Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, đào tạo và tư vấn về phát triển đô thị, sau quá trình đàm phán trên tinh thần cộng tác và cởi mở, ngày 23/5/2017, tại Tổng lãnh sự quán Pháp tại TP. Hồ Chí Minh đã long trọng diễn ra Lễ ký kết Biên bản thỏa thuận hợp tác giữa Cơ quan phát triển Pháp (AFD) với Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị (AMC).
Tham dự Lễ ký kết có ông Rémi Genevey- Giám đốc AFD, ông Trần Hữu Hà – Giám đốc AMC, bà Alix Fran-çoise - Trưởng các dự án đô thị tại Ban Phát triển đô thị và Chính quyền địa phương (CLD), đại diện Tổng lãnh sự quán Pháp, đại diện 15 tổ chức, doanh nghiệp tư vấn về lĩnh vực đô thị của Pháp cùng đông đảo các chuyên gia trong và ngoài nước.
Thay mặt cho AFD tại Việt Nam, ông Rémi Genevey đã giới thiệu về Cơ quan Phát triển Pháp tại Việt Nam: Được thành lập từ năm 1994, với sứ mệnh thúc đẩy sự phát triển đô thị bền vững, thân thiện với môi trường, AFD luôn đồng hành cùng Việt Nam trong lĩnh vực tăng trưởng xanh. Hơn 20 năm qua, AFD đã hỗ trợ 80 dự án với tổng số vốn khoảng 1,7 tỷ euro cho 30 triệu người thụ hưởng trên toàn quốc.
Thay mặt AMC, Giám đốc Trần Hữu Hà giới thiệu về sứ mệnh của Học viện thông qua việc xây dựng và triển khai Đề án 1961 (Đề án Đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp). Theo ông Hà, mục tiêu, sứ mệnh của AFD và AMC có nhiều điểm tương đồng và cùng hướng tới mục tiêu phát triển đô thị bền vững. Ông Hà khẳng định, với việc ký kết biên bản thỏa thuận hợp tác, AMC se nỗ lực trong công tác tư vấn và nâng cao năng lực cho lãnh đạo các đô thị Việt Nam để tới đây các đô thị có thể tiếp nhận, quản lý và vận hành một cách hiệu quả các dự án phát triển đô thị mà AFD hỗ trợ.
Mục tiêu hợp tác chính được nêu trong Biên bản thỏa thuận hợp tác bao gồm: Phối hợp tổ chức hội thảo, hội nghị chuyên môn về đô thị; Chia sẻ kiến thức, mạng lưới và tài nguyên trí tuệ như các ấn phẩm, nghiên cứu hoặc các tài liệu khác về lĩnh vực hoạt động của mỗi bên; Hợp tác xây dựng và triển khai các dự án phát triển đô thị xanh và bền vững.
Việc ký kết Biên bản thỏa thuận hợp tác se mở ra nhiều cơ hội và triển vọng hợp tác song phương nhằm đẩy mạnh các hoạt động vì mục tiêu phát triển đô thị bền vững.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO
Lễ ký kết biên bản thỏa thuận hợp tác giữa AMC - AFD
58 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TIN ĐÀO TẠO
TIN ĐÀO TẠO
Nằm trong khuôn khổ hợp tác giữa Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị - AMC với Cơ quan phát triển Pháp
(AFD), tháng 5/2017 tại TP. Hồ Chí Minh, hai bên đã cùng nhau phối hợp tổ chức khai giảng khóa đào tạo “Quy hoạch đầu tư xây dựng đô thị bền vững và tài chính – Khái niệm, nguyên tắc và thực hành”.
Tham dự lễ khai giảng có ông Trần Hữu Hà – Giám đốc AMC, bà Anna Lipchitz - Phó giám đốc AFD Việt Nam, bà Alix Françoise - Trưởng các dự án đô thị tại Ban Phát triển đô thị và Chính quyền địa phương (CLD), ông Hoàng Tùng – Phó Giám đốc Sở Quy hoạch kiến trúc TP. HCM cùng 30 học viên đến từ các Sở Kế hoạch - đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên - môi trường; Quỹ đầu tư phát triển và chính quyền cấp quận của 3 thành phố lớn Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh.
Phát biểu tại Lễ khai mạc khóa học, bà Anna Lipchitz, Phó giám đốc AFD Việt Nam cho rằng “Hiện nay, các đô thị ở Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao tương tự như phần lớn các đô thị ở Châu Á. Thách thức đô thị nảy sinh rất nhiều như vấn đề kiểm soát tăng trưởng, không gian công cộng, giao thông, hòa nhập xã hội, thích ứng với
biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế và các dịch vụ đô thị... Đối mặt với sự tăng trưởng này, làm thế nào để xây dựng cách tiếp cận tổng thể và toàn diện nhằm dung hòa giữa các thách thức của phát triển đô thị? Khóa đào tạo se giới thiệu các công cụ phân tích có tính ứng dụng cao giúp chính quyền địa phương định hướng các dự án đô thị một cách hiệu quả”.
Tại Lễ khai giảng khóa học, ông Trần Hữu Hà – Giám đốc Học viện cho rằng, những khóa học này se giúp cho các đô thị nâng cao năng lực xác định dự án cũng như nắm vững các nguyên tắc và công cụ quản lý dự án về quy hoạch và phát triển đô thị. Ông Hà khẳng định, trong những năm tiếp theo, AMC se đồng hành cùng AFD để triển khai các khóa đào tạo tương tự nhằm nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam.
Khóa đào tạo diễn ra trong 4 ngày, từ ngày 23/5 đến 26/5/2017 với các nội dung chủ yếu về: Các nguyên tắc của quy hoạch đô thị bền vững để lồng ghép vào các quy định, cơ chế và cách làm của địa phương; Đánh giá kỹ thuật và tài chính; phê duyệt và quản lý các dự án quy hoạch đầu tư cải tạo và xây dựng đô thị; Thiết lập các công cụ phân tích dự án quy hoạch đầu tư cải tạo và xây dựng đô thị cho cán bộ thuộc các cơ quan nhà nước.
Tại khóa học, học viên se được chia nhóm để thảo luận và áp dụng các kiến thức đã học để xây dựng một dự án cụ thể. Kết thúc khóa học, học viên se được cấp chứng nhận được ký bở cả hai cơ quan AFD và AMC.
KHÓA ĐÀO TẠO “QUY HOẠCH ĐẦU TƯ XÂY DỰNG ĐÔ THỊ BỀN VỮNG VÀ TÀI CHÍNH - KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC VÀ THỰC HÀNH”
Nhằm cung cấp kiến thức và triển khai hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng, đồng thời giúp các cá nhân, đơn vị cập nhật và trao đổi các kiến thức mới bổ sung, thay thế của Thông tư mới; ngày 19/5/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị phối hợp với Sở Xây dựng Phú Thọ tổ chức Khóa tập huấn các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng tại Phú Thọ.
Tham dự Lễ khai mạc khóa tập huấn có ông Trương Xuân Chí - Phó Giám đốc Sở Xây dựng Phú Thọ; ông Hoàng Thọ Vinh - Nguyên Phó Cục trưởng Cục Quản lý hoạt động xây dựng, Bộ Xây dựng; TS. Hoàng Hải - Trưởng Khoa Quản lý đô thị, Học viện; cùng đông đủ học viên tham gia khóa học.
TẬP HUẤN VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG TẠI PHÚ THỌ
59Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
Nội dung khóa tập huấn bao gồm: Nghị định số 42/2017/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng; Thông tư 16/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 59/2015 ngày 18/6/2015 của Chính Phủ về hình thức tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng; Thông tư 02/2017/
TT-BXD ngày 01/3/2017 của Bộ Xây dựng hướng dẫn về quy hoạch xây dựng nông thôn.
Tập huấn các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng nhằm giúp các cá nhân đơn vị hiểu rõ thêm về nội dung Thông tư, Nghị định của nhà nước để áp dụng vào trong công tác chuyên môn một cách hiệu quả, góp phần cho sự nghiệp phát triển của đơn vị, đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Nhằm trang bị cho học viên những kiến thức nâng cao về công tác đấu thầu để đáp ứng yêu cầu của công việc và đảm bảo chất lượng của công tác đấu thầu ngày một tốt hơn, ngày 22/5/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị tiếp tục phối hợp với Tổng cục Chính trị Công an Nhân dân, Bộ Công an tổ chức khóa “Bồi dưỡng Nghiệp vụ đấu thầu nâng cao” cho các cán bộ của
các phòng ban thuộc Tổng cục Chính trị CAND tại Hà Nội.Chương trình khung Bồi dưỡng Nghiệp vụ đấu thầu
nâng cao được ban hành kèm theo Thông tư số10/2010/TT-BKH ngày13/5/2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, học viên được trao đổi về các kiến thức: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu; Kế hoạch đấu thầu; Lựa chọn nhà thầu đối với gói thầu dịch vụ tư vấn; Lựa chọn
BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ ĐẤU THẦU NÂNG CAO TẠI BỘ CÔNG AN
Ngày 30/5/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị phối hợp với Sở Xây dựng Quảng Ngãi tổ chức khai giảng khóa “Bồi dưỡng quản lý xây dựng và phát triển đô thị - Chương trình 7 theo Đề án 1961” tại tỉnh Quảng Ngãi.
Tham dự Lễ Khai giảng có bà Đào Thị Lệ Thắm - Chánh Thanh tra và ông Nguyễn Việt Cường - Phó Chánh Thanh tra Sở Xây dựng Quảng Ngãi; ông Nguyễn Tiến Dân - Phó Giám đốc Phân viện Miền Trung; Học viện cùng đông đủ gần 40 học viên là Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Kinh tế hạ tầng; Giám đốc, Phó Giám đốc các Ban Quản lý giao thông; Đội trưởng, đội phó đội quy tắc đô thị thuộc các huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Khóa học diễn ra trong 05 ngày (từ ngày 30/5/2017 đến ngày 03/6/2017), học viên được trao đổi, tiếp nhận những nội dung về công tác: Đô thị hóa và định hướng phát triển đô thị quốc gia; quản lý quy hoạch đô thị; quản lý không gian kiến trúc cảnh quan và bảo tồn di sản đô thị; quản lý hạ tầng kỹ thuật - môi trường đô thị; quản lý dự án đầu tư xây dựng; quản lý đất đai, nhà ở và thị trường bất động sản; quản lý trật tự xây dựng đô thị.
Tham gia giảng dạy khóa học là đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn sâu, nhiều năm kinh nghiệm thực tế và có khả năng truyền đạt nội dung bài giảng một cách khoa học, kết hợp với phương pháp giảng dạy tích cực se trang bị cho học viên những kiến thức cần thiết, bổ ích.
Trong quá trình giảng dạy các giảng viên thường xuyên đưa ra nhiều tình huống điển hình khó xử mà các địa phương thường gặp, giúp học viên dễ dàng nắm vững kiến thức và học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ thực tế, nâng cao năng lực quản lý, hiểu sâu rộng hơn về công tác chuyên môn, từ đó giải quyết công việc đạt hiệu quả cao.
Kết thúc khóa học, căn cứ vào quá trình học tập và kết quả bài kiểm tra, học viên đạt yêu cầu của khóa học se được cấp Giấy chứng nhận hoàn thành chương trình “Bồi dưỡng quản lý xây dựng và phát triển đô thị - Chương trình 7 theo Đề án 1961”.
BỒI DƯỠNG QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI
60 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TIN ĐÀO TẠO
TIN ĐÀO TẠO
Cuối tháng 5/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị phối hợp với Trường Cao đẳng Điện lực TP. Hồ Chí Minh tổ chức khóa“Bồi dưỡng Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình” cho cán bộ thuộc các phòng, ban chuyên môn của các Công ty điện lực miền Nam tại TP. Hồ Chí Minh.
Trong thời gian diễn ra khóa học, học viên được trao đổi thảo luận những kiến thức về: Tổng quan quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình (ĐTXDCT); lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng; hợp đồng trong hoạt động xây dựng; quản lý chi phí dự án ĐTXDCT; thanh toán, quyết toán vốn ĐTXDCT; quản lý an toàn lao động, môi trường xây dựng và quản lý rủi ro trong thực hiện dự án ĐTXDCT; quản lý tiến độ của dự án ĐTXDCT; quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Trong quá trình học tập, các học viên có 01 bài kiểm tra, đây là một trong những điều kiện để Hội đồng xét tốt nghiệp của Học viện cấp cho học viên Chứng nhận hoàn thành khoá đào tạo Bồi dưỡng Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình theo quy định của pháp luật.
NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Nhằm từng bước nâng cao trình độ ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng cho đội ngũ cán bộ công nhân viên (CBCNV) của Công ty CP Tư vấn Xây dựng Công trình Vật liệu xây dựng (CCBM), ngày 10/5/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị (AMC) phối hợp với Công ty CCBM đã tổ chức khai giảng khóa học “Tiếng Anh giao tiếp chuyên ngành Xây dựng và Vật liệu xây dựng, trình độ B1 theo Khung Tham chiếu Châu Âu”.
Đến dự lễ Khai giảng khóa học có Ths. Vũ Thị Thanh Hương, Giám đốc Trung Tâm Ngoại ngữ, AMC cùng các giảng viên. Về phía Công ty CCBM có ông Lê Công Hạnh - Chủ tịch HĐQT Công ty, ông Nguyễn Khánh Hà - Tổng Giám đốc cùng các học viên là cán bộ của các phòng ban, trung tâm trực thuộc Công ty.
Tham gia khóa học này học viên se được các giảng viên có nhiều năm kinh nghiệm của Trung tâm Ngoại ngữ AMC trực tiếp truyền đạt các bài giảng tiếng Anh liên quan đến lĩnh vực xây dựng và vật liệu xây dựng, cung cấp các kiến thức nâng cao, chuyên sâu hơn về ngữ pháp, từ vựng và các kỹ năng trong giao tiếp như nghe, nói, kỹ năng thuyết trình… Bên cạnh đó, trong chương trình
học se có các buổi giao lưu giữa học viên với giảng viên và chuyên gia nước ngoài để làm quen với các đối thoại, ngữ điệu, ngôn ngữ cơ thể giúp học viên tiếp thu tốt hơn.
Mục đích của khoá học nhằm giúp cho các CBCNV của Công ty CCBM nâng cao trình độ ngoại ngữ tiếng Anh trong công việc, phục vụ cho công tác giao tiếp, hợp tác quốc tế với các đối tác nước ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế - quốc tế hiện nay. Kết thúc khoá học, học viên được trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết để đáp ứng tốt công việc được giao.
TĂNG CƯỜNG BỒI DƯỠNG TIẾNG ANH GIAO TIẾP CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG VÀ VẬT LIỆU XÂY DỰNG TẠI CCBM
nhà thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hóa; Lựa chọn nhà thầu đối với gói thầu xây lắp. Đặc biệt, tại khóa học, giảng viên se tư vấn và nhiều bài tập tình huống mà học viên thường gặp trong công việc chuyên môn hàng ngày; hướng dẫn, giải đáp tất cả các câu hỏi, thắc mắc của học viên. Cuối khóa học, học viên se làm bài kiểm tra và được cấp chứng chỉ đấu thầu nâng cao theo đúng quy định của pháp luật.
61Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
TĂNG CƯỜNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG TRÌNH XANH
Sau 10 năm thâm nhập vào thị trường xây dựng Việt Nam, đến nay mới chỉ có 60 công trình được nhận chứng chỉ xanh bền vững, một con số quá khiêm tốn so với tốc độ phát triển của các công trình xây dựng tại Việt Nam. Đây là thông tin đáng chú ý tại hội thảo Khởi động chương trình phát triển công trình xanh do Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (VN-REA) tổ chức mới đây tại Hà Nội.
Hiểu sai lệch về công trình xanhTheo thống kê của Hội đồng
công trình xanh Việt Nam (VGBC), tính đến tháng 10/2016 tại Việt Nam có khoảng 61 công trình xanh ở các giai đoạn khác nhau (trong đó có 36 dự án theo chứng nhận LEED (Hội đồng Công trình Xanh Hoa Kỳ – USGBC), 13 dự án theo chứng nhận LOTUS (Hội đồng Công trình Xanh Việt Nam – VGBC) và khoảng 12 dự án theo chứng nhận Green Mark (Bộ Xây dựng Singapore – BCA). Trong khi ở Singapore con số này là hơn 2.100 dự án (theo chứng nhận Green Mark); ở Ôxtraylia là hơn 750 dự án (theo chứng nhận Green Star). Ông Nguyễn Trần Nam - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam thừa nhận,
phong trào phát triển công trình xanh ở Việt Nam mới đi những bước đầu tiên, chưa có nhiều hoạt động thực sự hiệu quả và chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của xã hội.
Trong lĩnh vực bất động sản, khái niệm về Công trình Xanh hay Kiến trúc xanh cũng đang trở nên quen thuộc và được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên khái niệm về công trình xanh vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và quan điểm riêng. Ông Trịnh Tùng Bách - Quản lý phát triển Công trình Xanh Tập đoàn Capital House cho biết, tại Việt Nam, đại đa số chủ đầu tư, người mua nhà, các sàn giao dịch bất động sản… cũng hiểu khá sai lệch khái niệm Công trình Xanh. Cách hiểu sai thứ nhất là hiểu Công trình Xanh chỉ đơn giản là nhiều cây xanh. “Nhiều cây xanh không phải sai, nhưng nó chỉ là một trong những yếu tố góp phần Xanh hoá công trình. Cây xanh đem lại bóng mát và bầu không khí trong lành, có tác dụng rất lớn trong việc điều hoà không khí trong không gian công trình. Tuy nhiên “Xanh” không chỉ đơn giản là như vậy” - ông Bách cho biết. Cách hiểu sai thứ hai là Công
trình Xanh vô cùng đắt đỏ và chỉ có những toà nhà hạng sang mới có khả năng đạt chuẩn Công trình Xanh. Rất nhiều nhà đầu tư nghĩ rằng công trình Xanh se có mức chi phí cao hơn 10-30% công trình thường. Điều này là một rào cản không nhỏ cho việc Xanh hoá các công trình tại Việt Nam. Ông Bách dẫn chứng, chương trình Năng lượng sạch USAID Việt Nam đưa số liệu: Công trình Xanh có thể tiết kiệm 50% tiêu thụ năng lượng so với thiết kế ban đầu mà không làm tăng chi phí. Lợi ích rõ ràng nhất của Công trình Xanh là giảm chi phí vận hành (thường chiếm hơn 80% chi phí đầu tư). Qua đó, làm tăng giá trị tài sản, mức hoàn vốn đầu tư nhanh, hấp dẫn khách hàng.
Còn nhiều rào cảnHiện nay, Chính phủ, các nhà đầu
tư, các cơ quan nghiên cứu khoa học đều đã quan tâm đến công trình xanh hướng tới mục tiêu sử dụng năng lượng hiệu quả, bảo vệ môi trường, góp phần chống biến đổi khí hậu. Cụ thể, Chính phủ đã cho thành lập Trung tâm Tiết kiệm năng lượng (ECC) để hỗ trợ, tư vấn về tiết kiệm năng lượng cho các công trình hiện hữu cũng như xây mới. Bộ Xây dựng đã ban hành các quy chuẩn xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả, giảm phát thải ra môi trường. Bộ Tài nguyên Môi trường và các bộ ngành liên quan công bố tiêu chuẩn quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, tập trung vào các vấn đề hạn chế và đi đến chấm dứt phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, gia tăng sử dụng năng lượng tái tạo.
Việt Nam đang tận dụng sự phong phú của các nguồn năng lượng tái tạo bằng những cam kết phát triển công nghệ xanh. Năm 2011, Việt Nam đã hợp tác với Đan Mạch nhằm nâng cao kiến thức và phát triển công nghệ xanh để đối phó với biến đổi khí hậu. “Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa có chính sách
62 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH CHUNG THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
khuyến khích đầu tư Công trình Xanh một cách cụ thể tại thị trường Việt Nam. Các ban ngành chức năng cũng chưa hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng tương xứng với tiêu chí xanh phù hợp với điều kiện phát triển thực tiễn tại nước ta hiện nay. Điều này không tạo nên một tiền đề cho các Sở, Ban ngành địa phương sử dụng để đưa vào những chính sách khuyến khích hợp lý. Đây thực sự là rào cản đề các cơ quan nhà nước có các ưu đãi phù hợp với các công trình được thiết kế và xây dựng Xanh. Mặc dù vậy đội ngũ chuyên gia trong và ngoài nước vẫn đang có những nỗ lực to lớn cùng với Bộ Xây dựng kiện toàn việc này, sớm có những khuyến khích cho các chủ đầu tư về Công trình Xanh” – ông Bách cho biết.
Để thúc đẩy phát triển những Công trình Xanh trong phân khúc nhà ở giá thấp và trung bình, ông Bách đề xuất Nhà nước cần kiến thiết những chương trình hỗ trợ ít nhất 20 năm, với các nội dung cụ thể từ tín dụng, từ quỹ đất, từ ưu đãi cho nhà phát triển… Về dài hạn, cần thành lập Ủy ban hoặc Hội đồng nhà ở, theo mô hình công ty, với sự tham gia của đại diện Ngân hàng Chính sách Xã hội, đại diện các bộ, ngành liên quan, doanh nghiệp và vận hành theo quy luật của thị trường.
Tại Hội thảo, các đại biểu là các chuyên gia, các nhà quản lý đều chung nhận định rằng, trong những năm qua, các hoạt động sản xuất phát triển kinh tế đã bộc lộ mặt trái làm cho môi trường ô nhiễm, thiên
nhiên suy thoái, gây ra biến đổi khí hậu, đe dọa sự sinh tồn của nhân loại trên thế giới. Các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu đã tăng hiệu quả sử dụng năng lượng trong quá trình sản xuất, xây dựng, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo. Đối với ngành Xây dựng, phát triển Công trình Xanh được xem là một giải pháp công nghệ góp phần giải quyết bài toán năng lượng, môi trường, tăng tính thẩm mỹ cho công trình. Không ngoài xu hướng đó, ở Việt Nam, Công trình Xanh ngày càng phát triển mạnh me, chủ đầu tư cũng nhận thấy lợi ích khi phát triển Công trình Xanh, mang lại những giá trị tốt đẹp cho cả chủ đầu tư và người sử dụng.
Thủ tướng Chính phủ đồng ý về chủ trương việc điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng và giao UBND thành phố Đà Nẵng nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các cơ quan, phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện việc lập và trình phê duyệt Nhiệm vụ và đồ án điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng theo đúng quy định pháp luật về quy hoạch xây dựng, bảo đảm đồng bộ với các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, văn hóa xã hội,... của đồ án điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng.
Bộ Xây dựng tổ chức thẩm định Nhiệm vụ và đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo quy định pháp luật về quy hoạch xây dựng. Trước đó, điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2357/QĐ-TTg ngày 4/12/2013. Nhưng theo UBND thành phố Đà Nẵng, quy hoạch chung thành phố
Đà Nẵng cần thay đổi để hợp với bối cảnh hiện nay.
Về phát triển kinh tế-xã hội, định hướng phát triển cần có sự điều chỉnh theo hướng: “Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”, cụ thể tập trung ưu tiên phát triển dịch vụ du lịch, thương mại, khẳng định vai trò mũi nhọn kinh tế; chú trọng công nghiệp công nghệ cao để mang lại giá trị gia tăng lớn; đẩy mạnh nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Đối với các khu công nghiệp tại Đà Nẵng đã cơ bản lấp đầy nhưng cần hình thành thêm các khu công nghiệp mới.
Về phát triển hạ tầng đô thị, đã có nhiều phát sinh mới cần có sự điều chỉnh: Sân bay quốc tế Đà Nẵng được thiết kế với công suất phục vụ đến năm 2020 là 6 triệu lượt khách/năm, tuy nhiên đến nay đã đạt đến chỉ tiêu này. Dự án mở rộng nhà ga hành khách quốc tế đang được triển khai gấp rút để phục vụ Hội nghị cấp cao APEC 2017, quy mô đạt mức tương đương 10 triệu lượt khách/năm. Mục tiêu đến năm 2030 đạt công suất 20 triệu lượt khách/năm.
63Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁO GỠ VƯỚNG MẮC TRONG CẤP PHÉP XÂY DỰNG
UBND TP đã giao Sở Quy hoạch - Kiến trúc tiếp tục phối hợp với UBND quận-huyện đánh giá việc thực hiện quy hoạch hiện nay của các địa phương. Thành phố cũng đề xuất điều chỉnh những khu vực quy hoạch không khả thi, còn vướng mắc ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân tại khu vực thuộc các đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 trên địa bàn TP.
Sở Tài nguyên và Môi trường se đề xuất việc bồi thường, hỗ trợ đối với các trường hợp cấp phép xây dựng có thời hạn vào dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND ngày 15/5/2015 của UBND TP về ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP.
Ngoài ra, để tháo gỡ vướng mắc cho người dân trong khu vực có chức năng quy hoạch là đất hỗn hợp, đất dân cư xây dựng mới, UBND TP se
điều chỉnh Quyết định số 27/2014/QĐ-UBND ngày 4/8/2014 về cấp giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng trên địa bàn TP.
ECOPARK ĐẠT GIẢI THƯỞNG BẤT ĐỘNG SẢN QUỐC TẾ TRONG 6 NĂM LIÊN TIẾP
Vừa qua, tại Bangkok, Ecopark vinh dự nhận 2 giải thưởng Bất động sản quốc tế do International Property Awards (IPA) trao tặng. Đồng thời, chủ đầu tư Ecopark cũng được BCI Asia xướng tên trong danh sách Top 10 chủ đầu tư hàng đầu Việt Nam năm 2017.
Trải qua 12 tháng đánh giá nghiêm ngặt của Hội đồng gồm hơn 90 giám khảo quốc tế tại giải thưởng Bất động sản Quốc tế (International Property Awards - IPA) năm nay, đồng thời vượt qua một loạt các đề cử tên tuổi, khu đô thị Ecopark của Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị Việt Hưng (VIHAJICO) đã giành giải tại hạng mục Khu đô thị phức hợp hàng đầu Việt Nam (Mixed – Use
Development 2017) và Dự án phát triển BĐS hàng đầu VN cho phân khu Aqua Bay – Ecopark (Residential Development 2017).
Hội tụ hàng loạt các ưu điểm vượt trội về kiến trúc và lối quy hoạch thông minh, đề cao sự sáng tạo, hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ - tiện ích phong phú và hiện đại cho cư dân, Ecopark trở thành mô hình kiểu mẫu trong danh sách các dự án đẳng cấp khu vực. Quy hoạch tổng thể khu đô thị 500ha đến thiết kế chi tiết từng hạng mục dự án nhà ở tại Ecopark đều được thực hiện chặt che và khoa học, với sự tham gia cố vấn và hợp tác của các hội đồng chuyên gia uy tín, đầu ngành trong nước và quốc tế. Ở Ecopark, tỷ lệ cây xanh
hiện ở mức 125 cây trên đầu người, cây xanh mặt nước chiếm 20% tổng diện tích, từng diện tích đất ở, giao thông, các khu thương mại, văn hóa, trường học,… được thiết kế hài hòa, đảm bảo được những yếu tố cần và đủ cho một khu đô thị phức hợp bền vững.
Năm 2015, giải thuởng IPA này cũng đã trao danh hiệu “Khu đô thị có thiết kế cảnh quan đẹp nhất thế giới” cho Ecopark, và hiện Ecopark vẫn là đơn vị duy nhất tại Việt Nam đạt được danh hiệu này. Việc đoạt được giải IPA trong nhiều năm liên tiếp đang chứng tỏ vị thế tiên phong dẫn dắt thị trường và phát triển bền vững của khu đô thị sinh thái Ecopark.
64 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Đồng thời, tại TP. HCM, VIHAJICO được vinh danh trong danh sách Top 10 Chủ đầu tư hàng đầu Việt Nam năm 2017 tại Lễ trao giải BCI Asia Top Ten với các dự án khu căn hộ West Bay, khu biệt thự Mimosa và khu nhà phố Thảo Nguyên. Hệ thống giải BCI Asia là một trong những giải thưởng danh giá nhất của ngành Xây dựng - kiến trúc tại khu vực châu Á được tổ chức thường niên trong suốt 13 năm qua. Chia sẻ về việc liên tiếp nhận được các giải thưởng bất động sản quốc tế trong nửa đầu năm 2017, ông Nguyễn Dũng Minh - Phó Tổng Giám đốc VIHAJICO cho biết: “Phát triển cân bằng và tối ưu hóa được cả yếu tố sinh thái (ecology) và yếu tố kinh tế (economy) là câu chuyện chúng tôi đang rất chú trọng trong
10 năm nay. Chúng tôi đang nhận được rất nhiều phản hồi tích cực từ khách hàng, cư dân, đối tác trong và ngoài nước cũng như các chuyên gia hàng đầu về các dự án của mình. Mới đây, trong khuôn khổ Hội nghị các quan chức cao cấp lần thứ 2 (SOM2) của APEC 2017 với chủ đề đối thoại về Đô thị hoá bền vững, Ecopark cũng được đề cập như là một biểu tượng kiểu mẫu của các KĐT Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Điều này càng truyền cảm hứng và thúc đẩy chúng tôi tiến xa hơn nữa trong các dự án mới”.
Giải thưởng Bất động sản Quốc tế (International Property Awards), ra đời từ năm 1995, là một trong những giải thưởng bất động sản thường niên uy tín bậc nhất thế giới với bề dày hoạt động gần 20 năm.
International Property Awards luôn được coi là bảo chứng chất lượng xuất sắc trong lĩnh vực bất động sản toàn cầu.
Giải thưởng BCI Asia Top 10 công nhận những chủ đầu tư và công ty kiến trúc đã xây dựng và thiết kế những công trình có giá trị lớn nhất tại 07 thị trường trong nước và khu vực. Năm 2017 là năm thứ 13 BCI Asia vinh danh những đơn vị dẫn đầu trong ngành thiết kế và xây dựng. Đây là giải thưởng danh giá nhất của ngành Xây dựng trong khu vực, đồng thời được xem như một diễn đàn giao lưu trong nước và quốc tế giữa các công ty kiến trúc, chủ đầu tư, nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ ưu tú.
65Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
66 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TIN QUỐC TẾ
Phóng viên TTXVN tại Seoul dẫn các nguồn tin sở tại ngày 6/4 cho biết Đại học Anyang trong năm nay sẽ chuyển giao công nghệ xây dựng thành phố xanh thông minh cho Việt Nam thông qua hình thức đào tạo đội ngũ cán bộ cấp cao.
Để chuyển giao công nghệ phát triển quy hoạch đô thị, Đại học Anyang đã đặt hàng với Cơ quan hợp tác
quốc tế Hàn Quốc (KOICA) để mời các quan chức cấp cao Việt Nam tham gia khóa đào tạo về “Dự án xây dựng hệ thống hỗ trợ quyết định quy hoạch đô thị (GDSS) xanh Việt Nam” với các nội dung về hệ thống hỗ trợ quyết định quy hoạch, đề án tổng thể quy hoạch đô thị, chuyển giao cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thông tin đô thị xanh, xây dựng quy chế và pháp luật, quy chế; xây dựng khái niệm và chỉ số của “Thành phố xanh.”
Từ ngày 3-7/4, đoàn quan chức gồm 5 người phụ trách quy hoạch đô thị của Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Xây dựng Phan Thị Mỹ Linh dẫn đầu đã tới thăm Hàn Quốc để thực hiện dự án trên. Trong thời gian thăm Hàn Quốc, đoàn đã tới thăm trung tâm điều khiển tích hợp U-City của thành phố Anyang, trung tâm năng lượng tái tạo Seoul, trung tâm hành chính mới Sejong và có cuộc gặp với các quan chức Bộ Đất đai, Hạ tầng và Giao thông của Hàn Quốc.
Theo TTXVN
HÀN QUỐC CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG THÀNH PHỐ THÔNG MINH CHO VIỆT NAM
HIỂM HỌA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐÁNG SỢ HƠN CẢ DỊCH BỆNH VÀ CHIẾN TRANH
Trước những hậu quả nặng nề có thể thấy rõ của tình trạng biến đổi khí hậu, ngày nay đa số người dân đều coi biến đổi khí hậu là thảm họa toàn cầu ẩn chứa nhiều mối nguy hơn cả thảm họa về bệnh dịch, dân số tăng, sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt hay trí tuệ nhân tạo.
Do đó, có nhiều ý kiến bày tỏ con người sẵn sàng tạo ra sự thay đổi trong các hoạt động sống thường nhật nếu điều đó có thể ngăn chặn thảm họa biến đổi khí hậu trong tương lai. Đây là nội dung được đề cập trong bản báo cáo “Global Catastrophic Risks 2017” (tạm dịch: Những nguy cơ thảm họa toàn cầu 2017) do quỹ Global Challenges Foundation công bố ngày 24/5. Nội dung báo cáo này dựa trên kết quả khảo sát tại 8 nước gồm Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Anh, Australia, Brazil, Nam Phi và Đức với sự tham gia của 8.000 người. Có tới 84% người được hỏi cho rằng biến đổi khí hậu toàn cầu là mối nguy hại toàn cầu, chỉ kém một chút so với các thảm họa môi trường lớn và nguy cơ chiến tranh bùng phát từ tình trạng bạo lực mang động cơ chính trị. Gần 9 trong 10 người được hỏi cho biết họ sẵn sàng tạo ra sự thay đổi trong hoạt động thường nhật nếu việc làm này có thể ngăn chặn thảm họa về khí hậu trong tương lai. Phó Chủ tịch Global Challenges Foundation, ông Mats Andersson nhận định có một khoảng cách rất lớn giữa những điều mà người dân mong đợi và những điều các chính trị gia đang làm.Có 85% ý kiến cho rằng Liên Hợp Quốc cần có những
67Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
TIN QUỐC TẾ
chính sách cải tổ để được trang bị tốt hơn nhằm đối phó với những mối đe dọa toàn cầu. Có 70% ý kiến cho rằng đã đến lúc thành lập một tổ chức toàn cầu mới có quyền lực thi hành các quyết định liên quan đến việc giải quyết một loạt hiểm họa toàn cầu. Báo cáo được công bố vào thời điểm Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) chuẩn bị nhóm họp trong tuần này tại Italy với sự tham dự của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Dự kiến, tại hội nghị này, Tổng thống Mỹ se đưa
ra quyết định về tương lai Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu có sự tham gia của Mỹ hay không. Được thành lập năm 2012, đặt trụ sở tại Thụy Sĩ, Global Challenges Foundation là một tổ chức luôn tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu xử lý những vấn đề xuyên biên giới và cách thức giải quyết sự mâu thuẫn giữa các vấn đề phát triển mang tính dài hạn với các mục tiêu mang tính chính trị và thị trường ngắn hạn.
Theo (TTXVN/Vietnam)
CÁC CÔNG TY CỦA DUBAI MUỐN KÉO NÚI BĂNG TỪ NAM CỰC ĐỂ LẤY NƯỚC NGỌT
Khi nhiệt độ toàn cầu đã tăng lên do nhiệt độ trái đất đang tăng lên, các tảng băng và sông băng đang tiếp tục tan chảy với tốc độ ngày càng nhanh. Mặc dù thực tế này không gây nhiều bất ngờ. Nhưng đây được xem là tin tức tích cực từ UAE (Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất)dựa trên Văn phòng cố vấn quốc gia. Các công ty của nước Dubai đang tìm cách thu hoạch các tảng băng từ phía Nam của Ấn Độ Dương và kéo chúng đi 5.700 dặm (9.200 km) tới vùng Vịnh, nơi mà họ có thể nấu chảy và bán cho các doanh nghiệp địa phương hoặc một số thị trường như là một cách thức thu hút khách du lịch. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Dubai này cũng đang gặp phải rất nhiều thách thức với tham vọng của mình mà trong đó là sự phản đối của các nhà hoạt động môi trường. Theo báo cáo từ Phys.org, để hoàn thành nhiệm vụ khai thác các tảng băng trôi, doanh nghiệp này se phải đưa các tàu tới Đảo Heard, một khu vực bảo tồn thiên nhiên của Úc và cân đối giữa các tảng băng khổng lồ với quy mô của các đô thị để tìm kiếm các bể chứa có kích thước bằng xe tải. Sau đó, những tảng băng nhỏ này se được gắn chặt với thuyền, lưới và được kéo đi hàng nghìn dặm tới
nơi tập kết như mong muốn. Giám đốc điều hành của công ty, Abdullah al-Shehi, tin rằng các tảng băng trôi se không tan chảy đáng kể trong suốt chuyến đi vì phần lớn khối băng nằm dưới nước. Al-Shehi vui mừng mong chờ sự vận chuyển thành công một tảng băng trôi có khả năng giữ 20 tỷ gallon nước ngọt tới vùng Vịnh. Nếu được cấp giấy phép, nước se bắt đầu được thu hoạch
vào năm 2019. Dự án ước tính đầu tư ban đầu là 500 triệu đô la. Tuy nhiên, các
công ty này đang gặp phải nhiều sự phản đối. Các nhà môi trường
không ủng hộ kế hoạch này, vì họ cho rằng có một phương
pháp đơn giản hơn để giải quyết vấn đề là thay đổi khí hậu ở Trung Đông như tưới nước nhỏ giọt, sửa chữa sự rò rỉ nước và bảo tồn nguồn nước. Hoda Baraka,
người phát ngôn của nhóm vận động chống làm biến đổi
khí hậu 350.org, nói, “Khu vực Trung Đông này là trung tâm của
ngành công nghiệp dầu mỏ toàn cầu, do vậy đây là nơi đầu tiên phải hứng
chịu những cơn nóng giận khổng lồ và chỉ có một cách để tránh điều này xảy ra là giảm phát thải và giữ tất cả các nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất. “
DÂN SỐ TRÊN TRÁI ĐẤT ĐẠT 7.5 TỶ NGƯỜI
Theo Số liệu từ cơ quan nghiên cứu dân số Thế giới, hơn 7,5 tỷ người hiện đang sinh sống trên trái đất. Nhưng nhiều người có thể ít được tiếp cận với nguồn tài nguyên như lương thực và năng lượng. Dân số toàn cầu là 7,5 tỷ người có ảnh hưởng sâu rộng trong đó bao gồm phát thải
hiệu ứng nhà kính, căng thẳng về cung cấp thực phẩm cũng như sự tăng tổng tiêu dùng.
Theo đánh giá của cơ quan này, sự gia tăng dân số có thể khiến một số quốc gia đói nghèo, và điều này se thu hẹp diện tích đất đai cần thiết cho cuộc sống của động
68 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TIN QUỐC TẾ
ĐỨC ĐẠT KỶ LỤC BẰNG VIỆC TẠO RA 85% NĂNG LƯỢNG TỪ CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
Đức đã đạt được thành tích đáng nể khi nói đến vấn đề năng lượng sạch. Từ ngày 30/4/2017 đến ngày 1/5/2017, quốc gia này lập một kỷ lục quốc gia với việc tạo ra 85% nhu cầu năng lượng từ nguồn năng lượng sạch như: Năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học và thủy điện. Và điều này không có gì ngạc nhiên vì các chuyên gia tin rằng kết quả này se là một điều bình thường diễn ra tại Đức vào năm 2030.
Hầu hết các nhà máy điện đốt than của Đức đều không hoạt động vào ngày chủ nhật và các nguồn năng lượng tái tạo chiếm 85% điện trên toàn quốc. Các nguồn năng lượng hạt nhân, dự kiến se được loại bỏ hoàn toàn vào năm 2022. Kết quả này là do Đức đã chú trọng đầu tư
vào các nguồn năng lượng xanh và sạch trong thời gian vừa qua.
Theo Inhabitat
CÁC NHÀ KHOA HỌC CHO BIẾT 4,4 TỶ NĂM TRƯỚC TRÁI ĐẤT KHÔNG CÓ NÚI VÀ ĐƯỢC BAO PHỦ BỞI NƯỚC
Những tinh thể zircon nhỏ bé đã cho phép các nhà khoa học thuộc Đại học Quốc gia Úc (ANU) ve lên một bức chân dung về Trái đất cách đây hơn bốn tỷ năm. Việc
nghiên cứu đối với những hạt khoáng chất - những mảnh vỡ lâu đời nhất của hành tinh mà chúng ta đã phát hiện ra - đã khiến họ nghĩ rằng thế giới của chúng ta trước đây
vật hoang dã. Lãnh đạo Chiến dịch về quyền con người và loài vật Alistair Currie đã phát biểu: “Chúng ta se chứng kiến sự cạnh tranh khốc liệt khi các nguồn lực bị thu hẹp, bao gồm không chỉ đối với các nhiên liệu hoá thạch mà còn là đất sản xuất và nước, giá cả leo thang không chỉ đối với người tiêu dùng mà còn đối với các doanh nghiệp và ngành công nghiệp cần đến những nguồn tài nguyên này. Các thị trường tiềm năng lớn như nhiều tiểu vùng Sahara Châu Phi se bị chìm trong cảnh đói nghèo và chúng ta se chứng kiến sự bất ổn về chính trị phát sinh từ áp lực về dân số và di cư, bao gồm xung đột về nguồn tài nguyên. “
Trung Quốc là quốc gia có đông dân nhất với 1,38 tỷ người. Ấn Độ đứng thứ hai với 1,34 tỷ người, tiếp theo là Hoa Kỳ với 326 triệu người. Liên Hợp Quốc cho rằng dân số toàn cầu của chúng ta se đạt tới 10 tỷ người vào năm 2056.
Currie cảnh báo rằng mặc dù các doanh nghiệp có thể thấy dân số toàn cầu gia tăng là cơ hội để có được nhiều khách hàng hơn nhưng sự tăng trưởng quá mức se không tốt cho hành tinh cũng như việc kinh doanh. Ông nói, “Tăng trưởng không thể tiếp tục vô hạn trên một
hành tinh hữu hạn và ít người tiêu dùng cuối cùng se tốt hơn cho tất cả chúng ta. Doanh nghiệp cũng phải bắt đầu nhận ra và thích ứng với thực tế đó. Hành động ngay bây giờ, chúng ta có thể hạn chế được sự tăng trưởng dân số và cuối cùng đạt được sự phát triển bền vững. “
Chúng ta hiện đang sử dụng 1.6 nguồn lực của Trái Đất, và điều này dẫn đến chúng ta se cần đến 3 trái đất vào năm 2050 trừ khi ngay bây giờ chúng ta có thể thay đổi mô hình tiêu dùng của mình.
Theo Inhabitat
69Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
TIN QUỐC TẾ
TRANG TRẠI NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI NỔI LỚN NHẤT THẾ GIỚI
Một trang trại năng lượng mặt trời 40MW ở tỉnh An Huy, Trung Quốc đã được đưa vào sử dụng để tạo ra năng lượng tái tạo. Trang trại này có quy mô lớn hơn các trang trại nổi ở Australia và Ấn Độ, khối lượng các tấm pin năng lượng mặt trời ở đây lớn nhất trên thế giới và có thể sản xuất đủ năng lượng sạch cung cấp cho dân cư trong khu vực.
Thành phố Hải Nam được biết đến là vùng đất giàu than đá. Chính phủ Trung Quốc đã quyết định đầu tư vào việc xây dựng một trang trại năng lượng mặt trời nổi bởi khu vực này rất dễ gặp lũ lụt do mưa lớn. Ở một số khu vực, nước có thể sâu từ 4-10m.
Không khí mát mẻ hơn giúp giảm tối đa nguy cơ các tấm pin mặt trời quá nóng khiến hiệu suất giảm. Theo báo cáo của Daily Commercial News, các tấm pin được kết nối với bộ biến tần trung tâm và hộp kết hợp. Các thiết bị này
được cung cấp bởi Sungrow và được điều chỉnh để hoạt động cùng nhà máy điện nổi. Điều này đảm bảo hệ thống có khả năng chịu được độ ẩm cao.
Người phát ngôn của Chính phủ Trung Quốc cho biết: “Nhà máy điện ở Hải Nam không chỉ tận dụng được diện tích mà còn giúp giảm nhu cầu về đất đai, đồng thời cải thiện sự phát điện do tác động làm mát từ bề mặt”.
Trung Quốc là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất hành tinh. Chính phủ Trung Quốc đang đầu tư vào việc phát triển các sáng kiến về năng lượng xanh. Việc xây dựng trang trại năng lượng mặt trời nổi lớn nhất thế giới ở tỉnh An Huy se là động lực phát triển trong sản xuất năng lượng tái tạo của quốc gia này.
Theo Inhabitat
hoàn toàn khác. Họ nói rằng hành tinh này là trong suốt, không có núi, và có le chỉ có một vài hòn đảo trồi lên trên mặt nước bao phủ toàn bộ hành tinh.
Tinh thể Zircon được bảo quản bên trong đá sa thạch ở Đồi Jack phía Tây nước Úc cung cấp các đầu mối về lịch sử hành tinh của chúng ta, ở hàng tỷ năm trước khi con người xuất hiện. Nhà nghiên cứu hàng đầu Antony Burnham cho biết các mẫu zircon đã được thu thập qua nhiều thập kỷ, và nhóm nghiên cứu của ông cũng đã đưa ra các phân tích hóa học từ một kết quả nghiên cứu của trường Đại học Quốc gia Úc từ hai thập kỷ trước. Ông đã ví các tinh thể zircon giống như các tế bào da tại hiện trường của một vụ án.
Ông cho biết: “Lịch sử Trái Đất giống như một quyển sách với chương đầu tiên bị xé bỏ bằng việc không có sự tồn tại của đá ở giai đoạn đầu, nhưng chúng tôi đã sử dụng các nguyên tố vi lượng của zircon để dựng lên một hồ sơ dữ liệu về thế giới vào thời điểm đó. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có núi và va chạm lục địa trong
suốt 700 triệu năm đầu tiên của Trái đất hoặc lâu hơn nữa - đó là một nơi yên tĩnh và ảm đạm”.
Zircon được hình thành từ sự tan chảy các lớp đá hỏa sinh già cỗi, thay thế sự tan chảy trầm tích mà điển hình là ở các va chạm lục địa. Và dường như phải mất một thời gian dài để hành tinh này thay đổi từ địa hình bằng phẳng thành Trái đất của chúng ta hiện nay.
Các phát hiện đã chỉ ra rằng có sự tương đồng mạnh me từ các tinh thể zircon của các loại đá chiếm ưu thế trong 1,5 tỷ năm, cho thấy rằng nó đã tồn tại cùng Trái đất một thời gian dài trước khi phát triển thành hành tinh mà chúng ta biết ngày nay.
Theo Inhabitat
*Học viên Cao học, Khoa Xây dựng, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, Việt Nam.**Khoa Xây dựng, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, Việt Nam.
70 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ MẤT AN TOÀN LAO ĐỘNG KHI THI CÔNG XÂY DỰNG TRÊN CAO
PHẠM MINH TÍN*, HÀ DUY KHÁNH**
Tóm tắt: Mất an toàn lao động được xem là một
trong những nguyên nhân chính làm thiệt hại về nguồn lực và kinh tế của ngành Xây dựng ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để xem xét đánh giá tình trạng mất an toàn lao động; tuy nhiên vẫn chưa có hoặc rất ít nghiên cứu đề cập đến vấn đề mất an toàn lao động khi thi công trên cao. Mục đích chính của nghiên cứu này là xây dựng mô hình để đánh giá các nguyên nhân gây ra tình trạng mất an toàn lao động khi thi công trên cao ở các công trình cao tầng tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận. Có tổng cộng 28 nguyên nhân được sàng lọc và tổng hợp từ các nghiên cứu trước đây. Kết quả phân tích cho thấy các nguyên nhân này có ảnh hưởng mạnh đến an toàn lao động khi thi công trên cao. Dựa vào phân tích tương quan, có 4 mô hình nhân tố chính được trích xuất với phương sai giải thích 63,024% từ tất cả yếu tố ban đầu.
Từ khóa: An toàn lao động thấp; làm việc trên cao, nhà cao tầng, quản lý xây dựng.
Nhận ngày 3/5/2017, chỉnh sửa ngày 11/5/2017, chấp nhận đăng ngày 22/5/2017
Abstract:Accidents have been considered as one of main reasons causing damages
on resources and finance in construction sector in Vietnam for many years. Therefore, a lot of studies have been conducted to assess the status of unsafe working conditions; however there are a little or even no studies which mention on problem of low safety when executing the work at height. The main purpose of this study is to develop a model for assessing factors causing unsafe phenomenon when performing the work at height in building projects in Ho Chi Minh City and some neighbor provinces. There are totally 28 reasons filtered and summazied from previous studies. The results of analysis showed that most of these reasons have strong impact on the safety level for at-height works. Based on the correlative analysis, 4 principal component models were extracted with the explained variance of 63,024% from all original factors.
Keywords: Low safety, work at height, building projects, construction management
71Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
GIỚI THIỆU
Trong năm 2014 số người chết vì tai nạn lao động
trong ngành Xây dựng và khai thác mỏ là 289 người với
số vụ tai nạn là 2824 [1]. Nguyên nhân của các vụ tai nạn
này bao gồm: Ngã từ trên cao xuống, vật rơi, đổ sập, và
máy móc, thiết bị cán, kẹp.
Để hạn chế tai nạn lao động trong ngành Xây dựng
đòi hỏi sự nỗ lực từ tất cả các bên tham gia dự án. Trong
đó, đào tạo về an toàn lao động cho tất cả những ai tham
gia vào quá trình xây dựng là một nhân tố quan trọng. Vì
vậy, cải tiến liên tục an toàn trong xây dựng vẫn luôn là
một vấn đề lớn, đặc biệt là trong việc giảm tai nạn gây tử
vong khi thi công trên cao. Nghiên cứu này tập trung vào
việc phân tích và xây dựng mô hình nhân tố đánh giá các
nguyên nhân gây ra ngã cao khi thi công các công trình
cao tầng tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân
cận.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Theo Thông tư số 22/2010/TT-BXD, an toàn lao động
trong thi công xây dựng công trình là hệ thống các biện
pháp về tổ chức và quản lý, điều hành trên công trường
nhằm cải thiện điều kiện lao động và ngăn chặn tai nạn
lao động trong thi công xây dựng công trình [2]. Nhóm
tác giả [3] kết luận rằng công nhân thiếu nhận thức về
tầm quan trọng của an toàn lao động, công nhân chưa
được huấn luyện đầy đủ và trang bị bảo hộ lao động, thiết
bị hư cũ, thao tác thiếu an toàn là những nguyên nhân
chính gây nên tai nạn. Ngoài ra, nhóm tác giả [4] phân
tích tương quan của an toàn lao động với các biến như độ
tuổi, giới tính và học vấn của công nhân, và đánh giá sự
ảnh hưởng của người quản lý đến việc thực hiện an toàn
của công nhân.
Nhóm tác giả [5] kết luận rằng có nhiều công trình
nghiên cứu đã đề xuất các ý kiến khác nhau về nguyên
nhân của nguy hiểm nghề nghiệp. Tuy nhiên, hầu hết cho
rằng đa số các rủi ro nghề nghiệp và tai nạn gây ra bởi
ba lý do chính: Sự xuất hiện thường xuyên của các vụ tai
nạn, điều kiện không an toàn và hành vi không an toàn.
Nhóm tác giả [6] cho rằng một trong những nguyên nhân
chính của các vụ tai nạn xây dựng gây tử vong là do ngã
từ trên cao. Tại Đài Loan, nhóm tác giả [7] cho thấy hơn
30% trường hợp (377) của 1230 trường hợp tử vong liên
quan đến công việc trên cao. Nhóm tác giả [8] đã phát
triển thành một hệ thống mã hóa thuận lợi cho việc phân
loại tai nạn gây tử vong dựa trên 621 trường hợp bao
gồm nguyên nhân của tai nạn, vị trí tai nạn và yếu tố cá
nhân nhằm xác định tầm quan trọng của chúng, từ đó đề
xuất các chiến lược đảm bảo an toàn lao động hiệu quả.
Ngoài ra, nhóm tác giả [9] đã đưa ra những đánh giá rủi ro
của tai nạn từ trên cao và đề xuất 6 tình huống tai nạn từ
trên cao bao gồm cả ngã từ cầu thang, giàn giáo, mái nhà,
lỗ trên bề mặt, các nền tảng di chuyển và các phương tiện
phi di chuyển.
Nhóm tác giả [10] cho rằng một trong những khu vực
nguy hiểm nhất trong ngành công nghiệp xây dựng là
lợp mái do công việc trên mái nhà rất gian khổ, đòi hỏi leo
trèo và đi bộ qua lại giữa các mái khác nhau. Ngoài ra, tác
giả [11] phân tích tử vong do tai nạn qua lỗ thông tầng
và cửa mái cũng đặt ra một nguy cơ đáng báo động cho
ngành công nghiệp xây dựng. Có khoảng 22% các trường
hợp ngã gây tử vong xảy ra khi công nhân rơi xuống qua
các lỗ giếng trời, cửa sổ, lỗ thông hơi khói được báo cáo
với các cơ quan an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Hơn
nữa, nhóm tác giả [12] kết luận việc lắp ghép ván khuôn
cho các kết cấu bê tông là giai đoạn nguy hiểm nhất liên
quan đến các vụ tai nạn ngã cao, đặc biệt khi lắp ghép
ván khuôn sàn. Thêm vào đó, nhóm tác giả [13] chỉ ra
rằng trong tất cả các vụ tai nạn gây tử vong do ngã tại
Trung Quốc vào năm 1999, có tổng cộng 34 trường hợp
được xác định là đã xảy ra trong quá trình chuẩn bị ván
khuôn cho các kết cấu bê tông, chiếm 6% tổng số tử vong
do ngã. Ngoài ra, nhóm tác giả [14] đã chỉ ra nguy cơ rơi
từ trên cao thường xuất hiện khi làm các kết cấu tạm
thời đang được sử dụng. Tương tự vậy, nhóm tác giả [15]
cũng xác định quá trình thi công ván khuôn là một trong
những giai đoạn có nguy cơ tai nạn cao nhất, đặc biệt
là do vật rơi từ trên cao. Nhóm tác giả [16] xác định 30%
các vụ tai nạn liên quan đến người phụ trách bao gồm cả
quản đốc hoặc các nhà quản lý của công ty. Các báo cáo
chi tiết cũng cho thấy thêm các dự án có nhiều tai nạn
ngã cao thường là dự án quy mô nhỏ. Các nhân viên cấp
dưới có thể được nhắc nhở bởi cấp trên của họ về biện
pháp phòng ngừa an toàn; tuy nhiên người phụ trách hầu
như làm việc riêng của họ mà không có bất kỳ sự giám sát
72 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
hoặc nhắc nhở nào đến cấp dưới.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dựa vào các nghiên cứu trước đây và thảo luận với
một số cá nhân có kinh nghiệm lớn hơn 15 năm, trình
độ từ Đại học trở lên và đang nắm giữ chức vụ quản lý,
nghiên cứu này tổng hợp có 28 yếu tố gây ra nguy cơ mất
an toàn lao động khi thi công trên cao trong các dự án
xây dựng được chia ra 4 nhóm: (I) Liên quan đến đặc điểm
công trình, (II) Liên quan đến bản thân người lao động,
(III) Liên quan đến Chủ đầu tư – Tư vấn – Nhà Thầu, (IV)
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
Đặc điểm của người trả lời
Nghiên cứu này đã gửi đi tổng cộng 330 phiếu khảo
sát đến các đối tượng khảo sát là các nhân viên làm việc
trong ngành Xây dựng bao gồm chủ yếu chủ đầu tư (20%),
tư vấn giám sát (30%), tư vấn thiết kế (4%), nhà thầu thi
công (43%) và khác (3%). Kết quả phản hồi như sau: 142
người không trả lời, 150 bảng trả lời đạt yêu cầu, và 38
bảng không đạt yêu cầu chủ yếu do điền thiếu thông tin.
Do đó, tỷ lệ thu thập số liệu thành công của nghiên cứu
này là 45,45%.
Kiểm tra độ tin cậy thang đo
Phân tích Cronbach’s Alpha được sử dụng để kiểm
tra độ tin cậy thang đo được sử dụng để hỏi trong phiếu
khảo sát. Kết quả phân tích cho thấy biến AH1“Bề mặt mái
trơn trượt và có độ dốc lớn”, AH13 “Đặc điểm công nhân
nam làm việc cẩu thả hơn nữ” và biến AH14“Tình trạng sức
khỏe kém: Suy giảm thị lực, thính giác, sức mạnh thể chất
và độ linh hoạt kém” bị loại vì có hệ số tương quan biến
tổng nhỏ hơn 0,3. Hệ số Cronbach’s Alpha sau khi loại bỏ
hai biến này là α = 0,908. Theo quy ước thống kê, khi α ≥
0,7 thì thang đo có thể sử dụng để thu thập số liệu phản
ảnh đúng thực tế. Do đó, giá trị được phân tích ở trên là
chấp nhận.
Kiểm tra phân phối chuân
Do số lượng mẫu số liệu nhỏ hơn 2000 nên kiểm định
Shapiro-Wilk test được sử dụng để kiểm tra giả thuyết về
số liệu thu thập được có tuân theo phân phối chuẩn với
mức ý nghĩa 0,05. Kết quả phân tích cho thấy trị số thống
kê p-value cho các yếu tố đều lớn hơn 0,05. Điều này nói
lên rằng chấp nhận giả thuyết rỗng ban đầu, đó là dữ liệu
thu thập tuân theo phân phối chuẩn. Chính vì điều này
các bước kiểm định tiếp theo se sử dụng kiểm định có
tham số.
Phân tích nhân tố khám phá EFA
Dựa vào kết quả các kiểm định ở trên, tất cả 25 biến
lúc đầu được đưa vào phân tích nhân tố khám phá.
Phương pháp xoay được sử dụng là Varimax. Giá trị riêng
(eigenvalue) được chọn là lớn hơn 1. Hệ số tải nhân tố cho
các biến (factor loading) được xem xét là lớn hơn 0.5. Kết
quả phân tích nhân tố đã trích được 4 nhân tố từ 25 biến
quan sát và tổng phương sai trích 63,024% lớn hơn 50%
thỏa mãn yêu cầu. Hệ số tải nhân tố của các biến đều lớn
hơn 0,5. Kết quả: Phân tích nhân tố đã trích được 4 nhân
tố từ 25 biến quan sát và tổng phương sai trích 63,024%
lớn hơn 50% thỏa mãn yêu cầu. Cuối cùng là hệ số tải của
các biến đều lớn hơn 0,5 nên tất cả các biến đều được
giữ lại.
Nhân tố 1 chiếm 23,225% phương sai trích, được tạo
thành từ các biến AH5 “Công trình gần đường dây điện
cao thế” và biến AH7 “Công trình đang thi công vào thời
điểm điều kiện thời tiết khắc nghiệt” ảnh hưởng trực
tiếp đối với sức khỏe và tính mạng của công nhân, kinh
nghiệm cho thấy công trình gần đường dây điện cao thế
với thời tiết khắc nghiệt tiềm ẩn nhiều nguy cơ tử vong
rất cao đặc biệt là đối với những công nhân làm việc
trên cao gặp vào thời tiết mưa gió, sấm sét… gây rò rỉ
điện. Biến AH3 “Giàn giáo nhiều tầng không ổn định”,
AH4 “Không có lưới bao che và bảo vệ’” biến AH6 “Công
trình có nhiều hạng mục và cấu kiện nhô ra bên ngoài”
và AH2 “Cửa mái, lỗ cầu thang, lỗ thông tầng không có
lan can bảo vệ’ ảnh hưởng trực tiếp đến nguy cơ mất an
toàn lao động cho các công nhân khi làm việc trên cao,
tình trạng rơi rớt dụng cụ, vật tư thi công ảnh hưởng đến
những người đang làm việc bên dưới, công trình nhô ra
bên ngoài mà không có biện pháp bao che bảo vệ không
những ảnh hưởng đến công nhân bên dưới mà cả những
người dân xung quanh và người đi đường” và biến AH23
“Biện pháp thi công không đảm bảo an toàn lao động”
người lao động và nhà quản lý chủ quan không tuân thủ
đến nội quy an toàn lao động. Dựa vào phân tích đánh
giá trên có thể đặt tên cho nhân tố chính này là “Đặc điểm
công trình, biện pháp thi công và điều kiện thời tiết”.
Nhân tố 2 chiếm 17,257% phương sai trích được tạo
73Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
thành từ các biến AH27 “Hướng dẫn sử dụng dụng cụ và
thiết bị bảo hộ chưa rõ ràng, chưa chi tiết còn sơ sài”, biến
AH28 “Thiết bị bảo hộ không phù hợp với công năng sử
dụng gây cản trở, khó chịu và không thoải mái” và biến
AH26 “Thiết bị và dụng cụ bảo hộ lao động cũ kĩ, xuống
cấp, hư hỏng không được kiểm tra theo định kì” là ba yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp làm gián đoạn trong quá trình
thi công, công nhân không có việc làm và những tai nạn
nghiêm trọng. Thực tế cho thấy những công cụ phục vụ
cho công nhân cần thiết nhất để thi công không còn phù
hợp se ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công việc và tính
mạng con người. Vì vậy, nhà thầu cần phải thường xuyên
đầu tư mua sắm và bảo dưỡng định kì các trang thiết bị
tối thiểu cho người lao động. Biến AH21 “Quy trình lập,
triển khai, giám sát an toàn lao động chưa chặt che” và
biến AH20 “Đào tạo người lao động qua loa sơ sài” nói
đến công tác quản lý kiểm tra giám sát công việc của
công nhân thực hiện hiện nay không được thường xuyên,
liên tục dẫn đến những sự cố tai nạn không lường trước.
Giám sát thi công xây dựng thực hiện không tốt dẫn đến
sự cố tai nạn và sự thiếu trách nhiệm, không quan tâm
của nhà quản lý khi đào tạo người lao động qua loa sơ
sài cho hợp lệ. Dựa vào phân tích đánh giá trên có thể đặt
tên cho nhân tố chính này là “Thiết bị, giám sát và đào tạo”.
Nhân tố 3 chiếm 13,851% phương sai trích được tạo
thành từ các biến quan sát: Biến AH15 “Sự chưa thích nghi
của công nhân khi thường xuyên bị thay đổi nơi làm việc “
và biến AH11 “Thời gian làm việc chưa hợp lý” ảnh hưởng
trực tiếp đối với vấn đề sức khỏe và dẫn đến những tai
nạn của công nhân, kinh nghiệm cho thấy hậu quả của
thời gian làm ngoài giờ và sự chưa thích nghi nơi làm việc
trong khi sức khỏe công nhân không đảm bảo cho thấy
hậu quả tai nạn lao động là rất cao. Bên cạnh đó, công
nhân cần phải nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe, tránh tình
trạng làm việc căng thẳng, mệt mỏi và thường xuyên bị
thay đổi nơi làm việc. Vì thế, đòi hỏi người quản lý phải
phân công lao động sao cho đảm bảo giờ làm việc phù
hợp với sức khỏe người lao động. Biến AH16 “Trình độ
văn hóa kém và không được đào tạo” người lao động se bị
cản trở đến sự phản xạ, nhận thức thông tin, quy định và
hướng dẫn an toàn lao động “Thời gian, văn hóa và sự thích
nghi”. Nhân tố 4 chiếm 8,691% phương sai trích được tạo
thành từ biến AH8 “Thái độ làm việc của công nhân chưa
nghiêm túc”: Đùa nghịch khi làm việc trên cao, vừa làm
vừa hút thuốc, không tuân thủ quy định an toàn lao động
đây là yếu tố liên quan trực tiếp đến bản thân người lao
động, là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến mất an toàn lao động khi thi công trên cao.
Do đó cần phải thường xuyên theo dõi diễn biến tâm lý,
thái độ làm việc của công nhân để có biện pháp động
viên chấn chỉnh phù hợp và kịp thời.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu đã tìm thấy được 25 yếu tố ảnh hưởng
đến mất an toàn lao động khi thi công trên cao tại các
dự án xây dựng. Các yếu tố này được xác định rằng có
ảnh hưởng lớn đến mất an toàn lao động khi thi công
trên cao dựa vào ý kiến đánh giá của các cá nhân tham
gia trong ngành Xây dựng tại Thành phố Hồ Chí Minh và
các tỉnh lân cận. Bằng các phân tích kiểm định, có 3 biến
bị loại do có mức ý nghĩa thống kê thấp hoặc không phù
hợp. Kết quả phân tích nhân tố cho thấy có 4 mô hình
nhân tố chính được tạo thành từ 25 biến quan sát ban
đầu với phương sai giải thích 63,024%. Do thu thập số
liệu bằng phương pháp lấy mẫu thuận tiện với số lượng
hợp lệ thu về là 150 nên se có sự sai lệch giữa kết quả
phân tích thống kê so với thực tế. Ngoài ra, số lượng yếu
tố là 28 là hơi ít nên chưa thể phản ánh toàn diện vấn đề
mất an toàn lao động khi thi công trên cao trong các dự
án xây dựng. Các nghiên cứu về sau có thể dựa vào hạn
chế này mà có những phân tích phù hợp hơn.
Tài liệu tham khảo
[1] Việt Dũng, (2016). “Thông báo tình hình tai nạn
lao động năm 2015”, Cục an toàn lao động, Bộ Lao động
và Thương binh Xã hội, đăng nhập ngày 10/8/2015,
http://antoanlaodong.gov.vn/catld/Pages/chitiettin.
aspx?IDNews=1904.
[2] Thông tư số 22/2010/TT-BXD “Quy định về an
toàn lao động trong thi công xây dựng công trình”, Bộ Xây
dựng, ban hành ngày 03/12/2010.
[3] Lưu Trường Văn và Đỗ Thị Xuân Lan, (2002).
“Safety problems at construction sites in Ho Chi Minh
city”, Kỷ yếu Hội nghi Khoa học và công nghệ lần thứ 8,
Đại học Bách Khoa TP.HCM, 4/2002, tr.21-27.
[4] Trần Hoàng Tuấn và Đỗ Thị Xuân Lan, (2009).
74 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
“Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện an
toàn lao động của công nhân xây dựng”, Kỷ yếu Hội nghi
Khoa học và công nghệ lần thứ 11, Đại học Bách Khoa
TP.HCM, 10/2009, tr.297-302.
[5] Hao-Tien Liu, and Yieh-Lin Tsai, (2012). “A fuzzy
risk assessment approach for occupational hazards in
the construction industry”. Safety Science, Vol.50, No.4,
pp.1067–1078.
[6] Hester J. Lipscomb, Ashley L. Schoenfisch,
Wilfrid Cameron, Kristen L. Kucera, Darrin Adams, and
Barbara A. Silverstein, (2014). “Twenty Years of Workers’
Compensation Costs Due to Falls From Height Among
Union Carpenters, Washington State”. American Journal
of Industrial Medicine, Vol.57, No.9, pp.984–991.
[7] Chia-Fen Chi, and Meng-Lin Wu, (1997). “Fatal
occupational injuries in Taiwan - Relationship between
fatality rate and age”. Safety Science, Vol.27, No.1, pp.1–
17.
[8] Chia-Fen Chia, Tin-Chang Chang, and Hsin-I Ting,
(2005). “Accident patterns and prevention measures for
fatal occupational falls in the construction industry”.
Applied Ergonomics, Vol.36, pp.391–400, July 2005.
[9] Aneziris, O. N., Papazoglou, I.A., Mud, M.L.,
Damenc, M., Kuiperd, J., Baksteene, H., Alef, B.J., Bellamyg,
L.J., Haleh, A.R., and Bloemhoffd, A.J., (2008). “Towards risk
assessment for crane activities”. Safety Science, Vol.46,
No.6, pp.872–884.
[10] Jaesin Sa, Dong-Chul Seo, and Sang D. Choi,
(2009). “Comparison of risk factors for falls from height
between commercial and residential roofers”. Journal of
Safety Research, Vol.40, No.1, pp.1–6.
[11] Christopher A. Janicak, (1998). “Fall-Related
Deaths in the Construction Industry”. Journal of Safety
Research, Vol.29, No.1, pp.35–42.
[12] Jose M. Adam, Francisco J. Pallarés, and Pedro A.
Calderón, (2009). “Falls from height during the floor slab
formwork of buildings: Current situation in Spain”. Journal
of Safety Research, Vol.40, No.4, pp.293–299.
[13] Tam C.M., Zeng, S.X., and Deng, Z.M., (2004).
“Identifying elements of poor construction safety
management in China”. Safety Science, Vol.42, No.7,
pp.569–586.
[14] Xinyu Huang, and Jimmie Hinze, (2003). “Analysis
of Construction Worker Fall Accidents”. Journal of
Construction Engineering and Management, Vol.129,
No.3, pp.262-271.
[15] Jannadi, M.O., and Assaf, S., (1998). “Safety
assessment in the built environment of Saudi Arabia”.
Safety Science, Vol.29, No.1, pp.15–24.
[16] Louisa Wong, Yuhong Wang, Toran Law, and
Choi Tung Lo, (2016). “Association of Root Causes in Fatal
Fall-from-Height Construction Accidents in Hong Kong”.
Journal of Construction Engineering and Management,
Vol.142, No.7, pp.15–24, July 2016, DOI: 10.1061/ (ASCE)
CO.1943-7862.0001098.
TRONG SẢN XUẤT
VẬT LIỆU XÂY DỰNG
*Giảng viên Khoa QL Xây dựng - Học viện AMC 75Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
Ths. Lê Ngọc Lan*
Tóm tắt: Một số lượng lớn rác thải ra ngoài môi trường mỗi ngày ở tất cả các quốc gia trên thế giới gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và cuộc sống của con người, đòi hỏi mỗi quốc gia phải có giải pháp xử lý để hạn chế tối đa những tác dụng bất lợi đến môi trường... Bài viết đưa ra những định hướng nghiên cứu, đánh giá các phương pháp xử lý phế thải xây dựng trong sản xuất vật liệu xây dựng cho bê tông từ việc tái sử dụng các chất thải xây dựng và đánh giá đặc tính kỹ thuật của các vật liệu tái chế tại Việt Nam.
Từ khóa: Phế thải xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng.Nhận bài ngày 2/5/2017, chỉnh sửa ngày 10/5/2017, chấp
nhận đăng ngày 26/5/2017.
Abstract: A large amount of wastes discharged into the environment every day in all countries around the world severely affect human’s health and lives, which requires every nation to have solutions to minimize adverse effects on the environment… The article gives directions for research and evaluation of methods of construction waste treatment in the production of building materials for concrete by reusing construction wastes and gives evaluation of technical characteristics of recycled materials in Vietnam.
Keywords: Construction wastes, building materials production.
Tại Việt Nam, trong vòng vài thập niên gần đây ô nhiễm môi trường sống ngày càng ở mức báo động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người. Một số lượng lớn rác thải ra ngoài môi trường mỗi ngày ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Nguồn tạo ra chất thải chủ yếu từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt, nếu không được tận dụng, lượng chất thải này se là nguồn gây ô nhiễm môi trường rất lớn. Vấn đề phát triển bền vững được coi là giải pháp bắt buộc trong lộ trình phát triển của từng quốc gia cũng như toàn cầu. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có giải pháp xử lý chất thải để hạn chế tối đa những tác dụng bất lợi đến môi trường.
Việc thu gom rác thải xây dựng đối với các nước tiên tiến rất được coi trọng vì vừa đảm bảo vệ sinh mỹ quan đô thị vừa là nguồn tài nguyên tái sinh khổng lồ với những nước
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ VÀ KHẢ NĂNG
TÁI SỬ DỤNG PHẾ THẢI XÂY DỰNG
76 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
nghèo tài nguyên ví dụ như Nhật Bản... Trên thế giới cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu sử dụng cốt liệu tái chế từ phế thải xây dựng để làm vật liệu xây dựng, nghiên cứu khả năng tái chế loại chất thải này đang là mối quan tâm của nhiều nhà khoa học. Phương pháp này se tận dụng được các nguồn vật liệu phế thải vô cơ, hữu cơ; tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, biến vật liệu thải thành nguồn nguyên liệu có giá trị; tiết kiệm chi phí xử lý chất thải và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, phương pháp này tại Việt Nam hiện nay đang còn khá mới mẻ. Khi sử dụng phế thải làm nguyên liệu thay cốt liệu tự nhiên đòi hỏi phải có sự thay đổi về quy trình và thông số công nghệ trong khi nguồn nhân lực nghiên cứu về các vấn đề này cũng còn đang thiếu. Vì vậy, định hướng nghiên cứu, đánh giá các phương pháp xử lý phế thải xây dựng trong sản xuất vật liệu xây dựng cho bê tông từ việc tái sử dụng các chất thải xây dựng và đánh giá đặc tính kỹ thuật của các vật liệu tái chế đó là hết sức cần thiết; từ đó đưa ra đề xuất phù hợp để có thể áp dụng các loại vật liệu này trong xây dựng công trình ở Việt Nam.
CÔNG NGHỆ THU GOM, XỬ LÝ PHẾ THẢI XÂY DỰNG TẠI NGUỒN
Hiện nay, việc thu gom rác thải xây dựng đối với các nước tiên tiến trên thế giới rất được coi trọng bởi vừa đảm bảo vệ sinh mỹ quan đô thị và là nguồn tài nguyên tái sinh khổng lồ với những nước nghèo tài nguyên. Quy trình thu gom này thường trực tiếp tại nơi phát sinh, ít thông qua thu gom trung gian bằng việc thu mua phế thải xây dựng. Vật liệu có thể được sắp xếp trong một số container lưu chứa được cung cấp bởi các công ty dịch vụ chuyên về quản lý các loại chất thải cụ thể tại công trường. Phế thải xây dựng từ công trường xây dựng được thu gom theo hai phương pháp [1]:
Thu gom chất thải đã được phân loại tại nguồn: Sau khi phá dỡ các công trình xây dựng, các vật liệu có khả năng tái sử dụng và tái chế cao bằng phương pháp đơn giản như sắt, thép, giấy, cacton,… se được thu gom riêng và đưa tới các khu tái chế (vật liệu có khả năng tái chế) hay trực tiếp đưa vào sử dụng lại (vật liệu có khả năng tái sử dụng). Sau khi thu hồi các vật liệu có khả năng tái chế và tái sử dụng, phần còn lại se được chuyên chở bằng xe thu gom tới các bãi chứa chất thải xây dựng. Cuối cùng, chất thải xây dựng se được phân loại một lần nữa rồi đem đi đóng thùng vào các container để chở tới các khu tái chế chất thải xây dựng tương ứng. Phương pháp này có ưu điểm là nhanh chóng thu hồi được các thành phần có khả năng tái chế và tái sử dụng cao, đồng thời, tạo ra nhiều việc làm cho công nhân. Tuy nhiên, phương pháp này không thích hợp để áp dụng với các công trình bị phá dỡ lớn, hơn nữa, áp dụng phương pháp này thì thời gian chất thải xây dựng ở ngoài môi trường se dài gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường cao.
Hình: Quy trình thu gom chất thải xây dựng đã được phân loại tại nguồn
Thu gom chất thải xây dựng chưa phân loại tại nguồn: Sau khi phá dỡ các công trình xây dựng, phế thải xây dựng se được đưa lên các xe thu gom chuyên dụng để đưa tới bãi chứa phế thải xây dựng. Tại đây, phế thải xây dựng se được phân loại theo từng phần bằng phương pháp thủ công (sử dụng nhân công lao động) hay phương pháp hitech (sử dụng máy móc). Sau khi phân loại xong từng phần phế thải xây dựng se được đóng thùng và chuyên chở bằng container đến các khu tái chế chất thải tương ứng. Phương pháp này có ưu điểm là phân loại và thu hồi các vật liệu một cách nhanh chóng, thời gian chất thải xây dựng ở ngoài môi trường ngắn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, phương pháp này se khó phân loại được các vật liệu có khả năng tái sử dụng cao.
77Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
Hình: Quy trình thu gom chất thải chưa phân loại tại nguồn
Tại Việt Nam, vấn đề thu gom phế thải xây dựng có thể phân thành 2 loại chính là phế thải xây dựng từ các công trình xây dựng nhỏ lẻ (phá dỡ các căn nhà ở hay các công trình xây dựng nhỏ lẻ) và phế thải từ các công trình xây dựng lớn (phá dỡ các tòa nhà lớn, các khu chung cư, các công trình xây dựng lớn,…)
Thu gom phế thải từ các công trình xây dựng nhỏ lẻ: Chất thải xây dựng từ các công trình xây dựng này được những người phá dỡ hay chủ công trình phân loại để thu lại các phế thải có thể sử dụng hay có giá trị kinh tế như sắt, thép, giấy,… để bán lại cho các đầu mối thu mua phế liệu (bán ve chai). Sau đó, các đầu mối thu mua phế liệu này se bán lại những phế liệu đó cho các khu tái chế phế liệu (thường là các khu tái chế tự phát). Còn phần phế thải xây dựng khó tái chế như bê tông, gạch hay kính se được đưa tới các công trình xây dựng khác để làm xà bần chôn lấp mặt bằng, làm vỉa hè,… một phần trong đó được đưa tới bãi chứa để đem đi tái chế thành các vật liệu mới, nhưng một phần rất lớn trong số này được đem đi chôn lấp hay thải bỏ ra môi trường.
Hình: Quy trình thu gom phế thải xây dựng từcác công trình nhỏ lẻ
Thu gom phế thải từ các công trình xây dựng lớn: Các công trình xây dựng lớn thường được phá dỡ bởi các công ty khoan cắt bê tông. Hơn nữa, khối lượng các chất thải xây dựng ở các công trình xây dựng này cũng rất lớn, vì vậy, việc phân loại các phế thải xây dựng ngay tại chỗ phá dỡ là rất khó khăn. Thay vì phân loại phế thải xây dựng ngay ở điểm phá dỡ công trình, người ta se chuyển chúng đến một địa điểm tập kết phế thải xây dựng gần nơi phá dỡ bằng các phương tiện nhỏ, tiện dụng và linh hoạt như xe rùa (xe cút kít), xe tải nhỏ… và phân loại sơ bộ để tách một số thành phần như kim loại, kiếng… có kích thước lớn. Sau đó, chúng se được chuyển đến các trạm trung chuyển chất thải xây dựng.
Hình: Quy trình thu gom phế thải xây dựng từcác công trình lớn
KHẢ NĂNG TÁI SỬ DỤNG PHẾ THẢI XÂY DỰNG TRONG SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG
Hầu hết các chất thải vẫn còn khả năng tận dụng cho một vòng đời mới trong các ứng dụng xây dựng. Tùy theo mức độ nhiễm tạp chất của phế thải xây dựng mà có thể sử dụng các mức độ tái chế và các dạng sử dụng vật liệu tái chế như: San lấp nói chung; làm lớp lót và san lấp các dự án thoát nước; làm vật liệu móng hay mặt đường; làm cốt liệu sản xuất bê tông.
Việc sử dụng phế thải xây dựng chủ yếu ở các dạng [2]:
78 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
Làm lớp lót, nền móng cho đường giao thông. Đây là dạng sử dụng nhiều nhất ở Mỹ, việc tái sử dụng phế thải xây dựng ở Mỹ cho các công trình giao thông chủ yếu dưới hai dạng [3] – làm lớp base và sub-base cho đường giao thông và dạng thứ hai là làm cốt liệu cho cấu kiện bê tông xi măng cho các kết cấu hạ tầng đường giao thông như lòng đường, lề đường, hệ thống cống dẫn thoát nước... Ngoài ra, phế thải xây dựng được tái chế để làm cốt liệu tái chế cho bê tông asphalt.
Bên cạnh đó, thị trường bê tông trộn sẵn hiện nay đang trong giai đoạn đầu với các cố gắng thực hiện chiến lược tái sử dụng vật liệu tái chế thông qua chương trình xây dựng xanh. Bê tông cốt liệu tái chế trộn sẵn phải được sản xuất đảm bảo chất lượng bằng một công nghệ tiến bộ, đồng thời sau đó phải bảo đảm chất lượng ổn định cho các kết cấu công trình. Tương tự như bê tông thường, cốt liệu bê tông tái chế cũng có thể được sử dụng trong các kết cấu mặt đường nhựa để thay thế cốt liệu tự nhiên. Lượng chất kết dính asphalt tăng thêm được bù đắp bằng việc tiết kiệm chi phí sử dụng cốt liệu tự nhiên. Cho đến nay, bê tông sử dụng cốt liệu tái chế (bê tông cốt liệu tái chế) đã được chấp nhận sử dụng cho các kết cấu móng và sàn nhà dân dụng; các ngõ phố, lề đường và vỉa hè; sàn và móng nhà thương mại cũng như bê tông mặt đường.
Phế thải xây dựng còn ứng dụng để sản xuất các loại gạch blốc, gạch lát đường và vỉa hè, gạch xây; Gia cố nền đất là sự kết hợp của các loại vật liệu tái chế, vôi, hoặc tro bay để tăng cường khả năng chịu tải của lực nền. Công tác ổn định nền đất là việc sử dụng kết hợp cốt liệu tái chế, vôi hoặc tro bay nhằm tăng cường sức chịu tải của nền đất đó. Sự ổn định có được nhờ sự thay đổi khả năng hút nhả nước của nền đất. Có rất nhiều công trình đã sử dụng cốt liệu bê tông tái chế để ổn định công tác nền đất, cũng như nền móng hệ thống đường ống ngầm. Cốt liệu tái chế thường được sử dụng thay thế cốt liệu tự nhiên để làm lớp lót nền và san lấp cho hệ thống các đường ống ngầm. Trên cơ sở sử dụng vật liệu tái chế sẵn có tại chỗ, đã tiết kiệm phần lớn chi phí do giảm chi phí vận chuyển vật liệu và rút ngắn thời gian thi công.
Ngoài ra, phế thải xây dựng còn được tận dụng làm vật liệu trang trí cảnh quan, các chi tiết kiến trúc và màu
sắc khác nhau góp phần xây dựng kiến trúc xanh. Hiện nay cốt liệu bê tông tái chế đã được sử dụng trong các tường đá xếp, kết cấu non bộ trang trí, vách tường có nước chảy,...
Từ những phân tích ở trên, ta có thể thấy lợi ích to lớn cũng như tính khả thi cao của công nghệ tái chế phế thải xây dựng. Theo đó, việc tận dụng phế thải xây dựng có thể giảm lượng rác thải xây dựng thông qua việc giảm chi phí đổ thải, giảm tác động môi trường do đổ thải gây ra, giúp tiết kiệm chi phí cho bảo vệ môi trường, giữ gìn cảnh quan đô thị, nâng cao ý thức của người dân và xã hội đối với vấn đề sử dụng phế thải xây dựng, bảo vệ môi trường. Đồng thời, việc tái chế phế thải xây dựng còn đem lại lợi ích về kinh tế. Chúng làm giảm sự phụ thuộc của con người vào việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt. Cung cấp nguồn nguyên liệu thứ cấp cho giá trị công nghiệp với chi phí thấp, đem lại hiệu quả kinh tế cho người tái chế.
Ở Việt Nam, công tác thu gom và tái chế phế thải xây dựng bước đầu đã được chú trọng và đầu tư. Tuy nhiên, các cơ sở tái chế phế thải xây dựng còn quá ít, hầu hết hoạt động tái chế là do các cơ sở tư nhân đảm trách. So với kinh nghiệm của nước ngoài, việc xử lý và tái chế phế thải xây dựng của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Trình độ phân loại và tái chế rác thải xây dựng còn thấp. Hiện nay, phần lớn rác thải xây dựng vẫn được thu gom theo phương pháp hỗn hợp, hầu hết nguồn tài nguyên có thể tái chế chưa được chọn lọc triệt để, bị mang đi chôn lấp hoặc vứt bỏ một cách lãng phí. Công nghệ xử lý rác thải xây dựng và tái chế nguồn tài nguyên còn lạc hậu, thiếu công nghệ mới. Rác thải chủ yếu xử lý theo cách đơn giản như chôn lấp, điều này không chỉ gây ô nhiễm môi trường, mà còn nguy hại tới sức khỏe con người.
Do đó, để kịp thời đáp ứng những yêu cầu như trên rất cần những định hướng nghiên cứu về công nghệ tái sử dụng các chất thải xây dựng và đánh giá các đặc tính kỹ thuật của các cốt liệu tái chế để từ đó đưa ra đề xuất cần thiết có thể áp dụng loại vật liệu này trong xây dựng công trình tại Việt Nam.
Tài liệu tham khảo1. Ths. Lê Việt Hùng, KS. Nguyễn Văn Chiến, KS. Trần
Thanh Bình, Hoàn thiện công nghệ tái chế phế thải phá dỡ công trình làm cốt liệu xây dựng, Tạp chí Xi măng và Bê tông, Viện Vật liệu xây dựng.
2. Ths. Lê Việt Hùng (2007), Nghiên cứu sử dụng phế thải phá dỡ công trình làm bê tông và vữa xây dựng, Báo cáo tổng kết đề tài – Mã số MT 17-07, Viện Vật liệu Xây dựng, Bộ Xây dựng.
3. US Federal Highway Administration (2004), Transportation application of recycled concrete aggregate.
79Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
Góp phần thích ứng với biến đổi khí hậu(Khảo sát tại TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang)
Tóm tắt: Để kiến tạo được không gian kiến trúc cảnh quan phù hợp với đặc trưng của khu vực đồng bằng Sông Cửu Long nhằm nâng cao chất lượng sống của người dân, tạo sức hấp dẫn về du lịch và thích ứng với biến đổi khí hậu, rất cần phải nghiên cứu về tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan. Tác giả bài báo nghiên cứu từ thực trạng thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, từ đó đưa ra một số giải pháp tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan góp phần thích ứng với biến đổi khí hậu cho khu vực ven Sông Hậu nói riêng và các đô thị khu vực đồng bằng Sông Cửu Long nói chung
Từ khóa: Không gian kiến trúc, cảnh quan, biến đổi khí hậu.
Nhận bài ngày 2/5/2017, chỉnh sửa ngày 10/5/2017, chấp nhận đăng ngày 26/6/2017.
Abstract: In order to create landscape architectural space suitable with the characteristics of the Mekong River Delta to improve the quality of life for citizens, attract tourism and adapt to climate changes, it is very necessary to study the organization of landscape architectural space. The author of this article has researched the factual situation of Long Xuyen City, An Giang Province and proposed a number of solutions to organize landscape architectural space, contributing to adapting to climate changes for the regions along the Hau river in particular and urban areas in the Mekong River Delta in general.
Keywords: Architectural space, landscape, climate changes.
THỰC TRẠNG KHU VỰC KHẢO SÁTLong Xuyên cách TP. Hồ Chí Minh 189km, cách biên
giới Campuchia 45km. TP. Long Xuyên là trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh An
Giang và của vùng đồng bằng Sông Cửu Long.
Khí hậu TP. Long Xuyên có tính chất khí hậu nhiệt đới
gió mùa với một nền nhiệt độ cao quanh năm và lượng
mưa tương đối phong phú. Khu vực có cao độ mặt đất từ
2-3m là khu vực nội thị gồm 2 phường Mỹ Long, Mỹ Bình
và ven trục quốc lộ 91. Khu vực có cao độ từ 1,5 – 2,5m
phần lớn là ven các sông rạch chính như Sông Hậu, rạch
Long Xuyên và ven các trục lộ.
Do địa hình thấp và nằm trong vùng lũ nên ngoài
khu vực trung tâm thành phố có cao độ vượt lũ không bị
ngập, các khu còn lại ngập hàng năm. Lưu lượng và trữ
lượng nước mặt cho thành phố khá dồi dào.
Chế độ thủy văn phụ thuộc vào Sông Hậu theo chế độ
bán nhật chiều và chịu ảnh hưởng của lũ Sông Cửu Long
(tháng 8-tháng 11) hàng năm gây ngập úng và khó thoát
nước đô thị.
Sau đây là đánh giá tổng hợp các vấn đề nghiên cứu
trong tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan ven Sông
Hậu, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Tổ chức không gian
kiến trúc cảnh quan
Hà Thị Bích Đào
80 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
Hình 1. Lịch sử hình thành và phát triển TP. Long Xuyên
Hình 2. Điều kiện địa hình TP. Long Xuyên
● Thuận lợi:+ Vị trí thuận lợi, khung hạ tầng giao thông gắn kết chặt che với Vùng. Là
đô thị tỉnh lị, đô thị lớn thứ 2 trong vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nên được
chú trọng đầu tư các nguồn lực kinh tế cho phát triển. Cảnh quan thiên nhiên
sông nước hấp dẫn là đặc trưng riêng.
+ Cơ cấu kinh tế hiện đại, mạnh về thương mại dịch vụ và công nghiệp, góp
phần tăng sức hút đô thị với các đô thị khác trong Vùng.
+ Phát triển thành trung tâm kinh tế-xã hội quan trọng của vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long và quốc gia.
+ Nhiều dự án hạ tầng lớn đang trong quá trình hình thành mang lại cơ hội
phát triển quan trọng cho Long Xuyên.
+ Cơ hội áp dụng các giải pháp mới, thích ứng với điều kiện tự nhiên của
khu vực.
● Khó khăn:+ Địa hình thành phố tương đối thấp và chia cắt bởi hệ thống kênh rạch
phức tạp, gây khó khăn trong phát triển không gian đô thị.
+ Hạ tầng đô thị chưa đồng bộ.
+ Chưa khai thác được hết giá trị cảnh quan sông nước, chưa làm rõ được
tính bản sắc riêng.
+ Thiếu các công cụ, chính sách quản lý quy hoạch thiết kế cảnh quan đô
thị mạnh me.
+ Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (đất đai bị thu hẹp, nước ngọt suy giảm,
lũ lụt, hạn hán diễn biến bất thường, ngập mặn vùng đồng bằng…)
+ Di cư và tái định cư do thiên tai cần có sự chuẩn bị tốt về đất đai, hạ tầng.
+ Ô nhiễm môi trường gần các khu công nghiệp, khu dân sinh đô thị.
+ Xác định loại hình kinh tế mũi nhọn, chiến lược và tầm nhìn phát triển dài
hạn cho TP Long Xuyên.
+ Thu hút lao động và dân cư ở lại Long Xuyên với hình ảnh và môi trường
sống đô thị như hiện nay là thách thức lớn.
CÁC NGUYÊN TẮC CHÍNH KHI TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC CẢNH QUAN
Kiến trúc cảnh quan (KTCQ) bao gồm thành phần tự nhiên (địa hình, mặt
nước, cây xanh, con nước và động vật, không trung) và thành phần nhân tạo
(kiến trúc công trình, giao thông, trang thiết bị hoàn thiện kỹ thuật, tranh
tượng hoành tráng trang trí). Mối tương quan tỷ lệ về thành phần cùng quan
hệ tương hỗ giữa hai thành phần
này luôn biến đổi theo thời gian,
điều này làm cho cảnh quan kiến
trúc luôn vận động và phát triển
Tổ chức không gian KTCQ: Là một
hoạt động định hướng của con
người nhằm mục đích tạo dựng, tổ
hợp và liên kết các không gian chức
năng trên cơ sở tạo ra sự cân bằng
và mối quan hệ tổng hòa của hai
nhóm thành phần tự nhiên và nhân
tạo của KTCQ.
Không gian mặt nước là một
thành tố không thể thiếu trong
không gian cảnh quan đô thị. Đó
là không gian nền (mang tính cộng
đồng, xã hội..) của không gian đô
thị. Nó mang một dạng cấu trúc
không gian giao tiếp và không gian
công cộng. Yếu tố sông nước có vai
trò bổ trợ cho cơ cấu sinh thái trong
đô thị hiện nay. Vừa có vai trò điều
hòa, tạo vi khí hậu tốt cho đô thị,
vừa tạo cảnh quan đẹp mắt gây ấn
tượng về mỹ cảm và xúc cảm trong
tổ chức không gian đô thị.
Trải qua bao thời kỳ lịch sử của
đất nước, Long Xuyên đã từng được
thay đổi và phát triển nhưng những
giá trị lịch sử, cảnh quan thiên nhiên
sông nước và các di sản kiến trúc,
những hoạt động truyền thống của
cư dân dọc theo các con sông vẫn
giữ được sự hấp dẫn đối với khách
du lịch trong nước cũng như quốc
tế. Tuy nhiên, từ sau đổi mới và
sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường cũng như tốc độ đô thị hóa
tăng nhanh, cảnh quan sông nước
đô thị Long Xuyên đã và đang thay
đổi nhanh chóng. Các hoạt động
kinh tế ngày càng trở nên sầm uất,
tốc độ xây dựng gia tăng, các không
gian mở, cây xanh nông nghiệp
81Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
đang dần được thay thế bởi các công trình, dự án phát
triển mới. Trong khi đó hệ thống mặt nước tự nhiên hết
sức phong phú xung quanh thành phố lại thiếu sự quan
tâm khai thác một cách hợp lý cho phát triển các loại hình
du lịch phù hợp cũng như các hoạt động xây dựng, kinh
tế xã hội khác.
Cũng như nhiều đô thị của Việt Nam hiện nay, với nhu
cầu đầu tư xây dựng cao, các quy hoạch phát triển chủ
yếu lan toả theo chiều rộng, đô thị Long Xuyên có xu
hướng được mở rộng và phình to dần trùm lên các không
gian nông thôn ngoại vi trong khi những tiện ích đô thị
lại hết sức hạn chế, chất lượng cuộc sống đô thị, đặc biệt
các khu đô thị cũ tạo ra nhiều vấn đề về môi trường, xã
hội, giao thông. Với sự phát triển này, mặt nước tự nhiên
là một trong những yếu tố bị tác động lớn. Diện tích mặt
nước bị thu hẹp, mức độ ô nhiễm tăng cao, thậm chí ở
một số khu vực có thể cũng là nơi chứa đựng những chất
thải của đô thị... Nhưng trên thực tế, việc quan tâm tới
khai thác phát triển không gian đô thị dọc theo trục sông
hướng ra biển hết sức hạn chế, mà chủ yếu phát triển tự
nhiên của các khu dân cư làng xóm. Điều kiện sống của
các khu dân cư nông thôn ven đô thị còn rất chênh lệch
so với các khu vực trong đô thị.
Các nguyên tắc chính khi tổ chức KTCQ hai bên bờ Sông Hậu, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang
Xuất phát từ sự phân tích các cơ sở kinh tế - văn hóa –
xã hội, việc tổ chức KTCQ hai bên bờ Sông Hậu, TP Long
Xuyên, tỉnh An Giang cần:
- Tạo vẻ đẹp tổng thể hài hòa, văn minh hiện đại, phù
hợp với truyền thống văn hóa miền Đồng bằng sông
nước, góp phần nâng cao trình độ dân trí, giáo dục óc
thẩm mỹ và ý thức trách nhiệm cộng đồng, thúc đẩy phát
triển du lịch hài hòa với phát triển xã hội hóa.
- Bảo đảm an toàn cho con người và cho các công
trình: Kiến trúc, giao thông, hạ tầng kỹ thuật, vui chơi, giải
trí, thể thao… trong quá trình sử dụng, khai thác.
- Bảo vệ và tận dụng các tài nguyên thiên nhiên: Địa
hình, cây xanh, mặt nước.
- Bảo vệ sức khỏe, vệ sinh, hạn chế ô nhiễm và bảo vệ
môi trường khu ở.
- Sử dụng vật liệu địa phương, vật liệu sinh thái, bền
vững môi trường.
- Coi trọng vai trò và sự tham gia của cộng đồng trong
quá trình tổ chức KTCQ, từ khâu làm kế hoạch, nghiên cứu
thiết kế, thi công đến quản lý bảo quản.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC CẢNH QUAN THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
* Các chức năng chính của khu vực:
- Chức năng nghỉ ngơi, giải trí.
- Chức năng thể thao – văn hoá – du lịch.
* Các lớp không gian trong khu vực theo chiều ngang
bao gồm:
- Không gian mặt nước của dòng sông.
- Không gian cây xanh dọc bờ sông.
- Không gian tuyến đường phố dọc bờ sông.
- Bề mặt khu vực xây dựng công trình giới hạn không
gian cảnh quan hai bên bờ sông
* Các loại hình cảnh quan của khu vực nghiên cứu
tương ứng với các chức năng và các lớp không gian trên,
bao gồm:
- Cảnh quan vườn – công viên.
- Cảnh quan đường phố.
- Cảnh quan công trình xây dựng.
- Giải pháp tổ chức cảnh quan tổng thể:
Công trình nhà ở:Nhà ở trong phạm vi nghiên cứu có hai hình thức: Nhà
mặt phố và nhà có một mặt tiếp giáp với bờ sông.
- Đối với nhà mặt phố: Giải pháp cho các nhà chia lô
vận dụng quy luật về sự đồng nhất trong bố cục tạo hình
yếu tố cạnh biên trong việc xây dựng hình ảnh đô thị.
Hình thức phổ biến cho dạng nhà phố là nhà liên kế thiết
kế song lập hoặc thiết kế theo dãy, tạo kiến trúc thống
nhất cho cả tuyến phố.
- Đối với nhà sát bờ sông: Với loại nhà liên kế, tổ chức
mặt đứng phía sông tương tự như mặt nhà phố liên kế.
Với loại nhà vườn nên tổ chức không gian cây xanh đệm
giữa nhà ở và mặt sông, vừa đảm bảo cảnh quan đẹp,
giữ gìn môi trường trong lành về không khí và tiếng ồn
cho nhà ở.
Hình 3. Mặt đứng hiện trạng
Hình 4. Mặt đứng cải tạo
82 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
Xây dựng nhà ở vượt lũ cho các hộ có nguy cơ ảnh
hưởng bởi lũ lụt.
Công trình hạ tầng kỹ thuật:- Theo xu hướng phát triển chung của đô thị, các công
trình hạ tầng kỹ thuật được ngầm hóa. Đối với một số
công trình không thể ngầm hóa cần chú ý thiết kế kiến
trúc nhỏ hoặc tổ chức cụm kiến trúc cảnh quan cho các
công trình đó nhằm đạt được tối đa sự hòa hợp với cảnh
quan chung.
- Hệ thống kè bờ cứng phải thay thế bằng hệ thống kè
bờ tự nhiên, tạo được không gian cảnh quan bắt mắt, là
nơi đi bộ ngắm cảnh của người dân, giúp giải quyết vấn
đề thoát nước chậm vào mùa lũ. Thảm thực vật trên hệ
thống kè mềm tự nhiên se giúp thẩm thấu và hút nước
nhanh, tốt hơn kè cứng.
* Giải pháp tổ chức không gian mở
Trong các khu cây xanh cần bổ sung phần ghế ngồi có
mái che, các kiến trúc nhỏ như chòi nghỉ, các gian hàng
dịch vụ… để nâng cao giá trị thẩm mỹ cho công viên, thu
hút các hoạt động để trở thành không gian điểm nhấn
quan trong cho khu vực.
- Quốc lộ 91 chạy qua Long Xuyên là một thế mạnh
về hình ảnh du lịch của thành phố. Vì vậy, nên việc bố
trí các tác phẩm nghệ thuật trang trí là hết sức cần thiết
trong khu vực công viên cây xanh. Tác phẩm điêu khắc
nằm trong không gian kiến trúc cảnh quan không bị gò
bó về nội dung và hình thức, đa dạng về đề tài và chủ đề.
Việc tổ chức không gian KTCQ ngoài nhiệm vụ của kiến trúc sư thì cần phải có sự phối kết hợp giữa người dân địa phương, chính quyền và sự tham gia của các chuyên gia. Ngoài ra, cần xây dựng và hoàn chỉnh các văn bản pháp quy cần thiết như: Tiêu chuân, quy phạm, quy trình kỹ thuật, quy chế quản lý... để làm cơ sở cho công tác thiết kế, thi công, trang trí cũng như quản lý kiến trúc cảnh quan của từng khu vực. Cần tạo cơ chế thích hợp về tổ chức và phương pháp để thu hút và tập hợp sự tham gia của các Ngành cũng như sự tham gia của cộng đồng trong toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý kiến trúc cảnh quan hai bên bờ sông, từ khâu làm kế hoạch nghiên cứu thiết kế, thi công, trang trí đến quản lý khai thác và sử dụng.
Hình 6. Mô hình kè sông chống sạt lở đất
Hình 5. Mô hình nhà ở vượt lũ
CƠ HỘI vàTHÁCH THỨC
83Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
Ths. KTS Đào Phương Nam
Tóm tắt: Hiện nay, công tác quản lý không
gian kiến trúc cảnh quan tại thành phố Hạ Long-
Quảng Ninh chưa được quan tâm đúng mức. Quá
trình phát triển kinh tế xã hội tại đây mặc dù có
nhiều cơ hội mở ra song cũng chứa đựng không
ít thách thức đối với công tác quản lý không gian,
kiến trúc cảnh quan trên địa bàn. Trên cơ sở đề cập
đến những cơ hội, thách thức, bài viết đã đưa ra
một số vấn đề cần lưu ý trong tổ chức không gian
kiến trúc cảnh quan trên địa bàn thành phố Hạ
Long- tỉnh Quảng Ninh.
Từ khóa: Kiến trúc cảnh quan, tổ chức không
gian, thiết kế công trình, cảnh quan đô thị.
Nhận bài ngày 2/5/2017, chỉnh sửa ngày
10/5/2017, chấp nhận đăng ngày 26/5/2017.
Abstract: At present, the management of
landscape architectural space in Ha Long City,
Quang Ninh has not been paid enough attention
to. In the process of socio-economic development,
although there are many opportunities to
open, it also contains many challenges to the
management of space and landscape architecture
in the area. Based on the opportunities and
challenges pointed out, the article has raised some
issues that need attention in the organization of
landscape architectural space in Ha Long - Quang
Ninh province.
Keywords: Landscape architecture, the
management of landscape architectural space,
project design, urban landscape.
Kiến trúc cảnh quan là một khái niệm khá mới trong Quản lý
quy hoạch đô thị. Theo Hàn Tất Ngạn (1999), kiến trúc cảnh quan
là một môn khoa học tổng hợp liên quan đến nhiều lĩnh vực,
nhiều chuyên ngành khác nhau như: Quy hoạch không gian,
quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, kiến trúc công trình, điêu khắc, hội
họa,… nhằm giải quyết những vấn đề tổ chức môi trường nghỉ
ngơi giải trí, thiết lập và cải thiện môi sinh, bảo vệ môi trường, tổ
chức nghệ thuật kiến trúc.
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách phát triển đô thị,
quản lý không gian kiến trúc cảnh quan, đầu tư xây dựng cơ bản,
các công trình hạ tầng kỹ thuật đã thay đổi diện mạo các đô thị
ven biển. Tuy nhiên đối với tỉnh Quảng Ninh, công tác quản lý
không gian kiến trúc cảnh quan vẫn chưa được quan tâm đúng
mức dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý và phát triển.
Hơn nữa, hệ thống các quy định, quy chế quản lý về kiến trúc
cảnh quan khu vực ven biển của Quảng Ninh đang còn nhiều
bất cập. Để công tác quản lý kiến trúc cảnh quan được thực hiện
tốt, cần có định hướng và chỉ đạo sát sao từ ban lãnh đạo thành
phố và sự chuẩn bị tốt của các phòng ban chức năng về công tác
quản lý kiến trúc cảnh quan tại đây; đồng thời có những nghiên
cứu chuyên ngành nhằm nâng cao công tác quản lý không gian
kiến trúc cảnh quan, góp phần phát triển bền vững các khu đô
thị ven biển.
QUẢN LÝ KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC CẢNH QUAN TẠI THÀNH PHỐ
HẠ LONG, QUẢNG NINH
84 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
QUẢN LÝ KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC CẢNH QUAN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, QUẢNG NINH - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
Trong vòng 2 năm qua, làn sóng
đầu tư ồ ạt từ các doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản vào địa bàn
thành phố Hạ Long gia tăng nhanh
chóng. Từ một thành phố nhỏ trực
thuộc tỉnh, với địa bàn cơ sở vật chất
không quá hiện đại, chỉ trong vòng
2 năm, hình ảnh thành phố đã được
thay đổi gần như hoàn toàn. Điều
này được thực hiện theo đúng định
hướng phát triển kinh tế của ban
lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh, đặc biệt
là sau Hội nghị xúc tiến đầu tư năm
2013. Những tòa nhà cao tầng, trung
tâm thương mại, bệnh viện quốc tế…
được xây dựng liên tiếp đã tạo nên
diện mạo cảnh quan mới cho thành
phố. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn
đến thách thức đối với đội ngũ cán
bộ quản lý thành phố về việc quản lý
không gian cảnh quan đô thị.
Hiện nay, nhiều dự án tập trung
ở khu vực ven biển dẫn đến thiếu
không gian, cự ly cần thiết để tạo
không gian công cộng dành cho
cộng đồng. Tình trạng ô nhiễm môi
trường sinh thái còn trầm trọng. Quy
hoạch sử dụng đất chưa sát thực tế
dẫn tới tình trạng dự án “treo”, gây
lãng phí đất đai. Việc lập quy chế
quản lý quy hoạch kiến trúc khu vực
ven biển và thực hiện theo quy chế
chưa nghiêm túc; nhiều dự án triển
khai xây dựng chậm, không được
tiến hành do vướng mắc trong thủ
tục cấp phép xây dựng, giao đất, bồi
thường, giải phóng mặt bằng, đang
gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh
hưởng xấu đến không gian kiến trúc
cảnh quan đô thị cũng như đời sống
của cư dân tại các đô thị này.
Cũng theo Quy hoạch chung phát
triển thành phố Hạ Long đến năm
2020 đã được UBND tỉnh phê duyệt,
số lượng các công trình se được triển
khai xây dựng trên địa bàn thành phố
là rất lớn, đặt ra những thách thức rất
lớn với công tác quản lý không gian,
kiến trúc cảnh quan trên địa bàn.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRONG TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC CẢNH QUAN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG
Tổ chức không gian kiến trúc cảnh
quan là một hoạt động định hướng
của con người nhằm mục đích tạo
dựng, tổ hợp và liên kết các không
gian chức năng trên cơ sở tạo ra sự
cân bằng và mối quan hệ tổng hòa
của hai nhóm thành phần tự nhiên
và nhân tạo của kiến trúc cảnh quan.
Trong đó, thiên nhiên là nền của kiến
trúc cảnh quan (Lưu Trọng Hải, 2006).
Những nhân tố chính ảnh hưởng đến
tổ chức không gian kiến trúc cảnh
quan bao gồm: Các thành phần của
kiến trúc cảnh quan với thành phần
tự nhiên và thành phần nhân tạo;
Các yêu cầu của không gian kiến trúc
cảnh quan: Yêu cầu sử dụng, yêu cầu
thẩm mỹ, yêu cầu bền vững, yêu cầu
kinh tế.
Về quy luật tổ chức không gian Một là: Cơ sở bố cục cảnh quan.
Theo đó, giá trị thẩm mỹ của không
gian kiến trúc cảnh quan được con
người cảm thụ thông qua các giác
quan, trong đó cảm thụ bằng thị giác
là chủ yếu. Về mặt thị giác, ba yếu tố
có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cảm
nhận và là cơ sở cho bố cục cảnh
quan gồm có: Điểm nhìn, tầm nhìn
và góc nhìn.
Hai là: Tạo hình không gian. Ở
đây, tất cả các không gian tự nhiên
và không gian nhân tạo đều được
tạo thành từ ba yếu tố cơ bản là:
Mặt nền, mặt trần và mặt đứng ngăn
không gian. Tuỳ theo thành phần về
ba yếu tố trên, không gian nói chung
có thể chia thành ba loại chính sau:
Không gian đóng, không gian mở và
không gian nửa đóng nửa mở. Tạo
cho không gian một hình dáng phù
hợp, quy mô, tính chất hợp lý với
chức năng sử dụng và nhu cầu thẩm
mỹ của con người là vấn đề quan
trọng trong việc tổ chức không gian
kiến trúc cảnh quan.
Ba là: Các quy luật bố cục cơ bản
như: Quy luật về đường trục bố cục,
quy luật bố cục đối xứng, quy luật
bố cục không đối xứng, quy luật tỷ lệ
không gian, quy luật về sự đồng nhất
và sự tương tự, quy luật về sự tương
phản, quy luật sáng tối và quy luật về
màu sắc.
Bên cạnh đó, ngày 25/5/2010,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
38/2010/NĐ-CP quy định về quản lý
không gian, kiến trúc và cảnh quan
85Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
đô thị với nguyên tắc đảm bảo tính
thống nhất trong quản lý từ không
gian tổng thể đô thị đến không gian
cụ thể thuộc đô thị. Nghị định gồm 6
Chương, 37 Điều, có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 25/5/2010 và thay thế
Nghị định số 29/2007/NĐ-CP ngày
27/2/2007 của Chính phủ về Quản lý
kiến trúc đô thị. Theo đó, việc quản lý
không gian, kiến trúc, cảnh quan đô
thị phải: Tuân thủ theo quy hoạch đô
thị, thiết kế đô thị và quy chế quản
lý quy hoạch, kiến trúc đô thị; Đảm
bảo tính thống nhất trong việc quản
lý từ không gian tổng thể đô thị đến
không gian cụ thể thuộc đô thị; Phải
có tính kế thừa kiến trúc, cảnh quan
đô thị và phù hợp với điều kiện, đặc
điểm tự nhiên. Đồng thời tôn trọng
tập quán, văn hóa địa phương, phát
huy các giá trị truyền thống để gìn
giữ bản sắc của từng vùng, miền
trong kiến trúc cảnh quan đô thị.
Lưu ý trong thiết kế các công trình
Các công trình công cộng có quy
mô lớn, công trình có yêu cầu kiến
trúc đặc thù, có ý nghĩa và vị trí quan
trọng trong đô thị phải thực hiện việc
thi tuyển hoặc tuyển chọn phương
án thiết kế kiến trúc theo quy định
trước khi lập dự án đầu tư xây dựng.
Nghị định cũng khuyến khích việc tổ
chức thi tuyển, tuyển chọn phương
án thiết kế kiến trúc đối với các công
trình khác trong đô thị. Kết hợp điều
kiện địa hình, hệ thống cây xanh,
mặt nước, giao thông hiện có tạo ra
không gian kết nối liên thông trong
đô thị, thông gió tự nhiên và cải thiện
môi trường đô thị. Khuyến khích xây
dựng các khu đô thị mới kiểu mẫu.
Các công trình kiến trúc trong đô thị
không được chiếm dụng trái phép
không gian đô thị nhằm mục đích
tăng diện tích sử dụng công trình.
Mặt ngoài công trình kiến trúc đô
thị không được sử dụng màu sắc, vật
liệu gây ảnh hưởng tới thị giác, sức
khỏe con người, yêu cầu về vệ sinh
và an toàn giao thông.
Theo Phụ lục 2, Thông tư 19/2010/
TT-BXD Hướng dẫn lập quy chế quản
lý quy hoạch kiến trúc đô thị việc quản
lý theo quy hoạch và không gian đô
thị được phân ra các khu vực cơ bản
sau: Khu vực đô thị hiện hữu; Khu vực
đô thị mới; Các trục đường, tuyến
phố chính; Khu vực trung tâm hành
chính – chính trị; Khu vực cảnh quan
trong đô thị; Khu vực bảo tồn; Khu
vực công nghiệp; Khu vực giáp ranh
nội, ngoại thị, làng xóm trong nội
thành, nội thị; Khu dự trữ phát triển,
an ninh quốc phòng.
Với những nội dung yêu cầu trên
đây, nhận thấy thách thức đối với
công tác Quản lý không gian, kiến
trúc cảnh quan ở thành phố Hạ Long
hiện nay là: Tuân thủ theo quy hoạch
đô thị, thiết kế đô thị và quy chế quản
lý quy hoạch, kiến trúc đô thị; Với khối
lượng các công trình dự kiến được
xây dựng rất lớn như đã nêu, đây,
việc theo dõi, quản lý và giám sát quá
trình xây dựng của các công trình,
nhằm đảm bảo việc xây dựng tuân
thủ theo đúng Quy hoạch chung
xây dựng thành phố Hạ Long đến
năm 2020 là một thách thức đối với
Phòng Quản lý đô thị thành phố nói
riêng và với cả thành phố Hạ Long
nói chung. Cần có đủ nhân sự và kế
hoạch giám sát thực thi công tác xây
dựng để đảm bảo quá trình xây dựng
riêng lẻ của từng công trình không vi
phạm nội dung của quy hoạch, thiết
kế đô thị chung. Trong trường hợp
nhận diện được vi phạm, cần thông
báo với các cấp có thẩm quyền ngay
từ khi mới phát sinh để sớm có biện
pháp khắc phục mỗi công trình,
hướng đến thống nhất quy hoạch
chung của toàn thành phố.
Cần đảm bảo tính thống nhất
trong việc quản lý từ không gian
tổng thể đô thị đến không gian cụ
thể thuộc đô thị
Các công trình trên địa bàn thành
phố đã được phê duyệt thiết kế xây
dựng đều là các công trình có độ
phức tạp cao, có thể kể đến như: Việc
giám sát thi công các công trình này
trên góc độ của bộ phận Quản lý đô
thị yêu cầu một đội ngũ năng lực giàu
kinh nghiệm, đủ khả năng giám sát
việc thực thi tuân thủ đúng nội dung
thiết kế từng công trình, vừa đảm
bảo tính thông nhất với không gian
tổng thể đô thị của thành phố; đồng
thời đủ khả năng chỉ ra những điểm
bất cập trong quá trình triển khai
xây dựng từng công trình để kịp thời
phối hợp với chủ đầu tư xây dựng
đưa ra giải pháp khắc phục sớm nhất.
Kế thừa kiến trúc, cảnh quan đô
thị và phù hợp với điều kiện, đặc
điểm tự nhiên
Với điều kiện rất đặc biệt, Hạ Long
là nơi có địa danh Vịnh Hạ Long – kỳ
quan thiên nhiên thế giới đã được
UNESCO và thế giới công nhận, kèm
theo đó là những yêu cầu rất cao đối
với công tác bảo tồn thiên nhiên, kỳ
quan…, việc quản lý chất lượng xây
dựng đối với số lượng lớn các công
trình được dự kiến triển khai se là
86 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
thách thức lớn nhất đối với thành
phố Hạ Long. Bởi với số lượng công
trình xây dựng nhiều, khối lượng đất
đá, phế thải, bụi bặm… được thải ra
môi trường là rất lớn. Thực tế trong
những ngày này, không khí tại Hạ
Long bắt đầu bị ảnh hưởng bởi khối
lượng bụi đất đến từ các công trình
xây dựng. Tình trạng bụi đất làm cản
trở tầm nhìn cũng như sinh hoạt của
người dân Hạ Long đã diễn ra. Nếu
trong thời gian dài không có sự kiểm
soát tốt của các cơ quan chức năng
thì việc ảnh hưởng đến môi trường,
đặc điểm tự nhiên của đô thị vùng
biển chắc chắn se rất nghiêm trọng.
Việc kiểm soát tốt yếu tố kỹ thuật xây
dựng về tác động đến môi trường
se cần đội ngũ nhân sự đủ khả năng
và số lượng người để kiểm soát theo
từng giai đoạn xây dựng. Đồng thời
cần đủ khả năng đánh giá được mức
độ tác động đến môi trường xung
quanh, từ đó yêu cầu và phối hợp với
các đơn vị xây dựng trong việc giảm
thiểu tối đa các tác động đến môi
trường xung quanh.
Cần tôn trọng tập quán, văn
hóa địa phương, phát huy các giá
trị truyền thống để gìn giữ bản sắc
của từng vùng, miền trong kiến trúc
cảnh quan đô thị
Đây là một yêu cầu khó đối với
công tác quản lý kiến trúc cảnh quan
đô thị tại Hạ Long trong giai đoạn
này. Với số lượng các công trình đang
và se xây dựng, mỗi công trình đều
mang đặc thù khác nhau theo yêu
cầu của mỗi chủ đầu tư; lồng ghép
trong đó là yếu tố bản sắc của mỗi
công trình cũng được cá biệt hóa
để mang tính khác biệt thu hút.
Chính những điểm khác biệt này đã
tạo ra sự khác biệt với bản sắc kiến
trúc nói chung của đô thị vùng biển.
Cho đến thời điểm hiện tại, đa phần
các công trình đã được phê duyệt
triển khai đều có đặc thù phù hợp
với đô thị ven biển, ví dụ như “Cảng
du thuyền nhân tạo lớn nhất Việt
Nam” - Cảng tàu khách quốc tế Tuần
Châu (TP Hạ Long) tiếp tục được Tập
đoàn Tuần Châu đầu tư; Tổ hợp dự
án Công viên Đại Dương Hạ Long
do Tập đoàn Sun Group đầu tư theo
mô hình công viên Disneyland, quy
mô khoảng 195(ha) tại phường Bãi
Cháy và phường Hồng Gai, gồm các
hạng mục chính như: Hệ thống cáp
treo (cáp treo Nữ hoàng) với 3 cabin
sức chứa 230 khách/cabin; vòng xoay
khổng lồ Mặt trời Hạ Long, khu thuỷ
cung lớn, công viên nước khổng lồ,
các công trình thương mại, dịch vụ
cao cấp...
Việc xây dựng các công trình tại Hạ
Long mang tính tất yếu cho quá trình
phát triển tại Hạ Long và tỉnh Quảng
Ninh. Các công trình xây dựng là điểm
khởi đầu cho giai đoạn phát triển kinh
tế vượt bậc tại Hạ Long. Tuy nhiên,
cũng đặt ra những thách thức rất lớn
đối với công tác quản lý xây dựng nói
chung và quản lý không gian, kiến trúc
cảnh quan nói riêng tại đây. Để công
tác quản lý kiến trúc cảnh quan được
thực hiện tốt, cần có định hướng và chỉ
đạo sát sao từ ban lãnh đạo thành phố
và sự chuẩn bị tốt của các phòng ban
chức năng về công tác quản lý kiến
trúc cảnh quan tại đây. Việc này cần
phải được triển khai càng sớm càng
tốt để tương thích với tốc độ phát triển
hiện nay của Hạ Long. Chắc chắn, nếu
công tác quản lý kiến trúc cảnh quan
được thực hiện tốt, Hạ Long sẽ sớm
thành tâm điểm về kinh tế, du lịch của
quốc gia và khu vực với điểm nổi bật là
các kiến trúc đẹp, độc đáo của một đô
thị vùng biển.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Quy hoạch đô thị, năm
2009.
2. Nghị định 38/2010/NĐ-CP ngày
07 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ
về “Quản lý không gian, kiến trúc,
cảnh quan đô thị”
3. Thủ tướng Chính phủ (2004)
Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về
“Định hướng chiến lược PTVB ở Việt
Nam”
4. Thủ tướng Chính phủ (2015)
Chỉ thị số 20/2015/CT-TTg về “Tăng
cường công tác quản lý Quy hoạch,
đầu tư xây dựng và quản lý đất đai
các dự án ven biển.
5. Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày
07/02/2013 của Chính phủ V/v quy
hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và
kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu
(2011-2015) tỉnh Quảng Ninh;
6. Quyết định số 2622/QĐ-TTg
ngày 31/12/2013 của Thủ tướng
Chính phủ V/v Phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030.
7. Thông tư 19/2010/TT-BXD ngày
22 tháng 10 năm 2010 của Bộ Xây
dựng V/v Hướng dẫn lập quy chế
quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị.
8. Hàn Tất Ngạn (2011), “Kiến trúc
cảnh quan”, NXB Xây dựng.
*TT Thí nghiệm và kiểm định Chất lượng Công trình – ĐH Kiến trúc Hà Nội **Khoa Xây dựng, Đại học Nagoya, Nhật Bản
Tóm tắt: Lan can an toàn trên đường và cầu cao tốc đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn cho người và phương tiện khi tham gia giao thông. Bài báo đi sâu nghiên cứu, phân tích ứng xử của lan can an toàn khi xảy ra va chạm với phương tiện giao thông nhằm đảm bảo các yêu cầu đề ra với lan can theo tiêu chuẩn chung cũng như làm rõ các ghi ngờ của các kỹ sư và nhà nghiên cứu đối với hệ lan can trên một số đoạn đường cong.
Từ khóa: Lan can an toàn, đường cao tốc, tải trọng, va chạm.
Abstract: Safety rails on roads and highway bridges play an important role in ensuring the safety for people and vehicles in traffic. The article deeply studies and analyzes the behaviours of safety rails in the event of collision with means of transport in order to make sure that the requirements for rails follow the general standards as well as to clarify the suspicions of the engineers and researchers about the rail systems on some curved road sections.
Key words: Safety handrail, highway, weight, collision
Trong thiết kế lan can an toàn cho công trình cầu và
đường bộ, căn cứ vào vật liệu chế tạo hệ lan can được
chia thành hai loại: (1) Hệ lan can cứng – thường được
chế tạo từ vật liệu bê tông; và (2) Hệ lan can mềm – được
chế tạo từ vật liệu kim loại. Đối với loại thứ 2 thường được
sử dụng phổ biến trên các đường cao tốc do hệ này có
một số đặc điểm khác so với hệ lan can cứng như: Có biến
dạng lớn, hấp thu được động năng va chạm lớn hơn và
dẫn hướng để ô tô trở lại làn đường sau khi va chạm tốt
hơn. Trong xu hướng phát triển mạnh me hiện nay của
các phương tiện giao thông cũng như hệ thống hạ tầng
đi kèm, theo đó trọng tải của xe cũng như tốc độ tối đa
cho phép ngày một tăng đã và đang là các thách thức đối
với các kỹ sư thiết kế hệ thống lan can an toàn sử dụng
cho cầu và đường cao tốc.
Trên thế giới nói chung và Nhật Bản nói riêng, hệ lan
can an toàn trên cầu đường bộ được thiết kế và sử dụng
với nhiều loại và kiểu dáng đa dạng khác nhau. Ứng xử
của hệ lan can cũng đã được nhiều nghiên cứu thực hiện.
Kiểm tra an toàn của lan can cầu chế tạo từ vật liệu nhôm
đúc bắc qua sông Annisquam (Mỹ) theo cấp độ an toàn
3 [1] và 4 [2] theo yêu cầu của tiêu chuẩn đường bộ Mỹ
[3]. Ứng xử của hệ lan can an toàn dưới tải trọng va chạm
của xe tải (lên tới 25 tấn) được thực hiện nghiên cứu dựa
trên mô phỏng bằng phần mềm [4, 5, 6]. Đặc điểm trung
của các nghiên cứu này là va chạm giữa xe ô tô và hệ lan
can an toàn được mô phỏng bằng mô hình phần tử hữu
hạn (PTHH) bằng phần mềm LS-DYNA 3D, kết quả phân
tích bằng phần mềm được kiểm chứng với kết quả thực
nghiệm.
Nhận ngày 5/5/2017, chỉnh sửa ngày 10/5/2017, chấp nhận đăng ngày 20/5/2017
87Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
XÂY DỰNG THẾ GIỚI
THEO TIÊU CHUẨN NHẬT BẢN
Lê Hữu Thanh*Itoh Yoshito**
LAN CAN AN TOÀNTRÊN CẦU VÀ ĐƯỜNG CAO TỐC
Trong thiết kế lan can an toàn cho cầu và đường cao
tốc, tại các khúc cua có đoạn đường hoặc cầu cong, hệ lan
can an toàn bắt buộc phải được bố trí. Theo tiêu chuẩn
của Nhật Bản [7], giống như yêu cầu khi thiết kế hệ lan
can trên các đoạn đường thẳng, lan can của đường và
cầu cong tại các khúc cua cũng bắt buộc thỏa mãn các
yêu cầu khi tai nạn do các phương tiện đâm vào như sau:
(1) Hàng rào phải ngăn các phương tiện không trượt ra
khỏi đường; (2) bảo vệ được tính mạng con người; (3) dẫn
hướng để phương tiện trở lại mặt đường và (4) không bị
phá hoại (đứt rời). Tuy nhiên, ứng xử của hệ lan can trong
trường hợp này còn nhiều nghi ngờ khi cho rằng: Trong
cùng một điều kiện va chạm và cấp độ an toàn của hệ lan
can, trên đoạn đường cong hệ lan can có ứng xử an toàn
và ưu điểm hơn so với cùng hệ lan can khi bố trí trên các
đoạn đường thẳng.
Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu này được tiến
hành để khảo sát sự làm việc của hàng rào dạng cong lồi
khi chịu tác động va chạm do xe tải gây ra và làm rõ các
nghi ngờ trên của các kỹ sư và các nhà nghiên cứu như đã
nêu. Việc nghiên cứu được thực hiện bằng thực nghiệm
với mô hình đầy đủ se cho kết quả chính xác nhất. Tuy
nhiên, trong giới hạn không cho phép về thời gian và
chi phí, bài báo thực hiện nghiên cứu ứng xử hệ lan can
trong va chạm bởi xe tải bằng mô hình PTHH dựa trên
phần mềm LS-DYNA 3D với các bước thực hiện như sau:
(1) Thiết kế và kiểm tra ứng xử các bộ phận của hệ lan can
bằng mô hình số và thực nghiệm; và (2) Nghiên cứu ứng
xử của cả hệ lan can bằng mô hình PTHH dựa trên mô
hình của các bộ phận hệ lan can đã kiểm chứng và xây
dựng được từ bước (1).
Nghiên cứu thực hiện cho hệ lan can phân cấp theo
tiêu chuẩn Nhật Bản [7] với cấp độ A. Đối với lan can có
cấp độ đang xét, điều kiện va chạm tối đa mà hệ lan can
có thể chịu được là: (1) xe tải có trọng lượng 25 tấn khi va
chạm; (2) tốc độ tối đa của xe tải là 45 km/h; (3) và góc va
chạm là 15o. Mô hình tính được thiết lập bởi phần mềm
LS-DYNA 3D được giới thiệu sau đây.
CÁC BỘ PHẬN CỦA HỆ LAN CAN AN TOÀN
Trong nghiên cứu này, hai loại cột hàng rào được xem
xét và phân tích có tên loại M và R với hình dáng và kích
thước như giới thiệu trên Hình 1. Sự khác nhau cơ bản của
hai loại cột này là việc thu nhỏ tiết diện tại mặt cắt gần
chân cột trong loại R. Mục đích của việc thu nhỏ này là
nhằm phân phối đều động năng khi cột đón nhận năng
lượng từ xe tải khi va chạm xảy ra. Theo tiêu chuẩn Nhật
Bản [7], khả năng chịu lực cũng như ứng xử của cột trong
hệ lan can phải được nghiên cứu kiểm chứng bằng thực
nghiệm trước khi được tiến hành lắp dựng ngoài thực tế.
Do vậy trong nghiên cứu này, cả hai loại cột M và R được
thí nghiệm cho cả hai trường hợp chịu tải trọng tĩnh và
tải trọng va chạm.
Thí nghiệm chịu tải trọng tĩnh đối với cột là tác dụng
lên cột một lực (lực kéo ngang) để gây ra chuyển vị ngang
tại đầu cột một khoảng theo tiêu chuẩn [7] là 300 mm.
Cột được cấu tạo gồm một đầu liên kết cố định và một
đầu tự do. Thí nghiệm chịu tải trọng va chạm có sơ đồ
thực hiện như trong Hình 1 (c). Khi đó, cột chịu tác động
bởi quả cầu thép có khối lượng 470 kg rơi từ độ cao thiết
kế cho trước. Độ cao này được tính toán để có thể gây ra
chuyển vị tại đầu cột với giá trị bằng 300 mm giống như
trong thí nghiệm chịu tải trọng tĩnh.
Hình 1 .Hình dáng và kích thước cột trong hệ lan can: (a) Loại M; (b)
Loại R; và (c) thí nghiệm cột chịu tác động va chạm
Với kết quả thu được từ các thực nghiệm trên se được
sử dụng làm kết quả kiểm chứng trong việc xây dựng mô
hình PTHH cho hai loại cột M và R.
Hình 2 giới thiệu mô hình PTHH của cột M và R trong
phần mềm LS-DYNA. Cột được chế tạo từ vật liệu thép
SS400 với các đặc trưng lấy theo tiêu chuẩn Nhật Bản
như: Module đàn hồi 206 GPa, giới hạn chảy 235 MPa, hệ
88 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
XÂY DỰNG THẾ GIỚI
số Poisson 0.3. Các bụng và cánh của cột được mô phỏng
bởi phần tử shell 4 nút sử dụng mô hình vật liệu isotropic
elasto-plastic. Đường cong quan hệ Ứng suất – Biến dạng
có kể tới ảnh hưởng của tốc độ biến dạng và được nhập
vào trong sơ đồ vật liệu của LS-DYNA 3D. Cột được mô
phỏng như một thanh consol với liên kết ngầm tại chân
cột.
Hình 2. Mô hình PTHH của cột khi chịu tải trọng do va chạm:
(a) Loại M và(b) Loại R
Kết quả ứng xử của cột bằng thực nghiệm và mô hình
phần tử hữu hạn được giới thiệu như trên Hình 3. Kết quả
trình bày ở Hình 3 cho ta thấy rằng, ứng xử của cột nghiên
cứu bằng mô hình PTHH cho kết quả gần với kết quả thu
được từ thực nghiệm. Ví dụ: Đối với loại cột M, chuyển vị
lớn nhất theo kết quả thực nghiệm là 330 mm và theo
tính toán là 322 mm. Đối với loại cột R-type, chuyển vị lớn
nhất đo được trong thực nghiệm và tính toán tương ứng
là 330 mm và 259 mm. Có một phần sai khác lớn trong
loại cột R là do mất ổn định cục bộ xảy ra tại chân cột nên
làm cho chuyển vị tại đầu cột tăng lên đáng kể khi thực
nghiệm.
Các kết quả so sánh cũng cho ta thấy rằng đường cong
chuyển vị trong mô hình và thực nghiệm tương đối hội tụ
và giống nhau. Các cột thỏa mãn được các yêu cầu quy
định trong tiêu chuẩn Nhật Bản về chuyển vị lớn nhất.
Do vậy ta thấy rằng, ứng xử của cột dưới tác động của
tải trọng va chạm có thể nghiên cứu được bằng phương
pháp PTHH sử dụng phần mềm LS-DYNA 3D.
Hình 3. So sánh kết quả chuyển vị giữa mô hình thực nghiệm và
PTHH
ỨNG XỬ CỦA HỆ LAN CAN AN TOÀN TRÊN CẦU VÀ
ĐƯỜNG TẠI CÁC KHÚC CUA
Hệ lan can an toàn bao gồm các cột - như giới thiệu
trong Mục 2, các thanh ngang được cấu tạo từ các thép
ống và hệ móng bê tông cốt thép. Trong phần này trình
bày kết quả nghiên cứu ứng xử của hệ lan can khi va
chạm với xe tải bằng mô hình PTHH. Trong đó, mô hình
của hệ lan can sử dụng mô hình cột đã được kiểm chứng
bằng thực nghiệm và phát triển thành công trong mục 2.
Tương ứng với tên gọi của hai loại cột, mô hình PTHH của
hệ lan can cũng được đặt theo tên của loại cột tương ứng
là lan can loại M và R. Các hàng rào được thiết kế với cấp
độ A theo tiêu chuẩn Nhật Bản để chịu được va chạm của
xe tải với khối lượng tối đa cho phép 25 tấn, có vận tốc 45
km/h và góc va chạm bằng 15o.
1. Mô hình PTHH của các bộ phận trong hệ lan can
Các bộ phận của hệ lan can an toàn xây dựng bằng
mô hình PTHH trong phần mềm LS-DYNA 3D được giới
thiệu như trong Hình 4. Các bộ phận cơ bản của hệ lan
can như: Các cột, dầm dọc trên và dưới được mô hình
bằng các phần tử shell bốn nút. Thép chế tạo dầm được
lấy theo mô hình vật liệu Elasto-Plastic. Hệ móng bê tông
cốt thép được mô hình là các phần tử khối – Solid. Móng
được xem như liên kết ngầm tại chân móng.
Hình 4. Mô hình PTHH của hệ lan can M và R
89Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
XÂY DỰNG THẾ GIỚI
Mô hình PTHH của xe tải được mô phỏng gần giống
như cấu tạo của xe trong thực tế với các bộ phận như
cabin, thùng, động cơ, hàng hóa Hình 5. Tùy theo cấu tạo,
mà các bộ phận của xe được mô phỏng bởi phần tử shell
hay solid. Khối lượng của toàn bộ xe khi va chạm với hệ
lan can được nghiên cứu với tải trọng là 25 tấn bằng cách
chất thêm (mô hình) các tải trọng trên thùng xe. Mô hình
đầy đủ mô phỏng va chạm giữa xe tải 25 tấn đâm vào hệ
lan can với vận tốc 45 km/h, góc va chạm 15 độ được giới
thiệu như trong Hình 6. Các cột chịu tác động nguy hiểm
nằm trong vùng va chạm là các cột được đánh số thứ tự
từ P6 – P11.
Hình 5. Mô hình PTHH của hệ lan can M và R
Hình 6. Mô hình PTHH của hệ lan can trong va chạm với xe tải
2. Kết quả chuyển vị
Chuyển vị lớn nhất trong hệ lan can đo được tại vị trí
đỉnh của cột P8. Kết quả chuyển vị này được so sánh với
chuyển vị của hai loại lan can có cùng cấp độ nhưng khác
về bán kính cong (hệ lan can cong lõm và thẳng) như
Hình 7. Theo đó, trong quá trình va chạm, xảy ra hai giai
đoạn va chạm: Giai đoạn 1 khi đầu xe đâm vào lan can và
giai đoạn 2 xảy ra sau khi xe được dẫn vào làn bởi dầm
dọc của hệ lan can và đuôi xe va vào hệ lan can một lần
nữa. Kết quả chuyển vị cho ta thấy trong hệ lan can với
bán kính cong lồi đang xét, chuyển vị lớn hơn nhiều so
với chuyển vị xảy ra trong hai loại lan can còn lại.
Hình 7. Kết quả so sánh chuyển vị giữa các kiểu hàng rào thẳng
và cong
3. Vận tốc và di chuyển của xe trong quá trình va chạm
Hình 8 giới thiệu đường cong giảm vận tốc của xe
trong quá trình va chạm. Theo tiêu chuẩn Nhật Bản [7],
vận tốc của xe còn lại sau khi kết thúc giai đoạn va chạm
thứ 2 phải lớn hơn 60 phần trăm vận tốc của xe trước khi
đâm vào hệ lan can. Hình 9 giới thiệu sự di chuyển của xe
trong quá trình va chạm, ta thấy rằng tại thời điểm t = 0,2
s, đầu xe đâm vào hệ lan can tương ứng với giai đoạn va
chạm thứ 1. Thời điểm t = 0,8 s tương ứng với giai đoạn
va chạm thứ 2 khi đuôi xe va vào hệ lan can. Sau quá trình
va chạm Hình 9 cho ta thấy rằng xe được hệ lan can dẫn
quay trở về làn và hệ lan can vẫn chưa bị đứt.
Đối chiếu với các yêu cầu trong tiêu chuẩn, hệ lan can
trong nghiên cứu đang xét đảm bảo các yêu cầu chịu lực,
chuyển vị cũng như biến dạng khi chịu tác động của va
chạm từ xe tải có trọng lượng 25 tấn di chuyển với vận tốc
45 km/h và góc va chạm là 15 độ. Hệ lan can đủ điều kiện
để xem xét lắp đặt trên các đoạn đường và cầu cong (có
bán kính cong lồi) trên các đường cao tốc.
Hình 8. Vận tốc của xe trong quá trình va chạm
90 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
XÂY DỰNG THẾ GIỚI
Hình 9. Di chuyển của xe trong quá trình va chạm
Bằng mô hình PTHH xây dựng trong phần mềm LS-
DYNA 3D, bài báo thực hiện nghiên cứu ứng xử của hệ lan
can an toàn trong va chạm với xe tải có trọng lượng 25
tấn, vận tốc di chuyển 45 km/h và góc va chạm 15 độ. Lan
can được nghiên cứu gồm hai loại M và R có cấp thiết kế
là cấp A. Theo kết quả nghiên cứu đã đạt được, một số kết
luận và thảo luận được giới thiệu như sau:
(1) Bằng mô hình PTHH sử dụng phần mềm LS-DYNA
3D có thể nghiên cứu được ứng xử của hệ lan can an
toàn bằng thép chịu tác động của tải trọng va chạm do
phương tiện giao thông gây ra.
(2) Cả hai loại lan can an toàn Mvà R thỏa mãn các yêu
cầu trong tiêu chuẩn Nhật Bản và có thể được sử dụng để
lắp đặt trên các cung đường cong với bán kính cong lồi.
(3) Ứng xử của hệ lan can an toàn tại các đoạn đường
có bán kính cong lồi có nhiều bất lợi hơn (chuyển vị lớn
hơn) so với hệ lan can cùng cấp lắp đặt trên đoạn đường
thẳng và có bán kính cong lõm.
Bằng việc đi sâu nghiên cứu và phân tích ứng xử của
lan can an toàn trên đường và cầu cao tốc khi xảy ra va
chạm với phương tiện giao thông đã giúp nâng cao công
tác đảm bảo an toàn cho người và phương tiện khi tham
gia giao thông.
Tài liệu tham khảo
[1]. M.H. Ray, E. Oldani, C.A. Plaxico, “Design and
Analysis of an Aluminum F-shape Bridge Railing”,
International Journal of Crashworthiness, 9(4), 349-363,
2004.
[2]. M.H. Ray, M. Mongiardini, A.O. Atahan, “Design and
Analysis of Annisquam River Bridge Railing”, International
Journal of Crashworthiness, 14(2), 197-213, 2009.
[3]. Transportation Research Board, “Recommended
Procedures for the Safety Performance Evaluation of
Highway Features”, National Cooperative Highway
Research Program, Report 350, Washington, United
States, 1993.
[4]. Y. Itoh, C. Liu, K. Usami, “Nonlinear Collision Analysis
of Vehicles onto Bridge Guard Fences”, in “The Seventh
East Asia-Pacific Conference on Structural Engineering &
Construction”, Kochi, Japan, 531-536, 1999.
[5]. Y. Itoh, C.Liu, “Nonlinear Collision Analysis of Heavy
Trucks onto Steel Highway Guard Fences”, Journal of
Structural Engineering and Mechanics, 12(5), 541-558,
2001.
[6]. B. Liu, Y. Itoh, “Numerical Analysis on Vehicle
Collision for Performances-based Design of a New Type
of Guard fences”, in “1st International Conference on
Construction Information Techniques”, Beijing, China,
476-483, 2004.
[7]. Japan Road Association, “The Specifications of
Railing Design”, Maruzen Press, Tokyo, Japan, 2008 (in
Japanese).
91Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
XÂY DỰNG THẾ GIỚI
* Giám đốc TT Ngoại ngữ - Học viện AMC
92 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
GÓC TIẾNG ANH
Dạy và học từ vựng là một trong những hoạt động cơ bản nhất, thiết yếu nhất của quá trình dạy và học ngoại ngữ. Khi học bất cứ môn ngoại ngữ nào, từ vựng luôn đóng vai trò rất quan trọng. Học từ vựng tiếng Anh nói chung và tiếng Anh chuyên ngành nói riêng là cả một quá trình lâu dài và liên tục. Học để nhớ được ngữ nghĩa và sử dụng được vốn từ vựng đòi hỏi rất nhiều công sức. Nếu áp dụng phương pháp học từ vựng phù hợp, học viên có thể đạt những kết quả như mong đợi.
MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY VÀ HỌC TỪ VỰNG TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG
Sau đây là một số kinh nghiệm
dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên
ngành Xây dựng hiệu quả, giúp cho
giáo viên cùng học viên tham khảo
cũng như chọn cho mình phương
pháp dạy và học thích hợp.
Giới thiệu và luyện tập từ vựng phù
hợp với trình độ
Giáo viên nên giới thiệu và luyện
tập từ vựng phù hợp với trình độ, gắn
liền với nội dung bài học và các chủ
đề mà học viên quan tâm, có biện
pháp kiểm tra, khuyến khích học viên
học từ thường xuyên. Để có thể nâng
cao chất lượng học từ vựng, học viên
cần đặt ra những mục tiêu lớn và dài
hạn cho việc học tiếng Anh chuyên
ngành vì học ngoại ngữ bao giờ cũng
cần thời gian, đồng thời phải tạo cho
mình thói quen học hàng ngày. Như
vậy mới có thể học và sử dụng được
tiếng Anh phục vụ cho mục đích của
mình.
Sổ tay ghi từ mới tiếng Anh chuyên
ngành
Mỗi học viên nên có sổ tay ghi từ
mới tiếng Anh chuyên ngành. Các từ
có thể được sắp xếp theo bảng chữ
cái, chủ đề hay theo bài học. Cuốn
sổ ghi chép từ vựng gồm 4 cột, cột
Dạy và học từ vựng là một trong những hoạt động cơ bản nhất của quá trình dạyvà học ngoại ngữ
Ths. Vũ Thị Thanh Hương*
DẠY VÀ HỌC
TỪ VỰNG TIẾNG ANH
CHUYÊN NGÀNH
XÂY DỰNG
MỘT CÁCH HIỆU QUẢ
thứ nhất là từ tiếng Anh, cột thứ 2 là phonetic (phát âm) để đọc cho đúng, cột thứ 3 là nghĩa tiếng Việt và cột thứ tư là ví dụ cho từ đó. Se tốt hơn khi học viên nêu từ trong cụm từ, cấu trúc, ví dụ minh họa từ bằng hình ảnh, hay dùng các màu viết khác nhau. Việc sử dụng hình ảnh và âm thanh rất quan trọng trong việc nhớ và sử dụng từ vựng chuyên ngành tiếng Anh. Tranh ảnh và các vật thể giúp chúng ta nhớ từ rất tốt. Hãy tạo hình ảnh ấn tượng về một từ, thuật ngữ trong đầu. Với cách học người học có ấn tượng mạnh về từ và học từ không cần phải dịch sang tiếng Việt nữa.
Học từ vựng trong ngữ cảnhNgữ cảnh của một từ là bối cảnh
mà trong đó từ này được dùng khi nói hay viết. Định nghĩa trực tiếp, chú giải hay đồng nghĩa và đầu mối ngữ cảnh ở dạng ngầm hiểu se giúp chúng ta đoán nghĩa, hiểu nghĩa của từ. Người học có thể tự đặt câu riêng nói về bản thân, hoặc câu chuyện vui và đơn giản sử dụng từ, thuật ngữ cần nhớ. Đầu giờ hoặc cuối giờ, giáo viên chia lớp thành nhóm nhỏ 4-5 người. Mỗi nhóm se nhận được một số phiếu từ ghi các từ đã học tương ứng với số thành viên. Mỗi nhóm se có một nhóm trưởng, đo thời gian và điều khiển hoạt động của nhóm. Nhóm trưởng se cho từng người lần lượt rút thăm một phiếu từ và có mười giây để chuẩn bị các câu se nói, sử dụng những từ trong phiếu từ. Sau đó, nhóm trưởng se đo thời gian, các thành viên khác lắng nghe thành viên đó nói. Nguyên tắc của hoạt động này là người nói phải nói liên tục trong vòng một phút.
Xây dựng hộp từ vựng chung của cả lớp
Xây dựng hộp từ vựng chung của cả lớp, tự làm cuốn từ điển cá
nhân, nhóm từ theo chủ đề. Với sự hướng dẫn, gợi ý của giáo viên, cả lớp cùng làm một hộp từ vựng bao gồm các cặp phiếu từ cuối mỗi giờ học. Trong cặp phiếu từ, một phiếu viết một từ mới, thuật ngữ mới xuất hiện trong bài học. Phiếu từ còn lại ghi các thông tin của từ hay ghi các định nghĩa, miêu tả về từ và thuật ngữ nhưng không nhắc đến chúng. Thỉnh thoảng, giáo viên yêu cầu học viên lấy các phiếu đã ra để luyện tập, ôn lại và chơi trò chơi để tìm ra người chiến thắng, người nhớ được nhiều từ, đặt ví dụ nhiều nhất, đọc đúng và nhiều định nghĩa nhất.
Học từ vựng mọi lúc mọi nơiVí dụ, chúng ta mua tập giấy dán
(stick note), ghi từ tiếng Anh của bất kể vật dụng gì ở bàn học cũng như trong nhà và dán nó vào đó. Có thể khi chúng ta không có ý học từ vựng tiếng Anh nhưng khi nhìn thấy những vật dụng đó, từ tiếng Anh nó hiển thị luôn khi đó chúng ta đã học thêm 1 lần từ đó. Cứ như thế dần dần se thuộc được từ đó.
Nắm vững kiến thức cơ bản chuyên ngành Xây dựng
Để nhớ từ vựng và sử dụng được tiếng Anh chuyên ngành Xây dựng,
cả giáo viên và học viên phải nắm được kiến thức cơ bản của chuyên ngành Xây dựng. Việc vận dụng các kiến thức chuyên môn vào việc học dịch tiếng Anh là quan trọng, góp phần hỗ trợ bạn rất nhiều trong quá trình học.
Kiên trì thói quen luyện tập hàng ngày
Quá trình học từ vựng và dịch được tiếng Anh chuyên ngành Xây dựng không hề dễ dàng, đòi hỏi mỗi học viên kiên trì luyện tập hàng ngày mới có thể mang lại hiệu quả tốt nhất. Một ngày, trung bình học viên có thể dành ra từ 30-45 phút cho việc học từ vựng, đọc hiểu tài liệu và viết câu, tuyệt đối không nên học dồn dập một lúc nhồi nhét nhiều kiến thức và đầu có thể se bị phản tác dụng. Vừa học vừa luyện tập se mang lại hiệu quả tốt hơn.
CÁC PHƯƠNG PHÁP TRONG GIẢNG DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG
Phương pháp Ngữ pháp - Dịch thuật (Grammar- Translation Method)
Đây là phương pháp giảng dạy ngoại ngữ truyền thống. Phương
pháp này coi mục đích chủ yếu của
dạy và học từ vựng tiếng Anh là cung
Lớp bồi dưỡng Tiếng Anh giao tiếp cho cán bộ viên chức của Học viện AMC
93Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
GÓC TIẾNG ANH
cấp cho người học hệ thống từ vựng
và ngữ pháp tiếng Anh để phát triển
kỹ năng đọc hiểu, học thuộc lòng từ
vựng, dịch văn bản v.v… không chú
trọng vào kỹ năng giao tiếp. Phương
pháp này tương đối phù hợp với học
viên lớn tuổi vì phần lớn học viên
cần từ vựng và cấu trúc ngữ pháp
phục vụ dịch tài liệu. Phương pháp
Ngữ pháp - Dịch đã được sử dụng
phổ biến trong một thời gian dài và
nó có những ưu điểm không thể phủ
nhận. Đó là người học được rèn luyện
rất kỹ về ngữ pháp và tiếp thu lượng
từ vựng khá nhiều và có thể đọc hiểu
nhanh các văn bản. Các giáo viên nên
phát huy ưu điểm của phương pháp
này để dạy từ vựng cho học viên.
Phương pháp Nghe – Nói (Audiolingual Method) chú trọng
vào việc dạy kỹ năng nói và nghe
trước kỹ năng đọc và viết. Việc cung
cấp kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp) thông qua quá trình
dạy học. Việc dạy từ vựng không
thông qua tiếng mẹ đẻ mà thông
qua tình huống giao tiếp cụ thể.
Trên cơ sở đó học viên được mở rộng
vốn từ vựng. Giáo viên nên kết hợp
phương pháp Ngữ pháp – Dịch và
phương pháp Nghe - Nói để dạy từ
vựng. Như vậy, học viên vừa có vốn từ
vựng phong phú, vừa sử dụng được
các từ đã biết vào các tình huống
giao tiếp cụ thể.
Phương pháp Giao tiếp (Communocative approach) được
xem là phương pháp dùng phổ biến
và hiệu quả nhất hiện nay. Mục tiêu
chính của phương pháp này là phát
triển kỹ năng giao tiếp. Với phương
pháp này, người học từ vựng không
chỉ biết được cách đọc, cách viết và
ngữ nghĩa của từ mà còn phải đạt
được năng lực giao tiếp; tức là phát
triển được tất cả 4 kỹ năng ngôn
ngữ (nghe, nói, đọc, viết) và sử dụng
được từ vựng đó để giao tiếp. Với
quan điểm lấy năng lực giao tiếp của
người học làm trung tâm thì từ vựng
được coi là một trong ba thành tố
làm công cụ hay phương tiện để hình
thành và phát triển các kỹ năng ngôn
ngữ. Từ vựng được dạy lồng ghép
với ngữ pháp và ngữ âm thông qua
các kỹ năng giao tiếp. Điều này giúp
người học hiểu nghĩa của từ dễ dàng
hơn vì kỹ năng giao tiếp luôn mang
ngữ cảnh giao tiếp cụ thể sinh động.
Mặt khác, việc học từ vựng thông
qua kỹ năng giao tiếp kích thích nhu
cầu sử dụng từ mới như một công
cụ phát triển kỹ năng. Giáo viên cần
tạo điều kiện cho học viên phát triển
vốn từ vựng ngẫu nhiên thông qua
đọc rộng (extensive reading) và nghe
rộng (extensive listening). Điều này
giúp người học học được từ mới vì các
từ này đã được đặt trong ngữ cảnh cụ
thể. Phương pháp giao tiếp giúp giáo
viên và học viên học từ vựng một
cách tổng thể. Học viên được chú
trọng đến các khía cạnh khác của
từ như: Hình thái chữ viết (spelling),
cách phát âm (pronuncication), hình
thái ngữ nghĩa (lexical meaning),
hình thái ngữ pháp (grammatical
form) và cách sử dụng (use). Dạy và
học từ thông qua nhiều thủ thuật
khác nhau. Việc làm này giúp dạy
từ vựng có hiệu quả hơn và nhớ lâu
hơn. Dạy và học từ thông qua luyện
tập thực hành: Giáo viên cần tổ chức
các hoạt động thực hành và ôn luyện
củng cố từ thông qua các kỹ năng
nghe, nói, đọc và viết để tăng độ trôi
chảy khi sử dụng từ.
Mỗi phương pháp giảng dạy đều
có những ưu điểm và mặt hạn chế.
Điều này đòi hỏi giáo viên phải vận
dụng linh hoạt các phương pháp
khác nhau cho từng lớp học cụ thể
cũng như từng đối tượng học viên để
việc giảng dạy và học tập đạt kết quả
cao.
Bài viết trên đây đã đề cập tới một
số kinh nghiệm giảng dạy và học tập
từ vựng tiếng Anh chuyên ngành Xây
dựng, đồng thời gợi ý một số phương
pháp giảng dạy ngoại ngữ được vận
dụng vào việc giảng dạy tiếng Anh
nói chung và giảng dạy từ vựng nói
riêng. Bài viết hy vọng đã mang lại
những thông tin bổ ích cho những
giảng viên và học viên học tiếng Anh.
Tài liệu tham khảo1. Chamot & O’Malley ( 1990),
Language Learning Strategies,
Cambridge University Press.
2. Harmer, J. (2001) The Practice
of English Language Teaching.
Longman.
3. Ewer, J.C. (1976). Teaching
English for Science and Technology:
The Specialized Training of Teachers
and Program Organizers. In RELC (ed).
Teaching ESP. Singapore University
Press.
4. Nation (2000), Vocabulary
Learning, Oxford University Press
5. Một số website giảng dạy Tiếng
Anh: http://www.teachingenglish.
org.uk/
http://w w w.teachernet .gov.
uk/,http://www.britishcouncil.org
, http://www.globaledu.com.vn ,
http://www.ila.com, …
6. Website:www.CambridgeESOL.
org
94 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
GÓC TIẾNG ANH
MẨU CHUYỆN SỐ 1
Lão hòa thượng hỏi tiểu hòa thượng: “Nếu bước lên
trước một bước là tử, lùi lại một bước là vong, con se làm
thế nào?”.
Tiểu hòa thượng không hề do dự đáp: “Con se đi sang
bên cạnh”.
Bài học rút ra:
Khi gặp khó khăn, đổi góc độ để suy nghĩ, có lẽ sẽ hiểu
ra rằng: Bên cạnh vẫn có đường.
MẨU CHUYỆN SỐ 2
Một người thợ mộc chặt một thân cây, làm thành ba
chiếc thùng.
Một thùng đựng phân, gọi là thùng phân, mọi người
đều xa lánh;
Một thùng đựng nước, gọi là thùng nước, mọi người
đều dùng;
Một thùng đựng rượu, gọi là thùng rượu, mọi người
đều thưởng thức!
Thùng là như nhau, bởi vì
đựng đồ khác nhau mà vận
mệnh khác nhau.
Bài học rút ra:
Cuộc đời là như vậy,
có quan niệm thế nào
sẽ có cuộc đời như
thế, có suy nghĩ thế
nào sẽ có cuộc sống
như thế!
MẨU CHUYỆN SỐ 3
Anh chồng nọ mua một
con cá về nhà bảo chị vợ nấu,
sau đó chạy đi xem phim, chị vợ
cũng muốn đi cùng. Anh chồng nói: “Hai người đi xem
lãng phí lắm, em cứ nấu cá đi, đợi anh xem xong quay về,
vừa ăn vừa kể cho em nghe tình tiết của bộ phim”.
Đợi anh chồng xem phim trở về nhà, không nhìn thấy
cá đâu, bèn hỏi chị vợ: “Cá đâu rồi em?”.
Chị vợ kéo ghế, ngồi xuống, cất giọng bình tĩnh: “Em
ăn hết cá rồi, nào, lại đây, ngồi xuống em kể cho anh nghe
mùi vị của cá”.
Bài học rút ra:
Làm người nên như vậy, bạn đối xử với tôi như thế nào,
tôi sẽ đối xử lại với bạn như thế.
MẨU CHUYỆN SỐ 4
Năm thi Đại học, tôi chỉ được 6 điểm, còn con trai của
bạn mẹ tôi được 20 điểm, cậu ta đến học tại trường Đại
học trọng điểm, còn tôi chỉ có thể đi làm thuê.
Chín năm sau, mẹ của cậu ta chạy đến khoe khoang
với tôi và mẹ tôi rằng con trai bà ta đang đi phỏng vấn
vào chức giám đốc lương tháng vài chục triệu… Còn
tôi, lại đang nghĩ: Có nên tuyển dụng cậu ta
không.
Bài học rút ra:
Bạn có thể không học Đại học, nhưng
bạn tuyệt đối không thể không phấn
đấu.
MẨU CHUYỆN SỐ 5
Một công nhân nọ oán thán
với bạn của mình rằng: “Việc là
chúng ta làm, người được biểu
dương lại là tổ trưởng, thành quả cuối
cùng lại biến thành của giám đốc, thật
không công bằng”.
Anh bạn mỉm cười nói rằng: “Nhìn đồng
Những câu chuyện - bai hoc lơn se khiến bạn muốn thay đổi bản thân
95Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
TRẢI NGHIỆM
hồ của cậu xem, có phải là cậu
se nhìn kim giờ đầu tiên,
sau đó đến kim phút,
còn kim giây chuyển
động nhiều nhất
cậu lại chẳng
thèm ngó ngàng
không?”.
Bài học rút ra:
Trong cuộc
sống thường ngày,
cảm thấy không
công bằng thì phải nỗ
lực làm người đi đầu, oán
trách chỉ vô dụng.
MẨU CHUYỆN SỐ 6
Thượng đế muốn thay đổi vận mệnh của một kẻ ăn
xin, bèn biến thành một lão già đến làm phép cho anh ta.
Thượng đế hỏi kẻ ăn xin: “Nếu ta cho cậu mười triệu,
cậu se dùng nó như thế nào?”.
Kẻ ăn xin đáp: “Vậy thì tốt quá, tôi có thể mua một
chiếc điện thoại!”.
Thượng đế không hiểu, hỏi: “Tại sao lại muốn mua
điện thoại?”.
“Tôi có thể dùng điện thoại để liên lạc với các khu vực
trong cùng một thành phố, nơi nào đông người, tôi có
thể tới đó ăn xin”, kẻ ăn xin đáp.
Thượng đế rất thất vọng, lại hỏi: “Nếu ta cho cậu một
trăm triệu thì sao?”.
Kẻ ăn xin nói: “Vậy thì tôi có thể mua một chiếc xe. Sau
này, tôi ra ngoài ăn xin se thuận tiện hơn, nơi xa đến mấy
cũng có thể đến được”.
Thượng đế cảm thấy rất bi thương, lần này, ngài nói:
“Nếu ta cho cậu một trăm tỷ thì sao?”.
Kẻ ăn xin nghe xong, hai mắt phát sáng: “Tốt quá, tôi
có thể mua tất cả những khu vực phồn hoa nhất trong
thành phố này”.
Thượng đế lấy làm vui mừng.
Lúc này, kẻ ăn xin bổ sung một câu: “Tới lúc đó, tôi có
thể đuổi hết những tên ăn mày khác ở lãnh địa của tôi đi,
không để họ cướp miếng cơm của tôi nữa”.
Thượng đế nghe xong, lẳng lặng bỏ đi.
Bài học rút ra:
Trên đời này, không phải là thiếu cơ hội,
cũng không phải là vận mệnh trước giờ
không công bằng, mà là thiếu đi cách
thức tư duy đúng đắn. Tư duy của một
người quyết định cuộc đời của người
đó. Thay đổi cuộc đời bắt nguồn từ
việc thay đổi tư duy.
MẨU CHUYỆN SỐ 7
Một người nọ đứng dưới mái hiên
trú mưa, nhìn thấy Quan Âm cầm ô đi
ngang qua. Người nọ nói: “Quan Âm Bồ Tát,
xin hãy phổ độ chúng sinh một chút, cho con
đi nhờ một đoạn được không ạ?”.
Quan Âm nói: “Ta ở trong mưa, ngươi ở dưới mái hiên,
mà mái hiên lại không mưa, ngươi không cần ta phải cứu
độ”. Người nọ lập tức chạy vào màn mưa, đứng dưới mưa:
“Hiện tại con cũng ở trong mưa rồi, có thể cho con đi nhờ
không ạ?”.
Quan Âm nói: “Ngươi ở trong mưa, ta cũng ở trong
mưa, ta không bị dính mưa, bởi vì có ô; ngươi bị dính
mưa, bởi vì không có ô. Bởi vậy, không phải là ta đang
cứu độ mình, mà là ô cứu độ ta. Ngươi muốn được cứu
độ, không cần tìm ta, hãy đi tìm ô!”, dứt lời Quan Âm bèn
rời đi.
Ngày hôm sau, người nọ lại gặp phải chuyện nan giải,
bèn đến miếu cầu xin Quan Âm. Bước vào trong miếu,
mới phát hiện có một người đang vái lạy Quan Âm, người
đó giống Quan Âm như đúc.
Người nọ hỏi: “Bà là Quan Âm sao ạ?”.
Người kia trả lời: “Đúng vậy”.
Người nọ lại hỏi: “Vậy tại sao Quan Âm lại vái lạy chính
mình?”.
Quan Âm cười nói: “Bởi vì ta cũng gặp chuyện khó
khăn, nhưng ta biết, cầu xin người khác không bằng cầu
xin chính mình”.
Bài học rút ra:
Phong ba bão táp của cuộc đời, phải dựa vào chính bản
thân mình. Cầu xin người khác không bằng cầu xin chính
mình.
ST
96 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TRẢI NGHIỆM
Phong thủy nha bếp đón
tai lộc vao nha
Khi thiết kế phong thủy cho một ngôi nhà, gian bếp là một trong những không gian được coi trọng hàng đầu. Xét về công năng sử dụng, bếp là nơi chế biến đồ ăn thức uống để tạo ra năng lượng sống cho gia chủ, ăn uống tốt không chỉ đảm bảo sức khỏe mà còn góp phần duy trì nề nếp, đảm bảo hạnh phúc gia đình. Bếp đặt không chuân phong thủy, gia chủ không những gặp khó khăn về tiền bạc mà sức khỏe của mọi người, nhất là người nữ trong nhà sẽ bị ảnh hưởng.
Những tranh cãi về hướng bếp?
Các tài liệu Phong thủy cổ xưa
cho rằng hỏa môn tức cửa miệng lò
được tính là hướng bếp. Cũng vì thế
mà nhiều người coi hướng bếp là
hướng của đường đưa nhiên liệu vào.
Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, hiện nay nhiều kiều bếp
mới ra đời như bếp ga, bếp, điện, bếp
từ… với những nguyên lý sử dụng rất
khác nhau. Gặp những trường hợp
này, gia chủ se rất khó khăn để tìm ra
một hướng bếp đúng cho nhà mình.
Xuất hiện quan niệm tính hướng bếp
là hướng của nút vặn công tắc của
bếp ga. Nhưng khi gặp trường hợp
nút điều khiển nằm ngay trên mặt
bếp hướng thẳng lên trời hoặc với
những loại bếp từ, bếp điện thì lại
chưa tìm được lời giải thích hợp lý.
Để có được lý giải chuẩn xác
nhất về hướng bếp, chúng ta cần
hiểu nguyên tắc chung nhất. Đó là lý
thuyết về khí. Trong phong thủy, khí
tạo ra do sự vận động tương tác của
con người, bếp được nạp khí chính là
do thao tác nấu ăn của gia chủ. Vì vậy,
hướng bếp chuẩn nhất phải tính theo
hướng nhận thao tác từ người nấu,
hướng bếp se luôn là hướng ngược
với mặt người nấu hay là hướng lưng
của người nấu. Khi đã nắm bắt rõ
nguyên tắc chung về hướng bếp thì
dù bất cứ các loại bếp nào, dù bếp ga
hay bếp từ, dù hồng ngoại hay bếp
than, dù truyền thống hay hiện đại,
ta vẫn có thể tìm ra hướng bếp dễ
dàng.
Bếp nên “tọa cát” hay “tọa hung” ?
Những tài liệu Phong thủy cổ
xưa như Bát trạch minh cảnh đưa
ra nguyên tắc bếp phải “tọa hung
hướng cát”, tức là bếp nấu phải nằm
ở phương vị xây và quay về hướng
tốt. Tuy nhiên, hiện nay quan niệm
này cần phải có những điểu chỉnh
cho phù hợp.
Thời văn minh nông nghiệp, con
người thường sử dụng các nhiên liệu
như rơm rạ, than, củi để đun nấu nên
khu bếp thường là nơi có nhiều khói
bụi, ô nhiễm. Khi đó đặt ở những vị
trí xấu là rất hợp lý. Trong phong thủy
thì những nơi mang nặng lượng xấu
phải đặc đặt ở cung xấu của gia chủ
để “dĩ độc trị độc”!
Tuy nhiên, hiện nay, khu bếp đã
khác rất nhiều so với trước, không
còn ô nhiễm như xưa mà rất sạch se,
gọn gàng. Vì vậy đặt bếp ở những
phương vị tốt, tức bếp cần “tọa cát
hướng cát” se hợp lý hơn. Ngoài ra,
nhất nhất phải đặt ở nơi vượng khí
thì mới thịnh vượng, làm ăn trường
tiến được. Nếu có thể đặt ống khói
hay hút mùi tại phuơng vị xấu của
căn nhà để “lấy hung chế hung”.
Một số kiêng kỵ trong gian bếp
Một khu bếp tốt theo Phong thủy
trước hết cần phải “tàng phong tụ
khí”. Vì thế nếu bếp đặt ngay thẳng
cửa chính là không lành. Trường phái
97Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
PHONG THỦY THỰC HÀNH
Dương trạch tam yếu có viết: “Khai
môn kiến táo, tiền tài đa hao (mở cửa
nhìn thấy bếp, tiền tài hao hụt nhiều).
Ngoài ra Phong thủy còn quan niệu
nếu bếp trực xung với cửa chính se
dễ tạo cho người ở những thói quen
không tốt như hay rượu chè, trẻ
con hay ăn, lười học. Thông thường,
để không bị “lộ táo”, các chuyên gia
Phong thủy thường khuyên gia chủ
bố thường bố trí bếp ở gian sau của
căn nhà và dùng vách ngăn hoặc
quầy bar vừa để che chắn bếp tránh
lộ táo, vừa tạo điểm nhấn sinh động
cho không gian nấu nướng.
Bếp tượng trưng cho hành Hỏa
vì vậy khi thiết kế bếp nên tránh đặt
đối diện với chậu rửa, tủ lạnh, máy
giặt… chứa nhiều thủy khí. Thủy hỏa
tương xung dễ ảnh hưởng đến hòa
khí trong nhà.
Bếp là nơi nấu nướng phát sinh
nhiệt nên rất nóng bức. Khi đun nấu,
bếp còn tỏa ra mùi thức ăn, khói
dầu mỡ không tốt cho sức khỏe. Vì
vậy, nếu được cần tránh để bếp bên
cạnh hoặc trực diện với cửa phòng
ngủ để không ảnh hưởng đến không
gian nghỉ ngơi. Ngoài ra, đối với nhà
cao tầng tránh kê giường ngủ thẳng
ngay trên bếp nấu dễ làm cho người
ngủ bồn chồn không yên, dễ nảy
sinh tâm lý nóng nảy.
Để đảm bảo vệ sinh cho bữa ăn
hàng ngày, cần giữ khu bếp luôn
sạch se gọn gàng. Bếp đối diện với
cửa vệ sinh, áp lưng vào nhà vệ sinh
hoặc đặt phía dưới nhà vệ sinh đều
chưa chuẩn. Những khí xú uế của nhà
vệ sinh se ảnh hưởng đến đồ ăn khi
đun nấu về lâu dài không tốt cho sức
khỏe mọi người.
Khi thiết kế bếp cần tránh để sát
khí từ các góc nhọn chiếu vào bếp.
Ngoài ra những dụng cụ sắc nhọn
như dao kéo nên đựng trong hộp
tránh để lộ ra bên ngoài. Bếp cũng
cần tránh đặt dưới các thanh dầm
hoặc dưới gầm cầu thang khiến chi
khí bị đè nén se ảnh hưởng không tốt
đến sức khỏe, công việc kinh doanh
cũng dễ bị bế tắc, không hanh thông.
Sưu tầm
98 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
PHONG THỦY THỰC HÀNH
SỞ HỮU NHÀ Ở TẠI VIỆT NAM CỦA CÔNG TY
100% VỐN NƯỚC NGOÀI ĐANG HOẠT ĐỘNG TẠI
VIỆT NAM
Câu hỏi:
Công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài có được
phép mua hoặc nhận chuyển nhượng hoặc nhận cho
tặng đối với nhà và đất (ngoài khu công nghiệp) từ cá
nhân, tổ chức Việt Nam tại Việt Nam hay không? Nếu
được thì công ty có được đứng tên trên giấy tờ nhà và
đất hay không? Thời hạn đứng tên là bao lâu?
Trả lời:
1. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 76 của Nghị
định 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 về quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở
(gọi chung là Nghị định số 99) thì công ty 100% vốn nước
ngoài đang hoạt động tại Việt Nam nếu thuộc diện được
sở hữu nhà ở tại Việt Nam chỉ được mua nhà ở thương
mại trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư dự
án hoặc mua lại nhà ở của cá nhân, tổ chức nước ngoài
đã mua nhà ở tại Việt Nam; được nhận tặng cho, nhận
thừa kế nhà ở của hộ gia đình, cá nhân hoặc nhận tặng
cho nhà ở của tổ chức trong dự án đầu tư xây dựng nhà
ở được phép sở hữu theo quy định.
Công ty 100% vốn nước ngoài đang hoạt động tại
Việt Nam không được mua nhà ở của hộ gia đình, cá
nhân Việt Nam; không được mua nhà ở của tổ chức Việt
Nam mà không phải là chủ đầu tư dự án, không được
nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở ngoài các dự án đầu
tư xây dựng nhà ở.
2. Công ty 100% vốn nước ngoài đang hoạt động tại
Việt Nam nếu mua nhà ở theo đúng quy định của Luật
Nhà ở năm 2014 và Nghị định số 99 thì se được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất đối với nhà ở đã mua.
3. Theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 161 của
Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 77 của Nghị định số 99 thì
công ty 100% vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt
Nam nếu mua nhà ở tại Việt Nam se được sở hữu nhà
ở tối đa bằng thời hạn ghi trong Giấy chứng nhận đầu
tư cấp cho công ty; trước khi hết thời hạn sở hữu nhà ở
mà công ty được tiếp tục gia hạn Giấy chứng nhận đầu
tư và có nhu cầu gia hạn thời hạn sở hữu nhà ở thì được
gia hạn thêm một lần tối đa bằng với thời hạn của Giấy
chứng nhận đầu tư đã được gia hạn.
CHI PHÍ TƯ VẤN LẬP BÁO CÁO ĐỀ XUẤT CHỦ TRƯƠNG
ĐẦU TƯ
Câu hỏi:
Căn cứ (hoặc định mức) để xác định chi phí tư vấn
lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư? Theo tôi được
biết, hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể để xác định chi
phí tư vấn lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư và theo
Điều 34, 35 Luật Đầu tư công 2014; Điều 53 Luật Xây
dựng 2014 thì nội dung của báo cáo nghiên cứu tiền khả
thi (đối với dự án nhóm A) giống với nội dung của báo
cáo đề xuất chủ trương đầu tư (dự án nhóm B,C). Vậy tôi
có thể vận dụng định mức xác định chi phí lập báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi theo Quyết định số 79/QĐ-BXD
để xác định chi phí tư vấn lập báo cáo đề xuất chủ trương
đầu tư được không?
Hiện tại ở địa phương tôi chưa có bố trí nguồn vốn
chuẩn bị đầu tư của dự án để thanh toán được chi phí
tư vấn lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư. Vậy tôi xin
hỏi, chi phí tư vấn lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư
có thể được xác định trong tổng mức đầu tư không?
Trả lời:
Đối với dự án có cấu phần xây dựng, chi phí lập
báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư thuộc chi phí tư vấn
đầu tư trong tổng mức đầu tư xây dựng theo quy định tại
Điểm b Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 06/2016/TT-BXD ngày
10/3/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn xác định và quản
lý chi phí đầu tư xây dựng. Việc xác định chi phí lập báo
cáo đề xuất chủ trương đầu tư đối với dự án nhóm B,C
thực hiện theo quy định tại Khoản 3,4 Điều 7 Nghị định số
136/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư công.
99Số 54.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
HỎI ĐÁP
CHI PHÍ TƯ VẤN THIẾT KẾ
Câu hỏi:
Công ty chúng tôi thiết kế công trình hạ tầng kỹ
thuật cấp III, 2 bước như sau:
1. Tổng mức đầu tư phần xây dựng của dự án 225 tỷ
chưa VAT gồm: San nền: 50 tỷ; Giao thông: 100 tỷ; Hạ
tầng 50 tỷ; Đường dây cáp ngầm<6KV: 25 tỷ; Tổng mức:
50+100+50+25= 225 tỷ.
2. Dự án se thực hiện trong nhiều năm trong đó năm thứ
nhất đầu tư 75 tỷ chưa VAT gồm: San nền 10 tỷ; Đường
giao thông: 50 tỷ; Hạ tầng kỹ thuật 10 tỷ; Đường dây và
trạm biến áp 5 tỷ.
Khi tính thiết kế phí chúng tôi có hai cách hiểu:
Cách 1: Tính thiết kế phí chưa thuế là tra bảng theo giá
trị xây lắp của từng loại công trình trong gói thầu tư vấn
nhân với giá trị dự toán được duyệt của từng loại công
trình như sau: San nền 10 tỷ * 1.37% * 40% = 0.0548 tỷ
(Bảng 10); Đường giao thông: 50 * 1.17% = 0.585 tỷ (Bảng
10); Hạ tầng: 10 tỷ * 2.36% =0.236 tỷ (Bảng 14); Đường
dây cáp ngầm<6KV: 05 tỷ * 1.7% = 0.085 tỷ Bảng CN1
(công trình công nghiệp) => Tổng chi phí thiết kế (0.0548
+0.585+0.236+0.085)*(1=10%VAT) =1.05688 tỷ.
Cách 2: Tính thiết kế phí chưa thuế là tra bảng theo giá
trị xây lắp của từng loại công trình trong tổng mức (TM)
đầu tư nhân với giá trị dự toán được duyệt của từng loại
công trình như sau: San nền 10 tỷ * (1.08% là hệ số của
50 tỷ trong TM) * 40% = 0.0428 tỷ (Bảng 10); Đường giao
thông: 50 * (1.06% là hệ số của 100 tỷ trong TM) = 0.53 tỷ
(Bảng 10); Hạ tầng: 10 tỷ * (1.01% là tỷ lệ của 50 tỷ trong
TM) = 0.101 tỷ (Bảng 14); Đường dây và trạm biến áp 05 tỷ
* (1.3% là hệ số của 25 tỷ trong TM) = 0.065 tỷ Bảng CN1
(công trình công nghiệp) => Tổng chi phí thiết kế (0.0428
+0.53 +0.101 +0.065)*(1=10%VAT) =0.81268 tỷ.
Vậy xin hỏi cách tính nào là đúng?
Trả lời:
Về nguyên tắc chi phí tư vấn thiết kế được tính theo
cách 2, như nội dung câu hỏi của bạn nêu. Tuy nhiên,
trong trường hợp đặc thù, dự án được chia thành nhiều
dự án thành phần thì chi phí thiết kế được tính theo các
dự án thành phần đó.
100 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
HỎI ĐÁP