ưu tú của các dân tộc thiểu số như: Tôn Đản, Hà Bổng, Hà Đặc, Bế Khắc Thiệu, Ma Luân, Phạm Cuông... Vì vậy, trong dòng chảy của lịch sử Việt Nam luôn có sự hòa trộn mồ hôi và xương máu biết bao thế hệ con người thuộc các dân tộc.

Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam không chỉ toàn những trang sử hào hùng, oanh liệt, không phải lúc nào các dân tộc cũng hòa thuận đoàn kết, không có mâu thuẫn. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, có áp bức bất công thì các dân tộc ở nước ta không tránh khỏi xảy ra những xung đột xung quanh vấn đề chủ yếu là lợi ích. Có lúc vì lợi ích cá nhân, dòng tộc mà tập đoàn phong kiến cam tâm bán rẻ dân tộc, gây mâu thuẫn, chia rẽ dân tộc, tạo cơ hội cho thế lực bên ngoài xâm lược nước ta. Tuy nhiên, nét chủ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam vẫn là mối quan hệ đoàn kết keo sơn giữa các dân tộc anh em, giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số và giữa dân tộc thiểu số với nhau.

2.3. Các dân tộc nước ta có chung ý thức bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc thống nhất trong tính đa dạng

Nước ta nằm ở khu vực tiếp xúc giữa đại lục và đại dương, nơi đầu mối của các đường giao thông tự nhiên nối liền giữa lục địa và tỏa ra các hải đảo, qua con đường hàng hải nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Bởi vậy, Việt Nam là nơi giao thoa gặp gỡ của nhiều dân tộc trên đường di trú, nơi giao lưu rộng rãi của các nền văn hóa trong khu vực với các nền văn hóa lớn trên thế giới. Trước đây có một số quan niệm cho rằng Việt Nam không phải là khu vực có nền văn hóa độc lập, mà

Page 143: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

143

chỉ là khu vực nằm giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Quan niệm đó đã bị bác bỏ bởi những kết quả nghiên cứu khảo cổ học, lịch sử, văn hóa,... Trong những thập niên gần đây. Những phát hiện này chứng minh từ thời tiền sử và sơ sử xa xưa, Việt Nam từng có một nền văn hóa khá phát triển với một cơ tầng văn hóa rõ nét. Mặc dù nằm bên cạnh và chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh là Trung Hoa và Ấn Độ nhưng Việt Nam vẫn bảo tồn và phát triển được bản sắc văn hóa riêng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể quy định.

Vào những năm 70 thế kỷ XX, tức ngay trong thời kỳ cả nước ta đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, các nhà khoa học Việt Nam đã đưa ra những căn cứ khoa học đầy thuyết phục, chứng minh nền văn hóa Đông Sơn là sản phẩm tinh thần của dân tộc Việt Nam tương ứng với thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang. Nền văn hóa đó có thời kỳ phát triển rực rỡ và lan tỏa ra nhiều nước Đông Nam Á, đến tận miền Viễn Đông Xi-bê-ri bấy giờ. Chính nền văn hóa Đông Sơn hình thành nên cốt lõi để sau này phát triển lên thành bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa thống nhất và đa dạng.

Sự thống nhất của nền văn hóa dân tộc ta do thực tế khách quan của lịch sử quy định. Sự thống nhất trong tính đa dạng là thuộc tính vốn có, là quy luật phát triển của nền văn hóa Việt Nam.

Sự thống nhất của nền văn hóa Việt Nam là do sự hội tụ của hai yếu tố: Một là, do chúng có chung một cơ tầng là văn hóa Đông Nam Á mà nét chủ yếu là văn minh lúa nước. Hai là, do nguồn gốc lịch sử chung của nhiều nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á, Tày - Thái, Nam Đảo,... Sinh tụ lâu đời trên lãnh thổ nước ta. Đối với các nhóm dân tộc không cùng chung nguồn gốc lịch sử thì chính do sự tụ cư gần nhau lâu đời, chịu sự tác động môi trường và sinh thái như nhau, chung lợi ích và vận mệnh lịch sử, sự giao lưu văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác đã làm nảy sinh nhiều yếu tố văn hóa thống nhất.

Nghiên cứu một số hiện tượng văn hóa ở các dân tộc, GS,TS Phan Hữu Dật cho rằng, thật khó xác định được dân tộc nào trong số các dân tộc trên đất nước ta là chủ nhân của hiện tượng văn hóa như: Ta leo (vật bằng tre đan cắm lá thường thấy trên các nương rẫy, đầu đường vào bản hay trước cửa nhà khi có kiêng cữ), hoa văn hình thập ngoặc, uống rượu cần, ăn cơm lam, lễ hội đâm trâu... Rất có thể đó là sản phẩm chung của quá trình lao động và sáng tạo của tất cả các dân tộc.

Tính đa dạng của nền văn hóa dân tộc thể hiện trong sắc thái văn hóa vùng và nét đặc sắc của từng dân tộc. Theo nghiên cứu, phát hiện của các nhà văn hóa thì nước ta hiện có bảy vùng văn hóa tương đối rõ ràng: Trung du và Đồng bằng Bắc Độ, Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ, Việt Bắc, Đồng bằng duyên hải Bắc Trung Bộ, Đồng bằng duyên hải Nam Trung Bộ, Trường Sơn - Tây Nguyên và Nam Bộ. Mỗi vùng văn hóa đều có sắc thái riêng và được phân thành những tiểu vùng, mỗi tiểu vùng lại có một số yếu tố văn hóa riêng. Điều đó phần nào nói lên tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam. Hơn nữa, tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam còn thể hiện ở sắc thái văn hóa riêng của mỗi dân tộc. Theo đó có thể chia sắc thái văn hóa các dân tộc thành ba cấp độ từ rộng đến hẹp, như sau: Sắc thái văn hóa của nhóm ngôn ngữ (Việt - Mường, Tày - Thái, Môn - Khmer, Mông, Dao,...); Sắc thái văn hóa của từng dân tộc (gồm có 54 dân tộc); Sắc thái văn hóa của từng bộ phận trong một dân tộc (Thái trắng - Thái đen, Mông trắng - Mông đen - Mông hoa...). Những sắc thái văn hóa ấy tạo nên tính đa dạng và phong phú của văn hóa dân tộc. Nó như những bông hoa với nhiều sắc màu và hương thơm khác nhau trong vườn hoa chung của dân tộc Việt Nam.

Đề cao tính đa dạng của nền văn hóa dân tộc nhưng chúng ta cần ý thức rằng đó là tính đa dạng trong sự thống nhất. Vì thế, không nên đem đối lập tính đa dạng với tính thống nhất; hoặc ngược lại

Page 144: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

144

cũng sẽ là sai lầm nếu quá nhấn mạnh tính thống nhất mà hạ thấp và bỏ quên tính đa dạng của nền văn hóa dân tộc. Cho nên nếu vì một lý do nào đó ta xem nhẹ hay đánh mất nó thì có nghĩa là làm suy yếu đi sức mạnh tổng hợp của dân tộc.

Các dân tộc cùng sống chung trên dải đất Việt Nam ý thức được rằng sức sống của mỗi dân tộc chính là ở yếu tố nội sinh, tức những giá trị trong nền văn hóa lâu đời của dân tộc. Đối với mỗi con người Việt Nam, văn hóa và sự hiểu biết đem lại cho đời sống những điều tốt đẹp nhất về phẩm chất mà nếu thiếu nó thì cuộc sống sẽ trở nên mất ý nghĩa. Vì thế mà tất cả mọi thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam đều có chung ý thức bảo vệ và phát triển nó.

Văn hóa như một cơ thể sống luôn diễn ra sự vận động biến đổi do hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh, trong đó yếu tố nội sinh là chủ yếu còn yếu tố ngoại sinh là quan trọng. Nếu một nền văn hóa bị khép kín, không giao lưu với bên ngoài giống như không có sự trao đổi chất sống thì sớm hay muộn sẽ trở thành nền văn hóa lụi tàn và cuối cùng biến khỏi nền văn hóa nhân loại.

Suốt mấy nghìn năm phát triển nền văn hóa dân tộc, người Việt Nam sớm hình thành ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, dựa vào sức mạnh của bản thân là chính. Mặt khác, dân tộc ta lại có tinh thần rộng mở, không đố kỵ hẹp hòi, khép kín. Với tinh thần mở cửa như vậy, con người Việt Nam sẵn sàng giao lưu để chọn lọc văn hóa bên ngoài nhằm phát triển phong phú thêm văn hóa dân tộc mình. Ngay cả khi bị các đế chế, đế quốc xâm lược kéo theo sự xâm lược, áp đặt văn hóa từ bên ngoài thì sự tiếp thu của các dân tộc ở nước ta cũng hết sức chủ động và sáng tạo. Hàng nghìn năm đô hộ của các đế chế Trung Hoa, hàng trăm năm đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vậy mà đất nước Việt Nam vẫn còn đó, dân tộc Việt Nam vẫn còn đó, nền văn hóa Việt Nam không hề bị lai căng hay mất gốc mà lại càng thêm thấm đậm bản sắc dân tộc.

Ý thức giữ gìn nền văn hóa tốt đẹp của các dân tộc còn thể hiện rõ trong văn học, nhất là văn học dân gian. Văn học dân gian các dân tộc không phải ngẫu nhiên ghi nhận tất cả các dân tộc trên đất nước ta đều cùng chung một nguồn gốc: Dân tộc Kinh có câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cái bọc trăm trứng nở trăm con là tổ tiên của các dân tộc, dân tộc Mông có câu chuyện kể về nguồn gốc các dân tộc do cùng một cục thịt phân ra treo ở trên các cây đào cây lý, dân tộc Thái có câu chuyện quả bầu mẹ trong quả bầu lần lượt chui ra các dân tộc... Cho dù văn học dân gian thường có tính hư cấu, nhưng phải chăng ngay trong tiềm thức các dân tộc ở nước ta muốn khẳng định nguồn gốc chung của dân tộc Việt Nam nên cùng dốc sức chăm lo, bảo vệ nền văn hóa dân tộc.

Các cụm từ trong tiếng Việt như: Đồng bào, Tổ quốc, mẹ Việt Nam trở thành thiêng liêng đối với tất cả các dân tộc. Trong nền văn hóa Việt Nam, tiếng Việt của dân tộc Kinh được chọn làm ngôn ngữ chung, gọi là Quốc ngữ. Tiếng Việt luôn được các cộng đồng chăm lo giữ gìn, phát triển đồng thời với ngôn ngữ và chữ viết riêng của mỗi dân tộc.

Để phát triển nền văn hóa Việt Nam cần phải dựa trên quan điểm khách quan, khoa học, đánh giá lại toàn bộ di sản nền văn hóa dân tộc. Quan điểm của học thuyết Mác - Lênin về lĩnh vực đời sống tinh thần xã hội cho chúng ta hiểu rằng tự thân nền văn hóa luôn hòa quyện yếu tố giai cấp, dân tộc và nhân loại. Các yếu tố tạo thành nền văn hóa không phải tất cả đều tốt đẹp hay tất cả đều xấu. Vì vậy, việc chắt lọc, "gạn đục khơi trong" thúc đẩy nền văn hóa nước ta phát triển đúng hướng, đáp ứng yêu cầu văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là công việc có tầm quan trọng đặc biệt. Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là quan điểm có tầm chiến lược của Đảng ta "làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới

Page 145: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

145

của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại" [5, 213]. Chiến lược phát triển nền văn hóa dân tộc của Đảng vừa phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất nước vừa đáp ứng đúng nguyện vọng và tình cảm của các dân tộc trên đất nước ta.

3. Kết luận Như vậy, truyền thống đoàn kết Việt Nam có cơ sở hình thành từ hoàn cảnh đặc thù, do sự tác

động thường xuyên của hoàn cảnh thiên nhiên, chung lợi ích và vận mệnh lịch sử, ý thức bảo tồn và phát triển nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Ba yếu tố đó như ba chiếc trụ chụm lại tạo thành một cái đỉnh chung chính là truyền thống đoàn kết dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế XX, 2001. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, 1995. Các triều đại Việt Nam. Nxb Thanh niên, Hà Nội. [3] Phan Hữu Dật, 2001. Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ

dân tộc hiện nay. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [4] Phan Hữu Dật, 2004. Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [5] Trần Văn Giàu, 2001. Tuyển tập Trần Văn Giàu. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [6] Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, 1994. Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện

nay, Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KX-07. Đề tài KX 07-02, Tập 1, Hà Nội.

FIND OUT SOME OF THE TRADITIONAL FORMED ELEMENTS OF NATIONAL UNITY VIETNAM

Duong Van Manh M.A Faculty of Political Education

Abstract: Over thousands years of struggling for building and defending the country had created a tradition of solidarity in Vietnam. The basic elements forged unity are considered to be: The co living of ethnic minorities in potential nut uncertain natural circumstance, the general join interest, historical destiny, common conservation and development sense of ethnic united cultures in diversity. Therefore, this article aims to clarify the basis of traditional forms of national unity Vietnam.

Page 146: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

146

ĐẶC ĐIỂM ĐÔ THỊ HÓA TOÀN CẦU HIỆN NAY ThS. Tòng Thị Quỳnh Hương Khoa Sử Địa

Tóm tắt: Đô thị hóa là một quá trình vận động, biến đổi phức tạp mang tính quy luật về các mặt kinh tế, xã hội và

môi trường, là một trong những đặc trưng nổi bật của nền văn minh nhân loại. Trải qua nhiều bước phát triển thăng trầm, đến nay, đô thị hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, tạo nên bối cảnh một thế giới đô thị với sự tương phản về trình độ phát triển giữa hai nhóm nước phát triển và đang phát triển. Đồng thời, quá trình đô thị hóa còn đi đôi với quá trình hình thành các siêu đô thị và các chùm đô thị có số dân trên 1 triệu người. Bài viết này sẽ khái quát một số đặc điểm cơ bản của tình hình đô thị hóa thế giới hiện nay.

1. Đặt vấn đề

Bất cứ thời kì nào, đô thị hóa và phát triển đô thị cũng là một trong những động lực phát triển quan trọng của các quốc gia. Ở hầu khắp các nước trên thế giới hiện nay, đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng và không ngừng tăng lên. Trải qua nửa thế kỉ, từ một thế giới mà trong đó hầu hết là dân cư nông thôn đã chuyển sang một thế giới của dân cư đô thị. Năm 2008, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tỉ lệ dân số sống trong các đô thị chiếm 50% tổng dân số sống trên Trái Đất, trong khi dân số nông thôn trên thế giới không tăng, nghĩa là toàn bộ sự gia tăng dân số thế giới đã bị thu hút vào các đô thị. Tuy vậy, trình độ đô thị hóa có sự khác biệt giữa các nước, các nhóm nước và các khu vực trên thế giới. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa còn kéo theo sự gia tăng nhanh chóng của các siêu đô thị và các chùm đô thị với số dân hàng triệu người, tạo nên bối cảnh một thế giới đô thị hóa đa dạng.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Đặc điểm đô thị hóa toàn cầu hiện nay 2.1.1. Dân cư thế giới ngày càng tập trung vào các đô thị, nhưng qui mô, tốc độ gia tăng,

mức độ đô thị hóa có sự khác biệt theo quốc gia, khu vực và theo nhóm nước Vào cuối thế kỉ 19, đô thị hóa chỉ diễn ra ở một số khu vực nhất định như ở Anh, Tây Âu và Bắc

Mỹ. Cả thế giới lúc đó có chưa đến 3% dân số sống trong đô thị. Trong những thập kỉ gần đây, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, đặc biệt những năm cuối của thế kỉ XX. Năm 1975, tỉ lệ dân đô thị của thế giới là 37,3%; đến năm 2003 tăng lên 48,3%; từ năm 2008 đến nay, tỷ lệ dân số đô thị trên thế giới luôn chiếm trên 50% dân số toàn cầu.

Hình 1. Dân số đô thị và nông thôn phân theo nhóm nước, 1950 - 2050 (ĐVT: triệu người)

Nguồn: [4]

Số dân đô thị ở các nước phát triển Số dân nông thôn ở các nước phát triển

Số dân đô thị ở các nước đang phát triển Số dân nông thôn ở các nước đang phát triển

Page 147: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

147

Các chuyên gia của United Nations dự báo rằng: trong giai đoạn 2011 - 2050 dân số đô thị sẽ tăng khoảng 1,7 lần, từ 3,63 tỉ người lên 6,25 tỉ người. Vào giữa thế kỉ này, dân số đô thị sẽ đạt mức của tổng dân số thế giới năm 2002. Nhưng dân số đô thị không phân bố đồng đều giữa các nhóm nước. Năm 1970, các nước phát triển và đang phát triển có số lượng dân đô thị tương đương nhau, lần lượt là 676 triệu và 677 triệu. Năm 1970 được gọi là năm điểm cân bằng trong phân bố dân cư đô thị thế giới. Trước năm 1970, hầu hết dân cư đô thị sống ở các nước phát triển (422 triệu/737 triệu dân đô thị thuộc về các nước phát triển). Nhưng từ năm 1950 tỉ lệ này đang giảm xuống. Từ năm 1970 dân cư đô thị ở các nước đang phát triển dần vượt qua các nước phát triển và ngày càng gia tăng khoảng cách này. Số lượng và mức tăng tuyệt đối của dân số thành thị là điểm khác biệt lớn nhất chưa từng có trong lịch sử ở các nước đang phát triển hiện nay. Hiện tại, sự tăng dân số đô thị thế giới tập trung hầu hết ở các nước đang phát triển, khoảng 2,67 tỉ dân đô thị sống ở các nước này (chiếm khoảng 74% dân số đô thị thế giới). Đến năm 2030, sẽ có 4 tỉ/5 tỉ dân đô thị sống ở các nước đang phát triển. Trong khi dân số đô thị của các nước phát triển dự báo tăng chậm, từ 0,96 tỉ năm 2011 lên 1,13 tỉ năm 2050.

Hình 2. Tỉ lệ dân đô thị thế giới qua các năm (%) Nguồn: [4] Tốc độ tăng của dân cư đô thị trên toàn thế giới đang giảm chậm (bảng 1). Giai đoạn 1950 – 2011

tốc độ tăng trung bình 2,6%/năm, dân số đô thị tăng gấp 5 lần, từ 0,75 tỉ lên 3,63 tỉ. Trong giai đoạn 2011 - 2030, dân số đô thị được dự báo tăng trung bình 1,7%/năm, điều này nếu được duy trì thì dân số

Page 148: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

148

đô thị sẽ tăng gấp đôi trong 41 năm. Giai đoạn 2030 - 2050 tốc độ tăng dân số đô thị sẽ giảm xuống còn 1,1%/năm và dân số đô thị sẽ tăng gấp đôi trong 63 năm.

Bảng 1. Dân số đô thị và nông thôn phân theo nhóm nước, 1950 - 2050 (* Dự báo) Số dân (tỉ người) Tỉ lệ gia tăng hàng năm (%)

1950 1970 2011 2030* 2050* 1950-1970 1970-2011 2011-2030* 2025-2050*

Đô thị Thế giới 0.75 1.35 3.63 4.98 6.25 2.98 2.41 1.66 1.13 Phát triển 0.44 0.67 0.96 1.06 1.13 2.09 0.89 0.52 0.29 Đang PT 0.30 0.68 2.67 3.92 5.12 4.04 3.33 2.02 1.34 Nông thôn Thế giới 1.79 2.34 3.34 3.34 3.05 1.36 0.87 -0.01 -0.44 Phát triển 0.37 0.34 0.28 0.23 0.18 -0.48 -0.48 -0.92 -1.14 Đang PT 1.42 2.01 3.07 3.11 2.87 1.74 1.03 0.07 -0.40

(Nguồn: [4]) Sự tăng lên liên tục của dân số đô thị, cộng với sự giảm liên tục của dân cư nông thôn là kết quả

của quá trình đô thị hóa không ngừng trên thế giới, điều này cũng có nghĩa là tỉ lệ dân sống trong đô thị đang ngày càng tăng lên. Trên toàn thế giới, mức độ đô thị hóa tăng lên từ 29,4% năm 1950 lên 52,1% năm 2011 và dự báo đạt gần 70% năm 2050.

Bảng 2. Tỉ lệ dân đô thị phân theo nhóm nước giai đoạn 1950 - 2050 (* Dự báo) Tỉ lệ dân đô thị (%) Tỉ lệ gia tăng hàng năm (%)

1950 1970 2011 2030* 2050* 1950-1970 1970-2011 2011-2030* 2030-2050*

Thế giới 29.4 36.6 52.1 59.9 67.2 1.09 0.86 0.74 0.57 Phát triển 54.5 66.6 77.7 82.1 85.9 1.01 0.38 0.29 0.23 Đang PT 17.6 25.3 46.5 55.8 64.1 1.81 1.48 0.95 0.69

(Nguồn: [4]) Mức độ đô thị hóa có sự khác biệt trên thế giới. Trong lịch sử, quá trình đô thị hóa được bắt đầu

từ các nước phát triển ngày nay. Năm 1920 các nước này mới có dưới 30% dân số sống trong đô thị, đến năm 1950 có hơn 1/2 dân số của các nước này là dân đô thị. Hiện nay, các nước phát triển đã đạt mức đô thị hóa cao. Năm 2011, 77,7% dân số của các nước phát triển (Châu Âu là 73%; Bắc Mỹ, Nhật Bản và Ôxtrâylia vượt mức 80%) sống trong các đô thị. Dự báo đến năm 2050, Bắc Mỹ, Ôxtrâylia và Niudilân sẽ đạt mức đô thị hóa 90%, trong khi mức đô thị ở Châu Âu sẽ thấp hơn, đạt khoảng 82% (bảng 3). Tuy nhiên quá trình đô thị hóa đang diễn ra chậm lại, các nước phát triển đã bước vào giai đoạn “hậu đô thị hóa” với tỉ lệ dân gia tăng hàng năm ở mức dưới 0,5%/năm.

Ngược lại, các nước đang phát triển có mức đô thị hóa thấp nhưng tốc độ đô thị hóa đang tăng tốc qua nhiều thập kỉ và mang tính bùng nổ. Nét đặc trưng cơ bản của quá trình này là sự thu hút dân cư nông thôn vào các thành phố lớn, trước hết vào thủ đô. Quá trình đô thị hóa vượt trước tốc độ công nghiệp hóa ở hầu hết các nước là nguyên nhân làm trầm trọng thêm các vấn đề đô thị như: giao thông, nhà ở, việc làm, tệ nạn xã hội…Vào năm 1970, 25,3% dân số ở các nước đang phát triển sống trong đô thị, đến năm 2011 là 46,5%, dự báo đến năm 2025, hơn 50% dân số các nước đang phát triển là dân đô thị. Trong khi dân số nông thôn trên thế giới không tăng, nghĩa là toàn bộ sự gia tăng dân số thế giới đã

Page 149: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

149

bị thu hút vào các đô thị. Sự di cư ồ ạt từ nông thôn vào đô thị là nhân tố chính quy định tốc độ tăng trưởng cao của dân cư đô thị các nước đang phát triển. Trong các nước đang phát triển, Mỹ Latinh và Caribê có mức độ đô thị hóa cao khác thường (79,1%), cao hơn cả Châu Âu. Ở Châu Phi và Châu Á, số dân nông thôn vẫn chiếm chủ yếu, dân đô thị lần lượt chỉ chiếm 39,6% và 45%. Trong nhiều thập kỉ tới, mức độ đô thị hóa của 2 cựu lục địa này được dự báo sẽ tăng nhanh nhưng vẫn sẽ thấp hơn các nước phát triển và khu vực Mỹ Latinh và Caribê.

Bảng 3. Tỉ lệ thị dân đô thị phân theo châu lục giai đoạn 1950 - 2050 (%) (* Dự báo)

Khu vực Tỉ lệ dân đô thị (%) Tỉ lệ gia tăng hàng năm (%)

1950 1970 2011 2030* 2050* 1950-1970

1970-2011

2011-2030*

2030-2050*

Châu Phi 14.4 23.5 39.6 47.7 57.7 2.47 1.27 0.98 0.96 Châu Á 17.5 23.7 45.0 55.5 64.4 1.52 1.57 1.10 0.74 Châu Âu 51.3 62.8 72.9 77.4 82.2 1.02 0.36 0.31 0.30 Mĩ Latinh và Caribê 41.4 57.1 79.1 83.4 86.6 1.61 0.80 0.28 0.19 Bắc Mĩ 63.9 73.8 82.2 85.8 86.6 0.72 0.26 0.22 0.16 Châu Đại Dương 62.4 71.2 70.7 71.4 73.0 0.66 -0.02 0.05 0.12 Nguồn: [4]

Dân số thành thị đông ở các nước đang phát triển, nhưng phân bố không đồng đều giữa các quốc gia. Năm 2011, 3/4 trong tổng số 3,63 tỉ dân số đô thị của thế giới sống ở 25 quốc gia. Ba nước Trung Quốc, Ấn Độ, Hoa Kì chiếm khoảng 37% trong tổng số dân đô thị của thế giới. 25 quốc gia có số dân đô thị lớn nhất phấn lớn đều có mức độ đô thị hóa cao, trừ 8 nước có tỉ lệ dân đô thị từ 28-51%, đây đồng thời cũng là các nước có số dân đông nhất thế giới: Băng-la-đét, Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Ni-giê-ria và Pakistan.

Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng dân số đô thị cũng chỉ tập trung ở một số quốc gia. Dự báo trong vài thập kỉ tới, Trung Quốc và Ấn Độ là 2 nước đóng góp khoảng 1/3 số dân đô thị tăng thêm trên thế giới. Thời kì 2011 - 2030, dân số sống trong các đô thị của thế giới sẽ tăng thêm khoảng 1,4 tỉ người, gồm 276 triệu dân đô thị từ Trung Quốc, 218 triệu từ Ấn Độ, chiếm khoảng 37% tổng số dân đô thị tăng thêm của thế giới. Ngoài hai cường quốc dân số này, một số nước cũng có tốc độ tăng trưởng dân số đô thị cao trong thời kì 2011 - 2030 như: Cộng hòa Công-gô và Ni-giê-ria (châu Phi), Băng-la-đét, In-đô-nê-xia, Pakistan và Philipp.in (châu Á), Braxin, Mexico và Hoa Kì (châu Mỹ). 9 nước này ước đoán sẽ đóng góp khoảng 26% số dân đô thị tăng thêm của thế giới.

2.1.2. Quá trình đô thị hóa đi đôi với quá trình hình thành các siêu đô thị và các chùm đô thị có số dân trên 1 triệu người

Năm 2011, 3,63 tỉ dân đô thị đang sinh sống trong các đô thị có quy mô khác nhau trên thế giới. Quá nửa dân đô thị của thế giới (1,85 tỉ dân, khoảng 50,9%) sống trong các thành phố có quy mô dưới 500.000 người (ở các nước phát triển là 55%, các nước đang phát triển là 50,2%). Các thành phố có số dân từ 500 nghìn - 1 triệu người chiếm số lượng đông đảo và đang tăng lên (525 thành phố năm 2011, dự báo sẽ lên 750 thành phố vào năm 2025), nhưng chỉ chiếm 10% dân số đô thị thế giới. Số lượng các thành phố có dân số dưới 5 triệu cũng rất lớn và đang tăng (394 thành phố năm 2011, tăng lên 573 thành phố năm 2025) và chiếm 21% dân số đô thị thế giới. Có 40 thành phố lớn (2011) với số dân từ 5 triệu - dưới 10 triệu và dự báo sẽ tăng lên 59 thành phố năm 2025, chiếm 9% dân số đô thị. 3/4 trong

Page 150: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

150

số các đô thị lớn này (sẽ là các siêu đô thị trong tương lai “megacities in waiting”) tập trung ở các nước đang phát triển.

Bảng 4. Dân cư đô thị thế giới theo các cấp đô thị và nhóm nước qua các năm (* Dự báo) Cấp đô thị Số dân

(Triệu người) Tỉ lệ (%)

1970 2011 2025* 1970 2011 2025* Thế giới Tổng 1352 3632 4643 100 100 100

10 triệu trở lên 39 359 630 2.9 9.9 13.6 5 – 10 triệu 109 283 402 8.0 7.8 8.7 1 – 5 triệu 244 775 1128 18.0 21.3 24.3 500.000 – 1 triệu 128 365 516 9.4 10.1 11.1 < 500.000 833 1850 1967 61.6 50.9 42.4

Các nước phát triển

Tổng 671 964 1043 100 100 100 10 triệu trở lên 39 105 136 5.9 10.9 13.1 5 – 10 triệu 48 54 81 7.1 5.6 7.8 1 – 5 triệu 124 210 229 18.5 21.7 21.9 500.000 – 1 triệu 66 87 111 9.9 9.0 10.7 < 500.000 393 509 485 58.5 52.8 46.5

Các nước đang phát triển

Tổng 682 2668 3600 100 100 100 10 triệu trở lên 0 255 494 0.0 9.5 13.7 5 – 10 triệu 61 229 321 8.9 8.6 8.9 1 – 5 triệu 120 567 900 17.6 21.2 25.0 500.000 – 1 triệu 61 278 404 9.0 10.4 11.2 < 500.000 440 1339 1480 64.6 50.2 41.1

(Nguồn: [4]) Không một quốc gia nào phát triển mà không nhờ đến sự phát triển của các thành phố của mình.

Khu vực đô thị tạo ra 55% GDP của các nước có thu nhập thấp, 73% ở các nước có mức thu nhập trung bình và tới 85% ở các nước có thu nhập cao. 30 thành phố đứng đầu về GDP đã đóng góp hơn 16% vào GDP toàn cầu. [2]. Vì vậy, những thành phố năng động được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia. Sự phát triển các thành phố lớn và cực lớn tạo ra lợi thế tập trung đầu tư, sản xuất, tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và khai thác thị trường tại chỗ có sức mua cao hơn hẳn các vùng nông thôn và đô thị qui mô nhỏ [2]. Do đó, quá trình đô thị hóa đi đôi với việc hình thành các siêu đô thị và các chùm đô thị có số dân trên 10 triệu người. Hiện thế giới có 23 siêu đô thị (2011), đến năm 2025 là 37. Tỉ lệ người sống trong các siêu đô thị của thế giới đang có xu hướng tăng lên. Năm 2011, 9.9% dân số đô thị thế giới sống trong các siêu đô thị và tỉ lệ này dự báo đến năm 2025 là 13.6%. Châu Á có 13 siêu đô thị, Mĩ Latinh có 4, Bắc Mỹ, châu Phi và châu Âu mỗi châu có 2. 13/23 các siêu đô thị là thủ đô của các nước. Năm 2025, khi số lượng siêu đô thị tăng lên 37, châu Á đóng góp thêm 9, Mĩ Latinh thêm 2, Châu Phi, Châu Âu và Bắc Mỹ mỗi Châu thêm 1.

Page 151: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

151

Bảng 5. Dân số ở các siêu đô thị với số dân từ 10 triệu người trở lên qua các năm (ĐVT: Triệu người) Năm 1970 Năm 1990 STT Siêu đô thị Quốc gia Số dân STT Siêu đô thị Quốc gia Số dân

1 Tokyo Nhật Bản 23.3 1 Tokyo Nhật Bản 32.5 2 New York Hoa Kì 16.2 2 New York Hoa Kì 16.1

3 Mêhicô City Mêhicô 15.3 4 Sao Paolo Braxin 14.8 5 Bombay Ấn Độ 12.4 6 Osaka-Kobe Nhật Bản 11.0 7 Cancutta Ấn Độ 10.9 8 Lốt Angiơlét Hoa Kì 10.9 9 Sơun Hàn Quốc 10.5

10 Buenos Aires Achentina 10.5

Năm 2011 STT Siêu đô thị Quốc gia Số dân STT Siêu đô thị Quốc gia Số dân

1 Tokyo Nhật Bản 37.2 13 Lốt Angiơlét Hoa Kỳ 13.4 2 Đêli Ấn Độ 22.7 14 Riode Janêrô Braxin 12.0 3 Mêhicô City Mêhicô 20.4 15 Manila Philipin 11.9 4 New York Hoa Kì 20.4 16 Matxcơva LB Nga 11.6 5 Thượng Hải Trung Quốc 20.2 17 Osaka-Kobe Nhật Bản 11.5 6 Sao Paulo Braxin 19.9 18 Ix-tan-bun Thổ Nhĩ Kỳ 11.3 7 Mumbai Ấn Độ 19.7 19 Lagôt Ni-giê-ria 11.2 8 Bắc Kinh Trung Quốc 15.6 20 Cairô Ai Cập 11.2 9 Đahaka Băng la đét 15.4 21 Quảng Châu Trung Quốc 10.8

10 Cancutta Ấn Độ 14.4 22 Thâm Quyến Trung Quốc 10.6 11 Karachi Pakistan 13.9 23 Pari Pháp 10.6 12 Buenos Aires Ac-hen-ti-na 13.5

(Nguồn: [4]) So sánh danh sách các siêu đô thị, chùm đô thị qua các năm 1970, 1990, 2011 có thể nhận thấy sự

phân bố các siêu đô thị đã chuyển từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển và xu hướng này vẫn tiếp tục trong tương lai. Năm 1990, có 5/10 siêu đô thị là của các nước đang phát triển, năm 2011 con số này là 17/23 và dự báo đến năm 2025 là 29/37.

Trong bối cảnh chung của thế giới đô thị hóa, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam cũng đang tăng nhanh, tỉ suất gia tăng dân số đô thị hàng năm từ 3 - 4% (Tổng điều tra dân số năm 2009) song trình độ đô thị hóa còn thấp, tỉ lệ dân đô thị so với tổng số dân chưa cao, mới chiếm khoảng 30% hiện nay. Đô thị ở Việt Nam được cho là “bí hiểm và khó hiểu, không chắc chắn và hay thay đổi, đầy mâu thuẫn, vừa ngẫu hứng vừa hình thức, vừa kỉ luật vừa vô kỉ luật…” [3]. Vì vậy, việc nghiên cứu, so sánh xu hướng đô thị hóa đang diễn ra ở nước ta với xu hướng đô thị hóa đang diễn ra trên thế giới không chỉ có ý nghĩa nhận thức, mà còn có ý nghĩa trong chỉ đạo thực tiễn, góp phần tránh được những hậu quả không mong muốn về phát triển kinh tế - xã hội gắn với hiện tượng đô thị hóa không có kiểm soát.

3. Kết luận Đô thị hóa là một quá trình vận động, biến đổi phức tạp mang tính quy luật qua từng giai đoạn

lịch sử, làm nâng cao vai trò của các đô thị trong sự vận động phát triển không ngừng của xã hội loài người. Trải qua hàng thế kỉ với nhiều bước tiến thăng trầm, đến nay, đô thị hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, với sự tập trung dân cư ngày càng đông vào các đô thị. Tuy vậy, tốc độ, quy mô và trình độ đô thị hóa có sự khác biệt giữa các quốc gia, các khu vực và các nhóm nước;

Page 152: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

152

đồng thời quá trình đô thị hóa còn kéo theo sự hình thành và phát triển của các siêu đô thị và chùm đô thị với số dân hàng triệu người, tạo nên bối cảnh một thế giới đô thị hóa phức tạp và nhiều màu sắc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] GS.TS Đỗ Thị Minh Đức, 2005. “Phân tích mạng lưới đô thị Việt Nam và vấn đề phát triển

vùng”. Tạp chí Khoa học số 2, Trường ĐHSP Hà Nội. [2] GS.TS Đỗ Thị Minh Đức, 2006. Đô thị hóa ở Việt Nam trong bối cảnh của thế giới đô thị

hóa. Tạp chí Khoa học số 2, Trường ĐHSP Hà Nội. [3] Nguyễn Thị Thiềng, 2006. Đô thị Việt Nam trong thời kì quá độ. Nxb Thế giới. [4] UN, 2012. World Urbanization Prospects The 2011 Revision. [5] 2012 World population data sheet. Source: www.prb.org.

SOME CHARACTERISTICS OF THE CURRENT GLOBAL URBANIZATION

Tong Thi Quynh Huong M.A Faculty of History and Geography Abstract: Urbanization is a complicated process of movement and transformation in terms of economic, social

and environmental viewpoint. It is one of the salient features of human civilization. Through many up and down developments, ongoing urbanization is powerful, creating a worldwide context of urban which make a dramatic contrast between developing countries and developed countries. At the same time, the process of urbanization is associated with the formation of megacities and urban agglomerations with a population of over 1 million. This article aims to summarize some of the basic characteristics of urbanization in the world today.

Page 153: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

153

NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

ThS. Nguyễn Hồng Nhung Khoa Kinh tế

Tóm tắt: Phân tích tài chính có vai trò rất lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đánh giá thực trạng tài chính doanh trong quá khứ và hiện tại, giúp cho các nhà quản lý cũng như các đối tượng quan tâm nắm bắt được thực trạng tài chính của doanh nghiệp, dự đoán được các chỉ tiêu xu hướng tài chính, rủi ro tài chính trong tương lai, làm cơ sở để ra quyết định phù hợp với lợi ích kinh tế của mình. Tuy nhiên phân tích tài chính chưa được chú trọng trong các doanh nghiệp, chất lượng phân tích tài chính chưa cao do ảnh hưởng của những nhân tố khách quan đến từ nền kinh tế và nhân tốt chủ quan từ phía doanh nghiệp.

Từ khóa: Doanh nghiệp, phân tích tài chính, nhân tố chủ quan, nhân tố khách quan, chất lượng. 1. Đặt vấn đề Trong nền kinh tế mở cửa và hội nhập, các doanh nghiệp càng gặp khó khăn trong hoạt động

sản xuất kinh doanh vì doanh nghiệp không chỉ chịu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước mà còn có cả các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải có các hoạt động: nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích tình hình của nền kinh tế, của bản thân doanh nghiệp. Từ đó vạch ra các chiến lược kinh doanh ngắn và dài hạn, nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu. Thực tiễn đã chứng minh, nếu các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm đúng mức tới công tác phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng ra quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính như quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia cổ tức,... Dự thảo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ, kiểm soát các hoạt động quản lý. Mặt khác, tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn hoạt động kinh doanh trong quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp thì họ sẽ có những quyết định đúng đắn và nhiều cơ hội thành đạt trong kinh doanh, ngược lại thì họ sẽ khó tránh khỏi những quyết định tài chính sai lầm và thất bại. Để làm tốt được điều đó bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện phân tích đánh giá tình hình tài chính một cách khoa học, chi tiết để từ đó doanh nghiệp có kế hoạch, định hướng và hoạt động có hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy, chất lượng của hoạt động phân tích luôn chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố: nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Nhân tố chủ quan 2.1.1. Quan điểm về phân tích tài chính tại doanh nghiệp Vai trò của việc phân tích tài chính đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là rất to

lớn, đóng góp một phần không nhỏ vào sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm về phân tích tài chính ở nước ta chưa thực sự phổ biến, nên nhiều nhà quản lý vẫn chưa hiểu hết vai trò, tầm quan trọng của phân tích tài chính trong quản lý doanh nghiệp. Do đó, trong các doanh nghiệp phân tích tài chính vẫn chưa trở thành một hoạt động thường xuyên, chưa được chú trọng đầu tư, xây dựng. Các chủ doanh nghiệp chưa quan tâm đến phân tích tài chính một phần cũng là do muốn tiết kiệm các chi phí, tuy nhiên họ lại không thấy được những lợi ích to lớn mà phân tích tài chính mang lại.

Nếu như doanh nghiệp coi trọng công tác phân tích tài chính, doanh nghiệp sẽ chú trọng đầu tư cho hoạt động phân tích này: tuyển dụng nhân viên có trình độ cao và có kinh nghiệm về phân tích tài chính, đầu tư trang thiết bị phục vụ cho quá trình phân tích, lập một bộ phận chuyên trách việc phân

Page 154: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

154

tích tài chính… Ngược lại, nếu như doanh nghiệp không nhận thấy được tầm quan trọng của phân tích tài chính đối với hoạt động của doanh nghiệp, phân tích tài chính sẽ không được phát triển tại doanh nghiệp hoặc thực hiện một cách hình thức chiêu lệ, giao cho những người không có chuyên môn về công tác phân tích tài chính đảm nhiệm, do vậy sẽ dẫn tới chất lượng của hoạt động phân tích tài chính không cao, các nhà quản lý không tận dụng kết quả phân tích để ra quyết định tài chính.

2.1.2. Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động phân tích tài chính Công tác phân tích tài chính dựa chủ yếu vào số liệu trên các Bảng báo cáo tài chính và một số

các loại số liệu khác. Vì vậy để phục vụ cho quá trình phân tích, doanh nghiệp phải có đầy đủ cơ sở vật chất như: phương tiện lưu trữ thông tin, xử lý dữ liệu, các công cụ tính toán… Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật cùng quá trình hiện đại hóa máy móc, thiết bị trong hoạt động của mình, việc lưu trữ thông tin, xử lý dữ liệu và các công cụ tính toán… Để phục vụ cho hoạt động phân tích tài chính của doanh nghiệp không còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với các doanh nghiệp chưa có đầy đủ điều kiện để quản lý và lưu trữ dữ liệu hoặc lưu trữ dữ liệu không khoa học, các công cụ tính toán còn thô sơ, chưa hiện đại lại là trở ngại lớn đối với hoạt động phân tích tài chính tại các doanh nghiệp này.

2.1.3. Trình độ và đạo đức của cán bộ phân tích Kết quả của việc phân tích tài chính doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ và đạo đức nghề

nghiệp của đội ngũ nhân viên thực hiện công việc phân tích. Với những nhân viên có đạo đức nghề nghiệp, được đào tạo chuyên sâu và bài bản về công tác phân tích tài chính cộng với những kinh nghiệm có được trên thương trường, báo cáo phân tài chính doanh nghiệp của họ có chất lượng tốt, độ tin cậy cao, phục vụ được việc ra quyết định tài chính của các nhà quản lý. Ngược lại, với các nhân viên có chuyên môn kém về hoạt động phân tích tài chính, hoặc chỉ làm kiêm nhiệm hoặc có năng lực tốt nhưng lại có đạo đức nghề nghiệp kém sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng của hoạt động phân tích tài chính trong doanh nghiệp, làm sai lệch kết quả phân tích.

2.1.4. Cơ cấu tổ chức phân tích tài chính Trong quá hình hoạt động, mỗi doanh nghiệp đều lập ra các phòng ban, bộ phận dưới sự chỉ

đạo chung của Ban giám đốc doanh nghiệp. Với mỗi phòng ban, bộ phận nếu được tổ chức cơ cấu một cách chặt chẽ, có sự phân công chức năng, nhiệm vụ rõ ràng thì hoạt động của bộ phận, phòng ban đó sẽ có hiệu quả, góp phần tạo ra sự thông suốt, trôi chảy và chất lượng trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp.

Đối với phân tích tài chính cũng vậy, nếu doanh nghiệp có bộ phận chuyên trách và các bộ phận hỗ trợ tích cực như bộ phận thu thập và lưu trữ thông tin, bộ phận kế toán, kiểm toán nội bộ thì hoạt động phân tích tài chính diễn ra thuận lợi, có chất lượng cao. Ngược lại, nếu tổ chức bộ phận phân tích tài chính kiệm nhiệm, chồng chéo, “vừa thừa vừa thiếu” thì hoạt động phân tích bị cản trở, các nhà quản lý khó có thể dựa vào kết quả phân tích để ra các quyết định tài chính. Thực tế có nhiều doanh nghiệp không có bộ phận phân tích tài chính riêng, không có hoạt động phân tích tài chính hoặc việc này được giao cho trưởng phòng kế toán kiêm nhiệm.

2.2. Nhân tố khách quan 2.2.1. Quy định của nhà nước liên quan đến hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp Bất cứ doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ luật pháp về kinh

tế và các chính sách kinh tế của Nhà nước. Thông qua luật pháp về kinh tế và các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo ra môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và định hướng

Page 155: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

155

cho các doanh nghiệp hoạt động theo chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước tại mỗi giai đoạn nhất định. Sự thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế cũng như luật pháp kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, do đó cần phải dự báo được sự ảnh hưởng của nhân tố này đến hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai để từ đó tiến hành phân tích và dự báo tài chính có hiệu quả.

Phân tích dựa trên các tỷ số tài chính phụ thuộc lớn vào tính chính xác của các báo cáo tài chính. Điều này bị ảnh hưởng lớn bởi các nguyên tắc kế toán. Tuy nhiên nguyên tắc và thực hành kế toán lại có thể khác nhau giữa các công ty, các ngành, các quốc gia và trong các thời kỳ khác nhau. Do đó các nguyên tắc thực hành kế toán có thể làm sai lệch và làm mất đi ý nghĩa của các tỷ số tài chính. Mặt khác, không chỉ có các nhà quản lý mới quan tâm đến kết quả của phân tích tài chính doanh nghiệp mà còn có rất nhiều các đối tượng khác như: các nhà đầu tư, các chủ nợ, cơ quan quản lý nhà nước… Đây là các đối tượng có quan hệ kinh tế, quan hệ quản lý với doanh nghiệp, hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng tới chính lợi ích của họ. Do vậy, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không hiệu quả có xu hướng lợi dụng nguyên tắc kế toán để chủ động tạo ra các tỷ số tài chính như ý muốn của mình để giữ uy tín với các đối tượng liên quan, khiến cho việc phân tích báo cáo tài chính không còn là công cụ đánh giá khách quan.

Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất và đồng bộ về công thức của một số chỉ tiêu trong các sách, tài liệu về phân tích Báo cáo tài chính. Điều này làm cho việc so sánh số liệu được phân tích giữa các nguồn khác nhau tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó khăn cho các đối tượng quan tâm tới kết quả phân tích tài chính của doanh nghiệp.

2.2.2. Số liệu trung bình ngành Phân tích tài chính doanh nghiệp còn dựa trên số liệu bình quân ngành nhằm đánh giá, so sánh

tỷ số tài chính của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành, để thấy được doanh nghiệp đang ở mức độ nào: Kém, trung bình, cao hơn so với trung bình ngành. Tuy nhiên, để có được số liệu thống kê của trung bình ngành về các tỷ số tài chính là rất khó, có những tỷ số không có số liệu trung bình ngành, gây khó khăn cho quá trình phân tích và đưa ra đánh giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, hiện nay, có nhiều doanh nghiệp quy mô rất lớn và hoạt động đa ngành, thậm chí là những ngành rất khác nhau nên khó xây dựng và ứng dụng hệ thống tỷ số bình quân ngành có ý nghĩa tại các công ty này. Do đó phân tích báo cáo tài chính thường có ý nghĩa nhất trong các công ty nhỏ và không có hoạt động đa ngành.

2.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội Môi trường xã hội và chính trị luôn có những tác động nhất định đến hoạt động của nền kinh tế

nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng tại mỗi quốc gia. Những sự kiện như chiến tranh, khủng hoảng kinh tế hay hệ thống luật pháp trong và ngoài nước có thể tạo ra những thay đổi về môi trường kinh doanh, làm tăng thêm sự bất ổn định cho nền kinh tế. Các yếu tố trên có thể tác động làm cho nền kinh tế bị suy thoái, dẫn tới ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp: Giá nguyên vật liệu đầu vào tăng, sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm, doanh thu sụt giảm, chu kì kinh doanh kéo dài, ứ đọng vốn, người lao động bị cắt giảm tiền lương hoặc bị thất nghiệp, các báo cáo tài chính có thể bị làm sai lệch... Hay như một yếu tố quan trọng trong kinh tế là lạm phát có thể ảnh hưởng và làm sai lệch thông tin tài chính được ghi nhận trên các báo cáo tài chính khiến việc tính toán và phân tích trở nên sai lệch.

Page 156: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

156

Các yếu tố thời vụ cũng làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của công ty và khiến cho các tỷ số tài chính có khuynh hướng thay đổi bất thường. Chẳng hạn vào mùa vụ hàng tồn kho tăng lên cao hơn bình thường nên nếu sử dụng tỷ số vòng quay hàng tồn kho sẽ thấy công ty có vẻ hoạt động kém hiệu quả.

3. Kết luận Bốn nhân tố chủ quan: quan điểm của ban lãnh đạo doanh nghiệp về phân tích tài chính doanh

nghiệp, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động phân tích tài chính, trình độ và đạo đức của cán bộ phân tích, cơ cấu tổ chức phân tích tài chính và 3 nhân tố khách quan: Những quy định của nhà nước liên quan đến hoạt động phân tích tài chính, sự phát triển của thị trường thông tin, điều kiện kinh tế xã hội là những nhân tố chủ yếu tác động đến phân tích tài chính doanh nghiệp. Để nâng cao chất lượng phân tích tài chính, doanh nghiệp cần phải thay đổi, củng cố các nhân tố đến từ phía chủ quan của doanh nghiệp, sao cho các quyết định tài chính đều được dựa trên báo cáo phân tích tài chính tin cậy, có chất lượng cao nhằm giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] GS.TS Ngô Thế Chi, 2008. Giáo trình phân tích tài chính doanh nghiệp. Nxb Tài Chính. [2] PGS.TS Nguyễn Năng Phúc, 2008. Giáo trình phân tích báo cáo tài chính. Nxb Đại học

Kinh tế Quốc dân. [3] PGS.TS Nguyễn Ngọc Quang, 2011. Phân tích báo cáo tài chính. Nxb Tài Chính.

FACTORS AFFECTING FINANCIAL ANALYSIS IN BUSINESS

Nguyen Hong Nhung M.A Faculty of Economics

Abstract: Financial analysis plays a vital role in the operation of an enterprise. It helps business evaluate the financial situations of the business in the past and the present, help managers and those who are concerned get to know the financial situation of the business, the anticipated financial indicator trends, financial risk in the future, as the basis for making decisions in accordance with their economic interests. But financial analysis is not paid much attention to. The quality of financial analysis is not high due to the influence of objective factors from the economy and subjective ones from the businesses themselves.

Keywords: Business, financial analysis, subjective factors, objective factors, quality.

Page 157: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

157

VẤN ĐỀ CUNG CẤP HÀNG HÓA CÔNG CỘNG Ở VIỆT NAM ThS. Lò Thị Huyền Trang Khoa Kinh tế

Tóm tắt: Hàng hóa công cộng cùng với hai tính chất cơ bản là: không cạnh tranh và không loại trừ khiến đối với khu vực tư nhân hàng hóa công cộng được coi như là ”thất bại của thị trường”, đặc biệt ở Việt Nam nơi cơ chế về việc khuyến khích khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa vẫn chưa thật sự hoàn chính. Vì vậy, mặc dù hiện nay với xu thế chung của thế giới khu vực tư nhân ngày càng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa công cộng thì ở Việt Nam đây vẫn đang là một nguồn lực bị bỏ ngỏ. Bài viết đưa ra lý do nên chuyển đổi một số hoạt động cung ứng hàng hóa công cộng cho khu vực tư nhân, các vướng mắc còn tồn tại khiến hoạt động này ở Việt Nam còn hạn chế và hướng giải quyết của vấn đề đó.

Từ khóa: Hàng hóa công cộng, khu vực nhà nước, khu vực tư nhân, tài chính công. 1. Đặt vấn đề Các nhà kinh tế học cho rằng hàng hóa công cộng là một thất bại của thị trường. Điều này

muốn nói đến vấn đề tư nhân không đầu tư kinh doanh hàng hóa công cộng. Việc cung cấp hàng hóa công cộng là rất cần thiết đối với xã hội. Nó là hàng hóa thường có lợi ích lớn hơn chi phí tạo ra. Do vậy, về mặt xã hội đó là hàng hóa cần thiết được cung cấp. Mặt khác, có nhiều hàng hóa công cộng có ý nghĩa quan trọng cho quốc gia nên nhất thiết phải sản xuất, chẳng hạn như quốc phòng. Tuy nhiên, hiện nay khu vực tư nhân rất ít quan tâm tới việc cung cấp hàng hóa công cộng. Vì vậy, bài viết này phân tích nguyên nhân khu vực tư nhân ít tham gia vào việc cung cấp hàng hóa công cộng và đưa ra các giải pháp cho vấn đề này.

2. Nội dung 2.1. Khái quát về hàng hóa công cộng và cung cấp hàng hóa công cộng Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: Không cạnh tranh và không thể

loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không mang hai tính chất trên. Trong đó, tính chất không loại trừ thể hiện ở việc cung cấp hàng hóa công cộng không thể loại

trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng loại hàng hóa đó. Ví dụ: Quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: Bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người không có vé vào xem.

Tính chất không cạnh tranh: Một hàng hóa công cộng khi cung cấp thì tất cả những người tiêu dùng loại hàng hóa đó đều có lợi ích cá nhân như nhau, không một cá nhân nào có lợi ích lớn hơn hoặc có thể ngăn cản cá nhân khác được hưởng lợi ích từ hàng hóa công cộng đó. Ví dụ: Pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: một con gà nếu một cá nhân đã mua thì cá nhân khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa.

Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần túy như quốc phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh,... Các hàng hóa đó có chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng.

Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ: Đường cao tốc, cầu,... Có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn.

Trước đây việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ được phân chia thành hai thái cực: Khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa tư nhân thuần túy, khu vực công cộng cung cấp hàng hóa công thuần túy. Theo “Cẩm nang Thống kê tài chính Chính phủ năm 2001”, khu vực công hợp thành bởi Khu vực Chính phủ/Chính phủ và các doanh nghiệp công. Trong đó, khu vực Chính phủ/hay Chính phủ nói chung, bao

Page 158: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

158

gồm mọi đơn vị Chính phủ và mọi thể chế phi lợi nhuận, phi thị trường được các đơn vị Chính phủ kiểm soát và tài trợ phần lớn.

“Đơn vị Chính phủ là những đơn vị thể chế mà hoạt động chính thức là thực hiện các chức năng của Chính phủ. Nghĩa là, các đơn vị đó có thẩm quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp đối với các đơn vị thể chế khác trong một lĩnh vực nhất định; Chịu trách nhiệm cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho cộng đồng nói chung hoặc từng hộ gia đình trên cơ sở phi thị trường; thực hiện các khoản thanh toán chuyển giao để tái phân phối thu nhập và của cải; Đồng thời tài trợ cho các hoạt động của mình một cách trực tiếp và gián tiếp, chủ yếu qua công cụ thuế khóa hoặc các chuyển giao bắt buộc khác từ các đơn vị thuộc các khu vực khác. Mọi đơn vị Chính phủ đều là thành viên của Khu vực Chính phủ nói chung” [1, tr.17].

2.2. Vấn đề cung cấp hàng hóa công cộng của khu vực tư nhân Trên thế giới hiện nay, dần đã có sự phân định ngày càng rõ nét trong vai trò của khu vực công

và khu vực tư nhân. Chính phủ không cần thiết phải xuất hiện như một lực lượng kinh doanh nữa, mà chuyển sang là người định hướng mục tiêu, tổ chức, điều tiết, hỗ trợ, hướng dẫn và tạo môi trường kinh tế và pháp luật thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trên một số lĩnh vực trọng yếu, Chính phủ vẫn là người đứng ra trực tiếp sản xuất và cung cấp. Chính phủ đã thúc đẩy hàng loạt cải cách về thể chế kinh tế để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân, như khoán sản phẩm, phát triển các thành phần kinh tế, mở rộng các quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước, đổi mới công tác kế hoạch hóa, xuất nhập khẩu. Ngoài một số loại dịch vụ công cộng thiết yếu như quốc phòng, an ninh Chính phủ vẫn nắm quyền cung cấp độc quyền; các loại dịch vụ công cộng không thuần túy khác Chính phủ vẫn nắm quyền cung cấp, nhưng không hoàn toàn độc quyền mà đã cho phép khu vực tư nhân tham gia cung cấp. Một số loại hình dịch vụ công cộng sẽ được cung cấp tốt hơn nếu đó nó là mục tiêu kinh doanh của các tư nhân. Đó là các dịch vụ có thể loại trừ bằng giá như y tế, giáo dục, truyền hình,…

Tuy nhiên, việc cung cấp hàng hóa công cộng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn theo phương thức truyền thống, khu vực tư nhân hầu như không tham gia vào hoạt động này.

Đầu tư của tư nhân vào cơ sở hạ tầng (triệu USD)

Nguồn: WB Private Participation in Infrastructure Database, WB Public Expenditure Report; China Statistics

Nhìn vào đồ thị trên có thể thấy việc tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư cơ sở hạ tầng là một hàng hóa công cộng rất ít so với các quốc gia trong khu vực.

Hiện nay việc cung cấp hàng hóa công cộng của khu vực tư nhân đã có xu hướng tăng lên tuy nhiên vẫn còn chưa nhiều, ngoài ra chủ yếu chỉ đầu tư vào các hàng hóa công cộng không thuần túy.

Page 159: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

159

Bảng 1. Đầu tư từ vốn khu vực nhà nước và ngoài nhà nước vào điện, khí đốt,nước, xử lý chất thải, giao thông - vận tải và truyền thông, 2007 - 2011

(ĐVT: 1.000 tỷ đồng) 2007 2008 2009 2010 2011

Điện và khí đốt

26,1 26,3 48,2 47,5 50,0 Khu vực nhà nước

Khu vực tư nhân 23,3 31,8 19,2 23,0 21,5 Tỷ trọng Khu vực nhà nước 52,8% 45,2% 71,5% 67,3% 69,9%

Khu vực tư nhân 47,2% 54,8% 28,5% 32,7% 30,1% Cấp nước

và xử lý chất thải

Khu vực nhà nước 7,3 7,5 11,2 12,2 12,8 Khu vực tư nhân 6,6 8,5 7,3 9,3 9,3

Tỷ trọng

Khu vực nhà nước 52,6% 46,8% 60,4% 56,8% 57,9% Khu vực tư nhân 47,4% 53,2% 39,6% 43,2% 42,1%

Giao thông, vận tải và kho

bãi Khu vực nhà nước 36,3 47,1 52,0 57,2 60,1

Khu vực tư nhân 33,6 29,4 33,3 38,6 39,3 Tỷ trọng

Khu vực nhà nước 51,9% 61,6% 61,0% 59,7% 60,5% Khu vực tư nhân 48,1% 38,4% 39,0% 40,3% 39,5%

Truyền thông Khu vực nhà nước 11,0 11,4 16,0 17,7 18,5 Khu vực tư nhân 8,2 10,8 9,9 12,6 11,5

Tỷ trọng

Khu vực nhà nước 57,3% 51,4% 61,9% 58,4% 61,8% Khu vực tư nhân 42,7% 48,6% 38,1% 41,6% 38,2%

Nguồn: Tổng cục thống kê Chính phủ đang có xu hướng xã hội hóa đầu tư, xây dựng. Tức là chính phủ khuyến khích các

cá nhân, tổ chức tư nhân đứng ra góp vốn, hay cùng thực hiện vai trò sản xuất và cung cấp hàng hóa công cộng. Hoặc Nhà nước có thể tiến hành khoán cho các doanh nghiệp tư nhân công việc cung cấp các loại hàng hóa này. Ví dụ như cung cấp nước sạch, viễn thông,…

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nhận thức từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước và từ chính những người dân về sự cần thiết phải có sự chuyển biến trong cung ứng dịch vụ công. Đó là, thứ nhất, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khu vực tư nhân về phương diện kinh tế, những thành tựu khoa học công nghệ đã làm cho khu vực tư nhân có thể tiếp nhận một số dịch vụ trước đây chỉ thuộc về nhà nước. Thí dụ, kỹ thuật truyền hình cáp phát triển cho phép nắm được thời gian sử dụng của từng máy thu hình, hoặc qua thiết bị tự ghi có thể đo chính xác lượng sử dụng khí ga, điện, nước của từng hộ tiêu thụ (để thu tiền). Thứ hai, sự thay đổi về mức sống tạo điều kiện cho cá nhân có thể tự mua sắm cho mình những phương tiện mà trước đây chỉ có thể sử dụng công cộng. Có thể thấy rõ điều này trong cung ứng dịch vụ công về lĩnh vực văn hóa; nếu như trước đây, người dân chỉ có thể xem phim ảnh tại các rạp chiếu công cộng, thì nay người ta có thể xem tại nhà qua đầu máy VCD, DVD. Ngoài ra, sự thay đổi về mức sống của người dân theo hướng chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao đòi hỏi số lượng các loại hình và chất lượng dịch vụ cũng cần phải ngày càng tăng để đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội. Thứ ba, lý do quan trọng khiến nhà nước cần đổi mới cơ chế cung ứng dịch vụ công thông qua cải cách và chuyển giao dần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân là sự kém hiệu quả của khu vực công so với khu vực tư nhân trong lĩnh vực này. Thứ tư, sự góp phần của khu vực tư nhân giúp làm giảm chi đầu tư và các khoản chi thường xuyên cho khu vực công, hạn chế gánh nặng cho ngân sách nhà nước, cho phép tăng chi tiêu cho các lĩnh vực xã hội.

Các dự án nhà ở công cộng thường tốn kém hơn nhà ở của khu vực tư nhân khoảng 20%; chi phí thu gom rác thải do khu vực công cộng thực hiện thường cao hơn khu vực tư nhân 20%; chi phí phòng cháy, chữa cháy của khu vực tư nhân (nhưng do nhà nước cấp tiền) thấp hơn của khu vực công cộng 47%. Khảo sát ở 58 quốc gia đang phát triển cho thấy chỉ có 6% số người được hỏi đánh giá dịch vụ công do nhà nước cung cấp là có hiệu quả còn 36% trả lời là không hiệu quả. Đặc biệt, dịch vụ xây dựng đường sá và dịch vụ y tế bị đánh giá là kém hiệu quả nhất.

Page 160: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

160

Để xác định được mức cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả, các cá nhân phải thực hiện nguyên tắc nhất trí và tự nguyện đóng góp đồng thời phải công khai bộc lộ một cách trung thực nhu cầu của mình về hàng hóa đó. Sẽ có hai trường hợp có thể xảy ra về vấn đề này: Thứ nhất, cá nhân nào đó biết được chi phí mà người khác phải đóng góp để có hàng hóa công cộng thì anh ta sẽ bộc lộ nhu cầu ít hơn thực tế và đóng góp ít hơn gọi là hiện tượng kẻ đi xe không trả tiền hay là kẻ hưởng thụ miễn phí, trong kinh tế học, chỉ những người thụ hưởng các lợi ích từ hàng hóa công cộng mà không chịu tham gia gánh những chi phí cần thiết để các hàng hóa đó được cung cấp, hoặc chịu gánh những chi phí nhưng ít hơn so với lợi ích mà họ được hưởng. Đây là những kẻ ngồi không hưởng lợi, thích thụ hưởng mà không có trách nhiệm với cộng đồng và cũng là vấn đề thảm họa của mọi nền kinh tế và là một thất bại của thị trường.

Có ba nhân tố kết hợp với nhau làm nảy sinh tình trạng có kẻ đi xe không trả tiền. Nhân tố đầu tiên là do hai thuộc tính không thể loại trừ và không cạnh tranh của hàng hóa công cộng như đã nói ở trên gây ra; nguyên nhân thứ hai với giả định rằng một người tiêu dùng là con người kinh tế điển hình, người ta sẽ luôn có ý thức tối thiểu hóa chi tiêu cho một mức độ thỏa dụng xác định trước. Điều đó có nghĩa là nếu có thể không trả tiền, thì không nên trả. Và thứ ba, người ta có thể có ý nghĩ rằng khi mọi người khác gánh vác chi phí, mình không gánh thì vẫn có hàng hóa công cộng mà tiêu dùng. Hàng hóa công cộng không thuần túy càng rõ, nhất là những hàng hóa công cộng thuần túy, thì tình trạng này càng nghiêm trọng.

Thói quen sử dụng tài nguyên trên internet miễn phí và khả năng tìm kiếm dễ dàng trên mạng toàn cầu, cũng dẫn đến việc nhiều người thích tìm thông tin, nhạc, phim, phần mềm, dữ liệu mà không muốn trả tiền, đôi khi tiếp tay cho việc vi phạm bản quyền và gây thiệt hại cho người thực hiện và phát triển.

Nếu có ít kẻ đi xe không trả tiền thì hàng hóa công cộng vẫn có thể cung cấp hiệu quả. Tuy nhiên, trong cộng đồng lớn thì vấn đề trở nên phức tạp, không thể hoặc phải tốn chi phí rất lớn mới có thể loại trừ những kẻ đi xe không trả tiền. Đặc biệt hàng hóa công cộng do tư nhân cung cấp thì họ không có công cụ, chế tài để buộc những người sử dụng trả tiền. Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến khu vực tư nhân không muốn cung cấp hàng hóa công cộng.

Thứ hai, khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng có chi phí giao dịch rất lớn (chi phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm loại trừ bằng giá). Ví dụ, chi phí để duy trì hệ thống thu phí trên đường cao tốc. Do đó, sẽ là hiệu quả hơn nếu cung cấp nó miễn phí và tài trợ bằng thuế. Mà điều đó chỉ có chính phủ mới làm được.

3. Giải pháp đối với việc cung cấp hàng hóa công cộng của khu vực tư nhân Để tăng cường sự đóng góp của khu vực tư vào hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng có thể

xác định những lĩnh vực công mà khu vực tư nhân có thể đảm nhận, như: công chứng, giáo dục và đào tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe, văn hóa, thể dục thể thao và khoa học công nghệ, vệ sinh môi trường, quản lý công viên, cây xanh, cấp nước sạch ở nông thôn, bổ sung nguồn phát triển cấp điện ở nông thôn, vận tải công cộng,…Tiến hành để Nhà nước có thể ký hợp đồng với cơ sở ngoài công lập cung ứng các dịch vụ trên.

Hợp đồng giữa nhà nước và khu vực tư nhân có thể qua 5 hình thức chính: - Hợp đồng quản lý và cung ứng. - Chìa khóa trao tay (DB). - Thuê. - Nhượng quyền khai thác kinh doanh. - Sở hữu tư nhân. Đồng thời, có thể thực hiện các biện pháp, chính sách tạo dễ dàng và khuyến khích đối với cơ

sở ngoài công lập cung ứng hàng hóa công cộng, như: Đơn giản hóa các thủ tục thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp này; Hỗ trợ về mặt bằng xây dựng và kết cấu hạ tầng; Hỗ trợ ngân sách và tín dụng đầu tư; Miễn giảm thuế;…

Page 161: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

161

4. Kết luận Khuyến khích khu vực tư nhân cung ứng hàng hóa công là chủ trương quan trọng của Đảng và

Nhà nước ta. Trong nội dung trên ta có thể thấy vai trò của khu vực tư nhân trong việc tạo điều kiện nâng cao chất lượng của các dịch vụ công trong khi nguồn chi ngân sách nhà nước lại có thể được giảm tỉ trọng chi cho các mục đích chi tiêu này. Từ các số liệu và phân tích, ta có thể thấy rõ mặc dù với vai trò như vậy, song số lượng các doanh nghiệp ngoài khu vực công vẫn chưa quan tâm nhiều tới việc tham gia vào lĩnh vực cung cấp hàng hóa công cộng, nguyên nhân chính vẫn là do các tính chất vốn có của hàng hóa công cộng khiến cho việc quản lý và thu hồi vốn khi cung cấp hàng hóa công cộng của các đối tượng này khá khó khăn. Để giải quyết vấn đề đó, bài viết đã đưa ra giải pháp hợp đồng cung cấp hàng hóa công cộng giữa nhà nước và khu vực tư nhân, hi vọng đây sẽ là một giải pháp hữu hiệu trong việc khắc phục hạn chế thị trường của hàng hóa công cộng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Cẩm nang Thống kê tài chính Chính phủ, 2001. Nxb Thống kê. [2] GPS.TS. Phạm Văn Luận, ThS. Vũ Cương, Giáo trình Kinh tế công cộng. Nxb Thống kê. [3] ThS. Vũ Cương, Kinh tế và Tài chính công, 2002. Nxb Thống kê. [4] Trang web của Tổng cục thống kê. Nguồn: www.gso.gov.vn. [5] WB Private Participation in Infrastructure Database, 2012. WB Public Expenditure Report.

China Statistics.

PROBLEM OF PUBLIC GOODS PROVIDED BY THE PRIVATE SECTOR Lo Thi Huyen Trang M.A Faculty of Economics

Abstract: Public goods with two basic properties are: Non-competitive and does not exclude that the private sector for public goods is regarded as "market failures", especially in Vietnam where the mechanism for encouraging the private sector to provide goods is not truly complete. Thus, although the general trend of the world's private sector increasingly important role in the provision of public goods in Vietnam are still here as a resource left open. The paper why should convert some of the provision of public goods to the private sector, the problems that still exist in Vietnam this activity is limited and the resolution of that issue.

Keywords: Public goods, public sector, private sector, public finance.

Page 162: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

162

THỰC TRẠNG GIẢI NGÂN NGUỒN VỐN ODA TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN TRONG GIAI ĐOẠN 2008 - 2012

CN. Tòng Phương Trang, ThS. Đặng Công Thức Khoa Kinh tế

Tóm tắt: Bài viết tập trung đi vào phân tích thực trạng giải ngân nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của tỉnh Điện Biên trong những năm gần đây (giai đoạn 2008 - 2012) với mục đích tạo ra một cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề giải ngân nguồn vốn ODA của tỉnh hiện nay và đưa ra một số phân tích, đánh giá cũng như những kiến nghị về giải pháp thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn này.

Từ khóa: ODA, giải ngân ODA, tỉnh Điện Biên. 1. Đặt vấn đề Điện Biên là một tỉnh miền núi biên giới, cách thủ đô Hà Nội gần 500 km đường bộ về phía Tây

Bắc, có diện tích tự nhiên rộng 9.562,9 km2. Là tỉnh duy nhất ở nước ta có đường biên giới với 2 quốc gia (trong đó: tiếp giáp với Lào dài 360 km, Trung Quốc dài 38,5 km). Trên 80% dân số tỉnh Điện Biên là đồng bào dân tộc thiểu số đời sống còn hết sức khó khăn, tỷ lệ hội đói nghèo cao, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập. Tuy nhiên, trong nhiều năm gần đây, Điện Biên đã có nhiều thay đổi tích cực trong phát triển kinh tế nhờ có được sự quan tâm của Chính phủ, các bộ ngành trung ương và một phần là nhờ nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trong 5 năm trở lại đây, vốn ODA của tỉnh đã tăng đáng kể, nhiều chương trình dự án được đầu tư trên địa bàn tỉnh đã mang lại những hiệu quả rất thiết thực, góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững và thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển kinh tế, tỉnh Điện Biên cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước những năm qua đã xây dựng các chiến lược phát triển, huy động các nguồn lực phục vụ cho tăng trưởng. Và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có vai trò quan trọng là một trong những chất xúc tác thúc đẩy quá trình này. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua việc giải ngân ODA vẫn chưa tạo được sự bứt phá cần thiết, khiến cho các chương trình, dự án đình trệ và gây nên sự chậm trễ trong việc phục vụ các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Vậy quá trình giải ngân nguồn vốn ODA của tỉnh Điện Biên trong những năm trở lại đây ra sao, còn những tồn tại và hạn chế nào và cần phải làm gì để có thể tăng cường hoạt động giải ngân? Đây là những câu hỏi cần có lời giải và cũng chính là nội dung mà bài viết sẽ đề cập tới.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Lý luận chung về ODA Hỗ trợ phát triển chính thức hay Viện trợ phát triển chính thức đươc goi tăt la ODA bắt nguồn từ

cụm từ tiếng Anh - Oficial Development Assistance. Hỗ trợ phát triển chính thức - ODA đúng như tên gọi của nó là nguồn vốn từ các cơ quan chính thức bên ngoài cung cấp hoặc hỗ trợ cho các nước đang và kém phát triển, hoặc các nước đang gặp khó khăn về tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.

Theo Quy chế Quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ban hành kèm theo Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ thì Hỗ trợ phát triển chính thức được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ bao gồm:

- ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn trả lại cho các nhà tài trợ;

Page 163: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

163

- ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi) là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc;

- ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.

2.2. Thực trạng giải ngân vốn ODA tỉnh Điện Biên Trong 5 năm trở lại đây, việc thu hút nguồn vốn ODA đầu tư vào tỉnh Điện Biên có chiều hướng

khá ổn định, vốn ODA hàng năm thường là năm sau tăng lên so với năm trước. Theo dõi bảng 1, thấy rằng từ năm 2008 đến 2011, lượng vốn ODA hàng năm liên tục tăng và năm 2011 đã tăng lên tới 1.39 lần so với năm 2008. Tuy nhiên, năm 2012 lại trượt ra khỏi xu hướng này và giảm gần 68% so với năm 2011. Số dự án thực hiện cũng giảm dần do các dự án tới hạn trong giai đoạn này đều đã kết thúc.

Xét về vấn đề giải ngân nguồn vốn ODA, trong giai đoạn 2008 - 2012, tiến độ giải ngân là không đồng đều, tỷ lệ giải ngân một số năm khá thấp như năm 2008, năm 2010 và năm 2011, trong đó thấp nhất là năm 2010 với 23,43% (bảng 1). Chỉ có năm 2009 và 2012 là tỷ lệ giải ngân khá cao, nhất là năm 2012, đây là năm duy nhất tiến độ giải ngân vượt kế hoạch đề ra.

Bảng 1. Tình hình giải ngân vốn ODA giai đoạn 2008 - 2012

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Điện Biên Nhìn vào Bảng 1, có thể thấy năm 2008 là năm có tỷ lệ giải ngân thấp, trong năm này tỷ lệ giải

ngân các chương trình dự án chủ yếu dao động từ 30% đến 60%. Tuy nhiên, cũng có một số dự án tỷ lệ giải ngân vốn là 100% như: Dự án phát trỉển giáo dục trung học cơ sở II và Chương trình tín dụng chuyên ngành IV(VN X-3 năm 2003): Dự án đường Nà Sáy - Mường Thín - Mường Mùn; dự án Hệ thống cấp nước sinh hoạt thị trấn Tủa Chùa. Riêng Dự án phát triển giáo dục Trung học phổ thông tỷ lệ giải ngân là 0% khiến cho tỷ lệ giải ngân chung thấp.

Chuyển sang năm 2009, nhìn chung tiến độ giải ngân đã có chuyển biến tích cực, tỷ lệ giải ngân ở mức tương đối cao với 86, 69%, chỉ có một số dự án thực hiện chưa tốt do các chủ đầu tư chậm trễ hoàn tất các thủ tục nghiệm thu thanh toán. Các dự án có mức giải ngân cao trong năm có thể kể tới là: Chương trình tín dụng chuyên ngành JICA: 76,17% (53.171/69.810 triệu đồng), Dự án Bạn hữu trẻ em: 80,40% (11.110/13.819 triệu đồng), Dự án đầu tư cho giáo dục: 96,21% (101.195/105.181 triệu đồng), Dự án đầu tư cho y tế: 68,16% (18.592/27.277 triệu đồng) (theo Báo cáo Tình hình vận động và thực hiện các chương trình, dự án ODA năm 2009 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Điện Biên).

Đến năm 2010, tỷ lệ giải ngân lại sụt giảm rất mạnh, chỉ còn 23,43%, bằng 27% tỷ lệ giải ngân năm 2009. Giá trị giải ngân so với kế hoạch đạt thấp do có các dự án thu gom và xử lý nước thải; mở rộng cấp nước TP Điện Biên Phủ. Đường Chà Tở - Mường Tùng được ghi kế hoạch đầu năm nhưng

Năm 2008 2009 2010 2011 2012 Vốn ODA ký kết (triệu đồng)

85479 145667 185103 204513 138907 Vốn ODA thực tế giải ngân (triệu đồng)

47791 126272 43383 62449 224024 Tỷ lệ giải ngân vốn ODA từ nhà tài trợ (%)

55,91 86,69 23,43 30,54 161,28

Page 164: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

164

vẫn đang trong quá trình tiến hành các thủ tục đầu tư, lựa chọn nhà thầu và đàm phán ký kết nên chưa có đủ thủ tục để tiến hành giải ngân, các dự án còn lại các chủ đầu tư đang hoàn tất thủ thủ tục để thanh toán. Nhìn chung tiến độ thực hiện các dự án chậm là do công tác phê duyệt kế hoạch năm và phê duyệt kế hoạch từng hoạt động của các tổ chức tài trợ trước khi chuyển tiền cho tỉnh còn chậm và do ảnh hưởng của việc điều chỉnh lương nhân công xây dựng, giá cả nguyên, nhiên vật liệu dẫn đến phải duyệt điều chỉnh bổ sung tổng mức đầu tư.

So với năm 2010, tiến độ giải ngân năm 2011 có xu hướng tăng nhưng không đáng kể và đạt 30,54% , tiến độ giải ngân nhanh tập trung chủ yếu trong quý IV, tập trung vào các dự án JICA SPL V, VI. Tình trạng giải ngân đạt tỷ lệ thấp so với kế hoạch vẫn xuất phát từ các dự án: Thu gom và xử lý nước thải; mở rộng cấp nước TP Điện Biên Phủ; đường Chà Tở - Mường. Đồng thời, công tác phê duyệt kế hoạch hoạt động còn chưa kịp thời khiến cho tiến độ giải ngân bị hạn chế.

Trong cả giai đoạn, chỉ có năm 2012 là tiến độ giải ngân vượt kế hoạch đề ra. Đây là tỷ lệ giải ngân cao nhất trong giai đoạn 2008 - 2012. Trong đó vốn ODA giải ngân 224.024 triệu đồng đạt 161,28% so với kế hoạch (Bảng 1), ở đây chủ yếu là giải ngân vốn JICA và vốn vay Quỹ Kuwait (Đường Chà Tở Mường Tùng), dự án giảm nghèo đạt tỷ lệ cao. Như vậy, trong năm 2012 thì công tác giải ngân vốn ODA là khá hiệu quả.

2.3. Nhận xét về vấn đề giải ngân vốn ODA tại tỉnh Điện Biên Ưu điểm: Công tác triển khai thực hiện các dự án ODA trên địa bàn đã có nhiều chuyển biến

tích cực, dù tốc độ giải ngân nhiều năm còn thấp nhưng các dự án vẫn tiếp tục được đẩy nhanh tiến độ triển khai, cơ bản đáp ứng được các yêu cầu đề ra. Ngoài ra, nhiều dự án đã đạt được tỷ lệ giải ngân cao và có dự án đã đạt 100% theo kế hoạch.

Hạn chế: Hoạt động giải ngân vốn ODA không đồng đều, có những dự án đạt 100% nhưng cũng có dự án tỷ lệ giải ngân năm là 0% như Dự án phát triển giáo dục Trung học phổ thông năm 2008. Nguyên nhân ở đây là cả 2 công trình đang thi công, yêu cầu của nhà tài trợ thì các nhà thầu nếu tạm ứng vốn thì phải có bảo lãnh của ngân hàng bằng 100% số tiền xin ứng do đó dự án không thực hiện cho nhà thầu ứng vốn kế hoạch năm 2008. Nhìn chung, tốc độ giải ngân vốn chậm chủ yếu là do chậm trễ trong việc giải quyết các thủ tục hành chính, công tác phê duyệt của các tổ chức tài trợ trước khi chuyển tiền cho tỉnh còn chậm. Các thủ tục trình tự đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm nhiều thủ tục pháp lý liên quan, chất lượng hồ sơ các dịch vụ tư vấn không cao. Một phần nữa là do ảnh hưởng của việc điều chỉnh lương, giá cả dẫn đến phải duyệt điều chỉnh bổ sung tổng mức đầu tư. Đồng thời, tiến độ giải phóng mặt bằng chậm cũng gây ảnh hưởng đến thi công… Đây là những nguyên nhân phổ biến dẫn tới tỷ lệ giải ngân vốn ODA thấp không chỉ ở tỉnh Điện Biên mà còn ở nhiều địa phương khác. Thực tế này đặt ra sự cần thiết phải có các giải pháp và chính sách phù hợp từ phía các cấp lãnh đạo, các sở, ban, nghành của địa phương để nâng cao hiệu quả trong công tác giải ngân nói riêng và việc sử dụng vốn ODA nói chung.

2.4. Một số giải pháp góp phần thúc đẩy giải ngân vốn ODA tại tỉnh Điện Biên Từ những hạn chế đặt ra, tỉnh Điện Biên cần có chính sách hiệu quả hơn để tăng cường quản lý

và sử dụng nguồn vốn ODA. Trước hết là việc thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính để khai thông việc thực hiện các chương trình, dự án và hỗ trợ nhà tài trợ trong việc giải quyết các thủ tục liên quan. Ngoài ra, cần có sự tăng cường cung cấp thông tin, hỗ trợ giữa các cấp quản lý trong nâng cao trình độ cán bộ, tăng cường năng lực vận động xúc tiến ODA. Thúc đẩy công tác giải phóng mặt bằng để tăng

Page 165: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

165

tốc độ giải ngân và nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn ODA từ phía nhà tài trợ. Đối với các doanh nghiệp tham gia dự án, cần tạo điều kiện và có cơ chế chính sách, hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA.

Đồng thời, việc nâng cao sự chủ động và nâng cao vai trò của chủ đầu tư và nhà quản lý trong việc thực hiện các dự án cũng là một yếu tố quan trọng, cần có sự yêu cầu và đề nghị các nhà tài trợ tiến hành công tác phê duyệt một cách nhanh chóng hơn.

3. Kết luận ODA không phải là nguồn vốn quyết định quan trọng nhất tới sự phát triển của nền kinh tế, tuy

nhiên không thể phủ nhận rằng đây là nguồn vốn thiết thực đối với các quốc gia đang phát triển để phát triển kinh tế xã hội và nâng cao đời sống người dân. Đối với nước ta, ODA đã góp phần thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là tại các tỉnh thành còn gặp nhiều khó khăn như tỉnh Điện Biên. Do đó, vấn đề giải ngân nguồn vốn ODA cần được nắm bắt và quan tâm sát sao để đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn vốn này và phục vụ hiệu quả hơn nữa cho đời sống nhân dân trong tỉnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Nghị định số 131/2006/ NĐ-CP ngày 09/11/2006. [2] Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Điện Biên, Báo cáo Tình hình vận động và thực hiện các

chương trình, dự án ODA năm 2008, 2009, 2010, 2012 và 2013.

THE CURRENT SITUATION OF ODA DISBURSEMENT ACTIVITIES IN DIEN BIEN

PROVINCE DURING THE PERIOD OF 2008 - 2012

Tong Phuong Trang B.A, Đang Cong Thuc M.A Faculty of Economics

Abstract: This paper focuses on analysing the actual situation of ODA (Oficial Development Assistance) disbursement activities in Dien Bien province in the period 2008-2012 and give a review of disbursement activity of this province, then provide some suggestions to the use of the ODA in an effective way. Keywords: ODA, ODA disbursement, Dien Bien province.

Page 166: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

166

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG DI TRUYỀN CÁC GIỐNG LÚA TẺ ĐỊA PHƯƠNG TÂY BẮC BẰNG CHỈ THỊ SSR

ThS. Đoàn Thị Thuỳ Linh, ThS. Nguyễn Văn Khoa,

ThS. Nguyễn Thị Thu Hiền Khoa Nông Lâm

Tóm tắt: SSR (Trình tự lặp lại đơn giản) là chỉ thị phân tử thế hiện tính đa hình cao và ổn định. SSR được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu đa dạng di truyền của cây trồng. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả sử dụng 33 chỉ thị SSR để phân tích đa dạng di truyền của 26 mẫu giống lúa tẻ địa phương. Có 105 allele được khuếch đại, số allele được nhân ở mỗi chỉ thị SSR dao động từ 2 tới 7. Hàm lượng thông tin đa hình trung bình là 0,49. Ở mức tương đồng di truyền 55%, quần thể các mẫu giống được phân thành 2 nhóm rõ rệt.

Từ khoá: Chỉ thị SSR, đa dạng di truyền, lúa địa phương.

1. Đặt vấn đề Lúa địa phương là nguồn lương thực chính và gắn liền với văn hóa ẩm thực truyền thống của

đồng bào các dân tộc thiểu số tại các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay cùng với sự xuất hiện của hàng loạt các giống lúa cải tiến cũng như các giống cây trồng mới thì diện tích cũng như số lượng các giống lúa địa phương đang ngày càng bị xói mòn nghiêm trọng. Việc thu thập và nghiên cứu đa dạng di truyền tập đoàn các giống lúa địa phương không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo tồn các giống lúa địa phương mà còn có ý nghĩa quan trọng trong công tác chọn tạo giống lúa chất lượng cao.

Sử dụng chỉ thị phân tử trong nghiên cứu đa dạng di truyền cho phép đánh giá một số lượng lớn locus trải khắp bộ gen của nhiều loài cây. Những thông tin về đa dạng di truyền DNA có thể phát hiện sự khác biệt nhỏ nhất giữa các giống, vì thế giúp nhận dạng và phân biệt giống trong tập đoàn cây trồng một cách chính xác nhất. Kỹ thuật DNA fingerprinting đã được áp dụng để nhận dạng và phân biệt giống ở hơn 30 loại cây trồng khác nhau như cam chanh (Citrus spp..), chuối (Musa spp..), lúa mỳ (Triticum spp..), dâu tây... Sự phát triển nhanh chóng của các chỉ thị phân tử cung cấp một công cụ hiệu quả để nghiên cứu sự đa dạng di truyền và phân biệt quần thể các loài thực vật. Trong nghiên cứu đa dạng di truyền lúa trồng, chỉ thị SSR (Simple sequence repeat) được sử dụng rộng rãi và hiệu quả nhất. SSR phân bố rộng rãi trong hệ gen nhân chuẩn và phù hợp với nghiên cứu biến dị di truyền trong các quần thể bởi vì có thể xác định được mức đa hình cao ngay cả đối với các cá thể họ hàng. Đã có hơn 18.000 chỉ thị SSR được thiết lập (www.gramene.org, 2012), phủ kín trên bản đồ liên kết di truyền của lúa. Nhiều công trình nghiên cứu đa dạng di truyền và nhận dạng giống lúa đã sử dụng chỉ thị phân tử SSR cho kết quả tốt đã được công bố (Choudhary G et al., 2013; Vũ Thị Thu Hiền et al., 2012; Trần Thị Lương et al., 2013; Trần Danh Sửu et al., 2008, 2010, 2011; Thuy T. T. Nguyen et al., 2012; Victoria C. Lapitan et al., 2007). Vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi dùng chỉ thị SSR để nghiên cứu đa dạng di truyền của 26 nguồn gen lúa địa phương thu thập tại một số địa phương khu vực Tây Bắc Việt Nam giúp nhận dạng giống phục vụ công tác bảo tồn và cung cấp dữ liệu khoa học có giá trị cho công tác chọn tạo giống lúa tại Việt Nam.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Vật liệu nghiên cứu Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành phân tích đa dạng di truyền của tập đoàn gồm 26

mẫu giống lúa tẻ (Bảng 1) bằng 33 chỉ thị SSR nằm trên 12 nhiễm sắc thể của bộ gen lúa được lựa chọn từ bộ 50 chỉ thị SSR dùng trong phân tích đa dạng di truyền ở lúa dựa trên cơ sở dữ liệu

Page 167: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

167

RiceGenes (http://gramene.org). Các chỉ thị được tổng hợp bởi hãng IDT (Hoa Kỳ) dựa vào trình tự trên Ngân hàng gen quốc tế (GenBank).

2.2. Phương pháp nghiên cứu Lá lúa non được làm khô bằng máy hút chân không 2 ngày trước khi tách chiết DNA. Quá trình

tách DNA từ mẫu lá lúa được tiến hành theo hướng dẫn tách chiết DNA - Mini CTAB DNA extraction protocol (Doyle, 1991). DNA từ lá lúa khuếch đại bằng các mồi đặc trưng sử dụng máy PCR ABI 97000D384. Chu kì nhiệt: 940C 4 phút, (940C 1 phút, 50–650C 1 phút - nhiệt độ thay đổi tuỳ từng cặp mồi, 720C 1 phút 50 giây)n, 720C 7 phút, 40C ∞ phút). Sản phẩm PCR được điện di trên gel agarose 4% và nhuộm với Ethidium bromide 0,01%. Kết quả điện di được xác định trên phổ điện di, vị trí DNA được xác định là vị trí các vệt sáng quan sát dưới ánh sáng UV. Sự xuất hiện ổn định (1) hay không xuất hiện (0) của mỗi băng trên phổ điện di được sử dụng như một đặc trưng để mô tả biến dị DNA của các mẫu phân tích. Hai kiểu hình điện di được xem là khác nhau khi giữa chúng có sự khác nhau ít nhất ở một vị trí băng điện di. Số liệu phân tích SSR được xử lý bằng phần mềm NTSYS pc2.1 và popgene3.1. Mức độ tương đồng di truyền giữa các cặp mẫu phân tích sẽ được tính toán để xác định độ khác biệt giữa các mẫu giống. Hệ số tương đồng di truyền tính theo công thức của Nei M. và Li. W. H. (Hệ số Nei, 1979):

Bảng 1. Các mẫu giống lúa tẻ dùng trong nghiên cứu STT Tên giống Ký

hiệu Nguồn gốc STT Tên giống Ký

hiệu Nguồn gốc

1 Lúa Hăng (lại đọi) ĐB9 Điện Biên 14 Khẩu Ta bổng QN20 Quỳnh Nhai 2 64 Mường tè LC1 Lai Châu 15 Khẩu Chăm Pa QN21 Quỳnh Nhai 3 Mò Te LC2 Lai Châu 16 Tẻ thái Lan SC9 Sốp Cộp 4 Xa pừ chí LC3 Lai Châu 17 Tẻ Bu Long SC11 Sốp Cộp 5 Ple tơ MC1 Mộc Châu 18 Tẻ mèo hạt to SM8 Sông Mã 6 Tẻ mèo nương Ngọc

Chiến ML7 Mường La 19 Tẻ, hạt dài SM30 Sông Mã

7 Thóc Mộ PY3 Phù Yên 20 Pẹ Lia TC2 Thuận Châu 8 Thóc tẻ Dâu PY5 Phù Yên 21 Pẹ Thái Lan1 TC3 Thuận Châu 9 Tẻ đỏ PY7 Phù Yên 22 Thóc Gie TC7 Thuận Châu

10 Lai đỏ PY9 Phù Yên 23 Pẹ Cúa Pò TC8 Thuận Châu

11 Đỏ Mùa Chùa PY10 Phù Yên 24 Lia Sú TC16 Thuận Châu 12 Lai tẻ PY12 Phù Yên 25 Lúa Po TC19 Thuận Châu 13 Lúa nương cũ QN1 Quỳnh

Nhai 26 Bẻ trông TC21 Thuận Châu

2NAB

S = NA + NB

S: Hệ số tương đồng di truyền NAB: Số băng DNA có ở cả A và B NA: Số băng DNA có ở A NB: Số băng DNA có ở B

Phân tích nhóm (cluster analysis) tiến hành theo phương pháp UPGMA (Unweighted Pair Group Method with Arithmetric mean), thiết lập sơ đồ hình cây dựa trên phương pháp phân nhóm UPGA theo tương đồng di truyền sử dụng chương trình phần mềm NTSYS pc2.1.

Hệ số đa dạng gen (PIC = Polymorphism Information Content) được tính theo công thức của Nei (1973):

Page 168: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

168

PIC = 1 - ∑ Pi2 (Pi: tần số xuất hiện của alen thứ i). 3. Kết quả và thảo luận

Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 33 mồi SSR được chọn lọc từ bộ gồm 50 mồi SSR để phân tích sự đa dạng di truyền của 26 mẫu giống lúa tẻ địa phương khu vực Tây Bắc. Tính đa hình được thể hiện ở sự xuất hiện hay không xuất hiện vạch DNA khi so sánh giữa các mẫu giống với nhau. 26 mẫu giống nghiên cứu biểu hiện 105 allele ở 33 chỉ thị SSR.

Kết quả tóm tắt phân tích DNA của 26 mẫu giống lúa bằng 33 chỉ thị SSR được thể hiện ở hình 1 và bảng 2. Qua kết quả ở bảng 2 cho thấy, số allele thể hiện đa hình rất lớn, với 33 chỉ thị nghiên cứu thể hiện 105 allele, trong đó 100% số allele đều thể hiện sự đa hình ở cả 26 mẫu giống nghiên cứu

Trong số 33 chỉ thị SSR sử dụng trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy có 10 chỉ thị SSR thể hiện 2 allele, 13 chỉ thị SSR thể hiện 3 allele, 6 chỉ thị SSR thể hiện 4 allele, 3 chỉ thị SSR thể hiện 5 allele, 1 chỉ thị SSR thể hiện 7 allele (Bảng 2). Số lượng allele ở mỗi locus dao động từ 2 allele (RM283, RM431, RM338, RM413, RM133, RM125, RM433, RM484, RM536, RM277) tới 7 allele (RM154) với giá trị trung bình là 3,18 allele/locus được thể hiện ở bảng 2 và hình 2A.

Lad. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Hình 1. Kết quả điện di một số mẫu giống lúa địa phương bằng mồi RM144 1.QN10, 2. SM13, 3. TC19, 4. SM22, 5. SM31, 6. QN17, 7. TC17, 8. SM11, 9.MS1, 10. QN13, 11. TC18, 12. LC1, 13. ĐB3, 14. SM18, 15.

SM30, 16. SM27, 17. SC1, 18. ĐB9, 19. SM14, 20. QN4, 21. SM25, 22. QN26, 23. ĐB5, 24. SM28 Bảng 2. Đa hình SSR ở 26 mẫu giống lúa tẻ nghiên cứu

TT Tên chỉ thị SSR

Nhiễm sắc thể

Số allele

Tần số allele phổ biến nhất

PIC Tỷ lệ dị hợp tử

1 RM495 1 3 0,68 0,47 0,04 2 RM283 1 2 0,86 0,23 0,04 3 RM237 1 4 0,61 0,54 0,04 4 RM431 1 2 0,61 0,48 0,00 5 RM154 2 7 0,64 0,10 1,00 6 RM452 2 3 0,39 0,52 0,00 7 OSR13 3 4 0,32 0,74 0,00 8 RM338 3 2 0,54 0,50 0,00 9 RM514 3 3 0,61 0,54 0,00

10 RM307 4 4 0,54 0,60 0,00 11 RM124 4 3 0,54 0,59 0,00 12 RM507 5 3 0,57 0,58 0,00 13 RM413 5 2 0,82 0,29 0,00 14 RM161 5 4 0,50 0,61 0,00 15 RM133 6 2 0,54 0,50 0,00 16 RM162 6 4 0,36 0,70 0,00 17 RM125 7 2 0,79 0,34 0,00 18 RM455 7 3 0,57 0,52 0,00 19 RM118 7 3 0,36 0,66 0,00

Page 169: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

169

20 RM408 8 3 0,79 0,35 0,00 21 RM152 8 5 0,61 0,51 0,14 22 RM44 8 5 0,36 0,74 0,04 23 RM284 8 3 0,46 0,63 0,00 24 RM433 8 2 0,64 0,48 0,00 25 RM447 8 4 0,43 0,66 0,00 26 RM316 9 3 0,64 0,46 0,04 27 RM215 9 3 0,57 0,53 0,04 28 RM171 10 3 0,46 0,64 0,00 29 RM484 10 2 0,68 0,44 0,00 30 RM536 11 2 0,57 0,52 0,00 31 RM144 11 5 0,71 0,05 0,93 32 RM19 12 3 0,82 0,29 0,07 33 RM277 12 2 0,54 0,50 0,04

Tổng 105 Trung bình 3,18 0,58 0,49 0,08

Min 2 0,32 0,05 0,00 Max 7 0,86 0,74 1,00

Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Vũ Thị Thu Hiền et al., 2012 (2-6 allele/locus, trung bình 3,75 allele/locus). Tuy nhiên, các kết quả phân tích về số allele ở các locus nghiên cứu này là thấp hơn so với nhiều nghiên cứu khác. Victoria C, Lapitan, 2007 đã nghiên cứu sự biểu hiện của 164 chỉ thị SSR ở 24 mẫu giống lúa Philipp.ines và báo cáo số allele dao động từ 2 (RM114, RM312, RM408, RM420, RM451, RM556) đến 17 (RM473B), trung bình 5,89 allele/locus. Trần Danh Sửu et al., 2011 nghiên cứu trên lúa địa phương ở tỉnh Lào Cai đã phát hiện 235 allele tại 36 locus, số allele đa hình tại mỗi locus biến động từ 3 đến 14, đạt trung bình 6,53/locus. Trần Danh Sửu et al., 2010 nghiên cứu đa dạng di truyền của 45 giống lúa nếp đặc sản địa phương vùng đồng bằng Bắc Bộ bằng 50 chỉ thị SSR đã phát hiện 234 allele, đạt trung bình 5 allele/locus, chỉ thị cho số lượng allele nhiều nhất (10 allele) là các chỉ thị RM22, RM144, RM335. Kết quả của nghiên cứu này về số tổng số allele và số allele trung bình thấp là do số chỉ thỉ SSR, số lượng mẫu sử dụng trong nghiên cứu này ít hơn so với các nghiên cứu của các tác giả khác.

Hình 2. Sự phân bố số alen (A) và chỉ số PIC (B) của 26 mẫu giống lúa tẻ bằng 33 chỉ thị SSR

Thông tin về tính đa hình được thể hiện qua giá trị PIC. Kết quả phân tích giá trị PIC thể hiện ở bảng 2 và hình 2B cho thấy 33 chỉ thị SSR được lựa chọn dùng trong nghiên cứu đều cho tính đa hình, giá trị PIC dao động từ 0,05 (RM144) đến 0,74 (RM44). Trong đó, 10 chỉ thị SSR cho giá trị PIC trong khoảng 0,51-0,60, 8 chỉ thị SSR cho giá trị PIC trong khoảng 0,41-0,50 (Hình 2B). Giá trị PIC trung bình của quần thể 26 mẫu giống nghiên cứu là 0,49 cho thấy mức độ đa dạng gen là khá lớn trong 26

Số allele

Số locus

PIC

Số locus

A B

Page 170: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

170

mẫu giống lúa nếp nghiên cứu. Giá trị PIC trung bình của nghiên cứu này là cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Trần Danh Sửu et al,, 2008, 2010 (0,35; 0,43), Vũ Thị Thu Hiền et al., 2012 (0,50). Các nghiên cứu về giá trị PIC cao hơn cũng đã được báo cáo bởi các tác giả Choudhary G. et al, 2013 (0,87), Nguyen T. T. Thuy, 2013 (0,73). Kết quả này có thể được giải thích là do việc lựa chọn các chỉ thị SSR khác nhau giữa các nghiên cứu.

Trong số 33 locus nghiên cứu, 10 locus đã phát hiện ít nhất 1 allele dị hợp tử và 23 locus không có các allele dị hợp tử, tỷ lệ allele dị hợp tử cao nhất (1,00) quan sát được ở locus RM154, tỷ lệ dị hợp tử trung bình đạt 8%. Mặc dù lúa là loài tự thụ phấn, nhưng nhiều nghiên cứu trước đó đã cho thấy có hơn một allele tại một locus của một giống và mức độ dị hợp tử trung bình đạt tương tự như kết quả thu được của Trần Danh Sửu, 2010 (2,4%), Olufowote et al., 1997; Garland et al., 1999; Lu et al., 2005; Giarrocco et al., 2007, các kết quả tương tự cũng được báo cáo trong các công trình nghiên cứu đối với lúa mỳ (Röder et al., 2002), lúa mạch (Sjakste et al., 2002) (dẫn theo Trần Danh Sửu, 2010).

Trong số 33 chỉ thị SSR được phân tích, 8 chỉ thị cho nhận dạng đặc biệt với 8 allele duy nhất của 7 giống ở Bảng 3.

Bảng 3. Các chỉ thị SSR cho allele đặc trưng ở 7 giống lúa tẻ TT Tên giống Kí hiệu Tên chỉ thị SSR 1 Ple tơ MC1 RM307, RM237 2 Nếp, hạt tròn SM29 RM447 3 Pẹ Cúa Pò TC8 RM455 4 Bẻ trông TC21 RM452 5 Tẻ Bu Long SC11 RM408 6 Thóc tẻ Dâu PY5 RM316 7 Tẻ đỏ PY7 RM161

Tổng số 7 8 Quan hệ di truyền giữa 26 mẫu giống lúa tẻ địa phương được phân tích UPGMA bằng phần

mềm NTSYS 2.1. Các giống có hệ số tương đồng cao sẽ được xếp vào một nhóm. Mối tương quan di truyền giữa từng cặp mẫu giống được thể hiện hình 3. Hình 3 chỉ ra mức độ tương đồng di truyền giữa các mẫu giống lúa nghiên cứu. Các giống có hệ số tương đồng di truyền cao được xếp vào một nhóm. Kết quả nghiên cứu cho thấy 26 giống lúa nếp đều có sự khác nhau về đặc điểm phân tử, hệ số tương đồng di truyền dao động từ 0,55 - 0,96. Trong đó, hệ số tương đồng di truyền cao nhất là 0,96 khi so sánh giữa hai giống LC1 và SM8. Trong 26 mẫu giống lúa tẻ cũng có sự khác nhau về đặc điểm phân tử rõ rệt, ở độ tương đồng 55%, 26 mẫu giống lúa tẻ phân thành 2 nhóm, nhóm I gồm 3 mẫu giống là LC2, MC1 và TC8, nhóm II gồm 23 mẫu giống.

Như vậy, phân tích đa hình DNA của 26 mẫu giống lúa nếp địa phương cho thấy sự khác nhau ở mức phân tử. Không có mẫu giống nào giống nhau hoàn toàn khi phân tích với 33 chỉ thị SSR.

Page 171: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

171

Hình 3. Phân nhóm 26 mẫu giống lúa tẻ địa phương theo phân tích tương đồng di truyền

4. Kết luận Kết quả phân tích DNA của 26 mẫu giống lúa tẻ bằng 33 chỉ thị SSR thể hiện sự đa hình cao.

Số lượng allele ở mỗi locus dao động từ 2 allele tới 7 allele với giá trị trung bình là 3,18 allele/locus, 10 locus đã phát hiện ít nhất 1 allele dị hợp tử và 23 locus không có các allele dị hợp tử, tỷ lệ allele dị hợp tử cao nhất (100%) quan sát được ở locus RM154, tỷ lệ dị hợp tử trung bình đạt 8%. Giá trị PIC trung bình của quần thể 26 mẫu giống lúa tẻ là 0,49 chứng tỏ mức độ đa dạng gen là khá lớn trong quần thể lúa tẻ nghiên cứu.

Phân tích UPGMA bằng phần mềm NTSYS 2.1 cho thấy 26 mẫu giống lúa tẻ có sự khác nhau về đặc điểm phân tử rõ rệt, ở độ tương đồng 55%, 26 mẫu giống lúa tẻ phân thành 2 nhóm, nhóm I gồm 3 mẫu giống là LC2, MC1 và TC8, nhóm II gồm 23 mẫu giống.

Lời cảm ơn: Chúng tôi gửi lời cảm ơn tới Dự án TBU - JICA và các đối tác liên quan đã hỗ trợ cho nghiên cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Vũ Thị Thu Hiền, Phạm Văn Cường, 2012. Phân tích đa dạng di truyền mẫu giống lúa

canh tác nhờ nước trời bằng chỉ thị SSR. Tạp chí Khoa học và Phát triển 2012, tập 10, số 1: pp.. 15-24. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

[2] Trần Thị Lương, Lưu Minh Cúc, Nguyễn Đức Thành, 2013. Phân tích quan hệ di truyền một số giống lúa đặc sản, chất lượng, trồng phổ biến ở Việt Nam bằng chỉ thị phân tử SSR. Tạp chí Sinh học, 35 (3): pp.. 384–356 .

[3] Trần Danh Sửu, 2008. Đánh giá đa dạng di truyền tài nguyên lúa Tám đặc sản miền Bắc Việt Nam. Luận án tiến sĩ khoa học nông nghiệp. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

[4] Trần Danh Sửu, Nguyễn Thị Lan Hoa và cộng sự, 2010. Nghiên cứu đa dạng di truyền lúa nếp địa phương ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ bằng chỉ thị SSR. Kết quả nghiên cứu Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

[5] Trần Danh Sửu, Nguyễn Thị Lan Hoa và cộng sự, 2011. Nghiên cứu đa dạng di truyền các giống lúa địa phương tỉnh Lào Cai bằng chỉ thị ADN. Báo cáo khoa học. Trung tâm tài nguyên di truyền thực vật. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

Page 172: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

172

[6] Choudhary G, Ranjitkumar N, Surapaneni M, Deborah DA, Vipp.arla A, et al, 2013. Molecular Genetic Diversity of Major Indian Rice Cultivars over Decadal Periods. PLoS ONE 8(6): e66197.

[7] Thuy T. T. Nguyen, Nguyet M. T. Nguyen, Long H. Hoang, Naruto Furuya, Kenichi Tsuchiya., 2012. Genetic diversity in Vietnamese upland rice germplasm revealed by SSR markers. J. Fac. Agr., Kyushu Univ., 57 (2): pp. 383–391.

[8] Victoria C. Lapitan, Darshan S. Brar, Toshinori Abe, Edilberto D. Redona, 2007. Assessment of genetic diversity of Philipp.ine rice cultivars carrying good quality traits using SSR markers. Breeding Science 57: pp. 263–270.

GENETIC DIVERSITY OF LOCAL RICE VARIETES IN THE NORTHWEST BY SSR MOLECULAR MARKERS

Doan Thi Thuy Linh M.A, Nguyen Van Khoa M.A,

Nguyen Thi Thu Hien M.A Faculty of Agriculture and Forestry

Abstract: SSR (simple sequence repeats) is the molecular marker of high polymorphism and stability, which is widely effectively used in studying the genetic diversity in plant. This paper, present results on the use of 33 primer pairs to analyze the genetic diversity of 26 local rice varities. 105 alleles have been amplified, and the number of alleles were amplified by each SSR primer pair ranged from 2 to 7. The average on polymorphic information contents of used primers is 0.49. At the genetic similarity of 55%, the population of local rice was devided into 2 groups.

Keywords: SSR markers, genetic diversity, local rice.

Page 173: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

173

KẾT QUẢ PHÂN TÍCH HÀM LƯỢNG KIM LOẠI NẶNG TRONG RAU MUỐNG NƯỚC VÀ RAU CẢI XOONG Ở KHU VỰC

THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

ThS. Hoàng Thị Bích Nguyệt Khoa Sinh Hóa

Tóm tắt: Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu kết quả đề tài nghiên cứu khoa học của chúng tôi về việc phân tích hàm lượng kim loại nặng có trong rau muống nước và rau cải xoong thuộc địa bàn Thành phố Sơn La bằng máy quang phổ hấp thụ nguyên tử ZEENIT.

Từ khóa: Sơn La, hấp thụ, nguyên tử, rau muống nước, rau cải xoong. 1. Đặt vấn đề Rau là nguồn thực phẩm cung cấp cho con người chất sơ, vitamin cùng một số nguyên tố vi

lượng, tuy nhiên khi sử dụng những loại rau bị ô nhiễm thì đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Có nhiều loại rau nhưng chúng tôi chỉ nghiên cứu hai loại đó là rau muống nước và rau cải xoong. Đây là hai loại thực vật thuỷ sinh và bán thuỷ sinh, thuộc loại thân mềm và có khả năng hấp thụ kim loại dễ hơn các loại rau khác. Đây cũng là hai loại rau được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên cả nước, trong đó có Sơn La. Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là xác định kim loại đồng, kẽm, cađimi trong rau muống nước và rau cải xoong được trồng ở những khu vực khác nhau trong địa bàn thành phố Sơn La.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Vật liệu nghiên cứu: Trang thiết bị, dụng cụ, hoá chất 2.1.1. Trang thiết bị Máy quang phổ hấp thụ nguyên tử ZEEnit 700 của Đức, cân phân tích Statorius có độ chính

xác 0,1mg, máy đo pH, máy cất nước, hệ thống Kendan xử lý mẫu. 2.2.2.Dụng cụ - Các dụng cụ thuỷ tinh: pipet, buret, bình định mức các loại, phễu lọc,... Của Đức và Trung

Quốc sản xuất. Tất cả được ngâm rửa bằng hỗn hợp sunfocromic. - Các dụng cụ phụ trợ khác: Bếp điện, tủ hốt, tủ sấy… 2.2.3. Hoá chất

- Các dung dịch chuẩn Cu(II), Cd(II), Zn(II), được pha từ dung dịch có nồng độ 1000 pp.m của hãng Merck (Đức) sản xuất. - Các dung dịch ion kim loại: Na+, K+, Ca2+, Mg 2+ , Ca 2+, Ba 2+, Al3+, Fe3+, Cr3+, Ni2+, Co2+, Mn2+... Được pha từ các hóa chất tinh khiết loại pA. - Dung dịch H2O2, HCl, HNO3 loại pA. - Nước cất 2 lần…

2.2. Quy trình phân tích 2.2.1. Lấy mẫu và bảo quản mẫu Mẫu nước: Làm theo quy trình phân tích nước của đề tài năm 2012. Mẫu rau: Chúng tôi tiến hành lấy mẫu nước vào hai thời điểm là tháng 4 và tháng 8 trong

năm.Thời điểm này đúng thời kì thu hoạch. Địa chỉ thu mẫu rau ở thành phố Sơn La gồm: 1. Tiểu khu 3 phường Chiềng Cơi: Diện tích trồng rau là 12410,1 m2. 2. Tổ 1+2 phường Chiềng Lề: Diện tích trồng rau là 15.410,1 m2.

Page 174: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

174

3. Tổ 7+8 phường Tô Hiệu: Diện tích trồng rau là 13.230,1 m2. 2.2.2. Xử lý mẫu - Nguyên tắc: Chuyển các ion kim loại về dạng muối vô cơ tan trong nước, rồi xác định hàm

lượng của chúng trong dung dịch đó. Xử lí mẫu nước: Làm theo quy trình phân tích nước của đề tài năm 2012. Xử lí mẫu rau: Sau khi thu các mẫu rau về, tiến hành phá mẫu để chuyển thành dạng bột. Sau

đó cân một lượng xác định mẫu rau đã xay thành bột đó sau đó chuyển vào cốc, tẩm ướt bằng 2 ml nước cất hai lần, thêm 30 ml HNO3 63-68%, vài ml H2O2, lắc đều. Cho vào cốc thủy tinh chịu nhiệt, đun trên bếp điện, trong tủ hốt trong khoảng 2 - 3 giờ, thường xuyên thêm HNO3 63 - 68% cho đến khi hết màu, tạo dung dịch trong suốt. Sau đó chuyển hết mẫu ra cốc, làm bay hơi hết axit, đến còn muối ẩm, định mức bằng HNO3 2% (nếu muối không tan hết thì thêm 1 - 2 ml dung dịch HNO3 63 - 68%). Tùy thuộc vào hàm lượng kim loại cần xác định mà chúng tôi làm giàu hay pha loãng để hàm lượng kim loại cần xác định nằm trong khoảng tuyến tính của phương pháp. Cụ thể như sau: - Đối với hai kim loại Cu, Zn cân chính xác 5 gam mẫu các loại rau ở dạng bột, sau khi phá mẫu định mức trong bình bình 50ml. - Đối với kim loại Cd, cân chính xác 100 gam mẫu các loại rau ở dạng bột, sau khi phá mẫu định mức 10 ml, một số mẫu có nồng độ quá nhỏ chúng tôi làm giàu lên gấp đôi.

2.3. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại trong mẫu rau Các mẫu rau được lấy vào thời điểm khác nhau trong năm và được kí hiệu khác nhau, kết quả phân tích được thống kê trong các bảng sau:

Bảng 3. Kết quả phân tích nồng độ đồng, cađimi, kẽm trong mẫu rau STT Mẫu Nồng độ kim loại thu được (pp.m)

Cu Zn Cd 1 RM1 0,34172 2,3182 ------ 2 RM2 0,54740 3,0383 ------ 3 RM3 0,19166 1,3764 ------ 4 RM4 0,21888 1,5645 ------ 5 RM5 0,51881 1,8486 ------ 6 RM6 0,35873 1,2667 ------ 7 RCX1 0,24143 1,1405 ------ 8 RCX2 0,43511 0,6532 0,0660 9 RCX3 1,08117 1,9854 ------

10 RCX4 0,92345 1,3442 ------ 11 RCX5 0,50218 1,2890 ------ 12 RCX6 0,22062 1,1363 ------

Page 175: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

175

Bảng 4. Kết quả tính hàm lượng kim loại đồng, chì cađimi, kẽm trong mẫu rau STT Mẫu Hàm lượng ion kim loại nặng trong mẫu rau

(mg/kg rau) Cu Zn Cd

1 RM1 3,4172 23,182 ------ 2 RM2 5,4704 30,383 ------ 3 RM3 1,9166 13,764 ------ 4 RM4 2,1888 15,645 ------ 5 RM5 5,1881 18,486 ------ 6 RM6 3,5873 12,667 ------ 7 RCX1 2,4145 19,854 ------ 8 RCX2 4,3511 13,442 0,0066 9 RCX3 10,8117 19,854 ------

10 RCX4 9,2343 13,442 ------ 11 RCX5 5.0218 12,890 ------ 12 RCX6 2,2064 11,362 ------

Ghi chú: ------ Là kí hiệu nồng độ kim loại quá thấp dưới ngưỡng phát hiện của máy. Từ các kết quả phân tích mẫu rau (bảng 3.39) chúng tôi thấy:

- Hàm lượng kim loại đồng (Cu) nằm trong khoảng 1,9166 - 10,8117 mg/kg. - Hàm lượng kim loại kẽm (Zn) nằm trong khoảng 11,362 - 36,029 mg/kg. - Hàm lượng kim loại cacđimi (Cd) trong mẫu RCX2 là 0,0066mg/kg.

Theo quyết định số 106/2007/QĐ-BNN ngày 28 tháng 12 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT, quy định tối đa kim loại trong rau ghi ở Bảng 3.40.

Bảng 5. Giới hạn tối đa hàm lượng kim loại trong các loại mẫu rau TT Mẫu rau Giới hạn tối đa hàm lượng kim loại trong các loại mẫu rau tươi.

Cd Cu Pb Zn 1 Rau tươi

(mg/kg tươi) 0,02 30 1 40

3. Kết luận Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài, chúng tôi đã xác định được mục tiêu của đề tài

là ứng dụng kỹ thuật F-AAS để phân tích, đánh giá hàm lượng các kim loại nặng trong rau muống nước và rau cải xoong. Chúng tôi đã tìm hiểu đối tượng, tham khảo tài liệu và lần lượt tiến hành kiểm tra lại các điều kiện thích hợp rồi tiến hành phân tích trên mẫu thực. Đề tài thu được những kết quả sau: 1. Kiểm tra lại các thông số phù hợp với máy hấp thụ nguyên tử Zeenit 700 (CHLB Đức) để xác định đồng, cađimi và kẽm.

2. Kiểm tra lại ảnh hưởng của 2 loại axit HCl, HNO3 ở các nồng độ khác nhau, chọn ra được môi trường phù hợp cho phép xác định kim loại nặng đồng, cađimi, kẽm là HNO3 2M và kiểm tra sự ảnh hưởng của các cation đến phép xác đồng, chì cađimi, kẽm. 3. Trên cơ sở các điều kiện đã chọn, xác định được khoảng nồng độ tuyến tính và xây dựng đường chuẩn xác định đồng, cađimi, kẽm bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa (F-AAS).

Page 176: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

176

4. Thu mẫu ở các khu vực trồng rau phổ biến của Thành phố Sơn La, đó là: Tiểu khu 3 phường Chiềng Cơi, tổ 1+2 phường Chiềng Lề, tổ 7+8 phường Tô Hiệu và tiến hành xử lý mẫu, sau đó tiến hành phân tích các mẫu. 5. Xác định hàm lượng đồng, cađimi, kẽm trong các mẫu nước và rau muống nước và rau cải xoong ở thành phố Sơn La bằng phương pháp đường chuẩn. Kết quả phân tích cho thấy hầu hết nước tưới và các loại rau trên ở các địa điểm lấy mẫu phân tích chưa bị ô nhiễm kim loại nặng. Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp đo phổ hấp thụ nguyên tử trên máy Zeenit 700 hoàn toàn phù hợp với việc phân tích hàm lượng nhỏ các kim loại trong mẫu nước và rau với độ chính xác cao, độ lặp lại tốt, độ chọn lọc cao.

Qua kết quả phân tích chúng tôi kết luận như sau: Đa số các mẫu rau nghiên cứu đều có hàm lượng kim loại nặng dưới ngưỡng tiêu chuẩn Việt Nam. Nguyên nhân gây ô nhiễm kim loại nặng trong rau là do nguồn nước (hay do hàm lượng kim loại có trong nước). Ngoài ra có thể do các yếu tố khác như đất trồng hay thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học...

Chúng tôi cho rằng: Hàm lượng kim loại đồng, kẽm, cacđimi trong rau muống nước và rau cải xoong được trồng trong khu vực thành phố Sơn La không ảnh hưởng tới sức khoẻ của con người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Hoàng Ngọc Chức, 2009. Nghiên cứu phân tích hàm lượng một số kim loại nặng trong

nước sinh hoạt, nước thải khu vực Từ Liêm bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử. Luận văn Thạc sĩ Khoa học Hoá học. ĐH Sư Phạm Hà Nội.

[2] Nguyễn Tinh Dung, 2000. Hoá học phân tích phần III: Các phương pháp định lượng hoá học. Nxb Giáo Dục.

[3] Doãn Văn Kiệt, Hoàng Thị Nguyệt, 2012. Khảo sát đánh giá hàm lượng kim loại nặng trong một số nguồn nước sinh hoạt tại Thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Đề tài cấp trường, Đại học Tây Bắc.

[4] Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT. “Quy định tối đa kim loại trong rau, Quyết định số 106/2007/QĐ-BNN ngày 28 tháng 12 năm 2007.

[5] QCVN, 2008. 08: 2008/BTNMT, Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt, Nxb Lao động - Xã hội.

[6] Phạm Hùng Việt, Trần Tứ Hiếu, Nguyễn Văn Nội, 1999. Hoá học môi trường cơ sở. ĐHKHTN - ĐHQG Hà Nội.

THE RESULTS OF ANALYSIS OF SOME HEAVY META CONCENTRATIONS IN WATER SPINACH AND WATER CRESS IN SON LA CITY

Hoang Thi Bich Nguyet M.A Faculty of Biology and Chemistry Abstract: The paper presents the result from our the analysis of heavy metal content in water spinach and water

cress in Son La city by ZEENIT atomic absorption spectrometer. Keywords: Son La, absorption, spectrometer, water spinach, water cress.

Page 177: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

177

LẦN ĐẦU TIÊN GHI NHẬN HAI LOÀI ẾCH NHÁI MEGOPHRYS MAJOR BOULENGER, 1908 VÀ QUASIPAA BOULENGERI (GUNTHER, 1889) (AMPHIBIA: ANURA) Ở HAI KHU RỪNG ĐẶC DỤNG

SỐP CỘP VÀ COPIA

ThS. Phạm Văn Anh, Trần Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hải Khoa Sinh Hóa

Tóm tắt: Trong quá trình khảo sát và thu mẫu tại hai Khu rừng đặc dụng (KRĐD) Sốp Cộp và Copia, chúng tôi đã phát hiện và ghi nhận phân bố mới của 2 loài ếch nhái ở hai khu vực này, đó là loài Cóc mắt bên (Megophrys major) thuộc họ Cóc bùn (Megophrydae) và loài Ếch gai bua leng (Quasipaa boulengeri) thuộc họ Cóc lưỡi chẽ (Dicroglossidae) mà từ trước tới nay chưa có công trình nào công bố. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã bổ sung vùng phân bố của hai loài này tại khu vực phía Nam của tỉnh Sơn La. Từ khóa: Amphibia, Meghophridae, Dicroglossidae, phân bố, Sốp Cộp, Copia.

1. Đặt vấn đề KRĐD Sốp Cộp được thành lập theo quyết định số 3440/QĐ-UB ngày 11/11/2002 của Ủy ban

nhân dân tỉnh Sơn La với diện tích 18.709 ha và KRĐD Copia được thành lập theo quyết định số 3440/2010/QĐ-UB ngày 11/11/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La với tổng diện tích là 9.614.629 ha. Cả hai KBTTN Sốp Cộp và KRĐD Copia đều nằm ở phía Nam của tỉnh Sơn La và ngăn cách nhau bởi dòng sông Mã. Theo Nguyễn Khanh Vân và nnk (2000) thì cả hai khu vực này nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh, mùa hè mưa, thời kỳ khô kéo dài 4-5 tháng, lượng mưa bình quân năm khoảng 1100 - 1500 mm. Theo báo cáo của Viện điều tra quy hoạch rừng (2003) và Lê Trần Chấn và nnk (2012) thì hệ thực vật rừng ở hai khu vực này là khá đa dạng về thành phần loài, chất lượng rừng còn khá tốt, do vậy đây là nơi cư ngụ của nhiều loài động vật hoang dã. Về ếch nhái, kết quả nghiên cứu của Viện Điều tra Quy hoạch Rừng (2003) đã thống kê được 14 loài ở KRĐD Sốp Cộp, nghiên cứu của Nguyễn Văn Sáng và Lê Nguyên Ngật (trong Lê Xuân Huệ và nnk, 2009) và Nguyễn Văn Sáng (trong Lê Trần Chấn và nnk, 2012) đã thống kê được 22 loài ở KRĐD Copia.

Trong các chuyến khảo sát về đa dạng sinh học gần đây tại hai KRĐD Sốp Cộp và Copia, chúng tôi đã ghi nhận vùng phân bố mới của 2 loài ếch nhái, đó là loài Cóc mắt bên - Meghophrys major (Boulenger, 1908) và loài Ếch gai bua leng - Quasipaa boulengeri (Gunther, 1889) tại hai khu vực này.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Nguyên liệu và phương pháp Chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực địa trên địa bàn KRĐD Copia (ở các xã: Chiềng Bôm, Co

Mạ, Long Hẹ thuộc huyện Thuận Châu) và KRĐD Sốp Cộp (ở các xã: Huổi Một, Nậm Mằn thuộc huyện Sông Mã và các xã Sốp Cộp, Dồm Cang, Púng Bánh, Mường Cai thuộc huyện Sốp Cộp) trong tháng 10 năm 2012 và tháng 03, 06,09 năm 2013. Thời gian thu thập mẫu vật chủ yếu vào ban đêm (từ 18h đến 24h). Mẫu vật ếch nhái chủ yếu thu thập bằng tay và đựng trong các túi nilon hoặc túi vải cỡ nhỏ. Mẫu vật sau khi chụp ảnh được gây mê, đeo nhãn và định hình trong cồn 80% trong vòng 10-20 tiếng, sau đó chuyển sang ngâm bảo quản trong cồn 70%. Mẫu vật hiện đang được lưu giữ tại phòng thực hành Khoa Sinh- Hóa, Trường Đại học Tây Bắc.

Các chỉ số đo theo Ohler (2007) với độ chính xác đến 0,1 mm bao gồm: SVL: Dài thân (đo từ mút mõm đến lỗ huyệt), HL: Dài đầu (đo từ mút mõm đến góc sau xương hàm), HW: Rộng đầu (chiều rộng lớn nhất của đầu), SL: Dài mõm (từ mút mõm đến góc trước ở mắt), IND: Khoảng cách gian mũi,

Page 178: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

178

SNL: khoảng cách từ mút mõm đến lỗ mũi, NEL: Khoảng cách từ góc trước ổ mắt đến lỗ mũi, ED: Đường kính ổ mắt theo chiều ngang, UEW: Chiều rộng mí mắt trên, IOD: khoảng cách gian ổ mắt (đo khoảng cách ngắn nhất giữa hai ổ mắt), TD: Đường kính màng nhĩ, TED: khoảng cách giữa rìa trước màng nhĩ và góc sau ổ mắt, AOD: Khoảng cách góc trước giữa hai ổ mắt, FLL: Dài chi trước (đo từ mép ngoài của của đĩa ngón III đến lách), LAL: Dài cánh tay (đo từ nách đến khuỷu tay), HAL: Dài bàn tay (đo từ khuỷu tay đến mút ngón tay III), HLL: Dài chi sau (đo từ mép ngoài đĩa ngón IV chân sau tới bẹn), FL: Dài đùi (đo từ lỗ huyệt đến đầu gối), TL: Dài ống chân (đo từ đầu gối đến gót chân), TBW: Rộng ống chân, FOT: Dài bàn chân (đo từ gót chân đến mút ngón chân IV). Định loại các loài ếch nhái tham khảo các tài liệu sau: Boulenger (1908, 1920), Bourret (1942), Taylor (1962). Tên khoa học và tên phổ thông của các loài theo Nguyen et al. (2009).

2.2. Kết quả nghiên cứu Dựa vào kết quả phân tích mẫu vật, chúng tôi mô tả đặc điểm hình thái hai loài ếch nhái Meghophrys

major và Quaspaa boulengeri thu được ở hai KRĐD Sốp Cộp và Copia, tỉnh Sơn La như dưới đây. 2.2.1. Cóc mắt bên-Megophrys major Boulenger, 1908

Mẫu vật nghiên cứu: 1 mẫu đực (PAE 286) và 2 mẫu cái (PAE 285, PAE 287) thu tháng 03/2013 trong rừng thuộc bản Hua Ty, xã Co Mạ (N: 21o21.018; E: 103o35.751; 1495 m); 2 mẫu đực khác (PAE 288, PAE 289) thu tháng 6/2013 trong rừng thuộc bản Nong Vai, xã Co Mạ (N: 21o20.054; E: 103o34.847; 1502 m) và 1 mẫu cái khác (PAE 284) thu ngày trong tháng 11/2012 trong rừng gần bản Tà Cọ thuộc xã Huổi Một, huyện Sông Mã (N: 21o00.466; E: 103o36.631; 1280 m). Các mẫu vật trên đều do Phạm Văn Anh và nnk thu thập. Đặc điểm nhận dạng: Các mẫu vật thu được ở KBT Copia và KBT Sốp Cộp Copia có đặc điểm nhận dạng phù hợp với mô tả của Boulenger (1908), Bourret (1942) và Taylor (1962).

Kích cỡ: Dài thân SVL trung bình con đực 66,8 - 70 mm (n = 3), con cái 86,1 - 90 mm (n =3); đầu rộng hơn dài (HL 25 mm, HW 26 mm); Mõm hơi tù (SL 8,6 mm); Lỗ mũi có màng da che ở phía trước, nằm gần mút mõm hơn so với ổ mắt (NEL 5 mm, SNL 4,2 mm); Khoảng cách gian ổ mắt (IOD 7,9 mm) rộng hơn so với chiều rộng mí mắt trên (UEW 5,5 mm); Đường kính ngang ổ mắt (ED 9,2 mm); Con ngươi dọc hình ô van; Màng nhĩ tròn, không rõ ràng, đường kính màng nhĩ (TD 5 mm); có răng là mía cạnh lỗ mũi trong; Lưỡi tròn khá phát triển, có khía phía sau.

Chi trước: Ngắn (FLL 46,9 mm); dài bàn tay (HAL 33,8 mm), tương quan chiều dài giữa các ngón: IV<II<I<III; Mút ngón tay không có đĩa bám; tay không có màng bơi; Chai dưới khớp ngón tay rõ.

Chi sau: Dài đùi (FL 36,3 mm); Dài ống chân (TL 41,1 mm) gấp 5,6 lần rộng ống chân (TBW 7,3 mm); Dài bàn chân (PL 34,6 mm); Tương quan chiều dài các ngón chân I<II<V<III<IV; Mút ngón chân không có đĩa bám, chân không có màng bơi.

Da toàn thân nhẵn; Có gai da nhỏ trên mí mắt; Nếp da sau gáy cắt nhau tạo thành chữ V ngược; Nếp gấp lưng bên rõ chạy từ sau màng nhĩ tới bẹn. Màu sắc: Mẫu vật còn sống có màu nâu xám ở trên đầu và lưng, trên đầu có hình tam giác đều màu nâu viền màu vàng đỉnh quay về phía lưng, đáy quay về phía trước, hai góc nằm trên hai mí mắt; mặt trên các chi màu nâu sáng với các vân đen; cằm màu nâu với 2 xọc trắng hai bên sát hàm, ngực, bụng và mặt dưới các chi màu kem. Đặc điểm phân biệt giới tính: Con đực có 1 túi kêu ẩn bên trong và kích cỡ thường nhỏ hơn con cái.

Page 179: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

179

Một số đặc điểm sinh thái học: Mẫu vật của loài X. major được thu vào khoảng 20-24h, ở khu vực ven bờ trong rừng thường xanh gồm cây gỗ vừa và nhỏ xen cây bụi. Các mẫu thu được thường đậu trên bờ hoặc ẩn mình dưới thảm lá mục, có mẫu thu được trong hốc cây chỉ để lộ hai mắt. Phân bố: Ở Việt Nam loài ếch này được ghi nhận ở Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Dak Lak, Đồng Nai, ở Sơn La loài này được ghi nhận ở Tà Xùa, trên thế giới loài ếch này được ghi nhận ở Bắc Ấn Độ, Bangladesh, Trung Quốc, Myanma, Lào, Thái Lan (Nguyen et al., 2009). Đây là lần đầu tiên chúng tôi ghi nhận loài này tại hai KRĐD Sốp Cộp và Copia thuộc phía Nam của tỉnh Sơn La. Ghi chú: Mẫu nghiên cứu có SVL nhỏ hơn so với mô tả của Bourret (1942) con đực SVL 77 mm và con cái SVL 94mm.

Bảng 1. Các chỉ số đo mẫu vật của loài Megophrys major và Quaspaa verucospinosa thu ở KBTTN Sốp Cộp và KRĐD Copia

Số đo Megophrys major Quaspaa boulengeri Mẫu đực (n = 3) Mẫu Cái (n = 3) Mẫu đực

(n = 1) Mẫu Cái (n = 3)

Min-Max TB ± độ lệch chuẩn

Min-Max TB ± độ lệch chuẩn

Min-Max TB ± độ lệch chuẩn

SVL 66,8-70 68,6±1,6 82,3-90 86,1±3,9 98,5 67,3-84,2 75,8±8,5 HL 23,5-26,4 25±1,5 31,7-34,1 32,7±1,3 41,5 28,3-35,1 32,4±3,6 HW 24,6-27,1 26±1,3 32,8-35,3 33,9±1,3 38,8 27,7-31,8 30,4±2,3 SL 8,1-9 8,6±0,5 10,9-11,5 11,2±0,3 16 10-12,6 11,5±1,3

IND 6,9-8,1 7,6±0,6 9,4-10,3 9,8±0,5 10,1 6,1-8,2 7,2±1,1 SNL 4-4,5 4,2±0,3 5,2-5,5 5,3±0,2 7,5 4,5-5,5 5±0,5 NEL 4,7-5,1 5±0,2 5,7-6 5,8±0,2 6,9 4,7-6,2 5,7±0,8 ED 8,6-10 9,2±0,7 10,3-10,5 10,4±0,1 12,5 8,6-10,5 9,5±1

UEW 5-6 5,5±0,5 6,7-7 6,9±0,2 8,7 5,9-7,1 6,5±0,6 IOD 7,1-8,4 7,9±0,7 10,3-11,2 10,7±0,5 8,8 6,4-7,5 7±0,6 TD 4,5-5,5 5±0,5 5-5,8 5,5±0,5 4,5 3-4 3,5±0,5

TED 4,8-6 5,3±0,6 7,2-8 7,5±0,4 5,5 4,5-5,2 4,9±0,4 AOD 11,2-12,3 11,8±0,6 14,3-15,4 14,7±0,6 16,3 10,3-13,1 11,9±1,5 FLL 42-50,1 46,9±4,3 51,9-60,1 56,3±4,1 64,9 46-53,5 50,2±3,8 LAL 11,2-14 13,1±1,6 14-15,5 15±0,8 18,1 15-15,4 15,2±0,2 HAL 30,8-36,1 33,8±2,7 37,9-44,6 41,3±3,4 46,8 31-38,1 35±3,6 HLL 120,7-140,7 131,5±10,1 136,8-165,8 153,2±14,9 190,4 130,3-155,1 145,2±13,1 FL 33-38 36,3±2,8 41,8-45,7 43,6± 2 57,6 38-46,1 42,8±4,2 TL 37,7-44,5 41,1±3,4 44-52,1 48,2±4,1 58,2 41,3-48,5 45,4±3,7

TBW 6,3-8,2 7,3±1 9,6-11,3 10,3±0,9 19 12,1-14,2 13,4±1,1 FOT 32,2-36,6 34,6±2,2 38,3-45,9 42,2±3,8 51,4 35,1-41 38,5±3,1

Ghi chú: n = số cá thể, Min = giá trị tối thiểu, Max = giá trị tối đa, TB = giá trị trung bình 2.2.2. Ếch gai bua leng-Quaspaa boulengeri (Gunther, 1889)

Mẫu nghiên cứu: 1 mẫu đực (PAE 56) và 2 mẫu cái (PAE 55, PAE 57) thu tháng 10/2012 thu tại khu rừng thuộc bản Hua Lương xã Co Mạ (N: 21o21.078; E: 103o34.151; 1410 m) và 1 mẫu cái khác (PAE 98) thu vào tháng 03/2013 ở bản Huổi Hưa, xã Nậm Mằn (N: 21o58.204; E: 103o41.985; 1295 m) bởi Phạm Văn Anh và nnk.

Page 180: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

180

Đặc điểm nhận dạng: Đặc điểm nhận dạng: Các mẫu vật thu được có đặc điểm hình thái phù hợp với mô tả của Gunther (1889) và Boulenger (1920).

Kích cỡ: Dài thân SVL con đực 98,5 mm (n = 1), SVL trung bình con cái 75,8mm; Đầu rộng hơn dài (HL 38,5 mm, HW 41,5 mm); Mõm tù (SL 16 mm); Lỗ mũi không có màng da che ở phía trước, nằm gần mút mõm hơn so với ổ mắt (SNL 7,5 mm, NEL 6,9 mm); Khoảng cách gian ổ mắt (IOD 8,8 mm) hẹp hơn so với chiều rộng mí mắt trên (UEW 8,7 mm); Đường kính ngang ổ mắt (ED 12,5 mm); Màng nhĩ tròn, không rõ ràng, đường kính màng nhĩ (TD 4,5mm); Có răng lá mía cạnh lỗ mũi trong; lưỡi tròn khá phát triển.

Chi trước: To, ngắn (FLL 64,9 mm); Dài bàn tay (HAL 46,8 mm), tương quan chiều dài giữa các ngón: II<I<IV<III; Mút ngón tay hơi phình to, tròn, tạo thành đĩa bám nhỏ; Tay không có màng bơi, chai dưới các khớp ngón rõ ràng.

Chi sau: Dài đùi (FL 57,6 mm); Dài ống chân (TL 58,2 mm) gấp 3,06 lần rộng ống chân (TBW 19 mm); Dài bàn chân (FOT 51,4 mm); Tương quan chiều dài các ngón chân I<II<III<V<IV; Bàn chân có màng bơi hoàn toàn.

Da mặt lưng và hai bên hông sần sùi có những mụn cóc lớn chạy gần thẳng hàng, gờ da phía trên màng nhĩ nổi rõ chạy từ phía sau ổ mắt về phía chi trước. Da mặt bụng và dưới các chi nhẵn.

Đặc điểm phân biệt giới tính: Con đực thường lớn hơn con cái, có nhiều gai ở cằm, ngực và ở các ngón tay I, II của chi trước, chai sinh dục phát triển ở gốc ngón cái, không có túi kêu.

Màu sắc: mẫu vật sống có màu nâu đen hoặc nâu xám pha lẫn những vết vàng nhạt ở trên lưng; mặt trên các chi có với các băng xám to chạy ngang; mặt bụng và mặt dưới các chi màu trắng.

Một số đặc điểm sinh thái học: Mẫu vật của loài Q. boulengeri được thu vào khoảng 19-22h, ở khu vực lòng suối trong rừng thường xanh có nhiều cây gỗ to và nhỏ. Các mẫu thu được ở trên các tảng đá cạnh dòng suối hoặc các tảng đá giữa thác nước chảy mạnh. Phân bố: Ở Việt Nam loài ếch này được ghi nhận ở Hà Giang, Cao Bằng, Nghệ An, Kon Tum, ở Sơn La loài này được ghi nhận ở Tà Xùa, trên thế giới loài ếch này được ghi nhận ở Trung Quốc (Nguyen et al., 2009). Đây lần đầu tiên chúng tôi ghi nhận loài này ở hai KRĐD Sốp Cộp và Copia thuộc phía Nam của tỉnh Sơn La.

3. Kết luận Theo kết quả nghiên cứu của Viện Điều tra quy hoạch rừng (2003) đã thống kê tại KRĐD Sốp

Cộp có 14 loài lưỡng cư thuộc 5 họ; Theo Nguyễn Văn Sáng, Lê Nguyên Ngât, Hồ Thu Cúc (2009) và Nguyễn Văn Sáng (2012) đã thống kê tại KRĐD Copia có 22 loài lưỡng cư thuộc 5 họ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã bổ sung thêm cho danh sách thành phần loài lưỡng cư ở KRĐD Sốp Cộp và KRĐD Copia là 2 loài. Hơn nữa, chúng tôi cung cấp thêm những dẫn liệu về hình thái và đặc điểm sinh thái học của 2 loài bổ sung.

Lời cảm ơn: Các tác giả gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo và cán bộ hai KRĐD Sốp Cộp và Copia đã giúp đỡ đoàn khảo sát trên thực địa; các bạn sinh viên Nguyễn Văn Tân, Vì Anh Đức, Nguyễn Thị Mến, Nguyễn Thị Bích Ngọc (Trường Đại học Tây Bắc); Các anh Lầu A Mua, Sùng A Dính (ở xã Co Mạ, huyện Thuận Châu), Vàng A May (ở xã Huổi Một, huyện Sông Mã) đã hỗ trợ thu mẫu và dẫn đường cho đoàn trong các chuyến khảo sát thực địa trong khu vực nghiên cứu.

Page 181: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

181

Hình 1. Bản đồ và ảnh mẫu, sinh cảnh sống

A. Vị trí hai KRĐD Sốp Cộp và Copia tại Sơn La; B. Quasipaa boulengeri; C. Megophrys major; D. Sinh cảnh sống của loài Quasipaa boulengeri ; E. Sinh cảnh sống của loài Megophrys major.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Boulenger, G. A, 1908. A revision of the Oriental pelobatid batrachians

(genus Megalophrys). Proceedings of the Zoological Society of London 1908: pp.. 407-430. [2] Boulenger, G. A, 1920. A monograph of the South Asian, Papuan, Melanesian and

Australian frogs of the genus Rana. Records of the Indian Museum 20: pp.. 226. [3] Bourret R, 1942. Les Batraciens de I’Indochine. Men Inst. Ocean Indoch, Ha Noi,

pp..517. [4] Lê Trần Chấn (Chủ nhiệm), Vũ Đình Thống, Đặng Ngọc Cần, Phạm Văn Nhã, Trương

Văn Lả, Ngô Xuân Tường, Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Trường Sơn, Vũ Anh Tài, Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Hữu Tứ, Nguyễn Viết Lương, Lê Mai Sơn, Lê Văn Hưng, Phạm Đăng Trung, Lê Bá Biên, Lưu Thế Anh, Nguyễn Ngọc Thành, Mai Thành Tân, Trần Thị Thúy Vân, Bùi Văn Cường, Giàng A Tạ, Bùi Văn Thành, Nguyễn Tiến Thỏa, Nguyễn Văn Chính, 2012. Báo cáo tổng hợp dự án điều tra đa dạng sinh học tại Khu bảo tồn thiên nhiên Copia, tỉnh Sơn La. Trung tâm Đa dạng và An toàn Sinh học, Hà Nội.

[5] Frost, D. R, 2014. Amphibian species of the World: an online reference. Version 6.0 (accessed in February 2014). Electronic Database accessible. Source:http://research.amnh.org/herpetology/amphibia/index.html. American Museum of Natural History, New York, USA.

[6] Günther, A. C. L. G, 1889. Third contribution to our knowledge of reptiles and fishes from the upp.er Yangtze-Kiang. Annals and Magazine of Natural History, Series 6, 4: 218–229.

Page 182: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

182

[7] Lê Xuân Huệ (Chủ nhiệm), Nguyễn Thị Thu Hường, Nguyễn Thị Phương Liên, Trần Thiếu Dư, Nguyễn Xuân Thành, Hoàng Vũ Trụ, Trần Huy Thái, Hà Văn Tuế, Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Thị Hiền, Đỗ Thị Minh, Phạm Tất Thế, Nguyễn Sinh Khang, Trương Văn Lả, Phạm Đức Tiến, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, Hà Quý Quỳnh và Lê Nguyên Ngật, 2009. Điều tra đánh giá đa dạng sinh học của khu bảo tồn thiên nhiên Copia (Sơn La) và đề xuất các giải pháp để quản lý bảo tồn. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài. Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Hà Nội.

[8] Ohler A, 2007. New synonyms in specific names of frogs (Raninae) from the border regions between China, Laos and Vietnam. Alytes, 25 (1-2), pp.. 55 - 74.

[9] Nguyen, V. S., Ho, T. C. & Q. T. Nguyen, 2009. Herpetofauna of Vietnam. Edition Chimaira, Frankfurt am Main, 768 pp..

[10] Taylor E. H., 1962. The amphibian fauna of Thailand, Univ. Kansas Sci. Bull. [11] Nguyễn Khanh Vân, Nguyễn Thị Hiền, Phan Kế Lộc, Nguyễn Tiến Hiệp, 2000. Các

biểu đồ sinh khí hậu Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 126. [12] Viện Điều tra Quy hoạch rừng, 2003. Dự án bổ xung, điều chỉnh xây dựng khu bảo tồn

thiên nhiên sốp cộp tỉnh Sơn La. Chi cục Kiểm lâm Sơn La, tr.65.

FIRST RECORDS OF MEGOPHRYS MAJOR BOULENGER, 1908 AND QUASIPAA BOULENGERI (GUNTHER, 1889) (AMPHIBIA: ANURA) FROM SOP COP AND COPIA

NATURAL RESERVES Pham Van Anh M.A, Tran Thi Thanh Nga, Pham Thi Hai Faculty of Biology and Chemistry

Abstract: Based on recently collected specimens from Sop Cop and Copia nature reserves, we herein record two rare species of amphibians, namely Megophrys major of Megophrydae and Quasipaa boulengeri of Dicroglossidae. Our results bring additional data of amphibians diversity and morphology.

Keywords: Amphibia, Meghophridae, Dicroglossidae, allocation, Sop Cop, Copia.

Page 183: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

183

NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG TÁI SINH CÂY SẮN (MANIHOT ESCULENTA CRANTZ) THÔNG QUA PHÔI SOMA TỪ LÁ CHƯA TRƯỞNG THÀNH

ThS. Đỗ Hải Lan Khoa Sinh Hóa

Tóm tắt: Tái sinh cây sắn (Manihot esculenta Crantz) thông qua phôi soma từ lá chưa trưởng thành đã được

nghiên cứu. Vật liệu được sử dụng là các mảnh lá chưa trưởng thành của các cây in vitro từ 2-3 tuần tuổi. Phôi soma được cảm ứng tạo thành trên môi trường MS có bổ sung picloram với các nồng độ khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trên môi trường MS bổ sung 12 mg/l picloram, cả hai giống đều cho tỉ lệ hình thành phôi soma cao nhất. Sau 4 tuần, giống KM94 cho tỷ lệ hình thành phôi (81,4 ±1,7%) cao hơn 11,4% so với giống KM140 (70,4 ± 2,9%). Tuy nhiên, khi cụm phôi được chuyển sang môi trường MS có bổ sung 0,3 mg/l BAP để nảy mầm tạo cây con, cho tỷ lệ tạo cây con ở giống KM140 (82,1 ± 3,1%) lại cao hơn với giống KM 94 (79,2 ± 2,3%) nhưng không đáng kể (2,9%). Chồi cây được tạo ra đạt chiều dài khoảng 1,0-1,5 cm được chuyển sang môi trường MS không có chất kích thích sinh trưởng cho tỷ lệ ra rễ đạt 100%, rễ sinh trưởng tốt nhất. Những cây tái sinh in vitro có bộ rễ hoàn chỉnh được trồng trong bầu giá thể trấu hun:đất cát (4:6) đạt tỷ lệ cây sống 100%. Quy trình tạo cây non hoàn chỉnh trong 16-18 tuần là cơ sở quan trọng cho xây dựng quy trình chuyển gene ở cây sắn.

Từ khóa: Cây sắn, nuôi cấy mô, lá chưa trưởng thành, phôi soma, tái sinh.

1. Đặt vấn đề Cây sắn (Manihot esculenta Crantz) là cây có củ được trồng ở vùng cận nhiệt đới của Châu

Phi, Châu Á và Mỹ Latin, đáp ứng nhu cầu lương thực cho 500 triệu người (Thro et al.,1998). Củ sắn có hàm lượng chất khô chiếm 20% trong đó 80% là tinh bột. Mục đích sử dụng sắn khác nhau ở các vùng, ở Châu Phi, sắn được sử dụng chủ yếu làm lương thực, trong khi đó ở Thái Lan, một nửa sản lượng 20 triệu tấn sắn hàng năm được sử dụng cho công nghiệp tinh bột (Sriroth et al., 2001). Với sự phát triển kinh tế, lượng tinh bột cần cho công nghiệp tăng lên ở các quốc gia đang phát triển. Mặc dù các nước nhiệt đới có nguồn tinh bột sắn (hoặc khoai tây, củ cải), nhưng vẫn phải nhập khẩu tinh bột ngô đắt đỏ (Sriroth et al., 2001). Để đủ lượng tinh bột sử dụng, tinh bột phải được biến đổi theo nhiều cách khác nhau. Nếu tinh bột sắn với những đặc tính mong muốn được tạo ra, đây sẽ là nguồn tinh bột cạnh tranh với các nguồn tinh bột khác, người nông dân có thể trồng sắn để tăng thu nhập.

Các công nghệ chuyển gene mới đã mở ra các khả năng tạo ra những giống sắn chất lượng tốt bằng cách kết hợp các tính trạng mong muốn vào một số giống sắn vốn được nông dân ưa thích (Kawano et al., 2003). Chuyển gene thành công phụ thuộc hoàn toàn vào hiệu quả của hệ thống tái sinh. Đến năm 1995, hệ thống tái sinh duy nhất ở cây sắn là kiểu biệt hóa phát sinh phôi soma. Các hệ thống tái sinh cây sắn thông qua quá trình tạo phôi soma đã được cải tiến (Schopke et al., 1996). Đối với bất cứ quá trình vi nhân giống nào, giai đoạn sinh trưởng cũng quyết định hiệu suất của quá trình. Stamp và Henshaw (1982, 1987), đã cảm ứng các thùy lá non (chưa trưởng thành ) 2,4-D để tạo phôi (Tessy Joseph et al., 2001). Thay vì được cảm ứng bằng 2,4-D, mô phân sinh đỉnh và thùy lá chưa trưởng thành được cảm ứng tạo phôi soma sơ cấp bởi picloram (Li et al., 1996; Zhang et al.,2001). Các mảnh lá mầm màu xanh được tách từ phôi giai đoạn lá mầm được đặt lên môi trường P-CIM để cảm ứng phôi soma thứ cấp. Cách cấy chuyển phôi soma đối với phát sinh phôi thứ cấp ảnh hưởng tới hình thái của mô phát sinh phôi (Raemakers et al., 1997). Các phôi soma thứ cấp được chuyển sang môi trường bổ sung NAA hoặc BA để phôi trưởng thành (Tessy Joseph et al., 2001), hoặc có thể bổ sung thêm AgNO3 vào môi trường đã có BA nhằm kéo dài chồi.

Sự cải tiến các giống sắn chuyển gen đều dựa vào sự cải tiến các hệ thống nuôi cấy mô nhằm tạo ra các tế bào và mô làm nguyên liệu chuyển gen. Vật liệu khởi đầu (lá, đỉnh sinh trưởng) được sử

Page 184: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

184

dụng để cảm ứng tạo phôi soma qua tiền phôi sơ cấp. Phôi soma có thể chuyển hóa theo nhiều hướng như phôi soma có thể cho nảy mầm trực tiếp tạo thành cây con, phôi soma chuyển hóa tiếp thành phôi soma thứ cấp, phôi soma được chọn lọc, nuôi cấy tạo thành mô sẹo tiền phôi tơi, được làm trưởng thành để trở lại phôi soma, từ mô sẹo tiền phôi tơi có thể tạo thành tế bào trần và ngược lại. Ở Việt Nam, sự tạo phôi soma và tạo các cơ quan của cây sắn mới chỉ đang được nghiên cứu. Bài báo này trình bày kết quả quá trình xây dựng quy trình chi tiết cảm ứng tạo phôi soma qua lá chưa trưởng thành để tái sinh hai giống sắn KM 140 và KM 94 của Việt Nam. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Nguyên liệu và phương pháp Hai giống sắn KM94 và KM140 có nguồn gốc từ Trung tâm Tài nguyên thực vật, Viện Khoa

học nông nghiệp Việt Nam An Khánh, Hoài Đức, Hà Tây. Đoạn thân trưởng thành của hai giống sắn KM94 và KM140 được giâm trong đất, sau 4-6 tuần,

các chồi nách phát triển thành đoạn thân màu xanh có đường kính 0,1-0,2 cm. Lấy các đoạn thân này cắt thành các đoạn ngắn có độ dài 3-4 cm, sau đó rửa sạch dưới vòi nước 30 phút và bề mặt mẫu cấy được khử trùng trong 70% alcohol trong 30 giây và 0,1% mercuric chloride trong 10 phút, rồi rửa sạch mercuric chloride bằng nước cất khử trùng trong 3 phút, rửa lặp lại 5 lần. Mẫu cấy sau khi đã khử trùng được nuôi cấy trên môi trường Murashigh - Skoog (MS) đặc bổ sung thêm 3% sucrose với mật độ 5 đoạn cắt/bình tam giác 250 ml (50 ml môi trường/bình), cấy chuyển 2 tháng 1 lần. Lá vừa được tạo thành (chưa trưởng thành) của cây con sau 12-14 ngày tuổi được sử dụng làm mẫu cấy. Mẫu cấy được cắt thành các mảnh nhỏ có kích thước 2 × 2 mm được đặt trong đĩa Petri bao gồm 25 ml môi trường MS đặc bổ sung 2% sucrose, 1 mg/l đồng sun phát (2 mM) và picloram ở các nồng độ 1, 3, 6, 9, 12 và 15 mg/l để tạo phôi soma. Mỗi đĩa môi trường đặt 10 mảnh mẫu, 5 đĩa/lần thi nghiệm, lặp lại 3 lần. Đầu tiên, thùy lá được đặt trong tối 1 tuần rồi chuyển ra sáng khoảng 3 tuần để tạo phôi soma sơ cấp. Sau khi phôi soma sơ cấp được tạo thành, việc cấy chuyển lặp lại 2 tuần 1 lần trên cùng môi trường để tạo phôi soma thứ cấp. Phương pháp được mô tả bởi Li et al., (1996). Các lá mầm, được tách từ phôi giai đoạn lá mầm 14-15 ngày tuổi, được cắt thành các mảnh nhỏ có kích thước 2 × 2 mm, đặt lên môi trường MS, 2% sucrose, 1 mg/l đồng sulphate (2 mM), bổ sung BA ở các nồng độ 0; 0,3; 0,6; 0,9; 1,2; 1,5 mg/l trong thời gian 3 đến 4 tuần, đánh giá số phôi tạo thành cây con.

Tạo rễ và ra cây: Các chồi đạt chiều dài từ 1-1,5 cm được cấy chuyển sang môi trường MS 0,2% sucrose có bổ sung IBA với các nồng độ khác nhau (0; 0,3; 0,6; 0,9; 1,2 mg/l) trong thời gian 4 tuần. Cây có bộ rễ hoàn chỉnh được chuyển ra nhà lưới, trồng trên giá thể bao gồm đất cát pha 60% cộng với trấu hun 40%, trong 2 tuần đầu tránh ánh sáng chiếu trực xạ.

Các môi trường sử dụng trong nghiên cứu này được chỉnh pH = 5,8 và bổ sung thêm 7 g/l agar. Khử trùng ở nhiệt độ 121C, áp suất 1,5 atm trong thời gian 15 phút. Nuôi cấy ở nhiệt độ 25 2C, cường độ ánh sáng 3000 lux với thời gian chiếu sáng 16 h/ngày.

2.2. Kết quả và thảo luận 2.1.1. Cảm ứng tạo phôi soma từ lá chưa trưởng thành của cây sắn nuôi cấy in vitro

Vật liệu ban đầu được cảm ứng tạo phôi soma bởi các chất kích thích sinh trưởng thuộc nhóm auxin (2,4 - D, picloram, dicamba) (Stamp & Henshaw, 1987a; Szabados et al., 1987; Mroginsky&Scocchi, 1993; Raemakers et al., 1993a; Li et al., 1995; Narayanaswamy et al.,1995).

Page 185: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

185

Trong nhóm auxin, 2,4D được áp dụng phổ biến nhất để tạo phôi soma. Tạo phôi soma trên môi trường có bổ sung picloram, dicamba cũng đã được báo cáo ở nhiều loài cây khác nhau (Raemakers et al., 1997; Castillo et al., 1998; Groll et al., 2001; Mendoza and Kaepp.ler, 2002; Preeti and Kothari, 2004). Trong nghiên cứu này, phôi soma được tạo ra trên môi trường MS bổ sung picloram với các

nồng độ khác nhau. Lá chưa trưởng thành của hai giống sắn KM94 và KM140 nuôi cấy in vitro được sử dụng để xác định hiệu quả nồng độ picloram trong việc tạo phôi soma. Các mẫu cấy được đặt trên môi trường tạo phôi soma trong vòng 2 tuần, giai đoạn đầu của quá trình tạo phôi (phôi hình cầu) quan sát được ở tuần thứ 3, giai đoạn sau của quá trình tạo phôi (hình chùy) có thể quan sát được ở tuần thứ 4 (hình 1). Kết quả trong bảng 1 cho thấy khả năng tạo phôi soma và số phôi/mẫu trên tất cả các nồng độ picloram được thử nghiệm ở hai giống tương đối cao . Ở cả hai giống sắn, với phạm vi, nồng độ picloram tăng dần từ 1-15mg/l, tỷ lệ tạo phôi soma và số phôi soma/mẫu cấy tăng dần, đều thấp nhất ở nồng độ picloram 1mg/l, đều đạt tỉ lệ cao nhất ở nồng độ 12mg/l. Mặc dù cùng tỉ lệ thuận với nồng độ auxin, hai giá trị này ở KM 94 ở bất kì nồng độ picloram thí nghiệm nào cũng đều cao hơn ở KM 140, đặc biệt là ở nồng độ 12mg/l, KM 94 có giá trị tỷ lệ tạo phôi soma và số phôi soma/mẫu cấy lần lượt là 81,4 ±1,7% và 42,3 ± 3,0 cao hơn KM 140 với hai giá trị lần lượt là 70,4 ± 2,9% và 27,9 ± 2,5, trong đó tỉ lệ tạo phôi soma của KM 94 cao hơn KM 140 là 11% và số phôi trên mẫu cấy cao hơn 14,4. Kết quả này cũng phù hợp với công bố của Zhang và đồng tác giả, 2001, cũng chỉ ra ở nồng picloram 12 mg/l, tỷ lệ tạo phôi và số phôi/mẫu cấy cho kết quả tốt nhất. Danso và đồng tác giả (2010) cho rằng cả hai chất 2,4D và picloram đều cho hiệu quả cao (90-100%) quá trình tạo phôi soma tuy nhiên môi trường có bổ sung picloram quá trình tạo phôi soma nhanh và vượt trội so với môi trường bổ sung 2,4D bởi vì picloram tác động đến thành tế bào và làm giãn tế bào nhanh hơn 2,4D. Tuy nhiên, sự phát triển của phôi được cảm ứng bởi NAA nhanh hơn 2,4-D, dicamba hoặc picloram (Sofiari, 1996).

Bảng 1. Ảnh hưởng của nồng độ picloram tới sự hình thành phôi soma từ đỉnh chồi của hai giống sắn KM94 và KM140 nuôi cấy in vitro. Giá trị phôi/mẫu cấy là tổng số phôi ở các hình dạng như tròn, tim,

cá đuối và lá mầm. Đánh giá được thực hiện sau 4 tuần nuôi cấy trên môi trường MS bổ sung picloram ở các nồng độ khác nhau

Khoảng 3 - 4 tuần sau khi tạo phôi và phôi chín trên môi trường có bổ sung picloram với các nồng độ khác nhau. Để nảy mầm tạo thành các mầm cây hoàn chỉnh, các cụm phôi chín này được chuyển sang môi trường có nồng độ BAP khác nhau (0; 0,3; 0,6; 0,9; 1,2; 1,5 mg/l). Giai đoạn này đóng vai trò quyết định đối với đánh giá hiệu quả của quá trình tái sinh cây, đặc biệt là trong quá trình chuyển

Picloram (mg/l)

KM140 KM94 Tỷ lệ phôi soma

(%) Phôi soma/mẫu cấy Tỷ lệ phôi soma (%) Phôi soma/mẫu cấy

1 23,2 ± 1,2 10,3± 2,1 28,6 ± 2,2 15,3 ± 2,6 3 41,3 ± 1,7 18,4 ± 2,0 49,3 ± 2,0 31,3 ± 2,0 6 56,7 ± 1,9 19,2 ± 1,2 70,3 ± 1,2 37,6 ± 1,8 9 61,5 ± 1,7 21,4 ± 1,5 72,5 ± 1,5 39,6 ± 1,2

12 70,4 ± 2,9 27,9 ± 2,5 81,4 ±1,7 42,3 ± 3,0 15 62,8 ± 1,2 24,2 ± 1,8 77, 8 ± 2,6 31,6 ± 2,0

Page 186: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

186

gene vì nếu tái sinh cây kém trong khi số lượng phôi tạo ra nhiều, gene có chuyển vào mô, phôi được thì tỉ lệ cây chuyển gene cũng rất thấp. Kết quả được thể hiện bảng 2 cho thấy, ở tất cả các nồng độ BAP thí nghiệm, các cụm phôi soma ở cả hai giống KM 140 và KM 94 đều nảy mầm với tỉ lệ tương đối cao. Ngay cả BAP bằng 0 mg/l (môi trường không bổ sung BAP) phôi vẫn nảy mầm vởi tỉ lệ 45,6 ± 0,7 và 51,4 ± 2% lần lượt ở KM 140 và KM 94. Cả hai giống đều đạt tỉ lệ nảy mầm cao nhất ở nồng độ BAP 0,3 mg/l, tuy nhiên giá trị này ở giống KM 140 (82,1 ± 3,1%) cao hơn ở giống KM 94 (79,2 ± 2,3%), sự sai khác về giá trị này ở hai giống hầu như không đáng kể. Giá trị này giảm dần ở cả hai giống khi nồng độ BAP tăng dần từ 0,6 - 1,5 mg/l. 2.1.2. Khả năng tạo rễ và ra cây Sau 3 tuần nuôi cấy để tạo rễ, các chồi cây sắn mới được nảy mầm của hai giống KM94 và KM140 đạt chiều dài từ 1 - 1,5 cm được chuyển sang môi trường MS bổ sung các nồng độ IBA khác nhau (0; 0,3; 0,6; 0,9; 1,2 mg/l). Kết quả cho thấy, ở tất cả các nồng độ thí nghiệm, các chồi đều xuất hiện rễ (tỉ lệ đạt 100%). Tuy nhiên, trên môi trường MS không có chất kích thích sinh trưởng IBA cho khả năng ra rễ nhanh hơn, số lượng rễ từ 3 - 4/mẫu cấy, các công thức bổ sung IBA ra rễ chậm hơn khoảng 1-2 tuần với số lượng rễ ít, kích thước ngắn. Cây sắn tái sinh có số lượng 2-3 rễ và chiều dài từ 6 - 8 cm được chuyển ra trồng trên giá thể trấu hun trộn đất cát với tỉ lệ thể tích 4:6. Trong 2 tuần đầu cây được nuôi trong phòng nuôi cấy với nhiệt độ 27C, cường độ chiếu sáng 1000 - 1500 lux, thời gian chiếu sáng 12 h/ngày. Sau đó, cây con được đưa ra trồng trong nhà lưới, tuần đầu tránh ánh sáng chiếu trực xạ, cung cấp đầy đủ nước. Tỉ lệ cây sống đạt 100%.

Hình 1. Tái sinh cây sắn qua các giai đoạn khác nhau.

A: Mô sẹo phát sinh từ lá chưa trưởng thành; C: Phôi soma đang nảy mầm; B: Mô sẹo đang phân hoá phôi; D: Phôi soma tái sinh thành cây con; E và F: Cây trên môi trường ra rễ; G: Cây trồng trên bầu đất.

F

A B C

D

G

E

Page 187: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

187

3. Kết luận Một hệ thống tái sinh cây sắn hoàn chỉnh thông qua phôi soma từ lá chưa trưởng thành đã được nghiên cứu thành công qua các bước: Cảm ứng tạo phôi soma, nảy mầm phôi, tái sinh, ra rễ và trồng cây trong bầu đất. Lời cảm ơn: Công trình hoàn thành với sự hỗ trợ kinh phí của Phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] B.B. Hankoua, S.Y.C. Ng, I. Fawole, J. Puonti-Kaerlas, M. Pillay & A.G.O.Dixon, 2005. Regeneration of a wide range of African cassava genotypes via shoot organogenesis from cotyledons of maturing somatic embryos and conformity of the field-established regenerants. Plant Cell, Tissue and Organ Culture, Volume 82, Issue 2, pp. 221-231.

[2] C.J.J.M. Raemakers, E. Sofiari, E. Jacobsen & R.G.F. Visser, 1997. Regeneration and transformation of cassava. Euphytica 96, pp. 153–161.

[3] Danso EK, Elegba W, Oduro V, Kpentey P, 2010. Comparative study of 2,4D and picloram on friable embryogenic calli and somatic embryos development in cassava (Malihot esculenta Crantz). International journal of intergrative biology, 10(2), pp. 94-100.

[4] Guohua Ma & Qiusheng Xu, 2002. Induction of somatic embryogenesis and adventitious shoots from immature leaves of cassava. Plant Cell, Tissue and Organ Culture 70, pp. 281–288.

[5] Groll, D.J. Mycock, V.M. Gray & S. Laminski, 2001. Secondary somatic embryogenesis of cassava on picloram supp.lemented media. Plant Cell, Tissue and Organ Culture 65, pp. 201–210.

[6] Kawano K, 2003. Thirty years of cassava breeding for productivity – biological and social factors for success. Crop Science, 43, pp. 1325-1335.

[7] Mycock DJ, Wesley-Smith J and Berjak P, 1995. Cryopreservation of somatic embryos of four species with and without cryoprotectant pre-treatment. Ann Bot 75, pp. 331–336.

[8] Nigel J. Taylor, Munyaradzi V. Masona , Rosa Carcamo, Thao Ho, Christian Schöpke & Claude M. Fauquet, 2001. Production of embryogenic tissues and regeneration of transgenic plants in cassava (Manihot esculenta Crantz). Euphytica 120, pp. 25–34.

[9] Peng Zhang, Salak Phansiri & Johanna Puonti-Kaerlas, 200. Improvement of cassava shoot organogenesis by the use of silver nitrate in vitro. Plant Cell, Tissue and Organ Culture 67, pp. 47–54.

[10] Sofiari E, Raemakers CJJM, Kanju E, Danso K, van Lammeren AM, Jacobsen E & Visser RGF, 1997. Comparison of NAA and 2,4-D induced somatic embryogenesis in Cassava. Plant Cell Tiss Org Cult 50, pp. 45-56.

[11] Taylor NJ, Edwards M, Kiernan RJ, Davey CDM, Blakesley D & Henshaw GG , 1996. Development of friable embryogenic callus and embryogenic suspension culture systems in cassava (Manihot esculenta Crantz). Nat Biotech. 14, pp. 726-730.

[12] Williams EG and Maheswaran G, 1986. Somatic embryogene-sis: factors influencing coordinated behavior of cell as an embryogenic group. Annals of Botany 57, pp. 443-462.

[13] Uzoma Ihemere, Diana Arias-Garzon, Susan Lawrence and Richard Sayre, 2006. Genetic modification of cassava for enhanced starch production. Plant Biotechnology Journal, pp. 453-465.

[14] Zhang P, Phansiri S and Puonti-Kaerlas J, 2001. Improvement of cassava organogenesis by the use of silver nitrate in vitro. Plant Cell, Tiss and Org Cult, pp. 67, pp. 47-54.

Page 188: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

188

THE REGENERATION SYSTEM IN CASSAVA (MANIHOT ESCULENTA CRANTZ) VIA SOMATIC EMBRYOGENESIS FROM IMMATURE LEAVES

Do Hai Lan M.A Faculty of Biology and Chemistry Abstract: The regeneration of cassava (Manihot esculenta Crantz) via somatic embryos has been described. The

explants used were immature leaves isolated from in vitro 2-3-week plants. Somatic embryogenesis was achieved in high frequency by the addition in the induction MS medium of the auxin picloram over a wide range of concentrations. Our results show that the highest rate of somatic embryos formation for both cultivars was obtained by using 12 mg/l picloram supp.lemented to MS media. Although the number of embryos per explant was similar between two cultivars for 4 weeks, the KM94 cultivar gave a higher rate (81,4 ±1,7%) than the KM140 cultivar (70,4 ± 2,9%). Somatic embryos were subsequently transferred onto media (MS supp.lemented with 0.3 mg/l BAP) for the highest frequency of plantlet regeneration (KM140 - 82,1 ± 3,1% and KM94 - 79,2 ± 2,3%). Shoots with the length of about 1.0-1.5 cm were transferred onto free - hormone MS media for 100% of rooting for 2 weeks. Complete plantlets were cultivated on a mixture of rice husk and sand-soil under ratio 4:6 in greenhouse. This protocol required from 16 to 18 weeks and is entirely app.ropriate for mass production of various cassava genotypes and further genetic transformation experiments. Keywords: Callus culture, Manihot esculentum Crantz, apical shoots, somatic embryos, regeneration.

Page 189: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

189

KỸ THUẬT RNA INTERFERENCE (RNAi) VÀ ỨNG DỤNG RNAi TRONG TẠO CÂY DƯA HẤU CHUYỂN GEN KHÁNG VIRUS PRSV

ThS. Nguyễn Thị Thanh Nga Khoa Nông Lâm

Tóm tắt: RNA interference (RNAi) hiện đang được coi là phương pháp có hiệu quả nhất trong việc tạo cây chuyển gen kháng bệnh virus ở thực vật, trong đó có dưa hấu. RNAi là cơ chế bất hoạt gen ở giai đoạn RNA thông qua các RNA ức chế nhỏ siRNA hoặc miRNA. Sự ức chế virus được thực hiện nhờ vào sự bắt cặp bổ sung giữa các miRNA hoặc siRNA với các trình tự nucleotide tương đồng với nó trong genome của virus, vì thế gene tương ứng của virus sẽ bị hệ thống enzyme trong tế bào cắt, dẫn đến không tổng hợp được protein tương ứng. Khi virus không tổng hợp được đầy đủ các protein để phục vụ cho quá trình lắp ráp tạo virus hoàn chỉnh, sự nhân lên của virus trong cây sẽ không thể diễn ra nhờ đó mà kiểm soát được bệnh virus trong cây chuyển gen. Kỹ thuật RNAi đã được chúng tôi ứng dụng thành công trong việc tạo dòng cây dưa hấu chuyển gen kháng virus PRSV. Khi phân tích cây dưa hấu chuyển gen ở thế hệ T0 và T1, chúng tôi nhận thấy cấu trúc RNAi đã hoạt động tốt và được di truyền lại qua các thế hệ dưa hấu chuyển gen.

Từ khóa: Dưa hấu, RNAi, chuyển gen, kháng virus, PRSV.

1. Đặt vấn đề Kỹ thuật RNAi trong kiểm soát bệnh virus hại thực vật: Virus là một trong những nguyên nhân

chủ yếu gây hại nặng nề ở nhiều loài cây trồng. Chiến lược kiểm soát virus ở cây trồng nói chung chủ yếu dựa vào thuốc trừ sâu để tiêu diệt các loại côn trùng truyền bệnh, sử dụng thuốc diệt cỏ để tiêu diệt cỏ dại cũng như các thực vật khác mang mầm bệnh. Tuy nhiên, các phương pháp này chỉ có tác dụng phòng bệnh, khi cây đã bị nhiễm virus thì các phương pháp kiểm soát trên không còn tác dụng. Biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phòng và chống bệnh virus hại thực vật nói chung là tạo ra các giống cây trồng kháng bệnh virus, trong đó chuyển gen đang được coi là phương pháp có hiệu quả nhất để tạo cây trồng kháng virus. Trong các kỹ thuật chuyển gen, RNAi là kỹ thuật đang được quan tâm nghiên cứu để tạo cây chuyển gen kháng virus.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm RNAi RNAi là cơ chế tự nhiên của tế bào sống, làm bất hoạt sự hoạt động của một gen nào đó trong

hoặc sau quá trình phiên mã thông qua cơ chế can thiệp của các RNA nhỏ. Năm 1998, khi Fire và Mello lây nhiễm sợi đôi RNA (double stranded RNA, dsRNA) mã hóa cho một protein cơ bắp vào giun tròn C. elegan (bao gồm cả sợi có nghĩa (sense) và sợi vô nghĩa (antisense)), đã phát hiện cơ chế RNAi. Họ phát hiện khi chỉ tiêm phân tử RNA mã hóa cho protein cơ bắp (sợi có nghĩa) không làm thay đổi hành vi của giun tròn, khi tiêm phân tử RNA đối mã với RNA trên (sợi vô nghĩa) cũng không làm thay đổi gì. Tuy nhiên, khi tiêm đồng thời cả sợi có nghĩa và sợi vô nghĩa thì giun tròn có những cử động lạ, cụ thể là co giật. Các biểu hiện này tương tự như ở những con giun tròn hoàn toàn thiếu gen tổng hợp protein cơ bắp này. Fire và Mello đã giải thích hiện tượng trên là do sợi có nghĩa và sợi vô nghĩa RNA có trình tự nucleotide hoàn toàn bổ sung với nhau nên chúng kết hợp lại với nhau tạo ra RNA sợi đôi, và cho rằng phân tử RNA sợi đôi đó có thể làm bất hoạt gen mang cùng mật mã với chúng. Fire và Mello đã sử dụng thuật ngữ “RNA interference” (RNAi) để đặt tên cho cơ chế này. Khám phá này đã làm sáng tỏ nhiều thí nghiệm tiến hành trước đó, đồng thời đề ra một cơ chế tự nhiên để kiểm soát thông tin di truyền, mở ra một lĩnh vực nghiên cứu mới (Fire et al.., 1998). Nhờ những phát minh quan trọng này, năm 2006 Fire và Mello đã được trao giải thưởng Nobel về Y học.

Page 190: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

190

2.2. Các thành phần quan trọng tham gia vào cơ chế RNAi Enzyme Dicer, enzyme Argonaute, phức hệ RISC (RNA-incluced silencing complex), siRNA

hoặc miRNA. 2.2.1. Cơ chế RNAi Có 3 con đường bất hoạt RNA: (1) bất hoạt gen sau phiên mã (post-transcriptional gene

silencing, PTGS) thông qua siRNA (short interfering RNA); (2) bất hoạt gen sau phiên mã qua con đường tạo ra các miRNA (micro-RNA) trong điều chỉnh biểu hiện gen của tế bào; (3) sự câm gen phiên mã (transcriptional gene silencing - TGS) bằng cách liên kết với quá trình biến đổi nhiễm sắc thể trực tiếp qua siRNA, nó bao gồm sự methyl hóa histone và ADN (Baulcombe, 2004).

2.2.2. Sự ức chế RNA thông qua siRNA Xảy ra ở tế bào chất và là con đường quan trọng trong tế bào thực vật nhiễm virus. Đối với

những virus có genome là ADN, các dsRNA có thể được tạo ra nhờ quá trình phiên mã bổ sung gối nhau (Baulcombe, 2004). Khi dsRNA xuất hiện trong tế bào chất, Dicer - một loại ribonuclease III đặc hiệu cho các dsRNA được hoạt hóa và lập tức cắt những chuỗi kép RNA này thành những đoạn ngắn khoảng 21 - 25 nucleotide, gọi là siRNA (Hannon, 2002). Các chuỗi kép siRNA đi vào phức hệ RISC và được các helicase trong phức hệ RISC cắt các liên kết hydro tách chúng ra làm hai chuỗi đơn, trong đó chỉ có một chuỗi đơn siRNA có đầu 5’ có hoạt lực với Argonaute mới được gắn với phức hệ RISC tạo phức hợp siRNA - RISC (Schwarz et al., 2002,). Phức hợp siRNA-RISC nhận biết các phân tử mRNA của tế bào có trình tự tương đồng với trình tự của chuỗi đơn siRNA. Sau quá trình nhận dạng, các mRNA và siRNA bắt cặp bổ sung với nhau ở đoạn tương đồng, mRNA bị cắt đứt ở khoảng giữa của chuỗi kép siRNA - mRNA tạo thành những đoạn nhỏ khoảng 12 nucleotide từ đầu 3’. Sau khi bị cắt đứt, mRNA bị tiêu hủy bởi các RNA nuclease (hình 1) (Verdel et al., 2004).

2.2.3. Cơ chế ức chế miRNA Ngay sau khi phát hiện ra RNAi, người ta nhanh chóng nhận ra rằng cơ chế này đã tồn tại từ lâu

trong tế bào bởi một hệ thống điều hòa biểu hiện gen gọi là micro-RNA (miRNA). miRNA là một loại RNA nhỏ, kích thước khoảng 21-24 nucleotide, không mã hóa thông tin di truyền, có chức năng chủ yếu là điều khiển âm sau phiên mã vì cặp base có trình tự gần như bổ sung hoàn toàn với mRNA đích (Bartel et al., 2004). Khác với siRNA, miRNA có nguồn gốc từ các mRNA có cấu trúc kẹp tóc được phiên mã từ hệ gen nhân trong khi siRNA thường có nguồn gốc từ mRNA sợi đôi hoặc những cấu trúc kẹp tóc kéo dài được phiên mã từ transposon, ADN virus hoặc ADN ngoài nhiễm sắc thể. Trong nhân tế bào, các phân tử miRNA được tạo ra thông qua quá trình phiên mã từ các gene gọi là các phân tử miRNA nguyên thuỷ (pri-miRNA), các phân tử này có chứa các cấu trúc kẹp tóc (hairpin) và bị cắt bởi enzyme Drosha để tạo thành những sợi pre-miRNA (phân tử tiền microRNA). Các pre-miRNAs sau đó được di chuyển ra ngoài tế bào chất và bị enzyme Dicer cắt thành những đoạn ngắn miRNA sợi đôi (khoảng 21 - 24 nucleotide). Sau đó, các miRNA sợi đôi bị helicase cắt các liên kết hydro tạo ra miRNA sợi đơn, trong đó chỉ có một sợi có đầu 5’ có hoạt lực với Agronaute mới được kết hợp với phức hệ RISC tạo thành phức hợp miRNA-RISC. Ở thực vật, cơ chế tương tác giữa phức hợp miRNA-RISC với mRNA đích sẽ dẫn đến sự tiêu hủy mRNA, từ đó ức chế biểu hiện gen. Tuy nhiên, ở động vật, phức hợp miRNA-RISC thường can thiệp chủ yếu bằng cách cản trở quá trình dịch mã của mRNA (Jones-Rhoades và Bartel, 2004). Mức độ tương đồng của miRNA trong phức hệ RISC với mRNA đích sẽ quyết định đến hiệu quả

Page 191: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

191

bất hoạt quá trình dịch mã của mRNA. Nói chung, mRNA đích sẽ bị tiêu hủy nếu trình tự của nó tương đồng hoàn toàn với trình tự của miRNA. Mặt khác, nếu trình tự của miRNA chỉ cần tương đồng với mRNA đích từ vị trí nucleotide thứ 2 đến 8 tính từ đầu 5’ thì miRNA sẽ liên kết với mRNA đích và ngăn cản sự dịch mã mà không làm tiêu hủy mRNA (Denli et al., 2004) (Hình 1).

Hình 1. Con đường tạo thành RNAi.

Ghi chú: a, b: siRNA; c: miRNA Nguồn: Dykxhoorn et al., 2003

2.2.4. Con đường làm câm gen thứ ba Liên quan tới sự methyl hóa phân tử ADN và sự ức chế phiên mã. Cơ chế ức chế biểu hiện gen

này lần đầu tiên được khám phá trên thực vật, khi cấu trúc đoạn gen chuyển và RNA virus có xu hướng methyl hóa ADN tạo nên trình tự nucleotide đặc hiệu (Jones et al., 2001). Năm 2002, khi nghiên cứu sự nhân đôi của nấm men, Volpe và cs đã quan sát thấy sự hình thành sợi tạp sắc ở xung quanh vùng tâm động được liên kết với siRNA (Volpe et al., 2002). Năm 2003, Zilberman và cs đã phát hiện sự methyl hóa ADN thông qua siRNA trên thực vật được liên kết với biến đổi histone (Zilberman et al., 2003). Một vai trò quan trọng của sự câm gen ở mức độ nhiễm sắc thể là bảo vệ genomee tránh những biến đổi gây ra bởi transposon (Baulcombe, 2004).

Page 192: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

192

2.3. Ứng dụng RNAi trong tạo cây kháng virus Hiện nay, việc tạo cây trồng chuyển gen kháng virus ứng dụng cơ chế gây bất hoạt gen RNAi

đang rất được chú ý nghiên cứu. Năm 1998, Waterhouse và cs đã sử dụng gen mã hóa cho protein xử lý sau dịch mã HC-pro của virus Y khoai tây để kháng lại chính virus đó. Đây là công bố đầu tiên về ứng dụng RNAi trong việc tạo cây trồng chuyển gen kháng virus. Ngay sau đó, kỹ thuật này đã được ứng dụng để tạo ra nhiều loại cây trồng kháng virus khác (Wang et al., 2000; Kalantidis et al., 2002). Trước đây, hầu hết các nghiên cứu chuyển gen RNAi tạo cây kháng virus đều tập trung vào việc bất hoạt gen mã hóa cho protein vỏ của virus (Andika et al., 2005; Park et al., 2005, Xu et al., 2004). Tuy nhiên, tính kháng ở các cây chuyển gen thu được nhanh chóng bị yếu đi và thường không duy trì được tính kháng ở thế hệ sau. Mặt khác, do tính kháng của cây chuyển gen đối với một số dòng virus liên quan mật thiết với độ tương đồng giữa trình tự gen tương ứng của virus đó và đoạn gen được chuyển vào cây, nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng nếu độ tương đồng thấp hơn 90% thì cây chuyển gen không kháng được dòng virus đó. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày nay các nhà khoa học đã chú ý chọn lựa vật liệu di truyền chuyển gen ở nhiều vùng có độ bảo thủ cao trong genome của virus.

Ở Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật chuyển gen RNAi để tạo giống cây trồng kháng bệnh virus. Kết quả ban đầu cho thấy đã tạo được các cây thuốc lá chuyển gen kháng virus khảm dưa chuột (CMV), kháng virus khảm thuốc lá (TMV) và kháng đồng thời cả 2 loại virus này (Chu Hoàng Hà và cs, 2009); Cây đu đủ chuyển gen đa đoạn CP-Nib-HCpro của PRSV; Cây cam Xã Đoài, cam Sành, quýt đường Canh chuyển gen đa đoạn RdRp-CP-p20-p23 của CTV (Chu Hoàng Hà và cs, 2010),… Đây la tiền đề quan trong giúp mơ ra kha năng ưng dung kỹ thuật chuyển gen RNAi trên các loại cây trồng quan trọng khác tại Việt Nam.

2.4. Ứng dụng kỹ thuật RNAi trong tạo cây dưa hấu kháng virus PRSV ở Việt Nam Dưa hấu là cây trồng quan trọng, có giá trị dinh dưỡng và thương mại cao trong họ Bầu bí, được

trồng phổ biến ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong đó quá nửa diện tích được trồng ở vùng Đông Nam Á, Châu Phi, vùng biển Caribê và miền Nam nước Mỹ (Ellul et al., 2007). Ở Việt Nam, Dưa hấu được trồng rất phổ biến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh miền Bắc như Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội, Bắc Giang, Hòa Bình, Bắc Kạn,…

Dưa hấu thường bị nhiễm với nhiều loại bệnh, trong đó có bệnh đốm vòng do PRSV gây ra. Các mô tả về triệu chứng do PRSV gây ra trên cây họ bầu bí cho thấy hầu hết cây trong họ bầu bí nhiễm bệnh đều do PRSV-w gây ra với triệu chứng như khảm loang lổ, biến dạng, hoại tử trên lá, quả và thân (Guner et al., 2002). Các đốm sáng xuất hiện là do hàm lượng diệp lục bị giảm mạnh, dẫn đến giảm khả năng quang hợp và ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Cùng với ZYMV, PRSV-w thường xuyên lây nhiễm vào dưa hấu (đồng thời hoặc riêng lẻ) và lan truyền nhanh chóng thông qua các loài rệp, các vết thương cơ giới, gây ra sự sụt giảm năng suất nghiêm trọng (Ma et al., 2005).

Trong luận án tiến sỹ với tên luận án “Nghiên cứu tạo dòng cây dưa hấu (Citrullus lanatus Thumb.) chuyển gen kháng bệnh đốm vòng do virus PRSV”, chúng tôi đã tiến hành 3 lô thí nghiệm riêng biệt để chuyển cấu trúc RNAi/CP-Nib-Hcpro của PRSV vào 2 giống dưa hấu Việt Nam (F9 Tiểu Long – Thăng Long (D2) và F1 TG938 (L2)), kết quả thu được 2 dòng dưa hấu chuyển gen có khả năng kháng hoàn toàn với virus PRSV, hiệu suất chuyển gen đạt được là 1,81% đối với giống L2 và và

Page 193: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

193

2,47% đối với giống D2, tỷ lệ kháng với PRSV khi tiến hành biotest đạt được tương ứng là 12,5% (D2) và 20,0% (L2), tỷ lệ này cũng gần tương đương với tỷ lệ kháng virus mà Yang và cs (2011) đã công bố (Yang et al., 2011). Khi kiểm tra sự có mặt của gen chuyển và khả năng kháng với PRSV của cây chuyển gen ở thế hệ T1, chúng tôi thu được nhiều dòng cây T1 có đoạn gen chuyển và có khả năng kháng hoàn toàn với PRSV, tỷ lệ kháng hoàn toàn đối với PRSV ở thế hệ T1 đạt được là 42,87% (D2) và 33,33% (L2), tỷ lệ này cao hơn khá nhiều so với ở thế hệ T0. Như vậy, cấu trúc RNAi của chúng tôi đã hoạt động tốt và được di truyền ở dưa hấu chuyển gen thế hệ T0 sang thế hệ T1. Các kết quả này đã chứng minh hiệu quả của kỹ thuật RNAi trong việc tạo cây dưa hấu chuyển gen kháng virus. Cho đến nay, chưa có công trình nào khác về ứng dụng kỹ thuật RNAi trong chuyển gen vào dưa hấu để tạo tính kháng đối với virus ở Việt Nam.

3. Kết luận Chuyển gen bằng kỹ thuật RNAi là phương pháp có hiệu quả, đang rất được quan tâm nghiên

cứu để tạo giống cây trồng có khả năng kháng virus.Ở Việt Nam, kỹ thuật này đã được ứng dụng thành công trên rất nhiều đối tượng thực vật như khoai tây, thuốc lá, cam, bí ngô, đu đủ,… Đối với dưa hấu, chúng tôi cũng đã chuyển thành công cấu trúc RNAi/CP-Nib-HCpro của PRSV vào hai dòng dưa hấu, trong đó có một dòng có nguồn gốc Việt Nam. Các dòng dưa hấu chuyển gen mang cấu trúc RNAi này rất có triển vọng để làm giống trong tương lai. Tuy nhiên, do dưa hấu là loại cây thực phẩm cho con người, do đó rất cần có những nghiên cứu khác để đánh giá mức độ an toàn sinh học của chúng với sức khỏe con người, động vật cũng như đánh giá ảnh hưởng của việc canh tác các giống dưa hấu chuyển gen này đến môi trường sinh thái.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Chu Hoàng Hà, Phạm Thị Vân, Lê Trần Bình, 2009. Tạo cây trồng chuyển gen kháng bệnh virus bằng kỹ thuật RNAi. Báo cáo Hội nghị quốc gia về sinh vật biến đổi gen và quản lý an toàn sinh học, Hà Nội 2009, pp.. 19 - 28.

[2] Chu Hoàng Hà, Lê Trần Bình, Lê Văn Sơn, Nguyễn Chi Mai, Nguyễn Văn Phượng, Đỗ Xuân Đồng, Đặng Thị Hương, Đỗ Đình Ca, Nguyễn Minh Châu, Ngô Vĩnh Viễn, 2010. Báo cáo tổng kết đề tài Nghiên cứu tạo giống cây ăn quả kháng bệnh virus phổ rộng bằng chuyển gen đa đoạn. Chương trình KH & CN trọng điểm cấp nhà nước KC04.

[3] Fire A, Xu S, Montgomery MK, Kostas SA, Driver SE, Mello CC, 1998. Potent DNA specific genetic interference by bouble – stranded RNA in Caenorhabditis elegans. Nature, 139, pp.. 806 - 811

[4] Baulcombe D C, 2004. RNA silencing in plants. Nature 43, 356 - 63. [5] Carmell MA, Xuan Z, Zhang MQ, Hannon GJ, 2002. The Argonaute family: tentacles

that reach into RNAi, developmental control, stem cell maintenance, and tumorigenesis. Genes Dev 16(21), pp.. 2733 - 42.

[6] Hannon, G.J., 2002. RNA interference. Nature 418, pp.. 244 - 251. [7] Schwarz DS, Hutvágner G, Haley B, Zamore PD, 2002. Evidence that siRNAs function

as guides, not primers, in the Drosophila and human RNAi pathways. Mol Cell. 10(3), pp.. 537 - 48. [8] Verdel A, Jia S, Gerber S, Sugiyama T, Gygi S, Grewal SI, Moazed D, 2004. RNAi-

mediated targeting of heterochromatin by the RITS complex. Science. 303(5658), pp.. 672-6. [9] Bartel DP, 2004. MicroRNAs: genomics, biogenesis, mechanism, and function, Cell.

116(2): pp.. 281-97.

Page 194: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

194

[10] Jones - Rhoades MW and Bartel DP, 2004. Computational Identification of Plant MicroRNAs and Their Targets, Including a Stress-Induced miRNA. Molecular Cell, Vol. 14, pp.. 787 - 799

[11] Denli AM, Tops BB, Plasterk RH, Ketting RF, Hannon GJ, 2004. Processing of primary micro RNAs by the Microprocessor complex. Nature. 432(7014), pp.. 231 - 5.

[12] Jones L, Ratcliff F, Baulcombe DC, 2001. RNA - directed transcriptional gene silencing in plants can be inherited independently of the RNA trigger and requires Met1 for maintenance. Curr Biol. 11(10), pp..747 - 57.

[13] Volpe TA, Kidner C, Hall IM, Teng G, Grewal SI, Martienssen RA, 2002. Regulation of heterochromatic silencing and histone H3 lysine-9 methylation by RNAi. Science. 297(5588), pp.. 1833 - 7.

[14] Zilberman D, Cao X, Jacobsen SE, 2003. ARGONAUTE4 control of locus-specific siRNA accumulation and DNA and histone methylation. Science 299, pp.. 716 - 719.

[15] Wang MB, Abbott DC, Waterhouse PM, 2000. A single copy of a virus-derived transgene encoding hairpin RNA gives immunity to barley yellow dwarf virus. Mol Plant Pathol. 1(6), pp.. 347 - 56.

[16] Kalantidis, K., Psaradakis, S., Tabler, M. and Tsagris, M., 2002. The occurrence of CMV-specific short RNAs in transgenic tobacco expressing virus-derived double-stranded RNA is indicative of resistance to the virus. Mol. Plant Microbe Interact. 15, pp.. 826 - 833.

[17] Andika IB, Kondo H, Tamada T, 2005. Evidence that RNA silencing-mediated resistance to beet necrotic yellow vein virus is less effective in roots than in leaves. Mol Plant Microbe Interact 18(3), pp.. 194 - 204.

[18] Ellul P, Lelivelt C, Naval MM, Noguera FJ, Sanchez S, Atarés A, Moreno V, Corella P, and Dirks R, 2007. Watermelon, Transgenic Crops V

[19] Guner N, Strange EB, Wehner TC, Pesic-VanEsbroeck Z, 2002. Methods for screening watermelon for resistance to papaya ringspot virus type-W. Sci Hortic 94, pp.. 297 - 307

[20] Park SM, Lee JS, Jegal S, Jeon BY, Jung M, Park YS, Han SL, Shin YS, Her NH, Lee JH, Lee MY, Ryu KH, Yang SG, Harn CH, 2005. Transgenic watermelon rootstock resistant to CGMMV (Curcumber green mottle mosaic virus) infection. Plant Cell Rep 24, pp.. 350 -3 56.

[21] XU Y, KANG D, SHI Z, SHEN H, WEHNER T, 2004. Inheritance of Resistance to Zucchini Yellow Mosaic Virus and Watermelon Mosaic Virus in Watermelon. Journal of Heredity 2004: 95(6), pp.. 498 - 502.

[22] Ma JB, Yuan YR, Meister G, Pei Y, Tuschl T, Patel DJ, 2005. Structural basis for 5'-end-specific recognition of guide RNA by the A. fulgidus Piwi protein. Nature 434(7033), pp.. 666 - 70.

[23] Yang CF, Yu TA, Chiang CH, Wu HW, Li CM, Chen JH và Yeh SD, 2011. Generation of transgenic watermelon resistant to Zucchini yellow mosaic virus and Papaya ringspot virus type W. Plant cell reports 30(3), pp.. 359 - 71.

RNA INTERFERENCE TECHNIQUE (RNAi) AND APP.LICATION OF RNAi TO

PRODUCE TRANSGENIC WATERMELONS WHICH RESISTANT TO VIRUS PRSV Nguyen Thi Thanh Nga M.A Faculty of Agriculture and Forestry

Abstract: RNAi (RNA interference) is currently considered the most effective method for creating transgenic

plants which resistant to viral diseases in plants, including watermelon. RNAi is gene silencing mechanism in stage RNA through inhibition of small RNA siRNA or miRNA. The inhibition of virus was carried out by pairing complementarity between the miRNA or siRNA with similar nucleotide sequences in the genome of the virus, so gene of the virus will be cut by enzyme in plant cells , correspondence protein will not be done synthesis. When virus do not synthesis all proteins for the viral assembly, the replication of viral in the tree will not take place and virus diseases will be controlled in transgenic plants. We app.lied successfully RNAi for creating transgenic watermelon lines resistant to PRSV virus. Result of analysis transgenic watermelon plants at T0 and T1 generation shows the structure of RNAi works well and is transfered through the generations of transgenic watermelon.

Keywords: Watermelons, RNAi, transgen, resistance to virus, PRSV.

Page 195: Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA

Trường Đại học Tây Bắc Thông tin KH&CN số 1 - 6/2014

195