1
KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU, LÝ TƢỞNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG,
BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đinh Trung
(Nguyên Bí thư Tỉnh ủy)
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Việt Nam là một nước thuộc
địa, nửa phong kiến. Dưới sự áp bức của chế độ thực dân và phong kiến, không
cam chịu nô lệ nhân dân ta đã vùng lên đấu tranh nhất là những sĩ phu yêu nước,
người này ngã xuống, người khác đứng lên quyết giành độc lập, tự do cho Tổ
quốc. Nhưng tất cả phong trào yêu nước lúc bấy giờ bị thực dân Pháp dìm trong
biển máu, đều bị thất bại và dường như không có lối thoát vì chưa có đường lối
và một tổ chức lãnh đạo cách mạng đúng đắn. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời, Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, lãnh đạo quân dân
ta đứng lên giành thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chấm
dứt ách đô hộ của thực dân Pháp, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Châu Á đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân ta đã kiên cường chiến đấu
và chiến thắng trong 2 cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đánh bại 2 đế
quốc to là Pháp và Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thu giang sơn về
một mối, thống nhất đất nước, góp phần cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc và áp bức trên thế giới, làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang của mình. Đảng
ta đã lãnh đạo hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đưa cả nước
quá độ từng bước lên chủ nghĩa xã hội; gắn kết chặt chẽ độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật tất yếu,
khách quan của cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là hai mặt tác động qua lại không thể tách rời nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã
hội là điều kiện cần và đủ để xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật, phát triển kinh tế
bảo đảm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân và tiềm lực quốc phòng,
an ninh đủ sức bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc. Bác Hồ nói đại ý nước độc lập mà dân không được tự do, ấm no, hạnh
phúc thì độc lập không có nghĩa gì. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
con người xã hội chủ nghĩa”. Đúng ra lúc bấy giờ chưa có mô hình xã hội chủ
2
nghĩa trên thực tế đối với nước ta mà chỉ bắt đầu vừa xây dựng, vừa khám phá,
tìm con đường mới. Đó là bước quá độ dài trong lịch sử để đi đến chủ nghĩa xã
hội hiện thực, hoàn thiện. Vậy Chủ nghĩa xã hội là gì ? Có thể hiểu nôm na Chủ
nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người, con người sống bình đẳng,
tự do, ấm no, hạnh phúc; quan hệ giữa người với người là mối quan hệ “mỗi
người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Cũng có ý kiến cho rằng chưa có
chủ nghĩa xã hội thì làm sao có con người xã hội chủ nghĩa? Nhận thức tư tưởng
“vượt trước” của Bác Hồ ở đây, con người xã hội chủ nghĩa là con người thấm
nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin (Sau này Đảng ta bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh:
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh), có tư duy khoa học theo
phương pháp duy vật biện chứng, là con người hành động vì lợi ích của giai cấp
công nhân, lợi ích của dân tộc và của nhân dân, con người không ngừng “nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, có tri thức ngày càng cao
và khát vọng đưa đất nước phát triển cùng thời đại. Nhưng cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng vì vậy không chỉ có cán bộ,
đảng viên mới trang bị học thuyết cách mạng và khoa học đó mà phải được phổ
quát trong quảng đại quần chúng nhân dân vì “không có lý luận cách mạng thì
không có phong trào cách mạng”; một khi lý luận và đường lối cách mạng xâm
nhập vào quần chúng sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn.
Trải qua 90 năm từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay đã
có 12 lần Đại Hội. Mỗi Đại hội là một bước ngoặc, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá
tình hình, bổ sung, phát triển đường lối giải phóng dân tộc trước đây cũng như
xây dựng chũ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày nay.
Thời kỳ lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, giành độc lập dân tộc,
thống nhất nước nhà và chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta thể hiện bản lĩnh
cách mạng vững vàng, được tôi luyện già dặn trong chiến tranh giải phóng. Bước
sang giai đoạn lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xả hội trên phạm vi cả nước, một
nhiệm vụ mới mẽ, khó khăn, phức tạp chưa có kinh nghiệm và dường như chưa
có tiền lệ. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc bắt tay vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng chủ yếu là chi viện sức người, sức của để giải
phóng miền nam thống nhất đất nước vừa phải đương đầu với chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ. Đảng phải vừa làm, vừa học, tìm tòi mô hình và con đường
phù hợp đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế điểm xuất phát rất thấp, là nước nông
nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lại “bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa” . Sau thống nhất nước nhà, nhân dân ta vừa khắc phục hậu quả
3
vô cùng nặng nề của chiến tranh, vừa bị bao vây cấm vận, vừa chống lại các cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc. Đối phó với những khó khăn chồng
chất đó, Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Nhưng do điều kiện lịch sử và hạn chế tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta mắc sai lầm về giáo điều, rập khuôn sao chép mô hình kinh tế và cơ chế
quản lý của các nước xã hội chủ nghĩa di trước. Bệnh chủ quan duy ý chí cùng
với bảo thủ trì trệ, cụ thể là duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm
cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân vô
cùng khó khăn vào cuối những năm 70 và thập niên 80 thế kỷ trước. Trước tình
hình đó, yêu cầu đổi mới đặt ra để giải quyết đời sống khó khăn của nhân dân và
vì vân mệnh của chủ nghĩa xã hội. Đại Hội lần thứ VI của Đảng, với phương
châm: “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, tập trung
chủ yếu là đổi mới kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy lý luận. Trên cơ sở tự phê
bình và cầu thị tiếp thu phê bình, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện,
đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, tạo thế phát triển ổn định; đó là bước ngoặc,
tiền đề để các Đại Hội sau này tiếp tục phát triển, bổ sung, hoàn thiện đường lối
đổi mới được khởi xướng từ Đại Hội VI. Từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; từ nền kinh tế hai thành phần hai chế độ sở hữu chuyển sang kinh tế nhiều
thành phần đa sở hữu; từ chỗ không thừa nhận kinh tế tư nhân bây giờ xem kinh
tế tư nhân là động lục phát triển, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng,
hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế….đó là một bước tiến dài trong đổi
mới kinh tế. Tuy nhiên “đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa
mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện tốt hơn bằng những quan niệm đúng đắn,
hình thức, biện pháp và bước đi phù hợp”. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm nhưng không phải phát triển với bất cứ giá nào mà phải giữ vững độc lập, tự
chủ, theo định hứớng xã hội chủ nghĩa; yêu cầu phát triển nhanh, có những đột
phá nhưng phải bền vững; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội trong từng bước phát triển và bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là
nhiệm vụ không dễ dàng gì.
Trên thực tế Bình Thuận muốn phát triển nhanh, muốn có bước đột phá
nhưng làm quy hoạch không bài bản, thiếu căn cứ khoa học, không tính toán đầy
đủ các điều kiện, tiềm năng phát triển và lợi thế so sánh cho nên khi triển khai tổ
chức thực hiện hoặc kéo dài thời gian hoặc “đóng băng” trở thành dự án treo
nhiều năm, hoặc phá đi làm lại, hoặc dự án chồng dự án làm cản trở, xung đột,
4
kìm hảm lẫn nhau gây lãng phí, kém hiệu quả. Mặt khác không đánh giá đúng tác
động môi trừờng, sinh thái gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cảnh quan, môi sinh
thiên nhiên, sản xuất, đời sống của nhân dân và nhiều hệ lụy khác về lâu dài; có
công trình xây dựng chưa tính kỹ kinh tế với quốc phòng, an ninh. Nhận thức
chưa đầy đủ, đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và xã hội nên nặng về
phát triển kinh tế mà ít chú trọng nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa cho nhân
dân, không quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, những thiết chế văn hóa, thể dục
thể thao phục vụ nhân dân. Đó là sự “tụt hậu xa hơn” đối với các địa phương khác
và biểu hiện “chệch hướng” đối với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội như nhận định
của Hội nghị giữa nhiệm kỳ (Khóa VII) của Đảng, cần phải cầu thị, đánh giá
nghiêm túc, rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển trong thời gian tới.
Nhìn lại 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã anh
dũng, kiên cường chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành thắng lợi
vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng, thống nhất nước nhà đưa nước ta quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, đất nước ta
đã tiếp tục giành được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta
càng phấn khởi những thắng lợi to lón của đất nước thì càng tự hào về Đảng Cộng
sản Việt Nam quang vinh, tự hào và biết ơn Chủ tịch Hồ Chí minh vĩ đại, Người
đã sáng lập và rèn luyện Đảng ta trưởng thành. Chúng ta một mực khẳng định :
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Không có Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ đồ của đất
nước ta không thể có được như ngày nay như lời phát biểu của Tổng Bí thư, chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại buổi Lễ Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng:
“đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”.
Thực tế lịch sử đó chứng tỏ ở Việt Nam không có thế lực chính trị nào có thể thay
thế hoặc thách thức vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; từ
đấu tranh giành chính quyền và trở thành Đảng cầm quyền, bất cứ giai đoạn nào,
thời kỳ nào Đảng ta luôn trung thành, quán triệt và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn phù hợp; luôn luôn dựa vào dân, gắn kết và phát
huy sức mạnh to lớn, sáng tạo của nhân dân, lãnh đạo, tổ chức thực hiện đi từ
thắng lợi này đến tháng lợi khác. Bài học về mối quan hệ của Đảng với nhân dân
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo của Đảng. Mục tiêu của Đảng là lợi
5
ích của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân và chính nhân dân là lực lượng cách
mạng to lớn nhất xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần xây dựng Đảng ngày
càng bản lĩnh, trong sạch, vững mạnh. Tình hình càng có nhiều khó khăn phức
tạp, thách thức cả ở trong nước và bối cảnh quốc tế, Đảng ta càng phải gần dân,
gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy mạnh mẽ dân chủ để khơi dậy nguồn
sáng tạo vô tận của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ
Tổ quốc và xây dựng Đảng. Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội,
nguy cơ dễ mắc phải là tệ quan liêu, xa rời quần chúng. Tuy có nhiều tiến bộ
trong cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
nhưng còn nhiều cán bộ, đảng viên công tác các cơ quan Đảng, Chính quyền, Mặt
trận, đoàn thể các cấp vẫn còn quan liêu, xa dân; sống trong dân nhưng không sát,
không hiểu thấu tâm tư nguyện vọng chính đáng của dân, thậm chí còn nhũng
nhiễu, vô cảm, thờ ơ trước những bức xúc, oan ức của dân. Nhiều vụ việc bức
xúc, nhân dân có đơn khiếu kiện như giải tỏa, đền bù đất đai, môi trường…không
được giải quyết triệt để, đến nơi, đến chốn, sang sổ chuyển đơn lòng vòng không
cơ quan nào chịu trách nhiệm, gây phiền hà, tốn kém cho dân. Chúng ta đang
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước thực
sự của dân, do dân và vì dân, thực hiện dân chủ rộng rãi đi đôi với giữ vững kỷ
cương, phép nước. Do đó Đảng lãnh đạo để nhân dân thực sự làm chủ và tuân thủ
luật pháp, vì luật pháp là cụ thể hóa cương lĩnh, đường lối của Đảng cũng là ý chí
của nhân dân. Các cơ quan quyền lực nhà nước gồm Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp có cố gắng đổi mới làm cho nền dân chủ đại diện ngày càng có thực
chất hơn. Đại biểu do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, ngoài quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước, của địa phương
cần phải chất vấn, tranh luận, phản biện đúng, sai; thường xuyên giám sát chặt
chẽ đối với các cơ quan hành pháp, tư pháp; phải phản ánh trung thực ý kiến,
nguyện vọng chính đáng của dân, dám mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình
không được thụ động theo cách “ăn theo, nói leo”; nếu bản thân không dám bày
tỏ chính kiến, ý chí của mình thì làm sao đại diện và phản ánh được ý chí, nguyện
vọng của dân ?. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ cần
phải được thể chế hóa, cụ thể hóa để tránh tình trạng Đảng vừa bao biện làm thay
vừa buông lỏng lãnh đạo các cơ quan chính quyền. Thực tế hiện nay có một số
đảng viên được phân công phụ trách chính quyền vin vào quản lý nhà nước bằng
pháp luật để rồi lạm dụng quyền lực, xem thường, thậm chí thoát ly sự lãnh đạo
6
của tổ chức Đảng hoặc ngược lại không chủ động thực hiện chức năng quản lý
nhà nước mà việc gì cũng chờ xin ý kiến, dựa dẫm sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng ta tồn tại, phát triển, trưởng thành và xứng đáng với sứ mệnh lãnh
đạo của mình là do trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; lấy nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ
bản; thường xuyên tự phê bình và phê bình như quy luật phát triển và tiến bộ;
luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân là điều kiện sống còn của Đảng. Quá
trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta không tránh khỏi vấp váp, sai lầm, thậm chí sai
lầm nghiêm trọng. Vì vậy, Đảng phải coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững mạnh trên tất cả các
mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo
để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Xin nêu mấy vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách sau đây:
Một là: Ngoài việc quán triệt và thấm nhuần Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; về tổ
chức cần nhận thức đúng và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung
và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng phải được giải quyết đúng đắn. Tập
trung quá mức dẫn đến độc đoán, chuyên quyến, áp đặt, quan liêu, mệnh lệnh
làm triệt tiêu sức sáng tạo của con người nhưng dân chủ không được lãnh đạo
chặt chẽ sẽ dẫn đến vô tổ chức, vô kỷ luật, đó là những biểu hiện cần tránh trong
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ
càng mở rộng thì tập trung càng cao và càng đúng đắn. Thực tế hiện nay trong
Đảng còn biểu hiện vừa thiếu dân chủ, vừa buông lỏng kỷ luật, kỷ cương nhưng
dân chủ chưa được đề cao là phổ biến. Tình hình tự phê bình và phê bình giảm
sút; đảng viên, cán bộ chưa tự giác tự phê bình, không mạnh dạn đấu tranh phê
bình lãnh đạo nhất là phê bình người đứng đầu; cấp dưới không mạnh dạn phê
bình cấp trên có nguyên nhân là chưa phát huy tốt dân chủ trong Đảng và từ đó
cũng chưa phát huy dân chủ rộng rãi trong nhân dân.
Hai là: Tham nhũng là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.
Tệ tham nhũng gây mất lòng tin trong nhân dân. Nhân dân thiếu tin vào Đảng,
Nhà nước ta không phải do đường lối hay con đường đi lên chủ nghĩa xã hội có
vấn đề mà thiếu tin một phần do tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương chưa
hiệu quả nhưng chủ yếu và trực tiếp là tình trạng tham nhũng trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên có chức quyền thoái hóa, biến chất. Tham nhũng không phải là
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, không phải do đường lối lãnh đạo của Đảng
7
Cộng sản mà là khuyết tật của mọi Nhà nước. Đảng ta có khuyết điểm là chậm
phát hiện tham nhũng hoặc khi phát hiện thì xứ lý chưa nghiêm nên kém tác dụng
răn đe, đẩy lùi để xảy ra kéo dài và có nhiều vụ rất nghiêm trọng. Nếu không kiên
quyết khắc phục khuyết điểm này sẽ trở thành nguyên nhân bên trong làm suy
yếu sự lãnh đạo của Đảng. Các thế lực thù địch thừa cơ hội lợi dụng để xuyên tạc,
bôi nhọ, chống phá hòng lật đổ chế độ và xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với
âm mưu diễn biến hòa bình rất thâm độc. Từ sau Đại hội XII đến nay, Đảng ta
nhận thức đầy đủ hơn nguy cơ tham nhũng, bằng quyết tâm chính trị cao, với thái
độ quyết liệt trong phòng chống tam nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại
lệ” với cách làm chặt chẽ, bài bản đã phát hiện và đưa ra giải quyết, xử lý nhiều
vụ tham nhũng, có vụ nghiêm trọng liên quan đến nhiều cán bộ cấp cao. Kết quả
bước đầu có tác dụng giáo dục, răn đe, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực được nhân
dân đồng tình, tin tưởng. Nhưng chỉ đạo phòng chống tham nhũng vừa qua chủ
yếu tập trung ở cấp Trung ương và một vài thành phố lớn, các tỉnh, thành khác
chưa có sự chuyển biến đáng kể, còn biẻu hiện “trên nóng, dưới lạnh”, chưa tạo
sự đồng bộ, nhịp nhàng ở các cấp, các ngành, các địa phương. Gần đây xuất hiện
khái niệm “tham nhũng vặt”,tuy tổn thất vật chất quy mô không lớn nhưng rất
nguy hiểm. Tham nhũng này thường xảy ra trong mối quan hệ giữa chính quyền
với dân và giữa chính quyền với doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành
chính. Người dân và doanh nghiệp đều muốn được việc nhanh chóng nên sẵn
sàng chấp nhận bỏ ra một khoản “phí bôi trơn” coi đó là việc bình thường trong
quan hệ giao dịch; nếu không chống và ngăn chặn kịp thời sẽ trở thành nếp quen
từ “ăn cắp một quả trứng sẽ tiến tới ăn cắp một con bò” (ngạn ngữ Pháp) mà hậu
quả sẽ dần dần làm suy thoái cán bộ trong các cơ quan thực thi công vụ, nguy cơ
phát sinh “lợi ích nhóm” rất nguy hiểm. Chống tham nhũng, tiêu cực phải dựa
vào quần chúng nhân dân; họ là tai, mắt của Đảng biết rõ cán bộ, đảng viên nào
tham nhũng, tham ô, ăn cắp tài sản nhà nước, ai lợi dụng danh nghĩa nhà nước để
cửa quyền, ức hiếp, nhũng nhiễu nhân dân. Đảng phải tăng cường giáo dục, phát
động, mở rộng dân chủ cho nhân dân sẵn sàng hiến kế, góp ý cho Đảng.
Ba là: Vấn đề cán bộ. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng một khi Đảng cách
mạng có đường lối đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Bác Hồ nói: “Cán bộ là
cái gốc của mọi việc. Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”. Công tác cán bộ có tầm quan trọng hàng đầu của nhiệm vụ xây dựng Đảng.
Đường lối cách mạng thời kỳ nào có yêu cầu công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ
thời kỳ đó. Cán bộ nào phong trào nấy và ngược lại. Xét cho cùng từ xây dựng,
8
hoạch định cương lĩnh, đường lối đến cụ thể hóa thành luật pháp, chủ trương,
chính sách, cơ chế và tổ chức thực hiện đều do đội ngũ cán bộ. Cán bộ trung
thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng, có tầm nhìn xa, trông rộng thì mới có
đường lối đúng. Cơ chế chính sách dù đúng đến đâu cũng chỉ có tính ổn định
tương đối, không phải bất biến. Cái bất biến ở cán bộ là lòng trung thành với
Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, với mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết. Trước đây
sự ác liệt của chiến tranh, bom đạn ; sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc là phép
thử lòng trung thành, sự hy sinh vì nước, vì dân của cán bộ, đảng viên. Giai đoạn
cách mạng xã hội chủ nghĩa , cán bộ đảng viên có điều kiện học tập, nghiên cứu
nâng cao kiến thức mọi mặt nhưng phải đối mặt với thách thức khác không kém
phần nghiệt ngã đó là mặt trái của cơ chế thị trường, sự cám dỗ của vật chất, tiền
tài, địa vị, danh vọng, quyền lực… Cán bộ, đảng viên ngày nay phải vượt qua
những thách thức , cám dỗ đó, coi như là thước đo lòng trung thành với Đảng,
với mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thực tế lịch
sử chứng minh sự ác liệt, gian khổ, hy sinh đâu phải làm lung lay ý chí, tư tưởng;
sự cám dỗ của quyền lực, vật chất, tiền tài đâu chỉ làm tha hóa con người. Chiến
trường và nền kinh tế thị trường còn là môi trường thực tiễn rèn luyện, thử thách,
khảo nghiệm, sàn lọc những cán bộ giỏi giang, trung kiên, tin cẩn và đào thải
những kẻ dao động, chạy dài, thoái hóa, biến chất. Mỗi cấp, mỗi ngành, một tập
thể, một tổ chức đều có người đứng đầu. Lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu
có tác dụng rất lớn, Thực tế chứng minh rằng nơi nào, lúc nào người đứng đầu đủ
bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức, vũng vàng, gương mẫu, có trách nhiệm cao sẽ tập
hợp, quy tụ được người tài phát huy trí tuệ tập thể, đoàn kết chung sức, đồng lòng
vượt qua khó khăn hoàn thành nhiệm vụ, được nhân dân tin yêu; ngược lại người
đứng đầu kém sẽ làm cho tổ chức đó yếu đi không thể hoàn thành nhiệm vụ và
nhân dân mất niềm tin./.
9
ĐẢNG BỘ BÌNH THUẬN
90 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
Huyện ủy Phú Quý
I. Đảng cộng sản Việt Nam - 90 năm xây dựng và phát triển
Cách đây 90 năm, ngày 03-02-1930, dưới sự chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã tiến hành hợp nhất thành Đảng cộng
sản Việt Nam. Đây là bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta, đánh
dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc, bởi trước đó các
phong trào yêu nước đấu tranh chống lại sự xâm lược, đô hộ của đế quốc, thực
dân Pháp đều thất bại do bế tắc về đường lối và về giai cấp lãnh đạo.
Trải qua 90 năm, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo - đã tập hợp sức mạnh, trí tuệ toàn
dân tộc tiến hành các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và đã
liên tục giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân phong kiến, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc
ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu và đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Là thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước ta
phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới
đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam và kinh nghiệm quốc
tế. Nước ta từ một xứ thuộc địa, nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc
lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta từ thân phận
nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có đời sống vật chất
và tinh thần không ngừng được nâng cao. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế; quan hệ đối
ngoại được mở rộng, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng
được nâng cao.
Nhìn lại chặng đường Cách mạng của Đảng ta trong 90 năm qua; với nhiều
khó khăn, gian khổ, sự hy sinh vô bờ bến cùng những thắng lợi vẻ vang mà nhân
dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta càng trân trọng quá
10
khứ, nâng niu gìn giữ những thành quả cách mạng và công ơn trời biển của Chủ
tịch Hồ Chí Minh; càng thấu hiểu, tin yêu và tự hào thêm về dân tộc ta - một dân
tộc anh hùng, vị tha, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản
Việt Nam quang vinh. Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt
90 năm qua đã chứng minh rằng sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là
nhân tố hàng đầu, quyết định thắng lợi cách mạng nước ta; đồng thời, chính trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện thử thách và không ngừng
trưởng thành, ngày càng xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng,
xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
II. Đảng bộ Bình Thuận - 90 năm hình thành và phát triển
Là một trong những đảng bộ được thành lập sớm nhất trong cả nước, 90
năm qua, Đảng bộ Bình Thuận đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh giành được những
thành tích to lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng cả
nước, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam và của
dân tộc ta.
Cuối năm 1930, tại dốc Ông Bằng ở làng Tam Tân (nay là xã Tân Tiến, thị
xã La Gi), cuộc họp thành lập chi bộ được tiến hành, gọi là Chi bộ Tam Tân, do
đồng chí Ngô Đức Tốn làm Bí thư. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên được
thành lập ở Bình Thuận. Những đảng viên được kết nạp những năm đầu khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là những hạt nhân của việc hình thành, phát triển cơ sở
Đảng, đảng viên ngày càng lớn mạnh và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống thực
dân Pháp xâm lược tại Bình Thuận. Tuy kẻ thù đàn áp tàn bạo, các đồng chí đảng
viên và cơ sở đảng lần lượt sa vào cảnh tù đày, phong trào cách mạng luôn gặp
khó khăn và tổn thất, nhưng phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ở
Bình Thuận vẫn phát triển.
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, nhân dân Bình Thuận đã cùng nhân
dân cả nước giành chính quyền về tay nhân dân. Tuy nhiên, khi Pháp xâm lược
lần thứ hai, Bình Thuận tiếp tục rơi vào tay thực dân Pháp.
Khi Mỹ hất chân Pháp xâm lược miền Nam Việt Nam, nhân dân Bình
Thuận tiếp tục cùng nhân dân cả nước đánh Mỹ cứu nước. Trong chặng đường
chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Bình Thuận đã không
quản hy sinh, gian khổ, nêu cao truyền thống “Tự lực, tự cường, chiến đấu oanh
liệt thắng lợi vẻ vang”, viết nên những trang sử hào hùng của quê hương, đóng
góp xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng bộ và nhân
dân các dân tộc tỉnh Bình Thuận bắt tay xây dựng quê hương với vô vàn khó
11
khăn, thử thách, nhưng luôn một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, luôn
nêu cao truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết một
lòng, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cùng cả nước từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đạt nhiều thành tựu quan trọng.
Trong quá trình xây dựng và phát triển Đảng bộ Bình Thuận đã không
ngừng lớn mạnh, đến nay đã trải qua 13 lần Đại hội Đảng bộ. Từ lần đầu tiên vào
tháng 4/1947 đến lần thứ 13 vào tháng 10/2015.
Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ quê hương và nhất là trong thời kỳ đổi
mới, hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở của Bình Thuận không ngừng được củng
cố, kiện toàn và trưởng thành. Từ sau khi chia tách tỉnh năm 1992, Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Bình Thuận luôn nêu cao ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết một lòng,
phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phấn đấu vươn lên giành được những thành
tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới. Nhất là, từ năm 2015 đến nay, công tác
xây dựng Đảng được các cấp ủy đảng và toàn Đảng bộ tỉnh quan tâm. Cấp ủy,
chính quyền từ tỉnh đến cơ sở triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”, đã góp phần nâng cao ý thức rèn luyện đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ; bước đầu khắc phục tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên;
nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu; phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ
tỉnh Bình Thuận đã thực hiện đem lại nhiều thành tựu to lớn, đó là: Cùng với cả
nước, tỉnh ta đã vượt qua không ít những khó khăn, thực hiện nhiệm vụ chính trị
tạo sự chuyển biến tích cực trên nhiều mặt. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng; cơ sở vật
chất và năng lực các ngành, các lĩnh vực được tăng cường; các hoạt động văn hóa
- xã hội có những tiến bộ mới; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, mức
sống nhân dân được nâng cao; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ
vững; hệ thống chính trị ngày càng nâng cao hơn vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản
lý xã hội... Đó là những kết quả tạo nền tảng cơ bản, quan trọng để thúc đẩy nền
kinh tế- xã hội tỉnh Bình Thuận phát triển nhanh hơn trong thời gian đến.
12
III. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt
Những thắng lợi vĩ đại trong 90 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là minh
chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh
to lớn của nhân dân ta. Đảng đã không ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
cách mạng trước bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đảng ta đã dành
không ít thời gian và công sức cho công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, được đặt ra trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, với quyết tâm chính trị cao, Ban
Chấp hành Trung ương đã bám sát 6 nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội, ban hành 4
nghị quyết và 01 quy định để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng
Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản (nghị quyết, chỉ thị,
kết luận, quy định, quy chế, kế hoạch, hướng dẫn...) về công tác xây dựng Đảng,
trong đó kịp thời ban hành các nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những
nhiệm vụ mới, quan trọng như: thực hiện một số mô hình thí điểm về tổ chức bộ
máy; việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã; về kiểm soát quyền
lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức chạy quyền; trách nhiệm nêu
gương của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; về chiến lược bảo
vệ tổ quốc trên không gian mạng và chiến lược an ninh mạng quốc gia; về tăng
cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch trong tình hình mới... Việc trung ương ban hành kịp thời, đồng bộ hệ
thống văn bản trên hầu hết trên các lĩnh vực đã tạo cơ sở chính trị quan trọng để
đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới.
Sau thời gian triển khai thực hiện, công tác xây dựng Đảng đã đạt được
những chuyển biến tích cực và kinh nghiệm quan trọng. Bản lĩnh chính trị, trình
độ, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng lên; Đảng luôn vững vàng
trước mọi khó khăn, thách thức trong bối cảnh trong nước, khu vực, thế giới có
nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và có những quyết sách phù
hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân
của Đảng được giữ vững. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và người đứng đầu
các cấp từng bước được nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ,
đảng viên có tiến bộ; việc ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm, thực hành tiết
kiệm, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến rõ nét. Từ đầu nhiệm kỳ Đại
hội XII của Đảng đến nay đã có không ít cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong
đó có nhiều cán bộ thuộc diện trung ương quản lý. Tinh thần, thái độ phục vụ
nhân dân, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao được nâng
13
lên, góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Niềm tin của cán
bộ và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố và nâng cao.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất là
việc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa
dân... Các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta; chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta, đánh thẳng
vào hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, kích động, chia rẽ nội
bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ
ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.
Trong tình hình ấy, chúng ta càng cần phải tập trung làm tốt hơn nữa công
tác xây dựng Đảng. Phương hướng chung của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng
hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường
bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, đổi mới phương thức
lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ
sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không ngừng phát triển.
Trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc
tế; cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, đối mặt với bao cám dỗ, với mặt trái
của cơ chế thị trường, chúng ta càng phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng
và tính tiên phong của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này, nếu cán bộ,
đảng viên không tích cực và kiên trì rèn luyện thì rất dễ bị thoái hoá, biến chất.
Vấn đề giữ vững bản chất của Đảng - là một Đảng Cộng sản, đảng cách mạng
chân chính, hoạt động vì sự nghiệp của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích
của nhân dân là vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng.
Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng đã khẳng định: Phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự
thật. Kết hợp giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu
dài; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Kiên quyết, kiên trì thực hiện với
quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản
lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng
cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây
14
bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tăng
cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các
cấp. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của Nhà
nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.
Tự hào với những thắng lợi đã đạt được, hướng tới tương lai tươi sáng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vững tay lái, tăng cường xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển
kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực
và trên thế giới.
Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
Bình Thuận vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung
thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử
dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì
hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Bình Thuận càng thấy
rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục
tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước
Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.
IV. Một số bài học, kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh
Một là, ra sức xây dựng, củng cố và bảo vệ nền tảng chính trị vững chắc,
nắm vững ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc và CNXH để chỉ đạo hành động cách mạng của Đảng, giữ vững
định hướng XHCN. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời phải
15
không ngừng đổi mới, sáng tạo trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính
sách; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải không
ngừng bổ sung, hoàn thiện, vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thực chất; đặc biệt chú trọng
sự nêu gương của những người đứng đầu giữ trọng trách trong các cơ quan Đảng,
Nhà nước; kiên quyết đấu tranh có hiệu quả chống các thế lực thù định.
Ba là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và
phê bình, giữ gìn đoàn kết thống nhất, thực hiện nghiêm minh kỷ cương, kỷ luật
Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát huy dân chủ, công khai minh bạch; kiên trì,
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, giữ vững sự trong sạch của
Đảng, Nhà nước là tiền đề và động lực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Bốn là, tăng cường, đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng
cho được một đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, đạo đức, có trình độ trí
tuệ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược thực sự tiêu biểu về bản
lĩnh, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và
nhân dân lên trên hết, đoàn kết, tập hợp sức mạnh thực hiện nhiệm vụ chính trị,
có tầm nhìn và tư duy chiến lược. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý đội ngũ
cán bộ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và Nhà nước; ngăn ngừa sự suy
thoái, biến chất và loại bỏ những phần tử cơ hội, tham nhũng ra khỏi hàng ngũ
của Đảng.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết,
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xây dựng cơ chế kiểm soát quyền
lực, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí.
Sáu là, luôn coi trọng bài học “lấy dân làm gốc”; lấy sự tin tưởng của nhân
dân và xã hội là điều kiện tiên quyết để xây dựng Đảng. Thường xuyên xây dựng
và củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; phát huy vai trò và sức
mạnh của nhân dân tham gia xây dựng Đảng; đấu tranh mạnh mẽ chống suy
thoái, tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng liêm chính, chí công, vô tư, giữ vững
niềm tin của nhân dân đối với Đảng./.
16
KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU, LÝ TƢỞNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG, BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Thành ủy Phan Thiết
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới
và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã lựa chọn và đứng trên lập trường của giai
cấp vô sản để tiến hành giải phóng dân tộc bằng một cuộc cách mạng vô sản và
bước phát triển tiếp theo là xây dựng chủ nghĩa xã hội khi nhấn mạnh:
1) Cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiền
phong của giai cấp công nhân và dân tộc;
2) Phải thực hiện Dân tộc cách mệnh để tập trung đánh đổ bọn đế quốc
thực dân và bọn phong kiến tay sai giành lại độc lập cho xứ sở và Thế giới cách
mệnh giống như giai cấp công nông Nga đánh đổ tư bản áp bức…
Để mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể trở thành hiện thực
sinh động ở Việt Nam chính là cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ
đạo cách mạng vô sản, là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, trong
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội theo tinh
thần khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế thứ III: “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp
bức trong thế giới liên hợp lại”; Đồng thời, “muốn cách mệnh thành công thì dân
chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh,
phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” và
“An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.
Vấn đề Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là hai mệnh đề được
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, Nhân dân ta lựa chọn và được khẳng định ngay
từ thuở ban sơ của việc tập hợp ba tổ chức Cộng sản để hình thành nên Đảng
Cộng sản Việt Nam (3/2/1930), thể hiện rõ nét trong các Văn kiện của Đảng từ
mùa Xuân năm 1930,cụ thể trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương
lĩnh nêu rõ: Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi tới xã
hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ rõ là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
17
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” - tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân
chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa
đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có
quan hệ biện chứng; trong đó:
1) Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc.
2) Đi lên chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc
lập dân tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Độc lập dân tộc xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của
cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn
toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và
nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; xét về mặt xã hội, đó là một hệ
giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và
mai sau. Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối
ngoại. Độc lập dân tộc đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch
của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc
lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do
quốc gia - dân tộc đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Bản chất của CNXH là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, dân tộc, xã
hội, con người. CNXH sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người
bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó
xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con
người về tinh thần, ý thức và tư tưởng.
CNXH thực hiện độc lập dân tộc để mở đường tới sự phát triển phồn vinh
về kinh tế và phong phú, đa dạng về văn hóa, tinh thần; thực hiện đầy đủ nhất
quyền lực của nhân dân. Chỉ với CNXH, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu
phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của
cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng
đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền
tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân
tộc càng đầy đủ, mạnh mẽ.
Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng
những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ
thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình
trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trên thế
giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối
18
quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng
dân tộc khác.
Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải
quyết bằng con đường phát triển CNXH. Độc lập dân tộc và CNXH trở thành hệ
giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, làm nên cốt cách, bản
lĩnh và vị thế Việt Nam.
Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc có hướng đích đến chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, sáng lập Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhận thức rõ, độc lập dân tộc, điều kiện đầu tiên để
xây dựng và phát triển đất nước chỉ được bảo đảm vững chắc khi gắn liền với
chủ nghĩa xã hội và giành được độc lập dân tộc mà không đi lên chủ nghĩa xã
hội thì chẳng những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn không thể mang
lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Do đó, ngay từ khi độc lập, Đảng ta, Nhân
dân ta kiên định mục tiêu đã lựa chọn này.
Lịch sử thế giới hiện đại đã ghi nhận rằng, Việt Nam là nước đầu tiên tiến
hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; đồng thời, cũng là nước đầu tiên đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện có chiến tranh. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở cả hai miền Nam - Bắc, tạo điều
kiện thuận lợi cho đồng bào miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, hoàn
thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội. Điều đó cho thấy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
quy luật phát triển tất yếu, làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng và đó
cũng là sự nhất quán của Hồ Chí Minh, của Đảng ta trong việc lựa chọn con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam - con đường hợp xu thế phát triển
thời đại.
Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội được Đảng ta, Nhân dân ta tiếp tục kiên định thực hiện, bất
chấp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, bất chấp sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa luôn được thấm nhuần trong tư tưởng
và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân Việt Nam; trở thành
bài học đầu tiên được Đảng rút ra tại Đại hội lần thứ VII (1991), đó là: “Nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong
19
quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân
tộc”. Tiếp đó, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường
lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đại hội XI của Đảng
(2011) đã rút ra 5 bài học cơ bản và tiếp tục nhấn mạnh bài học đầu tiên như đã
nêu trong các văn kiện đại hội; đồng thời, khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Mục tiêu này được bổ sung, phát triển qua 12 kỳ Đại hội và là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt, nhất quán. Điều đó cũng khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của
con đường phát triển đất nước trong hành trình đi tới mục tiêu vì một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Góp phần khơi nguồn
sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ, phát triển đất nước.
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn
cảnh khó khăn, thử thách nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng
định: Con đường duy nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là “Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; là sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, là sự
kiên định và sáng tạo của Đảng ta dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp
quy luật, đúng như Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng khẳng định: “Con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu
thế phát triển của lịch sử”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, hơn
bao giờ hết, bài học “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
quá trình đổi mới” phải tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, phản ánh
quy luật đổi mới và phát triển ở Việt Nam (giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế) càng phải
được thấm nhuần, chủ động và kiên trì thực hiện. Trước những thời cơ, vận hội và
20
khó khăn, thách thức đan xen, bên cạnh những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, chúng ta đang phải đối mặt với những hạn chế,
yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với các biểu hiện cá nhân
chủ nghĩa, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hóa quyền lực trong Đảng
và hệ thống chính trị chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách triệt để. Trong khi
đó, trên bình diện quốc tế, tác động tiêu cực của bạo loạn lật đổ chính quyền ở
một số nước Bắc Phi, xung đột sắc tộc, tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia,
tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, nhất là vấn đề tranh chấp Biển Đông đang
diễn biến phức tạp. Các thế lực phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình”, lợi dụng mạng xã hội kích động biểu tình, bạo loạn, lật đổ, chống
phá quyết liệt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Không chỉ lợi
dụng các chiêu bài bôi nhọ, phủ nhận thành tựu về mọi mặt của Việt Nam, các
thế lực phản động còn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản - nhân tố
quyết định cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội; phủ nhận và cho rằng con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa là sai lầm, dẫn đến nước nhà tụt hậu. Tất cả những
yếu tố đó đã và đang đặt ra yêu cầu vừa cấp thiết vừa kiên trì để bảo vệ độc lập
dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và kiên định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đón nhận thời cơ và đối diện thách thức, Đảng ta và nhân dân ta nhất quán
thực hiện nguyên tắc đặt lợi quốc gia, dân tộc lên đầu, giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa,
tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Thế giới dù có nhiều đổi thay, song Đảng ta, nhân dân ta luôn kiên định
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt,
không chỉ tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho con đường phát triển của cách mạng
Việt Nam mà còn là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhân nguồn sức mạnh tinh thần, thống nhất
về tư tưởng, ý chí, hành động của nhân dân ta, đấu tranh chống lại các luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về
những thành tựu trong công cuộc đổi mới đã và đang trở thành hiện thực sinh
động ở Việt Nam.
21
Hiện nay, việc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lại
càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi:
1. Lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất
yếu khách quan của cách mạng nước ta. Vì Sự lựa chọn này của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng ta và Nhân dân ta là một tất yếu khách quan do lịch sử quy định, phù
hợp với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, với mục tiêu lớn của thời đại và ý nguyện của
nhân dân; được gắn với đặc điểm, tình hình của mỗi giai đoạn khác nhau của cách
mạng Việt Nam. Đây không phải do ý muốn chủ quan của Đảng mà là tổng hợp
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, kinh tế và chính trị, trong nước
và quốc tế, phản ánh khát vọng của dân tộc trong suốt 90 năm qua.
2. Để kiện định mục tiêu đó phải kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm
sai trái phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì hơn
30 năm đổi mới, đất nước đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên
con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục
đổi mới và phát triển; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội làphù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
3. Phải nắm vững và thực hiện có hiệu quả mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong tình hình mới. Để nắm vững và thực hiện có hiệu quả mục tiêu
đó, thì công tác giáo dục chính trị, tư tưỏng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
hiểu rõ những vấn đề lý luận của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Vấn đề lý luận đó là:
- Lý do phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Mục tiêu này là
sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta từ đầu thế kỷ thứ XX. Mục tiêu
độc lập dân ta đã đạt được thắng lợi quyết định. Mục tiêu CNXH đã vượt qua
chặng đường đầu, đang ở chặng đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thời kỳ
quá độ lâu dài. Hai mục tiêu này quan hệ khăng khít với nhau. Trong khi thực
hiện mục tiêu này vẫn không quên kết hợp với mục tiêu kia. Mục tiêu độc lập dân
tộc bao gồm quyền làm chủ của dân tộc đối với Tổ quốc thống nhất, quyền tự
quyết định của dân tộc về con đường phát triển của đất nước; quyền bình đẳng
mọi mặt trong quan hệ đối với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Độc lập dân tộc
chỉ triệt để, hoàn thiện khi xây dựng thành quốc gia cường thịnh, khi không còn
nguy cơ xâm lược. Điều đó chỉ đạt được khi xây dựng thành công CNXH trên đất
nước ta và cơ bản trên toàn thế giới. Vì vậy, hiện nay phải thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
22
- Kiên định mục tiêu có nghĩa là mục tiêu được xác định là đúng đắn. Đó là
quy luật cơ bản của lịch sử Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại. Mọi mục tiêu
khác đều không khách quan nên không thể chấp nhận. Độc lập dân tộc không gắn
với CNXH là độc lập nửa vời, hoặc giả hiệu không thoát khỏi bàn tay chỉ huỷ của
các nước lớn. CNXH không dựa trên độc lập dân tộc thì không còn là CNXH đích
thực. Độc lập dân tộc và CNXH là chân lý của thời đại nên sự lựa chọn mục tiêu
đó của dân tộc ta là chính xác.
Hai mục tiêu đó đã giữ vững và thực hiện trong lịch sử cách mạng Việt
Nam. Sở dĩ trong quá trình đổi mới phải nhấn mạnh kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH, vì đến lúc này xuất hiện những yếu tố mới tác động tiêu cực
làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động về
mục tiêu đã chọn.
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH như thế nào ?
Một là: Để kiên định trước hết phải xuất phát từ lòng tin. Mất lòng tin là
mất tất cả. Độc lập dân tộc và CNXH là chân lý của tất cả các dân tộc trong thời
đại hiện nay. Mục tiêu của dân tộc Việt Nam nằm trong mục tiêu chung của nhân
dân thế giới đang đấu tranh thực hiện: hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Những thành tựu của cách mạng Việt Nam, của hệ thống XHCN trước đây và
của nhân dân thế giới đã chứng minh khả năng hiện thực của độc lập dân tộc gắn
liền CNXH. Đó là con đường tất yếu của lịch sử, nhưng phải vượt nhiều chông
gai mới đạt mục đích. Nhận thức và đồng tình với những mục tiêu đó mới đem lại
lòng tin. Khi lòng tin vững vàng thì tự giác kiên định mục tiêu và tự giác đấu
tranh thực hiện mục tiêu đó. Xây dựng lòng tin trước hết và quan trọng hơn hết là
nhận thức đúng quy luật.
Hai là: Kiên định mục tiêu phải trải nghiệm trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận
lợi cũng như khi gặp khó khăn, thậm chí trong thất bại tạm thời hay thoái trào
cách mạng. Lịch sử cách mạng Việt Nam và thế giới đều trải qua những tình
huống như thế, nhiều khi đứng trước những thử thách tưởng như không vượt qua
được, nhưng nhờ kiên định mục tiêu nên phát huy sức sáng tạo để thành công.
Cùng với vượt khó khăn, người cách mạng còn phải có tầm nhìn chiến lược và
khát vọng giải phóng dân tộc triệt để với ý chí kiên cường, bất khuất mới thực sự
kiên định mục tiêu. Đây là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải qua nhiều chặng đường
gian khổ và phức tạp, phải đối phó với nhiều yếu tố tiêu cực khó lường trước nên
phải có những điều kiện nói trên mới thực hiện được sự kiên định.
23
Ba là: Kiên định mục tiêu phải đi liền với đổi mới, kiên định trong đổi mới,
để đổi mới đúng đắn và hiệu quả cao. Đổi mới không nắm vững mục tiêu sẽ có
nguy cơ lạc hướng hoặc tụt hậu, hoặc mất cảnh giác. Đổi mới không có nghĩa là
phủ nhận quá khứ, nhưng cũng do chưa bằng lòng với quá khứ, nên phải biết
chọn lọc để kế thừa những ưu điểm của quá khứ. Đồng thời biết sáng tạo những
hình thức, bước đi, biện pháp để làm sáng tỏ mục tiêu hơn và đi đến mục tiêu
nhanh hơn. Như vậy kiên định mục tiêu không chỉ dừng lại ở nhận thức, lập
trường, mà để hành động, thể hiện ở hành động để thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Bốn là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH phải dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Dựa vào nền tảng tư tưởng
đó, Đảng ta đã giải quyết thành công mọi vấn đề của cách mạng, trong đó có vấn
đề mục tiêu. Bài học lớn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là kết quả
vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào đặc điểm nước
ta. Để kiên định mục tiêu trong hoàn cảnh hiện nay càng phải dựa vững chắc vào
nền tảng tư tưởng đó. Ngược lại mục tiêu được kiên định bền vững càng làm sáng
tỏ giá trị chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu dựa vào nền tảng tư
tưởng khác không còn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Do đó muốn kiên định
mục tiêu phải kiên định nền tảng tư tưởng của nó.
Như vậy, việc kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, càng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng
viên phải thật sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải
vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm lịch sử, phát huy sức mạnh dân tộc,
thời đại và sức mạnh nội sinh của dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa Việt Nam./.
24
CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRÊN LĨNH VỰC
TƢ TƢỞNG DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG XÃ HỘI,
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Huyện ủy Hàm Tân
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Công tác xây dựng Đảng về
chính trị trước tình hình mới tiếp tục được coi trọng. Kiên định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; kiên định đường lối đổi mới; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan,
nóng vội. Coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt
động của Đảng… Chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được
nâng lên. Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội…”
Cùng với việc ban hành Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiều văn bản quan trọng về giáo dục chính trị, tư
tưởng cho cán bộ, đảng viên đã được Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành, như
Quy định về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Nghị quyết về Công tác
tư tưởng và lý luận trong tình hình mới; Công tác lý luận và định hướng nghiên
cứu đến năm 2030; về bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; các nghị quyết về xây
dựng Đảng; Quy định về chế độ cập nhật kiến thức đối với cán bộ, đảng viên;
Hướng dẫn trao đổi, đối thoại với các cá nhân có quan điểm khác với chủ trương,
đường lối của Đảng; Kết luận về đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học các
môn lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân…
Công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với cán
bộ, đảng viên và nhân dân được quan tâm thường xuyên, nhất là trong các cơ
quan truyền thông đại chúng, trong hệ thống các trường đào tạo, các cơ quan lý
luận của Đảng, Nhà nước, hệ thống giáo dục quốc dân, các đoàn thể chính trị,
xã hội...
Chất lượng, hiệu quả giáo dục chính trị, tư tưởng không ngừng được nâng
lên, ý thức rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
trong cán bộ, đảng viên được đặc biệt coi trọng. Công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho cán bộ, đảng viên quan tâm tới nội dung chương trình đào tạo, bồi
25
dưỡng, cập nhật kiến thức về lý luận chính trị, thông tin thời sự, chính sách. Đồng
thời, coi trọng đấu tranh phê phán những quan điểm, nhận thức sai trái - nguyên
nhân chủ yếu dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đấu tranh có
hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực
tư tưởng, lý luận.
Đối với cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị, Đảng, Nhà nước hiện đã
có nhiều quy định cụ thể về ý thức chính trị của cá nhân, gia đình như Quy định
19 điều đảng viên không được làm; nhận diện 27 biểu hiện suy thoái trong Nghị
quyết 04-NQ/TW khóa XII; trong đó, coi việc lười học tập lý luận chính trị là một
trong những biểu hiện suy thoái,…. Đồng thời, xử lý nghiêm các bộ, đảng viên
tham nhũng, tiêu cực vi phạm đạo đức, lối sống. Đến nay, đội ngũ cán bộ, đảng
viên đã có sự trưởng thành về mọi mặt, đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Kính thưa toàn thể hội nghị!
Cùng với sự phát triển của xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng được
nâng cao, người dân có điều kiện mua sắm, sử dụng nhiều phương tiện, tiện ích
mới hiện đại như Ti vi thông minh, điện thoại thông minh... để nâng cao đời sống
tinh thần. Ngày nay, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
nhiều nền tảng ứng dụng trên mạng xã hội được lan truyền mạnh mẽ và sử dụng
rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân; các trang mạng xã hội hoạt động xuyên
biên giới, thông tin phong phú, đa dạng; do sử dụng trí tuệ nhân tạo nên các nền
tảng này rất hiểu người dùng, chỉ cần tìm hiểu một vài thông tin liên quan đến chủ
đề, nội dung nào đó thì hôm sau các ứng dụng này sẽ tự động cập nhật các thông
tin mới có liên quan, vì vậy người dùng rất dễ sử dụng. Hiện nay, Internet mạng
3G, 4G với tốc độ cao được phủ sóng, do đó, việc tìm kiếm, chia sẽ thông tin
ngày càng trở nên phổ biến hơn, dễ dàng hơn.
Kính thưa toàn thể hội nghị!
Bên cạnh những tiện ích mà Mạng xã hội mang lại thì hiện nay đây lại
chính là một môi trường vô cùng hấp dẫn để các thế lực thù địch lợi dụng, chống
phá; nhiều trang, hội, nhóm được thành lập với mục đích chống phá Đảng, Nhà
nước ta, hạ bệ uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; chống phá các
chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, chia rẽ dân
tộc, tôn giáo; đưa tin giả, thông tin chưa được kiểm chứng gây hoang mang dư
luận, kích động bạo lực...
Dưới tác động của Mạng xã hội, thời gian qua trong cả nước một số cán bộ,
26
đảng viên trong đó có những đảng viên từng giữ trọng trách, đảng viên ưu tú của
Đảng... bị tha hóa, biến chất, vi phạm quy định, điều lệ của Đảng, vi phạm những
điều Đảng viên không được làm đến mức phải xử lý kỷ luật, khai trừ ra khỏi
Đảng...
Trước những tác động tiêu cực của Mạng xã hội, trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận nói chung và của huyện Hàm Tân nói riêng, công tác đấu tranh, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng đã được chỉ đạo xuyên suốt; đặc biệt, để phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Huyện ủy, Ban Thường
vụ Huyện ủy đã ban hành nhiều quyết định thành lập các tổ, nhóm để đấu tranh
phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Tuy nhiên,
qua công tác nắm tình hình dư luận xã hội trong nhân dân, nhận thấy vẫn còn một
bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức chưa đầy đủ, kịp thời đối với các
thông tin xấu, độc, sai trái trên mạng xã hội, gây tâm lý hoài nghi, giao động
trong nhân dân; trong khi đó, các văn bản chỉ đạo quán triệt vấn đề này vẫn còn
chậm, chưa kịp thời định hướng dư luận trong lúc tình hình đang diễn ra; đây
chính là điểm mấu chốt, hạn chế nhất hiện nay trong công tác tuyên truyền cho
cán bộ, đảng viên, nhân dân.
Vì vậy, thẳng thắn nhìn nhận có thể thấy rằng, công tác tuyên truyền, bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ trương, chính sách, giải quyết những vấn đề
nóng, bức xúc... trong tình hình hiện nay tuy đã được điều chỉnh cho phù hợp
nhưng vẫn còn chậm, việc ban hành văn bản, triển khai từ cấp trên đến cơ sở phải
mất thời gian khá lâu, từ khâu ban hành đến quán triệt, phổ biến thường đi sau các
trang mạng xã hội, tác động không nhỏ đến tư tưởng, tâm trạng của nhân dân.
Kính thưa toàn thể hội nghị!
Để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng dưới tác động của mạng xã hội, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp
như sau:
Thứ nhất, cấp ủy đảng, chính quyền, nhất là người đứng đầu quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên, thực hiện thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị, coi đó là một
tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền phải nêu gương về ý thức, thái độ học tập lý luận, coi đây là công việc
thường xuyên, là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong từng nhiệm kỳ
Đại hội Đảng, cấp ủy đảng, chính quyền phải xây dựng kế hoạch hàng năm, căn
cứ theo từng đối tượng cán bộ, đảng viên để xây dựng nội dung, chương trình,
27
loại hình tổ chức học tập phù hợp. Đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của
cá nhân, phát huy vai trò của tổ chức, chi bộ đảng trong giám sát, tổ chức thực hiện.
Thứ hai, phát huy dân chủ, sáng tạo trong nghiên cứu lý luận chính trị và
giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên một cách thiết thực, hiệu quả,
hiện đại, phù hợp từng nhóm đối tượng. Tiếp tục đổi mới dạy và học các môn lý
luận chính trị trong hệ thống giáo dục đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đảng, đoàn thể,
lực lượng vũ trang đảm bảo thiết thực, hiệu quả, cập nhật kiến thức mới, kết quả
nghiên cứu trong và ngoài nước. Chương trình phải đảm bảo tính sư phạm, khoa
học, liên thông, tránh trùng lắp; phân loại chương trình chuyên và không chuyên.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ hiện đại, phát
huy khả năng tự nghiên cứu, sáng tạo của người học. Đồng thời, hoàn thiện các
văn bản quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, tiêu chuẩn hóa đối với cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, phát huy vai trò của hệ thống các cơ quan báo chí, truyền thông
trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Coi trọng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị cho lãnh đạo, phóng viên
các cơ quan báo chí.
Thứ tư, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán
các quan điểm sai trái, thù địch. Nâng cao tính chủ động, phát hiện, dự báo âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt là trên mạng xã hội…
chủ động cung cấp thông tin, kiện toàn lực lượng, đặc biệt là các bộ phận chuyên
trách không gian mạng, đảm bảo nhanh nhạy, hiệu quả. Quán triệt quan điểm xây
và chống trong phê phán quan điểm sai trái, thù địch với ngăn chặn đẩy lùi “tự
diễn biến, tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên; tập trung xử lý những điểm nóng, những bức xúc,
nổi cộm.
Thứ năm, để phù hợp với tình hình hiện nay, đề nghị tỉnh chỉ đạo thành lập
nhóm tuyên truyền của Đảng thông qua mạng xã hội nhóm kín facebook, zalo do
Tỉnh ủy chỉ đạo chung, theo đó đề nghị mỗi chi bộ, đảng bộ cơ sở thành lập 01
nhóm để kịp thời chỉ đạo đối với những vấn đề “nóng”, cấp bách để ổn định tình
hình tư tưởng cho đảng viên, thông qua hệ thống đảng viên tuyên truyền trong
quần chúng nhân dân.
Xin trân trọng cảm ơn!
28
KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU, LÝ TƯỞNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG, BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Huyện ủy Đức Linh
Trong bài diễn văn kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng, Tổng bí thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Lịch sử 90 năm qua đã chứng tỏ sự lãnh
đạo của Đảng là đúng đắn, đã tạo nên nhiều kỳ tích. Đảng được tôi luyện và ngày
càng trưởng thành, được sự tin cậy của nhân dân. Từ đó khẳng định chân lý không
tổ chức nào ngoài Đảng có đủ uy tín để lãnh đạo nhân dân đi từ thắng lợi này qua
thắng lợi khác”.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là một Ðảng chân chính, do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn gắn bó với
nhân dân, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, có nhiều kinh nghiệm cách mạng,
hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Ngay từ khi ra đời cho đến nay, Ðảng ta luôn khẳng định độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Ðảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa
xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Ðộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán
của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta trong suốt
hơn 90 năm qua. Dù trong hoàn cảnh nào, lúc thuận lợi hay khó khăn, kể cả khi
trong tình thế “hiểm nghèo”, Ðảng ta vẫn không rời xa mục tiêu, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vì con đường xã hội chủ nghĩa là con đường
đúng đắn, phù hợp với quy luật và xu thế phát triển của thời đại. Chỉ có con
đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho dân tộc Việt Nam có được độc lập thực
sự, đất nước Việt Nam phát triển phồn vinh, nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Đây vừa là mục tiêu cơ bản của cách mạng, vừa là lợi ích
căn bản của quốc gia và là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta (đó là
nguồn gốc thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, là định hướng xuyên suốt).
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, Đảng ta khẳng định: phải kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù
hợp với thực tiễn Việt Nam. Không ngừng đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý
luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường
29
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định, phát triển đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, hội nhập quốc tế; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;
xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Thực hiện đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị với những bước đi
phù hợp; tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Ngày nay, bên cạnh những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà Ðảng
và nhân dân ta giành được trong gần 35 năm đổi mới, đất nước ta cũng đang đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình trạng suy thoái về phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình
trạng quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí còn diễn ra;... Bên cạnh đó, các thế
lực thù địch không ngừng đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình” kết hợp gây
bạo loạn lật đổ nhằm chống phá Ðảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Trước tình hình đó, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và một số người
muốn phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng
Cộng sản - đại diện cho con đường xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng “chủ nghĩa xã
hội là con đường không có tương lai”, “đi vào ngõ cụt”, “đã bị lịch sử phủ định”;
“lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Ðảng”; hoặc “chủ
nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu, nước mạnh”...
Để làm rõ vấn đề này chúng ta cùng làm rõ một số vấn đề như: Những tổ
chức, cá nhân có quan điểm phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta là tổ
chức, cá nhân có cái nhìn sai lệch về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, nó
cường điệu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản mà không thấy hoặc coi
nhẹ những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản; mặt khác, họ định kiến
với chủ nghĩa xã hội, với những sai lầm mà trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước này, hoặc nước kia đã mắc phải. Họ đồng nhất chủ nghĩa xã hội
hiện nay với những khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội Xô - viết trước
đây, không thấy những thành tựu đổi mới chủ nghĩa xã hội đang diễn ra ở Việt
Nam. Còn chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Ðông Âu bị sụp đổ, có nguyên
30
nhân khách quan và chủ quan mang tính lịch sử - cụ thể. Trong quá trình hình
thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được
những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình
và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng do chậm khắc phục những hạn chế,
khiếm khuyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội, lại mắc phải những sai lầm nghiêm
trọng về đường lối cải tổ, cộng với sự chống phá của các thế lực đế quốc, chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Ðông Âu đã bị sụp đổ. Tuy nhiên, đó không phải
là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, mà chỉ là sự sụp đổ của một mô
hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp.
Có thể khẳng định rằng, đi lên chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt
trong đường lối cách mạng Việt Nam. Không phải chỉ khi giành được chính
quyền, đất nước hòa bình, nhiệm vụ kiến quốc đặt lên hàng đầu, mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội mới được đặt ra mà ngay cả trong thời kỳ đấu tranh giành
chính quyền, khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu thì đi lên
chủ nghĩa xã hội đã là mục tiêu, là sự lựa chọn của Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Các sự kiện trong những năm 1930, 1945, 1954, 1975, 1986 đã trở thành
những cột mốc lịch sử quan trọng cho sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa,
tạo thành sợi dây lô-gíc - lịch sử của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhờ kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc vắn liền với chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn thử thách, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá; chính trị - xã hội ổn định;
quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ
mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt
của đất nước được nâng lên; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao. Lịch sử cận đại và hiện đại nước ta đã khẳng định, con đường
cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay do Ðảng Cộng sản chân
chính lãnh đạo tất yếu. Ðảng Cộng sản Việt Nam là một Ðảng Mác - Lê-nin chân
chính, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, luôn gắn bó với nhân dân, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, có nhiều
kinh nghiệm cách mạng, hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
31
Tự hào về sự vĩ đại của Đảng ta trong chặng đường 90 năm qua, Đảng bộ
Huyện Đức Linh cũng tự hào vì đã trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng
thành, với 11 kỳ đại hội, Đảng bộ huyện Đức Linh đã luôn đấu tranh cách mạng kiên
cường, lãnh đạo nhân dân huyện nhà viết tiếp những trang sử hào hùng, góp phần
xứng đáng cùng cả nước giành thắng lợi vẻ vang trong các giai đoạn cách mạng.
Trong lòng Bình Thuận thân thương, mảnh đất và con người Đức Linh
trước chiến tranh khốc liệt, với bao đau thương, mất mát vẫn bất khuất vươn dậy
góp sức cùng cả tỉnh, cả nước viết nên những dòng chói lọi của kho lịch sử dân
tộc Việt Nam.
Năm 1962 sau khi tách huyện thì chi bộ đầu tiên của Hoài Đức (nay là Đức
Linh) được thành lập với 9 đảng viên. Từ hạt giống đỏ này, phong trào cách mạng
đã lan tỏa khắp nơi trong toàn huyện, những quần chúng ưu tú được kết nạp vào
Đảng, cơ sở Đảng phát triển nhanh chóng, nhiều chi bộ Đảng được ra đời. Lớp
lớp những chiến sĩ trung kiên của Đức Linh đã hiến dâng trọn cả đời mình cho
cuộc đấu tranh cách mạng đầy cam go, thử thách, tô thắm trang sử vàng truyền
thống của Đảng bộ, nhân dân Bình Thuận nói chung, Đức Linh nói riêng, góp
phần vào thắng lợi trong của sự nghiệp cách mạng của Đảng và toàn dân tộc.
Chặng đường 45 năm sau ngày giải phóng, là chặng đường mà Đảng bộ và
nhân dân Đức Linh phải trải qua với bao khó khăn thách thức. Đi lên từ trong
hoang tàn của chiến tranh, cuộc chiến chống lại đói nghèo lạc hậu, vì cơm ăn, áo
mặc, học hành của nhân dân cũng là cuộc chiến không kém phần gian nan vất vả,
cũng đầy thử thách hy sinh. Kế thừa truyền thống đoàn kết, sáng tạo và khí phách
anh hùng trong kháng chiến, Đảng bộ, quân và dân Đức Linh đã nỗ lực vượt qua
tất cả đưa quê hương vững bước đi lên.
Cho đến hôm nay, có thể tự hào khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ,
trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội của huyện Đức Linh đã đạt được những
thành quả hết sức quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, trong sự
chuyển dịch cơ cấu đúng hướng. Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - ngành
nghề - dịch vụ được chú trọng quy hoạch và từng bước hình thành đem lại diện
mạo mới của nền kinh tế, hứa hẹn cho một sự bứt phá trong nay mai. Cơ sở vật
chất phục vụ sản xuất và dân sinh được quan tâm đầu tư, phong trào xây dựng
nông thôn mới đã và đang trở thành một phong trào rộng khắp, sôi nổi nhất, được
nhân dân đồng tình, làm cho bộ mặt nông thôn ngày thêm tươi đẹp. Đến nay, tất
cả các xã của huyện Đức Linh đều đã đạt chuẩn nông thôn mới, dự kiến năm
2020 huyện Đức Linh sẽ về đích huyện nông thôn mới. Tất cả những thành quả
32
của huyện Đức Linh đạt được không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng mà trực
tiếp là Đảng bộ tỉnh Bình Thuận.
Để cùng với tỉnh nói riêng và cả nước nói chung xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, Đảng bộ và nhân dân huyện Đức Linh quyết tâm xây dựng Đảng
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về trí tuệ và đạo đức; tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và các lĩnh
vực của đời sống xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân
chung sức, đồng lòng, tạo xung lực mới cùng với cả nước thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ có đi theo con đường này chúng ta mới có nhà
nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo được độc lập dân tộc thực sự,
giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của đất
nước để hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả. Đưa dân tộc, đất nước Việt Nam
sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ đã từng nói.
33
CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG
VỀ ĐẠO ĐỨC HIỆN NAY
Huyện ủy Đức Linh
Hơn lúc nào hết, hiện nay, cần tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng để lãnh đạo đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ
và hội nhập quốc tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC, CỘI NGUỒN SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG, CỦA
CÁCH MẠNG ĐỂ ĐI ĐẾN THẮNG LỢI
Khi chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh đã đặt lên hàng đầu Tư cách một người cách mệnh với 23 điểm căn
bản. Với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản
cầm quyền ở Việt Nam, yêu cầu và nội dung xây dựng Đảng đặt ra nhiều vấn đề
lớn lao và mới mẻ trong đó có rèn luyện đạo đức cách mạng. Trong tác phẩm Sửa
đổi lối làm việc (10-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Chương III về Tư
cách và đạo đức cách mạng, nhấn mạnh 12 điều về tư cách của Đảng chân chính
cách mạng. Người nêu bật những tính tốt của người cách mạng cần được bồi đắp:
NHÂN, NGHĨA, TRÍ, DŨNG, LIÊM.
Hồ Chí Minh thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ,
đảng viên như non kém về lý luận, tư tưởng không vững vàng, thiếu kiên định
mục tiêu chính trị, quan liêu trong phong cách lãnh đạo và khuyết điểm về đạo
đức. Biểu hiện kém đạo đức rất nặng nề và tập trung ở sự tham lam, lười biếng,
xa hoa, hủ hóa, kiêu ngạo, hiếu danh, hẹp hòi, thiếu kỷ luật,v.v.. Những thứ bệnh
nguy hiểm đó đều bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân.
Suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do, xây
dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức gắn liền với xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng - lý luận và tổ chức. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
chú trọng giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nhiều cán bộ, đảng viên đã nêu tấm gương sáng về
đạo đức cách mạng. Ở mỗi thời kỳ đấu tranh cách mạng, với chiến lược cách
mạng cụ thể đã định hình những giá trị chuẩn mực đạo đức nổi bật.
34
Trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, tiến hành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và các cuộc kháng chiến cứu nước đã làm nổi bật những tấm
gương về nhân cách, đạo đức của những chiến sĩ cộng sản.
Trước hết đó là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp đấu tranh của Đảng và
dân tộc vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đạo đức của
Đảng là thật sự vì nước, vì dân, nêu cao lợi ích của đất nước, dân tộc, Tổ quốc
trên hết, độc lập trên hết. Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức và hành
động vì lợi ích của dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng
không có lợi ích nào khác. Toàn Đảng chung sức lãnh đạo đấu tranh làm sao cho
đất nước được hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc, đồng bào được tự do, hạnh
phúc, bảo đảm quyền sống và thoát khỏi sự áp bức, bất công, đau khổ dưới sự
thống trị của chế độ thực dân, phong kiến và các thế lực phản động.
Đạo đức của Đảng thể hiện ở quyết tâm và kiên cường đấu tranh chống mọi
kẻ thù cướp nước và bán nước, cán bộ, đảng viên của Đảng là những chiến sĩ đi
đầu trong sự nghiệp đấu tranh đó. Cuộc đấu tranh đó đã diễn ra rất lâu dài và gian
khổ với những thách thức nặng nề. Cuộc đấu tranh đó phải đương đầu với những
thế lực đế quốc, thực dân, phản động cực kỳ tàn bạo, có sức mạnh và mưu đồ
hiểm độc. Thách thức nặng nề đó khiến cho toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên
nêu cao phẩm chất, ý chí đấu tranh vì phẩm giá, nhân cách con người và tinh thần
tự tôn dân tộc. Bền bỉ đấu tranh vượt qua mọi gian khổ hiểm nguy để đi tới chiến
thắng là giá trị đạo đức của Đảng.
Đạo đức của Đảng là đức hy sinh, giữ vững ý chí và khí tiết của người
cộng sản. Những người cộng sản đã hy sinh tuổi thanh xuân, cuộc sống gia đình,
hạnh phúc riêng tư, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Dù
biết phải hy sinh kể cả hy sinh tính mạng cũng không lùi bước. Luôn luôn đi đầu
trong sự nghiệp đấu tranh, nêu tấm gương sáng trước quần chúng nhân dân.
Nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng đã hy sinh trong lao tù đế quốc như Trần Phú,
Lê Hồng Phong hoặc ở trường bắn của quân thù như Hà Huy Tập, Nguyễn Văn
Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ,…
Đạo đức của Đảng trong đấu tranh giải phóng dân tộc đã góp phần rèn
luyện nhiều thế hệ đảng viên, cán bộ và cả quần chúng trung kiên thành những
lớp người đặc biệt mà uy vũ không thể khuất phục, sẵn sàng xả thân vì dân, vì
nước, vì nghĩa lớn, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Những người cộng sản luôn
luôn đứng ở hàng đầu trong những lớp người đặc biệt đó và được quần chúng
nhân dân kính phục, tin cậy và noi theo. Giá trị đạo đức đó cũng là cội nguồn sức
35
mạnh của Đảng, của cách mạng để đi đến thắng lợi.
Thời kỳ Đảng lãnh đạo xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa và thực hiện công cuộc đổi mới, những giá trị đạo đức của thời cách mạng
giải phóng và chiến tranh cứu nước tiếp tục được kế thừa, phát triển và lan tỏa.
Đại hội XII của Đảng (1-2016) nhấn mạnh xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta nêu rõ nội dung xây dựng Đảng
về đạo đức. Cùng với xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, chú trọng
xây dựng tổ chức đảng và công tác cán bộ, phải rất đề cao giáo dục đạo đức cách
mạng trong Đảng và cũng đòi hỏi từng cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức cách mạng, đặc biệt học tập, làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
ĐÕI HỎI QUYẾT TÂM MỚI
Chặng đường mới cũng đặt ra nhiều thách thức mới từ vị trí cầm quyền của
Đảng và trách nhiệm lớn lao của mỗi cán bộ, đảng viên đòi hỏi quyết tâm mới để
vượt qua hoàn cảnh và vượt qua chính mình trước những cám dỗ vật chất, lợi ích
cá nhân và tham vọng quyền lực. Nhiều đồng chí đã giữ vững truyền thống đạo
đức của Đảng, hết lòng vì sự phát triển, phồn vinh của đất nước, vì cuộc sống
hạnh phúc của nhân dân. Nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện, học
tập dẫn tới sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10-2016) đã
thẳng thắn chỉ ra. Những hạn chế, khuyết điểm và sự suy thoái đó đã “làm giảm
sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và
chế độ”.
Hơn lúc nào hết, hiện nay cần tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng để lãnh đạo đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ
và hội nhập quốc tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Trước yêu cầu đó, rất cần thiết phải tổng kết sâu sắc hơn những vấn đề xây
dựng Đảng về đạo đức từ trước tới nay và đề ra được những tiêu chí về đạo đức
của Đảng trong hoàn cảnh hiện nay.
Đạo đức của Đảng trong thời kỳ mới là hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, “dĩ công vi thượng”.
36
Cương lĩnh, đường lối của Đảng đã thể hiện điều đó. Chỉ đạo và hoạt động thực
tiễn của toàn Đảng, mọi tổ chức đảng hướng tới chuẩn mực đó. Mỗi cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phấn đấu để làm tốt điều đó. Đó là giá trị
đạo đức mới hiện nay. Để đạt tới chuẩn mực đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên
phải đề cao tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, thái độ vì dân. Thật
sự trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân. Phấn đấu vì dân giàu, nước
mạnh, vì sự hùng cường của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Coi trọng hành
động, những việc làm cụ thể vì mục tiêu cao cả đó. Chuẩn mực đạo đức đó đòi
hỏi phải kiên quyết phê phán, chống chủ nghĩa cá nhân trong mỗi người cán bộ,
đảng viên. Chống lối sống ích kỷ, tham lam, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, thu vén cá
nhân, không quan tâm đến tập thể, đến lợi ích chung.
Cần nhấn mạnh, đạo đức của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên là cần kiệm
liêm chính, không tham ô, tham nhũng, lãng phí, không lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để trục lợi. Đây là chuẩn mực thể hiện lương tâm, danh dự và nhân cách, tư
cách của người cách mạng. Chuẩn mực đó đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải làm
việc với chất lượng và hiệu quả cao nhất với những nhiệm vụ được giao, không
thờ ơ, thiếu trách nhiệm, vô cảm trong công việc. Thói vô trách nhiệm, né tránh
công việc đang làm tổn hại, cản trở sự phát triển và làm cho sự lãnh đạo, quản lý
trì trệ, kém hiệu quả, hiệu lực. Cần kiên quyết phê phán, đấu tranh ngăn chặn
hành động tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn câu kết với doanh
nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Sống bằng kết quả lao động, cống hiến và
thu nhập hợp pháp, kê khai trung thực, minh bạch tài sản riêng. Không lợi dụng,
lạm dụng quyền lực được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng,
tiêu cực. Kiên quyết chống những biểu hiện phe cánh, lợi ích nhóm. Mọi cán bộ,
đảng viên sống và làm việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
trung thực đoàn kết, không làm điều gì khuất tất, không đưa người nhà, người
thân không đủ tiêu chuẩn, điều kiện vào các cơ quan hoặc vị trí lãnh đạo, quản lý.
Chống tham nhũng không chỉ bảo vệ tiền bạc, tài sản công để không gây thiệt hại
về kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, sự vững mạnh của chế độ, niềm tin của
nhân dân và cũng là vấn đề đạo đức, vì sự trong sạch trong đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đạo đức của Đảng và mỗi cán bộ, đảng
viên hiện nay là không quan liêu, xa rời quần chúng, khiêm tốn, giản dị, giữ gìn
lối sống trong sạch, đề cao các giá trị văn hóa, nhân văn. Gắn bó mật thiết với
nhân dân là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Từ
37
phong trào cách mạng của quần chúng mà xây dựng Đảng và mỗi cán bộ, đảng
viên trưởng thành. Bài học lấy dân làm gốc cần được nhận thức và hành động
đúng ở mọi thời kỳ cách mạng. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới, bài
học đó có ý nghĩa to lớn động viên sức dân trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát
triển đất nước. Gắn bó với nhân dân, thật sự vì lợi ích của nhân dân, là vấn đề lớn
trong đạo đức cách mạng. Làm tốt được điều đó là khắc phục được bệnh quan
liêu - một nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII
đã nêu rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống là: “Quan liêu, xa
rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc
tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm
trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”. Phải thật sự
tin dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của dân, bàn bạc với nhân dân, chăm lo cho lợi
ích của nhân dân. Nếu có khuyết điểm thì thật thà nhận lỗi trước nhân dân và
cùng với nhân dân sửa chữa. Giữ gìn lối sống lành mạnh, không “sa vào các tệ
nạn xã hội, vi phạm thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội”.
Đạo đức của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay đòi hỏi đề cao tính
trung thực, tình thương yêu đồng chí, sống nhân ái, nghĩa tình. Sinh thời Hồ Chí
Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Tình là
tình cảm chân thật, nghĩa là trách nhiệm, cần sống “ngay thẳng, không có tư tâm,
không làm việc bậy, không có gì phải giấu Đảng”. Đó là sự trung thực. Mọi việc
Đảng giao cho dù to hay nhỏ phải cố gắng hoàn thành cẩn thận. Hiện nay, phải
khắc phục biểu hiện thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, gió chiều
nào che chiều ấy, dĩ hòa vi quý. Đó là sự thiếu trung thực ảnh hưởng đến sự lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng và cũng là biểu hiện suy giảm về đạo đức. Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII đã nêu rõ những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối
sống cần phải phê phán, loại bỏ như “ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không
muốn người khác hơn mình”, “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất
đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa
địa vị, tranh chức, tranh quyền, độc đoán, gia trưởng, thiếu chỉ đạo trong chỉ đạo,
điều hành”. Những biểu hiện đó là trái với đạo đức cách mạng của Đảng mà Hồ
Chí Minh chú trọng rèn luyện, trái với đạo đức công vụ trong bộ máy nhà nước
và ảnh hưởng xấu đến đạo đức của xã hội.
Đạo đức trong Đảng hiện nay cần thiết nhấn mạnh sự gương mẫu, trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Gương mẫu trong công việc, trách
38
nhiệm được giao; gương mẫu về phẩm chất, nhân cách, lối sống; gương mẫu
trong phong cách làm việc dân chủ, khoa học, gần dân, sát thực tế, thống nhất
giữa nói và làm; gương mẫu trong hưởng thụ quyền lợi vật chất. Đảng viên nêu
gương trước quần chúng, cán bộ lãnh đạo, quản lý nêu gương trước nhân viên,
cấp trên nêu gương trước cấp dưới. Người có chức vụ, trách nhiệm càng cao,
trách nhiệm nêu gương càng lớn.
Sự hoàn thiện đạo đức trong Đảng với những tấm gương sáng về đạo đức
của cán bộ, đảng viên có ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn đến những giá trị đạo đức
của toàn xã hội, của dân tộc. Hồ Chí Minh mong muốn dân tộc Việt Nam phải là
một dân tộc văn minh, thông thái, có đạo đức. Điều đó làm cho Đảng Cộng sản
Việt Nam cầm quyền, dân tộc Việt Nam nhân ái trở thành biểu tượng tốt đẹp
trong tình cảm của bạn bè quốc tế.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” (1).
Thấm nhuần lời dạy đó của Người, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, nhiệm vụ và
mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức đang đặt ra bức thiết. Cần thiết có sự thống
nhất nhận thức và quyết tâm hành động góp phần xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu
của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế./.
39
BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ VIỆC
RÈN LUYỆN BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Võ Thị Xuân Thuận
(Phó Trưởng Phòng QLĐT và NCKH -
Trường Chính trị tỉnh Bình Thuận)
Thực tiễn cách mạng Việt Nam 90 năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh để Đảng hoàn
thành sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc đó chính là bản lĩnh chính trị vững vàng
của Đảng. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ngày càng được tôi luyện,
thử thách và không ngừng trưởng thành, bản lĩnh chính trị ngày càng vững vàng,
lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện trước hết là sự kiên định con đường
cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân đã lựa chọn, kiên trì thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta xác định
ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930. Năm 1945, Đảng
lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á; Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, tiếp tục lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1986, trong bối cảnh cực kỳ
khó khăn do chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào thoái trào, phe xã hội chủ
nghĩa đứng trước nguy cơ tan rã, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước kéo dài,
Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tạo ra một bước ngoặt
mang ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Năm 1991,
Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thời gian trên thế giới và
trong nước, đặc biệt là tình hình hệ thống XHCN diễn biến hết sức phức tạp. Cuối
năm 1990, đầu năm 1991, chế độ XHCN ở các nước Đông Âu sụp đổ, Liên Xô
cũng đứng trước ngưỡng cửa của sự tan rã, phong trào cộng sản và công nhân trên
40
thế giới bị tấn công dữ dội, làm cho nhiều Đảng cộng sản và công nhân mất
phương hướng. Ở nước ta, công cuộc đổi mới tuy đã đưa lại những thành tựu
bước đầu đáng khích lệ, song vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức.
Do tác động của tình hình, nhất là tình hình bên ngoài, đã nảy nở và phát sinh
trong xã hội ta tư tưởng hoang mang, dao động, hoài nghi trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân, các phần tử xấu tung ra những luận điệu sai trái và
phản động, đói xét lại quá khứ và những thành tựu cách mạng, công kích sự lãnh
đạo của Đảng, đòi “đa nguyên, đa đảng”, từ bỏ con đường XHCN. Trong bối
cảnh tình hình đó, việc ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta đã thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt, kiên quyết, thể hiện
bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng. Cương lĩnh đã thực sự là ngọn cờ chiến
đấu, chỉ đạo và định hướng của Đảng ta vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất
nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH.
Thứ hai, lãnh đạo đất nước vượt qua thử thách trong những thời điểm khó
khăn, cam go của cách mạng, đó là minh chứng cho bản lĩnh chính trị của Đảng
Sau phong trào cách mạng đầu tiên (1930 – 1931), thực dân Pháp và tay sai
thẳng tay đàn áp cách mạng; hàng ngàn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu
nước bị bắt, bị giết, bị tù đày, hệ thống tổ chức của Đảng tan vỡ, cách mạng tổn
thất nghiệm trọng. Tuy nhiên, với bản lĩnh chính trị vững vàng, các cán bộ, đảng
viên của Đảng luôn giữ vững niềm tin tất thắng, ý chí kiên cường bất khuất, vượt
qua khó khăn, thử thách, khôi phục được hệ thống tổ chức đảng và phong trào
cách mạng, tạo điều kiện đưa cách mạng bước vào giai đoạn mới và giành thắng
lợi to lớn trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước lâm vào tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc” – giặc ngoài, thù trong, những khó khăn chồng chất cả
về kinh tế, tài chính, văn hóa – xã hội, một lần nữa bản lĩnh chính trị của Đảng lại
được thể hiện trước những thử thách hiểm nghèo của lịch sử. Xuất phát từ đặc
điểm, tính chất và điều kiện lịch sử cụ thể, việc kiên quyết giữ vững nguyên tắc
chiến lược, nhưng mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược ngoại giao thêm bạn bớt
thù và sự nhân nhượng có nguyên tắc và với quyết định ra "Thông cáo giải tán
Đảng Cộng sản Đông Dương" ngày 11-11-1945 (thực chất là rút vào hoạt động bí
mật) là một sách lược phù hợp với sự lãnh đạo trong thời kỳ đất nước đang diễn
ra cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vô cùng gay gắt. Do đó đã hạn chế
tới mức thấp nhất sự phá hoại của các lực lượng phản động, giữ vững chính
quyền cách mạng non trẻ trước cơn sóng gió.
41
Bản lĩnh chính trị vững vàng trước những khó khăn thử thách của Đảng với
sự tự tin và chủ động trong những quyết sách đúng đắn tiếp tục thể hiện trong
quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và quyết định
của Nghị quyết Trung ương 15 (1959) khởi nghĩa từng phần, mở đầu cuộc kháng
chiến chống Mỹ một cách độc đáo, khéo léo, đáp ứng khát vọng của Nhân dân
yêu nước và cán bộ miền Nam, được sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân yêu
chuộng hòa bình trên thế giới. Đặc biệt là với phương châm "nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" để đi đến quyết sách đổi mới toàn diện
trước sự khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 của thế kỷ XX.
Thứ ba, bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở thái độ dũng cảm thừa nhận
và kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi mắc phải sai lầm, khuyết điểm,
Ðảng không che giấu, mà ngược lại, rất nhiều lần Đảng tự phê bình, quyết tâm
sửa chữa: Tháng 5/1931, Đảng đã có Chỉ thị phê bình những quan điểm sai lầm
“tả” khuynh của Xứ ủyTrung Kỳ trong chủ trương về vấn đề thanh Đảng; trong
giai đoạn 1936-1939, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự
chỉ trích” về khuyết điểm của Đảng trong nhận thức và vận dụng lý luận chủ
nghĩa Mác-Lênin, về thái độ của đảng viên trong đấu tranh tự phê bình và phê
bình... Năm 1947, khi nhìn thấy những nguy cơ Đảng cầm quyền dễ phạm sai
lầm, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm“Sửa đổi lối làm việc”; năm 1956, Đảng
đã nhận lỗi trước nhân dân về sai lầm trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức,
rồi kiên quyết sửa sai, biết cách sửa sai có hiệu quả; đến Đại hội VI, sau 10 năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đảng dũng cảm nhìn thẳng vào
sự thật, nói rõ sự thật về thực trạng đất nước, nêu rõ những sai lầm, khuyết điểm
trong hoạt động của Đảng và Nhà nước; đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, về sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược
của Đảng và Nhà nước; đặc biệt trong công cuộc đổi mới, các nghị quyết về công
tác xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ tư khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đã thể hiện rõ thái độ dũng cảm thừa
nhận và kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm của Đảng.
Thứ tư, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ lý luận Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh, phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch.
42
Lợi dụng tình hình chính trị thế giới diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-
Lênin; rêu rao chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ có giá trị ở cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ
XX, thế kỉ XXI không còn phù hợp nữa, rằng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là minh chứng cho sự sụp đổ của chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, họ tung ra luận điệu tách rời tư tưởng Hồ
Chí Minh với học thuyết Mác-Lênin. Họ ngụy biện rằng, bây giờ học thuyết Mác-
Lênin đã lỗi thời, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, vì vậy chỉ cần dựa
vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Đây là một
luận điệu rất nguy hiểm vì làm như vậy là cô lập, suy yếu tư tưởng Hồ Chí Minh
và thực chất là để phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tiến tới phủ định chính ngay tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động. Đảng cũng chỉ rõ nguồn gốc sâu xa của mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, được lý luận
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường chỉ lối. Tổng kết thực tiễn lịch sử
hoạt động lãnh đạo của Đảng và thực tiễn phong phú, sinh động của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”
Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, toàn diện, sâu sắc hơn về chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định chỉ trên cơ sở trung
thành, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
phù hợp với thực tiễn Việt Nam thì Đảng mới có khả năng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng và tránh được nguy cơ sai lầm về đường lối.
90 năm lịch sử vẻ vang của Đảng đã khẳng định những thành tựu lớn lao
trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo
của Đảng; càng khẳng định bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng. Tuy nhiên,
hiện nay, công cuộc đổi mới vẫn đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách
thức đòi hỏi Đảng phải tiếp tục vững vàng bản lĩnh để lãnh đạo giải quyết những
khó khăn mới đặt ra, tiếp tục đưa đất nước phát triển.
43
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng việc rèn luyện
bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, xem đó là một trong những nhân tố quan
trọng góp phần làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bản lĩnh chính trị của
cán bộ, đảng viên là tổng hợp các phẩm chất đạt đến trình độ có thể tự quyết định
một cách độc lập, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của mình trước những bước
ngoặt và tình huống phức tạp về chính trị, thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên biểu hiện ở các phương diện sau: sự vững
vàng, kiên định và nhạy cảm trước những biến động chính trị - xã hội; tích cực
tham gia vào các quá trình chính trị - xã hội trên cương vị, chức trách được giao;
giải quyết chính xác, nhanh chóng và có hiệu quả những vấn đề nảy sinh ở cơ
quan, đơn vị theo thẩm quyền. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên có vai trò
rất quan trọng đối với sự phát triển mọi mặt của bản thân cán bộ, đảng viên; công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Bản lĩnh chính trị của cán
bộ, đảng viên là một trong những yếu tố quan trọng hình thành bản lĩnh chính trị
của Đảng.
Về bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ hiện nay, Đảng ta nhận định:
“Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu
dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập,
có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực,
phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính
sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện”. Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận:
“Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán
bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến
lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm
vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực, lợi ích nhóm…” Vì vậy, hiện nay, việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán
bộ, đảng viên có vai trò vô cùng quan trọng.
44
Trong những năm qua, Đảng ta đã có nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm tiếp
tục nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, như: Nghị quyết số
12-NQ/TW ngày 16/01/2012 một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng trong
tình hình hiện nay; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa XII về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ; Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 “Về việc kiểm soát quyền
lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”.v.v. Đặc biệt, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ:
“Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi
cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không
dao động trước bất kỳ tình huống nào”.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên là toàn bộ hoạt động của
các cấp uỷ, tổ chức đảng và của chính cán bộ, đảng viên trên tinh thần quán triệt
sâu sắc và theo đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; xây dựng và xác định rõ các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ,
đảng viên; được tiến hành đồng bộ: từ việc nâng cao nhận thức tư tưởng, bồi
dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý
luận chính trị đến nâng cao năng lực công tác, phương pháp làm việc, tác phong
công tác; với sự tham gia, phối hợp của nhiều lực lượng và đi liền cùng đó là tạo
điều kiện và môi trường thử thách để rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên gắn liền với việc đề cao vai trò tự giác tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh
chính trị của mỗi người. Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết
định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên và của Đảng, song đó
là kết quả của một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện thường
xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác,
nghiêm túc, quyết tâm rèn luyện, tu dưỡng, nghiêm khắc với chính mình thì mới
có được bản lĩnh chính trị vững vàng./.
45
LỊCH SỬ VIỆT NAM, DÂN TỘC VIỆT NAM CHỈ LỰA CHỌN
MỘT CHÍNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO - ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,
NGƢỜI LÃNH ĐẠO MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Duy Hà
(Trưởng Khoa NN và PL - Trường Chính trị tỉnh)
1. Lịch sử và dân tộc trao niềm tin và ủy thác trọng trách cho Đảng
Cộng sản Việt Nam
Chín mươi năm qua, kể từ khi ra đời và hoạt động cho đến nay của Đảng
ta, đã có đủ luận cứ để khẳng định chắc chắn rằng: Ở Việt Nam chỉ có một đảng
chân chính, cách mạng và khoa học, đó là Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện mới có thể lãnh đạo dân tộc Việt Nam tiến
hành sự nghiệp cách mạng cập bến vinh quang, tới bờ độc lập. Khẳng định đó
được dựa trên cơ sở:
Thứ nhất: Về phương diện lý luận: Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời không chỉ chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, mà còn
khẳng định vai trò quyết định về sự lãnh đạo của của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định "Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở
mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thì thuyền mới chạy”.(1), và “muốn cách mệnh thành công thì dân chúng
(công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải
thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” (2)
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và mãi mãi
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hoạt động của Đảng để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Đó là khâu then chốt, bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng chính trị
duy nhất tồn tại, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của dân tộc
Việt Nam giao phó.
Thứ hai: Về phương diện thực tiễn: Lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho
thấy sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn
tất yếu của lịch sử; là ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Điều này được minh
46
chứng rõ ràng: Từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, không
cam chịu thân phận nô lệ, nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên đấu tranh qua các
phong trào yêu nước diễn ra liên tục và mạnh mẽ, bằng nhiều con đường với
nhiều khuynh hướng khác nhau. Mặc dù đã đấu tranh rất kiên cường và chịu
những hy sinh to lớn, song do hạn chế lịch sử, nhất là thiếu một chính đảng lãnh
đạo, có đường lối đúng, các phong trào đó đều không thành công. Lịch sử đòi
hỏi phải tìm con đường mới. Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành (tức là Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm con đường cứu nước, đấu tranh giành
độc lập dân tộc. Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người đã tìm
đến ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, và dày công chuẩn bị những điều kiện cần
thiết cho việc thành lập một đảng cách mạng chân chính, đó là Đảng Cộng sản
Việt Nam, ra đời vào ngày 3/2/1930, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trọng đại,
chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt
Nam, mở ra một thời đại mới cho lịch sử dân tộc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng
Cộng sản Việt Nam chứ không có bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị nào
khác lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành
chính quyền mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam)
đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do,
hạnh phúc và đi lên CNXH. Thắng lợi đó chỉ có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam mới đem lại; “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các
dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách
mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc (3) .
Lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim là lịch sử chống giặc ngoại xâm. Trong
cuộc trường chinh 30 năm (1945-1975) đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách
xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ
mệnh lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và xây dựng thành công
CNXH trên đất nước Việt Nam. Đảng ta đã một lòng, một dạ thực hiện sứ mệnh
cao cả đó. Từ khi giải phóng hoàn toàn miền Nam (30/4/1975), thống nhất nước
nhà (1976) và đi lên xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, đến nay, sự nghiệp
cách mạng của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố, phát
triển toàn diện, uy tín ngày càng được nêu cao trên trường quốc tế. Điều đó càng
có thêm luận cứ để khẳng định không cần phải có đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập như sự đòi hỏi vô lý của các thế lực thù địch, phản động, rằng: “Đa đảng
47
là dân chủ, độc đảng là độc tài”; Việt Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ
“thực sự”. Thực tiễn ở Việt Nam, qua các thời kỳ khác nhau, đã có rất nhiều
đảng phải chính trị hoạt động, nhưng không có một chính đảng nào như Đảng
Cộng sản Việt Nam – “Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (4). Đảng không có mục đích nào khác ngoài
việc lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, ấm no
và hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy, lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã có
sự lựa chọn đúng đắn, trao trọn niềm tin cho Đảng Cộng sản Việt Nam và được
nhân dân gọi với cái tên trìu mến “ĐẢNG TA”, một đảng cách mạng chân chính,
có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt
qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta tiến
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Đảng cộng sản Việt Nam- nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam
Căn cứ vào thực tiễn cách mạng, Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn cho dân tộc
Việt Nam tiến lên trên con đường mới: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”. Đó là tất yếu, khách quan của cách mạng nước ta. Đồng hành cùng dân
tộc trong suốt 90 năm qua, Đảng ta luôn đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn;
luôn nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực
tiễn cách mạng đặt ra. Ở Việt Nam, không thể ai khác, mà chính Đảng Cộng sản
Việt Nam là tổ chức chính trị duy nhất có đủ khả năng đảm bảo lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, đó là một sự thật không ai có thể phủ nhận. “Từ ngày có Đảng,
nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”(5). Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, xóa bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam); đánh thắng các cuộc
chiến tranh xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là thắng lợi của 2 cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược; thắng lợi đó mãi mãi được ghi vào lịch sử
dân tộc Việt Nam như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người
48
Việt Nam, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX,
một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
Hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành
công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
“Thực tế, sau gần 35 năm tiến hành công cuộc Đổi Mới, từ một đất nước nghèo
nàn, có cơ sở vật chất-kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội lạc hậu, trình độ
thấp, đến nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập
trung bình; văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước
đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã
hội ổn định, quốc phòng-an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy
tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Với những thành
tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.”(6)
“Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Bình Thuận luôn tự
hào đã cùng nhân dân cả nước viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc, hun đúc nên
truyền thống anh hùng của Đảng quang vinh. 90 mùa xuân ta có Đảng, cũng là 9
thập niên quân và dân Bình Thuận một lòng đi theo Đảng, chung thủy, sắt son
với Đảng. Từ những người cộng sản đầu tiên trong ngày đầu thành lập Đảng, tổ
chức Đảng Cộng sản của tỉnh Bình Thuận từng bước phát triển, trưởng thành,
lãnh đạo các cuộc đấu tranh cách mạng ở Bình Thuận chống lại kẻ thù. Trong
những thời khắc khó khăn nhất, gian khổ nhất, quân và dân Bình Thuận vẫn một
lòng tin Đảng, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng đã chọn, lập nên truyền
thống “tự lực tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang” với những chiến
công vang dội. Từ đó, góp phần làm nên những thắng lợi chung của dân tộc Việt
Nam trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược và xây dựng
quê hương Bình Thuận ngày càng giàu đẹp, văn minh” (7).
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, nhất là trước những khó
khăn, thách thức, những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong lịch sử, chúng ta cũng
không thể tránh khỏi những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, thậm chí có cả
những sai lầm. Nhưng thấm nhuần sâu sắc di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, rằng: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết
điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của
mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh
ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế
49
là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Với tinh thần đó, Đảng
ta đã sớm phát hiện ra những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm; chỉ ra
những nguy cơ trước mắt là: “tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng XHCN;
tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của
các thế lực thù địch”, và kịp thời đề ra những biện pháp sửa chữa, khắc phục. Vì
vậy được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là
người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử cách
mạng Việt Nam cận đại, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào
có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ mới, trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng thành công và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong bối cảnh tình hình thế giới, khu
vực đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Tình hình trong nước, bên cạnh
những thuận lợi, thời cơ mới, chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn,
thách thức mới; các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá cách
mạng nước ta với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trong đó, chúng
ra sức tuyên truyền, xuyên tạc hòng hạ thấp và đi tới phủ nhận vai trò và sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước tình hình đó đòi hỏi phải chăm lo xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí
tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên để thực sự “là
đạo đức, là văn minh”, là người lãnh đạo và là người “đầy tớ” thật trung thành
mới có thể làm tròn sứ mệnh cao cả trước dân tộc, trước nhân dân. Do đó vấn đề
giữ vững bản chất của một đảng cách mạng chân chính, hoạt động vì sự nghiệp
của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân là vấn đề hết sức cơ
bản và quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: "Một dân tộc, một
đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Đứng trước hiện trạng ấy,
vấn đề xây dựng, làm trong sạch nội bộ là việc làm thường xuyên đối với Đảng
ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết TW 4 Khoá XI và TW 4 Khoá
XII về xây dựng Đảng đã khẳng định: “Phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng
với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến
rõ rệt hơn nữa trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí,
50
quan liêu, hách dịch, cửa quyền, xa dân, tình trạng suy thoái phẩm chất đạo đức
của cán bộ đảng viên; ra sức củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách
mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ;
tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta.
Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tuỵ, gắn bó máu thịt với
nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực
nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên. Với phương châm “”Phát
triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”; thực hiện các
Nghị quyết của BCH TW về xây dựng Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05 của
Bộ Chính trị về đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”, Đảng ta đã kiên quyết xử lý những sai phạm của cán bộ đảng
viên, nhằm làm trong sạch tổ chức Đảng và khôi phục niềm tin của Nhân dân với
Đảng. Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay đã thi hành kỷ luật hơn 90
cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 21 Uỷ viên Trung ương Đảng,
nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng (2 Ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng
trong lực lượng vũ trang. Kết quả đó cho thấy, công cuộc chỉnh đốn, làm trong
sạch Đảng là không có vùng cấm, không có ngoại lệ với bất cứ đối tượng nào
đang có biểu hiện suy thoái và làm suy yếu Đảng. Việc làm nghiêm minh của
Đảng đang được nhân hết sức đồng lòng ủng hộ.
Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm
qua đã chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước
Việt Nam. Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chúng ta vững tin rằng, Đảng Cộng sản
Việt Nam sẽ hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình./.
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 2, tr. 289.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.25.
4. Điều 4 HP năm 2013.
5. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
6. Diễn văn kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Dụng Văn Duy: 90 mùa xuân sắt son với Đảng, Báo Bình Thuận số ra ngày 03/2/2020.
51
SỰ RA ĐỜI CỦA CHI BỘ ĐẢNG ĐẦU TIÊN CỦA TỈNH BÌNH THUẬN
VÀO CUỐI NĂM 1930 TẠI DỐC ÔNG BẰNG, LÀNG TAM TÂN -
SỰ KIỆN LỊCH SỬ CÓ Ý NGHĨA TO LỚN ĐỐI VỚI
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA ĐỊA PHƢƠNG
Thị ủy La Gi
Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
vô cùng tự hào vì đất nước ta có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo quan và dân ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân
tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa
bình và tiến bộ của nhân loại.
Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được
những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cũng cách đây 90 năm, ở
dải đất cuối cùng của vùng cực nam trung bộ, nhân dân Hàm Tân – La Gi rất tự
hào về truyền thống đấu tranh cách mạng của quê hương. Là nơi có tổ chức Đảng
Cộng sản đầu tiên ươm mầm trên đất Tam Tân lịch sử. Đầu năm 1930, đồng chí
Dương Chước (bí danh Trợ Châm) một đảng viên Cộng sản từ Khánh Hòa đến
hoạt động tại Bình Thuận tuyên truyền và kết nạp một số quần chúng vào Đảng.
Lúc bấy giờ các tổ chức Cộng sản trong nước đã thống nhất lấy tên “Đảng Cộng
sản Việt Nam”, nên các tổ chức hoạt động theo danh nghĩa đó. Qua liên lạc tổ
chức của Kỳ bộ Nam Kỳ thuộc tổ chức Đảng Tân Việt (sau này là Đông Dương
Cộng sản liên đoàn), đồng chí Dương Chước đã giác ngộ về chủ nghĩa Cộng sản
và chính thức kết nạp thầy giáo Ngô Đức Tốn vào Đảng. Từ đó, thầy giáo Ngô
Đức Tốn càng hăng say hoạt động cách mạng. Thông qua tổ chức “Phản đế Đồng
Minh hội” giáo dục tinh thần yêu nước, chống đế quốc xâm lược, nâng cao ý thức
đấu tranh giai cấp, từng bước lựa chọn số người tâm huyết, có uy tín trong nhân
dân để giác ngộ quyền lợi cách mạng và đưa vào hoạt động theo hướng mới. Cuối
năm 1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên trên đất Bình Thuận – Chi bộ Tam Tân
chính thức thành lập gồm có các đồng chí: Lê Thanh Lư, Lê Chạy, Hồ Vũ, Cao
52
Có, Nguyễn Hữu Lợi, Nguyễn Gia Bát và đồng chí Ngô Đức Tốn được cử làm Bí
thư chi bộ.
Một số việc làm của chi bộ lúc này là phân công từng đảng viên tiếp tục
phát triển số quần chúng tốt, hình thành tiểu tổ để tuyên truyền chủ nghĩa Cộng
sản, căm thù đế quốc phong kiến, đấu tranh cho quyền lợi cuộc sống và độc lập
dân tộc. Về mặt tổ chức rất chặt chẽ, giữ bí mật, việc ai làm người đó biết. Song
song với hoạt động tại Tam Tân, đồng chí Ngô Đức Tốn còn liên hệ với một số
trong nhóm thanh niên tiến bộ ở La Gi, địa bàn trung tâm huyện lỵ để tuyên
truyền giác ngộ cách mạng, giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc. Tuy chưa hình
thành được tổ chức Đảng nhưng có tác động đến một số hoạt động xã hội ở đây.
Phong trào cách mạng và sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản tại Tam Tân
(1930-1931) có ý nghĩa chính trị rất lớn ở thời kỳ mới của đất nước. Mặc dù kể từ
khi Chi bộ Đảng bị bể vỡ, phong trào cách mạng có lắng xuống nhưng sự kiện đó
đã trở thành ngọn lửa cách mạng rực cháy trong những trái tim yêu nước, làm
thức tỉnh các tầng lớp nhân dân lao động ở Hàm Tân.
Quá trình lịch sử đấu tranh cách mạng của các thời kỳ kháng chiến và xây
dựng đất nước theo ngọn cờ của Đảng quang vinh, nhân dân Hàm Tân – La Gi
tiếp bước với niềm tin của bao thế hệ lập nên bao kỳ tích đáng trân trọng. Phát
huy truyền thống yêu nước của dân tộc, kết hợp tư tưởng tiến bộ của thời đại,
truyền thống đó đã biểu hiện sinh động trong thời kỳ dựng Đảng với bước tiên
phong từ tổ chức quần chúng “Phản đế đồng minh hội” đến việc thành lập “Chi
bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tại Tam Tân” và cuộc khởi nghĩa cách mạng Tháng
Tám năm 1945 có tính chủ động và sáng tạo, giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, lực lượng cách mạng, hệ thống chính
quyền cách mạng ở địa phương ngày càng được cũng cố, lãnh đạo các phong trào
quần chúng đấu tranh quyết liệt, nhiều tấm gương về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng đã biểu lộ sức mạnh ý chí kiên cường của nhân dân và còn tiếp tục phát huy
trong xây dựng quê hương sau ngày giải phóng, viết nên những trang sử rạng rỡ
cho Hàm Tân – La Gi.
Kế thừa truyền thống đó, qua 90 năm, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Hàm Tân – La Gi vượt qua nhiều thử thách, khó
khăn, gian khổ, một lòng, một dạ sắt son từ thế hệ này nối tiếp thế hệ khác vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Thực hiện Nghị định số 114/NĐ-CP, ngày 05/9/2005 của Chính phủ về
việc thành lập thị xã La Gi và huyện Hàm Tân (mới), đến nay qua 15 năm thành
53
lập thị xã La Gi, với sự nổ lực không ngừng của Đảng bộ thị xã La Gi, công tác
xây dựng Đảng trên địa bàn thị xã có sự chuyển biến tích cực. Từ “Chi bộ Tam
Tân” của 90 năm trước đây với 07 đồng chí, đến nay Đảng bộ thị xã La Gi với 26
tổ chức cơ sở đảng và 178 chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở, với đảng viên toàn thị
xã hiện có 2.319 đồng chí.
Công tác chính trị tư tưởng được quan tâm chỉ đạo góp phần ngăn chặn tình
trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tạo chuyển biến về lý tưởng
cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; phương pháp tổ chức quán triệt
và triển khai các chủ trương, nghị quyết của Đảng được đổi mới theo hướng
khắc phục hình thức, coi trọng chất lượng hiệu quả và mở rộng đối tượng tham
gia; việc nắm bắt, cung cấp thông tin được chú ý; xử lý, định hướng dư luận xã hội
có tiến bộ; thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh được tập trung, nghiêm túc; nội dung đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng
điểm và ngày càng chuyển biến tốt hơn, xuất hiện ngày càng nhiều gương điển
hình tốt trong nhiều lĩnh vực.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng chuyển biến
tiến bộ; chất lượng sinh hoạt đảng từng bước nâng lên. Các tổ chức cơ sở đảng
tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Thường xuyên củng cố, nâng cao năng lực đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng, đạt và
vượt chỉ tiêu đề ra, chất lượng được nâng lên.
Công tác tổ chức, cán bộ có nhiều cố gắng, quy hoạch cán bộ được thực
hiện đúng quy trình, nguyên tắc; luân chuyển, điều động bố trí cán bộ được chú ý;
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm đúng mức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trước mắt và các năm tiếp theo. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng;
thực hiện kịp thời các chế độ chính sách theo quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát, phúc tra được coi trọng, chất lượng, hiệu quả
được nâng lên. Thực hiện kiểm tra thường xuyên việc thực hiện nghị quyết, chỉ
thị của Đảng theo Điều lệ Đảng đối với các cấp ủy cơ sở; chú trọng kiểm tra,
giám sát những ngành, lĩnh vực nhạy cảm dễ phát sinh sai phạm, góp phần giáo
dục, ngăn ngừa hành vi vi phạm, thắt chặt kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống chính
trị. Giải quyết tố cáo, khiếu nại và thi hành kỷ luật đảng đối với tổ chức đảng và
đảng viên đúng quy trình, quy định; chất lượng giải quyết từng vụ việc cao hơn;
những vụ việc nổi cộm, tồn đọng được rà soát, giải quyết có kết quả.
Nhìn chung, công tác xây dựng Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị trong
toàn Đảng bộ thị xã trong những năm qua được đẩy mạnh, góp phần quan trọng
54
trong việc khẳng định và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước trong tình hình mới; xây dựng Đảng bộ trong sạch vững
mạnh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; giữ gìn, củng cố sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức đảng đã phát huy tốt vai trò tiên
phong, gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ lực chung của cả hệ
thống chính trị, của nhân dân và doanh nghiệp nên tình hình các mặt của thị xã
những năm qua nhìn chung có nhiều chuyển biến tích cực, hầu hết các chỉ tiêu chủ
yếu đều đạt và vượt kế hoạch; nhiều hạng mục hạ tầng được đầu tư xây dựng, bộ
mặt đô thị khởi sắc, khang trang hơn; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện và ngày càng nâng cao, các vấn đề an sinh xã hội, chính sách xã
hội được quan tâm đảm bảo. Với kết quả đạt được của hệ thống chính trị và dân
thị xã, ngày 17/01/2018 Bộ Xây dựng đã ban hành quyết định công nhận thị xã La
Gi là Đô thị loại III.
Với cột mốc 90 năm sự ra đời Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Bình Thuận
trên đất Tam Tân, với niềm tự hào và là động lực để cán bộ, đảng viên và dân thị
xã La Gi tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng của các thể hệ đi trước phấn
đấu, nổ lực xây dựng quê hương La Gi ngày càng giàu đẹp hơn. Từ đó, góp phần
cùng với tỉnh nhà hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong thời
gian đến./.
* Tài liệu tham khảo: Lịch sử Đảng bộ huyện Hàm Tân (1930 - 2005), xuất
bản tháng 12/2008.
55
CHI BỘ ĐẢNG TAM TÂN (1930 - 1931)
Trần Nhật Nghĩa
(Phó Chủ tịch - Hội Cựu tù chính trị tỉnh)
Một trong những sự kiện lịch sử đặc biệt, điểm son, dấu ấn đáng nhớ và tự
hào của Đảng bộ và nhân dân Bình Thuận đó là 90 năm trước đây, tại vùng quê
xa xôi, hẻo lánh Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh đã ra đời tại làng Tam
Tân, Tổng Phong Điền, phủ Hàm Thuận (nay là thôn Tam Tân, xã Tân Tiến, thị xã
La Gi).
Trong phạm vi bài này tôi chỉ đề cặp 3 vấn đề:
- Sự ra đời và vai trò của chi bộ Tam Tân
- Yếu tố nào tác động để Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ở làng Tam Tân.
- Ý nghĩa và suy ngẫm từ Chi bộ Đảng Tam Tân.
I. Sự ra đời và vai trò của chi bộ Tam Tân
1. Về sự ra đời của Chi bộ này: Có hai nhóm tư liệu đã công bố chưa hoàn
toàn thống nhất; nhiều tài liệu cho rằng Chi bộ Tam Tân ra đời vào cuối năm
1930; riêng Địa chí Bình Thuận thì khẳng định vào tháng 2 năm 1931.
Địa điểm thành lập Chi bộ Dốc Cây Cờ - cách Dốc ông Bằng khoảng 700
mét. Lúc đầu chi bộ gồm 7 đảng viên: Lê Thanh Lư, Lê Chạy, Hồ Vũ, Cao Có,
Nguyễn Hữu lợi, Nguyễn Gia Bát do đồng chí Ngô Đức Tốn thành lập và làm Bí thư.
Đến giữa năm 1931, đồng chí Tốn mất đột ngột, đồng chí Lê Thanh Lư làm Bí thư.
2. Vai trò lịch sử của Chi bộ Tam Tân: Với phương châm, phương thức
hoạt động bí mật, ngăn cách, nứt rễ sâu chuỗi, Chi bộ Tam Tân đã tích cực, khéo
léo tiến hành các bước công tác vận động cách mạng, phát triển lực lượng với sự
chỉ đạo năng nổ, xông xáo, mạnh mẽ của đồng chí Bí thư Ngô Đức Tốn.
Chi bộ thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo tổ chức “Hội phản đế đồng
minh” và cơ sở, cốt cán tiếp tục tập họp các thành phần, tầng lớp có tinh thần yêu
nước, Chi bộ đã gieo mầm, nâng cao giác ngộ và tinh thần đấu tranh cách mạng
cho nhân dân trong vùng.
Chi bộ Tam Tân còn móc nối liên hệ với một số đảng viên ở La Gi, Phan
Thiết và hưởng ứng cuộc đấu tranh lớn diễn ra trong tỉnh vào đêm 14, rạng
15/8/1931 (Nhằm hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và kỷ niệm 13 năm
ngày nhân dân thế giới chống chiến tranh đế quốc - ngày 01/8/1918 – 01/8/1931).
* Chi bộ Tam Tân sớm bị địch đánh phá, đảng viên bị quản thúc và có
sự phân hóa. Đầu tháng 9 năm 1931 trời hừng sáng dân làng Tam Tân kinh
56
hoàng chứng kiến đội lính khố xanh do lãnh binh Phan Gia Chung cầm đầu từ
Phan Thiết kéo vào vây bắt, tra khảo, đánh đập khoảng 35 người; sau đó còn bắt
thêm khoảng 15 người - hầu hết là đảng viên, hội viên, cơ sở
Các đảng viên bị đưa về giam cầm ở nhà lao tỉnh Bình Thuận. Trong đó: Lê
Thanh Lư, Lê Chạy bị kết án 3 năm tù, khi ra tù tiếp tục bị quảng thúc. Cuối năm
1931, chi bộ có sự phân hóa, một số đảng viên ngừng hoạt động. Riêng đồng chí
Lê Chạy sau này còn liên lạc và tiếp tục tham gia và bị tù nhiều lần...
II. Yếu tố nào tác động giúp Chi bộ Đảng Cộng sản Tam Tân ra đời
* Phong trào đấu tranh cách mạng ở tỉnh Bình Thuận nói chung, phủ Hàm
Thuận nói riêng vào những năm 1929 - 1931 khá sội động.
- Như chúng ta biết, từ phong trào Duy Tân đến cuối năm 1929 lớp thanh
niên tiên tiến ở tỉnh Bình Thuận bắt đầu tiếp thu học thuyết Đacuyn, chủ nghĩa
cộng sản. Những làng sớm có phong trào tập trung ở phủ Hàm Thuận như: Tùy
Hòa, Bình An, Bình Lâm, Lại An Thượng, Đại Nẫm, Thiện Khánh, Khánh Thiện,
Tam Tân…
- Những địa bàn, cơ sở nói trên, hình thành các tổ, nhóm hoạt động bí mật
hồi ấy với các tên gọi: Nông Hội Đỏ, Tự Vệ Đỏ, Cứu Tế Đỏ, Công Hội Đỏ (trong
ngành Hỏa xa), Hội phản đế đồng minh…
- Giữ vai trò nòng cốt lãnh đạo các tổ chức này là một số đảng viên cộng sản
hoạt động đơn tuyến như: Hồ Quang Cảnh, Nguyễn Thắng, Nguyễn Gia Tú,
Nguyễn Tương, Trần Hoành, Phan Xích, Ngô Đức Tốn…
Trong bối cảnh chung ấy, nhiều nơi sớm có phong trào như: Đại Nẫm, Tùy
Hòa, Rạng … chưa thành lập được Chi bộ. Vấn đề đặt ra đòi hỏi chúng ta cần tiếp
tục nghiên cứu là nhờ đâu mà Chi bộ Đảng Tam Tân sớm được ra đời ? Theo tôi
có 3 yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến sự kiện trên, đó là:
1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Tam Tân trƣớc năm 1930.
Làng Tam Tân ngày xưa (xã Tân Tiến, thị xã La Gi ngày nay) là vùng đất xa
xôi, hẻo lánh được biết đến qua địa danh sông Ma Ly, trạm Thuận Trình thuộc
huyện Tuy Lý (có từ năm 1854). Với tên gọi Tam Tân vì được hình thành, sáp
nhập từ 3 làng nhỏ: Tân Nguyên, Tân Quý, Tân Hoàng.
Đến năm 1916, khi huyện Hàm Tân được thành lập thì Tam Tân là một
trong 4 làng thuộc Tổng Phong Điền, phủ Hàm Thuận (Tam Tân, Phong Điền,
Hiệp Nghĩa, Tân Lý).
Trước năm 1930, đa số người ở Tam Tân là dân nghèo tần tảo kiếm sống
bằng nhiều nghề: nông, lâm, ngư, làm muối, đóng ghe thuyền, lượm chai móng,
đốt dầu rái, ăn ong, khai thác gỗ…
57
Về tài nguyên thiên nhiên ở vùng đất này khá phong phú: biển, rừng, đất đai,
có ruộng ngọt, ruộng muối.. nhưng đời sống nhân dân lao động (nông, ngư dân,
diêm dân) rất cơ cực thiếu thốn mọi bề (ăn, mặc, học hành, thuốc chửa bệnh; ở
làng chỉ có một lớp đồng ấu (lớp 5) khoảng 30 học trò. Ai muốn học tiếp lớp 4,
lớp 3 phải qua Phong Điền hoặc xuống tận La Gi. Vùng đât giàu tài nguyên
nhưng dân lại nghèo là do thành phần bóc lột tóm thâu hết tư liệu sản xuất: ruộng
đất, ghe thuyền, ghe bầu, ruộng muối, thùng lều, trại đóng ghe… đều nằm gọn
trong tay của một số ít thuộc thành phần ác bá cường hào, địa chủ như: Xã Tòng,
Hộ Đá, Ngô Được - riêng nhà Ngô Được có hơn 30 trai bạn. Từ năm 1926 trở đi,
có thêm tên tư sản kiêm địa chủ: Trần Huỳnh Kỳ (Thông Kỳ) làm thông ngôn cho
Pháp, bao chiếm ruộng đất cả vùng (trên 200 ha).
Người dân Tam Tân nói riêng, Tổng Phong Điền nói chung có gốc gác từ
Nghệ An, Hà Tĩnh và Miền Trung vào đây “Tỵ địa”, vừa tìm kế sinh nhai. Trong đó
có một số nhân sĩ yêu nước đã từng tham gia chống thực dân Pháp, chống phong
kiến tay sai trong các phong trào: Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, Văn Thân; một
số người vốn là nghĩa quân của Trương Định cũng lánh vào vùng đất này.
Từ buổi sơ khai, làng Tam Tân sớm trở thành mảnh đất “tụ nghĩa”, là chiếc
nôi ấm tình bảo bọc của những con người cơ cực, can trường, vốn không chịu
khuất phục trước cường quyền bạo lực, ý chí, tinh thần quật khởi tiếp tục được
hun đúc và sẵn sàng bùng cháy khi có ánh đuốc cách mạng châm ngòi.
Điển hình là sự kiện che giấu 6 người tù Côn Đảo vượt ngục trôi dạt vào đây
(tháng 8 năm 1917) do thầy giáo Nguyễn Hữu Hoàng đứng ra bảo lãnh. Mảnh đất
Tam Tân chính là “bến đợi” sẵn sàng chờ cán bộ cách mạng đến gieo mầm.
2. Bàn đạp, nơi đứng chân đầu tiên của đồng chí Ngô Đức Tốn ở Bình Thuận
Thầy Lê Trọng Thiều là chiến sĩ trong phong trào Văn Thân chống Pháp ở
Hà Tĩnh bất thành, ông lánh vào làng Đại Nẫm, phủ Hàm Thuận, mở trường dạy
học vừa làm nơi liên lạc với những người yêu nước. Trong thời gian ở đây, đ/c
Tốn kết thân với người con trai cụ Thiều là Lê Trọng Mân đang hoạt động cách
mạng ở Đa Kao, Sài Gòn…
Đến năm 1930, ông Dương Chước là đảng viên chi bộ Hòn Khói, Ninh Hòa,
tỉnh Khánh Hòa đến làng Đại Nẫm, sống trong nhà cụ Lê Trọng Thiều. Tại đây
ông Dương Chước tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản (CNCS) cho một số thanh
niên tiên tiến ở hai làng: Đại Nẫm, Phú Hội và phát triển kết nạp được một số
đảng viên trẻ: Nguyễn Ty, Phan Xích, Trần Hoành, Ngô Đức Tốn…
Chính nhóm sĩ phủ yêu nước và đảng viên Cộng sản ở Đại Nẫm đã giúp
người thanh niên trẻ Ngô Đức Tốn hăng hái trở thành đảng viên Cộng sản là một
58
yếu tố góp phần phát triển trong trào, tổ chức cách mạng và hình thành Chi bộ
Đảng Cộng sản ở làng Tam Tân.
3. Vai trò, tài đức, uy tín của thầy giáo trẻ Ngô Đức Tốn
Đây là nhịp cầu, người gieo mầm, yếu tố trực tiếp tác động để Chi bộ Đảng
Tam Tân ra đời.
a. Truyền thống gia đình và quê hương
Ngô Đức Tốn là con trai út trong một gia đình nho giáo giàu truyền thống
cách mạng. Ông sinh năm 1908, tại làng Tập Phúc, xã Thảo Nha, huyện Thạch
Hà, tĩnh Hà Tĩnh.
Cha ông là Ngô Đức Thiệu – một chiến sĩ kiên cường trong phong trào Văn
Thân. Năm 1908, ông bị địch kết án 15 năm tù khổ sai nhưng do tra tấn cực hình
chưa đầy 5 tháng, ông đã hy sinh tại nhà lao Thừa Phủ (Huế).
Mẹ đ/c Tốn là Bà Phan Thị Thuận - người phụ nữ Việt Nam kiên cường,
cứng cỏi, can trường, giàu nghị lực, trong hoàn cảnh chồng bị bắt, nhà cửa bị đốt
phá, gia sản bị địch tịch thu, Bà vẫn tần tảo nuôi 3 đứa con thơ dại vừa hoạt động
cách mạng. Anh ruột là Ngô Đức Đệ, nhà cách mạng từng nếm trải, thử thách ở
các lao Buôn Ma Thuột, Kon Tum
Bác ruột là tiến sĩ Ngô Đức Kế - nhà trí thức yêu nước, không làm quan,
từng bị giặc kết án tù chung thân và đày ra Côn Đảo. Khi hết hạn tù Tiến sĩ Ngô
Đức Kế về Hà Nội làm chủ bút tờ báo Hữu Thanh và mở Giác Quần Thư Xã. Ngô
Đức Tốn được cụ Ngô Đức Kế nuôi dạy, truyền thêm lửa và giao một số việc đầu
mối liên lạc cho tổ chức cách mạng (1923 - 1925). Những năm 1925 – 1926,
chàng thư sinh tràn đầy nhiệt huyết Ngô Đức Tốn hăng hái tham gia phong trào
TNHS bải khóa, đấu tranh đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và tham gia lễ truy điệu
cụ Phan Chu Trinh; bị nhà trường đuổi học.
Cuối năm 1926, Ông rời Hà Nội về quê từ giã mẹ già để lên đường “vô sản
hóa” lắm gian nguy nhưng đầy lý tưởng cao đẹp, chứ không phải vào Nam kiếm
sống. Tháng 6 năm 1927, Ông vào Quy Nhơn. Đầu năm 1928, đ/c Ngô Đức Tốn
đến Phan Thiết và trú ngụ tại nhà cụ Lê Trọng Thiều (thông qua tình cảm đồng
hương vừa thân quen với anh rễ của Ngô Đức Tốn).
Hè năm 1928, Ngô Đức Tốn học khóa sư phạm cấp tốc ở Sở học Chính Bình
Thuận. Ngay sau đó ông được bổ nhiệm vào dạy học ở làng Tam Tân.
b. Chỉ trong vòng 3 năm ngắn ngủi (cuối 1928 – đầu 1931). Thầy Tốn gầy dựng
phong trào, đặc biệt là gieo hạt giống nảy mầm, làm nhịp cầu nối Đảng với dân.
- Ngô Đức Tốn vừa tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa cộng sản; cống hiến hết
mình cho sự nghiệp cách mạng, cho Tam Tân - Phong Điền. Đồng chí đã vận
59
dụng sáng tạo, linh hoạt 5 bước công tác vận động cách mạng (điều tra, tuyền
truyền, tổ chức, huấn luyện, đấu tranh).
- Ông tiếp xúc các thành phầ, sâu sát tìm hiểu, nắm bắt và phân loại quần
chúng, thực hiện tinh thần vô sản hóa.
- Tuyên truyền phát động lòng căm thù giặc cho quần chúng, vạch mặt bọn
cường hào ác bá…
- Tập họp nhiều thành phần, tầng lớp nhân dân, nhất là nhóm thanh niên tiến
tiến cùng ý chí tâm huyết và thành lập Hội phản đế đồng minh; thu hút hội viên,
cơ sở quần chúng tốt tham gia mạnh mẽ phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân
chủ: Phản đế, Bài phong, chống bất công áp bức
- Dùng lịch sử Việt Nam và lý luận Mác - Lê nin làm thức tĩnh đồng bào
giúp những người tiến bộ từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNCS.
c. Thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản
Khi đủ điều kiện, độ chín về nhận thức tư tưởng và tổ chức quấn chúng đồng
chí Tốn đã tích cực, mạnh dạn thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản tại làng Tam Tân
để đủ sức trực tiếp lãnh đạo cách mạng ở địa phương lúc bấy giờ. Trong thời gian
ngắn với hoàn cảnh khó khăn về thông tin, giao thông liên lạc… vậy mà đ/c Tốn
đã đóng góp thiệu quả cho phong trào cách mạng Bình Thuận bằng tất cả ý chí,
nghị lực, tài đức, uy tín, khả năng thuyết phục quần chúng.
Chỉ tiếc là đ/c Ngô Đức Tốn vĩnh viễn ra đi (8/5/1931) giữa lúc hoài bảo và
chí lớn đang cháy bỏng với tuổi đời rất trẻ (23 tuổi).
III. Ý nghĩa và suy ngẫm từ Chi bộ Đảng Tam Tân
Từ sự ra đời, hoạt động của Chi bộ Tam Tân năm 1931 để lại cho chúng ta
nhiều điều cần nghiên cứu và tiếp tục suy ngẫm
1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
a. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đã khẳng định nơi nào có áp bức bóc
lột thì sẽ có đấu tranh. Tổng Phong Điền nói chung, làng Tam Tân nói riêng đã
thể hiện rõ điều đó.
b. Chi bộ Đảng Cộng sản ra đời ở Tam Tân là một tất yếu khách quan. Lý
luận Mác - Lênin đã thật sự thâm nhập vào phong trào yêu nước.
Làng Tam Tân lúc ấy đã hội đủ các yếu tố khách quan, chủ quan; các điều
kiện về tự nhiện, kinh tế, xã hội. Gốc gác, tính cách người dân ở đây vốn ngoan
cường đã từng chống áp bức bất công lánh về đây tụ nghĩa; sớm có một số hoạt
động tiến bộ từ trước năm 1930; tiếp đến có lãnh tụ truyền bá, giác ngộ; số thanh
niên tiên tiến từ chủ nghĩa yêu nước nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Cộng sản.
60
c. Chi bộ Tam Tân tuy còn non trẻ và tồn tại không lâu nhưng thể hiện rõ
sức sống mảnh liệt và làm hạt nhân lãnh đạo. Chi bộ được hình thành từng bước,
từ những cốt cán hoạt động đơn tuyến đến Hội phản đế đồng minh. Những hạt
nhân trong tổ chức Hội trở thành đảng viên.
d. Chi bộ Tam Tân là hạt giống nảy mầm, nâng cao giác ngộ cho quần chúng
vừa là tấm gương sáng, chiến đấu dũng mãnh trước cực hình tra tấn của quân thù.
Trong đó có đồng chí Lê Chạy…
2. Đôi điều suy ngẫm
a. Tổ chức Đảng Cộng sản ngày xưa ra đời phải chiến đấu trong hoàn cảnh,
điều kiện bí mật vô cùng ác liệt. Nhiều đảng viên nói chung, Chi bộ Tam Tân và
thủ lĩnh Ngô Đức Tốn nói riêng đã thể hiện xuất sắc vai trò lãnh đạo, tiên phong,
mẫu mực, tạo được uy tín, lòng mến phục ngưỡng mộ của nhân dân.
. Những đảng viên hồi ấy chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, quyết chí bền gan đi
theo con đường, lẽ sống mà mình đã chọn dù lắm chông gai thử thách...
* Động cơ, động lực của những hội viên, đảng viên hồi ấy không gì khác
hơn là chống áp bức bất công đánh đuổi quân xâm lược dân chủ, sẵn sàng hiến
dâng tất cả vì lòng yêu nước, thương dân và căm thù giặc
b. Ngày nay chúng ta phải tiếp tục xây dựng Đảng như thế nào ?
Các bậc cha anh ngày ấy phải chịu đựng gian khổ, ác liệt, dưới xích siềng nô
lệ và hy sinh cả máu xương. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân chiến
đấu giành độc lập dân tộc còn ngày nay Đảng ta lãnh đạo toàn dân giữ vững nền
độc lập và thành quả cách mạng. Hồi ấy Đảng ta hoạt động bí mật, chưa có chính
quyền tất cả đều dựa vào dân, ngày nay thì ngược lại - “Dân phải vận động
chính quyền”? Người đảng viên cộng sản Việt Nam phải chiến đấu trước kẻ thù,
điều kiện, cám dỗ mới không hề đơn giản và khác xưa rất nhiều.
c. Yêu cầu, tiêu chí người đảng viên cộng sản trong thời kỳ mới
Phải luôn tu dưỡng, rèn luyện, sống chiến đấu, học tập. Đồng thời với việc
xây dựng, xác định lập trường, lý tưởng, nhân cách, đạo đức cách mạng, động cơ
trong sáng phải không ngừng tự thân và cùng tập thể chống các kẻ thù: Ngoại
xâm, nội xâm, chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội…
Tôi nghĩ để nắm được lòng dân và xây dựng thế trận lòng dân vững chắc,
hoàn thành sứ mệnh lớn lao, Đảng ta nhất thiết phải giáo dục, rèn luyện và xây
dựng cho được đội ngũ đảng viên của mình thật sự, đúng nghĩa là người cộng sản.
61
MỘT VÀI SUY NGHĨ
VỀ SỰ KIỆN THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN
Huỳnh Thái Dƣơng - Nguyễn Thành Tài
(Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)
Sự kiện “Đảng bộ tỉnh Bình Thuận được thành lập vào thời gian nào” cho
đến nay đang còn có những ý kiến khác nhau và chưa có tài liệu lịch sử nào nêu rõ.
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi nêu một vài suy nghĩ về mốc thời gian
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận được thành lập để góp phần làm rõ sự kiện lịch sử này.
Nghiên cứu các tập sách lịch sử truyền thống Đảng bộ tỉnh, lịch sử truyền
thống đảng bộ các địa phương và Địa chí Bình Thuận, chúng tôi nhận thấy: các
tập sách lịch sử nêu trên có trình bày một số sự kiện lịch sử liên quan đến việc
hình thành tổ chức Đảng ở Bình Thuận; song, chưa có tập sách lịch sử nào nêu rõ
thời gian thành lập Đảng bộ tỉnh Bình Thuận; cụ thể như sau:
1. Một số sự kiện lịch sử về việc hình thành tổ chức Đảng ở Bình Thuận
Sự kiện một, cuối năm 1930, thầy giáo Ngô Đức Tốn thành lập Chi bộ
Đảng tại làng Tam Tân và trực tiếp làm Bí thư Chi bộ. Đến tháng 5/1931, thầy
giáo Ngô Đức Tốn bị bệnh qua đời, đảng viên Lê Thanh Lư thay làm Bí thư chi
bộ(1)
.
Sự kiện hai, tháng 01/1937, nhân danh một đảng viên năm 1931, đồng chí
Nguyễn Gia Tú kết nạp 02 quần chúng ưu tú là Lâm Đình Trúc và Phan Lợi vào
Đảng Cộng sản Đông Dương. Các đảng viên tuyên bố hình thành Tổ Đảng do
đồng chí Nguyễn Gia Tú làm Tổ trưởng (2)
.
Sự kiện ba, đầu tháng 6/1945, các đồng chí Nguyễn Sắc Kim, Nguyễn
Tương, Nguyễn Nhơn, Nguyễn Chúc, Thái Hựu tổ chức họp, thành lập Ban vận
động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận, do đồng chí Nguyễn Sắc Kim phụ
trách chung. Tháng 8/1945, lãnh đạo Việt Minh tỉnh Bình Thuận tổ chức Hội nghị
tại làng Bình Lâm, phủ Hàm Thuận quyết định: Thống nhất hành động giữa các
đảng viên cùng ở nhà tù Buôn Ma Thuột (Nguyễn Sắc Kim, Nguyễn Tương, Nguyễn
Nhơn, Nguyễn Chúc, Thái Hựu, Cổ Văn An, Nguyễn Đức Dương, Đặng Soa), xem
đây là một tập thể lãnh đạo, chịu trách nhiệm cùng với các đảng viên trong tỉnh
(1)
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập I, 1930 - 1954, trang 43. (2)
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận…(sđd), trang 61 - 62.
62
tiến hành đấu tranh cách mạng. Các đảng viên đều hoạt động dưới danh nghĩa
Việt Minh(3)
.
Sự kiện bốn, khi chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, các đảng viên lấy
danh nghĩa Ban vận động Việt Minh lâm thời do đồng chí Nguyễn Sắc Kim phụ
trách; tuy nhiên, trong nội bộ Đảng lúc bấy giờ chưa có sự thống nhất. Trước tình
hình đó, tháng 10/1945, Xứ ủy Trung kỳ phân công đồng chí Nguyễn Dân vào
làm Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận để ổn định tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng(4)
.
Sự kiện năm, tháng 4/1947, Tỉnh ủy Bình Thuận mở Hội nghị cán bộ Đảng
tại Triền bàn về các mặt công tác; trong đó, có công tác phát triển Đảng. Hội nghị
đã bầu 9 Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và bầu đồng chí Trần Quỳnh làm
Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 10/1947, đồng chí Trần Quỳnh chuyển về Khu VI, đồng
chí Nguyễn Đức Dương làm Bí thư Tỉnh ủy(5)
.
Sự kiện sáu, tháng 8/1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần
thứ I tại Ô Rô (Căn cứ Lê Hồng Phong). Đại hội ra Nghị quyết về xây dựng
Đảng, đẩy mạnh công tác dân vận, chủ trương tiến vào vùng địch hậu. Đại hội
bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Diêu được
bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Đình Huề được bầu làm Phó Bí thư
Tỉnh ủy(6)
.
2. Một vài suy nghĩ
2.1. Về sự kiện thành lập Chi bộ Đảng Tam Tân: qua tìm hiểu chúng tôi
nhận thấy, từ khi thành lập cho đến lúc thầy giáo Ngô Đức Tốn - Bí thư Chi bộ bị
bệnh mất thì hoạt động của Chi bộ Tam Tân chỉ ảnh hưởng trong phạm vi khu
vực Hàm Tân – La Gi. Chưa có nguồn tư liệu lịch sử nào thể hiện Chi bộ Tam
Tân gây ảnh hưởng hoạt động ra Phan Thiết, Hàm Thuận hoặc toàn tỉnh Bình
Thuận. Nhưng Chi bộ Tam Tân có tiếp nhận sự chỉ đạo của các đảng viên tại
Phan Thiết, Hàm Thuận như trong cuộc rải truyền đơn đêm 14, rạng sáng
15/8/1931 đấu tranh kỷ niệm ngày “Nhân dân thế giới chống chiến tranh đế
quốc”. Sau cuộc đấu tranh này, phần lớn đảng viên tại Hàm Thuận, Phan Thiết và
Chi bộ Tam Tân đều bị Pháp bắt. Phong trào cách mạng tỉnh Bình Thuận không
có sự lãnh đạo của Đảng trong một thời gian dài. Chi bộ Tam Tân chỉ mang ý
(3)
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận…(sđd), trang 83 - 84. (4)
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận…(sđd), trang 97 - 98. (5) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận…(sđd), trang 144. (6) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận…(sđd), trang176.
63
nghĩa là Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập tại tỉnh Bình Thuận chứ không
phải là tổ chức tiền thân của Đảng bộ tỉnh.
2.2. Về sự kiện đồng chí Nguyễn Gia Tú thành lập Tổ Đảng, tháng 2/1934,
một số đảng viên tỉnh Bình Thuận bị thực dân Pháp cầm tù trong đợt đấu tranh
tháng 8/1931 được trả tự do nhưng phải chịu sự quản thúc của chính quyền tay sai
tại địa phương. Mặc dù vậy, từ năm 1934 đến 1937 đã diễn ra nhiều cuộc đấu
tranh của nhân dân khắp nơi trong tỉnh Bình Thuận đòi dân sinh, dân chủ do đồng
chí Nguyễn Gia Tú và quần chúng ưu tú lãnh đạo.
Đến tháng 01/1937, đồng chí Nguyễn Gia Tú thành lập Tổ Đảng gồm 3
đảng viên: Nguyễn Gia Tú, Lâm Đình Trúc và Phan Lợi, do đồng chí Nguyễn Gia
Tú làm Tổ trưởng, với “…hy vọng sau này khi bắt được liên lạc với Đảng cấp
trên, sẽ được thừa nhận và chính thức thành lập chi bộ. Tổ chức Đảng mặc nhiên
trở thành cơ sở Đảng duy nhất lãnh đạo các hoạt động phong trào ở địa
phương”(7)
. Tuy nhiên, tháng 9/1939, chính quyền thực dân Pháp thực hiện việc
đàn áp Đảng Cộng sản tại Đông Dương. Các đảng viên trong Tổ đảng đều bị bắt,
hy sinh trong tù (Lâm Đình Trúc) hoặc lánh đi nơi khác (Nguyễn Gia Tú, Phan Lợi).
Tháng 7/1940, đồng chí Trần Hữu Dực, Xứ ủy viên Trung kỳ vào Bình
Thuận gặp đồng chí Nguyễn Tương (đảng viên năm 1931) tại làng Bình An chuẩn
bị khôi phục tổ chức đảng tại Bình Thuận đáp ứng nhiệm vụ mới. Tuy nhiên, việc
khôi phục tổ chức đang tiến hành thì tháng 9/1941, mật thám Pháp đã phát hiện
và bắt Xứ ủy viên Trần Hữu Dực cùng một số đảng viên của tỉnh Bình Thuận
như: Nguyễn Tương, Trần Hoành, Phan Lợi, Nguyễn Gia Tú, Lê Văn Triều, Hồ
Hữu Ý giam cầm. Do đó, cho đến cuối năm 1941 và mãi đến chuẩn bị khởi nghĩa
tháng 8/1945, việc khôi phục tổ chức đảng tại Bình Thuận vẫn còn nhiều khó khăn.
2.3. Về sự kiện thành lập Ban vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình
Thuận, do đồng chí Nguyễn Sắc Kim phụ trách chung đầu tháng 6/1945, cũng
như hội nghị tháng 8/1945 tại làng Bình An, thống nhất hành động giữa các đảng
viên cùng ở nhà tù Buôn Ma Thuột; các đảng viên đều hoạt động dưới danh nghĩa
Việt Minh.
Mặt trận Việt Minh (tức Việt Nam độc lập đồng minh) được thành lập ngày
19/5/1941 theo chủ trương của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương lần thứ VIII (tháng 5/1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề nghị.
(7)
Hồi ký của đồng chí Nguyễn Gia Tú viết năm 1986. Bản lưu tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, ký
hiệu II Da40 (30 - 45), trang 8.
64
Mặt trận Việt Minh chủ trương tập hợp mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, đấu
tranh đánh đuổi phát xít Nhật và thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc Việt
Nam. Mặt trận Việt Minh có tổ chức khác với tổ chức của Đảng. Từ khi ra đời,
Việt Minh đã thực sự trở thành cơ sở chính trị để mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân(8)
.
Theo quy định về tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Mặt trận Việt Minh
do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề ra, thì Mặt trận Việt Minh tỉnh Bình Thuận không
phải là tổ chức tiền thân của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận. Tuy nhiên, trên thực tế và
theo tư liệu lịch sử thì các đảng viên quê ở Bình Thuận hoặc đảng viên ở các tỉnh
khác về Bình Thuận hoạt động đều tham gia vào Ban vận động Việt Minh lâm
thời tỉnh Bình Thuận hoặc Mặt trận Việt Minh các huyện, thị trong tỉnh; cụ thể:
Đầu tháng 9/1945, Mặt trận Việt Minh tỉnh Bình Thuận được thành lập
gồm: đồng chí Nguyễn Tương - Chủ nhiệm; đồng chí Phan Lợi - Ủy viên thường
trực và các đồng chí Thái Hựu, Nguyễn Nhơn, Nguyễn Đức Dương, Nguyễn Sắc
Kim, Nguyễn Gia Tú, Nguyễn Chúc, Cổ Văn An, Đặng Soa - Ủy viên.
Tháng 10/1945, bổ sung thêm các đồng chí Nguyễn Dân (do Xứ ủy Trung
Kỳ cử vào làm Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận), Hứa Tự Nhung và bà Nguyễn Thị Ân
vào Ủy viên Mặt trận Việt Minh tỉnh.
Mặt trận Việt Minh huyện Hàm Thuận do đồng chí Nguyễn Hữu Hạnh làm
Chủ nhiệm; các đồng chí Nguyễn Gia Tú, Tiếu Oai Nghi, Trần Hoành và một số
người khác làm Ủy viên.
Mặt trận Việt Minh huyện Hòa Đa do đồng chí Lê Hòa làm Chủ nhiệm;
đồng chí Phan Thanh Cáp - Phó chủ nhiệm và 04 Ủy viên khác. Tháng 9/1945,
củng cố lại Ủy ban Việt Minh huyện do đồng chí Phan Thanh Cáp làm Chủ
nhiệm; đồng chí Ngô Độc - Phó Chủ nhiệm và 04 Ủy viên khác.
Mặt trận Việt Minh huyện Tuy Phong do đồng chí Trần Xuân Thủ làm Chủ
nhiệm, đồng chí Lê Thuyên - Phó Chủ nhiệm và một số Ủy viên khác.
Mặt trận Việt Minh tổng Phú Quý do đồng chí Võ Đức Dụ làm Chủ nhiệm.
Mặt trận Việt Minh huyện Hàm Tân do đồng chí Phan Lợi, được Việt Minh
tỉnh cử vào, phụ trách. Cuối tháng 9/1945, tổ chức bầu lại Mặt trận Việt Minh
huyện do đồng chí Trần Đình Cảnh làm Chủ nhiệm, đồng chí Phạm Phú Đạm -
Phó Chủ nhiệm.
(8)
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, Nxb CTQG, Hà Nội 2013, trang 739.
65
Mặt trận Việt Minh huyện Tánh Linh do đồng chí Nguyễn Thắng làm
Chủ nhiệm.
2.4. Về sự kiện tháng 10/1945, Xứ ủy Trung kỳ phân công đồng chí Nguyễn
Dân vào làm Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận để ổn định tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng. Đây là lần đầu tiên tổ chức Đảng cấp trên cử cán bộ về Bình Thuận
làm Bí thư Tỉnh ủy. Đây cũng là đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận đầu tiên.
Mặc dù Mặt trận Việt Minh tỉnh Bình Thuận không phải là tiền thân của
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận nhưng do các đảng viên tham gia bộ máy lãnh đạo Mặt
trận Việt Minh từ tỉnh đến huyện, thị; nên bộ máy lãnh đạo Mặt trận Việt Minh từ
tỉnh đến huyện, thị “được hiểu” là cơ quan lãnh đạo cao nhất từ tỉnh đến huyện, thị;
hay “mặc nhiên” là Đảng bộ tỉnh Bình Thuận. Đây cũng chính là cơ sở để Xứ ủy
Trung kỳ nhận thấy cần phải có sự chỉ đạo kịp thời để thống nhất và sớm ổn định lại
về tổ chức, bộ máy, cán bộ của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận nên đã phân công đồng chí
Nguyễn Dân vào Bình Thuận làm Bí thư Tỉnh ủy. Khi đồng chí Nguyễn Dân vào
Bình Thuận thì được bầu bổ sung làm Ủy viên Ủy ban Mặt trận Việt Minh tỉnh.
Tháng 11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
ra Thông cáo “Tự ý giải tán”. Tuyên bố “Tự ý giải tán”, nhưng thực chất Đảng rút
vào hoạt động bí mật. Trung ương Đảng chỉ đạo thành lập Hội nghiên cứu chủ
nghĩa Mác hoạt động công khai ở các cấp để thực hiện công tác phát triển Đảng
trong các cơ quan kháng chiến và địa phương(9)
.
Trong năm 1946, chấp hành chủ trương của Trung ương, lần lượt các
huyện, thị trong tỉnh Bình Thuận đều thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác để
tuyên truyền giác ngộ cách mạng, xây dựng hạt nhân nòng cốt của Đảng: Hàm
Thuận (đầu năm 1946), Tuy Phong (tháng 2/1946), Hòa Đa (tháng 3/1946), Hàm
Tân (tháng 6/1946)... Đến cuối năm 1946, tỉnh Bình Thuận có 163 hội viên chính
thức, 20 hội viên dự bị hoạt động trong 25 chi hội; trong đó, công nhân chiếm
10%, trung bần nông 54%, tiểu tư sản, trí thức 30% và phụ nữ 6%. Về sinh hoạt,
chi hội cơ sở 1 tháng 3 lần, chi hội cấp huyện và tỉnh 2 tháng 1 lần.
Công việc đang tiến hành thì đồng chí Nguyễn Dân bị bệnh. Tháng 8/1946,
đồng chí Nguyễn Đức Dương được chỉ định thay thế đồng chí Nguyễn Dân làm Bí
thư Tỉnh ủy lâm thời.
2.5. Về sự kiện tháng 4/1947, Hội nghị cán bộ Đảng tỉnh Bình Thuận tại
Triền và Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ I, tháng 8/1949.
(9)
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III, Nxb CTQG, Hà Nội 2013, trang 43.
66
Cho đến tháng 4/1947, Tỉnh ủy Bình Thuận mới có Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh và tại hội nghị cán bộ Đảng đã bầu Bí thư Tỉnh ủy. Từ kết quả hội nghị
tháng 4/1947, trong hai năm 1947 - 1948, qua thời gian xây dựng, củng cố, các địa
phương trong tỉnh đã thành lập tổ chức đảng:
Ở huyện Hàm Thuận, ngày 05/12/1947, Huyện ủy Hàm Thuận được thành
lập do đồng chí Phan Tấn Trình làm Bí thư Huyện ủy.
Ở thị xã Phan Thiết, tháng 5/1947, Thị ủy được thành lập do đồng chí Hứa
Tự Nhung làm Bí thư, đồng chí Trần Ngọc Trác làm Phó Bí thư.
Ở huyện Hàm Tân, đến năm 1948, Huyện ủy Hàm Tân được thành lập, Bí
thư Huyện ủy là Lê Văn Ba.
Ở huyện Phan Lý, năm 1947, Tỉnh ủy cử đồng chí Đỗ Khắc Kính phụ trách
xây dựng Đảng của huyện. Năm 1948, đồng chí Đỗ Khắc Kính bị địch bắt, Tỉnh
ủy cử đồng chí Nguyễn Bích thay.
Ở huyện Tuy Phong, năm 1947, đồng chí Trần Đình Quảng thay Hứa Tự
Nhung làm Bí thư Huyện ủy.
Ở huyện Hòa Đa, năm 1948, Huyện ủy Hòa Đa được thành lập, Bí thư
Huyện ủy là đồng chí Trần Quang Lý.
Ở huyện Tánh Linh, tổ chức Đảng do Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện
Lê Văn Triều kiêm Bí thư Huyện ủy.
Sau khi xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức đảng từ tỉnh đến huyện, tháng
8/1949, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ I đã diễn ra tại Cốc Chua,
khu căn cứ Lê Hồng Phong, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 11
đồng chí. Đồng chí Nguyễn Diêu được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
3. Thay lời kết
Qua nghiên cứu, tìm hiểu 06 sự kiện lịch sử nêu trên, chúng tôi nhận thấy:
- Chi bộ Tam Tân chỉ mang ý nghĩa là Chi bộ Cộng sản đầu tiên được
thành lập tại tỉnh Bình Thuận chứ không phải là tổ chức tiền thân của Đảng bộ tỉnh.
- Tổ Đảng tháng 01/1937 do đồng chí Nguyễn Gia Tú thành lập, hoạt động
lãnh đạo phong trào một thời gian thì bị địch khủng bố, bắt giam; đến khi chuẩn
bị khởi nghĩa tháng 8/1945, việc khôi phục tổ chức đảng tại Bình Thuận vẫn còn
nhiều khó khăn.
- Việc thành lập Ban vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận đầu
tháng 6/1945, cũng như hội nghị tháng 8/1945 tại làng Bình An cũng chỉ thể hiện
đảng viên tỉnh Bình Thuận hoạt động trong Mặt trận Việt Minh tỉnh Bình Thuận.
67
- Tháng 10/1945, Xứ ủy Trung kỳ phân công đồng chí Nguyễn Dân vào làm
Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận để ổn định tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
thể hiện phong trào cách mạng của tỉnh Bình Thuận được sự chỉ đạo của Xứ ủy
Trung kỳ sau một thời gian dài bị mất liên lạc. Đây là lần đầu tiên Xứ ủy Trung
kỳ cử cán bộ vào tỉnh Bình Thuận làm Bí thư Tỉnh ủy và cũng là sự kiện quan
trọng trong các sự kiện lịch sử có liên quan đến việc thành lập Đảng bộ tỉnh Bình
Thuận. Sự kiện này có tính kế thừa sự kiện tháng 9/1945 (thành lập Mặt trận Việt
Minh tỉnh và các huyện, thị do các đảng viên Bình Thuận tham gia bộ máy lãnh
đạo Mặt trận); đồng thời, cũng là sự kiện có tính phát triển, dẫn đến tháng 4/1947,
diễn ra Hội nghị cán bộ Đảng của Tỉnh ủy Bình Thuận tại Triền, bầu đồng chí
Trần Quỳnh làm Bí thư Tỉnh ủy; đưa đến việc thành lập các huyện, thị ủy và Đại
hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ I vào tháng 8/1949.
Theo chúng tôi, tháng 10/1945 là mốc thời gian Đảng bộ tỉnh Bình Thuận
được thành lập./.
Xin cảm ơn về sự quan tâm của các đồng chí và mong được chia sẻ, góp ý !
---------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, (1930 - 1954), xuất bản tháng 2/1994.
- Lịch sử Đảng bộ các huyện, thị, thành ủy trong tỉnh.
- Hồi ký của đồng chí Nguyễn Gia Tú viết năm 1986. Bản lưu tại Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy, ký hiệu II Da40 (30 - 45),
- Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, tập III, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội 2012, 2013.
68
TỪ HỘI PHẢN ĐẾ ĐỒNG MINH
ĐẾN THỜI GIAN THÀNH LẬP CHI BỘ TAM TÂN
ThS. Nguyễn Thành Tài
(Phó Trưởng phòng Tổng hợp - Lịch sử Đảng,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)
Khi viết về phong trào cách mạng tỉnh Bình Thuận những năm 30, thế kỷ
XX, các tập lịch sử đảng bộ, lịch sử truyền thống tỉnh và địa phương đều thể hiện
sự kiện: thầy giáo Ngô Đức Tốn thành lập Hội Phản đế Đồng minh, sau đó kết
nạp 6 quần chúng ưu tú của Hội vào Đảng Cộng sản, thành lập Chi bộ Tam Tân -
chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Bình Thuận vào cuối năm 1930.
Tuy vậy, trong công trình Địa chí Bình Thuận do Sở Văn hóa Thông tin
(nay là Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch) xuất bản năm 2007, thì thể hiện thời gian
thành lập Chi bộ Tam Tân là tháng 2/1931(10)
.
Vậy Chi bộ Tam Tân được thành lập vào thời gian nào (?)
Do quá trình thành lập Chi bộ Tam Tân có liên quan đến Hội Phản đế Đồng
minh, nên bài viết tìm hiểu về tổ chức này. Từ đó, đối chiếu lại thời gian thành
lập chi bộ Đảng đầu tiên tại Bình Thuận.
1. Chủ trƣơng thành lập Hội Phản đế Đồng minh
Khảo cứu qua các sách lịch sử, địa chí thì quá trình thành lập Hội Phản đế
Đồng minh tại Tam Tân được diễn ra như sau:
- Đồng chí Ngô Đức Tốn, sau khi tiếp thu chủ nghĩa cộng sản qua đảng
viên Dương Chước, đã về làng Tam Tân, nơi đang dạy học, tập hợp quần chúng
tốt trong vùng, lập tổ chức Hội Phản đế Đồng minh(11)
.
- Đồng chí Ngô Đức Tốn vào Phan Thiết, ở nhà cụ Lê Trọng Thiều. Hè
năm 1928, học lớp sư phạm ngắn ngày rồi về Tam Tân dạy học. Thời gian ở nhà
cụ Thiều, kết thân với đồng chí Lê Trọng Mân, con trai cụ Thiều và có quan hệ
với Đảng Tân Việt mà đồng chí Mân là đảng viên Tân Việt Kỳ bộ Nam kỳ. Năm
1929, đồng chí Ngô Đức Tốn gia nhập Đảng Tân Việt. Đầu năm 1930, đảng viên
Dương Chước từ Khánh Hòa vào Bình Thuận, gây dựng cơ sở đảng, kết nạp một
số thanh niên ưu tú, trong đó có đồng chí Ngô Đức Tốn vào Đảng Cộng sản. Về
Tam Tân, đồng chí Ngô Đức Tốn thành lập Hội Phản đế Đồng minh(12)
.
(10)
Sở Văn hóa Thông tin (2007), Địa chí Bình Thuận, tr.1150. (11)
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (1994), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập I, (1930 – 1954), tr.42 - 43. (12)
Sở Văn hóa Thông tin (2007), Địa chí Bình Thuận, tr.1149 - 1150.
69
- Đầu năm 1928, đồng chí Ngô Đức Tốn từ Hà Nội đến Phan Thiết gặp cụ
Lê Trọng Thiều. Từ đây kết thân với đồng chí Lê Trọng Mân, con trai cụ Thiều,
có quan hệ với tổ chức Kỳ bộ Tân Việt Nam Kỳ, mà đồng chí Mân là đảng viên
Đảng Tân Việt. Sau một năm dạy học tại Tam Tân, đồng chí Ngô Đức Tốn thành
lập Hội Phản đế Đồng minh. Đầu năm 1930, đảng viên Dương Chước từ Khánh
Hòa đến Bình Thuận tuyên truyền và kết nạp một số quần chúng vào Đảng, trong
đó có đồng chí Ngô Đức Tốn(13)
.
Qua các tư liệu trên, Hội Phản đế Đồng minh thành lập tại Tam Tân theo
hai hướng khác nhau:
- Khi đồng chí Ngô Đức Tốn là đảng viên Đảng Tân Việt, thực hiện theo
đường lối, cương lĩnh Đảng Tân Việt, thành lập Hội Phản đế Đồng minh.
- Khi đồng chí Ngô Đức Tốn là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, thực
hiện theo đường lối, cương lĩnh Đảng Cộng sản, lập Hội Phản đế Đồng minh.
Vậy chủ trương thành lập Hội Phản đế Đồng minh nhằm tập hợp lực lượng
là một trong phương thức, đường lối hoạt động của Đảng Tân Việt hoặc Đảng
Cộng sản Việt Nam.
1.1. Đảng Tân Việt (Tân Việt Cách mạng Đảng) lúc ban đầu là Hội Phục
Việt (thành lập năm 1925), sau đó đổi thành Hội Hưng Nam. Tháng 7/1928, đổi
tên thành Tân Việt Cách mạng Đảng do Đào Duy Anh làm Bí thư Trưởng. Đảng
Tân Việt tập hợp những trí thức và thanh niên tiểu tư sản yêu nước, địa bàn hoạt
động chủ yếu ở phạm vi các tỉnh Trung kỳ. Đường lối hoạt động của Đảng Tân
Việt ghi rõ trong Đảng chương:“…Cách mạng tôn chỉ: liên hợp cả các đồng chí
trong ngoài, trong thì lãnh đạo công nông binh, quần chúng, ngoài thì liên lạc với
các dân tộc bị áp bức để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa đặng kiến thiết một xã hội
bình đẳng”(14)
. Đảng chương Tân Việt quy định về cơ cấu bộ máy, phát triển cơ sở
Đảng trong khắp cả nước. Trong toàn bộ Đảng chương của Đảng Tân Việt, không thấy
nói đến hình thức tập hợp quần chúng bằng tổ chức gọi là Hội Phản đế Đồng minh.
Mặc khác, qua khảo sát quá trình thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên
ở 03 tỉnh khu vực Nam Trung bộ là Ninh Thuận, Lâm Đồng và Khánh Hòa, nhận
thấy khác với Bình Thuận. Năm 1929, tại 03 tỉnh thành lập chi bộ Đảng Tân Việt.
Đầu năm 1930, chi bộ Đảng Tân Việt 02 tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận chuyển
thành chi bộ Đông Dương Cộng sản Liên đoàn và gia nhập Đảng Cộng sản Việt
Nam theo chủ trương chung. Còn chi bộ Đảng Tân Việt tỉnh Lâm Đồng thì giải
(13)
Đảng bộ thị xã La Gi và huyện Hàm Tân (2008), Lịch sử Đảng bộ huyện Hàm Tân, (1930 – 2005),
tr.32 - 34. (14)
Đinh Trần Dương (2006), Tân Việt Cách mạng đảng trong cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.66.
70
thể và thành lập chi bộ Đảng Cộng sản. Đặc điểm chung là 03 tỉnh này không
thành lập Hội Phản đế Đồng minh, để sau đó thành lập chi bộ Đảng Cộng sản.
Điều này càng cho thấy, Đảng Tân Việt không có chủ trương thành lập Hội
Phản đế Đồng minh tập hợp quần chúng.
Như vậy, mặc dù đồng chí Ngô Đức Tốn có quan hệ, hoặc là đảng viên
Đảng Tân Việt, thì việc thành lập Hội Phản đế Đồng minh không phải thực hiện
theo đường lối, cương lĩnh Đảng Tân Việt. Phải chăng là từ khi đồng chí Ngô
Đức Tốn được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Tên gọi Hội Phản đế Đồng minh (hay Hội Phản đế) xuất hiện lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam (từ ngày 06/1 đến đầu tháng 2/1930).
“Hội nghị quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội,
Hội Phản đế. Theo đó, Công hội và Nông hội sẽ thu hút những công nhân và
nông dân không thể kết nạp vào Đảng. Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản vào Hội
Phản đế. Hội nghị xác định rõ thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên là cử cán bộ vào nam Kỳ để lãnh đạo và đưa tổ
chức này vào Hội Phản đế; đối với Tân Việt thì không giải tán và cũng đưa vào
Hội Phản đế, kết nạp những người ưu tú trong tổ chức đó vào Đảng. Đảng chủ
trương tranh thủ Quốc dân Đảng, thu nạp đảng viên của Đảng vào Hội Phản đế.
Để thực hiện chủ trương đoàn kết các tổ chức cách mạng trong Mặt trận Phản đế,
Đảng chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm họp đại biểu tất cả các đảng phái
như Tân Việt, Thanh niên, Quốc dân Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh…để thành lập
Mặt trận Phản đế và về sau cá nhân hoặc tổ chức có thể gia nhập”(15)
.
Tuy đề ra chủ trương thành lập Hội Phản đế, Mặt trận Phản đế từ hội nghị
thành lập Đảng, nhưng từ tháng 2/1930 đến tháng 9/1930, Trung ương Đảng tập
trung vào việc thành lập, xây dựng bộ máy các Xứ ủy, các tổ chức đảng địa
phương trong toàn quốc. Do vậy, vấn đề xây dựng, thành lập Hội phản đế cũng
không đề cập trong các văn bản chỉ đạo.
Đến tháng 10/1930, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ
nhất tại Hồng Kông (Trung Quốc), do đồng chí Trần Phú chủ trì. Về công tác
quần chúng, hội nghị bàn việc phân công người phụ trách Hội Phản đế Đồng
minh; đồng thời, ban hành “Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về vấn đề phản đế”. Nghị quyết nêu rõ, phản đế là nhiệm vụ
chiến lược trong cách mạng tư sản dân quyền. Việc tổ chức phản đế là trách
(15)
Viện Lịch sử Đảng - HV CTQG Hồ Chí Minh (2013), Lịch sử Biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam,
tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.9.
71
nhiệm cần kíp của Đảng. Nhưng từ trước đến nay, Đảng chưa có phương pháp tổ
chức đúng đắn nên chưa tập hợp tất cả các lực lượng phản đế trong một mặt trận
thống nhất”(16)
.
Ngày 18/11/1930, Thường vụ Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập Hội
Phản đế Đồng minh” nêu rõ, tổ chức Hội Phản đế Đồng minh là chủ trương đúng
đắn và cần thiết. Chỉ thị hướng dẫn cách thức tổ chức Hội Phản đế Đồng minh
trên cơ sở phong trào mạnh, yếu ở các địa phương khác nhau. Ở những nơi phong
trào đấu tranh mạnh mẽ, có thể thành lập Ban chấp hành Hội Phản đế, tuyên
truyền vận động tầng lớp nhân dân tham gia, quy tụ các tổ chức quần chúng
(Nông hội, Công hội, Phụ nữ…). Ở những nơi phong trào còn thấp, sử dụng các
hình thức tổ chức biến tướng để tập hợp các tầng lớp nhân dân, sau đó tuyên
truyền vận động hướng họ vào con đường cách mạng.
Cuối tháng 11/1930, 03 đồng chí Trần Phú, Nguyễn Trọng Nhạ, Ngô Đức
Trì trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng từ Hồng Kông về đến Sài Gòn(17)
.
Ngày 09/12/1930, Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư cho các cấp ủy
Đảng nhằm thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng, thông báo về việc đổi
tên Đảng và phổ biến một số Nghị quyết của Hội nghị tháng 10/1930, trong đó
chủ trương xây dựng Hội Phản đế Đồng minh trên cơ sở đoàn kết rộng rãi tất cả
các giai cấp, tầng lớp(18)
.
2. Thời gian thành lập Chi bộ Tam Tân.
Từ thời gian Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư chỉ đạo
trong toàn Đảng về thành lập Hội Phản đế Đồng minh, đối chiếu với việc đồng
chí Ngô Đức Tốn thành lập tổ chức này tại Tam Tân, để tiến đến thành lập Chi bộ
đảng cuối năm 1930, nhận thấy có một số vấn đề như sau:
- Tháng 10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng tại Hồng Kông ban hành
Nghị quyết về vấn đề Phản đế.
- Tháng 11/1930, ban hành Chỉ thị về thành lập Hội Phản đế Đồng minh.
Đến cuối tháng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng từ Hồng Kông về đến Sài Gòn.
- Đến ngày 09/12/1930, Thường vụ Trung ương Đảng mới gửi thư cho các
cấp ủy Đảng thông cáo về việc đổi tên Đảng và phổ biến một số Nghị quyết của
Hội nghị tháng 10/1930 (trong đó có Nghị quyết, Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội
Phản đế Đồng minh).
(16)
Viện Lịch sử Đảng - HV CTQG Hồ Chí Minh (2013), Lịch sử biên niên …(sđd), tr.99 - 100. (17)
Ban NCLS Đảng Thành ủy Tp Hồ Chí Minh (1980), Công bố sự kiện lịch sử Đảng về Trung ương
Đảng hoạt động tại Sài Gòn 1930 -1931, tr.2. (18)
Viện Lịch sử Đảng - HV CTQG Hồ Chí Minh (2013), Lịch sử biên niên…(sđd), tr.116 -117.
72
Từ ngày 09/12/1930, nội dung Nghị quyết, Chỉ thị về thành lập Hội Phản
đế Đồng minh mới bắt đầu được phổ biến trong toàn Đảng. Với điều kiện thông
tin liên lạc khó khăn và sự kiểm soát ngặt nghèo của chính quyền thực dân lúc
bấy giờ, thì các tỉnh ủy, thành ủy lâm thời, tổ chức cộng sản cũng như đảng viên
cả nước, trong đó có đảng viên Bình Thuận (các đồng chí Ngô Đức Tốn, Nguyễn
Ty, Phan Xích, Trần Hoành…), không thể nhận thông tin từ Trung ương Đảng
một cách thuận lợi, nhanh chóng được.
Vậy tổ chức do đồng chí Ngô Đức Tốn thành lập là Hội Phản đế Đồng
minh hay là một tổ chức khác.
2.1. Tổ chức do đồng chí Ngô Đức Tốn là một tổ chức khác.
Theo lịch sử Đảng bộ huyện Hàm Tân, sau một năm dạy học tại Tam Tân,
năm 1929, đồng chí Ngô Đức Tốn có quan hệ với tổ chức Kỳ bộ Tân Việt Nam
Kỳ (còn theo Địa chí Bình Thuận thì đồng chí được kết nạp vào Đảng Tân Việt)
thành lập Hội Phản đế Đồng minh.
Như đã dẫn chứng, đường lối, chủ trương hoạt động của Đảng Tân Việt
không có chỉ đạo thành lập một tổ chức gọi là Hội Phản đế Đồng minh để tập hợp
quần chúng. Vậy thì đồng chí Ngô Đức Tốn, lúc bấy giờ chịu ảnh hưởng từ
đường lối, chủ trương của Đảng Tân Việt lập ra tổ chức hơn 30 người, thì tổ chức
đó có thể là một Chi bộ Đảng Tân Việt tại Bình Thuận. Để đến tháng 7/1930, khi
được đảng viên Dương Chước giác ngộ cách mạng, kết nạp vào Đảng Cộng sản,
đồng chí Ngô Đức Tốn về lại Tam Tân kết nạp 06 đảng viên ưu tú của Chi bộ Tân
Việt vào Đảng Cộng sản, thành lập Chi bộ Tam Tân vào cuối năm 1930. Điều
này hợp logic với quá trình thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở 03 tỉnh
trong khu vực Nam Trung bộ là Lâm Đồng, Ninh Thuận và Khánh Hòa (từ chi bộ
Đảng Tân Việt chuyển thành chi bộ Đảng Cộng sản).
2.2. Tổ chức do đồng chí Ngô Đức Tốn lập ra là Hội Phản đế Đồng minh.
Trước đây, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Thuận Hải có tổ chức một số
cuộc hội nghị, tọa đàm tại Hàm Tân, gặp gỡ nhân chứng lịch sử để làm rõ sự kiện
Chi bộ Tam Tân. Đồng chí Lê Chạy là đảng viên Chi bộ Tam Tân (lúc bấy giờ
còn sống) nhớ lại: đồng chí Ngô Đức Tốn vào Tam Tân dạy học từ năm 1930.
Qua một thời gian, đồng chí Tốn giác ngộ Lê Thanh Lư, Lê Chạy kết nạp vào Hội
Phản đế Đồng minh. Khi tổ chức nói vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tôi bảo
sao nhanh quá, mới Hội Phản đế Đồng minh nay đã là Đảng Cộng sản Đông
Dương có vào năm 1931(19)
.
(19)
Ban NCLS Đảng tỉnh Thuận Hải (1981), Một số ý kiến bổ sung về sự kiện Tam Tân - Hàm Tân qua
khảo sát tháng 10/1981, tr.4.
73
Theo lời đồng chí Lê Chạy, thì đồng chí Ngô Đức Tốn thành lập Hội Phản
đế Đồng minh và từ đó kết nạp 06 hội viên vào Đảng Cộng sản Đông Dương vào
năm 1931 là phù hợp với lịch sử diễn ra. Bởi vì Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên
thành Đảng Cộng sản Đông Dương, cũng như chủ trương thành lập Hội Phản đế
Đồng minh là từ Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10/1930 tại Hồng Kông. Và
việc triển khai các chủ trương này là từ Thư của Trung ương Đảng gửi đảng viên
toàn quốc ngày 09/12/1930.
Nếu theo đúng chủ trương, chỉ đạo của Trung ương, đồng chí Ngô Đức Tốn
thành lập Hội Phản đế Đồng minh tại Tam Tân nhanh nhất là phải diễn ra vào
những ngày cuối tháng 12 năm 1930 và Chi bộ Tam Tân thành lập vào đầu
năm 1931 (điểm này phù hợp với công trình Địa chí Bình Thuận khi viết tháng
2/1931 - rất tiếc các tác giả biên soạn Địa chí không dẫn nguồn sử liệu quan trọng
này từ đâu, hoặc từ kết quả nghiên cứu nào).
Vậy thì đồng chí Ngô Đức Tốn tiếp thu nội dung Nghị quyết, Chỉ thị về
vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh từ đâu? Vào lúc nào? Đây là các vấn đề
gợi mở để trong thời gian tới tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. Vì ngay khi từ giữa cuối
tháng 7/1930, đảng viên Dương Chước từ Ninh Hòa vào tuyên truyền chủ nghĩa
cộng sản tại phủ Hàm Thuận, kết nạp đồng chí Ngô Đức Tốn vào Đảng Cộng sản
Việt Nam thì Chỉ thị, Nghị quyết về thành lập Hội Phản đế Đồng minh cũng chưa
ra đời và phổ biến trong toàn Đảng. Đồng chí Dương Chước là đảng viên chi bộ
Hòn Khói, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ngày 16/7/1930, dẫn đầu đoàn biểu
tình về phủ đường Ninh Hòa, dùng còi chỉ huy, kêu gọi nhân dân đấu tranh, đưa
bản yêu sách cho quan phủ. Kết thúc cuộc biểu tình, đồng chí Dương Chước lên
chiếc xe con đã chuẩn bị sẵn đi về hướng Nha Trang - Đà Lạt. Do đó, sau cuộc đấu
tranh ngày 16/7/1930, từ giữa cuối tháng 7/1930 trở về sau, đồng chí Dương Chước
mới rời khỏi Ninh Hòa đi vào Phan Thiết.
*
Nghiên cứu sự ra đời của một tổ chức nên đặt trong bối cảnh không gian
rộng và thời gian dài, cũng như mối quan hệ nhiều chiều của tổ chức đó với các tổ
chức khác cùng thời điểm. Cho dù đã làm được như vậy cũng chưa thể nhìn rõ
hết, chính xác hết được những gì đã diễn ra trong lịch sử. Trên tinh thần đó, tôi
nhận thấy trong bài viết có những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự trao
đổi, cung cấp tư liệu từ các nhà khoa học, quý vị đại biểu dự hội thảo để tôi chỉnh
sửa, hoàn thiện vấn đề nghiên cứu của mình./.
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (1994), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Bình Thuận, tập I, (1930 - 1954).
2. Ban NCLS Đảng tỉnh Thuận Hải (1981), Một số ý kiến bổ sung về sự
kiện Tam Tân - Hàm Tân qua khảo sát tháng 10/1981.
3. Ban NCLS Đảng Thành ủy Tp Hồ Chí Minh (1980), Công bố sự kiện
lịch sử Đảng về Trung ương Đảng hoạt động tại Sài Gòn 1930 - 1931.
4. Đảng bộ thị xã La Gi và huyện Hàm Tân (2008), Lịch sử Đảng bộ huyện
Hàm Tân, (1930 - 2005).
5. Đinh Trần Dương (2006), Tân Việt Cách mạng đảng trong cuộc vận
động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Lịch sử Đảng bộ các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Lâm Đồng (giai đoạn
1930 - 1975).
7. Sở Văn hóa Thông tin (2007), Địa chí Bình Thuận.
8. Viện Lịch sử Đảng - Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2013), Lịch sử Biên
niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75
CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THỰC SỰ TRONG SẠCH,
VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA ĐẢNG BỘ, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ
TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI
Ban Tổ chức Tỉnh ủy
Trong 90 năm xây dựng và phát triển của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh -
Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, luôn giữ vững vị trí người lãnh đạo. Xây dựng và
chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên nhằm bảo đảm cho Đảng luôn vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
cao, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đó
cũng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân.
Thực tiễn cho thấy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhân tố tiên
quyết để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Đây cũng
chính là nhiệm vụ then chốt được Đảng ta xác định rất rõ trong tiến trình lịch sử
cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nhấn
mạnh phải tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức; nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, Đảng ta yêu cầu trong nhiệm kỳ
Đại hội XII, cần tập trung nhiệm vụ: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
"tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”.
Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận luôn xem
trọng, làm tốt công tác xây dựng Đảng, từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo, giữ vững
phẩm chất, bản lĩnh chính trị; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc phòng- an ninh, đưa Bình Thuận vượt
qua nhiều thử thách và đạt được những kết quả quan trọng, tương đối toàn diện,
tạo chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần củng cố vững chắc niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự đồng thuận cao, phát huy được sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị.
76
Bằng những giải pháp linh hoạt, phù hợp thực tiễn, cấp ủy các cấp trong
tỉnh đã tập trung chỉ đạo nghiêm túc, đề ra cách làm phù hợp nhằm mở rộng phát
huy dân chủ nội bộ và nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, được dư luận nội
bộ và xã hội đồng tình, ủng hộ. Nhiều yếu kém, khuyết điểm trong công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, trong công tác cán bộ, trong việc chấp hành các nguyên tắc
tổ chức sinh hoạt đã được các cấp ủy khắc phục có hiệu quả. Đặc biệt, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành một số chỉ thị, chuyên đề để chỉ đạo khắc phục
một số khuyết điểm, trì trệ kéo dài trong cán bộ, đảng viên và nhận được sự đồng
thuận, hưởng ứng tích cực, tạo chuyển biến rõ nét trong cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức tỉnh nhà.
Các cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy ngày càng quan tâm hơn đến công tác
xây dựng Đảng; vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm
vụ ngày càng được phát huy tốt hơn. Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ vững và
phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, dân chủ trong Đảng và trong xã
hội được mở rộng hơn. Thường xuyên quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ; chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên; công tác phát
triển đảng viên mới được quan tâm hơn; đội ngũ cấp ủy cơ sở thường xuyên được
củng cố, kiện toàn; công tác quy hoạch cấp ủy các cấp được triển khai thực hiện
nghiêm túc. Công tác đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng và đảng viên
hàng năm được tiến hành nghiêm túc, khách quan, đúng thực chất (Qua phân
tích, đánh giá chất lượng hàng năm cho thấy, tỉ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt trong
sạch, vững mạnh chiếm tỷ lệ khá cao (từ 48% trở lên), số tổ chức cơ sở đảng yếu
kém giảm so với đầu nhiệm kỳ. Năm 2015 có 16/498 chi, đảng bộ cơ sở yếu kém
(chiếm tỷ lệ 3,22%), đến năm 2018, có 10/488 chi, đảng bộ cơ sở yếu kém (chiếm
tỷ lệ 2,05%).
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém
về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đó là: Năng lực lãnh đạo, khả năng vận
dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy cấp trên của một số ít tổ chức cơ sở
đảng còn yếu. Một số cấp ủy, đảng bộ, chi bộ thực hiện chưa nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Ðảng; chưa coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo và
phong cách, lề lối làm việc. Một số nơi triển khai các biện pháp đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu kiên quyết, chưa kịp thời. Công tác kiểm tra,
giám sát còn nhiều lúng túng, chưa được tăng cường. Một bộ phận cán bộ, đảng
77
viên, công chức, viên chức nói không đi đôi với làm, tinh thần trách nhiệm trong
thực thi công vụ chưa cao, chưa tự giác rèn luyện, còn sa vào quan liêu, tiêu cực,
tham nhũng; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ...
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém là do thiếu sự quan tâm
lãnh đạo xây dựng Đảng về mặt chính trị, đạo đức, tổ chức ở một số cấp ủy; năng
lực, trình độ và ý thức tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên chưa cao, chưa tự giác và thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạnh; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức Đảng
còn hạn chế.
Trong giai đoạn phát triển mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIII đã xác định một trong chín nhiệm vụ và giải pháp phát triển các ngành, các
lĩnh vực, các vùng: “Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng”.
Với những nhiệm vụ, giải pháp đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và được cụ thể hóa trong Chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII Đảng
bộ tỉnh và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII
về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, trong tình hình mới hiện nay,
để công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
giai đoạn cách mạng mới cần triển khai các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tập trung xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng: Các
cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục tư
tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên; đổi mới và thực hiện có hiệu quả công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường
xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức. Hàng tháng, ban tuyên giáo các cấp ủy tổ chức giao ban công tác
nắm bắt dư luận xã hội, kịp thời nắm bắt, tham mưu chỉ đạo giải quyết các vụ
việc nổi cộm, bức xúc ngay từ cơ sở.
Hai là, từng cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở và tổ chức cơ sở đảng tiếp tục rà soát,
sắp xếp, củng cố, phát triển tổ chức đảng ở các loại hình cơ sở phù hợp với yêu
cầu quản lý và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ quan, đơn
vị: Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại các tổ chức cơ sở đảng cho đồng bộ với các tổ
chức trong hệ thống chính trị và triển khai các nhiệm vụ, giải pháp theo nội dung
78
Nghị quyết số 18- NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa XII), Kế hoạch số 82-KH/TU, ngày 30/01/2018 của Tỉnh ủy. Ban Chỉ đạo
xây dựng và phát triển tổ chức Đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp ngoài khu vực
Nhà nước từ tỉnh đến cấp huyện cần thường xuyên quan tâm và tập trung triển
khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp về xây dựng và phát triển tổ chức đảng,
đoàn thể trong các loại hình doanh nghiệp. Thực hiện tốt việc củng cố tổ chức
đảng ở thôn, khu phố. Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên, khắc phục biểu
hiện chạy theo số lượng, thành tích; đẩy mạnh phát triển đảng đối với thôn
trưởng, tổ trưởng tổ dân phố. Quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; thường xuyên
rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Đề
cao vai trò của cấp uỷ cơ sở nơi có đảng viên được giới thiệu về giữ mối liên hệ
nơi cư trú; chủ động theo dõi, gửi ý kiến nhận xét, đánh giá đảng viên định kỳ và
đột xuất về cấp uỷ cơ quan nơi đảng viên đang công tác.
Ba là, tập trung củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên, bí thư
cấp uỷ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở: Các cấp ủy, chi bộ phải kịp
thời củng cố, kiện toàn cấp uỷ có số lượng và cơ cấu hợp lý, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ, đặc điểm từng loại hình đảng bộ, chi bộ và thực tiễn của từng địa
phương, đơn vị. Xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư tổ chức đảng, tổ chức cơ sở
đảng có phẩm chất, trình độ, năng lực, phương pháp, phong cách làm việc khoa
học, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Kiên quyết thay thế
những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu kém về năng lực, trình độ, phẩm chất đạo
đức, vi phạm khuyết điểm, không đủ uy tín để thực hiện nhiệm vụ. Chuẩn bị tốt
nhân sự cấp uỷ cơ sở nhiệm kỳ tiếp theo. Làm tốt công tác đánh giá cán bộ và các
quy trình theo quy định để chuẩn bị nguồn nhân sự cho đại hội đảng các cấp
nhiệm kỳ đến, bố trí nhân sự cấp uỷ, cán bộ chủ chốt phải đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho cấp ủy
viên mới của các chi, đảng bộ cơ sở, nhất là vào đầu nhiệm kỳ đại hội.
Bốn là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng, trọng tâm là nâng cao chất lượng ban hành, tổ chức thực hiện có hiệu quả
các nghị quyết, kế hoạch công tác hàng năm của cấp uỷ: Thường xuyên đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động và năng lực lãnh đạo của cấp ủy, nâng cao chất
lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; xây dựng hệ
thống chính trị hoạt động hiệu lực hiệu quả. Quan tâm cải tiến, đổi mới phương
pháp làm việc, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Khắc phục
79
triệt để tình trạng bạo biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy,
của bí thư tổ chức đảng, tổ chức cơ sở đảng; sửa đổi, bổ sung và thực hiện
nghiêm túc quy chế làm việc của cấp uỷ.
Năm là, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong cấp ủy từ cấp tỉnh
đến cấp cơ sở: Đây là vấn đề trọng yếu, bảo đảm cho Đảng thật sự chặt chẽ về tổ
chức, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu cao. Đảng luôn yêu cầu các cấp ủy
và tổ chức đảng phải làm tốt công tác giáo dục, thống nhất nhận thức, đồng thời
chỉ đạo xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng. Nếu xa rời hoặc xem nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ là làm sai lạc
tổ chức đảng từ trong bản chất; nếu thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ là làm yếu sức mạnh của Đảng từ gốc. Thực tiễn cho thấy, nơi nào vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ sớm muộn đều đưa đến nội bộ mất đoàn kết,
suy yếu; càng phát huy tốt nguyên tắc dân chủ thì nội bộ càng mạnh dạn trong
đấu tranh góp ý xây dựng, càng đoàn kết gắn bó.
Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy, khi Đảng ta đẩy mạnh xây dựng và
chỉnh đốn, rất nhiều vụ việc tham nhũng, lãng phí lớn đã được đem ra ánh sáng,
trong đó có nhiều cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý. Những cán bộ
cao cấp bị kỷ luật đều có chung một vi phạm, khuyết điểm đã được Ủy ban Kiểm
tra Trung ương chỉ ra là: “Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ” và có biểu hiện
thiếu dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Sáu là, thực hiện tốt Quy chế làm việc của cấp ủy: Hiện nay, bên cạnh
nhiều tổ chức đảng ở các cấp xây dựng được hệ thống Quy chế làm việc khoa
học, chặt chẽ, vận hành thông suốt, mang lại hiệu quả, ý nghĩa thiết thực trong
lãnh đạo thì cũng có không ít tổ chức đảng chưa làm tốt.
Biểu hiện dễ thấy nhất là một số cấp ủy chưa quan tâm đúng mức đến việc
xây dựng, ban hành Quy chế làm việc. Tình trạng không thực hiện đúng Quy chế
làm việc đã xây dựng là khá nhiều. Những biểu hiện trên dẫn đến hiện tượng phân
công nhiệm vụ cho cấp ủy viên chung chung, chồng chéo, không rõ nhiệm vụ
chính, nhiệm vụ kiêm nhiệm... nên làm cho hiệu lực lãnh đạo giảm sút; tình trạng
chạy theo sự vụ để giải quyết và nếu khi gặp khó khăn, vướng mắc thì đùn đẩy, né
tránh trách nhiệm trong các tổ chức đảng là không hiếm.
Những hiện tượng nêu trên đều xuất phát từ nguyên nhân cấp ủy đảng xây
dựng, vận hành Quy chế làm việc kém hiệu quả. Hậu quả của việc này rất khó
lường. Trong những năm qua, nhiều tập thể, cá nhân đã bị khởi tố, kỷ luật vì thực
hiện không đúng quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm
80
vụ được giao; vi phạm các quy định về công tác quy hoạch, đề bạt, điều động, bố
trí cán bộ; quản lý nhà nước về đất đai; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống; vi phạm pháp luật của Nhà nước...
Thực tiển thấy rằng việc xây dựng và vận hành tốt Quy chế làm việc là rất
quan trọng và hết sức cần thiết trong lãnh đạo, chỉ đạo. Do đó, xây dựng Quy chế
làm việc cần bảo đảm tính khoa học, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách và
phù hợp với các quy định của cấp trên. Khi xây dựng quy chế phải cụ thể hóa nội
dung các quy định đối với từng cấp ủy ở mỗi loại hình tổ chức đảng. Nội dung
Quy chế phải xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của tập thể cấp ủy và trách
nhiệm, quyền hạn cá nhân của các ủy viên cấp ủy, nhất là của bí thư, các phó bí
thư, các cán bộ chủ chốt lãnh đạo ngành, lãnh đạo tổ chức chính quyền ở địa
phương, đơn vị cơ sở. Quy định rõ sự lãnh đạo của Đảng trong các lĩnh vực xây
dựng, phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị
ở các địa phương, đơn vị cơ sở. Mối quan hệ giữa các cấp ủy đảng đối với
HĐND, UBND, Mặt trận và các đoàn thể cũng phải được xác định cụ thể, phân rõ
trách nhiệm lãnh đạo và điều hành giữa cấp ủy đảng và các tổ chức chính quyền.
Năm 2020, phấn khởi, tự hào trước truyền thống vẻ vang và những kết quả
đã đạt được trong suốt quá trình xây dựng, phấn đấu và phát triển của Đảng bộ
tỉnh Bình Thuận. Với những tiền đề cơ bản và kết quả quan trọng đã đạt được
trong những năm qua, chúng ta có niềm tin và động lực để quyết tâm xây dựng
Đảng bộ tỉnh thực sự trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển
mới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIII, đưa Bình Thuận phát triển nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt là tập trung tổ chức thành công đại hội đảng bộ các
cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, gắn với tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày
càng trong sạch, vững mạnh./.
81
CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT, KỶ LUẬT ĐẢNG GÓP PHẦN
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA ĐẢNG BỘ, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ
TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI
Ủy Ban kiểm tra Tỉnh ủy
Kính thưa các đồng chí!
Thực tiễn hoạt động của Đảng ta 90 năm qua đã chứng minh kiểm tra, giám
sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, bộ phận quan trọng trong toàn bộ
công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, trước hết là của các cấp ủy,
người đứng đầu cấp ủy. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng luôn góp phần quan trọng vào việc bảo vệ đường lối, quan điểm,
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; phát huy dân chủ, ngăn ngừa các
nguy cơ của đảng cầm quyền, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới
phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta rất quan tâm đến công tác kiểm
tra, coi đây là một khâu quan trọng trong công tác xây dựng Đảng; Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát, bởi theo Người: "Có
kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân,
mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời". Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của công tác
xây dựng Đảng và giữ gìn kỷ cương, kỷ luật trong Đảng, ngày 16/10/1948 Ban
Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Ban Kiểm tra Trung ương -
Cơ quan kiểm tra chuyên trách đầu tiên của Đảng và ở tỉnh Bình Thuận Ủy ban
kiểm tra Tỉnh được thành lập từ tháng 01/1976.
Trải qua mười hai nhiệm kỳ, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và thường
xuyên của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo và hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung
ương, hệ thống tổ chức ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp trong
tỉnh không ngừng được xây dựng, củng cố và ngày càng hoàn thiện; các thế hệ
cán bộ kiểm tra đảng luôn tuyệt đối trung thành và tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nội bộ đoàn kết không ngừng phấn đấu,
rèn luyện về mọi mặt, vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm
82
tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong từng nhiệm kỳ Đại hội.
Từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII, cấp ủy, tổ chức đảng
các cấp trong tỉnh đã quan tâm chỉ đạo và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát
ngày càng đi vào nề nếp, thể hiện tính chủ động, đồng bộ, chất lượng và hiệu quả
đạt cao hơn; công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng có bước chuyển
biến tích cực, đạt được hiệu quả quan trọng, ủy ban kiểm tra các cấp đã tham mưu
cho các cấp ủy tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các quyết
định, quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám
sát và kỷ luật đảng; tham mưu xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực
hiện kiểm tra, giám sát đối với hàng ngàn lượt tổ chức đảng và hàng ngàn đảng
viên, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã
hội trong việc khắc phục những hạn chế, yếu kém qua kiểm điểm tự phê bình và
phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; việc chấp hành nguyên tắc, tổ chức và sinh hoạt đảng, những điều đảng
viên không được làm, chấp hành quy chế làm việc, chấp hành chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, về công tác cán bộ, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Ngoài việc tham mưu cho cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã chủ động xây dựng
chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát toàn diện
theo Điều 32 - Điều lệ Đảng, nội dung kiểm tra, giám sát ngày càng bám sát hơn
yêu cầu công tác xây dựng Đảng và nhiệm vụ chính trị của từng cấp ủy, tổ chức
đảng; việc kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, việc giải
quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo được thực hiện khá tốt, việc thi hành kỷ luật bảo
đảm đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, quy trình, thủ tục và thẩm
quyền; công tác giám sát được mở rộng, công tác kiểm tra được tiến hành có
trọng tâm, trọng điểm hơn; chú ý đi vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc; tập
trung kiểm tra việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng; chủ trương, chính
sách của Nhà nước; về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí; việc triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
các cấp, nhiệm kỳ 2015- 2020; việc thực hiện quy định về những điều đảng viên
83
không được làm. Chỉ tính riêng số liệu nhiệm kỳ 2015-2020 của Đảng bộ tỉnh,
cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra 5.841 lượt tổ chức đảng,
8.537 lượt đảng viên; kiểm tra tài chính đảng 107 tổ chức đảng và cơ quan tài
chính đảng cùng cấp; kiểm tra việc thu, nộp, quản lý và sử dụng đảng phí 1.744
lượt tổ chức đảng, đã đề nghị xử lý xuất toán, thu hồi tài chính và truy thu tiền
đảng phí trên 466 triệu đồng; đặc biệt, Ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 29 tổ
chức đảng cấp dưới và 297 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; đã thi hành kỷ luật
09 tổ chức đảng với hình thức khiển trách 06, cảnh cáo 03, thi hành kỷ luật 545
đảng viên với các hình thức khiển trách 353, cảnh cáo 121, cách chức 26, khai trừ
45; giám sát chuyên đề 2.902 lượt tổ chức đảng, 7.082 lượt đảng viên. Qua kiểm
tra, giám sát đã chủ động giáo dục, phòng ngừa; kịp thời chấn chỉnh những thiếu
sót, khuyết điểm, xử lý nghiêm những sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên
"không có vùng cấm", "không có ngoại lệ". Nhờ đó, kỷ luật của Đảng, kỷ cương
hành chính của Nhà nước được tăng cường, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, các biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với
Đảng, chính quyền tiếp tục được củng cố, sự đồng thuận trong xã hội ngày càng
cao hơn.
Thực tiễn cho thấy: công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác kiểm tra,
giám sát nói riêng đã góp phần quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, làm cho
Đảng ngày càng làm tròn hơn vai trò lãnh đạo toàn diện của mình và thúc đẩy
kinh tế - xã hội địa phương phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
cách mạng mới.
Thưa các đồng chí!
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật trong Đảng còn một số vấn đề cần quan tâm:
Một số ít cấp ủy cơ sở chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra, giám
sát; một số địa phương, đơn vị xây dựng nội dung, phân bổ thời gian thực hiện
chương trình kiểm tra, giám sát chưa phù hợp; kết quả nắm bắt thông tin, phát
hiện dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên còn hạn chế; tiến độ giải
quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kết luận một số vụ việc còn chậm. Một số nơi
chưa chú ý đôn đốc, theo dõi đối tượng kiểm tra, giám sát chấp hành kết luận,
thông báo sau kiểm tra, giám sát; một số tổ chức đảng chưa làm tốt công tác thẩm
84
tra, xác minh dẫn đến kết luận có việc chưa chính xác, có trường hợp áp dụng
hình thức kỷ luật chưa phù hợp.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là do một số
cấp ủy, tổ chức đảng chưa nhận thức đầy đủ về công tác kiểm tra, giám sát; chưa
thể hiện quyết tâm cao; đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra ở cơ sở chưa được
đào tạo căn bản, thường xuyên thay đổi nhưng chưa kịp thời kiện toàn, củng cố;
phương pháp nghiên cứu, khảo sát, nắm bắt thông tin, phát hiện dấu hiệu vi phạm
đối với tổ chức đảng và đảng viên chưa nhạy bén; sự phối hợp cung cấp thông tin
giữa các đơn vị có Quy chế phối hợp chưa thường xuyên; tinh thần đấu tranh phê
bình và tự phê bình của một số tổ chức đảng chưa cao. Cấp ủy cơ sở chưa chủ
động tăng cường công tác tự kiểm tra, công tác giám sát tại cơ sở, dẫn đến có sai
phạm kéo dài nhưng chậm được phát hiện xử lý.
Kính thưa các đồng chí!
Nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính
quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, đặc biệt là ủy ban kiểm tra các cấp
trong toàn tỉnh về ý nghĩa lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam; vai trò,
uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong chặng đường 90 năm qua; đồng thời, khắc phục
những hạn chế, khó khăn nhằm thực hiện có hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra
trong thời gian tới góp phần tích cực hơn nữa vào việc nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
cách mạng mới. Thời gian tới cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định kiểm tra, giám sát là những chức năng,
phương thức lãnh đạo của Đảng, bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây
dựng Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy và trách nhiệm
của người đứng đầu cấp ủy, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức
và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh.
Thứ hai, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc (khóa XIII), nghị
quyết Đại hội đảng các cấp trong tỉnh và các văn bản của Trung ương, nắm vững
chủ trương đường lối đổi mới của Đảng để cụ thể hóa triển khai thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát cho phù hợp với tình hình đặc điểm của tỉnh.
Thứ ba, chủ động ban hành chương trình toàn khóa, kế hoạch năm về công
tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện đạt kết quả; nâng cao hơn nữa chất
lượng các cuộc kiểm tra, giám sát; đầu tư nhiều hơn công tác nắm bắt thông tin,
85
khảo sát tình hình và tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức
đảng và đảng viên; xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm.
Thứ tư, tăng cường chỉ đạo các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra trực thuộc
trong việc triển khai thực hiện toàn diện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ
Đảng; trong đó đặc biệt quan tâm đối với những lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham
nhũng như: đất đai, tài nguyên, khoáng sản, dự án, các hoạt động tài chính, đầu
tư, công tác cán bộ, kê khai tài sản thu nhập; chú trọng kiểm tra các đối tượng là
cấp ủy viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng
cấp quản lý; chú ý làm tốt giám sát việc thực hiện các kết luận, thông báo sau
kiểm tra.
Thứ năm, Tăng cường sự chỉ đạo của Ủy ban kiểm tra cấp trên đối với Ủy
ban kiểm tra cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của đảng theo
Quy định số 195-QĐ/TW, ngày 18/6/2019 của Ban Bí thư để tạo chuyển biến tích
cực, rõ rệt hơn nữa trong toàn Ngành. Phát huy tính chủ động trong công tác kiểm
tra, giám sát của cấp ủy cơ sở để kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những hạn chế,
khuyết điểm ngay từ lúc mới phát sinh. Kịp thời củng cố, kiện toàn đội ngũ làm
công tác kiểm tra đủ số lượng, đảm bảo chất lượng để hoạt động.
Thứ sáu, ngoài việc tiếp tục cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ do
Trung ương triệu tập, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy nghiên cứu phối hợp với Trường
Chính trị tỉnh mở lớp đào tạo, tập huấn căn bản cho cán bộ làm công tác kiểm tra
ở huyện và cơ sở.
Thứ bảy, hằng năm, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiến hành sơ kết, tổng kết
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng để kịp thời đánh giá, phát huy những
kết quả đạt được, rút kinh nghiệm qua thực tiễn để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát./.
86
DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN
CHỨC, LAO ĐỘNG, CÔNG ĐOÀN BÌNH THUẬN KHÔNG NGỪNG
PHÁT TRIỂN, TRƢỞNG THÀNH VÀ LỚN MẠNH
Liên Đoàn Lao động tỉnh
Từ khi có Đảng ra đời và lãnh đạo (03/02/1930), quá trình lịch sử đấu tranh
cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Đi liền với chiều
dài lịch sử ấy, giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam được thành
lập, xây dựng, trưởng thành và phát triển không ngừng; trong đó vinh dự, tự hào
có những đóng góp tích cực của phong trào công nhân, viên chức, lao động, Công
đoàn Bình Thuận vào trang sử vẻ vang đó.
Trước sự mở rộng chính sách khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp, đội
ngũ công nhân lao động Bình Thuận ra đời và từ đó tới nay không ngừng phát
triển, trưởng thành, lớn mạnh, tăng cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu ổn định, ý
thức giai cấp không ngừng được tăng lên. Trước sự áp bức, bóc lột đến tận cùng
của Thực dân Pháp, các cuộc đấu tranh của công nhân lao động bắt đầu nổ ra, tuy
lúc đầu còn mang tính tự phát, đơn lẻ nhưng đã tác động mạnh mẽ, tập hợp ngày
càng đông lực lượng công nhân cùng tham gia đấu tranh. Sự ra đời của tổ chức
Công hội đỏ Bình Thuận (1930) đã thúc đẩy phong trào phát triển, đánh dấu một
thời kỳ mới của phong trào yêu nước, cách mạng của đội ngũ công nhân lao động
Bình Thuận, góp phần đưa phong trào công nhân lao động và Công đoàn Bình
Thuận tiến lên thời kỳ phát triển mới. Hoạt động nổi bật của tổ chức Công hội lúc
này ngoài việc thường xuyên, liên tục tiến hành công tác tuyên truyền, giác ngộ
còn phải vận động công nhân đấu tranh và ủng hộ các cuộc đấu tranh của công
nhân. Tuy bước đầu các cuộc đấu tranh còn ít, nhưng với truyền thống cách mạng
của giai cấp công nhân Việt Nam, công nhân lao động Bình Thuận đã sớm đi đầu
trong cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, giành quyền sống, quyền tự do và
đoàn kết cùng các tầng lớp nhân dân tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền
thành công trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong những năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, cùng với hoạt động
công đoàn dưới nhiều hình thức phát triển ngày càng lớn mạnh, công nhân lao
động Bình Thuận đã thể hiện bản lĩnh kiên cường, năng động, sáng tạo của giai
cấp công nhân, làm nòng cốt đoàn kết cùng các tầng lớp nhân dân chống thực
dân, đế quốc để giải phóng dân tộc. Ở vùng tạm chiếm, đội ngũ công nhân lao
87
động vẫn hướng về cách mạng, cung cấp nguyên liệu, vũ khí, thuốc men, lương
thực giúp đỡ kháng chiến, tham gia diệt ác, trừ gian, đấu tranh đòi quyền dân
sinh, dân chủ. Ở vùng căn cứ, những công nhân quân giới, chiến sỹ giao liên,
quân nhân trong các lực lượng vũ trang và cán bộ nhân viên các ban Đảng, chính
quyền, ngành nghề, đoàn thể nhân dân..., không quản ngày đêm, làm việc hết
mình vì yêu cầu phục vụ kháng chiến. Biết bao người con yêu quý của giai cấp
công nhân và Nhân dân Bình Thuận đã ngã xuống nơi trận tuyến, hy sinh khi sản
xuất vũ khí, tải đạn, cứu thương hoặc trên đường làm nhiệm vụ. Khi Liên hiệp
Công đoàn lâm thời tỉnh được thành lập (4-1950), lực lượng đoàn viên công đoàn
ở khu căn cứ ngày càng phát triển vững mạnh, sát cánh cùng các tầng lớp nhân
dân chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, góp phần giải phóng quê hương Bình
Thuận, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn cùng cả nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
công nhân lao động Bình Thuận tiếp tục phát huy bản chất và truyền thống cách
mạng của giai cấp công nhân, ý chí tự lực, tự cường, nỗ lực lao động sáng tạo
khôi phục và phát triển kinh tế, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, tin tưởng và ủng hộ sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; đi
đầu khắc phục khó khăn, tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, góp phần đưa công
cuộc đổi mới của tỉnh nhà đạt nhiều thành tựu quan trọng, tạo nên sự phát triển
toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh... Đội
ngũ công nhân lao động ngày càng được củng cố, phát triển và từng bước trưởng
thành về mọi mặt, khẳng định là lực lượng đi đầu trên mọi hoạt động trong công
cuộc đổi mới, xây dựng quê hương Bình Thuận ngày càng giàu mạnh. Cùng với
chặng đường lịch sử phát triển của tổ chức Công đoàn Việt Nam, các cấp công
đoàn trong tỉnh luôn chú trọng từng bước đổi mới về tổ chức, phương thức và nội
dung, hướng mạnh các hoạt động về cơ sở nhằm thích ứng với cơ chế mới, sát với
tình hình thực tế của phong trào công nhân, viên chức, lao động; tập trung nguồn
lực, ưu tiên thực hiện hiệu quả chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động; phát huy vai trò
tiên phong của công nhân lao động tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Công đoàn đã có bước đổi mới về đội ngũ cán bộ, điều chỉnh hệ
thống tổ chức và bộ máy Cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh, các công đoàn cấp
huyện, ngành, thị xã, thành phố phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới. Trong thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, cùng với sự phát triển
toàn diện dân sinh, kinh tế - xã hội, tổ chức Công đoàn Bình Thuận không ngừng
88
được phát triển, số lượng đoàn viên và Công đoàn cơ sở ngày càng tăng lên cả
trong khu vực kinh tế nhà nước, khu vực ngoài nhà nước và trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu tổ chức, các mặt hoạt động công tác
công đoàn không ngừng được củng cố, phát triển và có bước trưởng thành đáp
ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, góp phần xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Trải qua 90 năm đồng hành, đóng góp vào thành công chung của cách
mạng, trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng, sự phối hợp của chính quyền các cấp, các ngành, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong tỉnh, có thể khẳng định phong trào công nhân lao động và
Công đoàn Bình Thuận không ngừng phát triển, trưởng thành và lớn mạnh. Từ
thực tiễn trong sự phát triển toàn diện đó có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ
yếu sau:
Thứ nhất, được sự quan tâm lãnh đạo thường xuyên của cấp ủy Đảng trong
xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân lao động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Sự
lãnh đạo của cấp ủy Đảng là nhân tố quyết định trong xây dựng, phát triển phong
trào công nhân lao động và hoạt động công đoàn. Thực tế đã chứng minh, nơi nào
được sự quan tâm lãnh đạo thường xuyên của cấp ủy Đảng thì nơi đó phong trào
công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn phát triển toàn diện và
ngược lại nơi nào cấp ủy thiếu quan tâm, buông lỏng lãnh đạo, nơi đó phong trào
công nhân, viên chức, lao động, hoạt động công đoàn giảm sút, thậm chí là hoạt
động không hiệu quả, yếu kém. Để đảm bảo sự lãnh đạo phong trào công nhân,
viên chức, lao động phát triển toàn diện, đúng hướng, các cấp ủy Đảng cần có sự
phân công cấp ủy theo dõi, phụ trách và lắng nghe, nghiên cứu những kiến nghị,
tham mưu, đề xuất của Công đoàn và chỉ đạo chính quyền, các ngành liên quan
phối hợp tổ chức thực hiện. Về phía tổ chức Công đoàn, phải bám sát và tham
mưu một cách toàn diện về sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với mọi mặt hoạt
động của Công đoàn và phong trào công nhân, viên chức, lao động; chủ động
triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao và tham gia góp ý về sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng đối với Công đoàn. Trong mọi tiến trình của cách mạng, giai cấp công
nhân là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Công
đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người
lao động, là sợi dây nối liền giữa Đảng và công nhân lao động, có trách nhiệm
tham mưu cho cấp ủy Đảng và làm nòng cốt trong việc xây dựng đội ngũ giai cấp
89
công nhân ngang tầm nhiệm vụ. Trong mọi giai đoạn của cách mạng, công nhân,
viên chức, lao động Bình Thuận luôn bản lĩnh, kiên cường, dũng cảm, rèn luyện
trong thử thách, gian nan để trưởng thành nhanh chóng, gắn kết hữu cơ với xây
dựng, phát huy sức mạnh của Liên minh giai cấp công nhân với nông dân, đội
ngũ trí thức, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đường lối đổi mới và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã tạo đà cho đội ngũ công nhân lao động Bình Thuận cùng cả nước phát
triển về số và chất lượng. Chất lượng không chỉ nâng lên về mặt trình độ nghề
nghiệp, sự tiếp thu nhanh chóng tiến bộ khoa học - công nghệ mà còn là nhận
thức và bản lĩnh chính trị không ngừng tăng lên tương xứng để đáp ứng, làm tròn
vai trò tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển ngày càng mạnh mẽ của tiến bộ khoa
học, công nghệ, thông tin, đòi hỏi công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư
tưởng cần được đổi mới mạnh mẽ cả hình thức và nội dung, chuyển tải có hiệu
quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán
bộ, đoàn viên và người lao động.
Thứ hai, xây dựng “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(như Bác Hồ đã
nói), do vậy phải chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Điều có ý nghĩa quyết định đến chất lượng mọi quá trình hoạt động
công đoàn là xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có bản lĩnh chính trị, quan điểm
quần chúng và giai cấp vững vàng, có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm quản
lý, có phương pháp công tác quần chúng và có nhiệt tình, tâm huyết với Công
đoàn. Muốn vậy phải tiến hành tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, có
chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ công đoàn để xây dựng được đội ngũ
cán bộ công đoàn có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Ngoài cán bộ chuyên trách, cần xây dựng lực lượng cán bộ bán chuyên
trách (kiêm nhiệm) với đầy đủ tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệt tình, bản lĩnh và có kỹ
năng hoạt động công đoàn, nhất là Chủ tịch các công đoàn cơ sở, Tổ trưởng các
tổ công đoàn. Đối với cán bộ công đoàn chuyên trách phải được đào tạo cơ bản,
dài hạn để trang bị những kiến thức có tính chất hệ thống cả về lý luận và nghiệp
vụ công tác công đoàn; đối với cán bộ công đoàn chuyên trách là Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Công đoàn cấp tỉnh, cấp huyện, ngành tiến đến phải được đào tạo chính
quy và thường xuyên cập nhật kiến thức về lý luận, nghiệp vụ công tác công đoàn
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Với đặc điểm, cán bộ công
đoàn không chuyên trách chiếm đa số, thường thay đổi sau mỗi nhiệm kỳ đại hội,
nên các cấp công đoàn cần coi trọng công tác bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ,
90
kỹ năng hoạt động, công tác công đoàn đối với lực lượng cán bộ này là giải pháp
chủ yếu để thường xuyên nâng cao được năng lực của đội ngũ cán bộ. Trong xây
dựng đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp đặc biệt chú ý xây dựng phẩm chất đạo
đức, năng lực công tác gắn chặt với xây dựng ý thức tổ chức, kỷ luật, kỷ cương và
tinh thần đoàn kết thống nhất cao trong nội bộ. Đoàn kết tạo ra sức mạnh toàn
diện, mất đoàn kết làm suy yếu mọi mặt hoạt động, công sức trong quá trình xây
dựng, phát triển tổ chức và làm mất lòng tin, tính gắn kết giữa cán bộ công đoàn
với đoàn viên, người lao động. Để giữ vững sự đoàn kết thống nhất cần duy trì
nền nếp sinh hoạt, công khai dân chủ bàn bạc các vấn đề lợi ích chung, thường
xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình, giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh công
tác và cuộc sống. Chỉ có sự nỗ lực, hăng say nghiên cứu, sát với tình hình thực tế
tại cơ sở, gắn bó với phong trào, có khả năng thu hút, tập hợp được các tập thể,
cán bộ, đoàn viên, người lao động trong tỉnh tích cực tham gia các phong trào thi
đua, lập nên nhiều thành tích nổi bật, xây dựng nên nhiều điển hình, mô hình hay
trên các mặt hoạt động của phong trào.
Thứ ba, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để xây
dựng tổ chức và hoạt động công đoàn ngày càng vững mạnh. Xây dựng tổ chức
Công đoàn vững mạnh phải bắt đầu từ việc xây dựng tổ chức ngay từ cấp cơ sở,
không ngừng nâng cao cả số, chất lượng, phát huy vai trò của Công đoàn cơ sở và
đoàn viên công đoàn, góp phần thực hiện các chức năng của tổ chức Công đoàn,
đáp ứng sự phát triển không ngừng của phong trào công nhân, viên chức, lao
động. Công đoàn cơ sở chính là nền tảng của tổ chức Công đoàn, là nơi tổ chức
tập hợp, vận động đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị
quyết của Công đoàn... Trong thời kỳ đẩy mạnh và phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh là nhiệm
vụ trọng tâm, sống còn của tổ chức Công đoàn. Vì vậy, để vận động thu hút nhiều
đối tượng công nhân lao động gia nhập tổ chức Công đoàn thì việc tập hợp công
nhân lao động xây dựng tổ chức Công đoàn phải đa dạng, thích hợp với từng
ngành nghề, điều kiện lao động sản xuất, việc làm, nguyện vọng của mỗi đối
tượng người lao động. Một mặt phải thường xuyên chăm lo xây dựng các công
đoàn cơ sở khu vực nhà nước, mặt khác phải coi trọng xây dựng, phát triển tổ
chức Công đoàn thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Hoạt động của Công đoàn
không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển của giai cấp công nhân trong điều kiện hội
nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế mà còn phải linh hoạt phát triển trong sự
91
ràng buộc cam kết quốc tế về vai trò đại diện người lao động và hoạt động của
Công đoàn tại cơ sở để không ngừng phát huy hơn nữa vai trò và ảnh hưởng của
Công đoàn trên mọi lĩnh vực, trong toàn bộ đời sống xã hội, góp phần chung vào
quá trình phát triển toàn diện dân sinh, kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
bảo đảm quốc phòng - an ninh tại địa phương. Với vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ trong hệ thống chính trị Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức
Công đoàn phải thật sự đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
đoàn viên và người lao động, phối hợp làm tốt công tác chăm lo đời sống, bảo
đảm việc làm, thu nhập, điều kiện lao động và các chế độ chính sách liên quan
của người lao động. Cần gắn kết chặt chẽ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công nhân lao động với việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của ngành, địa phương và cơ sở.
Qua Phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” và các hoạt động thiết
thực nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng, phát triển tổ chức Công đoàn. Công
đoàn chú trọng phát hiện công nhân lao động ưu tú để bồi dưỡng thành “Cốt cán”
của Công đoàn, bổ sung đội ngũ cán bộ công đoàn, giới thiệu để tổ chức Đảng bồi
dưỡng, kết nạp; tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng và chính quyền các
cấp trong sạch, vững mạnh.
Thay cho lời kết của bài viết này, với những phân tích nêu trên, chúng ta
luôn tin tưởng và khẳng định rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào
công nhân, viên chức, lao động, Công đoàn Bình thuận không ngừng phát triển,
trưởng thành và lớn mạnh. Truyền thống trong đấu tranh và trưởng thành của
phong trào công nhân, viên chức, lao động và sự lớn mạnh của tổ chức Công
đoàn Bình Thuận từ khi thành lập đến nay trong sự nghiệp xây dựng, phát triển
quê hương là những đóng góp quý báu, là niềm tự hào của đội ngũ cán bộ, đoàn
viên, công nhân, viên chức, lao động hôm nay và mai sau. Phát huy truyền thống
cách mạng, các cấp công đoàn luôn tin tưởng tuyệt vào sự lãnh đạo của Đảng;
tiếp tục ra sức phấn đấu, xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ
chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, đảm bảo vai trò tiên phong, nòng cốt của
mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
92
KHẲNG ĐỊNH VAI TRÕ, UY TÍN, NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC
CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH BÌNH THUẬN QUA CÁC THỜI KỲ
Bùi Văn Nông
(Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bình Thuận)
PHẦN MỘT: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và
rèn luyện. 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công, xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong
kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vũng chắc nền độc lập dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng
lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; mở ra thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định, là cả một pho lịch sử bằng vàng. Kho tàng lịch sử quý giá đó không chỉ gồm
những sự kiện lịch sử oanh liệt, hào hùng của Đảng và dân tộc mà điều có ý nghĩa
lớn lao là những kinh nghiệm, những bài học lịch sử, những vấn đề lý luận cách
mạng Việt Nam được tổng kết từ hiện thực lịch sử với những sự kiện oanh liệt
hào hùng đó.
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, BƢỚC NGOẶT QUYẾT
ĐỊNH CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự
chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại.
1. Tình hình xã hội Việt Nam trƣóc khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết
lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
93
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy
nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư
sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự câu kết giữa
chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai
trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập,
quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng
của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư
sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm
sự phát triên kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuê vô lý.
vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần
cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả
nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân. khuyến khích văn
hoá nô dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối. dốt nát,
lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta,
chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trƣớc khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc
ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần dấu tranh anh dũng,
bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng
lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi
nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như
khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào cần Vương,
phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do
Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc
khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng dã bị thực dân
Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào dấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm dược con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách
94
mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm
một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng
dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
3. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm đƣờng cứu nƣớc và sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng vềđường
lối cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu
nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập. nghiên
cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích
cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga thang lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư
tương của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục
V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó
đãgiúp Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn
con đường cách mạng của mình.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.l.Lênin. Luận cương đã giải
đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm
ra con đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường
giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng
dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ
cộng sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc ViệtNam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu
tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con
đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản
họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
95
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử
như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết
quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm
đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ
chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắtdo Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Giải phóng con người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta
II. NHỮNG THÀNH TỰUVẺ VANG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT
NAM DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa
giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám 1945
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn,
Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp
yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh
chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm đầu tiên lãnh đạo cách mạng (1930-1945), trải qua các cuộc
đấu tranh gian khổ hy sinh, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-
1939, 1939-1945), khi thời cơ đến Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám năm 1945 thành công. Nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của
chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập nên nhà
96
nước của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao
động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và
tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc (1945-
1954)
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chu Cộng hoà đã phải đối
mặt với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn dói hoành hành
đầu năm 1945 đã làm chết hơn hai triệu người ở miền Bắc. Trên 95% dân
ViệtNam mù chữ. Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào với mưu đồ
diệt cộng, cầm Hồ. Ở miền Nam, hơn 15 vạn quân Pháp với sự giúp đỡ của liên
quan Anh - Ấn lăm le xâm lược nước ta. Trong khi do, lực lượng mọi mặt của
Nhà nước ta còn rất non yếu; vận mệnh của đất nước trước tình thế“ngàn cân treo
sợi tóc” Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra những chủ
trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta đã thực hiện sách
lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, dành thời gian củng cố lực
lượng, chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về
nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn
kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để
củng cổ, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo,
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
b) Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hoà bình của Chính phủ và nhân dân ta,
mặc dù chúng ta đã nhân nhượng nhưng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng có
dã tâm cướp nước ta một lần nữa.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ
nền độc lập của dân tộc. Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm thà hy sinh tất cả
97
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Với đường
lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó
khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ
yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh”. Đó là một thắng lợi vẻ vang
của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà
bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa Ta trên thế giới.
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay
một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu
tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ
thì có dầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”. Thắng lợi đó cũng
chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là
đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới
có thể tạo diều kiện cho nhân dàn ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập.
3. Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lƣợc (1954 - 1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt
Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm thời chia làm hai miền
với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng xác định con đường phát triển
tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền
Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau; trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ
vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam,
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, có tác
dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do, “đánh cho Mỹ
98
cút, đánh cho nguỵ nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ đã huy
động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ
hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên
cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ hy sinh, được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã
lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và
chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm
1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc;
chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới
trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ
thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập,
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đánh giá tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chống Mỹ cứu
nước, Nghị quyết Đại hội IV của Đảng viết: Năm tháng đã trôi qua, nhưng
thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi
mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như mọt trong những trang chói lọi nhất,
một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng
và trí tuệ con người, đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của
thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lơn và có tính thời đại sâu
sắc".
4. Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt
Nam có những thuận lợi, song cũng không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền
kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả nặng nề do chiến tranh để
lại. Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài
tìm mọi cách phá hoại, bao vây, cấm vận, gây khó khăn cho cách mạng Việt
Nam. Trên thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn
biến phức tạp: chủ nghĩa xã hội gặp những khó khăn, lâm vào khủng hoảng, thoái
trào, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu.
Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
99
Chặng đường vẻ vang 90 năm qua của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu kỳ diệu. Tuy nhiên, trong lịch sử,
Đảng cũng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát
hiện ra những sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa
đúng đắn, kịp thời, kiên quyết. Đảng công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm
trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng ta được
nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân dao động và của cả dân tộc Việt Nam.
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện,
trưởng thành và đã xây dựng nên những truyền thống quý báu, thể hiện bản chất
tốt đẹp của Đảng. Đó là:
- Bản lĩnh chính trị vừng vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế…
Những truyền thống quý báu của Đảng là sự kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai câp công nhân quốc tế,
là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là kết qủa của quá trình vun
trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi củacác thế hệ đảng
viên của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện
tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta.
Khái quát lịch sử Đảng có thể khẳng định rằng: ngay từ khi vừa mới ra đời,
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã nắm bắt đúng xu thế phát
triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng
thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân.
Vì vậy, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những
bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách, dù hiểm nghèo, tưởng không
thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, đáp ứng
100
yêu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền cách mạng vượt lên.
Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chổ: Đảng đứng
vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, mà còn vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh của Đảng còn ở chổ Đảng đã không
ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí
tuệ của nhân loại.
Học tập, nghiên cứu lịch sử và truyền thống của Đảng để tự hào về Đảng
và góp phần giữ vững, kế thừa, phát huy những truyền thống đó. làm cho Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến dấu
của Đảng ngang tầm thời đại mới.
PHẦN HAI: LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN
I. NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TỈNH BÌNH THUẬN TIẾP THU ĐƢỜNG
LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, MỘT LÕNG ĐI THEO ĐẢNG
TRONG SUẤT QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Tỉnh Bình Thuận tiếp thu đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ
năm 1930, khi đồng chí Dương Chước, đảng viên của chi bộ Hòn Khói, Ninh Hòa
(tỉnh Khánh Hòa) đến làng Đại Nẫm (nay là xã Phong Nẫm, thành phố Phan
Thiết) và làng Phú Hội (nay là xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận Bắc) tuyên
truyền chủ nghĩa Mác-Lênin cho thanh niên trong 02 làng Đại Nẫm, Phú Hội. Sau
một thời gian xây dựng, đồng chí kết nạp một số đảng viên mới: Nguyễn Tỵ,
Phan Xích, Ngô Đức Tốn.
Đồng chí Ngô Đức Tốn, sau khi vào Đảng về làng Tam Tân tập hợp quần
chúng yêu nước thành lập tổ chức “Phản đế đồng minh Hội”. Từ những hạt nhân
cua “Phản đế đồng minh Hội”, 06 quần chúng tốt đã được kết nạp vào Đảng là:
Cao Có, Lê Chạy, Lê Thanh Lư, Hồ Vũ, Nguyễn Hữu Lợi, Nguyễn Gia Bát. Cuối
năm 1930, tại dốc Ông Bằng ở làng Tam Tân (nay là xã Tân Tiến, thị xã LaGi),
cuộc họp thành lập chi bộ được tiến hành, do đồng chí Ngô Đức Tốn làm Bí Thư.
Đây là chi bộ được thành lập đầu tiên ở tỉnh Bình Thuận.
Cùng thời gian trên, đồng chí Hồ Quang Cảnh, một đảng viên Cộng sản từ
Sài Gòn về móc nối với một Đảng viên người xứ Nghệ cũng từ Sài Gòn về xây
dựng phong trào cách mạng ở Bình Thuận. Sau một thời gian hoạt động dưới hình
thức tổ chức Nông Hội, năm 1931, các đồng chí Nguyễn Tương, Nguyễn Gia Tú,
Trần Hoành.. .được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
101
Những đảng viên được kết nạp những năm đầu Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là hạt nhân của việc hình thành, phát triển cơ sở Đảng, đảng viên ngày càng
lớn mạnh và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược tại Bình
Thuận. Tuy kẻ thù đàn áp tàn bạo, các đồng chí đảng viên và cơ sở đảng lần lượt
sa vào cảnh tù đày, phong trào cách mạng luôn gặp khó khăn và tổn thất, nhưng
phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ở Bình Thuận vẫn phát triển..
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, nhân dân Bình Thuận đã cùng nhân dân cả
nước giành chính quyền về tay nhân dân. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta lần thứ hai, Bình Thuận tiếp tục rơi vào tay thực dân Pháp. Khi Mỹ hất
chân Pháp xâm lược miềm Nam Việt Nam, nhân dân Bình Thuận tiếp tục cùng
nhân dân cả nước đánh Mỹ cứu nước, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Thuận đã
không quản hy sinh, gian khổ, nêu cao truyền thống “Tự lực, tự cường, chiến đấu
oanh liệt, thắng lợi vẻ vang”, viết nên những trang sử hào hùng cùa quê hương,
đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng bộ
và nhân dân các dân tộc tỉnh Bình Thuận bắt tay xâv dựng quê hương với vô vàn
khó khăn, thử thách, nhưng luôn một lòng tin tương vào sự lãnh đạo của Đảng,
luôn nêu cao truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết
một lòng, ra sức hàn gắn vểt thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cùng cảnước từng bước quá
độ lên chủ nghĩa xà hội đạt nhiều thành tựu quan trọng.
II. ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
QUA 13 LẦN ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ
Đầu tháng 6/1945, năm đảng viên từ nhà tù Buân Ma Thuật về nhóm họp
tại khu rừng cách trường cao đẳng thể thao Đông Dương 4km về phía nam, quyết
định thành lập Ban vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận, do đồng chí
Nguyễn Sắc Kim phụ trách chung. Sau khi giành chính quyền về tay nhân dân
vào ngày 24/8/1945, Xứ ủy Trung kỳ cử đồng chí Nguyễn Dân vào phụ trách Tỉnh
ủy lâm thời. Khi đồng chí Dân bị bệnh mất. Đồng chí Nguyễn Đức Dương được
chỉ định thay thế đồng chí Dân.
Tháng 4/1947, Hội nghị cán bộ Đảng tỉnh Bình Thuận tổ chức tại Triềng
(nay thuộc xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc), àn về công tác phát triển Đảng,
củng cố chính quyền, đoàn thể quần chúng, thống nhất lực lượng vũ trang, phát
triển kinh tế kháng chiến. Hội đã bầu Ban chấp hành gồm 9 đồng chí, trong đó có
3 đồng chí Thường vụ, do đồng chí Trần Quỳnh làm Bí thư.
102
Tháng 8/1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ I được tổ
chức tại căn cứ Cốc Chua (nay thuộc xã Hồng Phong, huyện Bắc Bình). Đại hội
đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 11 ủy viên chính thức và 01 ủy viên dự
khuyết. Đồng chí Nguyễn Diêu được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Đình Huề
làm phó Bí thư.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ II tổ chức vào tháng
8/1952 tại Triềng, căn cứ khu Lê Hồng Phong (nay thuộc xã Hàm Đức, huyện
Hàm Thuận Bắc). Đại hội đã bầu ban chấp hành đảng bộ tỉnh có 17 ủy viên, do
đồng chí Nguyễn Côn, Bí thư Ban Cán sự Cự Nam kiêm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí
Nguyễn Gia Tú làm phó Bí thư.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ III được tổ chức vào ngày
15/7/1970 tại căn cứ Salôn. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 19 ủy
viên, đồng chí Lê Thứ được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Qúy Đôn làm phó Bí
thư. Sau khi Bình Thuận được giải phóng, ngày 20/12/1975 Bộ Chính trị Ban chấp
hành trung ương Đảng (khóa III) ra Nghị quyết số 19 NQ/TW sát nhập 3 tỉnh Bình
Thuận, Bình Tuy và Ninh Thuận thành tỉnh Thuận Hải.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ I (Đại hội lần thứ IV của
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận) tiến hành từ ngày 26/02/1977 đến ngày 03/03/1977 tại thị
xã Phan Rang. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 39 đồng chí. Đồng chí
Lê Văn Hiền được bầu làm Bí thư và đồng chí Trần Dệ, Trần Ngọc Trác làm phó
Bí thư.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứII (Đại hội lần thứ V của
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận) diễn ra từ ngày 16 đến ngày 23/10/1979 tại thị xã Phan
Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 45 đồng chí, đồng chí Lê
Văn Hiền được bầu làm Bí thư và đồng chí Trần Đệ, TrầnNgọc Trác làm phó Bí thư.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ III (Đại hội lần thứ VI của
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận) diễn ra từ ngày 03/3 đến ngày 07/3/1983 tại thị xã
Phan Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 45 đồng chí, đồng chí
Lê Văn Hiền được bầu làm Bí thư và đồng chí Trần Đệ, TrầnNgọc Trác làm phó
Bí thư.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ IV (Đại hội lần thứ VII
cua Đảng bộ tỉnh Bình Thuận) diễn ra từ ngày 12/10 đến ngày 18/10/1986 tại thị
xã Phan Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 56 đồng chí, đồng
chíMãn Tiến Dũng được bầu làm Bí thư và đồng chí Nguyễn Trung Hậu, Lê
Triều Sơn làm phó Bí thư. Ngày 26/12/1991, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội
103
khóa VIII, tại kỳ họp thứ 10, tỉnh Thuận Hải phân chia thành hai tỉnh Ninh Thuận
và Bình Thuận.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận diễn ra từ ngày 29 đến
ngày 31/12/1992 tại thị xã Phan Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành có 38 ủy viên,
đồng chí Đinh Trung được bầu làm Bí thư và đồng chí Đặng Văn Hải làm phó Bí thư.
Đại hội lần thứ IX của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận diễn ra từ ngày 25 đến
ngày 27/4/1996 tại thị xã Phan Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành có 43 ủy viên,
đồng chí Đinh Trung được bầu làm Bí thư, đồng chí Đặng Văn Hải, Nguyễn
Quang Tưởng làm phó Bí thư.
Đại hội lần thứ X của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận diễn ra từ ngày 13 đến
ngày 16/02/2001 tại thành phố Phan Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành có 43 ủy
viên, đồng chí Nguyễn Ánh Minh được bầu làm Bí thư và đồng chí Huỳnh Văn Tí
làm phó Bí thư.
Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận diễn ra từ ngày 07/12 đến
ngày 09/12/2005 tại thành phố Phan Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành có 49 đồng
chí, đồng chí Huỳnh Văn Tí được bầu làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Tấn Thành và
Lê Tiến Phương làm phó Bí thư.
Đại hội lần thứ XII của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận diễn ra từ ngàv 27/9 đến
ngày 30/9/2010 tại thành phố Phan Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành có 53 đồng
chí, đồng chí Huỳnh Văn Tí được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng
và Lê Tiến Phương làm phó Bí thư.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận diễn ra từ ngày 12/10
dến ngày 15/10 2015 tại thành phố Phan Thiết. Đại hội bầu Ban chấp hành có 50
đồng chí,đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng được bầu làm Bí thư, Huỳnh Thanh Cảnh,
Nguyễn Ngọc Hai và Dương Văn An làm phó Bí thư./.
104
ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC
CÁN BỘ NỮ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
ThS. Huỳnh Thụy Minh Trí
(GVC-Khoa XDĐ - Trường Chính trị tỉnh)
Trong công cuộc đổi mới ở tỉnh Bình Thuận, hiện nay, đòi hỏi phải luôn
phát huy mọi tiềm năng, sức sáng tạo và sự tham gia chủ động, tích cực của các
tầng lớp nhân dân trong tỉnh, trong đó có các tầng lớp phụ nữ. Yêu cầu mới đòi
hỏi đội ngũ cán bộ nữ phải có đủ kiến thức, trình độ và năng lực về mọi mặt.
Nhận thức rõ điều đó, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận luôn coi trọng việc thực hiện
chính sách cán bộ nữ. Đặc biệt, sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 11-
NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, nhằm nâng cao số lượng và
chất lượng đội ngũ cán bộ nữ của tỉnh, ngày 14-8-2007, Ban Thường vụ Tỉnh ủy
xây dựng Chương trình hành động số 08-NQ/TU, về thực hiện Nghị quyết 11-
NQ/TW của Bộ Chính trị. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần
thứ XII (nhiệm kỳ 2010-2015) đã chỉ rõ: “Hết sức chú trọng đội ngũ cán bộ nữ,
cán bộ là người dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ trẻ nhằm đảm bảo tính kế thừa
trong đội ngũ các cấp, các ngành”20
. Tiếp đến, trong Văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2015-2020) đã khẳng định:
“Chú trọng đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ
trẻ nhằm đảm bảo tính kế thừa và tăng tỷ lệ cán bộ nữ tham gia các cấp ủy, chính
quyền các cấp”21
.
Được sự quan tâm của Đảng bộ, chính quyền các cấp, công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ nữ Bình Thuận đạt được một số kết quả tích cực như sau:
Một là, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền,
vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện, xây dựng gia đình hạnh phúc
Nhiều sở, ban, ngành và các cấp ủy đã chỉ đạo cho Ban Tuyên giáo phối
hợp Ban Dân vận, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp thường xuyên tổ chức các hoạt
động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị cho phụ nữ như:
20
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XII (nhiệm kỳ 2010-
2015), Công ty Cổ phần In và Bao bì Bình Thuận, BT, 2010, Tr94. 21
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2015-
2020), Công ty Cổ phần In và Bao bì Bình Thuận, BT, 2015, Tr120.
105
tổ chức học tập, quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước; giáo dục truyền thống, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ.
Đảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tập trung tuyên truyền sâu rộng đến
hộ gia đình hội viên, phụ nữ 8 tiêu chí Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5
không, 3 sạch”. gắn với thực hiện các mục tiêu Cuộc vận động“Toàn dân đoàn
kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” và phong trào thi đua “Chung sức,
chung lòng xây dựng nông thôn mới”. Và tổ chức Hội nghị biểu dương điển hình
tiên tiến trong thực hiện Cuộc vận động “xây dựng gia đình 5 không 3 sạch, tham
gia xây dựng nông thôn mới”, qua thực hiện Cuộc vận động có nhiều gương điển
hình tập thể, cá nhân có nhiều cách làm hay, sáng tạo được khen thưởng: năm
2017: 298 điển hình (68 tập thể, 230 cá nhân), năm 2018: 466 điển hình (48 tập
thể, 418 cá nhân), năm 2019: 454 điển hình (79 tập thể, 375 cá nhân).22
Qua đó,
hội viên, phụ nữ có sự chuyển biến về nhận thức trong việc giáo dục nuôi dạy con
trong gia đình không vi phạm pháp luật và mắc các tệ nạn xã hội, tự chủ trong
phát triển kinh tế gia đình, thực hiện đúng chính sách dân số, không sinh con thứ
3, hạn chế mất cân bằng giới tính khi sinh, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc.
Đến nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ tỉnh Bình
Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2016-2021, các cấp Hội tiếp tục triển khai Cuộc vận
động “Rèn luyện 4 phẩm chất phụ nữ Việt Nam: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm
đang”, vận động phụ nữ thực hiện thành lập 17 tổ phụ nữ rèn luyện phẩm
chất“Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”/255 chị, đến năm 2019, toàn tỉnh có
185 tổ/3.701 thành viên nòng cốt để thực hiện việc tuyên truyền tại cơ sở.
Ủy ban nhân dân các cấp ban hành Kế hoạch và cấp kinh phí thực hiện
Quyết định số 939/QĐ-TTg, ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Đề án“Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”. Công tác hỗ trợ
phụ nữ khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh được các sở, ngành liên quan quan tâm
thực hiện nghiêm túc. HLH Phụ nữ tỉnh tổ chức các hoạt động định hướng, hỗ trợ
phụ nữ khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh: chủ động sáng tạo trong công tác phối
hợp với Văn phòng Công nghiệp thương mại Việt Nam (VCCI chi nhánh Bình
Thuận), các sở ngành liên quan, CLB Nữ doanh nhân tỉnh hỗ trợ về kiến thức, kinh
nghiệm, nguồn vốn đầu tư ban đầu cho phụ nữ có ý chí, đam mê với ý tưởng khởi
22
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bình Thuận: Báo cáo Sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu
phụ nữ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2016-2021, ngày 21/7/2019, tr5-tr7
106
nghiệp, kinh doanh; Phối hợp với Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh xây dựng
chuyên mục “Phụ nữ Khởi nghiệp” được phát sóng 4 lần/tháng; Tập trung các giải
pháp thực hiện vượt chỉ tiêu hỗ trợ, giúp 427/100 phụ nữ khởi nghiệp23
, khởi sự kinh
doanh (vượt 427% chỉ tiêu).
Hai là, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm
cán bộ nữ có sự chuyển biến tích cực
Cán bộ nữ được quy hoạch các chức danh chủ chốt và tham gia lãnh đạo
chính trị các cấp ngày càng tăng, chiếm 38,91%; tỷ lệ cán bộ nữ tham gia các cấp
ủy nhiệm kỳ 2015 - 2020 bình quân 03 cấp đạt 21,4%; nữ đại biểu Quốc hội -
khóa XIV tại tỉnh Bình Thuận chiếm tỉ lệ 28,6%, (tăng 14,3% so với nhiệm kỳ
trước); nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016 – 2021 bình quân 3 cấp đạt
27,1%24
.
Thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư “về tiếp
tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới” HLH Phụ nữ tỉnh đã tham
mưu, giới thiệu Ban Thường vụ Tỉnh ủy quy hoạch cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
cấp sở, ngành, Mặt trận – đoàn thể tỉnh và huyện, thị xã, thành phố nhiệm kỳ
2020 – 2025: Cấp tỉnh: 60 đồng chí, cấp huyện 17 đồng chí25
. Đồng thời, tổ chức
Hội thảo “Cơ hội và thách thức cho phụ nữ tham gia cấp ủy và cơ quan dân cử”
nhằm chỉ ra những khó khăn, thách thức và đề ra những giải pháp cụ thể, thiết
thực để thực hiện tốt công tác cán bộ nữ và bình đẳng giới.
Cán bộ nữ được qui hoạch vào các chức danh lãnh đạo tăng cả số lượng,
cơ cấu và chức danh quy hoạch. Thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cấp ủy, lãnh đạo các ngành gắn với việc rà
soát quy hoạch cán bộ giai đoạn A2, bổ sung đội ngũ cán bộ nữ vào quy hoạch
các chức danh đảm bảo các yêu cầu.
Số cán bộ nữ lãnh đạo thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý 51/419
đồng chí, chiếm tỷ lệ 12,17%; 223/603 cơ quan, đơn vị có cán bộ chủ chốt là nữ,
đạt tỷ lệ 36,98%, cán bộ nữ tham gia cấp ủy, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp đều có tăng hơn so với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ nữ được kết nạp Đảng đạt tỉ lệ
45,34%, nâng tỉ lệ đảng viên là nữ trong toàn tỉnh lên 35,91%. Nhằm tạo nguồn 23
TLDD, tr9 24
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bình Thuận: Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu phụ nữ tỉnh Bình Thuận
lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2016-2021, tr4.
25. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bình Thuận: Báo cáo Sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu
phụ nữ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2016-2021, ngày 21/7/2019, tr12
107
cán bộ, các cấp Hội phụ nữ đã chủ động phát hiện, giới thiệu, đề xuất với cấp ủy
quy hoạch, đào tạo 61 cán bộ hội phụ nữ (cấp tỉnh 05 đồng chí, huyện 11 đồng chí,
cơ sở 45 đồng chí). Toàn tỉnh có 15 cán bộ Hội (tỉnh 5 chị, huyện 10 chị) được luân
chuyển, điều động bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo cơ quan Đảng, chính quyền,
Mặt trận - đoàn thể cấp huyện và tỉnh26
.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ
Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”, Hội LHPN các cấp đã phối hợp với Trường Chính trị tỉnh, Trung tâm
bồi dưỡng chính trị huyện tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
nghiệp vụ công tác Hội, lý luận chính trị cho cán bộ Hội từ Ban Chấp hành đến tổ
phụ nữ: tính đến năm 2019, cấp tỉnh 3.lớp/318 người; cấp huyện: 38 lớp/3.289
người. Cử cán bộ Hội cấp tỉnh và huyện tham gia đào tạo sau đại học, đại học các
chuyên ngành, lý luận chính trị, quản lý nhà nước.... Nhìn chung, đội ngũ cán bộ
Hội từ tỉnh đến cơ sở cơ bản đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, năng lực công tác
và phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác Hội trong giai đoạn
mới27
.
Ba là, về công tác xây dựng, củng cố bộ máy tổ chức và cán bộ Hội phụ
nữ được quan tâm
Nhằm tăng cường củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của
các cấp Hội ở cơ sở, Hội LHPN tỉnh ban hành Kế hoạch số 122/KH-BTV, ngày
19/3/2018 về thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức Hội
LHPN các cấp tỉnh Bình Thuận đến năm 2020; Kế hoạch số 126/KH-BTV, ngày
11/4/2018 về thực hiện khâu đột phá “Nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động
Hội cơ sở, đa dạng hóa các hình thức tập hợp phụ nữ; phát huy quyền làm chủ của
hội viên phụ nữ” và thực hiện tốt phương châm “Nơi nào có phụ nữ, nơi đó có
hoạt động Hội”, hướng về cơ sở, nắm chắc địa bàn, thực hiện quy định dự sinh
hoạt định kỳ hàng quý (cấp tỉnh dự sinh hoạt tại 25 chi, tổ Hội; cấp huyện dự sinh
hoạt tại 970 chi, tổ; cấp xã dự sinh hoạt tại 4.128 chi, tổ). Các cấp Hội đã tập
trung giúp 16 xã, phường và 8 chi hội xếp loại khá đến nay đạt vững mạnh.
Cùng với việc quan tâm xây dựng tổ chức Hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
luôn coi trọng công tác phát triển hội viên, kết hợp giữa vận động thuyết phục
26
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bình Thuận: Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu phụ nữ tỉnh Bình Thuận
lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2016-2021, tr8.
27
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bình Thuận: Báo cáo Sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu
phụ nữ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2016-2021, ngày 21/7/2019, tr12.
108
với những yêu cầu chính đáng của phụ nữ, phát huy vai trò tích cực của lực lượng
hội viên nòng cốt, cốt cán chính trị. Thực hiện rà soát hội viên theo Hướng dẫn số
24/HD-ĐCT, ngày 14/6/2018 về một số vấn đề công tác quản lý hội viên nhiệm
kỳ 2017 - 2022 của Trung ương Hội, đến cuối năm 2019, toàn tỉnh có
237.219/454.520 phụ nữ chung, đạt 52%; trong năm phát triển được 4.934 hội
viên, xây dựng 4.467 hội viên cốt cán phong trào và 53 cốt cán chính trị đặc thù
có chất lượng, kịp thời phát hiện, báo cáo với cấp ủy, chính quyền và Hội cấp trên
tình hình tư tưởng, vấn đề liên quan đến phụ nữ, trẻ em để giải quyết kịp thời đã
góp phần phát huy vai trò của tổ chức Hội trong tham gia bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho phụ nữ, trẻ em28
.
Trong nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ tỉnh
Bình Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2016-2021, HLH Phụ nữ tỉnh đã có nhiều giải
pháp, định hướng, hỗ trợ hướng dẫn cơ sở tham gia xây dựng Đảng, chính quyền,
tham mưu đề xuất, thực hiện giám sát và phản biện xã hội như: tổ chức tọa đàm
“Công tác giám sát và phản biện xã hội của Hội LHPN các cấp, thực trạng và giải
pháp”; Tổ chức đối thoại về thực hiện công tác bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo
hiểm y tế theo hộ gia đình; cấp huyện tổ chức Diễn đàn “Quyết tâm thực hiện địa
phương an toàn cho phụ nữ và trẻ em”, đối thoại chính sách bảo hiểm y tế. Hoạt
động giám sát được thực hiện đúng quy định về nội dung, hình thức giám sát, từ đó
công tác giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền đạt được kết quả nổi bật, vai trò, chức năng đại diện của Hội được
nâng lên.
Ngoài việc luôn được sự quan tâm, lãnh, chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ,
chính quyền, cấp ủy các cấp, chính bản thân chị em phụ nữ luôn biết vượt qua
những khó khăn, không ngừng trau dồi kiến thức, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phát
huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam; nhiệt tình, say mê và có trách
nhiệm với công việc. Nhiều cá nhân và tập thể lao động nữ trong tỉnh được nhận
các danh hiệu cao quí như: thầy thuốc ưu tú, nhà giáo ưu tú, nghệ sĩ nhân dân,
nghệ nhân… Có thể nói, dù ở đâu, trong lĩnh vực hoạt động nào, phụ nữ Bình
Thuận cũng làm việc, cống hiến hết sức mình cho xã hội.
28 Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bình Thuận: Báo cáo Tổng kết công tác Hội và phong trào phụ nữ năm
2019, tr8.
109
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ ở Bình Thuận còn một số hạn chế:
Thứ nhất, chủ trương, chính sách, phương pháp công tác cán bộ nữ của tỉnh
còn thiếu cụ thể, sát hợp với từng đối tượng, khu vực, vùng, miền, chưa đáp ứng
kịp thời yêu cầu mới. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác cán bộ nữ chậm đi vào cuộc sống.
Thứ hai, chuyển biến trong công tác cán bộ nữ ở các cấp, các ngành chưa
đồng bộ; không ít nơi còn ngại tuyển dụng công chức, lao động nữ. Tỷ lệ cán bộ
nữ được bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cấp ủy đảng, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân; các sở ban ngành còn thấp. Một số cấp ủy đảng, các
sở, ban ngành chưa thật sự nhận thức đầy đủ về khả năng, vai trò, vị trí công tác
cán bộ nữ. Công tác đánh giá cán bộ nữ còn nhiều khắt khe, định kiến, cầu toàn;
chưa thấy được hết những đặc điểm, hoàn cảnh của cán bộ nữ, chưa đánh giá
đúng khả năng lãnh đạo, quản lý của chị em, ít chú trọng sử dụng, đề bạt, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nữ. Còn nhiều cán bộ nữ được đào tạo có trình độ, năng lực nhưng
chưa được được quan tâm, bố trí, sử dụng.
Thứ ba, một số cán bộ tại các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, đặc biệt là
nữ dân tộc thiếu nỗ lực vươn lên, còn tự ti, an phận, chưa chủ động vượt khó
vươn lên. Do vậy chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển tại địa phương.
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nữ, các cấp ủy Đảng, chính
quyền và Hội Phụ nữ các cấp tỉnh Bình Thuận cần chú trọng những vấn đề sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của phụ nữ và quán
triệt, thực hiện đúng chính sách cán bộ nữ của Đảng. Cần nhận thức sâu sắc, việc
nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là
yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ. Trong
đánh giá, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ cần tránh những biểu hiện lệch lạc, coi
thường phụ nữ, khắc khe, hẹp hòi, định kiến đối với cán bộ nữ. Phải thực sự
thông cảm, giúp đỡ, khích lệ cán bộ nữ phấn đấu vươn lên; đồng thời, bản thân
cán bộ nữ cần chủ động khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu để tự khẳng định
mình.
Thứ hai, chú trọng xây dựng, thực hiện quy hoạch cán bộ nữ trong quy
hoạch tổng thể cán bộ của Đảng, nhằm bảo đảm nguồn cán bộ nữ. Quy hoạch tỷ
lệ nữ ngay từ khâu chiêu sinh vào các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính
trị, quản lý hành chính nhà nước. Các cấp uỷ cần thống kê, phân tích tình hình
cán bộ nữ một cách toàn diện. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn cán bộ nữ, các cấp
110
ủy Đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng quy hoạch cán bộ nữ với tỷ lệ thích
đáng phù hợp từng cấp, từng ngành, địa phương. Đặc biệt, khi lãnh đạo, chỉ đạo
bầu cử cấp ủy, Hội đồng nhân dân và Ban chấp hành đoàn thể các cấp, lãnh đạo
cấp trên kịp thời phát hiện những cán bộ nữ có khả năng đáp ứng được nhiệm vụ
và quy định một tỷ lệ thích đáng dành cho cán bộ nữ. Công tác quy hoạch cần
triển khai đồng bộ, dân chủ, chặt chẽ, đúng nguyên tắc; ưu tiên những chuyên
ngành, lĩnh vực, vùng, miền mà ở đó cán bộ nữ còn quá thiếu. Trong việc đánh
giá, quy hoạch và sử dụng cán bộ nữ, cần căn cứ vào tiêu chuẩn, hiệu quả công
việc, xem xét về khả năng và triển vọng của chị em.
Ba là, đẩy mạnh công tác tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng
đúng cán bộ nữ. Công tác tạo nguồn cán bộ nữ cần đặt trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực chung của các cấp uỷ, chính quyền. Ưu tiên và quan tâm tuyển
dụng cán bộ nữ, lao động nữ có trình độ đại học, trên đại học, nhất là những
chuyên ngành, lĩnh vực phụ nữ chiếm số đông, nâng cao tỷ lệ đảng viên là nữ, có
kế hoạch bố trí, phân công công tác để họ được phấn đấu, rèn luyện và trưởng
thành. Chú ý lựa chọn, bồi dưỡng những nhân tố tích cực, có triển vọng để tạo
nguồn cho những vị trí lãnh đạo cao hơn trong đội ngũ cán bộ nữ đương chức ở
các cấp. Việc sử dụng, bổ nhiệm cán bộ nữ phải trên cơ sở quy hoạch đào tạo, từng
bước giao nhiệm vụ, công việc từ thấp đến cao để rèn luyện, thử thách trong thực tế.
Bốn là, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện chính sách cán bộ nữ phải hợp lý,
toàn diện, thống nhất nhằm tạo điều kiện xây dựng đội ngũ cán bộ nữ đông về số
lượng, mạnh về chất lượng. Đảng bộ tỉnh cần bổ sung những chính sách, quy định
phù hợp với phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng như: chính sách bố trí, sữ
dụng cán bộ, nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao địa
vị xã hội và quyền bình đẳng của phụ nữ; đặc biệt chính sách đối với cán bộ nữ ở
nông thôn và miền núi. Bổ sung chính sách ưu đãi đối với cán bộ nữ trong việc đi
học, đào tạo, bồi dưỡng, tiếp cận thông tin; có chính sách trợ cấp cho các cán bộ
nữ trong thời gian tham gia các khóa đào tạo dài hạn, cán bộ nữ đi học có con nhỏ
dưới 36 tháng tuổi; xây dựng chính sách hỗ trợ và khuyến khích nữ tài năng trẻ
trên mọi lĩnh vực và chính sách thu hút nữ sinh viên mới tốt nghiệp về công tác tại địa
phương.
Năm là, quan tâm kiện toàn Hội Liên hiệp phụ nữ. Tập trung, xây dựng tổ
chức các cấp hội ngày càng vững mạnh. Đặc biệt, các cấp hội đều hướng về cơ
sở, tập trung vào địa bàn vùng sâu, vùng xa, phụ nữ dân tộc thiểu số, tôn giáo,
phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn. Các cấp hội cũng cần chú ý đến công tác đào tạo,
111
bồi dưỡng cán bộ hội. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải thiết thực từ cơ sở. Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh phải không ngừng đổi mới và đa dạng các hình thức hoạt
động, chú trọng phát triển về cả chiều rộng và bề sâu. Ngoài ra, các cấp hội cần
chú trọng công tác vận động, giáo dục và tuyên truyền để cán bộ nữ tham gia
đóng góp nhiều hơn nữa vào các hoạt động xã hội, gia đình; tích cực đẩy mạnh
phong trào thi đua của phụ nữ, gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa
XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Chính sách cán bộ nữ, công tác phụ nữ là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Do vậy, công tác cán bộ nữ phải được xác định là trách nhiệm
của toàn Đảng, của các cấp, các ngành, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng
đầu và trách nhiệm của tổ chức Đảng các cấp từ tỉnh đến cơ sở nhằm nâng cao vị
thế, vai trò của phụ nữ, tạo điều kiện để các tầng lớp phụ nữ đóng góp tích cực
vào sự phát triển chung của xã hội, góp phần thúc đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Bình Thuận sớm trở thành một tỉnh giàu
mạnh, văn minh./.
112
GIỮ VỮNG VÀ TĂNG CƢỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH BÌNH THUẬN ĐỐI VỚI LỰC LƢỢNG VŨ TRANG TỈNH
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn
luyện; là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Với sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03-02-1930), lịch sử Việt Nam
bước vào thời kỳ mới - thời kỳ Đảng Cộng sản trực tiếp lãnh đạo nhân dân tiến hành
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ở Bình Thuận, các tổ chức cộng sản hình thành sớm và nhanh chóng phát
huy vai trò lãnh đạo trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc; lực lượng vũ
trang tỉnh Bình Thuận ra đời trong những ngày đầu thắng lợi của cách mạng
tháng Tám năm 1945. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Ban cán sự Đảng
Trung Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền, Tỉnh ủy Bình Thuận và sự
nuôi dưỡng đùm bọc, che chở của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, lực lượng vũ
trang tỉnh Bình Thuận đã vượt qua những hy sinh, khó khăn, gian khó, chiến đấu
và trưởng thành, lập nên những chiến công xuất sắc, xây dựng nên truyền thống
“Tự lực tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang” của quân và dân tỉnh
nhà, góp phần cùng quân và dân cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước và lấy ngày 25-8 là ngày truyền thống hàng năm.
Trải qua hơn 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, luôn xứng đáng
là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà
nước và Nhân dân; xây đắp nên bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của
“Bộ đội Cụ Hồ”. Cội nguồn sức mạnh của sự lớn mạnh, trưởng thành và chiến
thắng vẻ vang của lực lượng vũ trang bắt nguồn từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt
của Đảng, từ bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc.
Thực tiễn hơn 75 năm qua, trong thời kỳ chiến tranh giải phóng (1945-
1975), các đơn vị vũ trang ở tỉnh lần lượt ra đời. Do tính chất phức tạp ở các địa
phương trong giai đoạn đầu kháng chiến nên chưa có hệ thống tổ chức Đảng
trong lực lượng vũ trang. Mặc dù vậy, đại đa số các đơn vị đều hoạt động chiến
đấu và công tác dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng địa phương hoặc một số đảng
viên có uy tín trong các ban chỉ huy; về sau, các tổ chức đảng trong lực lượng vũ
trang tỉnh được kiện toàn, thành lập Đảng ủy đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và
toàn diện của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo của khu ủy cực Nam Trung Bộ về mặt quân sự;
113
tiến hành lãnh đạo bộ đội và dân quân du kích kiên trì bám trụ, phục hồi và phát
triển lực lượng, đánh địch phản kích, chủ động phối hợp tiến công và nổi dậy giải
phóng từng địa phương, tạo thế và lực cùng các hướng góp phần giải phóng hoàn
toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2020); dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy, Đảng bộ Quân sự tỉnh vừa kiện toàn về mặt tổ chức, vừa lãnh đạo lực
lượng vũ trang làm nhiệm vụ tiếp quản, quân quản, truy quét tàn quân địch, bảo
vệ chính quyền và thành quả cách mạng, tổng kết chiến tranh, tham gia lao động
sản xuất phát triển kinh tế. Lãnh đạo thực hiện nghĩa vụ quốc tế, tổ chức huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu, vừa trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần
đánh bại các cuộc tiến công xâm lấn biên giới của tập đoàn Khmer đỏ phản động,
góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Sau ngày tách khỏi tổ
chức hành chính tỉnh Thuận Hải, Đảng bộ Quân sự tỉnh Bình Thuận đã tham mưu
Tỉnh ủy sắp xếp lại lực lượng, thực hiện công tác cán bộ, chính sách và hậu
phương quân đội; xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, xây dựng lực lượng
vũ trang theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời tham mưu cho Đảng bộ
tỉnh và tổ chức lãnh đạo lực lượng vũ trang thực hiện công tác quân sự, quốc
phòng địa phương, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, đấu tranh nhân dân, tổ
chức tốt việc phối hợp các lực lượng thực hiện Nghị định 03/2019/NĐ-CP (thay
thế Nghị định 77/2010/NĐ-CP), Nghị định 133/2015/NĐ-CP của Chính phủ, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, làm thất bại âm mưu
“diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Suốt chiều dài lịch sử, từ khi có Đảng lãnh đạo, lực lượng vũ trang tỉnh
Bình Thuận luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, mà thường xuyên,
trực tiếp là sự lãnh đạo của của Đảng bộ tỉnh; đã chủ động tham mưu cho cấp ủy
chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng địa phương; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng
thủ vững chắc. Lực lượng vũ trang tỉnh đã luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, tích
cực huấn luyện, diễn tập, nắm chắc tình hình, góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt công tác dân vận, công tác chính sách; tích
cực tham gia xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới…Vì vậy, bất luận
trong điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo.
Xem nhẹ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội sẽ làm cho Quân
đội mất phương hướng chính trị, xa rời bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, suy yếu, mất sức chiến đấu, v.v.
Kính thưa toàn thể các đồng chí!
114
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức
tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định; chiến tranh cục bộ, hoạt
động khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển,
đảo diễn ra gay gắt. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển của cuộc
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ đến các quốc gia trên
nhiều phương diện; thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng; các nước lớn
điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế
lẫn nhau. Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà
chúng ta giành được sau gần 35 năm đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, đất nước ta đang đứng trước những khó
khăn, thách thức không nhỏ. Các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện
“diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi
chính trị hóa” Quân đội bằng các thủ đoạn vô cùng tinh vi, nham hiểm. Sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đặt ra những yêu cầu
nhiệm vụ mới, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc đang đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.
Hội thảo “Đảng bộ tỉnh Bình Thuận - 90 năm hình thành và phát triển”
hôm nay, là điều kiện để mỗi cán bộ, đảng viên tự hào về truyền thống vẻ vang
của Đảng và thấy rõ trách nhiệm của mình hơn trong công tác xây dựng Đảng nói
chung, xây dựng Đảng bộ Quân sự tỉnh nói riêng nhằm củng cố, tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với LLVT.
Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, vấn đề có ý nghĩa quyết
định là phải luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Lực lượng
vũ trang, cụ thể là tập trung thực hiện tốt những nội dung, giải pháp cơ bản sau:
Một là, phải thường xuyên quán triệt đầy đủ, chính xác và kịp thời sự lãnh
đạo của Đảng ủy cấp trên trong từng thời kỳ lịch sử, đặc biệt trong những thời
điểm có sự thay đổi về tổ chức và nhiệm vụ; bảo đảm cho Quân đội luôn tuyệt đối
trung thành với Đảng Cộng sản bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân
dân, chiến đấu hy sinh quên mình vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là yêu cầu khách quan, nhân tố có ý nghĩa quyết định sự tồn tại, phát triển,
nâng cao sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội.
Hai là, xây dựng Đảng bộ Quân sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng vững chắc
và xuyên suốt mọi lúc, mọi nơi. Chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Tập trung quán triệt, triển khai thực hiện đồng bộ,
115
có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) và Chỉ thị 855-
CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương gắn với thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII).
Ba là, đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả tiến hành công tác đảng, công
tác chính trị của cấp ủy đảng, cán bộ chủ trì và cơ quan chính trị các cấp. Cấp ủy,
cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp cần chủ động nghiên cứu nắm vững chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của
Quân đội và những tác động của tình hình thế giới, khu vực; bám sát tình hình
thực tiễn của đất nước, của Quân đội và từng cơ quan, đơn vị; thường xuyên đổi
mới nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị.
Bốn là, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, nhất là trước, trong và sau
Đại hội Đảng các cấp. Thường xuyên quản lý, nắm chắc và giải quyết tốt tư tưởng
của bộ đội, chú trọng nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, sức “đề kháng”, khả
năng “miễn dịch” của cán bộ, chiến sĩ trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa
bình”, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa; kịp thời phê phán các biểu hiện hoài nghi, dao động, mơ hồ, mất cảnh giác.
Chủ động phổ biến thông tin tích cực, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ
trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới,
vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp công tác tư tưởng, tổ chức,
chính sách; đồng thời, chủ động phối hợp với các cấp, các ngành, các tổ chức, các
lực lượng trong và ngoài Quân đội tạo thành sức mạnh tổng hợp kiên quyết, kiên
trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá Đảng, Nhà
nước và Quân đội của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị góp phần xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Thưa toàn thể các đồng chí !
Nhân dịp năm mới Canh Tý-2020, thay mặt Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh, tôi
kính chúc các đồng chí lãnh đạo tỉnh, các đồng chí tham dự hội thảo mạnh khỏe,
hạnh phúc, năm mới nhiều thành công mới.
Xin cảm ơn các đồng chí!.
116
KẾ THỪA TƢ DUY ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẢNG
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở TỈNH BÌNH THUẬN
Dụng Văn Duy
(Phó Hiệu trưởng - Trường Chính tỉnh)
Thời kỳ mới ngày càng đòi hỏi phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn
về mọi mặt, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm. Để tạo bước đột phá
mới cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy nhằm tạo ra không gian mới, động lực
mới cho sự phát triển về kinh tế - xã hội ở nước ta và địa phương.
I. Thành công về tƣ duy đổi mới kinh tế của Đảng
Có thể nhận thấy rằng, Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng đã khởi
xướng đường lối đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế. Tư duy đổi mới của
Đại hội đã đi vào thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu cầu và đòi
hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố quyết định tạo nên những
thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước, mà thành tựu nổi bật là nước ta
đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội vào cuối những năm 80, đầu những
năm 90 của thế kỷ XX, và hiện đã trở thành nước có thu nhập trung bình khá,
đang trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức.
Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là những
nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần
thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi
ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư duy đổi mới
về kinh tế từ Đại hội VI của Đảng tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ
phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo
tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở các Đại hội tiếp theo của Đảng.
Thành công của sự nghiệp đổi mới thể chế kinh tế ở nước ta trong những
năm qua cũng bắt đầu từ sự đột phá năng động của cá nhân, tổ chức, và địa
phương. Tuy nhiên, sự năng động và đột phá của cá nhân và địa phương trong
giai đoạn mới của công cuộc đổi mới và cải cách hiện nay khó khăn và thách thức
hơn nhiều, vì nó không chỉ đòi hỏi sự dũng cảm trong nỗ lực cởi trói mà còn đòi
hỏi kết tụ được tinh hoa, với tầm nhìn, hoài bão, và khả năng tìm kiếm trong hoạt
động thực tiễn. Mỗi địa phương cần năng động và tích cực cho công cuộc đổi
117
mới, khởi đầu bằng nỗ lực đổi mới tư duy, trên cơ sở đó, đóng góp những sáng
kiến và sinh lực mới cho sự nghiệp phát triển chung.
II. Chặng đƣờng phát triển kinh tế của tỉnh Bình Thuận
Sau hơn 28 năm tái lập từ tỉnh Thuận Hải (cũ), Bình Thuận đã vươn lên
thành một tỉnh có hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ, thu nhập và
đời sống của người dân trong tỉnh từng bước được cải thiện. Đó chính là nhờ vào
tư duy đổi mới kinh tế và tầm nhìn đúng đắn của các thế hệ lãnh đạo Tỉnh ủy,
UBND tỉnh Bình Thuận qua các thời kỳ trong vấn đề phát triển kinh tế.
Cần phải khẳng định rằng, sau 28 năm tái lập tỉnh, Đảng bộ, Chính quyền
và nhân dân tỉnh Bình Thuận đã nhanh chóng vượt qua muôn vàn khó khăn, thử
thách để giành được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Từ
một tỉnh nghèo, Bình Thuận đã từng bước vượt khó đi lên, đẩy lùi đói nghèo, lạc
hậu và đạt được những kết quả nổi bật (tại Hội thảo này, xin phép được nhìn nhận
từ khía cạnh kinh tế chính trị, dưới góc độ kinh tế, thông qua số liệu năm 1993 và
5 năm 2015 - 2020, để minh chứng).
Thứ nhất, về tốc độ tăng trƣởng kinh tế
Trong hơn 28 năm qua (1992 - 2020), tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình
Thuận, tuy có sự dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình cả nước
và khu vực miền Trung (sau này về miền Đông Nam bộ) với mức tăng bình quân
cả thời kỳ. Năm 1993, tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh ta đạt 13,67%/năm (tính
theo phương pháp cũ), thì đến giai đoạn 2010 - 2020 là 8,04%/năm, trong đó
năm 2019 đạt 11,09% (từ 2010 trở đi tính theo phương pháp mới - có phụ lục
kèm).
Như vậy, Nhìn chung, tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận đạt mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước, tuy nhiên năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh các sản phẩm chủ yếu của tỉnh vẫn còn thấp, nguồn lực
đầu tư phát triển còn hạn chế; về nông nghiệp thì tình hình tái cơ cấu ngành Nông
nghiệp còn chậm, việc ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa còn nhiều hạn
chế nên chưa thu hút được nhiều dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, dẫn
đến tốc độ tăng trong giá trị tăng thêm gần như không thay đổi.
Thứ hai, về Huy động nhiều nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng thiết yếu khá đồng bộ, phục vụ yêu cầu phát triển
Giai đoạn 2010 - 2020, để tạo nguồn lực tài chính cho phát triển, tỉnh Bình
Thuận đã khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức chính trị, xã hội, các thành phần
118
kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế. Kết quả là tổng vốn đầu tư toàn xã hội
của tỉnh ngày càng tăng (chỉ đề cập số liệu 2015 - 2020).
Từ khi Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 04-NQ/TU của Tỉnh
ủy (khóa XIII) về đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đến năm 2020; từ đó, đã đạt được nhiều kết quả: Đã huy động
vốn đầu tư toàn xã hội đạt 61.180 tỷ đồng, chiếm 35,47% GRDP (bao gồm: Nguồn
đầu tư của Bộ ngành và địa phương là 11.662 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 19%), vốn tín
dụng 488 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 0,8%), vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 44.897 tỷ
đồng (chiếm tỷ lệ 73,4%), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 4.133 tỷ đồng (chiếm tỷ
lệ 6,8%); ước 5 năm 2016 - 2020, tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội huy động đạt
132.180 tỷ đồng, chiếm 38,87% GRDP (năm 2017: 14.975 tỷ đồng, chiếm
74,78%; năm 2018: 18.752 tỷ đồng, chiếm 78,13%; năm 2019: 29.140 tỷ đồng,
chiếm khoảng 88,3%; năm 2020 ƣớc 32.800 tỷ đồng, chiếm khoảng 88,6%)..
Tiếp tục thi công, khởi công mới nhiều công trình thủy lợi, các công trình đê, kè bảo
vệ bờ biển, các khu tránh trú bão cho tàu cá. Đầu tư mới, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa
một số tuyến đường quan trọng; Cảng quốc tế Vĩnh Tân, Cảng vận tải Phan Thiết
Tháng 4/2019, Cảng Quốc tế Vĩnh Tân đã khánh thành Bến cảng 50.000 DWT,
góp phần nâng cao năng lực giao thông vận tải, giảm chi phí vận chuyển thúc đẩy
phát triển kinh tế biển, tạo động lực thu hút đầu tư và tạo thêm nhiều việc làm cho
tỉnh Bình Thuận. Phối hợp với Bộ Giao thông vận tải thi công hoàn thành dự án mở
rộng, nâng cấp Quốc lộ 1A đoạn qua địa bàn tỉnh.
Công tác hợp tác đối ngoại, xúc tiến đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư
được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách.
Tỉnh đã tổ chức 02 Hội nghị Xúc tiến đầu tư (năm 2017 và năm 2019), bước đầu
đã thu hút một số dự án du lịch quy mô lớn đăng ký đầu tư vào khu vực Hòa
Thắng - Hòa Phú, khu vực hai bên đường ĐT.706B và các dự án điện mặt trời,
nông nghiệp công nghệ cao. Trong 4 năm (2016 - 2019), toàn tỉnh đã thu hút 436
dự án với tổng vốn đầu tư 130.259 tỷ đồng. Lũy kế đến cuối năm 2019, toàn tỉnh
có 1.545 dự án với tổng vốn đầu tư 315.460 tỷ đồng. Việc rà soát, tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp tiếp tục được quan tâm, đã có thêm 71 dự án
khởi công xây dựng và 185 dự án đi vào hoạt động.
Công tác rà soát quy hoạch tổng thể ngành, lĩnh vực, địa phương được chỉ
đạo triển khai thực hiện tốt. Quy hoạch của tỉnh đã có sự gắn kết trong mối liên
hệ với quy hoạch vùng, ngành, khai thác được các ưu thế, thế mạnh và tiềm năng
119
của tỉnh. Các quy hoạch được phê duyệt đã đáp ứng được nhu cầu quản lý của nhà
nước về các hoạt động kinh tế - xã hội và đầu tư phát triển 5 năm và hàng năm.
Thứ ba,Việc triển khai các giải pháp đổi mới mô hình tăng trƣởng gắn
với cơ cấu lại nền kinh tế; rà soát, bổ sung và ban hành các chính sách để
khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh, tập trung phát triển mạnh kinh tế biển,
du lịch và năng lƣợng.
Trên cơ sở Chương trình hành động số 16-NQ/TU, ngày 23/3/2017 của
Tỉnh ủy triển khai thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 01/11/2016 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XII) về một số chủ trương, chính sách lớn
nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số
1553/KH-UBND ngày 28/4/2017 để triển khai thực hiện, lồng ghép các nội dung,
nhiệm vụ và giải pháp tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, xây dựng
các kịch bản tăng trưởng, thu hút vốn để đầu tư kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI),… trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các giải
pháp chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh hàng năm, đã đạt được những kết quả:
Quy mô tổng giá trị sản phẩm nội tỉnh (GRDP theo giá hiện hành) của tỉnh
tăng liên tục qua các năm (từ 45.433 tỷ đồng năm 2015 lên 84.044,5 tỷ đồng năm
2020); kinh tế tăng trưởng khá (trong 5 năm 2016 - 2020, GRDP tăng bình quân
hàng năm là 8,30%, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (tăng 6,86%/năm); chất lượng
tăng trưởng, năng suất lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp được cải thiện
(Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân hàng năm giai đoạn 2016 - 2018 là
5,98% (thực hiện giai đoạn 2011 - 2015 tăng 4,93%/năm; mục tiêu giai đoạn
2016 -2020 tăng 5,5%/năm). Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn 2016 - 2018 là 32,48%
(thực hiện giai đoạn 2011 - 2015 là 29,6%; mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020
chiếm khoảng 30 -35%/năm); cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng (tỷ trọng
nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong giá trị tăng thêm (VA) tăng
từ 65,48% (năm 2015) lên 67,09% (năm 2018); nông - lâm - thủy sản giảm từ
38,33% (năm 2015) xuống còn 28,72% (năm 2020). Cơ cấu lại các ngành kinh
tế tiếp tục được đẩy mạnh; các ngành kinh tế phát triển đồng đều, một số tiềm
năng lợi thế của tỉnh tận dụng và khai thác ngày càng tốt hơn.
120
Sản xuất công nghiệp phát triển khá Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình
quân hàng năm giai đoạn 2016 - 2020 tăng 12,57%.
Tái cơ cấu ngành dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập
trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, đặc biệt là sản
phẩm có năng lực cạnh tranh được quan tâm. Các ngành dịch vụ du lịch tiếp tục
phát triển ổn định, đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng tăng cao; số lượng du
khách, doanh thu từ hoạt động du lịch tăng ổn định.
Các nguồn lực cho đầu tư phát triển tiếp tục được huy động nhiều hơn, hệ
thống kết cấu hạ tầng thiết yếu được đẩy mạnh đầu tư góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế địa phương. Công tác xúc tiến đầu tư, rà soát tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp và thu hút đầu tư đạt kết quả khá, huy động ngày
càng nhiều hơn. Nguồn lực cho đầu tư phát triển, số dự án được cấp phép đầu tư
đi vào hoạt động tăng khá nhanh với quy mô ngày càng lớn.
III. Đề xuất nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế trong thời gian tới
Để phát triển kinh tế của tỉnh nhanh và bền vững trong giai đoạn tới, rút
ngắn khoảng cách chênh lệch so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, cần phải
có những bước đi riêng, khác biệt, có tính cạnh tranh cao, với tầm nhìn chiến lược
và cách tiếp cận theo một tư duy mới, đón nhận những giá trị mới do quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mang lại nhằm thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu
nêu trên đòi hỏi một sự nỗ lực lớn và quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống
chính trị với nhiều nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, trong đó theo cá nhân cần chú
trọng tập trung triển khai hiệu quả nhóm nhiệm vụ và giải pháp có tính đột phá
sau đây:
Thứ nhất, Triển khai cụ thể, quyết liệt, bài bản và đồng bộ các nhiệm vụ từ
khâu chỉ đạo xây dựng quy hoạch chi tiết đến tổ chức thực hiện ở các cấp, các
ngành, các sản phẩm theo đúng lộ trình Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tập trung đầu tư
nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo kết nối khai thác lợi thế của vùng để
phát huy tốt nhất lợi thế kinh tế của tỉnh, trọng tâm là đẩy nhanh tiến độ hoàn
thành tuyến đường ven biển; triển khai cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết và một số
công trình trọng điểm khác; chuẩn bị tốt các điều kiện để phục vụ khởi công các
dự án liên quan sau Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2017 và năm 2019, tạo động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh.
Thứ hai, Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức
trách nhiệm trong hành động vì quê hương cho mọi công dân của tỉnh. Tiếp tục
121
cải thiện mạnh mẽ hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh và nâng cao năng lực
cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực để khai thác tốt nhất nội lực và thu hút
tối đa ngoại lực cho đầu tư phát triển, với trọng tâm là đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, khơi dậy niềm tự hào và ý thức trách nhiệm vì quê hương cho mỗi một
công dân Bình Thuận.
Thứ ba, tạo chuyển biến tiến bộ rõ rệt trong cơ cấu kinh tế, nâng cao chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh nhà; đẩy mạnh cơ cấu lại
ngành, lĩnh vực theo hướng tiến bộ. Tăng cường liên kết vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung, khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Mở rộng hợp tác kinh tế đối
ngoại, cải thiện môi trường đầu tư, tạo môi trường bình đẳng để thu hút các nguồn
vốn đầu tư ngoài ngân sách và vốn đầu tư nước ngoài; tăng cường đối thoại, tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đôn đốc các dự án triển khai, đi vào hoạt động, sản
xuất kinh doanh. Tập trung giới thiệu tiềm năng, thế mạnh, chính sách ưu đãi để
mời gọi, thu hút các nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư chiến lược, có năng lực phát triển 3
trụ cột: Khu công nghiệp - dịch vụ - đô thị, công nghiệp chế biến chế tạo, năng
lượng tái tạo - điện gió ngoài khơi; du lịch, dịch vụ vui chơi giải trí cao cấp, thương
mại, khu đô thị, khu dân cư; vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn kết
với phát triển kinh tế biển.
Phấn khởi, tự hào trước những kết quả đạt được sau 28 năm tái lập tỉnh,
cùng với định hướng và những mô hình đã, đang triển khai theo một tư duy phát
triển mới sẽ là hành trang và là tiền đề quan trọng để toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn
quân trong tỉnh Bình Thuận tiếp tục đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, tự tin vững bước
trên con đường hướng đến mục tiêu xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp,
phồn vinh. Theo tôi cần tính đến nhóm giải pháp cụ thể:
Một là, hoàn thiện quy hoạch các quy hoạch chuyên ngành cho không gian
phát triển kinh tế - xã hội, nhất là quy hoạch sử dụng đất để tạo quỹ đất sạch thu
hút đầu tư; quan tâm làm tốt công tác quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch phát
triển đô thị. Triển khai có hiệu quả Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn
đến năm 2050. Tăng cường phối hợp với các địa phương trong việc hoạch định
các định hướng và chính sách phát triển kinh tế - xã hội của vùng và từng địa
phương, gắn với liên kết vùng và quy hoạch phát triển tích hợp, mang tính hiện
đại của vùng,... Kiện toàn hệ thống cơ sở hiện đại, đạt tiêu chuẩn cấp khu vực.
Các mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy, đường không phải gắn kết với
hệ thống vành đai các cụm, khu công nghiệp, khu chế biến tạo nên môi trường
122
công nghiệp hiện đại, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất,
tăng năng lực cạnh tranh.
Hai là, trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở mức cao trong nhiều
năm, dư địa nguồn lực cho phát triển còn lại của tỉnh (như đất đai, nguồn nhân
lực…) sẽ phải tập trung cho phát triển 3 trụ cột kinh tế sẽ là những ngành trọng
điểm ưu tiên thu hút đầu tư trong giai đoạn tới.
Ba là, xây dựng hệ thống đào tạo nhân lực có trình độ chuyên môn đạt tầm
khu vực và quốc tế. Đảm bảo vùng cung cấp dồi dào nguồn nhân lực chất lượng
cao với chi phí cạnh tranh cho phát triển 3 trụ cột kinh tế. Đây phải được xem là
giải pháp đột phá cả trong ngắn và dài hạn để đảm bảo phát triển bền vững.
Bốn là, tăng cường các hoạt động hợp tác liên kết vùng để mở rộng khả
năng tiếp cận thị trường; chú trọng liên kết với các tỉnh, nhất là thành phố Hồ Chí
minh, các tỉnh miền Đông Nam bộ, miền Trung - Tây Nguyên để tạo thành chuỗi
cung ứng sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và hiệu quả cao; tạo ra thế mạnh,
sức lan toả để phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Năm là, Đề xuất một số vướng mắc, điểm nghẽn về chính sách thuộc thẩm
quyền của Trung ương chưa được tháo gỡ kịp thời; một số chính sách, quy định
thuộc thẩm quyền của tỉnh chưa được kịp thời rà soát, bổ sung, điều chỉnh hoặc
ban hành mới để phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh.
IV. Kết luận
Kế thừa tư duy đổi mới kinh tế của Đảng; với thành tựu đạt được sau 28
năm tái lập tỉnh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Bình Thuận
đã phát huy truyền thống đoàn kết trong kháng chiến, năng động và sáng tạo, tích
cực chủ động, tranh thủ sự ủng hộ của các ban, bộ, ngành Trung ương, sự kết nối
các địa phương trong nước và khu vực, phấn đấu đưa Bình Thuận trở thành tỉnh
phát triển khá trong khu vực Đông Nam bộ, xứng đáng là mảnh đất giàu truyền
thống cách mạng, kiên cường, vững vàng trong xây dựng và phát triển kinh tế -
xã hội, góp phần cùng với khu vực và cả nước thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong tiến trình hội nhập
quốc tế.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1, 2. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.61 và 62.
3. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc XII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2016.
4. Văn ĐH tỉnh Đảng bộ Bình Thuận lần thứ VIII, XII, XIII
5. Dự thảo Văn ĐH tỉnh Đảng bộ Bình Thuận lần thứ XIV
6. Biểu mẫu và số liệu, do Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận cung cấp.
123
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO GÓP PHẦN TÍCH CỰC VÀO SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN
TRONG 90 NĂM QUA
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
I. Khái quát công tác tuyên giáo dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Trong 90 năm qua, các thế hệ cán bộ Tuyên giáo Bình Thuận luôn tỏ rõ bản
lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, đoàn kết
nhất trí, không ngừng phấn đấu trưởng thành về mọi mặt. Những kết quả của
ngành Tuyên giáo cùng Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã góp phần hoàn thành
giải phóng dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy
kinh tế - xã hội tỉnh phát triển, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống
chính trị ngày càng vững mạnh.
Ngành Tuyên giáo luôn bám sát sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, cấp ủy Quân
khu, Liên khu, của Trung ương trong triển khai tuyên truyền, thực hiện các Nghị
quyết Trung ương, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh, đảng bộ các cấp qua các thời kỳ;
định hướng các cơ quan báo chí, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tuyên truyền
các nghị quyết, các sự kiện chính trị của Đảng, Nhà nước tác động đến xã hội….
Hệ thống tuyên giáo từ tỉnh đến cơ sở chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng,
tâm trạng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; tích cực xử lý thông
tin; dự báo và tham mưu, đề xuất với cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng kịp
thời công tác tư tưởng trong từng thời điểm. Đồng thời, tham gia cùng cấp ủy,
chính quyền giải quyết các vấn đề xã hội nhạy cảm, nâng cao ý thức cảnh giác
của nhân dân, đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”của các thế lực thù
địch, góp phần giữ vững an ninh chính trị, tư tưởng trong tỉnh, ...
Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên được quan tâm. Hệ
thống giáo dục lý luận chính trị toàn tỉnh được củng cố. Trường Chính trị tỉnh và
các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện được tăng cường mọi mặt. Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ động phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Trường Chính
trị, Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng nội dung, chương trình đào tạo trình độ
trung học cơ sở, sơ cấp chuyên môn, sơ cấp lý luận chính trị cho đội ngũ bí thư
chi bộ, trưởng thôn, khu phố trên địa bàn tỉnh.
124
Tham mưu tuyên truyền, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Đảng trong các thời kỳ cách mạng, đặc biệt gần đây là Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”; Chỉ thị số 06, 03 và 05-CT/TW của Bộ Chính trị và các kế hoạch
của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm các
ngày lễ lớn của đất nước, quê hương nhằm khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng
tự hào dân tộc, tạo sự đồng thuận và quyết tâm cao trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
Tuyên giáo các cấp thực hiện tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chủ động
phối hợp, tổ chức thực hiện nhiệm vụ tuyên giáo trong các thời kỳ. Tỉnh ủy Bình
Thuận luôn đánh giá cao sự nỗ lực của ngành Tuyên giáo tỉnh nhà đối với công
tác xây dựng Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đóng góp ổn định
xã hội và phát triển kinh tế của tỉnh nhà.
II. Những cống hiến của ngành Tuyên giáo trong 90 năm dƣới sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh
1. Ngành Tuyên giáo đã triển khai khá đồng bộ, toàn diện công tác tư tưởng
chính trị, tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục lý tưởng cách mạng, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, tiếp
tục thực hiện mục tiêu cao cả “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Từ năm 1930 - 1945, Tuyên huấn Bình Thuận, những năm đầu thành lập
Đảng và đấu tranh giành chính quyền là thời kỳ đầy khó khăn gian khổ. Lúc này
chưa hình thành tổ chức bộ máy, tất cả cán bộ, đảng viên đều làm nhiệm vụ tuyên
truyền, giáo dục quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng; hoạt động bí mật, tuyên
truyền miệng, rãi truyền đơn, bản tin, nội san, cổ vũ, hướng dẫn phong trào, thức
tỉnh tinh thần yêu nước của nhân dân, đấu tranh giành chính quyền năm 1945.
Từ năm 1945 - 1954, Tuyên huấn tỉnh, các huyện, thị được thành lập, trực
tiếp làm công tác tư tưởng của Đảng: tuyên truyền bình dân học vụ, diệt giặc dốt,
mở lớp huấn luyện cán bộ; tuyên truyền đường lối kháng chiến; tăng gia sản xuất,
đóng góp nhân lực, vật lực phục vụ kháng chiến chống Pháp thắng lợi.
Từ năm 1954 - 1961, tuyên truyền đấu tranh đòi đế quốc Mỹ và chế độ Ngô
Đình Diệm thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ; tổ chức hiệp thương hai miền, không
trả thù người kháng chiến. Năm 1961, Tuyên huấn Bình Thuận được tái lập, trực
125
tiếp tuyên truyền đấu tranh chống âm mưu thủ đoạn của địch, bảo vệ Đảng, cơ sở
cách mạng, vạch trần tội ác dã man của kẻ thù; tuyên truyền thắng lợi của cách
mạng; đào tạo cán bộ tuyên huấn tạo nguồn phục vụ cách mạng.
Từ năm 1961 - 1965, Ban Tuyên-Văn-Giáo(29)
tuyên truyền đánh bại chiến
lược“Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ- Ngụy, nhiệm vụ lúc này là “Tăng cường
công tác tư tưởng trong Đảng, củng cố phát triển Đảng, Đoàn đều khắp, nhất là
những hướng quan trọng”;“Gấp rút đào tạo cán bộ đáp ứng phong trào cách
mạng trước mắt”,“Kiện toàn bộ máy huyện, tỉnh trước hết là những ngành thiết
yếu” 30
...
Từ năm 1965 - 1968, tuyên truyền đấu tranh chống “Chiến tranh cục bộ”,
của Mỹ - Ngụy. Tuyên giáo tỉnh có cách làm sáng tạo, bám sát tình hình, cục diện
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
biến đau thương thành hành động cách mạng, thực hiện bằng được nguyện ước
của Người: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau quốc tang Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh đã triển khai mở đợt chỉnh huấn học tập Di chúc Bác
Hồ. Năm 1969, với thành tích xuất sắc, Ban Tuyên huấn Bình Thuận được Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam tặng thưởng Huân chương Giải
phóng hạng III.
Công tác tuyên truyền được tiếp tục đẩy mạnh trong những năm tiếp theo;
nhiều phong trào thi đua yêu nước, văn nghệ, chiếu phim phục vụ kháng chiến
trong tỉnh …, qua đó củng cố niềm tin, kêu gọi, động viên nhân dân đánh thắng
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, kêu gọi, thức tỉnh những
người lầm đường lạc lối trở lại con đường chính nghĩa. Đồng thời, đẩy mạnh
tuyên truyền khát vọng hòa bình, thống nhất của dân tộc Việt Nam đến với những
người có lương tri, yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính
nghĩa của đồng bào Việt Nam nói chung và Bình Thuận nói riêng, tạo công luận
mạnh mẽ, lên án những kẻ hiếu chiến trong chính quyền Mỹ.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo luôn kiên định lập trường cách
mạng, bám sát địa bàn, không ngại khó khăn, gian khổ phục vụ kháng chiến.
Nhiều chiến sĩ của ngành đã bị thương và hy sinh anh dũng ở chiến trường Nam
Bộ khốc liệt và chiến trường Liên khu 5 khói lửa. Ngành Tuyên giáo thực sự là
(29)
Thời gian này gọi theo tên ghép của 03 ngành: Tuyên huấn, Văn hóa-Văn nghệ, Giáo dục (30)
Hội nghị Tỉnh ủy Bình Thuận tháng 8/1961 và tháng 02/1962 (Lịch sử công tác tuyên giáo Bình Thuận (1930-
2010) trang 48,49).
126
một phương diện quân đặc biệt trên mặt trận tư tưởng, truyền tải đường lối, chủ
trương của Đảng đến với lòng dân.
2. Sau ngày miền Nam giải phóng, Tổ quốc thống nhất, ngành Tuyên giáo
tỉnh tiếp tục tham mưu cho Đảng bộ nhiều chủ trương, chính sách khắc phục hậu
quả chiến tranh; chăm lo sức khỏe nhân dân, giáo dục, đào tạo con người mới,
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cùng cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới, góp phần thực hiện Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Ngành Tuyên giáo tỉnh đã chỉ đạo, định hướng và tổ chức nhiều hình thức
tuyên truyền, cổ động tổng tuyển cử bầu Quốc hội Việt Nam thống nhất, kết hợp
tuyên truyền trực quan, tuyên truyền trên báo, đài, vận động các tầng lớp nhân
dân tham gia bỏ phiếu, thực hiện quyền dân chủ của người dân Nước Việt Nam
độc lập, thống nhất; đấu tranh chống âm mưu phản loạn, chống phá bầu cử của
các thế lực phản động, góp phần tích cực bầu cử Quốc hội ngày 25/4/1976 giành
thắng lợi.
Trên mặt trận văn hóa, ngành Tuyên giáo đã triển khai Nghị quyết số 247-
NQ/TW, ngày 29/9/1975, với nội dung: “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, phát huy tinh thần tự hào dân tộc, tự lực, tự cường, vạch trần
chủ nghĩa quốc gia giả hiệu, chống hệ tư tưởng chính trị phản động và tư tưởng
đồi trụy; chống mê tín dị đoan, hủ tục”; đồng thời, gắn công tác văn hóa, văn
nghệ với nhiệm vụ cách mạng và đời sống nhân dân; mọi hoạt động văn hóa phải
hướng vào nhiệm vụ trung tâm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngành Tuyên giáo đã tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy quán triệt Nghị quyết số
24-NQ/TW, nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Chỉ thị 03-CT/TU
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy… Đấu tranh ảnh hưởng văn hóa thực dân, phong
kiến, tư sản; những nhân tố lạc hậu; khắc phục hậu quả chiến tranh; khôi phục và
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội đổi mới toàn diện đất nước,
Tuyên giáo bước vào thời kỳ mới, tuyên truyền mạnh mẽ sự nghiệp đổi mới; đấu
tranh chống lại tư duy cũ; bồi đắp nhân tố mới, cổ vũ động viên nhân dân thi đua
lao động sản xuất, nhiều mô hình mới xuất hiện; việc tự chủ tài chính trong các
doanh nghiệp được khuyến khích, các doanh nghiệp được cởi trói, kinh tế xã hội
có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất, tinh thần nhân dân từng bước được cải thiện.
127
Năm 1986, ngành Tuyên giáo tỉnh quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, bám sát yêu cầu thực tiễn, đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả tham mưu; góp phần giáo dục toàn dân tin tưởng vào công
cuộc đổi mới, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xác định phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng
văn hóa là nền tảng tinh thần của dân tộc; đấu tranh chống lại các quan điểm sai
trái, khẳng định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, công cuộc cải tổ của Liên Xô đổ vỡ, các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên phạm vi
thế giới lâm vào khủng hoảng. Việt Nam nói chung và tỉnh Thuận Hải nói riêng
chịu ảnh hưởng, tác động rất sâu sắc; cùng với chính sách cấm vận kinh tế của
Mỹ và đồng minh; xảy ra chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc, tình
hình trong tỉnh rất khó khăn. Ngành Tuyên giáo tham mưu cho Ban Thường vụ
Tỉnh ủy tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp tục giữ vững niềm tin
trong biến động chính trị của thời đại, kiên định mục tiêu cách mạng mà Đảng,
Bác Hồ đã lựa chọn; đồng thời đưa những định hướng chiến lược của Đảng đến
với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Một trong những đóng góp của ngành Tuyên giáo tỉnh thời kỳ này là tuyên
truyền, giáo dục, vận động nhân dân xóa đi sự hận thù dân tộc giữa một bộ phận
người Việt Nam lưu vong ở nước ngoài, những người bỏ địa phương ra đi sau
những năm đầu giải phóng, dần có được sự hòa hợp dân tộc, hướng về cội nguồn,
tham gia các hoạt động hữu ích cho quê hương, cộng đồng; góp phần phá băng
chính sách “Cấm vận kinh tế” của Mỹ và một số nước khác.
Từ năm 1986 - 2010, công tác tuyên giáo tỉnh tiếp tục đổi mới, nâng cao
hiệu quả hoạt động; tham mưu kịp thời, có hiệu quả cho Đảng bộ về công tác tư
tưởng, bảo đảm ổn định chính trị, tư tưởng, đồng thuận trong nhân dân, góp phần
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; tham mưu Đảng bộ tỉnh chỉ đạo tuyên
truyền nhiều nghị quyết thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, trong đó có: Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, góp phần xây
dựng nền tảng tinh thần dân tộc. Đặc biệt tuyên truyền Nghị quyết số 04-NQ/TU
của Tỉnh ủy về “Xây dựng và phát triển toàn diện dân sinh kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số” là một minh chứng sống động, làm thay đổi bộ mặt
128
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của địa phương.
Từ năm 2011-2020, thực hiện Cương lĩnh bổ sung và phát triển (Cương lĩnh
2011), công tác tuyên giáo tỉnh nhà có những đổi mới, tham mưu kịp thời cho
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
3. Ngành Tuyên giáo đã góp phần tham mưu xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và đạo đức, đấu tranh bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của
Đảng; tuyên truyền biển đảo, phân giới cắm mốc và các hoạt động đối nội, đối
ngoại của Đảng, Nhà nước; cổ vũ, động viên, khích lệ lòng yêu nước và niềm tin
của nhân dân đối với Đảng; chủ động nắm tình hình, cung cấp thông tin, định
hướng dư luận xã hội, đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thông tin
xấu, độc xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trên internet, mạng xã hội,
góp phần giữ vững ổn định tư tưởng, tạo sự thống nhất, đồng thuận xã hội. Hoạt
động đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên góp phần cổ vũ, động viên cán bộ,
đảng viên và nhân dân tích cực thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tuyên giáo các cấp được quan tâm,
đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả; giác ngộ, bồi dưỡng đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhất là chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng “Thế hệ
cách mạng cho đời sau”, kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng của tỉnh “Tự
lực, tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang”. Đồng thời,vận dụng sáng
tạo các giá trị lý luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng tỉnh
nhà và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua đó, giữ vững niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, bồi đắp chủ nghĩa yêu nước, giữ vững độc lập dân tộc,
đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Định kỳ cập nhật kiến thức mới, bảo đảm sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn xã hội; đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, phòng ngừa “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong
nội bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
4. Ngành Tuyên giáo tỉnh là lực lượng chủ công trong việc tham mưu giúp
Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống chính trị thực
hiện học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị
số 06, 03 và 05-CT/TW của Bộ Chính trị, góp phần xây dựng Đảng ta “Là đạo
đức, là văn minh”.
129
Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW
thực sự là định hướng chiến lược cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, gìn giữ biểu tượng cách mạng cao cả của
Đảng trong lòng nhân dân.
Việc thực hiện Chỉ thị số 06, 03 và 05-CT/TW của Bộ Chính trị và tuyên
truyền 50 năm thực hiện Di chúc của Người đã góp phần tạo sự lan tỏa về những
gương người tốt, việc tốt, mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả trong xã hội.
Quá trình tham mưu triển khai thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, có thể khẳng định rằng, ngành Tuyên giáo tỉnh
nhà đã luôn luôn tìm tòi, sáng tạo, định hướng, khích lệ những gương điển hình
tiêu biểu, những cách làm hay trong học tập và làm theo Bác, góp phần tích cực
xây dựng xã hội mới.
5. Ngành Tuyên giáo tỉnh đã làm tốt công tác thông tin đối ngoại và hợp tác
quốc tế, góp phần đáng kể vào công tác đối ngoại Đảng, tăng cường củng cố tình
đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam với Đảng và nhân dân Campuchia, với Đảng và
nhân dân cách mạng Lào…., đặc biệt, cử cán bộ, chuyên gia giúp tỉnh Pretpihia
xây dựng lại đất nước sau thời kỳ Pôn Pốt.
Chỉ đạo, hướng dẫn tuyên truyền kịp thời, đúng định hướng của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, của Tỉnh ủy đối với những sự kiện quan trọng trong nước, quốc
tế, khu vực, qua đó làm nổi bật quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về cách thức giải quyết các vấn đề “nóng” của địa
phương, như: an ninh trật tự, vấn đề dân tộc, tôn giáo, bọn fulro, lên án và chống
chủ nghĩa khủng bố, chống sự phân biệt sắc tộc, kỳ thị tôn giáo..., bảo vệ sự bình
yên của người dân, củng cố lòng tin trong nhân dân với Đảng, dân tộc.
Suốt 90 năm qua, ngành Tuyên giáo là cầu nối tư tưởng chính trị, tình cảm
cách mạng giữa Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh; phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân tỉnh Bình Thuận đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn,
thách thức, gian khổ, hy sinh, đồng hành cùng Đảng bộ tỉnh, góp phần xây dựng
Đảng bộ tỉnh ngày càng lớn mạnh.
III. Định hƣớng công tác tuyên giáo thời gian tới
130
Phát huy truyền thống, kinh nghiệm và bài học quý trong chặng đường 90
năm qua, ngành Tuyên giáo tiếp tục thực hiện tốt những nhiệm vụ mà Đảng bộ
tỉnh và nhân dân tin tưởng giao phó, góp phần cùng Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân, các dân tộc trong tỉnh thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đề ra, đó là:
1. Thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm năm 2020 do Ban Thường vụ Tỉnh ủy
giao, đặc biệt triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị
về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 và Nghị quyết số 35-
NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; coi trọng
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và của tỉnh nhà; đấu
tranh chống “Diễn biến hòa bình”, phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
2. Đưa việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
thành tự giác, thường xuyên trong mỗi cán bộ, đảng viên, làm gương cho quần
chúng noi theo; làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng tỉnh nhà lớn mạnh, góp phần vào sự nghiệp
cách mạng của cả nước.
3. Tổ chức các hoạt động kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIII. Tham mưu sơ kết 4 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, đề xuất nội dung,
giải pháp có tính đột phá, thể hiện tình cảm sâu nặng với Đảng, với Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
4. Tiếp tục đổi mới toàn diện công tác tuyên giáo theo phương châm kịp
thời, sắc bén, thiết thực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mới; giữ môi trường ổn định
trong tỉnh, đất nước và hội nhập quốc tế. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên
giáo các cấp nhạy bén chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhiệt huyết, trách nhiệm, tiên phong trên mặt trận tư tưởng của Đảng.
Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng,
phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư
tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc”.
131
Hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa
bình”, lợi dụng internet, mạng xã hội để kích động, gây mất ổn định xã hội, phá
hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Tuyên giáo tỉnh nhà phải hết sức cảnh giác, tự
đổi mới để xứng đáng là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng; nâng cao
chất lượng công tác tuyên giáo với phương châm:“Tuyên giáo đi trước, đi
cùng”,“Hướng mạnh về cơ sở”,“Toàn Đảng làm công tác tư tưởng, đáp ứng yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và đất nước trong tình hình hiện nay”.
IV. Kết luận
Là cơ quan tham mưu cho Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy trên lĩnh
vực tư tưởng văn hóa trong suốt chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng, Tuyên
giáo tỉnh đã làm tốt công tác tư tưởng; phối hợp thẩm định chính sách khoa giáo;
nghiên cứu đề xuất chính sách xã hội và đồng hành với Đảng bộ tỉnh trong kháng
chiến chống Pháp - Mỹ; xây dựng và bảo vệ tổ quốc hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
Cán bộ tuyên giáo với bản lĩnh chính trị, tinh thần yêu nước, kinh nghiệm và
trách nhiệm, vượt qua khó khăn, gian khổ, đoàn kết, tự lực tự cường, năng động
sáng tạo, tuyên truyền phù hợp với hoàn cảnh, đào tạo linh hoạt cán bộ phục vụ
kháng chiến; tuyên truyền người tốt, việc tốt; phê phán những tư tưởng lệch lạc;
nắm bắt những bức xúc, nguyện vọng của nhân dân, tham mưu cho Đảng bộ tỉnh
đề ra chủ trương đúng; đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Chủ động đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cán bộ làm công tác tuyên giáo
cấp ủy vừa hồng vừa chuyên phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Phát huy truyền thống vẻ vang 90 năm qua của Đảng bộ và nhân dân trong
tỉnh, ngành Tuyên giáo tỉnh nhà sẽ tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tham mưu góp phần nhiều hơn nữa vào việc bảo vệ vững chắc nền
tảng tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tạo sự
thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận xã hội để xây dựng tỉnh nhà ngày càng
vững mạnh, góp phần cùng cả nước xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới như di nguyện của Bác Hồ kính yêu.
Xin cảm ơn các đồng chí đã lắng nghe. Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.
132
XỨNG ĐÁNG LÀ TIẾNG NÓI CỦA ĐẢNG BỘ,
CHÍNH QUYỀN VÀ NHÂN DÂN BÌNH THUẬN
Lê Huy Toàn
(Tổng Biên tập Báo Bình Thuận)
Ngày 27/10/1976, một sự kiện quan trọng đối với những người làm báo tỉnh
nhà đã diễn ra; Ban Thường vụ Tỉnh Đảng bộ Thuận Hải (nay là tỉnh Bình Thuận) đã
ban hành Quyết định số 1331/QĐ-TU, chính thức thành lập tờ báo tỉnh Thuận Hải,
cơ quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh, trực thuộc Tỉnh ủy. Tờ báo tỉnh Thuận Hải
chính là tiền thân của Báo Bình Thuận hôm nay. Với một sự khởi đầu đầy khó khăn
vất vả từ cơ sở hạ tầng, thiết bị kỹ thuật cho đến nguồn nhân lực, phạm vi phát
hành… đến nay Báo Bình Thuận đang phát triển theo hướng cơ quan truyền thông
đa phương tiện, đáp ứng rộng rãi nhu cầu thông tin, văn hóa, giáo dục, giải trí của
độc giả trong và ngoài tỉnh với 2 loại hình báo chí là báo in và báo điện tử. Từ những
số báo ít ỏi đầu tiên, với một phạm vi phát hành nhỏ bé, đến nay Báo Bình Thuận đã
tiến tới xuất bản báo in 5 số/tuần, báo điện tử cập nhật tin tức hàng ngày phục vụ yêu
cầu nắm bắt thông tin của một bộ phận lớn độc giả cả trong và ngoài tỉnh. Theo xu
hướng bùng nổ thông tin trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, dự kiến Báo
Bình Thuận sẽ xuất bản báo in hàng ngày (nhật báo) và nâng cấp một số chuyên
trang, chuyên mục và trang tiếng Anh nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội và đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại của tỉnh nhà.
Hơn 43 năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy; với chức năng cơ
quan báo chí của Đảng bộ Bình Thuận; Báo Bình Thuận đã trở thành lực lượng nòng
cốt, giữ vai trò quan trọng trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, không ngừng rèn luyện,
phấn đấu trưởng thành, vững mạnh về mọi mặt, góp phần kết nối thông tin cho mọi
người dân trong tỉnh, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh
quốc phòng của địa phương, góp phần vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng làm trọng tâm
Hàng năm, Đảng ủy, Ban Biên tập Báo Bình Thuận luôn xác định quan
điểm: chỉ khi tổ chức đảng vững mạnh thì mới đảm đương tốt nhiệm vụ chuyên
môn, do vậy Đảng ủy, ban Biên tập Báo Bình Thuận đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
cấp ủy, chi bộ, tổ chức đoàn thể trong đơn vị không ngừng đổi mới, nâng cao năng
133
lực làm việc, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ, sinh hoạt đoàn thể. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, Đảng ủy Báo Bình
Thuận thường xuyên quan tâm chỉ đạo, định hướng để Ban biên tập, đội ngũ phóng
viên, biên tập viên nắm vững định hướng của Đảng và Nhà nước trong công tác
tuyên truyền, thường xuyên bám sát những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh trên các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa thông tin, an ninh quốc phòng và trật tự an toàn
xã hội... phản ánh kịp thời, chính xác trên Báo in và Báo điện tử, nội dung và chất
lượng các chuyên đề, chuyên mục thường xuyên được đổi mới và nâng cao.
Mục tiêu hàng đầu của Đảng ủy đặt ra hàng năm là lãnh đạo các chi bộ, đảng
viên và phối hợp với chính quyền tổ chức thực hiện hoàn thành đạt và vượt các chỉ
tiêu, nhiệm vụ theo Quyết định giao nhiệm vụ trọng tâm của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy. Đảm hoàn thành 100% nội dung được giao, đúng hoặc sớm hơn so với thời
gian quy định. Quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng
viên, viên chức, người lao động. Phối hợp Ban Biên tập nâng cao chất lượng Báo
in, Báo điện tử; chú trọng đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin để ngày càng nâng
cao chất lượng công tác quản lý, điều hành; định hướng, chỉ đạo và quản lý không
để xảy ra trường hợp có tin, bài trái với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước; chỉ đạo các đoàn thể tổ chức phát động và thực hiện các phong trào thi đua
yêu nước hàng năm gắn với thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm các ngày lễ
lớn của đất nước, của tỉnh, của ngành; kêu gọi cán bộ, đảng viên, viên chức, người
lao động nâng cao tinh thần trách nhiệm; phát huy tính chủ động sáng tạo; cải tiến
lề lối, phương pháp làm việc, nâng cao hiệu quả công tác; thực hiện phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ vững an ninh trật tự; đoàn kết nội bộ, xây
dựng đơn vị an toàn, văn minh.
Trong thời gian đến với những khó khăn, thách thức và yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới, Đảng bộ Báo Bình Thuận xác định phải thực hiện tốt hơn nữa
nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền đúng quan điểm của Đảng, Nhà nước và của tỉnh,
đồng thời đáp ứng được nhu cầu thông tin, phù hợp với mong muốn của các tầng
lớp nhân dân. Để đạt được những mục tiêu đó, trước hết, công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng phải được đặt lên hàng đầu, làm tốt nhiệm vụ này sẽ tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trên các lĩnh vực hoạt động của
cơ quan; do đó Đảng ủy đã yêu cầu phải tổ chức học tập nghiêm túc việc học tập
các nghị quyết, kết luận của Trung ương, sau học tập từng cá nhân phải viết thu
hoạch, các chi bộ phải xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể sát với kế
134
hoạch triển khai của Đảng ủy đối với các chương trình hành động của Tỉnh ủy. Vận
dụng nhiều hình thức phù hợp, thiết thực, tập trung vào những vấn đề trọng tâm để
tổ chức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nghiên cứu gắn với tình hình thực
tiễn tại đơn vị mình để phát huy tối đa năng lực công tác của từng cá nhân.
Đặt mục tiêu hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyên truyền trên mọi lĩnh vực
Về chính trị: Báo Bình Thuận đã tập trung chỉ đạo tuyên truyền đầy đủ, kịp
thời và sâu rộng những nội dung quan trọng đến nhân dân các chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước, các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, của tỉnh đều được
tuyên truyền, phổ biến trên Báo in, báo điện tử với nhiều hình thức; đặc biệt các Chỉ
thị 03, 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; Nghị quyết Hội nghị thứ 4 của BCHTW Đảng (khóa XII) về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Thực
hiện tốt công tác tuyên truyền về các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiều nhiệm kỳ, các phong trào thi đua yêu nước trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, quốc phòng – an ninh của địa phương; biểu dương,
nhân rộng các điển hình tiên tiến, các nhân tố mới được tuyên truyền, phản ánh đậm
nét, góp phần tạo không khí thi đua sôi nổi rộng khắp.
Về kinh tế - xã hội: Báo Bình Thuận tập trung tuyên truyền các chủ trương,
Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Các Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác cải cách hành chính, thực hiện
tiết kiệm, phòng chống lãng phí, tham nhũng; các hoạt động của lãnh đạo tỉnh làm
việc với các ngành, địa phương chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng
năm được phản ánh đầy đủ, kịp thời. Trên báo in và báo điện tử, Báo Bình Thuận
đẩy mạnh tuyên truyền những vấn đề xã hội quan tâm như tình hình thiên tai, dịch
bệnh, môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn giao thông và trật tự an toàn
xã hội…qua đó giúp nhân dân chủ động phòng tránh, giảm thiểu những hậu quả
đáng tiếc, đồng thời giúp cho lãnh đạo tỉnh kịp thời chỉ đạo phòng chống và khắc
phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất,
đảm bảo an ninh trật tự, hạn chế tai nạn giao thông… giúp người dân ổn định cuộc
sống.
135
Về an ninh – quốc phòng: Báo Bình Thuận thường xuyên thực hiện các bản
tin, bài viết, phóng sự để tuyên truyền về biển đảo, về thông tin đối ngoại, về
những chủ trương, giải pháp của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ chủ
quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đặc biệt là tình hình biển đông.
Các hoạt động của lực lượng vũ trang, công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội tại các địa phương, công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu được
Ban Biên tập chỉ đạo cập nhật kịp thời, thông tin đầy đủ và chính xác. Hàng năm
Báo duy trì thực hiện các chuyên mục tuyên truyền về quốc phòng – an ninh trên
địa bàn; phối hợp với Quân sự tỉnh, Biên phòng tỉnh và Công an tỉnh thực hiện các
chuyên mục “Biên phòng Bình Thuận”; “Quốc phòng toàn dân” và “An ninh trật
tự” nhằm thông tin kịp thời về tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trong tỉnh,
phổ biến, giáo dục pháp luật đến các tầng lớp nhân dân và hoạt động lực lượng vũ
trang, qua đó góp phần to lớn vào nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội tại các địa phương.
Đặt trách nhiệm người làm báo phải luôn học tập và làm theo lời Bác
Là cơ quan báo chí, Đảng ủy, Ban Biên tập xem việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh là một nội dung rất quan trọng, do vậy thường xuyên
phát động mạnh mẽ cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên không ngừng học tập và
làm theo lời dạy của Bác Hồ đối với những người làm báo, theo nội dung và tiêu chí
hết sức cụ thể, đó là : Về phẩm chất đạo đức, nhà báo phải không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng thỏa mãn “cho bài mình là tuyệt rồi”,
thiếu tinh thần học hỏi, cầu thị. Luôn ghi nhớ lời Bác dặn: “Để làm tròn nhiệm vụ vẻ
vang của mình, cán bộ báo chí cần tu dưỡng đạo đức cách mạng”. Về đạo đức nghề
nghiệp, những người làm báo phải luôn tự hỏi: “Ta viết cho ai xem? Nói cho ai
nghe?”; Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, không nói, không viết; Trước
khi viết bài phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận… Tất cả những vấn đề này đều
đỏi hỏi lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp đối với người làm báo. Về tư cách
người làm báo, nhà báo trước hết là một người công dân bình đẳng với tất cả mọi
người trước pháp luật, không được phép cho mình đứng cao hơn pháp luật, đứng cao
hơn mọi người để phán xét. Với tư cách là một công dân thì nghĩa vụ công dân
không chỉ đòi hỏi nhà báo phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật trong hoạt động nghề
nghiệp mà còn phải luôn luôn tâm niệm mục tiêu phục vụ ai, viết cho ai, viết để làm
gì và viết như thế nào để không làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân, của đất nước,
không gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
136
Thực hiện tốt những lời dạy của Bác, mỗi nhà báo, mỗi cán bộ, viên chức của Báo
Bình Thuận sẽ ngày càng thể hiện rõ nét bản lĩnh chính trị của mình. Tất cả lương
tâm, trách nhiệm, trí tuệ và đạo đức của người làm báo sẽ được thể hiện trong từng
bản tin, từng phóng sự, từng tác phẩm báo chí của đội ngũ phóng viên, biên tập viên
Báo Bình Thuận.
Xứng đáng là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thuận
Ngày nay, khi cả nước nói chung và tỉnh ta nói riêng đã đạt được những
thành tựu to lớn, phát triển toàn diện, được bạn bè trong và ngoài nước trân trọng,
đánh giá cao, nhưng bên cạnh đó sự nghiệp cách mạng sẽ luôn đứng trước thời cơ
đan xen thách thức; vai trò của báo chí cách mạng nói chung, của Báo Bình Thuận
nói riêng luôn luôn và ngày càng quan trọng trong tuyên truyền, phổ biến đường
lối, pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; trong phát huy quyền
làm chủ, bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân; trong xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; trong cổ vũ, tôn vinh
điều thiện, cái đẹp, cái tiến bộ; lên án cái xấu, cái ác; chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, trì trệ… và tất cả những gì phương hại tới lợi ích quốc gia. Do vậy, Ban
Biên tập Báo Bình Thuận xác định sẽ tiếp tục là cầu nối thông tin 2 chiều, phản ánh
được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, đồng thời chuyển tải kịp thời những chủ
trương, chính sách, định hướng phát triển của đất nước và của tỉnh để tạo sự đồng
thuận cao trong xã hội.
Với ý chí, quyết tâm cùng sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, cơ
quan, Báo Bình Thuận nhất định sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu nâng cao
năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của của Đảng bộ, đưa Báo Bình
Thuận phát triển ngày càng vững mạnh, khẳng định rõ nét vai trò, vị trí của mình
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xứng đáng là cơ quan ngôn luận,
tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền, là diễn đàn của nhân dân và các dân tộc tỉnh
nhà./.
137
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC
HỘI VÀ PHONG TRÀO PHỤ NỮ TỈNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Hội Liên Hiệp Phụ nữ tỉnh
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 03/2/1930, tại Bình
Thuận vào cuối năm 1930, tại Dốc Ông Bằng, làng Tam Tân (nay là xã Tân Tiến,
thị xã La Gi), Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Thuận được thành lập
(chi bộ Tam Tân) do đồng chí Ngô Đức Tốn làm Bí Thư. Năm 1931, các đồng chí
Nguyễn Gia Tú, Nguyễn Tương, Trần Hoành... được kết nạp vào Đảng, là những
hạt nhân hình thành và phát triển cơ sở Đảng, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống
thực dân Pháp tại Bình Thuận(31)
.
Cùng với sự ra đời của các tổ chức Đảng, tháng 9/1945 Mặt trận Việt Minh
cấp tỉnh do đồng chí Nguyễn Tương làm Chủ nhiệm, gắn liền với thiết lập Mặt
trận Việt Minh, các đoàn cứu quốc như: Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc
lần lượt ra đời từ tỉnh đến các phủ huyện, phường, xã(32)
. Tại tỉnh, Mặt trận Việt
Minh cử đồng chí Trần Thị Ân (Dung) là ủy viên, phụ trách phụ nữ cứu quốc
tỉnh, ngày 06/01/1946 tại nhà số 2 đường Sài Gòn (nay là đường Trần Hưng Đạo)
đã tiến hành bầu Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Bình Thuận lâm thời,
gồm các chị: Trần Thị Ân (Dung), Trần Thị Cảnh, Lưu Thị Vĩ, Bùi Thị Huy Tiệp,
La Ánh Sơn, Trần Thị Điểm...(33)
Có thể nói từ khi thành lập và phát triển, Đảng không ngừng quan tâm đến
phong trào phụ nữ thông qua các chủ trương, văn bản(34)
để lãnh, chỉ đạo phong
(31)
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận tập I (1930 - 1954): Trang 43 - 45. (32)
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận tập I (1930 - 1954): Trang 96 - 97. (33)
Truyền thống Cách mạng của Phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930 - 2000): Trang 15 - 16. (34)
Thông tri số 72-TT/TW, ngày 18/7/1957 của Ban Bí Thư về tăng cường công tác lãnh đạo
công tác vận động phụ nữ; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 06/12/1957 của Ban Bí Thư về một
số vấn đề công tác vận động phụ nữ; Chỉ thị số 137-CT/TW, ngày 10/4/1959 của Ban Bí Thư
về việc tăng cường công tác lãnh đạo công tác vận động phụ nữ; Nghị quyết số 152-NQ/TW,
ngày 10/01/1967 của Ban Bí Thư về một số vấn đề về tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận; Nghị
quyết số 238-NQ/TW, ngày 02/11/1974 của Ban Bí Thư về tổng kết phong trào phụ nữ Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; Nghị quyết số 8B-NQ/TW, ngày 27/3/1990 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân”; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12/7/1993 của Ban Bí Thư về việc
đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị số 42- CT/TW,
ngày 06/10/1998 của Bộ Chính trị “Về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức
và hoạt động của Hội quần chúng”,...
138
trào phụ nữ. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong tỉnh, từ khi thành lập
đến năm 2000, phong trào phụ nữ tỉnh Bình Thuận không ngừng lớn mạnh và
phát triển và được khẳng định(35)
:
1. Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận là nhân tố quyết định thắng
lợi của phong trào cách mạng trong tỉnh nói chung, phong trào Phụ nữ tỉnh Bình
Thuận nói riêng.
2. Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân được thành
lập, phụ nữ được giải phóng, được thực hiện các quyền lợi và nghĩa vụ thực sự
của mình, từng bước thực hiện nam nữ bình đẳng. Đây là một trong những
nguyên nhân khá quan trọng thôi thúc chị em tham gia xây dựng và bảo vệ chính
quyền, đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
Chủ nghĩa xã hội.
3. Phong trào Phụ nữ lớn mạnh nhờ có tổ chức Hội ngày càng phát triển và
trưởng thành, là nơi tập hợp, giáo dục, động viên quần chúng phụ nữ thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là đại diện duy nhất
chăm lo và bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em.
4. Đội ngũ cán bộ Hội có ý chí vững vàng, có tinh thần cách mạng kiên
cường, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trung thành với cách mạng, năng
động, sáng tạo, gương mẫu, biết dựa vào quần chúng, biết tổ chức, lãnh đạo quần
chúng cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho phong trào phụ nữ trong tỉnh có
vai trò và vị trí xứng đáng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
5. Phụ nữ tỉnh Bình Thuận vốn có tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng
căm thù giặc sâu sắc, bản tính lao động cần cù, chịu thương, chịu khó, luôn là
lực lượng to lớn đóng vai trò quan trọng trong các phong trào cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng cũng là một trong những nguyên nhân đưa phong trào
phụ nữ không ngừng phát triển, ngày càng đáp ứng được nhiệm vụ của Đảng
giao trong từng giai đoạn lịch sử, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục chỉ đạo hoạt động công tác Hội
cũng như phong trào phụ nữ, cụ thể:
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (Nhiệm kỳ 2006 - 2010), Đảng xác
định: “Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân là yếu tố quan trọng góp phần đoàn kết rộng rãi
(35)
Truyền thống Cách mạng của Phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930 - 2000): Trang 327 - 335.
139
các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”.
- Ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Nghị quyết số 11- NQ/TW
về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Ngày 08/12/2009, Bộ Chính trị (khóa X) đã ban hành Kết luận số 62-
KL/TW về “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội”.
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (Nhiệm kỳ 2011 - 2015), Đảng xác
định: “Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân”.
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (Nhiệm kỳ 2016 - 2020), Đảng
xác định: "Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân".
- Ngày 20/01/2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số
21-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII
(Nhiệm kỳ 2015 - 2020) đã nêu rõ: "Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, hội quần chúng
theo hướng sâu sát cơ sở, góp phần giải quyết những khó khăn, bức xúc trong
cuộc sống của nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội
viên; thực hiện tốt việc giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền".
Để tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp trong thời gian qua, cũng như
thực hiện tốt sự lãnh đạo của Đảng, các cấp Hội LHPN trong tỉnh tiếp tục giữ
vững phong trào, thi đua lập thành tích, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao góp
phần tham gia phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, cụ thể:
- Thực hiện tốt phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng
tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", nhiều tấm gương phụ nữ tiêu biểu được biểu
dương, khen thưởng trên các lĩnh vực(36)
.
(36)
Phụ nữ làm kinh tế giỏi (Nguyễn Thị Ngọc Nhàn , xã Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc ; Lê
Thị Lý, xã Huy Khiêm, huyện Tánh Linh; Phạm Thị Ngọc Thơ, xã Đức Hạnh, huyện Đức Linh ), khởi nghiệp sáng tạo (điển hình: Chị Lê Thị Nguyện, Chị Hồ Thị Ngọc Nhân, Chị Lưu Xuân
An,...) , cán bộ Hội tiêu biểu (Chị Vũ Thị Anh Đào - Chi hội trưởng Phụ nữ thôn Bình Lâm,
Hàm Chính, Hàm Thuận Bắc; chị Lê Thị Khanh - Chi hội trưởng thôn Tân Lý, xã Tân Bình, thị
xã La Gi; K’ Thị Hồm, Chủ tịch Phụ nữ xã Đông Tiến, huyện Hàm Thuận Bắc, Nguyễn Thị
Hoa – Chi hội phó Chi hội phụ nữ xã Sông Bình, huyện Bắc Bình)...
140
- Triển khai sâu rộng 02 cuộc vận động:
+ “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch” góp phần xây dựng nông thôn mới,
đô thị văn minh: Chủ động phối hợp tham gia thực hiện tốt các tiêu chí xây dựng
nông thôn mới, tập trung vào các tiêu chí hộ nghèo, lao động có việc làm, giáo
dục và đào tạo, môi trường và an toàn thực phẩm. Xây dựng mô hình CLB 5
không, 3 sạch, Ngõ hẻm 5 không 3 sạch; Các cấp Hội có nhiều giải pháp hỗ trợ
phù hợp đối với từng gia đình chưa đạt các tiêu chí, thực hiện rà soát, lập danh
sách theo dõi và hỗ trợ giúp hộ gia đình chưa đạt 8 tiêu chí cuộc vận động; Hội
LHPN các cấp chủ động đăng ký và thực hiện các công trình, phần việc thiết thực
về xây dựng mái ấm tình thương, công trình ánh sáng an ninh, đường giao thông
nông thôn, tuyến đường xanh - sạch - đẹp, tặng sổ tiết kiệm, tặng thẻ bảo hiểm y
tế, học bổng,... qua thực hiện nhiều cá nhân, tập thể được biểu dương(37)
.
+ “Rèn luyện phẩm chất đạo đức: Tự tin, Tự trọng, Trung hậu, Đảm đang”
gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Các cấp
Hội tiếp tục triển khai cuộc vận động rèn luyện 4 phẩm chất phụ nữ Việt Nam
“Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền
như: Hội thi, sân khấu hóa, chia sẻ kinh nghiệm, tự sáng tác các bài hò, vè, nêu
gương người tốt, việc tốt,… với những nội dung mang tính giáo dục thiết thực,
gần gũi trong đời sống hàng ngày để tuyên truyền giúp hội viên, phụ nữ dễ nhớ,
dễ hiểu, qua đó tạo sự chuyển biến rõ nét trong rèn luyện phẩm chất đạo đức.
Hàng năm, Hội LHPN các cấp ban hành kế hoạch và tổ chức Hội nghị quán triệt,
triển khai chuyên đề đến cán bộ, đảng viên, công chức, hội viên và xây dựng cam
kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, cán
bộ, hội viên phụ nữ.
- Thực hiện 3 nhiệm vụ trọng tâm:
+ Nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện, xây
dựng gia đình hạnh phúc: Các cấp Hội thường xuyên đổi mới, đa dạng các hình
thức tuyên truyền như sân khấu hóa, Hội thi, văn hóa, văn nghệ, đặc biệt trong
thời đại công nghệ 4.0 việc tuyên tuyền bằng facebook, zalo, fanpage... luôn được
các cấp Hội quan tâm, để thông tin tuyên truyền đến hội viên, phụ nữ nhanh
(37)
Tập thể: Câu lạc Bộ “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” thôn An Phú - xã Hàm Chính
(HTB); Tổ phụ nữ tự quản vệ sinh môi trường, thôn Xuân Tài - xã Phong Nẫm (TP. Phan
Thiết); Ban quản lý “Ngõ hẻm 5 không, 3 sạch” - khu phố 8 - phường Phước Hội (La Gi). Cá
nhân: Chị Nguyễn Thị Mót - Tổ trưởng Tổ phụ nữ “5 không, 3 sạch” - phường Phước Lộc (La
Gi); chị Lùng Thị Đông - Phó Ban Chủ nhiệm “Câu lạc bộ 5 không, 3 sạch” - khu phố 4,
phường Xuân An (Phan Thiết)...
141
chóng, thuận tiện hơn... nhận thức của hội viên, phụ nữ ngày càng được nâng cao;
công tác đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, hậu phương quân đội... được các
cấp Hội quan tâm, phối hợp vận động các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và hội
viên, phụ nữ hỗ trợ xây dựng mái ấm tình thương, các phần quà nhân các dịp Lễ,
Tết, ... cho hội viên, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, gia đình chính sách, gia đình
có công cách mạng, người già neo đơn, hội viên, phụ nữ trẻ em nghèo có hoàn
cảnh khó khăn, ốm đau, khuyết tật...
+ Nhiệm vụ vận động, hỗ trợ phụ nữ sáng tạo khởi nghiệp, phát triển kinh
tế, bảo vệ môi trường: Hàng năm Hội cấp huyện và tỉnh tổ chức Ngày Phụ nữ
khởi nghiệp, tham gia Ngày phụ nữ khởi nghiệp cấp trên, chọn lựa hỗ trợ nhiều ý
tưởng, mô hình phụ nữ khởi nghiệp hiệu quả bằng các hình thức như khoa học kỹ
thuật, kết nối vốn vay, kết nối tiêu thụ sản phẩm...; có nhiều giải pháp, hình thức
hỗ trợ giúp phụ nữ nghèo phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững thông qua các
nguồn vốn liên tịch (NHCS, NHNNo), nguồn vốn vận động như Quỹ hỗ trợ phụ
nữ nghèo, Tdh Đức, mô hình giúp nhau không lãi, tham gia các loại hình tiết
kiệm giúp nhau trên đã hỗ trợ cho nhiều phụ nữ thiếu vốn sản xuất, kinh doanh
phát triển kinh tế gia đình; phong trào “Chống rác thải nhựa” cũng được các cấp
Hội đồng loạt hưởng ứng với nhiều mô hình và cách làm hay như vận động hội
viên, phụ nữ ký cam kết hưởng ứng “Nói không với rác thải nhựa” hạn chế sử
dụng túi ni long và các sản phẩm nhựa sử dụng một lần; cung cấp hàng ngàn chai
thủy tinh đựng nước uống thay thế chai nhựa cho hội viên, phụ nữ; Thành lập đại
lý chuyên cung cấp túi sinh học tự hủy thân thiện với môi trường và giới thiệu sản
phẩm cho các chị phụ nữ tiểu thương; Thành lập mô hình tổ Phụ nữ “nói không
với túi ni lông”, “nói không với rác thải nhựa”, “Hạn chế sử dụng rác thải nhựa”,
"tuyên truyền chống rác thải nhựa"...; ngoài ra, các cấp Hội duy trì nhiều mô hình
sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu như mô hình “2 lúa, 1 màu”, “2 lúa 1 đậu
phộng”, trồng củ đậu (sắn dây) trên đất lúa, trồng rau thủy canh, tổ sử dụng hệ
thống tưới rau phun sương, trồng cây dừa thích ứng với biến đổi khí hậu, tổ phụ
nữ trồng rau sử dụng màn phủ nông nghiệp...
+ Nhiệm vụ xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền; thực hiện giám sát, phản biện xã hội; đẩy mạnh công tác
đối ngoại nhân dân.
a) Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động xây dựng tổ chức
Hội vững mạnh: Duy trì và thành lập mô hình để thu hút, tập hợp phụ nữ tham gia
vào tổ chức Hội. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở Hội, chi tổ Hội
142
phụ nữ với các hình thức, như: hướng dẫn về kỹ năng điều hành sinh hoạt nhóm,
xây dựng chương trình một buổi sinh hoạt; tổ chức cho cán bộ chi, tổ Hội tham
dự sinh hoạt chéo để học tập, trao đổi kinh nghiệm; giúp đỡ các chi, tổ Hội khó
khăn; chỉ đạo các cấp Hội lựa chọn, có giải pháp giúp đỡ các cơ sở Hội khó khăn;
duy trì hoạt động kết nghĩa giữa các địa phương, góp phần từng bước nâng cao
chất lượng hoạt động của các cơ sở Hội; tiếp tục thực hiện rà soát thực lực hội
viên, củng cố tổ chức Hội các cấp; Thực hiện tốt phương châm hướng về cơ sở,
nắm chắc địa bàn, hàng năm xây dựng kế hoạch và thực hiện đi công tác cơ sở,
qua đó nắm bắt dư luận xã hội nắm bắt tình hình tư tưởng hội viên phụ nữ, kịp
thời phản ánh với cấp ủy, chính quyền giải quyết.
b) Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, tham mưu đề xuất, thực hiện
giám sát và phản biện xã hội: Lãnh đạo các cấp Hội tham gia thành viên các Ban
chỉ đạo của địa phương, thể hiện tiếng nói, chính kiến, đại diện cho hội viên, phụ
nữ ở các cấp Hội trong các vấn đề ở địa phương. Hàng năm các cấp Hội thực hiện
việc kiểm tra, giá sát và báo cáo kết quả theo quy định.
c) Đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân và hợp tác quốc tế: Hội LHPN
các cấp thực hiện các thỏa thuận hợp tác với các tổ chức phi Chính phủ (dự án
Tđh-Đức; Dự án SNV...) hỗ trợ về kiến thức, vốn vay giúp hội viên, phụ nữ phát
triển kinh tế gia đình; Phối hợp với Đồn Biên phòng, Lữ đoàn 681 Hải quân và Mặt
trận, các đoàn thể tuyên truyền về Luật An ninh mạng; Luật phòng, chống mua bán
người; tuyên truyền chủ quyền Biển, đảo,... đến cán bộ, hội viên, phụ nữ.
Trên đây là kết quả đạt được trong triển khai hoạt động công tác Hội và
phong trào phụ nữ dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, tuy nhiên quá trình thực
hiện vẫn còn những hạn chế, khó khăn sau đây:
- Thứ nhất, hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao kiến thức, kỹ năng
cho hội viên, phụ nữ có nơi, có lúc chưa sâu rộng.
- Thứ hai, các mô hình, gương điển hình tiên tiến trong thực hiện phong
trào thi đua của Hội chưa chú trọng nhân rộng, việc biểu dương khen thưởng đôi
lúc chưa kịp thời.
- Thứ ba, chất lượng hoạt động của tổ chức Hội cơ sở vẫn có nơi chưa đảm
bảo; hình thức, nội dung sinh hoạt tại cơ sở Hội chưa phong phú, một số cơ sở tỷ
lệ tập hợp hội viên còn thấp, chưa có giải pháp thu hút tập hợp phụ nữ tham gia
vào tổ chức Hội.
143
Để tiếp tục thực hiện tốt sự lãnh chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động công
tác Hội và phong trào phụ nữ trong toàn tỉnh, trong thời gian tiếp theo các cấp
Hội nghiêm túc triển khai thực hiện các nội dung sau:
Một là, đổi mới công tác tuyên truyền, hướng dẫn cán bộ hội viên phụ nữ,
phấn đấu thực hiện mục tiêu về xây dựng người phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Yêu nước, có sức khoẻ, có tri thức, kỹ năng nghề
nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu”; trước mắt
tập trung tuyên truyền, hướng dẫn thực hiên 4 phẩm chất đạo đức: “Tự tin, tự
trọng, trung hậu, đảm đang” gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
Hai là, tiếp tục rà soát các mô hình, nâng cao chất lượng hoạt động các mô
hình; kịp thời biểu dương khen thưởng, động viên, tổ chức học tập, nhân rộng
những mô hình hay, cách làm hiệu quả.
Thứ ba, kiện toàn, củng cố bộ máy cán bộ Hội các cấp theo hướng
chuyên nghiệp, hiệu quả; đa dạng hóa các hình thức tập hợp, thu hút hội viên
theo phương châm “Ở đâu có phụ nữ, ở đó có hoạt động Hội”. Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ Hội các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức tốt, nhiệt tình, tâm huyết với công tác Hội; có kiến thức, kỹ năng vận
động quần chúng, sâu sát cơ sở, có phương pháp làm việc khoa học và tư duy
đổi mới.
Thứ tư, mở rộng các hoạt động liên kết, phối hợp, khai thác nguồn lực
cho hoạt động Hội. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Nhân dân, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể, các đơn vị trên địa bàn để khai thác các nguồn lực
hỗ trợ chăm lo cho phụ nữ, nâng cao năng lực của tổ chức Hội.
Thực hiện chủ trương của Đảng, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng địa
phương, các cấp Hội LHPN tỉnh Bình Thuận đã không ngừng nỗ lực đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, thực hiện tốt phương châm hướng về cơ sở “Nơi
nào có phụ nữ, nơi đó có hoạt động Hội”, sáng tạo trong xây dựng các mô hình
tập hợp phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, xây dựng
gia đình ấm no, hạnh phúc; chú trọng công tác chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng cho phụ nữ với nhiều hoạt động thiết thực, đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng của phụ nữ, góp phần phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Qua
đó, nâng cao chất lượng lãnh đạo hoạt động Hội LHPN của các cấp ủy Đảng, góp
phần xây dựng các cấp Hội LHPN trở thành tổ chức chính trị - xã hội ngày càng
vững mạnh trong hệ thống chính trị.
144
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN TỪ KHI TIẾN HÀNH
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
ThS. Đặng Tấn Công
(Phó Trưởng Khoa XDĐ - Trường Chính trị tỉnh)
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03 tháng 02 năm 1930, đã chấm
dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, đưa nhân dân ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Nhìn lại chặng đường 90 năm qua, với những dấu ấn lịch sử
từ cách mạng Tháng tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cho đến đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất đất nước, cả nước tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu chúng ta có được ngày hôm nay,
gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và Đảng bộ
tỉnh Bình Thuận nói riêng, trong phạm vi bài hội thảo này, tôi chỉ đề cập đến
những thành tựu nổi bật, bắt đầu từ công cuộc đổi mới đến nay.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng (3/1982), tình hình
trong nước tuy đã có cải thiện đáng kể, có một số cải tiến trong công tác quản lý
kinh tế, nhưng nền kinh tế đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách, cuộc
khủng hoang kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài, do hậu quả nặng nề của việc
điều chỉnh giá – lương – tiền năm 1985, làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời
sống của nhân dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, lạm phát đến mức cao nhất
kể từ sau giải phóng Miền Nam đến đầu năm 1986 là 774,7%. Để thoát ra khỏi
tình hình khó khăn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã
đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đối ngoại,
chủ yếu là kinh tế, thực hiện đổi mới tư duy nhất là tư duy kinh tế. Trên tinh thần
dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ IV
(18/10/1986) đã xác định mục tiêu kinh tế xã hội trong 5 năm tới (1986-1990) là:
- Phát triển sản xuất toàn diện, đẩy mạnh xuất khẩu, bảo đảm công ăn việc
làm, ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
- Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, tiết kiệm tiêu dùng
tăng tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
145
- Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa từng bước hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới; từng bước xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân
dân sẵn sàng chống xâm lược, phát triển thế trận đấu tranh chống phản cách mạng
và các tội phạm khác, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh.
- Tiếp tục xây dựng cuộc vận động xây dựng Đảng vững mạnh.
Sau khi có Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đầu năm 1987
Tỉnh ủy có Nghị quyết số 01- NQ/TU về phương hướng nhiệm vụ kinh tế năm
1987 đã quán triệt một bước các quan điểm cơ bản Nghị quyết Đại hội VI, trọng
tâm là giải phóng năng lực sản xuất, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế,
điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư, tập trung thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn:
lương thực – thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; ổn định và phát triển
sản xuất, ổn định và cải thiện một bước đòi sống nhân dân. Sau 5 năm đổi mói,
đời sống nhân dân trong tỉnh nhìn chung được cải thiện hơn trước. Nông dân ở
các vùng sản xuất chủ động nước, vùng trồng cây công nghiệp; phần lớn ngư dân
vùng biển, người lao động ở các thị xã, thị trấn có điều kiện mở rộng sản xuất
kinh doanh, làm dịch vụ. Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đã nắm vững
nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, quán triệt các quan điểm tư tưởng đổi mới
của Đại hội VI và các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương
và vận dụng tương đối sát hợp vào điều kiện cụ thể của địa phương, tập trung ổn
định tư tưởng cán bộ, đảng viên trước những biến động bất lợi của tình hình thế
giới, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng. Đồng thời
Đảng bộ liên tục mở các đợt sinh hoạt củng cố Đảng, bồi dưỡng phẩm chất, quan
điểm và năng lực công tác cho đảng viên trong toàn đảng bộ. Nhờ vậy, khi Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, hầu hết cán bộ và đảng viên
đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa,
không có tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ( dù có một số ít đảng
viên dao động xin ra khỏi Đảng 48 người). Điều này, có thể khẳng định rằng đây
cũng là thành tích nổi bật trong điều kiện, tình hình lúc bây giờ, nhưng toàn Đảng
bộ và nhân dân luôn vững tin, một lòng một dạ theo Đảng.
Tại kỳ họp thứ 10, ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội khóa VIII đã
quyết định chia tách tỉnh Thuận Hải thành 2 tỉnh mới là Bình Thuận và Ninh
Thuận. Đến ngày 29 tháng 12 năm 1992 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình
Thuận lần thứ VIII được tổ chức. Đại hội chủ trương xây dựng cơ cấu kinh tế
146
nông- ngư- lâm nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, trong đó nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, thủy sản là ngành mũi nhọn, đưa công nghiệp chế biến phát
triển nhanh, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa gắn
với xây dựng nông thôn mới. Hơn bốn năm kể từ khi chia tách tỉnh (1992-1996),
trên co đường đổi mới và phát triển, trong điều kiện tỉnh vừa mới chia tách với
bao khó khăn, thách thức. Nhưng nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng,
Đảng bộ đã vận dụng phù hợp với điều kiện của tỉnh, cùng với sự đoàn kết thống
nhất trong toàn Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân, đã nổ lực khắc phục khó khăn,
phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đạt kết quả tương đối toàn
diện trên nhiều lĩnh vực. Kết quả có ý nghĩa quan trọng là tốc độ tăng trưởng liên
tục với nhịp độ cao 12,8%, trong đó ngành nông lâm nghiệp tăng 6,14%, thủy sản
tăng 10,5%, công nghiệp tăng 20,1%, dịch vụ tăng 16,63%, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch đúng hướng, cơ sở vật chất kỷ thuật tăng thêm. Nhiều vấn đề xã hội được
giải quyết tốt hơn, đời sống nhân dân ổn định, số đông có cải thiện. Quốc phòng
an ninh được giữ vững. Hệ thống chính trị từng bước được củng cố, vai trò lãnh
đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền được nâng lên, dân chủ xã hội
được mở rộng, niềm tin vào Đảng vào công cuộc đổi mới được nâng lên. Những
thành quả trên đã tạo thêm thế và lực mới, tạo điều kiện thuận lợi cho thời kỳ phát
triển tiếp theo. Đại hội lần thứ IX (1996- 2000) và Đại hội X (2001-2005), đã đề
ra nhiều chủ trương giải pháp tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
nhằm đưa tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững, tốc độ tăng trưởng khá bình
quân 12%. Nền kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, trong đó nông lâm thủy sản tăng 7,93%, công nghiệp xây dựng tăng
16,5%, dịch vụ tăng 16,7%, tiềm năng lợi thế và các nguồn lực xã hội được khai
thác, huy động tốt hơn. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (2005-2010), Đảng bộ và
nhân dân đã nổ lực, phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội đề ra, tổng sản phẩm
nội tỉnh(GDP) tăng khá, bình quân 5 năm đạt 12,8%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
đúng hướng, đến năm 2010 tỷ trọng nhóm ngành nông lâm- thủy sản giảm còn
20,5%; công nghiệp – xây dựng tăng lên 34,9 %; thương mại- dịch vụ 44,6%.
GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.093 USD, gấp 2,57 lần so với năm
2005. Một số chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XII (2010 – 2015). Dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và nhân dân tỉnh nhà đã đoàn kết và không
ngừng nổ lực phấn đấu thực hiện và đã đạt được kết quả quan trọng, tương đối
147
toàn diện trên các lĩnh vực, tạo chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội đó là:
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá, tổng sản phẩm nội tỉnh( GRDP) năm 2015
theo giá so sánh ước đạt 32.018 tỷ đồng, tăng bình quân 6,72%/năm, trong đó:
Công nghiệp – xây dựng tăng 7,17%, Dịch vụ tăng 8,27%, Nông – lâm – thủy sản
tăng 3,34%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Đến năm 2015, tỷ
trọng nhóm ngành Công nghiệp – xây dựng là 28,23%, Dịch vụ 43,57%, Nông –
lâm- thủy sản là 28,21%. GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt 1.748 USD,
gấp 1,73 lần so với năm 2010. Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XIII( 2015 – 2020),
thực hiện các mục tiêu giải pháp do Đại hội đề ra, đến nay kinh tế tiếp tục tăng
trưởng, tốc độ tăng tổng sản phẩm nội tỉnh ( GRDP) đạt 11,09 %, cao nhất trong
nhiều năm qua, đời sống nhân dân căn bản ổn định, một bộ phận được nâng lên,
GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 3.100USD tăng gấp 1,84 lần so với
năm 2015. Rõ ràng, những thành tựu mà tỉnh nhà đạt được từ sau khi đổi mới đến
nay, kết quả của nhiệm kỳ đại hội sau bao giờ cũng cao hơn nhiệm kỳ trước. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới
đã được khẳng định trên nhiều phương diện, nhất là những chỉ tiêu đã đạt và vượt
trong các kỳ đại hội từ kinh tế, chính trị, xã hội, đời sống nhân dân, đổi mới trong
đối ngoại hợp tác làm ăn… đã tạo nên một Bình Thuận với thế và lực mới, tạo
niềm tin vững chắc trong toàn dân hướng đến Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần
thứ 14 ( Nhiệm kỳ 2020 -2025).
Từ kết quả của các nhiệm kỳ Đại hội đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới
xin đề xuất những bài học kinh nghiệm sau:
Một là, trong lãnh đạo, chỉ đạo phải nắm vững và vận dụng sáng tạo các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phân tích đúng tình
hình, có quyết sách đúng để khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của địa
phương, làm tốt công tác dự báo, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phù hợp
với thực tiễn tránh rập khuôn máy móc.
Hai là, phải coi trọng đúng mức công tác xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh, vừa đảm bảo thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, vừa
phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy
các cấp. Đặc biệt vun đắp, giữ gìn đoàn kết nội bộ; hết sức chú ý công tác cán bộ,
đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp; đổi mới
mạnh mẽ phong cách lãnh đạo, chỉ đạo theo hướng vừa bao quát, toàn diện, vừa
148
có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời thường xuyên kiểm tra, giám sát để kịp thời
phát hiện, uốn nắn sai sót và xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm.
Ba là, luôn luôn thắt chặt mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân
dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy dân chủ, tôn trọng lắng
nghe ý kiến và chăm lo lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tạo sự
đồng thuận trong nhân dân, dựa vào nhân dân, giáo dục, tổ chức hướng dẫn để tạo
ra phong trào và động lực cách mạng. Từ đó xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để tập hợp quần chúng dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Phát huy dân chủ và sức mạnh đoàn kết nội bộ, đoàn kết các tầng lớp
nhân dân thông qua vai trò, chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và
các đoàn thể quần chúng.
Bốn là, Phát huy tinh thần tự lực tự cường, năng động sáng tạo, khai thác có
hiệu quả tiềm năng, thế mạnh và lợi thế của địa phương để phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng là nhiệm vụ trọng tâm, đồng thời hết sức coi
trọng nguồn lực bên ngoài, tranh thủ sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung ương, phát
động rộng rãi, duy trì thường xuyên phong trào thi đua yêu nước; coi trọng sơ kết,
tổng kết thực tiễn, phát hiện và kịp thời nhân rộng các điển hình tiên tiến, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ ở từng địa phương, đơn vị.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã lãnh đạo nhân
dân trong toàn tỉnh, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, huy động các nguồn
lực, tranh thủ sự lãnh đạo và hổ trợ của Trung ương, với tinh thần đoàn kết nhất
trí sáng tạo, đã thu được nhiều kết quả trong phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, không ngừng củng cố
chính quyền, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Quê
hương Bình Thuận ngày càng khởi sắc, phấn khởi hướng tới Đại hội đại biểu tỉnh
Đảng bộ lần thứ XIV và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII./.
149
MỘT SỐ NÉT NỔI BẬT TRONG VIỆC CHĂM LO ĐỜI SỐNG
NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN
ThS. Trần Thị Minh Hoài
(Trưởng Khoa XDĐ - Trường Chính trị tỉnh)
Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đảng là đội tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã
hội chính là việc làm sao chăm lo cuộc sống của Nhân dân ngày càng tốt hơn.
Hay theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó
là xã hội do Nhân dân lao động làm chủ, mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân,
là xã hội dân giàu, nước mạnh; một xã hội luôn chăm lo đến lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần của mỗi người; nơi kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể
và lợi ích xã hội… Nhiệm vụ ấy luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam nỗ lực thực
hiện, nhất là từ năm 1975, đất nước thống nhất, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội
được tiến hành ở phạm vi cả nước. Đặc biệt, từ 1986 đến nay, sau hơn 30 năm đổi
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã phát triển vượt bậc về mọi mặt,
đời sống Nhân dân không ngừng được nâng lên. Từ một nước nghèo, thiếu lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước có xuất khẩu nhiều mặt hàng lương thực đứng
nhất, nhì trên thế giới. Vị thế của Việt Nam không ngừng được khẳng định, nâng
tầm trong khu vực và thế giới.
Cùng với dòng chảy lịch sử đó, tại tỉnh Bình Thuận, địa phương còn gặp
nhiều khó khăn trong phát triển toàn diện về mọi mặt, nhất là kinh tế, các cấp ủy
đảng đã nêu cao tinh thần đoàn kết, nỗ lực vượt khó để lãnh đạo địa phương vượt
qua khó khăn và đem lại những bước phát triển mới. Bên cạnh nhiều điểm thuận
lợi để kinh tế địa phương phát triển như có bờ biển chạy dài, nhiều khoáng sản,
thời tiết khá thuận lợi, ngư trường lớn (trữ lượng khai thác đánh bắt hải sản đạt
240.000 tấn hải sản các loại, là điều kiện chế biến thủy sản xuất khẩu). Tuy nhiên,
địa phương còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc thiếu nước sản xuất (có
lượng mưa thấp, được đánh giá là một trong những tỉnh khô hạn nhất nước); hệ
thống đường giao thông chưa thực sự thuận lợi. Với chủ trương đúng đắn của tập
150
thể BCH Đảng bộ tỉnh là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống cho Nhân
dân, từ năm 1985 đến năm 2000, tỉnh Bình Thuận đã đầu tư xây dựng mới hàng
chục công trình hồ chứa, đập dâng, trạm bơm… vừa và nhỏ, chủ động nước tưới
cho gần 40% diện tích lúa của cả tỉnh. Có thể kể đến công trình thủy lợi trọng
điểm hồ Sông Quao do Trung ương đầu tư, có năng lực cấp nước tưới cho hơn 8
ngàn héc ta lúa và hoa màu, cây công nghiệp của huyện Hàm Thuận Bắc, đồng
thời tạo nguồn cấp nước sinh hoạt cho Phan Thiết được khởi công xây dựng từ
tháng 9/1988. Sau hơn 2 năm tích cực thi công, đến quý IV/1990 bắt đầu làm lễ
chặn dòng Sông Quao (đợt 1) và đến cuối năm 1991 đã hoàn thành cơ bản cống
lấy nước, đập phụ I và 2,38 km kênh chính. Đây là một công trình thủy lợi lớn có
vị trí quan trọng cho sản xuất lương thực huyện Hàm Thuận Bắc và của tỉnh Bình
Thuận. Mặc dù nhiều công trình mới và cũ đã được duy tu, sữa chữa, nâng cấp…
nhưng tình trạng “khát nước” cục bộ vẫn thường xảy ra và là nhu cầu cấp thiết,
bức xúc của bà con nông dân.
Tháng 11/2006, Bình Thuận đã khởi công xây dựng kênh tiếp nước sau nhà
máy thuỷ điện Đại Ninh với chiều dài 9 km dẫn nước trực tiếp từ đập dâng sông
Lũy về hồ chứa Cà Giây (huyện Bắc Bình) với lưu lượng 10 mét khối/giây. Sau
đó, công trình kênh tiếp nước Châu Tá – 812 với chiều dài 33 km được xây dựng
nối liền hệ thống kênh mương, bảo đảm cấp nước sinh hoạt và nước tưới cho
8.500 ha sản xuất nông nghiệp của hai huyện Bắc Bình và Hàm Thuận Bắc. Đồng
thời bổ sung nguồn nước cho hồ Sông Quao (huyện Hàm Thuận Bắc) để chống
hạn cho 12.000 ha đất canh tác vùng này và cấp nước sinh hoạt cho nhân dân các
khu vực lân cận…Nối mạng hai hệ thống kênh mương trên, tỉnh Bình Thuận đã
khai thác, tận dụng nguồn nước xả sau thủy điện Đại Ninh giải quyết cơ bản được
nguồn nước tưới và sinh hoạt cho các xã phía Bắc huyện Hàm Thuận Bắc và phía
Nam huyện Bắc Bình (Bình Thuận). Vốn được mệnh danh là vùng khô hạn nhất
tỉnh, nhưng hiện nay các địa phương này đã chủ động được nguồn nước tưới cho
hàng chục ngàn ha lúa sản xuất 3 vụ trong năm. Hệ thống công trình thủy lợi
được đầu tư xây dựng ở Bình Thuận không chỉ giúp sản xuất nông nghiệp phát
triển mà còn là nguồn cung cấp nước chính cho các đô thị trong tỉnh. Năm 2009,
lượng nước thô mà các công trình thủy lợi đã cung cấp cho các đô thị lớn, các
trung tâm huyện lỵ trên địa bàn tỉnh để đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt, nước cho
các hoạt động dịch vụ, sản xuất công nghiệp trong mùa khô lên đến gần 25 triệu
m3. Ngoài ra, còn rất nhiều hệ thống thủy lợi khác được địa phương xây dựng và
151
đem vào khai thác đã đem lại hiệu quả kinh tế cao. Riêng nguồn nước từ hồ sông
Quao (huyện Hàm Thuận Bắc) đã cấp nước thô cho Nhà máy nước Phan Thiết
bình quân 25 nghìn m3/ngày, đêm và cấp cho Nhà máy nước Ma Lâm (huyện
Hàm Thuận Bắc) khoảng 800 m3/ngày, đêm. Nhờ vậy, nhiều năm nay, TP Phan
Thiết không còn bị "khát" nước sinh hoạt trong mùa khô, giúp cho trung tâm du
lịch này có đủ điều kiện để phát triển, ngày càng thu hút nhiều du khách trong
nước và ngoài nước đến tham quan, nghỉ dưỡng...
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của Nhân dân, từ 2014 đến nay,
ngoài việc đầu tư nâng cấp một số tuyến quốc lộ, với tổng nguồn vốn huy động
hơn 31 nghìn tỷ đồng, toàn tỉnh đã quan tâm đầu tư 978km/ 3.811 tuyến đường bê
tông xi măng; kiên cố hóa 52/ 62 km kênh mương nội đồng; bên cạnh đó, cơ sở
vật chất trường học các cấp trên địa bàn các xã được quan tâm đầu tư xây dựng,
cơ bản đáp ứng được yêu cầu dạy và học, tính đến nay toàn tỉnh đầu tư xây dựng,
sửa chữa nâng cấp hơn 2.100 công trình trường học; mạng lưới y tế cơ sở, trang
thiết bị y tế được ưu tiên đầu tư, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu khám, chữa
bệnh cho người dân khu vực nông thôn…Ngoài ra, nhiều mô hình sản xuất nông
nghiệp tiên tiến, hiệu quả, áp dụng ngày càng sâu khoa học công nghệ gắn với
đẩy mạnh thực hiện cơ giới hóa và thực hiện theo chuỗi giá trị ra đời và phát huy
hiệu quả. Đến cuối năm 2019, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn
của tỉnh Bình Thuận là 39,7 triệu đồng/ người/ năm, gấp 2,66 lần so với năm 2010.
Để góp phần nâng cao đời sống cho Nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc
thiểu số, cũng từ năm 2014 đến nay, Bình Thuận đã tập trung sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn của Trung ương, địa phương và các nguồn lực khác để đầu tư xây
dựng hạ tầng kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ưu tiên các xã đặc
biệt khó khăn, xã biên giới, xã vùng sâu, vùng xa. Hầu hết các công trình đầu tư
đã hoàn thành đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả, phục vụ nhu cầu dân sinh, kinh
tế - xã hội cho Nhân dân vùng khó khăn; từ đó, góp phần làm thay đổi bộ mặt
nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đến nay, 100% xã vùng đồng bào dân
tộc thiểu số đã có đường ô tô thảm nhựa thông suốt đến trung tâm xã; 100% xã
được phủ sóng truyền hình, phát thanh; 98% hộ sử dụng điện lưới quốc gia;
88,3% hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh; 17/ 17 xã thuần đồng bào dân tộc
thiểu số có nhà văn hóa; 100% thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng; tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 21,6%; 100% đồng bào dân tộc thiểu số
thuộc vùng khó khăn, diện hộ nghèo, hộ cận nghèo được cấp miễn phí thẻ bảo
152
hiểm y tế. Đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh đã từng bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi, trồng
rau màu, cây ăn trái… Thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng
nông thôn mới, nhiều địa phương đã khai thác những lợi thế, tiềm năng để thực
hiện thành công một số mô hình chuyển đổi sản xuất gắn với liên kết theo chuỗi
giá trị, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, góp phần nâng cao thu nhập. Nếu
như năm 2016, 17 xã thuần đồng bào dân tộc thiểu số có 2.029 hộ thuộc diện hộ
nghèo và 1.053 hộ thuộc diện hộ cận nghèo; thì đến năm 2019, 17 xã thuần đồng
bào dân tộc thiểu số có 1.258 hộ thuộc diện hộ nghèo và 1.492 hộ thuộc diện hộ
cận nghèo. Cùng với sự quan tâm đầu tư của nhà nước, đồng bào các dân tộc
thiểu số cũng tích cực tham gia các phong trào xây dựng nông thôn mới, đóng
góp công sức, hiến đất xây dựng kết cấu hạ tầng như: Làm cầu, đường giao thông
nông thôn, hệ thống thủy lợi, cải tạo vườn, trồng rau màu, phát triển chăn nuôi…
Việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước luôn được kịp thời, đáp ứng nguyện vọng và mang lại lợi ích thiết thực cho
đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
Về các chính sách cho công tác xóa đói, giảm nghèo cũng đã được các cấp
ủy đảng chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Chỉ tính riêng giai đoạn 2015-2020, hoạt
động này đã đã được nhiều kết quả đáng phấn khởi. Thông qua Ngân hàng chính
sách xã hội từ năm 2016 đến tháng 9/2019 đã giải ngân cho hơn 18 ngàn lượt hộ
nghèo, hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo vay vốn phát triển sản xuất, góp phần giúp
cho hơn 20 ngàn hộ vượt qua ngưỡng nghèo, cận nghèo và làm hạn chế tình trạng
tái nghèo. Đã cấp 100.248 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo và 98.003 thẻ bảo
hiểm y tế cho người thuộc hộ cận nghèo để khám, chữa bệnh. Thực hiện miễn,
giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho hơn 47.000 đối tượng là học sinh, sinh
viên đang học tại các cơ sở giáo dục trong và ngoài tỉnh với kinh phí 32.906 triệu
đồng. Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định số 33/2015/QĐ-TTg ngày 10/8/2015 của
Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn
nghèo giai đoạn 2011-2015, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân cho 116 hộ
vay vốn làm nhà ở, kinh phí thực hiện là 2.900 triệu đồng (mức cho vay 25 triệu
đồng/hộ), ngoài ra từ nguồn quỹ “Vì người nghèo” của địa phương hỗ trợ cho mỗi
hộ 15 triệu đồng để đảm bảo mỗi căn nhà tối thiểu là 40 triệu đồng. Địa phương đã
triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc
làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực số lao động được đào tạo nghề, chú
153
trọng đến công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là lao động
nông thôn thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo. Đã tổ chức đào tạo nghề, tạo việc làm
tại chỗ cho 2.845 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo (trong đó, đào tạo nghề
cho 739 lao động thuộc hộ nghèo và 817 lao động thuộc hộ cận nghèo; tạo việc làm
tại chỗ cho 1.289 lao động thuộc hộ nghèo). Chính sách hỗ trợ trực tiếp bằng tiền
mặt cũng được địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc, đã hỗ trợ tiền điện cho
176.359 lượt hộ nghèo và hộ chính sách xã hội, kinh phí thực hiện là 24.513 triệu
đồng (theo Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ quy định về
cơ cấu biểu giá bán lẻ tiền điện); hỗ trợ cho 56.997 người thuộc hộ nghèo vùng khó
khăn để mua sắm nguyên liệu, vật tư phục vụ sản xuất và đời sống, kinh phí thực
hiện là 4.916 triệu đồng (theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009
của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ
nghèo ở vùng khó khăn). Đã trợ giúp pháp lý cho 1.214 lượt người nghèo, người
cận nghèo về các lĩnh vực đất đai, hôn nhân gia đình ... Với những nỗ lực trên của
cả hệ thống chính trị, theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2019, tỷ lệ
hộ nghèo trên toàn tỉnh đã giảm 0,8%, vượt so với kế hoạch đề ra (0,7%). Đến
nay toàn tỉnh có 6.323 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,92% so với tổng số hộ toàn tỉnh và
15.173 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 4,61% so với tổng số hộ toàn tỉnh. Huyện Phú
Quý có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất (0,65%), huyện Tánh Linh có tỷ lệ hộ nghèo cao
nhất (4,48%).
Qua những thành tựu trên cho thấy, việc “chăm lo nâng cao đời sống nhân
dân” là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo và tiêu chí đánh giá sự hoàn
thành trách nhiệm của Đảng đối với Nhân dân. Để có được những sự thay đổi về
đời sống của Nhân dân, trước hết là nhờ sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, luôn đi
sâu đi sát đời sống của Nhân dân, lắng nghe, tháo gỡ những khó khăn từ đời sống
của Nhân dân để có những giải pháp mang tính đột phá cao. Sự quyết tâm của cả
hệ thống chính trị, sự đồng lòng của Nhân dân đã góp phần quan trọng đưa các
nghị quyết của Đảng vào đời sống. Trong những năm tiếp theo, các cấp ủy đảng
cần có những chỉ đạo quyết liệt, sâu sát nhằm tiếp tục nâng cao đời sống của
Nhân dân trong tỉnh nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo. Phải có những chủ
trương phù hợp như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa “Đảng
cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
154
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”38
. Theo đó, cần tập trung thực hiện tốt
những nhiệm vụ sau:
Một là, nâng cao nhận thức; đồng thời, cụ thể hóa việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, về chăm lo đời sống nhân
dân nói riêng với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân,
đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của mỗi cấp ủy và mỗi cán
bộ, đảng viên.
Hai là, gắn thực hiện nội dung chăm lo đời sống nhân dân với việc tập
trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách tại mỗi địa phương, cơ quan,
đơn vị; với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, phòng chống tham nhũng và
các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ luật
nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ
chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu,v.v.. cho nhân
dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ./.
38
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.612
155
VAI TRÕ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY BÌNH THUẬN ĐỐI VỚI
TRƢỜNG ĐẢNG TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN TỪ KHI
THÀNH LẬP NĂM 1962 ĐẾN THÁNG 4/1975 TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC
ThS. Nguyễn Lƣơng Luyện
(Trưởng Khoa LLCS - Trường Chính trị tỉnh)
Vai trò lãnh đạo của tỉnh ủy Bình Thuận đối với Trường Đảng tỉnh Bình
Thuận giai đoạn từ khi thành lập năm 1962 đến tháng 4/1975 trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước cần được nghiên cứu sâu sắc để rút tỉa những bài học
kinh nghiệm trong quá trình trưởng thành và phát triển của Trường Chính trị Bình
Thuận trong tình hình mới.
Tỉnh ủy Bình Thuận lãnh đạo Trường Đảng tỉnh Bình Thuận trong thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước đã trải qua các giai đoạn sau đây:
1. Giai đoạn từ năm 1962-1965: đào tạo bồi dƣỡng cán bộ đáp ứng yêu
cầu mới.
Kể từ năm 1961, Đế quốc Mĩ bắt đầu thực hiện “chiến lược chiến tranh đặc
biệt”, xương sống của chiến lược này là: “Kế hoạch Stalây-Taylo”, quốc sách ấp
chiến lược nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng (từ tháng 7 năm 1961
đến tháng 12 năm 1962). Ở Bình Thuận, chúng tiến hành nhanh cái gọi là “quốc
sách ấp chiến lược”, đánh ta toàn diện, đồng loạt ở các vùng với những thủ đoạn
khác nhau, ở đồng bằng chúng gom dân, lập khu trù mật và lập ấp chiến lược, xây
dựng, củng cố bộ máy kìm kẹp,.... Ở miền núi, vùng căn cứ của ta địch liên tiếp
đẩy mạnh các cuộc hành quân dài ngày với quy mô lớn gây cho ta nhiều thiệt hại.
Âm mưu của địch là triệt hạ, tiêu diệt lực lượng cách mạng, gom, xúc dân, đánh
phá hành lang, cơ sở sản xuất của ta, gây cho ta nhiều khó khăn.
Tháng 3/1962, tỉnh ủy Bình Thuận tiến hành hội nghị đề ra nhiệm vụ cơ
bản sau: xây dựng vùng căn cứ, vùng giải phóng một cách toàn diện; đẩy mạnh
phong trào chống, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng ta, thu hẹp vùng địch kiểm
soát; xây dựng lực lượng vũ trang tập trung tỉnh, huyện.
Về công tác tuyên huấn, công tác tư tưởng những năm 1961-1962, Tỉnh ủy
Bình Thuận đã chỉ đạo: “tăng cường công tác tư tưởng trong Đảng, củng cố, phát
triển Đảng, đoàn đều khắp, nhất là ở những địa phương quan trọng...”, “gấp rút
156
đào tạo cán bộ, kịp đáp ứng cho nhu cầu phong trào trước mắt”, “kiện toàn từng
bước bộ máy, huyện, tỉnh, trước hết là những ngành thiết yếu...”.
Như vậy yêu cầu duy trì và mở rộng phong trào cách mạng, xây dựng và
phát triển lực lượng trong toàn tỉnh đòi hỏi việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ đặt ra
ngày càng lớn, càng trở nên bức xúc, do đó Tỉnh ủy Bình Thuận quyết định thành
lập Trường Đảng tỉnh Bình Thuận vào năm 1962 trực thuộc Ban Tuyên Văn Giáo
Huấn và lấy tên Trường Trần Phú đặt tại căn cứ Sa Lôn, nay thuộc xã Đông
Giang, huyện Hàm Thuận Bắc. Khi mới thành lập, Trường Đảng tỉnh còn gặp
nhiều khó khăn về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ giảng viên, nhưng nhờ sự giúp
đỡ của cấp trên và lãnh đạo tỉnh nên đã vượt qua khó khăn về hậu cần cũng như
tài liệu, sách báo phục vụ cho giảng dạy; nội dung chương trình vẫn được đảm
bảo các vấn đề cơ bản: tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam; Nghị quyết số
15 của Trung ương Đảng, công tác Dân vận (5 bước công tác vận động quần
chúng; công tác binh vận; chiến tranh nhân dân (du kich chiến tranh); công tác
xây dựng Đảng; tự phê bình và phê bình; phương pháp tư tưởng; giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Tài liệu sách báo phục vụ học tập được sự hỗ trợ từ miền Bắc và
Trung ương Cục miền Nam phục vụ tốt cho công tác giảng dạy. Về đội ngũ giảng
viên ngoài các đồng chí giảng viên của trường còn có sự đóng góp về công tác
giảng dạy của các đồng chí trong Ban Thường vụ tỉnh ủy (các đồng chí Lê Văn
Hiền, Nguyễn Gia Tú, Lê Văn Triều).
Từ cuối năm 1963-1965 phong trào cách mạng ở miền Nam nói chung, ở
Bình Thuận nói riêng phát triển khá mạnh, vùng giải phóng được mở rộng, liên
hoàn nối liền từ miền núi đến đồng bằng ven biển. Bộ máy ngụy quyền ở Sài Gòn
rối ren do đảo chính liên tiếp. Bọn ngụy quân, ngụy quyền ở Bình Thuận cũng bị
xuống thế. Thanh niên và cốt cán ở Bình Thuận tham gia cách mạng ngày càng
đông. Do vậy yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ càng cấp bách và việc mở lớp
của Trường Đảng tỉnh ủy thuận lợi hơn, số đối tượng học viên cũng được mở
rộng hơn, quy mô lớp học đông hơn, mỗi lớp từ 40 đến 50 học viên, thời gian học
dài hơn, nội dung chương trình học sâu kỹ và có chú ý hơn đến phần thực hành,
nhất là về kỹ thuật đặc công, cách đột nhập vào ấp, cách rà gỡ bom mìn.
Trong những năm 1962-1965, Trường Đảng mới ra đời nhưng đã phát huy
tác dụng tốt, trường đã mở được 7 lớp với khoảng 250 học viên. Ở giai đoạn này,
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đã
góp phần tích cực vào việc đánh bại quốc sách ấp chiến lược của địch, giải phóng
157
làm chủ một vùng rộng lớn; đẩy địch co cụm vào thị xã, quận huyện, ép địch vào
thế phòng ngự để bảo vệ ở quận huyện, hạn chế sự càn quét đánh phá của chúng.
2. Giai đoạn 1966-1968: đào tạo, huấn luyện cán bộ đáp ứng yêu cầu
trực tiếp đánh quân xâm lƣợc Mĩ và tham gia chiến dịch tổng tấn công xuân
Mậu Thân.
Giai đoạn 1966-1967 Mỹ và các nước chư hầu ồ ạt đưa quân vào Bình
Thuận ngày càng đông với nhiều phương tiện vũ khí hiện đại và thủ đoạn đánh
phá vô cùng ác liệt. Chúng huy động tổng lực xe tăng, pháo, các loại máy bay bắn
phá vùng căn cứ giải phóng suốt ngày đêm; nhiều trận càn quét quy mô lớn, liên
tiếp, dài ngày gây cho ta nhiều tổn thất, khó khăn, đảo lộn toàn diện.
Thế của ta ở ba vùng đều bị đảo lộn; vùng giải phóng, vùng tranh chấp và
vùng địch tạm chiếm. Ác liệt nhất là vùng giải phóng, nhất là vùng căn cứ Lê
Hồng Phong. Điều đáng lo nhất là lúc này ta lúng túng chưa biết cách đánh quân
Mỹ, chưa tìm được biện pháp chống chiến thuật “trực thăng vận”, cách chống xe
tăng, pháo, máy bay cán gáo. Trước tình hình đó có một bộ phận nhỏ cán bộ,
chiến sĩ, đồng bào dao động, sợ Mỹ, không dám đánh Mỹ, thậm chí có người đầu
hành giặc.
Trước những khó khăn, đảo lộn nhiều mặt Tỉnh ủy Bình Thuận chỉ đạo
phải chuyển động toàn diện về tổ chức, phương thức hoạt động cũng như công tác
chính trị, tư tưởng, công tác huấn học, đào tạo cán bộ, chiến sĩ.
Nói chung, nội dung công tác tuyên truyền, công tác giảng dạy của Trường
Đảng tỉnh nói riêng cũng phải được bổ sung chương trình sát hợp thiết thực và
hiệu quả góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở và chiến trường đang
mong đợi.
Tỉnh ủy Bình Thuận chủ trương phải tìm cách đánh quân Mỹ, đánh có kết
quả đồng thời tăng cường phổ biến kinh nghiệm, giáo dục chính trị tư tưởng kịp
thời; củng cố niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Muốn vậy phải giải quyết
tư tưởng sợ Mỹ, phải dám đánh Mỹ.
Vì vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận, chính trị, công tác tư tưởng,
công tác tuyên truyền đối với cán bộ, chiến sĩ, cơ sở hoạt động bí mật và nhân
dân ở giai đoạn này là giải quyết tư tưởng sợ Mỹ, ngán ngại trong việc đánh Mỹ
cũng như sự lúng túng về phương thức chiến tranh tác chiến của một số cán bộ,
chiến sĩ.
158
Ngày 04/9/1966, Tỉnh ủy đã mở hội nghị chuyên đề tại huyện Hàm Thuận
để tìm nguyên nhân tại sao bộ đội, du kích chưa đánh được Mỹ và đã rút ra giải
pháp đánh Mỹ.
Từ tình hình, nhiệm vụ chung của tỉnh: nội dung công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng được Tỉnh ủy chỉ đạo như sau: Động viên quyết tâm của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phân công cán bộ,
nhất là đội công tác bám sát địa bàn hoạt động; phát huy mạnh mẽ tinh thần cách
mạng tiến công, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp
cách mạng, vừa đánh Mỹ vừa rút kinh nghiệm để tìm cách đánh địch hiệu quả nhất.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Trường Đảng đã tranh thủ được sự phối hợp
chặt chẽ của các ban ngành, đoàn thể, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được
giao, nhất là nhiệm vụ mở lớp để truyền đạt ý kiến chỉ đạo của tỉnh ủy.
Từ năm 1966 đến năm 1968, Trường Đảng tỉnh Bình Thuận đã mở được 5
khóa học với trên 200 học viên. Sau mỗi khóa học, tất cả các học viên đều được
nâng lên toàn diện cả về nhận thức, quan điểm, lập trường, phương pháp, kỹ năng
công tác; đặc biệt là niềm tin được củng cố, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược. Mỗi người học cảm nhận được truyền thêm lửa để trở về đơn vị tiếp tục
chuyển lửa cho đồng chí, đồng đội, đồng bào tiếp tục chiến đấu và công tác tốt hơn.
Trong giai đoạn 1966-1968, trước sự đánh phá ác liệt của địch, Trường
Đảng Bình Thuận gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự chỉ đạo của Tỉnh ủy đã đoàn
kết khắc phục khó khăn, trường đã đứng vững, vượt lên hoàn thành nhiệm vụ.
3. Giai đoạn 1969-1972: công tác đào tạo bồi dƣỡng cán bộ đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ chống âm mƣu bình định của địch.
Nhằm thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” từ cuối năm 1968
đến năm 1972, ở Bình Thuận địch ra sức “bình định đặc biệt”, “bình định cấp
tốc”, “bình định củng cố”. Với chiến thuật “quét và giữ”, quyết tiêu diệt cơ sở cốt
cán tại chỗ, đẩy lực lượng ta bật ra ngoài, xa dân, xa ấp chiến lược, chiếm lại
vùng giải phóng khiến chúng ta gặp nhiều khó khăn.
Tháng 7/1970, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận chủ trương “liên tục đẩy
mạnh tấn công và nổi dậy trên khắp 3 vùng, bằng 3 mũi giáp công tại chỗ”, “quét
sách ngụy quyền cơ sở, đánh sụp ngụy quyền quận, tỉnh, góp phần đánh bại kế
hoạch bình định, đẩy địch vào tình thế suy yếu mới cả thế lẫn lực, giành quyền
làm chủ đại bộ phận nông thôn và phần lớn trong thị xã, chủ yếu là cơ sở; đồng
thời làm lỏng rã vùng còn lại”.
159
Từ chủ trương và nhiệm vụ nói trên, bám sát chủ trương của Tỉnh ủy, nội
dung giáo dục chính trị, tư tưởng nói chung, nội dung giảng dạy của Trường
Đảng nói riêng liên tục được đổi mới, sát thực tế.
Để kịp thời bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để thay thế số chủ chốt đã hy sinh:
những năm 1969-1972, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo trường phải nghiên cứu đổi
mới phương thức hoạt động, tổ chức đa dạng các loại hình lớp: tập trung dài
ngày, bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày; lớp ở trường, lớp lưu động ở huyện.
Trước khi có Hiệp định Paris (27/1/1973) để phục vụ cho việc “chờm lên
giành chính quyền”, Tỉnh ủy Bình Thuận đã chỉ đạo mở lớp khóa 20 nhằm bồi
dưỡng, chuẩn bị lực lượng để trực tiếp tham gia giành, tiếp quản, xây dựng chính
quyền của ta khi thời cơ đến. Thời điểm này công tác tư tưởng nói chung, công
tác huấn học nói riêng là tập trung giải quyết vấn đề mục tiêu đàm phán để thành
lập chính quyền 3 thành phần (mặt trận giải phóng, ngụy quyền Sài Gòn và thành
phần thứ ba) nhưng ta phải nắm vững quan điểm của Đảng ta về chiến lược là
cầm chắc tay súng, dùng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam.
Về nội dung chính khóa của các lớp học trong giai đoạn này (1969-1972)
gồm 2 phần: phần cơ bản tương đối ổn định, còn lại là nội dung uyển chuyển, linh
hoạt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời diểm, giải quyết tình hình
thực tiễn đang đặt ra cho từng lớp học.
Từ năm 1971 trở về sau, Trường được củng cố khá toàn diện. Đội ngũ
giảng viên ngày thêm phong phú, giảng viên của trường trong giai đoạn này ngoài
các giảng viên thường trực của trường còn có bổ sung lực lượng giảng viên mới ở
tỉnh, kỹ năng giảng dạy tốt hơn. Đời sống vật chất và tinh thần của khung trường
và học viên cũng khá, phương tiện dạy và học từng bước đầy đủ hơn.
Kết quả từ năm 1969 đến năm 1972, trường Đảng tỉnh Bình Thuận đã mở
được 8 khóa với khoảng 350 học viên. Qua các lớp học đã giúp học viên trang bị
được kiến thức cơ bản hiểu về âm mưu, thủ đoạn của Mỹ-Ngụy (Mỹ đang từng
bước xuống thang chiến tranh, rút quân và chuyển dần cho chính quyền Ngụy),
bước đầu chuẩn bị tinh thần vào tiếp quản chính quyền, xây dựng chính quyền
cách mạng, xử lý bộ máy ngụy quân, ngụy quyền như thế nào.
4. Giai đoạn 1973 - 1975: đào tạo cán bộ phục vụ yêu cầu đánh cho
Ngụy nhào-giải phóng quê hƣơng.
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được
ký kết - mở ra bước ngoặt mới. Quân Mỹ và chư hầu phải rút khỏi miền Nam.
160
Bọn địch ở Bình Thuận vẫn không thực hiện lệnh ngừng bắn, chúng xua quân
phản kích nhằm cắm cờ, giành đất, chiếm lại những vùng ta vừa “chồm lên”
giành quyền làm chủ, ở vùng tạm chiếm địch ráo riết đôn quân, bắt lính, củng cố
xây nhiều đồn bốt, tăng cường thêm các phân chi cảnh sát để kìm kẹp quần
chúng.
Đứng trước tình hình này, ngày 27/9/1973 Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận
đưa ra chỉ thị: “Tập trung sức tấn công 3 mũi kết hợp với phát huy pháp lý Hiệp
định, vận dụng các lực lượng toàn diện tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh bại âm
mưu bình định lấn chiếm mới của địch, kết chặt với các trọng tâm công tác trước
mắt như đấu tranh với địch trên mặt trận lúa gạo, tích cực bảo vệ mùa màng, kết
hợp việc xây dựng căn cứ giải phóng vững mạnh.
Căn cứ tình hình này, nội dung chương trình giảng dạy của nhà trường
được bổ sung nhiều vấn đề đổi mới, ngoài phần cơ bản ổn định, chương trình đã
được bổ sung các vấn đề cơ bản về âm mưu, thủ đoạn của địch sau khi có Hiệp
định Paris; tình hình khó khăn đảo lộn của chế độ Sài Gòn nói chung, bọn ngụy
quân, ngụy quyền ở Bình Thuận nói riêng; nội dung Hiệp định Paris và Nghị định
thư; ý nghĩa pháp lý của Hiệp định Paris trong đấu tranh với địch;....
Những giảng viên chủ lực của giai đoạn này, ngoài lực lượng giảng viên
chính của trường, còn được bổ sung từ các đồng chí trong Tỉnh ủy và cán bộ chủ
chốt của các ban ngành của tỉnh. Kết quả đào tạo giai đoạn 1973-1975 Trường
Đảng Bình Thuận đã đào tạo được 5 khóa với khoảng trên 200 học viên và giúp
cho học viên phát huy tác dụng về lại chiến trường xưa, góp phần thực hiện tốt
công tác tiếp quản, xây dựng chính quyền mới sau khi Miền nam được giải phóng
hoàn toàn.
Trải qua hơn 12 năm kể từ khi thành lập năm 1962 đến năm 1975, Trường
Đảng tỉnh Bình Thuận dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bình Thuận đã trải qua
chặng đường đầy tự hào vinh quang trong sự nghiệp đào tạo, huấn luyện bồi
dưỡng cán bộ cho tỉnh nhà.
Trường Đảng tỉnh Bình Thuận đã hoàn thành tốt nhiệm vụ về công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ giai đoạn 1962-1975, góp phần vào sự thắng lợi chung của
cả nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là do nhiều yếu tố.
Trước hết là do sự quan tâm lãnh đạo sáng suốt của Tỉnh ủy Bình Thuận,
nhất là Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo sâu sát, trực tiếp, toàn diện mọi mặt
trong các khâu đào tạo của nhà trường: tổ chức nhân sự của trường, nội dung
161
giảng dạy, công tác hậu cần,.... Từ đây có thể khẳng định sự thành công đạt được
nhiều thành tích của Trường Đảng tỉnh trước đây cũng như Trường Chính trị
Bình Thuận sau này đều cần phải có sự lãnh đạo sát sao, quan tâm của Tỉnh ủy
Bình Thuận, trước hết là Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Thứ hai và đội ngũ giảng viên của trường, ngoài các đồng chí giảng viên cơ
hữu tại chỗ còn có sự tham gia giảng dạy trực tiếp của các vị lãnh đạo trong Ban
Thường vụ Tỉnh ủy và giảng viên là các trưởng ban ngành của tỉnh lúc bấy giờ.
Đây là đội ngũ góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường,
vì đây là những người vừa là lãnh đạo vừa là người thầy giáo đầy kinh nghiệm
thực tiễn, nắm chắc tình hình, nhiệm vụ của tỉnh nhà đã truyền đạt kiến thức giúp
cho học viên hiểu được, nắm chắc nội dung bài, có khả năng vận dụng kiến thức
vào điều kiện công tác của mỗi học viên. Thiết nghĩ từ kinh nghiệm quý báu này
trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần phải khôi phục lại kinh nghiệm này để các
vị lãnh đạo của tỉnh tham gia giảng dạy và báo cáo tình hình thực tế của tỉnh
nhằm thể hiện sự quan tâm lãnh đạo sâu sát, động viên tinh thần học tập của học
viên và giúp nội dung giảng dạy phong phú hơn.
Thứ ba về nội dung chương trình giảng dạy của trường trong giai đoạn
1962-1975 ngoài phần lý luận cơ bản thì luôn được cập nhật, bổ sung sát với nhu
cầu tình hình thực tiễn của chiến trường tỉnh nhà đã giải đáp được những yêu cầu
bức xúc giúp học viên có khả năng vận dụng tốt những điều đã được học ở trường
vào tình hình thực tiễn của từng đơn vị, địa phương. Điều này trong giai đoạn
hiện nay chúng ta cần phát huy kinh nghiệm này. Về nội dung chương trình giảng
dạy ngoài phần trang bị lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin giúp trang bị phương pháp
luận khoa học, nâng cao quan điểm, lập trường của Đảng thì cần phải chú ý phần
quản lý, nghiệp vụ khi học về có thể ứng dụng tốt.
162
KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU, LÝ TƢỞNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC, GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG, BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Huyện ủy Hàm Thuận Bắc
Hôm nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức buổi Hội thảo khoa học với chủ
đề: “Đảng bộ tỉnh Bình Thuận - 90 năm hình thành và phát triển”. Thay mặt Ban
Thường vụ Huyện ủy Hàm Thuận Bắc, tôi tham gia phát biểu nhấn mạnh và làm
rõ thêm một số vấn đề về lịch sử 90 năm của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận. Từ thực
tế tình hình của tỉnh cho chúng ta thấy, trong suốt chặng đường đấu tranh cách
mạng đã trãi qua 2 cuộc chiến tranh xâm lược chống thực dân Pháp và và đế quốc
Mỹ đầy hy sinh, gian khổ; cũng như qua 45 năm sau khi nước nhà thống nhất,
thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển, bất luận dù trong hoàn cảnh, điều kiện
nào thì Đảng bộ tỉnh Bình Thuận vẫn luôn giữ vững quan điểm, lập trường“kiên
định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong công
cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam”.
Kính thưa các đồng chí và các vị đại biểu !
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến chi bộ đầu tiên của
tỉnh Bình Thuận hình thành đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh từ tự phát đã chuyển
thành ý thức tự giác thực hiện theo cương lĩnh đầu tiên của Đảng để cùng với cả
nước đấu tranh chống Thực dân Pháp, đánh đổ phong kiến, giành độc dâp cho dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó càng được thể hiện rõ nét trong
quá trình lãnh đạo nhân dân Bình Thuận trong suốt chặn đường đấu tranh giành
cách mạng. Mặc dù, trong những ngày đầu cách mạng, những người lãnh đạo
phong trào Cộng sản ở Bình Thuận và Nhân dân Bình Thuận đã bị thực dân Pháp,
khủng bố, đàn áp, bắt bớ, tù đày, có lúc phong trào cách mạng tưởng chừng bị
khủng bố trắng, nhưng Đảng bộ và Nhân dân Bình Thuận vẫn kiên trung, một
lòng theo Đảng, theo cách mạng, kiên định thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội mà cương lĩnh đầu tiên của Đảng đề ra để cùng với Nhân dân cả
nước làm nên cuộc cách mạng Tháng Tám, giành lấy chính quyền.
Ngay sau khi chính quyền cấp tỉnh ở Bình Thuận đã về tay Nhân dân, mặc
163
dù có những hành động khiêu khích, tấn công chống phá chính quyền cách mạng
của kẻ thù, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Nhân dân Bình Thuận kiên
quyết bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được, đồng thời củng cố chính
quyền các cấp để bảo vệ mục tiêu độc lập dân tộc.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, ở Bình Thuận
quân Nhật trở lại đóng chốt ở các vị trí cũ trước tháng 8/1945 và quân Pháp, quân
Anh đã đổ bộ vào một số khu vực. Đảng bộ và Nhân dân Bình Thuận tiếp tục đấu
tranh chống lại kẻ thù để giữ lấy chính quyền non trẻ mới ra đời. Hưởng ứng lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Bình
Thuận đã liên tục tấn công tiêu diệt địch góp phần cùng với cả nước thực hiện
nhiệm vụ đánh đổ thực dân Pháp buộc phải ngồi vào bàn ký Hiệp định Giơnevơ
lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, Mỹ đã bội ước, đưa quân xâm
lược nước ta, Bình Thuận là tỉnh thuộc cực Nam Trung Bộ nên cũng như các điạ
phương từ vĩ tuyến 17 trở vào đã bị Mỹ- Diệm công khai xóa bỏ Hiệp định, bọn
phản động ở các địa phương ra sức đánh phá phong trào cách mạng một cách tàn
bạo, tổ chức Đảng và cơ sở quần chúng bị bễ vỡ nhiều nơi. Để thực hiện mục tiêu
đấu tranh giành độc lập dân tộc, Liên khu ủy V chỉ đạo chuyển hướng chiến lược
hợp pháp và nữa hợp pháp để tạo thế đứng mới trong vùng địch để đấu tranh bảo
vệ thành quả cách mạng.
Quá trình lãnh đạo chuyển hướng chiến lược cách mạng, phong trào cách
mạng ở Bình Thuận gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ và Nhân dân Bình
Thuận vẫn kiên định mục tiêu giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Suốt chiều dài
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và Nhân dân Bình Thuận
phải đương đầu với phương thức, thủ đoạn, phương tiện chiến tranh hiện đại, với
việc dồn dân lập ấp, lê máy chém khắp nơi tìm và tiêu diệt những người tham gia
kháng chiến...Thủ đoạn của kẻ thù tàn bạo, dã man đến đâu cũng không khuất
phục và làm xóa nhòa ước muốn của người dân Bình Thuận. Họ đã cống hiến sức
người, sức của để làm nên chiến thắng vĩ đại giành độc lập dân tộc, thống nhất
Tổ quốc.
Sau khi nước nhà thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Nhân dân
Bình Thuận bắt tay xây dựng quê hương, hàn gắn vết thương chiến tranh, thực
hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện những năm đầu sau
giải phóng, kinh tế xã hội tỉnh nhà gặp muôn vàn khó khăn, tình hình biên giới
164
Tây Nam và biên giới phía bắc, kẻ thù bên ngoài một lần nữa gây chiến tranh đối
với nước ta. Một lần nữa Nhân dân Bình Thuận phải tiếp tục vửa sản xuất để xây
dựng quê hương theo con đường xã hội chủ nghĩa, con em Bình Thuận lại tiếp tục
lên đường làm nhiệm vụ quốc tế giúp Campuchia và đấu tranh chống Trung Quốc
xâm lược.
Bước vào thời kỳ đổi mới, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VI và
được Đại hội VII bổ sung phát triển, Đảng bộ Bình Thuận đề ra các giải pháp để
đưa nền kinh tế tỉnh nhà ra khoải những khó khăn, thử thách. Trãi qua các kỳ Đại
hội, mỗi lẫn Đảng bộ Bình Thuận lại kế thừa và vận dụng những kinh nghiệm
được đúc kết trong hai cuộc chiến tranh, đề ra những chủ trương thích hợp với
từng thời kỳ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Kính thưa các đồng chí và các vị đại biểu !
Chín mươi năm, kể từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời- 90 năm kể từ
chi bộ đầu tiên của Bình Thuận thành lập, một trong những bài học kinh nghiệm
rút ra của Đảng ta nói chung và của Đảng bộ Bình Thuận nói riêng đó là “luôn
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Bài học đó trong thực tế
đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân Bình Thuận đã được tôi trình bày
trong tham luận này qua các giai đoạn cách mạng và cho chúng ta thấy trong lúc
cách mạng khó khăn nhất, kiên định mục tiêu này chắc chắn cách mạng sẽ vượt qua.
Trong bối cảnh hiện nay toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, hơn
bao giờ hết, Đảng bộ Bình Thuận phải tiếp tục phát huy bài học phải “kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới”, tập trung
giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong quá trình phát triển của tỉnh nhà (giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; giữ phát triển tỉnh nhà nhanh với bền vững, gắn với giải
quyết các vấn đề xã hội..... ) càng phải được thấm nhuần, chủ động và kiên trì
thực hiện.
Trước những thời cơ, vận hội và khó khăn, thách thức đan xen, bên cạnh
những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh tỉnh ta
đạt được trong thời gian qua, chúng ta đang phải đối mặt với những hạn chế, yếu
kém trong công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với các biểu hiện cá nhân chủ
nghĩa, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hóa quyền lực của một bộ
165
phận cán bộ, đảng viên trong tỉnh chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách triệt để.
Trong khi đó, trên bình diện quốc tế, tác động tiêu cực của tình hình như
xung đột sắc tộc, tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và
tài nguyên, nhất là vấn đề tranh chấp Biển Đông đang diễn biến phức tạp. Các thế
lực phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng
mạng xã hội kích động biểu tình, bạo loạn, lật đổ, chống phá quyết liệt. Không
chỉ lợi dụng các chiêu bài bôi nhọ, phủ nhận thành tựu về mọi mặt của Việt Nam,
các thế lực phản động còn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản - nhân tố
quyết định cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội; phủ nhận và cho rằng con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa là sai lầm, dẫn đến nước nhà tụt hậu. Tất cả những
yếu tố đó đã và đang đặt ra yêu cầu vừa cấp thiết vừa kiên trì để bảo vệ độc lập
dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và kiên định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đối với Đảng bộ và Nhân dân Bình Thuận.
Đón nhận thời cơ và đối diện thách thức, Đảng ta và Nhân dân Bình Thuận
nhất quán thực hiện nguyên tắc đặt lợi quốc gia, dân tộc lên đầu, giữ vững độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chế độ chính trị xã hội
chủ nghĩa, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Thế giới dù có nhiều đổi thay, Đảng bộ và Nhân dân Bình Thuận luôn kiên
định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt,
không chỉ tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho con đường phát triển cách mạng của
Bình Thuận 90 năm qua và là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhân nguồn sức mạnh tinh thần,
thống nhất về tư tưởng, ý chí, hành động của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh nhà, đấu
tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, về những thành tựu trong công cuộc đổi mới đã và đang trở
thành hiện thực sinh động. Bình Thuận sẽ tiếp tục kiên trì và thực hiện mục tiêu
đó./.
166
CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THỰC SỰ TRONG SẠCH,
VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ TRONG
GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI
Đảng ủy Công an tỉnh
Đảng ta ra đời vào mùa xuân (3/2/1930) - một ngày lịch sử đi vào trái tim
của triệu triệu người con đất Việt, mùa xuân của đất nước và dân tộc với tràn đầy
hạnh phúc và ước vọng. Như một lẽ tự nhiên, hằng năm, cứ vào độ tết đến, xuân
về là cả dân tộc Việt Nam lại hân hoan, tưng bừng đón chào năm mới, chào mừng
kỷ niệm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Suốt 90 năm lãnh
đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức được vị trí, vai trò,
trọng trách của mình trước vận mệnh dân tộc, tương lai của đất nước. Vì vậy,
Đảng luôn hòa cùng hơi thở và mạch sống của nhân dân, ý Đảng hợp lòng dân tạo
nên sức mạnh quật khởi, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Vì vậy, suốt 90 năm qua, Đảng ta vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt
Nam, được nhân dân tin yêu bởi Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng đến công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Trong
Cương lĩnh, văn kiện các kỳ Đại hội Đảng đều đề cập đến công tác xây dựng
Đảng và Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành rất nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết
luận về xây dựng Đảng. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”.
Do đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề không bao giờ nguôi tính
thời sự và tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhằm xây dựng tổ chức đảng
trong sạch, vững mạnh và thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình. Nghị quyết số
04 - NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng là một trong những nghị quyết có ý
167
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng và đối với cả sự nghiệp
cách mạng nước ta nói chung và Đảng bộ tỉnh Bình Thuận nói riêng.
Xác định Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng là một
Nghị quyết quan trọng nhằm tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình hiện nay, Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã ban hành Chương trình hành động số 12 -
NQ/TU, ngày 14/12/2016 về thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Chương trình hành động đã xác định rõ 11 nhiệm vụ, giải pháp
nhằm thực hiện đồng bộ, toàn diện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Các địa
phương, cơ quan, đơn vị đã có những chuyển biến tích cực trong thực hiện nhiệm
vụ và đã đạt được những kết quả nhất định, trọng tâm là:
- Công tác tổ chức cán bộ, quản lý cán bộ thực hiện thận trọng, đúng quy
định và ngày càng chặt chẽ hơn. Công tác quy hoạch cán bộ đã được các cấp ủy
tập trung thực hiện đúng quy trình, khách quan, công tâm, minh bạch. Tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, bí thư cấp ủy, người
đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Tăng cường
công tác thể chế hóa, cụ thể hóa các quy định của Trung ương về công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ. Căn cứ các văn bản quy định, kết luận, hướng dẫn của
Trung ương, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chủ động và kịp thời ban hành
hệ thống các văn bản chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện về tiêu chuẩn cán bộ,
về phân cấp quản lý cán bộ, về bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ…
- Các địa phương, cơ quan, đơn vị tích cực chủ động nắm bắt, phát hiện,
giải quyết những vấn đề tư tưởng phát sinh trong nội bộ; tăng cường công tác
giáo dục, rèn luyện phong cách, ý thức trách nhiệm trong công việc khi tiếp xúc
với nhân dân. Cán bộ, đảng viên đã nắm và nhận diện rõ hơn về những biểu hiện
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, nắm được mục tiêu, quan điểm,
nhiệm vụ và các giải pháp trong Nghị quyết của Trung ương cũng như Chương
trình hành động của Tỉnh ủy và kế hoạch, chương trình hành động của cấp mình.
Qua đó, mỗi cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu đã xác định rõ hơn nội
dung công việc, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu, đặt
168
lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Đảng. Quy trình xử lý công việc của các cơ quan, đơn vị tiếp tục được rà
soát, bổ sung, hoàn thiện theo hướng tăng cường trách nhiệm và giải quyết công
khai minh bạch trong thực thi nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức đối với
người dân ngày càng tốt hơn.
- Hoạt động giám sát của HĐND các cấp, nhất là cấp tỉnh đã tập trung vào
những vấn đề trọng tâm, trọng điểm trong phát triển kinh tế - xã hội, trong xây
dựng cơ bản, các dự án đầu tư, ngân sách, quy định pháp luật về bảo vệ môi
trường và chế độ, chính sách. Thực hiện nghiêm túc công tác tiếp công dân định
kỳ; tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và công tác chất vấn
trong các kỳ họp HĐND tỉnh. Bên cạnh việc tiếp dân, Thường trực HĐND tỉnh
đã nhận được hơn 200 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân và
chỉ đạo xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Định kỳ hằng quý, Thường trực
HĐND tỉnh rà soát các cơ quan chức năng giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân do Thường trực HĐND tỉnh chuyển đến và đã có nhiều văn bản đôn
đốc các đơn vị, địa phương báo cáo kết quả giải quyết các trường hợp khiếu nại,
tố cáo cụ thể của công dân đã quá thời hạn giải quyết. Đối với những vụ việc bức
xúc, phức tạp, kéo dài hoặc do Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo, Thường trực HĐND
tỉnh giao, Ban Pháp chế HĐND tổ chức giám sát, báo cáo Thường trực HĐND
tỉnh. Hằng tháng, Thường trực HĐND tỉnh nghe và cho ý kiến về công tác giám
sát các vụ khiếu nại kéo dài, nổi cộm, bức xúc và tình hình xử lý đơn thư và việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Việc phân công, phân cấp trong thực thi công vụ hành chính ngày càng cụ
thể, rõ ràng, phù hợp với quy định của Trung ương và phát huy tính năng động,
sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi ngành, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chức năng quản lý nhà nước của từng cấp, từng
ngành; không để xảy ra tình trạng “xin - cho”, “lợi ích nhóm”, “sân sau” và trục
lợi. Việc sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh Bình Thuận gắn
với cơ chế tự chủ bước đầu được thực hiện nghiêm túc, kịp thời. Bên cạnh đó,
tỉnh đã quản lý biên chế chặt chẽ gắn với thực hiện tinh giản biên chế; thực hiện
tốt cơ chế kiểm soát quyền lực gắn với xử lý, kỷ luật cán bộ, công chức, viên
chức, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ luật đảng và kỷ luật hành chính
Nhà nước. Từng bước cụ thể hóa quy định và khảo sát mức độ hài lòng của tổ
chức, cá nhân và doanh nghiệp đối với sự phục vụ của cơ quan quản lý nhà nước
169
trong giải quyết thủ tục hành chính công trên địa bàn. Bước đầu chỉ đạo các cơ
quan liên quan nghiên cứu, tham mưu việc thực hiện tốt cơ chế giải trình và giám
sát sự tăng, giảm tài sản của cán bộ, đảng viên theo quy định.
- Các cơ quan tố tụng phối hợp với các cơ quan liên quan đẩy nhanh việc
xét xử những vụ án tham nhũng, lãng phí gây thất thoát tài sản Nhà nước nhất là
những vụ án được dư luận, nhân dân quan tâm và công khai kết quả xử lý, kịp
thời trấn an dư luận; công tác thanh tra, kiểm tra cũng được tăng cường đối với
các lĩnh vực dư luận quan tâm, dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn toàn tỉnh;
thường xuyên phối hợp, phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội
phạm qua công tác thanh tra, kiểm tra.
- Lực lượng vũ trang tỉnh thường xuyên duy trì nghiêm túc chế độ sẵn sàng
chiến đấu, phối hợp tham mưu cấp ủy, chính quyền các cấp xử lý các tình huống
phát sinh; sẵn sàng huy động nhân lực, tàu thuyền và phương tiện dân sự tham gia
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo; các tình huống trên Biển Đông
được duy trì thường xuyên; đồng thời, thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới theo Nghị quyết số 28 - NQ/TW, ngày 25/10/2013
của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI); Chỉ thị số 46 - CT/TW, ngày
22/6/2015 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới”….Triển khai quy hoạch xây
dựng thế trận hậu cần - kỹ thuật khu vực phòng thủ, xây dựng cơ sở hạ tầng của
căn cứ hậu cần - kỹ thuật trong thời bình phục vụ cho thời chiến cấp tỉnh và cấp
huyện; tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn kết với xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn
dân. Qua các vụ việc nổi cộm trên xảy ra trên địa bàn, lực lượng vũ trang đã chủ
động tham mưu các giải pháp, biện pháp nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các
đối tượng lợi dụng các vấn đề, vụ việc xảy ra trên địa bàn mang tính chất nhạy
cảm để kích động lôi kéo người dân chống phá; đề xuất chủ trương, giải pháp cụ
thể trong công tác đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm xâm phạm đến trật
tự xã hội trên khu vực biên giới; phối hợp với các ngành, tổ chức chính trị, xã hội
trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Đối với Đảng bộ Công an tỉnh, thời gian qua, Đảng ủy, mà tập trung và
thường xuyên là Ban Thường vụ Đảng ủy luôn xác định, bên cạnh nhiệm vụ đảm
bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội góp phần phục vụ phát triển kinh tế xã
170
hội ở địa phương, thì công tác xây dựng tổ chức đảng và xây dựng lực lượng
Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, cán bộ đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới là nhiệm vụ trọng tâm, hàng
đầu của Đảng bộ Công an tỉnh, nhất là từ khi triển khai thực hiện kiểm điểm tự
phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI, Khóa
XII) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đảng ủy Công an tỉnh luôn quan, tâm, củng
cố kiện toàn tổ chức đảng và cấp ủy viên các cấp luôn bám sát các quy định của
Bộ Chính trị về tổ chức đảng trong Công an nhân dân và phù hợp với tổ chức bộ
máy của Công an tỉnh; việc chấp hành chế độ, nội dung sinh hoạt chi bộ theo quy
định, phân công cán bộ, lãnh đạo đơn vị chuyên trách tham dự sinh hoạt chi bộ,
đảng bộ cơ sở nhằm theo dõi việc đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi
bộ, phát huy tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình và phê bình, nâng cao ý thức tổ
chức kỷ luật của đảng viên; xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở thật sự là hạt nhân
lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, quản lý, giám sát và rèn luyện đội ngũ
đảng viên, góp phần xây dựng chi bộ, đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Cấp ủy các cấp luôn phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
đảng; hàng tháng và cuối năm, cấp ủy các cấp đều tổ chức kiểm điểm việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Những chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn của Đảng, của Bộ Công an về
công tác tổ chức, cán bộ được Đảng ủy Công an tỉnh tổ chức quán triệt, triển khai
thực hiện kịp thời, nhất là chủ trương về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công
an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và chủ trương của Bộ về bố trí Công an
chính quy đảm nhiệm các chức danh Công an xã, chủ trương “tăng cường cơ sở.
Qua đó, nhận thức, vai trò, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, lãnh đạo Công an các
cấp, nhất là người đứng đầu được nâng lên; các khâu của công tác cán bộ từng
bước được đổi mới, có sự liên thông, củng cố theo hướng tinh gọn, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
Tổ chức bộ máy Công an các đơn vị, địa phương tiếp tục được củng cố,
kiện toàn theo hướng hợp lý, đảm bảo vận hành có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra, nhất là sau khi triển khai thực hiện Nghị định số 01/2018/NĐ-
CP, ngày 06/8/2018 của Chính phủ và các Thông tư, Quyết định của Bộ trưởng
Bộ Công an quy định về tổ chức bộ máy Công an các cấp. Công an tỉnh đã triển
khai tổ chức bộ máy của Công an tỉnh, tổ chức bộ máy của Công an cấp huyện, tổ
171
chức bộ máy của các đơn vị cấp phòng và triển khai bố trí Công an xã chính quy
theo Luật Công an nhân dân năm 2018. Đi đôi với triển khai củng cố, kiện toàn
mô hình tổ chức bộ máy thì chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công an tỉnh,
Công an các đơn vị, địa phương, Công an phường, thị trấn và các Đội công tác
thuộc Công an cấp huyện cũng được triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời; từ đó,
giúp cho Công an các đơn vị, địa phương đi vào hoạt động thông suốt, thực hiện
tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Bên cạnh việc củng cố, kiện toàn tổ chức đảng phù hợp với tổ chức bộ máy
của Công an tỉnh, Đảng ủy Công an tỉnh và các cấp ủy đảng trong Đảng bộ Công
an tỉnh luôn nhận thức, xác định công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác
xây dựng Đảng, do đó, các nội dung về công tác cán bộ đều bám sát các quan
điểm, nguyên tắc của Đảng và thực hiện theo đúng quy trình, quy định của
Ngành; thực hiện nghiêm quy định về phân cấp một số vấn đề trong công tác tổ
chức cán bộ; thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của Đảng
ủy cho phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra, theo đó, mọi chủ trương, biện pháp,
nội dung có liên quan đến công tác tổ chức cán bộ nói chung và công tác cán bộ
nói riêng đều được Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy, lãnh đạo Công an tỉnh
thảo luận, bàn bạc, thống nhất, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trước khi
triển khai, thực hiện, đã tạo được sự đồng bộ, thống nhất trong các khâu của công
tác cán bộ. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ Công an các cấp, nhất là đội ngũ lãnh
đạo, chỉ huy được chú trọng, đủ về số lượng, có phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tâm nhiệm vụ. Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ được chú trọng, thực
hiện ngày càng đúng thực chất hơn; công tác quy hoạch được tổ chức thực hiện
nghiêm túc và đồng đều; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện có hiệu quả, đúng hướng, tập trung đào tạo nâng cao trình độ
nghiệp vụ Công an, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học…Nhờ đó, chất lượng đội
ngũ cán bộ, chiến sĩ trong Công an toàn tỉnh nói chung và Đảng bộ Công an tỉnh
nói riêng tiếp tục được nâng lên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Để bảo đảm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và
Chương trình hành động số 12 của Tỉnh ủy được thực thi nghiêm túc, đạt hiệu
quả, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận đã chú trọng đến công tác kiểm tra,
giám sát việc triển khai thực hiện Nghị quyết ở các địa phương, đơn vị. Qua kiểm
tra, giám sát hầu hết các cấp ủy trực thuộc đã ban hành kế hoạch, thành lập các
172
đoàn kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và Chỉ thị số
05 của Bộ Chính trị; đồng thời, không chỉ bám sát các giải pháp thực hiện Nghị
quyết trong Chương trình hành động số 12 của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy
còn chú ý đến việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các loại hình tổ chức
đảng; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; tiếp tục thực hiện tốt
Quy chế dân chủ cơ sở; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tham nhũng lãng phí; thực hiện Chỉ thị số 27 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
về nâng cao trách nhiệm, chấn chỉnh tác phong, giờ giấc làm việc, ý thức chấp
hành của cán bộ, công chức, viên chức...giữ vững đoàn kết nội bộ, tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong công tác tự phê bình và phê bình.
- Bên cạnh đó, Tỉnh ủy chỉ đạo tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XII gắn với Quy định số 55 - QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ
Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán
bộ, đảng viên; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện
Chương trình hành động số 12 của Tỉnh ủy và kế hoạch, chương trình hành động
của các cơ quan, địa phương, đơn vị; theo dõi việc khắc phục sửa chữa những hạn
chế, khuyết điểm; theo dõi việc thực hiện cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất
đạo đức, lối sống; quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng nội bộ.
Đến nay, Bình Thuận đã có những chuyển biến tích cực về nhận thức và
hành động, trong rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là vai trò “nêu gương” đối với người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền; cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện đã tăng cường
việc đối thoại với cán bộ, nhân dân, xác định những vấn đề bức xúc, nổi cộm để
tập trung chỉ đạo giải quyết ngay từ cơ sở, tạo được sự đồng thuận trong nhân
dân. Phần lớn cán bộ, công chức, viên chức trong toàn tỉnh có những chuyển biến
về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, chấn chỉnh tác phong, giờ giấc làm việc, ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, công vụ được nâng
lên rõ rệt. Ý thức tu dưỡng, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ của đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức được tập trung xây dựng và ngày càng
được nâng lên; vai trò gương mẫu, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền, tổ chức, cơ quan, đơn vị ngày càng được phát huy tốt hơn; từ đó, nỗ lực
phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh những ưu điểm đó, thì vẫn còn một số đơn vị, địa phương chưa
làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, việc triển khai cam kết của cá nhân một
173
số nơi vẫn còn tình trạng rập khuôn, sao chép, thực hiện còn mang tính hình thức.
Quá trình kiểm điểm tự phê bình và phê bình một số nơi vẫn còn nể nang, né
tránh, ngại va chạm, chưa thật mạnh dạn nhận diện, chỉ ra những biểu hiện suy
thoái. Công tác quản lý đảng viên có nơi còn lỏng lẻo; đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng, đảng viên một số nơi còn chạy theo thành tích. Đặc biệt một bộ
phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa thật sự nêu gương, thiếu tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất đạo đức cách mạng, còn quan liêu, tham nhũng, ý thức chấp hành tổ
chức chưa nghiêm nên phải xử lý kỷ luật, thậm chí đã có một số cán bộ, đảng
viên vi phạm pháp luật đến mức bị khởi tố hình sự... đã làm suy giảm niềm tin
của nhân dân và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng ta.
Ngày nay, trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới đòi hỏi
Đảng ta phải nâng tầm lãnh đạo lên cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh hơn
nữa để tiếp tục lãnh đạo đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không ngừng
cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa...
Yêu cầu đặt ra trước hết, là phải tiếp tục tăng cường công tác xây dựng
Đảng luôn vững về tư tưởng, mạnh về tổ chức và đảng viên phải thực sự là thành
tố cơ bản cấu thành tổ chức đảng. Đảng viên mạnh là yếu tố cơ bản làm nên tổ
chức đảng trong sạch, vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng
mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”. Do vậy, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, không thể tách ròi việc
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Đặc biệt, đây là thời điểm cuối nhiệm kỳ
Đại hội Đảng các cấp (2015 - 2020), Đảng sẽ tiến hành công tác rà soát, đánh giá
những mặt được, chưa được của các tập thể, cá nhân từng đảng viên trong sinh
hoạt và công tác, quá trình này cần phải thẳng thắn nhìn nhận, tránh việc nể nang,
né tránh, ngại va chạm, chúng ta phải mạnh dạn nhận diện, chỉ ra những biểu hiện
suy thoái, diễn biến trong từng tổ chức, trong từng đảng viên để làm tốt hơn nữa
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để đạt được điều đó, đòi hỏi đầu tiên là đội
ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý phải thật sự nêu gương,
thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, thực hiện tốt
phương châm sống sát dân, gần dân, nắm chắc và giải quyết tốt nguyện vọng
chính đáng của nhân dân; mạnh dạn, thẳng thắn và công tâm trong phê bình và tự
174
phê bình trên tinh thần xây dựng và phát triển.
Thứ hai là thực hành dân chủ, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình để xây
dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh. Bác Hồ đã chỉ ra: “Để làm cho Đảng mạnh,
thì phải mở rộng dân chủ”, phát huy tự phê bình và phê bình, bởi vì: “Tự phê bình
và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng
thêm mạnh, nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến
bộ không ngừng”. Do đó, cán bộ, Đảng viên phải thực hiện nghiêm túc việc kiểm
điểm tự phê bình và phê bình, gắn với việc kiểm điểm, đánh giá, phân loại cán bộ,
công chức, viên chức hàng năm và đột xuất theo quy định trên cơ sở cam kết rèn
luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy
thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đề cao tính gương mẫu, tự
giác kiểm điểm, trách nhiệm nêu gương của cấp trên, người đứng đầu.
Thứ ba là phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực
hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, của
các cấp ủy Đảng. Nếu có vi phạm là kiên quyết xử lý, “không có vùng cấm”,
“không có ngoại lệ”. Việc xử lý cán bộ sai phạm sẽ làm trong sạch đội ngũ cán
bộ, đảng viên đồng thời làm tăng thêm niềm tin của Nhân dân với Đảng, có tác
dụng răn đe, cảnh tỉnh đối với cán bộ, đảng viên, tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, lấy đức làm gốc,
lấy tài làm ngọn. Việc xây dựng đội ngũ đảng viên phải chú trọng cả về số lượng
và chất lượng, trong đó lấy chất lượng làm yếu tố quan trọng. Vì suy cho cùng,
đạo đức cách mạng của mỗi đảng viên chính là nội dung cơ bản của tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn đảng, giúp tổ chức đảng thêm trong sạch, vững mạnh.
Phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng (03/02/1930-
03/02/2020), đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí
thư Tỉnh ủy khẳng định: “Vững tin vào Đảng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,
quân và dân Bình Thuận nguyện một lòng tin vào Đảng, tiếp tục nỗ lực, phấn đấu
tiến bước theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, quyết tâm xây dựng quê
hương Bình Thuận ngày càng giàu đẹp, văn minh hơn. Từ đó, góp phần cùng với
cả nước hoàn thành thắng lợi mục tiêu phấn đấu trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín trên trường quốc tế”. Đồng thời
Bí thư Tỉnh ủy kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tỉnh Bình Thuận tập trung,
tiếp tục thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI và
XII) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn với triển khai hiệu quả việc Học tập và
175
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chuyên đề năm 2020 “Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Mỗi cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải phát huy đúng mức trách
nhiệm và vai trò tiên phong, gương mẫu trên mọi lĩnh vực nhằm củng cố và giữ
vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đồng thời, phải thật sự coi trọng, phát
huy mạnh mẽ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc góp phần củng cố, xây
dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên./.
176
ĐẢNG BỘ BÌNH THUẬN LÃNH ĐẠO CÁC PHONG TRÀO
CỦA HỘI PHỤ NỮ TRONG 9 NĂM KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP GIAI ĐOẠN (1945 - 1954)
ThS. Võ Thị Thanh Hải
(Phó Trưởng khoa LLCS - Trường Chính trị)
Kính thưa đồng chí chủ trì và các đồng chí tham dự Hội thảo, với khả năng
và thời gian có hạn trong quá trình nghiên cứu bản thân chỉ đề cập đến nội dung
thực hiện các chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng bộ Bình Thuận lãnh đạo
các phong trào của Hội Phụ nữ ở Bình Thuận, chị em thông minh, sáng tạo thực
hiện các phong trào lớn như: phụ nữ tăng gia sản xuất chống đói và chống mù
chữ; chủ trương xây dựng quỹ độc lập và tổ chức Tuần lễ vàng của Chính phủ; tổ
chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa; toàn quốc kháng chiến. Phụ nữ Bình Thuận đã đóng góp như thế nào? để
góp phần vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại Bình Thuận giành thắng
lợi giai đoạn (1945 - 1954).
Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước được độc lập, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và tổ chức Hội phụ nữ, chị em thoát khỏi áp bức bóc lột của thực
dân; đồng thời, thoát khỏi các lễ giáo phong kiến trói buộc cuộc đời người phụ
nữ, đây chính là lý do để chị em hăng hái tham gia các phong trào cách mạng, bảo
vệ nền độc lập và chính quyền non trẻ. Lúc bấy giờ Mặt trận Việt Minh tỉnh Bình
Thuận đã cử đồng chí Trần Thị Ân là ủy viên Mặt trận Việt Minh phụ trách phụ
nữ Cứu quốc tỉnh; tổ chức phụ nữ cứu quốc chủ trương thành lập tổ chức Hội phụ
nữ cơ sở ở tất cả các địa phương trong tỉnh; qua đó, công tác tuyên truyền các
chương trình hành động của Việt Minh sẽ được tiến hành mạnh mẽ và tập trung
vào 2 nhiệm vụ cần kíp trước mắt của Hội đồng Chính phủ và của Bác Hồ lúc bấy
giờ là: “Cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam”. Việc đầu tiên, Mặt trận Việt Minh
và chính quyền cách mạng tỉnh đã phát động phong trào toàn dân tăng gia sản
xuất chống đói và chống mù chữ; lúc bấy giờ, Phụ nữ thực hiện sự chỉ đạo của
Đảng bộ Bình Thuận bằng các phong trào thiết thực được đông đảo chị em Phụ
nữ tham gia như: Hũ gạo đồng tâm (sau này là hủ gạo cứu quốc), tuần lễ vàng,
tuần lễ đồng, bình dân học vụ; các chị đã động viên chồng con, thanh niên tham
gia Vệ quốc đoàn; phương thức vận động tuyên truyền của các chị rất thông
177
minh, đến các địa phương các chị đều tổ chức ca hát diễn kịch với nội dung khơi
dậy truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, ca ngợi quê hương, đất
nước…Qua đó, nhằm cổ vũ sự đóng góp ủng hộ cách mạng nên được bà con mến
mộ làm theo nhà nhà đều có hủ gạo đồng tâm (hằng ngày đến bữa nấu cơm, các
mẹ, các chị lại giành một nắm gạo, củ khoai bỏ vào hủ góp phần nuôi anh em
quân dân làm nhiệm vụ gìn giữ xóm làng).
Tiếp đến, thực hiện chủ trương xây dựng quỹ độc lập và tổ chức Tuần lễ
vàng của Chính phủ được các tầng lớp đồng bào trong tỉnh nhiệt liệt hưởng ứng
bằng những cách đóng góp khác nhau; riêng phụ nữ nhiều chị tự nguyện hiến
những đôi bông tai, đôi xuyến, chiếc vòng vàng ngày cưới hay Má Dương Thị
Lâu (Đại Nẫm) đem ủng hộ bộ nút áo bằng vàng hay bà Nguyễn Thị Thềm dòng
họ vua chăm ngày trước ủng hộ đĩa cau trầu bằng vàng từ nhiều đời trước để lại,
có chị còn mạng tới ủng hộ cả những lư đồng, đèn đồng; đặc biệt, việc quyên góp
trong lúc này giúp nền quốc phòng của tỉnh mạnh lên. Mặc khác, hưởng ứng lời
kêu gọi “chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm”của Bác Hồ,
khắp nơi trong tỉnh đã dấy lên phong trào quần chúng tham gia bình dân học vụ.
Từ những cụ bà tóc bạc đến các chị tay bế, tay bồng cùng các cháu thiếu niên đều
hăng hái tham gia bình dân học vụ. Phương thức làm rất hay, ban ngày chị em lo
sản xuất ban đêm đến lớp bình dân học vụ. Nhiều nơi, các chị phải học trong
những điều kiện khó khăn, thiếu giấy mực, thiếu ánh sáng, đi học phải bồng con
theo nhưng các chị vẫn quyết tâm học. Để giúp cho mọi người dễ học, Ban bình
dân học vụ đã đặt những câu có vần dí dỏm, gần gủi đễ nhớ như: O tròn như quả
trứng gà. Ô thì đội nón, Ơ thì mang râu; hay những câu thơ khác nhằm động viên
chị em thi đua học tập như: Em khoe em đẹp, em giàu. Em không biết chữ ai còn
ưng em; hay lấy việc học hành làm tiêu chuẩn chọn vợ, chọn chồng mà khích lệ
nhau cùng học tập: Lấy chồng biết chữ là tiên. Lấy chồng dốt nát là duyên con
bò… kiểm tra bài nhau rất hay và sáng tạo bằng cách treo bảng chữ, giăng dây đố
chữ ở các ngã đường, đình làng cổng chợ, ai đọc được thì qua, ai không đọc được
thì về; đã góp phần thúc đẩy chị em tích cực, hăng hái học tập theo chủ trương
của Đảng đã đề ra. Ngoài ra, trên mặt trận quân sự, ngoài việc động viên chồng
con tham gia lực lượng Vệ quốc đoàn, hàng chục đơn vị tự vệ nữ đã được thành
lập ở các địa phương với tác phong quân sự, các chị đã cắt tóc ngắn, mặc quần
soóc, tập bắn súng, ném lựu đạn, tập võ dân tộc, tập chiến đấu.
178
Khi giặc Pháp đánh chiếm miền Đông Nam bộ, một số đơn vị vũ trang của
ta từ miệt ngoài chi viện đã tạm dừng lại Bình Thuận, được sự đạo của Trung
ương, lãnh đạo của Đảng bộ, phụ nữ đã cùng với chính quyền địa phương lo nơi
ăn, nơi ở cho bộ đội; chị em bàn bạc phân công nhau người đi quyên góp, người
đi chợ, người lo nấu nướng. Biết bao người mẹ, người chị đã nuôi giấu che chở
cán bộ, chiến sĩ như chăm sóc đứa con xa nhà lâu ngày mới về. Các má vui khi bộ
đội ăn no, đánh thắng địch, lo buồn khi chiến sĩ thiếu ăn, thiếu mặc. Sau mỗi lần
tổn thất, các má đau hơn ai hết, song vẫn vững lòng động viên chiến sĩ. Sự chắt
chiu từng hạt gạo, lát khoai mang nặng nghĩa tình đã động viên bộ đội ngày càng
hăng say chiến đấu. Hình ảnh những người mẹ, người chị Bình Thuận đã để lại
những ấn tượng tốt đẹp trong lòng cán bộ, chiến sĩ ở nhiều nơi quy tụ về đây và
nhiều người trong số họ đã mang những kỷ niệm này đi suốt cuộc kháng chiến.
Vào thời điểm này, công việc tổ chức Tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta để
bầu ra Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được coi là nhiệm
vụ trọng đại, hết sức khẩn trương của toàn dân. Từ tháng 12 năm 1945 nhân dân
Bình Thuận sôi nổi bước vào thời kỳ vận động tuyển cử, tìm chọn người tiêu biểu
để gánh vác việc nước. Ngày 06/01/1946 lần đầu tiên đông đảo chị em phụ nữ
được thực hiện quyền công dân của mình, nhiều chị em xúc động ngỡ ngàng khi
cầm lá phiếu trên tay, các bà, các mẹ đã thốt lên: “Suốt đời bây giờ mới thấy phụ
nữ được đi bỏ phiếu, phụ nữ đã đổi đời”. Chị em đã sáng tạo nhớ tên bỏ phiếu cho
đại biểu của mình, bằng cách các chị đã truyền miệng nhau câu: “cá đối kho
tương”39
.
Trước sự lấn tới của thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả
nước ta, đáp ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến nhân dân Bình Thuận không
kể gái trai, già trẻ, không chia tôn giáo dân tộc, đều sôi nổi lao vào cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài. Phụ nữ Bình Thuận lại hăng hái tham gia vào
cuộc chiến đấu với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”. Phụ nữ Bình Thuận từ thị xã, thị trấn, miền núi,
nông thôn, đồng bằng, ven biển và hải đảo đã vựợt qua muôn vàn khó khăn gian
khổ, đóng góp sức người, sức của cùng toàn dân tiến hành cuộc chiến tranh chống
lại kẻ thù giàu, mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Trong cuộc chiến này, ngoài việc tiễn
39
. Đối, Tương là tên của Bác sĩ Huỳnh Tấn Đối và đồng chí Nguyễn Tương, hai ứng cử viên
được đắc cử đại biểu Quốc hội khóa I của tỉnh Bình Thuận.
179
chồng, con, người thân thoát ly tham gia các lực lượng vũ trang, chiến đấu chống
kẻ thù, phụ nữ Bình Thuận còn là lực lượng chính trong sản xuất tự túc, tự cấp,
phong trào “phụ nữ chức nghiệp” thay thế nam giới ra tiền tuyến; là lực lượng
đáng tin cậy làm nhiệm vụ bảo vệ che dấu cán bộ, bộ đội, làm liên lạc, tiếp tế cho
cách mạng, đưa đường, dấu quân để đánh đồn, diệt bót và tham gia lực lượng tự
vệ du kích mật, dân quân du kích, bố phòng xây dựng làng chiến đấu, tấn công
tiêu diệt địch, góp phần vào thắng lợi chung, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp
định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng, tiến lên CNXH, nhưng miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai. Phụ nữ và nhân dân miền Nam, trong đó có phụ nữ Bình
Thuận còn phải tiếp tục cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt, gian khổ 21 năm.
Từ thực tiễn Đảng bộ Bình Thuận lãnh đạo các phong trào của Hội Phụ nữ
trong 9 năm kháng chiến giai đoạn (1945 - 1954) rút ra một vài kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, sự lãnh đạo tài tình của Đảng bộ là nhân tố quyết định thắng lợi của
phong trào cách mạng trong tỉnh nói chung, và phong trào phụ nữ Bình Thuận nói
riêng: phụ nữ Bình Thuận vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần căm thù
giặc sâu sắc. Dưới chế độ phong kiến, ngoài nổi khổ chung, người phụ nữ còn bị ràng
buộc bởi lễ giáo phong kiến, ở vị trí thấp hèn trong gia đình và ngoài xã hội. Khi thực
dân Pháp sang xâm lược nước ta, phụ nữ tiếp tục là nạn nhân của chế độ cai trị hà
khắc của thực dân phong kiến và là người phải gánh chịu nhiều hy sinh và thiệt thòi
nhất. Bị áp bức bốc lột càng nhiều thì lòng căm thù giặc và tinh thần quật khởi ở phụ
nữ càng dâng cao. Nếu phụ nữ không tham gia cách mạng thì cách mạng không thể
không thành công. Phụ nữ muốn được giải phóng phải tham gia vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Chính vì vậy trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng đã quan tâm xây dựng về mặt tổ chức, có chính sách đào tạo bồi dưỡng và giao
việc thích hợp cho phụ nữ nhằm phát huy vai trò, khả năng to lớn của Phụ nữ vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng
CNXH, phụ nữ Bình Thuận tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, luôn tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, đem hết khả năng và trí tuệ để đóng
góp xây dựng quê hương, đất nước.
Thứ hai, cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân được
thành lập, phụ nữ được giải phóng, được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ thực sự
của mình, từng bước thực hiện nam nữ bình đẳng. Đây là một trong những nguyên
180
nhân khá quan trọng nhằm thôi thúc chị em tham gia xây dựng và bảo vệ chính
quyền, đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
CNXH.
Dưới chế độ thực dân phong kiến bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến,
người phụ nữ không được hưởng các quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội. Do đó phụ nữ là người thấm thía hơn ai hết về bốn chữ “độc lập tự do” và chị
em luôn hiểu rằng “nước nhà chưa độc lập, dân tộc chưa giải phóng thì phụ nữ
không thể được giải phóng”. Vì vậy, khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta,
hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ, phụ nữ Bình Thuận đã không tiếc
công sức, tiền của cả xương máu, hăng hái tham gia vào sự nghiệp cứu nước,
giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Đất nước được độc lập, cả nước đi lên CNXH,
quyền bình đẳng của phụ nữ có điều kiện để thực hiện về mọi mặt, phụ nữ tiếp
tục phát huy quyền làm chủ, tính năng động sáng tạo trên mọi lĩnh vực công tác,
góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương.
Thứ ba, các phong trào phụ nữ trong tỉnh lớn mạnh nhờ có tổ chức Hội
ngày càng phát triển và trưởng thành, là nơi tập hợp giáo dục, động viên quần
chúng phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước,
là người đại diện duy nhất chăm lo bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em.
Cách mạng tháng tám thành công, Hội phụ nữ cứu quốc được tổ chức có hệ
thống từ tỉnh đến làng xã. Từ đây, phong trào phụ nữ Bình Thuận đã có sự lãnh
đạo, hướng dẫn chặt chẽ hơn, lực lượng phụ nữ ngày càng được tập hợp đông đảo
và tổ chức, tham gia sôi nổi vào các phong trào cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ, tổ chức và phong trào phụ nữ trong tỉnh ngày một trưởng thành đã làm
tròn nhiệm vụ qua các giai đoạn lịch sử do Đảng giao, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.
Với mục đích hoạt động đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích
thiết thân của quần chúng, hiện nay tổ chức Hội các cấp ngày càng thu hút đông
đảo mọi tầng lớp phụ nữ, ở mọi lứa tuổi, mọi dân tộc, tôn giáo tham gia vào
phong trào cách mạng. Thông qua các phong trào cách mạng của quần chúng, tổ
chức Hội ngày càng lớn mạnh và trưởng thành, thực sự là chỗ dựa tin cậy của
đông đảo phụ nữ và là người đại diện duy nhất chăm lo và bảo vệ quyền lợi phụ
nữ và trẻ em.
181
Tổ chức Hội và phong trào phụ nữ trong tỉnh ngày càng lớn mạnh là nhờ sự
quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự kết hợp giúp đỡ các ngành, các
cấp trong tỉnh.
Thứ tư, Phụ nữ Bình Thuận vốn có tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm
thù giặc sâu sắc, bản tính lao động cần cù, chịu thương, chịu khó, luôn là lực
lượng to lớn đóng vai trò quan trọng trong các phong trào cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng cũng là một trong những nguyên nhân đưa phong trào phụ nữ
không ngừng phát triển, ngày càng đáp ứng được nhiệm vụ Đảng giao trong từng
giai đoạn lịch sử, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Nhìn lại chặng đường hơn 90 năm dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, phụ nữ
Bình Thuận rất tự hào đã phát huy truyền thống tốt đẹp của thế hệ đi trước, đã
không phụ công dìu dắt lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, những đóng góp to lớn vào
sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, xứng đáng với 8 chữ vàng mà
Bác Hồ đã tặng cho Phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang”.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Chặng đường qua hai thế kỷ, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006.
2. Địa chí Bình Thuận, Sở Văn hóa Thông tin Bình Thuận, 2006.
3. Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Thuận (1945 - 2000),
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
4. Tập bài giảng Tình hình, nhiệm vụ của tỉnh Bình Thuận, Nxb. Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2018.
5. Truyền thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận 1930 – 2000, Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bình Thuận, 2002.
182
XÂY DỰNG TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
GÓP PHẦN XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ KHỐI NGÀY CÀNG
TRONG SẠCH VỮNG MẠNH
ĐUK cơ quan và doanh nghiệp tỉnh
Ngày 10/8/1976, Đảng bộ Dân Chính Đảng được thành lập với 12 đảng bộ
cơ sở. Đây là Đảng bộ tiền thân của Đảng bộ Khối cơ quan và doanh nghiệp hiện
nay. Trãi qua gần 45 năm thành lập, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy
Khối qua các nhiệm kỳ luôn xác định công tác xây dựng tổ chức đảng và phát
triển đảng viên là nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm trong công tác xây dựng
Đảng của Đảng bộ. Theo đó, đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác này và đạt
được những kết quả nhất định, góp phần vào việc xây dựng Đảng bộ ngày càng
trong sạch vững mạnh và phát triển cả về tổ chức lẫn nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng bộ.
Đảng bộ Dân Chính Đảng được thành lập và hoạt động được 2 năm thì giải
thể và chuyển giao các tổ chức cơ sở đảng ở các cơ quan cấp tỉnh trực thuộc Đảng
bộ thị xã Phan Thiết. Trong 2 năm đó, Ban Thường vụ Đảng ủy đã thành lập được
31 tổ chức cơ sở đảng.
Đến ngày 23/8/1983, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có Quyết định số 249/QĐ-
TV về việc thành lập Đảng bộ Khối Dân - Đảng, gồm 17 chi, đảng bộ với 313
đảng viên. Đảng bộ Khối Dân - Đảng mới thành lập, vừa làm, vừa rút kinh
nghiệm, song vẫn thể hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác xây dựng tổ
chức đảng và phát triển đảng viên góp phần làm cho các tổ chức cơ sở đảng ngày
càng ổn định, phát triển, số đảng viên ngày càng tăng.
Ngày 29/12/1984, Đảng ủy khối Dân - Đảng tỉnh tổng kết hoạt động công
tác xây dựng Đảng, kết quả phân loại tổ chức cơ sở đảng có 05 chi bộ đạt trong
sạch vững mạnh, 07 chi, đảng bộ đạt khá và 05 chi bộ yếu, kém. Trong năm,
Đảng bộ đã phát triển được 07 đảng viên mới.
Năm 1986, Đại hội lần thứ II, Đảng bộ Khối cơ quan Dân - Đảng đã quyết
định nhiều nội dung quan trọng trong công tác xây dựng đảng, trong đó đề ra chỉ
tiêu kết nạp từ 20 - 25 đảng viên mới.
Đến cuối năm 1987, Đảng ủy Khối cơ quan Dân - Đảng được giải thể theo
chỉ đạo của Tỉnh ủy. Qua 4 năm hoạt động, Đảng ủy Khối cơ quan Dân - Đảng đã
kết nạp được 29 đảng viên mới.
183
Ngày 28/8/1987, Đảng ủy Dân Chính Đảng được thành lập có 66 chi, đảng
bộ trực thuộc với 959 đảng viên, 3.210 cán bộ, công nhân viên. Trong đó đảng
viên là cán bộ lãnh đạo quản lý chiếm 20%; đảng viên là cán bộ tham mưu,
nghiên cứu chiếm 35%; số còn lại là công nhân viên, phục vụ.
Từ ngày 04 - 05/8/1989, Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân Chính Đảng lần thứ
I được tổ chức. Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ từ tháng 8/1989
đến cuối năm 1991: “Tiếp tục quán triệt các quan điểm đổi mới của Nghị quyết
Đại hội lần thứ VI của Đảng. Phát huy những kết quả về công tác xây dựng Đảng
sau hai năm sáp nhập, khắc phục những yếu kém tồn tại, vận dụng tốt những kinh
nghiệm đã được tổng kết, lấy việc hoàn thành nhiệm vụ ở từng cơ quan, đơn vị
làm mục tiêu xây dựng chi, đảng bộ góp phần làm chuyển biến hoạt động của cấp
ủy, xây dựng mối quan hệ công tác chặt chẽ với các ban Đảng của Tỉnh ủy, thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị trong Đảng bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng làm chuyển biến thật sự chất lượng đảng viên”.
Tính đến cuối tháng 11/1990, Đảng bộ có 60 tổ chức cơ sở đảng, trong đó
có 10 đảng bộ cơ sở và 50 chi bộ cơ sở, tăng 04 cơ sở đảng so với năm 1989 với
917 đảng viên/3.518 cán bộ, công nhân viên; giảm 124 đảng viên so với cuối năm
1989 (giảm do học viên Trường Đảng tỉnh ra trường).
Thời gian này, Đảng ủy Dân Chính Đảng tập trung củng cố tổ chức cơ sở
đảng. Đối với các chi, đảng bộ cơ quan chú trọng việc đề xuất tham gia ý kiến với
ban cán sự đảng, thủ trưởng cơ quan trong việc xác định nhiệm vụ kế hoạch công
tác nhằm động viên tập thể lao động cơ quan hoàn thành nhiệm vụ ở từng cơ
quan, đơn vị. Lãnh đạo thực hiện dân chủ công khai; thực hiện tốt những vấn đề
liên quan đến lợi ích của cán bộ, công nhân viên chức; chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ công nhân viên chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ theo tinh thần đổi mới.
Đảng bộ Dân Chính Đảng tỉnh Bình Thuận xây dựng Đảng trong sạch
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ được giao (4/1992 -
9/1995)
Ngày 26/12/1991, Quốc hội khóa VIII đã quyết định chia tách tỉnh Thuận
Hải thành 2 tỉnh mới: Ninh Thuận và Bình Thuận. Thực hiện chủ trương chia tách
tỉnh và Nghị quyết số 17 ngày 18/1/1992 của Tỉnh ủy và Thông báo số 04 của
Tỉnh ủy về việc chia tách tỉnh, Đảng bộ Dân Chính Đảng tỉnh Bình Thuận sau
chia tách có 61 cơ sở đảng trực thuộc (trong đó có 9 đảng bộ và 52 chi bộ).
Đảng ủy đã xác định tập trung củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở
Đảng, giải quyết các mặt tồn tại ở các cơ sở yếu kém. Sắp xếp lại các loại hình cơ
sở, phân định chức năng, nhiệm vụ của các chi, đảng bộ cho phù hợp với cơ chế
184
quản lý mới; giải thể sắp xếp lại 06 cơ sở đảng, tách và thành lập mới 11 chi bộ.
Tập trung chỉ đạo xây dựng quy chế hoạt động của cấp ủy và chi, đảng bộ theo
quy định của Ban Bí thư. Đã có 100% chi, đảng bộ có quy chế hoạt động; 90%
chi, đảng bộ thực hiện theo quy chế đã ban hành. Trên cơ sở đó chấn chỉnh lại chế
độ nội dung sinh hoạt chi bộ, khắc phục dần tình trạng lơi lỏng về tổ chức và sinh
hoạt Đảng. Các trường hợp vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, mất đoàn kết nội
bộ được xử lý kịp thời hơn. Mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của cấp ủy với sự quản
lý điều hành của thủ trưởng cơ quan có sự thống nhất cao hơn.
Trong nhiệm kỳ 1991-1995, Đảng bộ đã phấn đấu hoàn thành tốt chỉ tiêu
của Đại hội II đề ra, toàn Đảng bộ không còn cơ sở yếu kém; chi, đảng bộ vững
mạnh hàng năm tăng lên.
Kết quả phân loại chất lượng đảng viên hàng năm được nâng lên. Đảng
viên loại I so với đầu nhiệm kỳ tăng 15,7%; đảng viên loại II giảm 15,4%; đảng
viên loại III và IV giảm 0,3%. Công tác phát triển đảng viên trong nhiệm kỳ được
các cấp ủy xác định là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng, đã tạo nguồn, bồi dưỡng 485 đối tượng và kết nạp 195 đảng viên
mới, hoàn thành chỉ tiêu Đại hội II đề ra.
Trong 03 ngày từ ngày 01/4 đến ngày 03/4/1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ
Dân Chính Đảng tỉnh Bình Thuận lần thứ III, nhiệm kỳ (1996 - 2000) diễn ra. Đại
hội đề ra những nhiệm vụ chủ yếu trong về xây dựng tổ chức đảng cần tập trung
xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tiếp tục cải tiến và
sắp xếp lại bộ máy, hệ thống tổ chức đảng; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ
và mối quan hệ trong hệ thống chính trị ở cơ sở và của đảng bộ.
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ III (1996 -
2000), Công tác xây dựng tổ chức Đảng trong Đảng bộ đã có những chuyển biến
tích cực trên nhiều mặt. Chất lượng sinh hoạt đảng ở các chi, đảng bộ được nâng
lên, phát huy vai trò lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu. Cơ sở đảng đạt danh hiệu
trong sạch vững mạnh hàng năm tăng lên: Năm 1996 đạt 42%, năm 1997 đạt
50%, năm 1998 đạt 58% đến năm 1999 đạt 49,03%. Đảng viên loại I tăng lên,
đầu nhiệm kỳ năm 1996 đạt 91,5%, thì đến cuối nhiệm kỳ năm 1999 đạt 92,8%.
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã kết nạp được 374 đảng viên mới, đạt 125% kế hoạch
đề ra.
Từ ngày 06/12 đến ngày 08/12/2000, Đại hội đại biểu (vòng 1) Đảng bộ
Dân Chính Đảng tỉnh Bình Thuận lần thứ IV, nhiệm kỳ 2001 - 2005, Đại hội đã
thảo luận việc đánh giá tình hình kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ III;
185
thông qua phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp xây dựng Đảng bộ
trong nhiệm kỳ 2001 - 2005.
Đại hội đại biểu (vòng 2) Đảng bộ Dân Chính Đảng tiến hành ngày
10/4/2001. Đại hội đã xác định quan điểm chung là: “Đổi mới phương thức hoạt
động, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy và các chi, đảng bộ tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở; xây dựng đảng là then chốt, phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trung tâm, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn
Đảng làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; tăng cường giáo dục bản chất
giai cấp công nhân, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nâng cao bản lĩnh chính
trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên, tăng cường đoàn kết thống nhất ý
chí và hành động, tin tưởng vào đường lối đổi mới, toàn Đảng bộ quyết tâm thực
hiện có hiệu quả những mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX và Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ X đề ra”.
Thực hiện Thông báo số 252-TB/TU, ngày 07/11/2002 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về chuyển giao các tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp Nhà nước do
thành uỷ Phan Thiết và các huyện uỷ quản lý về trực thuộc Đảng bộ Dân Chính
Đảng. Đến ngày 14/01/2003, Đảng ủy Dân Chính Đảng đã tiếp nhận 33 cơ sở
đảng (gồm 08 đảng bộ cơ sở và 25 chi bộ cơ sở), với 524 đảng viên. Sau khi sắp
xếp lại, Đảng bộ đã phát triển về phạm vi hoạt động và quy mô tổ chức, từ 76 cơ
sở, với 1.445 đảng viên (năm 2001) tăng lên 103 cơ sở (trong đó có 42 tổ chức
đảng các loại hình doanh nghiệp), với 2490 đảng viên (năm 2005). Đảng ủy đã
tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đối với các tổ chức cơ sở đảng.
Các chi, đảng bộ đều xây dựng quy chế hoạt động và bổ sung sửa đổi kịp thời,
phù hợp với đặc điểm tình hình của cơ sở đảng và các quy định mới, với yêu cầu
và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Kết quả cuối nhiệm kỳ (phân loại năm 2004) có
67,74% cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh, 31,52% cơ sở đảng hoàn thành
nhiệm vụ, không có cơ sở yếu kém. Số cơ sở đảng đạt danh hiệu “Trong sạch
vững mạnh tiêu biểu” tăng qua các năm (năm 2001: 10 đơn vị, năm 2002: 10 đơn
vị, năm 2003:18 đơn vị, năm 2004: 19 đơn vị); 26 tập thể được Nhà nước tặng
Huân chương lao động các loại.
Nhiệm kỳ 2001 - 2005, toàn Đảng bộ kết nạp được 617 đảng viên đạt
123,4% (617/500 kế hoạch).
Từ ngày 17 - 19/10/2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân Chính Đảng tỉnh
thứ V, nhiệm kỳ 2005 - 2010 được tiến hành. Đại hội đề ra những chỉ tiêu chủ
yếu là đến năm 2010 có 70% cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh, không có cơ
186
sở đảng yếu kém; 100% chi, đảng bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành nhiệm
vụ chính trị hàng năm; 100% đảng viên và 80% quần chúng được học tập Nghị
quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; 100% đảng
viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ, trong đó 80% đảng viên hoàn thành tốt
nhiệm vụ; Phấn đấu hàng năm 100% cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu “nếp sống văn
minh”; 100% gia đình đảng viên đạt “gia đình văn hóa”; trong nhiệm kỳ kết nạp
750 đảng viên mới.
Thực hiện chủ trương của Trung ương về việc sắp xếp lại tổ chức Đảng bộ
Dân Chính Đảng, ngày 08/9/2006, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quyết định
số 423- QĐ/TU về việc thành lập Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng và
Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh trực thuộc Tỉnh ủy.
Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng có 59 tổ chức cơ sở đảng, trong đó
có 14 đảng bộ và 45 chi bộ cơ sở với 1.818 đảng viên, đến năm 2008 toàn Đảng
bộ có 1.832 đảng viên (trong đó có 135 đảng viên dự bị). Đảng bộ Khối Doanh có
49 tổ chức cơ sở đảng với 1.007 đảng viên.
Sau khi chia tách Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng liên tục có sự
biến động về tổ chức đến cuối nhiệm kỳ V, từ 59 cơ sở đảng, Đảng bộ chỉ còn 53
tổ chức cơ sở đảng (trong đó có 19 đảng bộ cơ sở và 34 chi bộ cơ sở) với 2.022
đảng viên. Trong nhiệm kỳ phát triển được 608 đảng viên mới, đạt 81,06% chỉ
tiêu đề ra (chỉ tiêu khi chưa chia tách Đảng bộ).
Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2010
- 2015 được tổ chức từ ngày 17/8 - 19/8/2010.
Trong nhiệm kỳ đã thành lập mới 03 chi bộ cơ sở; nâng cấp 04 chi bộ cơ
sở lên đảng bộ cơ sở. Tính đến cuối nhiệm kỳ, Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh có
55 chi, đảng bộ cơ sở, gồm 32 chi bộ cơ sở và 23 đảng bộ cơ sở với tổng số 2.345
đảng viên. Công tác bồi dưỡng, tạo nguồn phát triển đảng viên mới luôn được
các cấp ủy các cơ sở đảng quan tâm, quần chúng ưu tú được giới thiệu vào Đảng
luôn đảm bảo chất lượng (Đảng ủy Khối đã kết nạp 831/500 đảng viên mới,vượt
66,2% chỉ tiêu đề ra).
Đại hội Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh lần thứ VII, nhiệm kỳ 2015 - 2020
diễn ra tại thành phố Phan Thiết, có 286 đại biểu chính thức tham dự, trong đó có
276 đại biểu là cấp ủy nhiệm kỳ 2010 - 2015. Đại hội đánh giá kết quả thực hiện
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ
2010 - 2015.
Đầu nhiệm kỳ, tổng số đảng viên của Đảng bộ là 2.120 đảng viên, đến
cuối nhiệm kỳ tăng thêm 482 đảng viên, nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ là
187
2.602 đảng viên. Việc đánh giá chất lượng đảng viên ngày càng đi vào thực chất;
chất lượng đảng viên từng năm tăng lên (từ 2010 đến 2014): Tỷ lệ đảng viên
phân loại Đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tăng từ 8,1% lên 12,1%; tỷ lệ
đảng viên Đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ tăng từ 80,7% lên 85,6%.
Trong nhiệm kỳ đã giải thể 02 chi bộ cơ sở, thành lập mới 03 chi bộ cơ sở,
nâng cấp 06 chi bộ cơ sở thành đảng bộ cơ sở. Tổ chức đảng đạt trong sạch, vững
mạnh hàng năm trong nhiệm kỳ khá cao, tỷ lệ trung bình là 63,32% vượt chỉ tiêu
Nghị quyết Đại hội (khóa VI) đề ra là 55%; số cơ sở đảng đạt danh hiệu trong
sạch vững mạnh tiêu biểu cấp trên cơ sở tăng qua các năm.
Thực hiện Quyết định số 1416-QĐ/TU, ngày 06/3/2019 về việc thành lập
Đảng bộ Khối cơ quan và doanh nghiệp tỉnh trên cơ sở hợp nhất Đảng bộ Khối
các cơ quan tỉnh và Khối Doanh nghiệp tỉnh, bắt đầu hoạt động từ ngày
01/4/2019, với 84 tổ chức đảng trực thuộc và 5.011 đảng viên.
Đảng bộ Khối tiếp tục lãnh, chỉ đạo nâng cao hiệu quả hoạt động các tổ
chức Đảng, tập trung củng cố, sắp xếp, nâng cấp mô hình một số tổ chức Đảng để
đảm bảo hiệu quả lãnh đạo. Mặc dù thời gian đầu hợp nhất còn gặp những khó
khăn nhất định nhưng Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã quan
tâm lãnh, chỉ đạo các cấp ủy cơ sở chú trọng công tác kết nạp đảng viên mới.
Chính vì vậy năm 2019 đã kết nạp 244/200 đảng viên mới, vượt 29%; tổng số
đảng viên trong toàn Đảng bộ Khối đến nay là 5.317 đảng viên.
Kết quả phân loại tổ chức cơ sở đảng năm 2019: Có 15/84 đơn vị được
xếp loại “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”; 59/84 đơn vị được xếp loại “Hoàn
thành tốt nhiệm vụ”; 06/84 đơn vị xếp loại “Hoàn thành nhiệm vụ” và 04/84 đơn
vị xếp loại “Không hoàn thành nhiệm vụ”.
Mặc dù từ ngày thành lập đến nay, trải qua bao nhiêu lần giải thể, thành
lập, chia tách, hợp nhất nhưng Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối
qua các thời kỳ luôn chỉ đạo nhất quán tập trung xây dựng tổ chức đảng trong
sạch vững mạnh và phát triển đảng viên mới, góp phần thực hiện thắng lợi nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Khối qua các nhiệm kỳ và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh./.
188
90 NĂM BẮC BÌNH CÓ ĐẢNG
Huyện ủy Bắc Bình
Bắc Bình vùng đất cực Bắc của tỉnh Bình Thuận là địa danh được có từ lâu
trong lịch sử. Năm 1693, Nguyễn Phúc Chu đặt vùng đất này là trấn Thuận
Thành, đến năm 1697 lập Phủ Bình Thuận lấy đất làng Xuân An xây dựng tỉnh
đường đặt thành hai huyện Hòa Đa. Mảnh đất này đã trải qua bao nhiêu thăng
trầm lịch sử, bao cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch họa để sinh tồn và phát triển
của cộng đồng các dân tộc nơi đây. Từ đó, đã hun đúc nên bề dày về truyền thống
và bản sắc của con người Bắc Bình, về ý chí chiến đấu và truyền thống đánh giặc
bảo vệ quê hương, đất nước, về truyền thống đoàn kết keo sơn của các tộc người,
về truyền thống cần cù, siêng năng, sáng tạo trong lao động xây dựng quê hương.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân dân Bắc
Bình đã đóng góp công sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương. Năm 1859, để
tiếp việc cho nhân dân Gia Định đánh Pháp, Tuần vũ Thuận Khánh là Nguyễn
Hữu Cơ cử một vệ binh (khoảng 500 người), sai võ tướng Kiều Bình (ngụ tại làng
Khánh Tài, tổng Đa Phước, phủ Hòa Đa) làm đốc binh vào giúp nhân dân Gia
Định trừ giặc. Khi đưa quân vào chi viên cho Gia Định, ông đã mưu trí tổ chức
nhiều trận chiến đấu với quân Pháp; phối hợp quân của Nguyễn Tri Phương, Vũ
Huy Đoán cùng nhân dân Biên Hòa, Gia Định liên tục đánh phá quân giặc. Ngày
02/5/1895, trong một trận chiến ác liệt tại Biên Hòa ông bị thương nặng và anh
dũng hy sinh. Quân nhà Nguyễn đã đem thi hài ông về an táng tại làng Khánh
Tài, tổng Đa Phước. Tuần vũ Thuận Khánh đã xây miếu thờ ông gọi là miếu
Công thần. Tháng 7/1859, vua Tự Đức phong ông là “Hùng Cảm thần”; bài vị của
ông được thờ tại Trung Nghĩa Đường trong đại nội – cố đô Huế.
Cùng trong bối cảnh cả dân tộc bị áp bức lầm than dưới ách thống trị của
kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp, trên quê hương Bắc Bình, với tinh thần đấu
tranh quật cường của con người Bắc Bình đã dấy lên các phong trào chống thực
dân xâm lược đầy khí phách. Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần vương
của Nguyễn Văn Luận, Phùng Hàn, Phùng Tố đã gây cho thực dân Pháp nhiều
tổn thất nặng nề; cuộc khởi nghĩa của Cao Hành với căn cứ Sủng Heo đã tấn công
và làm chủ tỉnh đường Bình Thuận, tuy nhiên các cuộc khởi nghĩa này đều nhanh
chóng bị thất bại. Từ năm 1925 đến năm 1930, các hoạt động chống thực dân
189
pháp tại Hòa Đa tiếp tục diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị đàn áp khủng bố và thất
bại. Đó là một thực tế của quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc mà những người
lãnh đạo chưa có con đường đi đúng đắn. Phải đến khi có Đảng Cộng sản dẫn
đường, các phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Hòa Đa, Phan Lý (tên
gọi Bắc Bình thời bấy giờ) mới có kết quả.
Dưới ánh sáng đường lối đúng đắn của Đảng, trực tiếp là sự hướng dẫn của
những người cộng sản Bình Thuận truyền bá phong trào yêu nước, tổ chức gây cơ
sở, phát triển lực lượng. Quần chúng nhân dân ở huyện Hòa Đa tham gia tổ chức
Việt Minh và vùng lên cùng cả nước làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945
thắng lợi giành lấy chính quyền về tay nhân dân.
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đề quốc Mỹ xâm
lược, từ tổ chức Việt Minh, những người cộng sản trong bộ đội, trong cơ quan
dân chính…dưới danh nghĩa lúc bấy giờ là Hội nghiên cứu Các-Mác đã tuyên
truyền, giác ngộ, giáo dục những thanh niên tiêu biểu ở địa phương được thử
thách trong công tác và chiến đấu, trở thành những cốt cán của Việt Minh, những
đảng viên cộng sản nòng cốt đầu tiên ở Hòa Đa vào tháng 6/1946. Tháng 4/1947,
chi bộ đầu tiên được thành lập, huyện Hòa Đa chính thức có tổ chức Đảng trực
tiếp lãnh đạo phong trào quần chúng và lực lượng vũ trang địa phương, đánh dấu
bước ngoặc trong lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của quê hương. Ở
một vùng đất khô cằn và nghèo khó, rừng thiêng nước độc, trong 30 năm kháng
chiến, Đảng bộ đã bám sát các chủ trương và sự chỉ đạo của tỉnh, Trung ương,
vận dụng năng động, sáng tạo vào tình hình cụ thể của địa phương, lãnh đạo các
dân tộc trong huyện đoàn kết sát cánh phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
tinh thần tự chủ, tự lực tự cường, tự chủ tấn công, cùng nhau vừa kháng chiến vừa
sản xuất và xây dựng đời sống về mọi mặt, vững tin vào Đảng và thắng lợi của
cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện ròng rã suốt 30 năm chiến đấu,
quân và dân Bắc Bình với hàng nghìn trận đánh với những chiến công rạng rỡ,
những tên đất, tên người mãi mãi đi vào lịch sử: chiến khu Lê Hồng Phong, Lệ
Nghị - Bá Ghe, Đá Giá, Cà Lon…những anh hùng Võ Hữu, Lê Văn Bảng, Huỳnh
Thị Khá, Mang Đa, Lê Thanh Mận, Nguyễn Hùng, Võ Văn Hai…cùng biết bao
bà mẹ, người vợ, các em thanh thiếu niên đã cống hiến hy sinh quên mình cho
Đảng, cho Tổ quốc, quê hương.
Những thành tích và chiến công đó là nét son rực rỡ mãi mãi trong lịch sử
chống đế quốc xâm lược của quân và dân huyện Bắc Bình. Thắng lợi đó là kết
190
quả của Đảng bộ huyện Bắc Bình lãnh đạo nhân dân kháng chiến, dân tin vào
Đảng là sức mạnh vô tận của cuộc kháng chiến, cho những chiến công vang dội.
Thắng lợi đó là sự hi sinh và đóng góp to lớn của các dân tộc trong huyện. Thắng
lợi đó là kết quả tổ chức và điều hành nhân dân trong kháng chiến của chính
quyền cách mạng; đó là chính quyền của dân, do dân và vì dân, dân tin và ủng hộ.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Bắc Bình đã cùng cả nước ra sức
hàn gắn vết thương chiến tranh và tập trung mọi nguồn lực để xây dựng cuộc
sống mới. Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, Đảng bộ huyện Bắc
Bình lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đạt được những thành tựu rất đổi tự hào. Trải qua 11 kỳ Đại hội (1975-
2015), nhân dân các dân tộc huyện Bắc Bình luôn đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực phấn
đấu giành được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực.
Kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Người
dân Bắc Bình đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi tư duy sản xuất, thực
hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, thực hiện cơ giới hóa… do đó, hiệu suất, hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp được nâng lên rõ rệt. Kinh tế trang trại, các mô hình sản xuất nông lâm kết
hợp có sự phát triển, một số cây ăn quà dài ngày, nhất là cây thanh long phát triển
mạnh trở thành cây trồng chủ lực, từng bước hình thành các vùng chuyên canh
trên địa bàn huyện. Đây là nét chuyển biến nổi bật trên lĩnh vực nông nghiệp góp
phần giúp nhân dân vươn lên thoát nghèo, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Đi đôi với nông nghiệp thì việc tập trung đầu tư cơ bản kết cấu hạ tầng đã
tạo ra sự thay đổi diện mạo của huyện rõ rệt. Với phương thức “Nhà nước hỗ trợ
và nhân dân làm” trên tinh thần “Dựa vào sức dân là chính”, đồng thời kết hợp
linh hoạt giữa nội lực và ngoại lực, nhiều công trình đã được xây dựng và hoàn
thành góp phần đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, là khâu đột phá
trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Điển hình như Hồ chứa nước Cà Giây
hoàn thành xây dựng vào cuối năm 2000 cùng với đập Đồng Mới được đại tu và
được tiếp nước từ thủy điện Đại Ninh đã góp phần cung ứng nước sinh hoạt cho
nhân dân và chủ động nước tưới trong nông nghiệp; dự án tưới Phan Rí - Phan
Thiết tưới cho 10.500ha; công trình tiếp nước về Khu Lê Hồng Phong đã được
hoàn thành và đưa vào sử dụng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của bà con 02
xã Hòa Thắng - Hồng Phong đã làm thay đổi đời sống của bà con vùng căn cứ
191
kháng chiến, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 41,9 triệu/năm. Từ chỗ không
có điện lưới quốc gia, tháng 2/1991 hoàn thành giai đoạn 1 với 6 xã, 17 hợp tác
xã có điện thắp sáng, đến nay điện đã phủ kín các địa phương trong toàn huyện.
Đường Lương Sơn - Hòa Thắng được xây dựng từ năn 1983 và sau đó thi công
tiếp đến xã Hồng Phong đã mang lại diện mạo mới cho vùng đất Khu Lê. Bên
cạnh đó, cùng với cả nước, phong trào chung sức chung lòng xây dựng nông thôn
mới được cán bộ và nhân dân đồng tình hưởng ứng mạnh mẽ, kết quả đến nay
huyện đã có 07 xã về đích nông thôn mới.
Sản xuất công nghiệp có bước chuyển biến tích cực, góp phần chuyển dịch
cơ cấu lao động trên địa bàn huyện. Cụm công nghiệp Bắc Bình và Hải Ninh
đang thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư. Khu công nghiệp chế biến sâu sa
khoáng titan Sông Bình đã đi vào vận hành các nhà máy mở ra triển vọng mới
trên lĩnh vực công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản titan trên địa bàn
huyện trong thời gian tới. Việc phát triển điện năng lượng mặt trời là yếu tố mới
trong phát triển công nghiệp của huyện Bắc Bình giai đoạn hiện nay. Trên địa bàn
huyện, từ năm 2015 đến 2019 có 09 dự án điện mặt trời được Ủy ban nhân dân
tỉnh chấp thuận chủ đầu tư, với diện tích đất là 687,33ha, công suất 534,72MWp,
vốn đầu tư là 13.668,1 tỷ đồng, trong đó đã có 06 dự án đã phát điện thương mại
(diện tích đất là 554,53 ha, công suất 423,72MWp, vốn đầu tư 10.929,5 tỷ đồng).
03 dự án còn lại đang hoàn chỉnh thủ tục về đất đai, môi trường, thiết kế cơ sở.
Việc đầu tư hoàn thành tuyến đường giao thông ven biển Phan Thiết - Hòa
Thắng nối liền TD 716B - tuyến đường Quốc lộ 1A, tuyến Quốc lộ nối Mũi Né -
Bắc Bình - Lâm Đồng và tuyến đường Hòa Thắng - Hòa Phú đã tạo diện mạo mới
cho du lịch Bắc Bình, hằng năm đón gần 200.000 lượt khách trong nước và quốc
tế, đóng góp một phần vào ngân sách của huyện.
Đảng bộ huyện chú trong vào công tác phát triển dân sinh, kinh tế - xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số tạo chuyển biến khá toàn diện, đời sống của đồng
bào nâng lên rõ nét. Các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số có 98% hộ dân có đủ
điện, nước sinh hoạt, tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Song song, huyện
còn tập trung giải quyết đất đai, tạo điều kiện để đồng bào đẩy mạnh sản xuất.
Tính từ năm 2003 - 2018, toàn huyện đã khai hoang 1.558 ha đất sản xuất, cấp
cho 1.639 hộ. Từ diện tích được cấp, nhiều vùng đồng bào mạnh dạn chuyển đổi
phương thức canh tác và cây trồng mang lại lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, kết cấu
hạ tầng nông thôn được tập trung đầu tư, đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt nông
192
thôn tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ năm 2003 đến nay, tỉnh và
huyện đã đầu tư 6 công trình nước cho các xã miền núi vá các thôn xen ghép, với
tổng nguồn vốn 22,486 tỷ đồng, đáp ứng vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường.
Mặt khác, huyện đã thực hiện việc tái định cư cho đồng bào 2 xã Phan Sơn, Phan
Lâm, đến nay đời sống của đồng bào đã ổn định.
Đi đôi với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa xã hội cũng có nhiều chuyển
biến, đạt nhiều kết quả. Giáo dục - đào tạo ổn định về quy mô, được đầu tư cả
chiều rộng lẫn chiều sâu theo phương châm “nơi nào có dân là nơi đó có lớp
học”; đặc biệt giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, miền núi được duy trì và có bước
phát triển. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân có nhiều
tiến bộ; bệnh viện đa khoa khu vực Bắc Bình Thuận tiếp tục được đầu tư nâng
cấp, các trạm y tế được đầu tư trang thiết bị hiện đại, số lượng bác sĩ về các trạm
y tế được tăng cường, toàn huyện có 18/18 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia là địa chỉ
đáng tin cậy của người dân trong việc khám, chữa bệnh ở cơ sở.
Nhân dân trong huyện đã nỗ lực không ngừng xây dựng đời sống văn hóa
phong phú, các hoạt động văn hóa, văn nghệ độc đáo, đa dạng từng vùng miền,
từng dân tộc, đã được phát huy bảo tồn. Công tác xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo
an sinh xã hội được quan tâm chỉ đạo và được mọi tầng lớp nhân dân tham gia
với nhiều hình thức. Những kết quả đó đã làm thay đổi cuộc sống của người dân
hôm nay.
Trong quá trình xây dựng và phát triển quê hương, Đảng bộ huyện luôn
chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo trong
tình ình mới xứng đáng với niềm tin yêu, gởi gắm của của bộ, đảng viên và nhân
dân. Từ khi thành lập chi bộ đầu tiên, đến nay, huyện Bắc Bình đã thành lập được
43 chi, đảng bộ cơ sở trực thuộc Đảng bộ huyện với hơn 3.100 đảng viên. Công
tác chính trị, tư tưởng được Đảng bộ tập trung lãnh đạo, tạo sự đồng thuận cao
trong nhân dân, thực hiện có hiệu quả đối với các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của địa phương. Việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng lan tỏa trong đời
sống xã hội góp phần nâng cao trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng
viên; xuất hiện ngày càng nhiều gương điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực. Công
tác tổ chức xây dựng Đảng được quan tâm thực hiện, hệ thống chính trị từ huyện
đến cơ sở ngày càng được củng cố, kiện toàn; năng lực tổ chức hoạt động của
Đảng bộ và nguồn lực cán bộ từng bước được nâng lên đáp ứng tình hình thực
193
tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước. Hoạt động kiểm tra, giám sát gắn với lãnh
đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, công tác phòng chống tham nhũng, lãng
phí đi vào nền nếp góp phần phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng, chính
trị, đạo đức lối sống, giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Công tác dân vận
tiếp tục được quan tâm lãnh đạo, tập trung hướng về địa bàn dân cư; tích cực
phối hợp vận động và tham gia giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh góp
phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.
Quá trình hoạt động lãnh đạo nhân dân huyện nhà trong đấu tranh giải
phóng dân tộc và trong xây dựng quê hương, đất nước, Đảng bộ Bắc Bình luôn
giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ và thường xuyên củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; quan tâm đặc quyền lợi chính đáng của nhân dân, tin dân,
dựa vào dân để đề ra nhiệm vụ, giải quyết những quyền lợi chính đáng của nhân
dân. Tăng cường củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng bộ với nhân dân, đó là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của từng giai đoạn phát triển.
Bước sang năm mới 2020, năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm diễn
ra Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng, Đảng bộ và nhân dân huyện Bắc Bình tiếp tục thực hiện hoàn thành thắng
lợi nhiệm vụ để tiến tới tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII.
Tiếp tục xây dựng huyện nhà ổn định về chính trị, phát triển năng động về kinh tế.
194
TỰ HÀO VỀ TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC VÀ ĐẤU TRANH GIÀNH
ĐỘC LẬP CỦA NHÂN DÂN BÌNH THUẬN
Phan Thị Thảo
(GV-Khoa Nhà nước và Pháp luật
Trường Chính trị tỉnh)
Trong suốt chiều dài lịch sử đất nước, tinh thần yêu nước là yếu tố quan
trọng làm nên thắng lợi cách mạng dân tộc góp phần xây dựng quê hương, bảo vệ
Tổ quốc. Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và
90 năm thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh, nghiên cứu nhiều hơn về lịch sử
đấu tranh của nhân dân Bình Thuận, thế hệ trẻ hôm nay càng thêm tự hào về
truyền thống yêu nước và đấu tranh giành độc lập của thế hệ anh hùng đi trước.
Yêu nước là tình cảm vốn có ở tất cả các dân tộc. Song, tư tưởng ấy được
hình thành sớm hay muộn, nhiều hay ít, và mức độ thể hiện cũng như chiều
hướng phát triển của nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của mỗi quốc
gia. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước được hình thành một cách tự nhiên,
và là sản phẩm của lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nói về truyền thống quý báu của nhân dân ta là một lòng nồng nàn yêu nước,
tinh thần ấy lại sôi nổi mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, kết lại thành làn sóng mạnh
mẽ lướt qua mọi nguy hiểm và nhấn chìm bè lũ bán nước, cướp nước.
Tiếp nối truyền thống cách mạng của dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân
dân Bình Thuận đã ngấm sâu vào tình cảm, tư tưởng của mỗi thế hệ tạo nên sức
mạnh kỳ diệu giúp đánh thắng kẻ thù xâm lược và góp sức xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc. Tinh thần ấy đã được hung đúc từ bao đời nay và lịch sử là một minh chứng
hào hùng nhất cho những khẳng định trên. Có thể khái quát sơ lược về truyền
thống yêu nước của nhân dân tỉnh ta qua các giai đoạn như sau:
Giai đoạn trƣớc năm 1930
Bình Thuận là địa phương có phong trào yêu nước khá sớm từ năm 1873,
khi ông Phan Trung lập Trại núi ở Núi Tà Zôn (xã Hàm Đức) để tập hợp lực
lượng chống Pháp. Đến năm 1885, hưởng ứng Chiếu Cần Vương của vua Hàm
Nghi chống Pháp, ông Ung Chiếm chánh Tổng Lại An (nay xã Hàm Chính) đã
chiêu mộ nghĩa quân chống Pháp nhiều lần vây đánh phủ đường Hàm Thuận.
Phong trào yêu nước Bình Thuận từ đầu thế kỷ XX theo khuynh hướng Dân chủ
195
Tư sản, khi các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng đến Phan Thiết để cùng
những người yêu nước ở địa phương bàn bạc về “chấn dân khí, khai dân trí, hậu
dân sinh” và sau đó Liên Thành Thơ xã ra đời, Liên Thành Thơ quán khai trương
và trường Dục Thanh học hiệu được mở. Các hoạt động yêu nước theo hướng này
đã khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân Bình Thuận. Song, con đường cứu nước
lúc ấy chưa thực sự khởi sắc. Phong trào yêu nước của nhân dân tỉnh ta âm ỷ, chờ
những làn gió mới.
Năm 1910, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã vào Phan
Thiết, dạy học tại Dục Thanh học hiệu. Sau đó, ngày 5/6/1911, từ Cảng Nhà
Rồng, Người ra đi tìm đường cứu nước. Khi Người đã tìm ra con đường cứu
nước, Người đã tích cực hoạt động để truyền bá đường lối cứu nước về Việt Nam,
từ đó ánh sáng của Chủ nghĩa Mác – LêNin đã về với nhân dân Bình Thuận. Từ
năm 1928, hoạt động yêu nước của nhân dân Bình Thuận đã chuyển sang một
phương hướng mới.
Như vậy, từ những đặc điểm về điều kiện tổ chức trên Bình Thuận trước
năm 1930 đã tạo thuận lợi cho việc tiếp thu các phong trào yêu nước của dân tộc
lúc bấy giờ. Phong trào Cần Vương ở nước ta cũng như ở Bình Thuận, đánh dấu
việc chuẩn bị ra đời của một phong trào yêu nước mới phù hợp với thời đại, đó là
con đường cứu nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sau này.
Giai đoạn 1930-1975
Tỉnh Bình Thuận tiếp thu đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam kể
từ năm 1930, khi đồng chí Dương Chước, đảng viên của chi bộ Hòn Khói, Ninh
Hòa (tỉnh Khánh Hòa) đến làng Đại Nẫm, phủ Hàm Thuận (nay là xã Phong
Nẫm, thành phố Phan Thiết) và làng Phú Hội (nay là xã Hàm Hiệp, huyện Hàm
Thuận Bắc) tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin cho thanh niên trong hai làng Đại
Nẫm, Phú Hội. Sau một thời gian xây dựng, đồng chí kết nạp một số đảng viên
mới: Nguyễn Tỵ, Phan Xích, Ngô Đức Tốn.
Đồng chí Ngô Đức Tốn, sau khi vào Đảng đã về làng Tam Tân tập hợp quần
chúng yêu nước thành lập tổ chức “Phản đế đồng minh Hội”. Từ những hạt nhân
của “Phản đế đồng minh Hội”, 06 quần chúng tốt đã được kết nạp vào Đảng là:
Cao Có, Lê Chạy, Lê Thanh Lư, Hồ Vũ, Nguyễn Hữu Lợi, Nguyễn Gia Bát. Cuối
năm 1930, tại dốc Ông Bằng ở làng Tam Tân (nay là xã Tân Tiến, thị xã La Gi),
cuộc họp thành lập chi bộ được tiến hành, gọi là Chi bộ Tam Tân, do đồng chí
196
Ngô Đức Tốn làm Bí thư. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập ở
Bình Thuận.
Sự thành lập Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên tại tỉnh ta đã đưa phong trào
yêu nước của nhân dân Bình Thuận phát triển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đấu
tranh giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Những đảng viên được kết
nạp những năm đầu khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là những hạt nhân của
việc hình thành, phát triển cơ sở Đảng, đảng viên ngày càng lớn mạnh và lãnh
đạo nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược tại Bình Thuận. Tuy kẻ
thù đàn áp tàn bạo, các đồng chí đảng viên và cơ sở đảng lần lượt sa vào cảnh tù
đày, phong trào cách mạng luôn gặp khó khăn và tổn thất, nhưng phong trào cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ở Bình Thuận vẫn phát triển.
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, nhân dân Bình Thuận đã cùng nhân dân
cả nước giành chính quyền về tay nhân dân. Tuy nhiên, khi Pháp xâm lược lần
thứ hai, Bình Thuận tiếp tục rơi vào tay thực dân Pháp.
Khi Mỹ hất chân Pháp xâm lược miền Nam Việt Nam, nhân dân Bình
Thuận tiếp tục cùng nhân dân cả nước đánh Mỹ cứu nước. Trong chặng đường
chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Bình Thuận đã không
quản hy sinh, gian khổ, nêu cao truyền thống “Tự lực, tự cường, chiến đấu oanh
liệt thắng lợi vẻ vang”, viết nên những trang sử hào hùng của quê hương, đóng
góp xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng bộ và nhân
dân các dân tộc tỉnh Bình Thuận bắt tay xây dựng quê hương với vô vàn khó
khăn, thử thách, nhưng luôn một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, luôn
nêu cao truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết một
lòng, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cùng cả nước từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đạt nhiều thành tựu quan trọng.
Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ quê hương và nhất là trong thời kỳ đổi
mới, lòng yêu nước của nhân dân Bình Thuận tiếp tục phát huy, không còn thể
hiện là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập nữa mà đã thể hiện rõ nét qua tinh
thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.
Từ sau khi chia tách tỉnh năm 1992, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Thuận
luôn nêu cao ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết một lòng, phát huy nội lực, tranh thủ
197
ngoại lực, phấn đấu vươn lên giành được những thành tựu quan trọng trong công
cuộc đổi mới. Nhìn chung thời gian qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã thể hiện lòng yêu nước
trong xây dựng các lĩnh vực đời sống xã hội, đem lại nhiều thành tựu to lớn, đó
là: Cùng với cả nước, tỉnh ta đã vượt qua không ít những khó khăn, thực hiện
nhiệm vụ chính trị tạo sự chuyển biến tích cực trên nhiều mặt. Kinh tế tiếp tục
tăng trưởng; cơ sở vật chất và năng lực các ngành, các lĩnh vực được tăng cường;
các hoạt động văn hóa - xã hội có những tiến bộ mới; đời sống nhân dân tiếp tục
được cải thiện, mức sống nhân dân được nâng cao; an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội được giữ vững; hệ thống chính trị ngày càng nâng cao hơn vai trò,
hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội...
Trong năm 2019 vừa qua, với sức mạnh đoàn kết dân tộc, tinh thần yêu quê
hương, đất nước, thế hệ hôm nay tỉnh Bình Thuận đã chung tay góp sức xây dựng
kinh tế - xã hội đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tình hình kinh tế - xã hội
của tỉnh trong năm qua tiếp tục chuyển biến rõ rệt và khá toàn diện trên các mặt.
Công tác chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh phát huy hiệu quả, chất
lượng nền kinh tế tăng cao, nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt khá, đời
sống của nhân dân được cải thiện so với năm trước. Hoạt động kinh doanh du lịch
tiếp tục phát triển, chất lượng phục vụ du khách được các đơn vị kinh doanh du
lịch chú trọng hơn. Chất lượng giáo dục - đào tạo tiếp tục được duy trì; tỷ lệ thí
sinh đậu tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2019 đạt cao. Các hoạt động văn hóa -
văn nghệ, thể dục - thể thao, thông tin - truyền thông được duy trì ổn định. Các
chính sách an sinh, phúc lợi xã hội cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, đồng
bào dân tộc thiểu số được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh cơ bản được giữ vững…Đó là những kết
quả tạo nền tảng cơ bản, quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội tỉnh Bình
Thuận phát triển nhanh hơn trong thời gian đến.
Ngày nay, trong thời bình, tinh thần yêu nước được thể hiện ở nhiều khía
cạnh, lĩnh vực khác nhau. Mỗi người đều có một lý tưởng sống riêng, lựa chọn
cho mình một cách riêng để thể hiện lòng yêu nước: có người đi nghĩa vụ quân
sự, có người lựa chọn nhiệm vụ canh giữ biên cương, Tổ quốc, có người lựa
chọn cống hiến về tri thức, hay có người chọn nghiên cứu lịch sử, giữ gìn và
truyền bá lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho thế hệ sau…
198
Như vậy, qua quá trình đấu tranh giành độc lập và quá trình xây dựng đất
nước trong thời kỳ đổi mới, có thể khẳng định truyền thống yêu nước của nhân
dân Bình Thuận luôn được phát huy, tùy ở mỗi thời kỳ khác nhau, thể hiện qua
những cách khác nhau. Là một giảng viên trẻ của Trường Chính trị Bình Thuận,
qua nghiên cứu các tư liệu liên quan đến lịch sử của tỉnh như lịch sử Đảng bộ tỉnh
Bình Thuận, lịch sử địa phương tỉnh Bình Thuận, các đề cương tuyên truyền về
Đảng, bản thân cảm thấy rất tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của các
anh hùng cách mạng tỉnh ta. Qua đó, sẽ cố gắng tiếp tục nghiên cứu nhiều hơn
nữa về lịch sử tỉnh Bình Thuận để bổ sung kiến thức bản thân, mặt khác với
nhiệm vụ giảng dạy lý luận chính trị, sẽ cố gắng truyền tải những nội dung nghiên
cứu được đến với học viên một cách tốt nhất để mọi người có thể hiểu thêm về
lịch sử của nhân dân mình, từ đó thêm thể hiện sự tự hào về truyền thống yêu
nước và đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta, tiếp tục phát huy tinh thần yêu
nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế ./.
199
ĐẢNG BỘ BÌNH THUẬN
90 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Hội Cựu Chiến Binh tỉnh
Bình Thuận là một đơn vị hành chính của Việt Nam, mang đặc điểm chung
của văn hoá Việt Nam, bên cạnh đó, người dân Bình Thuận cũng có những tính
cách đáng quí như: Kiên trì, chịu đựng gian khổ, tự lực, tự cường, dũng cảm
đương đầu với mọi thử thách, sống thuỷ chung, trọn vẹn nghĩa tình. Có nếp sống
giản dị, nói năng thẳng thắn, tính tình bộc trực nhưng bao dung, độ lượng. Nhân
dân lao động không chỉ biết chăm lo làm ăn, phát triển kinh tế mà còn chăm lo
xây dựng một nền văn hoá hết sức phong phú, thể hiện đức tính lạc quan, yêu đời
của người dân qua biết bao nhiêu câu ca, hò, vè, truyện cười, điệu múa,…Tinh
thần, ý chí phản kháng, không khoan nhượng và khuất phục trước sự thống trị hà
khắc của bọn đế quốc, phong kiến và những bất công tiêu cực của quan lại trong
xã hội đương thời. Những tấm gương tiêu biểu cho đức tính ấy như Nguyễn Đăng
Hựu - người Hoà Đa, Trương Gia Mô - ở Duồng (Tuy Phong)
Đầu thế kỉ XX, trong nước xuất hiện phong trào yêu nước theo con đường
dân chủ tư sản, do tầng lớp sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo: Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thông…Các hoạt
động yêu nước theo hướng dân chủ tư sản do tầng lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo
đã khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân Bình Thuận. Song, con đường cứu nước
ấy không cứu nổi dân tộc. Phong trào yêu nước của nhân dân Bình Thuận đang
âm ỷ, chờ những làn gió mới. Trải qua hơn 300 năm hình thành và phát triển,
cùng với nhiều biến cố lịch sử đã diễn ra, đơn vị hành chính tỉnh Bình Thuận đã
có nhiều lần thay đổi là: trấn Thuận Thành - phủ Bình Thuận - dinh Bình Thuận
cuối cùng được đổi thành tỉnh Bình Thuận. Đến tháng 12/2005, tỉnh Bình Thuận
bao gồm thành phố Phan Thiết và các huyện, thị xã là: La Gi, Tuy Phong, Bắc
Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Tánh Linh, Đức Linh và
huyện đảo Phú Quý
Năm 1910, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã vào Phan
Thiết, dạy học tại Dục Thanh học hiệu (tức là Trường Dục Thanh). Sau đó, ngày
5-6-1911, từ cảng Nhà Rồng, Người ra đi tìm đường cứu nước. Đến cuối năm
1920, Bác Hồ đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta, đó là con
200
đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ năm 1921 đến năm
1925, Người tiếp tục hoạt động để truyền bá đường lối cứu nước về Việt Nam. Từ
đó, ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã về với nhân dân Bình Thuận.Từ năm
1928, hoạt động yêu nước của nhân dân Bình Thuận đã chuyển sang một phương
hướng mới.
Ngô Đức Tốn từ quê Hà Tĩnh vào Bình Thuận dạy học tại làng Tam Tân.
Thầy giáo Ngô Đức Tốn xuất thân từ một gia đình có truyền thống cách mạng và
được sự bồi dưỡng lòng yêu nước của người bác ruột là Ngô Đức Kế, một trí thức
nổi tiếng có tư tưởng tiến bộ cho nên sớm giác ngộ và dấn thân vào phong trào
cách mạng sôi nổi của Đảng. Không bao lâu, bước khởi đầu của Ngô Đức Tốn là
âm thầm gây nhận thức cho những người dân lao động làng biển Tam Tân về tinh
thần phản đế phản phong. Từ mục tiêu của “Án nghị quyết về vấn đề phản đế”
của trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930, Ngô Đức Tốn biết
vận dụng thực tế địa phương và thành lập tổ chức “Phản đế đồng minh hội” với
30 người đủ thành phần xã hội. Đầu năm 1930, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được
thành lập tại làng Tam Tân gồm có 6 người, do ông Ngô Đức Tốn (một GV dạy
trường làng Tam Tân) làm bí thư; nhóm Cộng sản ở Đại Nẫm (Phan Thiết) do
ông Dương Chước trực tiếp phụ trách; cơ sở cách mạng của Đảng được xây dựng
ở Rạng (Phan Thiết) do ông Hồ Quang Cảnh tổ chức;… Sự thành lập các Chi bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam ở Bình Thuận đã đưa phong trào yêu nước của nhân
dân trong tỉnh phát triển sang một thời kì mới, thời kì đấu tranh giành độc lập
theo con đường cách mạng vô sản
Cùng thời gian trên, đồng chí Hồ Quang Cảnh, một đảng viên cộng sản từ
Sài Gòn về móc nối với một đảng viên người xứ Nghệ cũng từ Sài Gòn về xây
dựng phong trào cách mạng ở Bình Thuận. Sau một thời gian hoạt động dưới hình
thức tổ chức Nông Hội, năm 1931, các đồng chí Nguyễn Tương, Nguyễn Gia Tú,
Trần Hoành… được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những đảng viên được kết nạp những năm đầu khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là những hạt nhân của việc hình thành, phát triển cơ sở Đảng, đảng
viên ngày càng lớn mạnh và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp
xâm lược tại Bình Thuận. Tuy kẻ thù đàn áp tàn bạo, các đồng chí đảng viên và
cơ sở đảng lần lượt sa vào cảnh tù đày, phong trào cách mạng luôn gặp khó khăn
và tổn thất, nhưng phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ở Bình
Thuận vẫn phát triển.
201
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, nhân dân Bình Thuận đã cùng nhân
dân cả nước giành chính quyền về tay nhân dân. Khi Mỹ hất chân Pháp xâm lược
miền Nam Việt Nam, nhân dân Bình Thuận tiếp tục cùng nhân dân cả nước đánh
Mỹ cứu nước. Trong chặng đường chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ và nhân dân
các dân tộc tỉnh Bình Thuận đã không quản hy sinh, gian khổ, nêu cao truyền
thống “Tự lực, tự cường, chiến đấu oanh liệt thắng lợi vẻ vang”, viết nên những
trang sử hào hùng của quê hương, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Bình Thuận bắt
tay xây dựng quê hương với vô vàn khó khăn, thử thách, nhưng luôn một lòng tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, luôn nêu cao truyền thống yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, đoàn kết một lòng, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, cùng cả nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đạt nhiều thành tựu
quan trọng.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay, cần tiếp tục đổi mới và nâng cao hơn nữa công tác xây dựng chi bộ để đáp
ứng tốt yêu cầu công tác trong tình hình mới, đảm bảo, thể hiện rõ tính lãnh đạo,
tính giáo dục và tính chiến đấu của công tác Đảng; tiếp tục xây dựng tổ chức cơ
sở đảng vững về chính trị, tư tưởng, mạnh về tổ chức, giữ vững vai trò lãnh đạo
trong sự nghiệp đổi mới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Chi bộ là nền móng của Đảng,
chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”, “Chi bộ vững mạnh thì mọi chính sách của Đảng và
Chính phủ nhất định thi hành được tốt. Muốn vững mạnh, thì tất cả đảng viên
trong chi bộ phải thật thà đoàn kết nhất trí”, “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan
trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng”
Muốn chi bộ phát triển tốt, thì cần chú trọng đến việc nâng cao chất lượng
chi bộ. Chi bộ có vị trí, vai trò rất quan trọng, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân,
do vậy hoạt động của chi bộ (mà chủ yếu thông qua sinh hoạt chi bộ thường kỳ)
chính là nhằm thống nhất tư tưởng, tổ chức và hành động trong toàn Đảng, để
thực hiện mục tiêu của Đảng, duy trì cầu nối này cũng là nhằm tăng cường tính
chiến đấu, tạo sức mạnh cho Đảng, gây dựng và giữ vững niềm tin trong nhân dân.
Với nhiệm vụ đề ra chủ trương, lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
chính trị của đảng bộ nói chung và chi bộ nói riêng; xây dựng đảng bộ, chi bộ
202
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự
phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong
Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; chấp hành đúng pháp luật và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; liên hệ mật thiết, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân
dân; kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
và pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp
hành Điều lệ Đảng..., các chi bộ trong tất cả các loại hình tổ chức cơ sở đảng phải
thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt định kỳ theo quy định của Điều lệ Đảng.
Bởi đây chính là nơi, là lúc để thực hiện các nhiệm vụ trên; là nơi truyền đạt, chỉ
đạo, phân công cụ thể và các đảng viên tiếp thu, tổ chức thực hiện các công việc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi
bộ tốt là do các đảng viên đều tốt ”. Để đạt được điều đó, phải đổi mới và nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
203
VÌ MỘT HÀM THUẬN NAM THỊNH VƢỢNG
Huyện ủy Hàm Thuận Nam
Gần 37 năm hình thành, phát triển; 34 năm thực hiện đổi mới theo đường lối
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Bình Thuận;
Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân huyện Hàm Thuận Nam đã một lòng sắt son với
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vững niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng, quyết tâm vượt mọi khó khăn, đưa quê hương Hàm Thuận Nam ngày
càng phát triển vững chắc, giàu đẹp.
Từ ngày đầu thành lập
Huyện Hàm Thuận Nam được thành lập từ tháng 6/1983 với 21 đồng chí
tham gia Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ huyện. Đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức trong hệ thống chính trị huyện vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm làm việc. Đây là một thách thức lớn với tập thể Đảng
bộ non trẻ nhưng phải gánh trên vai nhiệm vụ nặng nề: Xây dựng và phát triển
một địa bàn gồm 9 xã với diện tích 105.837,95ha và dân số hơn 40.000 người;
một địa bàn với điểm xuất phát thấp, cơ sở vật chất hầu như không có gì.
Giai đoạn này, điều kiện sống và làm việc của cán bộ, công chức rất khó
khăn: Không có trụ sở làm việc; không điện, nước, không điện thoại… phương tiện
đi lại làm việc cũng không. Hệ thống giao thông nội huyện chủ yếu là đường đất,
đường mòn; chưa có công trình thủy lợi nào đáng kể; trường học, trạm y tế vừa
thiếu, vừa tạm bợ; cơ sở vật chất văn hóa chưa có gì. Kinh tế của huyện chủ yếu là
nông, lâm nghiệp. Nhưng, hầu hết diện tích sản xuất nông nghiệp là không chủ
động nước, thiếu sức kéo (trâu, bò cày) và phân bón, thuốc trừ sâu. Lâm nghiệp
luôn đối mặt với hoạt động khai thác rừng tự phát và tràn lan; tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ thì còn rất nhỏ lẻ.
Tuy nhiên, thiên nhiên cũng ban tặng cho Hàm Thuận Nam nhiều ưu đãi.
Huyện nằm ngay cửa ngõ phía Tây Nam của thành phố Phan Thiết; có đường
quốc lộ 1A, đường sắt Bắc – Nam đi qua và có bờ biển dài 23,5 km. Từ trung tâm
huyện đi các trung tâm tỉnh lỵ và huyện lỵ khác trong vùng duyên hải miền Trung
và miền Đông Nam bộ rất thuận lợi. Cùng với đó, Hàm Thuận Nam có cả miền
núi, đồng bằng trung du và ven biển; đất đai rộng, có điều kiện phát triển kinh tế
đa dạng; nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú và có nhiều cảnh quan
thiên nhiên đẹp, nằm trong vùng phát triển du lịch năng động của tỉnh.
204
Quan trọng hơn, lực lượng cán bộ, công chức của huyện có tinh thần cách
mạng tràn đầy; sẵn sàng chịu đựng gian khổ, bám đất, bám dân để thực hiện
nhiệm vụ. Nhân dân các dân tộc trong huyện luôn đoàn kết, một lòng tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng… Đây là nhân tố quan trọng để Hàm Thuận Nam bước
từng bước vững chắc như ngày nay.
Đến kết quả của quyết tâm đoàn kết, đổi mới và sáng tạo
Như trên đã nói, với một hệ thống chính trị non trẻ, điều kiện cơ sở vật chất
nghèo nàn nên những năm đầu thành lập, Đảng bộ và chính quyền các cấp trong
huyện đã bắt tay ngay vào củng cố, xây dựng, tham vấn kinh nghiệm của các nhà
khoa học, của Nhân dân và triển khai các hoạt động trên mọi lĩnh vực:
Ngay sau khi thành lập, tháng 6/1983, huyện đã mở hội nghị nông, lâm
nghiệp để đánh giá thực trạng sản xuất; xác định giải pháp, mục tiêu, nhiệm vụ cụ
thể đối với lĩnh vực này. Theo đó, Huyện ủy đã chỉ đạo củng cố các hợp tác xã
nông nghiệp mở rộng diện tích sản xuất, tăng cường các biện pháp thâm canh;
huy động ngày công để đào đắp, nạo vét kênh mương; triển khai thực hiện công
tác khoán sản phẩm và cơ chế quản lý sản xuất. Đồng thời, chỉ đạo các ngành
chức năng đẩy mạnh kiểm tra, ngăn chặn các vụ phá rừng; tiến hành giao 14.500
ha đất và rừng cho các xã và 02 đơn vị quốc doanh quản lý, bảo vệ.
Đối với lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, huyện đã hóa giá và đưa vào sản xuất
tập thể được 33 lò gạch thủ công và 4 lò máy ép mía, 12 máy xay sát, phục vụ
nhu cầu xây dựng và sinh hoạt, sản xuất trên địa bàn.
Về xây dựng cơ bản cũng đã huy động nhiều công lao động sửa chữa cầu,
đường giao thông; triển khai xây dựng một số cơ sở làm việc và nhà ở tập thể cho
các ban, ngành huyện, xã theo hướng “Huyện, xã và các hợp tác xã cùng làm”.
Đồng thời, xây dựng mới hoặc sửa chữa một số phòng khám đa khoa trung tâm
huyện, trường học, nhà trẻ.
Các lĩnh vực tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao;
xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, xây dựng Đảng đều được quan tâm và dần
đi vào hoạt động ổn định, chuyên nghiệp và khoa học. Thời điểm này, ngoài việc
củng cố các tổ chức cơ sở đảng ở các địa phương; toàn huyện đã thành lập được 11
chi bộ cơ quan.
Riêng đối với lĩnh vực an ninh – quốc phòng, Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo
khối nội chính, nhất là ngành công an, triển khai thực hiện các giải pháp trấn áp
tội phạm và các hoạt động chống đối chính quyền cách mạng dưới nhiều hình
thức; ngăn chặn một số vụ móc nối vượt biên giữ vững an ninh chính trị, trật tự
205
an toàn xã hội. Đồng thời, tích cực thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên để củng cố
lực lượng quân sự bảo đảm quốc phòng.
Đến tháng 8/1986, Đảng bộ huyện Hàm Thuận Nam tổ chức Đại hội lần thứ
I; Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành nhiệm kỳ mới gồm 31 đồng chí. Cũng trong
năm này, Đảng ta đã tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Tại Đại hội này,
Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới của đất nước; Đảng đã có những định hướng
đổi mới về tư duy kinh tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ IV đã soi rọi,
chỉ đường cho Huyện ủy Hàm Thuận Nam có những cách nghĩ, cách làm mới phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Tuy nhiên, phải đến năm 1989, sau Đại hội lần thứ II của Đảng bộ huyện,
những kết quả của tư duy đổi mới, mới bắt đầu hiện hữu. Cùng với việc triển khai
thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08 của Ban Chấp
hành Trung ương và Nghị quyết số 05 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Huyện ủy đã
tập trung chỉ đạo thực hiện đổi mới kinh tế nông nghiệp; đầu tư xây dựng sửa
chữa, tu bổ hệ thống hồ, đập, góp phần hình thành vùng sản xuất 1.000ha lúa; chủ
động nước 2 vụ và tăng diện tích lúa vụ đông xuân lên 600 ha. Đồng thời, Huyện
ủy cũng chỉ đạo đầu tư đường điện 35 kV từ Phan Thiết về Hàm Thuận Nam. Đến
cuối năm 1990, việc chuyển đổi cây trồng từ đất trồng cây hàng năm sang trồng
thanh long, đã mở ra một hướng đi mới cho sản xuất nông nghiệp của Hàm Thuận
Nam.
Giai đoạn 1991 – 2000, sau khi Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III tổ chức
thành công, Huyện ủy đã chỉ đạo tăng cường đầu tư và kiến nghị tỉnh hỗ trợ đầu
tư xây dựng, cải tạo, sửa chữa các công trình thủy lợi như: Hồ Tà Mon, Đập Mắc
Cỡ, Hồ suối Thị, đập Sông Linh, đập dâng Ba Bàu… Công tác đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hàng năm đã được quan tâm bằng cả nguồn vốn
của ngân sách huyện, ngân sách tỉnh, Trung ương hỗ trợ có mục tiêu và các
nguồn vốn khác. Nhiều công trình giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt,
trường, lớp học, trụ sở làm việc được đầu tư xây dựng. Bộ mặt của huyện đã có
những thay đổi khá rõ với chỉ số về thu nhập ấn tượng như: Từ 1991 đến 1995,
thu nhập bình quân đầu người của huyện đã tăng 53% (từ 88,2 USD lên 135
USD).
Đến năm 1996, các chợ trung tâm; điểm thu mua nông sản và vật tư sản
xuất, xây dựng; dịch vụ vận tải, bưu điện… phát triển khá nhanh. Một số khu du
206
lịch như: cáp treo Tà Cú, Đồi Sứ, Suối Nhum, Ánh Dương và nhiều tuyến đường
giao thông quan trọng như: đường Hàm Minh – Thuận Quý, đường ĐT 719,
Đường QL 1A – Khu du lịch Tà Cú… đã hình thành, mở ra triển vọng phát triển
du lịch cho Hàm Thuận Nam.
Thời điểm này, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện và
9/13 xã, thị trấn đã hoàn thành. Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo huy động các
nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, giảm tỷ lệ
sinh. Nhờ đó, tỷ lệ hộ đói nghèo từ 25% năm 1995 giảm xuống còn 10% năm
2000; thu nhập bình quân đầu người năm 2000 tăng lên 210 USD. Lĩnh vực y tế,
giáo dục cũng được quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, Y,
bác sĩ.
Kể từ sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV, Đảng bộ Hàm Thuận Nam đã
dần được củng cố, kiện toàn hơn qua các kỳ đại hội V, VI, VII và gần đây nhất là
Đại hội lần thứ VIII (tháng 8/2015) với 39 đồng chí tham gia Ban chấp hành.
Trong giai đoạn 2000 – 2020, với việc thực hiện Nghị quyết của 4 kỳ Đại hội
Đảng bộ huyện, đã đưa Hàm Thuận Nam từ một huyện nghèo với cơ sở hạ tầng
yếu kém có thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.200 USD năm 2020, tăng gấp
hơn 10 lần so với năm 2000 và gấp 25 lần so với năm 1991. Tỷ lệ hộ nghèo giảm
từ 25% năm 1995 giảm xuống còn dưới 1,5% vào năm 2020.
Kinh tế phát triển khá toàn diện cả về nông nghiệp, công nghiệp và thương
mại, dịch vụ, du lịch. Đã có những thương hiệu được khẳng định như thanh long
với tổng diện tích 13.200 ha; du lịch như ngọn hải đăng Kê Gà, núi Tà Cú với di
tích lịch sử văn hoá chùa Linh Sơn Trường Thọ… hàng năm đón gần 500 nghìn
lượt khách, doanh thu trên 200 tỷ đồng. Khu công nghiệp Hàm Kiệm được đầu tư
với diện tích gần 600 ha; đến nay, đã thu hút được 27 dự án với tổng vốn đầu tư
1.636,35 tỷ đồng và 100,689 triệu USD. Toàn huyện hiện có trên 200 doanh
nghiệp và gần 3.600 hộ kinh doanh cá thể; trong đó, gần 3.400 cơ sở kinh doanh
trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại. Đặc biệt, huyện cũng đã có 8 xã đạt chuẩn
nông thôn mới.
Các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao cũng có bước phát triển vượt
bậc. Hạ tầng giao thông, thủy lợi và bộ mặt nông thôn, đô thị được cải thiện rõ
rệt. Trong đó, một số công trình trọng điểm đã được đầu tư trên địa bàn như: xây
dựng mới và nâng cấp nhiều tuyến đường điện, trạm biến áp; Xây dựng hồ Sông
Móng; Kênh chuyển nước Hồ Sông Móng – Hàm Cần; kênh chuyển nước Sông
207
Móng - Tân Lập – Tà Mon. Đây là điều kiện thuận lợi để Hàm Thuận Nam bứt
phá, trở thành huyện giàu, đẹp.
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và Mặt trận, đoàn thể các cấp được
quan tâm thực hiện; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được xây dựng, củng
cố có tính chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, có năng lực thực tiễn, đồng bộ
về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ; tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị được rà soát, sắp xếp, kiện toàn tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả. Tập trung công tác đào tạo, bồi dưỡng; xây dựng nguồn lực đủ về số lượng,
bảo đảm về cơ cấu và chất lượng, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương. Hiện nay, toàn huyện hiện có 30 chi, đảng bộ cơ sở (trong đó có 17
đảng bộ và 13 chi bộ); với tổng số 2.309 đảng viên, hàng năm kết nạp trên 120
đảng viên mới.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng tiếp tục
được củng cố; lực lượng vũ trang được xây dựng đảm bảo về cả số lượng và chất
lượng. Cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện của lực lượng vũ trang huyện, xã được
đầu tư, bảo đảm phục vụ yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội của huyện.
Một số kinh nghiệm
Nhìn lại 37 năm qua, có thể thấy rằng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải
luôn xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, hệ thông chính trị; coi trọng
khâu tuyên truyền, vận động để Nhân dân đồng thuận, tích cực tham gia thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của địa phương; phát huy tốt sức dân; thực hiện tốt phương
châm “Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra”. Phải quán triệt sâu sắc các
nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kịp thời cụ
thể hóa bằng các chương trình hành động, kế hoạch cụ thể sát hợp với điều kiện
cụ thể của huyện. Phải biết tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ của cấp trên;
đồng thời, kịp thời báo cáo tình hình, tiến độ thực hiện nhiệm vụ và các khó khăn,
vướng mắc để đề xuất, kiến nghị cấp trên xem xét giải quyết.
Thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp ủy, Ban
Thường vụ cấp ủy; trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải có trọng tâm, trọng
điểm, dồn sức cho những vấn đề bức xúc; tổ chức thực hiện phải kiên quyết; có
theo dõi, kiểm tra sâu sát để điều chỉnh, uốn nắn kịp thời; có phân công trách
nhiệm cụ thể cho từng cấp, từng ngành. Phải xây dựng và thực hiện nghiêm túc
Quy chế làm việc, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng sự đoàn kết
thống nhất. Từng đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành phải luôn nêu cao tính năng
208
động, sáng tạo; không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
và lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; trong sinh hoạt tự phê bình và phê
bình, có tinh thần, trách nhiệm cùng tập thể bàn bạc, thảo luận thống nhất nghị
quyết lãnh đạo trên từng lĩnh vực công tác cụ thể. Riêng đối với công tác xây
dựng Đảng phải coi trọng cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thường
xuyên củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng;
xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ kế cận, cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị từ huyện đến xã; phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm và vai trò
người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị, địa phương; kiên quyết xử lý những
trường hợp cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất.
Mục tiêu phát triển giai đoạn 2020 - 2025
Mỗi giai đoạn phát triển, Huyện đều xác định những nhiệm vụ trọng tâm của
mình. Ở giai đoạn 2020 – 2025 cũng vậy, mục tiêu phát triển đã được nêu rõ
trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX, cụ thể:
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của toàn Đảng bộ huyện; tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý, hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp; phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; không ngừng cải thiện và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng; phát huy tối đa nội lực, huy động có hiệu
quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển; khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi
thế của huyện, tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo thế đưa huyện nhà phát triển nhanh
và bền vững. Trong đó đột phá vào 4 lĩnh vực:
Thứ nhất, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh xây dựng hoàn thiện việc
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; siết
chặt kỷ luật, kỷ cương gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực.
Thứ hai, tập trung tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn
mới, trong đó ưu tiên phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với xây
dựng cánh đồng mẫu lớn và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tạo môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
209
Và cuối cùng tập trung huy động các nguồn lực để đẩy mạnh đầu tư kết cấu
hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là nguồn ngân sách ngoài Nhà nước đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Đề xuất, kiến nghị
Để Hàm Thuận Nam thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng – an ninh, xây dựng Đảng trong thời gian tới, huyện rất cần sự
quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các sở, ngành của tỉnh, cụ
thể như sau:
- Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng
các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng quan trọng trên địa bàn huyện như: làm
mới đường trục ven biển ĐT 719B; đường Hàm Kiệm – Tiến Thành; cải tạo, nâng
cấp đường ĐT 718; nâng cấp, mở rộng đường trục ven biển quốc gia ĐT 719
đoạn Kê Gà – Tân Thiện; xây dựng Hồ Ka Pét…
- Đầu tư xây dựng và cải tạo, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông,
thủy lợi, điện, giáo dục, y tế, văn hóa từ nguồn vốn ngân sách tỉnh và Trung ương
hỗ trợ có mục tiêu.
- Quan tâm giải quyết và giúp huyện giải quyết các vướng mắc trong công
tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để các dự án được chấp thuận đầu tư trên địa
bàn huyện sớm triển khai; sớm cho chủ trương triển khai một số công trình giao
thông theo hình thức đối tác công tư - PPP (áp dụng loại hợp đồng xây dựng –
chuyển giao; BT) để định hướng tổ chức không gian hỗn hợp các khu dân cư,
khu du lịch, thương mại, dịch vụ phù hợp với điều kiện tự nhiên phục vụ nhu cầu
phát triển xã hội gắn với xây dựng nông thôn mới.
Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam huyện luôn mong muốn nhận được sự ủng hộ của Nhân dân, của những
người con quê hương Hàm Thuận Nam và của cộng đồng doanh nghiệp trong
chặng đường phát triển tiếp theo của mình: Vì một Hàm Thuận Nam thịnh
vượng!
210
ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN
90 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Hội Nông dân tỉnh Bình Thuận
Vào đầu năm 1920, sau khi dập tắt các cuộc khởi nghĩa của nông dân, thực
dân Pháp tiến hành cướp đoạt gần 1 triệu ha ruộng đất của nông dân, địa chủ
phong kiến chỉ với 2% dân số cả nước nhưng chiếm 51% ruộng đất canh tác.
Nông dân chiếm trên 90% dân số nhưng chỉ có 36% ruộng đất, trong đó gần 60%
số hộ không có ruộng đất.
Phong trào đấu tranh chống cướp đoạt ruộng đất, sưu thuế tô tức nặng nề
của nông dân còn mang tính tự phát và bước đầu có sự lãnh đạo của các tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc Việt Nam Quốc dân Đảng. Trong
đấu tranh, giai cấp nông dân được tôi luyện trưởng thành và xuất hiện những
người con ưu tú, hình thành nhiều tổ chức như: Phường lợp nhà, Phường hiếu hỉ,
Phường tương tế... để bảo vệ quyền lợi của nông dân. Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ
XX, Nông hội đỏ đã xuất hiện ở một số địa phương.
Đầu năm 1930, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ra
những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân: “Đảng phải thu phục cho được
đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và
phong kiến''; Đồng thời, Đảng nhấn mạnh ''Nông dân là lực lượng to lớn của
cách mạng". Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa
phương, các tổ chức Nông hội cấp cơ sở vẫn được hình thành ở Nam Kỳ, Trung
Kỳ, tại Bình Thuận, vào đầu năm 1930, Dương Chước - một đảng viên cộng sản
từ Khánh Hòa đến xây dựng cơ sở, phát triển đảng viên ở làng Đại Nẫm, Phú Hội
thuộc phủ Hàm Thuận. Sau một thời gian tuyên truyền các đồng chí Ngô Đức
Tốn vào dạy học ở làng Tam Tân, Hàm Tân, Nguyễn Tỵ (nông dân), Phan Xích
(làm ở đề pô xe lửa Mương Mán) được kết nạp vào Đảng. Theo hướng dẫn của
Dương Chước, Giáo Tốn (Ngô Đức Tốn) đã tập hợp số thanh niên, nông dân, ngư
dân, công chức trong làng Tam Tân, nơi anh dạy học thành lập một tổ chức “Phản
đế đồng minh hội”, đến cuối năm 1930, chi bộ Tam Tân hình thành có 7 đảng
viên do đồng chí Tốn làm Bí thư. Tổ chức Phản đế đồng minh hội đến đầu năm
1931 có tới 30 người. Cùng thời gian trên, đồng chí Hồ Quang Cảnh, một đảng
211
viên cộng sản từ Sài Gòn về móc nối với một đảng viên người xứ Nghệ cũng từ
Sài Gòn về xây dựng phong trào cách mạng ở Bình Thuận. Sau một thời gian hoạt
động dưới hình thức tổ chức Nông Hội, năm 1931, các đồng chí Nguyễn Tương,
Nguyễn Gia Tú, Trần Hoành… được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những đảng viên được kết nạp những năm đầu khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là những hạt nhân của việc hình thành, phát triển cơ sở Đảng, đảng viên ngày
càng lớn mạnh và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược tại
Bình Thuận.
Ngày 20 tháng 3 năm 1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị
về vấn đề chỉnh đốn Nông hội đỏ, trong đó khẳng định vai trò to lớn của Nông
hội trong cách mạng, giai cấp nông dân “là một lực lượng chính của cách mạng”.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Hai, tháng 3 năm 1931 nhấn mạnh: Cần phải
đẩy mạnh việc tổ chức Nông hội làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của
Đảng, đồng thời chỉ rõ: trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông dân cùng các
tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: chống sưu thuế, địa
tô, chống nạn thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống cải lương lừa dối, chống
chiến tranh…
Thực hiện Nghị quyết Trung ương Hai, các tổ chức Nông hội được củng
cố và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân. Tháng 6 năm 1932
Trung ương Đảng đã khởi theo Chương trình hành động nhằm khôi phục nhanh
chóng phong trào cách mạng, đồng thời đề ra phương hướng đấu tranh và những
biện pháp cụ thể phù hợp với tình hình mới. Chủ trương của Đảng nêu rõ: phải
tận dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp để tổ chức đấu tranh và phát triển
tổ chức bí mật (Nông hội). Trên cơ sở Chương trình hành động của Đảng,
Chương trình hành động của Nông hội ra đời.
Tháng 3 năm 1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, đề ra đường
lối chính trị và phương pháp tổ chức mới, tên của các tổ chức quần chúng đều
được thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Quyết định lấy tên Nông hội thay
Nông hội đỏ. Nông dân có tổ chức chính là Nông hội, có thể tổ chức nhiều hội
(nhưng nội dung là Nông hội); Hội tương tế, ái hữu, hợp tác xã, hội cấy, hội gặt,
hội hiếu hỉ, hội góp họ, phường đi săn, hội chèo, nhóm học quốc ngữ...đã thu hút
đông đảo nông dân đấu tranh giành quyền lợi của giai cấp mình. Chủ trương đúng
đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông hội khắp nơi trong nước phát huy vai
trò của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo nông dân hợp lực với công nhân và
nhân dân lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.
212
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám, tháng 5 năm 1941 khẳng định
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất thay bằng
khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân cày nghèo, thực
hiện giảm tô, giảm tức; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là
Việt Minh); Mặt trận các đoàn thể lấy tên là Cứu quốc.
Năm 1941 - 1942, dưới sự lãnh đạo của Nông hội, nông dân đã đấu tranh
chống thu thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu...Từ năm 1943,
với khẩu hiệu ''Đoàn kết toàn dân đánh đuổi Nhật - Pháp''. Nông hội đã đưa nông
dân tham gia vào các phong trào sôi nổi với những hình thức như biểu tình chống
Nhật, vũ trang đánh Nhật…Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), phong
trào ''Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói'' đã lôi cuốn hàng triệu nông dân vùng
lên đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh các tổ chức cứu quốc
của nông dân càng phát triển mạnh mẽ, góp sức vào làn sóng khởi nghĩa từng
phần đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng chính quyền cơ
sở của phát xít, tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa cả nước hừng hực
bước vào cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 thành công.
Thành công vĩ đại của Cách mạng tháng Tám là một minh chứng cho tinh
thần, khả năng và vai trò cách mạng to lớn của nông dân với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc. Đồng thời, là một thắng lợi của sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của
Đảng đối với các tổ chức của giai cấp nông dân, thể hiện sự gắn bó giữa Đảng với
nông dân, nông dân với Đảng.
Trong điều kiện chiến tranh ngày càng lan rộng với mức độ gay go ác liệt
hơn, nhiệm vụ kháng chiến càng đòi hỏi phải động viên toàn thể nông dân tham
gia trên tất cả các mặt trận. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thành lập Ban Nông
vận Trung ương, kiện toàn tổ chức ở cấp Trung ương.
Ngày 06 tháng 8 năm 1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị
quyết số 02 – NQ/TW về việc thành lập Ban Nông vận Trung ương. Với nhiệm
vụ của Ban Nông vận Trung ương là vận động nông dân: tăng gia sản xuất, tự cấp
tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã, hoàn thành giảm tô, thực hiện
giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ. Nông dân trong các vùng
địch tạm chiếm đã tiến hành nhiều hình thức đấu tranh như bám ruộng đất, làng
xóm để sản xuất; lên án hành động bắn phá, đốt hoa màu của địch; tranh thủ sản
xuất, thu hoạch và cất dấu lương thực, thực phẩm ở vùng địch hậu trong cả nước
để đảm bảo được nhu cầu của nhân dân mà còn đóng góp cho Nhà nước, phục vụ
sự nghiệp kháng chiến. Phong trào cách mạng của giai cấp nông dân đã đóng góp
213
phần quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch. Chiến thắng lịch sử Điện Biên
phủ và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương mở ra một thời
kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Hoà bình được lập lại ở Đông Dương, miền
Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam được đế quốc Mỹ giúp sức, chính quyền Ngô Đình Diệm đã
trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ và tập trung sức củng cố bộ máy thống trị
phản động. đẩy mạnh việc xây dựng quân đội ngụy làm lực lượng xung kích
chống cộng và đàn áp nhân dân. Thực hiện chủ trương chuyển hướng đấu tranh
của Đảng và Chính phủ, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở nông thôn miền
Nam, Nông hội vừa tích cực tổ chức, vận động nông dân chuẩn bị đấu tranh lâu
dài, vừa khẩn trương tranh thủ thời gian trước khi bàn giao các địa bàn cho đối
phương để củng cố sản xuất, ổn định đời sống. Nam Bộ và khu V tiếp tục đẩy
mạnh việc chia cấp ruộng đất cho nông thôn nâng tổng số ruộng đất chia cho
đồng bào lên 750.000 ha cho 1.299.000 hộ nông dân.
Phong trào đấu tranh chính trị của nông dân miền Nam diễn ra hết sức
mạnh mẽ, quyết liệt. Các làng, xã chiến đấu được hình thành và phát triển. Ngày
20/12/1960, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại căn cứ Tây Ninh,
tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngày
21/4/1961, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành
lập và là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra
đời của Hội là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ chức nông dân, mà
trên thực tế hàng ngàn cơ sở Nông hội cứu quốc ở các khu, tỉnh, huyện, xã đã
được phục hồi trong thời gian Đồng khởi. Tháng 1 năm 1969, Hội Nông dân giải
phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành Đại hội nhằm tổng kết phong trào đấu
tranh của nông dân trong tám năm, đồng thời quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới
của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch ''Bình định cấp tốc'' của địch. Đại
hội đã biểu dương những thành tích to lớn của nông dân miền Nam trong việc
phát triển thế trận chiến tranh du kích, đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng, vùng
căn cứ và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm đời sống và cung
cấp hậu cần cho bộ đội. Hội tập trung vận động, tuyên truyền nông dân thực hiện
đúng đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, lấy địa bàn nông thôn làm hướng tiến
công chính, đánh mạnh vào kế hoạch “Bình định cấp tốc” của địch, giữ đất, giành
dân, Hội Nông dân đã chủ động giáo dục hội viên khắc phục tư tưởng nôn nóng,
thoát ly thực tế muốn thắng nhanh, đồng thời vạch rõ nhiệm vụ quan trọng nhất ở
214
nông thôn là phải ''giành dân, giành đất, phát triển thế và lực của ta". Nông dân
liên tục nổi dậy phá rã, phá banh nhiều khu dồn dân, phá thế kìm kẹp, giành
quyền làm chủ trên nhiều địa bàn quan trọng. Vùng giải phóng đã mở rộng tới sát
Sài Gòn. Ở đồng bằng Nam Bộ, nông dân nổi dậy mở thêm nhiều vùng, nhiều
lõm giải phóng, nối các vùng giải phóng thành thế liên hoàn liên xã, liên huyện.
Thắng lợi của phong trào nông dân nổi dậy và cuộc tiến công chiến lược
Xuân - Hè 1972 đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh ở miền Nam và
tiến tới "Tổng tấn công" mùa Xuân năm 1975 giành trọn vẹn thắng lợi, đất nước
thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà. Phát huy vai trò của tổ chức Hội Nông
dân trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc.
Ngày 25 tháng 6 năm 1977, Ban Bí thư ra Thông báo số 16 – TB/TW về việc
thành lập Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương.
Tổ chức Hội Nông dân cũng ngày càng được quan tâm hơn, ngày 29 tháng
9 năm 1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 116 – CT/TW về việc tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Nông
dân tập thể Việt Nam. Quy định việc thành lập Hội đồng của Hội Liên hiệp nông
dân tập thể ở từng cấp. Ngày 17 tháng 01 năm 1991, Bộ Chính trị đã đồng ý
lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam.
Đến nay, Hội Nông dân Việt Nam đã trải qua 07 kỳ Đại hội, Hội Nông dân
tỉnh Bình Thuận trải qua 8 kỳ đại hội.
Qua các kỳ Đại hội, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Tỉnh ủy, sự
chỉ đạo sâu sát của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Hội Nông dân tỉnh Bình
Thuận không ngừng lớn mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sau khi chia tách
tỉnh tháng 12/1992 toàn tỉnh có 466 chi hội, 1.594 tổ hội, có 73.607 hội viên; đã
phân loại 106 cơ sở của 9/9 huyện, thị; số cơ sở khá chiếm gần 1/3, đến năm 1997
đã nâng lên 75.980 hội viên, qua phân loại có 60 cơ sở khá, 19 cơ sở yếu kém.
Đến năm 2000 toàn tỉnh có 765 chi hội, 2.609 tổ hội, 80.303 hội viên; các cấp
Hội Nông dân trong tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Hội, vận
động nông dân vào Hội, nâng tổng số hội viên hiện nay 152.834 hội viên, chiếm
108% so tổng số hộ nông dân toàn tỉnh, chiếm khoảng 67% dân số; có 10/10
huyện, thị, thành Hội, 127 xã phường thị, trấn; có 727chi hội/705 thôn, khu phố;
có 3.335 tổ hội; qua phân loại có 118/127 cơ sở vững mạnh, 09/127 cơ sở Hội
khá. Tổng số lực lượng cốt cán chính trị là 7.307 cốt cán, chiếm tỷ lệ 4,75% so
với tổng hội viên (năm 2009 có 4.666 cốt cán chính trị, tăng 2.641 cốt cán, tỷ lệ
56,6%), trong đó có 705 cốt cán chính trị là dân tộc chiếm 9,64% so với cốt cán
215
chính trị, có 1.798 cốt cán chính trị tôn giáo chiếm 24,60% so với cốt cán; trực
tiếp giao nhiệm vụ 1.047 cốt cán chính trị; mỗi năm các cấp Hội giới thiệu từ
200-300 cán bộ, hội viên nông dân ưu tú cho Đảng xem xét và mỗi năm cấp uỷ
Đảng kết nạp được từ 100- 150 hội viên, nâng tổng số hội viên là đảng viên đến
nay là 4.466 người (tăng 831 đảng viên so với năm 2009 tăng 122%, chiếm tỷ lệ
2,90% trên tổng số hội viên), là nguồn bổ sung, quy hoạch cán bộ cho Đảng,
chính quyền và Hội các cấp.
Hội viên, nông dân trong tỉnh hiện nay có kinh nghiệm, chịu khó tìm hiểu,
học tập, ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất; luôn tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng và những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đạt
được trong thời gian qua. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cải thiện đời sống nông dân đã
tạo cơ chế, chính sách để Hội Nông dân Việt Nam tham gia phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội nông thôn và động viên đông đảo cán bộ, hội viên, nông dân quyết
tâm thực hiện, dân chủ cơ sở được phát huy. Tình hình sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần của hội viên, nông dân ổn định, có khá hơn. Tỷ lệ hộ nghèo từ 9,2%
(2008) đến nay giảm còn 2,67%, số hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm từ 1-1,2%.
Đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo, người cận nghèo được cải thiện,
góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành
thị; điều kiện ăn ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khoẻ… được quan tâm, trình độ
dân trí và mức hưởng thụ văn hoá được nâng lên. Song, bên cạnh thuận lợi vẫn
còn nhiều khó khăn, thách thức do tác động lạm phát kinh tế, biến đổi khí hậu, ô
nhiễm môi trường, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi... cán bộ, hội viên, nông
dân, băn khoăn, lo lắng giá cả các mặt hàng phục vụ cho đầu tư sản xuất liên tục
tăng cao, làm tăng chi phí sản xuất; giá các loại hàng nông, hải sản do nông dân
sản xuất ra tuy có tăng nhưng không ổn định, đôi lúc diễn biến bất thường như giá
thanh long, lúa và hải sản, cao su... Việc khai thác tài nguyên trái phép, ô nhiễm
môi trường chưa được giải quyết tốt, nạn trộm cắp tài sản, giết người, tín dụng
đen, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội giảm không đáng kể.
Song, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Tỉnh uỷ,
sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể;
các cấp Hội Nông dân trong tỉnh tăng cường đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và tình hình thực tiễn tại địa phương đặc biệt
triển khai, thực hiện Đề án: “Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt
Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp
216
nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020” theo Kết luận số 61 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng, Quyết định số 673 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 03
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Kế hoạch số 2941/KH-UBND của UBND tỉnh; Các
cấp Hội Nông dân trong tỉnh đã năng động, sáng tạo, tích cực đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở; tăng cường tuyên truyền vận động
cán bộ, hội viên nông dân gắn với tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ, dịch vụ và dạy nghề
cho nông dân; phát huy tinh thần đoàn kết, ra sức khắc phục khó khăn, nỗ lực
phấn đấu đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và 3 phong trào lớn của Hội,
đã khích lệ, động viên nông dân đổi mới nếp nghĩ, cách làm, khai thác hiệu quả
tiềm năng nội lực, nêu cao tinh thần đoàn kết hợp tác, lao động sáng tạo; đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, sản xuất nông, ngư, diêm, lâm
nghiệp và dịch vụ phục vụ sản xuất trong tỉnh phát triển toàn diện theo hướng sản
xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu ngày càng
tăng; nhờ nguồn vốn ủy thác của Ngân hàng chính sách xã hội, vốn tín chấp Ngân
hàng nông nghiệp &PTNT, vốn quỹ hỗ trợ nông dân và các nguồn vốn khác trên
60 tỷ đồng đã giúp hàng ngàn lượt hộ nông dân đã mở rộng quy mô sản xuất, cung
ứng các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, các loại cây con giống, bóng
đèn…chăm sóc cây trồng, vật nuôi, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho hàng
ngàn lao động nông thôn, có nhiều hộ từ khó khăn vươn lên, thoát được nghèo, làm
giàu cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, góp phần quan trọng phát triển kinh tế-
xã hội tỉnh nhà, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; xây dựng giai
cấp nông dân và tổ chức Hội vững mạnh. Hàng năm, có 100% cơ sở Hội tổ chức
phát động phong trào, 10 năm qua (từ năm 2009 – 2019) số hộ sản xuất kinh
doanh giỏi tăng 42.307 hộ. Có 05 nông dân tiêu biểu xuất sắc toàn quốc; 12 sản
phẩm nông nghiệp được công nhận sản phẩm tiêu biểu toàn quốc. Hộ sản xuất -
kinh doanh giỏi mức thu nhập bình quân hàng trăm triệu đồng, một số ít hộ có thu
nhập hàng tỷ đồng mỗi năm. Phong trào thi đua “Chung sức, chung lòng xây dựng
nông thôn mới” được hưởng ứng bằng các phần việc, công trình cụ thể, gắn thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở với các phong trào thi đua yêu nước khác như: “Dân
vận khéo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Ánh
sáng an ninh”…Nhiều hội viên, nông dân đã tiên phong hiến đất, hiến ngày công
để làm đường giao thông, kênh mương nội đồng… Cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, gắn với thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở được các cấp Hội tích cực tham gia thực hiện, bình quân hàng năm
có 152.000 hộ nông dân đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, 150.000 hộ đạt gia đình
217
văn hóa (tăng 80,28% so với năm 2009); các cấp Hội tích cực vận động con em hội
viên, nông dân chấp hành tốt việc khám tuyển và thi hành nghĩa vụ quân sự, giao
quân hàng năm đạt chỉ tiêu trên giao; phối hợp duy trì 241 Tổ đoàn kết khai thác
hải sản trên biển với 2.150 tàu, thuyền tham gia cùng chung sức đối phó với thiên
tai, giúp nhau bám biển và nhất là tăng cường cảnh giác, góp phần bảo vệ chủ
quyền biển, đảo.
Trải qua 90 năm hình thành và phát triển, được Đảng ta và Bác Hồ lãnh
đạo, rèn luyện, Hội Nông dân Việt Nam đã không ngừng vũng mạnh, trưởng
thành, có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng nước ta. Hội
Nông dân Việt Nam luôn là cầu nối tin cậy giữa Đảng, Nhà nước với giai cấp
nông dân; là cơ sở chính trị của xã hội, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp
của nông dân; có nhiều tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về đường lối,
chính sách phát triển nông nghiệp, xây dựng giai cấp nông dân và xây dựng nông
thôn; tích cực tham gia giám sát, phản biện xã hội; tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền. Hội đã giáo dục, giác ngộ nông dân về dân tộc và
giai cấp, đoàn kết tập hợp được nông dân lao động và động viên được đông đảo
nông dân thực hiện đường lối, chính sách và nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà
nước và của Hội trong kháng chiến cứu nước trước đây cũng như trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay. Qua thực tiễn đấu tranh, tổ chức
Hội ngày một trưởng thành, vị trí của Hội được nâng cao, ảnh hưởng và uy tín
của Hội được phát huy sâu rộng trong nhân dân.
Tự hào về sự vĩ đại của Đảng ta trong chặng đường 90 năm qua, chúng ta
càng tự hào về Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, thì các cấp Hội Nông dân trong tỉnh cần
tăng cường hơn nữa việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đẩy mạnh
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức lối sống cho hội viên, nông dân;
tiếp tục khơi dậy và phát huy tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo của giai cấp
nông dân trong phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh; phối
hợp chăm lo giải quyết nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của hội viên, nông dân;
không ngừng nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, tạo điều kiện để nông
dân đóng góp sức sáng tạo, vai trò chủ thể xây dựng nông thôn mới; tập trung xây
dựng và củng cố tổ chức Hội Nông dân, trong đó chú trọng đến công tác đào tạo,
bồi dưỡng, quy hoạch, dự nguồn cán bộ Hội; tích cực tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền và khối đại đoàn kết toàn dân tộc góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XIII của tỉnh Đảng bộ, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
218
PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ LỰC CỦA NGÀNH TUYÊN GIÁO
BÌNH THUẬN TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƢ TƢỞNG CỦA ĐẢNG
Phòng Thông tin - Tuyên truyền
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Trong nhiều năm qua, mục tiêu xuyên suốt không thay đổi của chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch đối với Việt Nam là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục đích này trước
hết chúng tìm mọi cách chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Bởi nền tảng tư
tưởng là những định hướng vô cùng quan trọng để đưa đất nước, chế độ phát triển
bền vững, đúng đắn. Vì thế, cuộc đấu tranh của Đảng và nhân dân ta hiện nay
trước hết là chống lại các thế lực thù địch đang tấn công, chống phá nền tảng tư
tưởng của chúng ta.
Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch không phải đến thời điểm này mới đặt ra mà nó là cuộc
“đấu tranh không ngừng nghỉ” kể từ ngày Đảng ta ra đời, đảm nhận vai trò lãnh
đạo nhân dân thực hiện các cuộc cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước. Suốt 90 năm qua, các thế
lực phản động, thù địch, với các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc chống phá
Đảng luôn tồn tại, tiếp diễn. Chính vì thế, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam chính là bảo vệ Đảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối
lãnh đạo của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng
thời, duy trì và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, với nền tảng tư tưởng
của Đảng, của giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ bằng lý luận, lời nói hay
nghị quyết mà phải hành động thực tiễn, “nói đi đôi với làm”, xây dựng, chỉnh
đốn Đảng thành công để Đảng ta thực sự là một chính đảng, khoa học, cách mạng
và nhân văn, của giai cấp công nhân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
Trải qua 90 năm hình thành và phát triển, nhất là những thành tựu đạt được
sau hơn 30 năm đổi mới đất nước đã đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của
Đảng ta - đó là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách
mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ
đất nước cho thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
219
Tuy nhiên, trong những năm qua tình hình thế giới, trong nước có nhiều
diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là thiên tai, dịch bệnh. Tại nhiều nơi đời sống
người dân vẫn gặp nhiều khó khăn; tình trạng khiếu kiện đông người vẫn còn;
tình trạng tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được
ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả. Đặc biệt, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng
những tồn tại, vướng mắc trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN để xuyên tạc, phủ nhận đường lối lãnh đạo, thành tựu phát triển
kinh tế của Đảng, Nhà nước, kích động tâm lý hoài nghi trong xã hội; cổ súy,
tung hô việc phát triển nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, làm mất phương
hướng, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN, gây
bất ổn về tư tưởng, xuất hiện tình thế mới về chính trị.
Cuộc cách mạng CN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ; sự phát triển và bùng nổ
của công nghệ mang tính đột phá như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, máy tính
lượng tử, điện toán đám mây, dữ liệu lớn... đã làm không gian mạng (KGM) thay
đổi sâu sắc cả về chất và lượng, trở thành một bộ phận cấu thành thiết yếu, đóng
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Với tốc độ
lan truyền nhanh, độ phủ rộng cả về không gian địa lý và lĩnh vực tác động như:
quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là thẩm thấu tác động đến tư
tưởng, nhận thức của con người, bên cạnh những mặt tích cực mà nó mang lại,
KGM tiềm ẩn những nguy cơ và thách thức đối với hòa bình, an ninh thế giới, trở
thành môi trường đấu tranh mới ngày càng phức tạp, gay gắt, khi mà các quốc
gia, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội (MXH) kết hợp
các tổ chức phi chính phủ để gieo mầm, thúc đẩy “xã hội dân sự”, kích động sự
phản kháng của các phần tử chống đối ở trong nước biểu tình phản đối để lật đổ
chế độ do các nhân vật và các đảng tiến bộ lãnh đạo. Mục tiêu xuyên suốt trong
chiến lược DBHB của các thế lực thù địch, phản động là không thay đổi, chúng
đã, đang và sẽ triệt để khai thác sử dụng Internet, MXH để chống phá cách mạng
nước ta với phương thức và thủ đoạn mới hết sức tinh vi, nham hiểm.
Từ tình hình đó, nhiệm vụ đặt ra cho ngành Tuyên giáo tỉnh nhà phải làm
tốt công tác tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và nhân dân tuyệt đối trung thành
và luôn kiên định, kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta xây dựng và phát triển đất nước,
đồng thời ra sức bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch trên môi trường internet và MXH.
220
Phát huy vai trò xung kích của ngành Tuyên giáo Bình Thuận trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thông tin xấu độc trong tình hình mới.
Trong những năm qua, cấp ủy đảng các cấp nói chung và ngành tuyên giáo
tỉnh nhà nói riêng luôn xác định công cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu và cấp bách giai đoạn hiện nay. Vì vậy, ngành Tuyên giáo Bình
Thuận đã tham mưu, giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả công tác tư tưởng
trên địa bàn, trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là làm tốt công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân trong tỉnh trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và
trong nước. Ngành Tuyên giáo tỉnh nhà đã không ngừng đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục, tuyên truyền kết hợp với đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là
đường lối đổi mới và hội nhập của Đảng, xem đây là nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng của ngành Tuyên giáo. Trong quá trình tuyên truyền, luôn xác định những
vấn đề lcoots lõi, quan điểm có tính nguyên tắc, tạo sự thống nhất trong Đảng và
sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bằng các hình thức và phương pháp
thích hợp, công tác tuyên truyền, giáo dục biến quan điểm, lý luận thành hành
động cách mạng, cải biến xã hội. Trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng đã làm rõ, phân biệt giữa cái đúng và cái sai, cái tích cực và tiêu cực, giữa
tư tưởng tiến bộ và tư tưởng lạc hậu; đấu tranh, phê phán mọi tiêu cực trong đời
sống xã hội.
Song song đó, để ngăn chặn những thông tin xấu, độc luận điệu sai trái,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, cấp ủy đảng, chính các cấp tiếp tục triển khai
tốt công tác tuyên truyền, quán triệt các văn bản chỉ đạo, giải pháp về tăng cường
cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch; nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng cho cán bộ, đảng
viên, đủ sức đề kháng “miễn dịch” và ứng phó với các tình huống phức tạp, nhất
là đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Đồng thời xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể để triển khai tốt
nhiệm vụ đấu tranh chống diễn biến hoà bình. Chủ động phối hợp với các ngành
chức năng nắm chắc tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, kịp thời
cung cấp thông tin và nắm bắt dư luận xã hội về các sự kiện chính trị, các vụ việc
phức tạp, nhạy cảm. Cùng với việc tuyên truyền, đấu tranh, phản bác với các quan
221
điểm sai trái, thông tin xấu độc trên mạng xã hội, các cơ quan chức năng đã chủ
động ngăn chặn, sàng lọc, bóc gỡ những thông tin xấu, độc trên Internet (nhất là
trong dịp diễn ra các sự kiện chính trị, các ngày lễ lớn trọng đại của đất nước, quê
hương); tăng cường đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của
các thế lực thù địch, góp phần vào sự ổn định về chính trị, kinh tế - xã hội trên địa
bàn tỉnh.
Qua đó tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh
được đảm bảo chưa có vụ việc phức tạp, nguy hiểm gây dư luận xấu ảnh hưởng
đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn. Tình hình an ninh trong
dân tộc, tôn giáo ổn định, các tôn giáo hoạt động bình thường, tuân thủ đúng quy
định của pháp luật, chưa có vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến an ninh chính trị tại
địa phương.
Tuy nhiên, công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thông tin
xấu độc trên internet, mạng xã hội ở một số cơ quan, đơn vị trên địa bàn kết quả
chưa cao; việc phát hiện, phối hợp xử lý các cá nhân, tổ chức sai phạm trong việc
đưa thông tin sai sự thật, suy diễn, kích động nói xấu cấp ủy, chính quyền chưa
kịp thời. Một bộ phận trong nhân dân, thậm chí cán bộ, đảng viên trước thông tin
xuyên tạc, bịa đặt rất thâm độc, xảo quyệt của các thế lực phản động, thù địch
trên không gian mạng chưa phân biệt, nhận dạng đúng bản chất sự việc, từ đó mơ
hồ, hoài nghi một số chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện trong thời
gian qua.
Quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao
Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong thời gian qua, đồng thời để
tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng
của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch trên internet,
mạng xã hội. Trong thời gian tới, ngành Tuyên giáo cùng với các cấp ủy đảng,
chính quyền tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, phát huy tốt vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, Ban
Chỉ đạo 35, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên. Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tích cực
thông tin và tăng cường đối thoại với nhân dân; chủ động, linh hoạt tham gia các
vấn đề cụ thể của xã hội, bảo đảm sự liên kết, chia sẻ thông tin giữa các sở ngành
của tỉnh đến các địa phương để cùng giải quyết khi có sự kiện xảy ra. Thường
xuyên duy trì, thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các cơ quan chức năng;
phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, tạo thế trận rộng khắp, chặt chẽ trong
đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái thù địch trên internet, mạng xã hội.
222
Hai là, thường xuyên bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định
hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trên mặt trận đấu tranh trên internet, mạng xã
hội. Thực hiện phương châm công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu, không để
“khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá.
Duy trì tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí
cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hằng năm; chủ động gặp những người có quan
điểm khác biệt để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận,
thống nhất.
Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính
trị, kịp thời cung cấp thông tin, định hướng, tạo khả năng "miễn dịch", "tự đề
kháng" cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và quần
chúng nhân dân trước những thông tin sai trái, độc hại trên Internet, mạng xã hội;
nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch,
phản động, cơ hội chính trị nhằm phủ nhận các luận điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc phủ định các quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
Bốn là, nâng cao trách nhiệm cá nhân khi khai thác, sử dụng thông tin trên
Internet, mạng xã hội; không nói, viết, phát tán thông tin, hình ảnh trái với chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vi phạm thuần
phong mỹ tục và đạo đức xã hội; không tham gia chia sẻ, bình luận những hình
ảnh, clip, bài viết xuyên tạc, bôi nhọ, sai trái, vu cáo, bịa đặt, những thông tin
không chính thống có nội dung làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, hoạt động của
cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ và đe dọa đến an
ninh quốc gia, chấp hành nghiêm Chỉ thị số 43-CT/TU, ngày 11/9/2019 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về việc “Nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
trong việc sử dụng Internet, mạng xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm, thông tin sai trái, thù địch”.
Năm là, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về chính trị tư tưởng
của Nghị quyết Trung ương 4; các quy định của Đảng về học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII), Nghị quyết số 35-NQ/TW gắn với thực
hiện có hiệu quả phương châm “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu, lấy tích cực đẩy lùi
tiêu cực”; đẩy mạnh tuyên truyền và khuyến khích chia sẻ, bình luận về các
gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội nhằm định hướng dư luận, cổ vũ, động viên mọi người tham gia, tạo hiệu ứng
lan tỏa trong xã hội.
223
CÔNG TÁC DÂN VẬN CHÍNH QUYỀN GÓP PHẦN TĂNG CƢỜNG
MỐI QUAN HỆ MẬT THIẾT GIỮA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC
VỚI NHÂN DÂN
Ban Dân vận Tỉnh ủy
Theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác dân vận là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị, phải được mọi cán bộ chính quyền và đoàn thể tiến hành
thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, mọi địa bàn, hướng tới mọi tầng lớp nhân
dân, tập hợp, củng cố, khơi dậy được nguồn sức mạnh toàn dân. Và Người luôn ý
thức rằng “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng sức
mạnh đoàn kết của nhân dân”. Do vậy, Người luôn mong muốn Đảng ta phải có
trách nhiệm đoàn kết, tập hợp nhân dân, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng.
Thấm nhuần tư tưởng của Bác Hồ, qua từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta
luôn xác định dân vận và công tác dân vận là phương thức đặc biệt quan trọng để
đạt được mục tiêu đã đặt ra. Ngay sau khi Đảng ta ra đời, từ ngày 14 đến ngày 31
tháng 10 năm 1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị Trung ương lần thứ
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Luận cương chính trị, điều lệ
Đảng; xác định đường lối chính trị của Đảng, của cách mạng Việt Nam, trong đó
có công tác vận động và giác ngộ quần chúng đứng lên làm cách mạng giải phóng
dân tộc. Với nhiệm vụ to lớn đó, hệ thống các Ban chuyên môn về các giới của
Đảng được xác lập bao gồm: Ban Công vận, Ban Nông vận, Ban Thanh vận, Ban
Phụ vận, Ban Quân đội vận và Mặt trận phản đế; đây là những tổ chức tiền thân
đặt nền tảng cho công tác dân vận của Đảng và hệ thống chính trị sau này. Quan
điểm về công tác dân vận thể hiện xuyên suốt trong cương lĩnh chính trị, văn kiện
đại hội, các chỉ thị, nghị quyết qua các thời kỳ của Đảng. Dấu mốc quan trọng là
Nghị quyết số 8B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ tám (khóa VI) về đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng,
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; đây là sự đúc kết cả về lý luận
và thực tiễn của công tác vận động quần chúng của Đảng. Đặc biệt trước yêu cầu
nhiệm vụ công tác dân vận trong thời kỳ mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 đã xác định
“Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ,
224
công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ
lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo; chính quyền tổ chức thực hiện;
Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể làm nồng cốt”. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm
về công tác dân vận của Đảng; vấn đề cốt lỏi để tăng cường mối quan hệ máu thịt
trong giai đoạn cách mạng hiện nay là công tác dân vận các cơ quan nhà nước. Để
thực hiện tốt công tác này, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số
114-KL/TW, ngày 14/7/2015 về nâng cao hiệu quả công tác dân vận các cơ quan
nhà nước các cấp. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra 05 yêu
cầu, nhiệm vụ về công tác dân vận; trong đó có yêu cầu là phải tăng cường và đổi
mới công tác dân vận các cơ quan nhà nước; thực hiện tốt Quy chế công tác dân
vận của hệ thống chính trị. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị
số 16/CT-TTg, ngày 16/5/2016 “về tăng cường và đổi mới công tác dân vận
trong các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình
mới”. Công tác dân vận các cơ quan nhà nước hay còn gọi là dân vận chính
quyền có vai trò rất quan trọng thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoạt động dân vận là của nhiều tổ chức nhưng trong đó hoạt
động của đội ngũ cán bộ, công chức là trực tiếp nhất, hiệu quả nhất. Các tổ chức
đoàn thể làm công tác dân vận chủ yếu thông qua hình thức tuyên truyền, vận
động. Nhưng với nhân dân với tâm lý “Trăm nghe không bằng một thấy” nên
công tác tuyên truyền có những hạn chế nhất định. Do công việc bận rộn, đa số
người dân không có điều kiện để tiếp xúc, theo dõi trên các phương tiện thông tin
đại chúng; mặc khác, một số hoạt động khác của các đoàn thể còn nặng hình thức
nên tác động đối với nhân dân chưa cao. Nhưng chỉ cần một biểu hiện nhỏ của
cán bộ, công chức đối với nhân dân trong quá trình tiếp xúc cũng để lại cho người
dân những suy nghĩ tốt đẹp hoặc ngược lại. Một thái độ ân cần, niềm nở, giải
thích cặn kẽ mọi điều khi người dân đến làm việc thì dù không giải quyết được
việc, người dân vẫn cảm thấy vui lòng vì thấy mình được tôn trọng. Ngược lại, sự
quan liêu, cửa quyền, hách dịch, thờ ơ, lãnh đạm đối với những nhu cầu chính
đáng của người dân đã làm cho người dân bực bội, dẫn đến bất đồng với những tổ
chức mà cán bộ, công chức đó là người đại diện. Đồng thời, với hành vi ứng xử
của người cán bộ, công chức thì các cơ quan chính quyền còn có nhiệm vụ là phải
cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng ở các cấp thành các chính sách, các
quy định hành chính để thực hiện. Nếu quy định, chính sách đó phù hợp với
nguyện vọng của quần chúng nhân dân, mang lại lợi ích cho nhân dân và triển
225
khai thực hiện có hiệu quả thì nhân dân càng phấn khởi, tin tưởng ở sự lãnh đạo
của Đảng, sự điều hành, quản lý của chính quyền.
Thứ hai, thông qua công tác dân vận chính quyền, nhân dân hiểu rõ bản
chất tốt đẹp của Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tạo niềm tin trong nhân dân
đối với Đảng, chính quyền; cán bộ, công chức là người thực thi quyền lực chính
quyền; nếu cán bộ, công chức thật sự là công bộc của nhân dân như Chủ tịch Hồ
Chí Minh hằng mong muốn, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, tận tâm phục
vụ nhân dân thì nhân dân càng thấy rõ bản chất tốt đẹp của chính quyền nhân dân.
Chúng ta có tuyên truyền bao nhiêu đi chăng nữa, những điều tốt đẹp về chế độ
XHCN, nhưng những cán bộ, công chức của chế độ đó lại sách nhiễu, gây khó
khăn cho nhân dân thì việc tuyên truyền đó sẽ thiếu thiết phục. Nhiều chính sách
như: Xóa đói giảm nghèo, thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở, phát triển y tế, giáo
dục,… do chính quyền các cấp ban hành và thực hiện đã mang lại cho nhân dân
nhận thức sâu sắc những giá trị đích thực mà chế độ này mang lại cho họ.
Thứ ba, cán bộ, công chức là cầu nối thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước, làm cho quan hệ đó ngày càng gắn bó mật thiết. Cán bộ
chính quyền trực tiếp, tiếp xúc với nhân dân nên nắm bắt và thấu hiểu những
nguyện vọng chính đáng của nhân dân; từ đó, có phương án tham mưu cho cấp có
thẩm quyền để đưa ra những quyết sách đúng đắn, đáp ứng tốt nhu cầu cũng như
giải quyết kịp thời những bức xúc của nhân dân. Đồng thời, phát hiện những bất
cập trong chế độ chính sách để kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp,…
Chính những việc này càng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Chính quyền.
Thứ tư, công tác dân vận chính quyền thực hiện tốt sẽ tạo sự đồng thuận
của nhân dân đối với Đảng, Chính quyền. Nếu đường lối, chính sách đưa ra phù
hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân và được cán bộ, công chức thực hiện
có hiệu quả thì dân càng đồng tình ủng hộ. Có thể, dân vận tốt sẽ tạo sự đồng
thuận của nhân dân và suy cho cùng, thước đo hiệu quả công tác dân vận chính là
mức độ đồng thuận của nhân dân với chính quyền các cấp và với cả hệ thống
chính trị. Để đạt được điều đó, chính quyền giữ vai trò quan trọng, các đoàn thể
tích cực hoạt động cùng chính quyền xây dựng sự đồng thuận xã hội.
Đối với tỉnh Bình Thuận, những năm qua, Đảng bộ tỉnh luôn nhận thức
được vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác dân vận trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương; đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai
226
thực hiện đạt nhiều kết quả, đặc biệt là công tác dân vận của các cơ quan nhà
nước, chính quyền các cấp. Trong đó nổi rõ là:
- Đã kịp thời cụ thể hóa, ban hành các văn bản, đề ra những giải pháp, biện
pháp cụ thể nhằm tăng cường, đổi mới công tác dân vận chính quyền các cấp (Chỉ
thị số 03-CT/TU, ngày 26/11/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường và
nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan nhà nước các cấp trong tình
hình mới; Công văn số 4685/UBND-SNV, ngày 22/12/2015 của UBND tỉnh về
việc triển khai Chỉ thị số 03-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Công văn số
2223/UBND-SNV, ngày 23/6/2016 của UBND tỉnh về việc triển khai Chỉ thị
16/CT-TTg ngày 16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và đổi mới
công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong
tình hình mới;…).
- Các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp có chú trọng triển khai thực
hiện công tác dân vận gắn với chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn; đặc biệt là trong trong quá trình triển khai thực hiện các công
trình, dự án trọng điểm về phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ đời sống dân sinh,
nhất là trong thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư... (dự án
đường giao thông trọng điểm trên địa bàn thành phố Phan Thiết; dự án mở rộng,
nâng cấp Quốc lộ 1A; dự án đường cao tộc Bắc - Nam, đoạn đi qua địa bàn
tỉnh;…). Lấy kết quả thực hiện QCDC là một trong những tiêu chí đánh giá, xếp
loại thi đua, khen thưởng đối với tập thể, cá nhân người đứng đầu cơ quan, đơn
vị, địa phương; có phân công lãnh đạo phụ trách công tác dân vận.
- Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị đã chú trọng công tác
tổ chức đối thoại để kịp thời giải quyết các vướng mắc, kiến nghị, phản ánh có
liên quan cho nhân dân, cán bộ, công chức, người lao động. Tập trung giải quyết
tốt các đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn các thủ tục hành chính
đảm bảo phục vụ tốt cho người dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều
hành và giải quyết công việc cho tổ chức, cá nhân một cách tốt nhất; hàng năm
đều tiến hành khảo sát sự hài lòng của người dân để làm thước đo đánh giá hiệu
quả hoạt động của cơ quan, các chỉ số PCI, PAPI, PAR INDER đều được công
bố, đánh giá để chủ động có giải pháp thực hiện phù hợp; đã liên kết ứng dụng
công nghệ thông tin công khai các dữ liệu thủ tục hành chính đạt 100%; triển khai
Đề án xây dựng “chính quyền điện tử”, “Đô thị thông minh” ở một số địa phương.
227
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác dân vận các cơ quan
nhà nước, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh còn một số tồn tại, hạn chế: Việc
cụ thể hóa các nội dung và triển khai thực hiện công tác dân vận trong các cơ
quan nhà nước có lúc, có nơi chưa kịp thời, còn lúng túng; công tác dân vận gắn
với thực hiện QCDC, cải cách thủ tục hành chính chưa đồng bộ và hiệu quả, giải
quyết hồ sơ vẫn còn trễ hẹn, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nguyện vọng của
người dân. Thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” có việc
chưa đảm bảo; thực hiện chính sách đền bù, tái định cư khi thu hồi đất để thực
hiện một số dự án còn chậm; cơ chế chính sách còn nhiều bất cập chưa được nhân
dân đồng thuận cao, dẫn đến tập trung khiếu nại đông người, vượt cấp. Một số
nơi, người đứng đầu cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương chưa quan tâm
đúng mức đến việc thực hiện công tác dân vận; một bộ phận cán bộ, đảng viên
suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống gây bức xúc, ảnh hưởng đến niềm tin
trong nhân dân và khó khăn cho công tác dân vận và thiếu kỹ năng công tác dân
vận nên chưa làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong bối cảnh hiện nay; để
tiếp tục thực hiện tốt công tác dân vận chính quyền, chúng ta cần tập trung thực
hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tăng cường học tập các quan điểm của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về công tác dân vận, nhất là trách nhiệm thực hiện công tác dân vận cho
CBCC nhà nước và chính quyền các cấp. Mặt khác, việc ban hành các chính sách,
quy định cần tham khảo ý kiến nhân dân, được sự đồng tình, hưởng ứng của nhân
dân, coi lợi ích chính đáng của nhân dân là trên hết. Có như vậy, chính sách đưa
ra mới được thực thi có hiệu quả.
Hai là, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, ứng xử và đạo
đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức. Không ít trường hợp cán bộ, công chức
chính quyền có trách nhiệm với dân, nhưng do trình độ chuyên môn, lý luận
chính trị hạn chế, nên khi giải quyết công việc thường lúng túng, không rõ ràng,
thiếu thuyết phục. Điều đó làm cho nhân dân thấy không thỏa dáng, nhiều khi bất
mãng với chính quyền. Đi đôi với đó là phải kiên quyết, tích cực làm trong sạch
đội ngũ cán bộ, công chức, khắc phục các hiện tượng sa sút, thoái hóa về phẩm
chất, lối sống của cán bộ, công chức, đảng viên. Phẩm chất đạo đức, lối sống của
cán bộ, công chức, đảng viên là vấn đề có ảnh hưởng quyết định đến uy tín, danh
dự của Đảng, tác động trực tiếp đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước
228
với nhân dân. Quân chúng nhân dân đánh giá Đảng và chính quyền các cấp nhiều
khi thông qua phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức, đảng viên. Nói
quần chúng giám sát lòng tin đối với Đảng, không phải là giám sát lòng tin đối
với lý tưởng, sự nghiệp của Đảng mà là đối với cán bộ, công chức, đảng viên đã
thoái hóa, hư hỏng.
Ba là, các cấp chính quyền tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với
nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ,
công chức. Kiên quyết loại bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho nhân
dân; nâng cao trách nhiệm, giải quyết nhanh, có hiệu quả cho nhân dân và doanh
nghiệp; công khai, minh bạch quy định về các thủ tục hành chính để thuận lợi cho
nhân dân trong việu giải quyết công việc.
Bốn là, cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp, nhất là người đứng
đầu phải thường xuyên tổ chức đối thoại, lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của
các tầng lớp nhân dân; mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông
qua việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở các loại hình để nhân dân góp ý, giám
sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ chính quyền. Tăng cường phổ biến pháp
luật, công khai, minh bạch các nội dung theo quy định với phương châm “gần
dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân”. Chỉ đạo
giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân
dân và khiếu nại, tố cáo của công dân.
Năm là, chính quyền các cấp rà soát lại một số quy định, chính sách, chế
độ đã ban hành để tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm giải quyết có hiệu
quả những bức xúc của người dân. Khi thực hiện chính sách các cơ quan chính
quyền, cán bộ thực thi nhiệm vụ phải biết “Dân vận khéo” thông qua tổ chức,
điều hành, giải quyết vấn đề theo đúng pháp luật, thấu tình đạt lý; tực là phải làm
tốt công tác điều hành với công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục.
Sáu là, phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng và ngoài xã hội. Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương
thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, làm tốt vai trò tham mưu và nòng cốt trong
việc tuyên truyền, vận động nhân dân và việc thực hiện tốt Quyết định số 217,
218-QĐ/TW của Bộ Chính trị về giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng
đảng, xây dựng chính quyền.
Bảy là, tăng cường phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc, đoàn
thể chính trị - xã hội. Một mặt, thông qua Mặt trận, đoàn thể để tuyên truyền, vận
229
động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách; mặt khác, qua hoạt động
thực tiễn, Mặt trận, các đoàn thể phản ánh kiến nghị của nhân dân về tính “sát
thực” của các chủ trương, chính sách đó; đồng thời, đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước gắn với phong trào thi đua “Dân vận khéo” trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền thì mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân chủ yếu được tiến hành thông qua bộ máy Nhà nước; cho nên, công tác
dân vận chính quyền phải luôn đi trước và được xem là khâu đột phá; là bước
quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để góp phần tăng cường, phát huy hơn nữa
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng nhằm
thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”./.
230
VAI TRÕ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
MẶT TRẬN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ủy Ban MTTQ Việt Nam tỉnh
Kính thưa Hội nghị!
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, nhận thức rõ vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội đối với công cuộc xây dựng và
phát triển của quê hương Bình Thuận, trong những năm qua Tỉnh ủy đã thường
xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện hoạt động của công tác Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội trong tỉnh, nhất là việc thực hiện
Kết luận số 62-KL/TW, ngày 08/12/2009, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội”. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các cấp trong tỉnh đã tích cực, chủ động đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
và đạt nhiều kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực:
Thứ nhất về: Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng
lớp nhân dân, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc:
- Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã phối hợp các tổ chức thành viên đẩy
mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước và các chính sách liên quan đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân. Thông qua các phong trào thi đua
yêu nước, các cuộc vận động do Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành
viên phát động, Mặt trận các cấp đã có nhiều hoạt động nhằm tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức tập hợp, củng cố, mở rộng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhằm đáp ứng yêu cầu nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện
vọng của nhân dân, ở cấp tỉnh và cấp huyện thành lập Tổ cộng tác viên dư luận xã
hội của MTTQ Việt Nam cùng với Tổ dư luận xã hội của các tổ chức chính trị -
xã hội tổ chức giao ban định kỳ để nắm bắt thông tin, tình hình tư tưởng, diễn
biến dư luận xã hội tại địa bàn dân cư đề xuất với các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các ngành chức năng tham gia giải quyết.
- Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trong tỉnh đã chủ động phối hợp với các
cơ quan chức năng hướng dẫn, tạo điều kiện, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
cho đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo, không có đạo; hướng dẫn đồng
231
bào tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động
nhân đạo, từ thiện, biểu dương những điển hình tiên tiến; hướng dẫn các vị chức
sắc, nhà tu hành và đồng bào đấu tranh với những luận điệu sai trái, lợi dụng tôn
giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền gây mất an ninh trật tự xã hội. MTTQ Việt
Nam tỉnh đã triển khai xây dựng mô hình điểm khu dân cư bảo vệ môi trường,
ứng phó với biến đổi khí hậu tại các xã thuần đồng bào Chăm; hàng năm tổ chức
đưa các Đoàn chức sắc tôn giáo người có uy tín các dân tộc đi tham quan, học tập
kinh nghiệm tại các địa phương trong nước.
- Việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được đẩy
mạnh với nhiều cách làm thiết thực, phù hợp với từng đối tượng; được đông đảo
nhân dân hưởng ứng, thành lập các tổ “làm theo” tấm gương của Bác như tổ “cần,
kiệm”, tổ “nuôi heo đất”, tổ “hũ gạo tình thương”... Tư tưởng đại đoàn kết toàn
dân tộc, tấm gương đạo đức và phong cách của Bác ngày càng đi vào lòng dân,
thời gian qua đã có nhiều điển hình tập thể, cá nhân tiêu biểu học tập và làm theo
Bác trên các lĩnh vực đời sống xã hội được tôn vinh.
- Việc tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư hàng năm
có nhiều hoạt động thiết thực, thắt chặt tình làng, nghĩa xóm trong cộng đồng dân
cư. Ngày hội đã huy động được các thành phần, tầng lớp trong xã hội tham gia,
tác động tích cực trong việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các
tầng lớp nhân dân về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thông qua tổ chức Ngày hội tạo điều kiện để lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận
và các tổ chức chính trị - xã hội gần dân hơn, giải quyết nhiều ý kiến kiến nghị
chính đáng của nhân dân.
Thứ hai về: Phát huy tinh thần sáng tạo và tự quản của nhân dân, triển
khai các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước:
- Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh” được kế thừa và phát triển từ cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư” tiếp tục được các cấp Mặt trận trong tỉnh triển
khai thực hiện có kết quả, ngày càng nâng dần về chất lượng, đã tác động tích cực
đến các mặt của đời sống xã hội. Hàng năm có trên 95% số hộ gia đình trong tỉnh
đăng ký xây dựng gia đình văn hoá, có trên 91 % số hộ được công nhận đạt gia
đình văn hoá; 706/706 thôn, khu phố phát động xây dựng thôn, khu phố văn hóa,
tỷ lệ được công nhận hàng năm đạt trên 70%. Toàn tỉnh có 12/19 phường phát
động xây dựng “Phường đạt chuẩn văn minh đô thị” (đạt tỷ lệ 63,1%); có 06
232
phường được công nhận đạt chuẩn văn hóa (tỷ lệ 31,5%); có 12/12 thị trấn phát
động xây dựng “thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị” (đạt tỷ lệ 100%); có 05 thị
trấn đạt chuẩn văn hóa (đạt tỷ lệ 50%). Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh phối hợp
xây dựng và phát triển trên 103 mô hình“Khu dân cư phòng chống tội phạm”, 85
“Khu dân cư tự quản, tự phòng đảm bảo an ninh trật tự”, trên 150 mô hình “Ánh
sáng an ninh”, “Khu dân cư đảm bảo trật tự an toàn giao thông, khu dân cư bảo
vệ môi trường”…
- Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” qua thời
gian triển khai thực hiện đã từng bước đi vào cuộc sống của người dân. Các sản
phẩm hàng hóa có thương hiệu của Bình Thuận như: Nước suối Vĩnh Hảo, Thanh
Long Bình Thuận, nước mắm Phan Thiết… ngày càng được người tiêu dùng
trong và ngoài tỉnh tin dùng. Đến nay, cuộc vận động tiếp tục được MTTQ Việt
Nam chỉ đạo thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phối hợp tổ chức đưa
hàng Việt có chất lượng phục vụ đồng bào nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số; các chương trình Hội chợ triển lãm được chọn lọc theo hướng
thiết thực, hiệu quả hơn đã có tác động tích cực đến toàn xã hội, giúp người tiêu
dùng, cơ quan, đơn vị nhận thức đầy đủ hơn về trách nhiệm, quyền lợi của người
tiêu dùng đối với sản phẩm, hàng hóa trong nước.
- Công tác vận động, giúp đỡ người nghèo và thực hiện các chương trình an
sinh xã hội được Mặt trận và các tổ chức thành viên tiếp tục duy trì có hiệu quả.
Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình hưởng ứng của các tầng
lớp nhân dân, Quỹ “Vì người nghèo” các cấp từ năm 2000 đến huy động trên 221
tỷ đồng, hỗ trợ xây dựng và sửa 21.233 căn nhà, thăm hỏi, tặng quà, hỗ trợ bệnh
tật cho người nghèo. Từ nguồn Quỹ Cứu trợ, MTTQ các cấp đã quan tâm thăm
hỏi, hỗ trợ kịp thời các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn đột xuất, bị ảnh hưởng
do thiên tai, hỏa hoạn gần 15 tỷ đồng.
- Phong trào thi đua “Đoàn kết sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả hội nhập quốc tế” do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phát động
được Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp phối hợp với các ngành chức năng, các tổ
chức thành viên tuyên truyền đến các đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân
dân, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia phong trào. Nhiều mô hình, nhiều
công trình được ứng dụng vào thực tiễn đã tạo được sự lan tỏa trong nhân dân.
Thứ ba về: Phát huy dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng
233
Đảng, chính quyền vững mạnh.
- Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trong tỉnh đã phối hợp với các ngành
chức năng và các tổ chức thành viên bằng nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến
pháp luật phong phú, đa dạng đã tổ chức tuyên truyền trong nhân dân, nhất là các
Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật nhà nước và các văn bản
quy phạm pháp luật của Trung ương và địa phương có tác động liên quan trực tiếp
đến người dân ở cơ sở; hướng dẫn đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân
tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh. Hàng
năm, đã tích cực chủ động tập hợp phản ánh các ý kiến kiến nghị của cử tri, nhân
dân đến với Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp.
- Việc triển khai thực hiện Quyết định số 217, 218-QĐ/TW, ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về quy chế giám sát, phản biện xã hội và
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng nề nếp và hiệu
quả. MTTQ Việt Nam các cấp đã thực hiện được 257 cuộc giám sát, kiến nghị trên
454 ý kiến đến UBND các cấp, các ngành chức năng xem xét giải quyết trong đó đã
có 251 ý kiến đã giải quyết số còn lại đang tiếp tục xem xét, giải quyết trong thời gian
đến; tổ chức 17 Hội nghị phản biện xã hội, Mặt trận cấp xã đã tham gia góp ý, phản
biện các chính sách ở địa phương với 527 cuộc. Những kiến nghị, đề xuất của các
đoàn giám sát, phản biện xã hội cơ bản đều được tiếp thu, khắc phục. Phối hợp tổ
chức hơn 500 đợt đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân;
cùng với Đoàn Đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND, UBND và các ngành chức
năng tỉnh xây dựng chương trình phối hợp giám sát, phản biện xã hội liên quan trực
tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân.
- Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp thực hiện nghiêm túc công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí; vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia
phòng chống tham nhũng, lãng phí theo chủ trương của Đảng và Chương trình
hành động của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Quy chế dân chủ ở cơ sở
tiếp tục được phát huy, kỷ cương, phép nước ngày càng được giữ vững. Những
năm qua đã phối hợp tổ chức cho nhân dân bầu cử trực tiếp Trưởng thôn, khu phố
và tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do HĐND cấp xã bầu theo
Pháp lệnh dân chủ ở xã phường, thị trấn; thực hiện đúng quy trình hiệp thương
dân chủ, lựa chọn, giới thiệu những người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng
đồng hàng năm đã tổ chức hàng trăm cuộc giám sát; nhiều trường hợp Thanh tra
234
nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng phát hiện, kiến nghị đã được các
ngành chức năng kiểm tra xử lý.
Thứ tư về: Kiện toàn tổ chức bộ máy; đổi mới nội dung, phương thức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Mặt trận các cấp và Ban Công tác Mặt
trận ở khu dân cư:
- Thực hiện chủ trương của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và của
Tỉnh ủy, việc kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận các cấp luôn được coi trọng.
Các nhiệm kỳ Đại hội MTTQ Việt Nam tỷ lệ người ngoài Đảng, đồng bào dân tộc
thiểu số, tôn giáo, tỷ lệ nữ tham gia Ủy ban MTTQ các cấp đều tăng so nhiệm kỳ trước;
hoạt động của Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư đi vào nề nếp, chất lượng hoạt động
có chuyển biến rõ rệt. Toàn tỉnh có 4.119 vị Ủy viên Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp.
Nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam các cấp có nhiều chuyển
biến tiến bộ, hướng về cơ sở, đã bám sát nhiệm vụ chính trị, mục tiêu phát triển
kinh tế, xã hội của địa phương và chương trình phối hợp thống nhất hành động
của từng cấp để tổ chức các phong trào mang lại hiệu quả thiết thực. Ban Thường
trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh đã phối hợp các cấp uỷ Đảng thường xuyên quan
tâm chỉ đạo, tăng cường củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách trong hệ
thống Mặt trận các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm
công tác Mặt trận từ tỉnh đến cơ sở được nâng lên cả về trình độ và năng lực công tác,
tuổi đời cũng được trẻ hoá dần.
- Công tác thi đua, khen thưởng trong hệ thống Mặt trận có nhiều chuyển
biến tiến bộ, đi vào nề nếp. Hàng năm, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đều tổ
chức ký kết giao ước thi đua, tổ chức bình xét, đề nghị khen thưởng kịp thời đối
với các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong các phong trào, các cuộc vận
động do Mặt trận phát động. Qua đó đã khuyến khích, động viên được phong trào
ở cơ sở và địa bàn dân cư.
Có thể khẳng định, đạt được những kết quả quan trọng trong việc đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn
tỉnh thời gian qua là do Tỉnh ủy, cấp ủy các cấp đặt công tác Mặt trận đúng vị trí
trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị; thường xuyên
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác Mặt trận, cụ thể là:
1. Tỉnh ủy luôn coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, quán triệt kịp
thời các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về công tác vận động nhân dân.
Xác định việc triển khai, quán triệt thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị
235
quyết về công tác vận động nhân dân nhằm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp ủy đảng, chính quyền đối với đoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
thu hút, tập hợp đông đảo quần chúng vào tổ chức, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân, tạo sự đồng thuận xã hội thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của tỉnh,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã kịp thời triển khai văn bản của Trung ương, mà trọng
tâm là: Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013, của Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong tình hình mới”; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/03/2003, của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Kết
luận số 62-KL/TW, ngày 08/12/2009, của Bộ Chính trị, về “Tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội”... Theo đó, Tỉnh ủy Bình Thuận đã kịp thời ban hành chương
trình hành động thực hiện các nghị quyết về “tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội”; Quy định về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, Quy định lãnh đạo các
cấp thực hiện đối thoại trực tiếp với nhân dân...
2. Chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp thường xuyên chỉ đạo, tạo điều kiện
để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể - chính trị xã hội hoạt động hiệu quả.
Cấp ủy các cấp phân công cấp ủy viên phụ trách, trực tiếp lãnh đạo Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng, đưa nội dung lãnh đạo
công tác Mặt trận và đoàn thể thành một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ
hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp; tăng cường kiểm tra, chỉ đạo sơ
kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác Mặt trận, đoàn thể;
quan tâm lãnh đạo kiện toàn tổ chức bộ máy và phân công cán bộ có trình độ,
năng lực, uy tín làm công tác Mặt trận, đoàn thể; định kỳ hàng quý tiến hành giao
ban với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội để định hướng chỉ
đạo, kịp thời tháo gỡ khó khăn trong quá trình hoạt động và những vấn đề liên
quan đến nhân dân...
3. Chỉ đạo chính quyền, các ban, ngành tăng cường công tác phối hợp với
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Chính quyền các cấp đã chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội ký kết, triển khai thực hiện có hiệu quả các quy chế
phối hợp hoạt động; chỉ đạo các ngành chức năng ký chương trình, kế hoạch phối
236
hợp hoạt động với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; định kỳ tổ
chức làm việc với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội để đánh giá
kết quả công tác phối hợp; tổ chức hội nghị tiếp xúc, đối thoại của người đứng
đầu chính quyền các cấp với nhân dân; ban hành quy chế phối hợp về tham vấn ý
kiến nhân dân trước khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy định chế độ,
chính sách liên quan đến số đông các tầng lớp nhân dân; thực hiện tốt trách nhiệm
bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện và kinh phí hoạt động cho Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Chính quyền các cấp và các sở, ngành
chức năng đã tạo cơ chế cho các đoàn thể tham gia phát triển kinh tế - xã hội,
tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án phát triển
kinh tế ở địa phương; cơ cấu Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
làm thành viên các ban chỉ đạo đề án, dự án, những vấn đề quan trọng có tác động
ảnh hưởng trực tiếp đến nhân dân để bảo đảm việc giám sát và phản biện xã hội
được thực hiện sâu sát, hiệu quả.
Một số nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện tốt trong thời gian tới
Tiếp tục thực hiện Kết luận số 62-KL/TW, ngày 08/12/2009, của Bộ Chính
trị “Về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; thực hiện các nhiệm vụ chính trị do
Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX đề ra, cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể - chính trị xã hội các cấp từ tỉnh đến cơ sở quyết tâm
phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nhiệm
kỳ 2015-2020 và thời gian tiếp theo. Để đạt được mục tiêu đó, thời gian tới, tỉnh
Bình Thuận tiếp tục xác định phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
trong đó tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trên cơ sở thực hiện đồng bộ, có hiệu quả
một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu rộng Kết luận số 62-KL/TW, của Bộ Chính
trị đến cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Nâng cao nhận thức
về vai trò, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền đối với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội và vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, trong xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.
237
Hai là, cấp ủy các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các
nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Kết luận, Nghị quyết. Duy trì chế độ giao ban định
kỳ với MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp để kịp thời tháo gỡ
những khó khăn trong quá trình hoạt động. Lựa chọn, giao Mặt trận Tổ quốc và
đoàn thể chính trị - xã hội phần việc liên quan đến quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương. Làm tốt công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng đội ngũ cán
bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp có đủ năng lực,
trình độ, phẩm chất đáp ứng tiêu chuẩn; quan tâm các mặt công tác cán bộ Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể - chính trị xã hội theo quy định. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương của Trung ương, của Tỉnh ủy
về công tác Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; định kỳ sơ kết,
tổng kết rút kinh nghiệm và những bài học quý báu cho giai đoạn tới.
Ba là, chính quyền các cấp tiếp tục làm tốt công tác phối hợp, tạo điều kiện
thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia góp ý,
giám sát, phản biện xã hội đối với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương. Tổ chức lấy ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội và nhân dân tham gia xây dựng các chính sách, quy định và những chương
trình, dự án lớn của địa phương. Thường xuyên lắng nghe và giải quyết kịp thời ý
kiến đóng góp của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, phản ánh, kiến nghị
với chính quyền những vấn đề mà nhân dân quan tâm.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội bám sát sự chỉ
đạo trong Kết luận, Nghị quyết, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động; tập trung hướng mạnh về cơ sở, mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp, kết nạp
đoàn viên, hội viên vào các đoàn thể chính trị - xã hội; nâng cao chất lượng các
cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính
đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên và nhân dân; rà soát, tổ chức sơ kết, tổng
kết các phong trào, cuộc vận động, các mô hình hay và hiệu quả; kịp thời biểu
dương, khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến, các cá nhân và tập thể
xuất sắc./.
238
TUỔI TRẺ BÌNH THUẬN KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU, LÝ TƢỞNG ĐỘC
LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÔNG
CUỘC XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN QUÊ HƢƠNG, ĐẤT
NƢỚC DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tỉnh Đoàn Bình Thuận
1. Vai trò, uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong công cuộc đấu tranh giữ
nƣớc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Trải qua 90 năm đấu tranh, xây dựng và trưởng thành, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành các cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua
muôn ngàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vô cùng to lớn.
Mùa xuân năm 1930, với uy tín chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Sự ra đời của Đảng là kết quả tất yếu, là yêu cầu khách quan của
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng của nhân dân và dân tộc
ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại chưa từng
có, đưa nước ta từ một nước nô lệ phụ thuộc thành một quốc gia độc lập, tự do,
ổn định và phát triển.
Trong cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc, Đảng bộ và nhân dân Bình
Thuận đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, lập nên những chiến công vang dội ở khắp
các chiến trường trong tỉnh, giải phóng hoàn toàn tỉnh nhà, vinh dự góp phần tô
thắm thêm lịch sử hào hùng của dân tộc, mãi mãi trở thành niềm tự hào của quê
hương, đất nước: Trong cao trào cách mạng của cả nước, ngay từ năm 1928,
phong trào yêu nước của tỉnh nhà đã được tác động mạnh mẽ từ Tân Việt Cách
mạng Đảng (một tổ chức yêu nước hoạt động ở các tỉnh miền Trung và miền
Đông Nam bộ), một số đồng chí đảng viên của Tân Việt đã tăng cường hoạt động
và gây cơ sở ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa,… tuy nhiên trong
thời này, Bình Thuận chỉ có một vài đảng viên đơn tuyến và một số cơ sở trong
trí thức, nhân sĩ ở thị xã Phan Thiết nên chưa đủ điều kiện thành lập Chi bộ Tân
Việt. Tuy vậy, phong trào cách mạng ở Bình Thuận đã bắt đầu tiếp thu đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1930, sau một thời gian dài đấu tranh, tuyên
239
truyền, xây dựng, Chi bộ Cộng sản Tam Tân – chi bộ đầu tiên tại Bình Thuận
được thành lập ở Làng Tam Tân (huyện Hàm Tân cũ, nay là thị xã La Gi của tỉnh
Bình Thuận) với 6 đảng viên do đồng chí Ngô Đức Tốn làm Bí thư, những đảng
viên này chính là lực lượng hạt nhân của “Phản đề Đông Minh Hội” do chính
đồng chí Ngô Đức Tốn tập hợp quần chúng tốt thành lập trước đó. Cũng trong
thời gian này, một số đảng viên Cộng sản từ Sài Gòn ra Phan Thiết hoạt động đã
móc nối phát triển và kết nạp thêm đảng viên Cộng sản, những đảng viên này đã
ra sức tích cực hoạt động trong phong trào cách mạng quần chúng, tuyên truyền
chủ nghĩa Cộng sản và hình thành các tổ Nông hội, sau đó phát triển mạnh mẽ
Phan Thiết và Hàm Thuận. Đi vôi với phát triển Nông hội là việc thành lập các
đội tự vệ để bảo vệ các cuộc họp của Đảng và các cuốc đấu tranh của quần chúng
và đây cũng là tiền thân của tổ chức vũ trang cách mạng đầu tiên của Bình Thuận.
Tuy tổ chức Đảng mới nhen nhóm nhưng đã lãnh đạo các phong trào đấu tranh
của nhân dân diễn ra mạnh mẽ và quyết liệt.
Trong suốt chiều dài của cuộc đấu tranh giữ nước, Đảng bộ và nhân dân
Bình Thuận đã đứng lên cùng với cả nước đánh Pháp, đuổi Nhật giành chính
quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám 1945 lịch sử, đập tan ách
thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ
nguyên độc lập, tự do; tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
pháp trong 9 năm đầy gian khổ, hy sinh, cùng với nhân dân cả nước giành thắng
lợi vẻ vang, đưa miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng. Sau năm 1954, đế
quốc Mỹ thay thực dân Pháp xâm lược miền Nam, Đảng bộ, nhân dân Bình
Thuận cùng với nhân dân miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Trải qua 21 năm chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt, hy sinh, nhân
dân Bình Thuận đã phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường tiến lên giành thắng lợi
này đến thắng lợi khác, làm nên chiến thắng 19/4/1975 giải phóng quê hương,
góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam nói chung và Bình
Thuận nói riêng 90 năm qua là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, là sự hy sinh
phấn đấu bền bỉ của toàn quân, toàn dân, với sức mạnh của khối đoàn kết toàn
dân tộc mà hạt nhân là liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức… Chúng ta tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam đã
một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc
240
của nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, cũng có lúc Đảng
mắc phải những sai lầm, khuyết điểm. Có những việc nhân dân đòi hỏi Đảng phải
làm nhiều hơn, tốt hơn. Và sự lớn lao của Đảng không chỉ thể hiện ở những cống
hiến có tính lịch sử trong suốt 90 năm qua mà còn ở chỗ Đảng dám nhìn thẳng
vào sự thật, trân trọng lắng nghe sự phê bình, góp ý của nhân dân, kiên quyết sửa
chữa các sai lầm, khuyết điểm để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Trong kỳ xây dựng đất nước, tiến lên CNXH, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quân dân Bình Thuận đã tích cực khắc phục hậu quả chiến tranh, nghèo
nàn, lạc hậu để xây dựng cuộc sống mới đưa quê hương, đất nước đi lên theo
định hướng CNXH, không ngừng phát triển cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
tự đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu, góp phần
làm rạng rỡ thêm truyền thống vẻ vang của Đảng. Từ sau khi chia tách tỉnh năm
1992, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Thuận luôn nêu cao ý chí tự lực, tự cường,
đoàn kết một lòng, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phấn đấu vươn lên
giành được những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới. Nhất là, từ
năm 2015 đến nay, công tác xây dựng Đảng được các cấp ủy đảng và toàn Đảng
bộ tỉnh quan tâm. Cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đã góp phần
nâng cao ý thức rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong thực
hiện nhiệm vụ; bước đầu khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; nâng cao trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên, trước hết là người đứng đầu; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an
ninh, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn tỉnh. Hiện nay, 100% xã, phường,
thị trấn trong tỉnh đã có tổ chức đảng. Số lượng đảng viên phát triển từ 10.328
đồng chí (năm 1991) tăng lên 36.607 đồng chí (cuối năm 2019); từ 638 tổ chức
cơ sở đảng (năm 1991) sắp xếp, củng cố, sáp nhập lại còn 477 tổ chức cơ sở
đảng (cuối năm 2019). Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính quyền
được nâng lên; công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được tăng cường, tệ
tham nhũng trên các lĩnh vực như đất đai, tài nguyên, khoáng sản... có giảm, đã
241
làm cho nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể có nhiều cố
gắng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, sát cơ
sở hơn, đã góp phần củng cố, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân. Không khí dân chủ trong nội bộ Đảng và trong xã hội ngày càng được phát
huy, tạo cơ sở rất quan trọng để tiếp tục củng cố sự thống nhất ý chí trong Đảng,
sự đồng thuận trong xã hội, sự ổn định chính trị của tỉnh.
Trải qua 13 kỳ Đại hội, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã vượt qua những
chặng đường cách mạng, tỏ rõ bản chất là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
là lực lượng lãnh đạo, nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ quê hương.
2. Tuổi trẻ Bình Thuận kiên định mục tiêu, lý tƣởng của Đảng; sắc
son niềm tin với Đảng.
Cùng với tuổi trẻ cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, các thế
hệ thanh niên Bình Thuận đã nối tiếp nhau viết nên những truyền thống vẻ vang
bằng lòng yêu nước nồng nàn, trung thành tuyệt đối với Đảng, gắn bó chặt chẽ
với lợi ích dân tộc, với nhân dân và chế độ XHCN; truyền thống xung kích cách
mạng, xung phong tình nguyện, sẵn sàng đón nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ được giao; truyền thống hiếu học, cần cù, sáng tạo; truyền thống đoàn kết, yêu
thương, giúp đỡ lẫn nhau.
Ra đời từ “mùa xuân của Đảng”, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vinh dự được
mang tên Bác đã không ngừng phấn đấu, trưởng thành, từng bước khẳng định vai
trò, uy tín của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trải qua 12 kỳ
Đại hội, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bình Thuận luôn nhận được sự quan tâm,
lãnh đạo, dìu dắt của Đảng bộ tỉnh nhà, không ngừng phấn đấu và phát triển.
Ngay từ khi mới thành lập, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh nhà đã nêu cao tin thần
chiến đấu anh dũng, sẵn sàng hi sinh, đi đầu trong các phong yêu nước, phong
trào cách mạng của tỉnh nhà. Từ các phong trào lớn do Đoàn phát động và tổ chức
triển khai như “Thi đua giết giặc lập công”, “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”
với ý chí “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đến các phong trào “5 xung kích
phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ đất nước”, “5 Đồng hành với thanh niên trong
lập thên, lập nghiệp”; 03 phong trào “Hành động cách mạng của Đoàn” và 03
chương trình bi “Đồng hành với thanh niên”, đã có bết bao thế hệ thanh niên
Bình Thuận đã chiến đấu, cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc, khẳng định là lực
242
lượng hùng hậu, đội quân xung kích cách mạng, tiêu biểu cho chí khí bất khuất
của quê hương anh hùng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng vĩ đại của dân tộc, tô thắm truyền thống yêu nước, chí khí anh hùng của các
thế hệ cha anh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc, tiếp nối truyền thống
hào hùng của các thế hệ cha anh đi trước, dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng,
trong những năm qua, công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi tỉnh nhà đã đạt
được những kết quả quan trọng. Nhiều nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong
thanh niên được phát hiện, tôn vinh, góp phần tạo dựng hình ảnh đẹp về lớp thanh
niên trong thời kỳ mới. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh nhà tiếp tục có bước phát
triển, thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm với thanh thiếu nhi và có đóng góp xứng
đáng vào những thành tựu chung của quê hương, đất nước.
Trong bối cảnh nước ta đang ra sức đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh
nhà nhận thức sâu sắc rằng những yêu cầu của tình hình mới không chỉ đem đến
cơ hội, thuận lợi và thời cơ, mà còn mang lại nhiều khó khăn và thách thức đối
với thanh niên. Vì vậy, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Bình Thuận sẽ không ngừng
đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động để tiếp tục phát huy vai trò
của mình đối với thanh thiếu nhi, với đất nước bằng những việc làm cụ thể, thiết
thực tập trung một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình hành động của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy số 01-NQ/TU về thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW ngày
24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa
cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”; Tăng cường tuyên truyền, giáo dục thanh
niên sống có lý tưởng cách mạng, có niềm tin và kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của
dân tộc.
Hai là, đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng cho đoàn
viên, thanh niên về Đảng; đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối của
Đảng. Tổ chức cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên tham gia góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền, phòng chống tham nhũng, lãng phí, góp ý đảng viên,
243
phòng chống suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ với hình thức phù hợp.
Ba là, tiếp tục triển khai hiệu quả cuộc vận động “Đoàn viên phấn đấu trở
thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”, phát hiện, lựa chọn đoàn viên ưu tú
để bồi dưỡng tạo nguồn và nâng cao chất lượng giới thiệu đoàn viên ưu tú cho
Đảng xem xét, kết nạp. Chủ động, sáng tạo, kiên trì tham mưu, đề xuất với Đảng,
Nhà nước các chủ trương, chính sách đối với thanh thiếu nhi.
Bốn là, tổ chức sáng tạo, hiệu quả các phong trào hành động cách mạng
phát huy vai trò xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, chăm lo củng cố, xây dựng tổ chức Đoàn thực sự vững mạnh cả
về tư tưởng, chính trị, tổ chức và hành động.
Sáu là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tổ chức Đoàn các cấp, nhất là
Đoàn cấp huyện trong phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Bảy là, đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức, hỗ trợ trang bị kiến
thức, kỹ năng để đoàn viên, thanh niên chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Bằng tin thần trách nhiệm, gương mẫu, đi đầu trong các hoạt động, bằng
niềm tin, lòng trung thành với Đảng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và tuổi trẻ Bình
Thuận quyết tâm kiên định mục tiêu, lý tưởng mà Đảng, Bác hồ và nhân dân ta đã
lựa chọn, đó là: Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; nguyện sẽ phát huy cao
nhất tinh thần tiên phong, xung kích, sáng tạo, tình nguyện lập nhiều thành tích
mới, mừng một chặng đường mới của Đảng quang vinh, góp sức mình vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
244
ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH THUẬN
90 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ban Nội chính Tỉnh ủy
Kính thưa các đồng chí tham dự Hội thảo!
Được sự cho phép của Chủ trì buổi hội thảo, thay mặt Ban Nội chính Tỉnh
ủy, tôi xin phép được trình bày một số nội dung như sau:
Ngày 03/02/2020 vừa qua, cả nước nói chung và tỉnh nhà Bình Thuận nói
riêng đã tổ chức nhiều sự kiện để kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2020). Đây là một sự kiện hết sức trọng đại của
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Đất nước chúng ta chưa bao giờ có được cơ đồ to lớn, vai trò và vị thế cao
như ngày nay. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nghèo đói, ngày nay Việt
Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân
không ngừng được cải thiện, nâng cao, nhiều thành tựu về phát triển kinh tế - xã
hội được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Quan hệ đối ngoại, hội nhập
quốc tế không ngừng rộng mở, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư được tăng
cường. Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế và thiết chế hợp tác
kinh tế đa phương, có vai trò, tiếng nói quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Để đạt được những thành tựu vẻ vang đó chính là nhờ sự lãnh đạo đúng
đắn và sang suốt của Đảng, đây là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Kính thưa các đồng chí!
Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta đã chứng minh rằng, yêu nước và
giữ nước, kiên quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất
đất nước là truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Nối tiếp truyền thống
đó, từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, không cam chịu
thân phận nô lệ, nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên đấu tranh qua các phong trào
yêu nước diễn ra liên tục và mạnh mẽ bằng nhiều con đường với nhiều khuynh
hướng khác nhau. Từ con đường cứu nước của các sĩ phu cho đến các cuộc khởi
nghĩa nông dân và con đường cách mạng tư sản...
Và ngày 03/02/1930, mãi mãi là dấu son chói lọi, cột mốc lịch sử vĩ đại của
dân tộc Việt Nam, bởi đó là dấu chấm hết cho những đêm dài tăm tối, chấm dứt
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Việc Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công
nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
245
cách mạng. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng
kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam.
Kính thưa các đồng chí!
Trải qua 90 năm, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
từ một Đảng non trẻ chỉ mới 15 tuổi, nhưng với đường lối cách mạng đúng đắn,
sáng tạo đã tập hợp sức mạnh, trí tuệ toàn dân tộc làm nên thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân phong kiến, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam
Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Phát huy sự đúng đắn trong
đường lối lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục làm nên thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược mà đỉnh cao là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu và
đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước.
Trong lúc phải khẩn trương khắc phục những hậu quả vô cùng nặng nề do
chiến tranh để lại, nhân dân Việt Nam lại tiếp tục phải đương đầu với những cuộc
chiến tranh mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta vừa tập trung khôi
phục kinh tế - xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ độc lập, chủ quyền
lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp nhân
dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất
nước.
Giành được độc lập, Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của
công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
tiếp tục đưa đất nước ta phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt
Nam và kinh nghiệm quốc tế. Thắng lợi đó, mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc
ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn
thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
Kính thưa các đồng chí!
Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt của Đảng ta trong 90 năm qua,
đến nay, nước ta đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người
với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người; đã tham gia hầu hết tổ chức quốc
tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của
cộng đồng quốc tế. Đặc biệt mới đây, đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu
với số phiếu tín nhiệm rất cao, lần thứ hai trở thành Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Những khó khăn, gian khổ, sự hy sinh vô bờ bến
246
cùng những thắng lợi vẻ vang mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chúng ta càng trân trọng quá khứ, nâng niu gìn giữ những thành quả cách
mạng và công ơn trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng
ta và dân tộc ta, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam - Anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Người đã cống hiến trọn đời mình cho
dân, cho nước, dẫn dắt Đảng ta, nhân dân ta làm nên những thắng lợi vẻ vang và
làm “rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”. Với những thành
tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay và càng chứng tỏ,
tư tưởng, sự nghiệp, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản
vô giá, là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta vững bước đi tới tương lai.
Chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của các vị lãnh đạo tiền bối, của
hàng triệu anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy
sinh vì độc lập, tự do, vì chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội và vì nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các bậc lão thành cách mạng,
các gia đình liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh
binh, các gia đình có công với nước, cùng toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước
đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, lao động sáng tạo, đóng góp to lớn cho sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của dân tộc ta.
Chúng ta mãi mãi ghi nhớ và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ và giúp
đỡ quý báu của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các lực lượng tiến bộ
cùng bầu bạn khắp năm châu đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hôm nay.
Kính thưa các đồng chí!
Đối với Bình Thuận, mảnh đất vinh dự được Bác dừng chân đến, dạy học
trước khi Người ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911). Đến cuối năm 1920, Bác
Hồ đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta, đó là con đường cách
mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ năm 1921 đến năm 1925, Người
tiếp tục hoạt động để truyền bá đường lối cứu nước về Việt Nam. Từ đó, ánh sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã về với nhân dân Bình Thuận.
Đầu năm 1930, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập tại làng Tam Tân
gồm có 06 đồng chí, do đồng chí Ngô Đức Tốn làm Bí thư; nhóm Cộng sản ở Đại
Nẫm (Phan Thiết) do ông Dương Chước trực tiếp phụ trách; cơ sở cách mạng của
Đảng được xây dựng ở Rạng (Phan Thiết) do ông Hồ Quang Cảnh tổ chức… Sự
thành lập các Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Bình Thuận đã đưa phong trào
247
yêu nước của nhân dân trong tỉnh phát triển sang một thời kì mới, thời kì đấu
tranh giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Nắm bắt thời cơ cách mạng, đầu tháng 6/1945, Ban Vận động Việt Minh
lâm thời tỉnh Bình Thuận được thành lập đã bầu Nguyễn Sắc kim phụ trách
chung; Nguyễn Tương phụ trách tổ chức - tài chính; Nguyễn Nhơn, Nguyễn
Chúc, Thái Hựu phụ trách các huyện, ngành. Theo đó đã đề ra chủ trương tập
trung xây dựng cơ sở cách mạng ở Phan Thiết, Hàm Thuận và ga Mương Mán.
Ngoài ra, Nguyễn Sắc Kim còn có nhiệm vụ liên lạc với các đảng viên ở Ninh
Thuận để phối hợp hành động cũng như tiếp nhận sự chỉ đạo của cấp trên.
Và thời cơ cách mạng đã đến, sáng ngày 24/8/1945, Ban Vận động Việt
Minh lâm thời tỉnh đã cử Nguyễn Nhơn, Nguyễn Tương đến nhà số 8, đường Sài
Gòn gặp tỉnh trưởng Huỳnh Dư để tiến hành bàn giao và tiếp quản các công sở
theo như thỏa thuận trước đó vào ngày 23/8/1945. Đến chiều ngày 24/8/1945, tại
đồn bảo an, cờ đỏ sao vàng tung bay trên cột cờ trước cổng, lính bảo an xếp hàng
chờ đại diện Ban vận động Việt Minh lâm thời tỉnh. Sau khi nghe đại diện Ban
vận động Việt Minh lâm thời tỉnh nói về tình hình và nhiệm vụ cứu nước của toàn
dân lúc này, toàn thể binh lính bồng súng chào lá cờ đỏ sao vàng thiêng liêng của
Tổ quốc, giao nộp 30 khẩu súng trường cho cách mạng. Quân Bảo an được đổi
tên thành Giải phóng quân… chính quyền đã thuộc về nhân dân, chấm dứt 80
năm đô hộ của thực dân Pháp trên đất Bình Thuận.
Trong 09 năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) hàng ngàn cán bộ,
đảng viên, quần chúng yêu nước của Bình Thuận bị địch bắt, giam cầm. Mặc dù
luôn bị kẻ thù kềm kẹp, khủng bố, đàn áp dã man, nhưng với truyền thống cách
mạng kiên trung bất khuất, nhân dân tỉnh Bình Thuận vẫn một lòng theo Đảng,
Bác Hồ đứng lên chống giặc, đóng góp sức người, sức của, cùng cả nước kháng
chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genever được
ký kết, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương. Theo các điều khoản Hiệp định,
tỉnh Bình Thuận nằm trong vùng do đối phương tạm thời quản lý. Trong vòng 80
ngày (kể từ ngày Hiệp định ngừng bắn có hiệu lực, 01/8/1954), tất cả các lực
lượng vũ trang và chính quyền, đoàn thể của ta phải tập kết ra Bắc. Theo đó, hơn
300 cán bộ dân chính Đảng và 1.400 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Bình
Thuận tập kết ra Bắc. Bên cạnh đó, để phù hợp với tình hình mới, Ban cán sự cực
Nam và Tỉnh ủy Bình Thuận phân công gần 130 cán bộ trung kiên ở lại hoạt
động, bí mật lãnh đạo nhân dân đấu tranh yêu cầu địch thi hành Hiệp định; đồng
thời, hình thành cơ quan lãnh đạo từ tỉnh đến các huyện, thị và một số xã.
Trãi qua 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, một chặng
đường đầy gian khổ và hy sinh, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã tiếp tục lãnh đạo
quân và dân các dân tộc trong tỉnh sát cánh cùng quân dân cả nước chiến đấu
248
oanh liệt, giành thắng lợi vẻ vang sau khi thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi
dậy trong chiến dịch mùa Xuân năm 1975, ngày 19/4/1975 tỉnh Bình Thuận và
ngày 23/4/1975 tỉnh Bình Tuy hoàn toàn được giải phóng, đập tan chính quyền ta
sai các cấp của địch. Những chiến thắng trên góp phần mở đường, đưa chiến dịch
Hồ Chí Minh đến thắng lợi, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.
Kính thưa các đồng chí!
Từ khi đất nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ và nhân dân
tỉnh nhà tiếp tục giành được nhiều thành tựu quan trọng và tương đối toàn diện.
Đặc biệt là sau Đại hội Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ IV (Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bình Thuận lần thứ VII) diễn ra rừ ngày 12/10 đến 18/10/1986 tại Trường Đảng
tỉnh, kinh tế của tỉnh thoát khỏi tình trạng trì trệ, duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá, một số ngành kinh tế dần trở thành ngành kinh tế chủ lực của tỉnh như: năng
lượng, khai khoáng, nuôi trồng - đánh bắt thủy hải sản, du lịch... Và những năm
gần đây, nhất là trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, được sự quan tâm, giúp đỡ kịp thời,
hiệu quả của Trung ương, Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân trong
tỉnh đã đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, đạt được nhiều kết quả tích cực và
tương đối toàn diện trên các lĩnh vực. Nổi bật là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
khá, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch
đúng hướng; sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tiếp tục duy trì mức
tăng trưởng khá. Công tác cải cách hành chính và xây dựng chính quyền tiếp tục
được đẩy mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, thuận lợi, giảm thời gian, chi phí
vật chất cho doanh nghiệp và người dân. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân và phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tăng
cường. An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng. Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng ngày càng được nâng lên; khối đại đoàn
kết toàn dân được củng cố và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của người
dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Để đạt được những kết quả nêu trên có phần đóng góp không nhỏ của công
tác nội chính Đảng tỉnh nhà. Theo đó, công tác nội chính được đảm bảo gắn chặt
với sự ổn định của chế độ, đảm bảo môi trường cho kinh tế phát triển, có mối
liên hệ chặt chẽ với kinh tế. Trong những năm qua, ngoài sự việc đáng tiếc xảy
ra vào ngày 10 và 11/6/2018, cơ bản tỉnh ta đã làm khá tốt công tác này, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh cơ bản được đảm bảo,
công tác trấn áp các loại tội phạm tiếp tục được tăng cường; công tác điều tra,
truy tố, xét xử tiếp tục được thực hiện khá tốt... Đối với công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, và của
249
Chính phủ, là “giặc ở trong lòng”, là “giặc nội xâm”. Trong những năm qua,
Ban Nội chính Tỉnh ủy đã tham mưu Tỉnh ủy, Ban Thường vụ, Thường trực
Tỉnh ủy chỉ đạo xử lý nhiều vụ án, vụ việc đạt kết quả khá tích cực, rõ rệt, để
lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được
nhân dân đồng tình. Tình trạng tham nhũng đang từng bước được ngăn chặn,
đẩy lùi và có chiều hướng giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
tỉnh nhà, tạo động lực mới, khí thế mới thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị,
xây dựng tỉnh nhà ngày càng phát triển, giàu đẹp.
Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước bên cạnh thuận lợi,
thời cơ, cũng còn nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Trong công cuộc phát triển
đất nước, nhiều vấn đề mới phát sinh phải xử lý, nhiều việc hết sức phức tạp phải
giải quyết; cán bộ, đảng viên chúng ta tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn,
không được say sưa với thắng lợi và ngủ quên trên vòng nguyệt quế. Vì vậy, để
tiếp tục chăm lo thế nước, vun đắp lòng dân, xây dựng Đảng xứng đáng “là người
lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, dẫn dắt công cuộc đổi
mới tiếp tục tiến lên, Đảng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII, làm cho
Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo
đức, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân
dân, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng, tính tiên phong của Đảng, nhất
là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập như hiện nay.
Năm 2020, với nhiều nhiệm vụ, sự kiện quan trọng của đất nước, của tỉnh
nhà. Khắc ghi lời dạy của Bác, sự quan tâm chỉ đạo của Ban Thường vụ, Thường
trực Tỉnh ủy, toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức cơ quan Ban Nội chính Tỉnh
ủy sẽ tiếp tục phát huy cao độ truyền thống yêu nước, cách mạng của quê hương;
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nâng
cao trình độ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đề cao ý thức trách nhiệm, phát
huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực cùng với các ngành tham mưu Ban Thường vụ,
Thường trực Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ theo chức
năng, nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng tỉnh nhà phát triển nhanh và bền
vững, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Cuối cùng xin kính chúc các đồng chí luôn mạnh khỏe và cùng phấn đấu
hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã giao.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí đã chú ý lắng nghe!