Trường đại học ngoại thương
Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp
vấn đề tiêu chuẩn chất lượng, môi trường và xã hội đối với hàng hoá xuất khẩu sang eu
giáo viên hướng dẫn :Th.s Nguyễn Thanh Bình
sinh viên thực hiện : Nghiêm Quỳnh Nga
Lớp A2 – K38A – KTNT
Hà nội, năm 2003
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.s Nguyễn
Thanh Bình - người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em
trong quá trình viết khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại
Thương đã dạy dỗ em kiến thức, cách nghiên cứu, giúp em có thể
hiểu và xử lý đề tài với khả năng của mình.
Đồng thời, xin chân thành cảm ơn các cán bộ thư viện, các cán bộ
chuyên môn trong ngành và các bạn cùng khóa đã giúp tôi thu thập
tài liệu để hoàn thành khóa luận này
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Mục lục
Danh mục cụm từ viết tắt
Lời nói đầu
Chương I: Các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với
hàng hoá lưu thông trên thị trường....................................................................1
I. Giới thiệu chung về thị trường EU.............................................1
1. Liên minh Châu Âu (EU)......................................................1
2. Đặc điểm và tập quán tiêu dùng của thị trường EU............2
II. Các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng của thị trường EU đối
với hàng hoá lưu thông trên thị trường...........................................5
1. Vấn đề tiêu chuẩn hoá và bộ tiêu chuẩn EN.......................5
2. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000............................7
3. Các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người
tiêu dùng..................................................................................9
III. Các tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với hàng hoá lưu
thông trên thị trường.....................................................................18
1. Tiêu chuẩn quản lý môi trường.........................................18
2. Bao bì và phế thải bao bì..................................................21
3. Nhãn hiệu sinh thái EU (Eco-label)...................................23
4. Các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan
đến bảo vệ môi trường............................................................25
IV. Vấn đề trách nhiệm xã hội của thị trường EU đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu ..............................................................................
28
1. Các bộ quy tắc ứng xử......................................................28
2. Bộ tiêu chuẩn SA 8000.....................................................30
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá việt nam sang eu dưới tác động của
các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường, và xã hội.......................................32
I. Đánh giá thực trạng chung của hàng xuất khẩu Việt Nam sang
EU dưới tác động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất
lượng, môi trường và xã hội..........................................................32
1. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - EU................32
2. Đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về chất lượng,
môi trường & xã hội................................................................40
II. Đánh giá thực trạng của một số ngành xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam sang EU dưới tác động của các quy định/ tiêu chuẩn của
EU về chất lượng, môi trường và xã hội........................................58
1. Hàng giày dép..................................................................58
2. Hàng dệt may...................................................................64
3. Hàng nông sản.................................................................70
4. Hàng thuỷ sản..................................................................74
Chương III: Một số giải pháp nhằm đáp ứng các quy định/tiêu chuẩn của eu về
chất lượng, môi trường & xã hội.......................................................................78
I. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU 78
1. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn
2001- 2010.............................................................................78
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường
EU 82
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng các quy định và tiêu
chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội.......................90
1. Giải pháp về phía Nhà nước..............................................90
2. Giải pháp về phía các doanh nghiệp................................95
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38Kết luận..........................................................................................................100
Danh mục tàI liệu trích dẫn và tham khảo
Phụ lục
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Danh mục cụm từ viết tắt
Ký hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt Nam
BS British Standard Tiêu chuẩn của Anh
CE European Conformity Nhãn hiệu CE
CEEC Centre and Eastern European Countries Các nước Trung và Đông Âu
CEN Comité Européen de Normalisation - European Committee for Standardization
Uỷ ban tiêu chuẩn hoá châu Âu
CENELEC Comité Européen de Normalisation - European Committee for Electrotechnical Standardization Electrotechnique
Uỷ ban tiêu chuẩn hoá kỹ thuật điện tử châu Âu
CODEX Theo tiếng Latin là “Food Code” ủy ban quốc tế về thực phẩm
CoC Code of Conduct Quy tắc ứng xử
CSR Corporation Social Responsibility Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
DIN (Deutsches Institut fuer Normung - German Institute for Standardisation)
Tiêu chuẩn của Đức
ECB European Central Bank Ngân hàng Trung Ương châu Âu
ECSC European Coal and Steel Community Cộng đồng than thép châu Âu
EEA European Economic Area Khu vực kinh tế châu Âu
EEC European Economic Community Cộng đồng kinh tế châu Âu
EFTA European Free Trade Association Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu
EMAS Ecological Management and Audit Scheme
Chương trình kiểm định và quản lý sinh thái.
EMU European Monetary Union Liên minh tiền tệ châu Âu
EN European Standard Tiêu chuẩn châu Âu
ETSI the European Telecommunications Standards Institute
Viện tiêu chuẩn viễn thông châu Âu
EU European Union Liên minh châu Âu
EURATOM European Atomic Energy Community Cộng đồng nguyên tử châu Âu
EUREP Euro-Retailer Produce Working Group Tổ chức các nhà bán lẻ hàng đầu châu Âu
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
EVA Ethyl Vinyl Acetate Nhựa EVA
FRZ Frizzy Kháng sinh FRZ
FAO Food and Agriculture Organization Tổ chức nông lương quốc tế
GAP Good Agriculture Practice Quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo
GMP Good Manufacturing Practice Hệ thống thực hành sản xuất tốt.
GOST Gosstandart of Russia Tiêu chuẩn của Liên Xô
GSP Generalised Scheme of Preferences Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập
HACCP Hazard Analysis and Critical Control Point
Hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy trọng yếu.
IEC International Electrotechnical Commission
Uỷ ban điện quốc tế
ILO International Labour Organization Tổ chức lao động quốc tế
ISO International Organisation for Standardization
Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá.
ITU International Telecommunication Union Tiêu chuẩn quốc tế về viễn thông.
LEFASO Vietnam Leather and Footwear Association
Hiệp hội da giày Việt Nam
NAFTA North American Free Trade Agreement Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
NF Necrotizing Fasciitis Kháng sinh NF
PU Polyurethane Nhựa PU
SAI Social Accountability International Tổ chức về tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SAI
TPU Thermoplastic Polyurethane Nhựa TPU
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Lời nói đầu
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và
Nhà nước Việt Nam. Chủ trương này đã được khẳng định trong văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết 01 NQ/TW của
Bộ Chính trị và một lần nữa khẳng định trong văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, nhằm thực hiện mục tiêu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để thực
hiện chủ trường của Đảng, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường
mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Liên minh châu Âu hiện là một trong những đối tác thương mại
quan trọng, là khu vực thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt
Nam sau Mỹ (theo số liệu ước tính năm 2003, xuất khẩu sang EU
chiếm 19,2% kim ngạch xuất khẩu của cả nước) [1]. Tuy nhiên quy
mô buôn bán giữa Việt Nam - EU hiện nay vẫn còn nhỏ (mới chiếm
0,12% tổng kim ngạch ngoại thương của EU và chiếm 13,7% tổng
kim ngạch ngoại thương của Việt Nam) [2]. Đặc biệt trong những
năm gần đây, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU
lại có xu hướng giảm sút. Một trong những nguyên nhân là do
hàng xuất khẩu của Việt Nam còn nghèo nàn về chủng loại, tập
trung cao vào một số ít mặt hàng, chất lượng hàng thấp, không
đạt độ đồng đều... Đồng thời EU lại là một trong những thị trường
khó tính trên thế giới với hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao và
nghiêm ngặt.
Hơn nữa trong xu thế hiện nay, việc tiếp cận thị trường châu
Âu sẽ còn khó khăn hơn do số lượng các yêu cầu của thị trường về
an toàn, sức khoẻ, chất lượng, môi trường và các vấn đề xã hội
đang tăng lên nhanh chóng, thay thế cho các biện pháp bảo hộ
bằng thuế quan, hạn ngạch... đang dần bị cắt giảm với quá trình tự
do hoá thương mại diễn ra sôi nổi khắp mọi nơi.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Xuất phát từ những lý do nêu trên, em đã chọn “Vấn đề tiêu
chuẩn chất lượng, môi trường và xã hội đối với hàng hoá
xuất khẩu sang EU” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu của khoá luận:
- Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu các tiêu chuẩn về chất
lượng, môi trường và xã hội đối với hàng hoá khi nhập khẩu
vào thị trường EU
- Mục tiêu cụ thể:
+ Làm rõ các yêu cầu về chất lượng, môi trường và xã hội của
EU đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của các nước
thứ ba (trong đó có Việt Nam) vào thị trường EU
+ Đánh giá khả năng đáp ứng các quy định trên của hàng Việt
Nam xuất khẩu sang EU.
+ Đề xuất giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn về chất
lượng, môi trường và xã hội của EU nhằm nâng cao sức cạnh tranh
và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này.
Đối tượng nghiên cứu:
Việc tuân thủ các quy định về chất lượng, môi trường và xã hội
của hàng Việt Nam khi xuất khẩu sang EU
Phạm vi nghiên cứu:
Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang EU (giới hạn đi sâu vào
4 nhóm hàng chủ lực: giày dép, dệt may, nông sản và thuỷ sản)
Nội dung của khoá luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và các phụ lục, khoá luận được chia
làm 3 chương:
Chương I: Các quy định/ tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường
và xã hội của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang EU
dưới tác động của các quy định/tiêu chuẩn về chất lượng, môi
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
trường, và xã hội.
Chương III: Một số giải pháp đáp ứng các tiêu chuẩn của EU
về chất lượng, môi trường và xã hội.
Đây là một đề tài có tính thời sự và mới mẻ cả về lý luận cũng
như thực tiễn, đồng thời do kinh nghiệm và trình độ bản thân còn
hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót về nội
dung cũng như hình thức. Em rất mong nhận được sự đánh giá góp
ý của các thầy cô giáo, bạn bè và những ai quan tâm đến vấn đề
này để đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, tháng 12 năm
2003
Nghiêm Quỳnh Nga
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Chương I: Các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường
I. Giới thiệu chung về thị trường EU
1. Liên minh Châu Âu (EU)
Ngày 18/4/1951 tại Paris, 6 nước: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan,
Lúcxămbua đã ký Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu
Âu (ECSC) điều hành việc sản xuất và tiêu thụ than thép của các
nước thành viên nhằm đẩy mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
sản xuất, phân phối, tiêu thụ và nâng cao năng suất lao động.
Dựa vào kết quả hợp tác đạt được, các quốc gia này đã mở
rộng liên kết sang các lĩnh vực khác. Tháng 7 năm 1957, Cộng
đồng nguyên tử châu Âu (EURATOM) và Cộng đồng kinh tế châu Âu
(EEC) được chính thức thành lập, trong đó EURATOM điều hành sản
xuất năng lượng nguyên tử và EEC điều hành toàn bộ các lĩnh vực
sản xuất ở 6 nước. Tuy nhiên, nhằm tránh sự chống chéo trong
hoạt động của 3 cộng đồng, đến năm 1967, các quốc gia này lại
nhất trí hợp nhất các thiết chế của cả 3 cộng đồng trên thành
Cộng đồng châu Âu (EC)
Trong quá trình hoạt động, EC lần lượt kết nạp thêm 6 thành
viên nữa là Anh, Ailen, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy
Lạp. EC cũng đã xúc tiến việc phát triển sâu hơn nữa liên kết kinh
tế và ký Hiệp ước Maastricht vào tháng 2/1992 nhằm làm châu Âu
thay đổi một cách căn bản, đồng thời đổi tên EC thành Liên Minh
Châu Âu (EU). Năm 1995, EU kết nạp thêm 3 thành viên mới: áo,
Phần Lan và Thụy Điển, trở thành cộng đồng 15 quốc gia. Các
quốc gia thành viên EU chia sẻ chính sách chung về Nông nghiệp,
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
An ninh, Đối ngoại, Hợp tác tư pháp và Nội vụ, áp dụng một chế độ
thương mại chung. Ngoài ra còn có 12 quốc gia thành viên tham
gia Liên minh tiền tệ (EMU) với đồng tiền chung Euro được chính
thức lưu hành từ 1/1/2000.
Hiện nay, EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh trên thế giới
với GDP chiếm khoảng 20% GDP toàn thế giới, đứng sau Mỹ (~
11.200 tỷ USD) và trên Nhật Bản (~ 4.500 tỷ USD). Từ 1997 đến
nay, EU vẫn giữ được ổn định và duy trì tăng trưởng GDP ở mức độ
tương đối cao (8.700 tỷ USD năm 2002) [3]. Giá trị thương mại của
EU cũng chiếm khoảng 22.6% giá trị thương mại thế giới (nếu tính
cả thương mại trong khối, EU chiếm 40% lượng hàng hoá xuất
nhập khẩu trên toàn thế giới), vượt chỉ tiêu tương ứng của Mỹ và
Nhật Bản (20,47% và 8,1%). Vai trò quan trọng của EU như một
khối thương mại sẽ còn tăng lên với việc mở rộng diễn ra trong
vòng 5 - 10 năm tới, khi mà một vài nước Đông Âu được kết nạp
làm thành viên mới của EU.
2. Đặc điểm và tập quán tiêu dùng của thị trường EU
EU là một thị trường rộng lớn bao gồm 15 quốc gia với khoảng
380 triệu dân. Điều này có nghĩa rằng thị trường EU lớn gấp ba lần
thị trường Nhật Bản (với ~ 127 triệu dân), lớn hơn thị trường Mỹ
khoảng 40% (với ~ 280 triệu dân) và xấp xỉ toàn bộ khu vực mậu
dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), với khoảng 400 triệu dân [3]. Thêm vào
đó, thị trường này còn mở rộng sang các nước thuộc “Hiệp hội mậu
dịch tự do châu Âu”(EFTA) gồm Na Uy, Ai-len, Thụy Sĩ và
Liechtenstein, tạo thành khu vực kinh tế châu Âu (EEA).
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
EU là một thị trường thống nhất cho phép tự do di chuyển
hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động giữa các nước thành viên.
Trong thị trường thống nhất này, hàng hoá được sản xuất tại hoặc
được nhập khẩu vào một quốc gia thành viên thì cũng có thể được
di chuyển sang các quốc gia thành viên khác mà không gặp phải
một hạn chế nào. Tiền đề cho sự di chuyển tự do này là sự thống
nhất về luật lệ và quy định liên quan đến hàng hoá sản xuất trong
nước hoặc hàng hoá nhập khẩu. Với đặc điểm trên, không chỉ
thương mại nội khối có điều kiện phát triển mà các nước bên ngoài
cũng gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc thâm nhập thị trường của
các nước thành viên EU. Bên cạnh đó, đồng tiền chung Euro và các
chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) chỉ đạo
cho thấy sự hội nhập và gắn kết vững chắc ở đỉnh cao của nền
kinh tế châu Âu.
Mặc dù Liên minh châu Âu được xem là một thị trường thống
nhất nhưng về phương diện địa lý, khí hậu, nhân khẩu học, các nét
đặc trưng văn hoá xã hội, nhu cầu tiêu dùng và hành vi tiêu dùng
thì lại hoàn toàn không phải là như vậy. Khu vực bên trong và xung
quanh vùng Rhine-Ruhr thường được coi là trung tâm kinh tế của
EU - gồm Hà Lan, Pháp, Bỉ và Đức - là nơi tập trung chủ yếu dân
số, công nghiệp và cơ sở hạ tầng. Một số khu công nghiệp được
đặt tại các khu vực khác như: miền trung và nam nước Đức, miền
bắc Tây Ban Nha, miền bắc nước ý, trung tâm nước Anh (bên trong
và xung quanh Luân Đôn). ở những vùng khác như miền nam Tây
Ban Nha, miền nam nước ý, nước Hy Lạp, nước Bồ Đào Nha.... có
nền sản xuất công nghiệp tương đối thấp, hoạt động chủ yếu là
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
nông nghiệp và du lịch. Về mặt khí hậu cũng có sự khác biệt đáng
kể. Các nước vùng Scandinavia có khí hậu lạnh, trong khi các nước
Địa Trung Hải lại có khí hậu cận nhiệt đới. Giữa hai vùng này là các
nước tây bắc EU nằm trong vùng khí hậu ôn hoà. Những đặc điểm
về khí hậu là yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người
tiêu dùng EU, đặc biệt đối với những mặt hàng như may mặc, đồ
đạc nội thất...
Một sự khác biệt lớn về dân số và quy mô thị trường cũng đang
tồn tại ngay chính trong bản thân EU. Các khu vực có mật độ dân
số cao nằm ở vùng tây bắc của nước Đức, Hà Lan, tây nam nước
Anh và miền bắc nước ý. Các quốc gia vùng tây bắc EU đồng thời
là những quốc gia được đô thị hoá cao độ, với mật độ dân số tại
thủ đô khá lớn. Trái lại, Bồ Đào Nha và áo là hai quốc gia có mật
độ dân số ở nông thôn cao nhất.
Thị trường EU đa văn hoá, đa sắc tộc. Hiện tại có tất cả khoảng
10 triệu người không có nguồn gốc EU, phần lớn đến từ Bắc Phi,
Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Tư cũ, đang sinh sống tại đây. Sự đa dạng
tương đối về văn hoá không chỉ giữa các quốc gia thành viên mà
còn nằm trong chính nội bộ mỗi quốc gia. Ví dụ như những người ở
miền Nam nước Đức có nếp sống và tư duy khác với người sống ở
vùng công nghiệp Ruhr, và những người này lại khác với người ở
vùng Đông Đức cũ. Tại Tây Ban Nha cũng vậy, người xứ Bascơ
miền bắc có nền văn hoá khác căn bản với những người ở các xứ
khác....
Cùng với sự khác biệt về nhân khẩu học và văn hoá, thói quen
tiêu dùng và hành vi mua sắm cũng khác nhau giữa các nước
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thành viên EU. Tại những khu vực ở phần tây bắc EU, do sung túc
hơn nên người dân có thường sử dụng phần lớn thu nhập vào việc
mua sắm nhà cửa, các đồ dùng đắt tiền, giải trí, du lịch, chăm sóc
y tế. Vì thế mà chất lượng của hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho
các quốc gia thuộc vùng này thường được chú trọng hơn. Tính đa
dạng trong sự thống nhất của thị trường EU cho chúng ta hiểu cụm
từ “người tiêu dùng châu Âu”nói chung không tồn tại. Các quốc gia
bên ngoài khối muốn thâm nhập hiệu quả vào các thị trường thành
viên EU không thể không tính đến những nét đặc trưng của từng
thị trường.
EU là thị trường có mức sống cao, yếu tố chất lượng, sức khoẻ
và an toàn cho người tiêu dùng luôn được đặt lên hàng đầu thông
qua việc đặt ra những yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với hàng hoá
lưu thông trên thị trường. Có thể lấy ví dụ về quy chế đảm bảo an
toàn của EU đối với một số sản phẩm tiêu dùng như: các loại thuỷ
hải sản phải được kiểm tra chặt chẽ thành phần tạp chất và dư
lượng kháng sinh, đồng thời quá trình nuôi trồng, khai thác, chế
biến và vận chuyển cũng phải tuân thủ các quy định nhằm không
gây tác động xấu đến môi trường; đối với vải lụa, EU lập ra một hệ
thống thống nhất về mã hiệu cho biết các loại sợi cấu thành nên
loại vải hay lụa được bán ra trên thị trường, và khi đó bất cứ loại
vải hay lụa nào được lưu hành cũng phải ghi rõ mã hiệu của những
loại sợi chủ yếu kèm theo tỷ lệ % hoặc cấu thành chi tiết của sản
phẩm..v..v..
Trong xu thế hiện nay, các khía cạnh môi trường và xã hội liên
quan đến sản xuất hàng hoá ngày càng được các nước phát triển
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
chú trọng, đặc biệt là thị trường EU. Thị phần hàng thực phẩm thân
thiện với môi trường trên cả hai phương diện (giảm lượng hoá chất
trong thực phẩm và không gây ô nhiễm môi trường) dự kiến sẽ
tăng lên nhanh chóng. Bao bì có khả năng tái sinh và ngay cả việc
quảng cáo được tiến hành theo cách thức thân thiện với môi
trường luôn giành được sự ưu ái của người tiêu dùng. Bên cạnh đó,
người tiêu dùng châu Âu còn trở nên khắt khe hơn trong việc lựa
chọn hàng hoá xuất phát từ quan điểm đạo đức. Hàng hoá có được
sản xuất với sự phân chia thu nhập công bằng cho người lao động
thực sự, trong những điều kiện lao động phù hợp, không lạm dụng
lao động trẻ em... đang là mối quan tâm lớn của thị trường
.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
II. Các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng của thị trường
EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường.
1. Vấn đề tiêu chuẩn hoá và bộ tiêu chuẩn EN
“Thông thường chúng ta không nghĩ đến tiêu chuẩn, trừ khi
việc thiếu vắng tiêu chuẩn gây ra những bất lợi. Nhưng trong thực
tế rất khó có thể hình dung được cuộc sống hàng ngày lại không có
tiêu chuẩn. Hãy thử lấy bất kỳ tình huống nào và bạn sẽ ngạc
nhiên thấy được nhiều tiêu chuẩn hỗ trợ như thế nào đối với cuộc
sống hàng ngày... Ví dụ, hãy tưởng tượng rằng bạn không thể lấy
được tiền từ máy rút tiền tự động do thẻ ngân hàng của bạn không
thể cho vừa vào được, pin không thể lắp được vào các thiết bị điện
của bạn, các cửa hàng không có mã vạch để kiểm kê và xác định
giá hàng hoá...”[4]
Ngày nay không còn ai nghi ngờ khi nói rằng tiêu chuẩn đem
lại lợi ích to lớn cho cuộc sống, góp phần làm cuộc sống đơn giản
hơn, tăng độ tin cậy và hiệu quả của hàng hoá dịch vụ mà chúng
ta sử dụng. Trình độ khoa học công nghệ càng phát triển, nền sản
xuất xã hội càng đạt đến trình độ cao, nhu cầu của con người càng
phức tạp... thì vấn đề tiêu chuẩn hoá lại càng trở nên cần thiết
hơn. Chính vì vậy mà hoạt động tiêu chuẩn hoá ở các quốc gia
phát triển thường được tiến hành rất quy củ và chặt chẽ.
1.1 Hoạt động tiêu chuẩn hoá tại thị trường EU
Với thị trường EU, tiêu chuẩn hoá có ý nghĩa mới từ khi Cộng
đồng châu Âu bắt đầu quá trình hoà hợp các tiêu chuẩn liên quan
đến pháp luật để đảm bảo sự an toàn, sức khoẻ người tiêu dùng,
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
đảm bảo sản xuất thân thiện với môi trường và trách nhiệm xã hội.
Kết quả là việc đáp ứng các tiêu chuẩn đã trở thành một điều kiện
quan trọng để thâm nhập thị trường. Để thực hiện nguyên tắc tự
do thương mại, tự do lưu thông hàng hoá thì làm hoà hợp các tiêu
chuẩn giữa các quốc gia trở nên cực kỳ cần thiết. Bởi vậy, EU đang
tạo ra những tiêu chuẩn thống nhất cho toàn châu Âu trong các
khu vực sản xuất sản phẩm mũi nhọn để thay thế hàng ngàn các
tiêu chuẩn khác nhau của các quốc gia. Nhìn chung các mức độ
yêu cầu tối thiểu cho toàn châu Âu đang và sẽ được đặt ra trong
các năm tới. Mỗi nước thành viên đều được phép đặt ra các quy
định bổ sung để bảo vệ cho nền công nghiệp trong nước. Tuy
nhiên bất cứ sản phẩm nào phù hợp với các quy định tối thiểu đều
được phép tự do lưu thông trong EU.
Có thể lấy ví dụ về mức độ hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với tiêu
chuẩn EU ở Đức - một nền kinh tế phát triển cao trong EU. ở Đức,
tất cả các tiêu chuẩn châu Âu (EN) đều tự động trở thành tiêu
chuẩn DIN EN (Deutsches Institut fuer Normung) của nước này.
Các tiêu chuẩn quốc gia lần lượt bị cắt giảm dần, thể hiện qua biểu
đồ sau:
Biểu đồ 1: số lượng tiêu chuẩn của đức so sánh với tiêu chuẩn eu
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
(Nguồn: Mr. Johannes Weber - “Globalisation of Standardisation work in Germany”- Hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”- Tổng cục TCĐLCL - 2002)
Như vậy là đến năm 2003, tổng số tiêu chuẩn của EU đạt con
số khoảng 22.000 tiêu chuẩn. Điều đó cũng có nghĩa rằng 80%
(22.000 trong số 27.500) các tiêu chuẩn của Đức là tiêu chuẩn
châu Âu.
1.2 Bộ tiêu chuẩn EN
Bộ tiêu chuẩn EN của Liên minh châu Âu do ba cơ quan tiêu
chuẩn hoá châu Âu cùng nhau xây dựng, đó là: CEN (Uỷ ban Tiêu
chuẩn hoá châu Âu), CENELEC (Uỷ ban Tiêu chuẩn hoá Kỹ thuật
điện tử châu Âu), và ETSI (Viện Tiêu chuẩn Viễn thông châu Âu).
Hàng chục ngàn tiêu chuẩn chung của châu Âu được tập hợp tại
đây, quy định các đặc tính kỹ thuật, quy trình sản xuất, bao gói,
phương pháp bảo quản, vận chuyển, phương pháp thử... đối với
các mặt hàng được sản xuất và tiêu thụ trên thị trường. Hàng hoá
nhập khẩu từ các nước bên ngoài Liên minh châu Âu không phải là
đối tượng điều chỉnh của bộ tiêu chuẩn EN, tuy nhiên vì bộ tiêu
chuẩn này phản ánh yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá tiêu
thụ, nên việc đáp ứng các tiêu chuẩn EN sẽ tạo thuận lợi cho hàng
hoá nước ngoài muốn thâm nhập và cạnh tranh được trên thị
trường EU.
Việc hoà hợp tiêu chuẩn EN với tiêu chuẩn quốc tế cũng được
tiến hành mạnh mẽ trong khối Liên minh châu Âu. “90% tiêu
chuẩn của EU trong lĩnh vực kỹ thuật điện đã được xây dựng trên
cơ sở của Tiêu chuẩn Quốc tế IEC, 40% tiêu chuẩn EU là phù hợp
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
với tiêu chuẩn ISO, còn các tiêu chuẩn EU về viễn thông thì hầu
như hoàn toàn phù hợp với ITU” [5]. Những tiêu chuẩn quốc tế mà
EU lấy lại nguyên thành tiêu chuẩn của mình mà không sửa đổi sẽ
mang các tên như EN ISO, EN IEC....cùng với số hiệu của tiêu
chuẩn. Còn các quốc gia thành viên khi đưa nguyên các tiêu chuẩn
này vào thành tiêu chuẩn của mình thì các tiêu chuẩn này lúc đó
sẽ mang tên như DIN EN ISO (Đức), BS EN ISO (Anh)... cùng với số
hiệu tiêu chuẩn. Qua đó có thể thấy rằng hài hoà tiêu chuẩn với
quốc tế đã và đang trở thành xu hướng trong việc xây dựng tiêu
chuẩn châu Âu. Và như vậy, con đường đúng đắn và lâu bền cho
các quốc gia muốn đẩy mạnh phát triển thương mại thông qua
việc đáp ứng được các tiêu chuẩn của các quốc gia khác nói chung
và khối EU nói riêng là hoà hợp tiêu chuẩn trong nước với các tiêu
chuẩn quốc tế, đồng thời đẩy mạnh việc đưa các tiêu chuẩn đó áp
dụng trong thực tiễn. Tiêu chuẩn Quốc tế có thể được coi như một
cái đích chung và càng trở nên quan trọng khi xu thế khu vực hoá,
toàn cầu hoá đang diễn ra sôi nổi.
2. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000
“Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản
phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách
hàng và các bên có liên quan” [6]. Chất lượng không tự sinh ra, chất
lượng không phải là một kết quả ngẫu nhiên, nó là kết quả của sự
tác động của hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau.
Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần phải quản lý một cách
đúng đắn các yếu tố này, và hoạt động đó được gọi là “quản lý
chất lượng”. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 do Tổ chức Quốc tế về Tiêu
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
chuẩn hoá (ISO) ban hành nhằm mục đích đưa ra một mô hình
được chấp nhận ở mức độ quốc tế về hệ thống đảm bảo chất lượng
và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
và dịch vụ.
Tại thị trường EU, tổ chức sản xuất kinh doanh tuân thủ bộ tiêu
chuẩn ISO 9000 không phải là một điều kiện bắt buộc đối với các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, lợi ích thiết thực mà việc thực hiện theo
ISO 9000 cũng như chứng chỉ ISO 9000 đem lại cho các doanh
nghiệp đã khiến tiêu chuẩn này trở nên rất phổ biến. Các nhà sản
xuất được cấp chứng chỉ ISO 9000 thực sự sở hữu một tài sản quan
trọng vì chứng chỉ này là một đặc điểm hỗ trợ bán hàng cơ bản
trong kinh doanh vốn rất cạnh tranh tại thị trường EU. Điều này
còn có nghĩa, ISO 9000 cũng cần thiết cho những doanh nghiệp
nước ngoài muốn tăng thêm lòng tin của bạn hàng EU vào năng
lực quản lý chất lượng, tính chuyên nghiệp và do đó vào chất lượng
hàng hoá của mình.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 hiện có 3 tiêu chuẩn:
- ISO 9000: 2000 (Quy định cơ bản và các thuật ngữ)
- ISO 9001: 2000 (Các quy định)
- ISO 9004: 2000 (Hướng dẫn cải tiến hoạt động)
Trong đó ISO 9001: 2000 là tiêu chuẩn cốt lõi nhất.
Nội dung cơ bản của tiêu chuẩn ISO 9001: 2000
Nội dung của tiêu chuẩn ISO có thể được tóm tắt bằng một câu
ngắn gọn, đó là phương châm: “Ghi rõ quy trình sản xuất và thực
hiện đúng điều đã cam kết”. Các yêu cầu cụ thể của tiêu chuẩn
này bao gồm:
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
1. Hệ thống quản lý chất lượng:
- Các yêu cầu chung: xây dựng, lập văn bản, thực hiện, duy
trì và cải tiến liên tục hệ thống quản lý chất lượng...
- Các yêu cầu chung về tài liệu.
2. Trách nhiệm của lãnh đạo:
- Cam kết triển khai và cải tiến hệ thống QLCL.
- Xác định và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Đảm bảo có chính sách chất lượng phù hợp.
- Lập kế hoạch để đạt được mục tiêu về chất lượng (hoạch
định chất lượng)
- Các hoạt động quản trị của lãnh đạo về: thông tin nội bộ, sổ
tay chất lượng, kiểm soát tài liệu, kiểm soát hồ sơ chất
lượng...
- Xem xét của lãnh đạo: xem xét định kỳ hệ thống quản lý
chất lượng để đảm bảo hệ thống luôn thích hợp, thoả đáng
và có hiệu lực.
3. Quản lý nguồn lực
- Tổ chức phải xác định và cung cấp các nguồn lực cần thiết
để triển khai, cải tiến các quá trình và thoả mãn khách
hàng.
- Đảm bảo cho nguồn nhân lực được phân công lao động hợp
lý; được đào tạo, cung cấp các phương tiện làm việc môi
trường làm việc phù hợp.
4. Tạo sản phẩm
- Hoạch định các quá trình tạo sản phẩm
- Các quá trình liên quan đến khách hàng
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
- Kiểm soát quá trình mua hàng, kiểm tra xác nhận sản phẩm
mua vào
- Kiểm soát hoạt động sản xuất và dịch vụ
- Kiểm soát phương tiện đo lường và theo dõi
5. Đo lường, phân tích và cải tiến
- Xác định, lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động đo lường
- Đo lường,theo dõi sự thoả mãn của khách hàng, các quá
trình và sản phẩm
- Kiểm soát sự không phù hợp với các yêu cầu
- Phân tích dữ liệu để xác định sự phù hợp hay không phù
hợp.
- Cải tiến: hoạch định các quá trình cải tiến, tiến hành khắc
phục và có các hành động phòng ngừa.
3. Các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho
người tiêu dùng
3.1 Nhãn hiệu CE đối với các sản phẩm công nghiệp
chế tạo
Nhãn hiệu CE là nhãn hiệu dành cho các sản phẩm trong nội
bộ thị trường hoặc bên ngoài EU được nhập vào thị trường này.
Nhãn hiệu CE biểu trưng cho sự phù hợp của
hàng hoá được gắn nhãn với các yêu cầu mà EU
đặt ra cho người sản xuất loại hàng hoá đó. Đến
nay, quy định không bắt buộc tất cả các sản
phẩm nhập vào EU đều phải có nhãn CE mà gắn nhãn CE chỉ bắt
buộc đối với 23 nhóm sản phẩm có tên trong danh sách của “Cách
tiếp cận mới”- New Approach Guide - bao gồm: các hệ thống và
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thiết bị quản lý không lưu, dụng cụ đốt cháy nhiên liệu gas, sản
phẩm xây dựng, thiết bị điện, thiết bị an toàn cá nhân, thiết bị
dùng cho giải trí, đồ chơi ... với mục tiêu áp đặt một quy định
chung cho các nhà sản xuất để chỉ cho phép sản phẩm an toàn
mới vào được thị trường. Còn trong đa số các trường hợp, có gắn
CE lên sản phẩm hay không là quyền của doanh nghiệp.
Gắn dấu hiệu CE trên sản phẩm có nghĩa là doanh nghiệp
tuyên bố với người tiêu dùng rằng sản phẩm của họ phù hợp với
tiêu chuẩn châu Âu ấn định cho từng loại sản phẩm cụ thể. Do đó
nhãn hiệu CE có thể được coi như một loại hộ chiếu cho phép các
nhà sản xuất lưu thông hàng hoá của mình trong nội bộ thị trường
châu Âu một cách dễ dàng hơn. Thậm chí với một số sản phẩm có
nguồn gốc từ nước ngoài, nếu không có dấu hiệu CE thì người tiêu
dùng hoàn toàn không lựa chọn.
Tiêu chuẩn CE và việc công bố tiêu chuẩn CE tương tự quy
định tự công bố tiêu chuẩn chất lượng mà Bộ Khoa học - Công
nghệ và Môi trường của Việt Nam (nay là Bộ Khoa học và Công
nghệ) ban hành năm 2001 dựa trên Pháp lệnh chất lượng hàng
hoá, theo đó TCVN là dấu hiệu của sản phẩm hợp chuẩn theo quy
định của Việt Nam. Mặc dù dấu hiệu CE do nhà sản xuất tự công
bố nhưng việc này được giám sát rất chặt chẽ bởi các cơ quan
chức năng của Liên minh châu Âu cũng như ở các nước thành viên.
Nếu bị phát hiện vi phạm, toàn bộ sản phẩm sẽ bị thu hồi và cấm
lưu thông.
Thủ tục dán nhãn CE
Thủ tục dán nhãn CE có thể khác nhau đối với mỗi sản phẩm,
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
phụ thuộc vào độ rủi ro nội tại khi sử dụng sản phẩm. Uỷ ban châu
Âu đã đưa ra một hệ thống Modul với 8 chủng loại khác nhau từ A
đến H. Modul A bao gồm những sản phẩm có độ rủi ro nội tại thấp
nhất, trong khi sản phẩm thuộc Modul H là rủi ro cao nhất.
Nếu một sản phẩm rơi vào nhóm Modul A, tức là có độ rủi ro
nội tại thấp, nhà sản xuất có thể quyết định sản phẩm của mình có
tuân thủ các chỉ thị, quy định và tiêu chuẩn của châu Âu đối với
hàng hoá đó hay không. Khi đó, nhà sản xuất có thể tự công bố
tiêu chuẩn và gắn nhãn CE lên sản phẩm của mình theo các bước
như sau:
- Thứ nhất, xác định các yêu cầu về tiêu chuẩn EN đối với sản
phẩm
- Thứ hai, xác định nội dung tiêu chuẩn sản phẩm dựa trên
yêu cầu ở bước thứ nhất. Ví dụ, sản phẩm quạt trần cần đáp
ứng tối thiểu hai yêu cầu về hiệu điện thế (LVD) và sự tương
thích điện từ (EMC). Đối với hai yêu cầu này, tiêu chuẩn mà
sản phẩm quạt trần cần đáp ứng là EN 60335-1 hoặc EN
60335-2-80 (đối với LVD) và EN 55014-1 (đối với EMC).
- Thứ ba, chuẩn bị hồ sơ kỹ thuật để minh hoạ sự phù hợp
tiêu chuẩn của sản phẩm bao gồm: tài liệu thiết kế, sản
xuất, báo cáo kiểm tra...
- Thứ tư, chuẩn bị bản công bố phù hợp tiêu chuẩn.
- Thứ năm, gắn dấu hiệu CE lên sản phẩm.
Nếu một sản phẩm rơi vào nhóm cao hơn Modul A, thủ tục dán
nhãn phức tạp hơn vì phải có một tổ chức chuyên nghiệp (tổ chức
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
kiểm định) kiểm tra xem sản phẩm có tuân thủ với các quy định
căn bản không, có được dán nhãn CE lên không.
3.2 Hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm
soát các mối nguy trọng yếu (HACCP) trong quá trình sản
xuất, chế biến thực phẩm:
Hiện nay, một phong trào rộng lớn bảo vệ người tiêu dùng
đang phát triển ở châu Âu. Phong trào này dựa vào việc phòng
ngừa các rủi ro, bảo đảm vệ sinh an toàn và chất lượng thực phẩm.
Liên minh châu Âu đã yêu cầu các cơ sở chế biến thực phẩm nhập
khẩu vào EU từ đầu thập niên 90 phải áp dụng hệ thống thực hành
sản xuất tốt GMP (cấp độ thấp hơn HACCP) và từ năm 1996 phải
áp dụng HACCP qua Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm 93/43/EC: “các
công ty thực phẩm phải xác định từng khía cạnh trong hoạt động
của họ đều có liên quan tới an toàn thực phẩm và việc đảm bảo
thủ tục an toàn thực phẩm phải được thiết lập, áp dụng, duy trì và
sửa đổi trên cơ sở của hệ thống HACCP”. Riêng với thuỷ sản, từ
năm 1992 đã buộc phải tuân thủ GMP và sau đó Chỉ thị 94/356/EC
ngụ ý rằng họ phải thực hiện HACCP
Đây là quy định của EU đối với các nhà sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, vì HACCP là một quy trình đảm bảo vệ sinh an toàn từ
khâu đầu đến khâu cuối nên các nhà sản xuất EU khi nhập khẩu
nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất của họ thường yêu
cầu nhà xuất khẩu cũng phải tuân thủ HACCP.
HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point) là một
phương pháp cho phép xác định các mối nguy đặc thù trong quá
trình sử dụng một sản phẩm thực phẩm, định giá chúng và xác
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
định các biện pháp phòng ngừa để kiểm soát và hạn chế chúng.
Hiện đang tồn tại nhiều tài liệu khác nhau của hệ thống HACCP
xuất phát từ các hướng dẫn của các tổ chức quốc tế (FAO, WHO,
CODEX...), khu vực (EU, APEC...) và các quốc gia phát triển (Mỹ,
Canada, úc...). Mặt khác, công tác chuyển dịch đôi khi cũng làm
cho sự khác biệt này tăng lên, tuy nhiên về cốt lõi của nội dung hệ
thống HACCP (các nguyên tắc và các bước thực hiện) thì luôn
thống nhất giữa các tài liệu trên).
HACCP gồm hai giai đoạn:
- Phân tích mối nguy: Các mối nguy gắn liền với các giai đoạn
khác nhau trong quá trình sản xuất thực phẩm.
- Kiểm soát mối nguy và hạn chế chúng: Kiểm soát các mối
nguy và xác định biện pháp hạn chế và phòng ngừa. Giám
sát các điều kiện để thực hiện một cách có hiệu quả các
biện pháp đó. Sau đó kiểm tra lại hiệu quả của cả hệ thống.
HACCP không loại trừ được tất cả các mối nguy, tuy nhiên nó
cho phép hạn chế các rủi ro tại các điểm trọng yếu, nghĩa là những
giai đoạn quyết định tính an toàn thực phẩm trong quá trình sản
xuất.
7 nguyên tắc của HACCP:
- Nguyên tắc 1: Tiến hành phân tích và xác định tất cả các
nguy cơ có thể xảy ra đối với sản phẩm tại tất cả các khâu
của dây chuyền sản xuất.
- Nguyên tắc 2: Xác định các ‘điểm kiểm soát tới hạn’ (CCP -
Critical Control Point) có khả năng xuất hiện rủi ro để hạn
chế chúng hoặc giám sát chúng.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
- Nguyên tắc 3: Xác định độ sai lệch được phép tối đa theo
tiêu chuẩn của mỗi ‘điểm kiểm soát tới hạn’.
- Nguyên tắc 4: Thiết lập một hệ thống theo dõi, bao gồm cả
lịch biểu, cho phép hạn chế rủi ro một cách có hiệu quả tại
từng điểm kiểm soát tới hạn.
- Nguyên tắc 5: Thiết kế và thực hiện các hành động điều
chỉnh khi phát hiện ra một mối nguy không thể hạn chế và
kiểm soát nổi.
- Nguyên tắc 6: Xây dựng những biện pháp đặc hiệu đối với
việc kiểm tra hiệu quả và tác dụng của hệ thống HACCP
- Nguyên tắc 7: Xây dựng một hệ thống tài liệu thích hợp về
việc áp dụng 6 nguyên tắc trên cho phép đảm bảo toàn bộ
hệ thống HACCP hoạt động tốt và hợp thức hoá.
Dựa trên 7 yếu tố đã nêu, người ta xây dựng 12 bước áp dụng
cụ thể, từ việc thành lập nhóm công tác chịu trách nhiệm chính
trong việc việc áp dụng hệ thống HACCP tại cơ sở, đến việc thiết
lập các thủ tục thẩm định, thiết lập hệ thống hồ sơ, tài liệu (xem
chi tiết ở phụ lục). Có thể thấy rằng các yêu cầu đảm bảo an toàn
của HACCP rất khắt khe.
3.3 Quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo (GAP)
đối với các sản phẩm trồng trọt
Để đáp ứng mối quan tâm ngày càng tăng từ phía khách hàng
đối với tác động của sản xuất nông nghiệp đối với an toàn thực
phẩm và môi trường, Tổ chức các nhà sản xuất bán lẻ (EUREP -
một hệ thống hợp tác các tổ chức bán lẻ hàng đầu của châu Âu) đã
và đang xây dựng các hướng dẫn về Quy trình canh tác nông
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
nghiệp đảm bảo (GAP) đối với các sản phảm trồng trọt. GAP bao
gồm các tiêu chuẩn về quản lý ruộng vường, sử dụng phân bón,
bảo vệ mùa màng và sử dụng thuốc trừ sâu, thu hoạch và sau thu
hoạch, sức khoẻ và an toàn công nhân. Trong tương lai gần các
nhà xuất khẩu hoa quả và rau tươi, những người muốn cung cấp
cho các dây chuyền siêu thị châu Âu sẽ phải chứng minh rằng sản
phẩm của họ được sản xuất theo quy trình GAP. Vì thế các nhà
xuất khẩu của các nước đang phát triển nên tự có các bước chuẩn
bị tìm hiểu các hướng dẫn của GAP và tiến tới tuân thủ các quy
trình này.
3.4 Hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau, quả
Nhằm kiểm soát hàm lượng thuốc trừ sâu có trong sản phẩm
nông nghiệp để đảm bảo sức khoẻ cộng đồng và bảo vệ môi
trường, Uỷ ban châu Âu đã ban hành Chỉ thị 76/895/EEC ngày
23/11/76. Chỉ thị này quy định việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu
và hàm lượng tối đa cho phép trong rau, quả. Theo Chỉ thị, các cơ
sở trồng trọt, chăm sóc cây trồng phải sử dụng các loại thuốc trừ
sâu với hàm lượng tối đa cho phép theo đúng quy định (Phụ lục 1).
Nếu các sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong khu vực EU mà sử
dụng không đúng các loại thuốc trừ sâu có trong danh mục hoặc
vượt mức cho phép, Uỷ ban châu Âu sẽ không cho phép lưu thông
trên thị trường. Nếu Uỷ ban châu Âu phát hiện thấy sản phẩm vi
phạm quy định có mặt trong mạng lưới phân phối hàng trên thị
trường thì sẽ lập tức thu hồi, huỷ và có biện pháp trừng phạt đối
với cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm.
Chỉ thị 76/895/EEC không chỉ được EU áp dụng đối với các sản
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
phẩm nông nghiệp sản xuất trong khối EU mà áp dụng đối với cả
sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu. Các nước bên ngoài muốn xuất
khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang thị trường EU thì trong quá
trình trồng trọt và chăm sóc cây trồng phải sử dụng các loại thuốc
trừ sâu với hàm lượng tối đa cho phép. Những sản phẩm nông
nghiệp nào nhập khẩu vào EU vi phạm quy định trên, Uỷ ban châu
Âu sẽ đưa ra lệnh tạm dừng nhập khẩu, trả lại hàng, hoặc tiêu huỷ
lô hàng (biện pháp áp dụng sẽ tuỳ thuộc vào mức độ vi phạm).
Thời hạn dừng nhập khẩu dài hay ngắn còn phụ thuộc chủ yếu vào
việc chấp hành quy định này trong sản xuất nông nghiệp của các
nước xuất khẩu sang thị trường EU. Kể từ khi Chỉ thị 76/895/EEC có
giá trị hiệu lực thi hành, chưa có một lô hàng nhập khẩu nào vào
EU vi phạm những quy định đề ra trong Chỉ thị.
3.5 Kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và
thuỷ sản
Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ
sản nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được cụ thể hoá
trong sáu Chỉ thị và Quyết định sau: (1) Chỉ thị 97/78/EEC; (2) Chỉ
thị 91/493/EEC; (3) Chỉ thị 91/492/EEC; (4) Chỉ thị 96/22/EEC; (5)
Chỉ thị 96/23/EEC; và (6) Quyết định 97/296/EEC. Những Chỉ thị và
Quyết định này đang có giá trị hiệu lực thi hành.
Sáu Chỉ thị và Quyết định từ (2) đến (6) bao gồm những quy
định mà các nước ngoài khối khi xuất khẩu sang EU phải tuân thủ,
ví dụ như: cơ quan chức năng của các nước xuất khẩu phải tiến
hành kiểm tra hàng trước khi xuất khẩu sang thị trường EU... Chỉ
có một Chỉ thị duy nhất (Chỉ thị 97/78/EEC) buộc các nước thành
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
viên EU phải tuân thủ và chịu trách nhiệm kiểm tra hàng nhập
khẩu tại cửa khẩu trước khi cho nhập khẩu vào lãnh thổ của mình.
Chị thị 91/493/EEC ngày 22.7.1991 đề ra các điều kiện vệ
sinh đối với việc sản xuất và đưa vào thị trường các sản phẩm thuỷ
sản cho người tiêu dùng (điều 11 được sửa đổi bằng Chỉ thị
97/79/EEC) và Chỉ thị 91/492/EEC ngày 15.7.1991 về những điều
kiện vệ sinh trong việc sản xuất và đưa vào thị trường nhuyễn thể
hai mảnh vỏ sống. Theo hai Chỉ thị này, nước thứ Ba xuất khẩu
thuỷ sản sang EU phải chịu trách nhiệm kiểm tra điều kiện vệ sinh
của hàng thuỷ sang trước khi xuất khẩu, gồm 2 bước: (1) Giám sát
chung: tiến hành ở tất cả các khâu từ đánh bắt, sản xuất, vận
chuyển; (2) Kiểm tra đặc biệt: tiến hành kiểm tra cảm quan, kiểm
tra ký sinh trùng, kiểm tra hoá học và phân tích vi sinh. Hai Chỉ thị
trên chủ yếu nhằm mục đích đảm bảo vệ sinh thực phẩm thuỷ sản
và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng EU.
Chỉ thị 96/22/EEC ngày 29.4.1996 quy định các doanh nghiệp
nước ngoài phải chịu trách nhiệm kiểm tra và ngăn cấm việc sử
dụng các chất kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi. Hiện EU tiếp
tục phản đối việc nhập khẩu thịt đã qua xử lý với hormone.
Chỉ thị 96/23/EEC ngày 29.4.1996 quy định các doanh nghiệp
nước ngoài phải tuân thủ các biện pháp giám sát một số hoạt chất
và dư lượng của chúng trong nuôi trồng thuỷ sản và gia súc, gia
cầm thì được xuất khẩu sản phẩm sang thị trường EU. Hoạt chất
được chia làm 2 nhóm: Nhóm A - Các hoạt chất có tác dụng đồng
hoá và các chất cấm sử dụng - gồm 5 chất. Nhóm B - Thuốc thú y
và các chất ô nhiễm môi trường (Veterinary drugs and
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
environmental contaminants) - gồm: (1) Các chất kháng thể kể cả
Sulfonamide và Quinolone; (2) Các thuốc thú y khác (có 6 loại); (3)
Các chất gây ô nhiễm môi trường: Các hợp chất Chlor hữu cơ kể cà
PcBs (Chloramphenocol, Chloroform, Chlorpromazine,...), các hợp
chất nhóm phốt pho hữu cơ, các nguyên tố hoá học, các độc tố
nấm, thuốc nhuộm. Luật thực phẩm của EU hiện nay cấm hoàn
toàn 10 chất kháng sinh (dư lượng bằng 0) và hạn chế 10 chất
(Phụ lục 2) do dư lượng những kháng sinh này có khả năng gây
ung thư, hoại tuỷ, thiếu máu ác tính và nhờn thuốc. Tới năm 2005,
số lượng chất kháng sinh bị cấm hoàn toàn sẽ tăng lên 26.
Chỉ thị 93/43/EEC ngày 14.6.1993 về vệ sinh thực phẩm. Chỉ
thị này đề ra những luật lệ chung về vệ sinh thực phẩm và các thủ
tục thẩm tra việc chấp hành các luật lệ ấy. Việc chuẩn bị, chế biến,
sản xuất, bao gói, bảo quản, vận chuyển, phân phối, lưu trữ, bán
buôn và bán lẻ cần phải được tiến hành một cách vệ sinh, được
giám sát theo các nguyên tắc của HACCP.
Quyết định 97/296/EEC ngày 22/4/1997 thành lập danh sách
các nước thứ Ba được phép xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản dùng
làm thực phẩm vào Cộng đồng châu Âu. Quyết định này được sửa
đổi bằng Quyết định 2002/863/EC ngày 29.10.2002, trong đó,
danh sách các nước được nhập khẩu thuỷ sản vào EU được chia
làm hai nhóm: (1) Nhóm I - gồm 72 nước (ở châu á có: Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, ấn Độ, Malaysia, Thailand, Việt
Nam) được EU áp dụng chế độ kiểm tra thông thường ; (2) Nhóm II
- gồm 35 nước (ở châu á có: Hồng Kông, Myanmar) bị EU áp dụng
chế độ kiểm tra 100% các lô hàng thuy sản nhập khẩu vào EU. Tuy
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
nhiên, nếu các nước thuộc Nhóm I vi phạm Quy định kiểm tra thú y
ở mức độ nhất định (gây ảnh hưởng tới thị trường EU) EU sẽ áp
dụng biện pháp kiểm tra 100% các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu,
thời hạn áp dụng dài hay ngắn tuỳ thuộc vào việc chấp hành quy
định kiểm tra thú y của các doanh nghiệp thuỷ sản nước đó. Nếu vi
phạm nặng, EU sẽ đưa nước đó trở lại Nhóm II và áp dụng trở lại
chế độ kiểm tra 100%.
Chỉ thị 97/78/EEC được đưa ra để tổ chức kiểm tra thú y các
sản phẩm nhập khẩu nhằm cung cấp một nguồn thực phẩm an
toàn và ổn định, bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng. Theo đó, các sản
phẩm nhập khẩu từ nước thứ Ba phải được các nước thành viên EU
kiểm tra và cấp giấy chứng nhận trước đưa vào lãnh thổ của EU.
Tóm lại, Luật thực phẩm và các Chỉ thị, Quyết định của EU đã
nêu rất cụ thể các quy định về kiểm tra thú y đối với thịt gia súc,
gia cầm và thuỷ sản. Đây là những quy định bắt buộc mà các
doanh nghiệp ở những nước thứ Ba muốn xuất khẩu sang EU phải
thực hiện, do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý và
thực thi triệt để nhằm thoả mãn tối đa yêu cầu của thị trường này.
3.6 Chất phụ gia trong thực phẩm
Phụ gia thực phẩm là các loại nguyên liệu khác nhau dùng để
thêm vào thực phẩm với mục đích làm tăng thêm sự lôi cuốn của
sản phẩm, hoặc làm đông đặc thực phẩm. ở các nước thuộc Liên
minh châu Âu, các phụ gia thực phẩm được chấp nhận đều mang
số hiệu nhận biết, trước số hiệu là chữ E. Trên bao bì sản phẩm,
người ta nêu thành phần các chất phụ gia dưới dạng tên chất hay
số hiệu E của nó.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
EU đã ban hành các chỉ thị đặt ra yêu cầu đối với các chất phụ
gia thực phẩm. Quy định của EU về phụ gia thực phẩm là phẩm
màu được nêu trong Chỉ thị 94/36/EEC (Phụ lục 3). Quy định của
EU về chất làm ngọt được nêu trong Chỉ thị 94/35/EEC. Với quy
định này, việc sản xuất, chế biến thực phẩm chỉ được sử dụng các
chất làm ngọt có thành phần là những chất không gây hại cho sức
khoẻ và môi trường, hạn chế những chất làm ngọt có nguồn gốc từ
hoá học.
Hương liệu được sử dụng trong thực phẩm làm cho thực phẩm
ngon và có mùi vị hấp dẫn hơn. Hương liệu được chế biến từ các
nguồn khác nhau và được chia làm hai loại : (1) Loại được coi như
thực phẩm - hương liệu làm từ thực phẩm, thảo mộc, gia vị; (2)
Loại không được coi là thực phẩm - hương liệu được làm từ rau,
nguyên liệu thô từ động vật. Quy định chi tiết về hai loại hương
liệu này (theo Chỉ thị 88/388/EEC) có thể tham khảo ở phụ lục 3.
Ngoài chất làm ngọt, phẩm màu và hương liệu, trong chế biến
thực phẩm người ta còn sử dụng một số phụ gia khác (theo Chỉ thị
95/2/EC), ví dụ như tác nhân làm đông đặc thực phẩm. Trong các
chất phụ gia đó có những chất chỉ không đảm bảo sức khoẻ và an
toàn cho người tiêu dùng mà không gây hại môi trường, còn một
số khác không những không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
mà còn có tác động xấu đến môi trường nữa. Chính vì vậy, EU yêu
cầu sự giám sát việc sử dụng các loại phụ gia thực phẩm rất chặt
chẽ. Các nước thành viên EU cũng đã và đang hợp nhất các Chỉ thị
này với luật thực phẩm của họ.
Trên đây là các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng chung
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
nhất, phổ biến nhất của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị
trường. Ngoài ra còn nhiều tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể khác đối
với từng ngành hàng, từng loại mặt hàng riêng biệt mà trong
khuôn khổ khoá luận này không thể nêu hết được. Đối tượng áp
dụng của một số tiêu chuẩn chỉ là hàng hoá được sản xuất trong
nội khối (ví dụ như hệ thống HACCP...), một số quy định khác lại là
bắt buộc đối với cả hàng hoá sản xuất trong khối và hàng nhập
khẩu (ví dụ như các quy định về hàm lượng thuốc trừ sâu trong rau
quả, chất phụ gia thực phẩm...). Tuy nhiên, con đường đúng đắn
nhất để các nước đang phát triển thâm nhập được vào thị trường
khó tính này là thu hẹp khoảng cách về chất lượng giữa hàng xuất
khẩu của nước mình và hàng hoá do các nước EU sản xuất bằng
cách tìm hiểu và đáp ứng tối đa các yêu cầu chất lượng của họ.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
III. Các tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với hàng hoá
lưu thông trên thị trường.
Từ những năm 80, các nước có nền kinh tế phát triển và công
nghiệp hoá đã không ngừng gia tăng các mối lo ngại của xã hội về
các vấn đề môi trường. Cùng thời gian đó các nước đang phát triển
đang đạt được tốc tăng trưởng kinh tế cao nhờ hoạt động đầu tư
nước ngoài, sự phát triển nhanh nguồn tài nguyên, triển khai đô thị
hoá. Sự tăng trưởng kinh tế này cũng đã đem lại các hậu quả
nghiêm trọng cho môi trường, ảnh hưởng đến tính đa dạng sinh
học của các hệ sinh thái tự nhiên, chất lượng nước, tình trạng thoái
hoá đất và lượng khí quyển ở đô thị.
Chính từ bối cảnh này mà khái niệm về “sự phát triển có thể
chịu đựng - sustainable development”đã nổi bật trên trường quốc
tế khi báo cáo Brundtlant được đệ trình lên Uỷ ban Thế giới về Môi
trường và Phát triển của Liên Hiệp Quốc vào năm 1987. Báo cáo
đòi hỏi phải có sự cân bằng giữa yêu cầu phát triển kinh tế và việc
bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên. Báo cáo đã đưa ra chiều
hướng mới đối với tất cả các nước đã phát triển và đang phát triển
nhằm tạo nền móng cho sự phát triển kinh tế trong điều kiện môi
trường được đảm bảo an toàn.
1. Tiêu chuẩn quản lý môi trường
Uỷ ban châu Âu là một trong những bộ phận lập chính sách
đầu tiên khởi xướng các sáng kiến bảo vệ môi trường khi đưa ra
bản dự thảo về Luật Kiểm định và Quản lý sinh thái vào năm 1990.
Bộ luật này bao gồm “Chương trình kiểm định và Quản lý sinh
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thái”(EMAS - Ecological Management and Audit Scheme) trong các
ngành công nghiệp hoạt động trong khối thị trường chung châu
Âu. EMAS được phát triển như một chương trình tự nguyện, đặc
biệt nhằm khuyến khích các ngành công nghiệp có khả năng gây ô
nhiễm môi trường cao phát triển các hệ thống quản lý.
Tiêu chuẩn quản lý môi trường của Anh, BS7750, là tiêu chuẩn
quản lý môi trường đầu tiên được ban hành để đáp ứng EMAS.
Cùng lúc đó, người ta thúc đẩy việc hình thành một tiêu chuẩn
quốc tế về quản lý môi trường chung cho cộng đồng thế giới.
Tháng 9/1996, Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) công bố
tiêu chuẩn quốc tế về quản lý môi trường ISO 14001 với các quy
định cụ thể có hướng dẫn sử dụng. Như vậy, các doanh nghiệp EU
hiện nay có thể lựa chọn áp dụng hai tiêu chuẩn quản lý môi
trường trên. Tuy nhiên, tiêu chuẩn ISO 14001 là tiêu chuẩn phổ
biến và đáng quan tâm nhiều hơn đối với các nhà xuất khẩu ở các
nước đang phát triển vì chỉ các doanh nghiệp có trụ sở tại EU mới
được đăng ký EMAS. Cũng cần lưu ý rằng các tiêu chuẩn quản lý
môi trường được khuyến khích áp dụng tại các cơ sở sản xuất
trong khối EU, nhưng nếu doanh nghiệp nước ngoài đáp ứng được
các tiêu chuẩn đó thì sẽ rất thuận lợi khi xâm nhập vào thị trường
này - nơi mà việc giữ gìn và bảo vệ môi trường đang trở thành mối
quan tâm lớn.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Những nội dung cơ bản của ISO 14001:
1. Các yêu cầu chung: Tổ chức phải thiết lập và duy trì một hệ
thống quản lý môi trường tuân thủ các yêu cầu của tiêu
chuẩn này.
2. Chính sách môi trường: Lãnh đạo của tổ chức phải:
- Đề ra chính sách môi trường cho tổ chức
- Cam kết tuân thủ các luật lệ và quy định về môi trường;
- Đặt ra lịch trình thiết lập, rà soát các mục tiêu về môi
trường, đồng thời đảm bảo cho chính sách môi trường được
thực hiện, duy trì và được từng nhân viên trong công ty năm
vững một cách đầy đủ....
3. Lập kế hoạch:
- Xác định các khía cạnh môi trường liên quan đến hoạt động,
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của tổ chức mình;
- Nắm rõ các quy định pháp lý;
- Đặt ra và duy trì các mục tiêu về môi trường cho mỗi cấp
trong tổ chức;
- Lên chương trình quản lý môi trường nhằm đạt được các
mục tiêu đề ra...
4. Thực hiện chương trình bao gồm:
- Phân bổ nguồn lực cần thiết để triển khai và quy rõ trách
nhiệm;
- Đào tạo cán bộ, nhận thức của từng nhân viên về tầm quan
trọng và vai trò, trách nhiệm của họ trong việc thực hiện
chính sách môi trường.
- Tạo điều kiện trao đổi kiến thức và tài liệu về chính sách
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
môi trường giữa các cấp, các phòng ban bộ phận trong tổ
chức
- Lập hệ thống tài liệu về quản lý môi trường
- Quản lý tài liệu sao cho việc cất trữ, tra cứu định kỳ... được
thuận tiện nhất
5. Hoạt động kiểm tra và cải tiến
- Theo dõi và đo lường để xác định xem các hoạt động của tổ
chức có tác động tốt đến môi trường hay không
- Kiểm soát sự không phù hợp và xác định trách nhiệm trong
trường hợp đó.
- Lập báo cáo về quá trình thực hiện và kết quả sau khi kiểm
tra, đo lường.
- Lên kế hoạch, tiến hành sửa đổi, khắc phục.
6. Lãnh đạo cấp cao nhất xem xét lại toàn hệ thống.
Những lợi điểm của việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường
Chúng ta có thể lấy dẫn chứng về hiệu quả của việc có một hệ
thống quản lý môi trường qua lời tuyên bố của hai công ty lớn ở
Anh như sau:
“Từ khi hoàn tất BS 7750 vào 1994, nhà máy chúng tôi đã xác
định được những khu vực cần phải cải tiến về môi trường; chương
trình này đã đạt được sự tiết kiệm chi phí đáng kể, mà duy chỉ năm
đầu tiên, dự án thực hiện BS 7750 đã được hoàn vốn. Những cải
tiến đáng kể là đã giảm 18% năng lượng sử dụng tại nhà máy,
giảm 28% rác rưởi thải từ trong nhà ra ngoài và vào cuối năm
1997, giảm 90% lượng chất thải hoá học từ trong nhà máy. Nhà
máy đã được chứng nhận ISO 14001 và đã đăng ký với EMAS kể từ
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
tháng 08/1995”.
(Akzo Nobel Chemical Ltd., UK) [7]
“Đa số các khách hàng lớn của chúng tôi yêu cầu một lời tuyên
bố về chính sách môi trường. Việc đạt được chứng nhận đã đóng
cái dấu của giới thẩm quyền trên sự cam kết của chúng tôi về sự
cải tiến không ngừng trong công tác môi trường. Sự chứng nhận đó
đã cho thấy các lợi ích. Các khách hàng tương lai cảm thấy tự tin vì
chứng tôi đã thiết lập và đang vận hành một Hệ thống quản trị Môi
trường đúng đắn và đã qua đánh giá.
Gần đây IBM đã thắng một hợp đồng nhiều triệu Pound về máy
tính cá nhân - yếu tố quyết định giữa chúng tôi và các đối thủ cạnh
tranh là giấy chứng nhận ISO 14001.”
(IBM UK Ltd.) [7]
2. Bao bì và phế thải bao bì
Bao bì là một bộ phận không thể thiếu của hàng hoá, đặc biệt
là hàng hoá xuất nhập khẩu và vấn đề xử lý phế thải bao bì sau khi
sản phẩm được sử dụng đang được đặt ra một cách cấp thiết nhằm
mục đích hạn chế tối thiểu phế thải bao bì từ nguồn rác sinh hoạt
để bảo vệ môi trường.
Trong vấn đề quản lý bao bì và phế thải bao bì, Liên minh châu
Âu quy định rất chặt chẽ trong Chỉ thị 94/62/EEC bao gồm các quy
định về thành phần của bao bì (quan tâm chủ yếu đến tỷ lệ kim
loại nặng tối đa trong bao bì) và những yêu cầu cụ thể đối với việc
sản xuất bao bì. Chỉ thị đã được chuyển vào luật quốc gia của các
nước thành viên, đồng thời cũng được áp dụng cho cả hàng nhập
khẩu.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Phế thải bao bì là các loại bao bì hay vật liệu làm bao bì được
bỏ ra sau khi kết thúc quá trình vận chuyển, chuyên chở, phân
phối hay tiêu dùng. Chẳng hạn như container thải ra sau khi kết
thúc quá trình vận chuyển hàng hoá, túi nilông loại ra sau khi dùng
sản phẩm.
Quá trình sản xuất và thành phần của bao bì phải tuân theo
các yêu cầu sau:
- Bao bì phải được sản xuất sao cho thể tích và khối lượng
được giới hạn đến mức tối thiểu để duy trì mức an toàn, vệ
sinh cần thiết đối với sản phẩm chứa trong bao bì và đối với
người tiêu dùng.
- Bao bì phải được thiết kế, sản xuất, buôn bán theo cách
thức cho phép tái sử dụng hay thu hồi, bao gồm tái chế và
hạn chế đến mức tối thiểu tác động đối với môi trường khi
chất phế thải bao bì bị bỏ đi.
- Bao bì sẽ được sản xuất theo cách có thể hạn chế tối đa sự
có mặt của nguyên liệu và các chất độc hại do sự phát xạ,
tro tàn khi đốt cháy hay chôn bao bì, chất cặn bã (bảng 1).
- Trên bao bì phải ghi rõ thành phần nguyên liệu sử dụng
được sử dụng chế tạo bao bì để thuận tiện hơn trong việc
thu gom, tái chế và tái sử dụng
Bảng 1: Mức giới hạn đối với một số hoá chất trong bao bì
Các chất bị cấm hoặc hạn chế Giới hạn
1 Pentachlorophenol (PCP) ≤ 0.01%
2 Benzene ≤ 0.01%
3 TEPA, TRIS, PBB Cấm
4 Polychlorinated Biphenyles (PCBs), Terphenyles (PCTs) Cấm
5 Asbestos Cấm
6 Cadmium (Cd) ≤ 0.01%
7 Formaldehyde 1500 ppm (Đức)
8 Nickel (Ni) 0.5 mg/cm2
9 Thuỷ ngân Cấm
10 Zinc (Zn) Cấm
11 CFC Cấm
12 Bao bì bằng gỗ rừng không tái sinh Cấm
(Nguồn: Chỉ thị 94/62/EEC của Liên minh châu  u về bao bì và phế thải bao bì - www.cbi.nl)
Đối với bao bì có thể tái sử dụng (Reusable nature of
Packaging), ngoài việc tuân thủ các yêu cầu nêu trên còn phải
đáp ứng các yêu cầu dưới đây:
- Tính vật lý và các đặc trưng của bao bì phải cho phép sử
dụng lại một số lần nhất định trong điều kiện sử dụng được
dự đoán trước là bình thường.
- Quá trình sản xuất bao bì phải đảm bảo sức khoẻ và an
toàn cho người lao động.
- Phải đáp ứng yêu cầu đặc biệt về thu hồi bao bì khi bao bì
không được tái sử dụng trong thời gian dài và thành phế
thải.
Đối với việc thu hồi và tái chế bao bì phải tuân theo các quy
định sau:
- Bao bì thu hồi ở dạng vật liệu tái có thể tái sử dụng thì phải
được dùng vào việc sản xuất ra những sản phẩm có thể bán
được theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng khối
lượng vật liệu dùng để sản xuất ra sản phẩm đó, miễn sao
phù hợp với các tiêu chuẩn hiện hành của châu Âu. Việc
định ra tỷ lệ này có thể khác nhau, phụ thuộc vào loại vật
liệu làm bao bì.
- Loại bao bì thu hồi dạng phế phẩm năng lượng phải thu
được tổi thiểu lượng calo cho phép.
- Từ 50-60% bao bì tính theo khối lượng phải được tái chế hay
đốt để thu lại năng lượng.
- Loại bao bì không thể tái sử dụng hoặc tái sinh, phải đem
đốt thì phải đảm bảo các khí độc hại thải ra không làm ảnh
hưởng đến môi trường.
Đây là những yêu cầu chung nhất của Liên minh châu Âu về
vấn đề bao bì và phế thải bao bì. Tuy nhiên việc thi hành Chỉ thị
trên thực tế ở các nước khác nhau có thể dưới những hình thức
khác nhau, mà điển hình nhất là chương trình “Green Dot”được áp
dụng ở Đức, Bỉ, và Pháp. ở Đức, ngành thương mại và công nghiệp
buộc phải thu hồi lại các nguyên liệu bao bì để tái sử dụng hay tái
chế. Quy định này còn áp dụng cho cả hàng hoá nhập khẩu, tức là
các công ty nước ngoài cũng phải tuân thủ như các công ty của
Đức. Các bao bì có in ký hiệu xanh “Green Dot”là những bao bì có
thể được sử dụng lại hoặc tái chế, và nhà sản xuất/nhập khẩu sản
phẩm đựng trong bao bì đó đã tham gia vào hệ thống quản lý bao
bì phế thải, đã trả phí cho việc tái chế bao bì.
Với những quy định của thị trường EU về bao bì và phế thải
bao bì, các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu sang EU cũng
cần phải đặc biệt lưu tâm. Việc tuân thủ các quy định này không
những giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang EU mà
còn góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường ở Việt Nam từ rác thải
sinh hoạt.
3. Nhãn hiệu sinh thái EU (Eco-label)
Hiện nay EU đang thực hiện Chương trình dán nhãn sinh thái
(Eco-labelling) cho sản phẩm. Mục đích của chương trình này là
phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường (sản phẩm có
ảnh hưởng bất lợi ở mức thấp nhất tới môi trường). Các nhãn hiệu
sinh thái được gắn lên sản phẩm dựa trên sự đánh giá đầy đủ vòng
đời của sản phẩm để đảm bảo rằng sản phẩm được thiết kế, sản
xuất, đóng gói bao bì... sao cho có thể bị vứt bỏ khi kết thúc vòng
đời mà không làm ảnh hưởng đến môi trường. Các nhà nhập khẩu
và sản xuất sử dụng dấu xác nhận tiêu chuẩn môi trường châu Âu
trên cơ sở tình nguyện. Chi phí trả cho việc được sử dụng các biểu
tượng môi trường này phụ thuộc vào doanh thu của sản phẩm đối
với công ty nhập khẩu hay sản xuất sản phẩm đó và có thể thay
đổi đối với mỗi quốc gia thành viên. Việc sử dụng các biểu tượng
như vậy cũng khuyến khích các ngành chế biến và sản xuất phải
duy trì việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên.
Đến nay đã có 14 nhóm sản phẩm nằm trong phạm vi chương
trình gắn nhãn hiệu sinh thái của EU, đó là các nhóm: (1) Bột giặt;
(2) Bóng điện; (3) Máy giặt; (4) Giấy copy; (5) Tủ lạnh; (6) Giày
dép; (7) Máy tính cá nhân; (8) Giấy ăn; (9) Máy rửa bát; (10) Máy
làm màu đất; (11) Nệm trải giường; (12) Sơn và vécni; (13) Sản
phẩm dệt; (14) Nước rửa bát. Uỷ ban châu Âu cũng đang xây dựng
tiêu chuẩn để bổ sung thêm 7 nhóm sản phẩm khác vào danh sách
này và có dự định mở rộng thêm cho nhiều nhóm sản phẩm nữa.
Riêng đối với thực phẩm có tính bảo vệ môi trường thì không
thuộc chương trình nhãn hiệu sinh thái EU mà thuộc chương trình
“nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ”. Xuất phát điểm
là từ thập kỷ 80, ở nhiều nước và khu vực trên thế giới đã xuất
hiện phương pháp sản xuất lượng thực, thực phẩm mới: Sản xuất
lượng thực, thực phẩm chỉ dùng phân bón hữu cơ đã qua chế biến,
thuốc trừ sâu hữu cơ, không dùng hoặc chỉ dùng rất ít phân bón
hoá học, thuốc trừ sâu hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh,
hoá chất... nhằm tạo ra thực phẩm hữu cơ đạt tiêu chuẩn an toàn
thực phẩm (ATTP) và bảo vệ môi trường (BVMT) như: an toàn với
sức khoẻ người tiêu dùng, chống thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn
nước, ô nhiễm không khí và giữ gìn sự trong lành của vùng nông
thôn. Phương pháp sản xuất nông nghiệp này được gọi là phương
pháp sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Những thực phẩm được sản
xuất theo phương pháp hữu cơ phải là những sản phẩm đang và sẽ
đưa ra dấu hiệu về phương pháp sản xuất hữu cơ: (1) sản phẩm
nông nghiệp chưa qua chế biến, động vật và sản phẩm từ động vật
chưa chế biến; (2) sản phẩm tiêu dùng có trên một thành tố có
nguồn gốc động vật, thực vật.
Tháng 6/1991, Cộng đồng châu Âu thông qua quyết định số
2092/91/EC về tiêu chuẩn của nông nghiệp hữu cơ nhằm thúc đẩy
sự phát triển của loại hình sản xuất này. Như vậy, EU là nơi đi tiên
phong trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đồng thời cũng là thị
trường tiêu thụ loại sản phẩm này lớn nhất hiện nay trên thế giới.
Các nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ cũng đang
nhanh chóng trở nên phổ biến ở thị trường EU, là những nhãn hiệu
đảm bảo cho người tiêu dùng về nguồn gốc hữu cơ và chất lượng
của sản phẩm nông nghiệp. Cho đến nay vẫn chưa có nhãn hiệu
chung của EU cho các sản phẩm được sản xuất theo phương pháp
hữu cơ, mà mới chỉ có tiêu chuẩn và nhãn hiệu riêng của từng
quốc gia thành viên, ví dụ như ở Đức là KRAV, ở Hà Lan là EKO...
Tuy nhiên Uỷ ban châu Âu đã có quy định cụ thể về dán nhãn cho
sản phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ, theo đó các
nhãn hiệu phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Những dấu hiệu trên nhãn mác thể hiện một cách rõ ràng
rằng sản phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ.
Điều đó có nghĩa là trên nhãn mác phải ghi rõ: (1) những
thành phần cấu thành sản phẩm tuân theo nguyên tắc của
sản xuất hữu cơ; (2) những thành phần cấu thành sản phẩm
được nhập khẩu từ nước thứ Ba thì phải có nguồn gốc từ
nước thứ Ba và có chứng nhận của một cơ quan có thẩm
quyền về việc áp dụng các nguyên tắc của phương pháp
sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
- Sản phẩm phải được sản xuất, nhập khẩu từ nước thứ Ba
theo quy định;
- Sản phẩm được sản xuất, hay nhập khẩu bởi chủ thể kinh
doanh là người sản xuất, nhập khẩu từ nước thứ Ba;
- Thể hiện rõ ràng hướng dẫn sử dụng và hạn sử dụng.
Các nhãn hiệu môi trường (nhãn hiệu sinh thái và nhãn hiệu
cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ) được in trên bao bì sản phẩm
chứng minh đặc tính thân thiện với môi trường của sản phẩm đang
trở thành một quy định quan trọng của thị trường EU, một mặt tạo
ra thách thức đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, mặt khác lại
tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển cao hơn nữa quy trình sản xuất
không gây hại đến môi trường trong nước cũng như quốc tế.
4. Các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên
quan đến bảo vệ môi trường
Quy định hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả:
Đây là quy định về an toàn thực phẩm với mục đích bảo vệ sức
khoẻ cộng đồng. Khi xét về khía cạnh môi trường, quy định này
cũng nhằm bảo vệ môi trường vì sản xuất nông nghiệp nếu sử
dụng các loại thuốc trừ sâu an toàn và với một hàm lượng cho
phép không những sẽ cung cấp một nguồn thực phẩm an toàn và
đảm bảo cho sức khoẻ người dân mà còn đảm bảo không gây ô
nhiễm môi trường không khí, nguồn nước sinh hoạt. Đồng thời, quy
định về hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa không chỉ bảo vệ môi
trường ở quốc gia sản xuất sản phẩm mà còn bảo vệ môi trường ở
cả quốc gia nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm. Thực tế là nếu trong
sản phẩm nông nghiệp có chứa hàm lượng thuốc trừ sâu quá mức
cho phép, các chất này sau quá trình tiêu dùng sản phẩm sẽ thải
ra môi trường ở nước nhập khẩu và lượng thuốc trừ sâu không
phân huỷ sẽ gây ô nhiễm môi trường nơi đây (thoái hoá đất, ô
nhiễm nguồn nước sinh hoạt...). Dư lượng thuốc trừ sâu không
phân huỷ đang là một trong những vấn đề nhạy cảm trong hoạt
động bảo vệ môi trường mà EU đặc biệt quan tâm.
Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ
sản
Cũng giống như quy định hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có
trong rau quả, quy định này là quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm, nhưng lại liên quan gián tiếp đến môi trường. Cụ thể, một
số khâu trong quá trình nuôi trồng, chế biến và đưa các sản phẩm
thịt gia súc, gia cầm, thuỷ sản vào thị trường EU có ảnh hưởng tới
môi trường (nuôi trồng, khai thác, chế biến, vận chuyển). Sử dụng
quá nhiều kháng sinh, hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong chăn
nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản, dùng nhiều kháng
sinh trong bảo quản hải sản đánh bắt và xử lý chất thải của các
nhà máy chế biến thực phẩm chưa tốt sẽ gây ô nhiễm môi trường.
Cụ thể, chương VI “Những điều kiện đặc biệt để xử lý thuỷ sản
trên bờ”ở Phụ lục I thuộc Chỉ thị 91/493/EEC, phần “Điều kiện đối
với sản phẩm tươi”có nêu: “Trừ trường hợp có những phương tiện
chuyên biệt để loại bỏ liên tục phế liệu, các loại phế liệu cần được
bỏ vào những thùng chứa không rò rỉ, có nắp đậy, dễ làm sạch, dễ
khử trùng. Không được để phế liệu tích tụ trong khu làm việc. Phế
liệu phải được chuyển đi thường xuyên, hoặc mỗi khi đầy thùng
chứa, hay ít nhất sau mỗi ngày làm việc. Các thùng, vật, hoặc
phòng chứa dành riêng cho chất phế thải phải luôn được giữ sạch,
và nếu có thể, được khử trùng sau khi sử dụng. Phế thải tồn trữ
không được tạo nguồn gây nhiễm bẩn cho cơ sở sản xuất hoặc gây
ô nhiễm môi trường.”
Điều 9, Chương III “Nhập khẩu từ nước thứ Ba”thuộc Chỉ thị
91/492/EEC có nêu: “Các nước thứ Ba xuất khẩu sang EU phải đảm
bảo điều kiện vệ sinh thực tế trong quá trình sản xuất và đưa
nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống vào thị trường, đặc biệt phải tiến
hành giám sát các khu vực sản xuất về mặt nhiễm vi sinh và gây ô
nhiễm môi trường và về sự có mặt của các độc tố sinh học biển.”
Chỉ thị 96/23/EEC ngày 29.4.1996 quy định về các biện pháp
giám sát một số hoạt chất và dư lượng của chúng trong động vật
sống và các sản phẩm động vật. Theo Chỉ thị này, các doanh
nghiệp muốn xuất khẩu vào EU phải tuân thủ các biện pháp giám
sát một số hoạt chất và dư lượng của chúng trong nuôi trồng thuỷ
sản và gia súc, gia cầm. Trong số các hoạt chất cần giám sát có
những chất gây ô nhiễm môi trường như: các hợp chất Chlor hữu
cơ kể cả PcBs (Chloramphenicol, Chloroform, Chlorpromazine,...),
các hợp chất nhóm phốt pho hữu cơ, các nguyên tố hoá học, các
độc tố nấm, thuốc nhuộm (Phụ lục 2)
Ngoài ra, EU còn thực hiện chính sách “dư lượng = 0”đối với
10 chất kháng sinh bị cấm hoàn toàn vì trong đó có 07 chất gây ô
nhiễm môi trường là CAP, Chloroform, Chlorpromazine,
Dimetridazole, Ronidazole, Metronidazole, FRZ hoặc NF có chứa
FRZ.
Chất phụ gia trong thực phẩm:
EU đưa ra các quy định về sử dụng chất phụ gia trong thực
phẩm cũng một phần nhằm bảo vệ môi trường. Tác động tới môi
trường trong việc sử dụng chất phụ gia nằm ở chỗ: nếu không sử
dụng các chất phụ gia an toàn và đúng mức cho phép thì chất phụ
gia được thải ra môi trường trong quá trình sản xuất hoặc dư lượng
phụ gia thực phẩm không phân huỷ sau khi tiêu dùng sẽ gây thoái
hoá đất, ô nhiễm nguồn nước, làm giảm đa dạng sinh học. Vì vậy
chỉ có những loại phụ gia (bao gồm cả chất làm ngọt, phẩm màu,
hương liệu và các phụ gia khác) an toàn cho sức khoẻ của con
người và môi trường mới được phép sử dụng (Phụ lục 3). Cũng cần
lưu ý thêm là trong 10 chất kháng sinh bị EU hoàn toàn cấm sử
dụng (theo Luật thực phẩm) có 4 chất mang màu (Dimetridazole,
Metronidazole, Ronidazole, FRZ hoặc NF có chứa FRZ) hay được sử
dụng trong chế biến thực phẩm để làm cho thực phẩm có màu sắc
hấp dẫn hơn. Đây là những chất rất độc, vừa không đảm bảo an
toàn thực phẩm, vừa gây ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy nếu sử
dụng 04 chất này trong chế biến thực phẩm, hàng hoá sẽ bị coi là
vi phạm quy định về bảo vệ môi trường.
IV. Vấn đề trách nhiệm xã hội của thị trường EU đối với các
doanh nghiệp xuất khẩu
Bên cạnh các tiêu chí quan trọng về chất lượng, vệ sinh, độ an
toàn và môi trường đã đề cập ở trên, các vấn đề xã hội ngày càng
có tầm quan trọng cao hơn trong thương mại. Các vấn đề xã hội
được nêu ra xuất phát từ quan điểm của người tiêu dùng về đạo
đức kinh doanh. Tại Liên minh châu Âu nói riêng và các nước phát
triển nói chung, ngày càng có nhiều người cho rằng các doanh
nghiệp - với tư cách là những thực thể quan trọng trong xã hội -
phải có trách nhiệm về đạo đức đối với nhân viên của họ nói riêng
và toàn xã hội nói chung thông qua sản phẩm mà doanh nghiệp
cung cấp trên thị trường. Dần dần, họ đưa vấn đề đạo đức kinh
doanh trở thành tiêu chí để lựa chọn sản phẩm và bạn hàng. Các
doanh nghiệp do đó hiểu rõ là mình sẽ được đánh giá không chỉ bởi
sản phẩm và dịch vụ cung cấp mà còn bởi trách nhiệm của doanh
nghiệp về mặt xã hội.
1. Các bộ quy tắc ứng xử
Theo định nghĩa của Uỷ ban châu Âu, “Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp - CSR (Corporate Social Responsibilitíe) - là khái
niệm để chỉ việc các công ty đưa ra những mối quan tâm về xã hội
và môi trường vào các hoạt động kinh doanh của mình trong mối
quan hệ với các bên có liên quan, trên cơ sở tự nguyện” [8]. Những
mối quan tâm này thường được cụ thể hoá trong các bộ quy tắc
ứng xử (Code of Conduct - CoC). Các bộ quy tắc ứng xử có thể do
một tổ chức đưa ra, hoặc do các công ty tự đưa ra bộ của CoC của
riêng mình (hiện có khoảng trên 1000 bộ CoC loại này). Tuy nhiên
không có một bộ CoC nào mang tính quốc tế hay quốc gia cả.
Các CoC có những đặc điểm sau:
- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được quy định trong
các CoC được hiểu là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
toàn xã hội thông qua sản phẩm của mình chứ không phải
chỉ là trợ giúp một số nhóm người yếu thế nhất định trong
xã hội như người tàn tật, trẻ mồ côi, nạn nhân lũ lụt... và
đây là việc làm thường xuyên, liên tục chủ yếu ngay tại nơi
làm việc chứ không phải là công tác hỗ trợ nhân đạo làm
theo phòng trào, mang tính chất thời điểm và ở ngoài xã hội
(ngoài nơi làm việc là chính).
- Các bộ CoC không phải là các Công ước Quốc tế, không phải
quy định bắt buộc của bất cứ quốc gia nào, không phải thoả
thuận giữa chính phủ với chính phủ mà chỉ là thoả thuận
giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (bên bán và bên mua
hàng hoá, dịch vụ). Do vậy, việc thực hiện các CoC là tự
nguyện, hoàn toàn không mang tính bắt buộc. Tuy vậy phải
hiểu rõ hai điểm trong tính tự nguyện. Một là những quy
định nào nằm trong CoC mà trùng với những quy định của
luật pháp quốc gia thì việc thực hiện những nội dung đó
nghiễm nhiên mang tính bắt buộc. Hai là, tự nguyện ở đây
được hiểu theo nghĩa thị trường, tức là do doanh nghiệp tự
quyết định có nên cam kết áp dụng một bộ CoC nào đó
không sau khi cân nhắc giữa lợi ích và chi phí bỏ ra.
- Tuy các CoC không phải là công ước quốc tế, không phải
luật quốc gia, nhưng phần lớn nội dung của các CoC lại
được chắt lọc, tóm tắc từ các công ước và thông lệ quốc tế
và luật quốc gia. Bởi vậy, thực chất các CoC không đưa ra
nhiều quy định mới. Tuy nhiên, những nội dung cần tìm hiểu
ở các CoC là cách thức quản lý, theo dõi, kiểm tra và ai sẽ là
người đánh giá việc thực hiện những quy định này. Việc
kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các CoC phần lớn do bên
thứ hai, tức bên mua hàng tiến hành hoặc bên thứ ba, tức
một công ty đánh giá độc lập tiến hành.
- Khi các CoC do các công ty đa quốc gia nước ngoài hay các
tổ chức tư nhân đưa ra được đem vào áp dụng ở một quốc
gia nào đó thì các CoC này không thay thế, không đứng trên
luật quốc gia. Việc thực hiện các CoC ở bất cứ quốc gia nào
phải phù hợp với luật quốc gia và hỗ trợ việc thực hiện luật
quốc gia tại nước sở tại.
Nội dung cơ bản của các CoC:
Hiện nay có rất nhiều bộ quy tắc ứng xử hoặc của các công ty,
tổ chức độc lập đưa ra như WRAP, SA 8000, WWW, CCC, PLA,....,
hoặc của chính bản thân các công ty kinh doanh tự đưa ra để áp
dụng riêng như tập đoàn Adidas, NIKE, Levis Strauss, GAPS,
MalMart,... (Phụ lục 4). Đặc biệt ở Châu Âu, “Chiến dịch quần áo
sạch - CCC”và quy tắc hành xử “EURATEX-ETUC/TCL Code”do
Nghiệp đoàn dệt Châu Âu và Tổ chức giới chủ thoả thuận đang
được triển khai rộng rãi.
Về cơ bản, các CoC đều đề cập đến khoảng 10 nội dung chính:
cấm sử dụng lao động trẻ em; cấm sử dụng lao động cưỡng bức;
chống phân biệt đối xử tại nơi làm việc; đảm bảo cho người lao
động quyền tham gia công đoàn và thoả ước lao động tập thể; tiền
lương - tiền công; thời gian làm việc; an toàn vệ sinh lao động;
khen thưởng và kỷ luật ; đào tạo, việc làm; an sinh xã hội. Tuy
nhiên những quy định chi tiết bên trong của mỗi nội dung trên có
thể khác nhau.
2. Bộ tiêu chuẩn SA 8000
SA 8000 do một công ty tư nhân của Mỹ có tên là Social
Accountability International (SAI) đưa ra từ năm 1997. Cũng như
các bộ quy tắc ứng xử khác, đây là một tiêu chuẩn mang tính chất
tự nguyện và có thể được áp dụng cho bất cứ doanh nghiệp hay tổ
chức nào không kể quy mô hay ngành nghề. Tiêu chuẩn này có thể
được các doanh nghiệp lựa chọn để thay thế hay bổ sung cho các
quy định riêng của ngành hay của của doanh nghiệp về trách
nhiệm xã hội.
Sở dĩ SA 8000 được ưu tiên giới thiệu riêng và kỹ hơn các bộ
quy tắc ứng xử khác là vì vấn đề áp dụng tiêu chuẩn này đang nổi
cộm trong các doanh nghiệp của Việt Nam. Kể từ khi Hiệp định
thương mại Việt Mỹ được ký kết, một chiến dịch quảng bá cho SA
8000 đã được tung ra với lý lẽ rằng SA 8000 là giấy thông hành
cho các doanh nghiệp (đặc biệt là những doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động) thâm nhập vào thị trường Mỹ và EU. Xét riêng với
thị trường EU thì nếu doanh nghiệp nào có chứng chỉ SA 8000, tức
là chứng tỏ được trách nhiệm của doanh nghiệp về mặt xã hội,
doanh nghiệp đó sẽ dễ dàng giành được sự ưu tiên từ phía đối tác
và do đó việc xuất khẩu hàng hoá sẽ thuận lợi hơn. Tuy nhiên cũng
phải nhắc lại rằng, SA 8000 không phải là bộ quy tắc ứng xử duy
nhất và các doanh nghiệp cũng không bị bắt buộc phải lựa chọn.
Những nội dung cơ bản của SA 8000:
Bản thân các yêu cầu trong tiêu chuẩn SA 8000 dựa trên
Khuyến cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và các Thoả thuận
và Hiệp định của Liên hợp quốc (Nhân quyền, Quyền trẻ em), bao
gồm 9 yêu cầu:
1 - Không được sử dụng hoặc khuyến khích sử dụng lao động
trẻ em
2 - Không được sử dụng hoặc khuyến khích sử dụng lao động
cưỡng bức.
3 - Đảm bảo sức khoẻ, vệ sinh an toàn lao động
4 - Đảm bảo quyền thành lập, tham gia công đoàn và quyền
thoả ước tập thể của người lao động.
5 - Không phần biệt đối xử về chủng tộc, đẳng cấp, dân tộc,
tôn giáo, sự ốm yếu tàn tật, giới tính, tính dục, sự tham gia nghiệp
đoàn, khuynh hướng chính trị hoặc tuổi tác
6 - Không áp dụng sự trừng phạt mang tính nhục hình, sự
cưỡng bức về tinh thần hoặc thể xác và sự lăng mạ bằng lời nói.
7 - Đảm bảo thời gian làm việc theo luật và tiêu chuẩn ngành
nghề hiện hành. Tổng số giờ làm việc trong một tuần không được
thường xuyên vượt quá 48 giờ, phải có ít nhất 1 ngày nghỉ trong
mỗi tuần.
8 - Đảm bảo tiền lương tối thiểu theo quy định của pháp luật
và đủ để đáp ứng nhu cầu cơ bản của người lao động.
9 - Hệ thống quản lý việc thực hiện tiêu chuẩn: phải có sự cam
kết của công ty về trách nhiệm xã hội và điều kiện lao động, hình
thành một cơ chế thực thi kiểm soát sự đáp ứng đòi hỏi trên suốt
quá trình.
Chứng chỉ SA 8000 chỉ cấp cho một cơ sở sản xuất (không phải
cho toàn công ty) và có giá trị trong 3 năm. Việc thanh tra, giám
sát sẽ được tiến hành sáu tháng một lần.
Tóm lại, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội được đặt ra như một
điều kiện thương mại đang ngày càng trở nên phổ biến ở các nước
phát triển nói chung và Liên minh châu Âu nói riêng. Tác động của
xu hướng này đối với các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát
triển là rất rõ ràng. Vì vậy, các doanh nghiệp này phải chú trọng
đến yếu tố xã hội trong đạo đức kinh doanh của họ, hoặc phải tuân
thủ các yêu cầu theo tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội
.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá việt nam sang eu dưới tác động của các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường, và xã hội.
V. Đánh giá thực trạng chung của hàng xuất khẩu Việt
Nam sang EU dưới tác động của các quy định/ tiêu chuẩn
của EU về chất lượng, môi trường và xã hội
1. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - EU
Mở đầu cho quan hệ hợp tác về thương mại giữa khối EU và
Việt Nam là Hiệp định buôn bán hàng dệt may được ký tắt ngày
15/12/1992 có hiệu lực trong 5 năm bắt đầu từ năm 1992 (mà hạn
ngạch và các điều khoản về tiếp cận thị trường được điều chỉnh
vào năm 1995 và Hiệp định bổ sung ký năm 1996). Bước phát triển
tiếp theo trong quan hệ hợp tác về thương mại của Việt nam và EU
là việc hai bên ký kết Hiệp định khung về hợp tác vào 17/1/1995,
có hiệu lực bắt đầu vào tháng 6/1996. Các điều khoản thương mại
trong Hiệp định có quy định rõ: Việt Nam và EU sẽ cho nhau hưởng
quy chế tối huệ quốc (MFN), đặc biệt là chế độ ưu đãi thuế quan
phổ cập (GSP). Các bên cam kết phát triển, đa dạng hoá trao đổi
thương mại và cải thiện quá trình tiếp cận thị trường của nhau đến
mức cao nhất có thể được, có tính đến hoàn cảnh kinh tế của mỗi
bên. Hai Hiệp định này cùng với những thành tựu đạt được từ việc
thực hiện kế hoạch 5 năm 1991-1995 của Việt Nam đã là động lực
thúc đẩy việc phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt
nam vào thị trường EU, đặc biệt kể từ năm 1995 đến nay.
1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang
EU từ 1995 - nay
Thời kỳ trước Hiệp định khung hợp tác được ký kết (1995), kim
ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU chỉ đạt ở mức độ
khiêm nhường và nhập siêu luôn nghiêng về phía Việt Nam. Buôn
bán thương mại hai chiều năm 1990 mới chỉ đạt 295,2 triệu USD,
dù có tăng dần qua từng năm nhưng chưa năm nào lên được tới 1
tỷ USD. Tuy nhiên, từ năm 1995 Việt Nam đã có xuất siêu và mức
xuất siêu ngày càng lớn do đã biết xúc tiến nhiều hoạt động đẩy
mạnh xuất khẩu sang thị trường EU. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai
chiều không ngừng tăng lên hàng năm, tuy mức tăng trưởng chưa
ổn định (bảng 2).
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - EU
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Kim ngạch XK của Việt Nam sang EU
Kim ngạch NK của Việt Nam từ EU
Kim ngạch XNK Việt Nam - EU Trị giá
Xuất siêuTrị giá
Tốc độtăng (%)
Trị giáTốc độ
tăng (%)Trị giá
Tốc độtăng (%)
1990 141,6 - 153,6 - 295,2 - -12
1991 112,2 -20,8 274,5 78,7 386,7 31,0 -162,3
1992 227,9 103,1 233,2 -15 461,1 19,2 -5,3
1993 216,1 5,2 419,5 79,9 635,6 37,8 -203,4
1994 383,8 77,6 476,6 13,6 860,4 35,4 -92,8
1995 720,0 87,6 688,3 44,4 1.408,3 63,7 31,7
1996 900,5 25,1 1.134,2 64,8 2.034,7 44,5 -233,7
1997 1.608,4 78,6 1.324,4 16,8 2.032,8 44,1 284,0
1998 2.125,8 32,2 1.307,6 -1,3 3.433,4 17,1 818,2
1999 2.506,3 17,9 1.052,8 -19,5 3.559,1 3,7 1.453,5
2000* 2.845,1 13,5 1.317,4 25,1 4.153,9 16,7 1.527,7
2001* 3.002,9 5,6 1.506,3 14,3 4.509,2 8,6 1.496,6
2002* 3.149,9 4,9 1.841,1 22,2 4.991,0 10,7 1,308.8
2003# 3.840,0 21,9 - - - - -
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Qua bảng số liệu có thể thấy quy mô buôn bán giữa Việt Nam
và EU giai đoạn sau 1995 đã tăng lên nhanh chóng so với giai đoạn
trước, đặc biệt trong ba năm 1995-1997 tốc độ tăng trưởng bình
quân là 50,8%/năm. Từ năm 1998 đến tăng trưởng thương mại
bình quân đạt 11,36%/năm, tuy có thấp hơn giai đoạn 1995-1997
nhưng vì giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu đã lớn hơn nên con số
trên vẫn được đánh giá là tích cực. Năm 2002, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu hai chiều đạt gần 5 tỷ USD, trong đó Việt Nam
xuất khẩu hơn 3,1 tỷ USD, nhập khẩu gần 1,9 tỷ USD. Ước tính
năm 2003, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt khoảng
3,84 tỷ USD (tăng 21,9% so với năm 2002) [1], cùng với tốc độ tăng
nhập khẩu khá đều đặn trong những năm trước thì dự đoán tổng
kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và EU trong năm 2003 sẽ còn
cao hơn nữa. Đây là minh chứng cho sự phát triển thương mại giữa
hai bên. Tuy nhiên, bước tiến này sẽ vẫn còn gặp nhiều trắc trở và
nhất là còn cách xa tiềm năng kinh tế của cả hai bên. Trị giá
thương mại Việt Nam - EU mới chiếm khoảng 0,12% tổng kim
ngạch ngoại thương của EU, và chiếm 13,7% tổng kim ngạch ngoại
thương của Việt Nam [2].
1.2 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU từ
1995-nay
Như đã nói ở trên, kể từ năm 1995, Việt Nam liên tục đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU, làm chuyển dịch
cán cân xuất nhập khẩu với thị trường này từ chỗ nhập siêu sang
xuất siêu. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh, nếu như
trong 5 năm (1990-1995) tăng 5 lần thì sang giai đoạn 5 năm tiếp
theo, kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đã tăng lên gấp 4 lần năm
1995, tức là gấp 20 lần năm 1990. Số liệu mới đây nhất, trong 9
tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt
được 80,7% kế hoạch cả năm, tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái,
trong đó thị trường EU chiếm một vị trí đáng kể. Ước tính năm
2003, kim ngạch xuất khẩu sang EU sẽ đạt 3,84 tỷ USD (bảng 3).
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU từ 1995-nay
Đơn vị : Triệu USD
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* 2002* 2003#
(1) Kim ngạch XK của Việt
Nam sang EU720,0 900,5 1608,4 2125,8 2506,3 2845,1 3002,9 3149,9 3840
Tốc độ tăng hàng năm của
(1) (%)87,6 25,1 78,6 32,2 17,9 13,5 5,6 4,9 21,9
(2) Tổng kim ngạch XK của
5448,9 7255,9 9185,0 9361,0 11135,9 14483,0 15029,0 16705,8 19950
Việt Nam
Tỷ trọng (1) trong (2) (%)
13,2 12,4 17,5 22,7 22,5 19,6 20,0 18,9 19,2
(3) Tổng kim ngạch NK của
EU **713252,4 738505 757852,2 809569,3 864536,1 923241,3 957435,1 987695,7 -
Tỷ trọng (1) trong (3) (%)
0,10 0,12 0,21 0,26 0,29 0,31 0,31 0,32 -
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002)
(**) European Union and World Trade, European Commission, 1997, Tr 41
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Bảng 3 cho thấy, mặc dù nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu của
Việt Nam sang EU giai đoạn 1995-2003 tăng đáng kể, nhưng tốc
độ tăng hàng năm lại không ổn định. Năm 1995, tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu tăng 87,6% so với năm 1994, sang năm 1996,
con số này chỉ đạt 25,1% để rồi năm 1997 lại tăng lên đến 78,6%.
Kể từ năm 1998, tốc độ tăng trưởng giảm dần, đỉnh điểm là hai
năm 2001 và 2002 chỉ đạt trên dưới 5%.
Những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này là:
- Vào năm 1996 một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam xuất sang EU giảm mạnh như: hàng thuỷ sản giảm do lượng
tôm đông lạnh giảm vì ở nhiều khu vực trong nước tôm bị dịch
bệnh, hàng cà phê giảm do giá thị trường thế giới giảm mạnh...
- Sang năm 1998, tất cả các mặt hàng xuất khẩu quan trọng
của Việt Nam đều gặp trở ngại trên thị trường EU do các quy định
quản lý nhập khẩu của EU gây ra. Dệt may phải chịu mức hạn
ngạch dành cho Việt Nam quá thấp, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn
do EU chưa cho nhập nhuyễn thể hai mảnh của Việt Nam và chưa
chấp nhận đưa các nhà máy chế biến thuỷ sản của Việt Nam vào
danh sách nhóm I...
- Nguyên nhân làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang EU trong 2 năm 2001, 2002 tăng trưởng thấp hơn nhiều so
với những năm trước đó là vì Hiệp định thương mại Việt-Mỹ ký
ngày 14/7/2000 và có giá trị hiệu lực vào năm 2001 đã đem lại cơ
hội xuất khẩu lớn cho nước ta nên các doanh nghiệp Việt Nam đã
tận dụng cơ hội này đẩy mạnh xuất khẩu hàng vào Mỹ khi mà
công suất sản xuất hàng xuất khẩu không tăng hoặc tăng không
đáng kể. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU giảm
mạnh phải kể đến thuỷ sản, dệt may, nông sản - là những nhóm
hàng thị trường Mỹ có nhu cầu lớn. Đồng thời, giá một số mặt hàng
của Việt Nam sang EU (chủ yếu là nông sản) sụt giảm cũng góp
phần làm giảm kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này. Ngoài ra,
sự kiện tôm xuất khẩu của Việt Nam vào EU kể từ 27/3/2002 phải
chịu chế độ kiểm tra hệ thống toàn bộ 100% theo quyết định
2002/250/EC khiến các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
đã gặp không ít khó khăn, dẫn đến xuất khẩu giảm đáng kể.
Trung bình giai đoạn 1995 - nay, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
bình quân của Việt Nam sang EU là 32%, nhanh hơn số tương ứng
thời kỳ 1990-1994 là 28,31%.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2000
cũng tăng lên và khá ổn định. Mức tăng này lớn hơn nhiều nếu so
sánh với tỷ trọng của các thị trường Trung Quốc, úc, Mỹ (bảng 4).
Năm 2000, 2001, 2002, EU đã vượt qua ASEAN trở thành thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên tác động của Hiệp
định thương mại Việt-Mỹ mở đường hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ đã nâng cao tầm quan trọng của
thị trường này trong quan hệ thương mại với Việt Nam khiến EU
hiện nay chỉ đứng ở vị trí thứ hai. (Theo số liệu của Tổng cục Hải
quan, xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2003 sang Hoa Kỳ đạt trên 1,6
tỷ USD, tăng 185% so với cùng kỳ năm 2002, trong khi xuất khẩu
sang EU thấp hơn, đạt trên 1,5 tỷ USD, tăng 29% so với cùng kỳ
năm ngoái). Song, xu hướng chung là thị trường EU vẫn đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam.
Bảng 4: Tỷ trọng của các thị trường xuất khẩu chínhtrong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam thời kỳ 1995-nay
Đơn vị: %
95 - 03 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* 2002* 2003#
ASEAN 19,7 18,3 22,8 19,5 24,3 27,0 18,7 16,9 14,5 15,4
EU 18,5 13,2 12,4 17,5 22,7 22,5 20,0 19,9 18,9 19,2
Nhật Bản 17,9 26,8 21,3 17,6 15,8 16,0 18,8 16,7 14,6 13,8
T.Quốc 7,4 6,6 4,7 5,7 5,1 7,7 11,0 9,4 9,0 7,7
úc 5,2 1,0 0,9 2,0 5,0 7,3 9,1 6,9 8,0 7,0
Mỹ 7,4 3,1 2,8 3,0 5,0 4,5 5,3 7,1 14,5 21,0
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Từ một góc nhìn khác có thể thấy tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vào EU trong tổng kim ngạch nhập khẩu của
EU cũng trong xu thế gia tăng (xem bảng 2). Chẳng hạn năm 1995
tỷ trọng này là 0,10%, năm 2000 đã tăng lên thành 0,31%. Tuy
nhiên cũng phải thấy rằng thị phần đó còn quá nhỏ bởi thị trường
EU được đánh giá là “khó tính”vào loại nhất nhì thế giới, trong khi
hàng hoá của Việt Nam có chất lượng chưa ổn định và đôi khi
không đáp ứng được yêu cầu của bạn hàng EU.
Về bạn hàng, trong thời kỳ 1990-1994 chỉ có 6 trong số 12
nước thành viên EU có quan hệ buôn bán với Việt Nam là Pháp,
Đức, Bỉ, Hà Lan, Italia, Anh. Kể từ năm 1995, khi EU mở rộng thành
15 nước thì tất cả 15 nước thành viên đều có quan hệ buôn bán với
Việt Nam ở mức độ ít nhiều khác nhau, thể hiện ở bảng 5:
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU phân theo nước
Đơn vị: triệu USD
Tên nước 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* 2002* 2003#
Đức 218,0 228,0 411,4 587,9 654,3 730,1 721,8 720,7 840
Anh 74,6 125,1 265,2 333,5 421,2 479,3 511,6 570,8 700
Pháp 169,1 145,0 238,1 307,4 354,9 379,8 467,5 438,5 500
Hà Lan 79,7 147,4 266,8 306,9 342,9 390,2 364,5 404,3 510
Bỉ 34,6 61,3 124,9 211,7 306,7 311,6 341,2 335,1 390
Italia 57,1 49,8 118,2 144,1 59,4 218,0 237,9 263,8 340
Tây Ban Nha
46,7 62,8 70,3 85,5 108,0 137,2 158,5 178,5 234
Đan Mạch 12,8 23,7 33,2 43,3 43,7 58,2 49,7 62,5 70
Thuỵ Điển 4,7 31,8 47,1 58,3 45,2 55,1 53,2 62,4 70
Hy Lạp 1,6 2,1 5,7 8,1 3,8 7,9 - 30,3 40
Aó 9,3 5,6 11,4 8,5 34,9 23,6 28,9 29,5 36
Phần Lan 4,9 10,1 13,4 20,2 16,9 22,4 - 24,2 33
Bồ Đào Nha 3,8 4,1 4,2 4,4 5,2 8,9 - 5,5 10
Ai len 2,8 3,1 3,3 3,9 6,9 12,1 - 19,0 20
Luxembourg 0,3 0,6 1,5 2,1 2,3 2,5 - 4,8 5
Tổng 720,0 900,5 1608,4 2125,8 2506 2836,9 3002,9 3149,9 3840
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Có thể thấy rằng hàng năm, xuất khẩu của Việt Nam sang các
nước thuộc EU nhìn chung đều tăng. Những nước có nhịp độ tăng
cao là Thuỵ Điển, Anh, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan, Đan Mạch, Đức và
Italia. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là
Đức, chiếm 22,9% kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang EU. Kể
từ năm 1998 đến nay, Anh đã vượt Pháp và Hà Lan, vươn lên
chiếm vị trí thứ hai sau Đức, tiếp theo là Pháp: 13,9%, Hà Lan:
12,8%, Bỉ: 10,64% v..v..
1.3 Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU gồm:
giày dép, dệt may, nông sản, sản phẩm bằng da thuộc, thuỷ sản,
đồ gỗ, đồ gốm sứ, đồ chơi và dụng cụ thể thao,... hàng năm chiếm
khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
này. Như vậy, hàng xuất khẩu của ta sang EU chủ yếu là sản phẩm
của các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động, hoặc là
hàng có mức độ gia công chế biến thấp, nguyên nhiên liệu và nông
sản. Đứng đầu là hàng giày dép và nguyên phụ liệu, tiếp theo là
dệt may, rồi đến cà phê và chè (năm 2002 chiếm tỷ lệ trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU lần lượt là 45%, 15%,
4,8% ...). Tuy nhiên các thứ tự và tỷ lệ này còn chưa thật ổn định
qua các năm (biểu đồ 2).
Biểu đồ 2: biến động Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của việt nam sang eu theo thời gian
Đơn vị: %
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
1995 1999 2002
Năm
Tỷ
trọ
ng
tro
ng
tổ
ng
kim
ng
ạch
xu
ất
khẩu
san
g E
U
Các mặt hàng khác
Thiết bị điện tử
Thuỷ sản
Sản phẩm da thuộc
Đồ gỗ
Cà phê, chè
Dệt may
Giày dép
(Nguồn: Cục thống kê của Liên minh Châu  u (Eurostat) - www.eu.int/eurostat.html)
Những năm gần đây đã có một vài thay đổi xuất hiện trong cơ
cấu xuất khẩu vào EU. Những mặt hàng chế biến sâu (các thiết bị
điện tử, các phương tiện xe cộ...) đã xuất hiện, đặc biệt là mặt
hàng điện tử mới xuất khẩu được vài năm nhưng đến năm 2000 đã
đạt kim ngạch khích lệ (hơn 100 triệu USD). Tỷ trọng hàng xuất
khẩu qua chế biến tăng lên chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất
khẩu Việt Nam-EU và tỷ trọng hàng nguyên liệu thô giảm xuống
còn 30%.
Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt
Nam sang EU, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chính đã tăng
tương đối nhanh, rõ rệt nhất trong giai đoạn 1995-2000. Đặc biệt
phải kể đến mặt hàng máy móc, thiết bị điện và phụ tùng tăng
trung bình 107%/năm, mặc dù sang hai năm 2001 và 2002 lại
giảm cùng với sự tăng trưởng chậm của tổng kim ngạch xuất khẩu
sang EU. Các mặt hàng khác có những năm tăng trưởng cao nhưng
lại không ổn định (bảng 6).
Bảng 6: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU
Đơn vị: triệu USD
TT Tên hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
01Giày dép, và các bộ phận của chúng
481,3 664,6 1.032,3 1.043,1 1.310,5 1.683,5 1.692,1 1.730,8
02Quần áo và hàng may sẵn, không thuộc hàng dệt kim
273,9 335,8 440,2 436,9 499,7 580,9 422,2 416,2
03Cà phê, chè và các loại gia vị
234,7 146,9 277,9 366,8 357,9 293,5 224,0 102,5
04Đồ gỗ, trang thiết bị nội thất và y tế
28,2 60,5 101,3 108,1 145,5 219,3 221,3 285,6
05Các sản phẩm bằng da thuộc
92,2 116,7 166,6 157,0 164,0 189,4 97,6 138,4
06 Quần áo dệt kim 39,6 70,0 85,8 78,5 88,4 157,2 97.5 79,3
07 Đồ gốm, sứ 34,4 36,6 47,9 55,0 77,8 155,2 156,8 89,5
08 Thuỷ hải sản 29,1 36,1 71,3 98,2 83,1 94,7 112,3 42,4
09 Máy móc thiết bị 3,4 10,3 24,1 46,6 65,9 108,4 92,5 80,4
điện tử và phụ tùng
10Đồ chơi và dụng cụ thể thao
20,2 28,4 53,0 58,0 59,9 78,6 57,4 57,6
(Nguồn: Số liệu thống kê của Phái đoàn EU tại Hà nội - www.delvnm.cec.eu.int)
Qua đó có thể thấy rằng:
Mặt hàng giày dép xuất khẩu năm 1997/1996 tăng 55,3%
nhưng năm 1998/1997 chỉ tăng hơn 1%. Tốc độ tăng trưởng trung
bình của hai năm 1999 và 2000 đạt khoảng 26%, tuy nhiên sang
đến năm 2001 và 2002 lại giảm xuống còn khoảng một đến hai
phần trăm.
Tương tự như giày dép, tốc độ tăng trưởng hàng dệt may (chủ
yếu gồm hai nhóm hàng: quần áo may sẵn không thuộc hàng dệt
kim và quần áo dệt kim) tăng dần từ 1995 đến 1997, giảm mạnh
vào 1998, phục hồi vào hai năm 1999 và 2000 rồi lại xuống dốc
trong hai năm kế tiếp 2001, 2002 (hai năm này tăng trưởng âm).
Mặt hàng thuỷ hải sản tuy tăng trưởng khá cao trong ba năm
1996, 1997 và 1998 nhưng những năm tiếp theo lại giảm sút,
thậm chí tăng trưởng âm vào năm 1999 và 2002, do vi phạm các
quy định của EU về dư lượng kháng sinh và các chất bị cấm đối với
thuỷ hải sản khiến EU áp dụng các biện pháp tiêu huỷ, kiểm tra
ngặt nghèo hơn, gạt bỏ một số doanh nghiệp ra khỏi danh sách
các doanh nghiệp được phép xuất khẩu sang EU.
Hàng nông sản tăng trưởng từ 1995-1998, song liên tục giảm
sút từ 1998 đến nay, đặc biệt là cà phê do giá thị trường thế giới
giảm.
Tốc độ tăng xuất khẩu của các mặt hàng còn lại cũng rất thất
thường, ví dụ như đồ gốm sứ năm 2000 tăng gần gấp đôi so với
1999, sang năm 2001 hầu như không tăng, rồi lại giảm còn một
nửa vào năm 2002; đồ chơi và dụng cụ thể thao chỉ tăng mạnh
năm 1997, các năm sau tăng chậm và có năm tăng trưởng âm....
2. Đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về
chất lượng, môi trường & xã hội.
2.1 Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về
chất lượng
Từ năm 1996, Việt Nam đã nhận thức được rõ hơn tầm quan
trọng của các vấn đề thương mại đối với sự phát triển kinh tế đất
nước. Cũng như nhiều quốc gia khác, xuất khẩu mạnh là mục tiêu
hướng tới của Việt Nam, do đó Việt nam đã và đang cố gắng mở
rộng thị trường xuất khẩu của mình thông qua việc đề ra và thực
hiện các biện pháp nhằm đáp ứng các yêu cầu thương mại của các
nước nhập khẩu nói chung và của thị trường EU nói riêng. Trải qua
một thời kỳ kinh tế non yếu và khủng hoảng, các nhà sản xuất và
xuất khẩu Việt nam hiện nay đang đứng trước những yêu cầu về
tiêu chuẩn chất lượng - yếu tố hết sức cần thiết cho mục tiêu mở
rộng thị trường và đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu một cách bền
vững.
Hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc gia:
Thông thường, yêu cầu của các nước nhập khẩu đối với một
loại sản phẩm nào đó rất khác nhau, mỗi nước có một hệ thống
tiêu chuẩn riêng và các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu
được hàng hoá phải tuân thủ để đáp ứng yêu cầu thị trường. Tuy
nhiên trong nhiều năm gần đây, với xu thế hội nhập và liên kết,
nhiều thị trường và khu vực thị trường đã dần đưa ra các bộ tiêu
chuẩn áp dụng chung cho khu vực, hoặc hài hoà tiêu chuẩn nước
mình/khu vực của mình với tiêu chuẩn quốc tế. Điều này tạo điều
kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá do hàng hoá sẽ được kiểm
tra, đánh giá về mặt chất lượng căn cứ vào một hệ thống tiêu
chuẩn duy nhất.
Như đã nêu trong chương I, bộ tiêu chuẩn EN của Liên minh
châu Âu do ba cơ quan tiêu chuẩn hoá châu Âu hợp tác xây dựng
có mức độ hài hoà, thống nhất cao với hệ tiêu chuẩn quốc tế.
Không chỉ có vậy mà việc cải tiến và xây dựng tiêu chuẩn mới của
khu vực thị trường này cũng sẽ theo xu thế chung là thống nhất
với các tiêu chuẩn quốc tế, nhằm tạo điều kiện cho thương mại
phát triển hơn nữa. Trước bối cảnh đó, việc chấp nhận các tiêu
chuẩn quốc tế, khu vực và nước ngoài thành tiêu chuẩn Việt Nam
hoặc hài hoà tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế là một
bước đi thích hợp để tiến tới xoá bỏ các rào cản về kỹ thuật trong
thương mại, làm cho các cơ sở sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của
nước ta dễ dàng tiếp cận với thị trường nước ngoài nói chung và thị
trường EU nói riêng.
Thực tế cho thấy từ năm 1990 trở về trước, các Tiêu chuẩn
Việt Nam (TCVN) chủ yếu được xây dựng dựa trên sự tham khảo
tiêu chuẩn GOST của Liên Xô hoặc theo tiêu chuẩn SEV của Hội
đồng tương trợ kinh tế theo phương pháp có sửa đổi, điều chỉnh
các thông số và yêu cầu kỹ thuật (thường là bỏ hoặc hạ thấp) cho
phù hợp với điều kiện thực tế nước ta. Các tiêu chuẩn này đã kịp
thời phục vụ yêu cầu quản lý, sản xuất, tiêu dùng theo cơ chế tập
trung, bao cấp. Trong giai đoạn này, việc xây dựng TCVN được tiến
hành theo phương pháp “cơ quan biên soạn”, tức là hầu hết do các
nhà máy, xí nghiệp, các Viện nghiên cứu thuộc các Bộ biên soạn
dự thảo tiêu chuẩn trong đó Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng giúp
họ về nghiệp vụ biên soạn tiêu chuẩn. Tuy nhiên kể từ khi Liên Xô
và Đông Âu tan rã, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, cải cách
kinh tế và hội nhập khu vực, việc xây dựng và ban hành tiêu chuẩn
theo cách cũ cũng như hệ thống TCVN không còn phù hợp nữa.
Chính vì vậy, công tác rà soát, cải tiến, xây dựng lại hệ tiêu chuẩn
và vấn đề hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế đã
được chú trọng, và do đó đã đạt được những kết quả khả quan như
sau:
Tính đến hết năm 2002, tổng số TCVN được xây dựng và ban
hành là khoảng 8.000, trong đó có gần 5.200 TCVN hiện hành [9, tr
41]. Cơ cấu của hệ thống TCVN đã có những thay đổi đáng kể. Nếu
như năm 1990 trong hệ thống TCVN có 75% TCVN là chính thức áp
dụng và 25% khuyến khích áp dụng, thì trong tổng số hơn 5.000
TCVN hiện hành, số lượng TCVN bắt buộc áp dụng chỉ chiếm dưới
5%, còn lại là tự nguyện áp dụng. Đến tháng 10/2002, Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ)
đã công bố danh sách 95 TCVN bắt buộc áp dụng trong phạm vi cả
nước bao gồm các TCVN liên quan đến an toàn, vệ sinh và môi
trường [9, tr 41]. Các Bộ quản lý chuyên ngành cũng ra quyết định bắt
buộc áp dụng đối với các TCVN khác trong các lĩnh vực quản lý của
ngành. Đây là một bước tiến đáng kể trong hoạt động tiêu chuẩn
hoá của Việt Nam, nhưng nếu so sánh với số tiêu chuẩn chung của
EU hoặc tiêu chuẩn của mỗi nước thành viên EU (khoảng hơn
22.000 tiêu chuẩn) và nội dung yêu cầu của mỗi tiêu chuẩn thì
Việt Nam còn thua xa. Điều này nói lên rằng mức độ bao quát của
hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam và các yêu cầu của thị trường đối
với hàng hoá tiêu thụ còn thấp, do đó việc hàng hoá Việt Nam đáp
ứng tốt các tiêu chuẩn của thị trường EU sẽ vẫn còn gặp nhiều trở
ngại.
Cũng đến cuối năm 2002, đã có 1.273 TCVN hoàn toàn tương
đương với tiêu chuẩn quốc tế (ISO, IEC, CODEX), tiêu chuẩn châu
Âu EN và các tiêu chuẩn nước ngoài tiên tiến khác như (ASTM, JIS,
BS, AS,...) [9, tr 41] (Phụ lục 5). Tuy số lượng TCVN được ban hành trên
cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu
chuẩn nước ngoài tăng nhanh trong những năm gần đây song vẫn
còn chiếm tỷ lệ chưa cao (24%) trong tổng số TCVN hiện hành.
Bên cạnh đó, hoạt động phổ biến, khuyến khích và kiểm tra áp
dụng các tiêu chuẩn cũng chưa thực sự đem lại nhiều hiệu quả. Cụ
thể là hiện nay trên cả nước mới có trên 200 doanh nghiệp với
khoảng 20 chủng loại sản phẩm, hàng hoá được chứng nhận và
cấp dấu chất lượng phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam TCVN (bao gồm
cả những sản phẩm, hàng hoá liên quan đến an toàn, sức khoẻ...
được quy định trong danh mục sản phẩm, hàng hoá bắt buộc phải
chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn). Đến cuối năm 2002 cũng mới chỉ
có 258 sản phẩm, hàng hoá của 82 doanh nghiệp ở 30 tỉnh, thành
phố được công bố phù hợp tiêu chuẩn[9, tr 56].
Qua đó có thể thấy rằng, mặc dù số lượng tiêu chuẩn Việt Nam
ít hơn và nội dung quy định trong các tiêu chuẩn thường ít khắt
khe hơn so với tiêu chuẩn quốc tế cũng như tiêu chuẩn Châu Âu
nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng mới chỉ đạt đến sự phù
hợp tiêu chuẩn với tỷ lệ khiêm tốn. Bên cạnh đó, việc công bố
hàng hoá phù hợp tiêu chuẩn để thể hiện trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với chất lượng hàng hoá của mình và tạo ra thế mạnh
cạnh tranh vẫn còn chưa được các doanh nghiệp chú trọng. Về
phần các doanh nghiệp xuất khẩu, điều này cũng là nguyên nhân
khiến họ chưa có thói quen khẳng định chất lượng hàng hoá của
mình phù hợp với tiêu chuẩn của nước nhập khẩu.
Tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 tại
Việt Nam:
Tiêu chuẩn quản lý chất lượng không phải là tiêu chuẩn bắt
buộc đối với sản phẩm thâm nhập thị trường EU, nhưng việc tuân
thủ bộ tiêu chuẩn này chắc chắn sẽ giúp cải thiện cách nhìn nhận
về doanh nghiệp trên thị trường. Theo số liệu thống kê của Tổ chức
quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (ISO), đến cuối năm 2002, số doanh
nghiệp đạt được chứng chỉ phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000 tại 15
nước EU đạt 245.596 chứng chỉ, chiếm 43,72% tổng số chứng chỉ
trên toàn thế giới. Trong khi đó, số lượng chứng chỉ này tại 3 nước
Bắc Mỹ (Canada, Hoa Kỳ, Mexico) chiếm 9,58%, còn tại 17 nước
Viễn Đông chỉ chiếm 26,45% [10]. Điều này nói lên rằng, ISO 9000 là
một đặc điểm hỗ trợ bán hàng cơ bản trong kinh doanh với thị
trường nước ngoài, đặc biệt là với thị trường EU - nơi mà ISO 9000
trở nên cực kỳ phổ biến.
Nhận thức được tầm quan trọng của bộ tiêu chuẩn quản lý
chất lượng ISO 9000 (không chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu đảm
bảo chất lượng hàng xuất khẩu mà còn đem lại hiệu quả cho quản
lý kinh tế trong nước), bắt đầu từ cuối năm 1995, Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường với sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức
quốc tế đã đưa bộ tiêu chuẩn ISO vào Việt Nam thông qua các
khoá đào tạo và việc thành lập nhiều cơ quan tư vấn. Kể từ doanh
nghiệp đầu tiên được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng
theo ISO 9000 vào năm 1996, đến nay đã có trên 600 doanh
nghiệp có chứng chỉ này, trong đó có 354 chứng chỉ ISO 9001:2000
(phiên bản mới nhất của chứng chỉ ISO 9000 - kể từ năm 2004 sẽ
trở thành chứng chỉ duy nhất khi áp dụng hệ thống ISO 9000) [10].
Vậy là trong vòng 7 năm, số lượng doanh nghiệp Việt Nam
được cấp chứng chỉ áp dụng hệ thống ISO 9000 đã tăng với tốc độ
khá nhanh: Năm 1998/1997 tăng 2,2 lần, 1999/1998 tăng 5,7 lần,
2000/1999 tăng 1,2 lần, 2001/2000 tăng 1,3 lần và 2002/2001
tăng 2,5 lần. Tuy nhiên về mặt số lượng, nếu mới chỉ so sánh với
một số nước trong khu vực như Singapore, Thailand, Malaysia...
chứ chưa cần so sánh với những nước phát triển cao thì chúng ta
sẽ gặp phải những con số gây sốt ruột (biểu đồ 3).
Biểu đồ 3: số lượng doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 9000 của một số nước đông nam á.
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
Số
do
anh
ng
hiệ
p đ
ạt c
hứ
ng
ch
ỉ IS
O 9
000
Singapore
Thailand
Malaysia
Indonesia
Philippines
Vietnam
Singapore 2909 3000 3140 3900 3513 5379
Thailand 1104 1236 1527 2553 3870 4556
Malaysia 1610 1707 1921 2355 3195 3733
Indonesia 1273 1442 1525 1860 1395 1947
Philippines 629 668 723 1027 961 766
Vietnam 13 29 164 184 245 612
Dec-97 Dec-98 Dec-99 Dec-00 Dec-01 Dec-02
(Nguồn: "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org)
Thậm chí trong thực tế tại Việt Nam, sự hiểu biết về ISO 9000
trong các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Theo nghiên cứu của
Trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp SMEDEC, cơ quan đang tư vấn
cho khoảng 12 đơn vị về ISO 9000 thì kiến thức về quản lý chất
lượng trong các doanh nghiệp tư nhân hầu như không có. Các
doanh nghiệp nhà nước hiểu biết nhiều hơn nhưng số đông lại lo
chạy theo những mục tiêu trước mắt nên chưa nghĩ đến. Đồng
thời, kinh phí cũng đang là vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp
muốn áp dụng ISO. Chỉ riêng tiền tư vấn, đối với các hãng tư vấn
nước ngoài đã mất khoảng 40.000 USD (áp dụng cho một công ty
khoảng 500 người), còn các công ty tư vấn trong nước thì thấp
hơn, khoảng 150 triệu VND.
Cũng phải lưu ý rằng, trong số các doanh nghiệp Việt Nam đạt
chứng chỉ nói trên chỉ có một bộ phận là các doanh nghiệp xuất
khẩu. Vì vậy có thể khẳng định số lượng doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường EU áp dụng hệ thống quản lý chất
lượng ISO 9000 vẫn còn nhỏ, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
của thị trường.
Khả năng đáp ứng các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an
toàn cho người tiêu dùng:
a. Nhãn hiệu CE
Với thực trạng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU
chủ yếu là sản phẩm công nghiệp nhẹ gia công và nguyên nhiên
liệu, nông sản, còn các sản phẩm công nghiệp chế tạo mới chiếm
một tỷ lệ rất nhỏ (mặt hàng điện tử tăng trưởng nhanh cũng mới
chiếm khoảng 2.5% tổng kim ngạch, đồ chơi khoảng 2%...) nên
quy định về gắn nhãn hiệu CE không phải là một yêu cầu cấp
bách. Trên thực tế, một số doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu
sản phẩm công nghiệp chế tạo sang EU đã nhận thức được tầm
quan trọng của nhãn hiệu này nên xúc tiến sản xuất hàng hoá
theo tiêu chuẩn EN của châu Âu để được gắn nhãn CE chứng minh
sự phù hợp tiêu chuẩn. Trên thị trường châu Âu đã xuất hiện các
sản phẩm của Việt Nam có gắn mác CE như sản phẩm bóng đèn
của công ty Bóng đèn Điện Quang, sản phẩm đồ chơi, thú nhồi
bông của công ty Chosun International Inc.... tuy nhiên nhìn chung
thì CE vẫn còn khá lạ lẫm với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Chính
vì vậy mà tháng 7 vừa qua, hơn 50 doanh nghiệp Tp. HCM đã dự
hội thoả về nhãn CE và các tiêu chuẩn nhập khẩu của châu Âu do
công ty TUV Rheinland Vietnam tổ chức tại Trung tâm Thông tin
thương mại châu Âu (EBIC) nhằm cung cấp những hiểu biết cơ bản
cho các doanh nghiệp về tiêu chuẩn này.
a. Thực tế áp dụng hệ thống phân tích, xác định và tổ chức
kiểm soát các mối nguy trọng yếu (HACCP) tại các doanh
nghiệp Việt Nam
Với thị trường EU, các yêu cầu về việc thực hiện hệ thống
HACCP được nêu trong Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm của EU
(93/43/EC), đặc biệt đối với các cơ sở chế biến thuỷ sản, HACCP
được nêu trong Chỉ thị 91/493/EEC. Đối tượng áp dụng của những
quy định này là các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thực phẩm,
thuỷ hải sản trong khối Liên minh châu Âu. Bên cạnh đó, để hỗ trợ
cho hoạt động thương mại, nhiều nước thuộc EU cũng xem xét các
hệ thống kiểm soát thực phẩm của những nước xuất khẩu xem hệ
thống an toàn thực phẩm có bảo đảm không, có tương đương với
nước mình không, nhằm đảm bảo chu trình kiểm soát và hạn chế
mối nguy được tiến hành từ khâu đầu đến khâu cuối.
Có thể nói chính yêu cầu khắt khe từ phía thị trường (trước hết
là thị trường EU) là áp lực quan trọng đầu tiên buộc các doanh
nghiệp chế biến thực phẩm và thuỷ sản của Việt Nam phải nâng
cấp điều kiện sản xuất và đến với chương trình quản lý chất lượng
dựa trên cơ sở HACCP. HACCP đã được đưa vào giới thiệu ở Việt
Nam từ tháng 10 năm 1990 và từng bước mở rộng phạm vi ảnh
hưởng (chủ yếu trong ngành thuỷ sản). Việc triển khai áp dụng
quản lý chất lượng theo HACCP ở Việt Nam được tiến hành theo 3
giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: áp dụng thử ở một số doanh nghiệp để đánh giá
và rút kinh nghiệm
+ Giai đoạn 2: Bắt buộc áp dụng đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu vào thị trường EU, Mỹ... Định hướng và khuyến khích áp
dụng HACCP đối với các doanh nghiệp khác.
+ Giai đoạn 3: Bắt buộc áp dụng ở tất cả các doanh nghiệp
chế biến thuỷ sản trong phạm vi cả nước.
Theo tiến trình này, chương trình thử nghiệm quản lý chất
lượng dựa trên HACCP được bắt đầu tại 5 xí nghiệp ở cả ba miền
theo đề tài cấp Nhà nước giai đoạn 1991-1995 mang mã số KN 04-
15 “Nâng cấp chất lượng sản phẩm thuỷ sản đông lạnh”. Hiện nay,
theo yêu cầu của nước nhập khẩu và các quy định của Bộ Thuỷ
Sản, tất cả các doanh nghiệp đăng ký xuất hàng sang EU và Mỹ
đều có kế hoạch HACCP được phê duyệt và áp dụng trên thực tiễn
khá hiệu quả, điều này đã được cơ quan thẩm quyền kiểm soát
chất lượng của các nước nhập khẩu ghi nhận. Tính đến hết năm
2002, khoảng hơn 100 doanh nghiệp đã đăng ký chứng chỉ áp
dụng hệ thống HACCP và sản phẩm của những doanh nghiệp này
chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam [11] . Đây là một bước tiến bộ đáng kể mà các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam đã đạt được dưới sự chỉ đạo của Bộ Thuỷ Sản
nói riêng và các Bộ, ngành, cơ quan của Việt Nam nói chung.
Nhìn nhận một cách khách quan, bên cạnh các thành tựu còn
là những hạn chế mà các doanh nghiệp có nhu cầu xuất hàng sang
EU chưa khắc phục được, đó là:
Thứ nhất, với quan niệm quản lý chất lượng là kiểm tra chất
lượng ở khâu cuối cùng đã ăn sâu vào nếp nghĩ (cụ thể là doanh
nghiệp nào cũng có một bộ phận quản lý chất lượng mang tên
KCS), vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa thích ứng được với việc
chuyển sang quản lý chất lượng ngay từ khâu đầu thông qua việc
theo dõi, phân tích các mối nguy với những biện pháp kiểm soát,
phòng ngừa... Thậm chí đối với các cơ quan kiểm tra chất lượng,
họ coi hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm chỉ là gây phiền
hà, khó dễ cho họ.
Thứ hai, những doanh nghiệp đã nhận thức được sự cần thiết
phải áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACCP (nhận
thức này đương nhiên bắt nguồn từ yêu cầu bắt buộc của các nước
nhập khẩu) tuy đã cố gắng nâng cấp nhằm đạt các yêu cầu tiên
quyết để áp dụng HACCP nhưng một số xí nghiệp lại gặp khó khăn
do thiếu nguồn vốn cần thiết cho việc nâng cấp mặt bằng nhà
xưởng, xử lý nước, trang bị máy sản xuất đá vảy.... Còn nếu tính
trung bình để đầu tư cho một dây chuyền sản xuất mới đạt tiêu
chuẩn HACCP phải cần từ 7-12 triệu USD. Đây là một con số lớn
mà nhiều doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân) còn
e ngại.
Thứ ba, ban giám đốc và cán bộ kiểm soát chất lượng tại phần
lớn xí nghiệp chưa có sự hiểu biết sâu sắc cần thiết về HACCP. Lực
lượng kiểm soát chất lượng có hiểu biết đầy đủ về HACCP còn
mỏng. Việc cung cấp cho công nhân những hiểu biết cơ bản phục
vụ cho chương trình HACCP còn yếu.
Nói tóm lại, thực tế áp dụng HACCP tại các doanh nghiệp Việt
Nam xuất khẩu sang EU đã có nhiều dấu hiệu khả quan. Riêng
trong lĩnh vực thuỷ sản, các doanh nghiệp có tên trong danh sách
xuất hàng vào EU (đến tháng 8/2003 có 100 doanh nghiệp được
phép xuất hàng sang EU [12]) hiện là những doanh nghiệp đi đầu
trong việc xây dựng và áp dụng chương trình quản lý chất lượng
này. Mặc dù vậy, hoàn tất giai đoạn 3 trong kế hoạch chỉ đạo áp
dụng HACCP nói trên nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của hàng
hoá và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong nước vẫn còn là
vấn đề gian nan đối với Việt Nam.
b. Đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo sức khoẻ và an toàn khác
Ngoài những tiêu chuẩn chung về chất lượng như đã nêu ở
trên thì đối với những nhóm hàng riêng biệt, EU lại có các quy định
riêng. Những nhóm sản phẩm chứa đựng nhiều khả năng gây ảnh
hưởng tới sức khoẻ và an toàn của người tiêu dùng nhất là nhóm
hàng nông thuỷ sản, thực phẩm, rau quả, trong đó các quy định về
hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả; kiểm tra thú y đối
với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản; và chất phụ gia trong thực
phẩm được xem là các quy định cơ bản, điển hình nhất.
Trước khi đánh giá khả năng đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh
an toàn thực phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU, hãy
nhìn qua thực trạng quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm
tại thị trường nội địa Việt Nam vì thực trạng này tác động đến thói
quen sản xuất của người Việt Nam, đồng thời ảnh hưởng không
nhỏ đến khả năng cung cấp nguồn hàng cho xuất khẩu:
+ Tình hình quản lý thuốc bảo vệ thực vật [13]: Theo số liệu
thống kê của Cục Bảo vệ Thực vật (BVTV) năm 2002, trên toàn
quốc có 17.679 cửa hàng kinh doanh thuốc BVTV, qua kiểm tra
phát hiện 3.285 cửa hàng vi phạm (18,5%). Các vụ vi phạm bao
gồm: 1.182 trường hợp (35,9%) không đủ điều kiện kinh doanh;
4.111 trường hợp (12,5%) kinh doanh thuốc quá hạn sử dụng, kém
phẩm chất. Kết quả thanh tra năm 2002 của Bộ Nông Nghiệp và
Phát triển Nông thôn cho thấy, trong 6.840 hộ nông dân được kiểm
tra đã phát hiện 151 hộ sử dụng thuốc BVTV đã bị cấm sử dụng,
126 hộ sử dụng ngoài danh mục, 244 hộ không đảm bảo thời gian
cách ly (3,5%), 1.020 hộ sử dụng thuốc không đúng kỹ thuật
(14,9%), 1.105 hộ phun thuốc nhiều lần trong vụ sản xuất (12,6%).
Thuốc nhập lậu ngoài danh mục quản lý, nhãn mác bằng tiếng
nước ngoài vẫn được lén lút lưu hành... Do đó, riêng qua điều tra
tại một số huyện ngoại thành Hà Nội, trong số các rau quả kiểm
nghiệm thì có tới 81% số mẫu có từ một chỉ tiêu trở lên về dư
lượng hoá chất BVTV, cao hơn tiêu chuẩn cho phép của FAO và
WHO... [14]
+ Tình hình quản lý vệ sinh thú y, vệ sinh giết mổ gia súc [13]:
Theo kết quả thanh tra, kiểm tra của Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn năm 2001 ở 43 tỉnh, thành phố với 4.703
cơ sở giết mổ gia súc chỉ có 14,22% cơ sở đạt tiêu chuẩn. Về kiểm
soát giết mổ thú y thì trong 593 cơ sở ở 9 tỉnh, thành phố chỉ có
20,4% cơ sở được kiểm tra. Còn người giết mổ gia súc thì chỉ có
10% được khám và có giấy chứng nhận sức khoẻ.
+ Tình hình ô nhiễm thực phẩm [13]: Qua giám sát của Bộ Y tế
cho thấy, ô nhiễm vi sinh vật dao động từ 10%-100% tuỳ loại thực
phẩm, gặp nhiều nhất là các loại thực phẩm chế bién sẵn. Về ô
nhiễm hoá học, chủ yếu là sử dụng các phụ gia ngoài danh mục,
quá giới hạn cho phép dao động từ 2,2% - 100% tuỳ loại thực
phẩm, gặp nhiều là các loại thực phẩm chế biến sẵn, ăn ngay. Ô
nhiễm kim loại nặng gặp nhiều ở các tươi và rau tươi (16%-60% số
mẫu). Tồn dư thuốc thú y trọng thịt: 45,7%, thuốc BVTV trong thịt:
7,6% và kim loại nặng là 21%.
Điểm qua những con số trên cho thấy nước ta có một nền công
nghiệp thực phẩm lạc hậu, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được
quản lý chặt chẽ, và quan trọng hơn cả là sự thiếu ý thức của
người nuôi trồng, sản xuất thuộc ngành hàng này. Chính vì vậy mà
hàng nông sản, thuỷ sản và thực phẩm ở nước ta lại càng khó có
thể đáp ứng được các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm của
thị trường EU - nơi mà chất lượng cuộc sống luôn được đặt lên
hàng đầu.
Cũng chính bởi sự yếu kém trong khả năng đáp ứng các quy
định về sức khoẻ và an toàn đối với các nhóm hàng nông sản, thuỷ
sản, thực phẩm... nên xuất khẩu sang thị trường EU chủ yếu chỉ
tập trung vào một số mặt hàng như cà phê và một phần không lớn
là cao su và rau quả. Thực phẩm chế biến khó vượt qua rào cản vệ
sinh an toàn thực phẩm của EU; trong chăn nuôi gia súc, gia cầm
và thuỷ sản sử dụng khá phổ biến các chất kháng sinh bị EU cấm
nên thịt gia súc, gia cầm cũng không xuất khẩu được vào EU; còn
các loại quả nhiệt đới và hạt có dầu của Việt Nam như thanh long,
xoài, hạt điều, lạc.... rất được thị trường EU ưa chuộng nhưng thực
trạng sản xuất và trồng trọt chưa tuân thủ quy định hàm lượng
thuốc bảo vệ thực vật tối đa trong rau quả đã khiến nhóm hàng
này chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu
nông sản sang EU.
Tóm lại, khó khăn chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu nông
sản, thuỷ sản, thực phẩm của Việt Nam sang EU là do các nhà sản
xuất và xuất khẩu Việt Nam chưa thực sự cố gắng hoặc chưa đủ
điều kiện vật chất để tuân thủ các yêu cầu về vệ sinh an toàn của
thị trường.
2.2 Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về
môi trường
ý thức về vấn đề môi trường ở các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
còn yếu, môi trường hầu như mới chỉ được các cấp vĩ mô quan
tâm, do vậy khả năng các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
đáp ứng những quy định của EU phụ thuộc nhiều vào luật pháp và
các chính sách bảo vệ môi trường của Nhà nước.
Pháp luật về môi trường của Việt Nam - cơ sở cho việc đáp ứng
các quy định về môi trường của EU của các doanh nghiệp xuất
khẩu
Để đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
bảo vệ môi trường (BVMT) và đối phó với các quy định về môi
trường của các khu vực thị trường phát triển (EU, Mỹ, Nhật Bản...),
nước ta đã ban hành Luật bảo vệ môi trường và một số văn bản
liên quan để áp dụng trong nước (Nghị định, Pháp lệnh Thú y, Pháp
lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thuỷ sản, Thông tư, Quyết
định...). Các quy định pháp luật về môi trường hiện hành đã điều
chỉnh hoạt đồng sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của ta theo
hướng bảo vệ môi trường và có nhiều điểm giống với quy định về
môi trường của EU.
Các yêu cầu của EU về môi trường như: (1) quá trình nuôi
trồng, khai thác, vận chuyển và chế biến hàng nông sản, thuỷ sản
tại Việt Nam không được gây ô nhiễm môi trường; (2) quá trình
tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu tại EU cũng không được gây ô
nhiễm môi trường; (3) những quy định về hàm lượng thuốc trừ sâu
tối đa có trong sản phẩm nông nghiệp, chất phụ gia trong thực
phẩm chế biến, nuôi trồng và khai thác nông thuỷ sản không được
sử dụng các chất kháng sinh bị cấm, vận chuyển động vật thuỷ
sản phải có thiết bị thay nước hiệu quả đảm bảo an toàn cho môi
trường...v..v. có thể thấy trong Luật bảo vệ môi trường của Việt
Nam (điều 14, 16, 19), Nghị định 175-CP hướng dẫn thi hành Luật
bảo vệ môi trường (điều 8), Pháp lệnh thú y, Thông tư số 02/TS-TT
ngày 25/6/1996 của Bộ Thuỷ sản và Dự án Luật Thuỷ sản (Điều 33,
36, 38, 45, 49).
Kể từ sau khi Luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật
liên quan có hiệu lực thi hành, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan
tâm hơn đến công tác bảo vệ môi trường. Nhiều doanh nghiệp lớn
đã trang bị hệ thống xử lý môi trường, nhưng do quản lý Nhà nước
còn kém hiệu quả nên một số doanh nghiệp khác chưa nghiêm túc
thực hiện các quy định này của pháp luật. Chính vì vậy, hiệu quả
xử lý môi trường còn thấp.
Các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường EU cũng rơi vào
tình trạng chung của doanh nghiệp Việt Nam, tức là đa phần chưa
thực hiện tốt các quy định pháp luật môi trường của Nhà nước. Nếu
các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện tốt các quy định pháp luật
môi trường của Nhà nước thì cũng sẽ không gặp mấy khó khăn
trong việc đáp ứng quy định của EU vì các quy định về môi trường
của Việt Nam phần lớn cũng tương tự các quy định về môi trường
của EU.
Tình hình áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000
Mặc dù “môi trường”ở các quốc gia phát triển không còn là
một khuynh hướng nữa mà đã trở thành vấn đề tiêu chuẩn, nhưng
việc áp dụng Hệ thống quản lý môi trường đối với các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam vẫn còn là một vấn đề mới mẻ.
Các chuyên gia cho
rằng ở nước ta hiện
nay vẫn đang trong
quá trình phân tích các
lợi ích của ISO 14001
trong mối quan hệ với
kết quả hoạt động
kinh doanh bởi trong
thực tế, đảm bảo môi
trường với những chi phí không nhỏ có thể trở thành các rào cản
thương mại đối với việc xuất khẩu. Tuy nhiên, Chính phủ và các
ban ngành đã có những chỉ đạo và hỗ trợ tích cực, tạo điều kiện
cho việc bước đầu phát triển hệ thống tại Việt Nam. Biểu đồ 4 cho
thấy từ năm 1998 mới có 2 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14001,
đến nay đã có hơn 30 doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý môi
trường ISO 14000 và có chứng chỉ [15]. Đây là một con số đáng
khích lệ, nhưng nếu so sánh với các nước phát triển (thuộc khối EU
và ngoài EU) hoặc chỉ cần với một số nước trong khu vực ta đã
thấy có sự chênh lệch lớn, qua bảng 7 dưới đây:
02
9 9
33 33
05
101520253035
Số
lư
ợn
g D
N
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tính đến hết năm
Biểu đồ 4: Số lượng các doanh nghiệp Việt Nam đạt chứng chỉ ISO 14001 tính đến hết năm 2002
Bảng 7: Số Doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14001 tại một số nước
12/1997 12/1998 12/1999 12/2000 12/2001 12/2002
Nhật Bản 713 1.542 3.015 5.556 8.123 10.620
Đức 352 651 962 1.260 3.380 3.700
Tây Ban Nha 92 164 573 600 2.064 3.228
Anh 644 921 1.492 2.534 2.722 2.917
Trung Quốc 22 94 222 510 1.085 2.803
Thailand 61 126 229 310 483 671
Singapore 65 78 87 100 298 441
Malaysia 36 86 117 174 367 367
Indonesia 45 55 55 77 199 229
Philippines 11 27 39 46 120 124
(Nguồn: Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org - 2003)
Một điều khác cũng đáng chú ý là hầu hết các doanh nghiệp
Việt Nam đạt chứng chỉ ISO 14001 đều là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Chỉ một số ít doanh nghiệp trong nước như
Công ty Vật tư và bảo vệ thực vật I, Công ty May 10, Công ty Giày
Thuỵ Khuê... có được chứng chỉ trên. Qua đó cũng nói lên rằng
phần đông các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang EU
chưa có chứng chỉ ISO 14001. Sở dĩ có điều này vì nhận thức của
các doanh nghiệp về hệ thống quản lý môi trường còn chưa cao,
hơn thế nữa khi chọn và áp dụng ISO 14000, các doanh nghiệp
cũng còn gặp nhiều khó khăn cả về bộ máy nhân sự lẫn trình độ
công nghệ (công nghệ trong vấn đề xử lý môi trường) và đặc biệt
là khó khăn về tài chính. Chi phí áp dụng một hệ thống quản lý môi
trường theo ISO 14000 khoảng 150 triệu đồng trở lên trong khi
việc áp dụng này chưa thể đem về ngay lợi nhuận. Nhiều nhà quản
lý doanh nghiệp đã lúng túng khi cân nhắc có nên đầu tư chiều
sâu, phát triển bền vững bằng cách chọn và áp dụng ISO 14000
hay không. Và trong sự cân nhắc đó, nhiều vị lãnh đạo chưa chắc
đã nhận ra được những thuận lợi.
Bao bì, phế thải bao bì và nhãn hiệu sinh thái (Eco-label)
Vấn đề bao bì và phế thải bao bì mới chỉ bắt đầu được các
doanh nghiệp Việt Nam quan tâm. Các nhà sản xuất cho rằng tiêu
chuẩn về bao bì và đóng gói ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh
của hàng hoá, đặc biệt là hàng xuất khẩu và tán thành việc áp
dụng các tiêu chuẩn môi trường về nguyên liệu đóng gói. Tuy
nhiên, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu mới chỉ
quan tâm đến vấn đề bao bì bởi chất lượng bao bì ảnh hưởng đến
giá cả và thị hiếu tiêu dùng của thị trường xuất khẩu, mà chưa
quan tâm đến khía cạnh môi trường (bao bì dễ thu gom, dễ tái
chế). Một thực tế khá phổ biến hiện nay, rất ít doanh nghiệp xuất
khẩu sang thị trường EU có được thông tin về quy định bao bì và
phế thải bào bì của EU. Từ trước tới nay, đa phần các doanh
nghiệp của ta đóng gói và sử dụng bao bì theo yêu cầu của đối tác
EU, chứ chưa hề hiểu quy định bao bì và phế thải bao bì của EU cụ
thể là như thế nào.
Mặc dù vậy, thực tế cho thấy là chưa có một trường hợp nào
các lô hàng xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại do bao bì không phù
hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường. Có thể do hầu hết hàng xuất
khẩu của Việt Nam được đóng gói trong những loại bao bì đơn giản
như thùng carton, bao PE (tại EU, bao PE cũng đang là vấn đề cần
khắc phục)... nên các doanh nghiệp xuất khẩu không vi phạm quy
định bao bì và phế thải bao bì của EU. Tuy nhiên, với mối quan tâm
ngày một gia tăng của EU đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi
trường, đồng thời xu hướng bảo hộ thương mại bằng hàng rào kỹ
thuật khắt khe và nghiêm ngặt, các doanh nghiệp Việt Nam cần
nhanh chóng nắm bắt và hiểu rõ hơn nữa các yêu cầu cụ thể của
EU đối với bao bì và phế thải bao bì để có các biện pháp ứng phó
thích hợp.
Tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái cho sản phẩm ít được các
nhà sản xuất cũng như các nhà quản lý quan tâm. Kết quả khảo
sát ở một số doanh nghiệp chế biến hàng nông sản xuất khẩu cho
thấy họ biết rất ít hoặc không biết về tiêu chuẩn này của EU, đặc
biệt là yêu cầu dán nhãn cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ [16, tr
66]... Đây là khái niệm khá mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp chế
biến nông sản xuất khẩu Việt Nam sang EU. Hơn nữa, sản xuất
nông nghiệp hữu cơ là một phương pháp sản xuất mới, mới được
áp dụng ở nước ta trên phạm vi hẹp.
Việc tuân thủ các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có
liên quan đến bảo vệ môi trường
Như đã nêu ở Chương I, mục III.4, một số quy định của EU về
an toàn vệ sinh thực phẩm (như quy định hàm lượng thuốc trừ sâu
tối đa trong rau quả, kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm,
thuỷ sản và quy định chất phụ gia trong thực phẩm...) được đưa ra
cũng nhằm mục đích bảo vệ môi trường. Cụ thể, một số hoá chất
như thuốc bảo vệ thực vật, chất phụ gia, kháng sinh... được sử
dụng trong quá trình nuôi trồng rau quả, gia súc, gia cầm, thuỷ
sản và chế biến thực phẩm sau khi thải ra sẽ gây ô nhiễm môi
trường không chỉ ở nước sản xuất mà còn đối với nước nhập khẩu.
Theo phân tích trong Chương II, mục I.2.2.1, các doanh nghiệp
Việt Nam vẫn còn rất yếu kém trong khả năng đáp ứng các yêu
cầu về vệ sinh an toàn của thị trường, vì vậy cũng có thể coi là
chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường. Để vượt qua rào
cản này, chúng ta cần sự nỗ lực lớn từ cả hai phía Nhà nước và
doanh nghiệp.
2.3 Thực trạng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn
về trách nhiệm xã hội:
Trong những năm qua, chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế
của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện, thúc đẩy tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra với tốc độ ngày càng
nhanh, mạnh. Tiến trình này mang lại cho các doanh nghiệp Việt
Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức cùng với những “luật
chơi”mới, mà một trong số đó là “trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp”. Tại Việt Nam, khái niệm này vẫn còn rất lạ lẫm, mới mẻ,
chưa được nhiều tổ chức và cá nhân biết đến mà mới chỉ được giới
thiệu chủ yếu trong 2 ngành dệt may và sản xuất giày dép xuất
khẩu với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000. Cho đến nay, SA
8000 là tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội duy nhất được cấp chứng
chỉ tại Việt Nam mặc dù trên thực tế có rất nhiều bộ tiêu chuẩn
trách nhiệm xã hội khác cho các doanh nghiệp lựa chọn.
Dở dĩ có hiện tượng như vậy là vì sau khi Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ có hiệu lực, một chiến dịch quảng bá cho SA 8000 đã được
tung ra rầm rộ, trước hết nhằm vào các cơ sở sản xuất kinh doanh
sử dụng nhiều lao động như dệt may và giày dép. Tính đến hết
tháng 9/2003, tại Việt Nam đã có 23 doanh nghiệp đạt được chứng
chỉ này, trong đó có 17 doanh nghiệp dệt may xuất khẩu, 2 doanh
nghiệp sản xuất giày dép, túi xách, vali, 4 doanh nghiệp còn lại
hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất hoá chất, giấy, đồ chơi, và
phụ kiện cho ngành công nghiệp tự động. 23 doanh nghiệp này
chiếm 8,1% tổng số doanh nghiệp đạt chứng chỉ SA 8000 trên thế
giới [17]. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã rất
nhanh chân trong hoạt động xin cấp chứng chỉ về trách nhiệm xã
hội.
Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam có những luồng ý kiến trái
chiều về bộ tiêu chuẩn SA 8000. Nhiều người cho rằng “hiện tiêu
chuẩn SA 8000 là một trong 3 tiêu chuẩn (ISO 9000, ISO 14000, SA
8000) được xem là bắt buộc để các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu hàng (đặc biệt là hàng dệt may) sang thị trường Mỹ và châu
Âu. Một trong những nguyên nhân khiến các doanh nghiệp dệt
may, da giày Việt nam không xuất khẩu trực tiếp được vào Mỹ là
do không có chứng chỉ SA 8000” [18]. Một số công ty dệt may phản
ánh nhiều đối tác nước ngoài sang làm ăn đề nghị họ phải xây
dựng hệ thống tiêu chuẩn SA 8000, do đó “Tổng công ty Dệt may
Việt nam đã đề nghị các đơn vị thành viên xem xét, nghiên cứu và
tìm cách có được SA 8000, đồng thời phấn đấu đến hết năm 2003,
ít nhất tất cả các doanh nghiệp làm hàng dệt may xuất khẩu sẽ có
chứng chỉ này” [18]. Cũng giống như ngành dệt may, nhiều doanh
nghiệp da giày trong cả nước đang tất bật chuẩn bị để có chứng
chỉ SA 8000 vì họ cho rằng, ngay cả những hãng nổi tiếng thế giới
như Adidas, Nike... cũng đang áp dụng hệ thống đó.
Bên cạnh các ý kiến ủng hộ cho SA 8000 cũng có những ý kiến
trái ngược, cho rằng các doanh nghiệp không nhất thiết phải có
chứng chỉ này vì những tiêu chuẩn này về cơ bản đã có trong quy
định của bộ luật Lao động Việt Nam - khi chưa có chứng chỉ SA
8000 thì các doanh nghiệp cũng phải tuân theo - đồng thời SA
8000 không thể thay thế việc tìm hiểu đánh giá riêng của các công
ty nước ngoài với doanh nghiệp. Hơn nữa, để có được chứng chỉ
này, các doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí khá tốn
kém, có thể ảnh hưởng đến lợi ích kinh doanh.
Trước những mâu thuẫn nói trên, điều quan trọng đối với các
doanh nghiệp xuất khẩu là cân nhắc kĩ càng cả chi phí và lợi ích
mà chứng chỉ SA 8000 mang lại, căn cứ vào những thực tế dưới
đây:
Thứ nhất, SA 8000 chỉ là một trong những bộ tiêu chuẩn trách
nhiệm xã hội của một công ty tư nhân có tên là Social
Accountabilities International (SAI) của Mỹ ban hành từ năm 1997
và nó đang được công ty này cố gắng xây dựng uy tín. Tại Mỹ cũng
như nhiều nước khác, chứng chỉ SA 8000 chưa được phổ biến rộng
rãi. Theo số liệu của SAI , tính đến ngày 30/9/2003 mới chỉ có 258
cơ sở sản xuất trên toàn thế giới có chứng chỉ SA 8000, trong đó: [17]
+ Mỹ: 2 chứng chỉ (chiếm 0,7%) + Thuỵ Sĩ: 3 (1,1%)
+ Pháp: 5 (1,8%) + Đức: 1 (0,4%)
+ Tây Ban Nha: 5 (1.8%) + Bỉ: 1 (0,4%)
+ Anh: 3 (1,1%) + Phần Lan: 1 (0,4%)
Thứ hai, các điều khoản chủ yếu trong SA 8000 về cơ bản cũng
được quy định trong Bộ luật Lao động (Phụ lục 6) của Việt Nam
nên các doanh nghiệp nếu không xin chứng chỉ cũng phải áp dụng.
Mặt khác, khi áp dụng SA 8000, các doanh nghiệp sẽ gặp phải một
số khó khăn như:
+ Quy định giờ làm thêm không quá 12 giờ/tuần gây khó khăn rất nhiều
cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành dệt, da, may mặc.
+ Hiện nay, mức lương tối thiểu áp dụng cho các doanh nghiệp tư nhân
(100% vốn Việt Nam) và nhà nước là 290.000đ/tháng, hay các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài là khoảng 45 USD/tháng. Tuy vậy, mức lương 290.000đ/tháng
lại không đáp ứng được yêu cầu của SA 8000. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp (theo
công ty SGS Vietnam Ltd., thì có khoảng 50% số các doanh nghiệp được điều tra)
còn không bảo đảm được mức lương này cho người lao động [19].
+ Hiện tại, về vấn đề an toàn và sức khoẻ Luật lao động Việt Nam và các
quy định bổ sung của Việt Nam rất hay, lý tưởng, nhưng để áp dụng đúng với các
quy định này thì rất hiếm các doanh nghiệp đạt được (ví dụ quy định về Phòng cháy
chữa cháy...)
+ Việc kiểm soát các nhà cung cấp: Đây là một khó khăn lớn nhất và khó
vượt qua của các doanh nghiệp khi xây dựng và áp dụng SA 8000. Vì nhận thức của
xã hội nói chung còn hạn chế nên việc các doanh nghiệp yêu cầu các nhà cung cấp
của mình cam kết tuân thủ theo các yêu cầu của SA 8000 là một điều hết sức khó
khăn, đôi khi còn làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thứ ba, chi phí để có được chứng chỉ SA 8000 khá lớn, trên
dưới 10.000 USD cho nhà tư vấn đánh giá, thẩm định, chưa kể phí
duy trì thường xuyên vì theo nguyên tắc SA 8000 chỉ có hiệu trong
3 năm, sau đó doanh nghiệp muốn xin cấp lại thì phải làm thủ tục
lại từ đầu [20]. Đồng thời, chứng chỉ này không cấp cho công ty mà
chỉ cấp cho cơ sở sản xuất, nghĩa là một công ty nếu có 10 cơ sở
sản xuất thì sẽ phải mua 10 chứng chỉ.
Thứ tư, có chứng chỉ SA 8000 sẽ là một lợi thế cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, tuy nhiên, các đối tác EU (và Mỹ) không đòi hỏi
doanh nghiệp phải trình diện chứng chỉ này. Chứng chỉ SA 8000
không thay thế được việc các doanh nghiệp nhập khẩu nước ngoài
tự kiểm tra đánh giá thực tế việc thực hiện trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Ngay cả với thị trường Mỹ (thị
trường mà nhiều người cho rằng yêu cầu về chứng chỉ SA 8000
hiện là vấn đề bức xúc) thì theo lời bà phó chủ tịch Hiệp hội Dệt
may và Da giày Mỹ: “các doanh nghiệp Mỹ khi làm ăn với đối tác
Việt nam quan tâm chủ yếu tới chất lượng, giá cả và thời gian giao
hàng. Chứng chỉ SA 8000 khiến doanh nghiệp được đánh giá cao
hơn nhưng đó không phải là điều kiện bắt buộc để xuất hàng sang
Mỹ. Khi quyết định làm ăn với doanh nghiệp nào, chúng tôi sẽ sang
thẩm định tình hình thực tế tại công ty. Nếu bạn có bất cứ chứng
chỉ nào trong tay, nhưng khi chúng tôi đến kiểm tra thấy điều kiện
lao động của nhà xưởng tồi tàn, lao động bị đối xử không tốt... thì
tất cả chỉ là con số 0. Vì thế, có chứng chỉ hay không là không
quan trọng.” [18]
VI. Đánh giá thực trạng của một số ngành xuất khẩu chủ
yếu của Việt Nam sang EU dưới tác động của các quy định/
tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội.
Theo nhận định ở Chương II, mục I.1, khoảng 80% kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang EU rơi vào một ngành hàng chính
như giày dép, dệt may, nông sản, sản phẩm làm từ da thuộc, thuỷ
sản, đồ gỗ, đồ gốm sứ, đồ... trong đó giày, dép, dệt may, nông sản
và thuỷ sản là 4 nhóm hàng xuất khẩu cơ bản, hàng năm đem về
một khối lượng ngoại tệ đáng kể cho Việt Nam. Mặc dù trong
những năm gần đây, do sự sụt giá trên thế giới và các quy định
ngặt nghèo từ phía EU mà kim ngạch xuất khẩu sang EU của hai
ngành hàng nông sản và thuỷ sản giảm, song tiềm năng xuất khẩu
của hai ngành này vẫn rất lớn nếu chúng ta vượt qua được những
trở ngại trên. Trong giới hạn của khoá luận, xin được đánh giá thực
trạng của 4 ngành xuất khẩu chính này dưới tác động của các tiêu
chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội.
Cũng cần lưu ý rằng, hai ngành dệt may và giày dép là hai
ngành công nghiệp nhẹ, xuất khẩu chủ yếu dưới dạng gia công cho
đối tác EU vì tận dụng được ưu thế lao động rẻ. Vì vậy, các quy
định về chất lượng và trách nhiệm xã hội có tác động trực tiếp
nhất đến năng lực xuất khẩu của hai ngành này. Trong khi hàng
nông sản và thuỷ sản xuất khẩu, do tính chất đặc trưng là ảnh
hưởng lớn đến sức khoẻ, an toàn của người tiêu dùng đồng thời
quá trình nuôi trồng và chế biến có thể gây tác động xấu đến môi
trường, nên chủ yếu được đánh giá khả năng đáp ứng các tiêu
chuẩn về chất lượng và môi trường.
1. Hàng giày dép
1.1 Tình hình xuất khẩu giày dép sang EU từ 1995-
nay
Ngành công nghiệp giày dép ở Việt nam kể từ 10 năm nay đã
và đang trên đà phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng.
Hiện tại, đây là một trong những ngành mang lại nguồn ngoại tệ
chính cho quốc gia. Kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam lớn
thứ tư trên thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc, Hồng Kông, và Italia.
Cũng trong những năm qua, EU là thị trường nhập khẩu hàng
giày dép của Việt Nam lớn nhất. Giày dép Việt Nam trước kia phải
xin phép trước khi xuất khẩu sang EU, nhưng kể từ sau hiệp định
khung hợp tác năm 1995, nhóm hàng này được nhập khẩu tự do
vào EU. Chính vì vậy mà kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt
Nam sang EU kể từ đó tăng nhanh, năm 1995 đạt 481,3 triệu USD,
1996: 664,6 triệu USD, 1997: 1.032,3 triệu USD (mỗi năm gấp rưỡi
năm trước). Vào năm 1998, tuy xuất khẩu giày dép cũng chịu ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực nhưng vẫn
tiếp tục tăng và đạt 1.043,1 triệu USD, đến năm 1999 đạt 1.310,5
triệu USD và năm 2000 lên tới 1.683,5 triệu USD, vượt xa mặt
hàng dệt may đã từng giữ vị trí thống soái trong thời kỳ 1992-
1995. Năm 2001 và 2002, kim ngạch xuất khẩu giày dép tiếp tục
tăng (tuy tốc độ tăng trưởng thấp hơn các năm trước), đạt mức
trung bình trên dưới 1,7 tỷ USD/năm [21]. Theo số liệu gần đây nhất
của LEFASO, xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2003 đạt khoảng 900
triệu USD, trong đó xuất sang EU chiếm 80%, tức đạt khoảng 720
triệu USD - tăng 23% so với cùng kỳ năm 2002 [22].
Giá trị xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU chiếm chừng
79% tổng giá trị xuất khẩu của ngành, 21% còn lại xuất khẩu sang
khoảng 40 nước và khu vực thị trường khác trong đó có Mỹ và
Nhật Bản [21]. Qua đó có thể thấy thị trường EU đóng vai trò vô
cùng quan trọng đối với ngành hàng này. Những nước nhập khẩu
chính gồm Anh, Đức, Pháp, Bỉ và Hà Lan.
Nếu xét trong thị trường EU, Việt Nam là một trong năm nước
có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở đây do giá rẻ, chất
lượng và mẫu mã chấp nhận được với loại sản phẩm chủ yếu là
giày thể thao. Năm 1996, EU chính thức thông báo Việt Nam đứng
thứ 3 (sau Trung Quốc và Indonesia) trong số các nước xuất khẩu
giày dép nhiều nhất vào EU, với số lượng 92,8 triệu đôi. Đến nay,
Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 2 (chỉ sau Trung Quốc) về xuất
khẩu giày dép sang EU [21].
Các sản phẩm giày dép của Việt Nam xuất sang EU chủ yếu là
giày thể thao, chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu giày dép của
Việt Nam sang thị trường này, giày vải gần 20%, giày nữ xấp xỉ
15%, dép khoảng 17% và giày da hơn 1,5% [23].
Tuy kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU tăng
nhanh, nhưng có đến 70% kim ngạch là hàng gia công với giá trị
gia tăng rất thấp, vì thế hiệu quả thực tế rất nhỏ (25%-30% tổng
doanh thu xuất khẩu) [23].
1.2 Năng lực sản xuất và khả năng đáp ứng các tiêu
chuẩn của EU
Năng lực sản xuất giày dép của Việt Nam:
Hàng năm chỉ có khoảng 7- 8 triệu đôi giày dép da và 30 triệu
đôi giày nữ, giày vải, giày thể thao... được tiêu thụ trong nước [24,tr.12]. Vì thế hoạt động sản xuất và cơ cấu sản xuất các mặt hàng
giày dép của ta đều nhằm vào đáp ứng cầu của thị trường nước
ngoài. Tuy nhiên, những mặt hàng giày dép đòi hỏi nguyên vật liệu
cao cấp, độ tinh xảo lớn, kỹ thuật phức tạp (như giày da), chúng ta
lại không có khả năng cung cấp. Do vậy, sản lượng giày dép Việt
Nam chủ yếu gồm giày thể thao và giày vải. Lượng giày ra xưởng
mỗi năm ngày một tăng, đặc biệt là sau năm 1998 (bảng 8).
Bảng 8: năng lực sản xuất giày dép của việt Nam theo chủng loại
Đơn vị: triệu đôi
Chủng loại Đến năm 1998 1999 2000 2001 2002
1. Giày thể thao 204,39 108,70 126,47 138,30 145,42
2. Giày vải 57,28 37,27 34,08 37,79 39,16
3. Giày nữ 44,45 43,26 54,71 69,50 75,58
4. Các loại khác 56,610 51,58 75,22 76,43 79,27
Tổng số: 362,72 240,81 290,48 322,02 339,43
(Nguồn: Thống kê của Hiệp hội da giày Việt Nam LEFASO1999-2002 - www.lefaso.org.vn)
Với sản lượng cao như vậy, Việt Nam hiện nay đứng hàng thứ 8
trên thế giới về sản xuất giày dép [21], nhưng so với năng lực thực
tế thì giày vải chỉ đạt 60,57% công suất, giày thể thao đạt 67,5%
công suất, giày nữ đạt 80,7% công suất [24,tr.18]. Đồng thời, sản
lượng này tập trung vào giày thể thao gia công xuất khẩu nên hiệu
quả sản xuất và xuất khẩu chưa cao. Các loài giày dép hợp thời
trang, chất lượng cao vẫn do các nhà sản xuất châu Âu chiếm lĩnh
như Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... Điều cần thiết cho các
doanh nghiệp sản xuất giày của Việt Nam là dần chuyển đổi định
hướng sản xuất để sớm bắt kịp với trình độ của thế giới.
Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng:
Do tính chất của giày dép là mặt hàng tiêu dùng cá nhân phụ
thuộc rất nhiều vào thị hiếu và xu thế mốt, nên khó có thể đặt ra
những tiêu chuẩn chung cho các sản phẩm này. Tại thị trường EU
cũng như ở Việt Nam, tiêu chuẩn quốc gia cho giày dép chung
chung rất ít (ví dụ như ngành giày ở Việt Nam chỉ đưa ra 3 tiêu
chuẩn Việt Nam cho giày vải xuất khẩu, đó là các tiêu chuẩn TCVN
1677-86 về “Yêu cầu kỹ thuật”, TCVN 1678-86 về “Phương pháp
thử”và TCVN 1679-75 về “Bao gói, ghi nhãn, vận chuyển và bảo
quản”). Vì thế, việc đánh giá chất lượng chủ yếu được tiến hành
theo từng lô hàng trên cơ sở phù hợp với mẫu đặt gia công. Khả
năng gia công sao cho các lô hàng đạt yêu cầu giống mẫu phụ
thuộc nhiều vào trình độ lành nghề của công nhân, trình độ máy
móc thiết bị, công nghệ, năng lực quản lý chất lượng sản phẩm...,
vì vậy bức tranh tổng quát chứa đựng các yếu tố này (đã nêu ở
trên) có thể toát lên khả năng đáp ứng các yêu cầu về chất lượng
của EU đối với giày dép gia công xuất khẩu:
- Năng lực sản xuất nguyên vật liệu, phụ liệu cho ngành giày:
Trong giá thành sản phẩm của ngành hiện nay, giá trị nguyên
vật liệu chiếm tới 70- 80%. Thế nhưng năng lực sản xuất nguyên
vật liệu ngành giày ở Việt Nam hiện nay lại rất yếu, là một trong
những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam bị lệ
thuộc vào đối tác nước ngoài.
+ Đế giày: Các loại đế giày thể thao, đế dép và đế giày nữ có
giá trị cao (giày da) đi từ cao su biến tính, từ PU hay TPU, đế rời
EVA đều phải nhập chủ yếu của Nhật Bản, Đài Loan... mà hiện nay
do đối tác nước ngoài cung cấp.
+ Các phụ liệu khác: Việt Nam mới chỉ có thể sản xuất các loại
vải làm lót giày thể thao và dép đi trong nhà. Để sản xuất những
đôi giày cao cấp, Việt Nam vẫn phải nhập vải của nước ngoài. Vải
dệt dùng trong công nghiệp giày, đồ da trong nước mới đáp ứng
được 25% nhu cầu [24,tr.21]. Da thuộc để làm hàng xuất khẩu gần
như hoàn toàn nhập ngoại.
Tại Việt Nam chưa hình thành các công ty quốc doanh chuyên
cung ứng tổng hợp nguyên phụ liệu cho ngành giày. Các doanh
nghiệp tư nhân trong nước mới chỉ sản xuất các phụ liệu có vốn
đầu tư nhỏ như dệt mark, in mark, khoen tán, dây giày, sản xuất
bao bì.... Các phụ liệu khác như keo dán, chỉ may, khuy khoá, các
vật liệu trang trí, pho mũi, pho hậu, chất trau chuốt, dung môi đều
phải nhập ngoài [24,tr.21].
Với phom giày, trừ Công ty giày Thượng Đình tự thiết kế phom
cho giày vải và một số công ty khác sao chép phom của nước
ngoài, còn lại phần lớn các doanh nghiệp gia công khác thì đối tác
trung gian nước ngoài cung cấp phom [24,tr.21].
- Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị:
Do những hạn chế về trình độ quản lý, về khả năng tài chính
và trình độ tay nghề của lực lượng lao động, hầu hết các dây
chuyền và máy móc để sản xuất giày hiện nay nhập của Hàn Quốc
và Đài Loan theo công nghệ băng tải dài, tốc độ chậm và ít kết hợp
nhiều nguyên công trên một đầu máy.
Thiết bị trong công đoạn pha cắt nguyên liệu thuộc loại trung
bình tiên tiến của khu vực, chủ yếu sử dụng máy chặt thuỷ lực khổ
rộng, máy lạng, máy in các loại của Đài Loan và Hàn Quốc được
chế tạo từ 5- 15 năm trở lại đây[24,tr.26]. Thiết bị trong công đoạn
may ráp cũng đều chủ yếu của Đài Loan và Hàn Quốc chế tạo từ 5-
10 năm trở lại đây, có tuổi thọ thấp. Mới chỉ có một số công ty có
sử dụng máy may của Nhật Bản có bộ phận cắt chỉ tự động, may
xén lót tự động, máy may vi tính để nâng cao chất lượng sản phẩm
và năng suất lao động [24,tr.27]. Thiết bị trong công đoạn gò ráp: các
máy gò, máy ép, máy phun đúc... chủ yếu của Đài Loan và Hàn
quốc [24,tr.27]. Công đoạn hoàn thiện được thực hiện hoàn toàn bằng
thủ công. Các thiết bị kiểm tra thì còn thiếu về số lượng, sơ sài và
lạc hậu về chủng loại (trừ một số doanh nghiệp lớn và liên doanh)
nên sản phẩm làm ra chỉ được kiểm tra bằng phương pháp cảm
quan.
- Công tác quản lý chất lượng sản phẩm:
Trong ngành giày dép, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia như đã
nói hầu như không có gì, còn hệ thống tiêu chuẩn ngành cũng
chưa được kiện toàn. Đa số các cơ sở sản xuất giày chưa có điều
kiện và trang thiết bị để đo lường kiểm nghiệm tiêu chuẩn chất
lượng cho sản phẩm, việc kiểm tra, nghiệm thu giày xuất khẩu
theo sự đánh giá cảm nhận của các cán bộ kiểm tra có kinh
nghiệm nghề nghiệp. Do đó, khâu kiểm tra kỹ thuật, kiểm tra chất
lượng sản phẩm đang phụ thuộc nhiều vào phía đối tác nước ngoài
và lợi thế cũng thuộc về họ. Hiện nay mới chỉ có 9 doanh nghiệp
đã thực hiện và được cấp chứng chỉ ISO 9000, gồm : công ty giày
Thượng Đình, Bình Tiên, Hiệp Hưng, Thuỵ Khuê, công ty cổ phần
may thêu giày dép WEC Sài gòn, công ty dệt may và giày An
Phước, công ty da giày Hà Nội, công ty da giày Sagoda [25]. Qua đó
có thể thấy rằng công tác quản lý chất lượng sản phẩm chưa được
các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép của ta quan tâm đúng mức,
các doanh nghiệp còn đang ở thời kỳ học hỏi và thụ động, phụ
thuộc vào sự giám sát của đối tác nước ngoài.
Tóm lại, với hiện trạng trên, khả năng giày dép xuất khẩu của
Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng của thị trường EU
chắc chắn còn chưa cao. Mặc dù Việt Nam xếp thứ 2 trong số các
nước xuất khẩu giày dép vào thị trường EU nhưng xuất khẩu của ta
phụ thuộc lớn vào đối tác nước ngoài về gần như mọi mặt: nguyên
nhiên liệu, máy móc, kiểu dáng thiết kế... nên điều đó chưa nói lên
năng lực thực tế của các doanh nghiệp.
Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
Theo đánh giá của tổ chức BVQI Việt Nam tại hội thảo “An sinh
xã hội - SA 8000 & OHSAS 18001”, hầu như ở tất cả các doanh
nghiệp sản xuất giày dép của Việt nam đều đã thực hiện một số
yêu cầu về quản lý sức khoẻ và an toàn nghề nghiệp, ví dụ như
ban hành chính sách an toàn và sức khoẻ, một số các biện pháp để
kiểm soát an toàn trong công việc như đào tạo an toàn lao động,
thực hiện kiểm tra an toàn lao động, hoặc tổ chức khám chữa bệnh
nghề nghiệp định kỳ. Tuy nhiên, đấy là những công việc cơ bản, có
thể nói là tự phát hay chỉ để đáp ứng những yêu cầu cơ bản của bộ
luật lao động và tất nhiên, đó chưa thể coi là một hệ thống
“sống”thực hiện trong một hệ thống quản lý hoàn chỉnh đầy đủ.
Điều đáng mừng là vài năm gần đây, nhờ có các cuộc hội thảo
giới thiệu đề tài trách nhiệm xã hội (đặc biệt là giới thiệu tiêu
chuẩn SA 8000) do Hiệp hội da giày Việt Nam (LEFASO) tổ chức mà
các doanh nghiệp da giày cũng đã nhận thức được trách nhiệm
của mình đối với người lao động nói riêng và xã hội nói chung. Vì
thế mà cùng với ngành dệt may và chỉ đạo từ phía trên, nhiều
doanh nghiệp giày dép xuất khẩu của Việt Nam hiện đang rục rịch
chuẩn bị để có được chứng chỉ SA 8000. Tính đến 30/9/2003, trong
23 doanh nghiệp Việt Nam có chứng chỉ SA 8000 mới có một
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất giày dép, đó là
công ty Legamex [17]. Tuy nhiên để có được chứng chỉ này đối với
các doanh nghiệp sản xuất giày dép hoàn toàn không đơn giản.
Nguyên nhân là họ chưa đủ tiêu chuẩn về nhà xưởng, điều kiện lao
động để áp dụng. Thêm vào đó, quan niệm sai lệch coi SA 8000
như một yêu cầu tất yếu để thâm nhập thị trường Mỹ và EU cũng
đang gây ra tâm lý bất ổn cho các doanh nghiệp một cách không
cần thiết.
2. Hàng dệt may
2.1 Tình hình xuất khẩu dệt may sang EU từ 1995-
nay
Cho đến nay, dệt may vẫn là ngành hàng xuất khẩu có kim
ngạch lớn thứ hai của Việt Nam sang EU. Kể từ khi Hiệp định buôn
bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết năm 1992, kim
ngạch xuất khẩu dệt may không ngừng tăng lên với tỷ lệ bình
quân là 40%/năm thời kỳ 1993- 2000 [26, tr.180]. Đây cũng được xem
như là bước phát triển nhảy vọt đưa hàng dệt may Việt Nam xâm
nhập vào thị trường dệt may thế giới. Sang năm 2001 và 2002,
tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU lại liên tiếp giảm, chỉ
đạt mức 634 triệu USD và 608 triệu USD (tăng trưởng âm). Năm
2003, xuất khẩu 6 tháng đầu năm sang EU đạt trên 208,2 triệu
USD, tiếp tục giảm 23% so với cùng kỳ [27]. Sở dĩ có hiện tượng như
vậy vì sau khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết, thị trường
Mỹ với các yêu cầu về chất lượng và mẫu mã đơn giản hơn, đa
dạng hơn đã mở ra một hướng đi mới cho hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam.Tuy nhiên điều này không có nghĩa là thị trường EU
mất đi tầm quan trọng của nó. Kể từ tháng 8 năm 2003, với sự
kiện EU tăng thêm hạn ngạch dệt may cho các doanh nghiệp Việt
Nam, hoạt động xuất nhập khẩu của ngành sang EU được dự báo
là sẽ dần nóng lên.
Bảng 9: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang eu
Đơn vị: Triệu USD
Năm Xuất khẩu vào EU Tăng (%)
1995 355
1996 428 20,6
1997 460 7,5
1998 546 18,7
1999 605 10,8
2000 650 7,4
2001 609 - 6,3
2002 560 - 8,1
2003 (6 tháng đầu năm) 208 - 23% so với cùng kỳ năm 02
(Nguồn: Bộ Thương mại và Tổng cục Hải Quan)
Thị trường EU hiện chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam. Thế nhưng nếu nhìn từ phía EU, thì Việt
Nam chỉ là nhà xuất khẩu lớn thứ 16 và chiếm 0,5% kim ngạch
nhập khẩu của EU. Trong đó, Đức là nước nhập khẩu hàng dệt may
của Việt Nam lớn nhất, chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu, bỏ xa
các nước khác như Pháp (14%), Hà Lan (12%), Italia (9%),...[26, tr.180]
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, các sản phẩm chủ lực chiếm tới
70% giá trị kim ngạch là những hàng quen làm, dễ thu lợi nhuận
như: áo Jacket (51,7%), áo sơ mi (11%), quần âu (5%), áo len và áo
dệt kim (3,9%), T-shirt và Polo shirt (3,4%). Các sản phẩm có yêu
cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam vẫn chưa sản
xuất được, hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ [26, tr.180].
Cũng giống như mặt hàng giày dép, hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam vào thị trường EU chủ yếu theo hình thức gia công
(chiếm tỷ trọng gần 80%), tức là nhà nhập khẩu EU đặt hàng với
một bên trung gian (các nước Đông á như Đài Loan, Hồng Kông...),
sau đó những nước này cung cấp nguyên vật liệu, máy móc, thậm
chí cả chuyên gia và phương tiện quản lý cho các doanh nghiệp
Việt Nam gia công. Vì thế mà lợi nhuận Việt Nam thu về thường rất
nhỏ. Nguyên nhân của thực trạng này là do: (1) ngành dệt vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên phụ liệu cho ngành may;
(2) sự dễ dãi và ít rủi ro của phương thức gia công nên ngành may
tuy phát triển rất nhanh song vẫn là một khu vực sản xuất thiếu
tác phong công nghiệp và thiếu khả năng cạnh tranh; (3) phương
thức phân bổ hạn ngạch chưa hợp lý cũng đã kìm hãm tính năng
động và sáng tạo của các doanh nghiệp may; (4) những rào cản
trong thương mại dệt may tại thị trường EU.
2.2 Những khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu
chuẩn của EU
Về chất lượng:
Cũng như giày dép xuất khẩu, để đưa ra các tiêu chí đánh giá
chung về chất lượng cho tất cả các mặt hàng dệt may là không thể
thực hiện được bởi chất lượng của những sản phẩm này tốt hay
xấu phụ thuộc nhiều vào thị hiếu và xu hướng mốt. Đồng thời, thị
hiếu của khách hàng về đồ may mặc lại thay đổi thường xuyên nên
chuẩn mực về ngành hàng này nếu có cũng sẽ không tồn tại lâu
được. Chính bởi lý do này mà việc đánh giá chất lượng hàng dệt
may cũng chủ yếu được tiến hành theo từng lô hàng trên cơ sở phù
hợp với mẫu đặt gia công. Song, nếu chỉ mải mê tập trung vào làm
hàng gia công mà không chú ý phát triển toàn diện ngành thì Việt
Nam sẽ tiếp tục thua thiệt trên thị trường quốc tế. Đồng thời, ngay
cả việc đáp ứng các yêu cầu gia công cũng sẽ trở nên khó khăn
nếu không được chú ý đúng mức. Sau đây là những khó khăn mà
các doanh nghiệp dệt may hiện đang gặp phải khi đáp ứng các yêu
cầu về chất lượng của các đối tác nước ngoài, đặc biệt là EU - thị
trường khó tính vào loại bậc nhất trên thế giới.
- Về nguyên phụ liệu ngành dệt may
Ngành dệt may Việt nam trong những năm qua đã có những
bước tiến đáng kể, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu luôn đạt
25- 30%/năm, tạo công ăn việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động
trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp trong sản xuất nguyên
liệu như trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất
nguyên phụ liệu lại chưa được chú trọng đúng mức đã ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của ngành trong thời gian qua.
Đối với ngành dệt (mức độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành
này kém ngành may rất nhiều), nguyên liệu phục vụ có rất nhiều
loại như bông xơ, tơ, sợi... trong đó hai loại nguyên liệu chủ yếu là
bông xơ và tơ tằm. Trong vài năm gần đây, diện tích và sản lượng
bông tăng lên đáng kể nhưng nguyên liệu bông trong nước mới chỉ
đáp ứng 11% nhu cầu của ngành dệt may. Từ năm 1997 đến nay,
trung bình hàng năm chúng ta phải chi từ 91- 110 triệu USD để
nhập khẩu từ 80- 90% nguyên liệu bông từ Trung Quốc vào Lào [26,
tr.48]. Thực trạng trong ngành nuôi tằm dệt tơ cũng vậy, với diện
tích dâu tằm hiện này vào khoảng 25.000 ha, đứng thứ 2 trên thế
giới (chỉ sau Trung Quốc), hiệu quả trồng dâu ở nước ta lại rất
thấp. Hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập tơ sống từ Trung Quốc để
se tơ và dệt lụa với số lượng lên đến trên 200 tấn/năm, do kén tằm
trong nước phần lớn chỉ có độ dài chưa tới 700m nên không đảm
bảo tiêu chuẩn để sản xuất tơ chất lượng cao xuất khẩu [26, tr.48].
Cũng như nguyên liệu, ngành sản xuất gia công phụ liệu cũng
không được chú ý đầu tư. Chủ một doanh nghiệp tư nhân may thuê
cho biết: “Khách hàng yêu cầu rất tỷ mỉ từng cái khuy, màu sắc và
cỡ từng loại chỉ màu. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng yêu cầu
của khách là mất hợp đồng ngay”[26, tr.49]. Hiện nay ở nước ta chỉ
một vài doanh nghiệp và làng nghề như: Dây khoá kéo Nha Trang,
chỉ màu của Hợp tác xã Triều Khúc, Cơ khí Gia Lâm và một số ít
doanh nghiệp sản xuất chỉ khâu và khuy bấm ở thành phố Hồ Chí
Minh. Lực lượng như vậy quá mỏng, trong khi Trung Quốc - nước
láng giềng và cũng là một cường quốc xuất khẩu hàng dệt may thế
giới - hàng năm sản xuất gần một vạn sản phẩm phụ liệu cho
ngành may.
Còn với mặt hàng vải nguyên liệu cho ngành may, theo những
báo cáo mới đây của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, các doanh
nghiệp trong ngành chỉ mới sản xuất được một số chủng loại như
vải cotton, jean, vải dệt kim... nhưng chất lượng không ổn định, giá
thành lại rất cao do năng suất lao động thấp và chi phí sản xuất
lớn. Chẳng hạn, giá vải kaki trong nước là 2,5USD/mét trong khi
nhập khẩu chỉ có 1,5$USD/mét [26, tr.49].
Như vậy, bức tranh toàn cảnh của ngành sản xuất phụ liệu cho
ngành may ở Việt Nam có thể nói gọn trong 4 chữ: “vừa thiếu, vừa
yếu”. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi nghiên cứu thị trường phụ
liệu cho ngành may đã kết luận rằng: “các sản phẩm vải, dây
khoá, kéo, cúc, nhãn mác do các doanh nghiệp trong nước sản
xuất... mới đáp ứng được 10- 15% nhu cầu”[26, tr.49]. Do bị động về
phụ liệu mà nhiều doanh nghiệp may trong nước đã phải chi ngoại
tệ mạnh để nhập khẩu, khiến giá thành sản phẩm đội lên từ 10
đến 15% so với cùng loại của các nước trong khu vực. Không
những thế, nhiều doanh nghiệp may trong nước ký được hợp đồng
gia công rồi phải săn tìm phụ liệu đúng với mẫu mã chào hàng. Có
doanh nghiệp tìm không đủ phụ liệu, phải thay đổi mẫu mã khiến
khách hàng đặt mua không hài lòng, yêu cầu giảm giá hoặc đòi
huỷ hợp đồng đã ký.
- Trình độ trang thiết bị, công nghệ
Kể từ những năm đổi mới quản lý nền kinh tế, ngành Dệt may
được bổ sung thêm các thiết bị hiện đại, công nghệ mới. Song, do
vốn có hạn nên trang bị chưa được đồng bộ, một số doanh nghiệp
còn lúng túng chưa huy động máy móc vào sản xuất được tốt. Khu
vực may công nghiệp có khá hơn, các doanh nghiệp may xuất
khẩu đều đổi đã mới thiết bị chất lượng tốt nên cơ sở vật chất tăng
lên nhanh chóng.
+ Dệt thoi [28, tr.4]:
Khu vực phía Bắc: Máy Trung Quốc chiếm đa số (Dệt Nam
Định, Vĩnh Phú, 8/3) trang bị từ những năm 1950, khổ hẹp, nay chỉ
còn sử dụng được 2.300 máy.
Khu vực miền Trung: Hoà Thọ có 200 máy dệt cũ của Nhật đã
sử dụng 30 năm, Công ty Dệt 29/3, Công ty Dệt Hoà Khánh có 591
máy thuộc loại tự động thay thoi, thay suốt cơ khí, nên chất lượng
sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu thị trường.
Khu vực phía Nam: Chủ yếu là máy Nhật, Mỹ, Hàn Quốc đã qua
sử dụng nhiều năm từ 1964- 1974.
+ Dệt kim [26, tr.5]:
Ngành dệt kim còn mới mẻ với nước ta, trước năm 1986, thiết
bị hầu hết của Trung Quốc, Tiệp Khắc, CHDC Đức thuộc loại lạc
hậu thời đó. Đến nay số thiết bị đó phần lớn đã thanh lý và được
thay bằng các thiết bị thế hệ mới nhập từ Nhật Bản, Hàn quốc, Đài
Loan, CHLB Đức có trang bị linh kiện điện tử... nên năng suất cao,
chất lượng tốt, tính năng sử dụng rộng.
Công nghệ Dệt kim cũng tiến bộ nhanh, sản xuất được nhiều
mặt hàng mới như Polo Shirt, T-Shirt, quần áo thể thao. Tuy nhiên,
công nghệ dệt các loại vải trang trí, vải bọc đệm, đồ lót nữ cao
cấp... chưa được quan tâm đầu tư đầy đủ.
+ Ngành may [26, tr.5]:
Từ năm 1990 đến nay, ngành may được đầu tư mới, đổi mới
thiết bị khá mạnh. Các xí nghiệp may do Trung Ương quản lý và
một số nhà máy địa phương đến nay đã thay thế 100% bằng thiết
bị của Nhật, CHLB Đức, Hàn quốc, Đài loan... nhiều thiết bị chuyên
dùng được sử dụng: máy may trang thiết bị điện tử tự động dừng
kim lại mũi, tự động cắt chỉ, các máy chuyên dùng cho các đường
may 2 kim, 4 kim, máy vừa may vừa vắt sổ, máy thùa bằng, thùa
tròn, đính hệ là hơi tự động, hệ giặt mài đá, các thiết bị thêu tự
động 12- 20 đầu thêu, máy may tự động một số chi tiết (may cổ,
bác tay)... bước đầu sử dụng Computer trong thiết kế, giác sơ đồ
may, thay thế lao động thủ công. Những doanh nghiệp đi đầu
trong quá trình đổi mới, đầu tư công nghệ phải kể đến là May 10,
Việt Tiến, Nhà Bè... Tuy vậy, khả năng tự động hoá trong quá trình
sản xuất vẫn chỉ đạt mức trung bình. Công nghệ phục vụ, các công
đoạn phụ trợ (ví dụ như khâu giặt...) còn nhiều bất cập.
- Những vấn đề trong thiết kế mẫu mã
Hiện nay ở nước ta, các trường đào tạo về thiết kế không ít
như trường ĐH Mỹ Thuật Công nghiệp, ĐH Bách Khoa, Viện ĐH Mở,
trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Hà nội... Mặc dù những sinh viên tốt
nghiệp từ các trường này, tuy được đào tạo rất tốt về chuyên môn
nhưng ít có thực tế, do đó, khoảng cách giữa thời trang sàn diễn
đến thời trang ứng dụng là khá lớn. Bên cạnh đó, sự thiếu vắng
thông tin đã dẫn đến việc thời trang Việt nam thiếu tính hội nhập
với xu thế thế giới.
Tại các công ty may xuất khẩu, khâu yếu nhất chính là thiết
kế. Trong khi chúng ta có một đội ngũ các nhà thiết kế trẻ tuổi
được phát hiện hàng năm từ các cuộc thi thiết kế thời trang trong
nước như Việt Nam Collection Grand Prix do Tạp chí Mốt tổ chức
hay cuộc thi Thiết kế Mẫu thời trang do tạp chí Thời trang Trẻ tiến
hành... thì các công ty may mặc dường như vẫn thờ ơ với các hoạt
động chuyên nghiệp này. Nhà sản xuất ngày càng đầu tư cho chất
liệu, kỹ thuật cắt may, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng mẫu
mã vẫn chưa hề có dấu ấn của những nhà thiết kế. Trong khi đó,
kiểu dáng mẫu mã quyết định 50% đến việc mua hay không mua
của khách hàng. Và dĩ nhiên, khi các công ty may mặc vẫn chưa
nắm được cơ hội khám phá và sử dụng các nhà thiết kế trong việc
tạo mẫu hàng may sẵn thì ngành công nghiệp may mặc Việt Nam
chỉ có thể có những “nhà may”và những đơn đặt hàng gia công
theo mẫu nước ngoài. Rất lâu nữa chúng ta mới có các đơn đặt
hàng có thiết kế riêng.
Mới nhìn qua như vậy có thể nhận thấy năng lực sản xuất của
các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay còn thấp. Để nâng
cao tính cạnh tranh lâu dài trên thị trường, các doanh nghiệp cần
phải tăng năng suất khoảng 50%. Các doanh nghiệp, nhà kinh
doanh nước ngoài khi nhập hàng đều nhập với số lượng lớn, vì thế
với năng lực sản xuất như hiện này, các doanh nghiệp Dệt may
Việt nam khó có thể đáp ứng được
Về trách nhiệm xã hội:
Vấn đề trách nhiệm xã hội được các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam tiếp cận sớm và sâu rộng hơn các doanh nghiệp sản xuất
giày dép. Nguyên nhân ở chỗ nhiều doanh nghiệp dệt may xuất
khẩu đã phản ánh lên Tổng công ty Dệt may việt Nam rằng “trước
khi ký kết hợp đồng, một số đối tác nước ngoài đã đến kiểm tra
trực tiếp điều kiện, môi trường làm việc, lượng công nhân... của
công ty họ. Không ít đối tác yêu cầu họ phải có chứng chỉ SA 8000” [18]. Do đó lãnh đạo Tổng công ty Dệt may Việt Nam ngay từ đầu
năm 2002 đã yêu cầu 51 doanh nghiệp thành viên nghiên cứu, xây
dựng và áp dụng tiêu chuẩn này. Hướng phấn đấu của ngành dệt
may là đến hết 2003, ít nhất tất cả các doanh nghiệp làm hàng
xuất khẩu sẽ có chứng chỉ này.
Tuy nhiên tính cho đến nay, cả nước có 12 cơ sở may (của 12
công ty) và 5 cơ sở dệt (thuộc 3 công ty) có chứng chỉ SA 8000,
trong tổng số 23 cơ sở sản xuất của Việt Nam có chứng chỉ này [17].
Như vậy là chỉ tiêu phấn đấu của Tổng công ty Dệt may vẫn chưa
đạt được. Song, đây cũng không phải là một điều đáng buồn vì
ngay cả ở các nước trong khối EU, chứng chỉ này cũng chưa được
phổ biến. Chỉ có 3 cơ sở may trên toàn EU có chứng chỉ SA 8000,
con số này đối với ngành dệt cũng chỉ là 4 [17]. Hơn nữa, khi quyết
định làm ăn với doanh nghiệp nào, đối tác EU sẽ trực tiếp sang
kiểm tra điều kiện nhà xưởng và lao động chứ không chỉ dựa vào
chứng chỉ mà doanh nghiệp được cấp. Theo nhận định của Bộ lao
động và thương binh xã hội, chưa có trường hợp nào đơn hàng
xuất khẩu dệt may bị huỷ bỏ vì điều kiện lao động chưa đáp ứng
tiêu chuẩn của khách hàng nước ngoài. Như vậy, có thể nói rằng
tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội hiện chưa gây ảnh hưởng lớn đến
các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
3. Hàng nông sản
3.1 Tình hình xuất khẩu nông sản sang EU từ 1995-
nay
Nông sản là nhóm hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam,
đồng thời cũng là nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường
EU. Theo số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Việt Nam, kim
ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường EU tăng lên hàng năm
trong thời kỳ 1996 - 1998, nhưng kể từ năm 1999 bắt đầu giảm
sút, ngày càng giảm sút mạnh, năm 2002 còn thấp hơn cả năm
1996.
Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
thị trường EU còn được thể hiện ở chỗ tỷ trọng của nó trong tổng
kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt nam cũng tăng trong thời
kỳ 1996- 1998 và giảm trong thời kỳ 1999- 2002. Đồng thời, nhu
cầu nhập khẩu nông sản của EU vẫn tiếp tục tăng trong khi tỷ
trọng nhập khẩu nông sản từ Việt Nam lại ngày càng giảm (bảng
10).
Bảng 10: xuất khẩu hàng nông sản việt nam sang EU từ 1996- 2002
Đơn vị: Triệu USD
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
(1) Kim ngạch XK nông sản của VN sang EU
191,1 341,7 431,7 417,0 379,7 319,5 162,0
Tốc độ tăng trưởng của (1) (%)
- 78,81 26,34 -3,41 -8,94 - 15,85 - 49,30
(2) Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của VN
2159,6 2231,4 2274,3 2545,9 2563,3 2186,6 2119,6*
(3) Tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của EU (**)
251987 256796 257825 249869 241790 247918 259378
Tỷ trọng (1)/(2) (%) 8,84 15,31 18,98 16,37 14,81 14,61 7,64
Tỷ trọng (1)/(3) (%) 0,07 0,13 0,16 0,16 0,15 0,12 0,06
(Nguồn: Tổng cục thống kê; (*) Số liệu của Tổng cục Hải quan; (**) Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Hà Nội)
Hàng nông sản xuất khẩu của Việt nam sang EU chủ yếu là cà
phê, chè, hạt tiêu, gạo, đường, cao su và một số mặt hàng khác,
trong đó nhóm hàng cà phê, chè, gia vị chiếm tuyệt đại bộ phận.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản sang EU, tỷ trọng bình
quân hàng năm của nhóm hàng này là 78,90% [16, tr.46]. Tuy những
năm gần đây tỷ trọng này có giảm nhưng không có nghĩa là EU
giảm nhập khẩu cà phê của ta mà thực chất do giá cà phê xuất
khẩu của ta liên tục giảm mạnh, còn khối lượng cà phê xuất sang
EU vẫn tăng, thậm chí tăng nhanh. Đến nay, Việt Nam hầu như
chưa xuất khẩu được thực phẩm chế biến sang EU, mới chỉ xuất
được sang Đông Âu. Thịt gia súc, gia cầm cũng không xuất khẩu
được vì EU là thị trường khó tính và gần như khắt khe nhất thế giới
về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) và
môi trường.
Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu trong những năm vừa qua
xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có rào cản kỹ thuật
ngày càng cao mà các nước EU đặt ra. Thịt lợn xuất khẩu của Việt
Nam rất có triển vọng thâm nhập thị trường châu ÂU nhưng không
thể vào được EU do không đáp ứng quy định môi trường và
VSATTP. Các mặt hàng nông sản khác cũng khó vượt qua những
quy định này. Một số doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khi
giao hàng đã không đúng như cam kết trong hợp đồng về chất
lượng hàng và thời gian làm cho uy tín của cộng đồng Việt Nam bị
giảm sút, ảnh hưởng tới các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc.
Đồng thời chất lượng hàng lại chưa cao, nguồn cung cấp không ổn
định...
3.2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu của EU về chất
lượng và môi trường
Dưới tác động của các yêu cầu về chất lượng và môi trường
của EU, nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam lẽ ra rất có tiềm
năng xuất khẩu lại không vào được thị trường này:
Thứ nhất, thực phẩm chế biến là nhóm hàng mang lại kim
ngạch xuất khẩu đáng kể cho Việt Nam nhưng lại không xuất được
sang EU vì phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ về VSATTP
và môi trường. Rào cản khó vượt qua nhất hiện nay đối với hàng
thực phẩm là Quy định kiểm tra thú y. Bên cạnh đó, quy định bao
bì và phế thải bao bì, nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu
cơ, hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả, thực phẩm
cũng là những yêu cầu khó thực hiện đối với ngành hàng này.
Thứ hai, thịt gia súc, gia cầm đông lạnh của Việt nam cũng
không thể xuất khẩu được vào thị trường EU, mặc dù hiện nay chất
lượng đã được nâng lên. Lý do chính vẫn là không đáp ứng được
quy định về VSATTP và môi trường, hơn nữa chúng ta vẫn chưa ký
Hiệp định Thú ý với EU. Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc,
gia cầm và thuỷ sản nêu rõ: cấm sử dụng chất kích thích và kháng
sinh bị cấm trong chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong khi đó ở Việt
Nam, từ năm 2000 bà con nông dân sử dụng khá phổ biến các chất
kháng sinh bị EU cấm trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ
sản.
Thứ ba, các loại quả nhiệt đới và hạt có dầu của Việt Nam như
thanh long, xoài, hạt điều, lạc... rất được thị trường EU ưa chuộng
nhưng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này lại rất nhỏ. Lý do là
sản xuất nông nghiệp của ta sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá
liều lượng và không đúng kỹ thuật đã gây tác động xấu đến môi
trường (diệt sinh vật có lợi, giảm đa dạng sinh học...) đồng thời để
lại dư lượng các chất độc hại trong sản phẩm.
Ngay cả với những mặt hàng đã và đang xuất khẩu được sang
EU, vấn đề đảm bảo chất lượng và không gây ô nhiễm môi trường
vẫn còn rất nan giải. Thực tế là:
- Để thực hiện sản xuất thâm canh tăng vụ, bà con nông dân
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá liều lượng (1,34kg/ha diện tích
gieo trồng trong cả nước năm 2002), sử dụng tập trung ở một số
vùng thâm canh cao như Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông
Cửu Long và không đúng kỹ thuật canh tác [16, tr.65].
- Hàng năm lượng phân bón sử dụng trong cả nước khoảng 5
triệu tấn phân vô cơ, trong đó hơn 3 triệu tấn là nhập khẩu. Quá
trình cung ứng và sử dụng phân bón có thể thường xuyên phát tán
ra môi trường xung quanh các chất độc như: SO2, SO3, H2SO4, F, CO,
H2S, NH3. ở Việt Nam, 1 ha gieo trồng bình quân sử dụng 80- 90 kg
phân vô cơ. Sử dụng phân vô cơ không theo đúng chỉ dẫn khoa học
và phân hữu cơ không qua chế biến là tình trạng phổ biến, trở
thành nguồn gây ô nhiễm môi trường đáng kể [16, tr.65].
- Cà phê nước ta hiện được chế biến theo hai phương pháp ướt
và khô. Chế biến theo phương pháp khô (chiếm trên 90% sản
lượng cà phê) hầu như ít tác động xấu đến môi trường. Chế biến
theo phương pháp ướt (chỉ chiếm khoảng 10% sản lượng) nhưng lại
gây tác động xấu đến môi trường vì hiện nay hầu hết các cơ sở chế
biến cà phê theo phương pháp ướt có năng suất thấp, chưa hoặc
chưa có điều kiện để xử lý nước thải.
- Ngành chế biến cao su gây nhiều ô nhiễm đến môi trường bởi
các tác nhân và phụ gia hoá chất được sử dụng trong quá trình chế
biến. Hiện tại tất cả các cơ sở chế biến cao su công nghiệp đều đã
trang bị hệ thống xử lý chất thải và nhìn chung đang hoạt động có
hiệu quả. Tuy nhiên, các cơ sở chế biến nhỏ vẫn chưa quan tâm xử
lý môi trường.
- Ngành chế biến rau quả và chế biến tinh bột đều có nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường cao. Ngay cả các cơ sở chế biến lớn, quốc
doanh hoặc liên doanh, có cơ sở thiết bị lạc hậu, có cơ sở đầu tư
mới hệ thống xử lý môi trường song chưa triệt để và hiệu quả.
Ngoài ra, các quy định của EU về bao bì và phế thải bao bì,
hoặc dán nhãn sinh thái... vẫn còn là những khái niệm mơ hồ đối
với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Rất ít doanh nghiệp có
được thông tin về quy định bao bì và phế thải bao bì của EU, mà từ
trước đến này đa phần doanh nghiệp đóng gói và sử dụng bao bì
theo tập quán hoặc theo yêu cầu của đối tác nhập khẩu chứ không
nắm được chính xác quy định đó bao gồm những cái gì. Tiêu chuẩn
về dán nhãn sinh thái cũng ít được các nhà sản xuất quan tâm vì
đây còn là một hình thức hết sức mới mẻ.
Việc áp dụng hệ thống HACCP hoặc hệ thống quản lý môi
trường ISO 14000 cũng rất hạn chế. Đặc biệt là HACCP (tiêu chuẩn
được các nước EU hết sức chú trọng), số doanh nghiệp sản xuất
hàng nông sản và chế biến thực phẩm xuất khẩu áp dụng hệ thống
này còn ít, ít hơn nhiều so với ngành thuỷ sản.
4. Hàng thuỷ sản
4.1 Tình hình xuất khẩu thuỷ sản sang EU từ 1995-
nay
EU là một trong những thị trường xuất khẩu thuỷ sản quan
trọng của Việt nam trong những năm gần đây (cùng với Mỹ, Nhật
Bản, Trung Quốc...) Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng
chậm (2,73%/năm) và tăng giảm thất thường (bảng 11)
Bảng 11: xuất khẩu thuỷ sản của việt nam sang eu từ 1996-2002
Đơn vị: Triệu USD
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
(1) Kim ngạch XK thuỷ sản của VN sang
EU (**)36,1 71,3 98,2 83,1 94,7 112,3 42,4
Tốc độ tăng trưởng của (1) (%)
- 97,51 37,73 -15,38 13,96 18,59 - 62,24
(2) Tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của
VN696,5 782,0 858,0 973,6 1478,5 1777,6 2022,8*
(3) Tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản
của EU (**)14251,7 14613,7 16784,6 16340,3 15681,5 15591,1 15798,2
Tỷ trọng (1)/(2) (%) 5,18 9,11 11,44 8,53 6,40 6,32 2,09
Tỷ trọng (1)/(3) (%) 0,25 0,48 0,58 0,50 0,60 0,72 0,26
(Nguồn: Tổng cục thống kê; (*) Số liệu của Tổng cục Hải quan; (**) Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Hà Nội)
Như vậy, căn cứ vào mức độ tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 1996- 2002
được chia làm 2 thời kỳ: (1) 1996- 2001, kim ngạch tăng trưởng
khá mạnh (25,49%/năm); (2) năm 2002 kim ngạch sụt giảm mạnh
(giảm 62,24% so với năm 2001).
Sự biến động thất thường nói trên còn biểu hiện ở chỗ tỷ trọng
xuất khẩu thuỷ sang của Việt Nam sang EU trong tổng kim ngạch
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam và như tỷ trọng xuất khẩu thuỷ
sản sang EU trong tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của EU
cũng diễn biến thất thường (bảng 11). Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này là:
Thứ nhất, hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã mở ra cơ hội thuận
lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là thuỷ sản.
Thứ hai, các quy định ngặt nghèo về VSATTP và môi trường
của EU đang là rào cản khó vượt qua đối với thuỷ sản Việt Nam khi
xuất khẩu vào thị trường EU, đặc biệt là quy định kiểm tra thú y.
Chính quy định này đã làm cho các doanh nghiệp điêu đứng trong
thời kỳ 2001- 2002, khi mà 72 lô hàng thuỷ sản của ta vi phạm quy
định trên, có dư lượng kháng sinh bị cấm quá mức cho phép và đã
bị EU tiêu huỷ, trả lại hàng.
Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khác như nguồn nguyên liệu
không ổn định và chưa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng; giá thuỷ
sản nguyên liệu trong nước còn khá cao so với các đối thủ cạnh
tranh như Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc nên kém khả năng
cạnh tranh; thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh nên nhiều doanh
nghiệp vi phạm hợp đồng.
Các mặt hàng thuỷ sản chính Việt Nam xuất khẩu sang EU
phải kể đến tôm đông lạnh, cá đông lạnh và nhuyễn thể, ngoài ra
còn một số mặt hàng thủy sản khác (cua, ghẹ, cá rô đồng...). Tôm
đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 60%). 3 mặt hàng tôm
đông lạnh, cá đông lạnh và nhuyễn thể thường chiếm trên 80%
tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường
này [21].
Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU chỉ tập trung chủ yếu
vào một số thị trường thành viên. Tỷ trọng các thị trường thành
viên trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang EU năm 2002 như
sau: Bỉ (18,6%), Đức (16,97%), Pháp (16,52%), Italia (14,65%), Hà
Lan (9,99%), và 9 thị trường còn lại chỉ chiếm 7,27% [29].
4.2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu của EU về chất
lượng và môi trường
Theo quy định kiểm tra thú y, muốn xuất khẩu thuỷ sản vào thị
trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các yêu cầu
đề ra trong quy định: nuôi trồng thuỷ sản không được sử dụng các
chất kháng sinh bị cấm; khai thác hải sản không được sử dụng đá
có chất CAP để bảo quản sản phẩm; vận chuyển thuỷ sản pải có
thiết bị để thay nước; chế biến thuỷ sản phải có hệ thống xử lý
chát thải.... Trong thực tế, các nhà sản xuất thuỷ sản Việt Nam
chưa thực hiện được các yêu cầu của EU. Cụ thể, nuôi trồng sử
dụng quá nhiều kháng sinh bị cấm; đánh bắt hải sản dùng đá có
quá nhiều CAP để làm tươi sản phẩm; vận chuyển, nhiều trường
hợp có thiết bị thay nước nhưng không đáp ứng yêu cầu, một số
trường hợp không có; chế biến tính đến 31/12/2002 cả nước chỉ có
152/364 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh có điều kiện
sản xuất tốt [30]. Chính vì những lý do này mà 72 lô hàng thuỷ sản
Việt Nam đã bị EU tiêu huỷ và trả lại, dẫn đến tình trạng xuất khẩu
thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường này năm 2002 giảm sút
mạnh.
Sự việc cụ thể là tháng 9/2001, EU bắt đầu kiểm tra việc tuân
thủ Quy định kiểm tra thú y của hàng thuỷ sản Việt Nam và phát
hiện ra hàng của ta vi phạm quy định. EU đã đưa ra cảnh báo và
tuyên bố tiêu huỷ các lô hàng thuỷ sản vi phạm Quy định. Từ
tháng 9/2001- 12/2001, qua kiểm tra EU đã phát hiện ra 23 lô
hàng thuỷ sản của Việt Nam vi phạm. Tháng 1/2002- 12/2002, EU
lại phát hiện thêm 49 lô. Kể từ 1/2003- 7/2003, EU chỉ phát hiện
thêm 4 lô hàng bị vi phạm. Như vậy, tổng cộng EU đã phát hiện ra
76 lô hàng thuỷ sản của ta vi phạm quy định kiểm tra thú y trong
vòng 2 năm. 76 lô hàng vi phạm quy định này đều chứa dư lượng
kháng sinh bị cấm quá mức cho phép. Trong 76 lô, chỉ có 9 lô chứa
FRZ, 8 lô chứa NF (NF bao gồm FRZ), 59 lô còn lại chứa CAP. Năm
2001 và 2003 hàng thuỷ sản Việt Nam chỉ bị nhiễm CAP, nhưng
năm 2002 bị nhiễm cả CAP, NF và FRZ [16, tr.57].
Sau sự việc trên, điều đáng mừng là các Bộ, các ngành liên
quan đã kịp thời đưa ra các biện pháp quản lý chặt chẽ thông qua
các chỉ thị, quyết định... nhằm lấy lại niềm tin trong đối tác EU. Vì
thế mà EU chưa đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước thuộc
nhóm I (là những nước được áp dụng chế độ kiểm tra thông
thường) mà cấm một số doanh nghiệp được xuất khẩu vào EU. Cho
đến nay, các doanh nghiệp bị cấm xuất khẩu cũng đã 100% được
xuất khẩu lại vào EU, đưa con số doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản
sang EU lên 100 doanh nghiệp. Phải nói đây là một nỗ lực rất lớn
của Bộ Thuỷ sản nói riêng cũng như các cơ quan liên quan khác.
Trong các quy định về VSATTP và môi trường thì quy định kiểm
tra thú y vừa trình bày là quy định khó vượt qua nhất đối với hàng
thuỷ sản Việt Nam khi xâm nhập vào thị trường EU, cũng là quy
định tác động mạnh mẽ nhất tới hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của
ta sang thị trường này. Quy định này đã gây cho các doanh nghiệp
xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam một phen chao đảo. Những quy định
còn lại như hệ thống HACCP, bao bì và phế thải bao bì, hàm lượng
chất phụ gia trong thực phẩm, hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa
trong rau quả, tiêu chuẩn quản lý môi trường... hầu như không tác
động tới xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Nguyên nhân là việc áp
dụng hệ thống HACCP trong các doanh nghiệp thuỷ sản được triển
khai khá mạnh mẽ (mạnh mẽ nhất trong các ngành, nhờ có chủ
trương của Bộ Thuỷ sản) nên nhiều doanh nghiệp chế biến thuỷ
sản xuất khẩu đã có xây dựng được hệ thống này. (chi tiết tại
Chương II, mục I.2.2.2). Chúng ta lại chủ yếu xuất khẩu thuỷ sản
đông lạnh nên chưa sử dụng gì nhiều đến chất phụ gia. Bao gói
sản phẩm khá đớn giản (túi PE, thùng carton...) theo yêu cầu của
Trung tâm Kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản nên không bị vi
phạm quy định bao bì và phế thải bao bì. Đồng thời, kể từ khi bị
cấm sử dụng kháng sinh, hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản,
người nuôi mới bắt đầu chuyển sang nuôi thuỷ sản sạch, do vậy
chưa thể dán nhãn hiệu cho thuỷ sản có nguồn gốc hữu cơ.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đáp ứng các quy định/tiêu chuẩn của eu về chất lượng, môi trường & xã hội
VII.Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị
trường EU
1. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai
đoạn 2001- 2010
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế, trong thời gian tới
công tác xuất nhập khẩu đóng một vai trò rất quan trọng. Chính vì
vậy, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển xuất nhập
khẩu thời kỳ 2001-2010”. Đây là điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU.
Về xuất khẩu hàng hóa:
- Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là
15%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ
2006-2010 tăng 14%/năm. Giá trị xuất khẩu tăng từ khoảng 13,5
tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6 tỷ USD
vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
- Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong 10 năm tới cần được
chuyển dịch theo hướng chủ yếu sau: (1) Trước mắt huy động mọi
nguồn lực hiện có để có thể đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc
làm, thu ngoại tệ; (2) Đồng thời cần chủ động gia tăng xuất khẩu
sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao,
chú trọng các sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng
ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô; (3) Mặt hàng, chất
lượng và mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Cơ cấu thị trường xuất khẩu: tiếp tục củng cố và tăng cường
chỗ đứng tại các thị trường đã có, tới năm 2010 tỷ trọng các thị
trường xuất khẩu được dự kiến như sau: Châu á (46-50%), trong đó
Nhật Bản (17-18%), ASEAN (15-16%), v.v... ; Châu Âu (27-30%),
trong đó EU (25-27%) SNG và Đông Âu (3-5%); Bắc Mỹ (chủ yếu là
Mỹ) là 15-20%; úc và Newzealand là 5-7%; và các khu vực khác (2-
3%). Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường
lớn như Đức, Anh, Pháp và Italia
Căn cứ vào mục tiêu xuất khẩu trong Chiến lược phát triển
xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 (đã trình bày tóm tắt ở trên),
đối với thị trường EU - thị trường mà Chiến lược đã xác định là rất
quan trọng (hơn cả thị trường ASEAN, Nhật Bản và Bắc Mỹ), để
khẳng định được vai trò của thị trường này đối với xuất khẩu của
Việt Nam trong 10 năm tới, hay nói cách khác là muốn đẩy mạnh
xuất khẩu vào thị trường này giai đoạn 2001-2010, trước hết cần
phải định hướng đúng mặt hàng xuất khẩu và từng thị trường xuất
khẩu cụ thể trong khối EU trong giai đoạn này.
1.1 Định hướng phát triển mặt hàng xuất khẩu vào
thị trường EU
Đối với cơ cấu hàng xuất khẩu của một quốc gia, việc duy trì
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực là cần thiết. Song, việc mở
rộng cơ cấu hàng xuất khẩu rất quan trọng vì nó đánh dấu sự phát
triển của một nền kinh tế, đặc biệt đối với Việt Nam vì bấy lâu nay
cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản và một số hàng công
nghiệp nhẹ. Vì thế, để mở rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu
của Việt Nam sang EU, chúng ta phải mở rộng và củng cố thị phần
của các mặt hàng hiện có, đồng thời mở rộng danh mục mặt hàng.
Cụ thể với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực:
Giày dép và sản phẩm da: 80% kim ngạch xuất khẩu sản
phẩm da giày của Việt Nam sang EU là làm gia công cho nước
ngoài nên hiệu quả kinh tế rất thấp. Để khắc phục tình trạng này
cần phải thực hiện một số biện pháp sau: (1) Từng bước chuyển
dần sang phương thức bán trực tiếp để thu được hiệu quả cao hơn
và ổn định hơn; (2) Chú trọng đầu tư phát triển sản xuất các loại
nguyên phụ liệu cho ngành da giày để vừa nâng cao hiệu quả xuất
khẩu sang EU, vừa đảm bảo chủ động trong sản xuất, chào hàng
và thiết kế mẫu mã; (3) Cần có ưu đãi cho đầu tư mở rộng và tạo
cơ chế thông thoáng trong việc cho vay đầu tư.
Hàng dệt may: Cũng như giày dép, phần lớn khối lượng hàng
dệt may của Việt Nam xuất sang EU là làm gia công cho nước
ngoài, khả năng xuất khẩu trực tiếp rất khó khăn. Để duy trì chỗ
đứng hiện có và mở ra triển vọng phát triển trên thị trường EU,
Nhà nước cần phải thực hiện một số biện pháp sau: (1) Đổi mới
phương thức quản lý hạn ngạch, điều chỉnh lại cơ chế phân bổ hạn
ngạch để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn nữa
nguyên liệu sản xuất trong nước; (2) Xác lập chế độ thuế hợp lý để
thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, đặc
biệt là ngành dệt; (3) Tập trung nỗ lực để đàm phán với EU tăng
thêm hạn ngạch; (4) Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc khảo sát,
tìm hiểu và thâm nhập thị trường EU; (5) Hợp lý hoá công tác cấp
C/O: thực hiện chế độ một cửa, giảm chi phí hành chính cho doanh
nghiệp và tăng cường công tác chống gian lận thương mại theo
yêu cầu của EU. Về phía các doanh nghiệp, cần nghiên cứu biện
pháp chuyển dần sang phương thức bán trực tiếp và phải có những
nỗ lực cần thiết để nâng cao và ổn định chất lượng sản phẩm, đa
dạng hoá mẫu mã, lưu ý hơn đến các quy định về an toàn sức khoẻ
và môi trường của EU.
Thủy hải sản: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản sang EU
không ổn định và còn cách xa tiềm năng xuất khẩu của ta. Nguyên
nhân là do nguồn nguyên liệu chưa ổn định, hàng thủy hải sản
chưa đáp ứng tốt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh thực phẩm của
EU, và còn bị sức ép cạnh tranh rất mạnh từ phía Thái Lan. Cần có
các biện pháp khắc phục như: (1) Xây dựng chương trình phát triển
nguồn nguyên liệu ổn định, tăng nhanh tỷ trọng của nguyên liệu
nuôi; (2) Chú trọng đầu tư để tăng cường năng lực chế biến và cải
thiện điều kiện sản xuất, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
(nâng cấp điều kiện sản xuất và thực hiện quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn HACCP để tăng thêm số lượng nhà máy chế biến đủ
tiêu chuẩn xuất hàng vào EU); (3) Cổ phần hoá các doanh nghiệp
chế biến thủy sản xuất khẩu để thu hút vốn, nâng cao hiệu quả
đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy tính năng động
trong việc đa dạng hoá sản phẩm và tìm hiểu thị trường tiêu thụ;
Nông sản: hiện nay xuất khẩu nhóm hàng này vào thị trường
EU đang có xu hướng chững lại. Nguyên nhân là do chất lượng
hàng và nguồn cung cấp chưa ổn định. Phần lớn xuất khẩu qua
trung gian nên hiệu quả thấp. Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
xuất khẩu nhóm hàng này sang EU, ta cần phải phát triển những
vùng trồng chuyên canh để đảm bảo nguồn nguyên liệu lớn, ổn
định và chú trọng đầu tư công nghệ sau thu hoạch để nâng cao
chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm. Đặc biệt, các doanh
nghiệp nên cố gắng đưa thực phẩm chế biến vào EU bằng cách
chú trọng công tác nghiên cứu nắm bắt thị hiếu tiêu dùng của thị
trường, đầu tư vốn, công nghệ vào sản xuất để tạo ra những sản
phẩm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng và thoả mãn các tiêu chuẩn vể
thực phẩm của EU. Nên đầu tư sản xuất mặt hàng này cung cấp
cho thị trường EU theo hai hướng: (1) Sản phẩm phục vụ cộng
đồng người Việt Nam sống ở EU, như mì ăn liền, dầu thực vật, gia
vị, nước chấm,v.v...; (2) Sản phẩm phục vụ người dân EU.
Ngoài ra, các nhóm hàng khác như hàng thủ công mỹ nghệ,
đồ gỗ gia dụng, máy móc thiết bị điện tử.... cũng cần chú trọng
phát triển vì đây là những mặt hàng mà thị trường EU có nhu cầu
khá lớn. Như vậy mới có thể đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất
khẩu của Việt Nam sang EU, đồng thời góp phần thực hiện mục
tiêu “Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp vào năm 2020”.
1.2 Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu
trong khối EU
Hiện tại, thị trường chung Châu Âu gồm 15 quốc gia, tuy có
nhiều điểm tương đồng về kinh tế và văn hoá, nhưng mỗi quốc gia
vẫn có những nét đặc thù riêng về thị hiếu tiêu dùng. Muốn đẩy
mạnh xuất khẩu vào EU trong những năm tới thì ngay bây giờ cần
phải có định hướng phát triển của từng thị trường xuất khẩu. Đối
với một số thị trường chính, định hướng như sau:
Thị trường Đức: là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
trong EU. Các mặt hàng truyền thống bao gồm: giày dép; hàng
may mặc (trừ len); cà phê; chè, các sản phẩm bằng da, đồ gốm,
sứ, cao su và các sản phẩm từ cao su; các sản phẩm mây tre đan;
đồ gỗ gia dụng; thủy hải sản... Đặc biệt, hai năm trở lại đây Đức có
nhu cầu nhập khẩu rất lớn về giày dép và dụng cụ thể thao từ Việt
Nam.
Thị trường Anh: là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt
Nam trong EU. Hiện tại, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
như: giày dép; hàng dệt may; đồ gốm sứ; xe có động cơ không
thuộc loại xe điện hoặc xe lu; nhựa và các sản phẩm nhựa; các sản
phẩm gỗ; sợi dệt; các sản phẩm bằng da thuộc; thủy hải sản; ngọc
trai thiên nhiên, đá quý..v.v. đang được tiêu thụ mạnh ở Anh. Bên
cạnh đó, Anh cũng là một thị trường đầy triển vọng cho việc tiêu
thụ các mặt hàng tiêu dùng khác như: đồ gốm sứ, đồ chơi, đồ gỗ
gia dụng, thực phẩm, rau quả và đồ hộp.
Thị trường Pháp: là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt
Nam trong EU. Người tiêu dùng Pháp ưa chuộng các mặt hàng: đồ
gỗ gia dụng, bột ngũ cốc và bột sữa; lụa, sợi dệt; hàng dệt may;
kính và đồ dùng thủy tinh; các sản phẩm bằng da thuộc... Từ năm
1998, Pháp có nhu cầu rất lớn về gốm sứ, dụng cụ thể thao, nhiên
liệu khoáng, cà phê, sản phẩm da thuộc, giày dép và đồ gỗ gia
dụng Việt Nam.
Thị trường Hà Lan: là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt
Nam trong khối với những sản phẩm như: hàng điện máy; thực
phẩm chế biến; rau, quả và hạt đã qua chế biến; sợi dệt; nhựa và
các sản phẩm nhựa; các sản phẩm gỗ nội thất... Đặc biệt mấy năm
gần đây, Hà Lan có nhu cầu rất lớn về các sản phẩm sữa, trứng
chim và mật ong; thực phẩm chế biến; đồ gỗ gia dụng, các sản
phẩm gốm của Việt Nam.
Các thị trường còn lại cũng cần phải phân tích cơ cấu để có
những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hợp lý. Thêm vào đó, với kế
hoạch mở rộng sang phía Đông của Liên minh châu Âu (ngày
1/5/2004, EU sẽ chính thức kết nạp thêm 10 nước Trung và Đông
Âu - gọi tắt là CEEC, trở thành EU25), định hướng phát triển đối với
các thị trường mới này ngay từ bây giờ là rất cần thiết. Thuế suất
của các mặt hàng cà phê, chè, gia vị ở dạng thô của EU15 rất thấp
(0%), nhưng thuế suất với CEEC là 10%. Như vậy, CEEC trở thành
thành viên EU sẽ là thuận lợi lớn với các doanh nghiệp xuất khẩu
sản phẩm này của Việt Nam. Linh kiện điện tử và máy tính có rất
nhiều triển vọng bởi các nước CEEC có tiềm năng tiêu thụ lớn để
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế khi gia nhập vào EU.
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị
trường EU
2.1 Những nhân tố tác động tới khả năng xuất khẩu
hàng hoá Việt Nam vào EU
Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá
kinh tế:
Tác động tích cực của xu thế tự do hoá thương mại, khu vực
hoá và toàn cầu hoá kinh tế là tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các
nước, nhất là những nước đang phát triển đẩy mạnh công nghiệp
hoá trên cơ sở ứng dụng thành quả của cách mạng khoa học công
nghệ và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, tăng doanh thu ngoại tệ
làm tiền đề phát triển kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những tác động
tích cực, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu
hoá kinh tế cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước này như:
làm tăng sức ép cạnh tranh, dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng nhiều
của các nước đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế
giới và dần dần rơi vào tầm ảnh hưởng của các nước phát triển, cả
về kinh tế và chính trị...
Chính vì vậy, xu thế này sẽ tạo thuận lợi cho ta mở rộng thị
trường xuất khẩu sang EU nơi thuế suất thấp và đỡ bị các hàng rào
phi quan thuế ngăn cản, đồng thời hàng xuất khẩu của ta sẽ phải
đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường EU.
Sự phát triển của Diễn đàn Hợp tác á - Â u (ASEM):
Diễn đàn Hợp tác á-Âu (ASEM) là cơ chế đối thoại và hợp tác
cấp cao giữa Châu Âu và Châu á, với sự tham dự của 10 nước Châu
á (là Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Philippines,
Bruney, Malaysia, Indonesia, Singapore, Việt Nam) và 15 nước
thành viên của EU. Diễn đàn Hợp tác á-Âu đã được tổ chức 4 lần
vào những năm 1996, 1998, 2000, 2002.
Trong Hội nghị ASEM II, III và IV, các nước EU đã đưa ra cam
kết về thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ các nước Đông Nam á,
trong đó có Việt Nam. Riêng về thương mại, các nước EU đã cam
kết nâng mức hạn ngạch cho hàng xuất khẩu của các nước
ASEAN vào EU và giảm các loại hàng chịu giới hạn quota. Do
vậy có thể nói rằng sự phát triển của ASEM góp phần không nhỏ
làm tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị
trường EU.
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU:
Sau 5 năm thực hiện Hiệp định Hợp tác Việt Nam-EU (1997-
2000) đạt được kết quả sau: EU đã trở thành một trong những đối
tác kinh tế quan trọng của Việt Nam, là bạn hàng thương mại lớn
thứ hai, chiếm khoảng 14% kim ngạch ngoại thương của Việt Nam.
Cơ sở để phát triển quan hệ hợp tác giữa hai bên là:
Thứ nhất, chính sách đổi mới cho đến nay đã cho phép Việt
Nam thu được nhiều thành quả trong các lĩnh vực kinh tế và ngoại
giao. Tỷ lệ tăng trưởng và trao đổi thương mại đã tăng lên, lạm
phát đã giảm, đất nước đang hội nhập vào cộng đồng tài chính
quốc tế, xã hội phát triển và đời sống nhân dân được nâng lên.
Thứ hai, với nhu cầu đòi hỏi từ quá trình phát triển kinh tế cao,
EU rất cần những thị trường đang phát triển và giàu tiềm năng như
Việt Nam. Ngược lại, EU lại có tiềm lực rất mạnh về vốn và công
nghệ- cái mà Việt Nam đang rất cần để phát triển kinh tế.
Thứ ba, cơ cấu kinh tế của Việt Nam và các nước thành viên
EU hoàn toàn bổ sung cho nhau. Do vậy, những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam lại là những mặt hàng mà EU có nhu
cầu nhập khẩu lớn và ngược lại.
Thứ tư, Việt Nam tự mình đang dần dần hoàn thiện cơ chế và
chính sách quản lý kinh tế, mở cửa thị trường nhằm đẩy nhanh tốc
độ phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước để
hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Đây chính là cơ sở bền
vững cho quá trình đẩy mạnh hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và EU.
Trung Quốc gia nhập WTO và sức ép cạnh tranh:
Kể từ 9/5/2000, EU ký Hiệp định Thương mại song phương với
Trung Quốc, hàng Trung Quốc vào thị trường này được hưởng
nhiều ưu đãi hơn là do EU giảm thuế từ 8%-10% cho khoảng 100
mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Đồng thời, Trung Quốc đã
chính thức gia nhập WTO vào tháng 12/2001 khiến cho sức ép
cạnh tranh từ hàng hoá Trung Quốc lại càng thêm khốc liệt. Tại
thời điểm này, hàng Trung Quốc không những được hưởng ưu đãi
hơn hàng của ta về thuế mà khả năng cạnh tranh mạnh hơn (hàng
đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng tốt, giá lại rẻ,
nguồn cung cấp lớn và rất ổn định, đáp ứng tốt nhu cầu của thị
trường EU.
Chiến lược mở rộng EU:
Kể từ ngày1/5/2004, 10 nước Hungary, Ba Lan, Czech,
Slovakia, Slovenia, Cyprus, Estonia, Latvia, Litva và quốc đảo
Manta (gọi tắt là CEEC) sẽ chính thức trở thành thành viên của Liên
minh Châu Âu. Việc mở rộng này trước hết sẽ đem lại những thuận
lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Nếu tính gộp cả 10
nước thành viên mới thì EU sẽ trở thành thị trường thống nhất lớn
nhất thế giới với sức mua của gần 500 triệu dân, GDP sẽ đạt hơn
10.000 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng sẽ
lên tới 1.800 tỷ USD/năm, chiếm 21,9% tổng kim ngạch nhập khẩu
hàng hoá và dịch vụ trên toàn thế giới [31]. Tại thị trường này, tầng
lớp giàu nghèo đa dạng hơn nên nhu cầu tiêu dùng sẽ phong phú
hơn. Ngoài việc hầu hết các nước CEEC đều là bạn hàng truyền
thống của Việt Nam thời bao cấp, có thể sử dụng như một khu vực
kết nối để tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, thì mức thuế
nhập khẩu của các nước CEEC sau khi gia nhập EU sẽ thấp hơn
mức thuế hiện tại cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp xuất khẩu của ta.
Song, bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều thách thức. Khi
là thành viên chính thức của EU, các nước CEEC buộc phải thực
hiện theo cơ chế chính sách thương mại của EU nên những hình
thức buôn bán tiểu ngạch sẽ không thể tồn tại. Đồng thời, toàn bộ
các cam kết song phương giữa Việt Nam với những nước này sẽ bị
huỷ bỏ có thể gây nhiều lúng túng cho những DN Việt Nam bấy lâu
nay chỉ quen quan hệ với khu vực này mà chưa có kinh nghiệm và
hiểu biết luật lệ của EU. Hàng hoá của Việt Nam vào Trung, Đông
Âu trước không bị đòi hỏi quá cao về chất lượng, không gặp các
hàng rào phi thuế quan nghiêm ngặt như tiêu chuẩn an toàn vệ
sinh thực phẩm, các tiêu chuẩn môi trường, lao động... tới đây sẽ
phải tuân thủ các tiêu chuẩn thống nhất của EU. Một số loại hàng
vào thị trường 10 nước CEEC trước đây không bị ấn định hạn ngạch
thì nay sẽ bị quản lý theo hạn ngạch như dệt may, hoặc áp dụng
hạn ngạch thuế quan cao như gạo, đường...
Chương trình mở rộng hàng hoá của EU:
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá với nội
dung là đẩy mạnh tự do hoá thương mại thông qua việc giảm dần
thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu, xoá bỏ chế độ hạn
ngạch vào cuối năm 2004 và tiến tới bãi bỏ GSP. Đến cuối năm
2004, EU sẽ chấm dứt giai đoạn 2 thực hiện GSP và tới nay EU vẫn
chưa có chương trình cụ thể thực hiện GSP cho giai đoạn sau,
nhưng GSP của EU dành cho các nước đang phát triển có xu hướng
giảm dần.
Do vậy, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không có chính sách
cụ thể để cải tiến, đa dạng hoá, nâng cao chất lượng hàng xuất
khẩu và có chiến lược thâm nhập thị trường EU một cách thấu đáo
ngay từ bây giờ thì hàng xuất khẩu Việt Nam khó có thể đứng vững
và có cơ hội xâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
Nền kinh tế Việt Nam đổi mới theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá:
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, mở cửa nền kinh tế hội nhập với khu vực và
thế giới, trong đó chủ trương là thực hiện quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế hướng về xuất khẩu.
Với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu,
hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ được cải thiện về chất lượng và
mẫu mã. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể cung cấp ra thị trường
thế giới một khối lượng lớn hàng hoá và tương đối ổn định. Quá
trình này sẽ giúp cho hàng Việt Nam khắc phục được những nhược
điểm về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng và đáp ứng được nhu cầu
thị hiếu khắt khe của thị trường EU, do đó làm tăng khả năng xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn tới.
Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế:
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào các Diễn đàn Quốc tế
như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác á-Âu
(ASEM), và đang đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO).
Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ làm tăng sự cạnh
tranh, cọ sát giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh
nghiệp ASEAN, APEC, ASEM, từ đó tạo cơ hội để các doanh nghiệp
nước ta vươn lên và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế. Đồng
thời, những lợi thế hiện có của Việt Nam do quá trình hội nhập
quốc tế mang lại sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp của ta và các
doanh nghiệp nước ngoài gia tăng mạnh đầu tư vào lĩnh vực sản
xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với năng
lực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng mạnh và khả
năng xuất khẩu là khá lớn.
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ:
Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ vào
ngày 14/7/2000. Hiệp định này mở ra một chương mới trong quan
hệ thương mại song phương và từ nay hàng xuất khẩu của Việt
Nam sang Mỹ sẽ được hưởng chế độ ưu đãi tối huệ quốc. Theo
Hiệp định, thuế suất đánh vào hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu
vào thị trường Mỹ sẽ giảm rất đáng kể, từ mức 40% hiện nay
xuống còn 3% và do đó nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ chĩa mũi
nhọn sang thị trường Mỹ. Việc tập trung lực đẩy mạnh xuất khẩu
sang EU khi đó bị phân tán, lực bị chia sẻ nên có ảnh hưởng ít
nhiều đến xuất khẩu sang EU.
2.2 Đánh giá triển vọng phát triển xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2005 - 2010
Từ nay đến năm 2004 (năm cuối cùng của giai đoạn 2000 -
2004), hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tiếp tục
được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) và chỉ riêng hàng dệt
may bị quản lý bằng hạn ngạch. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam vào thị trường này hàng năm gần như phụ thuộc hoàn toàn
vào hạn ngạch do phía EU ấn định. Tuy nhiên, theo Hiệp định bổ
sung hàng dệt may với EU được chính thức ký kết tại Hà Nội vào
tháng 9/2003, EU đã đồng ý tăng hạn ngạch dệt may cho Việt Nam
từ 55% đối với các hạng mục nhạy cảm nhất (như quần âu, áo sơ
mi) đến 70% [32]. Ngoài ra, trong những tới đây, Việt Nam có khả
năng tiếp tục xin được hạn ngạch dệt may của Singapore và
Indonesia trị giá 6%-10% hạn ngạch của Việt Nam. Hiện nay, một
số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU như giày dép, dệt
may và thủy hải sản đang có ưu thế hơn so với các mặt hàng cùng
loại của các nước ASEAN khác có trình độ phát triển kinh tế cao
hơn Việt Nam như Thái Lan, Indonesia,v.v... vì những mặt hàng của
họ đã bị loại khỏi danh sách được hưởng GSP. Thế nhưng nguy cơ
đe dọa đối với hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU lúc này
là cực kỳ lớn bởi đối thủ “nặng ký”nhất của ta lại là Trung Quốc và
sự quay trở lại của các nước ASEAN sau thời kỳ khủng hoảng. Tuy
có lợi thế về thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu vào EU, nhưng
chúng ta lại đang ở vào tình trạng không mấy thuận lợi trong cạnh
tranh.
Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của
chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và xoá bỏ hạn ngạch
đối với hàng dệt may của các nước là thành viên WTO, còn đối với
những nước không phải là thành viên WTO như Việt Nam thì chưa
có chính sách cụ thể. Cho đến nay, EU vẫn chưa đưa ra chương
trình thực hiện GSP cho thời kỳ từ 2005 trở đi, nhưng họ đang tiến
dần từng bước giảm thuế quan và giảm ưu đãi GSP. Tới một thời
điểm nhất định, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển khi
xâm nhập vào thị trường EU sẽ không được hưởng GSP nữa và phải
cạnh tranh bình đẳng với hàng của các nước phát triển, chịu cùng
một mức thuế như hàng của những nước này và không được hưởng
các ưu đãi khác.
Như vậy, thời kỳ 2005 - 2010 có thể xảy ra hai trường hợp: (1)
Việt Nam tiếp tục được hưởng GSP và riêng hàng dệt may vẫn
chịu sự quản lý bằng hạn ngạch của EU; (2) Hàng Việt Nam không
được hưởng GSP nữa và hàng dệt may cũng không bị quản lý bằng
hạn ngạch. Nếu xảy ra trường hợp (1) thì theo chương trình mở
rộng hàng hoá của EU, ưu đãi thuế quan dành cho các nước đang
phát triển sẽ ngày càng giảm và tiến tới chấm dứt. Do đó, được
hưởng GSP hay không được hưởng GSP và hàng dệt may vẫn bị
quản lý bằng hạn ngạch thì những năm này cũng chẳng dễ dàng gì
đối với xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU. Thời kỳ 2005-
2010, hàng xuất khẩu của Việt Nam khi thâm nhập vào EU sẽ gặp
khó khăn hơn nhiều so với thời kỳ 2000-2004. Nếu Việt Nam gia
nhập WTO trong thời kỳ này thì hàng xuất khẩu của ta sẽ thuận lợi
hơn khi thâm nhập vào EU so với thời kỳ 2000-2004.
EU là thị trường lớn, sức tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có những
khởi sắc về kinh tế trong thời kỳ 2004-2010 nên việc đẩy mạnh
xuất khẩu vào EU đang là một trong những trọng điểm của chính
sách thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh những nỗ lực
của Chính phủ, các ngành chủ đạo như da giày, dệt may và thủy
sản đang có những chương trình cụ thể để phát triển sản xuất và
tăng cường xuất khẩu sang EU. Còn các doanh nghiệp là nhân tố
có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của xuất khẩu cũng đang
nỗ lực vươn lên để thâm nhập và đứng vững trên thị trường EU (cải
tiến sản xuất: đẩy mạnh việc áp dụng tiêu chuẩn HACCP, ISO
9000, ISO 14000 để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các
tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và môi trường; phát huy tính
năng động..v.v...). Giai đoạn 2004-2010 tuy không mấy thuận lợi,
nhưng với những cố gắng của Chính phủ và các doanh nghiệp,
xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ vẫn trên đà phát triển, quy mô
buôn bán không ngừng gia tăng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có
thể sẽ giảm chút ít (tăng 30%/năm) so với thời kỳ 1995-2003 (tăng
36,6%/năm). Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam-EU sẽ chuyển biến
theo hướng tích cực: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến lên 90%
(có nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến sâu và tinh) và giảm mạnh
hàng nguyên liệu thô xuống 10%. Trong nhóm hàng công nghệ
phẩm, sẽ giảm mạnh tỷ lệ hàng gia công và tăng tỷ lệ xuất khẩu
trực tiếp (mua nguyên liệu của nước ngoài về sản xuất và xuất
khẩu), và tăng tỷ lệ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nội địa.
Cụ thể với ba nhóm hàng xuất khẩu truyền thống: giày dép,
dệt may và nông sản, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trưởng chậm
lại. Riêng thủy hải sản sẽ có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao hơn
so với thời kỳ 1995-2003 vì mặt hàng này đang có cơ hội thuận lợi
để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường EU (Mới đây, EU đã công
nhận 100 doanh nghiệp chế biến thủy hải sản của ta đạt tiêu
chuẩn chất lượng và vệ sinh, được xuất khẩu sang EU). Trong
nhóm hàng nông sản xuất khẩu sang EU, hạt điều sẽ có tốc độ
tăng trưởng cao vì vùng nguyên liệu đang được phát triển mạnh;
còn chè, cà phê và một số mặt hàng khác sẽ tăng trưởng chậm
hơn so với những năm trước. Hai mặt hàng giày dép và dệt may sẽ
có tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tăng lên và tỷ lệ nội địa hoá của sản
phẩm tăng nhanh.
Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau, môi trường
quốc tế thuận lợi, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và
toàn cầu hoá kinh tế và nỗ lực của Việt Nam, hoạt động xuất khẩu
hàng hoá của ta vào thị trường EU sẽ có bước chuyển biến vượt
bậc và phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm đầu thế kỷ mới.
Quy mô xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này sẽ được mở
rộng tương xứng với tiềm lực kinh tế của Việt Nam và nhu cầu
nhập khẩu của EU. Thị trường EU có thể sẽ chiếm tỷ trọng 21%-
25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2004-
2010.
VIII. Những giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng các quy định
và tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội
1. Giải pháp về phía Nhà nước
1.1 Tổ chức xây dựng và củng cố lại hệ thống tiêu
chuẩn quốc gia
Đổi mới hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam là một nhiệm vụ trọng
tâm trong hội nhập với quốc tế nhằm đẩy chất lượng hàng hoá
trong nước lên mức ngang tầm với các nước khác. Trước hết là việc
loại bỏ các tiêu chuẩn Việt Nam đã quá lạc hậu hay không phù hợp
với đối tượng của tiêu chuẩn hoá theo yêu cầu mới. Mặc dù trong
thời gian qua, đến 80% TCVN mới được ban hành là hoàn toàn
tương đương với tiêu chuẩn Quốc tế, nâng tỷ lệ TCVN được hài hoà
từ 15% năm 1995 đến 24% năm 2003. Tuy nhiên con số này vẫn
còn khiêm tốn nếu so sánh với mức độ hài hoà tiêu chuẩn của các
nước phát triển, đặc biệt là với Liên minh châu Âu.
Để thực hiện được mục tiêu này, Nhà nước cần tổ chức, xây
dựng các ban Kỹ thuật, cấp kinh phí đào tạo và hỗ trợ cho các nhà
khoa học, các chuyên gia từ các Viện nghiên cứu, các trường Đại
học, các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp tiến hành triển khai
những đề tài về hài hoà tiêu chuẩn Việt nam với tiêu chuẩn Quốc
tế.
Bên cạnh công tác xây dựng và củng cố hệ thống TCVN, công
tác phổ biến, khuyến khích và quản lý việc áp dụng các tiêu chuẩn
cũng không kém phần quan trọng. Nếu như hoạt động hô hào kêu
gọi sự hưởng ứng của các ngành, các doanh nghiệp không đem lại
nhiều hiệu quả thì nên sử dụng các biện pháp thiết thực hơn như:
đẩy mạnh hoạt động trao giải thưởng chất lượng cho các doanh
nghiệp; kiểm soát chặt chẽ, thẩm định chất lượng và áp dụng chế
tài nghiêm ngặt đối với các doanh nghiệp không đáp ứng các tiêu
chuẩn mang tính bắt buộc... Hoạt động kiểm tra chất lượng hàng
hoá xuất nhập khẩu cũng phải cải tiến (trước đây chỉ chú trọng
kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu) để đảm bảo ốn định và nâng
cao uy tín của hàng Việt Nam trên trường Quốc tế.
1.2 Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu
quả quản lý Nhà nước về chất lượng, môi trường và xã hội
Quản lý Nhà nước về chất lượng đã được thể chế hoá trong
Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá được Quốc hội thông qua năm
1999 và có hiệu lực thi hành từ năm 2000. Năm 2000, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội cũng đã thông qua Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Đồng thời, tại những thời điểm thích hợp, Chính
phủ cũng ban hành hàng loạt các Chỉ thị, Quyết định nhằm khắc
phục tình trạng vi phạm quy định về chất lượng của đối với hàng
xuất khẩu của ta. Sự ra đời của các văn bản pháp quy này có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đổi mới công tác quản lý chất
lượng trên toàn quốc, từ đó có thể nâng cao ý thức của các doanh
nghiệp xuất khẩu để cung cấp các sản phẩm xuất khẩu có chất
lượng cao. Tuy nhiên, việc đưa các quy định này vào thực tiễn vẫn
còn là một điều khó khăn, và thường là chỉ có tác dụng trong ngày
một ngày hai. Chính vì vậy mà tình trạng hàng hoá không đủ tiêu
chuẩn xuất khẩu vẫn còn phổ biến. Với tình thế như vậy, Nhà nước
cần mạnh tay hơn nữa, ban hành các quy định về xử phạt các
doanh nghiệp vi phạm Pháp lệnh và các chỉ thị, quy định đã đặt ra;
đồng thời xúc tiến công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật của các tổ chức, doanh nghiệp.
Đối với công tác Bảo vệ môi trường, hệ thống Pháp luật về Bảo
vệ môi trường của Việt Nam còn chưa thật hoàn chỉnh nền không
khuyến khích được doanh nghiệp thực hiện tốt công tác này. Vì
thế, Nhà nước cần:
+ Trong Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175-CP hướng
dẫn thi hành Luật, cần có nhiều quy định cụ thể hơn nữa về Bảo vệ
môi trường đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Thực tế là những quy định chung trong Luật bảo vệ môi
trường và Nghị định nói trên á dụng với mọi đối tượng, moi tầng
lớp xã hội. Riêng đói với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp thì sự điều chỉnh và quản lý thông qua các quy định
cụ thể còn rất hạn chế. Một số biện pháp hữu hiệu có thể tham
khảo là: (1) Thu phí, thuế và các khoản thu khác liên quan đến môi
trường; (2) Hạn ngạch/giấy phép môi trường có thể trao đổi được;
(3) Đặt cọc phí tái chế đối với một số loại sản phẩm (ví dụ: các loại
vỏ đồ hộp); (4) Các biện pháp kiểm dịch động, thực vật và các tiêu
chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm; (5) Các yêu cầu về bao
gói (hiện nay chưa có); (6) Các yêu cầu về hàm lượng nguyện liệu
được tái chế; (7) Giới thiệu và đưa ra nhãn mác sinh thái như một
dấu hiệu bảo vệ môi trường. Đồng thời củng cố nhiệm vụ và chức
năng của Nhà nước trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường, đặc biệt là
trong khâu giám sát thực hiện các quy định.
+ Ban hành Luật Thuỷ sản và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật để thay thế Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản
(1989) do Pháp lệnh này đã bộc lộ những hạn chế, ảnh hưởng đến
quản lý và phát triển ngành.
Về vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực tế là Bộ
luật lao động của Việt Nam đã bao trùm các yêu cầu cơ bản của
các bộ Quy tắc ứng xử mà nếu có thì phía nước ngoài sẽ yêu cầu.
Nhưng việc áp dụng đúng các quy định trong Bộ luật lại rất hiếm.
Ví dụ đơn giản như luật Phòng cháy chữa cháy. Khi các chuyên gia
đánh giá phỏng vấn ban lãnh đạo các doanh nghiệp về vấn đề
kiểm tra của PCCC đối với các doanh nghiệp, đều phát hiện ra rằng
ngay cả PCCC cũng không áp dụng đúng luật. Một trường hợp cụ
thể là thời hạn kiểm tra định kỳ hệ thống PCCC, có những công ty
cả 2 năm trời không đuợc gặp PCCC đến một lần. Còn các trường
hợp vi phạm an toàn vệ sinh lao động thì rất phổ biến. Như vậy,
mấu chốt ở đây là việc thực thi Bộ luật Lao động của Việt Nam cần
được Bộ lao động-Thương binh-Xã hội giám sát chặt chẽ hơn nữa,
không chỉ để cải thiện cuộc sống và môi trường làm việc của người
lao động mà còn thể hiện trách nhiệm đạo đức trước các đối tác
nước ngoài.
Ngoài ra trước hiện tượng nhiễu sóng thông tin về chứng chỉ
SA 8000, Nhà nước cần có biện pháp quản lý đối với các tổ chức
môi giới, tư vấn và cấp phát chứng chỉ, không để các doanh nghiệp
rơi vào tình trạng lầm tưởng đây là chứng chỉ tất yếu phải có khi
muốn thâm nhập vào thị trường EU. Bộ Lao động-Thương binh-Xã
hội nên tổ chức các cuộc hội thảo về chủ đề này, giúp các doanh
nghiệp có định hướng cụ thể sao cho phù hợp nhất với ngành nghề
và điều kiện của mình.
1.3 Hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các quy định và
tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của EU
Hỗ trợ tài chính: Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ (đặc biệt trong những ngành may mặc,
chế biến nông sản, thuỷ sản, chế biến gỗ, sản xuất gốm sứ....) nên
rất hạn chế vốn trong việc đổi mới công nghệ sản xuất cũng như
đầu tư trang thiết bị xử lý môi trường. Chính vì vậy, nhà nước nên
có các biện pháp hỗ trợ hơn nữa về mặt tài chính như: (1) Miễn
thuế thu nhập từ 2-4 năm cho các doanh nghiệp chế biến xuất
khẩu, đặc biệt với các doanh nghiệp sản xuất hàng có hàm lượng
giá trị gia tăng cao. Dành thuế ưu đãi đặc biệt cho các doanh
nghiệp thực hiện tốt công tác môi trường và xã hội; (2) Ưu tiên cho
các doanh nghiệp này vay vốn từ các nguồn tín dụng ưu đãi; (3)
Nhà nước dành vốn ngân sách hỗ trợ đầu tư hàng năm cho các
chương trình quy hoạch vùng sản xuất, các trung tâm giống quốc
gia để tạo ra các giống sạch và có chát lượng (đối với các ngành
nông nghiệp và thuỷ sản), đầu tư xây dựng các trạm quan trắc
cảnh báo môi trường...
Hỗ trợ thông tin: Thông tin về thị trường xuất khẩu có vai trò
rất quan trọng giúp cho các doanh nghiệp biết được nhu cầu, thị
hiếu của người tiêu dùng về các chủng loại sản phẩm và các quy
định của thị trường để đáp ứng. Với hoạt động này, Nhà nước nên
chỉ đạo tích cực tạo ra nhiều kênh thông tin tới các doanh nghiệp,
như các ấn phẩm, trang Web, trung tâm cung cấp thông tin ..v.v.
HIện nay đã có không ít ấn phẩm và trang Web của các cơ quan
hữu quan được xây dựng nhằm mục đích này (như Bộ Thuỷ sản, Bộ
Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam...) nhưng nội dung về thị
trường vẫn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống và không mang tính cập
nhật (đặc biệt là các thông tin trên Web).
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành chức năng cần phối hợp tổ chức
các cuộc hội thảo giới thiệu cho các doanh nghiệp về những quy
định chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với từng loại hàng
hoá xuất khẩu, đặc biệt tập trung vào việc giải thích nhưng quy
định, tiêu chuẩn mới, đánh giá những ảnh hưởng của chúng đối với
hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đó đưa ra định hướng, hướng dẫn cho
các doanh nghiệp khắc phục các rào cản kỹ thuật này.
Xây dựng cơ chế phối hợp hợp lý giữa các doanh nghiệp với
các cơ quan quản lý Nhà nước. Một giải pháp hữu hiệu là xây dựng
các hiệp hội ngành hàng (theo từng địa bàn hoặc theo từng lĩnh
vực kinh doanh) để có thể đại diện trực tiếp cho tiêng nói của các
doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Hỗ trợ đào tạo nhân lực: Đầu tư cho việc đào tạo các chuyên
gia về xây dựng và đánh giá tiêu chuẩn chất lượng, xã hội và môi
trường trong mỗi ngành nghề, nâng cấp các thiết bị chuyên dụng
phục vụ cho công tác đánh giá đó. Xây dựng các chương trình đào
tạo thí điểm đối với các doanh nghiệp xuất khẩu (có nhu cầu cấp
thiết nhất). Chương trình thí điểm một mặt sẽ góp phần nâng cao
kiến thức, kỹ năng và ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp về
quản lý chất lượng, môi trường và xã hội, đồng thời cho phép đánh
giá được nhu cầu và sự quan tâm của giới doanh nghiệp đối với
vấn đề này để có những giải pháp cụ thể hơn.
Hỗ trợ giải quyết tranh chấp vi phạm các quy định và tiêu
chuẩn của EU, bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp thông qua đàm
phán thương mại: Với vị thế bất lợi trong thương mại quốc tế, các
doanh nghiệp thường bị thiệt thòi khi phải theo đuổi các vụ kiện
hoặc tranh chấp phát sinh do vi phạm của một trong các bên liên
quan. Hơn nữa, các nước phát triển ngày càng tìm cách tận dụng
tối đa những công cụ được coi là hợp pháp trong thương mại quốc
tế để gây khó dễ cho các doanh nghiệp xuất khẩu từ các nước
đang phát triển như: áp dụng các tiêu chuẩn và các biện pháp hạn
chế thương mại vì mục đích bảo vệ môi trường, vì mục đích đạo
đức xã hội... Vì thế, vai trò của Nhà nước là (1) Có tiếng nói chính
thức bảo vệ doanh nghiệp trên trường quốc tế trong các trường
hợp như phía đối tác tuyên truyền bất lợi cho ta; (2) Tư vấn cho
các doanh nghiệp về mặt chuyên môn pháp lý, cung cấp hoặc giới
thiệu những luật sư tin cậy chuyên trách về giải quyết tranh chấp
thương mại; (3) Trong quá trình đàm phán, yêu cầu các đối tác mở
cửa thị trường, ví dụ như gia tăng hạn ngạch dệt may, nâng cao
ngưỡng phát hiện dư lượng kháng sinh đối với nông, thuỷ sản...
1.4 Các giải pháp khác
Có chính sách quản lý chặt chẽ đối với hoạt động nhập khẩu
theo hướng hạn chế nhập khẩu những hàng hoá có khả năng gây ô
nhiễm môi trường, không đảm bảo vệ sinh an toàn và sức khoẻ
của người lao động trong quá trình lao động như: hoá chất, phân
bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh cấm
sử dụng, dây chuyền chế biến lạc hậu... Đồng thời khuyến khích
nhập khẩu công nghệ chế biến sạch, công nghệ ít gâyô nhiễm môi
trường, thiết bị xử lý chất thải...
Cần có chính sách hình thành các tổ hợp sản xuất, chế biến
khép kín (đặc biệt trong nông nghiệp và thuỷ sản) để các doanh
nghiệp có điều kiện thuận lợi áp dụng HACCP một cách triệt để.
Hiện nay ở Việt Nam rất khó áp dụng HACCP một cách triệt để và
khép kín vì nuôi trồng tách riêng với chế biến. Trong khi các doanh
nghiệp áp dụng HACCP thì các hộ nông dân nuôi trồng lại không
tuân thủ quy định vì muốn thu lợi nhuận cao nên nguyên liệu cung
cấp nhiều khi không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, dẫn đến sản
phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
2. Giải pháp về phía các doanh nghiệp
2.1 Cập nhật và hiểu rõ các quy định và tiêu chuẩn
về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với sản
phẩm doanh nghiệp cung cấp
Hệ thống các quy định và tiêu chuẩn của EU đối hàng hoá
nhập khẩu khá phức tạp và ngặt nghèo. Ngoài những quy định
chung về an toàn sản phẩm (Product Safety), Luật thực phẩm,
Luật bảo vệ môi trường... còn có vô số các chỉ thị riêng cho các
nhóm sản phẩm khác nhau (Directives). Đa phần mỗi quy định lại
được điều chỉnh bởi nhiều chỉ thị. Vì vậy không thể chỉ đọc 01 chỉ
thị trong số các chỉ thị điều chỉnh 1 quy định mà có thể hiểu được
quy định đó. Ví dụ như: quy định về chất phụ gia trong thực phẩm
được điều chỉnh bởi 04 chỉ thị: Chỉ thị 94/35/EEC đối với chất làm
ngọt, Chỉ thị 94/36/EEC đối với phẩm màu, Chỉ thị 88/388/EEC đối
với hương liệu, Chỉ thị 95/2/EC đối với các p hụ gia thực phẩm
khác. Vì vậy muốn hiểu rõ một quy định của EU phải đọc kỹ tất cả
các chỉ thị liên quan đến quy định đó. Chưa kể đến các tiêu chuẩn
chất lượng EN áp dụng cho sản phẩm sản xuất và lưu thông trong
khối EU, nếu các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu và tuân thủ sẽ là
thuận lợi lớn khi đưa hàng hoá vào thị trường này.
Một thực tế hiện nay là nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi xuất
khẩu vẫn chỉ làm hàng theo khả năng chứ chưa đón bắt nhu cầu từ
phía đối tác. Vì vậy, công tác tìm hiểu thị trường vẫn còn rất yếu
kém, nhiều doanh nghiệp không nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động này vì sợ tốn kém chi phí. Do đó mà hiện tượng “có
nghe nói về quy định này nhưng không biết rõ vì chưa được đọc
văn bản, chỉ biết rằng EU đưa ra yêu cầu rất khắt khe”là khá phổ
biến.
2.2 Tăng cường áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn
quốc tế về chất lượng, môi trường và xã hội.
Các tiêu chuẩn quốc tế như tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO
9001, tiêu chuẩn quản lý môi trường 14001, tiêu chuẩn HACCP... là
những tiêu chuẩn chung được nhiều nước hưởng ứng và khuyến
khích áp dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam - trước hết là các
doanh nghiệp xuất khẩu - cần phải nhận thức rõ được tầm quan
trọng của các tiêu chuẩn này vì khi có các chứng chỉ, doanh nghiệp
không chỉ lấy được lòng tin của các bạn hàng mà còn cải thiện quy
trình quản lý sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng
suất lao động, đem lại lợi ích kinh tế về lâu dài cho doanh nghiệp.
Cụ thể với hệ thống HACCP đòi hỏi phải áp dụng và tuân thủ
triệt để các quy định ngay từ khâu nuôi trồng, đánh bắt, cho đến
khâu chế biến. Đây là một điều rất khó thực hiện đối với các doanh
nghiệp chế biến nông, thuỷ sản của ta vì người nuôi trồng, khai
thác nông, thủ sản là các hộ nông dân rất phân tán. Vì vậy, các
doanh nghiệp chế biến nên liên kết với các hợp tác xã nông
nghiệp, nông trường... để hình thành các tổ hợp sản xuất lớn và áp
dụng hệ thống HACCP. Chú trọng áp dụng hệ thống HACCP một
cách thực sự, tránh tình trạng áp dụng tiêu chuẩn này mang tính
hình thức để đối phó với thị trường nhập khẩu như hiện nay đang
diễn ra ở các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
Ngoài ra, nhằm vượt qua thách thức về yêu cầu ngày càng
tăng của thị trường, việc áp dụng phương pháp quản lý chất lượng
tổng thể (TQM - Total Quality Management) có thể là một giải
pháp. TQM là một phương pháp quản lý giải quyết từng vấn đề
trong đó cốt lõi là chất lượng trong mọi khía cạnh và nhiệm vụ của
quá trình hoạt động. Khi áp dụng TQM, nhà xuất khẩu không
những phải trải qua các giai đoạn như ISO 9000 và ISO 14000 và
các vấn đề bắt buộc như nhãn hiệu CE, HACCP mà còn phải chú ý
tới tác động đối với xã hội. Tất nhiên, TQM không phải là điều kiện
để thành đạt ở thị trường châu Âu. Song, nó có thể cung cấp cho
các doanh nghiệp một công cụ quản lý hữu ích. Nó tạo ra một môi
trường cho việc liên tục cải tiến hoạt động mà các doanh nghiệp có
thể cần để vượt qua đối thủ cạnh tranh và đáp ứng những kỳ vọng
của khách hàng và yêu cầu của thị trường ở mức độ cao.
2.3 Đổi mới công nghệ và phương thức sản xuất
Các ngành sản xuất xuất khẩu của Việt Nam sở dĩ yếu kém về
chất lượng đều do những hạn chế về trang thiết bị và công nghệ
(như đã phân tích ở phần thực trạng). Do đó, đổi mới trang thiết bị
và công nghệ là một yêu cầu tất yếu nếu các doanh nghiệp xuất
khẩu muốn vươn xa trên trên thị trường quốc tế.
Đối với các ngành công nghiệp nhẹ (dệt may, giày dép, sản
xuất đồ gỗ...), máy móc thiết bị hiện chủ yếu là những loại đã lạc
hậu, năng suất thấp. Để phát triển ngành sang một bước mới cần
nỗ lực đầu tư để bắt kịp với công nghệ trong khu vực và thế giới.
Trường hợp các doanh nghiệp chưa có điều kiện tài chính, có thể
sử dụng hình thức thuê tài chính để đổi mới năng lực sản xuất của
mình, tạo dựng tên tuổi và uy tín với đối tác nước ngoài. Bên cạnh
đó, phương thức gia công xuất khẩu kéo dài không những đem lại
hiệu quả kinh doanh ít mà còn làm cùn khả năng tự vận động, tự
sáng tạo của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực
này nên từng bước vươn tới đầu tư xây dựng một hệ thống hoạt
động kỹ nghệ liên hoàn với 4 khâu: sáng tạo thiết kế, thu mua
nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất và thương mại trực tiếp.
Đối với các doanh nghiệp chế biến nông, thuỷ sản thì phương
thức sản xuất và công nghệ chế biến đóng vai trò quyết định trong
việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Đồng thời, nếu phương
thức sản xuất và công nghệ chế biến không thích hợp còn gây ô
nhiễm môi trường, khiến cho các doanh nghiệp vi phạm quy định
về môi trường của EU. Do vậy, việc cần thiết là phải (1) cải tiến,
nâng cao kỹ thuật các trang thiết bị dùng trong chế biến, (2) thay
đổi các công nghệ gây ô nhiễm môi trường bằng các công nghệ
sạch (với các doanh nghiệp hạn chế về tài chính không có khẳ
năng thay thế toàn bộ dây chuyền lạc hậu thì có thể lắp đặt bổ
sung các thiết bị chống và xử lý ô nhiễm môi trường cho dầy
chuyền đang vận hành), (3) tìm hiểu và từng bước tuân theo quy
trình canh tác nông nghiệp đảm bảo GAP để cung cấp các sản
phẩm chế biến sạch.
Ngoài ra, một trong những phương pháp thâm nhập thị trường
EU hữu hiệu của hàng nông, thuỷ sản Việt Nam hiện nay là nuôi
gia công. Với trình độ nuôi trồng và chế biến của ngành còn thấp
như hiện nay thì khi nuôi gia công, các doanh nghiệp sẽ không chỉ
được cả lợi ích kinh tế mà còn học được phương pháp nuôi trồng
nông, thuỷ sản đạt tiêu chuẩn chất lượng, từ đó tạo dựng chỗ đứng
ban đầu cho mình trên thị trường rộng lớn này. Theo phương pháp
này, giống nông thuỷ sản, kỹ thuật, chuyên gia, thức ăn và phương
pháp nuôi do EU cung cấp và hướng dẫn thực hiện. Phía EU sẽ cử
chuyên gia sangViệt Nam để hướng dẫn phương pháp nuôi, giám
sát hoạt động nuôi và nghiệm thu sản phẩm, sau đó chuyên gia EU
sẽ kiểm tra chất lượng sản phẩm và dán nhãn mác hàng của EU
trước khi xuất khẩu sang thị trường này. Hiện nay, công ty xuất
nhập khẩu thuỷ sản Seaprodex đã tiến hành nuôi tôm gia công cho
Nhật Bản, kết quả thu được rất khả quan, giá tôm xuất khẩu và giá
trị gia tăng của sản phẩm rất cao.
2.4 Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước trong
việc giải quyết vướng mắc thị trường
Giải pháp này được đưa ra dựa trên trường hợp điển hình về
xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang EU bị vi phạm quy
định về dư lượng kháng sinh của EU trong thời gian gần đây. Thời
kỳ đầu chỉ có một số doanh nghiệp có lôhàng vi phạm, các doanh
nghiệp này đã không báo cáo với Bộ Thuỷ sản để được giúp đỡ mà
tự tìm cách giải quyết với đối tác EU, nhưng cuối cùng vẫn không
thể giải quyết được (không lấy được tiền mà cũng không xin lại
được hàng để xuất sang các thị trường khác). Cho đến khi số lô
hàng thuỷ sản Việt Nam vi phạm quy định của EU nhiều hơn, Uỷ
ban châu Âu đã chính thức thông báo cho Bộ Thuỷ sản về tình
trạng này và kể từ tháng 9/2001, EU áp dụng biện pháp kiểm tra
tăng cường đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam (kiểm
tra 100% các lô hàng xuất khẩu, trong khi trước đây hàng thuỷ sản
của ta chỉ bị EU kiểm tra xác suất 5%). Như vậy, hàng thuỷ sản
xuất khẩu của tất cả các doanh nghiệp (gồm cả doanh nghiệp
chưa có lô hàng bị vi phạm) đều bị kiểm tra 100%, gây bất lợi cho
các doanh nghiệp và mất uy tín đồng loạt trên các thị trường xuất
khẩu.
Nếu như ngay từ đầu, các doanh nghiệp có lô hàng vi phạm
phối hợp với các cơ quan chức năng tỏng việc giải quyết vướng
mắc thị trường (Bộ Thuỷ sản thực hiện các biện pháp hạn chế sử
dụng dư lượng kháng sinh bị cấm; Bộ Thương mại chủ động đàm
phán với phía EU để tìm cách giúp các doanh nghiệp tháo gỡ...) thì
chúng ta đã sớm ngăn chặn được tình trạng các lô hàng thủy sản
liên tiếp bị EU từ chối và tiêu huỷ
2.5 Các giải pháp khác
Thứ nhất, tích cực tham gia các cuộc hội thảo do phía Việt
Nam, Liên minh châu Âu hoặc cả hai bên phối hợp tổ chức về đẩy
mạnh xuất khẩu sang EU, giới thiệu các quy định và tiêu chuẩn về
chất lượng, môi trường và xã hội của đối với hàng nhập khẩu. Trên
cơ sở nguồn thông tin này, đưa ra phương hướng thích hợp điều
chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình để đảm bảo cung
cấp cho thị trường này các sản phẩm phù hợp, đạt yêu cầu.
Thứ hai, chủ động tiếp cận với các quy định của EU bằng nhiều
cách: Thông qua thương vụ của Việt Nam ở các nước thành viên
EU; Phái đoàn EC tại Hà Nội; Phòng Thương mại châu Âu tại Việt
Nam; Trung tâm xúc tiến thương mại; Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam; Trung tâm nghiên cứu châu Âu, đối tác EU; mạng
Internet....
Thứ ba, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến
tác động của các quy định và tiêu chuẩn của EU đối với hàng nhập
khẩu vào thị trường này.
Thứ tư, thành lập các bộ phận quản lý chất lượng và môi
trường với trách nhiệm kiểm tra định kỳ, giám sát chất lượng, môi
trường trong doanh nghiệp.
Thứ năm, rà soát lại hồ sơ kiểm soát nguyên liệu của các lô
hàng đang trên đường tới các nước EU để triệu hồi về nước những
lô hàng được sản xuất bằng nguồn nguyên liệu không đảm bảo.
Thứ sáu, tìm thị trường thay thế, hạn chế xuất khẩu vào EU
những lô hàng chưa được giám định chắc chắn về chất lượng và
môi trường .
Kết luận
Số lượng hàng rào kỹ thuật trong thương mại đang tăng lên
được coi là mối đe dọa chủ yếu đối với nhà xuất khẩu ở các nước
đang phát triển. Nhiều doanh nghiệp đang bị mất cơ hội kinh
doanh do những đòi hỏi ngày càng tăng về lượng, môi trường và
trách nhiệm xã hội từ phía đối tác nước ngoài. Vụ việc các lô hàng
thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam trong hai năm 2001, 2002 liên
tiếp bị phát hiện vi phạm quy định của EU về dư lượng kháng sinh,
dẫn đến bị tiêu huỷ và phải chịu chế độ kiểm tra 100% khiến
ngành thuỷ sản gặp không ít khó khăn, đồng thời ảnh hưởng đến
uy tín tại các khu vực thị trường khác có thể coi là một bài học đắt
giá. Do đó, đáp ứng các tiêu chuẩn là điều kiện sống còn cho các
doanh nghiệp Việt Nam để trụ vững và thành công trên thị trường
châu Âu.
Với quy mô giới hạn, khoá luận đã giải quyết được một số vấn
đề sau:
Trình bày tóm gọn những quy định chung nhất (bắt buộc hoặc
không bắt buộc) về chất lượng, môi trường và xã hội mà EU hiện
đang áp dụng cho hàng hoá lưu thông trên thị trường, và do đó
cho cả hàng hoá nhập khẩu
Đánh giá khái quát năng lực của Việt Nam đáp ứng các quy
định và tiêu chuẩn đó như: mức độ hài hoà tiêu chuẩn của Việt
Nam với EU nói riêng và quốc tế nói chung, tình hình áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng ISO 9000 và môi trường ISO 14000, thực
tế áp dụng các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho
người tiêu dùng trong sản xuất hàng công nghiệp chế tạo, nông
thuỷ sản và thực phẩm... Đồng thời khoá luận cũng đi sâu vào
phân tích khả năng đáp ứng các quy định đó của 4 ngành hàng
xuất khẩu chính: da giày, dệt may, nông sản, và thuỷ sản
Đề xuất một số giải pháp khắc phục tình trạng yếu kém của
các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đáp ứng các quy định và
tiêu chuẩn của EU, như: thu phí môi trường, đặt cọc phí tái chế đối
với một số loại sản phẩm; áp dụng phương pháp quản lý chất
lượng tổng thể TQM; nuôi gia công nông, thuỷ sản cho các đối tác
EU...
Trên hết, các doanh nghiệp cần hiểu rằng đáp ứng các tiêu
chuẩn này phải dựa trên chiến lược lâu dài, chứ không chỉ là các
biện pháp đối phó ngày một ngày hai.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
danh mục tài liệu trích dẫn
[1] “Kim ngạch xuất khẩu năm 2002, ước năm 2003 và dự báo
năm 2004 theo thị trường các nước”- Tạp chí Ngoại Thương - Số
21-30/10/2003 - Trang 6.
[2] “Làm ăn với ngôi sao “mọc muộn”“- Thời báo kinh tế Sài Gòn -
29/08/2002).
[3] “European Union and World Trade”- Basic Statistic for European
Union Trade for years 2001, 2002.
[4] Liew Mun Leong (chủ tịch tổ chức ISO) - “Tiêu chuẩn trong cuộc
sống hàng ngày”- Hội thảo tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá
quốc tế và khu vực - Tổng cục TCĐLCL - 2002.
[5] Dương Xuân Chung - “Hoà hợp về tiêu chuẩn với khu vực và thế
giới”- Hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và
khu vực”- Tổng cục TCĐLCL - 2002
[6] Định nghĩa của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO), trong
dự thảo DIS 9000:2000
[7] Ông I.J.Day (Chủ tịch BVQI, U.K) - “Chứng nhận EMS hệ thống
quản lý môi trường”- Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ hai -
Tổng cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng - 11/1997
[8] Nguyễn Mạnh Cường - “Nhận biết vấn đề trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập Quốc Tế”-
Hội thảo về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp CSR - Bộ LĐ-
TB-XH - 2002.
[9] “Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển 1962 - 2002”- Tổng
cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng - NXB KH&KT
[10] Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of
ISO 9000 and ISO 14000 - Twelfth Cycle: up to and including
December 2002" - www.iso.org - 2003
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38[11] Vietnam Investment Review - 21-27 December, 2002 -
www.vir.com.vn
[12] “EU huỷ bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với 6 doanh nghiệp”- Tạp
chí Thông tin Khoa học Công nghệ Thuỷ sản - số tháng 8/2003 -
www.fistenet.gov.vn
[13] Thanh Liêm - “Thực trạng, giải pháp quản lý chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm”- Tạp chí TCĐLCL - Số 8(49)/2003 -
Trang 16.
[14] Thanh Liêm - “Nông sản thực phẩm và hoạt động tiêu chuẩn
hoá trong lĩnh vực NSTP ở Việt Nam”- Tạp chí TCĐLCL - Số
7/2003 - Trang 42
[15] Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of
ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”-
www.iso.org - 2003.
[16] Phùng Thị Vân Kiều - Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ của Nhà
nước về bảo vệ môi trường: “Các quy định về môi trường của
Liên minh châu  u (EU) đối với nhập khẩu hàng nông, thuỷ
sản và các giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn môi
trường đối với hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU”-
Viện nghiên cứu Thương mại - 09/2003.
[17] Tổ chức SAI - “SA 8000 Certified Facilities, up dated
September, 2003”-
www.sa-intl.org/Accreditation/Certification.htm
[18] Bình Yên & Phong Lan - “Doanh nghiệp không buộc phải mua
chứng chỉ SA 8000”- Báo điện tử VnExpress ngày 24/8/2002 -
www.vnexpress.net
[19] Cao Huệ Anh & Vũ Đức Thắng - “Đánh giá và chứng nhận SA
8000 - Một số thuận lợi và khó khăn”- Hội nghị toàn quốc Câu
lạc bộ ISO Việt Nam - kỷ niệm 2 năm thành lập CLB - 02/2002
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38[20] Phi Hùng - “Có cần tốn tiền mua SA 8000?”- Báo Doanh
nghiệp - Số 34 (22/8/02 - 28/8/02) - Trang 5
[21] EU Economic and Commercial counsellors - “2003 Annual
Report”- the European Commision’s Delegation in Vietnam -
www.delvnm.cec.eu.int - May, 2003.
[22] “Tình hình sản xuất kinh doanh 5 tháng đầu năm 2003 của
ngành da giày Việt Nam”- Bản tin hàng tháng của Hiệp hội da
giày Việt Nam, số tháng 6/2003 - www.lefaso.org.vn
[23] Thông tin chuyên đề “Thực trạng và tiềm năng trong quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và EU”- Phòng thông tin tư liệu - Viện
nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại - 2002
[24] Trần Khắc Kiên - “Thực trạng và định hướng phát triển ngành
công nghiệp da giày Việt Nam trong thời gian tới”- Hội thảo
“Chương trình mục tiêu phát triển ngành da giày Việt Nam”-
Hiệp hội da giày Việt Nam - 5/2002
[25] Số liệu thống kê của Tổng Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất
lượng - www.tcvn.gov.vn - cập nhật đến tháng 9/2003.
[26] Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại (Chu Viết Luân chủ
biên) - “Dệt may Việt Nam - Cơ hội và thách thức”- Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia - 2003.
[27] “Xuất khẩu dệt may sang EU sẽ nóng dần lên”- Tạp chí Ngoại
Thương Số 21-31/7/2003 - Trang 14.
[28] Nguyễn Cao Bình (Tổng công ty dệt may Việt Nam) - “Thực
trạng thiết bị và công nghệ ngành dệt may Việt Nam”- Báo cáo
tại Hội thảo xúc tiến xuất khẩu dệt may sang EU - Trung tâm
đầu tư và xúc tiến thương mại Tp. Hồ Chí Minh (ITPC) - 6/2003.
[29] Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Việt Nam (European
Commission’s Delegation in Vietnam) - www.delvnm.cec.eu.int -
2002.
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38[30] Thu Phương - “HACCP với việc mở rộng thị trường xuất khẩu
thuỷ sản”- Tạp chí Thuỷ sản - số tháng 1/2003 -
www.fistenet.gov.vn
[31] Đình Chúc - “Liên minh châu  u mở rộng từ 15 lên 25 thành
viên: Những thách thức mới đối với doanh nghiệp Việt Nam”-
Báo Lao động điện tử - www.laodong.com.vn - Số 282, ngày
9/10/2003.
[32] “Hạn ngạch dệt may của Việt Nam vào EU sẽ tăng từ 55-
70%”- Báo Lao động điện tử - www.laodong.com.vn - Số ra ngày
9/9/2003.
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
danh mục tài liệu tham khảo
I. Danh mục Tiếng Việt
1. Đinh thị Quỳnh Anh - Khoá luận tốt nghiệp “Thực trạng và giải
pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang thị trường EU giai đoạn 2000 - 2010”- Trường Đại học
Ngoại Thương - 2001.
2. Nguyễn Mạnh Cường - “Nhận biết vấn đề trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập Quốc Tế”-
Hội thảo về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp CSR - Bộ LĐ-
TB-XH - 2002.
3. Nguyễn Thái Hùng - Báo cáo “Hài hoà tiêu chuẩn trong lĩnh
vực thuỷ sản”- Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng - Tổng cục
TCĐLCL - 2002
4. Phùng Thị Vân Kiều - Đề tài khoa học cấp Bộ “Các giải pháp
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị
trường EU giai đoạn 2000 - 2010”- Viện nghiên cứu Thương
mại - Bộ Thương mại - 2000.
5. Phùng Thị Vân Kiều - Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ của Nhà
nước về bảo vệ môi trường: “Các quy định về môi trường của
Liên minh châu  u (EU) đối với nhập khẩu hàng nông, thuỷ
sản và các giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn môi
trường đối với hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU”-
Viện nghiên cứu Thương mại - 09/2003.
6. Chu Viết Luân (chủ biên) - Sách “Dệt may Việt Nam - Cơ hội và
thách thức”- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 2003.
7. Đỗ Thị Ngọc - Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế “Nghiên cứu xây
dựng mô hình quản lý chất lượng phù hợp với các doanh
nghiệp Việt Nam”- Trường ĐH Thương Mại - 2000.
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K388. Trần Sửu & Nguyễn Chí Tụng (Trường Đại học Ngoại Thương) -
“Quản lý chất lượng hàng hoá và dịch vụ”- NXB Khoa học Kỹ
thuật - 1996.
9. Nguyễn Văn Xuân - Báo cáo “Hài hoà tiêu chuẩn trong lĩnh vực
nông sản thực phẩm”- Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng - Tổng
cục TCĐLCL - 09/ 2002
10. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam & Trung tâm
thông tin châu Âu tại Việt Nam - Sách “Kinh doanh với thị
trường EU”- 2002.
11. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - Sách “EU- thị
trường xuất khẩu”- 2001.
12. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Thực trạng và
tiềm năng trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU”-
Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại - 2002
13. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Tình hình sản
xuất và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 2002”- Viện nghiên
cứu Thương mại - 12/2002.
14. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Quan hệ thương
mại của Việt Nam với một số nước và khu vực”-- Viện nghiên
cứu Thương mại - 8/2002.
15. “Niên giám thông kê 2002”- NXB Thống kê - 2002.
16. “Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển 1962 - 2002”- Tổng
cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng - NXB KH&KT - 2002
17. “Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175 CP hướng dẫn thi
hành Luật”- NXB Chính trị Quốc gia - 1997
18. “Bộ luật lao động Việt Nam”- NXB Chính trị Quốc gia - 2002
19. “Một số văn bản qui phạm pháp luật về tiêu chuẩn đo lường
chất lượng”- Tổng cục TCĐLCL - 2002.
20. “Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 - Các yêu cầu”-
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
2000
21. Báo cáo “Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ 2”- Tổng cục
TCĐLCL - 11/1997
22. Báo cáo “Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ 4”- Tổng cục
TCĐLCL - 2001
23. Báo cáo “Hội thảo về hệ thống quản lý chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm theo HACCP”- Vụ kỹ thuật - Bộ thuỷ sản -
09/2001.
24. Báo cáo hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế
và khu vực”- Tổng cục TCĐLCL - 2002.
25. Báo cáo “Hội nghị toàn quốc - Câu lạc bộ ISO Việt Nam - kỷ
niệm 2 năm thành lập CLB”- 02/2002
26. Báo cáo “Hội nghị tổng kết hoạt động uỷ ban tiêu chuẩn hoá
thực phẩm Việt Nam”- 06/2003.
27. Tạp chí “Ngoại Thương”- Các số tháng 6, 7, 8, 9, 10 năm 2003
28. Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới”- Số 1(75) 2002; 2(82)
2003.
29. Tạp chí “Người lao động”- Số 08/2002.
30. Tạp chí “Doanh nghiệp”- Số 08/2002.
31. Tạp chí “Tạp chí TCĐLCL”- Các số 10(27) năm 2001; 3(44),
5(46), 6(47), 7(48), 8(49) năm 2003.
32. Tạp chí “Nghiên cứu châu  u ”- Số 3(51).2003
33. Các trang web www.europa.eu.int/eur-lex;
www.newapproach.org; www.eu.int/eurostat.html,
www.tcvn.gov.vn; www.agroviet.gov.vn; www.fistenet.com.vn,
www.lefaso.org.vn, www.laodong.com.vn, www.vnn.vn
II. Danh mục Tiếng Anh
1. EU Economic and Commercial counsellors - “2003 Annual
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
Report”- the European Commision’s Delegation in Vietnam -
www.delvnm.cec.eu.int - May, 2003.
2. International Organization for Standardardization (ISO) -
“Environmental management systems ISO 14001 -
Specification with guidance for use”- First Edition 09/1996.
3. International Organization for Standardization - "The ISO
Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including
December 2002”- www.iso.org - 2003.
4. Social Accountability International (SAI) - “SA8000”- www.sa-
intl.org.
5. Social Accountability International (SAI) - “SA8000 Certified
Facilities”- updated September 30, 2003 -
www.sa-intl.org/Accreditation/Certification.htm
6. “Directive 92/2/EC on Food Additives”- www.cbi.nl
7. “Directive 94/62/EEC on Packaging and Packaging Waste”-
www.cbi.nl
8. “Directive 2001/95/EEC on General Product Safety”- Official
Journal of the European Communities - 15/01/2002.
9. “Directive 91/493/EEC laying down the health conditions for
the product and the placing on the market of fishery
products”- www.cbi.nl
10. “Guide to the implementation of Directive based on the New
Approach and the Global Approach - CE marking”-
europa.eu.int/celex
11. “Pan-European Biological and Landscape Diversity Strategy:
Good Agriculture Practice”- Mrs Anneli Bamber-Jones, WWF -
2001
12. “White paper on Food Safety”- europa.eu.int/comm/
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng