ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NIÊN LUẬN
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU PHONG CÁCH THƠ HAIKU
CỦA MATSUO BASHO, YOSA BUSON VÀ KOBAYASHI ISSA
GVHD: Ths. Nguyễn Thị Lam Anh Sinh viên thực hiện: Tên: Nguyễn Duy Bình MSSV: 1056190013 Niên khóa: 2010-2014
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................ 1
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU.................................................................. 2
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................................... 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................. 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................ 4
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .......................................... 4
4.1. Mục đích ................................................................................................ 4
4.2. Nhiệm Vụ .............................................................................................. 5
5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.................................................. 5
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................. 5
6.1. Phương pháp tập hợp – Khảo sát tư liệu ................................................. 5
6.2. Phương pháp phân tích – Tổng hợp........................................................ 6
6.3. Phương pháp so sánh – Đối chiếu........................................................... 6
6.4. Phương pháp hệ thống............................................................................ 6
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN ................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG ..............................................................................7
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT THƠ HAIKU................................................ 7
1. Nguồn gốc ra đời...................................................................................... 7
2. Nội dung và hình thức nghệ thuật............................................................. 9
3. Quá trình phát triển ................................................................................. 10
CHƯƠNG 2: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ MATSUO BASHO ......... 12
1. Cuộc đời và sự nghiệp cùa nhà thơ Matsuo Basho................................... 12
1.1 Cuộc đời ............................................................................................... 12
1.2. Sự nghiệp sáng tác ............................................................................... 14
2. Phong cách thơ haiku của Matsuo Basho................................................. 15
2.1. Cảm thức Sabi...................................................................................... 15
2.2. Cảm thức Wabi .................................................................................... 19
2.3. Cảm thức Aware .................................................................................. 21
2.4. Cảm thức Karumi................................................................................. 23
CHƯƠNG 3: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ YOSA BUSON ............... 26
1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Yosa Buson ...................................... 26
1.1. Cuộc đời.............................................................................................. 26
1.2. Sự nghiệp sáng tác ............................................................................... 28
2. Phong cách thơ haiku của Yosa Buson .................................................... 28
CHƯƠNG 4: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ KOBAYASHI ISSA ....... 37
1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Kobayashi Issa ................................. 37
1.1. Cuộc đời............................................................................................... 37
1.2. Sự nghiệp sáng tác ............................................................................... 40
2. Phong cách thơ haiku của Kobayashi Issa ............................................... 40
2.1. Con người của nỗi đau và bất hạnh....................................................... 40
2.2. Tình yêu thương dịu dàng đối với loài vật nhỏ bé................................. 44
2.3. Mẹ – nguồn thi ca vô tận ...................................................................... 48
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................53
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước Nhật Bản có điều kiện địa lý khá đặc biệt so với nhiều
nước trên thế giới, là một quốc đảo có vị trí biệt lập. Trong quá khứ
xa xưa, nhờ vị trí đảo quốc đặc biệt của mình mà Nhật Bản tránh
được nhiều cuộc xâm chiếm đất đai giữa các nước láng giềng lục địa.
Nhật Bản là một quốc gia Đông Bắc Á duy nhất trực tiếp tiếp thu rất
nhiều từ Đông Á vá Đông Nam Á các nghề trồng củ, trồng lúa nước,
dệt vải, tín ngưỡng nữ thần…hình thành một đảo quốc luôn tạo ra
những chuỗi bất ngờ cho thế giới cả trong quá khứ lẫn hiện đại về
một nền văn hóa độc đáo của xứ sở Phù Tang.
Nhật Bản là một xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập
tục và nghi lễ, với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở
rộ như những đám mây hoa, với những thiếu nữ duyên dáng trong tà
áo kimono truyền thống. Đây còn là xứ sở huyền thoại của những Võ
sĩ đạo, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: sumo, akido,
karate, judo… Một xứ sở của Thiền đạo và Trà đạo gắn liền với
những bài thơ haiku ngắn đến mức tưởng chừng như không thể ngắn
hơn được nữa. Độc giả sẽ rất đỗi ngạc nhiên bởi bên cạnh những bài
thơ haiku cực ngắn ấy là cả một quá trình dài với những bước thăng
trầm gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà thơ nổi tiếng. Có bốn nhà
thơ được người đời tôn làm tứ trụ trong thơ haiku đó là: Matsuo
Basho, Yosan Buson, Kobayashi Issa và Masaoka Shiki. Mỗi nhà
thơ đều có những bút pháp, phong cách rất riêng, họ đã cùng nhau
đưa haiku lên đỉnh cao của nghệ thuật.
Thơ Haiku của Nhật Bản lan tỏa trên thế giới một cách trầm
lặng mà gây ra tiếng vang xa rộng như bước nhảy của một con ếch từ
trên bờ nhảy “tủm” xuống ao làm mặt nước xao động. Nó trở thành
một thể thơ đặc trưng của người Nhật trong mắt bạn bè quốc tế.
2
Ở Việt Nam, hòa theo xu thế hội nhập toàn cầu thì mối quan hệ
giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng phát triển nhanh chóng trên
nhiều lĩnh vực và đã bước sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều
sâu. Bên cạnh sự phát triển về Kinh tế – Xã hội và khoa học kĩ thuật
thì nhu cầu giao lưu văn hóa, học tập nghiên cứu của công dân giữa
hai quốc gia ngày càng phát triển theo. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
và phổ biến văn học Nhật Bản chưa được rộng rãi, chỉ là bước đầu
tiếp cận. Sách ngữ văn lớp 10 bộ mới cũng lần đầu tiên đưa vào
giảng dạy thơ haiku Nhật Bản cho học sinh Phổ thông nghiên cứu.
Trong hoàn cảnh này, việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ haiku là rất cần
thiết và ý nghĩa. Do hạn chế về thời gian và kiến thức nên tôi xin
được tìm hiểu riêng về “Phong cách thơ haiku của Matsuo Basho,
Yosa Buson và Kobayashi Issa”.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Nền văn học Nhật Bản nói chung, thơ haiku nói riêng cũng từ
khá lâu rồi được nhiều dịch giả, giới nghiên cứu và bạn đọc trên thế
giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam việc quan tâm đến
văn học xứ Phù Tang ngày càng tăng nhưng sách biên soạn về
chuyên đề này chưa nhiều. Do nhu cầu tìm hiểu tinh hoa của nền văn
học Nhật Bản đã phát sinh từ nhà trường và xã hội mà nó được đón
nhận một cách nồng nhiệt. Việc nghiên cứu tìm hiểu và sáng tác thơ
haiku ở Việt Nam đang ở bước đầu. Dù Việt Nam còn mới mẻ trong
việc tiếp cận nền văn học Nhật Bản nhưng Việt Nam và Nhật Bản
vốn là những nước Châu Á nên việc tiếp cận có phần dễ dàng hơn.
Trong ba nhà thơ Basho, Buson và Issa, các tác phẩm của nhà
thơ Basho được dịch sang tiếng Việt nhiều nhất và có nhiều bản dịch
khác nhau. Thơ haiku đến với người Việt bước đầu là từ dịch thơ rồi
đi đến khám phá nguyên lý thơ và sau cùng là sáng tác thơ theo thể
haiku bằng tiếng Việt. Độc giả dần dần hiểu được rồi say mê thơ
haiku. Đến ngày nay, thơ haiku được giới thiệu trên các trang báo
Tài hoa trẻ, Tạp chí Văn học, Báo Văn học và Tuổi trẻ hay sách viết
3
về văn học văn hóa Nhật Bản với các bài dịch thơ, bài viết của các
tác giả nổi tiếng ở Việt Nam như: Nhật Chiêu, Đoàn Lê Giang, Vĩnh
Sính, Thái Bá Tân…Trong số những người nghiên cứu về văn học
văn hoá Nhật Bản, Nhật Chiêu là người có đóng góp to lớn trong
việc chuyển tải tâm hồn Nhật đến người Việt. Ông đã xuất bản nhiều
sách về văn học văn hoá Nhật Bản như là: Nhật Bản Trong Chiếc
Gương Soi (NXB Giáo Dục – 2003), Thơ Ca Nhật Bản (NXB Giáo
Dục, 1998), 3000 Thế Giới Thơm (NXB Văn Nghệ – 2007 ), Văn
Học Nhật Bản Từ Khởi Thuỷ Đến 1868 (NXB Giáo Dục –
2002),…Ngoài ra còn một số nhà nghiên cứu khác như là: Lê Từ
Hiền – Lưu Đức Trung với tác phẩm: Haiku – Hoa Thời Gian (NXB
Giáo Dục – 2007), Lê Thiện Dũng đã dịch tác phẩm: Hài Cú Nhập
Môn (tác giả H.G Henderson, NXB Trẻ – 2002)…
Ngày nay trên các trang web cũng thấy xuất hiện một số bài viết,
trang tin đăng tải có liên quan đến thơ haiku. Đặc biệt là Trường Đại
Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Tp. HCM, khoa Đông Phương
học đã ấn hành và cho ra đời một quyển sách có ý nghĩa vào năm
2003 đó là cuốn “Nhật Bản trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á”
trong đó thơ haiku Basho được coi là một phần linh hồn của văn học
văn hóa Nhật Bản.
Những vấn đề trên đã đưa đến một kết quả rất khả quan là nền
văn học Nhật Bản đang bước từng bước vào Việt Nam làm những
người yêu thơ đi vào nghiên cứu tìm hiểu thơ haiku. Ở các trường
Đại học sư phạm ở ngành Ngữ văn hay trường Đại học Khoa học Xã
hội va Nhân văn Tp.HCM, thơ haiku được giới thiệu vào chương
trình học cho sinh viên học tập, nghiên cứu. Vì vậy, thơ haiku được
các bạn sinh viên thích thú tìm hiểu và tham gia vào các cuộc thi
sáng tác thơ haiku bằng tiếng Việt.
Hiện nay, bộ sách Ngữ văn cấp III mới phần văn học Nhật Bản
lại được bổ sung vào những bài thơ haiku ngộ nghĩnh và lí thú ở lớp
10. Có thể nói sự xuất hiện của thơ haiku trong chương trình văn học
4
nước ngoài ở Phổ thông Việt Nam đã thực sự đánh dấu một bước dài
cho chân trụ vững chắc của thơ haiku ở Việt Nam.
Việt Nam đang nâng cao quan hệ hợp tác bang giao với Nhật
Bản trên nhiều lĩnh vực. Lĩnh vực văn học Nhật Bản đang được mở
rộng cửa đón chào. Dù còn gặp nhiều mới mẻ trong việc tiếp cận nền
văn học này, nhưng tương lai nền văn học Nhật Bản sẽ được khám
phá sâu rộng ở Việt Nam. Trong đó thơ haiku là một đại diện không
thể thiếu bởi nó là chiếc gương soi để soi rọi linh hồn văn hóa Nhật
Bản.
Thông qua việc tiếp thu các công trình nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài nước, cộng với sự tìm tòi nhiều nguồn tài liệu
phong phú trên internet, tôi xin đưa ra những nét hay, nét đặc trưng
trong phong cách của ba nhà thơ tiêu biểu: Matsuo Basho, Yosa
Buson, Kobayashi Issa.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về phong cách của một số nhà thơ tiêu
biểu, cụ thể là ba nhà thơ lớn gồm: Matsuo Basho, Yosa Buson và
Kobayashi Issa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ đi sâu vào khảo sát các tác phẩm thơ của ba nhà
thơ Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa để thấy được
phong cách sáng tác của từng nhà thơ. Các tác phẩm thơ ấy đã được
dịch sang tiếng việt bởi các dịch giả : Nhật Chiêu, Vĩnh Sính, Thái
Bá Tân,…
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích
Giới thiệu đến độc giả một cái nhìn toàn diện, một cách tiếp cận,
khám phá mới về thơ thơ Haiku.
5
Khám phá cái hay, cái đẹp của thơ ca Nhật Bản thông qua ba
nhà thơ tiêu biểu là Basho, Buson, Issa. Đồng thời, hiểu rõ hơn về
cuộc đời và sự nghiệp của ba nhà thơ trên.
Giúp người đọc nhận ra sự khác biệt trong phong cách sáng tác
của ba cây đại thụ trong dòng thơ haiku.
Khơi gợi lòng yêu mến thơ ca của mọi người đối với thơ haiku
nói riêng và văn học Nhật Bản nói chung. Tạo tiền đề cho mối quan
hệ hữu nghị, am hiểu lẫn nhau giữa hai quốc gia Việt Nam – Nhật
Bản.
4.2. Nhiệm Vụ
Tìm ra những nét đặc trưng tiêu biểu về phong cách sáng tác
của ba nhà thơ Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa.
5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Nếu đề tài nghiên cứu thành công luận văn sẽ:
Đóng góp vào kho tàng lí luận văn học hướng nhìn, một cách
khám phá mới về nội dung và cách sáng tác của thơ haiku.
Giúp hiểu sâu hơn về thơ haiku và những tác giả tiêu biểu.
Mở rộng và trải lòng mình với thế giới thơ của Nhật Bản.
Vận dụng vẻ đẹp tinh túy và ý nghĩa thâm thúy của thơ haiku
trong cuộc sống của bản thân.
Là tài liệu tham khảo cần thiết và hữu ích cho việc phổ biến văn
học Nhật Bản tại Việt Nam. Ngoài ra còn là định hướng gợi mở đối
với việc tìm hiểu và nghiên cứu về Văn học Nhật Bản sau này.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp tập hợp – Khảo sát tư liệu
Thơ haiku của các nhà thơ nổi tiếng được dịch ra tiếng Việt khá
phong phú, có nhiều bản dịch khác nhau. Đồng thời, các bản dịch
nằm rải rác trên các báo, tạp chí, sách, trang web,…và số lượng dịch
ra tiếng Việt ngày một nhiều. Do vậy, tôi cần thiết phải sử dụng
phương pháp này để vừa thu thập tài liệu vừa tiến hành khảo sát tư
liệu.
6
6.2. Phương pháp phân tích – Tổng hợp
Nhằm làm nổi bật những vấn đề cần khai thác, khám phá, tôi sẽ
tiến hành phân tích các dẫn chứng sau đó tổng hợp khái quát lại để đi
đến đúc kết vấn đề.
6.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Trong quá trình tìm ra những nét đặc sắc trong phong cách sáng
tác của ba nhà thơ tiêu biểu, tôi cần có sự so sánh, đối chiếu giữa các
nhà thơ để làm rõ hoàn cảnh, nguồn gốc của những tư tưởng sáng tác
của ba nhà thơ.
6.4. Phương pháp hệ thống
Sau khi phân tích, khám phá phong cách của ba nhà thơ, tôi tiến
hành hệ thống lại vấn đề và từ đó rút ra kết luận.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được chia bố cục theo các phần sau:
Phần mở đầu bao gồm: Lý do chọn đề tài, tổng quan nghiên cứu,
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu,
ý nghĩa của đề tài nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, cấu trúc
luận văn.
Phần nội dung: Được chia làm 4 phần như sau:
Chương 1: Khái quát thơ Haiku
Chương 2: Thơ haiku của nhà thơ Matsuo Basho
Chương 3: Thơ haiku của nhà thơ Yosa Buson
Chương 4: Thơ haiku của nhà thơ Kobayashi Issa
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
7
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT THƠ HAIKU
Người dân xứ sở hoa anh đào thường tự hào đất nước mình là
“thi quốc”. Trong các thể thơ truyền thống của Nhật Bản, tanka và
haiku là tiêu biểu hơn cả. Đặc biệt, thơ haiku là thể thơ rất Nhật Bản,
là linh hồn văn hóa xứ Phù Tang.
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã từng nói rằng: “Có một thể thơ
mà khi để nó lướt qua tâm hồn ta, ta có cảm giác như đang chạm
vào thiên nhiên, chạm vào từng mùa…Haiku? Đọc Haiku là chạm
vào hơi thở của mùa. Là chạm vào hoa đào, đom đóm, lá phong,
tuyết trắng,…”
Vậy thơ Haiku là gì và có nguồn gốc từ đâu?
1. Nguồn gốc ra đời
Thơ Haiku là thể thơ nổi tiếng của Nhật Bản và ngắn nhất thế
giới, toàn bài chỉ có 17 âm tiết, có thể xếp thành 3 câu (5-7-5). Trong
tiếng Nhật, thơ haiku không có vần và thường không có nhan đề.
Các bài thơ haiku thường chỉ là những nét chấm phá, gợi mở để độc
giả vận dụng trí tưởng tượng nhằm liên tưởng đến các sự vật, hiện
tượng khác. Vì thế, người ta cho rằng thơ haiku giống như những
bức tranh thủy mặc của người Nhật. Nó chứa đựng một khoảng trống,
một khoảng chân không nhưng tràn trề sinh động của cuộc sống.
Thơ haiku là thể thơ phái sinh từ tanka. Tanka là thể thơ khởi
đầu của dân tộc Nhật Bản, tức Đoản ca hay còn gọi là Waka hay Hòa
Ca. Bài thơ theo thể tanka có 31 âm tiết, chia thành 5 dòng theo nhịp
phách 5-7-5-7-7. Bài thơ tanka sau đây được xem là bài thơ mở đầu
cho thơ ca Nhật Bản:
Tám tầng mây dựng
Ở xứ Izumo
Ta làm tám tầng mây xa
Tám tầng mây ấy
8
Che chở người vợ ta
Đây là bài thơ mà thần Susanoo làm tặng cho người vợ của
mình là nàng Kushinada. Theo H. H. Honda thì một bài tanka tựa
như “Hoa anh đào ẩm trong sương mờ mùa xuân”.
Từ thế kỷ XIV–XV, khi thơ tanka có dấu hiệu đi xuống, trên thi
đàn Nhật Bản xuất hiện thể thơ renga (liên ca). Renga cũng có nhịp
phách 5-7-5-7-7 như tanka nhưng tách thành hai phần 5-7-5 và 7-7
rõ rệt, số lượng câu không hạn chế. Thơ renga được giải thích như
sau:
Thơ renga là thơ xướng họa có từ rất lâu đời trong văn học Nhật.
Từ một bài tanka 31 âm tiết, 5 dòng được tách ra hai phần để cho
mọi người xướng thơ với nhau (phần ba câu đầu gọi là thượng cú,
phần hai câu sau gọi là hạ cú). Renga ra đời là như thế. Ví dụ như
một bài thơ trong Shui shu (Thập di tập, 997):
Qua rồi nửa đêm
Chờ nhau chi nữa
Cho thêm ưu phiền
Một tiểu thư đã gửi cho người tình của mình phần đầu bài tanka
với ba câu như trên với ý trách móc người yêu lỗi hẹn. Sau đó, người
ấy nhận được và làm tiếp phần còn lại thành một bài tanka trọn vẹn:
Muốn gặp em trong mộng
Nhưng rồi anh ngủ quên
Thực chất renga là trò chơi nối thơ của các nhà thơ tanka. Giới
quý tộc thời Heian rất thích lối sáng tác như thế. Sau này, trong bài
renga liên hoàn đoạn thơ khởi xướng phần thượng cú được gọi là
hokku (phát cú) và được viết với hình thức 17 âm tiết (5-7-5). Đến
thế kỉ XVI, công chúng yêu thơ Nhật Bản rất thích trò chơi nối thơ
nên renga trở nên phổ biến và bình dân hơn, thậm chí có nhiều bài
renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc gọi là haikai no
renga, gọi tắt là haikai. Thể haikai do tầng lớp thị dân sáng tác với
9
mục đích đùa cợt, phóng túng nên dễ sa vào sự dung tục, chấp nối,
gượng ép và thiếu tâm hồn thơ.
Sau này, Basho đã đưa haikai thoát khỏi sự tầm thường bằng sự
dung hợp cả cái vô tâm lẫn hữu tâm, sự trào lộng đời thường của
haikai hiện đại với sự tao nhã, tâm linh của renga cổ điển vào trong
17 âm tiết của bài hokku. Từ đấy hokku không phụ thuộc vào renga
nữa, nó trở thành thể thơ độc lập và có tên là haiku (hài cú) (lúc đầu
có tên haikai đến thế kỷ XIX mới có tên gọi haiku). Phần đầu hokku
của bài renga là tiền thân của thơ haiku, như vậy thơ haiku có nguồn
gốc từ tanka và renga.
Thơ haiku phát triển mạnh trong thời Edo (1603–1867). Vào
thời kì này haiku đã mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào lộng nguyên thủy
mà thay vào đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền Tông.
Nghĩa là không còn sự phân biệt giữa người làm thơ và cuộc sống
đang vận hành, giữa bài thơ và cái nằm phía sau ngôn từ. Đó là sự
độc đáo vi diệu của thơ haiku.
2. Nội dung và hình thức nghệ thuật
Haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới, mỗi bài thường chỉ có 17
âm tiết (có thể ngắn hoặc dài hơn một vài âm tiết). Trong nguyên
bản tiếng Nhật, 17 âm tiết này thường được viết thành một dòng
nhưng khi phiên âm la-tinh lại ngắt thành 3 dòng 5-7-5. Haiku cổ
điển có niêm luật chặt chẽ. Một bài thơ haiku phải thể hiện được cảm
thức về thời gian qua quý ngữ (kigo). Quý ngữ có thể là từ miêu tả
các mùa xuân, hạ, thu, đông hoặc là các hình ảnh, hoạt động mang
đặc trưng của mùa. Việc dùng quý ngữ chỉ mùa thể hiện sự gắn bó
sâu sắc của người Nhật với thiên nhiên. Người Phù Tang rất nhạy
cảm với bốn mùa, có cảm quan tinh tế về thời tiết, nhất là sự thay đổi
của thiên nhiên. Tuy vậy, thiên nhiên trong thơ haiku thường là
những cảnh vật bình dị, nhỏ bé, tầm thường và dễ bị lãng quên như
chú ếch, con quạ, chú khỉ nhỏ bé, chim đỗ quyên, tiếng ve, đóa hoa
10
dại nở bên bờ suối, hòn đá… Hai đề tài nổi bật của haiku là thiên
nhiên và cuộc sống đời thường.
Về phương thức biểu hiện, do một bài thơ chỉ gồm 17 âm tiết
nên các thi sĩ haiku thường bắt đầu từ những điểm nhìn đơn lẻ, chớp
lấy một khoảnh khắc có thần của thực tại, đẩy lên đỉnh điểm của cảm
xúc và sáng tạo theo nguyên lý mùa và tính tương quan hình ảnh.
Trong một bài thơ haiku thường có một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương
xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường). Haiku không mô tả cảm
xúc mà chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Nhà thơ ít dùng tính
từ và trạng từ làm hạn chế sự tưởng tượng của người đọc, vì thế,
haiku rất giàu sức gợi. Ở thơ haiku, ta bắt gặp bút pháp của tranh
thủy mặc, thiên về thần thái hơn là đường nét. Kết cấu bỏ lửng của
thơ haiku chính là cái hư không bảng lảng khó nắm bắt của tinh thần
Thiền tông.
3. Quá trình phát triển
Thơ haiku có một quá trình ra đời lâu dài và phát triển thật
mạnh mẽ. Thơ haiku ra đời từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, nó đạt tới
đỉnh cao với Basho. Sau Basho còn có rất nhiều nhà thơ đã chọn
haiku làm “con đường” để bước vào trong nghệ thuật, vào trong một
lối sống, vào một “đạo” và mang những triết lí sâu sắc gọi là “hài cú
đạo” (haikudo) hay “haiku no michi”. Đó là các nhà thơ Yosa Buson
(1716–1784), Kobayashi Issa (1762–1827), Masaoka Shiki (1867–
1902), Onitsura (1660–1738), Ryokan … Đối với họ sáng tác thơ
haiku không chỉ là niềm vui mà còn là lối sống. Thơ haiku đến với
họ bằng “con đường”, tức cái đạo mà thơ haiku chứa ở trong nó. Đấy
là con đường sâu thẳm trong cái bình thường giản dị nhất giữa cuộc
đời như Tagore đã từng nói: “Trong vội vã, ta bỏ quên những bông
hoa bên hàng giậu ven đường…”.
Hiện nay, thơ haiku của Nhật Bản đã lan tỏa ra khắp thế giới.
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã nhận định: “Nói một cách chừng mực
hơn, thơ haiku mà Basho đã hoàn thiện bằng thiên tài của mình, trở
11
nên thể thơ quốc tế trong thế kỉ XX. Bên ngoài Nhật Bản, haiku
chẳng những được nghiên cứu rộng rãi mà còn được các nhà thơ ở
nhiều xứ khác nhau sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có
cả Paul Eluard của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George
Seferis của Hi Lạp”.
Vậy, Thơ haiku bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVI, đạt đỉnh cao
ở thế kỉ XVII với Basho. Ngày nay, haiku lan ra thế giới thành một
thể thơ được quốc tế đón nhận.
12
CHƯƠNG 2: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ MATSUO BASHO
1. Cuộc đời và sự nghiệp cùa nhà thơ Matsuo Basho
1.1 Cuộc đời
Matsuo Basho (松尾芭蕉, 1644–1694), thiền sư thi sĩ lỗi lạc
của thời Edo, ông sinh ngày 16 tháng 12 năm 1644 trong một gia
đình võ sĩ cấp thấp thời Tokugawa (1603–1868), ở thành Ueno thuộc
Iga (nay là huyện Mie), Basho lúc mới ra đời tên là Matsuo Kinsaku
(松尾,金作) lớn lên đổi tên thành Matsuo Munefusa (松尾宗房).
Năm 9 tuổi, ông vào lâu đài Ueno làm tùy tùng cho lãnh chúa và trở
thành bạn thân của Yoshitada, một người lớn hơn ông vài tuổi và là
con của trai của lãnh chúa. Hai người đã cùng nhau vui chơi, học tập
và làm thơ. Người thầy dìu dắt Yoshitada và Basho về thơ haiku là
Kitamura Kigin, nhà thơ và nhà bình thơ lừng danh lúc bấy giờ.
Bài thơ đầu tay của Basho được sáng tác vào năm 1664, lúc đó
Basho vừa 20 tuổi. Trong tập thơ xuất bản ở Kyoto năm 1664, có hai
bài của Basho và một bài của Yoshisada.
Nếu dòng đời cứ yên bình trôi đi thì chắc hẳn Basho đã suốt đời
an phận, lặng lẽ với thân phận một người võ sĩ cấp dưới, thi thoảng
cùng chủ quân nâng chén thưởng nguyệt trong những ngày nhàn hạ.
Ngờ đâu vận đời trớ trêu, Yoshisada chẳng may bị bệnh và mất sớm
khi vừa mới hai mươi lăm tuổi (năm 1666). Số phận trở thành một
Samurai gia truyền tưởng chừng như đã an bài đã tan vỡ theo cái
chết của người chủ ấy và đồng thời để lại một vết hằn đen tối khó
quên.
Sau đó, Basho rời bỏ lâu đài xứ Iga, một nơi đầy kỉ niệm. Ông
đến Kyoto, vừa để tiêu dao những ngày tháng kinh kì nhằm khuây
khỏa vừa để theo đuổi nghiệp thơ. Ông tiếp tục học cổ văn Nhật với
Kigin và ông còn nghiên cứu thêm cổ văn Trung Quốc với một bậc
thầy khác. Ông thường sống trong nhà Kigin hoặc là tá túc trong một
đền chùa.
13
Tiếp đó, ông rời kinh đô đến Edo, thủ phủ của chế độ mạc phủ
Tokugawa. Ở Edo, Basho lấy bút hiệu là Tousei (Đào Thanh), ông
luôn tìm cách trau dồi thêm về thi ca, dần dần ông thu nhận môn đệ
và người ái mộ thơ Basho ngày một nhiều.
Năm 1680, Basho xuất bản tập thơ “Hai mươi bài thơ do môn
đệ của Tousei sáng tác độc lập”.
Năm ba mươi bảy tuổi, giữa lúc danh tiếng của Basho đang lan
rộng, nhà thơ đột nhiên quyết định thôi dạy, dọn về sống trong túp
lều tranh ở Fukugawa (Thâm Xuyên) cạnh bờ sông Sumida. Một
môn đệ khá giả là Sampu (Sam Phong) xây cho Thầy mình túp lều
để làm bạn với thiên nhiên. Basho trồng cạnh túp lều một bụi chuối
do môn đệ biếu, người đời gọi túp lều đó là Basho-an, tức Am Ba
Tiêu, và chẳng bao lâu họ gọi chủ nhân của túp lều đó là Basho
Sensei (Ba Tiêu Tiên Sinh). Chủ nhân của túp lều đắc ý với tên gọi
ấy nên đã lấy Basho làm bút hiệu.
Trong khoảng thời gian này, Basho tu tập Thiền dưới sự hướng
dẫn của Thiền sư Buccho (Phật Đỉnh) ở Choukeiji (Trường Khê Tự).
Năm 1682, Edo xảy ra trận hoả hoạn lớn, túp lều tranh của
Basho cũng chìm trong biển lửa , trắng tay giờ lại trắng tay, Basho
trở thành kẻ không nhà. Ý tưởng phiêu bạt chợt bùng dậy trong tâm
trí ông.
Tháng 5 năm 1683, Basho về lại Edo, môn đệ hợp sức dựng lại
cho ông túp lều nhưng giấc mộng hải hồ cứ thôi thúc ông từng ngày.
Mùa Thu năm 1684, Basho bắt đầu cuộc hành trình “gió biển
mây ngàn” của mình. Ông đi đến Thần cung Ise. Sau khi tham bái
ngôi đền nổi tiếng này, ông trở về cố hương viếng mộ mẫu thân.
Chuyến hành hương kế tiếp hướng về Kashima, Basho đến thăm
Thầy cũ của mình là Thiền sư Buccho. Sau đó ông đi ngắm hoa anh
đào ở núi Yoshino.
14
Ngay sau chuyến đi ngắn ngày ấy, Basho lại bỏ ra một năm trời
đi lang thang cùng thiên nhiên sông núi. Từ Edo đến bờ biển Suma.
Ông đến Sarashina để chứng kiến mùa trăng ở đỉnh Obasute.
Năm 1689, Basho cùng đệ tử Sora thực hiện chuyến đi nổi tiếng
đó là: hành trình lên miền Oku ở Đông Bắc của đảo Honshu – một
vùng thuở ấy còn hoang sơ, chưa có người khai phá. Basho phiêu bạt
gần ba năm trời, quãng đường ông đi qua hơn 2500 km. Sau chuyến
hành trình, Basho về Kyoto và cố lý sống hai năm. Năm 1691, Basho
trở lại Edo với danh tiếng đạt mức tột đỉnh.
Tâm hồn lãng tử của Basho lúc nào cũng thôi thúc ông dấn
bước vào cuộc hành trình gian nan như người đi tìm Đạo. Năm 1694,
Basho thực hiện chuyến lữ hành cuối cùng đến Otsu (gần hồ Biwa),
rồi ghé qua Kyoto ở lại Rakushisha, sau đó, ông đến Osaka. Vốn đã
tiều tụy, khi ở Osaka ông lại mắc phải chứng tiêu chảy không cách
nào chữa khỏi. Trong những ngày cuối đời, ông viết:
Tabi ni yande Dang dở cuộc hành trình
Yume wa kareno wo Chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
Kake meguru Trên những cánh đồng hoang
Và Basho trút hơi thở cuối cùng ngày 12/10/1694, hưởng thọ 51
tuổi. Đến phút cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn làm thơ, vẫn chưa
nguôi mộng sông hồ.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
Những bước đường phiêu lãng, du hành khắp nơi trên đất nước
là cảm hứng sáng tác gắn liền với khối tác phẩm đồ sộ của Basho.
Những trang bút kí và những bài thơ huyền bí để lại cho hậu thế
là tài sản vô giá. Sau khi nhà thơ mất, một số đệ tử đã tập hợp các bài
thơ của ông thành Basho Shichi Bushu (Ba tiêu thất bộ tập) tức là
bảy tác phẩm. Những tác phẩm của Basho để lại cho đời là:
Ngày Đông (Fuyu no hi, 1684), 5 tập, viết chung với bạn thơ
Du kí lang thang đồng nội (Nozarashi kiko, dã sái kỷ hành,
1685)
15
Ngày Xuân (Haru no hi, 1686) viết chung với đồ đệ
Nhật kí hành trình Kashima (Kashima kiko, 1687)
Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu
văn, 1688)
Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo, 1689)
Áo tơi cho khỉ (sarumino, viên thoa, 1691)
2. Phong cách thơ haiku của Matsuo Basho
Haiku là một thể thơ đặc biệt ngắn gọn, xuất phát tự nhiên như
tiếng nói từ tâm đối cảnh trong khoảnh khắc của ngay lúc ấy, trong
đó thời gian và không gian cô đọng lại như khung cảnh hiện thực của
một bức ảnh, vì thế, thơ haiku hàm chứa nhiều nét thi vị Thiền.
Matsuo Basho đã đưa Thiền vào thơ đến mức tuyệt vời, ý thơ của
ông thanh thoát, bàng bạc những ảnh hưởng sâu xa của đạo Phật,
như thơ của một vị Thiền sư. Đó là những vần thơ cao nhã và nhàn
tản u tịch. Do ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông trong nhận thức
cuộc sống nên thơ haiku của Matsu Basho thể hiện những cảm thức
thẩm mỹ khác nhau như là: Sabi, wabi, aware và karumi. Từ những
cảm thức này, Basho đã hình thành phong cách riêng cho mình, được
gọi là Shofu (Tiêu Phong).
2.1. Cảm thức Sabi
Sabi (Tịch) là cảm thức nổi trội của thơ haiku và thể hiện tập
trung nhất tư tưởng của Thiền Tông. Sabi là linh hồn của tịch liêu, là
cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật. Sabi là ý thức mỹ học
đầu tiên được phổ biến qua thơ waka của Fujiwara Shunzei (1114–
1204) vào cuối thời Heian và đầu thời Kamakura. Ý thức này được
các nhà thơ sau đó, đặc biệt là Basho, tiếp tục phát triển và định hình.
Trên thực tế, sabi đã trở thành khái niệm căn bản trong thơ Basho.
Cái cô tịch của sabi không phải là sự cô tịch của việc chia rẽ,
tách biệt, phân li. Sabi là cô đơn nhưng là “niềm cô đơn huy hoàng”,
là cảm thức hùng tráng chứ không phải cô đơn cá nhân, không mang
16
tính bi lụy. Sabi là vẻ cô tịch, trong sự soi chiếu giữa một cá thể và
toàn thể, giữa một và tất cả. Đó là sự vắng bóng của bản ngã.
Nội dung của sabi không chỉ giới hạn trong sự cô tịch. Đó
không phải là niềm bi thương câm lặng, tịnh thức của bản ngã. Sabi
là cảm thức của sự tĩnh mịch tuyệt đối, khi lòng người lắng xuống
tận đáy kí ức tâm hồn, hiện tại đã hóa hư vô, sự vật nhìn thấy trước
mắt mà cứ ngỡ đã trôi về một miền vô định.
Basho chọn cho mình cuộc đời của một lữ khách phiêu bạt khắp
nơi trên đất nước Nhật Bản. Trong những năm tháng độc hành ngao
du sơn thủy, với một người có lòng hoài cổ, chắc hẳn đã có nhiều lần
ông nhìn thấy những hình ảnh thiên nhiên bình dị trong chiều hôm
hay nghe một tiếng cuốc, một tiếng dế mà nhớ quê da diết.
Con tim khắc khoải mãi mãi đi tìm sự bình an cho tâm hồn, ông
muốn thoát đi thật xa tìm nguồn thi hứng, “theo gương những thiền
sư ngày xưa đã đi hàng ngàn dặm không mang gì theo chỉ cố gắng
đạt được trạng thái hạnh phúc dưới ánh trăng trong sáng”1. Có lẽ vì
thế, trăng là một người bạn đường quen thuộc của ông:
Tsuki kiyoshi Trăng
Yugyou no moteru Một nhà sư
Suna no ue Mang trăng đi qua bãi cát
Bài thơ gợi lên một hình ảnh rất tao nhã của một nhà sư bước đi
trên bãi cát vắng lặng dưới ánh sáng trăng. Tuy nhiên, trăng không
phải đang tỏa sáng soi đường cho người lữ hành mà chính người ấy
đang ung dung mang trăng theo trên bước đường phiêu du của mình.
Nhà sư không chỉ có trăng làm bạn, mà trăng dường như cũng khao
khát trở thành người đồng hành của nhà sư. Người lữ hành cô độc và
ánh trăng lẻ loi trên bãi cát đêm hoang vắng gợi lên một niềm cô liêu,
tịch mịch tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, nhưng đó không phải là nỗi
1 Trích từ tác phẩm:Tập ký sự trong tay nải (Oi no Kobumi, 1688) của Matsuo Basho.
17
cô đơn u uẩn, xót xa mà là cảm xúc rợn ngợp trước vẻ đẹp dung dị
mà thanh cao về sự hợp nhất của con người và thiên nhiên.
Khi con người để lòng mình lắng sâu đến mức nhìn thấy cái vô
thường trong hữu hạn cuộc đời, có thể cảm nhận bằng các giác quan
cụ thể những thứ không tạo hình, không thanh sắc, lúc ấy, cả tâm
hồn và thể xác như chìm đắm vào sự tĩnh lặng và giao hòa tuyệt đối
với đất trời. Đó là cốt lõi của Thiền. Theo Thiền tông, khi lắng vào
niềm tĩnh tịch thì người ta sẽ lắng nghe được tất cả sự chuyển động
của vạn vật:
Shizuka sa ya Vắng lặng u trầm
Iwa ni shimiiru Thấm sâu vào đá
Semi no koe Tiếng ve ngân
Những hình ảnh trên của bài thơ vẽ nên một khung cảnh heo hút,
đìu hiu bởi tiếng ve kêu khắc khoải. Có gì mỏng manh hơn tiếng một
con ve ở tận sâu trong khu rừng vắng! Không gian yên tĩnh đến mức
thi sĩ có thể nghe thấy tiếng ve thấm sâu vào từng lớp đá, làm run rẩy
linh hồn đá cứng. Thật ra tiếng ve mùa hạ vốn dĩ rất ồn ã. Nhưng với
Basho, tiếng ve mùa hạ kia dường như đã rơi vào hư vô. Vượt lên
trên tất cả những thanh âm ồn ào hỗn độn, tâm hồn thi sĩ đã đạt đến
trạng thái tĩnh lặng hoàn mỹ, và sự yên tĩnh trong tâm hồn đã lan tỏa,
bao trùm lên cảnh vật xung quanh. Trong tiếng ve kêu, nhà thơ bước
vào cõi âm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Vẫn là tiếng ve ngày
nào, vẫn là đá núi hôm qua và trái tim con người vẫn rộn ràng với
những nhịp đập ngày thường của nó, nhưng không phải ở chốn ồn ào
sôi động mà chính là trong tâm thức, trong cõi tịnh liêu. Dù cuộc đời
có “động” đến đâu thì lòng vẫn “tĩnh”, ấy là Thiền, ấy là sabi.
Vào lúc hoàng hôn, nghe hồi chuông chiêu mộ từ xa vọng lại,
người lữ khách nhạy cảm như Basho tự dưng cảm thấy đâu đây
phảng phất mùi Thiền. Trong buổi xế tà này, đằng phương trời xa
từng đàn chim đang rũ cánh bay về tổ, nhà thơ làm sao không khỏi ý
18
thức về thân phận con người? Qua ngọn bút, niềm cô tịch triền miên
ấy biến thành thơ.
Kane kiete Chuông chùa tắt
Hana no kaori ha tsuku Hương hoa phảng phất
Yuube kana Chắc hẳn hoàng hôn
Tâm hồn nhà thơ đã gắn kết, hòa đồng vào vũ trụ, con người
sống đời sống của thiên nhiên, thở hơi thở của tự nhiên. Nếu được
như vậy bất cứ lúc nào con người lặng im nhìn vào tâm tưởng của
chính mình cũng cảm nhận được nhịp điệu, sự rung động của đất trời.
Vì thế giới bên trong và bên ngoài là một, nên thơ của Basho ít khi
thể hiện cảm xúc cá nhân. Chỉ vài nét phác thảo đơn sơ, mộc mạc
cũng làm nổi bật một chiều thu cô tịch và hoang liêu:
Kare eda ni Trên cành khô
Karasu no tomari keri Cánh quạ đậu
Aki no kure Chiều thu
Mùa thu trong bài thơ nhuốm màu tiêu điều, quạnh quẽ, xác xơ
qua hình ảnh “cánh quạ ô trên cành héo hắt”. Giống như một bức
tranh mực Tàu với những nét điểm tinh tế, trầm buồn của chiều thu,
bài thơ vẽ nên một khung cảnh với những chi tiết đối lập, là hiện
thực tạo thành cái sâu thẳm vô hạn nhất của sabi. Cảm nhận về bài
thơ này, Henderson cho rằng: “Ở đây không chỉ đơn giản là phong
cảnh héo úa đậu xuống một chiều thu giống như hình bóng một con
quạ, nó còn là sự tương phản của thân hình đen muội, nhỏ xíu của
con quạ với bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm và với nhiều
điều khác nữa tuỳ người đọc”.
Trong thế giới phồn hoa chốn nhân gian, để lắng nghe được
thanh âm của tự nhiên người ta phải lắng hồn mình đến trạng thái
tuyệt tĩnh của sabi, nơi tâm hồn con người trở thành tấm gương
phẳng lặng soi chiếu vạn vật.
19
2.2. Cảm thức Wabi
Wabi (Đà) là một khái niệm của Phật giáo thiền tông, nói đến
sự cảm nghiệm về sự thanh bần an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao
của cuộc sống con người và sự vật.
Cơ sở của wabi chính là bắt nguồn từ quan niệm của người
Nhật Bản “Vạn vật hữu linh”. Theo quan niệm đó, sự sống tồn tại
trong mọi thứ bao quanh con người, dù bé nhỏ hay to lớn, vô tri vô
giác hay có ý thức và cảm giác, đều là biểu hiện của sự sống. Nói
cách khác, tư tưởng “Vạn vật hữu linh” chính là thái độ trân trọng
cuộc sống thực tại. Điều này dẫn đến quan niệm chuộng sự cân bằng
hài hòa giữa con người và thiên nhiên, chuộng sự giản dị, thanh khiết,
mộc mạc, gần gũi. Đó cũng chính là cốt lõi của cảm thức wabi. Hay
nói cách khác, đó cũng chính là tinh thần Thiền tông, đưa con người
về với thiên nhiên bình dị, trữ tình, đưa nghệ thuật về với đời thường.
Nếu như sabi là niềm cô tịch soi chiếu tâm hồn với vạn vật thì wabi
là sự hiện hữu của cái đẹp dưới bất kì khoảnh khắc nào, trong bất cứ
sự vật mộc mạc nào của cuộc sống đời thường.
Tokotsubo ni Con bạch tuộc lười
Hakanaki yume wo Mơ màng trong lưới
Natsu no tsuki Trăng mùa hè
Chắc chỉ có Basho mới có con mắt tinh tế và nhạy cảm đến mức
nhìn thấy một con bạch tuộc mắc trong lưới. Nhưng dưới con mắt
của ông, chú bạch tuộc kia thay vì lo lắng cho cuộc sống sắp kết thúc
của mình, chỉ lười biếng, mơ màng thưởng trăng. Quả là một hình
ảnh đầy thi vị và hóm hỉnh. Cả sự sống dường như chỉ đọng trong
khoảnh khắc, con bạch tuộc lười và ánh trăng mùa hạ. Cái bi thương
đã nhường chỗ cho sự thăng hoa của cái đẹp.
Wabi chính là cuộc hội ngộ giữa cái đẹp và tính giản dị, tâm
hồn và thiên nhiên, tính chất phác, mộc mạc và cái sâu thẳm, tuyệt
diệu.
20
Thơ Basho hồn hậu, thuần khiết, trong sáng, được tạo thành từ
những điều bình dị nhất của đời sống nhưng mang vẻ đẹp tâm linh
sâu thẳm, dịu vợi. Khi nâng haiku lên sự hoàn thiện của một dòng
thơ tâm linh, Basho đã nâng trong lòng bàn tay bát ngát của mình
những sự vật bình thường nhất của thế gian này.
Basho tìm thấy vẻ đẹp trong cát bụi chứ không dùng cát bụi xây
nên tòa lâu đài thơ ca đẹp đẽ. Ông tìm đến khu vườn cỏ ngát hoa để
làm chốn nghỉ chân:
Vườn cỏ
Chọn hoa nào
Làm gối?
Thật đẹp làm sao khi ta bắt gặp một người lữ hành sau chuyến
hành trình mệt lả, thong dong tìm một chỗ để ngã lưng trong khu
vườn cỏ đầy hoa, nhưng phân vân chẳng biết nên gối đầu lên loài
hoa nào. Cuộc đời bần hàn với cỏ là đệm, bầu trời là chăn và những
bông hoa làm gối ấy sao mà đẹp một cách thanh cao và thoát tục.
Đôi mắt không ngừng tìm kiếm vẻ đẹp cuộc sống của Basho
dường như không bao giờ bỏ qua bất cứ sự vật, hiện tượng nào. Dù
là một cách bướm sặc sỡ rập rờn buổi sớm mai đánh thức cánh đồng
đang say ngủ:
Chou no tobu Con bướm bay
Bakari nonaka no Làm cánh đồng thức dậy
Hikage kana Trời đầy nắng
Basho đều phát hiện và đưa chúng vào các vần thơ đẹp đẽ. Có
lẽ cũng chỉ ông mới thi vị hóa những cành dâu mục, làm cho chúng
có sức sống, có cảm xúc da diết:
Akikaze ni Gió thu
Orete kanashiki Buồn bã làm rơi
Kuwa no tsue Mấy cành dâu mục
21
Hồn thơ đa sầu đa cảm của ông nhìn thấy những điều quá đỗi bé
nhỏ và đơn sơ trong cuộc đời vô thường, và ông đồng cảm sâu sắc
với vạn vật:
Yuku haru ya Mùa xuân ra đi
Tori naki uo no Tiếng chim thổn thức
Me wa namida Mắt cá lệ đầy
Nỗi buồn của chim muông hay đôi mắt đẫm lệ của loài cá khi
mùa xuân đang dần qua đi hay cũng chính là nỗi buồn của lòng
người trong thời điểm giao mùa đã được lưu giữ trong những vần thơ
súc tích, đầy nhân bản của thi sĩ Basho.
Con đường dẫn đến cái đẹp không tự nhiên hiển hiện trước
mắt và thi nhân cũng không cố ý kiếm tìm nó. Nó chỉ hiện hữu trong
sự tình cờ, bất chợt, trong vạn vật hữu linh, vừa xa xôi vừa thân
thuộc, vừa vĩ đại vừa bình thường.
Sabi và wabi không phải là hai yếu tố tách biệt mà luôn song
hành cùng nhau trong các sáng tác của Basho nói riêng, và nghệ
thuật Nhật Bản nói chung. Nhưng với sự thể hiện điêu luyện và tinh
tế trong những vần thơ súc tích, mang tính tượng trưng và biểu cảm
cao, Basho đã đưa những quan niệm thẩm mỹ này trở nên gần gũi
với quần chúng hơn bao giờ hết.
2.3. Cảm thức Aware
Cảm thức Aware (Ai) là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học,
xuất hiện khá sớm, được văn chương Nhật sử dụng khá rộng rãi.
Aware gọi đầy đủ là mononoaware, là nỗi buồn của sự vật, là bi cảm,
một cảm thức xao xuyến trước mọi cái đẹp của sự vật. Nó chịu ảnh
hưởng tư tưởng “vô thường” của Phật giáo. Aware còn là cảm thức
thâm trầm trước cái đẹp não lòng của sự vật vì sự vật nào cũng vậy
có lúc rực rỡ, cũng có lúc tàn phai. Từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và
trong truyện Genji (Murasaki), nhiều tác giả đã nói đến Aware.
22
Aware là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não nùng
của sự vật. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông cuồng của
lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà aware là một bi
cảm thâm trầm.
Đối với người Nhật, sự rơi rụng hay tàn héo của một bông hoa
đẹp hơn khi nó ở trạng thái bung nở, một âm thanh mơ hồ hay hơn
khi nó rõ ràng, vầng trăng bị mây che khuất một phần quyến rũ hơn
một vầng trăng tròn đầy viên mãn. Họ đánh giá cao những gì ở trạng
thái ban sơ, tinh khôi, không tồn tại lâu dài và không thể chạm tới.
Đó là cái Đẹp mong manh thấm đượm cảm thức vô thường của Phật
giáo.
Bài thơ sau của Basho là một ví dụ:
Yagate shinu Cái chết gần kề
Keshiki wa miyezu Mặc ai hay biết
Semi no koye Vẫn hoài tiếng ve
Đấy là xúc cảm trước cái đẹp của tiếng ve ngân vang điệp khúc
mùa hè. Tiếng ve tượng trưng cho sự sống. Còn cái chết sắp đến với
ve không là bi kịch mà đó là điều tự nhiên của sự sống và cái chết.
Khoảnh khắc sống và chết không là gì cả, là “vô thường”. Bi cảm
aware là thế đấy. Vì vậy, con người sống trên đời này cũng chỉ là hư
ảo, giữa sự sống và cái chết cũng không có gì phải bận tâm, nhẹ tựa
lông hồng. Trước cái chết của người bạn thân, Basho viết :
Iru tsuki no Trăng rơi rụng
Ato ha tsukue no Bốn gốc bàn quen thuộc
Yosu mi kana Còn lại mà thôi
Sự ra đi của người bạn thân là sự mất mát quá lớn nhưng nhà
thơ không hề nói đến từ “chết”, mà dùng những hình ảnh quen thuộc
để chỉ sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là khúc ca bi ai về cái chết của
một người bạn. Ánh trăng đã rụng tức là đang nói đến cái chết nhưng
bốn gốc bàn quen thuộc vẫn còn hiện hữu nơi gốc nhà, tựa như tất cả
về người bạn ấy vẫn còn nơi thế gian. Đây không phải là bi kịch của
23
con người mà là sự cảm nhận của nhà thơ về sự sống và cái chết
cũng đơn giản, bình dị như bốn gốc bàn. Trong cuộc đời, còn – mất,
được – không, con người ra đi – sự vật ở lại...tất cả chỉ là niềm bi
cảm của con người.
2.4. Cảm thức Karumi
Karumi (Khinh) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng,
thanh thoát. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách
và sự tinh tế trong nội dung. Karumi được nói đến như một phong
thái ung dung, tự tại. Đó còn là một niềm khinh thanh êm đềm bay
lượn giữa tro than và cát bụi trần gian. Chính tâm thế đó đã tạo nên ở
các thi sĩ haiku có cái nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc sống và
thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật dẫu cho nó bé nhỏ và
tưởng chừng như bị quên lãng. Basho nói về karumi trong thơ mình
ở cuối đời như một phong thái ung dung tự tại. Một bông hoa mới nở
cũng làm ta ngất ngây:
Kiku no hana Mong manh mong manh
Saku ya ishiya no Một nhành hoa cúc
ishi no ai Vừa đơm nụ vàng
Hay một đóa phù dung cũng góp phần tạo nên hương sắc của
mùa:
Kirisame no Mưa mù sương
Sora wo fuyou no Phù dung một đoá
Tenki kana Làm mùa lên hương
Ta cùng ngồi với Basho trong túp lều ở Fubagawa vào buổi
chiều mùa xuân. Những áng mây do hoa anh đào kết thành bồng
bềnh mơ ảo ở cả hai nơi Ueno và Asakusa:
Hana no kumo Hoa đào như áng mây xa
Kane wa Ueno ka Chuông đền Ueno vang vọng
Asakusa ka Hay đền Asakusa
Tiếng chuông vọng đến, có cần gì biết nó phát ra từ ngôi đền
nào. Hoa thì mờ ảo như mây, tiếng chuông thì mơ hồ trong gió.
24
Haiku cố gắng diễn tả cái không rõ, cái không thể diễn tả. Nó được
phản ánh đậm nét qua bài thơ:
Yoku mireba Khi nhìn kỹ
Nazuna hana saku Tôi thấy nazuna nở hoa
Kakine kana Bên hàng giậu
Nazuna là loài hoa mọc bên vệ đường, giống như loài hoa dại.
Khóm hoa màu trắng, không rực rỡ như hoa hồng, hoa cúc, thường
nở bên bờ rào nhũn nhặn, có mấy ai đoái hoài nghĩ đến. Thế nhưng,
nhà thơ Basho không chỉ để ý đến loài hoa bé nhỏ ấy mà còn chăm
chú nhìn, biểu lộ một niềm ngạc nhiên, hân hoan trước sự vật. Đó là
đối với những loài hoa nhỏ bé, còn đối với những phận đời cơ cực
trong xã hội, nhà thơ Basho viết:
Shidu no ko ya Em bé nhọc nhằn
Inesuri kakete Trong khi xay gạo
Tsuki wo miru Vẫn nhìn lên trăng
Cuộc sống biết bao lo toan, nhọc nhằn cũng không làm mất đi
sự thi vị, lãng mạn. Em bé cơ cực là vậy nhưng tâm hồn em vẫn trải
rộng cùng thiên nhiên, cùng ánh trăng trong đêm yên tĩnh, thanh
vắng, chỉ còn một mình trăng là vẫn dõi theo khi em bé làm việc.
Tâm hồn trong sáng, thuần khiết của em bé sẽ giúp em vượt qua mọi
sự ô trọc, nhơ nhuốc của cuộc đời để hướng tới cái tốt lành, thánh
thiện.
Và vào mùa xuân, khi những cánh hoa anh đào vương vãi
khắp nơi theo làn gió, “đọng” vào bữa ăn khiến cho cả người và thức
ăn đều thấm một màu hồng của anh đào:
Ki no moto ni Dưới cây lao xao
Shiru mo namasu mo Chén canh, đĩa cá
Sakura kana Đều vương anh đào
Nhà thơ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần
của một bữa cơm đạm bạc nhưng chính những cánh anh đào vương
vào chén canh, đĩa cá làm cho “bữa tiệc hoa” trở nên thú vị, nên thơ.
25
Phát hiện từ trong những cái bình thường, cái đẹp bình dị, thể
hiện ý nghĩa nhân sinh cao thượng cũng là một cảm thức mang tính
karumi. Con người phải biết chiêm ngưỡng cái đẹp để vơi đi những
khổ đau nhọc nhằn của cuộc sống phức tạp, bề bộn thường ngày.
Đến các loài chim muông, ong bướm cũng không lãng quên cái đẹp:
Aki wo tate Bươm bướm cũng nhận ra
Chou mo nameru Một bông hoa chớm nở
Kiku no tsuyu Bên trời mùa thu
Karumi thường mang đến cho người đọc những cảm thức nhẹ
nhàng, thanh thoát thông qua những khám phá xung quanh đời
thường. Trong cuộc sống, con người bị cuốn hút vào vòng danh lợi,
đam mê danh vọng mà quên mất những cảm xúc lãng mạn và những
phút giây thần tiên, thăng hoa của cuộc đời.
26
CHƯƠNG 3: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ YOSA BUSON
1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Yosa Buson
1.1. Cuộc đời
Sau khi Basho mất, thơ haiku được phổ biến trong quần chúng
nhân dân nhưng chất lượng dần trở nên thấp kém. Nó mất dần tính
chất văn chương và người làm thơ để vụ lợi cầu danh thì nhiều.
Trước bối cảnh đó, trong làng thơ ca Nhật Bản xuất hiện một người
tự nhận lấy trọng trách phục hưng thơ haiku, đưa thơ haiku trở lại
với ánh sáng vốn dĩ của nó, người đó là nhà thơ: Yosa Buson.
Yosa Buson (与謝蕪村, 1716 – 1784), tên thật là Taniguchi
Buson, sinh năm 1716 ở làng Kema, tỉnh Settsu (Nhiếp Tân), ngoại ô
thành Osaka. Ông là thi sĩ và hoạ sĩ nổi tiếng trong thời Edo, ông
sinh sau Basho một thế kỷ và là người có công đầu trong việc đưa
haiku ra khỏi sự suy đồi mà nó rơi phải sau khi mất Basho. Buson
còn mang đến cho haiku màu sắc lãng mạn mà trong thơ Basho còn
thiếu. Người ta biết đến ông chủ yếu như một họa sĩ, và do là họa sĩ,
thơ ông mang nhiều hình ảnh với những nét chấm phá độc đáo. Có
thể ví ông như Vương Duy2 của Trung Quốc đời Đường.
Năm 20 tuổi, Buson đến Edo học làm thơ và hội hoạ dưới sự
chỉ dẫn của nhà thơ Hayano Hajin (1677–1742) hiệu Yahantei, một
nhà thơ có khuynh hướng chống lại những tệ nạn đương thời. Tại
đây, Buson còn được tiếp thu tinh hoa của thể thơ haiku truyền thống
dưới sự chỉ dẫn cùa nhà thơ Hattori Ransetsu và Takarai Kikaku.
Lúc đó, Buson lấy hiệu là Saicho, ông đào luyện nhiều môn đệ, trong
số đó có các cao đồ Yoshiwake, Takai Kito,…
Sau khi Thầy Hajin mất, ông đổi hiệu là Buson (1744). Buson
chuyển đến sống khá lâu ở Yuki, một vùng ở phía Bắc Edo. Tại đây,
ông dành ra thời gian cho việc vẽ tranh, luyện thơ haiku và viết tác
phẩm: Thương tiếc Hokuji Rosen (Hokuji Rosen wo itamu). Sau đó, 2 Vương Duy (701-761), là người thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông là một nhà thơ, họa sĩ và là một chính khách nổi tiếng đời Đường. Ông được người đời gọi là Thi Phật, cùng với Lý Bạch (Thi Tiên) và Đỗ Phủ (Thi Thánh).
27
men theo những địa danh trong quyển nhật kí hành trình nổi tiếng
“Lối lên miền Oku” của Basho, Buson đã thực hiện những chuyến đi
lên vùng Đông Bắc và vùng Kanto Nhật Bản.
Đến cuối năm 1750, Buson đến Kyoto, ông hoạt động văn thơ
trong thi đàn của nhà thơ Mochizuki Sooku (1688–1766), đồng thời
ông cũng vẽ tranh theo phong cách thuỷ mặc của Trung Quốc.
Năm 45 tuổi, Buson lấy vợ và ông có một người con gái tên là
Kuno.
Năm 1770, lúc đó Buson 55 tuổi, ông nối nghiệp thầy Hajin lấy
hiệu là Yahantei Nhị thế và làm chủ một thi đàn. Buson chịu ảnh
hưởng của Hán thi và lý luận Bunjinga3 nên ông đề xướng thoát tục
luận, đặt trọng tâm vào những sáng tác lãng mạn có phong vị cổ điển
nhưng đem lại cảm giác thanh tân. Với sự giúp đỡ đắc lực từ hai nhà
thơ Tan Taigi và Kuroyanagi Shoha, Buson đã làm sống dậy tâm hồn
thơ nguyên thuỷ của haiku – tâm hồn Basho, hay còn gọi là “Sự trở
lại của Basho”.
Năm 1772, Buson ra mắt tập thơ đầu tiên.
Năm 1776, Buson thành lập một câu lạc bộ thi ca, nơi đây được
xem như là “Ba Tiêu Am” thời Buson. Các nhà thơ tập hợp lại cùng
nhau sáng tác và bàn luận nhằm phục hưng tinh hoa trong thơ haiku
của Basho, họ luôn tôn trọng và xem Bahso như là một vị thánh thơ
haiku. Basho là khuôn mẫu, là mực thước cho Buson và các nhà thơ
khác trong phong cách sáng tác.
Buson đọc rất nhiều kinh thư và nghiên cứu phong cách khác
nhau của các tác phẩm thơ ca trong Nhật Bản và Trung Quốc. Đồng
thời, vì Buson vừa là một nhà thơ vừa là hoạ sĩ nên trong phong cách
thơ ông có sự đan xen, dung hợp, tác động lẫn nhau giữa thi ca và
hội hoạ. Khác với khuynh hướng chủ quan của Basho, Buson đứng
ngoài nhìn với con mắt hoạ gia, diễn tả sự vật một cách hoa lệ và 3 Bunjinga (Văn Nhân Họa) tức lý luận xem hội họa là một tài nghệ mà văn nhân cần phải có (theo Đổng Kỳ Xương, họa phái Nam Tông cuối đời Minh). Tư tưởng này phổ biến ở Nhật Bản thời Edo.
28
lãng mạn. Trong thơ của ông luôn giàu hình ảnh trữ tình, nhạy cảm
với cảnh sắc vẻ đẹp của thiên nhiên. Buson đã dung nạp, hấp thu
nhiều phong cách từ Trung Quốc, nhưng cuối cùng, ông vẫn tạo ra
cho mình một phong cách thật riêng, thật đặc trưng mà không nhầm
lẫn ở bất kỳ nhà thơ nào. Cùng với Matsu Basho và Kobayashi Issa,
Buson được xem là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của Nhật
Bản thời Edo.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
Tuy Buson không phải là người “phá rừng mở núi” để đưa
haiku lên hàng nghệ thuật cao quí, nhưng ông có công “dọn dẹp gai
cỏ” để haiku được tỏa sáng như thuở ban đầu. Buson đã sáng tác hơn
3000 bài thơ, gần phân nửa là tranh thơ với chủ trương người nghệ sĩ
phải có tai nghe thính nhạy, mắt nhìn thông suốt và một tâm cảm sâu
đậm để ghi nhận và diễn đạt.
Những tác phẩm tiêu biểu:
Thơ
Thương tiếc Hokuji Rosen (Hokuji Rosen wo itamu, 1745)
Vó ngựa gió Xuân ( Shunpuu Batei no Kyoku, 1777)
Khúc hát sông Yodo (Denga Ka, 1777)
Tranh
Vui thú cảnh mùa hè, mười thuận lợi và mười thú vui của đời
sống nông thôn , cao 17,8 cm (Album Tranh)
Mưa tuyết buổi chiều, dài 128,6 cm (Tranh cuộn treo tường)
Chân dung Baho
2. Phong cách thơ haiku của Yosa Buson
Nhà thơ Buson đến với thơ haiku như một duyên tiền định, ông
đã thổi một làn gió mới vào thơ haiku, làn gió ấy mang màu sắc của
ngàn hoa, của những vẻ đẹp mĩ miều, quyến rũ về mùa xuân. Buson
có một gia tài thơ đồ sồ về mùa xuân với hơn 2000 bài thơ. Điều đó
đã đưa ông lên vị trí “nhà thơ của mùa xuân” trên thi đàn Nhật Bản.
29
Không nhiều người thành tựu một lượt hai nghệ thuật thơ ca và
hội hoạ đến mức kỳ tài như Yosa Buson. Ông đã kết hợp nhuần
nhuyễn giữa tính chất biểu hiện của hội hoạ và chất gợi tưởng của thi
ca để tạo ra những vần thơ mùa xuân tinh tế và tài hoa:
Nanohana ya Đồng cải nở hoa vàng
Tsuki ha higashi ni Phương Tây mặt trời lặn
Hi ha nishi ni Phương Đông vầng trăng lên
Những bông hoa cải nở vàng ươm như trải một tấm thảm vàng
trên khắp cánh đồng, báo hiệu mùa xuân đã về. Trên cánh đồng vàng
rực mùa xuân ấy, những con người lao động vẫn ngày đêm miệt mài,
chăm bón, vun xới cho mùa bội thu sắp tới. Ở phương trời phía bên
kia quả đất xa xôi, mùa xuân cũng chảy tràn khắp nẻo, ở hai phương
trời của hai thiên thể đẹp đẽ, tất cả là mùa xuân phong nhiêu, là
tháng ngày bắt đầu của vòng quay mới.
Thơ về mùa xuân của Buson đẹp lắm, ẩn chứa trong đó là
những quan niệm nhân sinh thấm đẫm tinh thần nhân văn của một
tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc.
Mùa xuân hiện lên trong thơ Buson với những khoảnh khắc
bừng sáng của cảm xúc, ẩn chứa trong từng âm tiết thơ đầy rung
động:
Samushiro wo Trải chiếu trên cánh đồng
Hata ni shiite Ta ngồi ngắm
Umemi kana Vườn mận nở hoa
Nếu như đại thi hào dân tộc Nguyễn Du dùng hình ảnh hoa lê
để gợi mở mùa xuân, để tạo một gam màu chủ điểm cho bức tranh
xuân qua câu:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Truyện Kiều)
thì ở đây, ta cũng bắt gặp một bức tranh xuân do Buson vẽ ra, cũng
với gam màu trắng, cũng xuất hiện một loài hoa, nhưng hoa ấy
30
không phải hoa lê mà là hoa mận. Vườn mận nở hoa trở thành tín
hiệu nổi bật trong bức tranh xuân. Đó không phải là tín hiệu động mà
rất tĩnh, tĩnh lặng nhưng khuấy động được cảm xúc của người đọc về
cái xốn xang của thời gian.
Đó là một bức tranh xuân bình yên thư thả, dạt dào sức sống
trong bầu không khí trong lành, thanh thoát. Cánh đồng trở thành sân
khấu cho cuộc thưởng ngoạn mùa xuân. Cả con người và cảnh vật
đều dung dị, thanh thản trong khoảnh khắc xuân sang ấy. Con người
xuất hiện trong bài thơ thật an nhiên tự tại như đang hòa mình vào
khoảnh khắc của đất trời. Tất cả như hòa thành một trong giờ phút ấy,
tâm trí của con người đang hòa với vẻ đẹp của thiên nhiên để cảm
nhận hơi thở cuộc sống.
Buson thường sử dụng những hình ảnh bình dị như thế để miêu
tả những bức tranh xuân của mình. Không cần hoa mỹ, phô trương,
chỉ cần những điều nhỏ bé, đơn sơ nhưng thể hiện tầm vóc của cảm
xúc, những rung động tinh tế của tâm hồn được khám phá thông qua
cảnh vật:
Trong ngôi chùa cổ
Hoa đào nở
Người đàn ông đập lúa
Nhịp đập của mùa xuân được tác giả bắt nhịp thông qua hành
động của thiên nhiên và con người: hoa nở và người đập lúa. Có một
sự kết hợp hài hòa giữa ba hình ảnh: ngôi chùa cổ, hoa anh đào và
người đàn ông trong khung cảnh mùa xuân ấy. Nó được thể hiện ở
ba nấc thang của không gian: trên cao, lưng chừng và dưới thấp. Ở
mỗi nấc thang đều có một chủ thể riêng, nhưng tất cả lại được một
chủ thể lớn hơn bao bọc, đó là mùa xuân. Ta thấy được mùa xuân
trong thơ Buson chuyển mình từ tất cả những vận động của vũ trụ,
con người. Bài thơ sau cũng nói lên điều đó:
31
Akindo wo Con chó
Hoyuru inu ari Sủa người bán hàng rong
Momo no hana Hoa đào nở rộ
Con đường làng ngày nào với tiếng chó sủa thân quen hôm nay
bỗng dưng đẹp lạ thường. Người bán hàng rong phải dồn bước
nhanh hơn vì xuân đã về, họ phải cố bán nhanh để kịp sắm cho đàn
con những bộ quần áo mới. Ngỡ rằng sự “chênh nhịp” này sẽ làm
cho bài thơ khập khiễng nhưng chủ ý của tác giả là vậy. Mùa xuân
trong thơ của Buson là thế đấy.
Một khung cảnh mùa xuân khác cũng được nhà thơ Buson vẽ
ra :
Cành hoa đào đơn sơ
Buổi sáng mai đẹp trời
Trang điểm một hồ sâu
Dẫu bình dị nhưng mùa xuân trong bức tranh này cũng đầy uy
nghiêm, cổ kính và cũng rất gợi ý, gợi tình. Cái đẹp bắt nguồn từ sự
hòa quyện khéo léo của hoa đào, buổi sáng tinh sương và mặt hồ yên
tĩnh. Một khung cảnh thơ mộng hiện ra trước mắt với những cánh
hoa anh đào lả tả rơi xuống mặt hồ, điểm tô cho không gian yên bình
ấy đầy màu sắc. Mặt hồ trở thành một chiếc gương khổng lồ phản
chiếu toàn bộ cảnh vật, như vậy cái đẹp được nhân đôi. Bài thơ là
một sự phát triển thuần nhất về không gian và thời gian. Tất cả nằm
trong một chiều tiến lên theo sự thay đổi của tạo vật. Một cái đẹp
hoàn mỹ xuất phát từ một cành đào đơn sơ. Hơn nữa, cảnh vật cũng
nhận được sự ủng hộ của buổi sáng tinh sương và mặt hồ phẳng lặng
nên nghiễm nhiên tạo thành một không gian đẹp, một bức tranh toàn
bích.
Chỉ cần một cành đào nhỏ nhoi thôi cũng đủ mang khí xuân về
với mọi người. Hoa anh đào trở thành người đưa tin trong thơ haiku,
nó được nhiều nhà thơ haiku sử dụng để chuyển tải ý thức về mùa.
32
Ngoài ra, mùa xuân trong thơ haiku của Buson cũng là mùa của
tình yêu, hạnh phúc, mùa của những xúc cảm dịu vợi trong trái tim
con người. Mỗi khoảnh khắc của mùa xuân là mỗi khoảnh khắc của
thời gian thổn thức, của phút giây trái tim thi nhân loạn nhịp, của
những âm vang cuộc sống muôn màu trong khúc hát hoan ca:
Harusame ya Mưa xuân lất phất
Monogatari yuku Bên nhau đôi bóng
Mino to kasa Ô và áo tơi
Nhà thơ Buson khắc hoạ khung cảnh mùa xuân bằng hình ảnh
đầy thi vị của đôi tình nhân dìu nhau dưới cơn mưa xuân lãng mạn.
Cơn mưa là chiếc cầu nối, là chứng nhân cho tình yêu của hai tâm
hồn đồng điệu, là chất xúc tác để đưa hai người đến với nhau. Đó là
cái nhìn có tính nhân bản của nhà thơ. Con người hòa vào thiên
nhiên, thiên nhiên ôm lấy con người trong khúc ca hòa điệu của tình
yêu lãng mạn.
Buson vẫn thường đưa những cảm xúc lãng mạn vào thơ như
vậy. Bằng những nét chấm phá độc đáo, ông như đang vẽ nên những
bức tranh bằng thơ và giúp nó hiện rõ trước mắt người đọc. Buson
muốn dùng tiếng đời thường để xa rời cõi thường bằng phương pháp
mà ông gọi là “ly tục pháp”, nhưng nó không hề xa rời thực tại mà
luôn gắn với chủ thể cuộc sống, gắn với những con người trần thế,
xin trích một bài thơ trong tập “Vó ngựa gió xuân” như sau:
Haru kaze ya Gió mùa xuân
Tsutsumi nagou shite Con đê dài
Ie toi shi Nhà còn xa xăm
Mùa xuân là mùa để những người xa quê hương có dịp nhớ lại
và là thời khắc thích hợp để họ trở về thăm quê. Những người con
khi xa quê ai cũng đau đáu trong lòng những nỗi hoài niệm, nhớ
thương về nơi “chôn nhau cắt rốn”, đặc biệt lúc nhìn thấy hoa anh
đào rơi trong gió báo hiệu mùa xuân đã về thì nỗi niếm ấy lại dâng
lên dằn vặt. Hiểu được nỗi lòng đó, khi nhìn thấy dáng dấp của một
33
người phụ nữ đang đi trên con đê Nagara dài thượt để về quê, Buson
liền đặt bút viết hộ cho người phụ nữ này đôi dòng tâm sự.
Ở một bài thơ khác, Buson cũng viết về những con người trần
thế, viết về mối quan hệ hài hòa hai chiều giữa con người và thiên
nhiên:
Ume saite Hoa mơ tưng bừng
Obi kafu muro no Bên lầu, du nữ
Yuujo kana Mua sắm đai lưng
Mùa xuân đến khiến lòng người phơi phới, nôn nao chờ đợi.
Con người cũng hòa theo mùa xuân, hoa mơ nở cũng chính là lúc các
du nữ sắm sửa, trang điểm cho mình. Đây là khoảnh khắc mà đất trời
và lòng người đều thay đổi.
Hai đối tượng thẩm mỹ là “hoa” và “du nữ” đều nằm trong cùng
một trường biểu hiện cái đẹp. Do đó, nếu xét về mặt hình tượng của
bài thơ thì hai hình ảnh trên đồng cấp độ. Đó là mối quan hệ hài hòa
giữa cái đẹp tinh thần kết hợp với cái đẹp về thể chất. Chính những
mối quan hệ hai chiều hài hòa như vậy đã làm cho thơ haiku của
Buson có một sức sống mãnh liệt.
Cái thần của mùa xuân được Buson nắm bắt trong tất cả những
biến chuyển của đời sống. Từ cánh hoa đào đơn sơ đến hình ảnh
người nông dân đạp lúa, từ ngôi chùa cổ kính đến du nữ, từ con chim
trĩ cho đến đỉnh núi...Tất cả đều được Buson ưu ái, khoác cho tấm áo
thi ca để bước vào thơ ông làm nên những khúc nhạc xuân bất tử:
Yama dori no Chim trĩ
O wo fumu haru no Trải đuôi
iri hi kana Xuân chiều tà
Hay
Zeni katte Đỉnh Yoshino
Hairu ya Yoshino no Nuốt vào mây trắng
Yamazakura Thở ra hoa đào
Có lúc khoảnh khắc hoa rơi cũng làm nên điều tuyệt diệu:
34
Trong giông bão
Áo rơm người chèo chống
Hoá áo anh đào
Những vần thơ haiku về mùa xuân của Yosa Buson đã thể hiện
một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Sự tài
hoa kết hợp với những rung động huyền dịu trong tận sâu tâm hồn đã
giúp Buson vẽ nên nhưng bức tranh xuân nhiều màu sắc và cuốn hút
bằng thơ haiku. Đó là những bức tranh lột tả chân thật, hiện hữu
trong cuộc sống đời thường nhưng cũng không kém phần thi vị, lãng
mạn. Ai đã từng náo nức chờ xuân, đã từng vui vẻ với những phút
giây xuân thì chắc hẳn cũng từng tiếc nuối khi mùa xuân dần trôi qua.
“Ông hoàng thơ Tình” Xuân Diệu đã từng giật mình thốt lên ngậm
ngùi rằng:
Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng)
Ở hai đất nước cách xa vạn dặm nhưng cả Buson và Xuân Diệu
cùng có chung nỗi niềm, một nỗi niềm luyến tiếc không muốn xuân
qua, nhưng đó vốn dĩ là quy luật của tự nhiên nên đành phải hòa theo
vòng chu chuyển của đất trời. Buson viết:
Kari ittei Đàn nhạn đi rồi
Kadota mo tooku Cánh đồng trước cửa
Omoharuru Dường như xa xôi
Cánh nhạn mang mùa xuân về cùng với mọi người thì chính
cánh nhạn cũng là dấu hiệu báo cho nhân sinh biết rằng: “xuân đã
qua rồi”. Sự vắng bóng của chúng trước cánh đồng khiến cho cảnh
vật trở nên lẻ loi, yên ắng lạ thường.
Buson không cần miêu tả nhiều, bằng cách đưa ra hai hình ảnh
thân thuộc mà ông đã khơi gợi trong lòng độc giả sự ngậm ngùi, tiếc
nuối trong những ngày tàn xuân. Như đưa tiễn mùa xuân, trời cũng
35
đổ mưa, khiến cho cõi lòng con người càng thêm nặng trĩu. Buson
lắm lúc cũng thừa nhận rằng:
Mưa xuân thật tuyệt
Thế mà buồn, rất buồn
Không đủ lời để nói
Xuân đến, xuân đi, xuân để rơi trên đường đi của mình những
nỗi khắc khoải, luyến lưu của nhân thế. Dẫu có giữ được những cánh
nhạn nhưng xuân vẫn cứ vô tình qua đi, dòng đời vẫn cứ trôi chảy,
bởi vì đó là quy luật vĩnh hằng của vũ trụ. Nhưng giá trị thật sự mà
mùa xuân muốn nhắn gửi đến nhân sinh là hãy trân quý những tháng
ngày được sống, nhận ra thế gian này là vô thường và hãy để cho cõi
lòng tự do rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống.
Yosa Buson nhìn mùa xuân ở nhiều góc độ, khía cạnh khác
nhau. Dù đứng ở điểm nào thì ông cũng chọn cho mình những bố
cục, gam màu rất phù hợp cho từng bức tranh xuân. Ở từng khung
cảnh, mùa xuân hiện ra bằng nhiều tín hiệu:
Bước qua vũng nông
Bàn chân cô gái
Vẩn bùn lên nước xuân trong
Hẳn đã có sự trách móc nhẹ nhàng của Buson đối với cô gái.
Nàng đã cố ý hay không cẩn thận làm vẩn đục làn nước mùa xuân
của tác giả. Đừng trách hờn cô gái, chính mưa mùa xuân đã rải
những hạt nước khắp nơi và cô gái vô tình chạm trúng đấy chứ.
Nếu Buson là một đạo diễn, thì trong trường hợp này ông đã
hướng ống quay về một khung cảnh tầm thường để xây dựng hình
tượng về cái đẹp. Những cảnh quay tưởng chừng như đã nhoè màu vì
bước chân vấy bẩn nước của cô gái, “đạo diễn” tưởng chừng như đã
thất vọng vì điều đó. Nhưng thật ra, bức tranh xuân vẫn giữ nguyên
giá trị. Hành động nghịch chiều thẩm mỹ của cô gái không hẳn phá
vỡ đi cái đẹp của bức tranh, duy chỉ có điều, nhà thơ đã phát hiện ra
36
nó từ chiều đối lập với cái đẹp mà thôi. Đôi khi, Buson cảm thấy xót
xa cho những cái đẹp kiểu như vậy:
Hi kururu ni Hoàng hôn
Kiji utsu haru no Tiếng bắn chim trĩ vang dội
Yamabe kana Trên triền núi xuân
Âm điệu của bài thơ bàng bạc chất cay nghiệt vì cái đẹp của bài
thơ được xây dựng từ sự hủy diệt. Hoàng hôn đang phủ xuống triền
núi xuân là một khung cảnh tuyệt đẹp, an bình rồi, cớ sao nhà thơ lại
thêm vào những âm thanh từ các cuộc săn bắn như vậy. Âm thanh ấy
như xé nát cả bầu trời đang thơ mộng thành nhiều mảnh, độc giả cảm
thấy chính trái tim của nhà thơ cũng bị vỡ tan tành trước khung cảnh
như thế. Con người đang tạo lập cái đẹp hay tàn phá nó? Nhà thơ
cũng đượm buồn về bản chất của cuộc sống. Sinh tồn và hoại diệt cứ
diễn ra từng phút từng giây trên cõi đời này. Đó chính là một cái
nhìn có tính triết học cũng như đẫm chất nhân văn của Yosa Buson.
Thơ haiku về mùa xuân của Buson không chỉ là những khoảnh
khắc bừng sáng của thiên nhiên mà ẩn hiện trong đó là sự rung cảm
tinh tế và huyền diệu trong tâm hồn nhà thơ. Con người chính là chủ
thể trong những bài thơ mùa xuân của Buson. Đó là những đối tượng
thẩm mỹ hết sức nhân bản, cái đẹp thể hiện trong sự hòa phối nhịp
nhàng giữa con người và thiên nhiên.
Yosa Buson đã đem đến cho haiku những gam màu mới, lãng
mạn, quyến rũ và đầy tính nhân bản. Ông như người nghệ sĩ cất lên
những khúc hoan ca về mùa xuân. Ông đã đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ của một người hậu thế trong vai trò tiếp bước người khai
sinh vĩ đại Matsu Basho. Nếu như R.H.Blyth đã khẳng định rằng:
“Nước Nhật sinh ra cùng thời với Basho vào năm 1644. Ông chính
là người sáng tạo ra linh hồn Nhật Bản” thì chúng ta cũng có thể nói
rằng: “ Linh hồn Nhật Bản đã được thăng hoa cùng những vần thơ
của Yosa Buson”.
37
CHƯƠNG 4: THƠ HAIKU CỦA NHÀ THƠ KOBAYASHI ISSA
1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Kobayashi Issa
1.1. Cuộc đời
Kobayashi Issa (小林一茶, 1763 – 1827) là thơ và nhà sư Nhật
Bản. Ông là một trong bốn bậc thầy thơ haiku, cùng với Basho,
Buson và Shiki. Số sách vở viết về ông nhiều hơn cả Buson, Shiki và
tương đương với Basho.
Kobayashi Issa sinh ra trong một gia đình trung nông tại làng
Kashiwabara ở địa hạt Shinano (nay là tỉnh Nagano), lúc mới sinh
ông có tên là Kobayashi Nobuyuki. Bố Issa tuy là một nông dân
nhưng ông có thể trang trải mọi chi phí trong gia đình và mua đất đai.
Nếu xét về địa vị kinh tế, gia đình của Issa gần với giới trung lưu
hơn là nông dân. Vật chất chắc hẳn không phải là một bước cản khó
khăn của tuổi thơ Issa nhưng những giá trị về tinh thần, tình yêu
thương của bố mẹ mới chính là nỗi ám ảnh đau đáu trong suốt quãng
đời của ông. Cuộc đời Issa gặp nhiều trắc trở, cứ như là chúng được
sắp đặt sẵn để đợi Issa vướng vào.
Năm 3 tuổi, người Mẹ yêu thương Issa nhất qua đời. Đây là nỗi
đau khổ đầu tiên trong chuỗi đau khổ mà ông phải chịu đựng sau này.
Khi tình mẫu tử thiêng liêng bị số phận tước đoạt, Issa như đứa trẻ
lạc loài khỏi vòng tay Mẹ. Ông được chăm sóc bởi tình yêu thương
của bà nội. Lúc này, Issa được theo học thầy giáo làng – một người
rất yêu thơ ca và ông cũng học sáng tác thơ haiku từ rất sớm.
Năm năm kể từ khi mẹ mất, bố cưới một người vợ khác tên là
Satsu và người vợ này đã sớm hạ sinh một cậu con trai. Từ đó, Issa
phải sống dưới bóng của người mẹ kế, tưởng đâu người mẹ này sẽ
cưu mang, chăm sóc cho Issa nhưng ngược lại, bà ta đối xử với ông
rất tàn nhẫn, cay nghiệt. Tuy vậy, bố của Issa tỏ ra bất lực trước tình
cảnh này, cứ thế sóng gió dần nổi lên.
Khi Issa lên 14 tuổi, người yêu thương ông nhất lúa này là bà
nội cũng bỏ ông mà đi. Bà mất. Trái tim của Issa một lần nữa bị nỗi
38
đau giày xéo, một đứa trẻ mới 14 tuổi mà đã hai lần bị nỗi đau xé nát
trái tim, cuộc đời này thật tàn nhẫn với ông. Issa đã hoàn toàn bị bỏ
rơi, ông cảm thấy lạc lõng trong gia đình với mẹ kế và người anh em
cùng cha khác mẹ. Do vậy, ông rất đỗi cô đơn, trầm cảm và thích
lang thang một mình ngoài đồng.
Năm 15 tuổi, Issa được bố gửi lên Edo để tự kiếm sống. Cũng
giống như Basho, Issa rời bỏ quá khứ đau buồn tìm đến một chân
trời mới. Nếu ở Basho cái chết của người bạn thâm giao Todo
Yoshitada là nguyên nhân của việc rời bỏ quê hương thì ở Issa đó là
cái chết của người bà yêu quý. Con người trong cuộc sống sẽ trưởng
thành từ những lần ra đi như vậy. Tại Edo, Issa gia nhập đoàn lao
động nhập cư từ các tỉnh lân cận đổ về và ông làm đủ mọi ngành
nghề để kiếm sống. Người ta không biết rõ về quãng đời của Issa 10
năm đầu tại Edo như thế nào, chỉ biết ông kết thân với một người tên
là Kobayashi Chikua thuộc trường phái haiku Nirokuan. Ông và
Chikua thường cùng nhau nghiên cứu thơ ca và sáng tác, xem nhau
như đôi bạn tâm giao.
Từ năm 1787, ông lấy bút hiệu là Issa (Nhất Trà) để sáng tác
thơ ca trên tinh thần phục hưng phong cách tao nhã của Basho. Một
người bị tổn thương về mặt tâm hồn, một người con bị vứt bỏ đã tìm
đến thơ ca, hoặc có lẽ thơ ca đã tìm đến ông. Issa quyết định trao gửi
cuộc đời mình vào con đường này – con đường thơ haiku.
Năm 1790, Chikua qua đời, Issa trở thành một thi tăng và ông
cũng nối gót các tiền nhân, hòa mình vào con đường của các lữ nhân,
du hành trên khắp mọi nẻo đường để sáng tác. Ông đã mô tả mình
trong giai đoạn này: “Phiêu bạt về phía Tây, lang thang về phía
Đông, như kẻ ngẩn ngơ không bao giờ tồn tại ở một nơi. Ăn sáng ở
Kazusa và vào buổi tối nương náo tại Musashi”. Issa cũng đi thăm
viếng nhiều nhà thơ, nhất là những bạn thơ vùng Kansai (Kyoto –
Osaka). Ông bắt đầu in thơ từ năm 1794.
39
Năm 1801, Issa về quê thăm bố bị bệnh đang hấp hối. Sau khi
bố mất, Issa là người thừa kế tài sản chính thức theo di chúc, nhưng
người mẹ kế đã thông đồng với bọn cường quyền tước đoạt lấy tài
sản, đẩy Issa dấn thân vào con đường tha hương thêm mười ba năm
nữa. Nhưng khoảng mười ba năm đó là mười ba năm đỉnh cao của
Issa, ông trở thành một nhà thơ lỗi lạc và khẳng định được phong
cách và tài năng của mình.
Năm 1815, nhờ sự giúp đỡ của một nhà sư, Issa lấy lại được
chút tài sản, tranh chấp và thừa kế đã kéo dài 11 năm sau khi bố mất.
Issa quyết định rời Edo về quê cũ sinh sống. Issa lúc này đã hơn năm
mươi tuổi, ông nghĩ đến việc lập gia đình và ông kết hôn với một cô
gái trong làng tên là Kiku. Sau thời gian ngắn hạnh phúc, bi kịch bắt
đầu xảy ra. Trong cái khoảnh khắc đáng lý ra người ta phải được
nghĩ ngơi, tĩnh dưỡng thì Issa lại lao đao với hạnh phúc của mình.
Từ 54 dến 60 tuổi, Issa đã mất bốn đứa con và cuối cùng là vợ, Kiku.
Các con của ông sinh ra và chết trong tuổi ấu thơ.
Năm 1816: Sentaro, con trai đầu lòng chết sau khi sinh.
Năm 1819: Sato, con gái đầu lòng chết lúc 13 tháng tuổi do
bệnh đậu mùa.
Năm 1821: Ishitaro, con trai thứ hai chết lúc 3 tháng tuổi do bị
ngạt khi được địu trên lưng mẹ.
Năm 1823, Issa lại nhận tiếp hai cú đánh chí mạng của định
mệnh: người vợ mà ông thương yêu hết lòng đã vĩnh viễn ra đi, và
sau đó bảy tháng là sự ra đi của Konzaburo – đứa con trai cuối cùng
của ông.
Mong có một đứa con nối dõi, một năm sau đó Issa đã cưới
Yuki, 38 tuổi, con gái của một Samurai, để rồi đau đớn li dị chỉ 3
tháng sau khi cưới. Hai năm sau, ông lấy người vợ thứ ba, Yao. Lần
này cuộc đời cũng không cho ông hưởng hạnh phúc.
Năm 1827, một trận hỏa hoạn lớn đã thiêu rụi ngôi nhà của Issa.
Mùa đông năm đó vào ngày 18 tháng 11 năm 1827, Issa qua đời
40
trong nhà kho tạm bợ và lạnh lẽo, kết thúc cuộc hành trình của một
tâm hồn đã nhiều lần thương đau.
Và trong khoảng thời gian này, đứa con cuối cùng của ông vừa
ra đời từ người vợ thứ ba.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
So với bậc tiền bối haiku, Issa không mực thước như Basho,
không cách tân ấn tượng như Buson. Ở Issa, độc giả bắt gặp những
khúc ca bi ai về tình yêu thương đồng loại, từ những trái tim trầy
xước, rớm máu đến khoảnh khắc bừng sáng của tình cảm con người.
Ông đã để lại khoảng 20000 bài thơ, được độc giả xưa lẫn nay mến
mộ. Các tác phẩm nổi tiếng của ông như:
Nhật ký mất cha (Chichi No Shuen Nikki, 1801)
Thơ viết vào năm Kyowa (Kyowa Kujo, 1803)
Thơ viết vào năm Bunka (Bunka Kujo, 1804)
Nhật ký số bảy (Shichiban Nikki, 1810–1818)
Mùa xuân của tôi (Ora Ga Haru, 1819)
Nhật ký số tám (Hachiban Nikki, 1819–1821)
Sổ tay ghi chép vào năm Bunsei (Bunsei Kucho, 1822–1825)
2. Phong cách thơ haiku của Kobayashi Issa
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã viết trong quyển Thơ Ca Nhật
Bản như sau:
“Issa sinh ra dường như để nếm trải mọi điều bất hạnh trần ai.
Như để hát cho nhân thế và hát cho muôn loài những khúc ca bi
thiết nhất.
Cũng là những khúc ca đẹp nhất, phát tiết từ một trái tim trần.
Một trái tim không che giấu sau những mây mù ảo vọng.
Những bi ca ấy có thi tính là Tình yêu, có thi tính là Phật tính.”
2.1. Con người của nỗi đau và bất hạnh
Issa – một cái tên thật giản dị, âm Hán Việt là: Nhất Trà, nó có
nghĩa là một tách trà, một ngụm trà. Ngay từ cái tên, nhà thơ đã dự
báo cho độc giả một số phận cô đơn rồi. Đúng như vậy, cuộc đời Issa
41
là chuỗi ngày đau khổ gắn liền với những nỗi tang thương của sự
mất mát. Những người ông yêu thương đều lần lượt rời khỏi ông, họ
đến và đi tựa như sương mờ, ảo ảnh. Chỉ có những vết hằn sâu trong
trái tim rớm máu là tồn tại mãi mãi.
Mùa xuân là mùa trăm hoa đua nở, là mùa của những khúc ca
đón chào năm mới, nhưng với Issa, mùa xuân vẫn man mác nỗi
buồn:
Ku no shaba ya Ta bà một nỗi đau
Sakura ga sakeba Cho dù mùa xuân đó
Saita tote Đang nở những anh đào
Thơ của Issa là bài ca não lòng về định mệnh, định mệnh của
riêng ông và định mệnh của nhân gian. Dẫu mùa xuân đang được
điểm tô bằng sắc hồng của hoa anh đào nhưng tất cả chỉ là bề ngoài,
chỉ là ảo ảnh của thế gian. Nhà thơ không nhận thấy vẻ đẹp của thiên
nhiên mà chuyển điểm nhìn vào cõi ta bà. Cõi ta bà theo Phật giáo là
một cõi không có thật, nhân loại sống trong cõi này đều giả tạm, vô
thường và thường bị trầm luân trong bể khổ. Tại sao Issa lại suy nghĩ
như vậy, phải chăng chính những khổ đau trần ai đã khiến cho nhà
thơ hoài nghi về kiếp sống? Trong cõi trần có nỗi khổ và có hoa đào,
hoa đào tượng trưng cho cái đẹp, niềm hạnh phúc. Nhà thơ nhận ra
rằng nỗi đau và hạnh phúc thường đi song hành, cả hai hòa vào nhau
tạo nên những cung bậc cảm xúc của con người chốn trần ai. Khi
nghe chim nhạn kêu, Issa buông bút:
Naku na kari Kêu chi nhạn ơi
Dokko mo onaji Đi đâu thì cũng
Ukiyo zo ya Cõi phù thế thôi
Lần này Issa rơi vào trạng thái mơ hồ của kiếp sống. Những vần
thơ rõ ràng là chấp nhận cuộc sống, thiếu đi sức cạnh tranh để tồn tại.
Issa là con người yếu đuối thế sao? Thật ra, khi Issa viết những vần
thơ như thế này chỉ là khoảnh khắc nhất thời. Về cơ bản, thơ của Issa
vẫn là những vần thơ cổ vũ cho niềm ham sống, tinh thần lạc quan.
42
Quay lại cuộc đời đau khổ của Issa, ông bị nỗi đau hành hạ từ
rất sớm. Lúc vừa lên ba, ông đã vắng bóng tình yêu thương của mẹ,
bị nỗi cay nghiệt của bà mẹ kế đay nghiến. Ông tha hương hơn hai
mươi năm, dịp về thăm quê cũng chính là lúc sắp từ giã bố. Thế
nhưng, khi về quê hương, ông luôn cảm thấy bị thù ghét, không lúc
nào có thể yên lòng:
Korega ma-a Tuyết mười bộ cao
Tsui no sumika ka Nơi cuối cùng tôi sống
Yuki goshaku Trong cuộc đời hay sao
Trong một chuyến về quê dàn xếp công việc thừa kế, Issa cảm
thấy hình như tất cả gai nhọn được cố tình dựng lên trên đường đi
của mình:
Furusato ya Về làng cũ
Yoru mo sawaru mo Những bụi hoa xưa
Bara no hana Chìa gai ra đón
Ở một góc độ nào đó, Issa đã trở thành con người lạc lõng, bị
ruồng bỏ ngay chính tại quê hương của mình, đó là một bi kịch xót
xa của số phận. Nơi cố hương giờ trở thành mảnh đất khó sống với
vô vàn gai góc, bà mẹ kế luôn tìm đủ mọi cách để đẩy Issa ra khỏi
nơi này. Thế nhưng, công lý cuối cùng cũng trao trả về người lương
thiện, Issa giành lại được một phần tài sản của mình. Ông quyết định
rời Edo trở về cố hương.
Sau bao thử thách, Issa cuối cùng cũng xây dựng cho mình mái
ấm tại quê hương. Tưởng rằng những đau khổ sẽ được nguôi ngoai
trong tháng ngày sum vầy hạnh phúc bên gia đình. Nhưng khốn khổ
thay! Gia đình chính là nơi sinh ra những bất hạnh làm tan nát trái
tim ông. Mở đầu cho bi kịch là liên tiếp những cái chết của con. Sau
đó, người vợ mà ông yêu thương nhất cũng ra đi, kéo theo nỗi thống
khổ bao trùm lấy Issa, đè bẹp ông xuống tận cùng bất hạnh:
43
Naku-na mushi Côn trùng ơi, đừng kêu
Wakaruru koi wa Trên trời cao ấy
Hoshi ni sae Chia lìa đôi lứa yêu
Niềm đau của Issa vút lên tận trời cao đầy oán thán, hàm chứa
nỗi khổ tột cùng. Ông van nài côn trùng đừng kêu hay là ông đang
van nài tâm hồn mình đừng lên tiếng? Sự chia lìa là minh chứng cho
sự hiện hữu của cõi ta bà trong trần thế. Có đó mà không đó, thực đó
mà ảo đó.
Sau khi vợ mất, mỗi lần nhìn đứa con thơ tập bò, tập cười, đang
đuổi bướm, đang chơi đùa,…Issa đau đớn nhìn thấy đâu đâu trong
căn nhà, hình ảnh của vợ mình cũng hiện về:
Osanago ya Không còn mẹ
Warau ni tsukete Một mình em bé tập cười
Aki no kure Đêm mùa thu rơi
Hay
Akikaze ya Gió mùa thu
Mushiritagarishi Làm sao em bé hái
Akai hana Hoa tím bây giờ
Và
Niwa no chou Trong vườn cánh bướm
Koga haeba tobi Đứa bé bò theo, bướm bay
Haeba tobu Đứa bé bò theo, bướm bay
Các nhân vật “em bé” thường xuất hiện cô độc như vậy trong
thơ Issa. Những tín hiệu cô đơn luôn khởi phát từ những mất mát.
Các em bé trong bài thơ đều mồ côi mẹ. Tín hiệu “không còn mẹ”
đôi khi quá tàn nhẫn, nó trở thành nỗi ám ảnh đeo bám suốt cuộc đời
của Issa.
Issa – Con người của khổ đau đến thời khắc bước sang thế giới
bên kia cũng còn đau khổ, ông nằm trong nhà kho tạm bợ, le lói một
vài tia sáng giữa lúc tuyết rơi lạnh giá:
44
Arigata ya Muôn phần tri ân
Fusuma-no yuki mo Chăn giường tôi tuyết trắng
Jodo kara Từ Tịnh Độ rơi sang
Đấy là bài thơ cuối cùng của Issa, nó được tìm thấy dưới chiếc
gối nơi ông nằm chết. Hỡi những bất hạnh, đau khổ trong cuộc sống!
Từ nay, các ngươi sẽ không còn được bám theo Issa nữa rồi, Issa từ
đây sẽ được vào thế giới của Niết Bàn, nơi đó không còn dung chứa
những nỗi đau, bất hạnh. Nơi đó, Issa sẽ dùng ánh sáng của mình rải
khắp tình yêu lên muôn loài, vạn vật.
2.2. Tình yêu thương dịu dàng đối với loài vật nhỏ bé
Issa vốn là tín đồ của Tịnh Độ Chân tông. Tình yêu vô hạn của
Đức A Di Đà đối với chúng sinh trong cõi ta bà đã ảnh hưởng sâu
sắc đến ông. Issa mang một trái tim tràn đầy yêu thương, yêu thương
không chỉ con người với con người mà ông còn yêu cả cỏ cây, muôn
thú. Đọc thơ Issa, độc giả Việt Nam nhớ đến nhà thơ Bùi Giáng:
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ơi cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa thơm cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn
(Phụng Hiến)
Chính những bất hạnh trong cuộc sống đã tạo nên một đóa sen
thi ca, tạo nên “Một tách trà” mà mùi vị và sắc hương ôm ấp, dưỡng
nuôi cõi lòng nhân thế với biết bao tình yêu thương.
Ông viết nhiều bài thơ lấy cảm hứng sáng tác từ những con vật
nhỏ bé, ít ai để ý đến. Nhờ Issa, những loài vật này được đi vào thơ
ca, tạo nên một bức tranh thơ đầy màu sắc cùng muôn loài. Cụ thể,
Issa viết 54 bài thơ về ốc, 15 bài về cóc, gần 200 bài về ếch, khoảng
230 bài về đom đóm, hơn 150 bài về muỗi, trên 90 bài về ruồi, hơn
100 bài về bọ chét, trên 90 bài về ve sầu và hàng trăm bài thơ về loài
vật khác. Nâng tổng số thơ viết về loài vật nhỏ bé lên gần một ngàn
bài.
45
Đầu tiên, hình ảnh chú ốc xuất hiện cùng ngọn Phú Sĩ xinh đẹp
được gợi ra qua bài thơ:
Katatsumuri Ốc sên
Sorosoro nobore Chầm chậm bò
Fuji no yama Núi Phú sĩ
Hình ảnh con ốc nhỏ trên đường bò lên đỉnh núi Phú sĩ được
nhà thơ Issa ghi lại, chắc có lẽ con ốc sẽ không bao giờ sống lâu đủ
để lên đến đỉnh núi. Nhưng nó đã chạm đến trái tim của một thiền sư
Issa để nhà thơ viết nên một bài haiku tuyệt vời. Và giờ đây, năng
lượng tích cực từ bài thơ ấy đã truyền đến hàng triệu người trên thế
giới. Còn nhiều bài về ốc cũng rất hay, sau đây là một số bài tiêu
biểu:
Cảnh tượng một bầy ốc sắp bị nấu cũng làm rung động trái tim
nhà thơ:
Yuuzuki ya Trăng soi
Nabe no naka nite Một bầy ốc nhỏ
Naku tanishi Khóc than đáy nồi
Nhà giàu đóng cổng bằng then khóa chắc chắn, còn cổng nhà
thi sĩ đã được con ốc nhỏ nhắn "khóa" hộ:
Shiba no to ya Trên cổng bụi cây
Jou no kawari no Nằm thay cho ổ khóa
Katatsumuri Con ốc nhỏ này
Nhà thơ Issa rất yêu quê hương và cũng rất tin tưởng vào Đức
Phật. Đối với Issa, Đức Phật hiện hữu khắp nơi, ngay cả trong từng
con ốc nhỏ:
Furusato ya Quê tôi
Hotoke no kao no Gương mặt của Đức Phật
Katatsumuri Trên những con ốc
Bên cạnh những bài thơ về ốc, Issa còn có những bài thơ viết về
những loài vật khác như:
Ruồi
46
Khi rời quê hương lên Edo, Issa nói chuyện với ruồi trên nón
của mình:
Kasa no hae Ruồi trên nón ta ơi
Mo kyo kara wa Hôm nay vào thành phố
Edo mono zo Thành dân Edo rồi
Issa còn nhìn thấy ruồi cũng mang dòng triết lý của Phật giáo về
vạn vật bình đẳng:
Hito areba Nơi đâu có người
Hae ari hotoke Nơi đó có ruồi
Ari nikeri Và có Phật
Ếch
Issa rất trìu mến những sinh vật nho nhỏ của mùa xuân, khi thấy
chú ếch mảnh mai, Issa an ủi:
Yase gaeru Chú ếch èo uột
Makeru na issa Đừng bỏ cuộc nhé
Kore ni ari Issa an ủi chú đây
Trong một khung cảnh yên bình nên thơ, hiện lên hình ảnh của
chú ếch với tư thế ung dung, tự tại nhìn đất trời:
Yugen to shite Tự tại an nhiên
Yama wo miru Chú ếch ngồi nhìn
Kawazu kana Núi đồi thanh vắng
Sau khi cơn mưa qua đi, tiếng các chú ếch vang lên, nhà thơ
Issa có cái nhìn thật thú vị về chúng:
Đấy, chúng đang cãi nhau
Những chú ếch kêu
ộp oạp
Muỗi
Là một thiền sư nên Issa rất hay ngồi tĩnh tâm, giữa lúc ấy,
những âm thanh nhỏ nhất của cuộc sống xung quanh cũng được
khoếch đại:
47
Tada hitotsu Như cơn gió nhẹ
Mimi sai ni ka no hane Sát tai tôi
Kaze kana Một con muỗi bay
Đến lúc nhà thơ đi ngủ hay tinh mơ thức dậy, người bạn bên
cạnh là những chú muỗi vo ve:
Ka hitotsu no Con muỗi
Ichinichi sahagu Suốt ngày quẩn quanh
Makura kana Bên gối tôi
Và đối với nhà thơ, âm thanh của những chú muỗi kêu râm ran
trong màn đêm cũng là điệu diệu kì:
Yuuzora ya Bầu trời đêm
Ka ga nakidashite Tiếng muỗi kêu râm ran
Utsukushiki Thật tuyệt
Ve sầu
Nhà thơ tả cảnh ngôi nhà vào buổi sáng rất yên tĩnh đến mức có
thể nghe rõ từng giai điệu của ve sầu:
Semi naku ya Ve sầu rên rĩ
Yanagi aruie no Ngôi nhà chìm trong khóm liễu
Asa no tsuki Trăng buổi sáng
Một chú ve xấu số đã vướng vào bẫy của mạng nhện. Trong lúc
sinh tử, chú ve trong mắt nhà thơ vẫn đẹp lạ lùng:
Kumo no su ni Vướng vào mạng nhện
Tsuki sashikonde Lấp lánh dưới trăng
Yoru no semi Con ve
Một khung cảnh thơ mộng được Issa bắt gặp, có trăng, mưa, ve
sầu. Thật đẹp:
Ooame ya Mưa lớn
Oonatsuki ya Trăng lớn
Matsu no semi Ve sầu trên cây thông
Đọc thơ của Issa khó lòng không yêu ông. Chẳng những người
Nhật Bản mà tất cả những người yêu thơ haiku trên toàn thế giới đều
48
yêu ông. Trong thơ Issa, ta như tìm thấy sự đồng cảm, ẩn sau từng
câu chữ là những nhịp đập đầy tình người của trái tim nhà thơ. Cuộc
sống này đổ ập nhiều cơn bão tố đến cuộc đời Issa nhưng không vì
thế mà ông cay cú, hận thù mà ngược lại ông dùng tình yêu của mình
để tưới lên khắp thế gian này. Từ những vật vô trí vố giác như sỏi đá,
cây cối đến những sinh vật nhỏ bé không ai chú ý. Tất cả đều thành
chất thơ để cùng tồn tại mãi với thời gian.
3.3. Mẹ – nguồn thi ca vô tận
"MẸ"! là kiệt tác của vũ trụ, là bông hoa đẹp nhất của tạo hóa, là
tiếng cười lan tỏa khắp nhân gian, là nốt nhạc trầm bỗng, là những
cung thanh, cung điệu của bản đàn giữa cuộc đời này.
"MẸ"! là ánh sáng của ngọn đèn thắp bằng máu con tim.
"MẸ"! Có nghĩa là duy nhất! Một bầu trời! Một mặt đất! Một
vầng trăng! Một mẹ!
"MẸ"! Có nghĩa là mãi mãi! Là - Cho - Đi - Không - Đòi - Lại
Bao Giờ ...!
“MẸ”! là một mỹ từ đẹp nhất trên đời.
Cuộc đời Issa là cuộn phim buồn, là chuỗi dài những bất hạnh
nối tiếp nhau. Ông đã bị số phận tước đi vòng tay Mẹ từ lúc lên ba,
ánh mắt của đứa trẻ thơ lúc ấy như tối sầm đi bởi thiếu ánh sáng của
tình mẫu tử. Trong cõi đời này, có thung lũng sâu ắt có núi cao, có
những đêm trường u tối mới có những bình minh rực rỡ. Giữa đêm
mù tăm tối ấy, ánh sánh của thơ ca đã chiếu sáng miền tuổi thơ của
ông. Những vần thơ về Mẹ mà Issa sáng tác trở nên bất tử.
Năm Issa lên chín, làng tổ chức lễ hội, trẻ con trong xóm nô đùa
với bạn bè và được bố mẹ sắm sửa cho những bộ quần áo mới. Issa
nhìn thấy đám trẻ được cưng chiều, yêu thương bỗng dưng ông thấy
chạnh lòng, muốn bật khóc. Với bộ quần áo tồi tàn, Issa ngồi một
mình, ông chợt nhìn thấy con chim sẻ lạc bầy. Như gặp người đồng
cảnh ngộ, ông viết:
49
Ore to kite Đến đây nào, với tôi
Asobe yo oya no Cùng chơi đùa, chim sẻ
Nai suzume Không còn mẹ trên đời
Dù chim sẻ không hiểu được Issa đang nói gì nhưng có thể
đồng cảm được với ông, bởi vì cả hai đều cùng chung một tình cảnh
“không còn Mẹ trên đời”. Câu cuối của bài thơ như một lời trách
móc nhưng chứa đựng trong đó một sự tủi thân của trẻ thơ mà bất cứ
ai cũng có quyền như vậy.
Có lẽ vì mất Mẹ từ sớm nên Issa rất nhạy cảm với những cảnh
tượng mất mát trong tự nhiên, vì ông hiểu được nỗi đau đó hơn ai hết.
Khi nhìn thấy chim mẹ bị thợ săn cướp đoạt sự sống, ông thấy đó
như là hình ảnh của mình hiện về. Nén nỗi đau, Issa nghẹn ngào:
Người mẹ và bầy con
Xa nhau...
Những con chim bị bắn
Mất Mẹ là mất đi một phần quan trọng tạo thành sự sống. Cuộc
đời Issa trở nên lang thang, phiêu bạt khắp nơi trên nước Nhật và
kiếm sống đủ mọi nghề. Những lúc cõi lòng cô đơn thì vẻ đẹp trên
đời dường như vô nghĩa đối với Issa, thậm chí còn như địa ngục ám
ảnh suốt cuộc hành trình :
Aki no kaze Gió mùa thu
Ware wa mairu wa Địa ngục nào đấy
Dono jigoku Cùng tôi giang hồ
Mất đi bàn tay Mẹ chở che, đường đời mà Issa đi qua đầy chông
gai, mờ mịt, hệt như bị những áng mây mù che phủ. Trong thơ ca
Việt Nam, Mẹ như một nhịp cầu vững chắc đưa con qua nơi tối tăm:
Mẹ yêu bắc một nhịp cầu
Đưa con vượt khỏi nỗi sầu thế gian
Issa cũng muốn được Mẹ dìu dắt như thế, ông ước ao được gặp
Mẹ một lần, được nằm gọn trong lòng Mẹ, được Mẹ truyền hơi ấm
để vượt qua những nỗi đau trần thế. Chỉ có Mẹ, duy chỉ có Mẹ mới
50
cứu rỗi được cuộc đời con. Cớ sao! trong cõi trần này, lại có quá
nhiều cuộc chia ly giữa Mẹ và con. Issa rất đau nhói khi nhìn thấy
hình ảnh của mình trong khung cảnh:
Uma no ko no Con ngựa con bị bán
Kokyou ha naruru Ngoái nhìn mẹ
Aki no ame Mưa Thu
Những giọt mưa của mùa thu hay đó chính là những giọt nước
mắt của chính tác giả. Chú ngựa con có lẽ được may mắn hơn Issa vì
được nhìn thấy Mẹ, được những kí ức về Mẹ đọng lại trong tâm trí.
Còn Issa, ngay cả gương mặt Mẹ ông cũng không nhớ rõ, trí óc của
một đứa trẻ lên ba không thể lưu giữ hình ảnh một cách rõ ràng được.
Đối với Issa, Mẹ không còn là một hoài niệm cụ thể nữa, Mẹ bây giờ
là thiên nhiên, là biển khơi, là tất cả. Mẹ lúc nào cũng bên Issa, Mẹ
lúc nào cũng dõi theo ông:
Naki haha ya Ôi biển khơi
Umi miru tabi ni Khi tôi nhìn thấy biển
Miru tabi ni Mẹ tôi ơi
Mẹ đã hoá thân vào thiên nhiên, cùng hoà vào thế giới nhiệm
màu của vô ngã. Lòng Mẹ bao la, trải rộng khắp núi sông. Giờ đây,
trước mắt Issa – một Thiền sư, tất cả đều có cuộc sống, có Phật tính,
có sự bình đẳng trong ánh sáng và trong cát bụi. Mỗi hình ảnh trên
trần thế đều là hiện thân của Mẹ:
Tsuyu no tama Ôi những hạt sương
Hitotsu hitotsu ni Trân châu từng hạt
Furusato ni Hiện hình cố hương
Ở nơi Issa sinh ra, ở nơi an nghỉ cuối đời của Mẹ, nơi đó không
còn là cố hương nữa, mà nó đã trở thành “lòng Mẹ”, nó đã trở thành
nơi bình yên nhất, yên ả nhất cho việc dừng chân sau bao ngày phiêu
bạt nơi đất khách quê người của Issa. Chính nơi đây đã vẽ nên câu
chuyện đau buồn về cuộc đời của một nhà thơ lỗi lạc và cũng chính
51
nơi đây đã khép lại một phận đời bất hạnh cùng với bao nước mắt
của thế nhân.
Trong thơ haiku của Kobayashi Issa, Mẹ hiện lên với tất cả xúc
cảm của nỗi đau và vẻ đẹp nhẹ nhàng của sự giải thoát. Những hình
ảnh này trong thơ haiku long lanh như giọt sương, tinh khiết như giọt
nước mắt và trở nên lung linh, vĩ đại như ẩn chứa một linh hồn. Tuy
Mẹ không còn nhưng những vần thơ bất hủ của Issa vẫn còn đó, nó
đang tỏa những vầng sáng dịu hiền lên nền trời thi ca thế giới.
52
PHẦN KẾT LUẬN
Đảo quốc Nhật Bản với nền văn hóa độc đáo có thể làm ngạc
nhiên và hấp dẫn đặc biệt người xứ khác. Những tác phẩm văn học
thâm trầm, sâu lắng như tính cách của người Nhật nhưng lại chứa
đựng những ý nghĩa lớn lao mang tính nhân loại.
Qua việc tìm hiểu phong cách thơ haiku của bà nhà thơ lỗi lạc
là Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayshi Issa, luận văn đem lại cái
nhìn khái quát và sâu sắc về phong cách thơ haiku của ba trụ cột
trong thơ ca Nhật Bản. Nhà thơ Matsu Basho là người đầu tiên thổi
hồn vào thơ haiku và đưa nó lên đỉnh cao của nghệ thuật, ông hình
thành phong cách Sofu cho riêng mình. Thơ của Basho bàng bạc
hương vị Thiền và là mực thước, khuôn mẫu hoàn mỹ. Yosa Buson
là người có công lớn trong việc thăng hoa thơ haiku, ông đưa những
nét chấm phá độc đáo, lãng mạn vào thơ, những vần thơ như được
chắp cánh dưới ngòi bút của ông. Còn Kobayashi Issa, ông không
khuôn mẫu, mực thước như Basho, không triết lý, lãng mạn như
Yosan Buson, nhưng thơ của ông mang giá trị nhân bản cao nhất,
gần gũi với đời sống con người nhất.
Xét cho cùng, thơ cũng là một yếu tố văn hóa. Việc tìm hiểu,
nghiên cứu đã đóng góp thêm nhiều tri thức mới cho người viết về
thơ ca của xứ sở hoa anh đào.
Thơ haiku đang trên đường lan tỏa, trở thành một dòng thơ độc
đáo của thế giới và gây ảnh hưởng đến thơ ca hiện đại. Phong cách
đặc trưng của ba nhà thơ sẽ là ngọn đuốc cho những ai dấn thân vào
con đường thơ haiku.
Nếu có điều kiện, người viết hy vọng có thể tìm hiểu, khám phá
sâu hơn về thơ haiku. Đọc thơ haiku, ta thấy tâm hồn mình thanh
thản, yêu đời và yêu cuộc sống. Thơ haiku mở ra những thế giới về
Thiền tông, về nhân sinh rất cần cho tâm hồn con người trong cuộc
sống hiện đại.
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhật Chiêu, Nhật Bản Trong Chiếc Gương Soi, NXB Giáo Dục,
2007.
2. Nhật Chiêu, Thơ Ca Nhật Bản, NXB Giáo Dục, 1998
3. Nguyễn Nam Trân, Bản thảo: Tổng Quan Lich Sử Văn Học Nhật
Bản, quyển thượng: Từ thượng cổ đến cận đại.
4. Mai Liên tuyển chọn và dịch, Hợp Tuyển Văn Học Nhật Bản Từ
Khởi Thuỷ Đến Giữa TK XIX, NXB Lao Động, 2010
5. David G. Lanoue, Issa's Best: A Translator's Selection of Master
Haiku, Print Edition, NXB Haikuguy, 2012
6. Takehiko Saigo, Meiku no Bigaku, NXB Reimei Shobo, 1991
Ngoài ra, người viết còn tham khảo nhiều trang web trên internet
thông qua công cụ tìm kiếm Google.