https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
hoav
BP.NGHIÊN CỨU&PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (08) 38 469 516 (1813/1815) – [e] [email protected]
Thực tế cho thấy các cuộc tái cấu trúc và cải cách
ngành ngân hàng tại nhiều quốc gia đều có sự đóng
góp lớn từ Chính phủ và NĐTNN. Trước tiên, Chính phủ
sẽ thực hiện hàng loạt biện pháp cải tổ ngân hàng, xây
dựng các quy định mới theo chuẩn quốc tế, tiến hành
các biện pháp xử lý nợ xấu, thậm chí có thể quốc hữu
hóa những ngân hàng quá yếu kém để tái cấu trúc lại
rồi sau đó mở cửa cho NĐTNN tham gia. Việc chon lựa
NĐTNN xuất phát từ việc ho la định chế tai chinh lớn có
uy tin, kinh nghiệm xử ly tái cấu truc va quản trị ngân
hàng. Đăc biệt, NĐTNN có tiềm lực tai chinh mạnh sẽ
hạn chế tinh trạng sở hữu chéo va lung đoạn như cách
ma NĐT trong nước đã lam trong thơi gian qua, gây
nhiều hệ luy cho nganh ngân hàng va nền kinh tế.
Tin nổi bật
Nhiều ngân hàng giảm lãi suất cho vay từ 10/7
Tái cơ cấu ngân hàng - Cửa đã mở cho NĐTNN?
"Việc giảm các lãi suất điều hành khó có thể coi là
động tác nới lỏng tiền tệ"
Kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào KV FDI
Ngành nông nghiệp nỗ lực đạt mục tiêu tăng
trưởng 3,05%
Vi sao Đức lại là lực cản cho nền kinh tế toàn cầu?
Trung Quốc có thể "xuất khẩu" suy thoái sang các
nước khác?
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 10/07)
HOSE 766,56 1,18%
HNX 100,37 1,19%
D,JONES CK Mỹ 21.408,52 0,03%
STOXX CK C.Âu 3.478,06 0,41%
CSI 300 CK TQ 3.653,69 0,06%
Vàng (cập nhật lúc 08h30 ngày 11/07)
SJC Ng,đ/L 36.300 0,14%
Quốc tế USD/Oz 1.212,10 0,29%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.449 - 0,00%
EUR/USD 1,1395 0,04%
Dầu
WTI USD/th 44,63 0,07%
6
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Nhiều ngân hàng giảm lãi suất cho vay
từ ngày 10/7
Ngay sau thông báo v/v giảm LS điều hành thêm 0,25% kể từ ngày 10/7 và y/c
các NH 0,5% LS cho vay ở một số lĩnh vực, đối tượng, các NH cũng đồng
loạt đưa ra động thái đầu tiên. Bên cạnh quyết định giảm LS, các NH cũng đưa
ra những gói tín dụng khá hấp dẫn để hỗ trợ cá nhân và DN… Theo đánh giá
của giới quan sát, việc các NH giảm LS, đầu tiên sẽ giúp bản thân NH khơi
thông dòng vốn tín dụng tốt hơn, tiếp đó là góp phần hỗ trợ cho DN và nền KT.
Các chuyên gia cho rằng việc giảm LS bên cạnh chính sách mới về xử lý nợ
xấu có hiệu lực từ 15/8 sẽ giúp hệ thống NH dễ dàng đạt mục tiêu TTTD 18%
trong năm nay dù rằng 6 tháng đầu năm dòng vốn còn chảy chậm.
Tái cơ cấu ngân hàng - Cửa đã mở cho
nhà đầu tư nước ngoài?
Đề án tái cơ cấu NH giai đoạn 2011-2015 đã diễn ra theo 3 hướng: khuyến
khích NH hợp nhất, sáp nhập tự nguyện hoặc bắt buộc; cho NH tự tái cơ cấu,
tìm thêm nguồn lực tăng vốn theo Đề án được phê duyệt và cuối cùng là
NHNN mua 0 đồng NH yếu kém đến mức không thể tự khắc phục. Và giờ đây
có vẻ như đã đến lúc Chính phủ và NHNN muốn sự tham gia tích cực từ nguồn
lực của NĐTNN. Thống đốc Lê Minh Hưng thời gian qua đã liên tục mời gọi
NĐTNN tham gia vào công cuộc tái cấu trúc NH VN thông qua những phát
biểu ở hội nghị, hội thảo tại các diễn đàn quốc tế. Trong chuyến thăm Nhật vào
đầu tháng 6, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đặt vấn đề NH Senshu Ikeda
có thể tham gia mua lại NH yếu kém của VN với nợ xấu ở mức vừa phải và Thủ
tướng sẵn sàng tạo điều kiện cho việc này, khi biết tổ chức trên định mở VPĐD
tại VN. Diễn biến thời gian qua cho thấy Chính phủ cũng như NHNN đang tích
cực kêu gọi nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tể để đẩy nhanh quá trình
tái cơ cấu ngành NH, nhất là những NH yếu kém… Thực tế cho thấy các cuộc
tái cấu trúc và cải cách ngành NH tại nhiều quốc gia đều có sự đóng góp lớn từ
Chính phủ và cả NĐTNN. Đầu tiên Chính phủ sẽ thực hiện hàng loạt biện pháp
cải tổ NH, XD các quy định mới theo chuẩn quốc tế, tiến hành các biện pháp
xử lý nợ xấu, thậm chí có thể quốc hữu hóa NH quá yếu kém để tái cấu trúc lại
rồi sau đó mở cửa cho NĐTNN tham gia… V/v tại sao ưu tiên kêu gọi NĐTNN
mà không phải là NĐT trong nước, có thể đến từ những lý do sau: NĐT trong
nước thường có nguồn lực hạn chế, trong khi các tổ chức quốc tế không những
có nguồn lực tài chính lớn mà còn có khả năng quản trị, kinh nghiệm điều hành
nên sẽ giúp NH tái cơ cấu có thể hồi phục nhanh hơn. Khác với giai đoạn trước
đây, NHNN hiện nay đòi hỏi NĐT phải chứng minh được “tiền tươi thóc thật” và
hợp lệ để tham gia góp vốn đầu tư, tránh việc sở hữu chéo hoặc vay vốn NH
để tham gia góp vốn. Ngoài ra, NĐT trong nước tham gia góp vốn với nguồn
Tài chính – Ngân hàng
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
lực tài chính hùng hậu nếu có thường là DN lớn và sau đó rất dễ xảy ra tình
trạng NH lại biến thành sân sau của DN này. Đây là điều mà NHNN không
muốn lại tái diễn như đã xảy ra trong những năm qua. Tấm gương của CNB
vẫn còn đó, khi Tập đoàn Thiên Thanh tham gia tái cơ cấu NH, khi đó là
Trustbank, bằng cách vay vốn NH khác để mua lại cổ phần, kinh nghiệm quản
trị điều hành cũng không có và sau đó biến NH thành công cụ phục vụ cho Tập
đoàn Thiên Thanh… Vấn đề quan trọng nhất khi bán lại cho NĐTNN là giá bán
các NH này sẽ là bao nhiêu và NHNN tiếp tục có cơ chế, chính sách hỗ trợ hay
ưu đãi nào cho NĐT trong vấn đề xử lý nợ xấu để thu hút NĐT chiến lược hay
không? Nếu các chính sách ưu đãi được duy trì thì chắc chắn sẽ thu hút một
lượng lớn NĐTNN có nguồn lực và kinh nghiệm tham gia, từ đó giúp công cuộc
tái cấu trúc ngành NH sớm có kết quả, khi đó nền KT sẽ được hưởng lợi.
"Việc giảm các lãi suất điều hành khó
có thể coi là động tác nới lỏng tiền tệ"
Theo báo cáo thị trường tiền tệ tuần qua của SSI Retail Reseach, LS LNH tiếp
tục duy trì ổn định ở mặt bằng thấp. LS qua đêm 10bps lên 1,75%, LS các kỳ
hạn khác đều giảm, kỳ hạn 1 tuần 4,5bps xuống 2,06%, kỳ hạn 1 tháng
11,2bps xuống 3,09%. Không có hoạt động nào trên OMO. Thanh khoản dồi
dào và lạm phát thấp tạo điều kiện để NHNN giảm LS. Cụ thể, hiệu lực từ 10/7,
các LS điều hành 0,25%, gồm LS tái cấp vốn, LS tái chiết khấu, LS cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong
thanh toán bù trừ của NHNN đối với các NH; LS cho vay ngắn hạn tối đa bằng
VND cho nhu cầu vay thuộc lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp, nông thôn, XK,
công nghiệp phụ trợ, DNVVN, DN ứng dụng công nghệ cao 0,5%/năm. Việc
giảm LS điều hành sẽ không có tác động đáng kể do nhu cầu của thị trường
vốn rất nhỏ. Với LS cho các lĩnh vực ưu tiên, mức độ tác động phụ thuộc vào
hành động của từng NHTM dựa trên quan điểm KD của NH. "Nhóm NHQD với
hệ thống mạng lưới rộng và chi phí vốn rẻ sẽ tiếp tục là nòng cốt thực thi các
chính sách này. Về tổng thể, việc giảm LS trên khó có thể coi là động tác nới
lỏng tiền tệ. Thay vì đó, đây là nỗ lực của Chỉnh phủ cũng như NHNN nhằm
tạo điều kiện cho các lĩnh vực ưu tiên để phần nào hỗ trợ tăng trưởng KT"…
Sau phiên đấu thầu không mấy thành công trong tuần trước, KBNN chỉ tổ chức
chào thầu 5.200 tỷ trái phiếu cho 4 kỳ hạn 5, 7, 15 và 20 năm. Cầu trái phiếu
khá tốt với khối lượng đăng ký đạt 17.600 tỷ, #338% khối lượng chào thầu, kỳ
vọng LS giảm đã giúp KBNN phát hành hết toàn bộ 100% khối lượng chào
thầu. Đây là lần đầu tiên trong 7 tuần, toàn bộ TPCP sơ cấp được bán hết. LS
trúng thầu vẫn duy trì xu hướng giảm, kỳ hạn 20 năm 12bps, kỳ hạn 15 năm
5bps, kỳ hạn 7 năm 1bps và giữ nguyên với kỳ hạn 5 năm. Giao dịch thị
trường thứ cấp tiếp tục diễn ra sôi động. Tổng giá trị giao dịch BQ đạt 9.400
tỷ/phiên. Giao dịch của khối ngoại yếu đi, giá trị mua vào 1.000 tỷ trong khi
giá trị bán ra 600 tỷ, khiến khối ngoại bán ròng nhẹ 70 tỷ.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tính từ đầu năm giao dịch của khối ngoại vẫn tích cực với tổng giá trị mua ròng
16.370 tỷ đồng. Lợi tức trái phiếu 2bps-7bps ở tất cả các kỳ hạn. Lợi tức các
kỳ hạn 1, 2, 3 và 5 năm hiện ở mức 3,61%, 4,26%, 4,43% và 4,85%... Đà giảm
của USD đã chững lại, chỉ số DXY index 0,33% trong tuần. Tỷ giá các ngoại
tệ biến động không mạnh sv USD, riêng tỷ giá USD/JPY 1,22%. Trong nước,
tỷ giá USD NH vẫn khá ổn định, chỉ 10 đồng lên mức 22.710/22.790. Tuy
nhiên, tỷ giá tự do bất ngờ 50 đồng lên 22.795/22.805, tăng vượt tỷ giá
NHTM sau một thời gian dài diễn biến khá khớp nhau. SSI Retail Reseach chỉ
ra tỷ giá tự do bắt đầu nổi sóng nhẹ sau khi NHNN tăng tỷ giá mua vào 2 tuần
trước với tổng mức 0,33%. Tính từ đầu năm tỷ giá tự do vẫn 1,1%. Biến
động tỷ giá tự do ngắn hạn chưa đáng lo ngại khi cán cân cung cầu ngoại tệ
vẫn tốt nhờ dòng vốn đầu tư FDI và FII
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc
vào khu vực FDI
Tại buổi công bố báo cáo KTVM Q.II, TS. Nguyễn Đức Thành - Viện trưởng
Viện KT và chính sách (VEPR) cho rằng: "Mặc dù đã có sự phục hồi trong Q.II,
song các chỉ báo lại đang cho thấy KT VN ngày càng trở nên phụ thuộc vào
KV FDI". Bước sang Q.II, KT VN đã có những dấu hiệu hồi phục tích cực với
mức tăng trưởng 6,17% cao hơn hơn sv cùng kỳ 2016 (5,78%). Tỷ trọng XK của
KV FDI tăng nhanh chóng cho thấy VN ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào
sản lượng của KV này, đặc biệt một số cty lớn như Samsung. Nếu như 2009,
XK của KV FDI chỉ chiếm 32,9% tổng XK thì còn số này đã tăng lên 70,2%
năm 2016 và 72,4% trong nửa đầu năm 2017. Bên cạnh đó, với dòng FDI lớn,
vốn đầu tư toàn XH KV này liên tục tăng ở mức cao trong những năm gần đây.
Dù suy giảm trong nửa cuối năm 2016, dòng vốn từ KV FDI đã phục hồi đáng
kể trong nửa đầu năm 2017. Bên cạnh đó, lượng lao động sử dụng tại DN FDI
trong lĩnh vực công nghiệp tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, đặc biệt ở KV
chế biến chế tạo. Ngược lại, số lao động sử dụng trong KV ngoài Nhà nước
thậm chí đã giảm tuyệt đối trong 6 tháng đầu năm 2017. “Những điều này cho
thấy KV KT trong nước đang ngày trở nên yếu thế sv KV FDI, đặc biệt trong bối
cảnh quá trình hội nhập quốc tế đang được mở rộng”. Năm 2017 có đặc điểm
khác biệt là ngay từ đầu năm Chính phủ đã quyết tâm rất cao trong việc đạt
mục tiêu tăng trưởng do Quốc hội đề ra là 6,7%, bất chấp nhiều cảnh báo đó là
mục tiêu khó khả thi. Tuy nhiên, đây là thời điểm VN cần xem xét lại cách thức
tăng trưởng vì bối cảnh hội nhập đang thay đổi. Các tư duy mang tính đối phó
với sự suy giảm tăng trưởng như nỗ lực tăng thêm vốn, đẩy nhanh giải ngân
các công trình công, hoặc tăng sản lượng khai thác dầu thô... có thể sẽ không
khả thi. Bên cạnh đó, tăng trưởng của KV SX và hoạt động thương mại vẫn chủ
yếu phụ thuộc vào hoạt động của một số ít DN FDI lớn. Số DN tạm ngừng hoạt
động tăng đáng kể cùng với sự suy giảm trong quy mô lao động hoạt động cho
thấy KV KT trong nước đang ngày càng trở nên khó khăn, đặc biệt trong việc
cạnh tranh với KV FDI. Chi thường xuyên không những không giảm đi mà thậm
chí còn tăng với tốc độ cao hơn sv các năm trước dẫn tới sự gia tăng không
ngừng của chi ngân sách cho trả nợ cả gốc và lãi. “Đã đến lúc nên đặt câu hỏi
về chất lượng tăng trưởng một cách rất thực tế, là mức tăng trưởng chung, dù
cao, có phản ánh thực lực của nền KT hay không”. Trong bối cảnh hiện nay,
VEPR dự báo tăng trưởng 2 quý tiếp theo sẽ ở mức 6,7% và 7,0%, đưa tăng
trưởng cả năm lên mức 6,4%, 0,3 điểm % sv dự báo đưa ra hồi Q.I. Đồng
thời, với CSTT được điều hành thận trọng cũng như ảnh hưởng của cú sốc về
giá thực phẩm, lạm phát 2017 sẽ duy trì ở mức thấp <2,5%. Cụ thể, lạm phát
Kinh tế Việt Nam
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
cuối Q.III có thể giảm xuống 1,8% trước khi tăng lên 2,2% vào cuối năm…
Chính phủ cần thực hiện quyết liệt các biện pháp thắt chặt chi thường xuyên
như chính sách tinh giản biên chế, thoái vốn khỏi các DN cũng như nâng cao
hiệu quả chi phí quản trị Nhà nước. Đồng thời, để giảm sức ép đối với ngân
sách và tránh lệ thuộc nhiều vào nguồn vốn nước ngoài, việc thực hiện các
biện pháp nhằm cải cách thủ tục hành chính và cải thiện môi trường KD, tạo
điều kiện thuận lợi để thúc đẩy nguồn vốn đầu tư tư nhân, nâng cao năng lực
cạnh tranh cho KV này là yếu tố sống còn. Ngoài ra, cần rất cảnh giác với hiện
tượng là nhiều thay đổi chính sách đang tạo ra nhiều giấy phép con mới, hoặc
đưa ra nhiều điều kiện mới, gây khó khăn hơn cho các DN.
Ngành nông nghiệp nỗ lực đạt mục tiêu
tăng trưởng 3,05%
Tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm, triển khai công tác 6 tháng cuối năm
2017, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đánh giá, 6 tháng đầu năm, mặc dù tăng
trưởng toàn ngành nông nghiệp đạt 2,65%, tuy nhiên, điều này chỉ là tín hiệu
khả quan cho tình hình tăng trưởng của ngành chứ chưa thể yên tâm cho mục
tiêu đạt mức tăng trưởng 3,05% cả năm 2017. Theo Bộ trưởng, ngoại trừ 2014,
ngành nông nghiệp đạt được tốc độ tăng GDP khá cao với mức 3,3% nhờ sự
đột phá trong XK thủy sản, còn lại đạt 2,36% năm 2015 và 1,36% năm 2016.
“Vì vậy, chỉ tiêu mà Chính phủ giao ở mức 3,05% năm 2017 là một nhiệm vụ
hết sức nặng nề cho thời gian còn lại của năm 2017”. Thách thức lớn nhất từ
nay đến cuối năm là thiên tai, bởi hiện nay cả nước mới bắt đầu bước vào mùa
mưa bão; thứ hai là vấn đề thị trường, từ tháng 9, Mỹ sẽ chính thức áp dụng
luật Farm Bill sẽ khó khăn cho mặt hàng cá da trơn của VN. Bên cạnh đó, EU
cũng đã có cảnh báo liên quan tới một số nguy cơ về an toàn thực phẩm của
hàng thủy sản VN. Vì vậy, nếu không có giải pháp quyết liệt, đồng bộ để ổn
định, mở rộng thị trường mới thì nguy cơ đối với XK thủy sản sẽ rất cam go.
Năm 2017, chăn nuôi nhiều khả năng có thể đạt mức tăng trưởng 3% theo kế
hoạch. Tuy nhiên, hiện nay giá lợn rất thấp và tình hình cải thiện thị trường rất
chậm. 6 tháng cuối năm cũng như giai đoạn tới, tái cơ cấu nông nghiệp vẫn là
vấn đề căn cốt nhất. Thời gian tới, các ngành hàng phải rà soát lại toàn bộ quy
hoạch để kịp thời điều chỉnh cho sát với tình hình thực tế. “Đồng thời, phải bám
vào 3 trục sản phẩm gồm 10 nhóm mặt hàng quốc gia XK >10 tỷ USD, nhóm
ngành hàng cấp tỉnh và nhóm địa phương”…
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Toanf
Toàn cầu - Vì sao Đức lại là lực cản
cho nền kinh tế?
Thặng dư của Đức xuất phát từ thỏa thuận kéo dài hàng thập kỷ giữa DN và
công đoàn trong việc kiềm chế lương, để giữ tính cạnh tranh cho ngành XK.
Điều này đã hỗ trợ nền KT phụ thuộc vào XK của Đức có thể nhanh chóng hồi
phục sau chiến tranh và hơn thế nữa, giúp giải thích sự chuyển mình kể từ cuối
những năm 90 từ một nền KT èo uột thành kẻ thống trị châu Âu như hiện nay.
Tuy nhiên, những tác dụng phụ của mô hình KT Đức đang ngày càng trở nên
rõ ràng. Nó đã tạo ra sự mất cân bằng trong chính nền KT Đức và thương mại
toàn cầu. Kiềm chế tiền lương nghĩa là chi tiêu trong nước ít hơn và NK ít hơn.
Chi tiêu tiêu dùng tại Đức đã giảm xuống còn 54% GDP, sv 69% ở Mỹ và 65%
ở Anh. Các nhà XK Đức không tái đầu tư LN tại nước nhà. Việc một nền KT lớn
như Đức, vốn ở điểm toàn dụng nhân công, tiếp tục duy trì thặng dư tài khoản
vãng lai >8% GDP đã gây ra sự căng thẳng vô lý đối với hệ thống thương mại
toàn cầu. Để Đức có thể bù đắp các khoản thặng dư như vậy và duy trì đủ tổng
cầu để giữ việc làm, phần còn lại của thế giới phải vay mượn và chi tiêu tùy
tiện. Một số nước, đặc biệt là Italy, Hy Lạp và Tây Ban Nha, phải đối mặt với
thâm hụt liên tục, cuối cùng dẫn đến khủng hoảng. Các nước này sau đó đã
phải thực thi những biện pháp khắc khổ nhằm giảm thâm hụt thương mại, vốn
gặp rất nhiều sự phản đối của người dân, dẫn đến bất ổn chính trị. Trong giai
đoạn lạm phát cao những năm 1970 và 1980, xu hướng tiết kiệm cao của
người Đức là một yếu tố giúp kiềm chế giá cả. Bây giờ nó là một gánh nặng đối
với tăng trưởng toàn cầu và một mục tiêu công kích cho những người theo đuổi
chủ nghĩa bảo hộ như ông Trump. Có lẽ khoản thặng dư thương mại khổng lồ
của Đức sẽ giảm xuống giống như TQ, thông qua việc gia tăng tiền lương. Tỷ
lệ thất nghiệp tại Đức hiện ở mức <4% và dân số trong độ tuổi lao động sẽ
giảm, mặc dù số người nhập cư ngày càng gia tăng. Sau nhiều thập kỷ suy
giảm, chi phí nhà ở đang tăng lên, có nghĩa lương nhân công sẽ phải tăng lên.
Các định chế đứng sau việc kiềm chế lương đang mất dần ảnh hưởng. EUR có
thể tăng giá. Tuy nhiên, bản năng thận trọng của người Đức vẫn có ảnh hưởng
sâu rộng. Lương chỉ 2,3% vào 2016, chậm hơn sv 2 năm trước đó. Thặng dư
của Đức có thể mất nhiều năm mới giảm xuống mức độ hợp lý.
Trung Quốc - Có thể "xuất khẩu" suy
thoái sang các nước khác?
Theo cựu chuyên gia KT Kenneth Rogoff của IMF, mức nợ tăng cao ở TQ là
một mối lo ngại nghiêm trọng vì bất kỳ cuộc khủng hoảng nào tại nước này sẽ
ảnh hưởng đến mọi người. "Nếu có một quốc gia trên thế giới thực sự ảnh
hưởng đến người khác và đang trong tình trạng dễ bị tổn thương, thì đó phải là
TQ… Toàn bộ KV đang phụ thuộc vào TQ ... vì vậy tôi chắc chắn rằng TQ sẽ
XK suy thoái ra bên ngoài… Họ đang cố gắng duy trì đà tăng trưởng, nhưng có
rất nhiều yếu tố cản trở điều này, đặc biệt là khi họ chuyển từ phụ thuộc vào
Kinh tế Quốc tế
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
XK sang tiêu dùng trong nước". Việc chuyển sang một nền KT chú trọng tới
tiêu dùng là rất khó khăn với tất cả các nước và TQ cũng không phải ngoại lệ.
TQ đã bơm một lượng tín dụng khổng lồ vào nền KT để tạo ra tăng trưởng. "TQ
có nhiều công cụ để giải quyết các vấn đề về tín dụng, bởi vì ở một khía cạnh
nào đó thì KV tư nhân được chính phủ bảo bọc nhưng điều này dựa trên việc
TTTD nhanh. Khi TQ kiểm soát tín dụng, tăng trưởng chậm lại. Vì vậy, không
cần phải có những vụ vỡ nợ lớn thì mới dẫn tới giảm tăng trưởng"… Các mối lo
ngại về KT TQ đã tăng lên khi những nỗ lực kích thích KT của các nhà hoạch
định chính sách TQ cũng thúc đẩy tỷ lệ đòn bẩy gia tăng. Vào cuối tháng 5,
Moody's đã bày tỏ mối quan ngại rằng nỗ lực của TQ trong việc thúc đẩy tăng
trưởng KT sẽ làm tăng tổng dư nợ tín dụng. Theo đó, Moody's đã hạ bậc tín
dụng của TPCP TQ từ mức Aa3 xuống mức A1 và thay đổi triển vọng từ ổn
định sang tiêu cực. Nomura ước tính nợ trong KV phi tài chính của TQ đạt
191.300 tỷ CNY (27.960 tỷ USD), #251% GDP) trong Q.I, sv mức 231% GDP vào
cuối 2015. Moody ước tính rằng thâm hụt ngân sách của chính phủ TQ vào
2016 ở mức "vừa phải" là khoảng 3% GDP. Nhưng theo dự kiến, gánh nặng nợ
của chính phủ sẽ tăng lên 40% GDP vào 2018 và 45% vào cuối thập kỷ này.
Chuẩn bị đón sóng "siêu M&A" của các
tập đoàn quốc doanh
Theo Financial Times, TQ đang ráo riết chuẩn bị cho làn sóng các vụ M&A
“siêu khủng” giữa các tập đoàn quốc doanh đang hoạt động trong ngành năng
lượng, máy móc công nghiệp và sắt thép. Số liệu từ Gavekal - Dragonomics
Bắc Kinh đã chỉ ra rằng dù chiếm hơn 1/3 tổng số vốn đầu tư của nền KT và
30% các khoản vay NH, các DNNN (SOE) của TQ chỉ đóng góp chưa đến 10%
GDP. Chương trình cải cách mang tính đột phá được tung ra từ cuối 2013 đã
cam kết sẽ “nâng cao hiệu quả hoạt động” đồng thời đảm bảo “trách nhiệm
XH” của các SOE. Từ đó đến nay, Chính phủ TQ đã “đạo diễn” nhiều vụ sáp
nhập, coi đây là trọng tâm của công cuộc cải cách các SOE. Tuy nhiên, TQ lại
tỏ ra khá chậm chạp trong việc thực hiện những thay đổi có thể giúp nâng cao
hiệu quả hoạt động của các SOE như CPH hay nâng cao mức độ cạnh tranh.
Với làn sóng sáp nhập sắp tới TQ đang hướng đến 2 mục tiêu: ở trong nước thì
Chủ tịch Tập Cận Bình hi vọng sáp nhập sẽ giúp các SOE phối hợp với nhau
để cắt giảm năng suất dư thừa và gia tăng sức mạnh định giá, trong khi đó
mục tiêu ở nước ngoài là tăng thị phần, xóa bỏ chiến tranh về giá… Trong suốt
1 thập kỷ trở lại đây, M&A đã trở thành chính sách chủ chốt trong nỗ lực cải
cách hệ thống SOE của TQ.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
http://www.bloomberg.com/markets/
http://www.sjc.com.vn/
http://goldprice.org/vi/index.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?centerWidth=80%25&leftWidth=20%25&rightWidth=0
%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrl-
state=az57x7njj_4&_afrLoop=564852868666178#!%40%40%3F_afrLoop%3D564852868666178%26center
Width%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26sh
owHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1cs37zaa0q_4
Tài chính - NH http://cafef.vn/nhieu-ngan-hang-giam-lai-suat-cho-vay-tu-10-7-20170710154610345.chn
http://vietstock.vn/2017/07/tai-co-cau-ngan-hang-cua-da-mo-cho-nha-dau-tu-nuoc-ngoai-757-546024.htm
http://cafef.vn/viec-giam-cac-lai-suat-dieu-hanh-kho-co-the-coi-la-dong-tac-noi-long-tien-te-
20170710161432439.chn
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/kinh-te-viet-nam-ngay-cang-phu-thuoc-vao-khu-vuc-fdi-20170710153302908.chn
http://cafef.vn/nganh-nong-nghiep-no-luc-dat-muc-tieu-tang-truong-305-20170710105302048.chn
Tin KT Quốc tế http://nhipcaudautu.vn/tai-chinh/vi-sao-duc-lai-la-luc-can-cho-nen-kinh-te-the-gioi-3319527/
http://nhipcaudautu.vn/tai-chinh/trung-quoc-co-the-xuat-khau-suy-thoai-sang-cac-nuoc-khac-3319497/
http://cafef.vn/trung-quoc-chuan-bi-don-song-sieu-ma-cua-cac-tap-doan-quoc-doanh-
20170710112023627.chn
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
BĐS BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT NHNN NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN NSNN NSNN
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NK NK
Dự án DA SX KD SXKD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đăng ký KD ĐKKD TCTD TCTD
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng tài sản TTS
Giấy chứng nhận GCN Tổng SP quốc nội GDP
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu DN TPDN
Khách hàng cá nhân KHCN TTCK TTCK
KT vĩ mô KTVM VN VN
Kho bạc Nhà nước KBNN Vốn điều lệ VĐL
KV KV Vốn tự có VTC
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Xã hội XH
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED XK XK
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng thế giới World Bank Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Thép VN VSA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
KV sử dụng đồng euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Liên minh châu Âu EU Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO