1
hoav
Theo khảo sát của Financial Times, cho
vay tiêu dùng ở Việt Nam vẫn còn ở mức
thấp, trong khi tiềm năng của thị trường
còn khá lớn với nhu cầu chi tiêu tăng
mạnh, số lượng người chưa tiếp cận với
dịch vụ tài chính còn nhiều. Sự bùng nổ
tín dụng tiêu dùng của Việt Nam có thể
chỉ mới bắt đầu và đang được thúc đẩy
bởi quá trình đô thị hóa, thu nhập tăng
cao và sự chuyển dịch sang ngành tài
chính hộ gia đình.
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 12/09)
VN - Index 987,01 0,20%
HNX - Index 111,65 0,20%
D.JONES CK Mỹ 25.998,92 0,11%
STOXX CK C.Âu 3.326,60 0,45%
CSI 300 CK TQ 3.202,02 0,69%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 13/09)
SJC Ng.đ/L 36.730 0,03%
Quốc tế USD/Oz 1204.7 0,78%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.695 0,01%
EUR/USD 1,1633 0,75%
Dầu
WTI USD/th 70,15 0,47%
6
Tin nổi bật
8 tháng đầu năm, tăng trưởng huy động
vượt tín dụng
Cho vay tiêu dùng ở Việt Nam - mới chỉ là
bắt đầu
Nợ đọng thuế tăng chạm ngưỡng trên
82.800 tỷ đồng
Xuất siêu 4,69 tỷ USD trong 8 tháng
Chiến tranh thương mại có thể khiến Trung
Quốc mất hàng triệu việc làm
Thứ Năm, ngày 13/09/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
8th/2018, tăng trưởng huy động
vượt tín dụng
Nhìn lại 8th/2018, NHNN thực hiện hàng loạt các biện pháp chủ động
điều hành linh hoạt. NHNN đã ban hành Chỉ thị 04 về các nhiệm vụ, giải
pháp trọng tâm của ngành NH trong 6th cuối năm. Hay ở tầm nhìn xa
hơn, ngành NH cũng đã có Chiến lược phát triển đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030 theo Quyết định của Thủ tướng dựa trên đề nghị
của cơ quan này. NHNN đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Cụ
thể, đến ngày 22/08/2018, tổng phương tiện thanh toán tăng 8,3%, huy
động vốn 8,72%, tín dụng đối với nền KT tăng 8,54% so với cuối năm
2017. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng huy động và tín dụng trong cùng
kỳ 2017 lần lượt đạt 9,1% và 11,5%. Trái ngược với diễn biến năm
trước, tăng trưởng huy động cao vượt tốc độ tăng của tín dụng. Mục tiêu
TTTD năm 2018 ở mức 17%, thấp hơn đáng kể thực tế năm trước. Tại
Chỉ thị 04, tốc độ tăng trưởng và chất lượng tín dụng đã được y/c kiểm
soát chặt chẽ. Sau nhiều năm có điều chỉnh, NHNN khẳng định không
xem xét điều chỉnh tăng chỉ tiêu tín dụng cho hầu hết các TCTD, chỉ trừ
trường hợp một số NHTM tham gia tái cơ cấu các TCTD yếu kém. Đối
với các chương trình tín dụng, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tập
trung, ưu tiên vốn cho các ngành, lĩnh vực, chương trình tín dụng trọng
điểm. Theo số liệu cập nhật đến cuối tháng 7, dư nợ tín dụng đối với
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt 1.431.171 tỷ đồng, 9,2% so với
cuối 2017 và chiếm tỷ trọng #21% dư nợ tín dụng nền KT. Chương trình
cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông
nghiệp sạch đạt #38.000 tỷ đồng với >16.800 khách hàng đang có dư
nợ. Ngoài ra, dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 182.420
tỷ đồng, 10.630 tỷ đồng so với 2017 (6,19%). Công tác tái cơ cấu, xử
lý nợ xấu vẫn được triển khai quyết liệt và toàn diện với quyết tâm sớm
có một hệ thống NH lành mạnh. Không riêng các TCTD yếu kém, các
NHTMCP hoạt động bình thường đang thực hiện cơ cấu lại, xử lý nợ
xấu theo phương án được phê duyệt cũng được cơ quan quản lý giám
sát chặt chẽ để đảm bảo an toàn hệ thống. Tính luỹ kế từ 15/8/2017
đến cuối tháng 6/2018, thời điểm bắt đầu triển khai Nghị quyết 42, toàn
hệ thống TCTD đã xử lý được 138.300 tỷ đồng nợ xấu xác định theo
Tài chính – Ngân hàng
3
Nghị quyết này. Bên cạnh chỉ tiêu tín dụng, Chỉ thị này cũng y/c các
đơn vị trong toàn ngành chủ động điều hành linh hoạt, đồng bộ các
công cụ CSTT nhằm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, góp phần ổn
định KTVM, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu. Mặt bằng LS tháng 8
tương đối ổn định so với cuối tháng 7/2018. Về tỷ giá và thị trường ngoại
hối, tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường LNH #23.300 VND/USD,
0,08% so với cuối tháng 7/2018, 2,60% so với cuối 2017. Tỷ giá
trung tâm biến động linh hoạt theo cả 2 chiều tăng/giảm.
Cho vay tiêu dùng ở Việt Nam -
mới chỉ là bắt đầu
Theo khảo sát của Financial Times, cho vay tiêu dùng ở VN vẫn còn ở
mức thấp, trong khi tiềm năng của thị trường còn khá lớn với nhu cầu
chi tiêu tăng mạnh, số lượng người chưa tiếp cận với DV tài chính còn
nhiều. Sự bùng nổ tín dụng tiêu dùng của VN có thể chỉ mới bắt đầu và
đang được thúc đẩy bởi quá trình đô thị hóa, thu nhập tăng cao và sự
chuyển dịch sang ngành tài chính hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng tại VN
vẫn thấp hơn những nước khác ở KV Đông Nam Á. Trong 2 năm qua,
chỉ số cho vay tiêu dùng (Consumer Borrowing Index) của VN thấp nhất
trong KV mặc dù lại có chỉ số về thu nhập và tiêu dùng cao nhất. Lĩnh
vực cho vay tiêu dùng của VN vẫn còn tương đối trẻ trong khi các
khoản vay hộ gia đình đã trở nên phổ biến tại nhiều nước Châu Á. Theo
khảo sát của FT Confidential Research trong Q.II, gần ½ số người
thành thị ở VN nói rằng họ không có bất kỳ khoản nợ nào. Tỷ lệ này cao
hơn nhiều so với các nước Đông Nam Á khác, đặc biệt là Thái Lan và
Malaysia. Thống kê chính thức cho thấy rằng các khoản vay tiêu dùng
tín chấp chỉ ở mức 23 tỷ USD trong năm 2017, #10% GDP của VN.
Trong khi tại Thái Lan, nợ các hộ gia đình (gồm cả tín chấp và thế chấp)
#80% GDP. Một lý do quan trọng khiến cho vay hộ gia đình còn thấp ở
VN là do sự hạn chế tiếp cận tín dụng chính thức. Theo NHNN vào cuối
2017, có 41% người Việt không giao dịch với NH. Trong khi số người sở
hữu thẻ tín dụng chỉ chiếm 4,1% người Việt trưởng thành, chưa bằng ½
ở Thái Lan và chỉ bằng 1/5 ở Malaysia, theo ước tính của NH Thế giới.
Với dân số trẻ và nền KT đang phát triển nhanh chóng, VN đã gia nhập
nhóm có thu nhập trung bình trong 2014 - 2016 với khoảng >900.000
người chuyển từ nông thôn đến thành thị mỗi năm. Điều này dẫn đến
tiêu dùng cá nhân của VN (một thành phần của GDP) cao thứ 2 trong KV
Đông Nam Á với nhiều khoản chi tiêu cho mua ô tô, thiết bị gia đình,
điện thoại thông minh, các hoạt động giải trí như du lịch.
4
Thị trường mua bán nợ: nút thắt
ở hành lang pháp lý!
Thị trường mua bán nợ VN dù đã đạt được những thành quả nhất định
trong thời gian qua, nhất là sau khi Nghị quyết 42 của Quốc hội ra đời,
nhưng vẫn được đánh giá còn khá sơ khai và còn rất nhiều việc phải
làm nếu muốn phát triển mạnh. Đầu tiên, xét ở khía cạnh nguồn cung
hàng hóa trên thị trường, VN hoàn toàn không thiếu, đang có khoảng
140.000 tỉ đồng nợ xấu trong hệ thống NH. Đấy là còn chưa tính đến
một lượng lớn nợ xấu gần như vẫn đang “án binh bất động” ở VAMC. Về
người mua và người bán, chủ thể tham gia thị trường hiện nay chủ yếu
là Công ty VAMC, DATC và gần 30 AMC của các TCTD. Tuy nhiên,
nhiều công ty AMC thuộc các NH mới chỉ loanh quanh ở một số nghiệp
vụ như thanh lý tài sản gán nợ, quản lý tài sản cầm cố, thu hồi nợ cho
NH mẹ... còn việc xử lý nợ xấu và tái cơ cấu thì gần như không thể. Ước
tính kể từ khi Nghị quyết 42 ra đời, hoạt động mua bán nợ xấu đã diễn
ra sôi động hơn với khá nhiều công ty mua bán nợ mới được thành lập.
Trên thực tế, Nghị quyết 42 thời gian qua mới chỉ mở đường cho việc
hình thành thị trường mua bán nợ chứ chưa có quy định cụ thể về hoạt
động của thị trường này. Theo đó, cần phải có một ủy ban đứng ra để
quản lý, giám sát hoạt động, đề ra những yêu cầu, quy định đối với
người tham gia thị trường cũng như các giao dịch mua bán. Bên cạnh
đó, cần phải có cơ sở hạ tầng cho thị trường này như hình thành sàn
giao dịch mua bán nợ (nơi đấu giá mua bán nợ) hay minh bạch tất cả
những thông tin về khoản nợ, bao gồm: nợ ở đâu, thuộc loại hình nào,
giá trị nguyên thủy là bao nhiêu, giá trị thị trường là bao nhiêu... Trên cơ
sở đó, các bên sẽ mua, bán các khoản nợ này thông qua đấu giá. Theo
quy định hiện hành, Bộ Tài chính là cơ quan quản lý chịu trách nhiệm
tạo nền tảng, cơ sở hạ tầng, quy chế cho việc thành lập thị trường mua
bán nợ. Phía NHNN có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện
kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền hoạt động kinh doanh
dịch vụ mua bán nợ theo quy định của Nghị định 69 đối với AMC trực
thuộc NHTM. Tuy nhiên, cho đến nay, Bộ Tài chính vẫn chưa có động
thái cơ bản nào cho việc ra đời thị trường mua bán nợ. Một khó khăn
khác đối với hoạt động mua bán nợ tại VN là sự thiếu vắng các đơn vị
xếp hạng tín dụng. Bên cạnh đó, để thị trường mua bán nợ hoạt động
hiệu quả và bài bản thì cũng cần quốc tế hóa các chuẩn mực kế toán
để làm cơ sở dữ liệu cho công tác định giá, mua bán - sáp nhập (M&A)
trên thị trường.
5
VNDS: Ngân hàng dần ưu tiên
tăng trưởng tín dụng cho người
vay mua nhà
Trong 2017, ước tính 40% giá trị xây dựng BĐS được giải ngân trực tiếp
từ NH hoặc thông qua cái khoản vay mua nhà, cho thấy thị trường BĐS
đang phụ thuộc rất lớn vào sức khỏe của hệ thống các NH cũng như
tình hình lãi vay. Vì thế, kể từ giai đoạn khủng hoảng 2010-2013, Chính
phủ đã tập trung hơn vào kiểm soát thị trường BĐS và cố gắng kiềm
chế nợ xấu. Theo đánh giá của VNDS, việc áp dụng Basel II dự kiến
hoàn thành trong 2020 ở một số NH lớn cũng gây áp lực nâng chỉ số an
toàn vốn CAR cam kết trên mức 8%. Để làm được điều này, các NH
trên phải tăng phần tử số bằng cách tăng vốn tự có, giảm mẫu số thông
qua các giảm các loại tài sản đảm bảo có hệ số rủi ro cao hơn như BĐS
từ các khoảng cho dự án vay (Basel II y/c nâng hệ số rủi ro từ 100-150%
như trong tiêu chuẩn Basel I lên 200-250%). Và theo ghi nhận của các nhà
phân tích của VNDS, không phải NH nào tại VN cũng có đủ uy tín để
huy động tăng vốn nên việc cắt giảm các khoản vay BĐS trở nên dễ
dàng và được ưu ái hơn. Tổng dư nợ phát triển BĐS đang chiếm 7,2%
tổng dư nợ toàn hệ thống trong 2017, 1,1 điểm % từ mức 2016. Thậm
chí, một số NH đã chủ động cắt dần hoặc ngừng tăng tín dụng BĐS để
sớm tuân thủ Basel II trước thời hạn. Do vậy, cộng hưởng giữ Basel II
và TT.19 sẽ dẫn đến xu hướng giảm hoặc duy trì mức độ cho vay BĐS
bằng cách tăng độ nghiêm ngặt trong quá trình xét duyệt và đánh giá
rủi ro để cấp tín dụng cho các công ty BĐS. Hiện hầu hết các hợp đồng
vay mua nhà đều dưới hình thức vay tiêu dùng và không bị áp dụng hệ
số rủi ro cao trên TSBĐ như từ công ty BĐS dưới góc nhìn của Basel II.
Tuy nhiên, vay mua nhà vẫn chịu tác động bởi TT.19 bởi thời gian vay
dài (10-20 năm). Mặc khác, để nâng vốn tự có dài hạn, các NH sẽ
khuyến khích gửi tiết kiệm từ khách hàng cá nhân bằng việc nâng lãi
suất tiền gửi trên 6 tháng. Điều này cùng với mục tiêu điều tiết lạm phát
có thể làm tăng lãi vay mua nhà trong tương lai khi các NH có thể duy
trì biên độ cộng vào 3,5- 4,5% từ lãi suất tiết kiệm dài hạn. Tuy nhiên,
công ty CK này lưu ý, việc tăng lãi suất vay mua nhà quá đột ngột trên 1
điểm %/năm là khó xảy ra từ 2018 trở đi và không quá đáng ngại đối với
tâm lý sử dụng đòn bẩy đối với người mua nhà. Với sức mua khiêm tốn
hơn, người mua nhà phân khúc trung cấp và vừa túi tiền trở nên nhạy
cảm hơn với việc tăng giá nhà đất nếu so sánh với người có thu nhập
khá hơn. Giá chào bán trung bình ở các phân khúc đã tăng trở lại trong
ba năm gần đây với mức tăng cao nhất là 11%/năm ở phân khúc chung
6
cư trung cấp trong 2015-2017 từ 801 USD/m2 lên 1.170 USD/m2. Việc
tăng giá đất và chi phí xây dựng (giá thép 18% trong 2017, và 5%
5T2018) lý giải phần lớn đà tăng này. Nhưng việc tăng mạnh giá tại phân
khúc trung cấp một phần từ việc công ty BĐS đưa ra nhiều sản phẩm
cao cấp hơn trong cùng phân khúc.
7
Nợ đọng thuế tăng chạm ngưỡng
trên 82.800 tỷ đồng
Tính đến hết tháng 8, tổng số tiền thuế nợ của ngành Thuế là hơn
82.800 tỷ đồng, 1.340 tỷ đồng so với thời điểm 31/07/2018. Theo
Tổng cục Thuế, tính đến hết tháng 8/2018, tổng số tiền thuế nợ đến 90
ngày và >90 ngày là >48.000 tỷ đồng, #58% tổng số tiền thuế nợ, bao
gồm: các khoản thuế, phí là 22.859 tỷ đồng (#27,6% tổng số tiền thuế nợ);
các khoản nợ liên quan về đất là 8.856 tỷ đồng (#10,7% tổng số tiền thuế
nợ); các khoản phạt vi phạm hành chính và tiền chậm nộp thuế là
16.308 tỷ đồng (#19,7% tổng số tiền thuế nợ). Cũng theo Tổng cục Thuế,
lũy kế tính đến thời điểm 31/08/2018, cơ quan Thuế đã thực hiện các
biện pháp đôn đốc thu nợ ước thu đạt >23.000 tỷ đồng tiền nợ thuế. Số
thu này #55% nợ đến 90 ngày và >90 ngày tại thời điểm 31/12/2017.
Trong đó, thu bằng biện pháp quản lý nợ là 15.799 tỷ đồng và bằng
biện pháp cưỡng chế nợ thuế là 7.325 tỷ đồng. Đáng chú ý, nhóm nợ
không có khả năng thu hồi (của người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng
lực hành vi dân sự, liên quan đến trách nhiệm hình sự, đã tự giải thể, phá sản,
ngừng, nghỉ và bỏ địa chỉ KD) là >34.800 tỷ đồng, # 42% tổng số tiền thuế
nợ, 3.349 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2017 và 409 tỷ đồng so với
thời điểm 31/07/2018. Theo Tổng cục Thuế, thời gian tới, các cơ quan
Thuế sẽ tăng cường công tác theo dõi, giám sát chặt chẽ tình hình thực
hiện đôn đốc và cưỡng chế nợ. Đồng thời tiếp tục công khai thông tin nợ
thuế đối với các đơn vị chây ì.
Phó Chủ tịch WB: Vị thế đối
ngoại của Việt Nam trong khu
vực và quốc tế được nâng lên
Tại Hội nghị Diễn đàn KT Thế giới về ASEAN 2018 (WEF ASEAN 2018),
bà Victoria Kwakwa, PCT NH Thế giới phụ trách KV Đông Á-TBD đánh
giá, các chỉ số vĩ mô đều tích cực, như tăng trưởng, XK, thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), dự trữ ngoại hối... Đặc biệt, vị thế đối
ngoại của VN trong KV và quốc tế được nâng lên. Mới đây, VN đã được
Hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s nâng bậc xếp hạng TPCP VN dài
hạn bằng ngoại tệ và khoản vay không được bảo đảm lên mức Ba3 từ
mức B1 và thay đổi triển vọng sang mức Ổn định (từ mức Tích cực). KT
VN có triển vọng rất tốt thông qua XK và FDI, Chỉ số nhà quản trị mua
hàng (PMI) khả quan... Bà cho rằng VN sẽ đạt mức tăng trưởng 6,8%
Kinh tế Việt Nam
8
năm nay, mức cao trong KV và thế giới. Bà Kwakwa khuyến nghị Chính
phủ VN có những chính sách rõ ràng để giúp nhà đầu tư có niềm tin,
tăng cường quản lý vĩ mô... Nếu VN tiếp tục quản lý tốt KTVM, kiểm
soát lạm phát thì ngày càng nhiều DN, nhà đầu tư đến với VN.
Đầu tư tư nhân tại Việt Nam tăng
gấp đôi trong 13 năm
Trong thời gian tới, gia tăng phát triển của KV KT tư nhân và mở rộng
nguồn tài chính tư nhân trong nước là những ưu tiên hàng đầu giúp VN
đáp ứng nhu cầu tài chính cho việc thực hiện thành công các Mục tiêu
Phát triển bền vững (SDG). Với mục tiêu tổng quát là hỗ trợ VN trong nỗ
lực cải cách việc huy động, sử dụng và quản lý tài chính cho phát triển,
nhằm thực hiện Chương trình nghị sự Phát triển bền vững đến năm
2030, báo cáo “Tài chính cho phát triển bền vững ở VN” cung cấp một
cái nhìn tổng quan về những thay đổi trong bức tranh tài chính phát
triển ở VN. Báo cáo phân tích cơ cấu, tính chất và xu hướng tài chính
phát triển và các nguồn đầu tư cho phát triển ở VN có so sánh với các
nước khác (chủ yếu là các nước trong KV ASEAN). Sự gia tăng phát triển
của KV KT tư nhân ở VN và việc mở rộng nguồn tài chính tư nhân trong
nước là ưu tiên hàng đầu giúp VN đáp ứng nhu cầu tài chính để thực
hiện thành công các SDG. Để bảo đảm các nguồn tài chính công đóng
góp có hiệu quả vào việc thực hiện thành công các SDG, cần mở rộng
diện thu thuế như là một nguồn thu ngân sách thường xuyên hơn, tăng
nguồn thu ngân sách từ việc quản lý tốt hơn các tài sản Nhà nước,
đồng thời nâng cao hiệu quả chi tiêu Chính phủ và đầu tư công, cùng
với nỗ lực quản lý tốt nợ công. Báo cáo cũng nêu bật sự cần thiết phải
bảo đảm quá trình chuyển tiếp thông suốt ra khỏi giai đoạn tiếp nhận
Trợ giúp phát triển chính thức (ODA), quản lý tốt hơn mối quan hệ tương
tác giữa các nguồn tài chính cho phát triển, đồng thời tăng cường hiệu
quả điều phối và hiệp lực giữa các nguồn tài chính khác nhau. Đầu tư
từ KV tư nhân trong nước tăng gấp đôi vào năm 2015 so với năm 2002,
song chỉ chiếm 40% tổng tài chính cho phát triển, và tỷ lệ đầu tư tư
nhân/người của VN – 490 USD so với mức trung bình của các nước
ASEAN là 690 USD – nằm trong nhóm thấp nhất ở KV ASEAN…
Xuất siêu 4,69 tỷ USD trong 8
tháng
Theo Tổng cục Hải quan, tổng trị giá XNK hàng hóa của VN trong kỳ 2
tháng 8/2018 (từ 16/08-31/08/2018) đạt 24,18 tỷ USD, 24% (#4,67 tỷ
USD) so với kết quả thực hiện trong ½ đầu tháng 8/2018. Nhờ đó, tổng
trị giá XNK của cả nước trong 8th/2018 đạt 312,13 tỷ USD, 14,5%,
9
#39,6 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ 2017. Trong đó, tổng trị
giá XNK của DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 203,05 tỷ
USD, 14,9% (#26,27 tỷ USD); trị giá XNK của khối DN trong nước là
109,08 tỷ USD, 13,9% (#13,34 tỷ USD) so với cùng kỳ 2017. Trong
kỳ 2 tháng 8/2018, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 2,47 tỷ
USD, qua đó đưa mức thặng dư của cả nước trong 8th qua lên 4,69 tỷ
USD. Về NK, tổng trị giá hàng hoá NK của VN trong kỳ 2 tháng 8/2018
đạt 10,85 tỷ USD, 11% (#1,08 tỷ USD về số tuyệt đối) so với kết quả
thực hiện trong ½ đầu tháng 8/2018. Trị giá NK hàng hóa trong kỳ 2
tháng 8/2018 tăng so với kỳ 1 tháng 8/2018 chủ yếu ở một số nhóm
hàng sau: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 20,7%, #365
triệu USD; dầu thô 255 triệu USD, gấp 2,8 lần; điện thoại các loại và
linh kiện 169 triệu USD, #20,2%; xăng dầu các loại 72 triệu USD,
#32,8%… Tính đến hết tháng 8/2018, tổng trị giá NK của cả nước đạt
153,72 tỷ USD, 12,4% (#16,91 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2017.
10
IMF cảnh báo về cú sốc chiến
tranh thương mại Mỹ - Trung tới
các thị trường mới nổi
TGĐ IMF cảnh báo rằng, cuộc chiến thương mại ngày càng leo thang
giữa Mỹ và TQ có thể tạo ra một cú sốc tới các thị trường mới nổi, đồng
thời làm gia tăng khả năng khủng hoảng ở Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ có
thể lan ra khắp các quốc gia đang phát triển. Các quan chức IMF vẫn
chưa nhận thấy tình trạng lan rộng ra nhiều quốc gia. Tuy nhiên, “tình
hình có thể thay đổi nhanh chóng” và dẫn lại “triển vọng không chắc
chắn và sự thiếu vắng niềm tin từ các mối đe dọa thương mại (ngay cả
trước khi các lời đe dọa này trở thành sự thật) như là một trong những mối
nguy cơ chính mà các quốc gia đang phát triển đang phải đối mặt”…
Chiến tranh thương mại leo thang sẽ gây tác động đáng kể tới tăng
trưởng TQ và sau đó tác động tới các quốc gia châu Á láng giềng, vì sự
hòa hợp trong chuỗi cung ứng giữa các quốc gia này. Bên cạnh đó, tác
động tiêu cực ở Mỹ sẽ thể hiện rõ ở những người có thu nhập thấp -
những người sẽ bị tác động nặng nề vì mức giá hàng hóa cao hơn.
“Thương mại là một điều tích cực, một điểm cộng, thương mại cần phải
thiết lập một cách chắc chắn, nhưng nó là một công cụ và một động lực
tăng trưởng không nên bị đe dọa, nhất là trong thời khắc này”.
Chiến tranh thương mại có thể
khiến Trung Quốc mất hàng triệu
việc làm
Theo một báo mới công bố của JPMorgan Chase, sự mất mát 700.000
việc làm có thể xảy ra nếu Mỹ áp thuế quan bổ sung 25% lên thêm 200
tỷ USD hàng hóa TQ và Bắc Kinh đáp trả bằng cách giảm giá CNY 5%,
cộng thêm áp thuế bổ sung lên hàng hóa Mỹ. Nếu TQ không trả đũa
Mỹ, thì số người TQ bị mất việc làm có thể lên tới con số 3 triệu. Những
ảnh hưởng sâu rộng hơn mà nền KT TQ sẽ phải hứng chịu từ cuộc đấu
thuế quan, trong bối cảnh KT đã có nhiều dấu hiệu giảm tốc và đang
phải gánh một "núi" nợ khổng lồ. Tình hình còn có thể tệ hơn nhiều: nếu
Mỹ áp thuế quan bổ sung 25% lên toàn bộ hàng hóa NK từ TQ và TQ
đáp trả bằng mức thuế như đã công bố, thì nước này sẽ thiệt hại 5,5
triệu việc làm và tăng trưởng GDP sẽ 1,3 điểm %. "Nếu Mỹ tiếp tục
leo thang cuộc chiến thuế quan, ảnh hưởng đối với TQ sẽ càng lớn. Nếu
tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh, điều đó sẽ làm thay đổi chức năng phản
ứng chính sách và nhiều khả năng TQ sẽ dịch chuyển về phía nới lỏng
Kinh tế Quốc tế
11
chính sách". Trong trường hợp kịch bản xấu nhất, với 5 triệu người mất
việc, thì lựa chọn phá giá CNY 12% trong 2019 sv mức tỷ giá cuối năm
2018 sẽ bù đắp lại ảnh hưởng đối với GDP và làm giảm mức thiệt hại
ròng việc làm xuống còn 900.000 công việc. Tuy vậy, việc phá giá CNY
như thế có thể dẫn tới 332 tỷ USD tiền vốn tháo chạy khỏi TQ, "đốt" hơn
1/10 dự trữ ngoại hối của TQ. Đó sẽ là tình huống mà các nhà hoạch
định chính sách TQ có thể muốn tránh, xét đến đợt thoái vốn ồ ạt mà
nước này đã phải trải qua sau cú phá giá đồng tiền gây sốc năm 2015
Trung Quốc kiện Mỹ lên WTO,
đòi bồi thường 7 tỷ USD/năm
Năm 2016, TQ thắng vụ kiện về thuế chống bán phá giá mà Mỹ áp lên
nhiều ngành công nghiệp bao gồm máy móc và hàng điện tử, công
nghiệp nhẹ, kim loại và khoáng sản (Vào thời điểm đó, giá trị XK các mặt
hàng này của TQ sang Mỹ đạt 8,4 tỷ USD/năm). Mỹ kháng cáo nhưng 2017,
WTO tuyên bố giữ nguyên phán quyết ban đầu. Chính vụ Mỹ bị thua
kiện này đã thúc đẩy Tổng thống Trump mở một chiến dịch gây sức ép
cải cách tại WTO. Tháng trước, ông Trump nói Mỹ có thể rút khỏi WTO
nếu "họ không điều chỉnh cho tốt hơn". Trong đề nghị mới đưa lên
WTO, TQ cho rằng dữ liệu mới nhất cho thấy thuế chống bán phá giá
nêu trên của Mỹ khiến TQ thiệt hại hơn 7 tỷ USD/năm. Vì vậy, TQ đề
nghị WTO cho phép được nâng hàng rào thương mại đối với hàng hóa
Mỹ với giá trị tương tự, theo như quy định của WTO.
12
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH https://vietnambiz.vn/cho-vay-tieu-dung-o-viet-nam-moi-chi-la-bat-dau-83468.html
http://ndh.vn/8-thang-dau-nam-tang-truong-huy-dong-vuot-tin-dung-
20180912093227526p149c166.news
https://vietnambiz.vn/thi-truong-mua-ban-no-nut-that-o-hanh-lang-phap-ly-83504.html
https://bizlive.vn/tai-chinh/vnds-ngan-hang-dan-uu-tien-tang-truong-tin-dung-cho-nguoi-vay-mua-
nha-3469045.html
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/no-dong-thue-tang-cham-nguong-tren-82800-ty-dong-20180912071927036.chn
http://ndh.vn/pho-chu-tich-wb-vi-the-doi-ngoai-cua-viet-nam-trong-khu-vuc-va-quoc-te-duoc-nang-
len-20180911080241203p145c151.news
http://cafef.vn/dau-tu-tu-nhan-tai-viet-nam-tang-gap-doi-trong-13-nam-20180912150005273.chn
https://bizlive.vn/kinh-te-dau-tu/xuat-sieu-469-ty-usd-trong-8-thang-3468973.html
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2018/09/tong-giam-doc-imf-canh-bao-ve-cu-soc-chien-tranh-thuong-mai-my-
trung-toi-cac-thi-truong-moi-noi-775-628524.htm
http://vneconomy.vn/trung-quoc-kien-my-len-wto-doi-boi-thuong-7-ty-usd-moi-nam-
20180912083826232.htm
http://vneconomy.vn/chien-tranh-thuong-mai-co-the-khien-trung-quoc-mat-hang-trieu-viec-lam-
20180911210747858.htm
13
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách Nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN TPCP TPCP
KT vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
KT KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới World Bank Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO