VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CANADA - MỸ
TRONG HAI THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CANADA - MỸ
TRONG HAI THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 62.31.01.06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn
2. PGS.TS. Đặng Xuân Kháng
HÀ NỘI - 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả sử dụng phân tích trong Luận án có nguồn gốc
rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả của luận án chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Lê Thị Thu
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Mục lục ii
Danh mục các chữ viết tắt iii
Danh mục các bảng iv
Danh mục các hình vẽ, biểu đồ, sơ đồ v
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
7
1.1. Các công trình khoa học của nước ngoài 7
1.2. Các công trình khoa học trong nước 18
1.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
trong luận án
20
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN CỦA QUAN
HỆ THƯƠNG MẠI CANADA - MỸ
22
2.1. Cơ sở lý luận về thương mại quốc tế 22
2.2. Các nhân tố tác động đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ 36
TIỂU KẾT 68
Chương 3: THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
CANADA - MỸ TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2015
70
3.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu Canada - Mỹ 70
3.2. Cơ cấu xuất nhập khẩu Canada - Mỹ 77
3.3. Tranh chấp, bất đồng thương mại và biện pháp giải quyết 87
TIỂU KẾT 111
Chương 4: TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
CANADA - MỸ VÀ HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM
113
4.1. Triển vọng quan hệ thương mại Canada - Mỹ 113
4.2. Hàm ý đối với Việt Nam 136
TIỂU KẾT 144
KẾT LUẬN 146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
PHỤ LỤC 165
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AGP Agreement on Government
Procurement
Hiệp định về mua sắm chính
phủ
ASEAN Association of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
CAD Canadian dollar Đô la Canada
CUSTA Canada-U.S. Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do
Canada - Mỹ
DDA Doha Development Agenda Chương trình nghị sự phát triển
Doha
MCOOL Mandatory Country of Origin
Labelling
Quy định bắt buộc dán nhãn
nguồn gốc xuất xứ hàng hóa
EU European Union Liên minh châu Âu
FTA Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do
FTAA Free Trade Area of the Americas Khu vực mậu dịch tự do châu
Mỹ
G7 Group of Seven Nhóm 7 nước công nghiệp phát
triển
GMAP Global Markets Action Plan Kế hoạch hành động thị trường
toàn cầu
HIIT Horizoltal Intra-Industry Trade Thương mại nội ngành theo
chiều ngang
IPR Intellectual Property Right Quyền sở hữu trí tuệ
ICT Information and communication
technologies
Công nghệ thông tin và truyền
thông
IIT Intra-Industry Trade Thương mại nội ngành
KXL Keystone XL Đường ống dẫn dầu Keystone
MERCOSUR Southern Common Market/ Mercado
Común del Sur
Thị trường chung Nam Mỹ
NAFTA North American Free Trade
Agreement
Hiệp định thương mại tự do
Bắc Mỹ
RCC Regulatory Cooperation Council Hội đồng hợp tác quản lý
R&D Research and Development Nghiên cứu và Phát triển
TMQT Thương mại quốc tế
TPP Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương
USD US dollar Đô la Mỹ
USTR United States Trade Representative Cơ quan đại diện thương mại
Mỹ
VIIT Vertical Intra-Industry Trade Thương mại nội ngành theo
chiều dọc
WB World Bank Ngân hàng thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Tóm tắt các yếu tố quyết định mô hình thương mại 31
Bảng 2.2: Tỷ lệ thương mại theo ngành theo chỉ số GL trong
quan hệ thương mại Canada - Mỹ (1988-1999)
34
Bảng 3.1: Thương mại hàng hóa Canada - Mỹ (2000-2015) 71
Bảng 3.2: 10 đối tác xuất khẩu lớn nhất của Canada 71
Bảng 3.3: Các đối tác thương mại hàng hóa hàng đầu của Mỹ
năm 2014
73
Bảng 3.4: Các đối tác thương mại hàng hóa hàng đầu của Mỹ
năm 2015
74
Bảng 3.5 10 đối tác nhập khẩu lớn nhất của Canada 74
Bảng 3.6: Thương mại dịch vụ Canada - Mỹ (2000-2015) 76
Bảng 3.7: Các ngành hàng Canada xuất khẩu nhiều nhất sang
Mỹ (2001-2015)
79
Bảng 3.8: Cơ cấu nhập khẩu dịch vụ Canada - Mỹ 80
Bảng 3.9: Các ngành hàng Canada nhập khẩu nhiều nhất từ Mỹ
(2001-2015)
80
Bảng 3.10: Cơ cấu nhập khẩu dịch vụ Canada - Mỹ 82
Bảng 3.11: Tỷ lệ thương mại theo ngành theo chỉ số GL trong
quan hệ thương mại Canada - Mỹ (2001-2014)
82
Bảng 3.12: Các thể chế quản lý quan hệ thương mại nông sản
Canada - Mỹ
102
v
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Ví dụ về thương mại nội ngành giữa hai nước có
chung biên giới
30
Hình 2.2: Nhập khẩu của Mỹ từ Canada, Trung Quốc, và
Mexico, 2000-2009
49
Hình 3.1: Tỷ trọng thương mại với Mỹ trong tổng thương
mại hàng hóa hàng năm của Canada (%)
74
Hình 3.2: Đóng góp của tỷ lệ xuất khẩu dịch vụ trong GDP
Canada
77
Hình 3.3: Tỷ lệ xuất khẩu dịch vụ trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Canada
77
Hình 3.4: Thương mại hàng hóa nội ngành Canada - Mỹ 84
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Canada và Mỹ là hai nước láng giềng ở khu vực Bắc Mỹ, có nhiều điểm
tương đồng về lịch sử, chính trị và văn hóa. Hai quốc gia có mối quan hệ song
phương rất đặc biệt, thể hiện từ việc có chung đường biên giới, chung các giá trị,
lợi ích, các quan hệ xã hội, cùng hàng loạt những ràng buộc về kinh tế, chế độ
chính trị cũng có điểm tương đồng đều là tư bản dân chủ. Kết quả của những
điểm chung này là một mối quan hệ tiêu biểu, khăng khít và lâu dài giữa một
nước vừa và một nước lớn, hai nền kinh tế có tính hội nhập cao và quan hệ
thương mại là nền tảng cho sự thịnh vượng chung của hai nước. Mặc dù vẫn còn
tồn tại một số bất đồng và mâu thuẫn, mà không mối quan hệ quốc tế nào tránh
khỏi, nhưng quan hệ Canada - Mỹ vẫn rất vững chắc. Nhận định này được thể
hiện rõ nhất trong lĩnh vực quan hệ thương mại, Canada và Mỹ có mối quan hệ
thương mại song phương phát triển bậc nhất thế giới, với tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ hiện khoảng 700 tỷ USD mỗi năm.
Với sự gần gũi về địa lý, các cơ chế thương mại mở, các hiệp định thúc
đẩy thương mại như Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương, Hiệp
định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và tính bổ sung trong ngành nghề
sản xuất, đã khiến Canada và Mỹ có lịch sử quan hệ thương mại lâu dài và
ngày càng được tăng cường. Xét về mặt lịch sử, Canada là thị trường xuất
khẩu nước ngoài hàng đầu của hàng hóa Mỹ từ năm 1946, trong khi Mỹ là
điểm đến số một cho xuất khẩu của Canada từ năm 1942. Từ đầu thế kỷ XXI
đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều nhìn chung không ngừng tăng
lên, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Mỹ là đối tác
thương mại có ảnh hưởng lớn đến Canada, đồng thời Canada cũng là đối tác
thương mại quan trọng với Mỹ. Đối với Canada, Mỹ là một thị trường xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ quan trọng hàng đầu, theo Bộ Công nghiệp
Canada: “đối với nhiều ngành của Canada, thị trường Mỹ có vai trò tương
đối quan trọng hơn so với chính thị trường Canada” [89:tr.25]. Quan hệ
2
thương mại Canada - Mỹ ảnh hưởng tích cực không chỉ đối với bản thân hai
nước, mà còn có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển chung của kinh tế khu
vực và toàn cầu.
Một lý do quan trọng khiến việc nghiên cứu mối quan hệ thương mại
Canada - Mỹ trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI là cần thiết và có ý nghĩa
thực tiễn quan trọng vì qua nghiên cứu này có thể rút ra hàm ý cho Việt Nam
trong việc thúc đẩy lợi ích, đồng thời tránh và giảm thiểu các tranh chấp bất
đồng trong quan hệ thương mại quốc tế nói chung, với các nước láng giềng
và các nước lớn trên thế giới nói riêng.
Nghiên cứu quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong hai thập niên đầu
thế kỷ XXI giúp nhận diện rõ hơn những nhân tố chủ quan cũng như khách
quan tác động đến các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung, quan hệ thương mại
Canada - Mỹ nói riêng. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực tham gia vào hội
nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá các quan hệ kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để
phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; trong đó,
quan hệ với các nước lớn có tiềm lực về kinh tế luôn là một trong những
hướng trọng tâm. Trong khi đó, Canada và Mỹ đều là các đối tác thương mại
và đầu tư quan trọng hàng đầu, đóng góp lớn vào sự phát triển của Việt Nam.
Trong thập kỷ qua, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với Canada và
Mỹ đều có những bước tiến vượt bậc. Vì thế, nghiên cứu và dự báo quan hệ
thương mại Canada - Mỹ trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI có ý nghĩa quan
trọng, giúp Việt Nam hoạch định chính sách quốc gia và có những định
hướng chính sách thúc đẩy quan hệ kinh tế của Việt Nam với cả hai nước này.
Trong giai đoạn hiện nay, cả Canada và Mỹ đều đang thực hiện chiến
lược hướng về châu Á, Việt Nam có vị trí địa chiến lược quan trọng và vai trò
ngày càng tăng trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nên đều
nằm trong quan tâm của hai nước này. Cả Canada và Mỹ đều là thành viên
tham gia đàm phán, ký kết Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP), đây là một trong những cơ hội quan trọng bậc nhất cho
3
phép Việt Nam tham gia vào một hiệp định thương mại tự do đa phương
trong đó có cả Canada và Mỹ. Khi trở thành thành viên của tổ chức này, Việt
Nam có nhiều thuận lợi và lợi ích trong quan hệ thương mại với Canada và
Mỹ, có thể nâng cao sức mạnh kinh tế, cũng như vị thế quốc tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa hiểu được nhiều về thương mại Canada - Mỹ, do
vậy việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết đối với việc hiểu biết và từ đó nâng
cao quan hệ kinh tế của Việt Nam với Canada và Mỹ, tham gia các cuộc đàm
phán Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương theo
hướng có lợi hơn.
Vì những lý do cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn trên mà tôi lựa chọn đề tài
“Quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI”
làm chủ đề nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án nghiên cứu làm rõ quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong giai
đoạn hai thập niên đầu thế kỷ XXI, từ đó rút ra một số hàm ý cho Việt Nam
trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế cũng như đẩy mạnh
quan hệ với Canada và Mỹ.
Với mục đích như trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
(1) Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến thương
mại quốc tế và quan hệ thương mại song phương.
(2) Tìm hiểu, nghiên cứu các nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ
kinh tế thương mại giữa Canada và Mỹ từ 2001 đến 2015 (những nhân tố nội
tại của hai nước và các nhân tố khu vực, quốc tế), dự báo trong thời gian tới.
(3) Phân tích và đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ.
Thông qua thực trạng đó, chỉ ra các vấn đề tồn tại, trình bày và đánh giá các
giải pháp, cơ chế hai nước đã sử dụng để giải quyết các vấn đề thương mại.
(4) Phân tích vai trò của quan hệ thương mại này đối với sự phát triển
kinh tế của hai nước.
(5) Dự báo xu hướng phát triển quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong
thời gian tới. Từ việc nghiên cứu quan hệ thương mại Canada - Mỹ, đưa ra
4
một số hàm ý cho Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay nói chung, đối với quan hệ thương mại của Việt Nam với
Canada và Mỹ nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan hệ thương mại giữa Canada
và Mỹ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi thời gian: Luận án được hoàn thành vào năm 2015, do đó
các số liệu trích dẫn cũng như các vấn đề được nêu trong luận án chủ yếu từ
năm 2015 trở về trước (2001 - 2015) và triển vọng tới 2020 - 2030. Luận án
chọn từ năm 2001 do thời điểm 2001 xảy ra sự kiện khủng bố 11/9 vào nước
Mỹ, sự kiện này có tác động lớn đến quan hệ thương mại giữa hai nước do
các thay đổi về chính sách quản lý biên giới. Nghiên cứu quan hệ thương mại
Canada - Mỹ trong giai đoạn 2001 - 2015 cũng được thực hiện trên cơ sở so
sánh đối chiếu với giai đoạn trước khi cần thiết, và là cơ sở để dự báo triển
vọng quan hệ thương mại giữa hai nước tới giai đoạn 2020 - 2030.
Về phạm vi không gian: quan hệ thương mại Canada - Mỹ.
Về phạm vi nội dung: Luận án sẽ giới hạn nghiên cứu ở các vấn đề liên
quan đến quan hệ thương mại giữa Canada và Mỹ (chủ yếu nhìn từ phía
Canada và tập trung vào thương mại hàng hóa), phân tích các vấn đề còn tồn
tại, hạn chế, và giải pháp, cơ chế để giải quyết tồn tại đó; vai trò của quan hệ
thương mại này đến phát triển kinh tế của hai nước; dự đoán xu hướng phát
triển và hàm ý đối với Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ những nội dung cơ bản đặt ra của Đề tài, trong quá trình
nghiên cứu, Luận án đã sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân tích
tài liệu, bao gồm: phân tích thống kê, tổng hợp và khái quát hóa, phương pháp
so sánh và đối chiếu lịch sử, phương pháp quy nạp…
5
Dữ liệu cho các phân tích trên chủ yếu được lấy từ: các báo cáo và
thống kê của các bộ, ngành cả từ phía Canada và Mỹ. Ngoài ra, luận án sử
dụng các số liệu thống kê, công trình nghiên cứu của các tổ chức quốc tế có
uy tín và có ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa Canada và Mỹ như WTO,
WB, UNTAD, IMF…
(1) Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử
dụng trong tất cả các chương, mục, tiểu mục của luận án.
(2) Phương pháp thống kê được sử dụng chủ yếu ở Chương 3, và
chương 4 của luận án. Thông qua thống kê phân tích kết quả của quan hệ
thương mại Canada - Mỹ sẽ cho thấy bức tranh tổng thể về thành tựu, hạn chế
và tác động của quan hệ này đến hai nước.
(3) Phương pháp hệ thống hóa: Phương pháp này được sử dụng xuyên
suốt toàn bộ luận án, giúp trình bày các vấn đề, nội dung trong luận án theo
một trình tự, bố cục logic, chặt chẽ, các nội dung bám sát chủ đề nghiên cứu.
(4) Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng trong một số
chương, mục, tiểu mục của luận án, giúp so sánh, đối chiếu nhiều khía cạnh,
giá trị trong cùng một vấn đề hoặc nhiều vấn đề trong một lĩnh vực, nhằm đưa
ra những đánh giá đúng đắn.
5. Dự kiến đóng góp của đề tài
Với việc nghiên cứu quan hệ thương mại Canada - Mỹ, luận án dự kiến
có một số đóng góp sau:
Luận án góp phần khái quát hóa, hệ thống hóa những cơ sở lý luận và
thực tiễn tác động đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ.
Luận án góp phần nâng cao hiểu biết về mối quan hệ thương mại lớn
hàng đầu thế giới, phân tích thực trạng, thành công, hạn chế của quan hệ này.
Luận án phân tích vai trò của quan hệ thương mại Canada - Mỹ đến phát
triển kinh tế của hai nước; phân tích xu hướng, chính sách phát triển quan hệ
thương mại trong thời gian tới.
Từ phân tích thành công, hạn chế, các cơ chế giải quyết quan hệ thương
mại Canada - Mỹ, luận án đưa ra hàm ý cho Việt Nam trong quá trình phát
6
triển và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, đối với quan hệ thương mại của
Việt Nam với Canada và Mỹ và nước láng giềng Trung Quốc nói riêng.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài các trang bìa, mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng
hình, danh mục công trình của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận án bao gồm phần mở đầu, 4 chương và phần kết luận.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Canada - Mỹ
Chương 3: Thực trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong giai đoạn
2001-2015
Chương 4: Triển vọng quan hệ thương mại Canada - Mỹ và hàm ý đối với
Việt Nam
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình khoa học của nước ngoài
1.1.1. Nhóm công trình khoa học về những nhân tố tác động đến
quan hệ thương mại Canada - Mỹ
Các vụ tấn công khủng bố vào nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 (sự
kiện 11/9) có tác động lớn đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ. Vấn đề này
được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: “The Effects of
9/11 on Canadian - U.S. Trade” (Tác động của sự kiện 11/9 đến thương mại
Canada - Mỹ) của tác giả Steven Globerman and Paul Storer (Metropolitan
Policy Program, Brookings Institutions, July 2009); bài viết "Tighter Border
Security and Its Effect on Canadian Exports." (Thắt chặt an ninh biên giới và
tác động đến xuất khẩu của Canada) của tác giả Burt, Michael (2009) đăng tải
trên Canadian Public Policy, XXXV (2), pp. 149-169; Globerman, Steven and
Paul Storer (2009). "Border Security and Canadian Exports to the United
States: Evidence and Policy Implications" (An ninh biên giới và xuất khẩu
của Canada tới Mỹ: Bằng chứng và gợi ý chính sách - Canadian Public
Policy, XXXV (2), pp. 172-186)…Các tác giả phân tích những biện pháp tăng
cường an ninh biên giới sau sự kiện 11/9, chi phí và trở ngại gia tăng đã gây
cản trở lớn đối với quan hệ thương mại giữa Canada và Mỹ. Có nhiều bằng
chứng cho thấy chi phí xuất khẩu từ Canada đã tăng do kết quả của việc tăng
cường an ninh biên giới. Các tác giả trên đã nghiên cứu và đưa ra đánh giá về
nguồn gốc của các kết quả khác nhau trong các nghiên cứu trước đây, đồng
thời đưa ra một số bằng chứng mới của các thâm hụt đáng kể trong xuất khẩu
của Canada sang Mỹ bắt đầu từ Quý III năm 2001.
Bài tạp chí “The Trade-Security Nexus: The New Reality in Canada -
U.S. Economic Integration” (Thương mại - an ninh: Thực tế mới trong hội
nhập kinh tế) của tác giả Maureen Appel Molot đăng tải trên American
Review of Canadian Studies, p27-62, No.1, Spring 2003. Tác giả bài viết bình
luận đến tác động của việc đóng cửa biên giới sau các cuộc tấn công khủng bố
vào nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001, nhấn mạnh đến sự khác biệt trong
8
ưu tiên quốc gia: đối với Canada, vấn đề này vẫn là an ninh kinh tế (tiếp cận
không hạn chế đối với thị trường Mỹ cho các sản phẩm xuất nhập khẩu của
Canada); còn đối với Mỹ thì đây là vấn đề an ninh quốc gia.
Các tác giả Kristjansson, K.A., Michael Bomb và Anne Goodchild
(2010) trong bài nghiên cứu “Intra-Industry Trade Analysis of U.S.State -
Canadian Province Pairs: Implications for the cost of border delay”
(Transportation Research Record, No.2162, p73-80) có phân tích khối lượng
thương mại nội ngành (IIT) phân biệt theo chiều ngang bao gồm mức độ hội
nhập khu vực sâu sắc, mô hình thương mại khu vực ổn định, và hệ quả từ sự
chậm trễ biên giới. Trong bài báo này thương mại giữa tiểu bang Washington
và British Columbia (cửa ngõ Cascade) được so sánh với thương mại giữa
Michigan State và Ontario (cửa ngõ Great Lake). Các các giả sử dụng chỉ số
Grubel-Lloyd để đo mức độ thương mại nội ngành giữa 2 cặp tỉnh-bang này,
bài viết cho rằng chuỗi cung ứng qua biên giới ảnh hưởng nhiều nhất từ mức
chi phí cao hơn do tăng chậm trễ qua biên giới hình thành từ hàng hóa sản
xuất phân biệt theo chiều ngang có mức độ IIT cao và phụ thuộc nhiều vào
giao thông vận tải xe tải. Những loại hàng hóa này phổ biến hơn ở các cửa
ngõ Great Lakes và do vậy khu vực này có thể bị tác động kinh tế lớn hơn từ
sự chậm trễ lâu dài và khó lường hơn so với cửa ngõ Cascade[97: tr73-80].
Trong báo cáo: “Measuring the costs of the Canada - U.S. Border” (Đo
lường chi phí của biên giới Canada - Mỹ, Fraser Institute, Studies in Canada-
US Relations, Canada, August, 2012) hai tác giả Alexander Moens và
Nachum Gabler đánh giá sau hơn 10 năm đổi mới biên giới, chi phí qua lại
biên giới hai nước không giảm đáng kể, trong khi chi tiêu của chính phủ
Canada vào an ninh biên giới đã tăng rõ rệt. Sau khi cộng lại các giá trị ước
tính từ thương mại, du lịch và các chương trình của chính phủ cho thấy chi
phí biên giới hàng năm năm 2010 của Canada là 19,1 tỷ đôla Canada (CAD),
tương ứng với 1,5% GDP của nước này. Trong năm 2011, chính phủ Canada
và Mỹ đã ban hành một tuyên bố chung: “Qua biên giới: một tầm nhìn chung
về vành đai an ninh và năng lực cạnh tranh kinh tế”, mặc dù tầm nhìn này
cung cấp tiêu chuẩn và mốc thời gian cụ thể để đo lường sự tiến bộ, thế
nhưng không làm giảm được chi tiêu chính phủ hoặc chi phí qua lại biên giới.
9
Có nhiều bằng chứng cho thấy chi phí và thời gian chờ đợi qua biên giới đã
tác động trực tiếp đến thương mại hàng hóa cũng như dịch vụ song phương.
Vì thế, chính phủ Canada và Mỹ cần phải thực hiện cụ thể các bước tiếp theo
của cơ sở hạ tầng biên giới để giảm thời gian, chi phí qua lại biên giới cho
các doanh nghiệp cũng như khách du lịch hai nước.
Bài viết Re-Energizing Canada’s International Trade, Strategies for
Post-Recession Success (The Conference Board of Canada, CanCompete
Project, Report February 2010, Ottawa, Canada) đề cập đến tác động của suy
thoái kinh tế Mỹ đến thương mại quốc tế (TMQT) của Canada và quan hệ
kinh tế Canada - Mỹ: Suy thoái kinh tế Mỹ có tác động lớn đến TMQT của
Canada nói chung và quan hệ kinh tế với Mỹ nói riêng. Một nhiệm vụ khó
khăn đối với Canada không đơn giản là làm thế nào để thoát khỏi cuộc khủng
hoảng mà là làm thế nào Canada có thể tranh thủ cơ hội này để có vị thế kinh
tế lớn hơn trong nền kinh tế toàn cầu.
Báo cáo The shifting sands of the Canada - US economic relationship,
(Canada Policy Options, Canada, March 2011) của tác giả Jeremy Leonard
cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong trật tự kinh tế toàn cầu. Sự kiện này cho thấy thực tế là kinh
tế Mỹ đang bị đe dọa từ cả bên trong và bên ngoài. Đây cũng là một thông tin
kinh tế xấu cho kinh tế Canada, sự nổi lên của khu vực châu Á như một động
cơ kinh tế toàn cầu, cũng như sự thận trọng tài chính và tiền tệ trong nước đã
thay đổi cán cân quyền lực kinh tế lục địa phía Bắc. Sự nổi lên mạnh mẽ của
Trung Quốc như một cực quan trọng của nền kinh tế toàn cầu có những tác
động nhất định đến vai trò của Canada trong nền kinh tế toàn cầu và mối
quan hệ kinh tế Canada - Mỹ. Việc chuyển đổi từ một nền kinh tế thế giới
đơn cực sang lưỡng cực có ý nghĩa kiến tạo cho mối quan hệ kinh tế của
Canada với Mỹ. Chính sách quản lý kinh tế và tài chính tiền tệ đúng đắn của
Canada đã khiến kinh tế Canada rơi vào khủng hoảng muộn hơn và phục hồi
nhanh hơn Mỹ và các nước G7 khác.
10
1.1.2. Nhóm công trình khoa học về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh
tế Canada - Mỹ
Kinh tế Canada và Mỹ có sự phụ thuộc lẫn nhau rất lớn. Canada ngày
càng phụ thuộc vào Mỹ hơn so với Mỹ phụ thuộc vào Canada. Điều này có
nghĩa Canada dễ bị ảnh hưởng tiêu cực hơn, đồng thời cũng có những hậu quả
nghiêm trọng với bất cứ bất đồng nào có thể xảy ra. Về vấn đề này, tác giả bài
viết “Canada: Trade Regulations” (The Economist Intelligence Unit, NA
Incorporated, October 4, 2011), nhận định kinh tế Canada khá phụ thuộc vào
thương mại, đặc biệt là với nước Mỹ, vì thế những biến đổi kinh tế, những cú
sốc kinh tế Mỹ đều có ảnh hưởng mạnh đến Canada, như khủng hoảng tài
chính Mỹ năm 2008, đã tác động to lớn đến phát triển kinh tế tổng thể của
Canada.
Ý tưởng hội nhập sâu - có nghĩa là hài hòa hơn nữa về kinh tế, an ninh
và xã hội giữa Canada và Mỹ hiện đang dần trở thành chủ đề được đề cập rất
nhiều. Đây cũng chính là nội dung của bài viết “Trade, Deep Integration’ and
ICTs in Canada - U.S. Relations” của tác giả Craig Stewart, Concordia
University, October 2006.
Trong bài viết “Steer or Drift? Taking Charge of Canada - US
Regulatory Convergence”, tác giả Michael Hart (C.D Howe Institute
Commentary, March 2006) phân tích: Các yếu tố địa lý, lịch sử, công nghệ,
cơ hội và chính sách đã tạo ra mối quan hệ sâu rộng và không thể thay đổi
được giữa Canada và Mỹ. Nền kinh tế Canada và Mỹ ngày càng kết nối, phụ
thuộc lẫn nhau do nhu cầu của cả người dân hai nước về các sản phẩm, dịch
vụ, vốn và ý tưởng của nhau, và điều đó đã trở thành động lực thúc đẩy hội
nhập hai bên cùng có lợi.
Tác giả D. H. Burney (2009) đã nhận định trong bài viết “Canada - US
Relations in the Obama Age” (Quan hệ Canada-Mỹ dưới thời Obama-
Carleton University Alumni Association, National Capital Chapter
Leadership Luncheon Rideau Club) rằng lĩnh vực sản xuất chế biến và nông
nghiệp của hai nước có mức độ hội nhập cao, cụ thể trong nhiều lĩnh vực từ
thịt bò đến ô tô, sắt thép. Theo nhận định của nhiều nhà kinh tế, hai nước
không chỉ giao dịch thương mại với mà cùng nhau hợp tác sản xuất. Khoảng
11
70% giao dịch thương mại qua biên giới là giao dịch trong nội bộ công ty. Hai
nền kinh tế đã trở nên quá gắn kết đến mức các chính sách “Mua hàng Mỹ”,
rồi đến “Mua hàng Canada” tự chuốc lấy thất bại…Vì thế, trong giai đoạn
khủng hoảng kinh tế này, hai nước cần hợp tác chặt chẽ hơn để tìm cách thoát
khỏi suy thoái kinh tế sâu rộng…
Tuy nhiên cũng còn có các khó khăn và hạn chế trong hội nhập kinh tế
NAFTA. Tất cả các tranh chấp giữa hai nước được giải quyết theo quy định
của NAFTA và Tổ chức thương mại thế giới (WTO) nhưng hai tổ chức này
vẫn còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được, từ nguồn gốc xuất xứ đến cơ chế
phòng vệ thương mại và các hạn chế về thu mua chính phủ. Nhưng cả Canada
và Mỹ đều chưa dành các nguồn lực chính trị cần thiết để tiến hành các cuộc
thương lượng nhằm giải quyết các vấn đề còn tồn tại như trên đã đề cập. Hội
nhập Canada - Mỹ cũng xảy ra tình trạng thiếu một cơ sở thể chế để quản lý
quan hệ phức tạp và đa dạng này.
Theo cuốn sách “Invisible and Inaudible in Washington: American
Policies toward Canada” của các tác giả Edelgard Mahant và Graeme
S.Mount (Michigan State University Press, U.S, February 29, 2000) và bài
viết “Advancing Canadian Interests in the United States: A Practical Guide
for Canadian Public Officials” của Heynen, Jeff và John Higginbotham
(Canada School of Public Service, Canada, 2004) thì tương đồng và hợp tác
chặt chẽ giữa hai nước thông qua FTA làm cho họ có sự phụ thuộc lẫn nhau
khá chặt chẽ, khiến cho việc phối hợp chính sách có thể không rõ ràng, có tác
giả cho rằng, “không có chính sách riêng nào của Mỹ đối với Canada, thay
vào đó là một số chính sách áp dụng vào những thời điểm khác nhau”.
1.1.3. Nhóm công trình khoa học về thực trạng quan hệ thương mại
Canada - Mỹ
Hiện trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ được thể hiện rất rõ trong
công trình “Canada and the United States: Trade, Invetsment, Integration and
The Future” (Canada và Mỹ: Thương mại, Đầu tư, Hội nhập và tương lai) của
tác giả Blayne Haggart, Economics Divisions, 2 April, 2001). Tác giả cũng đề
cập đến hoạt động và vai trò của FTA và NAFTA đối với quan hệ kinh tế
giữa hai nước.
12
Gần gũi về địa lý, cơ chế thương mại, và tính bổ sung trong sản xuất...
đã khiến Canada - Mỹ có mối quan hệ thương mại lớn nhất thế giới. Và sự mở
rộng hơn nữa quan hệ thương mại Canada - Mỹ sẽ chịu tác động mạnh bởi
triển vọng tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế Canada và Mỹ. Canada sẽ vẫn
là đối tác thương mại quan trọng nhất của nước Mỹ, ít nhất là đến thập kỷ tới.
Đây là nội dung chính trong nghiên cứu “Canada: A Macroeconomic Study of
the United States’ Most Important Trade Partner” (Canada: Một nghiên cứu
kinh tế vĩ mô về đối tác thương mại quan trọng nhất của Mỹ) của các tác giả
Paul Sundell và Mathew Shane (United States Department of Agriculture,
September 2006). Ngoài ra bài viết cũng đề cập đến tác động của quan hệ
thương mại đến kinh tế hai nước, so sánh hai nền kinh tế, khẳng định Canada
phụ thuộc vào kinh tế Mỹ nói chung, và quan hệ thương mại với Mỹ nói
riêng.
Tác giả Carl Ek và Ian F. Fergusson trong báo cáo “Canada - U.S.
Relations” (Congressional Research Service Report, USA, April 5, 2012) đã
khẳng định Canada và Mỹ duy trì mối quan hệ thương mại lớn nhất thế giới,
mối quan hệ này đã được tăng cường trong suốt hơn hai thập kỷ qua bằng
việc thông qua hai hiệp định thương mại đa phương. Mặc dù vẫn tồn tại nhiều
bất đồng, song trong những năm vừa qua, họ đã tham gia vào các cuộc thương
lượng đầy khó khăn về các vấn đề trong một số lĩnh vực thương mại.
Tuy nhiên, tác động của các bất đồng này cũng chỉ chiếm phần nhỏ
trong tổng trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa hai nước. Hơn nữa, Mỹ và
Canada cùng nỗ lực hợp tác để giải quyết các vấn đề về môi trường, bao gồm
cả quản lý chất lượng không khí và xử lý rác thải,... Bài viết cũng đề cập đến
quan hệ thương mại giữa hai nước trong khuôn khổ NAFTA.
Bài viết Canada - U.S. Relations: Shared Borders And Shared Values,
(Luncheon Address to the Winnipeg Chamber of Commerce, October 21,
2004, Ottawa, Canada) của tác giả Manitoba Winnipeg nhận định quan hệ
giữa hai nước quá lớn và đa dạng đến mức mà hầu hết tất cả các lĩnh vực hợp
tác đều phát triển mạnh mà không có liên quan gì đến chính quyền liên bang
của nước kia. Quan hệ giữa Canada và Mỹ được kết nối bởi các quan tâm
13
chung và lợi ích chung. Canada và Mỹ không cạnh tranh với nhau quá gay gắt
vì hai nước cùng hợp tác để Bắc Mỹ có tính cạnh tranh hơn trên thế giới.
Báo cáo “Lumbering on: the state of the Canada - U.S. Trade
relationship” của tác giả Érick Duchesne (2007 - American Review of
Canadian Studies, Volumn 7, Issue 1, 22 March): Đây là một báo cáo về thực
trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ, trong đó mô tả tranh chấp về gỗ xẻ
mềm; khảo sát tác động của các xung đột thương mại và chỉ ra rằng mặc dù
có các chỉ trích từ Canada, nhưng nhiều cơ chế giải quyết tranh chấp lại khá
có lợi cho Canada; thảo luận sơ lược về thất bại của các cuộc đàm phán đa
phương liên quan đến thương mại nông sản; xem xét mối quan hệ thương mại
- an ninh và tác động đến quan hệ thương mại song phương.
Globerman, Steven and Paul Storer (2013) trong bài viết “Changes in
Canada - US. Trade in intermediate versus final goods: Identification and
Assessment” (Thay đổi trong thương mại hàng hóa Canada - Mỹ trong hàng
hóa trung gian tới hàng hóa cuối cùng: xác định và đánh giá - Western
Wahington University) xác định một số thay đổi quan trọng về hàng hóa
trung gian trong quan hệ thương mại Canada - Mỹ. Nhìn chung từ năm 1990
đến khoảng 2001, tỷ phần hàng hóa trung gian trong tổng kim ngạch xuất
khẩu tăng nhanh hơn so với nhập khẩu, điều này ngược lại từ 2001 đến 2011.
Theo tác giả, sở dĩ có sự sụt giảm theo ngành trong xuất khẩu hàng hóa trung
gian của Mỹ đến Canada là do tổng hợp các nguyên nhân từ sự thay đổi của
hoạt động lắp ráp đến nơi có mức lương thấp như Mexico trong trường hợp
của ngành công nghiệp ô tô và ở mức độ thấp hơn, đến Trung Quốc trong
trường hợp các thiết bị điện.
1.1.4. Về thách thức, bất đồng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương
mại Canada - Mỹ
Ngoài những thành tựu và thuận lợi mà quan hệ thương mại Canada -
Mỹ đạt được, mối quan hệ này đã và đang đứng trước một số bất đồng, thách
thức. Trong báo cáo “Skating on the thin ice: American-Canada relations in
2010 and 2011” (Fraser Institute, April 2010), tác giả Alexander Moens đã
đưa ra đánh giá chi tiết về cách quan hệ Canada - Mỹ vượt qua hai thách thức
như thế nào: thứ nhất, các cuộc tấn công khủng bố của Al Qaeda vào nước
14
Mỹ đã buộc người Mỹ phải thay đổi nhận thức về biên giới chung giữa
Canada và Mỹ; thứ hai, để phản ứng đối với thách thức kinh tế từ cuộc khủng
hoảng tài chính 2008, Mỹ đã đưa ra nhiều biện pháp có tính bảo hộ tác động
đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ (ví dụ như điều khoản “Mua hàng
Mỹ”). Nhìn chung, các tranh chấp, bất đồng thương mại giữa hai nước đã
được giải quyết nhưng chưa thực sự thỏa đáng và để lại một số ảnh hưởng xấu
tới nền kinh tế Canada. Tác giả cũng đưa ra giải pháp quan trọng để tăng
cường hội nhập kinh tế giữa hai nước, trước hết bắt đầu từ cấp độ an ninh.
Tác giả Robert J.Keyes trong bài viết “Issues in Canada - US Bilateral
Economic Integration” (Các vấn đề về hội nhập kinh tế song phương Canada-
Mỹ, Canadian Chamber of Commerce- www.globalcentres.org/can-
us/economic_keyes.pdf) nhận định: quan hệ giữa Canada và Mỹ được cho là
một trong các mối quan hệ song phương phức tạp nhất trên thế giới. Khi xem
xét xu hướng và tương lai quan hệ kinh tế hai nước không thể tách rời thực tế
và xu hướng chính trị, các vấn đề có thể nổi lên là như chương trình nghị sự
về biên giới; Cải thiện cơ chế về biện pháp phòng vệ thương mại; thực tế về
hội nhập kinh tế có ý nghĩa lan sang cả các vấn đề chính trị khác vì tính chất
liên kết của nó... Bài viết cũng đưa ra các lựa chọn chính sách để Canada tiếp
cận thị trường Mỹ.
Hơn nữa, mặc dù thị trường Mỹ nằm trong ưu tiên hàng đầu về thương
mại của Canada, nhưng cũng tồn tại một số bất đồng, đòi hỏi các doanh
nghiệp Canada phải xem xét lại các chiến lược kinh doanh, và tìm ra nguồn
gốc nếu các bất đồng đó chưa được giải quyết. Nhận định này được tác giả
Cliff Sosnow đưa ra trong bài biết “Observations on Canada - U.S. Trade
Relations in 2005” (Trade and Customs, Canada, May 13, 2005).
Về giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước, trong
bài viết “So sánh các đề xuất nhằm tăng cường quan hệ kinh tế Canada -
Mỹ”, tác giả Danielle Goldfarb (C.D. Howe Institute Backgrounder, October
2003) nhận định: Trong những năm qua, nhiều học giả, giới tư vấn chính
sách, các nhóm doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra
nhiều đề xuất nhằm đáp ứng mục tiêu lâu dài của người Canada, đó là, đảm
bảo quan hệ kinh tế tốt đẹp với Mỹ. Bài viết này nhằm mục đích tổng kết lại
15
các đề xuất chính của nhiều tác giả, bao gồm cả quan điểm của những người
phản đối hội nhập sâu rộng hơn. Tác giả nhận định: vì các đề xuất hiện nay
vẫn còn chưa cụ thể, nên nội dung của bài viết là phân tích rõ ràng hơn về sự
cần thiết và tính khả thi của nhiều nhân tố quan trọng trong quan hệ Canada -
Mỹ.
Báo cáo“Strengthening our ties: four steps toward a more successful
Canada -U.S.Partnership” (Tăng cường quan hệ: Bốn bước để đạt được một
mối quan hệ đối tác Canada - Mỹ thành công hơn - The Canadian Chamber of
Commerce 2010) phân tích tầm quan trọng của quan hệ thương mại Canada -
Mỹ, đặc biệt đối với Canada, những khó khăn mà hai nước đang gặp phải
trong giai đoạn hiện nay. Báo cáo này đánh giá rằng Canada nên chú trọng
đến bốn vấn đề chủ chốt: thương mại, hợp tác quản lý, an ninh năng lượng và
môi trường, và vấn đề an ninh biên giới, vì tiến bộ trong các lĩnh vực này có
tác động lớn đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong giai đoạn tới.
Trong Báo cáo về Kế hoạch và Ưu tiên 2013-2014 của Canada (Report
for Plans and Priorities 2013-2014 - The Honourable Ed Fast, Canada, 2013)
thì củng cố mối quan hệ Canada - Mỹ và mở rộng sự tham gia của Canada ở
Tây bán cầu là một ưu tiên quan trọng của Canada. Mối quan hệ hợp tác
Canada-Mỹ là một ví dụ về tầm quan trọng của biên giới mở cửa đối với gia
tăng thương mại. Hai nước chia sẻ dòng hàng hóa, dịch vụ, con người và vốn
song phương lớn nhất giữa bất kỳ hai quốc gia nào trên thế giới.
1.1.5. Về tác động của quan hệ thương mại đến kinh tế Canada và Mỹ
Quan hệ thương mại giữa Canada và Mỹ mang lại nhiều lợi ích cho cả
hai nước cả về sản lượng, việc làm, đổi mới công nghệ…Tác giả Laura
M.Baughman and Joseph Francois trong bài viết “U.S.-Canada Trade and
U.S.State-Level production and Employment” (Department of Foreign Affairs
and International Trade, Ottawa, 2010) đã tổng quan quan hệ thương mại giữa
hai nước từ 2000 đến 2008, thống kê, đánh giá tác động đến sản lượng và tạo
việc làm, tác động với các thay đổi về kim ngạch và chi phí thương mại của
Mỹ. Tất cả các tác động trên khẳng định hai nền kinh tế có tính hội nhập cao
và mối quan hệ thương mại là nền tảng cho sự thịnh vượng chung của hai
nước.
16
Theo báo cáo chính sách kinh tế vĩ mô của Canada với tiêu đề
“Canada’s Growing Economic Relations with the United States: Maximizing
our opportunities” (Industry Canada, Government of Canada Publications,
Ottawa, Canada, 1999), Canada có nhiều lợi ích trong mối quan hệ kinh tế với
Mỹ do đây là thị trường lớn nhất, giàu nhất, năng động nhất và công nghệ tiên
tiến nhất.
Trong báo cáo “Assessing the effects of NAFTA on Canada/US
agricultural trade” của các tác giả Hugh Deng (Carleton University) và
Jonathan Nzuma (University of Guelph) (99th seminar of the European
Association of Agricultural Economist, The Future of Rural Europe in the
Global Agri-Food System, Copenhagen, Denmark, August, 2005) đề cập tác
động của NAFTA đến quan hệ thương mại nông sản Canada - Mỹ. Có nhiều
quan điểm trái chiều về vấn đề này, một số thì cho rằng hiệp định này có ích
cho tất cả các nước thành viên, trong khi đó một số nhà phân tích cho rằng
hiệp định này ít có tác động đến quan hệ thương mại nông sản Canada - Mỹ,
họ nhận định các hiệp định này đã làm tăng sức ép buộc Canada phải thích
ứng với chính sách thương mại của Mỹ. Các phân tích khác lại cho là hiệp
định có ảnh hưởng tích cực do chúng mở ra các thị trường tự do cạnh tranh, từ
đó làm gia tăng kim ngạch trao đổi giữa các nước. Nghiên cứu này khẳng
định việc xóa bỏ thuế quan đã có tác động tích cực đến quan hệ thương mại
nông sản giữa hai nước, đặc biệt là với Canada.
1.1.6. Nhóm công trình về triển vọng quan hệ thương mại Canada - Mỹ
Quan hệ kinh tế thương mại giữa Canada và Mỹ vẫn tiếp tục phát triển
trong bối cảnh gia tăng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế và việc quản lý
quan hệ giữa hai nước cũng cần để ý đến cả hai cấp độ này: Ở cấp độ khu
vực, hội nhập kinh tế có thể sẽ tiếp tục bằng việc kết nạp thêm các thành viên
khác vào NAFTA, và khả năng thành lập Khu vực mậu dịch tự cho châu Mỹ
(FTAA). Các nước NAFTA, đặc biệt là Mỹ sẽ chi phối khu vực tự do thương
mại đó; ở cấp độ quốc tế, WTO sẽ tiếp tục có tác động lớn đến quan hệ kinh
tế Canada - Mỹ. Đây là nội dung chính của các bài viết “United States -
Canada Trade and Economic Relationship: Prospects and Challenges” của
tác giả Ian F. Fergusson (Congress Research Service Report for Congress,
17
September 14, 2011, USA) và “New Challenges and Opportunities for
Canada - U.S. Relations: Preparing for 2009”, của tác giả Christopher Sands
(Remarks prepared for the Canada - U.S. Fullbright Killam Fellowship
Conference, Ottawa, Ontario, September 15, 2006).
Triển vọng quan hệ thương mại Canada - Mỹ cũng được thể hiện trong
bài viết “Canada and the United States: Trade, Invetsment, Integration and
The Future” (Canada và Mỹ: Thương mại, Đầu tư, Hội nhập và tương lai) của
tác giả Blayne Haggart, Parliamentary Research Branch, Economics Division,
2 April 2001, Ottawa, Canada). Tác giả đề cập: vì tầm quan trọng của Mỹ đối
với Canada, cho nên Canada cần chú trọng nhiều đến mối quan hệ này, tuy
nhiên việc quản lý quan hệ này ngày càng trở nên phức tạp hơn do nhiều
nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau.
Theo các tác giả Wendy Dobson và Diana Kuzmanovic trong bài viết
“Differentiating Canada: The Future of the Canada - U.S. Relationship”
(Phân biệt Canada: Tương lai của mối quan hệ Canada - Mỹ, University of
Calgary, The School of Public Policy, SPP Report Papers, Vol 3, Issue 7,
November 2010), tương lai của quan hệ Canada - Mỹ nên được xem xét trong
bối cảnh dài hạn của địa kinh tế và thay đổi mô hình tăng trưởng. Các tác giả
đề xuất một chiến lược của Canada cho mối quan hệ kinh tế lâu dài với Mỹ,
chiến lược này gồm hai phần: thứ nhất, Canada tăng cường các lợi thế của
mình từ tài nguyên thiên nhiên và thành quả từ các chính sách và quy định
đúng đắn trong hai thập kỷ qua (đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính và năng
lượng), và đa dạng hóa các thị trường để giảm sự phụ thuộc vào các nhà đầu
tư, sản xuất và người tiêu dùng Mỹ, đồng thời tránh bị tổn thương từ các
chính sách của Mỹ; thứ hai là làm sâu sắc thêm NAFTA bằng cách tham gia
tích cực vào Hiệp ước đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương.
Trong báo cáo về triển vọng quan hệ thương mại, bài viết “Le Canada
et les Estats-Unis planifient I’avenir de leurs relations commercuales”
(Canada và Mỹ đang vạch ra tương lai của quan hệ thương mại song phương,
2014, http://www.international.gc.ca/media/comm/news-communiques) có đề
cập Hội đồng hợp tác quản lý Canada - Mỹ đã đưa ra Kế hoạch tương lai
nhằm tăng cường quan hệ thương mại giữa hai nước. Kế hoạch này tập trung
18
vào việc loại bỏ các chi phí không cần thiết và trùng lặp, giảm gánh nặng
hành chính, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng khả năng dự đoán của các
chuỗi cung ứng tích hợp. Kế hoạch này cũng có mục đích hợp tác quản lý cho
một loạt các vấn đề nhằm ngăn ngừa mâu thuẫn trong tương lai.
Thông qua Hội đồng hợp tác quản lý Canada - Mỹ, chính phủ Canada
và Mỹ đã cố gắng để đơn giản hóa và hài hòa hóa các quy định. Việc hài hòa
các phương pháp quản lý đã làm giảm chi phí cho doanh nghiệp và người tiêu
dùng Canada, tăng cơ hội thương mại và đầu tư, và cuối cùng, tạo ra nhiều
công ăn việc làm ở cả hai bên biên giới.
1.2. Các công trình khoa học trong nước
Ở Việt Nam, nhiều cơ quan, trường học có công trình, bài viết nghiên
cứu về Mỹ và Canada, hoặc kinh tế Mỹ và kinh tế Canada, nhưng nghiên cứu
về quan hệ Canada - Mỹ nói chung và quan hệ thương mại giữa hai nước nói
riêng còn rất khiêm tốn. Trong đó, về quan hệ Canada - Mỹ nói chung có thể
kể đến là cuốn sách “Quan hệ Canada - Mỹ: Những bài học kinh nghiệm”
(Học viện Quan hệ quốc tế, 2006) của Vụ châu Mỹ, Bộ ngoại giao. Cuốn sách
này khẳng định giữa hai nước có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, chính trị
và văn hóa, nhưng tương quan so sánh lực lượng giữa hai nước rất chênh lệch,
Mỹ luôn mạnh hơn Canada nhiều lần. Những đặc điểm địa lý, lịch sử, chính
trị, kinh tế và văn hóa này có tác động sâu sắc đến quan hệ giữa Canada và
Mỹ. Các tác giả cũng đề cập rất cụ thể các bài học kinh nghiệm của Canada
trong ứng xử quan hệ với Mỹ, đó là: tìm đối trọng với Mỹ để giữa vững độc
lập, chủ quyền và đảm bảo an ninh quốc gia; xây dựng khuôn khổ quan hệ
hòa bình, hợp tác, ổn định với Mỹ và tạo ra lợi ích đan xen giữa hai nước; vừa
hợp tác vừa đấu tranh hòa bình với Mỹ. Cuốn sách này có thể tham khảo để
hiểu rõ hơn về quan hệ Canada - Mỹ, trong đó có quan hệ thương mại.
Trong bài viết “Quan hệ năng lượng Canada - Mỹ” của Nguyễn Khánh
Vân đăng tải trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 7 năm 2008, tác giả nhận
định thương mại năng lượng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động trao đổi
buôn bán giữa hai quốc gia. Kim ngạch buôn bán năng lượng với Mỹ chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng xuất khẩu của Canada, và ngược lại, Canada cũng là
đối tác quan trọng của Mỹ trong hoạt động trao đổi năng lượng. Tác giả cũng
19
có đánh giá tổng thể triển vọng mối quan hệ năng lượng Canada - Mỹ giai
đoạn 2010 - 2020, trong đó quan hệ năng lượng giữa hai nước dựa trên những
cơ sở vững chắc giữa một quốc gia có nguồn cung ứng năng lượng dồi dào và
một quốc gia có nhu cầu sử dụng năng lượng lớn nhất thế giới.
Nguyễn Thiết Sơn trong bài viết “Canada: Một nền kinh tế phát triển
cao” (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Số 5/1998) đã khái quát về nền kinh tế
Canada, quan hệ kinh tế Canada - Mỹ và vai trò của kinh tế Canada trên thế
giới. Trong đó, tác giả có đề cập: phần lớn xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của
Canada được thực hiện với Mỹ: Mỹ chiếm trên 80% giá trị xuất khẩu hàng
hoá của Canada, và cung cấp khoảng 75% giá trị hàng hoá nhập khẩu của
Canada. Tuy nhiên, cho đến nay, tỷ lệ này có xu hướng giảm do cả hai nước
đều thực hiện chính sách đa dạng hóa đối tác thương mại.
Có nhiều vấn đề nổi lên trong mọi lĩnh vực như tranh cãi về thương
mại, làn sóng nhập cư và hợp tác quân sự. Đặc biệt, điều luật “Mua hàng Mỹ”
của Tổng thống Barack Obama đã bị Canada và Mexico phản đối kịch liệt và
cho rằng đó thực chất là chủ nghĩa bảo hộ. Việc công khai yêu cầu các dự án
xây dựng phải mua sản phẩm công ty Mỹ là sự vi phạm nghiêm trọng
NAFTA. Trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu, chủ nghĩa bảo hộ nổi lên ở
tất cả các nước; dự luật này là điển hình của chủ nghĩa bảo hộ, quy định chỉ
được mua hàng sản xuất trong nước đối với các công trình phục hồi kinh tế sử
dụng các gói kích thích của chính phủ. Dự luật này tác động mạnh nhất đến
Canada. Nhiều xung đột khác còn liên quan đến tình trạng nhập cư và vận tải
hàng hoá giữa ba nước Bắc Mỹ.
Bài viết “Một số nhân tố tác động đến quan hệ thương mại Canada -
Mỹ trong thập kỷ qua” của nghiên cứu sinh, đăng tải trên Tạp chí châu Mỹ
ngày nay, số 3 năm 2012 phân tích các nhân tố khách quan cũng như chủ
quan tác động đến quan hệ thương mại hai nước. Đặc biệt tương đồng, khác
biệt giữa kinh tế Canada và Mỹ, khả năng bổ sung lẫn nhau giữa hai nền kinh
tế tác động mạnh đến quan hệ thương mại giữa hai nước. Bài viết này mới chỉ
dừng lại ở phân tích các nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ thương mại
Canada - Mỹ mà chưa đề cập đến thực trạng và triển vọng quan hệ.
20
Thực trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ được thể hiện trong bài
tạp chí “Thực trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong thập kỷ qua” của
nghiên cứu sinh đăng tải trên Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 9/2012. Quan hệ
trong lĩnh vực kinh tế thương mại giữa Canada và Mỹ là thể hiện rõ nét nhất
của quy mô hội nhập sâu rộng giữa hai nước. Mối quan hệ thương mại song
phương giữa Canada và Mỹ ngày càng phát triển dựa trên cả lịch sử quan hệ
lâu dài giữa hai nước, địa lý có chung đường biên giới thuận lợi cho giao
thương kinh tế hai nước cùng phát triển mạnh mẽ.
Tác giả Nguyễn Tuấn Minh (2013) trong bài viết “Quan hệ kinh tế
xuyên biên giới Hoa Kỳ - Canada” (Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 11) đề cập
đến thực trạng hợp tác kinh tế xuyên biên giới giữa hai nước và việc hai nước
quản lý hợp tác xuyên biên giới như thế nào để phát huy được tối đa lợi ích
mang lại từ mối quan hệ kinh tế này.
Các bài viết về quan hệ đầu tư của Mỹ tại Canada và đầu tư của
Canada tại Mỹ của tác giả Bùi Thành Nam trên Tạp chí châu Mỹ ngày nay số
8/2014 (tr 9-17), và số 3/2015 (tr3-11) đã cho thấy bức tranh tổng thể về quan
hệ đầu tư song phương trong thập kỷ qua. Tác giả cũng đề cập đến cơ sở hội
nhập và pháp lý của quan hệ kinh tế Canada - Mỹ. Đây được xem là cơ sở tốt
đẹp cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển.
1.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
trong luận án
1.3.1. Đánh giá chung về kết quả của các công trình đã nghiên cứu
Dù tiếp cận dưới góc độ lý luận hay thực tiễn, các công trình nghiên cứu
trên đã đề cập và phản ánh được nhiều góc cạnh về quan hệ thương mại
Canada - Mỹ.
Một là, một số nghiên cứu đã cho thấy bối cảnh mới của quan hệ thương
mại Canada - Mỹ trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, trong đó đặc biệt phải
kể đến sự nổi lên của Trung Quốc, sự kiện 11/9 và khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008, đã làm cho thương mại quốc tế nói chung và quan hệ thương
mại giữa hai nước nói riêng có những biến đổi nhất định.
Hai là, một số công trình đã cho thấy thực trạng và thách thức, bất đồng
trong quan hệ thương mại Canada - Mỹ.
21
Ba là, nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa hai nền kinh tế và tác động của quan hệ thương mại đến phát triển kinh
tế hai nước.
Bốn là, một số nghiên cứu đã phân tích cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
hai nước, cho thấy mặc dù Canada và Mỹ có hệ thống luật và thể chế giải
quyết bất đồng hiệu quả, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế.
Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên là tài liệu có giá trị
tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài này. Tác giả
luận án sẽ nghiên cứu, chọn lựa kế thừa các kết quả nghiên cứu này trong quá
trình thực hiện luận án của mình.
1.3.2. Những vấn đề còn chưa được đề cập nhiều, cần tiếp tục nghiên
cứu
Từ thực trạng nghiên cứu ở trong và ngoài nước như trên, có thể thấy
rằng vẫn còn những vấn đề còn chưa được nghiên cứu sâu, do đó cần tiếp tục
nghiên cứu. Thực tế trong các công trình nghiên cứu ở ngoài nước có rất ít
công trình phân tích toàn diện các mặt, từ thực trạng, thành công, hạn chế, lợi
ích của quan hệ thương mại đối với hai nước cũng như dự báo triển vọng. Ở
các nghiên cứu trong nước cũng mới chỉ đề cập đến một mặt nào đó chứ chưa
có công trình nào nghiên cứu toàn diện về quan hệ thương mại giữa Canada
và Mỹ. Cũng chưa có công trình nào đề cập đến hàm ý của quan hệ thương
mại Canada - Mỹ đối với Việt Nam. Trong khi đó, do cả Canada và Mỹ đều
là các đối tác quan trọng bậc nhất của Việt Nam, việc nghiên cứu đề tài này
sẽ góp phần hiểu rõ hơn về Canada, về Mỹ và quan hệ thương mại Canada -
Mỹ trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI.
Vì thế, đề tài luận án “Quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI” là cần thiết, không trùng lặp với các công trình khoa
học đã công bố và có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng.
Luận án hướng nghiên cứu của mình vào quan hệ thương mại Canada -
Mỹ trong điều kiện cụ thể từ 2001 đến nay và dự báo đến 2020-2030.
22
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN CỦA QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI CANADA - MỸ
2.1. Cơ sở lý luận về thương mại quốc tế
2.1.1. Tổng quan về thương mại quốc tế
Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ giữa
hai hay nhiều đối tác. Thương mại quốc tế (TMQT) là việc trao đổi hàng hóa
và dịch vụ giữa các quốc gia thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế và
lợi nhuận [8:tr.9]. Thương mại quốc tế có tính chất sống còn do nhờ có giao
dịch thương mại mà mỗi quốc gia mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng.
Mặc dù TMQT đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người, nhưng tầm quan
trọng kinh tế, xã hội và chính trị của hoạt động này mới được để ý nhiều trong
vài thế kỷ gần đây. TMQT phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công
nghiệp hóa, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên
ngoài. Chính việc tăng cường TMQT thường được xem là ý nghĩa cơ bản của
toàn cầu hóa.
- Đặc điểm của thương mại quốc tế: Trong những thập niên gần đây, quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới. Đây là một xu thế mang tính tất yếu khách quan với những biểu hiện
mới về vai trò của TMQT, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ… Quá trình
này đã có tác động lớn đến nền kinh tế thế giới, đặc biệt là tạo điều kiện thuận
lợi cho thương mại quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Kết quả
là tăng trưởng của TMQT lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng sản xuất,
trong đó thương mại nội ngành đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng của
mậu dịch quốc tế. Cơ cấu hàng hóa trong TMQT có sự thay đổi sâu sắc theo
hướng giảm đáng kể tỷ trọng nhóm hàng lương thực, thực phẩm; tăng nhanh
tỷ trọng nhóm hàng dầu mỏ và khí đốt; giảm tỷ trọng hàng thô, tăng nhanh tỷ
trọng sản phẩm chế biến, công nghiệp chế tạo; giảm tỷ trọng những mặt hàng
có hàm lượng lao động giản đơn, tăng nhanh những mặt hàng có hàm lượng
lao động thành thạo, công nghệ cao. Mặc dù giá trị thương mại hàng hóa vẫn
lớn hơn giá trị thương mại dịch vụ, nhưng tốc độ tăng trưởng của thương mại
23
dịch vụ những năm gần đây rất cao, cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng
của khu vực này.
Nền kinh tế thế giới ngày càng mở rộng phạm vi và phương thức cạnh
tranh với nhiều công cụ khác nhau. Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày
càng được rút ngắn, việc đổi mới thiết bị, công nghệ, mẫu mã hàng hóa diễn
ra liên tục. Sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc đẩy tự
do hóa thương mại, mặt khác các rào cản bảo hộ ngày càng tinh vi hơn.
- Lợi ích và rủi ro của thương mại quốc tế
Khi có thương mại, cả nước giàu và nước nghèo đều có lợi, dựa trên lợi
thế so sánh của nước đó (nguồn lực: công nghệ, lao động, vốn, đất đai, tài
nguyên…), nguồn lực đặc biệt này hiện cũng đã thay đổi nhưng đôi khi xét về
mặt quốc gia nguồn lực đó phải gắn liền với nền kinh tế tri thức, ví dụ lợi thế
về lao động chân tay giá rẻ hiện không còn là nguồn lực đặc biệt nữa vì hàm
lượng lao động cao đang mất dần năng lực cạnh tranh. Vấn đề mấu chốt là sử
dụng lợi thế so sánh có được từ sự khác nhau về công nghệ, tính khác nhau về
sự sẵn có của nguồn lực và nguồn lực đặc biệt.
Nhờ có thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ được hưởng lợi nhờ chuyên
sản xuất những hàng hoá và dịch vụ sản xuất hiệu quả nhất và nhờ trao đổi
những hàng hoá và dịch vụ này để có được những hàng hoá và dịch vụ mà các
quốc gia khác sản xuất với chất lượng cao hơn. Với cách làm như vậy, các
quốc gia sẽ được hưởng lợi từ việc sản xuất hiệu quả hơn, người tiêu dùng có
nhiều lựa chọn hơn, hàng hoá và dịch vụ có chất lượng tốt hơn nhưng giá rẻ
hơn. Việc dỡ bỏ những rào cản do chính phủ dựng lên đối với thương mại sẽ
cho phép mỗi cá nhân được tiếp cận thị trường rộng lớn với đầy đủ các loại
mặt hàng [3].
TMQT ngày nay đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của
kinh tế quốc gia cũng như toàn cầu, thể hiện ở giá trị, tốc độ tăng trưởng và
những tác động về kinh tế - xã hội, tạo ra lợi ích đáng kể cho người tiêu dùng,
sản xuất và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đối với người tiêu dùng, TMQT
làm tăng khả năng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ và hưởng lợi từ mức giá mang
tính cạnh tranh quốc tế. Đối với các nhà sản xuất trong nước, việc phải trực
tiếp cạnh tranh với các nhà sản xuất khác trên thế giới, cả trên thị trường nội
24
địa lẫn thị trường xuất khẩu đã thúc đẩy họ không ngừng sáng tạo để nâng cao
năng lực cạnh tranh về giá cả lẫn chất lượng sản phẩm, điều này khiến họ có
thể đạt được hiệu quả về chi phí sản xuất thông qua nền sản xuất quy mô. Đối
với toàn bộ nền kinh tế, TMQT làm gia tăng quá trình phân công lao động
quốc tế kể cả chiều rộng lẫn chiều sâu, từ đó giúp nền kinh tế mở rộng quy
mô sản xuất và tiêu dùng của mình, đồng thời tăng sản lượng và thu nhập cho
nền kinh tế thế giới. Ngoài ra, TMQT còn là kênh chuyển giao công nghệ và
kỹ năng quản lý tiên tiến [4],[5],[6].
Bên cạnh cơ hội và lợi ích, TMQT tiềm ẩn nhiều rủi ro: chậm thanh
toán, an toàn hàng hóa trên đường vận chuyển, hàng không đúng chất lượng
quảng cáo; xét tới ngành thì rủi ro về xác định cầu không chuẩn xác thì khi
đưa ra sản xuất cung sẽ vượt cầu, khi đó, có sức ép về giá và buộc doanh
nghiệp phải giảm giá, chịu nguy cơ thua lỗ; đối với quốc gia: vấn đề như xác
định nhiều ngành mũi nhọn không chuẩn, xác định chiến lược không đúng…
ngoài ra còn có rủi ro về vận hành công nghệ. Rủi ro luôn tiềm ẩn, đa dạng,
không phải khi nào cũng có thể xác định được nên quan trọng là phải xác định
chiến lược cho đúng. Nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro trong TMQT là
do khoảng cách về địa lý dẫn đến hai bên xuất - nhập khẩu thiếu thông tin về
nhau, bên xuất khẩu không nắm được khả năng thanh toán của bên nhập khẩu,
và ngược lại, bên nhập khẩu không nắm được khả năng thực hiện hợp đồng
của bên xuất khẩu; ngoài ra, còn do sự thiếu hiểu biết của hai bên về luật
TMQT cũng như luật thương mại của hai nước [8],[9],[17].
2.1.2. Các lý thuyết thương mại quốc tế
Có nhiều lý thuyết về thương mại quốc tế, từ lý thuyết cổ điển, tân cổ
điển đến các lý thuyết thương mại quốc tế hiện đại; trong khuôn khổ phân tích
này tác giả chỉ đề cập đến một số lý thuyết tiêu biểu về thị trường tự do và tự
do hóa mậu dịch như Lý thuyết lợi thế tuyệt đối, Lý thuyết lợi thế so sánh (lợi
thế tương đối), Lý thuyết thương mại mới - thương mại nội ngành.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith: để lý giải về vai trò của
ngoại thương trong việc làm tăng của cải của các dân tộc, năm 1776 Adam
Smith đã xuất bản tác phẩm nổi tiếng “Của cải của các dân tộc - the wealth of
nations”. Ông đưa ra ý tưởng về lợi thế tuyệt đối để giải thích nguyên nhân
25
dẫn đến TMQT và lợi ích của nó. Một quốc gia có lợi thế tuyệt đối khi
chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu mặt hàng có chi phí sản xuất thấp hơn
một cách tuyệt đối so với quốc gia khác. Khi đó, nhờ phân công lao động và
chuyên môn hóa, cải tiến công nghệ, sản lượng của các loại hàng hóa sẽ tăng
và thông qua trao đổi TMQT các quốc gia đều thu được lợi ích.
Tuy nhiên, quan điểm về lợi thế tuyệt đối không giải thích được điều gì
sẽ xảy ra nếu như một trong hai nước có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng,
đồng thời lý thuyết này cũng chưa phản ánh được đầy đủ những khác biệt
giữa các nước. Ngoài những khác biệt về tài nguyên thiên nhiên và địa lý, các
nước còn phân biệt với nhau bởi năng suất lao động, nhu cầu thị trường và
khả năng cung ứng và sử dụng các nguồn lực. Các hạn chế này sẽ được làm rõ
trong lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo.
Lý thuyết lợi thế so sánh: Để thể hiện đầy đủ sự khác biệt giữa các nước,
các nhà kinh tế đã đưa ra quan điểm về lợi thế so sánh hay còn được gọi là lợi
thế tương đối. Quan điểm này được nhà kinh tế học người Anh David Ricardo
đưa ra lần đầu tiên vào đầu thế kỷ XIX, theo đó TMQT vẫn có thể xảy ra và
đem lại lợi ích ngay cả khi quốc gia có lợi thế tuyệt đối hoặc không có lợi thế
tuyệt đối trong sản xuất tất cả các mặt hàng, các nước sẽ chuyên môn hóa vào
việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối
thấp hơn các nước khác. Ông đã giải thích sự khác nhau về chi phí tương đối
giữa các nước thông qua sự khác biệt về năng suất lao động với giả thiết lao
động là yếu tố sản xuất duy nhất và có lợi tức không đổi theo quy mô.
Sự khác biệt và đa dạng nguồn lực giữa các quốc gia do điều kiện tự
nhiên mang lại dẫn đến các quốc gia luôn có lợi thế so sánh với nhau ngay cả
những nước ở cạnh nhau. Do đó, mở cửa, hợp tác qua biên giới sẽ thu được
lợi ích cho cả hai bên. Hợp tác qua biên giới của hai nước láng giềng còn
thuận lợi hơn bởi chi phí vận chuyển không cao, cơ cấu tiêu dùng nhiều sản
phẩm tương đồng do chia sẻ những điểm chung về văn hóa và mức sống, và
đặc biệt hàng rào cản thương mại giữa các nước được loại bỏ. Chính điều này
đã thúc đẩy hợp tác thương mại xuyên biên giới một cách tự nhiên. Điều này
đặc biệt đúng với hai nước có kinh tế đường biên lớn như Canada và Mỹ.
26
Điểm hạn chế của mô hình Ricardo là lý thuyết này được xây dựng trên
nền tảng lao động là yếu tố duy nhất quyết định lợi thế so sánh của một nước,
trên thực tế, các yếu tố sản xuất khác như tư bản hay tài nguyên thiên nhiên
cũng có thể mang lại lợi thế so sánh cho mỗi nước.
Lý thuyết của D.Ricardo sang đầu thế kỷ XX, sau chiến tranh thế giới
lần thứ nhất đã thể hiện các hạn chế. Vì thế thuyết về lợi thế tương đối - Mô
hình H-O (E. Hechscher và B.Ohlin) đã ra đời và hoàn thiện hơn lý thuyết về
lợi thế so sánh. Mô hình H-O đã chỉ ra rằng sản lượng của hai nước sẽ tăng
lên nếu như mỗi nước tập trung sản xuất để xuất khẩu những hàng hóa sử
dụng yếu tố sản xuất dư thừa và tiết kiệm yếu tố sản xuất khan hiếm. Ngược
lại, nhập khẩu những hàng hóa dùng nhiều yếu tố khan hiếm và ít hàm lượng
yếu tố dư thừa. Như vậy, sự khác biệt trong chi phí sản xuất hàng hóa và lợi
thế so sánh giữa các nước được lý thuyết H-O-S (Hecksher - Oslin và
Samuelon) phân tích từ sự khác biệt giữa tính dư thừa và khan hiếm của các
yếu tố sản xuất, vì thế mô hình này còn được gọi là lý thuyết các yếu tố sản
xuất. Lý thuyết này kết luận nhờ có mậu dịch các nước có thể mở rộng năng
lực sản xuất, vì thế mậu dịch là động cơ của tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, mô hình H-O cũng mới chỉ ra được lợi ích về thu nhập cho
các nước tham gia TMQT song nó không đề cập đến vấn đề phân phối thu
nhập. Thương mại có thể mang lại thu nhập cao hơn cho toàn xã hội nhưng
không nhất thiết mang lại thu nhập cao hơn cho mọi cá nhân. Mô hình H-O
ngự trị tư duy kinh tế quốc tế trong suốt nửa thế kỷ và giải thích được hầu hết
các mối quan hệ TMQT, thế nhưng có những đặc điểm trong TMQT mà mô
hình này không thể giải thích, trong đó có thương mại nội ngành.
Một trong những lý do tại sao các nhà kinh tế đặc biệt chú ý tới thương
mại nội ngành là do nó mâu thuẫn với các tiên đoán của lý thuyết thương mại
truyền thống. Theo lý thuyết thương mại truyền thống, mỗi nước sẽ chuyên
sâu vào những hàng hóa mà họ có lợi thế so sánh [58]. Do đó, các quốc gia có
lợi thế về lao động, sẽ có xu hướng để sản xuất các sản phẩm thâm dụng lao
động như quần áo, giày dép. Các quốc gia khác với lợi thế về vốn sẽ sản xuất
các sản phẩm thâm dụng vốn như thép. Điều này được biết đến như là thuyết
thương mại Hecksher-Ohlin.
27
Lý thuyết Hecksher-Ohlin có thể được mở rộng để trở nên thực tế hơn.
Lý thuyết này nhấn mạnh sự khác biệt về các nhân tố nguồn lực, đặc biệt là
vốn, lao động và đất đai. Các nguồn lực này có thể được chia thành các nhóm
nhỏ, ví dụ, lao động có thể được chia thành lao động có tay nghề và lao động
phổ thông, vốn có thể được chia thành vốn vật chất và con người, và đất có
thể được chia thành đất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Công nghệ cũng có
thể trở thành yếu tố sản xuất. Do đó, các nước có nguồn lực mạnh về lực
lượng các nhà khoa học và kỹ sư sẽ sản xuất hàng hóa khoa học thâm dụng tri
thức. Tuy nhiên, ngay cả khi được mở rộng, lý thuyết Hecksher-Ohlin vẫn
không giải thích được rất nhiều vấn đề về thương mại. Lý thuyết Hecksher-
Ohlin không thể giải thích hình thức thương mại nội ngành mà phần lớn chỉ
dự đoán được thương mại liên ngành và chuyên môn hóa liên ngành [64].
Các lý thuyết lợi thế hiện đại, trong đó tiêu biểu phải kể đến Lý thuyết
thương mại mới - thương mại nội ngành. Thương mại nội ngành là hoạt động
trao đổi hai chiều đối với các hàng hóa được sản xuất trong cùng một ngành.
Năm 1979, Paul Krugman đã đánh dấu sự ra đời của lý thuyết thương mại
mới trên cơ sở lý luận về tính kinh tế của quy mô, sự đa dạng về sự sở thích
của người tiêu dùng và cạnh tranh độc quyền .
Để giải thích lý thuyết thương mại nội ngành, chủ yếu có ba yếu tố sau:
1, sự khác biệt về cầu, 2, thương mại qua biên giới, 3, khác biệt về tỉ lệ nhân
tố theo giai đoạn sản xuất, cụ thể là:
- Sự khác biệt về cầu: Một trong những điểm yếu của lý thuyết
Hecksher-Ohlin là nó bỏ qua các yếu tố về phía cầu trong thương mại quốc tế.
Theo lý thuyết Hecksher-Ohlin, thị hiếu được giả định là giống nhau ở các
nước khác nhau. Do đó, nhu cầu tiêu dùng trong hai nước không có ảnh
hưởng đến giá hàng hóa tương đối tại nước khác nhau. Sự khác biệt về chi phí
nhân tố giữa các quốc gia là yếu tố quyết định sự khác biệt về giá cả tương
đối của hàng hoá. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy nhân tố nguồn lực có thể
không phải là một yếu tố quyết định của mô hình thương mại, giá cả tương
đối có thể khác nhau giữa hai nước ngay cả khi các nhân tố nguồn lực giống
hệt nhau. Nếu chức năng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng khác nhau giữa các quốc
gia, khi đó nhân tố nguồn lực có thể không được sử dụng để giải thích cho mô
28
hình thương mại. Sự khác biệt về tiêu dùng giữa các quốc gia đặt ra thách
thức đối với lý thuyết Heckscher-Ohlin. Nếu người tiêu dùng Canada có thị
hiếu thích hàng hóa thâm dụng tri thức hơn ở các nước khác, khi đó trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia có thể làm giảm giá tương đối của hàng hóa thâm
dụng tri thức (tương ứng với giá tự cấp của Canada) và dẫn đến làm tăng sản
lượng thâm dụng vốn của hàng hóa Canada. Nếu hai nước có giới hạn khả
năng sản xuất giống nhau nhưng ngành hàng khác nhau, khi đó thương mại sẽ
được quyết định bởi sự khác biệt về thị hiếu.
Tuy nhiên, nếu thị hiếu của một quốc gia với nguồn lao động dồi dào
thiên hẳn về phía sản phẩm thâm dụng tri thức, khi đó nước có nhu cầu không
xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng tri thức và có thể nhập khẩu các mặt hàng
thâm dụng tri thức. Như vậy, IIT có thể giải thích được nếu Canada có thị
hiếu tiêu thụ mạnh đối với các mặt hàng thâm dụng tri thức.
- Thương mại qua biên giới: Các nhà sản xuất sẽ xác định vị trí các nhà
máy địa phương càng gần thị trường càng tốt để giảm thiểu chi phí vận
chuyển. Do đó, mỗi nhà sản xuất sẽ giải quyết vấn đề về chi phí vận chuyển
bằng cách di chuyển sản xuất tới gần một khu vực thị trường tiềm năng. Ví
dụ, hai nước có chung biên giới và có hai nhà sản xuất. Trong hình 2.1, các
nhà sản xuất A tại Mỹ có một thị trường được thể hiện bởi các vòng tròn xung
quanh A. Nhà sản xuất B tại Canada có một thị trường được thể hiện bởi các
vòng tròn xung quanh B. Khi có trao đổi hàng hóa giữa hai nước. Các nhà sản
xuất tại Mỹ sẽ đồng thời xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm từ Canada.
Các nhà sản xuất tại Canada sẽ làm như vậy. Điều này dẫn đến thương mại
nội ngành.
Mỹ
A
B
Canada
Hình 2.1: Ví dụ về thương mại nội ngành giữa hai nước có chung biên giới
29
- Khác biệt về tỉ lệ nhân tố theo giai đoạn sản xuất
Một hình thức khác của IIT xảy ra khi một quốc gia phát triển đóng vai
trò là nước xuất khẩu linh kiện, bộ phận và nhập khẩu các thành phần sản
phẩm cuối cùng sẽ gửi hàng hoá bán thành phẩm sang các nước đang phát
triển hoặc kém phát triển để lắp ráp và sau đó tái nhập khẩu hàng hóa thành
phẩm. Ví dụ điển hình nhất của hình thức thương mại này là hàng điện tử.
Hình thức khác của IIT xảy ra khi các công ty đa quốc gia di dời các công
đoạn chế tạo hoặc lắp ráp cuối cùng sang các địa điểm tại các nước đang phát
triển hoặc các nước kém phát triển hơn. Các công đoạn chế tạo hoặc lắp ráp
cuối cùng xảy ra ở các nước đang phát triển sử dụng linh kiện và bán thành
phẩm khác nhập khẩu từ công ty mẹ ở các nước phát triển. Sau khi hoàn tất,
hàng hóa được xuất khẩu trở lại các nước công nghiệp. Trong một số trường
hợp, nhà sản xuất ở các nước đang phát triển có thể được ký hợp đồng phụ để
thực hiện chế biến và lắp ráp cuối cùng.
Các mô hình thương mại nội ngành chủ yếu: 1) mô hình theo chiều
ngang: liên quan đến xuất khẩu đồng thời nhập khẩu hàng hóa được phân loại
trong cùng lĩnh vực ở cùng giai đoạn chế biến, điều này có thể dựa trên các
sản phẩm khác biệt; 2) mô hình theo chiều dọc: liên quan đến xuất khẩu đồng
thời nhập khẩu hàng hóa được phân loại trong cùng một khu vực nhưng ở các
giai đoạn chế biến khác nhau.
Thương mại nội ngành ngang (HIIT) biểu thị sự trao đổi sản phẩm với
các thuộc tính khác nhau (sản phẩm phân biệt theo chiều ngang) được sản
xuất với cường độ yếu tố giống nhau, với đặc trưng về chất lượng sản phẩm
tương tự và bán với cùng một mức giá. Cơ sở lý thuyết về HIIT đã được phát
triển bởi các nhà kinh tế như Lancaster (1980), Krugman (1981), Helpman
(1981; 1987) và Bergstrand (1990) [63]. Thương mại nội ngành dọc (VIIT) đề
cập đến thương mại của các sản phẩm có chất lượng khác biệt (sản phẩm
phân biệt theo chiều dọc) sử dụng cường độ yếu tố khác nhau và được bán với
giá khác nhau. Cơ sở lý thuyết cho các loại hình IIT này được phát triển bởi
các nhà kinh tế Falvey (1981) [72] và Falvey và Kierzkowski (1987). IIT sẽ
30
diễn ra trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo nhưng không tồn tại lợi nhuận
tăng theo quy mô sản xuất. Sự khác biệt giữa HIIT và VIIT không có nghĩa là
IIT không thể xảy ra trong các sản phẩm đồng nhất. "Trong trường hợp cực
đoan, hai nước giống hệt nhau về kích thước, mô hình thị hiếu và khả năng
tiếp cận với công nghệ vẫn có thể tham gia vào thương mại nội ngành khi
thương mại diễn ra trong điều kiện độc quyền kép (duopoly)" (Williamson và
Milner (1991)).
Các mô hình của HIIT áp dụng trong phân tích tính kinh tế theo quy
mô kinh tế và cạnh tranh không hoàn hảo. Các mô hình của HIIT trong thị
trường cạnh tranh độc quyền có chung giả định về lợi nhuận tăng theo quy
mô, tự do tham gia và rời bỏ thị trường và chung giả định là thị hiếu của
người tiêu dùng là đủ đa dạng để đảm bảo sản phẩm duy nhất của một số
lượng lớn các doanh nghiệp có thể cùng tồn tại trong trạng thái cân bằng [81].
Thương mại nội ngành dọc: Công trình đầu tiên liên quan đến VIIT
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo là của Falvey (1981) [72]. Trong mô
hình của mình, Falvey cho thấy VIIT có thể xảy ra khi có một số lượng lớn
các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm có chất lượng khác nhau và không
có vai trò đối với tính kinh tế theo quy mô. Ngược lại, Shaked và Suttan
(1984) [125] đã phát triển mô hình VIIT trong đó VIIT được thúc đẩy bởi các
nền kinh tế quy mô và số lượng doanh nghiệp mang tính nội sinh. Ông đã cho
thấy rằng VIIT cũng có thể diễn ra trong một cấu trúc thị trường với số lượng
nhỏ của công ty. Kết quả là làm xuất hiện tình trạng "độc quyền tự nhiên".
Trên đây là phương pháp tiếp cận khác nhau để giải thích về việc trao
đổi các sản phẩm phân biệt theo chiều dọc và chiều ngang giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, khá khó khăn để chúng ta có thể lựa chọn mô hình tốt nhất bởi vì
chúng khác nhau trong giả định liên quan đến tính kinh tế theo quy mô, thị
hiếu của người tiêu dùng, và khác biệt hóa sản phẩm. Bảng 2.1 là tóm tắt các
mô hình đã đề cập ở trên.
31
Bảng 2.1: Tóm tắt các yếu tố quyết định mô hình thương mại Thương mại
Thương mại nội ngành
Thương mại liên ngành
Sản phẩm Phân biệt Phân biệt
đồng nhất theo chiều dọc theo chiều ngang
Cạnh tranh
Cạnh tranh
Cạnh tranh
Độc quyền
Độc quyền tập đoàn
độc quyền
hoàn hảo
hoàn hảo
tập đoàn
Lợi thế Khác biệt Chi phí cố
Cạnh tranh giá
Đa dạng
về
Đa
dạng
cạnh tranh tương đối về yếu định và Bertrand
tố nguồn lực R&D độ ưa thích
Lý tưởng
Heckscher Falvey, Shaked and Dixit,
Stiglitz
Lancaster
Eaton and
Ohlin Kierzkowski Suttan
Kruman Kierzkowski
Để đánh giá hoạt động thương mại nội ngành của một ngành hàng hay
một nhóm sản phẩm Glubel-Lloyd đã đưa ra chỉ số đo lường sau (đây là chỉ số
đo lường thương mại nội ngành phổ biến nhất):
T =
(X+IM) - │X - IM │
(X+IM)
Trong đó:
T: chỉ số đo lường thương mại nội ngành
X: Giá trị xuất khẩu của một ngành hàng, một nhóm sản phẩm
IM: Giá trị nhập khẩu của một ngành hàng, một nhóm sản phẩm
Thương mại nội ngành tồn tại khi T nằm trong khoảng (0;1) có nghĩa là 0
≤ T ≤ 1
Nếu T= 0 thì quốc gia đó chỉ xuất khẩu hoặc nhập khẩu, nghĩa là không tồn tại
thương mại nội ngành; Nếu T = 1 thì quốc gia đó có giá trị xuất khẩu bằng giá trị
nhập khẩu, tức là thương mại nội ngành đạt giá trị cực đại.
Các yếu tố quyết định thương mại nội ngành:
Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến IIT của một quốc gia gồm:
32
(1)Mức thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia: Như Adam
Smith đã chỉ ra rằng phân công lao động phụ thuộc vào kích thước của thị
trường, khi nào một quốc gia hội nhập hơn vào nền kinh tế quốc tế thì sẽ phải
đối mặt với một thị trường lớn hơn, và điều này dẫn đến phân công lao động.
Mức thu nhập bình quân đầu người của một nước càng cao thì nhu cầu về các
loại hàng hóa càng lớn và đa dạng hơn. Nhu cầu này dẫn đến tăng mức độ phân
biệt hóa sản phẩm, từ đó dẫn đến tăng thương mại nội ngành.
(2) Mức độ bình đẳng về thu nhập giữa các nước: Mức độ bình đẳng về
thu nhập đầu người giữa hai nước càng cao thì mức độ IIT càng lớn.
(3) Quy mô thị trường của một nước: Mức IIT sẽ lớn hơn ở một nước có
quy mô thị trường lớn hơn. Khi quy mô GDP lớn hơn thì nhu cầu về hàng hóa
khác biệt lớn hơn.
(4) Mức độ hội nhập kinh tế giữa các nước: Khi hai nước loại bỏ các rào
cản thương mại và thiết lập khu vực thương mại tự do thì IIT sẽ tăng lên, vì thế
hội nhập kinh tế giữa các quốc gia có thể là yếu tố thúc đẩy IIT.
(5) Khoảng cách địa lý: Hai nước có chung biên giới sẽ có IIT cao trong
tổng giao dịch thương mại. Sự gần gũi về địa lý làm tăng IIT.
Các đặc trưng của thương mại nội ngành:
Sự khác biệt sản phẩm trong một ngành: chất lượng và thiết kế; thiếu hiểu
biết của người tiêu dùng; khác biệt chương trình quảng bá sản phẩm; sự khác
biệt về địa điểm bán hàng và khả năng thỏa mãn nhu cầu của người mua.
Mức tăng trưởng của thương mại nội ngành khá cao do: nhà sản xuất tạo
sự khác biệt trong sản phẩm hoặc nhu cầu đa dạng; tiết kiệm chi phí vận chuyển;
chi phí sản xuất và giá cả giảm xuống do hiệu suất tăng theo quy mô; khác nhau
về khả năng cung ứng và đa dạng hóa sản phẩm.
Thương mại nội ngành nhấn mạnh tới hoạt động trao đổi những mặt hàng
có sự khác biệt trong một ngành hoàn toàn trái ngược với hoạt động thương mại
giữa các sản phẩm thuộc các ngành khác nhau. Thương mại nội ngành diễn ra
phổ biến giữa các quốc gia có cùng trình độ phát triển. Do đó, lý thuyết lợi thế so
sánh xem ra không phù hợp để giải thích hoạt động thương mại quốc tế nội
ngành.
Mối quan hệ giữa thương mại nội ngành và thương mại trong mô hình H-
O: Các nước có nguồn lực và công nghệ giống nhau thì thương mại nội ngành
33
chiếm tỉ trọng cao hơn so với thương mại theo mô hình H - O. Ngược lại các
nước có nguồn lực và công nghệ khác nhau thì thương mại nội ngành chiếm tỷ
trọng thấp hơn so với mô hình H - O vì ba lý do: (1) Lợi thế theo quy mô: khi
nguồn lực và công nghệ của các nước gần giống nhau thì các nước sẽ cùng phát
triển thương mại trong cùng một ngành hàng. Do cạnh tranh nên họ không thể
sản xuất cùng một lúc những sản phẩm tương tự nhau và sẽ có sự phân hóa và
khác biệt sản phẩm trong một ngành. Các quốc gia mở rộng quy mô sản xuất,
ứng dụng khoa học công nghệ mới và nâng cao chất lượng, số lượng sản phẩm
mà họ có lợi thế nhất, làm giảm giá thành đến mức thấp nhất, tạo ra sức cạnh
tranh thương mại nội ngành, dẫn tới thương mại nội ngành chiếm ưu thế; (2) Sự
đang dạng sở thích của người tiêu dùng: một mặt hàng mà phong phú về chủng
loại, mẫu mã, chất liệu, nhãn hiệu… cũng như giá tiền sẽ tạo ra nhiều lựa chọn
hơn trong tiêu dùng. Để đáp ứng được nhu cầu trong nước, các quốc gia sẽ nhập
nhiều sản phẩm ngoại hơn khiến cho thương mại nội ngành phát triển; (3) Lợi
thế so sánh: cùng một loại sản phẩm được sản xuất ở những nơi khác nhau đòi
hỏi tỷ lệ đầu vào khác nhau với những công nghệ khác nhau. Khi đó mỗi quốc
gia sẽ sản xuất - xuất khẩu sản phẩm phù hợp với mức công nghệ của mình và
nhập khẩu sản phẩm mà mức yếu tố đầu vào còn khan hiếm. Khi các mặt hàng
trong ngành càng có ít sự khác biệt thì chỉ có thương mại theo lợi thế so sánh,
nhưng khi các sản phẩm trong ngành có nhiều sự khác biệt thì có hai loại hình
thương mại dựa trên lợi thế so sánh và thương mại nội ngành. Các nước càng có
nguồn lực sẵn giống nhau và công nghệ giống nhau thì thương mại nội ngành
càng chiếm tỉ trọng cao hơn so với thương mại dựa trên lợi thế so sánh và ngược
lại.
Vì tỷ trọng thương mại nội ngành giữa các quốc gia trong cùng một khối
liên kết, các quốc gia có sự tương đồng về mức thu nhập hoặc giữa các quốc gia
tồn tại cầu chồng chéo (khối 1) thường lớn hơn so với tỷ trọng tương ứng giữa
các quốc gia không cùng một khối liên kết (khối 2) do tận dụng được lợi thế theo
quy mô. Vì Canada và Mỹ thuộc nhóm các quốc gia thuộc khối 1 và có thương
mại đường biên phát triển cho nên tỷ trọng thương mại nội ngành giữa hai nước
thường ở mức cao.
34
Bảng 2.2: Tỷ lệ thương mại theo ngành theo chỉ số GL trong quan
hệ thương mại Canada - Mỹ (1988-1999)
Ngành 1988 1989 1990 1993 1994 1995 1999
Nông nghiệp, săn bắn, rừng 0,19 0,19 0,22 0,26 0,26 0,25 0,29
Thực phẩm, đồ uống, thuốc lá 0,29 0,29 0,35 0,35 0,33 0,38 0,42
Khai thác mỏ, khai thác đá, dầu mỏ 0,12 0,18 0,21 0,11 0,11 0,11 0,12
Hóa chất 0,37 0,37 0,39 0,40 0,42 0,46 0,52
Gỗ, Giấy, In ấn 0,19 0,20 0,20 0,22 0,23 0,24 0,26
Dệt may, Da 0,39 0,37 0,41 0,45 0,45 0,48 0,49
Các loại sản phẩm khoáng vật phi kim loại 0,39 0,40 0,56 0,44 0,44 0,39 0,39
Các sản phẩm kim loại cơ bản và chế biến 0,39 0,40 0,42 0,44 0,45 0,45 0,50
Máy móc không sử dụng điện 0,60 0,58 0,58 0,58 0,57 0,57 0,61
Máy điện 0,54 0,58 0,67 0,60 0,61 0,65 0,62
Các loại phương tiện động cơ 0,67 0,66 0,59 0,54 0,54 0,52 0,51
Các loại thiết bị vận tải khác 0,65 0,52 0,57 0,52 0,48 0,51 0,53
Các ngành khác 0,55 0,53 0,52 0,58 0,54 0,53 0,45
Nguồn: Tổng hợp từ các thống kê của Martin Alexander Andresen (2000) [103]
Như vậy, qua việc phân tích và hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết liên
quan đến TMQT, có thể rút ra nhận xét:
- Đến nay có khá nhiều học thuyết về TMQT được đề xuất, phát triển
và ứng dụng, mỗi lý thuyết có những ưu điểm, hạn chế riêng, tuy nhiên tất cả
các học thuyết dù ít hay nhiều vẫn có chỗ đứng trong điều kiện hiện đại và
cần phải nghiên cứu vận dụng chúng.
- Thương mại giữa hai nước xảy ra phải dựa trên điều kiện là cả hai
nước đều hưởng lợi, mỗi quốc gia có những lợi thế sản xuất khác nhau với
các mặt hàng khác nhau. Bất kể quốc gia nào nếu muốn gia tăng nhiều hơn
của cải của dân tộc, muốn tăng trưởng nhanh hơn thì đều cần tiến hành các
quan hệ trao đổi với các nước khác dựa trên lợi thế so sánh của mình. Bên
cạnh đó, các nhà kinh tế học đã khẳng định rằng việc trao đổi hoàn toàn tự do
dựa trên cơ sở lợi thế so sánh sẽ đem lại lợi ích tối đa cho mỗi quốc gia cũng
như cho toàn xã hội.
- Thực tế cho thấy, trong TMQT giữa các quốc gia thì thương mại nội
ngành ngày càng trở nên quan trọng. Để xác định mức độ đo lường thương
mại nội ngành, các nhà kinh tế đã xây dựng các mô hình mà mở rộng cạnh
tranh không hoàn hảo sang một nền kinh tế mở với các giả định về lợi thế
theo quy mô, khác biệt hóa sản phẩm và sở thích của người tiêu dung về
35
nhiều loại hàng hóa (Paul Krugman, 1979; Lancaster, 1980). Cho tới nay, lý
thuyết Thương mại mới của P. Krugman (cùng với sự đóng góp lớn của
Bhagwati, Dixit, Helpman, Norman,…) đã trở thành lý thuyết chính trong
ngành TMQT, bổ sung cho lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo và
Heckscher-Ohlin. Trên cơ sở nội dung cơ bản của các lý thuyết này, các nhà
kinh tế học đã mở rộng và phát triển lý thuyết về lợi thế so sánh. Những
nghiên cứu trong lĩnh vực TMQT hơn 30 năm qua hầu hết đều dựa trên những
nền tảng của lý thuyết này.
- Đối với quan hệ thương mại giữa Canada và Mỹ: Canada và Mỹ đều
có lợi từ hội nhập kinh tế sâu rộng do các hiệp định thương mại tự do giữa hai
nước đều phản ánh lý thuyết về lợi thế so sánh, và lý thuyết thương mại nội
ngành. Các hiệp định thương mại giữa Canada và Mỹ bao gồm: Hiệp định về
ô tô (1965), xóa bỏ tất cả các loại thuế quan đánh vào các loại ô tô và linh
kiện vận chuyển bằng đường biển; Hiệp định thương mại tự do (CUSTA -
1989), gỡ bỏ nhiều rào cản thuế quan theo lộ trình 10 năm, mục đích của FTA
giữa Canada và Mỹ là: xóa bỏ các rào cản đối với thương mại hàng hóa và
dịch vụ giữa hai nước, thúc đẩy các điều kiện cạnh tranh công bằng; tự do hóa
điều kiện quan trọng cho đầu tư; thiết lập các quy định hiệu quả để cùng quản
lý hiệp định và giải quyết tranh chấp; đặt nền tảng thúc đẩy hơn nữa hợp tác
song phương và đa phương nhằm mở rộng và tăng cường lợi ích của Hiệp
định. Năm 1994, cùng với Mexico, Canada và Mỹ đã thành lập Hiệp định
thương mại tự do Bắc Mỹ, xóa bỏ phần lớn các loại thuế đánh vào các sản
phẩm thương mại giữa ba nước.
Thương mại nội ngành là một đặc điểm đặc trưng trong mô hình
thương mại giữa Canada và Mỹ, sở dĩ như vậy là do hai nước có khoảng cách
địa lý gần, đường biên dài; hội nhập kinh tế sâu rộng; thu nhập bình quân đầu
người cao; và hai nước có mức độ bình đẳng về thu nhập bình quân đầu
người. Mặc dù thương mại hàng hoá phân biệt theo chiều ngang là hình thức
giao dịch quan trọng nhất trước khi khi thành lập NAFTA, nhưng hiện nay
thương mại hàng hoá phân biệt theo chiều dọc là hình thức thương mại quan
trọng nhất giữa Canada và Mỹ. Sự gia tăng trong thương mại phân biệt theo
chiều dọc được thể hiện rõ trong ngành công nghiệp ô tô [103: tr26].
36
2.2. Các nhân tố tác động đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ
2.2.1. Nhân tố quốc tế và khu vực
2.2.1.1. Bối cảnh quốc tế
Xu thế toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa hiện nay đang diễn ra với tốc độ cực kỳ nhanh chóng về
mọi mặt, nổi bật nhất là về mặt kinh tế và thương mại quốc tế. Quá trình toàn
cầu hoá bùng nổ kể từ cuối thập niên 1980 đến nay đã tạo điều kiện phát triển
quan trọng cho quan hệ kinh tế giữa các bên tham gia nói chung và quan hệ
kinh tế thương mại - đầu tư giữa Canada và Mỹ nói riêng [79]. Trước hết, sự
bùng nổ về thương mại và kinh tế ở nhiều khu vực trên thế giới làm gia tăng
những đòi hỏi về hàng hoá tiêu dùng, dẫn tới việc các doanh nghiệp phải mở
rộng sản xuất. Trong xu thế chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế
ngày càng có vai trò chi phối nền sản xuất toàn cầu, việc hình thành các chuỗi
giá trị có tính toàn cầu ngày càng mạnh mẽ [21]. Hiện nay, hiếm có loại hàng
hoá nào chỉ được sản xuất bằng các yếu tố nội tại. Ba yếu tố chính làm gia
tăng các chuỗi giá trị toàn cầu là: thứ nhất, giảm chi phí vận chuyển, khi chi
phí này giảm thì các công ty có thể vận chuyển hàng hóa và dịch vụ của mình
đi xa hơn mà không làm mất tính cạnh tranh ở các thị trường mục tiêu, do đó
công ty ít có nhu cầu gần gũi với các nhà cung cấp và tiêu dùng của mình,
nhờ vậy họ có thể thiết lập cơ sở ở một vị trí có lợi thế cạnh tranh nhất; thứ
hai, tiến bộ về công nghệ, thông tin và truyền thông (ICT): ICT linh hoạt hơn,
thích nghi và rẻ hơn có nghĩa là các công ty ít bị ảnh hưởng về hạn chế
khoảng cách địa lý khi hoạt động tại các thị trường nước ngoài, những tiến bộ
về ICT cũng khiến thương mại dịch vụ phụ thuộc vào sự biến động rất nhanh
chóng của khối lượng dữ liệu (chẳng hạn như phát triển phần mềm, dịch vụ
tài chính); thứ ba, giảm rào cản đối với thương mại và đầu tư, số hiệp ước
thương mại và đầu tư song phương đã gia tăng nhanh chóng trong suốt hơn 20
năm qua, đối với quan hệ thương mại Canada - Mỹ thì NAFTA là thỏa thuận
quan trọng nhất.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng tăng, việc liên kết sản xuất giữa
các doanh nghiệp là yêu cầu sống còn nhằm đạt được mục tiêu chi phí thấp.
Việc tham gia vào các chuỗi giá trị sản xuất đó có thể được thực hiện bằng
37
nhiều cách, trong đó, một cách thức khá phổ biến là thúc đẩy quan hệ đầu tư
với các đối tác có năng lực [10], [80]. Với lợi thế là những nền sản xuất tiên
tiến, các nhà đầu tư của Canada và Mỹ dễ dàng chia sẻ kinh nghiệm thị
trường và tận dụng năng lực của nhau để tăng sản lượng.
Gia tăng thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài và di cư nguồn nhân
lực có kỹ năng tăng nhanh giữa các khối kinh tế lớn như Liên minh châu Âu
(EU), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ, khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
chẳng hạn, thương mại nội vùng chiếm ¾ tổng thương mại các nước EU.
Tương tự, 50% tổng thương mại NAFTA được thực hiện giữa ba nước thành
viên và con số này vẫn tiếp tục tăng. EU và NAFTA chiếm gần 13% tổng dân
số thế giới, nhưng chiếm hơn 60% GDP và 50% thương mại toàn cầu. Các
hiệp định thương mại khu vực, được hình thành từ sự gần gũi về địa lý và các
mối quan hệ kinh tế và xã hội lâu dài tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong
việc tăng khối lượng thương mại của khu vực. Đây cũng là đặc trưng của toàn
cầu hóa hiện thời.
Toàn cầu hóa không chỉ dẫn đến việc gia tăng phụ thuộc kinh tế giữa
các quốc gia mà còn tác động lớn đến các khu vực, đặc biệt là tại EU,
NAFTA và châu Á. Tại Bắc Mỹ, NAFTA tiếp tục phát triển trong hoàn cảnh
phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các khối thương mại tại khu vực
châu Âu và châu Á. Tại châu Á, Trung Quốc đang củng cố thương mại khu
vực Đông Á. Tại châu Âu, EU đang trong quá trình mở rộng với việc kết nạp
các quốc gia Đông Âu và các nước khác, đầu tư vốn của châu Âu vào các
nước Đông Âu có thể giảm chi phí sản xuất, tạo ưu thế cạnh tranh với các
nước Đông Á.
Toàn cầu hóa và gia tăng tự do hóa thương mại đã tạo ra những cơ hội
chưa từng có cho các doanh nghiệp đa dạng hóa và mở rộng thị trường, đồng
thời cũng đặt các doanh nghiệp Canada trước sức ép cạnh tranh ngày càng gia
tăng. Toàn cầu hóa làm tăng cường hội nhập quốc tế, đây cũng chính là một
trong những đặc trưng cơ bản của quan hệ Canada - Mỹ, trong đó thể hiện rõ
rệt nhất trong quan hệ thương mại giữa hai nước.
Thứ nhất, qua việc gia tăng khối lượng thương mại, đặc biệt là thương
mại hàng hóa giữa hai nước: nếu như năm 1961 tổng thương mại hàng hóa
38
xuất nhập khẩu Canada - Mỹ đạt khoảng 7,1 tỷ USD, thì đến năm 1995 con số
đó đã tăng gần 40 lần lên 271,5 tỷ USD và đến năm 2014 đạt 658,1 tỷ USD
(bảng 3.1).
Thứ hai, biểu hiện của tác động toàn cầu hóa lên quan hệ hai nước là
tốc độ tăng trưởng thương mại lớn hơn tốc độ tăng GDP. Ví dụ, giai đoạn
1970 - 1995 tốc độ tăng thương mại của Canada cao hơn khoảng 11% so với
tốc độ tăng GDP, con số tương ứng của Mỹ là khoảng 8,5%.
Thứ ba, biểu hiện của toàn cầu hóa tác động lên quan hệ hai nước là sự
phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, sức khỏe nền kinh tế Canada tác động đến
thương mại của Mỹ, ngược lại vì kim ngạch thương mại giữa hai nước chiếm
tỉ trọng lớn trong nền kinh tế Canada nên tình trạng kinh tế của Mỹ cũng ảnh
hưởng trực tiếp tới nền kinh tế Canada. Việc mở rộng thương mại Canada -
Mỹ sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế hai nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao ở Canada có nghĩa là tăng cầu của Canada với hàng hóa xuất khẩu của
Mỹ, từ đó làm tăng giao dịch thương mại giữa hai bên. Tăng trưởng kinh tế
Canada sẽ khuyến khích công ty Mỹ tăng thêm nguồn lực đầu tư sản xuất và
phân phối hàng hóa, dịch vụ của Canada và Mỹ.
Thứ tư, ảnh hưởng từ toàn cầu hóa còn thể hiện qua tác động tới chu kỳ
kinh doanh và khủng hoảng kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007 từ
Mỹ nhanh chóng lan ra toàn bộ nền kinh tế thế giới cho thấy mức độ phụ
thuộc lẫn nhau của các nước trong thời đại toàn cầu hóa. Hậu quả là GDP sụt
giảm ở hầu hết các nước, Canada không phải là một ngoại lệ.
Thứ năm, cùng với xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập, các hàng rào
bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi hơn. Khi các nước tham gia vào hội nhập
quốc tế bắt buộc phải loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với hàng hóa
nhập khẩu từ các nước khác, trong khi đó, nhu cầu bảo vệ các nhà sản xuất
trong nước vẫn còn. Vì vậy, các nước phải tìm đến các hàng rào bảo hộ phi
thuế quan rất tinh vi như các tiêu chuẩn kỹ thuật, các điều kiện về an toàn sản
phẩm… để hạn chế nhập khẩu hàng hóa từ nước khác. Chính vì các tiêu
chuẩn và điều kiện mang tính kỹ thuật không có tiêu chí chung giữa các nước
nên tình trạng tranh chấp thương mại sẽ có xu hướng mạnh mẽ hơn.
39
Tóm lại, sự phát triển ngày càng sâu rộng của toàn cầu hóa vừa tạo điều
kiện vừa gây thách thức tới quan hệ Canada - Mỹ. Bên cạnh đó, trong trật tự
thế giới mới hiện nay với ưu thế của chủ nghĩa đa phương và sự suy giảm
quyền lực của Mỹ, Canada có thể sẽ phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại
theo hướng đa phương hơn, ít tập trung hơn vào Mỹ. Trong lĩnh vực kinh tế,
điều này được thể hiện rõ trong chính sách đa dạng hóa các đối tác thương
mại của Canada trong thời gian gần đây.
Bên cạnh xu thế toàn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và
công nghệ với quá trình tin học hóa sản xuất có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ
nền kinh tế thế giới và ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều lĩnh vực trong đời sống xã
hội cũng tác động lớn đến quan hệ Canada - Mỹ. Tăng cường hội nhập giữa
hai nước không phải là hiện tượng mới nhưng đạt tới mức mới. Điểm khác
biệt hiện nay là tốc độ tăng nhanh chóng của quá trình hội nhập và động lực
thúc đẩy hội nhập giữa hai nước.
Sự kiện 11/9/2001
Các cuộc tấn công khủng bố của Al Qaeda vào nước Mỹ ngày 11 tháng
9 năm 2001 đã buộc người Mỹ phải thay đổi nhận thức về biên giới chung
giữa Canada và Mỹ. Mặc dù hai nước chia sẻ các báo cáo hải quan điện tử và
tình báo, thế nhưng thực tế các biện pháp an ninh biên giới được tăng cường
sau sự kiện này đã làm giảm thương mại, đầu tư và du lịch giữa hai nước.
Theo nhận xét của Tiến sĩ David Zussman, Chủ tịch Diễn đàn chính sách
công Mỹ: “Sự kiện 11 tháng 9 làm thay đổi bản chất quan hệ Canada - Mỹ,
biên giới trở thành biểu tượng cho mối quan hệ kinh tế rất gần gũi giữa
Canada với Mỹ, nhưng cũng là biểu tượng cho thấy sự tổn thương của
Canada trước ảnh hưởng và ý chí của Mỹ”. Với lưu ý rằng “an ninh kinh tế
của Canada gắn kết chặt chẽ với an ninh tự nhiên của Bắc Mỹ”, ông kết luận
“sự kiện 11 tháng 9 mang lại cơ hội để sắp xếp lại những vấn đề kéo dài lâu
nay liên quan tới các chính sách biên giới và nhập cư”. Tác động của 11
tháng 9 làm mạnh thêm hai vấn đề song song của Bắc Mỹ là an ninh và
thương mại, và gắn hai vấn đề này lại với nhau theo cách chưa từng thấy
[107], [109]. Nhiều nhà kinh tế cho rằng kêu gọi hiện giờ là nắm lấy vấn đề
40
an ninh biên giới như cơ hội mở cho Canada thuyết phục Mỹ rằng hội nhập
Bắc Mỹ nên được thúc đẩy và chính thức hóa [36].
Quan hệ thương mại qua biên giới Canada - Mỹ đầu thế kỷ 21 bị ảnh
hưởng bởi các thay đổi về an ninh biên giới sau sự kiện 11/9 [47]. Trên thực
tế, những biện pháp tăng cường an ninh biên giới sau các vụ tấn công khủng
bố đã làm tăng chi phí trao đổi thương mại qua biên giới Canada - Mỹ. Khi
chi phí giao dịch qua biên giới tăng sẽ làm giảm lãi ròng đối với bên bán hàng
và dẫn đến sự gia tăng giá hàng hóa nhập khẩu với người tiêu dùng, đặc biệt
là các sản phẩm nhập khẩu ít được sản xuất trong nước.
Hàng loạt các chi phí hiện và chi phí ẩn của việc thực hiện chính sách
an ninh biên giới sau 11/9 đã được xác định. Việc kéo dài thời gian chờ làm
thủ tục làm tăng các phí tổn về biến phí như xăng dầu và lương lái xe, cũng
như phải trích khấu hao nhanh hơn đối với xe vận tải và các thiết bị liên quan.
Việc tăng tính không nhất quán về thời gian cần thiết để chuyển hàng qua
biên giới có thể làm tăng các chi phí theo nhiều cách khác nhau, phụ thuộc
vào việc các nhà sản xuất và vận tải thích ứng với sự bất định đó như thế nào.
Ví dụ, các nhà sản xuất có thể phản ứng bằng cách tăng mức hàng tồn kho
bình quân ở các kho hàng tại Mỹ để đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách
hàng trong trường hợp có sự chậm trễ vận chuyển từ Canada. Các nhà xuất
khẩu Canada cũng có thể điều phối các chuyến vận tải đi sớm hơn so với bình
thường để đảm bảo rằng hàng hóa đến được các điểm giao hàng tại Mỹ kịp
thời. Cách phản ứng thứ hai này có thể khiến các nhà vận tải phải duy trì một
“kho đệm” cho các xe tải tăng thêm, cũng như phải thuê thêm lái xe [133].
Khi chi phí hàng hóa sản xuất tại Canada gia tăng và vận chuyển những
hàng hóa này tới Mỹ vượt quá khung giá của các nhà nhập khẩu Mỹ đối với
hàng hóa Canada, lượng cầu về nhập khẩu từ Canada có thể bị giảm (trong
điều kiện tất cả các nhân tố khác không đổi). Mức độ giảm sẽ phụ thuộc vào
độ co giãn của cầu theo giá tăng của việc nhập khẩu hàng Canada, sau đó, sẽ
phụ thuộc vào mức độ sẵn có của các hàng hóa thay thế sản xuất tại Mỹ. Khi
việc tăng cường an ninh biên giới làm tăng các chi phí xuất khẩu từ Canada
sang Mỹ và một phần của các chi phí này chuyển sang các nhà nhập khẩu Mỹ
41
(các nhà nhập khẩu Mỹ phải chịu một phần trong các chi phí này) thì việc
xuất khẩu của Canada vào Mỹ có thể sẽ bị giảm mạnh.
Theo tính toán của các nhà kinh tế, thương mại hàng hóa Canada - Mỹ
(không bao gồm năng lượng và các sản phẩm từ rừng) đã thấp hơn 12,5% so
với dự đoán trong năm 2007, biên giới thắt chặt hơn có tác động tiêu cực đến
8% xuất khẩu dịch vụ và 13% nhập khẩu dịch vụ của Canada từ Mỹ [153].
Phản ứng khác nhau của Canada và Mỹ đối với sự kiện 11/9 đã cho
thấy sự khác nhau trong ưu tiên quốc gia: Đối với Canada, vấn đề vẫn là an
ninh kinh tế, có nghĩa tiếp cận không trở ngại đối với thị trường Mỹ đối với
xuất khẩu và nhập khẩu của Canada. Trên thực tế, đối với người dân Canada,
tiếp cận thị trường Mỹ đã ít được đảm bảo khi Bộ An ninh nội địa Mỹ thắt
chặt an ninh, giám sát chặt chẽ các giao dịch xuyên biên giới và sự di chuyển
của người dân; Còn đối với Mỹ, vấn đề là an ninh nội địa, do đó biên giới an
toàn được đặt lên hàng đầu và có tác động đến quan hệ kinh tế với Canada.
Sau hơn 10 năm đổi mới biên giới sau sự kiện 11/9, chi phí qua lại biên
giới không giảm đáng kể trong khi chi tiêu của chính phủ vào an ninh biên
giới đã tăng lên rõ rệt. Sau khi cộng lại các giá trị ước tính từ ba loại chi phí
(thương mại, du lịch, và các chương trình của chính phủ) thì chi phí hàng năm
của Canada là 19,1 tỷ CAD trong năm 2010, tương đương với khoảng 1,5%
GDP của nước này [29: tr.1]. Trong năm 2011, Chính phủ Canada và Mỹ đã
ban hành một tuyên bố chung “Qua biên giới: một tầm nhìn chung về vành
đai an ninh và năng lực cạnh tranh kinh tế”, mặc dù tầm nhìn này cung cấp
các tiêu chuẩn và mốc thời gian cụ thể để đo lường tiến bộ, thế nhưng không
làm giảm được chi tiêu chính phủ hoặc giảm chi phí qua lại biên giới hai
nước. Các chi phí về thời gian và tiền bạc qua biên giới đã tác động trực tiếp
đến quan hệ thương mại song phương. Vì thế, mục tiêu của hai chính phủ là
cải thiện cơ sở hạ tầng biên giới nhằm giảm thời gian, chi phí qua lại biên giới
cho các doanh nghiệp cũng như khách du lịch Canada và Mỹ.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ
vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá
chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có
42
nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Bong bóng nhà đất cùng với giám
sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Mỹ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính
ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Do tác động của
khủng hoảng, người Mỹ chi tiêu ít hơn, chính phủ Mỹ tiếp tục tăng các gói
cứu trợ kinh tế nhưng niềm tin của người tiêu dùng tại Mỹ và thế giới vẫn
chưa hồi phục. Lần đầu tiên Mỹ bị quỹ tín dụng Standard and Poor (S&P) hạ
mức tín dụng vào tháng 8 năm 2011 (từ AAA xuống AA+)…vì thế, những
người theo quan điểm bi quan cho rằng Mỹ có thể rơi vào suy thoái tiếp. Còn
nền kinh tế Canada tụt từ vị trí số 8 (năm 2002) trong nền kinh tế thế giới lên
số 10 trong nền kinh tế thế giới năm 2009 (tính theo GDP).
Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết
của Mỹ với nhiều nước, cuộc khủng hoảng từ Mỹ đã lan rộng ra nhiều nước
trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính
lần này được ví tồi tệ như cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933, đòi hỏi phải có sự
hợp tác của các nước để cùng giải quyết. Các thể chế quốc tế có sự tham gia
của Mỹ, Canada như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nhóm 8 nước công nghiệp
phát triển (G8), Ngân hàng thế giới (WB), Nhóm các nền kinh tế lớn (G20)
đóng vai trò phối hợp giữa các nước đưa ra tư vấn chính sách chống khủng
hoảng và khắc phục khủng hoảng. Tuy nhiên, bên cạnh hợp tác thì các biện
pháp xử lý khủng hoảng cũng có tác động nhất định tới quan hệ thương mại
Canada - Mỹ. Trong bối cảnh khủng hoảng, Mỹ buộc phải ban hành các điều
khoản điều chỉnh hệ thống tiền tệ ngân hàng và điều này gây ảnh hưởng tới
các nước nói chung và Canada nói riêng. Cuộc khủng hoảng tài chính lần này
cũng khiến Mỹ thực hiện một số biện pháp mang tính bảo hộ và gây ảnh
hưởng lớn tới Canada, đồng thời tác động xấu đến quan hệ thương mại
Canada - Mỹ:
Thứ nhất là Đạo luật American Recovery and Reinvestment Act
(ARRC) với chương trình kích thích kinh tế trị giá 787 tỷ đôla Mỹ được
thông qua đầu năm 2009, trong đó có điều khoản “mua hàng Mỹ” (Buy
American) gây thiệt hại cho sản phẩm chế tạo, sắt, thép của Canada. Điều
khoản này đã bị dư luận quốc tế chỉ trích gay gắt vì nó ảnh hưởng rất lớn đến
43
hoạt động thương mại của nhiều nước cũng như sẽ tạo ra những tiền lệ xấu.
Thực tế, có nhiều nước đã dựa vào điều khoản này của Mỹ mà thực hiện các
chính sách bảo hộ của mình, ví dụ như chính sách “Mua hàng Canada” của
Canada… Theo tính toán của nhóm Canadian Manufacturers and Exporters,
có khoảng 250 công ty Canada bị ảnh hưởng từ điều khoản này [87] và để đối
phó với tình trạng đó, Canada buộc phải thỏa hiệp và đồng ý kí hiệp định thu
mua chính phủ theo quy định của WTO giống như 37 bang khác của Mỹ đã kí
một năm trước (trước đó các tỉnh và lãnh thổ của Canada từ chối kí hiệp định
này). Những chính sách bảo hộ đi ngược lại tinh thần của NAFTA đã đặt an
ninh của mối quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong tình trạng nguy hiểm
[117], [140:tr.7]. Như thế, xu hướng bảo hộ tăng lên sẽ tác động trực tiếp
cũng như gián tiếp đến quan hệ kinh tế Canada - Mỹ.
Thứ hai là việc chính quyền Tổng thống Obama thực hiện nguyên tắc
Country of Origin Labeling (COOL), quy định bắt buộc phải ghi nguồn gốc
nước sản xuất theo COOL cho biết một sản phẩm có phải được sản xuất trong
nước hay không. Việc áp dụng COOL đối với một số sản phẩm thực phẩm
khiến cho xuất khẩu thịt lợn của Canada năm 2008 sụt giảm, và làm giảm giá
thịt bò của Canada [96] do nhiều công ty thực phẩm của Mỹ coi đáp ứng đòi
hỏi về COOL là gánh nặng, và để tránh rắc rối họ đã tránh mua sản phẩm của
Canada.
Thứ ba là vấn đề cắt giảm khí CO2 và tiêu chuẩn năng lượng mức
carbon thấp. Dự luật tạo ra một “nền kinh tế năng lượng xanh” gồm hệ thống
thương mại hóa lượng khí thải để giảm khí thải CO2 của chính quyền Obama
đã gây nhiều tranh cãi. Nếu dự luật này thành luật sẽ gây thiệt hại nghiêm
trọng tới lĩnh vực chế tạo và năng lượng của Canada do nước này xuất khẩu
nhiều năng lượng và dầu mỏ sang Mỹ. Ngành khai thác dầu mỏ của Canada -
lâu nay vốn bị các nhóm hoạt động vì môi trường phê phán gây ô nhiễm, tăng
khí thải CO2 - sẽ không tránh khỏi thành mục tiêu của đạo luật mới này.
Chính phủ Canada sẽ đối mặt với khó khăn trong việc điều chỉnh theo hướng
hài hòa với nguyên tắc của Mỹ.
Canada bước vào suy thoái cuối năm 2008, do hiệu ứng vết dầu loang
từ cuộc khủng hoảng kinh tế từ Mỹ. Tác động của khủng hoảng tài chính ở
44
Canada không chỉ giới hạn ở thể chế tài chính mà còn ảnh hưởng lên tổng thể
nền kinh tế. Thứ nhất, thắt chặt điều khoản tín dụng khiến đầu tư và chi tiêu
tiêu dùng tăng chậm (nhất là hàng hóa bền lâu). Nền kinh tế Canada chủ yếu
được thúc đẩy bởi cầu nội địa, vì vậy suy giảm tiêu dùng và đầu tư sẽ ảnh
hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, tác động không trực tiếp của khủng
hoảng có thể lan ra nền kinh tế Canada. Những tồn tại trong thể chế tài chính
của Mỹ có thể dẫn tới điều kiện tín dụng thắt chặt hơn. Điều này ảnh hưởng
tới sụt giảm đáng kể chi tiêu tiêu dùng của người Mỹ, kéo theo giảm cầu nhập
khẩu hàng từ Canada. Khủng hoảng tài chính tác động tới kinh tế toàn cầu,
làm suy giảm cầu về nguyên liệu thô (kể cả năng lượng), ảnh hưởng tới xuất
khẩu của Canada. Giảm giá hàng xuất khẩu của Canada sẽ làm xấu đi tình
hình thương mại của Canada. Tất cả những lý do này khiến cho tăng trưởng
GDP của Canada đi xuống. Theo Mark Carney, Thống đốc Ngân hàng
Canada thì sự phục hồi của nền kinh tế Canada phụ thuộc vào sự phục hồi của
Mỹ [55]. Những khó khăn trong nền kinh tế Mỹ tác động trực tiếp tới xuất
khẩu và nhiều vấn đề khác trong lĩnh vực sản xuất của Canada [162: tr.9].
Do tác động của khủng hoảng, theo Cơ quan thống kê Canada, trong
quý I năm 2009, kinh tế Canada đã suy giảm 6,1%, mức giảm lớn nhất kể từ
khi GDP của Canada thiết lập những con số kỷ lục kể từ năm 1961. Giá trị
xuất khẩu của Canada trong năm 2009 giảm 14,8%. Xuất khẩu của Canada bị
suy giảm do nhu cầu của Mỹ và toàn cầu cũng như giá dầu, hàng hóa đều
giảm. Nhập khẩu của Canada thậm chí còn giảm mạnh hơn với con số giảm
15,6% [142] do nhu cầu tiêu dùng trong nước giảm. Kết quả là cán cân tài
khoản vãng lai của Canada đã bị tác động mạnh: năm 2009 là năm Canada có
mức thâm hụt thương mại đầu tiên trong 34 năm (từ năm 1975), với con số
thâm hụt là 5,1 tỷ CAD, trong khi đó lần lượt trong năm 2008 nước này có
mức thặng dư thương mại là 46,9 tỷ CAD và năm 2007 là 47,9 tỷ CAD [142].
Cuộc khủng hoảng này cũng khiến Canada rơi vào tình trạng thâm hụt
ngân sách. Nguyên nhân là do doanh thu từ thuế của nước này giảm, thêm vào
đó là việc tiến hành các biện pháp chi tiêu tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và tăng chi tiêu cho các khoản trợ cấp thất nghiệp. Cùng kỳ
tháng 7 năm 2008, chính phủ Canada đã ghi nhận mức thặng dư ngân sách là
45
2,18 tỷ CAD, tương đương 2,01 tỷ USD. Trong khi đó, Canada đạt được mức
thặng dư ngân sách chính phủ năm 2007 tương đương 1% GDP của nước này.
Tác động của khủng hoảng tài chính đến FDI của Canada cũng rất lớn.
Mặc dù có sức hấp dẫn lớn từ các nguồn tài nguyên, hệ thống nghiên cứu và
phát triển (R&D) mạnh, khu vực tài chính ổn định, thế nhưng khả năng thu
hút FDI của Canada đã bị suy yếu. Cuộc khủng hoảng này làm giảm nhu cầu
tiêu dùng trong nước cũng như ngoài nước, tình trạng này cũng tác động tiêu
cực đến thị trường lao động của Canada. Tuy nhiên, thị trường lao động
Canada là thị trường đầu tiên trong số các nước G7 khôi phục lại số việc làm
bị mất trong suốt giai đoạn suy thoái kinh tế gần đây nhất, ví dụ như trong
năm 2011 tỷ lệ thất nghiệp của Canada vẫn thấp hơn nhiều so với Mỹ và khu
vực đồng tiền chung Euro với con số lần lượt tương ứng là Mỹ 8,9% và EU
9,9%, Pháp là 9,6%.
Theo Cơ quan thống kê Canada thì suy thoái kinh tế Canada tồn tại
trong thời gian ngắn nhất và nhẹ nhàng nhất trong số các nước nhóm G7, chỉ
kéo dài trong 3 quý (các nước khác trong G7 khác suy thoái khoảng từ 4 đến
6 quý), và sản lượng GDP giảm khoảng 3,3% từ quý III năm 2008 đến quý III
năm 2009 so với con số 3,7% ở Mỹ. Không những kinh tế Canada phục hồi
sớm hơn các quốc gia G7 khác mà hậu quả cũng ít trầm trọng hơn so với hai
cuộc suy thoái trước tại quốc gia này. Cho đến năm 2010, Canada đã thực sự
phục hồi trong khi hầu hết các nước công nghiệp phát triển khác vẫn còn gặp
rất nhiều khó khăn và chưa thể hồi phục.
Sự cạnh tranh của các nước khác (trường hợp Trung Quốc)
Việc gia tăng các hoạt động thương mại song phương và khu vực trên
khắp thế giới và sự gia tăng hiện diện của Trung Quốc tại châu Mỹ có tác
động lớn đến chính sách thương mại của Canada và Mỹ. Quan hệ thương mại
Canada - Mỹ cũng đang đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các nước
châu Á. Sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc và Ấn Độ sẽ tiếp tục
ảnh hưởng đến sự năng động của thương mại Bắc Mỹ nói chung và quan hệ
thương mại Canada - Mỹ nói riêng.
Trong những năm gần đây, một số chuyên gia dự tính các nền kinh tế
Trung Quốc và Ấn Độ sẽ thách thức sự chi phối toàn cầu của Mỹ. Trong khi
46
kinh tế Mỹ đang suy thoái thì các nền kinh tế như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil
vẫn tăng trưởng, điều này ảnh hưởng tới cán cân kinh tế thế giới, và thực tế từ
quý II năm 2010, Trung Quốc vượt Nhật Bản vươn lên thành nền kinh tế lớn
thứ hai thế giới. Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Robert Zoellick phát biểu: Một
trong những hệ quả của cuộc khủng hoảng lần này là việc thừa nhận tương
quan quyền lực kinh tế thế giới đã thay đổi [19]. Và từ những cơ sở này, một
hệ thống kinh tế đa cực đang dần nổi lên.
Tốc độ tăng trưởng nhanh đáng chú ý của các nước BRIC (Brazil, Nga,
Ấn Độ và Trung Quốc) đang thúc đẩy quá trình hình thành thế giới đa cực.
Nhiều dự đoán cho rằng năm 2030, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nền
kinh tế lớn nhất thế giới, trong khi sức mạnh kinh tế tương đối của Mỹ, EU
tiếp tục suy giảm. Dù các con số dự đoán chưa chắc chắn nhưng xu hướng
này có vẻ đang rõ dần.
Chính sự nổi lên của Trung Quốc đã làm giảm sút tương đối vị trí và
ảnh hưởng của Mỹ và Canada tại khu vực châu Á và giành mất nhiều thị
trường của hai nước tại khu vực này. Trong những năm vừa qua, Trung Quốc
vượt Mỹ trở thành động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế châu Á. Các
nước châu Á hiện nay có quan hệ thương mại với Trung Quốc nhiều hơn so
với Mỹ, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của
Nhật Bản, Hàn Quốc, nhiều nước được hưởng lợi ích từ hợp tác kinh tế,
thương mại, đầu tư với Trung Quốc; kinh tế Nhật Bản phục hồi một phần
cũng do sự bùng nổ kinh tế của Trung Quốc.
Như thế, cả Canada và Mỹ cũng như quan hệ giữa hai nước đều đang
chịu thách thức chung về suy thoái kinh tế toàn cầu và quản lý phục hồi kinh
tế, duy trì tốc độ phát triển kinh tế và tạo ra việc làm cũng như vấp phải sự nổi
lên của những đối thủ cạnh tranh kinh tế lớn như Trung Quốc và Ấn Độ. Sự
nổi lên của các quyền lực kinh tế mới thách thức trật tự kinh tế cũ tồn tại lâu
nay, điều này khiến Canada và Mỹ có chung lợi ích trong việc đảm bảo duy
trì trật tự kinh tế đang có lợi cho các nước phát triển, cùng chung lợi ích
chống lại những thách thức của các nước mới nổi. Nhưng tác động của thách
thức này đến Canada và Mỹ không giống nhau: Do đặc trưng nền kinh tế Mỹ
là tìm kiếm sự đa dạng thị trường, vì vậy các nền kinh tế mới nổi sẽ làm thay
47
đổi vị trí, vai trò của các nước trong quan hệ kinh tế với Mỹ (chẳng hạn, quan
hệ kinh tế Mỹ - Trung đang ngày càng trở nên quan trọng hơn); trong khi đó,
một đặc điểm của nền kinh tế Canada là tập trung vào đối tác chính - Mỹ, mặc
có gần đây Canada đã nỗ lực đa dạng hóa các đối tác thương mại và tăng mức
độ giao dịch thương mại với châu Á và EU… Vì thế, vị trí của Canada trong
quan hệ thương mại song phương cũng phần nào bị ảnh hưởng.
Từ năm 2007, Trung Quốc đã thay thế Canada trở thành đối tác xuất
khẩu lớn nhất vào Mỹ (Hình 2.2), thậm chí theo dự đoán Trung Quốc sẽ sớm
thay thế Canada là đối tác thương mại số 1 của Mỹ. Lý thuyết về chuyển giao
quyền lực cho chúng ta biết như thế có nghĩa tương lai là không tươi sáng cho
mối quan hệ Canada - Mỹ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc có thể tạo căng thẳng
cho mối quan hệ Canada - Mỹ. Do tác động của khủng hoảng, Mỹ tiếp tục
chính sách “ưu tiên Mỹ trước” còn Canada nhận rõ không thể phụ thuộc vào
một mình thị trường Mỹ, vì thế quan hệ Canada - Mỹ xuất hiện sự thay đổi và
Trung Quốc đã nhận thấy cơ hội từ thay đổi đó. Kết quả là vị thế của Canada
trong chiến lược ngoại giao của Trung Quốc nâng cao, quan hệ Trung Quốc -
Canada được tăng cường, do đó cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và
Trung Quốc tại Canada ngày càng quyết liệt. Việc trì hoãn xây dựng đường
ống dẫn dầu Keystone XL đã buộc Canada phải có tính toán khác, Thủ tướng
Harper từng tuyên bố rõ ràng rằng nếu dầu cát không chảy được về phía Nam
thì buộc phải tiến về phía Đông…Mỹ không cần dầu cát của Canada nhưng
Trung Quốc cần và Canada sẽ bán cho Trung Quốc. Nhu cầu năng lượng của
Trung Quốc sẽ khuyến khích cát dầu của Canada và phát triển đường ống dẫn
dầu mà các nhà lập pháp Mỹ phản đối vì cho rằng đường ống đó tác động đến
môi trường và đe dọa an ninh năng lượng của Mỹ. Thực tế này, về mặt nào đó
đã kéo Canada về gần phía Trung Quốc hơn, cũng có nghĩa tạo khoảng cách
xa hơn trong quan hệ Canada - Mỹ.
Một số dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng của nhân tố Trung Quốc tới quan
hệ kinh tế Canada - Mỹ trong tương lai: Tỉ trọng hàng xuất khẩu của Canada
sang Mỹ tăng nhanh từ năm 1990 trong khi tỉ trọng nhập khẩu của Mỹ từ
Canada giảm do sự cạnh tranh hàng hóa của Trung Quốc, Mexico và Đông
Nam Á [121]. Gia tăng cạnh tranh từ những nước này tập trung vào các lĩnh
48
vực thông tin liên lạc, thiết bị máy tính, xe đạp và quần áo. Xuất khẩu của
Canada sang Trung Quốc tăng dần trong những năm gần đây do Trung Quốc
tăng cầu hàng hóa xuất khẩu của Canada về bột giấy, máy móc công nghiệp
và hóa chất hữu cơ. Trong thập kỷ qua, Canada và Mỹ vẫn có mối quan hệ
thương mại lớn nhất thế giới, nhưng thương mại hai chiều đã phát triển chậm
hơn so với thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Nguồn:U.S. Department of Commerce, Bureau of Census, Foreign Trade Division
Hình 2.2: Nhập khẩu của Mỹ từ Canada, Trung Quốc, và Mexico,
2000-2009 (đơn vị: tỷ USD)
Như đã đề cập quan hệ Canada - Mỹ được xác định bởi giá trị chung,
lợi ích chung được khớp nối và tổng hợp thông qua cơ chế minh bạch trong
nước, và mối quan tâm an ninh chung. Cả lợi ích và lý tưởng đã kéo Canada
hướng về Mỹ. Thể chế hóa mối quan hệ với Mỹ của Canada thông qua các tổ
chức đa phương như WTO khiến cho số phận của các tổ chức này có tác động
quan trọng đến mối quan hệ song phương, số phận của các tổ chức quốc tế khi
Trung Quốc nổi lên được coi là vấn đề quan trọng cho quan hệ Canada - Mỹ.
Các cường quốc hạng trung như Canada theo đuổi chính sách đối ngoại của
họ thông qua các tổ chức đa phương, vì đó là những tổ chức có tiềm năng lớn
nhất đối với thu hẹp khoảng cách ảnh hưởng với cường quốc lớn. Vì thế các
tổ chức này yếu đi khi Trung Quốc nổi lên sẽ làm suy yếu nghiêm trọng các
khuôn khổ lớn hơn của quan hệ Canada - Mỹ, Canada có khả năng phải tăng
gấp đôi nỗ lực của mình để giữ cho các tổ chức quốc tế hoạt động ổn định. Về
cơ bản, các đồng minh sẽ trở nên gần gũi hơn trong thời điểm khó khăn vì
điều đó nhắc nhở họ về lợi ích và bản sắc chung, vì thế một Trung Quốc nổi
49
lên với các hành động bành trướng của mình mặt khác cũng có sẽ có khả năng
tăng cường cơ sở cho hợp tác Canada - Mỹ.
2.2.1.2. Những nhân tố khu vực
Hợp tác trong NAFTA
Đi kèm với xu thế toàn cầu hóa là xu thế khu vực hóa. Có thể thấy rõ
xu thế này qua quan hệ của Canada - Mỹ tại khu vực Bắc Mỹ. Trước hết là sự
xuất hiện của không gian kinh tế Bắc Mỹ. Sự nổi lên của không gian kinh tế
Bắc Mỹ và tăng cường liên kết kinh tế giữa ba nước Mỹ - Canada - Mexico
được thể hiện rõ nhất qua sự hình thành của NAFTA vào ngày 1/1/1994.
NAFTA đã hợp nhất hoặc đưa hầu vào hết các điều khoản của Hiệp định Mậu
dịch tự do Mỹ - Canada, có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 1989. Mỹ và Canada
đã chấm dứt hoạt động của hiệp định song phương khi NAFTA bắt đầu có
hiệu lực.
Cơ quan giám sát cao nhất của NAFTA là Hội đồng thương mại Tự do
Bắc Mỹ, bao gồm diện Thương mại Mỹ, Bộ trưởng Ngoại thương Canada, và
Bộ trưởng Thương mại và Phát triển công nghiệp Mexico. Ủy ban này đã
thành lập các tổ công tác và các cơ quan tư vấn để quản lý những hoạt động
hàng ngày của hiệp định.
NAFTA cũng có những quy định riêng quản lý việc tự do hoá thương
mại và đầu tư, được sử dụng bổ sung hoặc thay thế các quy định của WTO.
Các điều khoản chính của NAFTA bao gồm tự do hóa thương mại thuế quan
và phi thuế quan, quy tắc xuất xứ, thương mại dịch vụ, đầu tư nước ngoài, sở
hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, và giải quyết tranh chấp. NAFTA Các quy
định mở cửa thị trường của thỏa thuận này dần dần loại bỏ tất cả các loại rào
cản thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa sản xuất và giao dịch trong
phạm vi Bắc Mỹ trong khoảng thời gian 15 năm sau khi có hiệu lực [101:
tr.4].
Khác với EU, NAFTA chỉ mở rộng cửa buôn bán giữa các nước thành
viên bằng cách từ từ bãi bỏ hàng rào thuế quan chứ không tiến tới xóa bỏ biên
giới quốc gia và không xây dựng một thị trường thống nhất về tiền tệ. Nếu
đánh giá một khu vực mậu dịch tự do về quy mô sản phẩm và lãnh thổ, Bắc
Mỹ là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới, hơn cả EU.
50
NAFTA có vai trò quan trọng vì được đánh giá là thỏa thuận thương
mại tự do toàn diện nhất đàm phán ở thời điểm đó và đưa ra một số quy định
mang tính đột phá. NAFTA đã khởi xướng một thế hệ các hiệp định thương
mại mới ở Tây bán cầu, phục vụ như một mô hình cho một thế hệ các FTA
mới mà Mỹ sau đó đàm phán, cũng như khuôn mẫu cho một số quy định
trong các cuộc đàm phán thương mại đa phương trong vòng đàm phán
Uruguay. NAFTA có ảnh hưởng đến các cuộc đàm phán trong các lĩnh vực
như tiếp cận thị trường, quy tắc xuất xứ, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư nước
ngoài, giải quyết tranh chấp, quyền lao động và bảo vệ môi trường.
NAFTA có ảnh hưởng đến hơn 450 triệu dân trong cả ba nước Bắc
Mỹ, mở rộng dựa trên các cam kết của FTA như giảm các hàng rào thương
mại và thiết lập các qui tắc thương mại chung giữa các nước [23]. Hiệp định
cũng đã giải quyết những vấn đề tồn tại đã lâu giữa hai nước và tiến đến mở
rộng tự do các qui định trong một số ngành, bao gồm nông nghiệp, dịch vụ,
năng lượng, dịch vụ tài chính, đầu tư, thu mua chính phủ.
Thương mại hàng hóa của Mỹ với Canada đã tăng hơn gấp đôi trong
thập kỷ đầu tiên của FTA/NAFTA (1989-1999), xuất khẩu của Canada sang
Mỹ từ năm 1993 đến 2014 tăng 212%, trong khi đó nhập khẩu của Canada từ
Mỹ từ 1993 đến 2014 tăng 211% [102: tr.17] tạo ra rất nhiều cơ hội cũng như
thách thức mới cho mối quan hệ thương mại song phương. Tổ chức Hợp tác
vì sự thịnh vượng và an ninh Bắc Mỹ được ba nước NAFTA thành lập vào
tháng 3 năm 2005 đã thể hiện một nỗ lực để giải quyết các thách thức đó.
Bắc Mỹ cũng có sự phụ thuộc lẫn nhau về năng lượng. Năm 2004,
Canada và Mexico là hai nước xuất khẩu dầu lớn nhất sang Mỹ. Canada cung
cấp cho Mỹ khoảng 90% lượng khí gas thiên nhiên và tất cả lượng điện nhập
khẩu. Vào cuối những năm 1990, 8 trong số 10 tỉnh của Canada có quan hệ
buôn bán quốc tế lớn hơn so với giữa các tỉnh trong nước với nhau [36: tr.36],
khối lượng thương mại của các tỉnh bang của Canada với các nước trong
NAFTA tăng gấp hai lần so với giữa các tỉnh. Trong thập kỷ qua, các mối liên
kết giữa Canada với các nước trong khu vực tăng lên.
NAFTA giúp sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có ở ba nước, góp
phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế Bắc Mỹ. Tuy nhiên, trong thập kỷ qua,
51
nền kinh tế ba nước phải đối mặt với thách thức gia tăng từ toàn cầu hóa và
cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt. Hơn nữa, những khác
biệt về quy tắc luật giữa ba nước làm tăng chi phí giao dịch. Thương mại
trong một số lĩnh vực như tài nguyên thiên nhiên, nông nghiệp, năng lượng
vẫn tiếp tục chưa được tự do hóa và tranh chấp trong các lĩnh vực này là
nguồn gốc gây bất đồng giữa ba bên. Thêm vào đó, việc các đối tác NAFTA
không thể giải quyết một số tranh chấp quan trọng về thương mại và đầu tư
khiến cho quan hệ thương mại ba bên tiếp tục bị căng thẳng.
Những lợi thế của NAFTA cũng đang bị suy giảm do cách thực hiện
hiệp định NAFTA của mỗi nước thành viên. Do ngay từ đầu NAFTA không
có mục tiêu cụ thể tạo ra thị trường thống nhất nên không có nước nào trong
NAFTA nhận thấy có trách nhiệm thúc đẩy hay bảo vệ NAFTA trên cơ sở
thương lượng chung. Thực tế dù có điều khoản mở rộng chung cho cả
NAFTA nhưng mỗi nước thành viên đều đơn phương mở rộng hiệp định kiểu
NAFTA với nước bên ngoài. Việc mở rộng NAFTA đơn phương không có sự
phối hợp giữa ba nước đã làm tăng chi phí hành chính và nguyên tắc trong
thực hiện chính sách, hậu quả là làm giảm lợi thế ban đầu của NAFTA.
NAFTA cũng chưa giải quyết được vấn đề khoảng cách phát triển giữa
Mexico và hai nước láng giềng, thậm chí khoảng cách này đang dần mở rộng.
Không giống các thị trường chung tại EU, nơi hầu hết các nước có mức sống
khá tương đồng, ở Bắc Mỹ, tuy có chung không gian kinh tế nhưng có sự
khác biệt đáng kể về kinh tế và xã hội giữa các nước thành viên, nhất là
khoảng cách lớn về thu nhập và mức sống giữa Mexico và hai nước còn lại.
Theo báo cáo của IMF, Mỹ và Canada thuộc những nước giàu nhất thế giới,
nhưng Mexico vẫn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình với bình
quân đầu người là 16.290 USD (tính theo sức mua tương đương PPP) [104].
Những khác biệt trên thách thức các chính phủ phát triển những chính
sách quản lý phù hợp với thay đổi kinh tế đang diễn ra tại Bắc Mỹ. Tuy nhiên,
tới nay vấn đề tập trung chính sách chung giữa ba nước ít được quan tâm. Cụ
thể trong quan hệ giữa Canada và Mỹ, tăng sự phụ thuộc kinh tế không dẫn
tới sự đồng thuận chính sách.
52
Ngoài những tác động tích cực, NAFTA vẫn tồn tại những mặt trái
chưa thể giải quyết được. Đây cũng là một hệ quả tất yếu của tự do hoá
thương mại: thứ nhất, tình trạng bất bình đẳng thu nhập gia tăng, do thay đổi
mạnh về cơ cấu việc làm, tiền lương làm cho phân hoá giàu nghèo trong khu
vực rõ nét hơn đặc biệt ở Canada và Mexico; thứ hai, tự do hoá thương mại
đã dẫn đến tình trạng mất việc làm ở những ngành có sự cạnh tranh thấp và
đối với những công nhân kém kỹ năng; thứ ba, NAFTA dễ gây những rủi ro
đối với kinh tế Mexico và Canada do kinh tế của hai nước này phụ thuộc quá
lớn vào nền kinh tế Mỹ, bằng chứng là khi kinh tế Mỹ suy giảm lập tức kinh
tế Mexico và Canada cũng suy giảm theo. Chính vì thế, Canada và Mexico
một mặt chú trọng phát triển kinh tế với Mỹ nhưng mặt khác đã chú trọng hơn
đến các thị trường khác nhằm đa dạng hoá thị trường, phân bổ rủi ro.
Bên cạnh đó, còn một số vấn đề mà NAFTA chưa giải quyết được,
chẳng hạn, NAFTA không đầu tư thích đáng vào xây dựng cơ sở hạ tầng để
tăng cường trao đổi thương mại. Điều này dẫn đến sự trì trệ và làm chi phí
giao dịch thương mại khu vực thậm chí còn cao hơn mức thuế quan đã được
giảm hay xóa bỏ. NAFTA không giải quyết vấn đề năng lượng, có thể thấy
điều này qua sự cố mất điện tạm thời mà Canada và khu vực đông bắc Mỹ
gặp phải trong tháng 8/2003, và lượng nhập khẩu khí gas tăng vọt của Mỹ từ
Mexico. NAFTA tạo ra một số rất ít thể chế đáng tin cậy cho phối hợp chính
sách, khiến khu vực dễ bị tổn thương trước khủng hoảng thị trường như cuộc
khủng hoảng đồng peso. NAFTA cũng không làm gì để giải quyết vấn đề an
ninh, và kết quả là tác động kéo dài của vụ khủng bố 11/9/2001 đe dọa cản trở
hội nhập Bắc Mỹ. Sự kiện 11/9 đã làm thay đổi vấn đề, an ninh chứ không
phải kinh tế trở thành động lực chi phối quá trình hội nhập khu vực.
Tóm lại, những thách thức đặt ra đối với NAFTA cũng là những thách
thức trong khu vực đặt ra đối với Canada và Mỹ, đòi hỏi hai nước phải hợp
tác, cùng đi đến các giải pháp chung để phát triển kinh tế của mỗi nước nói
riêng, thúc đẩy quan hệ thương mại Canada - Mỹ, và thúc đẩy hội nhập Bắc
Mỹ nói chung.
53
Về vai trò của Mexico trong quan hệ Canada - Mỹ:
Mối quan hệ đặc biệt giữa Canada và Mỹ cũng bị đe dọa vì trọng tâm
hoạt động chính trị Mỹ đang chuyển từ Đông Bắc tới phía Nam và Tây Nam
[38: tr.3]. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Mexico - đất nước có
dân số lớn gấp khoảng ba lần Canada (dân số Mexico là hơn 100 triệu dân) và
tiếng Tây Ban Nha đang nhanh chóng trở thành ngôn ngữ không chính thức
thứ hai của Mỹ - cũng đã khiến Mỹ để mắt nhiều đến đất nước này. Trong vấn
đề kinh tế, với cấu trúc nền kinh tế của Canada và Mexico đều dựa vào xuất
khẩu vào thị trường Mỹ thì việc hai nước đều phải cạnh tranh trong tiếp cận
thị trường Mỹ là điều không tránh khỏi. Cho đến nay Mỹ là đối tác hàng đầu
của Mexico trong thương mại hàng hóa, xuất khẩu của Mỹ sang mô hình tăng
nhanh chóng kể từ khi có NAFTA, tăng từ 41,6 tỷ USD năm 1993 lên 240,3
tỷ USD năm 2014, tăng 478%; tương tự nhập khẩu của Mỹ từ Mexico tăng từ
39,9 tỷ USD năm 1993 lên tới 294,2 tỷ USD trong năm 2014, tăng 637%
[102: tr.18].
Do tác động của NAFTA, các ngành công nghiệp của Mỹ ngày càng
trở nên cạnh tranh hơn trên toàn cầu thông qua phát triển chuỗi cung ứng.
Phần lớn thương mại giữa Mỹ và các đối tác NAFTA xảy ra trong bối cảnh
các nhà sản xuất ở mỗi nước hợp tác với nhau để tạo ra hàng hóa, mở rộng
thương mại đã dẫn đến việc tạo ra các quan hệ cung ứng theo chiều dọc, đặc
biệt là dọc biên giới Mỹ - Mexico. Dòng chảy của đầu vào trung gian sản xuất
tại Mỹ và xuất khẩu sang Mexico, và dòng chảy trở lại của sản phẩm thành
phẩm đã làm tăng lên tầm quan trọng của các khu vực biên giới Mỹ - Mexico.
Ước tính 40% nhập khẩu của Mỹ từ Mexico và chỉ 25% nhập khẩu của Mỹ từ
Canada có nguồn gốc tại Mỹ [102: tr.13].
Và như thế có nghĩa, Mexico ngày càng trở thành một đối thủ cạnh
tranh lớn đối với các doanh nghiệp Canada trong việc giành thị phần ở Mỹ,
đồng thời Mexico trở thành một thị trường xuất khẩu hấp dẫn của Mỹ do dân
số đông và do vậy nhu cầu tiêu thụ hàng hóa tăng. Nhân tố này có tác động
trực tiếp đến kim ngạch thương mại Canada - Mỹ.
54
2.2.2. Nhân tố tác động bên trong
2.2.2.1. Vấn đề hội tụ văn hóa, địa lý và hợp tác qua biên giới Canada - Mỹ
Hội tụ về văn hóa: Canada và Mỹ có chung các giá trị văn hóa và tiêu
chí bắt nguồn từ di sản văn hóa Tây Âu, với tiếng Anh như một ngôn ngữ làm
việc chung. Hai nước được kết nối không chỉ bởi biên giới phi quân sự, dài
nhất, an toàn nhất thế giới và quan hệ thương mại lớn nhất mà quan trọng hơn
là do mối quan hệ gia đình, quan hệ họ hàng và các giá trị chung. Hàng thế kỷ
nhập cư và di dân trong lục địa này để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn đã
tạo ra cho mỗi người dân Canada và Mỹ một đặc tính chung về tính đa dạng,
lòng bao dung, tính siêng năng, đổi mới. Chính các đặc tính chung này đã
khiến hai nước sẵn sàng hỗ trợ nhau khi cần thiết, tạo thuận lợi cho các trao
đổi thương mại song phương.
Người dân Mỹ và Canada xây dựng cơ sở xã hội dựa trên những giá trị
chung kiểu Anglo-Saxon như chủ nghĩa cá nhân, tự do ngôn luận và báo chí,
gia đình và định hướng cộng đồng, đa nguyên tôn giáo với đặc tính tự chủ, lạc
quan, và chủ nghĩa lý tưởng. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, dân chủ,
bầu cử phổ thông, và các chính phủ chịu trách nhiệm theo bầu cử là đặc trưng
cả hai nước.
Bên cạnh đó, Canada và Mỹ còn có sự tương đồng về cấu trúc xã hội.
Những pha trộn nhân khẩu học trong lịch sử Bắc Mỹ khiến hai nước khó thực
hiện việc phân biệt xã hội về mặt dân tộc. Sự chia sẻ văn hóa và lịch sử phát
triển khiến ranh giới chính trị ít tác động tới sự phát triển xã hội ở Bắc Mỹ.
Các làn sóng di cư từ châu Âu và sau đó là từ châu Á, những người nhập cư
phát triển thành các cộng đồng đa văn hóa tại Canada và Mỹ, đa văn hóa là
đặc trưng của Canada và Mỹ.
Giữa Canada và Mỹ có nhiều điểm tương đồng và trùng hợp về giá trị
và lợi ích quốc gia trong bối cảnh chung về giá trị và lợi ích “Bắc Mỹ”, chính
điều này một phần làm nên sức mạnh cho mối quan hệ giữa hai nước.
Những vấn đề liên quan tới địa lý như đất đai, khí hậu, phân bổ tài
nguyên sẽ ảnh hưởng tới quan hệ thương mại song phương. Sự gần gũi về địa
lý dẫn tới những hệ quả liên hệ về văn hóa, xã hội và kinh tế. Biên giới chung
của Canada với Mỹ về phía Nam và phía Tây Bắc là đường biên giới không
55
có quân đội canh gác, không rào chắn dài nhất thế giới, với 8.891 km, đây là
đường biên giới lấy vỹ tuyến 49 làm cơ sở theo Hiệp ước Paris năm 1783.
Khoảng 80% dân số Canada sống trong vòng 100 dặm dọc theo biên giới Mỹ
và quan hệ thương mại giữa các tỉnh bang Canada với các vùng lãnh thổ Mỹ
lớn hơn giữa các bang Mỹ với nhau nói chung. Hàng ngày có khoảng hơn
300.000 người qua lại biên giới hai nước [140: tr.5], cùng với dòng chảy
thương mại lớn nhất thế giới luôn không ngừng chảy qua biên giới với khoảng 2
tỷ đôla Mỹ (USD) mỗi ngày. Điều này cho thấy việc hình thành các khu vực
kinh tế xuyên biên giới và đường biên giới có vai trò ngày càng quan trọng tới
quan hệ thương mại hai nước. Nhà báo Mỹ Anthony DePalma nhận xét:
“Buôn lậu ma túy, thương mại quốc tế, hội nhập, trao đổi văn hóa, thông tin
đại chúng, phòng thủ chung, tất cả các liên kết qua biên giới đang không tránh
khỏi dẫn tới hội nhập Bắc Mỹ thành một thực thể duy nhất, không biên giới”
[36: tr.38].
Việc hình thành các khu vực kinh tế xuyên biên giới có vai trò rất quan
trọng cho cả Canada và Mỹ, vì quan hệ kinh tế của Canada với các bang của
Mỹ lân cận đường biên là chặt chẽ hơn so với các bang của Mỹ với nhau [45:
tr.6], [139]. Sau sự kiện 11/9, Canada và Mỹ quan tâm nhiều hơn đến thương
mại và an ninh qua biên giới với hàng loạt các sáng kiến như Hiệp ước biên
giới thông minh (2001) và Đối tác an ninh và thịnh vượng (2005). Cũng sau
sự kiện 11/9, biên giới giữa hai nước trở thành biên giới phòng thủ, khác với
trước đó là biên giới không có rào chắn dài nhất thế giới. Việc bảo đảm an
ninh biên giới khiến cho người dân hai nước có sự nhìn nhận khác nhau,
người Mỹ thấy biên giới được bảo đảm, người Canada thấy mất tự do khi qua
lại biên giới [18].
Với quy mô quan hệ kinh tế thương mại lớn, và phần lớn hàng hóa đều
được xuất nhập khẩu qua biên giới theo đường bộ và đường biển, nhưng
dường như “không có sự hỗ trợ quản lý của các thủ tục và thể chế song
phương” [32] giữa hai nước. Thực trạng trên gây ra những khó khăn về quản
lý biên giới chung giữa hai nước, như việc thống nhất hoạt động của các cơ
quan hải quan, phối hợp các chính sách nhập cư, hợp tác an ninh quốc phòng,
quản lý chung tài nguyên thiên nhiên và môi trường…Đây là vấn đề quan hệ
56
giữa một nước lớn và nước nhỏ hơn rất nhiều, Canada lo ngại lợi ích sẽ bị lấn
át trong bất kỳ các mối quan hệ chính thức nào giữa hai nước [12]. Thực tế,
phần lớn các mối quan hệ được thể chế hóa qua các cấp quốc gia (liên bang),
cấp bang và địa phương; giữa hai nước có hàng trăm quy định chính thức và
phi chính thức, phần lớn là không chính thức. Sở dĩ như vậy do người Canada
cho rằng, nếu thực hiện quan hệ theo thể thức chính thức, cần có sự nhất trí,
cân đối, hài hòa các quy định về hải quan, xuất nhập cảnh, nhập cư…chắc
chắn Canada phải chấp nhận các tiêu chuẩn, mà phần lớn là phụ thuộc vào các
chính sách của Mỹ [12].
Nhiều quan điểm cho rằng cần thiết phải thiết lập vành đai an ninh để
tạo thuận lợi cho giao thương giữa hai nước và bảo đảm an toàn, an ninh biên
giới, chống khủng bố, hình thành thể chế chung giữa hai nước. Hơn 11 triệu
việc làm ở Canada và Mỹ phụ thuộc vào giao dịch thương mại với nhau, một
phần ba quan hệ thương mại song phương là trao đổi hàng hóa trong nội bộ
công ty…vì thế việc quản lý biên giới hiệu quả có tác động mạnh đến chuỗi
cung ứng Bắc Mỹ.
Trong một cuộc điều tra năm 2009 của Nanos cho thấy 85,7% người
dân Canada tin rằng dòng hàng hóa và con người qua biên giới phải được tăng
cường; một cuộc trưng cầu tương tự cho thấy rằng khoảng 71% người dân
Canada và 75% người dân Mỹ tin rằng cần mở rộng hợp tác an ninh biên giới
[140]. Mặc dù thừa nhận rằng quản lý biên giới cần được cải thiện, nhưng tiến
bộ đạt được còn chậm. Một cải cách mạnh mẽ về chính sách biên giới là cần
thiết để vừa đảm bảo an ninh biên giới vừa tạo điều kiện cho các chuỗi cung
ứng vận hành tốt. Việc hợp tác để giảm bớt tình trạng sa lầy biên giới đòi hỏi
phải có ba kết quả chính trị: một là, phải đảm bảo an toàn cho công dân Bắc
Mỹ bằng cách tham gia vào các chương trình du lịch và kinh doanh tin cậy;
thứ hai, phải cải thiện khả năng dự đoán trước về thời gian chờ đợi, kiểm tra
và mức lệ phí qua biên giới kèm theo các cam kết và tiên chuẩn về dịch vụ,
sức khỏe kinh tế dài hạn của cả hai nước đòi hỏi phải tinh giản chuỗi cung
ứng và tạo điều kiện tiếp cận biên giới; ba là, quản lý biên giới tốt hơn sẽ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách tạo điều kiện cho sự di chuyển hợp pháp
con người và hàng hóa.
57
Các chương trình như Thương mại tự do và an toàn (FAST), NEXUS,
Hợp tác hải quan - thương mại chống khủng bố (C-TPAT), Sáng kiến du lịch
Tây bán cầu (WHTI) đã được thực hiện để đẩy nhanh hoạt động vận chuyển
thương mại giai đoạn sau 11/9, cải thiện hiệu quả chuỗi cung ứng trong bối
cảnh áp dụng các thủ tục an ninh mới.
Năm 2011, Canada và Mỹ đã công bố Kế hoạch hợp tác mang tính lịch
sử mang tên “Beyond the Border Action Plan” (Kế hoạch hành động xuyên
biên giới), cung cấp một lộ trình xúc tiến thương mại hợp pháp và du lịch,
đồng thời tăng cường an ninh tại biên giới Canada-Mỹ. Việc này sẽ thúc đẩy
dòng chảy về người và hàng hóa giữa hai nước, tạo việc làm và tăng khả năng
cạnh tranh kinh tế, trong khi vẫn tăng cường an ninh của cả hai nước. Kế
hoạch này là một bước tiến lịch sử trong nỗ lực chung của Canada và Mỹ để
quản lý và thúc đẩy an ninh biên giới giữa hai nước và thịnh vượng ở Bắc
Mỹ. Kế hoạch hành động tập trung vào bốn lĩnh vực chính sau [95: tr.3]: 1,
Giải quyết sớm các mối đe dọa; 2, Tạo điều kiện cho thương mại, tăng trưởng
kinh tế và tạo việc làm; 3, Xây dựng các chương trình thực thi pháp luật hiệu
quả qua biên giới; 4, Tăng cường quản lý cơ sở hạ tầng quan trọng và an
ninh mạng qua biên giới.
Trong năm 2012, Canada và Mỹ đã có các cuộc gặp tham vấn để tăng
cường quản lý biên giới, tạo thuận lợi cho dòng chảy thương mại và du lịch
giữa hai nước, bao gồm hai lần tham vấn trong tháng 5, 2012 ở Washington.
D.C. và Toronto - tại đó, các bên liên quan cùng đưa ra các biện pháp mới để
tăng cường hợp tác quản lý kinh doanh xuyên biên giới. Bắt đầu từ năm này,
tham vấn hàng năm sẽ được tổ chức song phương, với sự tham gia của cả các
bên liên quan từ hai nước.
Canada và Mỹ có thể tăng cường quan hệ thương mại bằng cách tiếp
tục thực hiện kế hoạch hành động xuyên biên giới, loại bỏ các rào cản thương
mại, tăng cường an ninh, cải thiện cơ sở hạ tầng và cùng ứng phó với các đe
dọa chung. Sau sáng kiến này, hai nước đã đạt được nhiều tiến bộ thực sự
nhưng vẫn còn nhiều điều phải làm để đảm bảo sự thịnh vượng và an ninh của
họ, bao gồm cả chính sách phối hợp về visa, mở rộng các chương trình thực
thi pháp luật xuyên biên giới…
58
2.2.2.2. Mối quan hệ chính trị ngoại giao, kinh tế đầu tư tốt đẹp
Có thể nói quan hệ chính trị ngoại giao, an ninh và kinh tế đầu tư tốt
đẹp là nền tảng vững chắc cho quan hệ thương mại Canada - Mỹ phát triển.
Về quan hệ chính trị, mối quan hệ Canada - Mỹ trong thập niên đầu thế
kỷ XXI nói riêng và trong suốt gần một thế kỷ - kể từ khi chính thức thiết lập
quan hệ ngoại giao nói chung là mối bang giao rất hiếm có trên thế giới giữa
một nước vừa với một nước lớn hơn rất nhiều. Đó là quan hệ song phương
gắn bó khá "êm đềm", không có mâu thuẫn lớn cũng như không có những
xung đột lớn không thể dung hòa.
Nhìn một cách tổng thể, quan hệ trên lĩnh vực chính trị ngoại giao luôn
là mối quan hệ song phương gắn bó rất đặc biệt mà ít có hai quốc gia nào có
được. Điều này là rất tự nhiên, vì hiếm có quốc gia nào lại có nhiều quan hệ
ràng buộc với Mỹ như Canada. Cả hai nước đều có những điểm chung rất cơ
bản về lợi ích. Bởi vậy, các nhà lãnh đạo hai nước luôn ý thức được vai trò và
vị trí của nước kia trong sự phát triển của đất nước mình. Đối với Canada:
“Mỹ là người hàng xóm thân cận, đồng minh tốt nhất, khách hàng lớn nhất và
là người bạn phù hợp nhất của Canada. Nếu Mỹ thịnh vượng thì Canada cũng
giàu có. Ngược lại, nếu Mỹ bị tổn thương thì Canada cũng không tránh khỏi
thiệt hại… [130] và Chính phủ Canada khẳng định "Với các điều kiện địa lý
chung và các mối quan hệ kinh tế, an ninh và nhân dân sâu rộng, không có
quan hệ song phương nào có nhiều lợi ích chung như quan hệ Canada và Mỹ"
[2: tr.97]. Cũng như vậy, phía Mỹ nhận thức rõ: Canada không chỉ là nước
láng giềng mà còn là những người bạn lâu năm, là đồng minh, là đối tác đáng
tin cậy của Mỹ… Một Canada thịnh vượng có nghĩa là một nền kinh tế Mỹ
năng động và ổn định [114].
Trong các vấn đề quốc tế, Canada và Mỹ thường xuyên có chung quan
điểm về các sự kiện, nhưng cũng có một số khác biệt trong một số vấn đề cụ
thể. Tuy nhiên các khác biệt về chính sách đó cũng chỉ mờ nhạt so với toàn bộ
phạm vi hợp tác giữa hai nước. Mỹ đánh giá cao vai trò của Canada ở Tây
bán cầu và trong các hoạt động gìn giữ hòa bình toàn cầu cũng như các hoạt
động nhân đạo không chỉ ở Afghanistan mà còn ở Haiti, Darfur, và các khu
59
vực xung đột khác. Các hoạt động chính trị - ngoại giao sôi nổi giữa Canada -
Mỹ đã gắn kết quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực.
Trong lĩnh vực hợp tác an ninh quốc phòng: Có thể khẳng định quan hệ
quốc phòng của Mỹ với Canada lớn hơn so với bất cứ quốc gia nào. Tuyên bố
Chính sách Quốc tế năm 2005 của Mỹ thừa nhận rằng nước Mỹ luôn luôn vẫn
là đồng minh quan trọng nhất của Canada. Quan hệ an ninh quốc phòng
Canada - Mỹ trong thập kỷ qua đã góp phần thúc đẩy quan hệ giữa hai nước
nói chung lên một tầm cao mới. Và chính quy mô hợp tác sâu rộng trong quan
hệ quốc phòng giữa hai nước là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy Canada và
Mỹ là các đồng minh tự nhiên của nhau [67]. Thập kỷ đầu thế kỷ XXI là thời
kỳ mà vấn đề an ninh được đặt lên hàng đầu, khi Bắc Mỹ chịu mối đe dọa
trực tiếp của chủ nghĩa khủng bố, đó cũng là thời kỳ mà hợp tác an ninh quốc
phòng Canada - Mỹ diễn ra khá sôi động và tích cực. Cùng với hợp tác quốc
phòng, quan hệ thương mại quốc phòng giữa hai nước cũng từng bước được
xây dựng và phát triển. Trong vòng 50 năm qua, ngành công nghiệp quốc
phòng của hai nước đã có những mối quan hệ gắn kết rất chặt chẽ. Chính
quan hệ quốc phòng song phương này đã mang lại nhiều lợi nhuận cho ngành
công nghiệp quốc phòng của Canada nói riêng và kinh tế Canada nói chung;
mang lại cơ hội để Canada và Mỹ đưa lĩnh vực hợp tác quốc phòng nói riêng
và quan hệ chiến lược giữa hai nước nói chung phát triển lên tầm cao mới.
Về hợp tác trong lĩnh vực năng lượng: Mối quan hệ năng lượng Canada
- Mỹ được đánh giá là một trong những điểm khá tích cực của mối quan hệ
giữa hai nước. Đây là mối quan hệ dựa trên những cơ sở vững chắc giữa một
quốc gia có nguồn cung ứng năng lượng dồi dào và một quốc gia có nhu cầu
sử dụng năng lượng lớn nhất thế giới. Rõ ràng, năng lượng đã trở thành yếu tố
quan trọng đóng góp vào sự thành công của quan hệ kinh tế giữa hai đối tác
lớn nhất tại Bắc Mỹ.
Về hợp tác đầu tư, tài chính: Quan hệ đầu tư và hợp tác tài chính
Canada - Mỹ là một khía cạnh vô cùng quan trọng, đóng góp vào sự ổn định
và thịnh vượng của cả hai nước. Canada thường buộc phải theo chính sách
tiền tệ của Mỹ khá sát sao, bất cứ khác biệt lớn nào trong mức lãi suất cũng có
thể nhanh chóng gây ra các vấn đề lớn cho nền kinh tế Canada. Hợp tác tài
60
chính song phương không chỉ giúp tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư và
khiến cho tiến trình tự do thương mại giữa hai nước hiệu quả hơn trong việc
bảo vệ người tiêu dùng thông qua những thỏa thuận liên quan đến bảo hộ đầu
tư, hài hòa hóa những quy định và chuẩn đối với các lĩnh vực của thị trường
tài chính, đơn giản hóa các kiểm soát và thủ tục hải quan, sự tương thích về
pháp luật với người tiêu dùng… mà nó còn giúp hai nước phối hợp tích cực
đối phó với nhiều vấn đề nảy sinh đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu vừa qua.
Tuy nhiên, với mức độ liên kết của Canada và Mỹ, có lẽ rất ngạc nhiên
khi nhận thấy không có một hiệp định toàn diện nào quản lý mọi mặt mối
quan hệ này. Thay vào đó là một loạt các hiệp định song phương được thiết
kế nhằm quản lý những khía cạnh khác biệt của mối quan hệ giữa hai nước
(khoảng 343 hiệp ước có hiệu lực) [83: tr.3]. Trong đó, hiệp định quan trọng
nhất là Hiệp định thương mại tự do Mỹ - Canada và tiếp đó là NAFTA,
NORAD và Ủy ban quốc tế chung (IJC).
Về vấn đề này cần lưu ý rằng, chính phủ Canada từ chối các hiệp định
song phương toàn diện, do Canada ưu tiên tạo ra các thể chế tạm thời để xem
xét các vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, các thể chế và hiệp định “mềm”, như nhóm
công tác hay bị vong lục lại tạo điều kiện hợp tác và tiếp xúc. Ví dụ Nhóm
công tác song phương trong hợp tác quốc phòng và Nhóm tiêu dùng năng
lượng, hình thành sau sự cố mất điện tháng 8/2003.
2.2.2.3. Tương đồng, khác biệt giữa hai nền kinh tế Canada và Mỹ
Quan hệ kinh tế Canada - Mỹ vừa có sự hòa hợp, vừa có sự khác biệt:
sự hội nhập đến từ các hiệp định về tự do hóa thương mại giữa Canada và
Mỹ, mà khởi đầu là FTA, tiếp đó là NAFTA; còn sự khác biệt là do sự phụ
thuộc của Canada vào thị trường Mỹ và sự khác biệt về qui mô giữa hai nền
kinh tế. Các số liệu thống kê cho thấy: xuất khẩu của Canada sang Mỹ luôn
chiếm tới khoảng ¾ tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này; ngoài ra, không
có nước nào chiếm tới 5% xuất khẩu của Canada.
Tiền đề đầu tiên của quá trình hội nhập Canada - Mỹ chính là Hiệp
định Tương hỗ 1854 hay còn gọi là Hiệp định Elgin-Marcy, mục đích của
Hiệp định là nhằm cụ thể hoá các tiềm năng kinh tế và thương mại. Tuy
61
nhiên, theo nhiều quan điểm thì hiệp định này có ý nghĩa chính trị hơn là hội
nhập kinh tế [78]. Với Hiệp định tương hỗ làm nền tảng, hai nước đã trở gắn
bó với nhau hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới. Cơ sở pháp lý cho
quan hệ kinh tế giữa hai nước kể từ sau Thế chiến II là Hiệp định về ôtô năm
1965, việc ký kết hiệp định này có tác động lớn đến xuất nhập khẩu của
Canada [78].
Canada và Mỹ đã không ngừng củng cố hội nhập trong các thập niên
sau đó. Việc ký kết Hiệp định thương mại tự do song phương Canada - Mỹ
(CUSFTA) năm 1988 đã đánh dấu quá trình hội nhập sâu rộng hơn của hai
nước, theo đó, tất cả các thuế quan giữa hai nước sẽ được loại bỏ trong vòng
10 năm. Kế tiếp, ngày 1/1/1994 Hiệp định Thương mại tự do giữa ba nước
Mỹ - Canada - Mexico (NAFTA) chính thức có hiệu lực đánh dấu bước đi
quan trọng trong quá trình hội nhập của khu vực này. NAFTA đã mở rộng
cánh cửa cho Canada vào thị trường Mỹ và tăng cường xuất khẩu nhưng đồng
thời cũng buộc các doanh nghiệp nhỏ của Canada phải có sức cạnh tranh lớn
hơn [13].
Nền kinh tế Canada và Mỹ có rất nhiểu điểm tương đồng nhau vì cả hai
nước đều là các nền kinh tế phát triển. Quan hệ song phương giữa Canada và
Mỹ trong tất cả lĩnh vực đều thuận lợi do hai nước có sự tương đồng về thể
chế (cả thể chế chính thức và phi chính thức). Hai nước đều có nền kinh tế
hiện đại và có các thể chế tốt, đạt được sự thịnh vượng về kinh tế và thúc đẩy
các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các thể chế tác động đến hoạt động của nền
kinh tế thông qua ảnh hưởng của chúng đến chi phí giao dịch và sản xuất.
Việc các thể chế giải quyết được các vấn đề phối hợp tốt tới chừng nào sẽ do
động cơ của các bên tham gia, tính phức tạp của môi trường và khả năng giải
mã và định đoạt môi trường của các bên tham gia quyết định. Quan hệ giữa
Canada và Mỹ vẫn tồn tại nhiều khó khăn nhưng do hai nước vẫn có thể chế
giải quyết để hạn chế khó khăn do luật pháp của hai nước đều phát triển.
Giữa Canada và Mỹ cũng có tính tương đồng trong môi trường kinh
doanh. Các thể chế song phương và khu vực như FTA, NAFTA có một tác
động mạnh mẽ đến quan hệ thương mại giữa Canada và Mỹ. Tác động này là
do một số nguyên nhân cơ bản sau:
62
(1) Giảm thuế
Các cơ chế trên đã làm giảm các rào cản thuế quan và phi quan thuế đối
với thương mại trong tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ, cũng như nhiều giao
dịch đầu tư và hầu hết các lĩnh vực kinh doanh. Nghĩa vụ lớn nhất trong
thương mại hàng hóa bao gồm các trách nhiệm bắt buộc liên quan đến thuế,
quy tắc về nguồn gốc xuất xứ, hạn ngạch, các quy định hải quan, giấy thông
hành an toàn, các biện pháp phòng vệ thương mại bất công bằng, thu mua
chính phủ, ứng xử quốc gia, các rào cản kỹ thuật, và các ngoại lệ khác.
(2) Tăng tính ổn định
Tính ổn định gia tăng từ cơ chế song phương quan trọng, đặc biệt là
trong lĩnh vực thương mại và đầu tư, với các nguyên tắc, tiêu chuẩn, và quy
tắc cơ bản, cũng như một số thể chế của cơ chế đó, tạo điều kiện thuận lợi cho
trao đổi thương mại. Cơ chế này làm giảm chi phí giao dịch và giảm cả tính
bất ổn.
Quan hệ thương mại Canada - Mỹ đặc biệt có lợi từ việc gia tăng các
cơ chế có tính quy tắc nhằm tăng cường tự do thương mại giữa các nước. Đặc
biệt, cơ chế giải quyết tranh chấp của FTA (và NAFTA) đã tăng cường quy
tắc luật trong quan hệ giữa Canada và Mỹ [13] [14]… Các tranh chấp thương
mại khác được giải quyết tại WTO.
Ngoài những điểm tương đồng và cơ sở pháp lý, hội nhập… tạo điều
kiện thúc đẩy quan hệ thương mại Canada - Mỹ, thì các điểm khác biệt trong
cơ cấu dân số, địa lý [76], tài nguyên, thuế, chính sách của chính phủ, năng
suất lao động… cũng có tác động nhất định đến quan hệ thương mại giữa hai
nước.
- Về tài nguyên, Mỹ cũng có nguồn tài nguyên, nhiên liệu lớn, nhưng
không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước nên buộc phải nhập khẩu từ nước
ngoài, trong đó Canada là một nguồn cung quan trọng của Mỹ. Ngược lại,
Canada là một nước xuất khẩu ròng tài nguyên. Vì vậy, khi giá các loại tài
nguyên tăng, đây sẽ là động lực thúc đẩy nền kinh tế Canada phát triển,
nhưng lại gây thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ. Chẳng hạn như giá dầu tăng
thường khiến chỉ số Dow Jones và NASDAQ của Mỹ giảm nhưng lại khiến
chỉ số TSX (Toronto Stock Exchange) của Canada tăng.
63
- Thuế: Mức thuế trung bình ở Canada cao hơn so với ở Mỹ. Ở Canada
tổng doanh thu từ thuế và phi thuế trong tất cả các cấp chính quyền chiếm
khoảng 37% GDP so với tỷ lệ 27% GDP [127] ở Mỹ. Khi sự khác biệt về
thuế này giảm xuống, cùng với các cơ hội tốt hơn ở Mỹ là một nguyên nhân
chính dẫn đến việc chảy máu chất xám tới Mỹ. Một phần quan trọng của sự
khác biệt về thuế này là do các khác biệt về chi tiêu giữa hai nước. Trong khi
Mỹ có mức thâm hụt khoảng 4% GDP, thì Canada thường đạt mức thặng dư
ngân sách khoảng 1% GDP. Tuy nhiên, khi so sánh hệ thống thuế giữa hai
nước cũng cần thận trọng do sự khác biệt về hệ thống dịch vụ của mỗi nước.
Chẳng hạn như trong khi hệ thống y tế của Canada được chính phủ đầu tư tới
70%, thì của Mỹ chỉ dưới 50%.
Các loại thuế áp dụng ở hai nước cũng khác nhau. Hệ thống thuế thu
nhập ở Canada với những người có thu nhập cao nhất thường rất cao, vì thế
khi mức thuế thu nhập của Canada cao hơn mức trung bình, 50% dân số có
thu nhập thấp nhất chịu thuế xấp xỉ bằng với thu nhập như ở nước Mỹ…Tuy
nhiên, Canada có một mức thuế hàng hoá và dịch vụ quốc gia chiếm khoảng
5% trong tất cả các vụ mua bán, trong khi chính quyền liên bang Mỹ thì
không áp dụng loại thuế này, khiến việc tăng thuế đè nặng lên những người
có thu nhập thấp ở Canada…Hệ thống thuế hàng hóa và dịch vụ liên bang
(GST) của Canada không đánh thuế vào thực phẩm và các loại hàng hoá thiết
yếu khác và GST giảm thuế cho người nhập cư có thu nhập thấp …
- Chính sách tài khoá và tiền tệ: Canada thường buộc phải theo chính
sách tiền tệ của Mỹ khá sát sao, bất cứ khác biệt lớn nào trong mức lãi suất
cũng có thể nhanh chóng gây ra các vấn đề lớn cho nền kinh tế Canada [49].
Cục dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng Canada đều tin vào việc chống lạm
phát trong khi cả hai nước đều không quyết tâm theo đuổi các chính sách toàn
công. Một khác biệt mới xuất hiện gần đây là trong khi Canada vẫn bám vào
các chính sách về cân bằng ngân sách từ những năm 1990 thì nước Mỹ đã rơi
vào tình trạng thâm hụt nặng.
- Về quy mô thị thường: Một trong các khác biệt lớn nhất giữa Canada
và Mỹ là quy mô của hai thị trường. Khi cả hai quốc gia đều duy trì mức thuế
quan cao thì hai nước không có một thị trường thống nhất (hợp nhất). Quy mô
64
thị trường nhỏ hơn của Canada dẫn đến giá cả hàng hoá và tính không hiệu
quả cao hơn.
- Giá cả: Giá cả ở Canada thường cao hơn ở Mỹ. Điều này chủ yếu do
các vấn đề về cấu trúc ở Canada như độ đa dạng dân cư thấp và thời tiết khắc
nghiệt hơn, và một phần là do hệ thống thuế của Canada, hệ thống thuế của
nước này phụ thuộc nhiều vào thuế doanh thu cân đối với thuế thu nhập hơn
nước Mỹ. Giá cả nhiên liệu ở Canada cũng luôn cao hơn so với ở Mỹ, mặc dù
Canada là nước xuất khẩu ròng năng lượng. Nguyên nhân của hiện tượng này
cũng tương tự như các nguyên nhân kể trên và mặt khác bởi thuế đánh vào
nhiên liệu cao. Không giống như các nhà sản xuất dầu khác, đặc biệt là ở thế
giới các nước đang phát triển, Canada không trợ cấp nhiều cho nhiên liệu, vì
thế giá cả mặt hàng này dựa trên mặt giá chung của thị trường thế giới.
- Khác nhau trong vận hành của hai nền kinh tế: Một vài điểm khác
nhau trong vận hành của kinh tế Canada và Mỹ có nguyên nhân từ sự khác
nhau giữa cấu trúc và vai trò của chính phủ tới đời sống kinh tế. Tuy cả hai
nước đều có nền kinh tế tự do song kinh tế Canada chịu ảnh hưởng bởi nhiều
chính sách kinh tế hơn. Trước khi tham gia vào FTA với Mỹ, Canada đã bảo
hộ các doanh nghiệp nhỏ chuyên sản xuất cho tiêu dùng trong nước bằng
hàng rào thuế quan. Trong khi các kế hoạch này đã giúp tạo việc làm cho
nhiều người dân Canada, nhưng sự phân phối không hiệu quả đối với nguồn
lực kinh tế trong nước dẫn tới kết quả là giá tiêu dùng cao hơn. Canada cũng
đem lại cho người dân mạng lưới bảo trợ xã hội hào phóng bao gồm các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe của chính phủ. Người dân Canada cũng phải trả thuế
thu nhập cao để được nhận phúc lợi, nhưng ngành công nghiệp tư nhân khá
khó khăn trong việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ đó.
- Canada phụ thuộc vào thương mại nhiều hơn so với nước Mỹ: Đóng
góp từ thương mại trong GDP của Canada cao hơn nhiều so với Mỹ và đặc
biệt tăng mạnh từ những năm 1990. Đóng góp từ xuất khẩu và nhập khẩu vào
GDP thực tế của Canada chiếm khoảng 41%, xấp xỉ 3 và 2,5 lần so với các
con số tương ứng (xuất khẩu - nhập khẩu) ở Mỹ [118: tr.3]. Trong năm 2005,
xuất khẩu của Canada chiếm 38% GDP, trong khi đó nhập khẩu chiếm 34%
(so với các con số tương ứng ở Mỹ là 10% và 16%). Nguyên nhân chính
65
khiến Canada phụ thuộc vào thương mại lớn hơn Mỹ là do sự gần gũi về địa
lý với nước Mỹ, do nền kinh tế nội địa chuyên môn hóa ở mức độ vừa phải,
khí hậu thì khắc nghiệt, và chi phí vận chuyển nội địa tương đối cao. Còn
nguyên nhân của việc ngày càng gia tăng thị phần thương mại của Canada
trong GDP là do [92]:
Thứ nhất là do tự do hóa thương mại thông qua Hiệp định thương mại
tự do Canada - Mỹ và Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ đã xóa bỏ gần hết
các loại thuế quan và rào cản thương mại giữa ba nước Bắc Mỹ.
Thứ hai, chi phí vận chuyển thấp hơn đối với hàng hóa quốc tế (chi phí
vận chuyển nội địa cao) và hệ thống phương tiện liên lạc được cải thiện đã
làm tăng nhiều loại hàng hóa sẵn có cho thương mại thế giới và thương mại
nội ngành với các hàng hóa cùng loại...
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của nước Mỹ từ giữa những năm
1990 và một đồng USD mạnh trong thời kỳ đó đã làm tăng nhu cầu của
người Mỹ với hàng hóa xuất khẩu của Canada và mở rộng hơn nữa cơ hội
trao đổi thương mại song phương các hàng hóa cùng loại.
Canada phụ thuộc nhiều vào các ngành sơ cấp hơn so với nước Mỹ
(nông nghiệp, rừng, và than đá), và chế tạo cơ bản, ít phụ thuộc hơn vào
ngành dịch vụ và công nghệ thông tin: đóng góp của các ngành sơ cấp trong
GDP thực tế của Canada là 6,5%, và con số này ở Mỹ là 2,3%. Trong khi đó,
nông nghiệp đóng góp 1,4% GDP của Canada, và con số tương ứng ở Mỹ là
0,8%. Canada xuất khẩu nhiều các sản phẩm từ gỗ và năng lượng tới Mỹ.
Canada phụ thuộc vào ngành chế tạo nhiều hơn so với nước Mỹ và thành
phần của hoạt động chế tạo giữa hai nước cũng khác nhau: ngành vận tải, gỗ
và giấy, kim loại chiếm khoảng 43% ngành chế tạo của Canada, trong khi đó
các ngành này chỉ chiếm có 37% trong ngành chế tạo Mỹ [118]. Ngành chế
tạo công nghệ cao ở nước Mỹ quan trọng hơn nhiều so với ở Canada: Sản
xuất máy tính và phụ kiện, các hàng hóa điện tử khác và ngành xuất bản
chiếm khoảng 33% ngành chế tạo Mỹ so với con số tương ứng ở Canada là
10%. Đóng góp từ ngành dịch vụ ở nước Mỹ lớn hơn 8,5% so với ở Canada.
66
2.2.2.4. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế Canada - Mỹ
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế là cơ sở cho thấy sự cần
thiết của việc hình thành phát triển quan hệ thương mại Canada - Mỹ. Đối với
Canada, Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ đầu tiên, quan trọng
nhất, là nguồn và đích cho vốn đầu tư - và trọng tâm trong chính sách ngành,
kinh tế của Canada từ giữa những năm 1980. Hầu hết các tỉnh của Canada
xuất khẩu ra nước ngoài (đặc biệt là xuất khẩu tới Mỹ) nhiều hơn sang các
tỉnh khác trong nước [78]. Nhờ vào bản chất hội nhập của chuỗi cung ứng,
Canada là luôn thị trường xuất khẩu lớn nhất cho khoảng 35 trong số 50 bang
của Mỹ. Quan hệ kinh tế của Canada với các tiểu bang Michigan, New York,
và California lớn hơn với Nhật Bản, Anh, và Pháp. Nhập khẩu của Canada từ
Mỹ lớn hơn tổng kim ngạch nhập khẩu của Canada từ các nước Đức, Nhật,
Trung Quốc và Anh cộng lại [145]. Thêm vào đó, cường độ thương mại giữa
các tỉnh Canada và các vùng lãnh thổ Mỹ lớn hơn với toàn Mỹ nói chung -
cho thấy hình thành các khu vực kinh tế xuyên biên giới [45: tr.6].
Quan hệ thương mại Canada - Mỹ luôn mất cân bằng, bằng chứng là
kinh tế Canada ngày càng phụ thuộc vào xuất khẩu sang Mỹ. Đây là mối quan
hệ khó với Canada, những quyết định không hợp lý ở Mỹ có thể tác động
rộng khắp ở Canada. Những thay đổi trong chính sách vi mô hoặc chính sách
ngành của Mỹ dù không trực tiếp nhằm vào Canada nhưng lại tác động sâu
sắc lên Canada. Canada phụ thuộc nhiều vào thương mại với Mỹ và do đó
càng dễ bị tổn thương với chủ nghĩa bảo hộ của Mỹ [105].
Sự mất cân bằng này có nghĩa Canada cần đầu tư lớn hơn trong quan hệ
với Mỹ, và Canada cần quan tâm hơn tới việc nảy sinh chủ nghĩa bảo hộ hơn
là Washington quan tâm tới lợi ích của mình ở Canada. Trừ các tranh chấp
thương mại liên quan tới vụ gỗ xẻ mềm và trợ cấp lúa mỳ, mối quan hệ này
khá hài hòa. Thậm chí mức độ mất cân bằng đó theo hướng có lợi cho Canada
(Canada luôn có thặng dư thương mại hàng hóa với Mỹ) nhưng cũng không
gây ra phản ứng từ Mỹ.
Mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa Mỹ và Canada thường được
đề cập một cách ngẫu nhiên nhưng trở nên rất rõ ràng khi so sánh chỉ số phát
67
triển kinh tế của hai nước. Những xu hướng phát triển ở hai nước tương tự
nhau cho thấy các kết quả kinh tế hay các cú sốc kinh tế ở Mỹ có xu hướng
ảnh hưởng vượt ra ngoài nền kinh tế Mỹ và tác động tương tự đến nền kinh tế
Canada. Hiệu ứng vết dầu loang cho thấy mức độ phụ thuộc đáng kể của
Canada vào Mỹ. Chẳng hạn, vụ khủng bố 11/9/2001 gây ra sự suy giảm lớn
trên thị trường chứng khoán Mỹ và một sự đổ vỡ trong một số ngành như
hàng không. GDP Mỹ từ 3,66% năm 2000 giảm xuống 0,75% năm 2001,
GDP của Canada giảm từ 5,23% năm 2000 xuống còn 1,78% năm 2001 [91].
Mức độ tăng cường hội nhập giữa thị trường Canada - Mỹ dẫn đến chi
phí giao dịch giữa hai nền kinh tế giảm xuống. Bộ Đối ngoại và Ngoại thương
Canada đưa ra biện pháp tính tốc độ hội nhập Canada - Mỹ bằng cách xem
xét số lượng hàng rào thương mại và khối lượng thương mại, tăng GDP và
năng suất lao động. Một tính toán chi phí qua biên giới với hàng hóa chuyên
chở bằng xe tải giữa Mỹ và Canada cho thấy tổng chi phí thương mại (trừ chi
phí an ninh của chính phủ do kiểm soát biên giới) do cơ sở hạ tầng cũ kĩ,
thiếu nhân viên và quan chức hải quan, thủ tục an ninh mới chiếm khoảng 2%
- 3% tổng thương mại năm 2007 [54],[57].
Tuy nhiên quan hệ này hội nhập nhiều hơn một số quan hệ thương mại
đơn giản. Sự phụ thuộc lẫn nhau tạo sự nhạy cảm về thời gian với hàng tồn
kho phụ thuộc vào chuyên chở đúng giờ. Một sự dồn ứ ở biên giới sẽ dẫn tới
các nhà máy đình trệ.
Một tác động của sự phụ thuộc lẫn nhau không tương xứng là những
phân mảng lớn trong chính sách thương mại của Mỹ với Canada thường bị coi
như những vấn đề nhỏ trong chính sách của Mỹ, nhất là Quốc hội. Mức độ và
quy mô quan hệ Canada - Mỹ, những thách thức phối hợp chính sách hiệu quả
ở cả hai chính phủ, tác động thực tiễn của vấn đề trong nước - quốc tế làm mờ
ranh giới chức năng giữa chính sách đối nội và đối ngoại - chủ yếu đảm bảo
không có chính sách riêng nào của Mỹ với Canada, thay vào đó một số chính
sách áp dụng vào những thời điểm khác nhau [85: tr.18].
68
TIỂU KẾT
Như thế, qua phân tích ở trên, có thể nhận định rằng trong hai thập niên
đầu thế kỷ XXI, bối cảnh quan hệ thương mại Canada - Mỹ có những điểm
khác biệt so với giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, cũng có những nhân tố tác
động đã có từ trước, đó vẫn là cơ sở, nền tảng cho quan hệ thương mại giữa
hai nước.
Trong hơn một thập kỷ qua, toàn cầu hóa vẫn là đặc điểm nổi bật của
quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng đang diễn ra với những nét hết sức khác biệt
so với giai đoạn trước, hợp tác được đẩy mạnh nhưng mặt cạnh tranh cũng
khốc liệt hơn. Mối quan hệ giữa một nền kinh tế phát triển và một nền kinh tế số
một thế giới đương nhiên sẽ không thể tránh khỏi tác động từ những biến động
lớn của đời sống quốc tế như sự kiện 11/9, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
2008. Trước sự kiện 11/9, biên giới Canada - Mỹ được coi là biên giới “không
rào chắn” dài nhất thế giới, tạo điều kiện cho các hoạt động thương mại và du
lịch giữa hai nước. Tuy nhiên, sau sự kiện 11/9, an ninh biên giới bị thắt chặt
bởi hàng loạt các hàng rào an ninh, gây trở ngại cả về chi phí, thời gian cho
thương mại và du lịch. Với tư cách là những thành viên của NAFTA, quá trình
vận động và phát triển của tổ chức này cũng như vai trò của Mexico cũng có
những ảnh hưởng nhất định đến chiều hướng phát triển của quan hệ thương mại
song phương Canada - Mỹ. Bên cạnh đó, các nước ngoài khu vực cũng thúc đẩy
mạnh mẽ quan hệ thương mại với cả Mỹ và Canada, khiến cho quan hệ thương
mại giữa hai nước chịu nhiều ảnh hưởng.
Nhìn chung, những yếu tố quốc tế và khu vực có thể tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến quan hệ thương mại giữa hai nước, điều đó tùy thuộc vào cách
ứng xử cũng như nhận thức của mỗi bên về tầm quan trọng của mối quan hệ này.
Các mối quan hệ thương mại giữa Canada và Mỹ không phải là tĩnh, chiến
lược chính trị và kinh doanh thay đổi ở cả hai bên biên giới, và các sự kiện
xảy ra như luật Mua hàng Mỹ có những tác động mạnh mẽ đến các nhà xuất
khẩu của Canada nói riêng và quan hệ thương mại Canada - Mỹ nói chung.
Các mối quan hệ chính trị ngoại giao, an ninh, năng lượng, hợp tác đầu tư, tài
69
chính…tốt đẹp đã và đang là nền tảng thúc đẩy quan hệ thương mại song
phương phát triển. Đây cũng chính là nhân tố bên trong quan trọng nhất tác động
đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ. Trên cơ sở những điểm tương đồng và
khác biệt cũng như mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau giữa hai nền kinh
tế, Canada và Mỹ có thể định hướng và xây dựng chính sách nhằm phát triển
quan hệ thương mại tương xứng với tiềm năng của hai nước. Hai nước có mối
quan hệ đặc biệt vì được kết nối bởi các giá trị, quan tâm và lợi ích chung, thế
nhưng hai nước vẫn rất khác nhau trên nhiều khía cạnh quan trọng. Đặc điểm
của quan hệ này là tính không đối xứng: không đối xứng về sức mạnh, về
phát triển kinh tế, về dân số và tài nguyên. Những điểm khác biệt này có thể
thúc đẩy nhưng cũng có thể dẫn đến khả năng mâu thuẫn trong quan hệ
thương mại giữa hai nước.
Tất cả các nhân tố trên đều có những tác động gián tiếp hoặc trực tiếp
đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI.
70
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CANADA - MỸ
TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2015
3.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu Canada - Mỹ
3.1.1. Thương mại hàng hóa
Canada và Mỹ có mối quan hệ thương mại lớn nhất thế giới. Kim
ngạch tăng dần qua các năm, mặc dù tỷ trọng trong tổng kim ngạch có giảm
do cả hai nước đều đa dạng hóa đối tác thương mại. Canada luôn có thặng dư
trong thương mại hàng hóa với Mỹ.
Bước vào thế kỷ 21, quan hệ thương mại Canada - Mỹ bị ảnh hưởng
bởi các biện pháp tăng cường an ninh biên giới sau sự kiện 11/9. Chính vì thế,
tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ đến Canada có sự suy giảm đáng kể từ nửa
sau năm 2001. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Canada tới Mỹ đã bị tác động
mạnh trong quý IV năm 2001 và trong cả năm 2002, 2003 (xem bảng 3.1).
Nhìn chung, sự kiện 11/9 làm gián đoạn dòng chảy thương mại từ
Canada tới Mỹ nhiều hơn là từ Mỹ tới Canada [131], [132]. Các biện pháp
thắt chặt an ninh biên giới tác động tới nhập khẩu của Mỹ từ Canada nhiều
hơn xuất khẩu của Mỹ tới Canada vì các biện pháp an ninh được thắt chặt hơn
với giao dịch thương mại vào nước Mỹ hơn là thương mại vào Canada.
Vì nhập khẩu từ Canada làm tăng mức thu nhập thực tế ở nước Mỹ
thông qua các kênh ảnh hưởng khác nhau cho nên tác động bất lợi từ việc
triển khai các biện pháp an ninh biên giới đến nhập khẩu của Mỹ từ Canada
nằm trong quan tâm của cả người dân Mỹ cũng như người dân Canada. Ngoài
việc thừa nhận sự kiện 11/9 có tác động đến quan hệ thương mại giữa hai
nước, cũng phải xem xét đến nhiều nguyên nhân khác, chẳng hạn như, sự gia
tăng tính cạnh tranh của Trung Quốc, xuất khẩu ròng của Trung Quốc đến
Bắc Mỹ đã làm giảm lượng nhập khẩu của Mỹ từ Canada.
71
Bảng 3.1: Thương mại hàng hóa Canada - Mỹ (2000-2015)
(Đơn vị: tỷ USD)
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân
2000 230,838 178,941 51,897
2001 216,268 163,424 52,844
2002 209,087 160,923 48,165
2003 221,594 169,924 51,670
2004 256,360 189,880 66,480
2005 290,384 211,899 78,485
2006 302,438 230,656 71,782
2007 317,056 248,888 68,168
2008 339,491 261,149 78,342
2009 226,248 204,658 21,590
2010 277,636 249,256 28,380
2011 315,324 281,291 34,033
2012 324,264 292,650 31,614
2013 332,552 301,609 30,943
2014 346,062 312,032 34,030
2015 295,190 280,326 14,863
Nguồn: http://www.census.gov/foreign-trade/balance.
Trong năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của Mỹ tới Canada cao hơn cả
tổng xuất khẩu của Mỹ tới Mexico và Nhật Bản, đây là thị trường xuất khẩu
lớn thứ hai và thứ ba của Mỹ [118]. Sang năm 2006, hai nước đã có kim
ngạch buôn bán hai chiều vượt quá 533 tỷ USD (số liệu bảng 3.1), con số này
thậm chí còn chưa tính đến trao đổi kinh tế trong lĩnh vực đầu tư và dịch vụ.
Xuất khẩu hàng hóa của Canada đến Mỹ chiếm hơn 80% tổng thương mại
xuất khẩu của Canada năm 2006 (bảng 3.2). Cũng trong năm này, Canada là
thị trường xuất khẩu hàng đầu đến 39 bang của Mỹ. Trao đổi thương mại hai
chiều qua Ambassador Bridge giữa Detroit, Michigan và Windsor, Ontario
bằng tổng xuất khẩu của Mỹ tới Nhật Bản. Canada là tmột thị trường lớn với
hàng hóa Mỹ, hơn cả 27 nước EU cộng lại dù các nước này có dân số gấp 15
lần dân số của Canada [50]. Trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến 2008,
giá trị xuất khẩu của Canada sang Mỹ đã tăng nhanh chóng [93].
Bảng 3.2: 10 đối tác xuất khẩu lớn nhất của Canada
(Đơn vị: %)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Mỹ 81.6 79 77.7 75.1 74.9 73.6 74.5 75.8 76.8 76.7
Trung Quốc 1.77 2.11 2.17 3.10 3.32 3.76 4.25 4.34 3.68 3.87
Anh 2.30 2.84 2.69 3.35 4.10 4.21 4.12 2.96 2.90 3.05
Nhật Bản 2.14 2.05 2.29 2.31 2.31 2.39 2.28 2.25 2.05 1.87
Mexico 0.99 1.10 1.21 1.34 1.26 1.23 1.18 1.15 1.06 1.26
72
Ấn Độ 0.38 0.40 0.50 0.59 0.52 0.59 0.52 0.59 0.61 0.83
Hàn Quốc 0.75 0.67 0.79 0.98 0.93 1.14 0.82 0.74 0.80 0.77
Hồng Kong 0.37 0.34 0.37 0.42 0.47 0.66 0.54 1.04 0.88 0.75
Đức 0.90 0.86 0.93 1.04 0.99 0.89 0.79 0.73 0.59 0.69
Hà Lan 0.70 0.90 0.77 0.77 0.82 1.08 1.00 0.76 0.73 0.68
Tổng 10 nước 91.9 90.2 89.37 89.0 89.6 89.6 90 90.4
90.1 90.4
Các nước còn lại 8.15 9.76 10.63 11.0 10.4 10.4 9.98 9.60 9.92 9.56
Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Statistic Canada & US Census Bureau,
https://www.ic.gc.ca/app/scr/tdst/tdo/crtr.html Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế Mỹ đã dẫn
đến sự suy giảm cả về xuất khẩu, nhập khẩu của Canada từ năm 2008 đến
2009. Mức giảm mạnh nhất là xuất khẩu hàng hóa của Canada tới Mỹ, giảm
tới 27% trong năm 2009 [30: tr.1], cho đến năm 2012 con số này vẫn không
phục hồi được bằng mức năm 2008 (bảng 3.1). Từ năm 2009, xu hướng đa
dạng hóa đối tác xuất khẩu của Canada tiếp tục được đẩy mạnh, và sự phụ
thuộc vào Mỹ đã giảm bớt. Mặc dù Mỹ vẫn chiếm 75% tổng xuất khẩu của
Canada trong năm 2009, giảm hơn nhiều so với năm 2008 - con số tương ứng
của năm 2008 là 78% và 87% trong năm 2000 [93].
Nhập khẩu hàng hóa của Canada từ Mỹ nhìn chung không bị tác động
mạnh bởi suy thoái kinh tế Mỹ, chỉ giảm vào năm 2009 với mức 16% so với
năm trước và bắt đầu phục hồi từ năm 2010 (bảng 3.1). Vì thế, xét về cán cân
thương mại, xuất khẩu của Canada sang Mỹ đã bị ảnh hưởng mạnh hơn xuất
khẩu của Mỹ sang Canada (Phụ lục 2). Cụ thể, thặng dư thương mại hàng hóa
của Canada với Mỹ đã giảm hơn một nửa (56%) từ 78,34 tỷ USD năm 2008
xuống còn 34,03 tỷ USD năm 2014. Điều này đã khiến cán cân thương mại
của Canada với thế giới giảm, đây cũng là nguyên nhân khiến lần đầu tiên vào
năm 2009, sau 34 năm (1975) Canada rơi vào tình trạng thâm hụt thương mại.
Khi xem xét tỷ trọng của Mỹ trong tổng giá trị xuất nhập khẩu của
Canada trong giai đoạn dài hơn (1993-2012) sẽ dễ dàng nhận thấy xu hướng
giảm mạnh (hình 3.1). Các nguyên nhân chính là do giá trị CAD cao hơn, suy
thoái kinh tế khiến giảm cầu tiêu dùng của Mỹ, và một phần nguyên nhân bắt
nguồn từ chính sách đa dạng hóa đối tác thương mại và mức tăng tương đối
mạnh hơn trong thị trường nội địa Canada. Năng suất ở Canada thấp hơn và
chi phí giao dịch qua biên giới tăng cũng là một trong những nguyên nhân
73
quan trọng dẫn đến tình trạng trên. Từ năm 2007, Trung Quốc đã thay thế
Canada trở thành nước xuất khẩu nhiều nhất vào Mỹ [101: tr.22].
Nguồn: [90]
Hình 3.1: Tỷ trọng thương mại với Mỹ trong tổng thương mại
hàng hóa hàng năm của Canada (%)
Sự phát triển của quan hệ thương mại Canada - Mỹ cũng được thể hiện
rõ qua số liệu thương mại hàng hóa giữa hai nước năm 2014, khi kim ngạch
thương mại hai chiều tiếp tục tăng mạnh, và Canada vẫn là đối tác thương mại
hàng hóa hàng đầu của Mỹ (bảng 3.3), [150], [151].
Bảng 3.3: Các đối tác thương mại hàng hóa hàng đầu của Mỹ năm 2014
(Đơn vị: tỷ USD)
Thứ tự Nước Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng kim
ngạch
thương mại
% trong tổng
kim ngạch
thương mại
--- Tổng cộng, Tất cả các nước 1.623,3 2.345,8 3.969,1 100,0%
1 Canada 312,0 346,1 658,1 16,6%
2 Trung Quốc 124,0 466,7 590,7 14,9%
3 Mexico 240,3 294,2 534,5 13,5%
4 Nhật Bản 67,0 133,9 200,9 5,1%
5 Đức 49,4 123,2 172,6 4,3%
6 Hàn Quốc 44,5 69,6 114,1 2,9%
7 Vương quốc Anh 53,9 54,0 107,9 2,7%
8 Pháp 31,2 47,0 78,2 2,0%
9 Brazil 42,4 30,3 72,8 1,8%
10 Đài Loan 26,8 40,6 67,4 1,7%
Nguồn: [147]
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Cục điều tra Mỹ, năm 2015, Trung
Quốc đã vượt Canada trở thành đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Mỹ
(bảng 3.4). Dầu mỏ là mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của Canada sang Mỹ,
trong suốt từ năm 1993 đến nay khối lượng nhập khẩu dầu thô và các sản
phẩm dầu mỏ của Mỹ từ Canada không ngừng gia tăng (phụ lục 4), nhưng do
74
tác động của giá dầu thế giới giảm sâu từ 107 USD mỗi thùng xuống quanh
ngưỡng 40 USD mỗi thùng hiện nay đã khiến giá trị thương mại giữa hai
nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Thương mại Mỹ - Canada đã tăng lên 467%
từ năm 1985 lên đến 659 tỷ USD trong năm 2014 (bảng 3.1). Tuy nhiên, do
các dòng chảy thương mại khá lớn qua biên giới phía Bắc của Mỹ, dự kiến
trong ngắn hạn Canada sẽ giành lại vị trí ưu việt khi giá dầu tăng trở lại.
Bảng 3.4: Các đối tác thương mại hàng hóa hàng đầu của Mỹ năm 2015
(Đơn vị: tỷ USD) Thứ tự Nước Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng kim
ngạch
thương mại
% trong tổng
kim ngạch
thương mại
--- Tổng tất cả 1.504,9 2.241,1 3.746,0 100.0%
1 Trung Quốc 116,2 481,9 598,1 16.0%
2 Canada 280,3 295,2 575,5 15.4%
3 Mexico 236,4 294,7 531,1 14.2%
4 Nhật Bản 62,5 131,1 193,6 5.2%
5 Đức 49,9 124,1 174,1 4.6%
6 Hàn Quốc 43,5 71,8 115,3 3.1%
7 Anh 56,4 57,8 114,2 3.0%
8 Pháp 30,1 47,6 77,7 2.1%
9 Đài Loan 25,9 40,7 66,6 1.8%
10 Ấn Độ 21,5 44,7 66,3 1.8%
Nguồn:www.census.gov/foreign-trade/statistics/highlights/top/top1512yr.html
Tuy tạm thời mất đi vị trí số 1 trong quan hệ thương mại với Mỹ,
nhưng cho đến năm 2015, Mỹ vẫn tiếp tục là đối tác lớn nhất của Canada cả
về kim ngạch xuất-nhập khẩu. Năm 2015, Mỹ chiếm 76,7% tổng kim ngạch
xuất khẩu và 53,5 kim ngạch nhập khẩu của Canada (bảng 3.2 và 3.5).
Bảng 3.5: 10 đối tác nhập khẩu lớn nhất của Canada
(Đơn vị: %)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Mỹ 54.8 54.2 52.4 51.1 50.4 49.6 50.6 52.1 54.4 53.2
Trung Quốc 8.69 9.41 9.82 10.9 11.0 10.8 11.0 11.1 11.5 12.3
Mexico 4.03 4.22 4.13 4.53 5.48 5.50 5.52 5.62 5.63 5.82
Đức 2.81 2.82 2.93 2.96 2.80 2.87 3.09 3.24 3.12 3.24
Nhật Bản 3.86 3.80 3.52 3.38 3.33 2.92 3.25 2.89 2.60 2.76
Anh 2.74 2.82 2.89 2.57 2.65 2.31 1.85 1.77 1.80 1.71
Hàn Quốc 1.45 1.32 1.39 1.62 1.52 1.49 1.38 1.54 1.41 1.47
Ý 1.24 1.24 1.18 1.22 1.15 1.14 1.13 1.23 1.25 1.38
Pháp 1.30 1.25 1.39 1.54 1.35 1.24 1.09 1.13 1.16 1.27
Đài Loan 0.98 0.96 0.92 0.92 0.98 1.10 0.99 0.99 0.90 1.02
Tổng 10 nước 82 82.1 80.5 80.7 80.7 79 79.9 81.6 83.7 84.2
Các nước còn lại 18.0 17.9 19.5 19.3 19.3 21.0 20.1 18.4 16.3 15.8
Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Statistic Canada & US Census Bureau,
https://www.ic.gc.ca/app/scr/tdst/tdo/crtr.html
75
3.1.2. Thương mại dịch vụ
Cho đến nay, Mỹ là đối tác thương mại quốc tế lớn nhất của Canada
trong lĩnh vực dịch vụ. Một điểm đặc biệt phải kể đến trong quan hệ thương
mại Canada - Mỹ là: trong khi Canada thặng dư thương mại hàng hóa với
Mỹ, thì Mỹ lại có mức thặng dư thương mại dịch vụ với Canada (bảng 3.6).
Trong khi nhập khẩu dịch vụ của Mỹ từ Canada chỉ tăng nhẹ - trung bình
khoảng 4,7% mỗi năm, thì xuất khẩu dịch vụ của Mỹ tới Canada tăng nhanh
hơn nhiều, trung bình là 11,7% mỗi năm. Từ năm 2004 đến 2008, thặng dư
thương mại dịch vụ của Mỹ với Canada đã tăng hơn hai lần. Theo số liệu của
Cục phân tích kinh tế, Bộ thương mại Mỹ năm 2010, Canada chiếm khoảng
gần 9% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và 7% nhập khẩu dịch vụ của Mỹ.
Trong các năm 2007, 2008, 2009, Canada là nước tiêu thụ dịch vụ lớn thứ hai
của Mỹ. Trong năm 2008, xuất khẩu dịch vụ của Mỹ chiếm tới 57,1% nhập
khẩu dịch vụ của Canada, và xuất khẩu dịch vụ của Canada tới Mỹ chiếm
54,7% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Canada [149].
Thương mại dịch vụ song phương không bị ảnh hưởng bởi suy thoái
kinh tế Mỹ như trong lĩnh vực thương mại hàng hóa. Thương mại Canada -
Mỹ trong lĩnh vực dịch vụ phần lớn không gặp trở ngại gì và đã tăng gấp đôi
trong thập kỷ qua. Trong năm 2013, dịch vụ xuất khẩu của Mỹ sang Canada
đạt 62,8 tỷ USD, trong khi xuất khẩu dịch vụ của Canada sang Mỹ đạt gần
30,7 tỷ USD [60]. Các quy định của NAFTA đảm bảo rằng rào cản thương
mại dịch vụ song phương cũng sẽ tiếp tục không được áp dụng trong tương
lai. Thỏa thuận về dịch vụ của NAFTA chủ yếu là thiết lập nguyên tắc đối xử
quốc gia, quyền thành lập, quyền hiện diện thương mại, và minh bạch đối với
một số lĩnh vực dịch vụ cụ thể được liệt kê trong phụ lục của NAFTA.
NAFTA cũng cam kết cả hai chính phủ mở rộng danh sách ngành dịch vụ, trừ
các dịch vụ tài chính được quy định trong chương 14.
76
Bảng 3.6: Thương mại dịch vụ Canada - Mỹ (2000-2015)
(Đơn vị: tỷ USD)
Năm Nhập khẩu Xuất khẩu Cán cân
2000 24,8 18,2 -6,6
2001 24,8 17,8 -7,0
2002 25,2 18,4 -6,8
2003 27,6 20,0 -7,6
2004 29,5 21,2 -8,3
2005 32,8 22,6 -10,2
2006 37,9 23,9 -14,0
2007 42,7 25,7 -17,0
2008 45,4 26,0 -19,4
2009 43,5 23,7 -19,8
2010 53,1 27,4 -25,7
2011 58,3 30,5 -27,8
2012 61,9 31,1 -30,8
2013 62,8 30,7 -32,1
2014 61,4 30,1 -31,3
2015 57,3 30,2 -27,1
Nguồn: Bureau of Economic Analysis online database at http://www.bea.gov.
Một câu hỏi đặt ra là tại sao Canada lại không làm tốt trong thương
mại dịch vụ, vì bản thân thương mại dịch vụ có vai trò ngày càng quan trọng
với các nền kinh tế phát triển và mới nổi, thương mại dịch vụ tạo ra của cải,
sáng tạo, sản xuất, và tiếp thị hàng hóa thông qua các chuỗi giá trị. Canada có
khu vực dịch vụ rất phát triển với hơn ¾ lao động của cả nước và tạo ra 2/3
tổng sản lượng quốc nội và tạo ra 7 trong số 10 việc làm. Thế nhưng xuất
khẩu dịch vụ chỉ chiếm khoảng 13% tổng kim ngạch xuất khẩu của Canada,
dưới mức trung bình của thế giới năm 2007 là 20% [141: tr.11]. Như vậy, nền
kinh tế Canada thiên về phát triển dịch vụ, nhưng thương mại dịch vụ lại
không phát triển [142: tr.11].
Trong lĩnh vực dịch vụ, Canada nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu [157].
Trong khi Canada luôn có được thặng dư về thương mại hàng hóa (chỉ rơi
vào tình trạng thâm hụt từ năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế),
thì nước này thường xuyên bị thâm hụt trong thương mại dịch vụ. Bản thân
thị phần dịch vụ trong GDP (hình 3.2) và trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
Canada đều không cao (hình 3.3).
77
Nguồn: Richard Harris and Nicolas Schmitt (2014), “NAFTA and the Evolving Structure
of Canadian Patterns of Trade and Specialization”, Department of Economics, Simon
Fraser University.
Hình 3.2: Đóng góp của tỷ lệ xuất khẩu dịch vụ trong GDP Canada
Nguồn: Richard Harris and Nicolas Schmitt (2014)
Hình 3.3: Tỷ lệ xuất khẩu dịch vụ trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Canada
3.2. Cơ cấu xuất nhập khẩu Canada - Mỹ
3.2.1. Cơ cấu xuất khẩu của Canada tới Mỹ
Cơ cấu hàng hóa giao dịch diễn ra trong tất cả các ngành và rất cần
thiết với thành công trong phát triển kinh tế của cả hai nước, đặc biệt hai
nước có quan hệ thương mại về năng lượng lớn nhất thế giới. Canada là nước
xuất khẩu năng lượng lớn nhất sang Mỹ. Tự do thương mại cũng khiến ngành
công nghiệp ô tô và linh kiện thay thế trở thành lĩnh vực quan trọng và chiếm
tỷ phần cao trong các giao dịch thương mại giữa hai nước. Quan hệ thương
mại giữa hai nước có đặc điểm nổi trội là cơ cấu hàng hóa giao dịch của hai
bên vừa mang tính bổ sung lẫn nhau, vừa phát triển thương mại nội ngành, có
tính hội nhập cao.
Xuất khẩu của Canada tới Mỹ chủ yếu là khí gas tự nhiên, dầu thô,
điện, các phương tiện ô tô và linh kiện, gỗ, giấy, và đồ đạc. Các lĩnh vực này
chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Canada và 56% xuất khẩu của
78
Canada tới Mỹ [118: tr.3]. Canada là nhà xuất khẩu lớn tới Mỹ các nguyên
liệu chiến lược quan trọng, ngoài ra còn có xe động cơ và linh kiện, nông sản,
kim loại, máy công nghiệp, và máy bay…(xem bảng 3.7). Mặc dù có nhiều
bất đồng và mâu thuẫn kéo dài từ đầu những năm 1980, nhưng Canada vẫn là
nước cung cấp chủ yếu tổng khối lượng nhập khẩu gỗ xẻ mềm của Mỹ. Lợi
thế cạnh tranh lớn nhất của Canada trong giao dịch thương mại với Mỹ chính
là dầu thô và xe chở khách.
Về năng lượng: Canada và Mỹ có quan hệ thương mại về năng lượng
lớn nhất thế giới. Tìm kiếm một nguồn cung cấp năng lượng đáng tin cậy và
bền vững đối với Mỹ là vấn đề được đặt lên hàng đầu, và không có gì ngạc
nhiên khi trong chiến lược về an ninh năng lượng của Mỹ, Canada được đề
cập đến như một đối tác quan trọng cho đảm bảo an ninh năng lượng tại Bắc
Mỹ [1], [24].
Canada là nước xuất khẩu năng lượng lớn nhất tới Mỹ. Canada là nhà
cung cấp nước ngoài đơn lẻ lớn nhất của Mỹ với lượng nhập khẩu của dầu
mỏ và khí gas tự nhiên của Mỹ từ Canada lần lượt là 17% và 18% [166]. Chỉ
riêng trong năm 2005, xuất khẩu của Canada chiếm tới 24% nhập khẩu năng
lượng của Mỹ [163], [164]. Canada dự tính sẽ cung cấp thêm nhiều khí gas tự
nhiên cho thị trường Bắc Mỹ. Thêm vào đó uranium của Canada đã cung cấp
nguyên liệu cho các kế hoạch về năng lượng hạt nhân của Mỹ.
Canada là nhà cung cấp năng lượng hạt nhân chính của Mỹ. Canada
cung cấp khoảng một phần ba số uranium sử dụng trong những nhà máy năng
lượng hạt nhân của Mỹ, tương đương với 5% tổng số điện cung cấp cho Mỹ.
Canada cũng là nhà cung cấp cho gần như toàn bộ nhu cầu nhập khẩu
về điện của Mỹ. Nước này là một trong số những nhà sản xuất thủy điện lớn
trên thế giới, chiếm 12% tổng sản lượng toàn cầu. Canada là nhà cung cấp
chính về điện cho các bang New England, New York, Upper Midwest, North-
West Pacific và California của Mỹ.
Canada là nhà cung cấp khí đốt tự nhiên lớn nhất của Mỹ. Canada là
nhà sản xuất lớn thứ ba và nhà xuất khẩu thứ hai về khí đốt tự nhiên trên thế
giới. Vào 2006, 86% nhập khẩu khí đốt tự nhiên của Mỹ là từ Canada, chiếm
16% tổng tiêu thụ của Mỹ.
79
Từ năm 2004, Canada vượt qua Saudi Arabia, trở thành nhà cung cấp
dầu thô lớn nhất của Mỹ. Hệ thống đường ống dẫn dầu cũng đang được mở
rộng xuyên biên giới.
Như thế, thương mại năng lượng đóng một vai trò quan trọng trong
hoạt động trao đổi buôn bán giữa hai quốc gia. Kim ngạch buôn bán năng
lượng với Mỹ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng xuất khẩu của Canada, và ngược
lại, Canada cũng là đối tác quan trọng của Mỹ trong hoạt động trao đổi năng
lượng. Tuy nhiên, cán cân thương mại năng lượng song phương luôn luôn
nghiêng về phía Canada. Mối quan hệ thương mại giữa Canada và Mỹ trong
lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là với các sản phẩm dầu lửa và khí đốt có sự
phụ thuộc khá chặt chẽ. Cơ sở hạ tầng năng lượng - trong đó phải kể đến hệ
thống ống dẫn dầu, khí đốt và mạng lưới phân phối điện - có sự liên kết lớn.
Bảng 3.7: Các ngành hàng Canada xuất khẩu nhiều nhất sang Mỹ (2001-2015)
(Đơn vị: Tỷ USD)
Ngành hàng 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
2015
Dầu và chiết xuất
gas 26,9 23,1 33,2 40,1 54,4 58,0 64,8 94,0 51,2 65,5 82,9 83,1 89,1 99,9
57,6
Ô tô và phụ tùng ô
tô hạng nhẹ 38,3 38,6 38,0 43,2 43,9 43,4 43,9 33,5 23,0 36,0 38,6 45,5 43,6 43,1
42,7
Dầu tinh chế 5,8 5,8 7,5 8,7 11,6 13,0 14,7 17,8 11,7 16,6 18,9 20,2 20,1 17,3 12,7
Máy bay và linh
kiện máy bay 7,0 6,1 6,9 6,2 6,7 5,7 7,4 6,6 5,8 5,2 5,7 6,5 7,1 8,5
8,8
Nhôm và sản xuất
chế biến nhôm 4,0 3,9 4,4 5,2 6,1 8,2 8,1 7,9 4,7 6,2 6,9 5,9 5,9 6,3
6,1
Nhựa và cao su
tổng hợp 3,2 3,1 3,6 4,3 5,1 5,6 5,4 5,5 3,3 4,4 5,3 5,1 5,6 6,0
5,4
Máy cưa gỗ và gỗ 6,6 6,1 5,4 7,7 7,7 7,1 5,8 3,9 2,5 3,2 3,2 3,8 4,9 5,5 5,2
Kim loại màu (trừ
nhôm) 2,1 2,0 1,9 2,8 3,2 5,2 7,0 5,8 3,4 4,9 7,2 5,5 5,3 5,2
4,7
Dược phẩm và sản
xuất thuốc 1,2 1,3 1,9 2,3 2,6 3,6 5,0 4,7 4,9 4,2 3,8 4,1 3,9 5,0
5,8
Giấy và Máy
nghiền giấy 7,9 7,2 7,1 7,8 8,3 8,2 7,5 7,5 5,8 5,5 5,5 4,8 4,7 4,7
4,2
Máy cán sắt và
thép, và hợp kim sắt 1,6 2,1 2,0 2,7 3,3 3,5 3,8 5,2 2,6 4,3 4,5 4,3 3,9 4,5
3,7
Sản phẩm nhựa 3,0 3,3 3,7 3,9 4,3 4,2 4,1 3,5 2,6 3,2 3,4 3,6 3,7 3,9 4.0
Xe động cơ xăng và
linh kiện động cơ 3,1 3,1 3,5 4,0 4,0 3,6 3,9 3,0 2,2 3,2 3,4 3,5 2,8 3,4
3,4
Vàng và khai thác
mỏ bạc 1,1 1,5 1,4 1,6 1,4 1,8 2,1 2,6 2,0 4,2 3,7 2,6 3,2 3,4
2,6
Động cơ và thiết bị
truyền điện 2,9 2,9 2,5 2,6 2,9 3,1 3,4 3,5 2,5 2,9 3,2 3,2 3,1 3,3
3,2
Nguồn: Tổng hợp từ Top 25 Industries 5-digit NAICS codes,
https://www.ic.gc.ca/app/scr/tdst/tdo/crtr.html
Về cơ cấu dịch vụ Canada - Mỹ, nhìn vào bảng 3.8 có thể thấy trong
những năm gần đây, các dịch vụ xuất khẩu sang Mỹ nhiều nhất của Canada
80
phải kể đến du lịch; vận tải (kể cả vận tải biển, hàng không và các hình thức
vận tải khác); dịch vụ thông tin, máy tính và viễn thông; dịch vụ tài chính,
bảo trì và sửa chữa. Trong đó, ở hầu hết các lĩnh vực thương mại dịch vụ với
Mỹ, Canada đều thâm hụt, chỉ có thương mại trong ngành dịch vụ thông tin,
máy tính và viễn thông là đạt thặng dư (xem thêm bảng 3.10).
Bảng 3.8: Cơ cấu xuất khẩu dịch vụ Canada - Mỹ
(Đơn vị: tỷ USD)
Ngành 2012 2013 2014
Dịch vụ bảo trì và sửa chữa 1,35 1,29 1,42
Dịch vụ vận tải 5,62 5,76 5,92
Du lịch (đối với tất cả mục đích, kể cả giáo dục) 7,65 7,47 7,23
Dịch vụ bảo hiểm 0,90 0,61 0,56
Dịch vụ tài chính 1,30 1,53 1,66
Các loại phí sử dụng sở hữu trí tuệ 0,82 0,81 1,05
Các dịch vụ thông tin, máy tính và viễn thông 5,62 5,32 5,10
Các dịch vụ kinh doanh khác 7,53 7,66 6,84
Dịch vụ và hàng hóa chính phủ 0,35 0,25 0,30
Nguồn: Tổng hợp từ U.S. International Services Table, Bureau Economic
Analysis, October 15, 2015 (http://www.bea.gov/scb/pdf/2015)
3.2.2. Cơ cấu nhập khẩu của Canada từ Mỹ
Nhập khẩu của Canada từ Mỹ chủ yếu là các loại hàng hóa tiêu dùng và
sản phẩm công nghiệp tinh chế (bảng 3.9). Các mặt hàng chủ yếu Mỹ xuất
sang Canada thường là: các phương tiện vận tải hành khách, xe tải (đặc biệt là
linh kiện), xe có động cơ và linh kiện, thiết bị điện và máy công nghiệp, chất
dẻo, máy tính, hoá chất, các sản phẩm từ dầu mỏ và khí tự nhiên, năng lượng,
và nông sản.
Bảng 3.9: Các ngành hàng Canada nhập khẩu nhiều nhất từ Mỹ (2001-2015)
(Đơn vị: Tỷ USD )
Ngành hàng 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Ô tô và sản xuất phụ
tùng ô tô hạng nhẹ 11,2 13,5 14,7 14,5 16,0 17,7 19,8 17,1 12,4 16,8 17,7 18,8 20,1 21,7
20,1
Dầu và chiết xuất
gas 0,4 0,6 1,5 2,4 3,6 2,9 3,9 6,5 4,3 4,8 6,0 5,4 8,8 16,2
10,1
Dầu tinh chế 0,9 0,8 1,0 1,2 2,1 2,7 3,6 6,2 3,1 4,9 9,0 9,8 13,1 13,6 9,0
Các loại linh kiện xe
có động cơ khác 7,3 7,9 7,9 8,3 8,4 8,1 8,6 7,4 5,3 7,1 8,0 8,3 8,3 8,3
8,0
Máy bay và sản xuất
linh kiện máy bay 3,8 3,2 3,0 3,3 4,3 4,2 5,7 6,4 4,8 4,4 4,7 4,7 5,2 6,6
7,4
Máy cán sắt và thép,
và sản xuất hợp kim
sắt
1,3 1,4 1,5 2,6 3,3 3,6 4,0 4,8 2,9 4,4 4,9 6,6 5,9 6,2
4,5
Nhựa và cao su tổng
hợp 3,1 3,2 3,5 4,1 4,8 5,1 5,0 5,2 3,8 5,1 5,8 5,9 5,8 6,1
5,3
Dược phẩm và sản
xuất thuốc 2,3 2,5 3,1 3,3 3,3 3,8 3,9 3,5 3,9 4,5 5,0 4,7 4,4 4,9
5,1
81
Xe động cơ xăng và
sản xuất linh kiện
động cơ
5,6 5,6 5,6 5,5 5,9 6,1 6,8 5,6 3,6 5,1 4,7 5,7 5,0 4,8
4,7
Động cơ và thiết bị
truyền điện 2,7 2,5 2,3 2,7 3,3 3,7 2,7 3,0 2,4 2,7 3,1 3,4 3,5 4,5
4,2
Xe tải hạng nặng 1,6 1,9 2,4 3,1 3,9 4,3 3,6 3,1 2,1 3,1 4,2 4,8 4,5 4,3 4,1
Dụng cụ y tế 3,7 3,4 36 3,9 3,7 3,9 4,1 4,0 3,5 3,9 4,4 4,8 4,5 4,0 3,7
Máy móc xây dựng 1,2 1,1 1,4 1,9 2,4 3,0 3,4 4,0 2,2 3,1 4,2 4,4 3,5 3,6 2,8
Hóa chất hữu cơ cơ
bản 2,0 1,9 2,0 2,5 2,9 2,9 3,2 3,2 2,4 2,7 3,3 3,3 3,4 3,5
2,8
Xe có động cơ và
linh kiện tàu điện 4,0 4,2 4,0 4,8 4.8 4,9 4,8 4,0 2,5 3,5 3,6 3,5 3,7 3,3
2,9
Nguồn: Tổng hợp từ Top 25 Industries 5-digit NAICS codes,
https://www.ic.gc.ca/app/scr/tdst/tdo/crtr.html
Về hàng hóa nông nghiệp: Trong khi xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp
của Canada tới Mỹ chủ yếu là các loại hàng hóa tiêu dùng đã qua chế biến
như thịt bò, cá, hải sản, bánh mì, các loại bánh kẹo, thì Canada nhập khẩu từ
Mỹ bao gồm các loại đồ nướng, rau quả tươi và các loại nước ép rau quả tươi.
Mỹ là thị trường xuất khẩu nông nghiệp lớn nhất của Canada, với 55%
tổng sản lượng xuất khẩu nông nghiệp năm 2007, các mặt hàng chủ yếu là
hoa quả tươi, rau xanh và gia súc. Mỹ nhập khẩu từ Canada gồm cả vật nuôi,
đặc biệt là bò, đã sụt giảm trầm trọng sau khi Mỹ phát hiện bệnh bò điên từ
những con bò có nguồn gốc từ Canada đầu năm 2003. Việc giao nhận phần
lớn thịt bò từ Canada sang Mỹ đã được tiếp tục cuối năm 2003, và giao dịch
thương mại gia súc sống chỉ được hồi phục sau 30 tháng tức vào tháng 7 năm
2005.
Về hàng công nghiệp: Canada cơ bản là một nước xuất khẩu ròng các
nguyên liệu, và nhập khẩu của Canada phản ánh sự phụ thuộc tương đối của
họ vào các loại hàng hóa công nghiệp và hàng tiêu dùng tinh chế. Nhập khẩu
các loại phương tiện và linh kiện ô tô, máy tính, hóa chất, kim loại và máy
móc chiếm 59% nhập khẩu của Canada và 64% nhập khẩu của Canada từ Mỹ.
Về nhập khẩu dịch vụ: Các lĩnh vực dịch vụ Canada nhập khẩu nhiều
nhất từ Mỹ là: du lịch, vận tải, tài chính, dịch vụ liên quan đến sở hữu trí tuệ
(bảng 3.10).
82
Bảng 3.10: Cơ cấu nhập khẩu dịch vụ Canada - Mỹ
( Đơn vị: tỷ USD )
Ngành 2012 2013 2014
Bảo trì và sửa chữa 1,45 1,47 1,80
Dịch vụ vận tải 8,06 8,28 8,59
Du lịch (đối với tất cả mục đích, kể cả giáo dục) 21,9 22,2 20,7
Dịch vụ bảo hiểm 3,00 3,06 2,9
Dịch vụ tài chính 5,25 5,70 5,87
Các loại phí sử dụng sở hữu trí tuệ 9,75 9,61 8,73
Các dịch vụ thông tin, máy tính và viễn thông 2,46 2,75 3,11
Các dịch vụ kinh doanh khác 9,58 9,33 9,37
Dịch vụ và hàng hóa chính phủ 0,38 0,40 0,28
Nguồn: Tổng hợp từ U.S. International Services Table, Bureau Economic
Analysis, October 15, 2015 (http://www.bea.gov/scb/pdf/2015)
Qua nghiên cứu cơ cấu giao dịch thương mại Canada - Mỹ, có thể nhận
thấy một đặc điểm quan trọng của quan hệ thương mại Canada - Mỹ là phát
triển thương mại nội ngành. Sử dụng chỉ số Glubel và Lloyd để đo lường mức
độ thương mại nội ngành giữa Canada và Mỹ trong một số ngành hàng cụ thể
minh chứng cho nhận định này. Nhìn vào bảng 3.11 có thể nhận thấy tỷ lệ nội
ngành trong nhiều ngành hàng giữa Canada và Mỹ đạt ở mức gần cực đại, ví
dụ như ngành nhựa và cao su tổng hợp, dược phẩm, dầu tinh chế…
Bảng 3.11: Tỷ lệ thương mại theo ngành theo chỉ số GL trong quan
hệ thương mại Canada - Mỹ (2001-2014)
Ngành hàng 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Dầu và chiết xuất gas
0.03 0.05 0.08 0.11 0.13 0.10 0.11 0.13 0.16 0.14 0.13 0.12 0.18 0.28
Ô tô và phụ tùng ô tô
hạng nhẹ 0.45 0.52 0.56 0.51 0.53 0.58 0.62 0.68 0.70 0.64 0.63 0.58 0.64 0.67
Dầu tinh chế 0.27 0.25 0.24 0.25 0.31 0.34 0.39 0.52 0.42 0.45 0.64 0.66 0.79 0.88
Máy bay và linh kiện
máy bay 0.71 0.69 0.61 0.71 0.78 0.85 0.87 0.99 0.90 0.92 0.90 0.84 0.85 0.88
Nhựa và Cao su tổng
hợp 0.98 0.98 0.99 0.97 0.96 0.95 0.97 0.97 0.93 0.93 0.95 0.93 0.98 0.99
Dược phẩm và sản
xuất thuốc 0.70 0.68 0.78 0.83 0.88 0.98 0.89 0.85 0.88 0.97 0.87 0.94 0.95 0.98
Máy cán sắt thép và
sản xuất hợp kim sắt 0.89 0.78 0.87 0.97 0.99 0.99 0.97 0.95 0.94 0.99 0.96 0.78 0.79 0.84
Xe động cơ xăng và
linh kiện động cơ 0.71 0.72 0.77 0.82 0.81 0.75 0.73 0.70 0.77 0.79 0.83 0.77 0.72 0.83
Động cơ và thiết bị
truyền điện 0.97 0.92 0.96 0.98 0.93 0.90 0.90 0.93 0.98 0.98 0.98 0.97 0.94 0.85
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu từ “Top 25 Industries 5-digit
NAICS code”, https://www.ic.gc.ca/app/scr/tdst/tdo/crtr.html
83
Thị phần ngày càng tăng trong quan hệ thương mại Canada - Mỹ hiện
chủ yếu diễn ra trong phạm vi một doanh nghiệp hay giữa các doanh nghiệp
liên quan, như nhà kinh tế học Mỹ Stephen Blank nhận xét: “Ottawa và
Washington nói về mối quan hệ thương mại song phương lớn nhất thế giới.
Nhưng chúng ta thực sự không giao dịch thương mại với nhau, không theo
cách một công ty độc lập đưa hàng hóa thành phẩm tới một công ty khác.
Thay vì đó, chúng ta đưa vật liệu, chung thị trường năng lượng, dùng chung
thị trường vốn, phục vụ các khách hàng chung với hàng loạt các dịch vụ tài
chính, sử dụng cùng con đường và đường sắt để vận chuyển các sản phẩm
làm ra tới thị trường; cùng hệ thống đường bay…”[129].
Tầm quan trọng đặc biệt của phương tiện xe khách và xe vận tải phản
ánh lịch sử lâu dài của thương mại nội ngành Canada - Mỹ trong ngành
phương tiện ô tô. Mặc dù vẫn tiếp tục có sự cạnh tranh toàn cầu đối với ngành
công nghiệp ô tô Bắc Mỹ, nhưng các phương tiện xe chở khách và xe tải vận
chuyển hàng hóa vẫn có thị phần cao trong kim ngạch xuất nhập khẩu Canada
- Mỹ. Canada có vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp ô tô Bắc Mỹ.
Nhập khẩu ròng máy móc của Canada phản ánh thực tế Canada thiếu lợi thế
cạnh tranh trong lĩnh vực đó và vai trò ngày càng quan trọng của máy tính và
công nghệ thông tin trong hàng tiêu dùng ở nước này.
Cơ cấu xuất nhập khẩu giữa hai nước như phân tích ở trên cho thấy hai
nước có mức độ hội nhập cao, phụ thuộc lẫn nhau, đáp ứng tốt nhu cầu của
người dân ở cả hai nước. Đặc biệt, các ngành công nghiệp của Canada và Mỹ
có mức độ hội nhập cao, vì nhiều công đoạn sản xuất hàng hóa được chuyển
qua biên giới của hai nước để hoàn thiện. Vì thế, diễn biến kinh tế Mỹ trong
những năm tới có vai trò quan trọng đối với sự ổn định và tăng trưởng dài hạn
của nền kinh tế Canada và ngược lại.
Một tỷ lệ lớn trong thương mại song phương gồm các sản phẩm trung
gian được giao dịch thành các chuỗi cung ứng giữa hai nước. Nền kinh tế
Canada và Mỹ ràng buộc với nhau bởi quá trình xuyên biên giới, bao gồm
nghiên cứu và phát triển (R&D), đổi mới, thiết kế sản phẩm, các quy trình sản
xuất, các kênh phân phối, tài chính, tiếp thị và hỗ trợ bán hàng. Trong nhiều
84
trường hợp hàng trăm công ty ở hai biên giới cùng tham gia vào việc phát
triển một sản phẩm duy nhất.
Phần lớn thương mại qua biên giới trên toàn thế giới xảy ra giữa các
công ty đa quốc gia và công ty con (công ty thành viên), điều này được gọi là
thương mại nội bộ hãng hoặc thương mại giữa các bên có liên quan. Quan hệ
thương mại Canada - Mỹ là không phải là một ngoại lệ. Trong năm 2011,
thương mại nội ngành chiếm 1/3 (33% tương đương với 196,8 tỷ USD) [158]
tổng kim ngạch giao dịch hàng hóa giữa Canada và Mỹ. Tuy nhiên, hình thức
thương mại này đã không tăng ở mức tương xứng với kim ngạch thương mại
Canada - Mỹ nói chung, cụ thể thị phần của thương mại nội ngành đã giảm từ
42% năm 1991 còn 33% vào năm 2011 (hình 3.4). Mặc dù giá trị của thương
mại nội bộ hãng trong kim ngạch thương mại Canada - Mỹ đã tăng gấp đôi kể
từ năm 1990, thị phần trong nội bộ hãng so với cùng kỳ đã giảm khoảng 10%,
dù có sự gia tăng trong năm 2006 và 2007 [42]. Nguyên nhân của thực tế này
là do tăng trưởng nhanh hơn trong tổng thương mại hàng hóa song phương
giữa Canada và Mỹ vượt quá tốc độ tăng của thương mại nội bộ hãng.
Nguồn: Départment du Commerce des États-Unis, Bureau de l’analyse économique
Hình 3.4: Thương mại hàng hóa nội ngành Canada - Mỹ
Mặc dù thị phần của thương mại nội ngành trong tổng kim ngạch
thương mại Canada - Mỹ ở mức cao nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với tỷ
lệ này của Mỹ với các đối tác thương mại khác của G-7, ví dụ gần như toàn
bộ giao dịch thương mại của Nhật Bản với Mỹ là trong nội bộ công ty
(97,6%), trong khi khoảng 2/3 giá trị thương mại Đức - Mỹ là trong nội bộ
85
hãng. Giá trị tương đối thấp của thương mại nội ngành giữa Canada và Mỹ,
cũng như sự suy giảm này có thể được giải thích bởi cả hai nguyên nhân về
cấu trúc ngành và thể chế. Một trong những yếu tố cấu trúc chính làm hạn chế
thị phần thương mại nội bộ hãng giữa Canada và Mỹ là việc giảm đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) trong sản xuất. Tại Canada, thị phần của tổng số FDI
trong lĩnh vực sản xuất (sử dụng đầu vào trung gian nhiều hơn) giảm từ
43,5% năm 2000 còn 30,5% vào năm 2013. Điều này cũng do sự kết hợp của
những thay đổi cơ cấu trong ngành công nghiệp ô tô trong vài năm qua (khi
các công ty phân tán sản xuất theo chiều dọc, một số nhà cung cấp phụ tùng ô
tô ở Canada trước đó liên kết với các hãng lớn của Mỹ thì nay đã trở thành
công ty độc lập) [42], thị phần của ngành ô tô và ngành chế tạo trong tổng
kim ngạch thương mại Canada - Mỹ suy giảm.
Thị phần suy giảm của thương mại nội ngành giữa Canada và Mỹ cũng
có thể được giải thích bởi sự tồn tại của các thể chế được quản lý tốt ở cả hai
nước, làm giảm nhu cầu trung gian. Trên thực tế, quản trị tốt là cần thiết đối
với việc thực hiện hợp đồng, tuy nhiên các công ty ít có nhu cầu về một trung
gian và có thể trực tiếp tham gia vào các hợp đồng ở nước ngoài. Các thể chế
mạnh có vai trò quan trọng để đảm bảo thực hiện hợp đồng giữa nhà sản xuất
sản phẩm cuối cùng và nhà cung cấp hàng hóa trung gian [108], [135].
Thương mại hàng hóa nội hãng theo ngành giữa Canada - Mỹ: thiết bị
giao thông vận tải chiếm 38,6%, hóa chất 5,1%, máy móc và thiết bị 2,1%,
chế tạo kim loại 1,5%, sản xuất khác 11,1%, bán buôn 27,2%, thực phẩm
2,5%, khai thác mỏ 4,6%, và các ngành công nghiệp khác: 7,3% (số liệu
2007- nguồn Cục phân tích kinh tế Mỹ, BEA)
Hiện nay, mức độ hội nhập giữa hai nền kinh tế Canada và Mỹ đã giảm
so với những năm 1990 (ít nhất là so với quy mô của hai nền kinh tế). Mức độ
mà các công ty Canada và Mỹ có thể phát triển và làm sâu sắc thêm các chuỗi
cung ứng qua biên giới, là một biện pháp đánh giá mức độ hội nhập kinh tế.
Mặc dù khó để định lượng mức độ và tính chất của các hoạt động chuỗi cung
ứng qua biên giới, tuy nhiên một biện pháp tiêu biểu liên quan là lượng
thương mại song phương trong hàng hóa trung gian [148: tr.47]. Về vấn đề
này, các nghiên cứu cho thấy phần trăm thương mại hàng hóa trung gian trong
86
tổng thương mại song phương Canada - Mỹ trong những năm gần đây thấp
hơn so với những năm 1990 [135].
Một biện pháp đánh giá khác về hội nhập qua biên giới về sản xuất là
mức độ thương mại nội ngành trong quan hệ thương mại song phương.
Thương mại nội ngành đánh giá thương mại hàng hóa trong nội bộ ngành chứ
không phải giữa các ngành với nhau và phản ánh tầm quan trọng của chuyên
môn hóa sản xuất như một động lực của thương mại song phương. Trong
những năm 1970, các nhà kinh tế Canada lập luận rằng các lợi ích chính của
thương mại tự do hơn sẽ chủ yếu phát sinh từ việc tăng cường chuyên môn
hóa sản xuất qua biên giới. Trên thực tế, chuyên môn hóa ở đây chính là một
hệ quả của Hiệp định ô tô Canada - Mỹ năm 1965, và IIT có đóng góp lớn
trong tổng thương mại song phương trong suốt những năm 1970 và 1980, tuy
nhiên con số này vẫn gần như không thay đổi khi so sánh năm 1990 (45%)
với năm 2000 (44%) và năm 2011 (41%) [137]… Mặc dù cấu trúc ngành và
các thể chế có thể phần nào giải thích sự suy giảm tầm quan trọng của thương
mại nội ngành trong hơn 20 năm qua, tuy nhiên, trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính toàn cầu đã có sự phục hồi mạnh mẽ.
Một biện pháp đánh giá về giá trị hàng hóa và lượng khách qua biên
giới Canada - Mỹ cho thấy rằng hội nhập sâu rộng hơn giữa hai nền kinh tế đã
giảm dần trong những năm gần đây. Ví dụ, về du lịch và mua sắm qua biên
giới, số lượng du khách Canada sang Mỹ đạt đỉnh điểm vào năm 1991 ở
khoảng 73,4 triệu người, trong khi đó năm 2009 con số này chỉ còn là 36,4
triệu người; tương tự như vậy, số lượng du khách Mỹ đến Canada giảm so với
cùng kỳ từ 28,2 triệu trong năm 1991 xuống còn 14,9 triệu năm 2009 [148].
Đồng thời, như đã đề cập, sự nổi lên của Trung Quốc như một quốc gia
thương mại cũng là một lý do cho sự suy giảm hội nhập giữa Canada và Mỹ.
Một lý do khác ít được đề cập đến là tầm quan trọng ngày càng tăng của các
dịch vụ trong kinh tế Bắc Mỹ, đặc biệt là sự phát triển của các dịch vụ được
tài trợ bởi chính phủ, điển hình là trong lĩnh vực y tế. Năm 1970, chi phí
chăm sóc y tế chiếm khoảng 7% GDP Mỹ, đến năm 2008, con số này đã lên
tới 16% với hơn 50% dịch vụ y tế được tài trợ bởi các chương trình của chính
phủ, đáng chú ý là Medicare, Medicaid; trong khi đó các con số tương ứng ở
87
Canada năm 1970 là 7% GDP và năm 2008 là 10,5% GDP [148]. Hầu hết các
dịch vụ chăm sóc y tế tại Canada được tài trợ bởi chính phủ, có rất ít giao
dịch thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp trong các dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
một phần là do bệnh nhân sử dụng bảo hiểm của chính phủ để chi trả cho các
dịch vụ y tế đã làm hạn chế quyền hoặc động cơ mua chăm sóc y tế chất
lượng tốt hơn hay giá rẻ hơn ở nước ngoài. Lĩnh vực giáo dục đại học cũng bị
giới hạn về mặt địa lý bởi học phí khác biệt giữa các sinh viên trong bang
(hay tỉnh bang) và sinh viên nước ngoài. Hạn chế về cấp giấy phép và các quy
định khác, yêu cầu thị thực và khác biệt về thể chế khác gây khó khăn cho các
bác sĩ, học giả và chuyên gia cung cấp dịch vụ bên ngoài đất nước của
họ…Việc loại bỏ các rào cản trong các lĩnh vực này sẽ thúc đẩy mua bán qua
biên giới các dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục và các dịch vụ được tài trợ công
khai khác khi người tiêu dùng ở cả Canada và Mỹ ý thức hơn về các dịch vụ
tiềm năng của nhau. Chắc chắn sự khác biệt giữa hai nước về chi phí thực tế
của các dịch vụ này đặt ra rào cản chính trị rất lớn, đặc biệt cho các chính phủ
ở đất nước “chi phí thấp”.
3.3. Tranh chấp, bất đồng thương mại và biện pháp giải quyết
3.3.1. Về các tranh chấp thương mại
Bất chấp những vấn đề tiếp cận, gần như tất cả các hàng xuất khẩu của
Canada vào Mỹ không có sự cố, đây là một thành tích đáng kể cho một mối
quan hệ thương mại khoảng 2 tỷ USD mỗi ngày. Một đặc điểm đáng chú ý
trong quan hệ thương mại Canada - Mỹ, đó là phần lớn các giao dịch thương
mại giữa hai nước diễn ra thuận lợi (chiếm 98%), tỷ lệ các tranh chấp, bất
đồng chỉ chiếm khoảng 2%. Trong đó, bất đồng lớn nhất là thương mại gỗ xẻ
mềm, sự trì hoãn xây dựng đường ống dẫn dầu Keystone, quy định của Mỹ
về bắt buộc dán nhãn xuất xứ quốc gia, trợ giá nông nghiệp không phù hợp
với qui định của WTO và một số chính sách của Mỹ ảnh hưởng đến nền kinh
tế của Canada và sự trả đũa của Canada…(xem Phụ lục 1 về Tóm tắt các
tranh chấp thương mại Canada - Mỹ).
Cả Canada và Mỹ đều muốn tìm ra các biện pháp tốt hơn và nhanh hơn
để giải quyết các bất đồng đó. Có một số lĩnh vực trong trao đổi thương mại
cần phải được hài hòa để tăng tính hiệu quả với cả hai nước và mang lại lợi
88
ích cho người tiêu dùng, đó là dược phẩm, sản xuất ô tô, nông nghiệp và các
lĩnh vực khác.
Sau đây là một số bất đồng điển hình giữa hai nước trong thập kỷ qua
- Bất đồng về vấn đề bệnh bò điên:
Ngày 31 tháng 1 năm 2003, một trường hợp bò bị bệnh và chết được
phát hiện tại Alberta, Canada và được gửi đi kiểm tra ngay lập tức. Từ khi có
xác bò chết thì thịt bò không được có mặt tại các chuỗi cửa hàng ăn. Vào 20
tháng 5 năm 2003, sau các kiểm tra thì Cơ quan kiểm tra thực phẩm của
Canada (Canada Food Inspection Agency) đã xác nhận rằng đó là trường hợp
bò điên và bắt đầu tổ chức điều tra về bệnh này. Vào ngày 23 tháng 12 năm
2003, một trường hợp bò điên được phát hiện ở Mỹ. Các con bò bị nhiễm
bệnh gia tăng ở Washington, nhưng các kết quả kiểm tra chỉ ra rằng nó bắt
nguồn từ Alberta, Canada. Tuy nhiên, theo các nhóm chuyên gia quốc tế
nghiên cứu về bệnh bò điên cho rằng, bệnh này không nên bị coi là một
trường hợp do nhập khẩu và cả hai ca bệnh phát hiện năm 2003 tại Canada và
Mỹ phải được coi là trường hợp bệnh bản địa của Bắc Mỹ. Mặc dù có những
nhân tố nguy hại giống nhau y hệt, nền công nghiệp chăn nuôi gia súc cùng
các hệ thống kiểm tra bảo vệ tương tự, lượng sản phẩm thịt bò giao dịch giữa
Canada và Mỹ đã hầu như đứng lại vào tháng 5 năm 2003 và chỉ được hồi
phục một phần nhỏ sau đó. Việc thị trường Mỹ đóng cửa đã có những ảnh
hưởng rất xấu với ngành công nghiệp chăn nuôi của Canada [152].
- Tranh chấp về gỗ xẻ mềm (gỗ từ cây lá kim):
Nước Mỹ sản xuất được ít gỗ xẻ hơn so với nhu cầu tiêu dùng, họ phải
nhập 1/3 lượng gỗ xẻ từ Canada. Trong khi đó Canada lại sản xuất nhiều gỗ
xẻ hơn so với nhu cầu, xuất khẩu đến 2/3 lượng gỗ xẻ sản xuất ra tới Mỹ và
các nước khác trên thế giới. Đáng ra thì đây phải là một sự trùng hợp ngẫu
nhiên đáng mừng, nhưng trên thực tế không phải như vậy. Do Canada và Mỹ
có hệ thống sở hữu gỗ và hệ thống giá gỗ khác nhau nên đã dẫn đến mâu
thuẫn kéo dài giữa các nhà sản xuất hai nước về vấn đề này [62], [75]. Các
nhà sản xuất Mỹ nhận thấy Canada tiếp cận với nguồn gỗ rẻ hơn. Còn các
nhà sản xuất Canada thì nhận thấy chủ nghĩa bảo hộ của Mỹ ngày càng tăng,
áp đặt các mức thuế không công bằng đối với các nhà sản xuất Canada.
89
Gỗ xẻ mềm là một vấn đề gây tranh cãi trong quan hệ thương mại giữa
Canada và Mỹ. Tranh cãi này đã có những ảnh hưởng vô cùng to lớn đến
British Columbia, nhà xuất khẩu gỗ xẻ mềm chính của Canada sang Mỹ.
Điểm mấu chốt là việc Mỹ buộc tội nền công nghiệp gỗ xẻ của Canada đã
được nhận trợ cấp một cách không công bằng từ phía liên đoàn và các chính
quyền địa phương. Đặc biệt là phần lớn gỗ xây dựng của Canada do chính
quyền các địa phương sở hữu, giá cho việc thu hoạch gỗ đặt ra một cách lấy
lệ so với các giá khác, và so với giá của Mỹ. Mỹ buộc tội Canada cung cấp
gỗ với giá thấp hơn giá thị trường do được nhận trợ cấp. Trong các trường
hợp hàng hóa nước ngoài được trợ cấp không công bằng sẽ bị Mỹ đánh thuế
đối kháng để khiến cho giá của hàng được trợ cấp trở nên công bằng khi ra
thị trường.
Còn chính phủ Canada và ngành công nghiệp gỗ khẳng định rằng gỗ
xây dựng của Canada được trợ cấp theo nhiều cơ sở, bao gồm gỗ được cung
cấp cho rất nhiều ngành công nghiệp không để xem như được trợ giá theo
như luật của Mỹ. Theo các luật về biện pháp phòng vệ thương mại, trợ giá và
thuế đối kháng phải cụ thể cho riêng một ngành công nghiệp. Yêu cầu này
ngăn ngừa sự áp đặt của thuế đối kháng lên các chương trình của chính phủ.
Tranh chấp này đã kéo dài trong 3 thập kỷ qua và trải qua 5 giai đoạn
[52] (giai đoạn 1: bắt đầu từ năm 1981; giai đoạn 2 từ 1986; giai đoạn 3 từ
1996; giai đoạn 4 bắt đầu từ năm 2001; giai đoạn 5 bắt đầu từ 2006) và có lẽ
đây là một trong những tranh chấp lớn nhất và đáng kể nhất trong lịch sử giao
dịch thương mại giữa hai nước [124]. Hiệp định hiện nay về gỗ xẻ mềm được
ký kết vào tháng 9 năm 2006. Vào 27 tháng 4 năm 2006, Canada và Mỹ đã
đạt được một thỏa thuận giải quyết tranh chấp về vấn đề gỗ xẻ mềm, Hiệp
định năm 2006 được Đại diện thương mại Mỹ Susan Schwab và Bộ trưởng
thương mại Canada David Emerson ký kết vào 12 tháng 9 ở Ottawa. Hiệp
định này chính thức có hiệu lực từ 12 tháng 10 năm 2006. Tuy nhiên, đến nay
thỏa thuận này đã trở thành vấn đề gây tranh cãi giữa hai nước. Theo quan
điểm của Canada thì Hiệp định này đã tạo ra một số lợi thế cho Mỹ và gây
thiệt thòi cho Canada, vì Hiệp định này đã làm giảm kim ngạch xuất khẩu gỗ
xẻ của Canada vào nước Mỹ. Hậu quả của tình trạng này tác động xấu đến
90
ngành công nghiệp của Canada: từ năm 2006 đến 2009 Canada đã mất đi
25000 việc làm từ các nhà máy cưa và 23000 việc làm từ các nhà máy giấy
và bột giấy [112].
Nguồn gốc của bất đồng lần này bắt đầu khi Hiệp định về gỗ xẻ mềm
Mỹ - Canada hết hiệu lực vào 1 tháng 4 năm 2001. Hiệp định năm 2001 được
thực hiện từ năm 1996, đưa ra một hạn mức thuế quan về xuất khẩu gỗ xẻ
mềm tới Mỹ từ bốn tỉnh của Canada là 14,7 tỷ phút bìa (đơn vị đo chiều dài
Anh bằng 0,3048m) mỗi năm và miễn phí đối với các xuất khẩu vượt quá
khối lượng trên [88]. Các nhà sản xuất gỗ xẻ của Mỹ cho rằng các địa
phương này của Canada đã trợ giá cho ngành công nghiệp gỗ xẻ. Các nhóm
gỗ xây dựng và môi trường của Mỹ cũng đã bày tỏ quan ngại về việc quản lý
rừng và các hành động dứt khoát của Canada và viện lẽ rằng các hành động
đó dẫn đến việc bán phá giá hàng hóa. Chính phủ Canada thì phủ nhận các
luận điệu trên, yêu cầu thương mại tự do trong ngành gỗ xẻ và khẳng định
rằng các nhà máy của Canada được hiện đại hóa và vận hành hiệu quả hơn so
với các nhà máy của Mỹ.
Chính hiệp định về gỗ xẻ mềm trên đã chấm dứt tất cả các tranh chấp
về thuế chống phá giá và thuế đối kháng và hoàn lại 4 tỷ USD thuế chống phá
giá và thuế đối kháng kể từ năm 2002 cho ngành gỗ xẻ mềm của Canada.
Chính phủ Canada đã thực thi một hệ thống quản lý nguồn cung cho
ngành xuất khẩu gỗ xẻ của họ bao gồm cả các loại thuế xuất khẩu và hạn
ngạch xuất khẩu dựa trên giá gỗ xẻ. Với Hiệp định này, nếu như giá gỗ xẻ
vẫn trên 355 USD/ nghìn feet tấm, sẽ không áp dụng hạn ngạch hay thuế
quan. Nếu giá cả giảm xuống dưới 2/3 mức này, thì mỗi tỉnh có thể cùng
chọn thanh toán một mức thuế xuất khẩu theo mức thang đối chiếu - mức này
sẽ tăng khi giá giảm xuống, hay thanh toán một mức thuế thấp hơn đi kèm
với thỏa thuận với một hạn chế về thị phần dựa trên thị phần của một tỉnh về
tổng xuất khẩu tới nước Mỹ. Nếu chọn giải pháp thứ nhất thì các nhà sản xuất
của địa phương có thể thanh toán một mức thuế xuất khẩu theo thang đối
chiếu là 5% khi giá giảm xuống dưới 350 USD, 10% nếu giá giảm dưới 335
USD, và 15% nếu như giá giảm xuống 315 USD. Nếu chọn theo cách thứ hai,
mỗi tỉnh có một phần trong thị trường Mỹ. Vì thế, nếu như giá chuẩn hạ
91
xuống dưới 355 USD, xuất khẩu của mỗi tỉnh sẽ vượt thị phần 34% trong thị
trường Mỹ với một mức thuế xuất khẩu 2,5%, thị phần 32% trong thị trường
Mỹ với một mức thuế 3% khi giá dưới 335 USD, và thị phần 30% trong thị
trường Mỹ với mức thuế 5% ở mức giá dưới 315 USD [88].
Hiệp định về gỗ xẻ mềm năm 2006 Canada - Mỹ có hiệu lực kéo dài
trong 7 đến 9 năm (2013-2015) [71: tr.3]. Hiệp định này cũng có một cơ chế
bổ sung nếu như xuất khẩu từ một tỉnh của Canada vượt quá 110% thị phần
cho phép của họ. Ngược lại, nếu như xuất khẩu của một nước thứ ba tới nước
Mỹ tăng lên 20% trong hai quý liên tiếp, thì thị phần của Canada giảm, và thị
phần của Mỹ tăng lên, Canada được phép hoàn lại bất cứ thuế xuất khẩu nào
trong quý đó.
Nhìn chung, những người đề xuất hiệp định này coi đó là giải pháp tốt
nhất có thể đạt được, tuy nhiên giải pháp này vẫn có hạn chế nhất định, vì các
nhà sản xuất Mỹ vẫn sẽ có thể tránh giao dịch tự do trong ngành gỗ xẻ với
Canada, họ vẫn tiếp tục duy trì trợ giá đối với các nhà sản xuất.
Nhóm phản đối giải pháp này bao gồm người tiêu dùng gỗ xẻ mềm,
như các chủ thầu xây dựng nhà ở và những người mua nhà của Mỹ, và các
đảng phái đối lập của Canada. Trong hơn 30 năm qua, tranh chấp về gỗ xẻ
mềm là rắc rối thương mại chính giữa Mỹ và Canada, vấn đề này có thể vẫn
tiếp tục là một lý do gây bất đồng giữa hai nước sau khi hiệp định hiện nay
hết hiệu lực trong vài năm tới [71: tr.4].
Đến năm 2011, rất nhiều công ty gỗ mềm Mỹ đã kiện các đối tác
Canada của họ ra Cơ quan Trọng tài quốc tế London, cáo buộc họ đã phá vỡ
Hiệp định về gỗ mềm năm 2006 (Bộ Ngoại giao, Thương mại và Phát triển
Canada, 2012). Tranh chấp tập trung vào việc đẩy nhanh tốc độ khai thác gỗ
xẻ tấm do bọ cánh cứng phá hoại thông, Canada có thể sẽ bị mất khoản đặt
cọc bị phạt cao: 380 triệu USD [141].
Năm 2012, Cơ quan trọng tài quốc tế London đã đưa ta phán quyết có
lợi cho phía Canada. Thêm vào đó, khi Hiệp định về gỗ mềm hết hiệu lực vào
năm 2013, Chính phủ Canada và Mỹ đã thương thảo thành công việc gia hạn
Hiệp định đến năm 2015 [99]. Thực tế là, khi một phần lớn sản lượng gỗ xẻ
92
mềm của Canada được kiểm soát theo hạn ngạch và hệ thống kiểm soát phí
theo tuổi cây, thì triển vọng hoạt động thương mại của Mỹ vẫn rất tốt.
- Quy định về bắt buộc dán nhãn nguồn gốc xuất xứ hàng hóa của
Mỹ (MCOOL) đối với các mặt hàng thịt đỏ.
Canada và Mỹ đã có một thị trường hội nhập sâu rộng trong ngành này
từ đầu những năm 1990. Các tiêu chuẩn về sức khỏe động vật và an toàn thực
phẩm đã được kết hợp thực sự hài hòa. Do đó, các phương thức sản xuất theo
chuỗi cung ứng hiệu quả cao đã làm cho ngành công nghiệp này trở nên thực
sự hiệu quả. Tuy nhiên, việc áp dụng MCOOL đã làm thay đổi hoàn toàn điều
này [109]. Sự khác biệt về chi phí và xuất khẩu của Canada do đó đã giảm
đáng kể. Từ năm 2008, mỗi năm ngành chăn nuôi gia súc bị mất đi 640 triệu
USD và ngành chăn nuôi lợn thịt mất đi khoảng 500 triệu USD [141].
Năm 2012, Tổ chức thương mại thế giới đã đưa ra phán quyết có lợi
cho Canada với quyết định rằng MCOOL là một sự phân biệt đối xử. WTO
yêu cầu Mỹ thực hiện từ ngày 23 tháng 3 năm 2013, nhưng cùng ngày, Bộ
Nông nghiệp Mỹ đã áp đặt các thay đổi pháp lý theo đó thực sự tăng cường
việc áp dụng các quy định của MCOOL. Để đáp trả, chính phủ Canada ban
hành một danh sách các hàng hóa xuất khẩu từ Mỹ vào Canada phải chịu
thuế, và đang chuẩn bị tìm kiếm một khung quản lý phù hợp tại WTO.
Theo ước tính của Bộ Nông nghiệp Canada, quy định này khiến ngành
công nghiệp gia súc Canada thiệt hại khoảng 1 tỷ USD mỗi năm [141]. Nhằm
gia tăng sức ép lên chính quyền Mỹ về quy định này, giới chức Mexico và
Canada cuối năm 2014 đã cảnh báo sẽ có các biện pháp trả đũa nếu Mỹ không
khắc phục hành vi phân biệt đối xử đối với các sản phẩm thịt của họ xuất
khẩu sang thị trường Mỹ. Vào tháng 10 năm 2014, Tổ chức WTO đã ra phán
quyết lần thứ ba về việc Mỹ đã phớt lờ kiến nghị của hai nước láng giềng
Canada và Mexico cũng như hai quyết trước đó của WTO khi không tiến
hành điều chỉnh COOL phù hợp với các quy định của thương mại quốc tế.
Phán quyết của WTO được cho là có thể mở đường cho Canada và Mexico
tiến hành các biện pháp trả đũa thương mại nhằm vào Mỹ. Vào ngày 18-5-
2015, WTO lần nữa thông báo các yêu cầu của Mỹ về COOL là phân biệt đối
xử và là một sự vi phạm nghĩa vụ thương mại quốc tế của Mỹ [126].
93
- Bất đồng về vấn đề trợ cấp nông nghiệp:
Trợ cấp nông nghiệp là vấn đề “nóng bỏng” nhất trong các vòng đàm
phán của WTO. Nhiều chuyên gia cho rằng nếu không giải quyết triệt để vấn
đề này thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của WTO. Mối quan hệ kinh tế thương
mại giữa Canada - Mỹ cũng không tránh khỏi bất đồng về vấn đề này.
Cụ thể, ngày 17 tháng 12 năm 2007, WTO đã ra một bảng tổng hợp
yêu cầu với Canada và Mexico về những trợ cấp nông nghiệp có tính chất
bóp méo thương mại của Mỹ. Theo quy định của WTO về các trợ cấp thuộc
hộp hổ phách hay còn gọi là chính sách trợ cấp bị cấm, thì các yêu cầu đó cho
rằng các trợ cấp này vượt quá mức độ cho phép vào năm 1999-2002 và năm
2004-2005. Theo Hiệp định về nông nghiệp của WTO thì Mỹ được phép trợ
cấp nông nghiệp khoảng 19,1 tỷ USD. Canada cho rằng một số khoản trợ cấp
nhất định mà Mỹ cho là không bóp méo thương mại phải được xếp vào nhóm
trợ cấp bóp méo thương mại, và nếu như vậy thì Mỹ đã vi phạm các cam kết
về mức trợ cấp của WTO.
- Bất đồng về quyền sở hữu trí tuệ (IPR)
Từ năm 1995 cho đến hết năm 2013, Canada có tên trong Danh sách
cần đặc biệt ưu tiên theo dõi 301 bởi Cơ quan đại diện Thương mại Mỹ
(USTR). Khiếu nại của phía Mỹ là việc bảo hộ và thực thi IPR tại Canada là
yếu kém. Danh sách cần đặc biệt ưu tiên theo dõi 301 được lập ra để xác định
rõ các đối tác thương mại của Mỹ là những người vi phạm nghiêm trọng nhất
đối với việc bảo hộ IPR [69].
Mỹ yêu cầu Canada thi hành các điều khoản về quyền sở hữu trí tuệ
của WTO, những điều khoản mới được kí kết nhưng chưa được Canada phê
duyệt. Mỹ cũng bày tỏ mối quan tâm đối với việc kinh doanh hàng giả và
hàng nhái ở Canada, cũng như việc vận chuyển các hàng hoá này qua biên
giới, và các hình phạt không chặt chẽ với việc vi phạm Quyền sở hữu trí tuệ.
Mỹ cũng cảnh báo Canada phải có những biện pháp an ninh biên giới mạnh
mẽ hơn nữa để giảm thiểu các giao dịch thương mại này, bao gồm cả việc
cho phép cơ quan hải quan bắt giữ các loại hàng giả và hàng nhái mà không
cần lệnh của tòa án.
94
Mặc dù vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để, Canada đã có các
tiến bộ đáng để trong những năm gần đây. Chính quyền cấp bang đã tăng
cường các quy định về bảo vệ dữ liệu, hình sự hóa việc sử dụng máy quay tại
rạp phim, và tham gia vào các cuộc đàm phán Hiệp định thương mại chống
hàng giả. Gần đây nhất, Canada đã ban hành Đạo luật Chống hàng giả. Chính
phủ Canada đang thực hiện quá trình tăng cường Đạo luật Quyền tác giả và
thực hiện áp dụng các Điều ước của Tổ chức Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
quốc tế [69]. Kết quả của các bước đi này là Canada đã được xóa tên khỏi
Danh sách cần đặc biệt ưu tiên theo dõi 301 vào năm 2013.
- Bất đồng về nguồn gốc xuất xứ
Đạo luật nông nghiệp 2008 (Farm Bill 2008) của Mỹ đã được Quốc hội
Mỹ chính thức thông qua ngày 18/6/2008 có tên đầy đủ là “Đạo luật quy định
về việc tiếp nối các chương trình nông nghiệp và các chương trình khác của
Bộ Nông nghiệp Mỹ tới năm tài chính 2012, và quy định một số vấn đề
khác”, tên ngắn gọn là “Đạo luật về Thức ăn, Bảo tồn, và Năng lượng năm
2008” (Food, Conservation, and Energy Act of 2008). Nhìn chung, phạm vi
điều chỉnh của Farm Bill 2008 rất rộng và có tác động nhiều tới các hoạt
động kinh doanh xuất, nhập khẩu các mặt hàng liên quan của Canada tới thị
trường Mỹ. Canada khẳng định đạo luật này là một rào cản phi thuế quan và
tác động tiêu cực đến việc xuất khẩu thị bò và thịt lợn tới các nhà máy chế
biến thực phẩm của Mỹ [88].
Farm Bill 2008 cũng quy định riêng chương trình khai báo khi nhập
khẩu một số loại gỗ xẻ mềm (mục 803). Chương trình này yêu cầu các nhà
nhập khẩu gỗ xẻ mềm (gỗ xẻ từ cây lá kim) và các sản phẩm từ gỗ xẻ mềm
cung cấp thông tin và khai báo nguồn gốc xuất xứ kèm theo tài liệu tóm tắt.
Với chương trình này, nước chịu ảnh hưởng lớn nhất chính là Canada, sau đó
đến Trung Quốc, ngoài ra còn một số nước xuất khẩu gỗ ở Mỹ Latinh (Brazil,
Mexico) và ở Đông Á (Indonesia, Malaysia, Đài Loan).
Ở Canada, những người nông dân cũng như các quan chức chính phủ ở
Ottawa và các thủ phủ tỉnh đều quan ngại về Đạo luật này của Mỹ. Hệ thống
hỗ trợ nông nghiệp hiện tại của Mỹ tồn tại nhiều vấn đề. Các rào cản về
thương mại và hỗ trợ giá trong nước đối với các sản phẩm nông nghiệp đã
95
buộc hàng triệu gia đình ở Mỹ phải mua lương thực với giá cao hơn. Quan
trọng hơn là các biện pháp bảo hộ trong nông nghiệp Mỹ có tác động đáng kể
đến các nông dân Canada, trực tiếp thông qua các rào cản thương mại, và
gián tiếp khi giá hàng hóa toàn cầu hạ thấp. Theo các nhà kinh tế học Canada
nghiên cứu về nông nghiệp Jean-Philippe Gervais và Bruno Larue “Kể từ khi
ký hiệp định thương mại tự do với Mỹ, giá trị thực sự của xuất khẩu của
Canada trong lĩnh vực nông nghiệp đã tăng mạnh từ 4,05 tỷ USD trong giai
đoạn 1991-1993 lên đến 10,17 tỷ USD trong giai đoạn 2001-2003, tức tăng
đến 151%” [71]. Hai thị trường này hiện nay hội nhập đến mức mà các nông
dân Canada nhạy cảm hơn với bất cứ thay đổi nào (kể cả tăng hay giảm) từ
các chính sách hỗ trợ nông nghiệp của Mỹ.
- Tranh cãi về Điều khoản “Mua hàng Mỹ” (Buy America)
Do cuộc khủng hoảng tài chính và nguy cơ suy thoái kéo dài đối với
nền kinh tế Mỹ, ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã
trình lên Quốc hội Dự thảo Luật về gói kích thích kinh tế trị giá gần 900 tỷ
USD. Nhằm mục tiêu khuyến khích tiêu dùng, đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ
nội địa để đối phó lại với nguy cơ suy thoái, Lưỡng viện Mỹ đã có một số
điều chỉnh cả về nội dung và trị giá của Đạo luật. Theo đó, điều khoản “Mua
hàng Mỹ” được đưa vào như là một trong những điều kiện kèm theo để Đạo
luật được Quốc hội thông qua, với tổng trị giá là 787 tỷ USD.
Nội dung chính của điều khoản Mua hàng Mỹ quy định những công ty
tham gia các dự án xây dựng do Chính phủ tài trợ (từ nguồn của gói kích
thích kinh tế) sẽ buộc phải mua sắt thép từ công ty Mỹ chứ không được nhập
khẩu từ nước ngoài. Ngoài ra, khối đa số tại Thượng viện còn đề nghị một
điều khoản bổ sung nữa là các dự án đó phải mua cả hàng hoá, vật liệu do các
công ty Mỹ sản xuất.
Việc Quốc hội Mỹ đưa ra Điều khoản Mua hàng Mỹ kèm theo gói kích
thích kinh tế đã làm bùng lên phản ứng từ các đối tác thương mại lớn của Mỹ,
nhất là Canada. Người Canada luôn cho rằng, việc Quốc hội Mỹ thông qua
điều khoản “Mua hàng Mỹ” đã đi ngược lại các cam kết quốc tế của mình về
thương mại, cụ thể là vấn đề mua sắm chính phủ trong hiệp định WTO và các
FTA mà Mỹ tham gia, trong đó có Hiệp định Tự do thương mại Bắc Mỹ và
96
đang để lại những hậu quả rất đáng lo ngại. Việc Mỹ công khai yêu cầu các
dự án xây dựng trong khu vực NAFTA phải mua sản phẩm của các công ty
Mỹ là sự vi phạm nghiêm trọng các quy định của NAFTA.
Hơn nữa, điều khoản này cũng sẽ châm ngòi cho sự quay lại của chủ
nghĩa bảo hộ, phá hỏng tiến trình toàn cầu hoá nền kinh tế và ảnh hưởng đến
môi trường cạnh tranh toàn cầu. Tồi tệ hơn nó còn có thể châm ngòi cho một
cuộc chiến tranh thương mại trên quy mô toàn cầu.
Giới truyền thông Canada ngày 23 tháng 5 năm 2009 đưa tin, trong
chuyến sang thăm Washington của bộ trưởng Bộ trưởng công nghiệp Canada
- ông Tony Clement đã “chơi bài ngửa” cùng với Quốc hội Mỹ và Hiệp hội
công nghiệp Mỹ. Ông Clement cho rằng, việc Chính quyền Mỹ loại trừ các
doanh nghiệp chế tạo của Canada ra khỏi danh sách cứu trợ sẽ gây ảnh hưởng
mạnh đến các vấn đề đang tồn tại trong ngành công nghiệp chế tạo của
Canada. Cách làm này không chỉ gây ảnh hưởng mạnh đến các doanh nghiệp
chế tạo của Canada mà còn khiến cho kinh tế Canada bị tổn thất nặng nề.
Liên quan đến Canada, Mỹ đã cam kết các điều khoản về mua sắm
chính phủ trong khuôn khổ Hiệp định WTO về Mua sắm chính phủ
(Agreement on Government Procurement - AGP) và trong Hiệp định
NAFTA. Cả Canada và Mỹ đều cam kết mở rộng các mua sắm chính phủ của
họ ở cấp độ quốc gia trong cả hai hiệp định trên. Vì thế các doanh nghiệp của
Canada có thể dự thầu các mua sắm liên bang liên quan đến Luật Phục hồi và
Tái đầu tư Mỹ (The American Recovery and Reinvestment Act - ARRA) theo
các điều khoản của AGP. Theo các điều khoản của AGP, 37 bang của Mỹ
cũng như các cơ quan chính phủ khác như Tennessee Valley Authority và
Port Authority của bang New York và New Jersey đã đưa ra các cam kết
trong AGP [88]. Ngược lại, Canada không cam kết bất cứ nghĩa vụ nào về
mua sắm chính phủ. Có thể vì lý do này mà Cơ quan quản lý ngân sách Mỹ đã
loại trừ các doanh nghiệp Canada khỏi việc dự thầu các dự án do ARRA cấp
vốn [115].
Canada và Mỹ bắt đầu các cuộc đàm phán để giải quyết các bất đồng
về tiếp cận mua sắm ARRA vào tháng 10 năm 2009. Kết quả của thỏa thuận
này có hiệu lực từ ngày 12 tháng 2 năm 2010 [140: tr.7]. Thỏa thuận này đã
97
chấm dứt cuộc tranh cãi kéo dài một năm xung quanh điều khoản "Mua hàng
Mỹ". Thỏa thuận sơ bộ giữa hai nước nêu rõ Mỹ sẽ tạo điều kiện cho các nhà
cung cấp Canada được tiếp cận với cácdự án của chính phủ liên bang và các
tiểu bang trong khuôn khổ Đạo luật Tái đầu tư và Phục hồi năm 2009. Thỏa
thuận này nhằm mục đích giúp nền kinh tế lớn nhất thế giới thoát khỏi cuộc
suy thoái nghiêm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua. Đổi lại, Canada sẽ cho
phép các nhà cung cấp của Mỹ tiếp cận các dự án xây dựng trên lãnh thổ
Canada.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng thương mại Canada Peter Van Loan thì sau
nhiều tháng đàm phán, hai nước đã đạt được một thỏa thuận đưa các nhà cung
cấp Canada ra khỏi nhiều hạn chế của luật này, nhưng thực tế cho thấy vẫn
còn nhiều việc cần phải thực hiện để đạt tới được một thỏa thuận toàn diện và
lâu dài [143].
- Bất đồng về xây dựng đường ống Keystone XL (KXL): Dự án
Keystone XL do tập đoàn TransCanada Corp của Canada và tập đoàn
ConocoPhillips của Mỹ đề xuất năm 2008 với vốn đầu tư 8 tỷ USD. Tuyến
đường ống dự kiến dài 3462 km chạy qua 6 bang của nước Mỹ, được xây
dựng theo hai giai đoạn, khi hoàn tất có thể vận chuyển 830.000 thùng dầu
mỗi ngày từ các mỏ dầu của Canada cung cấp cho các nhà máy lọc dầu ở các
bang bờ biển phía Nam nước Mỹ [120]. Dự án này đã bị trì hoãn do tranh cãi
trong nội bộ Mỹ và sự phản đối của Tổng thống Obama. Dự án này đã trở
thành vấn đề chính trị gây bức xúc tại Mỹ trong suốt thời gian qua, nhiều tổ
chức môi trường Mỹ cũng phản đối dự án xây dựng tuyến đường ống dẫn dầu
này với lý do phá hủy môi trường, nhất là các mạch nước ngầm.
Ngày 11/2/2015, Quốc hội Mỹ đã thông qua quyết định cuối cùng cho
phép xây dựng đường ống KXL gây tranh cãi. Tuy nhiên, quyết định này tiếp
tục không nhận được sự chấp thuận của Tổng thống, ngày 24/2/2015, ông
Obama đã chính thức phủ quyết dự luật này. Cho đến nay, bất đồng giữa hai
nước xung quanh việc trì hoãn xây dựng KXL được đánh giá là rất nghiêm
trọng (Phụ lục 1).
Chính tính không chắc chắn của chính sách Mỹ và sự trì hoãn KXL đã
có tác động lớn nhất đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong những năm
98
gần đây. Sự chậm trễ xây dựng đường ống KXL đã tác động đến việc xuất
khẩu 2,7 triệu thùng dầu của Canada mỗi ngày tới Mỹ ở nhiều mức độ khác
nhau; đồng thời sự trì hoãn đó cũng tác động đến đầu tư vào khai thác mỏ,
dầu và khai thác khí đốt của Canada, cụ thể năm 2013 đã giảm tới 2,7% - mức
giảm lớn nhất kể từ suy thoái 2008 [128]. Vận chuyển dầu bằng đường ống có
thể chỉ rẻ bằng một phần ba so với đường sắt, nhưng do sự trì hoãn này nên
ngành công nghiệp này đã trở nên ngày càng phụ thuộc vào vận chuyển
đường sắt với chi phí cao. Ngoài chi phí cao, vận chuyển dầu bằng đường sắt
còn bị hạn chế bởi số lượng có hạn của các toa xe. Trong năm 2012, khoảng
130.000 thùng dầu được vận chuyển bằng đường sắt mỗi ngày, và theo tính
toán con số này tăng lên tới 425.000 thùng mỗi ngày vào cuối năm 2014 [86].
Sự gia tăng phụ thuộc vào giao thông vận tải đường sắt đã dẫn đến tăng chi
phí không lường trước được đối với ngành công nghiệp này: tổng cộng 1 tỷ
USD phải được đầu tư cho thiết bị đầu cuối đường sắt mới và 4-5 tỷ USD cho
chiếc xe đường sắt mới [100]. Vận chuyển đường sắt đắt và nhiều rủi ro hơn,
một nghiên cứu gần đây kết luận rằng “vận chuyển bằng đường ống an toàn
hơn so với vận chuyển bằng đường bộ, đường sắt, hoặc sà lan, được đo bằng
sự cố, chấn thương, và tử vong” [81: tr.iii]. Vào tháng 7 năm 2013 một tai nạn
đường sắt thảm khốc đã xảy ra ở Quebec làm chết 47 người, sự việc này làm
dấy lên lo ngại các vụ tai nạn tương tự có thể xảy ra ở Canada hay ở Mỹ, sự
việc trên dẫn đến lệnh cấm về vận chuyển dầu bằng đường sắt, gây ra hậu quả
nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất Canada [30: tr.13].
- Bất đồng thương mại liên quan đến văn hóa
Canada từ lâu đã quan ngại rằng văn hóa đất nước họ có nguy cơ bị lấn
át bởi văn hóa Mỹ, do cả quy mô dân số và GDP của Mỹ đều lớn gấp khoảng
chục lần so với Canada. Với nhu cầu duy trì bản sắc văn hóa, Canada đã thực
thi các quy định để thúc đẩy quyền sở hữu phân phối phim; khuyến khích đài
phát thanh và truyền hình phát các chương trình về Canada; và hạn chế phát
hành các tạp chí nước ngoài. Mỹ đã chính thức phản đối các hạn chế này, và
cho rằng các luật đó có tính bảo hộ và không tạo cơ hội kinh doanh cho các
doanh nghiệp Mỹ. Canada có ngành công nghiệp văn hóa được miễn thuế từ
99
NAFTA, tùy thuộc vào các quyền trả đũa đặc biệt của Mỹ, và chống lại nỗ
lực đưa ngành công nghiệp văn hóa vào các cuộc đàm phán của WTO.
Ngoài ra, hiện nay vẫn còn có nhiều bất đồng, hạn chế khác tác động
xấu đến quan hệ thương mại giữa hai nước. Việc gia tăng các hỗ trợ đối với
“năng lượng xanh” ở cả Canada và Mỹ đã làm bóp méo thương mại, ví dụ
Đạo luật về năng lượng xanh của bang Ontario quy định là 25% đến 50%
nguyên liệu và lao động cho ngành năng lượng mặt trời, gió và các phương
tiện vận chuyển phải bắt nguồn từ Ontario. Dự luật năng lượng Waxman-
Markey sẽ cung cấp đến 65 tỷ USD tiền trợ cấp từ 2012 đến 2020 cho các
chương trình về hiệu suất năng lượng cấp bang và chính quyền địa phương.
Lĩnh vực giấy và bột giấy của Mỹ đã nhận được khoản trợ cấp 7 tỷ USD, làm
bóp méo thị trường các sản phẩm từ rừng; phản ứng lại với việc này, Canada
đã cung cấp 1 tỷ USD cho các nhà máy sản xuất giấy và bột giấy của mình…
3.3.2. Chính sách và cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại
Canada - Mỹ
Canada là một trong những nền kinh tế thành công và thịnh vượng nhất
trên thế giới. Một lý do quan trọng cho thành công này là việc khai thác sức
mạnh của thương mại và đầu tư. Canada cam kết tự do thương mại và phụ
thuộc nhiều vào thương mại quốc tế để duy trì sự thịnh vượng của quốc gia,
nâng cao thu nhập và mức sống của người dân. Trên thực tế hiện nay thương
mại chiếm khoảng 60% tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của Canada, và
một trong năm việc làm của Canada được tạo ra có liên quan trực tiếp đến
xuất khẩu.
Về chính sách thương mại đa biên: Tổ chức thương mại thế giới là nền
tảng của chương trình nghị sự về chính sách thương mại của Canada và là
một diễn đàn chính giúp thu hút các đối tác kinh doanh của mình. Tại WTO,
Canada nỗ lực hướng tới việc mở rộng và hiện đại hóa hệ thống thương mại
đa phương, điều này rất quan trọng đối với một nền kinh tế mở và phụ thuộc
vào thương mại như Canada.
Trong quan hệ thương mại Canada - Mỹ, sự tương đồng và hợp tác
chặt chẽ giữa hai nước thông qua FTA, NAFTA đã làm cho sự phụ thuộc lẫn
nhau khá chặt chẽ, khiến cho việc phối hợp chính sách có thể không rõ ràng,
100
có tác giả cho rằng, “không có chính sách riêng nào của Mỹ đối với Canada,
thay vào đó là một số chính sách áp dụng vào những thời điểm khác nhau”
[85]. Trong 22 năm qua, NAFTA đã loại bỏ các loại thuế cơ bản đối với tất cả
các loại hàng hóa có xuất xứ rõ ràng, tạo thuận lợi cho việc qua lại biên giới,
giải quyết các hàng rào phi thuế quan nhất định và cung cấp các cơ chế chính
thức để giải quyết tranh chấp. Hiện nay hai nước đang thúc đẩy phê chuẩn
TPP, hiệp định này sẽ mang lại cơ hội tăng cường hội nhập NAFTA và các
chuỗi cung ứng. Các quy định về nguồn gốc xuất xứ của NAFTA được cập
nhật và sửa đổi định kỳ nhằm phản ánh sự thay đổi về phương thức sản xuất
và mô hình cung ứng, cũng như các điều chỉnh về phân loại thuế quan theo hệ
thống phân loại hàng hóa HS.
Mặc dù hầu hết thuế nhập khẩu đã được loại bỏ theo quy định của
NAFTA, sự khác biệt trong quy định hiện vẫn là rào cản đối với thương mại,
cạnh tranh và đổi mới. Theo đó, chương trình nghị sự của Canada đã thay đổi
bằng cách làm cho các quy định trong một loạt ngành tương thích và ít phiền
toái hơn giữa Canada và Mỹ, trong khi vẫn duy trì các tiêu chuẩn cao về sức
khỏe, an toàn và bảo vệ môi trường. Vào ngày 4 tháng 2 năm 2011, Thủ
tướng Canada Stephen Harper và Tổng thống Mỹ Barack Obama đã thành lập
Hội đồng hợp tác quản lý (RCC) nhằm mục đích hướng tới giảm thiểu sự
khác biệt trong quy định giữa hai nước, tạo điều kiện hợp tác chặt chẽ hơn để
phát triển các cách tiếp cận thông minh và hiệu quả đưa nền kinh tế Mỹ và
Canada trở nên mạnh hơn và cạnh tranh hơn, trong khi đáp ứng các trách
nhiệm cơ bản là đảm bảo sự an toàn và phúc lợi của người dân. Ban đầu RCC
gồm 29 sáng kiến thúc đẩy cách tiếp cận mới để hợp tác và phục vụ như là
một khuôn mẫu cho những nỗ lực trong tương lai giữa Canada và Mỹ. Kế
hoạch hành động chung ban đầu cung cấp một cơ hội để tăng cường hợp tác
Canada-Mỹ thông qua việc xác định các vấn đề pháp lý cụ thể và những thách
thức mà các cơ quan ở cả hai bên biên giới cùng nhau giải quyết hoặc cải
thiện; sử dụng một loạt các công cụ, chẳng hạn như tăng cường hợp tác kỹ
thuật, phát triển chung và công nhận tiêu chuẩn…29 sáng kiến này phủ rộng
trên một loạt các lĩnh vực quản lý về nông nghiệp, thực phẩm, giao thông vận
101
tải, y tế, môi trường tới các lĩnh vực mới công nghệ vật liệu nano, đồng thời
đảm bảo rằng nhà quản lý xem xét đến thực tế cụ thể của doanh nghiệp nhỏ.
Một Kế hoạch hành động chung (Joint Action Plan) ban đầu đã được
đưa ra vào tháng 12 năm 2011 để tìm ra cách tiếp cận mới về hợp tác quản lý
giữa Canada - Mỹ và thông báo cho các ban ngành ở cả hai nước cách thực
hiện hợp tác quản lý theo một cách toàn diện hơn. Kế hoạch chuyển tiếp
chung (Joint Forward Plan) vào tháng 8 năm 2014 khởi động một cách hợp
tác quản lý mới.
Chi tiết công việc này được vạch ra trong 12 tuyên bố quản lý đối tác
(Regulatory Parnership Statements - RPS) được đưa ra vào tháng 5 năm 2015
giữa 16 cơ quan ban ngành liên quan. Các nhà lãnh đạo liên bang cũng công
bố kế hoạch làm việc chung về các lĩnh vực hợp tác như các sản phẩm y tế, an
toàn thực phẩm, an toàn vận tải, nuôi trồng thủy sản, các sáng kiến về an toàn
lao động và môi trường.
Kế hoạch hành động về vành đai an ninh và cạnh tranh kinh tế đưa ra
một lộ trình thực tế cho các nỗ lực chung giữa Canada và Mỹ nhằm đảm bảo
cho biên giới giữa hai nước trở nên an toàn và mở rộng hơn. Kế hoạch hành
động biên giới được đưa ra nhằm thực hiện mục tiêu của Tầm nhìn chung về
vành đai an ninh và cạnh tranh kinh tế, hướng Canada và Mỹ tới hợp tác
chung về biên giới để sớm giải quyết các đe dọa, thúc đẩy cạnh tranh về kinh
tế, tạo việc làm và thịnh vượng. Kế hoạch hành động biên giới bao gồm 32
sáng kiến và sẽ cải thiện khả năng quản lý rủi ro về an ninh ở cả hai nước,
đồng thời vẫn tạo thuận lợi cho dòng chảy hàng hóa, người và dịch vụ. Một
thành tựu quan trọng trong phát hiện sớm mối đe dọa bao gồm tiến độ thực
hiện một hệ thống chia sẻ thông tin xuất nhập cảnh dọc theo biên giới đất liền
giữa Canada và Mỹ. Tiến bộ về việc cải thiện thực thi luật xuyên biên giới
được minh chứng qua triển khai đội “tàu biển” ở Vancouver, BC/ Blaine,
Washington và Windsor, Ontario/Detroit, Michigan. Sáng kiến này cho phép
các đội thực thi pháp luật hàng hải qua biên giới để trở lại quá cảnh và trên
đường ra đường biển quốc tế, thực thi pháp luật của Canada ở vùng biển
Canada và luật pháp Mỹ trong vùng biển của Mỹ. Với việc tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại, hơn 250 triệu USD đã được đầu tư vào cơ sở hạ
102
tầng ở cả hai bên biên giới [156] và Kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng biên giới
chung đầu tiên đã được công bố vào năm 2013, trong đó tăng cường khả năng
phối hợp đầu tư cơ sở hạ tầng biên giới tại hai quốc gia. Trong tháng 12 năm
2014, Canada và Mỹ đã hoàn thành một Kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng biên
giới thứ hai trong đó đáng chú ý nhất là việc nâng cấp 25 cửa khẩu biên giới
đất liền, kế hoạch này được thực hiện vào tháng 2 năm 2015. Ngoài ra, các
chương trình du lịch đáng tin cậy được mở rộng với chương trình Nexus.
Trong Kế hoạch hành động ngoài biên giới, Canada và Mỹ đã đồng ý
thực hiện một số sáng kiến về thông quan trước, bao gồm cả đàm phán một
hiệp ước thông quan trước mới trên đất liền, biển và đường sắt, xem xét lại
các thỏa thuận hàng không hiện tại. Trên cơ sở đó, ngày 16 tháng 3 năm 2015
hai nước đã ký một hiệp định toàn diện về thông quan trước đất liền, biển,
đường sắt và hàng không. Khi có hiệu lực, Hiệp định mới này sẽ thay thế
Hiệp định vận tải hàng không hiện có và sẽ thay thế hiệp định về vận tải hàng
không thông quan trước hiện có…
Về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại Canada - Mỹ
Mặc dù quan hệ thương mại Canada - Mỹ được đánh giá là thành công
nhất thế giới, nhưng do hai nước có một số khác biệt quan trọng trong chính
sách kinh tế và phản ứng khác nhau với điều kiện kinh tế thế giới, nên vẫn
tồn tại một số bất đồng. Đến nay, quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước
thường được quản lý và giải quyết thông qua các ủy ban, diễn đàn tư vấn
song phương, áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp của NAFTA, hoặc
cùng thỏa thuận, kí kết các hiệp định chung để không ảnh hưởng đến mối
quan hệ thương mại giữa hai nước; ngoài ra, trong trường hợp hai nước
không thể giải quyết được khác biệt thông qua tham vấn, hai nước đã dựa vào
các thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO. Có thể lấy thể chế quản lý thương
mại nông sản làm một ví dụ minh chứng cho nhận xét trên (xem bảng 3.12).
103
Bảng 3.12. Các thể chế quản lý quan hệ thương mại nông sản Canada - Mỹ
Song phương
Ủy ban tư vấn
Canada - Mỹ về
nông sản (CCA)
Mục đích của CCA là:
1, Cung cấp một diễn đàn cấp cao để tăng cường quan hệ thương mại
nông nghiệp song phương giữa Canada và Mỹ thông qua hợp tác và điều
phối
2, Tạo điều kiện thảo luận và hợp tác về các vấn đề liên quan đến
thương mại nông sản giữa hai nước bao gồm, nhưng không giới hạn:
A, Thương mại nông sản và tiếp cận thị trường
B, Các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch thực vật
C, hợp tác trong lĩnh vực cùng quan tâm trong lĩnh vực nông sản
Nhóm tư vấn tỉnh-
bang (PSAG)
Mục đích của PSAG là nhằm cung cấp một diễn đàn để các nhà sản xuất và
xuất khẩu có thể đưa ra các vấn đề thương mại nông sản song phương giải
quyết tại chính quyền địa phương và bang của họ.
Hiệp định thương
mại tự do Canada -
Mỹ(CUSTA/FTA)
Ban thư ký
chung:Các lĩnh vực
của Canada và Mỹ
Một cơ quan quản lý hành chính tương tự như Ban thư ký NAFTA đã được
hợp nhất thành cơ cấu thể chế của NAFTA. Các lĩnh vực của Canada và
Mỹ trở thành các lĩnh vực quốc gia Canada và Mỹ trong NAFTA.
Ba bên
Ban thư ký Hiệp
định thương mại tự
do Bắc Mỹ
(NAFTA)
Ban thư ký NAFTA bao gồm ba phần đại diện cho ba quốc gia ký kết
NAFTA: Canada, Mexico và Mỹ
Ban thư ký NAFTA quản lý các quy trình giải quyết tranh chấp được quy
định trong chương 14, 19 và 20 trong NAFTA, và các trách nhiệm liên
quan đến các điều khoản giải quyết tranh chấp trong chương 11.
Hội đồng Hiệp định
thương mại tự do
Bắc Mỹ
Hội đồng NAFTA là một cơ chế cấp bộ trưởng họp thường niên, có trách
nhiệm giám sát việc thực hiện NAFTA, đảm bảo sự phát triển của tổ chức
này.
Ủy ban về thương
mại nông sản của
NAFTA
Chức năng của Ủy ban này bao gồm:
A, Giám sát và thúc đẩy hợp tác về thực hiện và giám sát Điều khoản 19
B, Cung cấp một diễn đàn để các bên tham khảo ý kiến về các vấn đề
liên quan đến lĩnh vực này ít nhất nửa năm một lần và khi các bên có thỏa
thuận khác
C, Báo cáo hàng năm cho Ủy ban về việc thực hiện lĩnh vực này
Ủy ban tư vấn về Tranh chấp thương mại Private liên quan đến hàng hóa
nông sản, bao gồm những người có chuyên môn hoặc kinh nghiệm trong
giải quyết tranh chấp thương mại tư nhân trong thương mại nông sản. Ủy
ban tư vấn báo cáo và đưa ra các khuyến nghị cho Ủy ban này vì sự phát
triển của các hệ thống trong lãnh thổ của mỗi bên nhằm đạt được cách giải
quyết hiệu quả và nhanh chóng các vấn đề tranh chấp, tính đến cả các
trường hợp đặc biệt, bao gồm cả tính chất nhanh hỏng của một số hàng
nông sản.
Ủy ban về các biện
pháp vệ sinh và kiểm
dịch thực vật Hiệp
định thương mại tự
do Bắc Mỹ
(NAFTA)
Ủy ban này thúc đẩy:
A, tăng cường an toàn thực phẩm, cải thiện các điều kiện vệ sinh và kiểm
dịch thực vật trong các vùng lãnh thổ của các bên.
B, các hoạt động của các bên theo điều khoản 713 và 714
C, hợp tác chuyên môn giữa các bên, bao gồm cả hợp tác trong phát
triển, ứng dụng và thực hiện các biện pháp vệ sinh hoặc kiểm dịch thực vật
D, tư vấn các vấn đề cụ thể liên quan đến biện pháp vệ sinh hoặc kiểm
dịch thực vật
Đa phương
Ủy ban nông nghiệp
của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO)
Ủy ban này giám sát việc thực thi các cam kết các lịch trình trong nước.
Quá trình xem xét dựa trên thông báo của các thành viên, chi tiết sẽ được
Ủy ban quyết định. Ủy ban nhận thông báo chi tiết về các biện pháp hỗ trợ
mới mà tình trạng thể loại màu xanh lá cây đang được tuyên bố, và bất kỳ
104
sửa đổi nào đối với một chương trình màu xanh lá cây.
Các điều khoản giải quyết tranh chấp WTO áp dụng cho các tranh chấp
phát sinh từ Hiệp định nông nghiệp.
Ủy ban Vệ sinh và
kiểm dịch thực vật
(SPS) của WTO
Ủy ban SPS:
•Hoạt động theo Hiệp định SPS của WTO.
•Cung cấp một diễn đàn thường xuyên cho các tham vấn trong WTO về tất
cả các vấn đề SPS.
•Tạo điều kiện cho việc tăng cường an toàn thực phẩm và điều kiện vệ sinh
quốc tế, thúc đẩy sự hài hoà và thích ứng của biện pháp SPS, và thúc đẩy
hợp tác kỹ thuật và tư vấn, bao gồm tham vấn về các tranh chấp liên quan
đến các biện pháp SPS (Điều 12).
Các quy định của GATT 1994 Điều XXII và XXIII được chi tiết hóa trong
Quy định WTO về giải quyết tranh chấp áp dụng cho việc tham vấn và giải
quyết tranh chấp. Trong một tranh chấp theo Hiệp định SPS, một ủy ban
tìm kiếm lời khuyên từ các chuyên gia được lựa chọn bởi bảng tham khảo ý
kiến với các bên tham gia về tranh chấp này (Điều 11)
Ủy ban các hàng rào
kỹ thuật đối với
thương mại (TBT)
của WTO
Các hoạt động trong Hiệp định WTO TBT
Tồn tại trong khuôn khổ WTO như một diễn đàn cho việc tham vấn về tất
cả các rào cản kỹ thuật đối với các vấn đề thương mại.
Cung cấp cơ hội dể thảo luận bất cứ vấn đề nào liên quan đến hoạt động
của Hiệp định (Điều 13)
Bất kỳ bất đồng nào liên quan đến hoạt động của Hiệp định thực hiện trong
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và theo các điều khoản của GATT
1994 Điều XXII và XXIII được soạn thảo bởi Bản ghi nhớ về các nguyên
tắc và thủ thục giải quyết tranh chấp. Một hội đồng giải quyết tranh chấp có
thể hoặc chủ động hoặc theo yêu cầu của một bên tranh chấp, thành lập và
nhận lời khuyên từ các chuyên gia kỹ thuật (Điều 14 và Phụ lục 2)
Nhóm “Quad” Các thành viên Nhóm “Quad” bao gồm nhóm các nước phát triển trong
WTO: Canada, Mỹ, EU, Nhật Bản
Diễn đàn Quad – là một cuộc họp không chính thức theo quý của Bộ trưởng
thương mại liên minh châu Âu, Nhật Bản, Canada, và Mỹ
Nhóm Quint Thành viên của Nhóm Quint gồm: Australia, Canada, Mỹ, Nhật Bản
Quốc gia
1. Canada
Bộ ngoại giao và
thương mại quốc tế
Canada
Bộ Ngoại giao và thương mại quốc tế Canada thương lượng và quản lý các
hiệp định và quy tắc thương mại của Canada.
Tòa án thương mại
quốc tế Canada
(CITT)
CTII tiến hành điều tra về:
- xem hàng nhập khẩu bán phá giá hoặc trợ cấp có đang gây ra thiệt
hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hay không
- Khiếu nại của các nhà cung cấp tiềm năng liên quan đến việc mua
sắm của chính phủ liên bang được quy định trong NAFTA, Hiệp
định về thương mại nội bộ và Hiệp định của Tổ chức thương mại
thế giới về mua sắm chính phủ.
Hải quan Canada và
cơ quan thu thuế
Canada (CCRA)
CCRA khuyến khích tuân thủ luật và các quy định về thuế, thương mại và
biên giới của Canada.
Nhánh quản lý hải quan và thương mại chịu trách nhiệm về các dịch vụ
biên giới bao gồm thúc đẩy, kiểm tra, tạm giam, và các hoạt động thực thi
tại tất cả các cảnh nhập cảnh; điều hành chính sách thương mại bao gồm
thỏa thuận về chính sách thương mại đa phương và khu vực, các công cụ
chính sách thương mại khác, và các chương trình giảm thuế.
Nông nghiệp và
Nông phẩm Canada
(AAFC)
(AAFC) là bộ nông nghiệp Canada, có chức năng giám sát bốn cơ quan và
hai tập đoàn: Cơ quan kiểm tra thực phẩm Canada, Hội đồng ngũ cốc
Canada, Ủy ban các sản phẩm nông sản quốc gia, Tạp chí Tòa án, Ủy ban
sữa Canada, Farm Credit Canada.
Hội đồng ngũ cốc Đây là một tổ chức liên bang Canada chịu trách nhiệm việc quy định các
105
Canada tiêu chuẩn về chất lượng ngũ cốc Canada.
Cơ quan kiểm tra
thực phẩm Canada
(CFIA)
Việc tành lập CFIA vào tháng 4 năm 1997 đem việc kiểm tra và các dịch
vụ liên quan trước đây được cung cấp thông qua các hoạt động của bốn cơ
quan chính phủ liên bang: Nông nghiệp và Nông phẩm Canada, Thủy sản
và Đại dương Canada, Y tế Canada, và Công nghiệp Canada. CFIA củng cố
việc cung cấp tất cả các chương trình kiểm tra y tế liên bang về thực phẩm,
động vật và cây trồng
Ủy ban các sản
phẩm nông sản quốc
gia (NFPC)
NFPC đánh giá các hoạt động của : các cơ quan quốc gia điều hành hệ
thống tiếp thị về các sản phẩm gia cầm và trứng; các cơ quan xúc tiến
nghiên cứu.
Hội đồng sữa quốc
gia (CDC)
CDC là một tập đoàn đóng vai trò trung tâm trong ngành công nghiệp sữa
của Canada.
Mỹ
Đại diện thương mại
Mỹ (USTR)
USTR triển khai và thực hiện các chính sách thương mại của Mỹ
Ủy ban thương mại
quốc tế Mỹ (USITC)
USITC xác định xem ngành công nghiệp của Mỹ có bị tổn thương bởi việc
bán phá giá hoặc trợ cấp sau một quyết định của các Bộ thương mại về việc
liệu các khoản trợ cấp bị cáo buộc bán phá giá hoặc thực sự xảy ra không,
nếu có thì ở cấp độ nào.
USITC làm cho các quyết định trong điều tra liên quan đến hoạt động
không lành mạnh trong thương mại nhập khẩu. Nếu họ tìm ra được một
hành vi vi phạm pháp luật thì có thể yêu cầu loại trừ sản phẩm nhập khẩu từ
Mỹ
Bộ nông nghiệp Mỹ
(USDA)
USDA giám sát nhiều cơ quan bao gồm Cơ quan dịch vụ nông sản, Dịch vụ
nông nghiệp nước ngoài, Cơ quan quản lý rủi ro, và Dịch vụ kiểm tra an
toàn thực phẩm.
Dịch vụ nông nghiệp
nước ngoài (FAS)
FAS chịu trách nhiệm cơ bản đối với các hoạt động ở nước ngoài của
USDA – phát triển thị trường, các hiệp định và thỏa thuận thương mại quốc
tế , thu thập và phân tích các số liệu và thông tin thị trường. FAS cũng quản
lý đảm bảo tín dụng xuất khẩu và các chương trình hỗ trợ thực phẩm của
USDA.
Dịch vụ kiểm tra an
toàn thực phẩm
(FSIS)
FSIS:
- kiểm tra tất cả các sản phẩm thịt, gia cầm, trứng bán ở thị trường trong
nước và tái kiểm tra các sản phẩm nhập khẩu, xác nhận rằng các mặt hàng
này đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của Mỹ
- đặt yêu cầu đối với các mặt hàng thịt và giết mổ gia cầm, hoạt động chế
biến, chẳng hạn như vệ sinh nhà máy và xử lý nhiệt.
- xét nghiệm vi sinh, hóa chất, và các loại ô nhiễm và tiến hành điều tra
dịch tễ học phối hợp với Trung tâm Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC)
- tiến hành các hoạt động thực thi để giải quyết các tình huống có các sản
phẩm không an toàn, không lành mạnh, hoặc không dán nhãn rõ ràng được
sản xuất hoặc bán trên thị trường.
- duy trì một hệ thống toàn diện về kiểm tra và kiểm soát nhập khẩu
- đánh giá thường niên hệ thống kiểm tra ở tất cả các nước đủ điều kiện để
xuất khẩu thịt và gia cầm sang Mỹ
Nguồn: [119]
Giải quyết tranh chấp là một mục tiêu lâu dài của Canada trong thương
mại quốc tế. Là một cường quốc vừa quan hệ với một cường quốc lớn hơn
như Mỹ, chính phủ Canada đã đẩy mạnh các quy tắc thương mại minh bạch
nằm trong lợi ích quốc gia của Canada cũng như trong lợi ích của hệ thống
thương mại rộng lớn hơn. Quan ngại của Canada đối với các quy tắc thương
mại và cơ chế giải quyết tranh chấp tăng nhanh sau khi kết thúc vòng đàm
106
phán Tokyo năm 1979, khi mà Mỹ dần tăng cường các thủ tục không công
bằng về phòng vệ thương mại đặc biệt là đối xử với các thuế chống phá giá và
thuế đối kháng. Cả khu vực tư nhân và chính phủ ở Canada đều quan ngại các
hành động phòng vệ thương mại chống lại các sản phẩm như gỗ, cá và thịt lợn
làm đe dọa đến quan hệ thương mại hiện thời của Canada đối với Mỹ, và lo
ngại này nhanh chóng chuyển thành một quan ngại lớn về “an ninh tiếp cận”
đối với thị trường Mỹ. Cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả và có tính ràng
buộc được xem như các biện pháp hữu hiệu nhất để giải quyết an ninh tiếp
cận, vì thế giải quyết tranh chấp trở thành một điều kiện thiết yếu về chính trị
đối với Canada trong các cuộc đàm phán Hiệp định FTA với Mỹ, và sau đó là
NAFTA.
Khi tranh chấp, bất đồng thương mại giữa Canada - Mỹ không thể giải
quyết được trong khuôn khổ thể chế song phương hay qua NAFTA, thì có thể
được chuyển đến WTO ví dụ, đáp lại những yêu cầu của WTO đặt ra cho Mỹ,
hai nước đàm phán một hiệp định về tạp chí giúp cho ngành công nghiệp xuất
bản của Mỹ dễ dàng tiếp cận với thị trường Canada, và Canada đã sửa đổi luật
về bằng phát minh sáng chế nhằm tăng cường việc bảo vệ bằng sáng chế tới
20 năm. Canada phản đối luật phòng vệ thương mại của Mỹ trong các cơ chế
giải quyết tranh chấp tại NAFTA và WTO. Trong số đó, có các hành động
của chính phủ Mỹ liên quan đến cấm nhập khẩu gỗ xẻ mềm từ Canada hay
việc Mỹ cấm nhập khẩu bò từ Canada vì cho rằng bệnh bò điên có xuất xứ từ
nước này. Hai nước cũng thực hiện một thoả thuận toàn diện về gỗ xẻ mềm
vào cuối năm 2006. Mỹ đang thúc ép Canada tăng cường các luật và việc thực
thi luật về sở hữu trí tuệ.
Canada và Mỹ đã giải quyết một tranh chấp WTO về các sản phẩm bơ
sữa trong năm 2003. Hai nước cũng đã giải quyết được các vấn đề quan trọng
liên quan đến ngành công nghiệp cá. Canada và Mỹ đã ký một Hiệp định về
cá hồi vào năm 1999 và ký Hiệp định về cá hồi trên sông Yukon vào năm
2001, thực hiện một hệ thống quản lý tài nguyên hiệu quả và công bằng ở dọc
bờ biển phía Tây.
Hiện nay, cả Canada và Mỹ đều đã cố gắng đạt được thỏa thuận về việc
phân chia các tài nguyên tại ranh giới đường bờ biển. Cả hai nước cũng có
107
một hiệp ước về quản lý đầu mối cá ngừ ở Thái Bình Dương, và hợp tác chặt
chẽ hơn trong vấn đề trao đổi thủy sản giữa hai nước và quốc tế.
Trong trường hợp về bệnh bò điên ở Mỹ bị cho là có nguồn gốc từ
Canada khiến việc nhập khẩu thịt bò của các nước từ cả Mỹ và Canada đều bị
tác động xấu. Năm 2004, chính phủ Canada và Mỹ đã thông báo về việc chú
trọng vào loại bỏ bệnh bò điên, và loại bỏ mối nguy hại tại các khu chăn nuôi.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 2004, cơ quan kiểm tra thực phẩm của Canada đã
đưa ra điều chỉnh mới và có hiệu lực từ năm 2005. Chính phủ Mỹ cũng thực
thi các tiêu chuẩn mới đó một cách triệt để để loại bỏ bệnh dịch này.
Theo các quy định của NAFTA, Canada và Mỹ cùng tiến hành chiến
dịch hạn chế bệnh bò điên. Từ năm 2003, Canada và Mỹ đã tăng cường hệ
thống đo lường để giới hạn sự lan rộng của dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe con
người. Các tiêu chuẩn đo lường do các nhóm chuyên gia quốc tế đã nghiên
cứu và đưa ra bao gồm việc loại bỏ thịt bò ra khỏi các chuỗi cửa hàng ăn, tăng
cường quản lý, đặc biệt là việc dán nhãn xuất xứ.
Trong trường hợp gỗ xẻ mềm:
Sau nhiều tranh cãi về gỗ xẻ mềm, hai nước đã đi đến một thỏa thuận
vào tháng 4 năm 2006. Theo các điều khoản sơ bộ, Mỹ sẽ nâng trách nhiệm
đưa ra giá gỗ nằm ở mức giá cả thông thường. Nếu giá thấp hơn giá thông
thường sẽ áp dụng chế độ cấp hạn ngạch, hoặc thuế xuất khẩu hỗn hợp cho gỗ
của Canada. Theo một phần của thỏa thuận, hơn 5 tỷ USD thuế đối kháng mà
Mỹ đã thu có thể sẽ phải hoàn lại cho Canada. Hiệp định về gỗ xẻ mềm 2006
ra đời trong việc giải quyết các tranh chấp về hàng hóa tại Hiệp hội trọng tài
quốc tế London (London Court of International Arbitration). Vào tháng 4 năm
2007, Mỹ yêu cầu hội ý với Canada về nhiều điều khoản trong Hiệp định này
vì Mỹ cho rằng Canada không điều chỉnh mức độ xuất khẩu của mình theo
đúng mức tiêu thụ của thị trường Mỹ. Nếu Canada thực hiện các điều trên thì
các nhà sản xuất ở Bristist Colombia và Alberta được hoàn thuế xuất khẩu.
Ngoài ra, các tranh chấp về vấn đề chống bán phá giá, chống trợ cấp nông
nghiệp hay thuế đối kháng thường được Mỹ và Canada đem phân xử tại Ủy
ban thương mại của WTO.
108
Trong tranh chấp về gỗ xẻ mềm, Canada đã theo đuổi cả quy định của
NAFTA và WTO để chính thức phản đối quyết định áp đặt thuế chống bán
phá giá và thuế đối kháng của Mỹ vào xuất khẩu gỗ xẻ mềm của Canada.
Về vấn đề “Mua hàng Mỹ” do Chính phủ Mỹ đưa ra dự tính thực hiện
trong vòng 25 năm đã bị báo chí Canada phản đối, nhưng khi đó Canada chưa
có phương án ứng phó. Do đó phương án được đề xuất là “Mua hàng
Canada” nhanh chóng được đưa ra, với chính sách ưu tiên là hàng năm bỏ ra
1 tỷ USD để mua hàng hóa trong nước. Theo thời báo Tài chính Anh, hội
đồng Thành phố Ontario của Canada đã thông qua hiệp định “Không mua
hàng Mỹ”, một quyết định để loại trừ sản phẩm sản xuất từ Mỹ trong các dự
án của họ.
Lợi thế về chi phí của Canada trên nước Mỹ đang bị xói mòn do đồng
USD tăng giá và biên giới thắt chặt, trong khi đó các đối tác thương mại khác
của Mỹ thì đang tăng cường xâm nhập vào thị trường Mỹ, và quan điểm về
chủ nghĩa bảo hộ đang nổi lên ở nước Mỹ, ví dụ như vấn đề “mua hàng Mỹ”.
Tất cả các sự việc này càng nhấn mạnh Canada cần tăng cường vị trí cạnh
tranh của mình trên nước Mỹ, bắt đầu bằng việc cải thiện vấn đề biên giới.
Đến nay, nói chung các thủ tục giải quyết tranh chấp của FTA và
NAFTA được đánh giá là hoạt động hiệu quả. Ở cấp độ chính trị, nhận định
của quan chức chính phủ từ hai nước về cơ chế giải quyết tranh chấp của hiệp
định này nói chung khá tích cực, mặc dù cũng có một số chỉ trích từ phía
Quốc hội Mỹ. Cơ chế giải quyết tranh chấp có thể được chia làm 3 mục: 1 là
một cơ chế giải quyết tranh chấp chung được quy định trong chương 18 ở
FTA (ở NAFTA là chương 20), 2 là các điều khoản trong các lĩnh vực cụ thể
để phân xử và giải quyết tranh chấp, đặc biệt là liên quan đến các biện pháp tự
vệ, và 3 là cơ chế giải quyết tranh chấp về thuế chống bán phá giá và thuế đối
kháng được quy định trong chương 19 của cả FTA và NAFTA.
Tuy các tranh chấp, bất đồng thương mại giữa hai nước được giải quyết
nhưng chưa thực sự thỏa đáng và để lại nhiều ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế
Canada. Ví dụ như, trong bất đồng về gỗ xẻ mềm, hai nước đã thống nhất
được một hiệp định vào năm 2006, thế nhưng thang đối chiếu thuế (khi giá gỗ
giảm, thuế tăng) đã để lại cho ngành công nghiệp gỗ xẻ của Canada (đặc biệt
109
là ở miền Tây) điêu đứng khi ngành xây dựng nhà ở của Mỹ giảm nhẹ sau đó,
khiến giá gỗ xẻ giảm. Tương tự, đối với bất đồng về bệnh bò điên, hai nước
đã có được giải pháp giải quyết hai năm sau đó, thế nhưng thị trường thịt bò
và gia súc của Canada sẽ không bao giờ phục hồi hoàn toàn [27: tr.25].
Một vấn đề mà Canada vẫn chưa giải quyết được là làm thế nào để dàn
xếp các tranh chấp thương mại và đối phó với các hoạt động phòng vệ thương
mại có tính chất trả đũa của Mỹ. Mặc dù một số người lưu ý rằng có rất ít
tranh chấp bất đồng trong quan hệ thương mại do hệ thống các cơ chế giải
quyết tranh chấp hiện vận hành tốt, thế nhưng đa số lại cho rằng Canada cần
phải có các biện pháp hiệu quả hơn để giải quyết các tranh chấp đó. Nhiều
người khác lại cho rằng Canada và Mỹ cần một cơ chế giải quyết tranh chấp
cố định, dài hạn hơn, chẳng hạn như một tòa án tranh chấp thương mại [56].
Tuy nhiên quan điểm dễ chấp nhận nhất là giải quyết tranh chấp thông qua
các quy định chung của Tổ chức thương mại thế giới. Một cách khác để đối
phó với các trở ngại từ phòng vệ thương mại là phải thay thế các luật về
chống bán phá giá với các luật (chính sách) cạnh tranh chung. Việc bán phá
giá hàng hóa khi đó sẽ được giải quyết thông qua các điều khoản định giá để
bán phá giá.
Hơn thế nữa, hệ thống giải quyết tranh chấp mà Canada có được thông
qua NAFTA phần nào chỉ dựa trên quy tắc. Một số quy tắc còn để nhường
chỗ cho can thiệp về chính trị và kết quả là Canada và cả Mexico vẫn dễ bị
tổn thương với các tác động bất lợi từ sức mạnh và các quyết định của
Mỹ.Trong khi hệ thống điều hành quan hệ song phương là một hệ thống giải
quyết tranh chấp dựa trên quy tắc, nhưng không phải tạo ra hay áp dụng luật
mới mà lại dựa trên một tập hợp đủ các luật đặt và định quyền hạn nhiệm vụ:
luật về chống phá giá và đối kháng riêng của ba nước thành viên NAFTA.
Mặc dù các quy tắc này đều có xu hướng hoạt động trong mọi thời điểm,
nhưng các tranh chấp có tính chất chính trị hóa cao liên quan đến các lợi ích
kinh tế lớn (ví dụ tranh chấp về gỗ xẻ mềm và thép) tiếp tục cho thấy những
hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong chương 19 và
tính nhạy cảm không thể tránh được về các áp lực chính trị. Hơn 80% các
tranh chấp trong NAFTA liên quan đến chống bán phá giá và thuế đối kháng.
110
Hạn chế trong cơ chế giải quyết tranh chấp trong Chương 20 NAFTA:
Các thủ tục trong chương này không thể hiện là một cơ chế giải quyết tranh
chấp hiệu quả và chỉ được sử dụng 3 lần kể từ khi NAFTA bắt đầu có hiệu lực
[146: tr.27]. Nhiều bằng chứng cho thấy chương 20 chỉ có ích trong ít trường
hợp khi các xung đột đó không thể được thực hiện trong WTO vì chỉ liên
quan đến các quyền và nghĩa vụ của NAFTA. Đặc biệt, hạn chế lớn của
chương 20 là cơ chế giải quyết tranh chấp không kết nối các bên vào tranh
chấp cụ thể. Các cơ chế giải quyết tranh chấp có thể có một vai trò quan trọng
trong việc ngăn ngừa các xung đột mới, chứ khi bất đồng đã xảy ra thì các cơ
chế này phải được xem xét trước khi có thể đem thi hành.
Mục đích chính của chương 11 (30) là thúc đẩy dòng đầu tư giữa các
nước thành viên thông qua việc thiết lập các quy tắc nhằm bảo vệ các nhà đầu
tư khỏi các biện pháp có tính phân biệt đối xử (ví dụ các biện pháp phân biệt
đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài) và các biện pháp bóp
méo thị trường từ chính phủ nước chủ nhà. Yếu tố gây tranh cãi nhất của
chương 11 là quá trình giải quyết tranh chấp nhà đầu tư-nhà nước.
111
TIỂU KẾT
Qua nghiên cứu thực trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ từ năm
2001 đến nay, có thế rút ra một số nhận xét sau:
Nhìn chung, tăng trưởng thương mại song phương Canada - Mỹ trong
thập kỷ qua cho thấy tốc độ tăng đạt được trong những năm 1990 đang chậm
lại. Trong khi đó, thương mại năng lượng tiếp tục tăng. Thương mại trong
hàng chế tạo, bao gồm cả vận tải, hóa chất, và thiết bị đã giảm từ năm 2005;
chỉ có 4 trong số 21 ngành chế tạo ở Canada có mức tăng nhẹ [28]. Có vẻ các
doanh nghiệp Canada đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển, ví dụ như
trong khu vực ngân hàng, nhưng một vài xu hướng hiện nay không khẳng
định chắc chắn triển vọng tốt đẹp cho tăng giao dịch thương mại Canada -
Mỹ. Một trong những thách thức lớn nhất đối với tương lai xuất khẩu của
Canada sang Mỹ là giá CAD tương đối cao. Vì khi CAD cao sẽ khiến nhu cầu
về hàng hóa Canada ở Mỹ giảm do cạnh tranh về giá so với hàng hóa cùng
loại của các quốc gia khác xuất khẩu tới Mỹ.
Nhìn vào số liệu quan hệ thương mại giữa hai nước trong thập kỷ qua,
Canada luôn có thặng dư về thương mại hàng hóa nhưng lại thâm hụt về
thương mại dịch vụ với nước Mỹ. Canada là thị trường xuất khẩu lớn nhất cho
hầu hết các bang của Mỹ, tất cả các bang đều có lợi từ quan hệ thương mại
với Canada.
Cả giá trị xuất và nhập khẩu của Canada tới Mỹ từ đầu thế kỷ XXI đến
nay đều tăng so với những năm 1990, tuy nhiên xét về tỷ trọng thì có sự suy
giảm rõ rệt (xem bảng 3.1 và hình 3.1). Có nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy
nhiên, một lý do quan trọng là cả Canada và Mỹ đều đa dạng hóa các đối tác
thương mại của mình, do cạnh tranh từ các nước như Trung Quốc, Mexico và
Đông Nam Á. Sự cạnh tranh gia tăng từ các đối tác này đặc biệt xảy ra trong
các lĩnh vực viễn thông và thiết bị máy tính, các loại phương tiện và đồ trang
sức.
Về tranh chấp bất đồng, nhìn chung so với tổng kim ngạch thương mại
song phương thì tỷ lệ tranh chấp thương mại Canada - Mỹ chỉ ở mức tương
112
đối thấp (khoảng 2%). Tuy nhiên, do quy mô của quan hệ thương mại rất lớn
nên các tranh chấp đó cũng tác động đáng kể đến hai nước. Đến nay, một số
tranh chấp đã được giải quyết xong, có những tranh chấp đã được giải quyết
một phần, nhưng vẫn còn một số bất đồng còn chưa giải quyết được và tác
động nghiêm trọng đến quan hệ thương mại giữa hai nước. Đa số các tranh
chấp giữa hai nước được giải quyết theo quy định của NAFTA và WTO; tuy
nhiên, bản thân NAFTA và WTO vẫn còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được,
từ nguồn gốc xuất xứ đến cơ chế phòng vệ thương mại và các hạn chế về thu
mua chính phủ [105].
113
CHƯƠNG 4
TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CANADA-MỸ
VÀ HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM
4.1. Triển vọng quan hệ thương mại Canada - Mỹ
4.1.1. Thuận lợi
Trải qua gần một thế kỷ, quan hệ Canada - Mỹ là mối quan hệ rất đặc
biệt trên thế giới mà ít có mối quan hệ song phương nào có được như vậy.
Hiện nay, hai quốc gia vẫn có mối quan hệ phát triển toàn diện. Chính quan
hệ phát triển toàn diện đó đã tạo nên sự phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau giữa
Canada và Mỹ và sự đan xen lợi ích này là một nhân tố quan trọng đảm bảo
cho Canada không bị trả đũa khi có bất đồng về chính trị với nước Mỹ.
Trong thời gian tới, triển vọng quan hệ thương mại Canada - Mỹ vẫn
tiếp tục thuận lợi, chủ yếu do cả hai bên vẫn rất cần đến nhau cho sự phát
triển của mình:
Hai quốc gia có nhiều ràng buộc về lợi ích quan trọng, sức khỏe của
nền kinh tế Mỹ có tác động mạnh đến phát triển kinh tế Canada và ngược lại.
Canada là nhà cung cấp năng lượng lớn nhất cho Mỹ. Canada cũng là nhà
cung cấp Urani cho công nghiệp năng lượng hạt nhân của Mỹ và Canada còn
là nguồn cung cấp khí tự nhiên và điện không thể thiếu đối với an ninh năng
lượng của Mỹ. Bên cạnh đó, hai nền kinh tế có sự giao thoa mạnh mẽ nên
hàng loạt các doanh nghiệp hai nước đã mở các dây chuyền sản xuất xuyên
biên giới. Canada còn là thị trường rất quan trọng trong việc giải quyết vấn đề
việc làm cho tất cả các bang của Mỹ. Đây được coi là lợi thế của Canada đối
với Mỹ, và đó cũng là yếu tố có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ song
phương.
Đặc điểm quan hệ thương mại kết hợp cả tính bổ sung và thương mại
nội ngành đã tạo nên tính cần thiết phải duy trì quan hệ...Và điều này chính là
điểm thuận để hai bên tiếp tục hợp tác, khai thác lợi thế so sánh của nhau
thông qua quan hệ thương mại.
Trên lĩnh vực chính trị ngoại giao: có nhiều yếu tố góp phần vào sự
phát triển đặc biệt của quan hệ Canada - Mỹ, trong đó quan hệ chính trị ngoại
114
giao thân cận và phát triển đã tạo ra những mối quan hệ sâu rộng và không thể
thay đổi được giữa Canada và Mỹ. Quan hệ chính trị ngoại giao giữa hai nước
dưới thời Thủ tướng Harper được đánh giá là có chiều hướng đi xuống, tuy
nhiên tình trạng này đã được cải thiện dưới thời Thủ tướng mới của Canada.
Ngay sau nhậm chức tháng 11/2015, Thủ tướng Trudeau đã đưa mục tiêu
củng cố quan hệ với Mỹ là ưu tiên hàng đầu, trong bài phát biểu về chính sách
đối ngoại đầu tiên của mình, ông đã khẳng định sẽ xây dựng lại lòng tin lẫn
nhau về chính trị và hợp tác trong mối quan hệ Canada - Mỹ. Thời điểm hiện
nay được coi là “tuần trăng mật” mới trong quan hệ Canada - Mỹ. Chuyến
thăm chính thức đến Mỹ của Thủ tướng Canada Justin Trudeau theo lời mời
của Tổng thống Obama từ ngày 9-11/3/2016 diễn ra trong bối cảnh quan hệ
giữa hai nước đang bước vào thời kỳ phát triển tốt đẹp sau nhiều năm lạnh
nhạt dưới thời chính phủ bảo thủ của Thủ tướng Harper. Chuyến thăm này mở
ra cơ hội phát triển quan hệ thương mại tốt đẹp giữa hai nước khi đã tuyên bố
giải quyết vấn đề tranh chấp thương mại lâu đời nhất và nan giải nhất giữa hai
nước, đó là vấn đề gỗ xẻ mềm. Hai nhà lãnh đạo cho rằng điều cốt lõi là cả
Mỹ và Canada cùng nhau hiểu được điều gì có lợi cho cả hai nền kinh tế và
thương mại vẫn là mối quan hệ quan trọng nhất của mỗi nước, do đó trọng
tâm của các cuộc hội đàm của chuyến thăm này là vấn đề thương mại, khẳng
định quyết tâm thúc đẩy việc phê chuẩn hiệp định TPP mà Mỹ và Canada đã
cùng 10 nước châu Á-Thái Bình Dương đã ký ngày 5/10/2015 tại Mỹ. Đúng
như Tổng thống Barack Obama đã nhấn mạnh: Hai nước đã thảo luận về cách
thức thúc đẩy hiệp định TPP trong thời gian tới. Hai nước đã tái khẳng định
quyết tâm triển khai một thỏa thuận tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân
Mỹ và Canada đi lại, giao thương và đầu tư bằng việc nới lỏng các thủ tục hải
quan và nhập cư.
Trên lĩnh vực an ninh, xã hội: hai nước vẫn cần nhau để bảo vệ an ninh
quốc gia và an ninh khu vực. Trên lĩnh vực xã hội, hai nước có mối liên hệ rất
gần gũi mà không phải quốc gia nào cũng có được. Canada được xem như
“mặt tiền” của Mỹ. An ninh quốc gia của Mỹ phụ thuộc nhiều vào việc kiểm
soát đường biển và đường hàng không của Canada, vì hành lang phía Bắc
115
ngày càng trở thành tuyến đường hàng hải nhộn nhịp và quan trọng đối với sự
phát triển của Mỹ.
Về mặt nhận thức của công chúng hai nước: Một cơ sở, tiền đề tạo nên
thuận lợi thúc đẩy quan hệ Canada - Mỹ nói chung và quan hệ kinh tế thương
mại giữa hai nước phát triển là do thái độ công chúng Canada hướng tới một
quan hệ gần gũi hơn với Mỹ; và ngược lại người Mỹ luôn có đánh giá rất cao
về người dân Canada, thường chiếm hơn 90%. Các bất đồng về chính sách
giữa hai nước trong vấn đề quốc phòng và đối ngoại hay về các vấn đề biên
giới và thương mại không làm thay đổi thực tế này. Người dân Canada đánh
giá cao quan hệ với Mỹ, chủ yếu do các lợi ích kinh tế mang lại. Các giá trị
liên quan đến mối quan hệ kinh tế này dường như vẫn còn ổn định đáng kể
trong những năm gần đây mặc cho những thăng trầm của quan hệ Canada -
Mỹ. Theo khảo sát năm 1990 thì có đến 71% người dân được hỏi cho rằng
Canada nên có quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với Mỹ, con số này đã tăng lên
79% trong một cuộc khảo sát năm 2000 [113].
Hơn nữa, cả người dân Canada và Mỹ đều ủng hộ chính sách hợp tác
kinh tế. Trong một cuộc khảo sát gần đây về quan điểm của người Canada và
Mỹ đối với tự do thương mại và NAFTA cho thấy dữ liệu đáng ngạc nhiên về
ủng hộ hội nhập thương mại [26]. Đáp lại tuyên bố “Thương mại giữa Mỹ,
Canada và Mexico sẽ tự do hơn”, 80% dân số Canada đã ủng hộ và con số
này ở Mỹ là 74% [30]. Ngay cả về vấn đề an ninh biên giới, người dân ở cả
hai nước đều ủng hộ hợp tác và hội nhập hơn đề nghị chính sách của chính
phủ họ. Ở Mỹ, 41% ủng hộ vành đai an ninh chung trong khi chỉ có 20% phản
đối; ở Canada, 43% ủng hộ trong khi 30% phản đối. Vì thế, cả hai chính phủ
sẽ cần phải nỗ lực để hướng tới hợp tác song phương sâu rộng hơn nhằm
giảm thiểu các rào cản thương mại.
Cả hai nước đều cam kết “giữ cho các dòng chảy thương mại qua biên
giới, trong khi duy trì một mức độ cao về an ninh”, can thiệp về mặt chính trị
cần được hạn chế trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại [26: tr.2].
Nhìn chung, phương pháp tiếp cận của Canada để giải quyết quan hệ kinh tế
thương mại với Mỹ dựa trên các nguyên tắc sau: Tránh những ý tưởng lớn;
Tiến hành các nỗ lực thực dụng từng bước để làm mới mối quan hệ; Mở rộng
116
trên các phương pháp tiếp cận thành công, ví dụ như Tuyên bố về Biên giới
thông minh; Khuyến khích hợp tác an ninh; Cùng hợp tác để hướng tới một
thuế quan chung; Xác định lợi ích chung trong các cuộc đàm phán thương
mại quốc tế và xây dựng mối quan hệ trong tất cả các cấp [26: tr.2].
Sự mở rộng hơn nữa quan hệ thương mại Canada - Mỹ sẽ chịu tác
động mạnh bởi triển vọng tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế Canada và
kinh tế Mỹ. Kinh tế Canada tăng trưởng mạnh sẽ khiến cho nhu cầu tiêu thụ
hàng hóa xuất khẩu của Mỹ tăng và từ đó tạo cơ hội phát triển quan hệ thương
mại lớn hơn giữa Canada và Mỹ và ngược lại. Triển vọng phát triển mạnh của
Canada thúc đẩy các doanh nghiệp Mỹ dành thêm nguồn lực vào sản xuất và
phân phối hàng hóa và dịch vụ Mỹ ở Canada.
Khi xem xét quan hệ kinh tế thương mại Canada - Mỹ, các doanh
nghiệp Canada không thể bỏ qua một thực tế là giao dịch thương mại Bắc -
Nam dễ dàng và thuận lợi hơn so với Đông - Tây do điều kiện địa lý, địa hình,
cơ sở hạ tầng và các rào cản thương mại giữa các tỉnh với nhau. Chính vì
thuận lợi đó, trong thời gian tới chắc chắn các doanh nghiệp Canada vẫn tiếp
tục chú ý xúc tiến, đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ.
Trong thập kỷ qua, quan hệ thương mại và đầu tư Canada - Mỹ có vai
trò rất quan trọng đối với cả hai nước. Những tác động tích cực từ quan hệ
thương mại Canada - Mỹ trong giai đoạn vừa qua cũng sẽ là nền tảng tạo điều
kiện thuận lợi cho quan hệ thương mại song phương tiếp tục phát triển trong
thời gian tới. Một mối quan hệ hợp tác tốt đẹp sẽ giúp củng cố tính cạnh tranh
của các nhà xuất khẩu, tạo ra và duy trì việc làm ở cả hai nước. Ví dụ, chỉ
riêng trong năm 2013, hơn 8 triệu việc làm của Mỹ phụ thuộc vào giao dịch
thương mại với Canada. Con số đó chiếm 4,4% tổng số công ăn việc làm của
Mỹ. Tất cả các bang đều có tác động tích cực về việc làm từ trao đổi thương
mại với Canada.
Quan hệ Canada - Mỹ rất cần thiết cho sự thịnh vượng và an ninh của
hai nước vì các lý do sau:
- Canada là đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ và ngược lại
117
- Canada là nước cung cấp năng lượng lớn nhất cho Mỹ, và vì thế, góp
phần đảm bảo an ninh năng lượng cho nền kinh tế lớn nhất thế giới này, trong
bối cảnh thế giới ngày càng cạn kiệt các nguồn năng lượng.
- Trên thực tế, các lợi ích về thương mại và an ninh của hai nước có thể
bổ sung cho nhau.
- Quan hệ giữa người dân hai nước với nhau đã hình thành nên quan hệ
Canada - Mỹ.
- Canada là đối tác an ninh tin cậy nhất của Mỹ, do lợi ích phát triển và
do hai nước có đường biên giới phi quân sự dài nhất và an toàn nhất thế giới.
Cụ thể, đối với Canada, bước sang thế kỷ XXI, trong chính sách phát
triển của mình, Canada xác định quan hệ thương mại tốt đẹp với Mỹ là yếu tố
then chốt. Điều này không chỉ giúp Canada phát triển kinh tế, tận dụng tốt
hơn các cơ hội hấp dẫn qua biên giới mà còn cải thiện vị thế của mình trên
trường quốc tế. Trên thực tế, mối quan hệ Canada - Mỹ đã phục vụ rất tốt cho
Canada. Năm 1962, John F. Kennedy đã nắm bắt được bản chất của mối quan
hệ này, ông nói với các nghị sĩ Canada rằng điều kiện địa lý đã làm cho chúng
tôi trở thành hàng xóm của nhau, lịch sử đã khiến hai nước trở thành những
người bạn của nhau, nhu cầu về an ninh đã biến hai nước trở thành đồng minh
của nhau, trong khi đó kinh tế đã tạo ra một quan hệ đối tác đặc biệt giữa hai
nước, khiến cho Canada phát huy hết được lợi thế của mình.
Quan hệ thương mại Canada - Mỹ có vai trò rất quan trọng đối với
Canada. Xét trên cơ sở lợi ích, cả Canada và Mỹ đều có sự ràng buộc và có
những lợi ích tương đồng. Các cơ hội, lợi ích cơ bản là: Mỹ là thị trường giàu
nhất thế giới và rất đa dạng, quan hệ thương mại với Mỹ giúp Canada có mức
tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn thông qua chuyên môn hóa kinh tế, chuyên
môn hóa xuất khẩu, phát triển các sản phẩm mới, đầu tư nước ngoài, và tăng
tính cạnh tranh. Việc tiếp cận với một thị trường lớn hơn khiến sản xuất hiệu
quả hơn và tăng trưởng nhanh hơn, thị trường lớn thúc đẩy đổi mới trong các
ngành công nghiệp của Canada, hơn nữa, thành công ở Mỹ cũng là một bàn
đạp để Canada thâm nhập các thị trường khác…
Quan hệ thương mại tốt đẹp với Mỹ sẽ giúp Canada triển khai, bổ sung
công nghệ mới và các sáng kiến đa dạng hóa và ngược lại. Người tiêu dùng ở
118
Canada cũng có lợi do giá cả thấp hơn và các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng đa
dạng hơn.
Canada phụ thuộc vào Mỹ để tăng trưởng kinh tế [111]. Đối với
Canada, quan hệ kinh tế với Mỹ có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế do
khoảng 80% xuất khẩu của Canada là tới Mỹ và hơn 50% nguồn FDI vào
Canada là từ nước Mỹ. Mỹ thường là nước đầu tiên các doanh nghiệp Canada
nghĩ đến khi muốn xuất khẩu sản phẩm của họ, đây là một lựa chọn đúng đắn
do sự gần gũi về địa lý, tương đồng về văn hóa, đều là các thị trường tự do,
mức sống so sánh, và văn hóa kinh doanh cũng như các hoạt động kinh doanh
tương đồng; ngoài ra, do có NAFTA nên hầu hết các rào cản thương mại giữa
Canada và Mỹ đều đã được gỡ bỏ [34].
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ, các
doanh nghiệp Canada luôn phải tìm cách tiếp cận với các thị trường rộng lớn
hơn, và Mỹ là quan trọng nhất vì đây là thị trường lớn nhất, giàu có nhất,
năng động nhất và công nghệ hiện đại nhất. Với đặc điểm này, Canada sẽ có
các lợi ích quan trọng trong mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Mỹ, nắm bắt các
cơ hội từ nước Mỹ sẽ là công cụ quan trọng phát triển kinh tế Canada. Thị
trường Mỹ luôn có vai trò quan trọng đối với Canada, Mỹ là đối tác thương
mại lớn nhất và Mỹ cũng cung cấp nhiều vốn đầu tư và công nghệ hiện đại
cho Canada thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài. Quá trình đầu tư lẫn nhau
vừa đảm bảo tính hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp vừa giúp các doanh
nghiệp của Canada duy trì khả năng cạnh tranh với những đối thủ từ các nền
kinh tế lớn khác.
Ngày 22 tháng 6 năm 2010, trước thềm Hội nghị thượng đỉnh G20, Bộ
trưởng thương mại Canada Peter Van Loan đã phát biểu với Phòng thương
mại Mỹ tại Canada rằng “Mỹ là đối tác thương mại quan trọng nhất với
Canada, đem lại nhiều việc làm và sự thịnh vượng cho cả hai nước, chưa kể
đến hàng triệu việc làm trên nước Mỹ phụ thuộc vào giao dịch thương mại
với Canada” [143]. Theo số liệu năm 2007, quan hệ này mang lại khoảng 3
triệu việc làm cho Canada [59]. Do tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu, con số này đã suy giảm còn 2,4 triệu người trong năm 2014 [161].
119
Đối với Mỹ, nhìn chung, tổng kim ngạch thương mại Canada - Mỹ có
đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Mỹ. Ví dụ, trong năm 2008,
trong khi tổng thương mại của Mỹ với tất cả các nước chiếm khoảng 30%
GDP Mỹ, thì đóng góp của Canada đã chiếm hơn 15% con số đó, tức là hơn
một nửa.
Quan hệ thương mại Canada - Mỹ mang lại hàng triệu USD cho sản
lượng của Mỹ, đem đến hàng triệu việc làm cho Mỹ. Sản lượng và số việc
làm này không thể có nếu hai nước không giao dịch thương mại với nhau. Vì
thế nhiều nhà kinh tế Mỹ đặt ra câu hỏi: Nếu không giao dịch thương mại với
Canada thì nước Mỹ sẽ sản xuất cái gì, họ sẽ nhập khẩu từ nước nào và xuất
khẩu tới đâu?
Tác động của quan hệ thương mại Canada - Mỹ đến sản lượng cấp
bang và quốc gia Mỹ tiếp tục có ý nghĩa quan trọng. Một minh chứng rõ ràng
nhất cho nhận định này là sản lượng quốc gia năm 2008 của Mỹ liên quan đến
thương mại với Canada lên đến hơn 470 tỷ USD (xem phụ lục 3), chiếm hơn
3% tổng GDP của Mỹ [98]. Và như trên đã đề cập, tất cả các bang đều có lợi
từ quan hệ thương mại với Canada, cụ thể trong năm 2008, quan hệ thương
mại này mang lại nhiều lợi ích nhất cho bang California với sản lượng trị giá
là 62 tỷ USD và ít nhất là bang Vermont với con số tương ứng 871 triệu USD
[98]. Nhìn chung, khoảng 3% đến 4% tổng thu nhập quốc dân của bang phụ
thuộc vào giao dịch thương mại với Canada.
Vì Canada là thị trường xuất khẩu lớn nhất cho các bang của Mỹ, cho
nên biên giới giữa Mỹ và Canada trở nên cực kì quan trọng đối với cuộc sống
và là sinh kế của hàng triệu người dân Mỹ.
Quan hệ thương mại Canada - Mỹ tạo ra hàng triệu việc làm cho Mỹ
mỗi năm. Điều này đặc biệt quan trọng trong tình trạng khủng hoảng kinh tế
hiện nay. Trong năm 2001, chỉ riêng giao dịch thương mại giữa hai nước đã
mang lại 5,2 triệu việc làm cho nước Mỹ. Năm 2005, con số này đã lên tới 7,1
triệu việc làm (tính cả thương mại hàng hóa và dịch vụ) [98]. Trong năm
2013, hơn 8 triệu việc làm của Mỹ phụ thuộc vào giao dịch thương mại với
Canada [161]. Con số đó chiếm 4,4% tổng số công ăn việc làm của Mỹ - hay
nói cách khác 1 trong 23 việc làm của người Mỹ phụ thuộc vào thương mại tự
120
do với Canada. Điều đặc biệt ở đây là hầu hết các việc làm này đều nằm trong
khu vực dịch vụ (hơn 7,2 triệu việc làm), trong khi đó chỉ có hơn một nửa
triệu việc làm trong khu vực chế tạo. Tất cả các bang đều có tác động tích cực
về việc làm từ trao đổi thương mại với Canada, trong đó bang California có
được lợi nhiều nhất với 931,890 việc làm (số liệu của năm 2008).
Có nhiều lý do giải thích tại sao quan hệ thương mại giữa hai nước
mang lại nhiều sản lượng và việc làm trong lĩnh vực dịch vụ cho Mỹ đến vậy,
nhưng chủ yếu là do 4 nguyên nhân sau:
Thứ nhất, giao dịch thương mại với Canada gồm có cả thương mại dịch
vụ, tính đến cả các liên kết trực tiếp giữa xuất khẩu tới Canada và sản lượng
dịch vụ ở nước Mỹ, trong khi đó thương mại hàng hóa với Canada lớn hơn
nhiều so với thương mại dịch vụ, vì thế trọng tâm lợi ích của Mỹ trong khu
vực dịch vụ là điều đáng chú ý.
Thứ hai, ngành sản xuất ở Mỹ trên thực tế cần nhiều dịch vụ. Vì thế,
việc tăng hoạt động sản xuất từ xuất khẩu tới Canada có liên quan nhiều đến
nhu cầu về các dịch vụ trực tiếp.
Thứ ba, nền kinh tế Mỹ chủ yếu dựa trên lĩnh vực dịch vụ, ví dụ, chỉ
tính riêng năm 2008, dịch vụ (bao gồm cả xây dựng) chiếm tới 80% GDP của
nước Mỹ. Vì thế một sự gia tăng trong hoạt động kinh tế có được qua giao
dịch thương mại với Canada có nghĩa là sự gia tăng nói chung trong hoạt
động kinh tế, đặc biệt là trong khu vực dịch vụ do Mỹ có thặng dư về thương
mại trong lĩnh vực này với Canada.
Thứ tư, mối liên kết giữa thu nhập và cầu về dịch vụ, vì thu nhập cao
hơn sẽ dẫn đến tăng cầu với các dịch vụ tiêu dùng.
Khi nước Mỹ trở nên phụ thuộc hơn vào thương mại và các điều kiện
tài chính và kinh tế vĩ mô của các nước khác, Canada ngày càng trở thành một
đối tác kinh tế và chiến lược quan trọng. Đến năm 2004, thị phần xuất khẩu
trong GDP của Mỹ tăng gấp đôi so với năm 1960, trong khi đó đóng góp của
nhập khẩu trong GDP tăng gấp 3 lần. Phần lớn sự gia tăng đó là nằm trong
quan hệ với Canada. Cơ cấu kinh tế, mô hình thương mại, và triển vọng tăng
trưởng của Canada ngày càng có vai trò quan trọng đối với tổng thể triển
121
vọng thương mại Mỹ, đặc biệt là về xuất khẩu đối với nhiều ngành của Mỹ -
các ngành phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu tới Canada.
Khi kim ngạch thương mại Mỹ - Canada tăng 1% sẽ làm tăng 0,057%
việc làm cho Mỹ và tăng 0,043% sản lượng Mỹ. Tương tự, nếu giảm 1%
trong giao dịch thương mại Canada - Mỹ thì sẽ làm giảm 0,057% việc làm và
0,043% sản lượng của Mỹ. Một sự thay đổi về chi phí thương mại có thể tác
động nhiều đến quan hệ Canada - Mỹ. Chẳng hạn như, mức tăng 10% chi phí
thương mại sẽ làm cắt giảm khoảng 1,47% số việc làm và 1,1% sản lượng ở
Mỹ [98].
Tất cả các con số trên tiếp tục khẳng định hai nền kinh tế có tính hội
nhập cao và mối quan hệ thương mại là nền tảng cho sự thịnh vượng chung
của hai nước. Quan hệ thương mại giữa Canada và Mỹ tiếp tục mang lại lợi
ích thực tế cho cả hai nước.
Quan hệ thương mại giữa hai nước ngày càng được thúc đẩy vì Canada
là một ưu tiên lớn trong chính sách ngoại thương của Mỹ và ngược lại. Chứng
minh cho nhận định này là hàng loạt các tác động tích cực của quan hệ
thương mại này đến kinh tế hai nước như đã đề cập ở phần trên.
Từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, Canada đã đẩy mạnh đa dạng
hóa các đối tác thương mại để bù đắp cho phần suy giảm trong quan hệ
thương mại với Mỹ. Mặc dù đạt được một số thành quả, ví dụ như xuất khẩu
của Canada sang Trung Quốc trong 5 năm (2008-2012) đã tăng gấp đôi,
nhưng mức tăng từ 2,17% lên đến 4,26% [30] vẫn là con số rất nhỏ so với tỷ
trọng quan hệ thương mại với Mỹ. Trong cùng giai đoạn này, tỷ trọng thương
mại với Mỹ giảm 3% nhưng vẫn còn là con số rất cao, chiếm tới 74,54% [30:
tr.30] tổng kim ngạch xuất khẩu của Canada. Ngoài ra, xuất khẩu của Canada
sang các đối tác lớn khác như Anh và Hàn Quốc có tăng nhưng xuất khẩu
sang Nhật Bản và Mexico về cơ bản bị đình trệ. Khi xem xét tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu bình quân trong 5 năm từ 2008 đến 2012, có thể thấy tỷ lệ
tăng rất mạnh trong quan hệ thương mại với Trung Quốc (15,5%) và tốc độ
tăng mạnh mẽ của Anh và Hàn Quốc (8,9% và 6,9%). Tuy nhiên, mức gia
tăng 15% của 4% kim ngạch xuất khẩu tới Trung Quốc có tác động rất nhỏ
đến tổng kim ngạch thương mại của Canada. Như thế, với kết quả đa dạng
122
hóa thương mại của Canada còn rất khiêm tốn như trên thì Canada còn phải
mất nhiều thời gian hơn để thực hiện mục tiêu này, trong khi một thay đổi nhỏ
trong quan hệ thương mại với Mỹ có thể có tác động nhanh và lớn. Vì vậy,
trong tương lai, bên cạnh đa dạng hóa các đối tác thương mại, Canada vẫn sẽ
đẩy mạnh chính sách tăng cường quan hệ thương mại với Mỹ.
Canada sẽ vẫn là đối tác thương mại quan trọng nhất của nước Mỹ
trong thời gian tới. Các điều kiện kinh tế, triển vọng tăng trưởng của Canada
và tính cạnh tranh của đồng đôla Canada tác động mạnh đến xuất khẩu của
Mỹ đến Canada.
Tất cả các yếu tố trên tiếp tục khẳng định hai nền kinh tế có tính hội
nhập cao và mối quan hệ thương mại là nền tảng cho sự thịnh vượng chung
của hai nước. Quan hệ kinh tế thương mại Canada - Mỹ trong giai đoạn tới
vẫn tiếp tục phát triển trong bối cảnh gia tăng hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế, việc quản lý quan hệ giữa hai nước cũng cần để ý đến cả hai cấp độ
này:
- Ở cấp độ khu vực, hội nhập kinh tế có thể sẽ tiếp tục bằng việc kết
nạp thêm các thành viên khác vào NAFTA, và khả năng thành lập FTAA. Các
nước NAFTA, đặc biệt là Mỹ sẽ chi phối khu vực tự do thương mại đó.
- Ở cấp độ quốc tế, WTO sẽ tiếp tục có tác động lớn đến quan hệ kinh
tế thương mại Canada - Mỹ. Trong tương lai gần, khi kết thúc đàm phán hiệp
định TPP thì đây cũng sẽ là một cơ chế có tác động sâu rộng đến quan hệ
thương mại giữa hai nước.
4.1.2. Khó khăn
Ngoài những thuận lợi trên, quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong
một vài năm tới đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.
Về phía Canada, các vấn đề quan hệ song phương với Mỹ được đặc
trưng bởi một tinh thần dân tộc, đặc biệt là xung quanh các vấn đề về chủ
quyền. Một thực tế luôn đặt ra đối với các quan chức Canada là mối quan tâm
của công chúng nước này về việc sợ đánh mất chủ quyền khi hợp tác với
chính phủ Mỹ. Vì thế, làm thế nào để duy trì sự lựa chọn chính sách và một
tiếng nói độc lập trong các vấn đề thế giới khi ở bên cạnh một siêu cường là
một tranh luận lớn trong lịch sử Canada. Về vấn đề này, một cựu đại sứ Mỹ
123
tại Mỹ, ông Derek Burney đã từng nhận định rằng trong việc quản lý các mối
quan hệ Canada - Mỹ, Thủ tướng Canada sẽ luôn có thách thức là làm thế nào
để cân bằng lý tưởng giữa một mặt là mức độ tự tin và Washington cam kết
đủ để đảm bảo lợi ích của chúng tôi về mặt kinh tế, an ninh và các lĩnh vực
khác, mặt khác vẫn đảm bảo một vai trò trên chính trường thế giới và làm nổi
bật bản sắc của Canada.
Do Canada phụ thuộc vào kinh tế Mỹ nói chung, giao dịch thương mại
với Mỹ nói riêng, cho nên nền kinh tế Canada dễ bị tổn thương với các chu kỳ
kinh doanh kém của Mỹ, đặc biệt là các cuộc suy thoái của Mỹ. Canada có lợi
khi nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh và như vậy tất nhiên khi kinh tế Mỹ suy
thoái, Canada chắc chắn gặp nhiều khó khăn. Từ năm 2000, xuất khẩu của
Canada tới Mỹ chiếm khoảng từ 27% đến 33% GDP danh nghĩa của Canada.
Sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng của Mỹ, cùng với một đồng CAD tăng
giá sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng của Canada [118: tr.23].
Với hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, nền kinh tế
Canada và Mỹ trong những năm tới vẫn chưa thể phục hồi hoàn toàn, vì thế
quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Sự
phục hồi của nền kinh tế Mỹ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 vẫn
chậm, tính không chắc chắn lâu dài trong chính trị ngân sách Mỹ và vấn đề
giải quyết nợ công vẫn còn, tính bất ổn của chính sách tiếp tục đặt ra rào cản
đối với tăng trưởng kinh tế Mỹ nói chung và quan hệ thương mại với Canada
nói riêng.
Trong khi tiếp cận với thị trường Mỹ, đầu tư và công nghệ đã đem lại
nhiều lợi ích cho người Canada, tuy nhiên hậu quả từ các tranh chấp về
thương mại và sự chênh lệch dân số giữa hai nước đã tạo ra nhiều vấn đề
nghiêm trọng đối với Canada, bao gồm cả mức độ phụ thuộc cao và việc dễ bị
tổn thương từ các chính sách của Mỹ. Gần đây các nhóm lợi ích của Mỹ đã
giành được sự hậu thuẫn của chính phủ Mỹ trong việc mở rộng thị trường
Canada cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của Mỹ (ví dụ như ngân hàng,
các dịch vụ dữ kiện), trong việc phản đối các chính sách của Canada nhằm
phát triển ngành công nghiệp của Canada và làm hạn chế tác động của các
biện pháp của Canada đối với việc kiểm soát đầu tư trực tiếp nước ngoài.
124
Các doanh nghiệp Canada luôn tìm cách để tận dụng cơ hội tại thị
trường Mỹ, quan tâm an ninh kinh tế hàng đầu của Canada trong thập kỷ tới
vẫn là tiếp cận không trở ngại với thị trường Mỹ đối với xuất khẩu và nhập
khẩu của Canada, các doanh nghiệp Canada vẫn tìm thấy nhiều cơ hội trên
nước Mỹ, thế nhưng các rào cản cũng tiếp tục gia tăng. Thất bại trong việc
theo đuổi hội nhập thương mại sâu rộng hơn nữa giữa Canada và Mỹ trong
các lĩnh vực như vấn đề hài hòa quy định, thuế quan chung với các sản phẩm
chế tạo, tự do thương mại trong hàng hóa nông sản, và một hiệp định toàn
diện về môi trường và năng lượng trong 20 năm sau khi thực hiện NAFTA đã
khiến cho tương lai quan hệ kinh tế thương mại của Canada với Mỹ bị đánh
giá thấp. Để vượt qua các trở ngại này, Canada phải tiến gần hơn với chính
thể và thị trường Mỹ.
Mặc dù có vị trí đặc biệt trong tiếp cận thị trường Mỹ thông qua FTA,
song Canada vẫn dễ tổn thương do thực tế của một nền kinh tế tầm trung nằm
cạnh một siêu cường kinh tế lớn nhất. Mặc dù đã có FTA, nhưng Canada vẫn
sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa bảo hộ của Mỹ, điều này có thể sẽ làm tăng
các bất đồng về thương mại giữa hai nước. Nhiều vấn đề nảy sinh trong quá
trình thực thi NAFTA cũng là nhân tố cản trở quan hệ thương mại Canada -
Mỹ, đến nay có nhiều dấu hiệu rạn nứt trong NAFTA, nguyên nhân một phần
là do các chính sách có xu hướng bảo hộ thương mại của Mỹ mà điển hình là
chính sách “Mua hàng Mỹ”.
Trong thập kỷ qua, xuất khẩu hàng hóa của Canada tới Mỹ đã suy giảm
tương đối. Giai đoạn sau 2007 cho thấy Canada đang mất dần tính cạnh tranh
về thương mại trong quan hệ với Mỹ. Xu hướng tiêu cực trong cạnh tranh
thương mại dịch vụ thậm chí còn lớn hơn thương mại hàng hóa. Tính cạnh
tranh yếu đi của Canada đối với Mỹ xảy ra vào thời điểm khi mà quan hệ
chính trị cấp cao bị suy giảm dưới thời Thủ tướng Harper. Lĩnh vực chính
trong quan hệ thương mại giữa hai nước cho thấy sự tăng trưởng trong thập
kỷ qua, đó là các sản phẩm dầu thô, cũng là mặt hàng đang đối mặt với các
trở ngại do can thiệp chính trị từ các nhà hoạch định chính sách Mỹ. Bảy năm
trì hoãn, chậm trễ trong việc cấp giấy phép cho KKL vượt qua biên giới
Canada - Mỹ là không có tiền lệ trong quan hệ giữa hai nước.
125
Quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong vài năm gần đây đã vấp phải
mâu thuẫn vì những bất đồng về dự án ống dẫn dầu Keystone XL. Đây được
đánh giá là bất đồng có tác động rất nghiêm trọng và khó giải quyết. Dự án
Keystone XL do tập đoàn TransCanada Corp của Canada và tập đoàn
ConocoPhillips của Mỹ đề xuất năm 2008 với vốn đầu tư 8 tỷ USD. Dự án
này sẽ mang lại lợi ích kinh tế rất lớn cho Canada nhưng đã bị trì hoãn do
tranh cãi trong nội bộ Mỹ và sự phản đối của Tổng thống Obama. Dự án này
đã trở thành vấn đề chính trị gây bức xúc tại Mỹ trong suốt thời gian qua,
nhiều tổ chức môi trường Mỹ cũng phản đối dự án xây dựng tuyến đường ống
dẫn dầu này với lý do phá hủy môi trường, nhất là các mạch nước
ngầm. Ngày 11/2/2015, Quốc hội Mỹ đã thông qua quyết định cuối cùng cho
phép xây dựng đường ống KXL gây tranh cãi. Tuy nhiên, quyết định này tiếp
tục không nhận được sự chấp thuận của Tổng thống Barack Obama, ông đã
chính thức phủ quyết dự luật này ngày 24/2/2015. Sự trì hoãn KXL và sự sụp
đổ của giá dầu đã tác động trực tiếp đến kim ngạch thương mại giữa hai nước
trong năm 2015 vừa qua.
Đồng thời, quy định về bắt buộc dán nhãn nguồn gốc xuất xứ hàng hóa
của Mỹ (Mỹ áp dụng COOL từ năm 2008 và tiến hành sửa đổi năm 2013 theo
hướng quy định các sản phẩm thịt bò và thịt lợn đóng gói tiêu thụ trên thị
trường Mỹ phải ghi rõ nguồn gốc xuất xứ từ con giống, nơi chăn nuôi đến nơi
chế biến) đã làm tổn hại nghiêm trọng đến chuỗi cung ứng thịt bò và thịt lợn
vốn đã hội nhập sâu rộng giữa hai nước. Chính sách “Mua hàng Mỹ” trong
khu vực mua sắm công vẫn còn là một mối đe dọa tiềm ẩn đối với quan hệ
song phương. Trong khi các rào cản thương mại của Mỹ đã tăng lên thì
Canada đã gỡ bỏ được một số rào cản, ví dụ như quyền sở hữu trí tuệ đã được
tăng cường, và quy định về Wheat Board của Canada đã được hủy bỏ.
Mặc dù có tuyên bố, cam kết về giải quyết tranh chấp tranh lĩnh vực gỗ
xẻ mềm, thương mại trong lĩnh vực này vẫn tiềm ẩn tranh chấp lớn giữa hai
nước. Năm 2013, Canada xuất khẩu 7,4 tỷ USD gỗ xẻ mềm, con số cao nhất
kể từ năm 2006 [66]. Mỹ là điểm đến cho phần lớn số lượng xuất khẩu đó, và
trong hàng thập kỷ qua các nhà xuất khẩu gỗ xẻ mềm của Mỹ luôn yêu cầu
chính phủ áp thuế vào mặt hàng gỗ xẻ mềm của Canada. Sau nhiều thập kỷ
126
tranh chấp, vào năm 2006 Canada và Mỹ đã đạt được một thỏa thuận 9 năm.
Theo thỏa thuận này thì Mỹ đồng ý hoàn lại 5 tỷ USD thuế đã thu từ các công
ty gỗ xẻ mềm Canada, và một thỏa thuận ngừng tranh chấp. Tuy nhiên, Hiệp
định này hết hạn vào ngày 12 tháng 10 năm 2015, và có những dấu hiệu cho
thấy tranh chấp thương mại có tính lịch sử này có thể bùng phát trở lại. Lĩnh
vực bất động sản của Mỹ đang nóng lên, khi xây dựng phát triển thì nhu cầu
về gỗ của Canada sẽ tăng lên, điều này chắc chắn sẽ gặp khải sự phản kháng
của các nhà sản xuất gỗ xẻ của Mỹ vì từ lâu họ đã cho rằng ngành công
nghiệp gỗ xẻ của Canada được trợ cấp không công bằng.
Giá gỗ có vai trò rất quan trọng trong giải quyết tranh chấp thương mại,
thỏa thuận thương mại như đã đề cập ở chương 3 là một thỏa thuận quản lý áp
đặt thuế với các nhà sản xuất gỗ Canada nếu như giá thấp hơn 355 USD cho
mỗi nghìn feet tấm. Thỏa thuận này nìn chung đã mang lại sự hài lòng cho đa
số các nhà sản xuất gỗ xẻ Canada, tuy nhiên một số nhà sản xuất gỗ ở Quebec
cho rằng tỉnh này nên được miễn trừ khỏi thỏa thuận này vì nó đã làm thay
đổi cách thu phí tuổi cây. Các quan chức Canada muốn hai nước ký một bản
sao của các thỏa thuận hiện tại kéo dài cho đến năm 2022, hay năm 2024 [66].
Suy thoái kinh tế Mỹ đã buộc các nhà sản xuất Canada đa dạng hóa và tìm
kiếm các thị trường mới. Trong nhiều năm qua, nhà sản xuất gỗ lớn nhất
Canada (BC) đã chú trọng đến thị trường Trung Quốc, nếu như năm 2005, BC
xuất khẩu khoảng 120 triệu feet tấm gỗ cho Trung Quốc, thì đến năm 2013
con số này đã tăng lên 3,35 tỷ feet tấm gỗ [66]. Tuy nhiên, tiếp cận thị trường
Mỹ vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhất cho các nhà xuất khẩu gỗ của Canada.
Bên cạnh điều kiện về thị trường, thì sự khác nhau cơ bản giữa các ngành
công nghiệp ở hai nước cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh
chấp, những sự khác biệt giữa cách tính tuổi cây ở Canada và ở Mỹ là nguyên
nhân cơ bản của các cuộc tranh luận xẻ gỗ mềm. Tại Canada, lệ phí tuổi cây
được dựa trên số lượng cây được thu hoạch, và thường được trả cho chính
quyền cấp tỉnh kể từ khi họ sở hữu phần lớn đất đai trong khu vực tương ứng
của họ. Ngược lại, Mỹ xác định phí tuổi cây thông qua đấu giá trên thị trường
mở bởi các doanh nghiệp tư nhân, lệ phí tuổi cây nộp cho chủ đất tư nhân.
Các nhà sản xuất Mỹ cho rằng các tỉnh bang của Canada đã thu phí quá ít tuổi
127
cây, vì thế trợ cấp ngành công nghiệp này, còn nhà sản xuất Canada cho rằng
phí áp vào tuổi cây là dựa trên cơ sở thị trường.
Thực tiễn sự phát triển kinh tế giữa hai nước cũng cho thấy có những
điểm khác nhau về đầu tư phát triển kinh tế, trong đó có khác biệt về chi phí
cho hoạt động R&D: chi phí Canada thấp hơn Mỹ xét cả về con số tuyệt đối
lẫn tỷ lệ đầu tư so với GDP, điều này đang tạo ra những khoảng cách ngày
càng lớn về trình độ công nghệ và trình độ nhân lực giữa hai nước.
Sự tăng tốc của quá trình toàn cầu hoá, đa phương hóa các quan hệ kinh
tế quốc tế. Đối với Canada và Mỹ, quá trình này diễn ra rất nhanh chóng, điều
này dẫn tới tỷ trọng quan hệ thương mại giữa hai nước suy giảm do chia sẻ lợi
ích với các nước khác.
Hơn nữa, một trong những khó khăn lớn mà Canada phải đối mặt trong
quan hệ thương mại với Mỹ là chính sách của Mỹ không chắc chắn. Sự phục
hồi kinh tế của Mỹ đến nay còn khiêm tốn và tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế
vẫn còn dưới mức trung bình của giai đoạn hậu suy thoái sau Thế chiến II
[30: tr.27]. Sự phục hồi chưa hoàn toàn này gây khó khăn cho các thương
nhân Canada do năng suất lao động ở Canada đang bị tụt hậu trong khi đồng
CAD vẫn cao. Hơn nữa, nhiều rào cản về quy định do Mỹ áp đặt đối với tự do
thương mại cũng đang tác động mạnh đến triển vọng thương mại về các mặt
hàng dầu thô, thịt đỏ và mua sắm công. Các trở ngại này đã làm giảm tiếp cận
thị trường và năng lực cạnh tranh của Canada đối với thị trường Mỹ.
Chi tiêu công cao và các chương trình kích thích tiền tệ đã không mang
lại tỷ lệ tăng trưởng GDP cao cho nước Mỹ. Trong khi tăng trưởng kinh tế
khiêm tốn, mức nợ công lại rất cao. Theo báo cáo công khai của Văn phòng
Ngân sách Quốc hội Mỹ, đến năm 2013 Mỹ đang có mức nợ công chiếm tới
73% GDP, mức cao nhất kể từ năm 1946 [30: tr.27]. Khoảng cách ngày càng
lớn giữa chi tiêu và thu nhập của chính phủ liên bang chỉ mới được giới hạn
bởi chính sách cô lập ngân sách Mỹ từ tháng 1 năm 2013, tuy nhiên chính
sách này chỉ là tạm thời, giải pháp chính thức về chi tiêu công và thuế vẫn
chưa rõ ràng đã gây ra sự bế tắc trong hoạch định chính sách của tổng thống -
quốc hội. Mức nợ cao, kết hợp với sự bế tắc về cắt giảm ngân sách và thuế đã
gây ra tính không chắc chắn trong chính sách của Mỹ trong 5 năm qua. Tính
128
không chắc chắn của chính sách này tiếp tục trầm trọng hơn bởi hoạt động
không hiệu quả của các chương trình an sinh xã hội như Medicare, Medicaid.
Ngoài các nhân tố tác động từ bên trong có thể gây khó khăn cho quan
hệ thương mại Canada - Mỹ trong thời gian tới như trên đã đề cập, quan hệ
này còn có thể gặp khó khăn do các nhân tố tác động bên ngoài [14]:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra những tác
động chưa từng có đối với nền kinh tế thế giới nói chung và với nền kinh tế
Mỹ, nơi khởi đầu cuộc khủng hoảng nói riêng. Thương mại và đầu tư quốc tế
giảm sút mạnh tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế các bên liên quan và
dẫn tới sự suy giảm trong quan hệ kinh tế giữa các nước. Giải pháp được các
nước đồng loạt sử dụng nhằm nhanh chóng thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng là thực thi chính sách kích cầu nội địa, các chính sách này có tác
động trực tiếp đến thương mại quốc tế, trong đó có quan hệ Canada - Mỹ.
Thứ hai, sự vươn lên của các quốc gia mới nổi có thể làm tỷ trọng
thương mại và đầu tư giữa hai nước tiếp tục suy giảm. Chẳng hạn như, Trung
Quốc hiện đã trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới và đang tiếp tục khẳng
định vị thế của họ bằng sự mở rộng thương mại và tăng cường đầu tư quốc tế.
Chính sách của Trung Quốc là đầu tư ra nước ngoài đi kèm xuất khẩu lao
động rõ ràng tạo ra mối đe doạ không chỉ về quyền sở hữu tài sản mà còn
tước đoạt cơ hội việc làm của công nhân bản địa.
Hơn nữa, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Mexico đã khiến
nước này ngày càng trở thành một đối thủ cạnh tranh lớn đối với các doanh
nghiệp Canada trong việc giành thị phần ở Mỹ. Mexico cũng đang trở thành
một thị trường xuất khẩu hấp dẫn của Mỹ do dân số đông, tốc độ phát triển
kinh tế nhanh hơn và do vậy nhu cầu tiêu thụ hàng hóa tăng.
4.1.3. Định hướng chính sách thúc đẩy thương mại Canada - Mỹ
Khi xem xét chính sách phát triển quan hệ thương mại Canada - Mỹ
trong tương lai, không thể tách rời thực tế và xu hướng chính trị, các vấn đề
nổi lên là:
- Chương trình nghị sự về biên giới có vai trò quan trọng trong bất cứ
thảo luận nào về trọng tâm của hội nhập kinh tế. Kể từ sự kiện 11/9, việc tổ
chức biên giới đã chuyển từ trạng thái không được chú ý nhiều đã trở thành
129
biểu tượng của chủ quyền và an ninh. Đối với người dân Canada và sự phụ
thuộc kinh tế của họ vào nước Mỹ, biên giới không chỉ là một biểu tượng -
mà đó là phần kết nối quan trọng của mối quan hệ này. Biên giới trở thành
một vấn đề chiến lược vì nếu như biên giới không được kiểm soát hiệu quả và
an toàn, thì triển vọng kinh tế của Canada sẽ không sáng sủa [39], [43]. Vì
thế, việc quản lý các rủi ro ở biên giới, cải thiện cơ sở hạ tầng và từng bước
vận hành tốt hơn là rất cần thiết.
- Cải thiện các cơ chế về biện pháp phòng vệ thương mại và giải quyết
tranh chấp cũng sẽ có khả năng gây bất đồng về chính trị. Trong nhiều cuộc
đàm phán thương mại, Mỹ đã đối mặt với yêu cầu cải cách hệ thống phòng vệ
thương mại của mình. Cả Canada và Mỹ cần xem xét khả năng cải thiện hệ
thống giải quyết tranh chấp hiện tại, khả năng hình thành các thể chế chung
mới và đảm bảo các hệ thống giải quyết tranh chấp vận hành như mục tiêu
ban đầu đặt ra.
- Các nền kinh tế hội nhập hơn có thể có nghĩa là cạnh tranh khốc liệt
hơn đối với việc xác định vị trí các khoản đầu tư và công ăn việc làm và lợi
ích kinh tế ở cả hai nước. Trong hoàn cảnh đó, các áp lực về chủ nghĩa bảo hộ
thường xuất hiện. Một thách thức lớn là làm thế nào để tối thiểu hóa các hành
động chủ nghĩa bảo hộ.
- Chương 16 của NAFTA về kiểm soát việc di chuyển dân cư qua biên
giới, cũng là một vấn đề cần giải quyết. Các nền kinh tế có mức độ hội nhập
cao thì có xu hướng ngày càng tăng khu vực dịch vụ, điều đó đòi hỏi người
dân có thể đi qua biên giới một cách dễ dàng như hàng hóa.
- Thực tế về hội nhập kinh tế có ý nghĩa lan sang cả các vấn đề khác
ngoài chính trị vì tính chất liên kết của nó. Đó là các vấn đề xã hội, y tế, năng
lượng, dược phẩm, thuế, thương mại, an ninh, văn hóa, quốc phòng, hay
chính sách ngoại giao, quan hệ gần gũi hơn về kinh tế chắc chắn có tác động
thêm đối với các lĩnh vực chính sách khác. Khi hội nhập kinh tế tăng, thì việc
cân bằng tất cả các lĩnh vực khác nhau này không dễ dàng chút nào.
- Cuối cùng, tương lai kinh tế của Canada và quan hệ đối tác với Mỹ
đặt ra vấn đề: làm thế nào để Canada duy trì tính cạnh tranh và thu hút đầu tư.
Trong khi Canada có lợi từ sự gần gũi về địa lý đối với nước Mỹ, nhưng
130
Canada cũng dễ dàng bị so sánh với nước Mỹ. Trong các phân tích về năng
suất, tính cạnh tranh, môi trường về thuế và quy định, Canada luôn không có
được so sánh thuận lợi.
Để có được đầy đủ lợi ích từ hội nhập kinh tế thương mại sâu rộng qua
biên giới đòi hỏi cả Canada và Mỹ phải đồng thời giải quyết ba thách thức cơ
bản: giảm thiểu tác động của biên giới (quản lý biên giới); thúc đẩy và hướng
tới hợp tác quản lý; và xây dựng năng lực thể chế cần thiết để giải quyết tốt
hai thách thức trên. Việc giải quyết cả ba thách thức này đều gặp nhiều khó
khăn và cần sự giải quyết phối hợp đồng thời cả ba thách thức đó.
Để quan hệ thương mại trong thời gian tới tiếp tục có những kết quả tốt
đẹp, cả hai nước Canada và Mỹ cần có các chính sách sau:
- Tiếp tục đẩy nhanh tiến trình hội nhập Bắc Mỹ. Xu thế hội nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế của nhau khiến những đòi hỏi về khung pháp lý
thích ứng với phạm vi hội nhập ngày càng cấp thiết. Những yêu cầu mới
không chỉ bao hàm là các cam kết về mở rộng thị trường và thúc đẩy tự do
hoá đầu tư, mà còn yêu cầu về cải cách thể chế, luật lệ để cho tiêu chuẩn phát
triển của các bên xích lại gần nhau hơn [37].
- Thực thi nghiêm chỉnh các cam kết tự do hoá thương mại và đầu tư.
Thực tế cho thấy những cuộc trả đũa thương mại mạnh lên trong quan hệ giữa
hai nước do chính sách bảo hộ sản xuất thông qua kế hoạch “Buy America”
của Mỹ. Nguyên tắc đối xử quốc gia dường như đã bị vi phạm trong trường
hợp này, và điều này có tác động không nhỏ đến quan hệ thương mại đầu tư
giữa hai quốc gia.
- Canada và Mỹ nên chú trọng đến bốn vấn đề chủ chốt: thương mại,
hợp tác quản lý, an ninh năng lượng và môi trường, và vấn đề an ninh biên
giới. Các tiến bộ đáng chú ý trong các lĩnh vực này sẽ có tác động thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng giữa hai nước trong giai đoạn tới [46].
Về định hướng lựa chọn chính sách: Trong thập kỷ qua, nhiều nhóm
chuyên gia cố vấn, giới tư vấn chính sách, học giả, các nhóm doanh nghiệp và
giới hoạch định chính sách đưa ra nhiều đề xuất nhằm đáp ứng mục tiêu lâu
dài của người dân Canada, đó là đảm bảo quan hệ kinh tế tốt đẹp hơn với Mỹ.
Đặc biệt, vụ tấn công khủng bố vào nước Mỹ ngày 11/9/2001 và các hậu quả
131
của nó đã dẫn đến rất nhiều tranh luận ở Canada về mối quan hệ của nước này
với Mỹ, gồm cả tính khả thi hay mong muốn thúc đẩy quá trình hội nhập Bắc
Mỹ. Quy mô hội nhập giữa hai nước được tạo nên nhờ có đường biên giới
chung rộng lớn, trong khi các quan tâm của Mỹ về biên giới Mỹ - Canada tập
trung chủ yếu vào vấn đề an ninh biên giới và nhập cư, thì phạm vi tranh luận
ở Canada rộng lớn hơn nhiều, bao gồm các vấn đề về chủ quyền, tính khả thi
và mong muốn hội nhập hơn về kinh tế với Mỹ [88: tr.21]. Các vấn đề liên
quan đến quan hệ với Mỹ luôn có vai trò quan trọng trong các thảo luận về
chính sách của Canada.
Việc tăng cường hợp tác với Mỹ xung quanh vấn đề biên giới và nhập
cư cũng đã gây ra nhiều tranh luận đối với người dân Canada. Các vấn đề này
liên quan đến quan điểm về hài hòa quy định giữa Canada và Mỹ. Một phần
dư luận Canada lo sợ rằng do chênh lệnh quá lớn về dân số và quyền lực kinh
tế giữa hai nước thì sự cân đối, hài hòa của các qui định về hải quan và nhập
cư chắc chắn dẫn đến việc chấp nhận các tiêu chuẩn, trong đó có chính sách
của Mỹ. Hơn nữa, theo quan điểm này, nếu như Canada chống lại sự hài hòa
đó thì sẽ tác động tiêu cực đến quan hệ kinh tế của họ với Mỹ. Tuy nhiên, các
quan điểm khác cho rằng qui định về biên giới của Canada và Mỹ giống nhau
nhiều hơn là khác biệt và có thể đây là vấn đề hoà hợp nhất giữa hai nước. Vì
thế, phạm vi hợp tác trong các lĩnh vực nhất định về quản lý biên giới có thể
được thông qua do cùng thừa nhận các quy định của nhau.
Một số khác ở Canada nhận thấy bài học từ sự kiện 11/9 là tăng hợp tác
với nước Mỹ vừa cần thiết, vừa không thể tránh được do thực tế của dòng
chảy thương mại của Canada và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế.
Nhưng họ cũng tin rằng sự hội nhập như vậy cần phải được quản lý tốt hơn để
Canada đảm bảo được lợi ích và giữ vững được chủ quyền của mình.
Tranh luận về cách quản lý tốt nhất hội nhập kinh tế giữa Canada và
Mỹ chủ yếu tập trung vào các vấn đề cách thức: chính phủ Canada có nên đề
xuất một sắp xếp mới hay theo đuổi sự thay đổi lớn hơn? Cách thức có ý
nghĩa quan trọng vì nó quyết định mục tiêu có thể thực hiện được. Nếu
Canada quyết định duy trì và tăng cường quan hệ kinh tế của họ với nước Mỹ,
thì kế hoạch nào là có hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu này, trong khi vẫn
132
cho phép Canada duy trì được sự kiểm soát trong nhiều khu vực chính sách
quan trọng?
Mặc dù các đề xuất nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại Canada
- Mỹ có nhiều điểm khác nhau, nhưng đa số nhất trí cần phải có một chiến
lược rõ ràng, chặt chẽ và các yếu tố quan trọng của chiến lược đó. Một vài lựa
chọn về hội nhập kinh tế được đưa ra đã làm dấy lên sự chú ý vào chính sách
của Canada, từ sự hài hòa lớn hơn về quy định đến những lựa chọn dài hạn về
vành đai an ninh, một liên minh thuế quan, một thị trường chung, hay một
liên minh tiền tệ. Những quan điểm này không hề mới và vẫn tiếp tục được
thảo luận cùng với việc tăng cường Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ.
- Làm thế nào để bảo vệ biên giới tự nhiên trong khi vẫn thúc đẩy giao
dịch thương mại
Tiếp cận tự nhiên của Canada đối với thị trường Mỹ đã tạm thời bị gián
đoạn sau sự kiện 11/9, điều này đã dẫn đến một quan ngại lớn là làm thế nào
để bảo vệ được biên giới mà không ảnh hưởng đến các giao dịch thương mại
qua biên giới. Dobson (2002) cho rằng cần phải xây dựng dựa trên một
chương trình nghị sự về biên giới thông minh, bao gồm cả tăng cường an ninh
và tạo điều kiện thuận lợi cho các dòng hàng hóa, con người, vốn và công
nghệ có mức độ rủi ro thấp. Dobson cũng cho rằng hai nước cần đi đến thỏa
thuận về các quy định chung để giải quyết việc nhập cư và hàng hóa từ một
nước thứ ba. Quan điểm này được nhiều người ủng hộ, vì nó làm tăng đầu tư
vào cơ sở hạ tầng và chú ý nhiều hơn đến an ninh.
Một trong những đề xuất giải pháp để bảo vệ biên giới tự nhiên trong
khi vẫn thúc đẩy thương mại là sáng kiến về vành đai an ninh: Nhiều lãnh đạo
doanh nghiệp và những người ủng hộ chính sách của Canada và Mỹ đã nhận
thấy một biện pháp là phải tạo ra một vành đai an toàn cho Bắc Mỹ. Đề xuất
này đáp lại những nghi ngại từ Mỹ về khả năng bị khủng bố từ việc chuyển
các chức năng an ninh từ biên giới đến điểm tiếp xúc đầu tiên của người hay
hàng hóa vào Bắc Mỹ. Các container hàng hóa tại cảng Halifax của Canada
chuyển đến Mỹ sẽ bị kiểm duyệt tại Halifax, chứ không phải tại biên giới
nước Mỹ, vì thế tránh bị ùn tắc hàng hóa tại biên giới. Việc kiểm tra người
nhập cảnh được tiến hành tại điểm xuất phát chứ không phải tại biên giới. Tuy
133
nhiên kiểm duyệt lần cuối tại biên giới cũng cần phải có sự hài hòa về tiêu
chuẩn hay chấp nhận tiêu chuẩn của mỗi bên, chia sẻ thông tin và tin vào các
quy định kiểm tra của nhau. Tất cả các công tác kiểm tra đó sẽ đảm bảo
không có đe dọa khủng bố đối với vành đai an ninh Bắc Mỹ.
- Liên minh thuế quan (Hài hòa các loại thuế quan bên ngoài như một
biện pháp xóa bỏ quy tắc nguồn gốc xuất xứ)
Một biện pháp được đề cập trong phạm vi chính sách liên quan đến
tăng cường liên kết kinh tế của Bắc Mỹ là thành lập một liên minh thuế quan.
Các thành viên trong liên minh thuế quan này thường xóa bỏ các loại thuế
quan cho nhau, và dựng lên hàng rào chống lại các nước khác trên thế giới.
Theo quy định của FTA, và sau đó là NAFTA, hai nước đã xóa bỏ hầu hết các
loại thuế tại biên giới Canada - Mỹ, nên các đề xuất để cải thiện tiếp cận thị
trường tập trung vào việc xóa bỏ các trở ngại từ hàng rào phi thuế quan. Các
trở ngại này chủ yếu là từ yêu cầu về quy tắc về nguồn gốc xuất xứ. Như một
biện pháp để cải thiện tiếp cận thị trường, và là một phần của một sự kiểm
nghiệm về các rào cản tồn tại ở biên giới giữa hai nước, Dobson cho rằng
Canada nên tính toán đến một liên minh hải quan đơn giản, liên minh này sẽ
xóa bỏ được các yêu cầu nguồn gốc xuất xứ tại biên giới thông qua việc thiết
lập một loạt các loại thuế quan chung đối với nước thứ ba.
Tuy nhiên, nhiều người phản đối đề xuất này và cho rằng nên tiếp tục
sử dụng khuôn khổ hiện có mà không theo đuổi bất cứ loại liên minh thuế
quan nào và nhiều người đề nghị nghiên cứu tính khả thi của một liên minh.
Một liên minh thuế quan không bao hàm sự hòa hợp hoặc thừa nhận chung về
các quy định của mỗi quốc gia, vì vậy quy định riêng của mỗi quốc gia vẫn
rất quan trọng. Đa số những người đề xuất đều không sử dụng cụm từ “liên
minh thuế quan”, mà họ cho rằng hai nước nên xóa bỏ các quy tắc về nguồn
gốc xuất xứ và thiết lập một loạt các loại thuế quan chung đối với ít nhất là
vài ngành, xem xét lại quy tắc về nguồn gốc xuất xứ nói chung, hay xóa bỏ
các quy tắc đó khi tỷ lệ thuế quan bên ngoài của Canada và Mỹ gần bằng
nhau [56].
134
- Thị trường chung hay liên minh kinh tế
Liên kết kinh tế sâu rộng hơn trong khu vực Bắc Mỹ có thể hiểu là hình
thành một thị trường chung hay liên minh kinh tế. Một thị trường chung sẽ
làm tăng việc di chuyển tự do về lao động và vốn; bởi vậy, cần phải hài hòa
hay cùng thừa nhận các qui định về nhập cư và đầu tư. Một biện pháp quan
trọng cần được xem xét là cho phép có sự tiếp cận lớn hơn đối với các cơ hội
thu mua chính phủ và các thị trường dịch vụ mở hơn nữa. Cùng với một chính
sách thuế nhất quán và tự do thương mại về hàng hoá và dịch vụ, thì một thị
trường chung cần dòng lao động và vốn tự do. Về điểm này thì sự hài hòa về
các vấn đề đầu tư và nhập cư là vô cùng cần thiết. Mặc dù một số ít người cho
rằng tính lưu động về lao động không phải là một ưu tiên, nhưng chắc chắn
việc xóa bỏ các trở ngại với di chuyển lao động sẽ có lợi cho cả hai nước.
Một dạng liên minh kinh tế như Liên minh châu Âu cũng cần các tiêu
chuẩn được hài hòa và thừa nhận chung. Mặc dù Mỹ và Canada là hai đất
nước phát triển với nhiều tiêu chuẩn giống nhau, nhưng hình thức hội nhập
này vẫn cần được đưa ra và đi đến thống nhất một cách kỹ lưỡng.
- Hài hòa, hay thừa nhận các tiêu chuẩn của nhau: Để giảm hơn nữa
các rào cản đối với tiếp cận thị trường Mỹ, nhiều nhà kinh tế cho rằng Canada
và Mỹ phải cùng chấp nhận các chuẩn chung, điều này bao hàm việc Canada
và Mỹ xóa bỏ các chuẩn riêng và hướng tới một chuẩn mới, hay Canada sẽ
hài hòa các tiêu chuẩn của mình với mô hình Mỹ. Sự thừa nhận lẫn nhau có
nghĩa là hàng hóa sẽ được kiểm tra, xem xét kỹ và chứng thực chỉ một lần
trong toàn bộ thị trường Canada và Mỹ. Nhiều người đề xuất việc hài hòa các
tiêu chuẩn và quy định, tuy nhiên nhiều người lại đề xuất kết hợp cả hai, có
nghĩa Canada và Mỹ nên đồng thời vừa thừa nhận vừa hài hòa các quy định
của nhau. Và nếu làm được điều này thì chắc chắn sẽ giải quyết được nhiều
tranh chấp, bất đồng và thúc đẩy quan hệ kinh tế hai nước phát triển hơn.
- Giải quyết các tranh chấp
Điều đặc biệt đáng lưu ý trong quan hệ thương mại Canada - Mỹ là các
tranh chấp thương mại giữa hai nước chủ yếu là trong các lĩnh vực về tài
nguyên thiên nhiên: như năng lượng, gỗ xẻ mềm… Vì thế có nhiều ý kiến về
việc có nên tìm một giải pháp đặc biệt về lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên
135
[56]? Dobson đề xuất một “khu vực tài nguyên thiên nhiên an toàn” nhằm
giảm các tranh chấp thương mại, đầu tiên là trong lĩnh vực cung cấp năng
lượng, và cùng thừa nhận các cơ chế điều chỉnh của nhau bao gồm cả năng
lượng và các sản phẩm từ rừng. Một số người khác cũng ủng hộ quan điểm
này và kêu gọi hợp tác lớn hơn về năng lượng, bao gồm cả việc xem xét điều
chỉnh môi trường với trao đổi thương mại về dầu, khí gas và điện nhằm xóa
bỏ các cản trở đối với an ninh năng lượng Bắc Mỹ…
- Liên minh tiền tệ
Một thảo luận khác được nhắc đến nhiều trong giới chính sách của
Canada là đề xuất một liên minh tiền tệ với nước Mỹ nhằm giảm chi phí giao
dịch qua biên giới. Đề xuất về liên minh tiền tệ này được thảo luận dưới nhiều
hình thức: Đồng đô la của Canada có thể kết nối giá trị với đô la Mỹ; Canada
có thể chấp nhận đồng đô la Mỹ; hoặc sẽ có đồng tiền chung của riêng khu
vực Bắc Mỹ thay thế cho đô la Mỹ và đô la Canada và có thể cả đồng peso
của Mexico. Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế lại nhận xét đề xuất này không có
triển vọng thành công vì liên minh đó dù có nằm trong lợi ích của Canada
nhưng lại không thuộc quan tâm của Mỹ [56: tr.13].
Những người ủng hộ liên minh tiền tệ cho rằng liên minh này sẽ buộc
Canada có những điều chỉnh cần thiết về cơ cấu, và việc này khiến Canada có
tính cạnh tranh hơn với nước Mỹ. Bằng việc kết nối giá trị hay chấp nhận
ngay lập tức đồng USD, Canada có thể thực hiện cam kết đáng tin cậy để
hướng tới chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ. Khi đó, Canada có thể có lợi từ
chính sách của Mỹ. Hơn nữa, tiết kiệm chi phí giao dịch thương mại có ý
nghĩa quan trọng đối với tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước. Còn
những người phải đối liên minh tiền tệ thì cho rằng liên minh đó sẽ dẫn đến
việc Canada có thể sẽ đánh mất chủ quyền về kinh tế và chính trị. Tuy nhiên,
tất cả các đề xuất về liên minh tiền tệ trên đều khó có thể thực hiện. Một giải
pháp được cho là dễ thực hiện hơn nhằm giảm chi phí giao dịch thương mại
giữa hai nước chính là tăng cường hợp tác tài chính và thường xuyên tổ chức
hội nghị các quan chức ngân hàng trung ương giữa hai nước.
Nhìn chung, do tầm quan trọng của quan hệ thương mại song phương,
cũng như các cơ chế giải quyết tranh chấp vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vì
136
vậy hai bên đều có những định hướng chính sách nhằm thúc đẩy hơn nữa giao
dịch thương mại. Tuy nhiên, một giải pháp tối ưu và khả thi nhất hiện nay là
hai nước nhanh chóng phê chuẩn Hiệp định TPP đã ký kết. Canada và Mỹ có
chung mục đích nhanh chóng đạt được một hiệp định chất lượng cao dựa trên
những cam kết của NAFTA. TPP sẽ thúc đẩy đổi mới và sáng tạo, mang lại
nhiều việc làm cũng như góp phần thúc đẩy đà tăng cường hội nhập giữa hai
nước. Theo phát biểu của Bộ trưởng Thương mại quốc tế Canada, ông Ed
Fast, làm sâu sắc thêm mối quan hệ của Canada trong khu vực châu Á-Thái
Bình Dương là một phần quan trọng của Kế hoạch hành động kinh tế của
Canada để tạo ra công ăn việc làm, tăng trưởng và thịnh vượng. Canada có
một tiếng nói mạnh mẽ trong quá trình đàm phán TPP, và Canada mong muốn
được hợp tác hiệu quả với tất cả các thành viên TPP để thúc đẩy lợi ích của
Canada và đạt được mục tiêu chung. Canada, Mỹ và Mexico cùng gia nhập
TPP sẽ tăng cường quan hệ thương mại, đầu tư và các chuỗi cung ứng giữa
châu Mỹ và châu Á, tạo ra những cơ hội mới cho xuất khẩu của Canada [41].
4.2. Hàm ý đối với Việt Nam
4.2.1. Khái quát quan hệ Việt Nam với Canada và Mỹ
Quan hệ thương mại Canada - Mỹ có tác động tích cực không chỉ đối
với hai nước, mà còn có tác động quan trọng đến sự tăng trưởng chung của
nền kinh tế khu vực Bắc Mỹ và kinh tế toàn cầu. Quan hệ giữa hai nước trong
lĩnh vực thương mại đầu tư đã thúc đẩy sự lưu thông của các luồng vốn, đặc
biệt hợp tác song phương về mặt tài chính giữa Canada và Mỹ trong cuộc
khủng hoảng vừa qua, đã cho thấy tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong
vấn đề tài chính đối với sự thịnh vượng và phát triển của nền kinh tế hai nước
và thế giới.
Trong thập kỷ qua, quan hệ giữa Việt Nam với Canada và Mỹ đều có
những bước tiến vượt bậc, phát triển toàn diện hơn [22], [25]. Việt Nam có vị
trí địa chiến lược quan trọng và có vai trò ngày càng quan trọng trong
ASEAN, nên đều nằm trong tầm quan tâm của cả Canada và Mỹ. Canada và
Mỹ là thành viên của hầu hết các tổ chức, cũng như các khối liên kết kinh tế
khu vực và quốc tế, như WTO, IMF, WB, OECD, NAFTA, G8, APEC... Việt
137
Nam có thể thông qua quan hệ hợp tác kinh tế với Canada và Mỹ để tiếp cận
sâu hơn với các khối kinh tế lớn này.
Đối với Canada, đây là một trong những quốc gia phát triển mạnh nhất
thế giới [11], [15], [20], quan hệ Việt Nam - Canada liên tục được củng cố và
phát triển. Quan hệ giữa hai nước phát triển toàn diện trong tất cả các lĩnh
vực: ngoại giao, kinh tế thương mại, đầu tư, hợp tác giáo dục đào tạo và
nghiên cứu, hỗ trợ phát triển, quan hệ văn hoá… Với Canada, Việt Nam là
đối tác tiềm năng và là nhân tố rất quan trọng trong chính sách đối với khu
vực châu Á của nước này; hơn nữa Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, là
thị trường tiềm năng, điểm đến hấp dẫn về thương mại, đầu tư, khoa học công
nghệ, năng lượng và du lịch đối với Canada. Đối với Việt Nam, Canada là đối
tác lớn của Việt Nam, phát triển quan hệ đối tác toàn diện với Canada trở
thành ưu tiên quan trọng hàng đầu. Về kinh tế, Canada đang trở thành thị
trường lớn cho xuất khẩu của Việt Nam, nguồn FDI, tín dụng lớn và nguồn tài
trợ quan trọng mà Việt Nam có thể tranh thủ để hội nhập nhanh chóng vào
nền kinh tế toàn cầu. Canada có sự ủng hộ sâu rộng và mạnh mẽ đối với Việt
Nam trong lĩnh vực thương mại đa phương nói chung và gia nhập WTO nói
riêng, thực tế Canada là một trong những nước thành viên WTO đầu tiên ủng
hộ và giúp đỡ thiết thực nhất cho việc gia nhập tổ chức này của Việt Nam
những năm trước đây. Canada cũng là một trong những nước viện trợ phát
triển lớn nhất cho Việt Nam.
Đối với Mỹ, trong thập kỷ qua, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đã phát
triển nhanh chóng và sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong quan hệ
kinh tế: Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch
thương mại hai chiều tăng từ gần 1,4 tỉ USD trong năm 2001, lên đến 45 tỉ
USD trong năm 2015 (theo số liệu của Bộ thương mại Mỹ tháng 3/2016).
Tháng 7 năm 2013 hai bên đã chính thức thiết lập quan hệ đối tác toàn diện,
sự kiện này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ lên
tầm cao mới, hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ Việt -
Mỹ trong thời gian tới chắc chắn vẫn sẽ phát triển toàn diện hơn, bởi vì: Với
Việt Nam, quan hệ với Mỹ có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao vị thế
và tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế; còn đối với Mỹ,
138
phát triển quan hệ tốt đẹp với Việt Nam cũng có ý nghĩa ngày càng quan
trọng, với một vị thế ngày càng lớn mạnh trên trường quốc tế, Việt Nam xứng
đáng có một vị trí cao hơn trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, đặc biệt là ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Vì vậy, quan hệ tốt hơn với Việt Nam sẽ
có lợi cho Mỹ trong việc duy trì ảnh hưởng của mình ở khu vực này.
Như vậy, cả Canada và Mỹ đều có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của Việt Nam. Phát triển quan hệ toàn diện với Canada và Mỹ, cùng với
sự ủng hộ và giúp đỡ của hai nước này sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới. Một mối quan hệ tốt đẹp giữa Canada và Mỹ chắc chắn sẽ có những
tác động tích cực đến Việt Nam.
4.2.2. Hàm ý chính sách đối với Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài “Quan hệ thương mại Canada - Mỹ trong
hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, có thể rút ra một số hàm ý đối với Việt Nam
như sau:
- Thứ nhất, với các điều kiện quốc tế, khu vực và điều kiện phát triển
của Việt Nam, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa chính sách cải cách
bên trong về kinh tế, chính trị, theo định hướng mà Đảng và Nhà nước đã
định ra. Đồng thời, hoàn thiện hơn nữa chính sách đối ngoại đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ với tất cả các nước nhằm nâng cao trình độ và chất
lượng phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam, rút ngắn khoảng cách với
các nước trên thế giới, đặc biệt tăng cường hơn nữa các mối quan hệ chính trị,
kinh tế cùng có lợi với Canada và Mỹ, vì cả hai nước đều có vai trò quan trọng
đối với phát triển kinh tế của Việt Nam.
Về kinh tế thương mại, thúc đẩy quan hệ với hai nước theo hướng chú
trọng học hỏi kinh nghiệm quản lý hiệu quả và công nghệ cao, đẩy mạnh quan
hệ thương mại hàng hóa và dịch vụ với cả Canada và Mỹ, vì đây là hai thị
trường rất lớn với sức tiêu thụ cao cũng như có tiềm lực kinh tế mạnh. Đặc
biệt hai nước đều có nhu cầu cao đối với nhiều mặt hàng của Việt Nam, chẳng
hạn như hàng thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm thủy, hải sản.
Trong lĩnh vực đầu tư, Việt Nam cũng cần có những chính sách đặc
biệt để tranh thủ thu hút các nguồn lực đầu tư dồi dào của cả hai nền kinh tế
139
này cho phát triển đất nước. Vì như trên đã đề cập, cả Canada và Mỹ đều là
hai nền kinh tế phát triển, có trình độ khoa học công nghệ và quản lý kinh tế
tiên tiến, cho nên nếu thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp, cũng
như hỗ trợ tài chính của hai nước này, Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp thu được
nhiều công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn, chứ không phải miễn cưỡng chấp
nhận công nghệ cũ, gây ô nhiễm môi trường như khi tiếp nhận đầu tư của một
số nước đang phát triển thời gian qua.
Hơn thế nữa, Canada và Mỹ đều là các nước có viện trợ, hỗ trợ phát
triển chính thức hàng đầu cho Việt Nam, vì thế Việt Nam cần thúc đẩy quan
hệ với cả hai nước để ngày càng có nhiều các khoản viện trợ quý giá này.
Triển vọng phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - Canada, Việt Nam -
Hoa Kỳ nói riêng, các mối quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung
tùy thuộc rất nhiều vào công tác xúc tiến thương mại và đầu tư, quảng bá hình
ảnh và thông tin cập nhật giữa các nước. Đối với Việt Nam, để có thể đứng
vững và mở rộng thị phần trên thị trường Canada và Mỹ, vấn đề quan trọng là
cần nâng cao tính cạnh tranh và đa dạng hóa các chủng loại hàng xuất khẩu,
chú trọng vào các mặt hàng cao cấp, chất lượng và giá trị gia tăng cao. Đồng
thời tăng cường tính chuyên nghiệp của các hoạt động xúc tiến thương mại và
đầu tư, thiết lập mạng lưới quan hệ hữu hiệu, nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi
thông tin thương mại nhanh và chính xác cho các doanh nghiệp.
Nhằm tiếp tục phát triển các mối quan hệ thương mại quốc tế và các
mối quan hệ với Canada, Mỹ cũng như với các nước láng giềng nhiều tiềm
năng của Việt Nam là Trung Quốc nói riêng, Việt Nam cần thực thi một số
biện pháp như: Tiếp tục cải cách kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, cơ
sở hạ tầng kinh tế, minh bạch hoá chính sách; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc
tế, tạo sức thu hút lớn hơn từ hiệu ứng lan tỏa thị trường trong các liên kết
kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực hội nhập, tích cực cùng với
Mỹ và nhiều nước thành viên tham gia đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế
chiến lược xuyên Thái Bình Dương, FTA với EU, FTA với các nước trong
Liên minh thuế quan; tích cực thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về tự
do hoá thương mại và đầu tư, đặc biệt là các hiệp định khu vực.
140
- Thứ hai, Canada và Mỹ có quan hệ kinh tế thương mại lớn bậc nhất
thế giới. Canada đã khai thác được nguồn lực vật chất hùng hậu của Mỹ để
phục vụ cho những mục tiêu chiến lược của mình, đặc biệt là mục tiêu phát
triển kinh tế. Các bài học của Canada trong ứng xử quan hệ với Mỹ có ý
nghĩa thực tiễn rất lớn đối với tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là đối với
các nước vừa và nhỏ trong việc xử lý quan hệ với các nước lớn. Áp dụng bài
học này trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam cần luôn tích cực và tranh thủ mọi
cơ hội để thúc đẩy quan hệ với các nước khác, trong khi đó vẫn phải “đấu
tranh” để cạnh tranh, chống lại các áp đặt và bảo hộ thương mại của các nước
trong quan hệ thương mại.
Những bài học kinh nghiệm của Canada trong xử lý quan hệ thương mại
với Mỹ cũng chính là bài học mà Việt Nam cần tham khảo để mở rộng quan
hệ kinh tế với Canada, Mỹ và nhiều nước khác, trong đó có quan hệ đối với
Trung Quốc. Tuy nhiên, do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị
cụ thể quy định, nên Việt Nam khó có thể áp dụng hoàn toàn các bài học như
các bài học kinh nghiệm của Canada trong xử lý quan hệ với Mỹ, nhất là vì cả
Mỹ và Canada đều là hai nước luôn có tinh thần tuân thủ nghiêm túc luật
pháp, và Canada đã là một nước có nền kinh tế phát triển rất cao. Mối quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc có những đặc điểm riêng về nhiều mặt khác mối quan
hệ Canada - Mỹ, nhưng ở một chừng mực nào đó chúng ta vẫn có thể vận
dụng tốt luật pháp quốc tế và nhanh chóng cùng Trung Quốc thiết lập cơ sở
pháp lý cho quan hệ kinh tế giữa hai nước (có thể học tập và mời chuyên gia
luật pháp Canada và Mỹ trợ giúp). Trong quan hệ Canada - Mỹ, Canada đã áp
dụng rất tốt và hiệu quả biện pháp vận động hàng lang (lobby), các lãnh sự
quán Canada trực tiếp vận động hành lang chính quyền các bang, các thủ phủ,
nhóm lợi ích, phương tiện truyền thông, mở rộng và áp dụng ràng buộc về
luật pháp giữa hai nước, cũng như những ràng buộc thông qua các FTA, trước
đây là FTA song phương Canada - Mỹ, và hiện nay là NAFTA, cũng như
trong hiệp định TPP sắp tới.
- Thứ ba, về vấn đề tranh chấp và giải quyết thương mại: Việt Nam cần
học tập bài học kinh nghiệm của quan hệ kinh tế thương mại Canada - Mỹ,
trong đó, hai nước có mối quan hệ thương mại thành công nhất thế giới với tỷ
141
lệ tranh chấp thương mại rất thấp. Sở dĩ như vậy là do Canada và Mỹ đã có hệ
thống luật pháp hoàn thiện liên tục để đáp ứng thực tiễn quan hệ kinh tế
thương mại phát triển nhanh chóng của hai nước. Canada luôn xác định cơ
chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, có tính ràng buộc là giải pháp tối ưu trong
giải quyết an ninh tiếp cận, vì thế giải quyết tranh chấp trở thành một điều
kiện tiên quyết đối với Canada trong các cuộc đàm phán Hiệp định FTA.
Trong các tranh chấp thương mại với Mỹ, Canada đã vận dụng triệt để các
quy định song phương, quy định của NAFTA, WTO, hoặc trong các trường
hợp cụ thể có thể ký kết các hiệp định chung, ví dụ như trong trường hợp
tranh chấp nông nghiệp, gỗ xẻ mềm…
Dựa trên kinh nghiệm này, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính sách, hành lang pháp lý tạo thuận lợi tối đa cho xuất khẩu, cơ
chế quản lý ngoại thương phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa nhất quán với
điều kiện phát triển của Việt Nam. Trong quá trình đàm phán hiệp định
thương mại song phương với các nước đối tác, Việt Nam cũng nên chú trọng
đến đàm phán các giải pháp giải quyết tranh chấp chặt chẽ, hoặc ký kết các
hiệp định trong từng lĩnh vực cụ thể trong trường hợp cần thiết.
Trong mối quan hệ thương mại với Mỹ nói riêng và các nước lớn nói
chung, Việt Nam phải đương đầu với nhiều tranh chấp thương mại. Cùng với
việc mở cửa nền kinh tế, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới, với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, các loại hàng
hóa của Việt Nam đã có mặt ở hầu khắp các thị trường trên thế giới, đem lại
giá trị kinh tế lớn. Tuy nhiên, cùng với những thành công đó, Việt Nam cũng
phải đối mặt với những biện pháp phòng vệ thương mại được sử dụng ở nhiều
nước, gây thiệt hại lớn và lâu dài đến xuất khẩu của Việt Nam. Trong thực tế
hoạt động ngoại thương, chắc chắn việc bị kiện bán phá giá, hay trợ cấp sẽ
còn diễn tiến phức tạp.
Trước thực trạng đó, Nhà nước, các địa phương, Hiệp hội ngành hàng
và nhất là bản thân các doanh nghiệp phải tích cực, chủ động đối phó để mở
rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam.
Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài đối với Việt Nam là cần học tập kinh
nghiệm từ quan hệ thương mại Canada - Mỹ để xây dựng và hoàn thiện pháp
142
luật về phòng vệ thương mại nói chung và pháp luật về chống bán phá giá nói
riêng để vừa đảm bảo ngăn chặn và xử lý các hành vi bán phá giá của hàng
nhập khẩu nước ngoài nhằm bảo vệ thị trường nội địa, đồng thời đấu tranh
chống lại sự lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất
khẩu của Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần tìm kiếm các biện pháp tăng cường sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp xuất khẩu để ngăn chặn và hạn chế những biện pháp
phòng hộ thương mại nhằm đối xử phân biệt, hoặc hạn chế hàng xuất khẩu từ
Việt Nam, hạn chế được sự bất lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam khi bị
các nước nhập khẩu xem xét vấn đề có áp dụng các biện pháp phòng hộ
thương mại hay không. Đặc biệt, trong các thỏa thuận thương mại quốc tế,
Việt Nam cũng cần có những thỏa thuận thích đáng về các vấn đề tự vệ
thương mại, trợ cấp chính phủ và bán phá giá, trên cơ sở các chuẩn mực
thương mại quốc tế, tránh tình trạng để bên ký kết nước ngoài tự do đơn
phương áp dụng pháp luật của họ.
- Thứ tư, nền kinh tế Canada không chỉ phụ thuộc mạnh mẽ vào Mỹ về
khai thác mỏ hoặc xuất khẩu dầu, mà còn phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu,
vốn hay thậm chí là công nghệ. Nhưng Canada không “đánh mất chính mình”
do hai nguyên nhân khác nhau [159]: Thứ nhất, không giống như nhiều quốc
gia sản xuất tài nguyên thiên nhiên khác, Canada đã quản lý mối quan hệ với
nước Mỹ vì lợi ích tốt nhất của mình; thứ hai, Canada luôn nỗ lực tận dụng
các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên phong phú để phát triển một nền kinh tế
hiện đại và mang lại mức sống cao cho người dân. Đúng theo nhận định của
Pierre Elliott Trudeau: “Canada sống tốt với người hàng xóm Mỹ và phát
triển một mối quan hệ đặc biệt với họ trong khi vẫn phát huy các giá trị, lợi
ích và sự độc lập tự chủ của mình” [35]. Về hai mặt thống nhất và mâu thuẫn
trong mối quan hệ Canada - Mỹ, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Canada
Allan Gotlied cũng đã nhận xét “mối quan tâm quốc gia bao trùm là làm sao
hạn chế được quyền lực của Mỹ đối với vận mệnh quốc gia trong khi tranh
thủ tối đa lợi thế từ sự gần gũi của chúng ta với Mỹ” [31], nhằm phục vụ “ba
mục tiêu lớn xuyên suốt là kiểm soát đối với lãnh thổ và tài nguyên, đoàn kết
dân tộc, và đường tiếp cận kinh tế chắc chắn hơn đến các thị trường nước
143
ngoài, đặc biệt là Mỹ” [33]. Đây là một bài học quý báu, từ kinh nghiệm này
của Canada, Việt Nam cũng cần xây dựng khuôn khổ quan hệ hòa bình, hợp
tác, ổn định với các nước láng giềng nói chung, với Trung Quốc nói riêng; tạo
ra lợi ích đan xen để phát huy lợi thế của Việt Nam và tranh thủ tối đa lợi thế
từ sự gần gũi với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.
- Thứ năm, vận dụng tốt chủ nghĩa đa phương, cụ thể trong lĩnh vực
thương mại thì đó là NAFTA, WTO như một đối trọng với Mỹ là yếu tố quan
trọng trong chính sách thương mại quốc tế của Canada. Ví dụ điển hình như
trong trường hợp bất đồng Canada - Mỹ liên quan đến nguồn gốc xuất xứ, về
sở hữu trí tuệ và gỗ xẻ mềm, Canada đã vận dụng triệt để các quy định của
WTO để giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này. Áp dụng với Việt Nam,
Việt Nam cũng là một thành viên tích cực của WTO cũng như các liên kết
kinh tế chính trị trong ASEAN, vì vậy cần hiểu rõ, vận dụng tốt các cơ chế,
luật thương mại trong các hiệp định này để giải quyết hiệu quả các tranh chấp,
bất đồng trong quan hệ thương mại với các nước láng giềng nói riêng, trong
các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung.
- Thứ sáu, về việc tham gia đàm phán, ký kết và phê chuẩn TPP:
Việc gia nhập TPP mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho Việt Nam. Lợi
ích ở thị trường các nước đối tác TPP mà Việt Nam có thể tận dụng từ TPP
thể hiện ở hai hình thức chủ yếu: Lợi ích thuế quan (đối với thương mại hàng
hóa) và lợi ích tiếp cận thị trường. Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để tiếp cận sản
phẩm chất lượng tốt, thu hút công nghệ nguồn từ Mỹ, Canada và các nước
phát triển trong tổ chức này với giá rẻ thay vì phải nhập khẩu công nghệ lạc
hậu từ các nước láng giềng. Hơn nữa, việc tham gia TPP cũng sẽ giúp Việt
Nam giảm được sự lệ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc như hiện
nay.
Chính vì các tác động tích cực trên, để thu được lợi ích kinh tế từ việc
tham gia hiệp ước thương mại và đầu tư này, Việt Nam cần phải mở cửa các
thị trường hàng hoá, dịch vụ và đáp ứng những tiêu chuẩn cao trong một loạt
lĩnh vực, bao gồm việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, sự minh bạch và công
khai trong thông lệ mua sắm của chính phủ, việc thắt chặt ưu đãi dành cho các
doanh nghiệp nhà nước, tự do hoá thông tin, các biện pháp bảo hộ lao động
144
hữu hiệu dành cho công nhân. Việt Nam cần tranh thủ sự hỗ trợ tích cực từ
phía Canada và Mỹ để giải quyết một loạt vấn đề thương mại và đầu tư mới
nằm trong nghị trình đàm phán của TPP và nhằm giữ đà cho những cải cách
thị trường, hiện đại hoá và hội nhập của Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam cũng
có thể đặt vấn đề với Mỹ về việc công nhận nền kinh tế thị trường cho Việt
Nam, đây là một điều rất khó đạt được nếu Việt Nam đàm phán song phương
với Mỹ, đây là một trong các bài toán hóc búa mà theo quan điểm của nhiều
nhà kinh tế chỉ ở một diễn đàn đa phương như đàm phán TPP mới có thể có
kết quả.
- Thứ bảy, kinh nghiệm từ việc Canada quá phụ thuộc vào thị trường
Mỹ, nền kinh tế nước này rất dễ bị tổn thương với các bất ổn kinh tế từ nước
Mỹ, Việt Nam cần xác định không quá phụ thuộc vào một thị trường nào đó.
Để làm được điều đó, một mặt Việt Nam tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu các mặt
hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao tại các thị trường truyền
thống, mặt khác luôn mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Đặc biệt,
việc đẩy mạnh việc ký kết các hiệp định thương mại tự do không chỉ mở ra cơ
hội phát triển mà còn là thời cơ để Việt Nam giảm bớt và thoát khỏi tình trạng
quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
TIỂU KẾT
Quan hệ thương mại Canada - Mỹ từ nay đến 2020 và đến giai đoạn
2030 có nhiều triển vọng tiếp tục phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn sẽ có
những khó khăn gây thách thức đến quan hệ thương mại song phương.
Vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt nguồn từ Mỹ đã có tác
động lớn đến nền kinh tế Canada do kinh tế Canada liên kết chặt chẽ với kinh
tế Mỹ cả về thể chế theo định hướng thị trường lẫn mô hình sản xuất. Trong
thời gian tới, khi mà kinh tế Mỹ chưa thực sự khởi sắc thì chắc chắn kinh tế
Canada, đặc biệt là lĩnh vực thương mại sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực. Hơn
thế nữa, do lực lượng so sánh giữa hai nước quá chênh lệch nên đây cũng là
điều bất lợi đối với Canada trong quan hệ thương mại với Mỹ. Bằng chứng rõ
ràng nhất cho nhận định này là tất cả các bất đồng, tranh chấp thương mại
giữa hai nước đều bắt nguồn từ phía Mỹ.
145
Nhiều tranh chấp thương mại giữa hai nước đã được giải quyết triệt để
trong những năm gần đây, ví dụ như trong mặt hàng nông sản: cà chua, thịt
lợn, các sản phẩm từ sữa, lúa mì; thép; và giải quyết được một phần tranh cãi
về điều khoản mua hàng Mỹ, gỗ xẻ mềm…tuy nhiên, vẫn có những bất đồng
lớn tác động đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ, trong đó vấn đề chính nổi
lên hiện nay là việc trì hoãn xây dựng đường ống dẫn dầu Keystone XL. Do
cơ chế giải quyết tranh chấp Canada - Mỹ vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vì
vậy hai bên đều có những đề xuất, định hướng chính sách nhằm thúc đẩy hơn
nữa giao dịch thương mại, trong đó việc hai nước cùng tham gia đàm phán,ký
kết hiệp định TPP được coi là một giải pháp tối ưu nhất.
Qua nghiên cứu quan hệ thương mại Canada, luận án đã rút ra một số
hàm ý chính sách cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung, phát triển quan hệ với Canada, Mỹ và các nước láng giềng nói riêng.
Trong đó, lưu ý là Canada và Mỹ không có chính sách khung lớn cho quan hệ
thương mại giữa hai nước mà chỉ có những chính sách riêng đối với từng lĩnh
vực cụ thể, điều này ngược với xu thế quan hệ thương mại chung: là đi từ
những hiệp định Khung đến những chính sách cụ thể. Việt Nam có thể học
cách tiến hành mối quan hệ này giữa Canada và Mỹ để áp dụng trong quan hệ
thương mại với Trung Quốc.
Thời gian tới, Việt Nam nên chú trọng đến việc nghiên cứu các nước
trong khu vực châu Mỹ, nghiên cứu về Canada và Mỹ để rút ra kinh nghiệm
phát triển của các nước đó. Hơn nữa, nghiên cứu ấy giúp chúng ta hiểu rõ
được văn hóa kinh doanh của những nước đó, giúp Việt Nam có những
phương cách tốt hơn để phát triển quan hệ kinh tế với họ.
146
KẾT LUẬN
Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, có thể thấy vấn đề toàn cầu hóa, khu vực
hóa vẫn luôn tác động lớn đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ. Sự tăng tốc
của quá trình toàn cầu hoá đặt các doanh nghiệp, các nhà đầu tư hai nước
trước nhiều sự lựa chọn. Xu thế đa dạng hóa đối tác thương mại được các
nước thực thi khá rõ trong thời gian qua, đây là một tất yếu khi quá trình toàn
cầu hoá gia tăng tác động. Chính vì thế, sự điều chỉnh trong chính sách
thương mại đã diễn ra ở cả Canada và Mỹ. Điều này dẫn tới thực tế là tỷ trọng
quan hệ kinh tế thương mại giữa hai bên suy giảm do chia sẻ lợi ích với các
nước, các khu vực khác. Sự kiện 11/9/2001 cũng như cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008 là các nhân tố mới tác động mạnh đến quan hệ thương
mại giữa hai nước trong giai đoạn 2001 đến nay. Các sự kiện này cho thấy gia
tăng hợp tác với Mỹ vừa cần thiết, vừa không thể tránh được, do thực tế dòng
chảy thương mại của Canada và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế.
NAFTA có tác động mạnh đến quan hệ Canada - Mỹ. Hội nhập Bắc
Mỹ đã diễn ra khá thuận lợi với việc các nước thành viên thực thi nghiêm túc
các nội dung và lộ trình của NAFTA. Tuy nhiên sau hơn 20 năm thực hiện,
ngày càng có nhiều ý kiến phàn nàn về rạn nứt của NAFTA, do sự gia tăng
của xu hướng bảo hộ mậu dịch, sự chật hẹp của các điều khoản NAFTA hiện
tại. Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Mexico đã khiến
nước này ngày càng trở thành một đối thủ cạnh tranh lớn đối với các doanh
nghiệp Canada trong việc giành thị phần ở Mỹ, Mexico cũng đang trở thành
một thị trường xuất khẩu hấp dẫn của Mỹ do dân số đông, kinh tế phát triển
nhanh hơn và do vậy nhu cầu tiêu thụ hàng hóa tăng. Đó là một trong những
yếu tố khách quan quan trọng mà chính quyền Canada phải tính đến khi quan
hệ thương mại Canada - Mỹ vẫn có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự phát
triển của nước này.
Quy mô hội nhập giữa hai nước được thể hiện rõ nét nhất trong lĩnh
vực quan hệ kinh tế thương mại. Canada là điểm đến lý tưởng đối với xuất
khẩu và đầu tư của các công ty Mỹ, ngược lại Mỹ cũng chính là thị trường
hoàn hảo đối với các nhà xuất khẩu Canada. Mỹ là đối tác thương mại lớn
147
nhất của Canada và sức khỏe của nền kinh tế Mỹ có tác động lớn đến nền
kinh tế và thị trường của Canada. Nền kinh tế Canada và Mỹ có mức độ hội
nhập cao, có tính bổ sung trong các ngành nghề sản xuất. Theo Bộ Công
nghiệp Canada thì thương mại Canada - Mỹ có mức độ hội nhập tương đối
cao, với nhiều sản phẩm phải qua lại biên giới của nhau đến 8 lần trước khi
được hoàn thiện.
Có thể khẳng định đây là một trong các quan hệ kinh tế thương mại lớn
nhất, thành công nhất thế giới, bởi quy mô trao đổi thương mại rất lớn, nhưng
chỉ xảy ra rất ít các tranh chấp. Điều này cũng thể hiện đặc thù trong quan hệ
thương mại giữa hai nước, đó là thương mại vừa có tính bổ sung, vừa phát
triển thương mại nội ngành và do cơ chế chia sẻ lợi ích, nên ít có tranh chấp,
bất đồng. Hơn nữa, các bất đồng đó không tác động nhiều đến quan hệ giữa
hai nước. Sở dĩ có được điều này là do hai nước có sự tương đồng về thể chế
(cả thể chế chính thức và phi chính thức). Trong quan hệ kinh tế quốc tế, quan
hệ với Mỹ được đặt lên vị trí hàng đầu và quan trọng nhất đối với Canada. Do
đặc điểm liền kề, hai nước có quan hệ mật thiết ở tất cả các lĩnh vực, Canada
đã tranh thủ được lợi thế không chỉ về kinh tế mà còn để bảo vệ chính trị.
Về cơ chế hội nhập (hợp tác thương mại) giữa Canada và Mỹ: Hội
nhập Canada - Mỹ thiếu một cơ sở hạ tầng về thể chế để quản lý quan hệ
phức tạp và đa dạng này. Hội nhập Canada - Mỹ chủ yếu được định hướng
bởi các lực lượng thị trường, đó là: sự gần gũi về địa lý, lựa chọn của người
tiêu dùng, ưu đãi đầu tư, và hành vi doanh nghiệp chứ không phải do tác động
từ chính phủ [106: tr.13]. Chính sách của Chính phủ chủ yếu liên quan đến
các nỗ lực giải quyết những vấn đề phát sinh từ hội nhập theo định hướng thị
trường. Không giống với Liên minh châu Âu - liên minh này hướng tới hội
nhập thông qua việc thiết lập nên các thể chế siêu quốc gia với các mục tiêu
và ưu tiên hội nhập rõ ràng - quan hệ Canada - Mỹ tương đối kém chính thức
và tuyệt đối [38]. Thương mại được quản lý dưới FTA và NAFTA, WTO và
hàng loạt các thỏa thuận kinh doanh song phương khác với các lĩnh vực cùng
quan tâm.
Một yếu tố vô cùng quan trọng dẫn đến thành công trong quan hệ
thương mại Canada - Mỹ là hai nước cùng xác định mục tiêu của mối quan hệ
148
này là nhằm tăng cường tính cạnh tranh của hai nước nói riêng và của khu
vực Bắc Mỹ nói chung trong nền kinh tế toàn cầu. Mục tiêu này đặc biệt được
xác định trong sáng kiến An ninh và thịnh vượng châu Mỹ. Một điểm đặc biệt
phải kể đến trong quan hệ này là Canada và Mỹ không cạnh tranh với nhau
quá gay gắt vì hai nước cùng hợp tác để Bắc Mỹ có tính cạnh tranh hơn trên
thế giới [154: tr.2].
Mặc dù vậy, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong cơ chế giải quyết tranh
chấp, từ các hạn chế đó, nhiều nhà kinh tế chỉ ra rằng, Canada và Mỹ sẽ đạt
được thành công lớn nhất về quan hệ thương mại khi hai nước có được sự hài
hòa và cùng thừa nhận các tiêu chuẩn về quy định và giảm, hay xóa bỏ các
rào cản thuế quan còn tồn tại. Việc hai nước cùng tham gia đàm phán, ký kết
hiệp định TPP (5/10/2015) và thúc đẩy việc phê chuẩn hiệp định này là một
trong những giải pháp tối ưu để giải quyết các hạn chế trên. Hơn nữa, điểm
tích cực của quan hệ Canada - Mỹ là luôn vượt lên trên tính tiêu cực và giúp
hai quốc gia đoàn kết để vượt qua. Đây là điểm sáng giúp cho quan hệ thương
mại Canada - Mỹ có triển vọng phát triển tốt đẹp.
So với thập kỷ trước đó (những năm 1990), tuy tỷ trọng trong tổng kim
ngạch thương mại Canada - Mỹ suy giảm, nhưng nhìn chung trong thập kỷ
qua kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều không ngừng tăng nhanh, đóng góp
lớn vào phát triển kinh tế hai nước, Mỹ vẫn là đối tác thương mại quan trọng
hàng đầu của Canada. Đây vẫn là mối quan hệ thương mại luôn có tính không
đối xứng [123: tr.8], đặc biệt thể hiện ở tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu
của Canada từ Mỹ luôn ở mức rất cao; trong khi đó tỷ trọng kim ngạch xuất
nhập khẩu của Mỹ từ Canada thấp hơn nhiều. Các đặc điểm về kim ngạch, cơ
cấu xuất khẩu không có nhiều thay đổi so với thập kỷ trước, thay đổi nổi bật
nhất về cơ cấu giao dịch là năng lượng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong
giao dịch thương mại giữa hai nước.
Quan hệ thương mại song phương giữa Canada và Mỹ trong giai đoạn
tới vẫn tiếp tục phát triển dựa trên cả lịch sử quan hệ lâu dài giữa hai nước,
địa lý có chung đường biên giới, quan hệ chính trị tốt đẹp… là những yếu tố
thuận lợi cho giao thương kinh tế hai nước phát triển mạnh mẽ. Tổng thống
Barack Obama từng nhận định rằng không có hai quốc gia nào gắn bó với
149
nhau chặt chẽ hơn, hoặc có sự đan xen sâu sắc về kinh tế, văn hóa hơn là Mỹ
và Canada. Trong chuyến thăm chính thức Mỹ vào tháng 3/2016, Tân Thủ
tướng Canada Justin Trudeau cũng khẳng định hai nước vẫn hợp nhất là đồng
minh và đối tác, trong cùng một mục đích chung, không có mối quan hệ nào
trên thế giới như mối quan hệ giữa Canada và Mỹ.
Quan hệ thương mại này có vai trò quan trọng đối với sự thịnh vượng
của cả hai nước. Sự mở rộng hơn nữa quan hệ thương mại Canada - Mỹ sẽ
chịu tác động mạnh bởi triển vọng tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế
Canada và kinh tế Mỹ. Trong bối cảnh tự do hóa thương mại đang phát triển
mạnh mẽ, trong gian đoạn tới quan hệ thương mại Canada - Mỹ có cơ hội
bùng nổ hơn nữa, và vẫn là mối quan hệ thương mại bền vững, phát triển nhất
thế giới.
Hai nền kinh tế hội nhập của Canada và Mỹ buộc hai nước phải đảm
bảo các biện pháp an ninh biên giới không trở thành một trở ngại đối với hàng
triệu lượt người và hàng tỷ đôla giá trị trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai
bên. Vì thế, biện pháp quan trọng để tăng cường hội nhập kinh tế thương mại
giữa hai nước trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai, trước hết bắt
đầu từ cấp độ an ninh: “Canada có mối quan hệ thương mại song phương lớn
nhất và quan trọng nhất thế giới, và họ cần phải phấn đấu tạo điều kiện cho
dòng chảy chính đáng của hàng hóa và người, và an ninh là điều cần thiết để
duy trì và thúc đẩy quan hệ song phương” [160]. Canada không thể đòi hỏi
một vị trí đặc quyền về thương mại với nước Mỹ, mà không cùng hợp tác giải
quyết các thách thức an ninh chung. Ngược lại, Mỹ không thể đối xử với
Canada như tất cả các nước khác, nếu như hai nước láng giềng này hội nhập
hoàn toàn trong một khuôn khổ an ninh và quốc phòng Bắc Mỹ. Một khi
Canada và Mỹ có được một đánh giá chung về mối đe dọa, họ có thể chú
trọng vào các chính sách chung để quản lý lãnh thổ của cả hai nước. Khi hai
nước có cơ chế an ninh thích hợp, giảm được chi phí và thời gian giao dịch
qua biên giới, thì trao đổi thương mại giữa hai nước có thể hưng thịnh hơn
nhiều, làm gia tăng du lịch, và đảm bảo được thịnh vượng trong tương lai.
150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Lê Thị Thu (2010), “Tiến trình liên kết kinh tế khu vực châu Mỹ”,
Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 9.
2. Lê Thị Thu (2012a), “Kinh tế Canada năm 2011 và triển vọng”, Tạp
chí châu Mỹ ngày nay, số 2.
3. Lê Thị Thu (2012b), “Một số nhân tố tác động đến quan hệ thương
mại Canada-Mỹ trong thập kỷ qua”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 3.
4. Lê Thị Thu (2012c), “Thực trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ
trong thập kỷ qua”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 10.
5. Lê Thị Thu (2013), “Kinh tế Canada sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 6.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Albert Legault (2008), “Canada: Người khổng lồ bằng giấy về năng
lượng”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Số 3/2008, trang 50-54.
2. Bộ Ngoại giao (2006), Quan hệ Canada - Mỹ: Những bài học kinh
nghiệm, Học viện quan hệ quốc tế, Hà Nội.
3. Christina Sevilla (Phó trợ lý Đại diện Thương mại Hoa Kỳ phụ trách
quan hệ công chúng và hợp tác liên chính phủ) (2007): “Tại sao cần
phải tự do hoá thương mại?” Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa
Kỳ, tháng 1/2007
4. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (đồng chủ biên) (2012), Giáo
trình Kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
5. Hoàng Thị Chỉnh, Nguyễn Phú Tụ, Nguyễn Hữu Lộc (1998), Giáo
trình Kinh tế Quốc tế, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà nội.
6. Tô Xuân Dân (1995), Giáo trình kinh tế học quốc tế, Nhà xuất bản
Giáo dục.
7. Diane Brady (2004), “Làm thế nào để biến Canada trở thành một nước
hùng mạnh”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Số 3/2004, trang 47 - 49.
8. Nguyễn Văn Hòe, Nguyễn Văn Tuấn (đồng chủ biên) (2007), Giáo
trình thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà
Nội.
9. John H. Jackson (2001), Hệ thống thương mại thế giới - Luật và chính
sách về các quan hệ kinh tế quốc tế, Dịch giả: Phạm Viêm Phương,
Huỳnh Văn Thanh, Nhà xuất bản Thanh Niên.
10. Cù Chí Lợi (chủ biên) (2012), Mạng sản xuất toàn cầu và sự tham gia
của các ngành công nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Mạnh (2008), “Canada: Một nền kinh tế thịnh vượng và
phát triển”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Số 6, trang 20 - 26.
12. Nguyễn Tuấn Minh (2013), “Quan hệ kinh tế xuyên biên giới Mỹ -
Canada”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 11, trang 12-20.
13. Bùi Thành Nam (2014), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Mỹ tại
Canada - Thực trạng và vấn đề”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 8, trang
9-17.
152
14. Bùi Thành Nam (2015), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Canada tại
Mỹ: Tác động và xu hướng”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 3, trang 3-
11.
15. Trịnh Trọng Nghĩa (2005), “Canada - Bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp
chí châu Mỹ ngày nay, Số 2, trang 3 -12.
16. Nhập siêu từ Trung Quốc gần 29 tỷ USD trong năm 2014 (2014),
http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2014-12-29
17. Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld (1996): Kinh tế học quốc tế - Lý
thuyết và chính sách, tập I - bản dịch, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. “Quan hệ Mỹ - Canada xung quanh vấn đề biên giới” (2009), Tài liệu
tham khảo đặc biệt ngày 20/01, trang 11 - 14.
19. Quyền lực kinh tế Mỹ đang suy giảm, (theo BBC), 5/10/2009.
http://en.infotv.vn/quoc-te/37984-quyen-luc-kinh-te-my-dang-suy-giam
20. Nguyễn Thiết Sơn (2002), “Canada - nền kinh tế phát triển cao của thế
kỷ XXI”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Số 7, trang 3 - 6.
21. Nguyễn Thiết Sơn (2003) (chủ biên), Các công ty xuyên quốc gia: Khái
niệm, đặc trưng và những biểu hiện mới, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
22. Nguyễn Thiết Sơn (2008), “Quan hệ Việt Nam - Canada phát triển
vững chắc trong thế kỷ mới”, T/c châu Mỹ ngày nay, Số 6/2008, trang 3
- 10.
23. Nguyễn Xuân Trung (2004), “Một số tác động của NAFTA đến kinh tế
Canada”, T/c châu Mỹ ngày nay, Số 7, trang 14 - 22.
24. Nguyễn Khánh Vân (2008), “Quan hệ năng lượng Canada - Mỹ”, T/c
châu Mỹ ngày nay, Số 7, trang 50 - 54.
25. Trần Thị Vinh (2008), “Quan hệ Việt Nam - Canada (1954 - 2008)
Lịch sử và triển vọng”, http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn
II. Tài liệu tiếng Anh
26. Alan S. Alexandroff and Don Guy (2003), What Canadians have to say
about relations with the United States, C.D. Howe Institute
Backgrounder, No 73, July.
27. Alexander Moens (2010), Skating on the thin ice: American-Canada
relations in 2010 and 2011, Fraser Institute, April 2010.
153
28. Alexander Moens (2010), U.S.Canada relations in 2010, Canada’s top
economic interest is still unimpeded access to the US market, Fraser
Forum March 10, 2010.
29. Alexander Moens and Nachum Gaber (2012), Measuring the Costs of
the Canada - US Border, Studies in Canada - US relations, Fraser
Institute, August, Canada.
30. Alexander Moens and Alex Bartos (2014), Canada’s catch-22: The
State of Canada - US Relations in 2014, Fraser Institute, January,
Canada.
31. Allan Gotlied, The United States in Canadian Foreign Policy,
www.dfait-maeci.gc.ca/department
32. Allan Gotlied (2003), “A grand bargain with the US”, National Post,
March 5.
33. Allan Gotlied (2005) “Romanticism and realism in Canada’s Foreign
Policy”, Policy Options, 2/2005, tr 18.
34. Allison Carie (2011), Exporting to Canada - Opportunities and
Challenges, Western Washington University,
http://waexports.com/images/uploads/Exporting_to_Canada_Opportuni
ties_and_Challenges.pdf
35. Arthur E. Blanchettle (2000), Canada Foreign Policy 1945-2000:
Major Documents and Speeches, The Golden Dog Press.
36. Bernard Party (2002), Partners in North America advancing Canada’s
Relations with the United States and Mexico, Report of the Standing
Committee on Foreign Affairs and International Trade.
37. Blank, Stephen (2013), Getting to North American Governance:
Practice, Pratice, Practice, Ottawa: Center for Governance,
Conference Summary Report, No.1.
38. Blayne Haggart (2001), “Canada and the United States: Trade,
Invetsment, Integration and The Future”, Economics Division 2, April,
Canada.
39. Burt, Michael (2009), "Tighter Border Security and Its Effect on
Canadian Exports", Canadian Public Policy, XXXV (2), pp. 149-169.
40. “Canada: Trade Regulations” (2008), The Economist Intelligence Unit,
September 23rd 2008.
154
41. Canada joins Trans-Pacific Partnership Round (2012),
http://www.international.gc.ca/media_commerce/comm/news-
communiques/2012/12/03a.aspx?lang=eng&view=d
42. Canada's State of Trade: Trade and Investment Update 2010 (2013)
http://www.international.gc.ca/economist-
economiste/performance/state-
point/state_2010_point/2010_6.aspx?lang=eng.
43. Canadian International Council (2009), Toward a Frontier, Improving
the US-Canadian Border, Brooking Metropolitan Policy Program,
Canada.
44. Canadian interational merchandise trade: Annual review (2012),
Statistic Canada, April 4, 2012, http://www.statcan.gc.ca/daily-
quotidien/120404/dq120404a-eng.htm
45. Canadian Policy Research Institute (2008), The Emergency of Cross-
Border Regions Between Canada and the United States: Reaping the
promise and public value of cross-border regional relationships - Final
Report, Ottawa: Industry Canada, November.
46. Carl Ek and Ian F. Fergusson (2009), Canada - U.S. Relations,
Congressional Research Service, May 12.
47. Christopher Sands (2006), New Challenges and Opportunities for
Canada - U.S. Relations, Preparing for 2009, Remarks prepared for the
Canada - U.S. Fullbright Killam Fellowship Conference, Ottawa,
Ontario, September 15.
48. Cliff Sosnow (2005), Observations on Canada - U.S. Trade Relations
in 2005.
49. Collin May (2008), “Banking on America: Canada’s trade with the
United States”, Canada’s journal of ideas, Volumn 2 issue 1 July,
Canada.
50. Committee on International Relations (2006), U.S. - Canada relations,
May 25.
51. Craig Stewart (2006), Trade, “Deep Integration” and ICTs in Canada -
U.S. Relations, Concordia University, October.
52. Csaba Hajdu (2010), The US-Canada softwood lumber dipute: A brief
history, Fraser Forum 03/2010, www.fraseramerica.org.
155
53. CTPL, Canada - US relations in the Obama age,
http://www.ctpl.ca/publications/speeches-presentations/canada-
%E2%80%93-us-relations-obama-age
54. D. H. Burney (2005), Canada - U.S. Relations: Are we getting it right?,
The Ranchmen’s Club, Calgary, November 17.
55. D. H. Burney (2009), Canada - US Relations in the Obama Age,
Carleton University Alumni Association, National Capital Chapter
Leadership Luncheon Rideau Club, April 3.
56. Danielle Goldfarb (2003), Beyond Labels: Comparing Proposal For
Closer Canada - U.S. Economic Relations, C.D. Howe Institute
Backgrounder, October.
57. Daniel Drache (2008), Canada-US. Relations and the Impermeable
Border Post 9/11: The Co-Management of North America, Confines
4/7 enero-mayo.
58. David A. Deese (2014), Handbook of the International Political
Economy of Trade, Edward Elgar Publishing, Inc, Massachusetts USA.
59. David M. Dyment (2008), “Canada - US Relations - Lessons from Life
with Uncle”, Canadian Institute of International Affairs Occasional
Papers, Volume 2 Number 1.
60. Department of State (2014), 2014 Investment Climate Statement,
http://www.state.gov/documents/organization/226813.pdf
61. Derek H. Burney (2004), Canada - US Relations: The risk of
complacency, the need for engagement, Options Politiques, Décembre
2003 - Janvier 2004.
62. Derrick Penner (2009), Improving Canada - U.S Trade Relations: A
two - pronged effort, Vancouver Sun June 16.
63. Dominick Salvatore (1990): International Economics, 3rd Edition.
Macmillan Publishing Company.
64. Donald R. Davis (1995), “Intra-industry trade: A Heckscher-Ohlin-
Ricardo approach”, Journal of International Economics 39, (1995)
201-226.
65. Doran, Charles, F. (1984), Forgotten Partnership: U.S. - Canada
Relations Today, Johns Hopkins University Press, 294 pages
156
66. Drew Hasselback (2014), The granddaddy of all Canadian-U.S. trade
disputes is about to rear its ugly head again,
http://business.financialpost.com/news/economy, October 31.
67. Dwayne Lovegrove (2010), “Sutherland in the 21st century: Invariants
in Canada’s Policy Agenda since 9/11”, Canada Military Journal, Vol
10, No 3, Summer.
68. Edelgard Mahant and Graeme S.Mount (2000), Invisible and Inaudible
in Washington: American Policies toward Canada, Michigan State
University Press, U.S, February 29.
69. Embassy of the United States, Ottawa, Canada (2013), Special 301
Report (Intellectual Property Rights),
http://canada.usembassy.gov/key-reports/special-301-report-
intellectual-property-rights/2013-special-301-report-canada-
chapter.html
70. Ernie Regehr (2004), BMD, NORAD, and Canada-US Security
Relations, March 2004.
71. Érick Duchesne (2007), “Lumbering on: the state of the Canada-
U.S.Trade relationship”, American Review of Canadian Studies,
Volumn 7, Issue 1 March, American.
72. Falvey, R. (1981), “Commercial Policy and Intra-Industry trade”,
Journal of international economics, Vol 11, p 495 -511.
73. Foreign Affairs and International Trade Canada (FAIT) (2009),
Canada’s State of Trade: Trade and Investment Update 2009,
Government of Canada, Ottawa.
74. Frank Quinn (2007), Water Diversion, export and Canada - U.S
Relations:A Brief History, Munk Centre for International Studies,
August.
75. G. Cornelis van Kooten (2001), Economics Analysis of the Canadian-
United States Softwood Lumber Dispute: Playing the Quote Game,
Department of Economics, University of Victoria, Canada.
76. Geoffrey Hale (2006), "Sharing a Continent: Security, Insecurity, and
the Politics of Intermesticity", Canadian Foreign Policy 12:3, p. 31-43
77. Geoffrey Hale (2008), “Canadian Federalism and North American
Integration: Managing Multi-Level Games” (paper presented to
157
conference on The State in Transition: Challenges for Canadian
Federalism, University of Ottawa, October 23-25).
78. Germán H. González (2014), “Productivity gap and Asymmetric trade
relations: The Canada - United States of America Integration Process”,
Economía No 73, 2014, p31-46.
79. “Globalization and a unipolar world: Canada and U.S relations at the
beginning of the 21st century” (2003), Canadian - American Public
Policy, 1 September.
80. Goldfarb, Danielle and Doris Chu (2008), Stuck in Neutral: Canada's
Engagement in Regional and Global Supply Chains, Ottawa: The
Conference Board of Canada.
81. Greenaway, D. (1987), “The New Theories of Intra -Industry trade”,
Bulletin of Economic Research, 39 (2), p95-120
82. Green, K.P., and D.Furchgott-Roth (2013), “Intermodal Safety in
the transport of oil”, Studies in Energy Transportation, Fraser Institute.
83. Hampson Fen Osler and Maureen Appel Molot (2000) "Does the 49th
Parallel Matter any More?", in Hampson and Molot (eds.), Canada
Among Nations 2000: Vanishing Borders, (Don Mills: Oxford
University Press, 2000), p. 3
84. Henry J.Hyde (chairman) (2006), U.S - Canada Relations, Committee
on international Relations, Washington, DC, May 25.
85. Heynen, Jeff and John Higginbotham (2004), Advancing Canadian
Interests in the United States, Canada School of Public Service,
Canada.
86. Hussain, Y (2013), “Investments in Western Canada Oil Rail Terminals
Top USD 1B: report”, Financial Post,
http://business.financialpost.com/2013/08/29/investments-in-western-
canada-oil-rail-terminals-top-usd1b-report/?__lsa=44dc-f68e
87. Ian Austen (2009), “To the North, Grumbling Over Trade”, New York
Times, August 8, page B3.
88. Ian F. Fergusson (2010), United States - Canada Trade and
Economic Relationship: Prospects and Challenges, Congressional
Research Service, May 2010.
158
89. Industry Canada (1999), Canada’s growing economic relations with
the United States, Part 1 - What are the key dimensions? September 10.
90. Industry Canada (2013), International Trade Utilities (NAICS 22)
http://www.ic.gc.ca/cis-sic/cis-sic.nsf/IDE/cis-sic22inte.html
91. International Monetary Fund [IMF] (2008), World Economic Outlook
Database April 2008.
http://www.imf.org/external/pubs/ft/weo/2008/01/weodata/index.aspx
92. International trade and its benefits to Canada (2012), Canada’s state
trade of trade: trade and investment 2012,
http://www.international.gc.ca/economist-
economiste/performance/state-point/state_2012_point
93. International Trade Canadian Economy (NAICS 11-91)
http://www.ic.gc.ca/eic/site/cis-sic.nsf/eng/h_00029.html
94. James R.Markusen, James R. Melvin et all (1995), International Trade
- Theory and Evidence, McGraw-Hill International Editions.
95. Jessica Zuckerman, Bryan Riley, David Inserra (2013), Beyond the
Border: U.S. and Canada Expand Partnership in Trade and Security
The Heritage Foundation, No 2808, June 17.
96. Krauss, Cliford (2009), “Canada Seeks Redress on Food-Labeling
Law”, New York Times, October 12.
97. Kristjansson, K.A., Michael Bomba and Anne Goodchild (2010),
“Intra-Industry Trade Analysis of U.S.State- Canadian Province Pairs”,
Transportation Research Record, No.2162, p73-80.
98. Laura M.Baughman and Joseph Francois (2010), U.S.-Canada Trade
and U.S.State-Level production and Employment: 2008, Ottawa:
Department of Foreign Affairs and International Trade.
99. Laura Payton (2012), Softwood lumber agreement with U.S. extended
CBC News, http://www.cbc.ca/news/politics/softwood-lumber-
agreement-with-u-s-extended-1.1129487.
100. Lewis, J. (2013), “Keystone XL ‘No Longer a Necessity’ for
Canadian Producers”, Analyst, Financial Post, September 9.
101. M.Angeles Villarreal and Ian Fergusson F. (2014), NAFTA at 20:
Overview and Trade effects, CRS Report, April 28.
159
102. M.Angeles Villarreal and Ian Fergusson F. (2015), The North
American Free Trade Agreement (NAFTA), Congressional Research
Service, April 16.
103. Martin Alexander Andresen (2000), Canada, The United States
and NAFTA: The effects on trade patterns, Simon Fraser University.
104. Mexico GDP per capita PPP 1990-2015 (2015),
http://www.tradingeconomics.com/mexico/gdp-per-capita-ppp
105. Michael Hart (1991), “A North American Free Trade Agreement:
The elements involved”, The World Economy, 14(1), 87-102, March.
106. Michael Hart (2006), Steer or Drift? Taking Charge of Canada -
US Regulatory Convergence, C.D Howe Institute Commentary, March.
107. Micheal Lawrence Carpentier (2007), Canada and 9/11: Border
Security in a new era, University of Saskatchewan Saskatoon Canada.
108. MinKyoung Kim, Guedae Cho and Won W. Koo (2003), The
causes of Intra-industry trade between the U.S. and Canada: Time -
series Approach with a gravity model, North Dakota State University,
Canada.
109. Moén&Leon (2012), Mandatory Country of Origin Labeling:
The case for a harmonized Canada - US Beef and Pork Regulatory
Regime, Fraser Forum (July/August), Fraser Institute.
110. Molot, Maureen Appel (2003), “The Trade-Security Nexus: The
New Reality in Canada - U.S. Economic Integration”, American
Review of Canadian Studies, No.1, Spring 2003.
111. NAFTA and Markets: US Economic Impacts on Canadian
Equities
(2010)http://www.mscibarra.com/research/articles/2010/RB%20Canadi
an%20Equities.pdf
112. Natural Resources Canada (NRC) (2010), Forest Mills Closures
Government of Canada, http://canadaforests.nrcan.gc.ca.
113. Neil Nevitte (2003), North American Integration: Evidence from
the World Values Survey 1990-2000, Ottawa: Policy research Initiative.
114. News Staff (2008), US. Presidential hopeful John MsCain:
Canada has role in US.election, http://www.citynews.ca/2008/06/20/u-
s-presidential-hopeful-john-mccain-canada-has-role-in-u-s-election/
160
115. Office of Management and Budget (2009), Updated
Implementing Guidance fof the American Recovery and Reinvestment
Act of 2009, April 3, 2009.
116. Orrick White (2000), Canada-US Security Issues, A Review of
the Policy Consultation Proceedings, 16 June 2000.
117. Parminder Parmar (2009), Will the global crisis save or kill
NAFTA? January 4, http://www.ctvnews.ca/will-the-global-economic-
crisis-save-or-kill-nafta-1.354472
118. Paul Sundell and Mathew Shane (2006), Canada: A
Macroeconomic Study of the United States’ Most Important Trade
Partner, United States Department of Agriculture, September.
119. Richard Barichello, Timothy Josling and Daniel A. Sumner
(2004), Agricultural Trade Relations between Canada and the United
States, January, Working Paper Number: 2004-03, Food and Resource
Economics, University of British Columbia Vancouver, Canada.
120. Richard Blackell (2014), Keystone delay has wider implications
for Canada-U.S. trade http://www.theglobeandmail.com/report-on-
business/industry-news/energy-and-resources/keystone-delay-has-
wider-implications-for-canada-us-trade-girling-says
121. Richard Dion (2000), “Trends in Canada’s Merchandise Trade”,
Bank of Canada Review, Winter 1999-2000, pp. 29-41.
http://www.bankofcanada.ca/en/review/2000/r001c-e.pdf
122. Richard Harris and Nicolas Schmitt (2014), NAFTA and the
Evolving Structure of Canadian Patterns of Trade and Specialization,
Department of Economics, Simon Fraser University.
123. Robert J.Keyes (Senior Vice President, Canadian Chamber of
Commerce), Issues in Canada - US Bilateral Economic Integration,
p8,www.globalcentres.org/can-us/economic
124. Ross W.Gorte and Jeanne J. Grimmett (2006), Softwood Lumber
Import from Canada: Issues and Events, CRS Report RL33752.
125. Shaked, A. and J.Suttan (1984), Natural Oligopolies and
International Trade, Henry Kiekowski, Offord, p34-50.
161
126. Statement by Canada and Mexico on U.S. Country of Origin
Labelling (2015) www.international.gc.ca/media/comm/news-
communiques/2015/06/04c.aspx?lang=eng
127. Statistics Canada (2010), Consolidated federal, provincial,
territorial and local government revenue and expenditures
http://www40.statcan.gc.ca/l01/cst01/govt01a-eng.htm.
128. Statistics Canada (2013), Merchandise Imports and Exports,
Customs and Balance of Payments Basis, CANSIM Tabble 228-0058.
129. Stephen Blank, It is Time for Canada to Think Carefully about
North America, Embassy, September 7, 2005.
130. Stephen Harper's foreign policy, http://www. Jameslaxer.com
131. Steven Globerman and Paul Storer (2006), The impacts of 9/11
on Canada - U.S.Trade, Border policy research Institute, Western
Washington University.
132. Steven Globerman (2009), The Effects of 9/11 on Canadian -
U.S. Trade An Update through 2008, Metropolitan Policy Program,
July.
133. Steven Globerman and Paul Storer (2009), "Border Security and
Canadian Exports to the United States: Evidence and Policy
Implications", Canadian Public Policy, XXXV (2), pp. 172-186
134. Steven Globerman and Paul Storer (2011), "Regional and
Temporal Variations in Transportation Costs for U.S. Imports from
Canada", The Journal of Regional Analysis & Policy, 41(1).
135. Steven Globerman and Paul Storer (2011), Border thickening
and changes in Canada - US. Trade in intermediate versus final goods,
Bellingham: Western Washington University.
136. Steven Globerman and Paul Storer (2013), Changes in Canada -
US. Trade in intermediate versus final goods: Identification and
Assessment, Western Wahington University.
137. Steven Globerman (2013), The Nature of Aggregate and
Regional Canada- U.S. Trade (1990-2011), Border Policy Research
Institutes, Research Report No.19, Washington.
138. Tarek M. Harchaoui and Faouzi Tarkhani (2008), Whatever
Happened To Canada - U.S. Economic Growth and Productivity
162
Performance In the Information Age?, Economic Analysis Research
Paper Series, Statistics Canada - Catalogue No. 11F0027 No. 025.
139. The Canadian Chamber of Commerce, U.S. Chamber of
Commerce (2009), Finding the Balance: Shared border of the Future,
https://www.uschamber.com/sites/default/files/legacy.
140. The Canadian Chamber of Commerce (2010), Strengthening our
ties: four steps toward a more successful Canada -U.S.Partnership,
The Voice of Canadian Business.
141. The Canadian Press (2013), Canada threatens to impose tariffs
on U.S. foods, furniture in meat-labeling dispute,
http://business.financialpost.com/2013/06/07/canada-threatens-to-
impose-tariffs-on-u-s-foods-furniture-in-meat-labelling-dispute/
142. The Conference Board of Canada (2010), Re-Energizing
Canada’s International Trade, Strategies for Post-Recession Success,
Report February 2010.
143. The Council of State Governments (2010), U.S.-Canada Border
Update, June 2010, http://www.csgeast.org/newsletter/Jun.pdf
144. The Economist Intelligence Unit (2008), Canada: Trade
Regulations, September 23rd.
145. The Government of Canada (2009), “Canada and the United
States: No two nations closer”, www.canadainternational.gc.ca.
146. The Senate (2003), Uncertain access: The consequences of U.S.
secutity and trade actions for Canadian trade policy, Report of the
standing senate committee on Foreign Affairs, June, US.
147. Top Trading Partners - December 2014,
http://www.census.gov/foreign-trade/statistics/highlights/top.
148. Trilateral Border Issues Symposium (2013), North American
Center for transborder studies, Arizona State University, Canada.
149. U.S. Bureau of Economic Analysis (2008), Survey of Current
Business, October 2008; Statistics Canada, Balance of International
Payments - Fourth Quarter 2008, Table 18.
150. U.S. Relations with Canada (2014), Bureau of Western
Hemisphere Affairs, September 10 2014,
http://www.state.gov/r/pa/ei/bgn/2089.htm
163
151. U.S. Trade in goods with Canada,
http://www.census.gov/foreign-trade/balance/c1220.html
152. Vieira, Paul (2009), “Meat Label ‘Will Kill’ Production, Farmers
Say”, National Post, US, April 9.
153. Wendy Dobson and Diana Kuzmanovic (2010), “Differentiating
Canada: The Future of the Canada - US Relationship”, SPP Research
Papers, University of Calgary, Volumn 3, issue 7, November.
154. Winnipeg, Manitoba (2004), Canada - U.S. Relations: Shared
Borders And Shared Values, Luncheon Address to the Winnipeg
Chamber of Commerce, October 21.
155. World Bank (2013), Merchandise trade (%GDP),
http://data.worldbank.org/indicator
156. World Trade Organization (2015), Trade Policy Review, Report
by Canada, Canada, 27 April.
III. Tài liệu tiếng Pháp
157. Affaires estrangères et Commercial international Canada (2013),
Exporter aux Estats-Unis: Guide pour les enterprises canadiennes
editon 2012-2013, Service des délégués commerciaux, Mars 2013.
158. Bureau de l’économiste en chef, (2015), Reprise des échanges
entre le Canada et les États-Unis, Affaires étrangères, Commerce et
Développement Canada, March 3,
http://www.deleguescommerciaux.gc.ca/fra/canadexport
159. Cahier de Recherche-CEIM (2012), Les relations commerciales
entre le Canada et les Estats-Unis à L’heure de trois ‘D’, Université du
Quesbec à Montréal, September.
160. Groupe interparlementaire Canada - Estats-Units (2013),
Rapport de la délégation parlementaire canadienne concernant sa
participation à la Conférence de I’Alliance commerciable de la
frontière canado-américaine, Ottawa, Ontario, Canada.
161. Le Canada et les Estats-Unis planifient I’avenir de leurs
relations commercuales (2014),
http://www.international.gc.ca/media/comm/news-
communiques/2014/10/08a.aspx?lang=fra
164
162. Le Canada et les Estats-Unis: Un Partage d’intéreetss et de
preoccupations (2009), Bibliothèque du Parlement, Janvier.
163. Le ministère des Affaires étrangères et Commerce international
Canada, Les relations canado-américaines énergétiques,
http://geo.international.gc.ca/can-am/main/right_nav/oil-fr.asp)
164. Nicolas Martin-Lalande (2009), Obama veut relancer la relation
de travail canadienne , Analyse strategique, 4/2009.
165. Thomas d’Aquino (2009), Renforcer le partenariat Canada -
Etats-Unis, Chambre des communes Ottawa 25/2/2009.
165
PHỤ LỤC 1
Tóm tắt các vụ tranh chấp thương mại Canada - Mỹ (2013)
Tranh chấp Tác động và chi phí Triển vọng giải quyết
Đường ống Keystone XL Rất nghiêm trọng Khó giải quyết
Đề xuất năm 2008 về xây
dựng đường ống dẫn dầu
dài 1897 km trải dài từ
Alberta tới Nebraska
Áp lực giảm giá đầu tư
Mất tiền lương: việc trì
hoãn từ tháng 1 năm 2012
đã tiêu tốn của Mỹ 4,7 triệu
USD mỗi ngày tiền lương
mất đi (Consumer Energy
Alliance, 2013)
giảm giá dầu thô do thiếu
cơ sở hạ tầng
Thay thế tốn kém: đường
sắt đã nỏi lên như một cách
vận chuyển thay thế nhưng
chi phí vận chuyển có thể
cao gấp 3 lần so với đường
ống
Giấy phép hoãn hai lần
Nghị quyết không rõ ràng
Tăng nguy cơ tiếp tục hoãn
quyết định qua năm 2016
Quy định bắt buộc dán
nhãn xuất xứ quốc gia
(MCOOL)
Nghiêm trọng Khó giải quyết
Luật Quốc hội năm 2008
đưa ra quy định bắt buộc
dán nhãn đối với các sản
phẩm gia súc chế biến và
đóng gói và ghi nhãn đặt
hàng để có nhãn thực phẩm
chỉ ra nguồn gốc của sản
phẩm
Gây tốn kém mỗi năm 1 tỷ
USD đối mặt hàng thịt bò
và thịt lợn Canada.
Phá vỡ chuỗi cung ứng vốn
đã hội nhập cao trong lĩnh
vực này
MCOOL không mang lại
lợi ích gì về an toàn thực
phẩm
Mỹ đã bất chấp cả khiếu nại
và phần cơ bản của
Hiệp định về Gỗ xẻ mềm
(SLA)
Năm 2011, các công ty gỗ
xẻ mềm Mỹ đã kiện các đối
tác Canada ra Cơ quan
trọng tài quốc tế tại London,
cáo buộc các công ty Mỹ đã
vi phạm SLA (Bộ Ngoại
giao, Thương mại và Phát
triển Canada, 2012a)
Vừa phải
Nếu bị kết luận là vi phạm,
ngành công nghiệp của
Canada phải đối mặt với
khoàn phạt 38 triệu USD
(The Canadian Press, 2012)
Tốt
Năm 2012 Cơ quan trọng
tài quốc tế London đưa ra
phán quyết ủng hộ cho phía
Canada (Bộ Ngoại giao,
Thương mại và Phát triển
Canada, 2012a)
SLA hết hiệu lực vào năm
2013 nhưng Canada và Mỹ
quyết định kéo dài đến 2015
(CBC News, 2012)
Điều khoản Mua hàng Mỹ
Chương trình Phục hồi kinh
tế và tái đầu tư của Mỹ
2009
Nghiêm trọng
Việc ngăn chặn các sản
phẩm của Canada và hợp
tác sản xuất với Canada
trong các hoạt động mua
sắm phục vụ các công trình
công của Mỹ
Giải quyết từng phần
nhưng rủi ro cao bởi điều
khoản Mua hàng Mỹ
Hiệp định Mua sắm giữa
Canada và Mỹ năm 2010
trong đó cho phép việc mua
các hàng hóa Canada cho 7
dự án hạ tầng có giá trị hơn
7,777 triệu USD
166
Canada cần tìm kiếm một
hiệp định toàn diện nhằm
tránh chủ nghĩa bảo hộ của
Mỹ trong tương lai đối với
tất cả các tỉnh, phù hợp với
các quy định của WTO
Hội đồng Lúa mỳ Canada
(CWB)
Hội đồng marketing ngành
lúa mỳ Canada; độc quyền
bán chấm dứt năm 2011
Các hành động thường
xuyên của Mỹ nhằm chống
lại CWB trước đây nay đã
chấm dứt do thị trường lúa
mỳ tại Canada đã chuyển
hoàn toàn sang cơ chế thị
trường.
Đã giải quyết xong
Quyền sở hữu trí tuệ
Canada nằm trong danh
sách cần đặc biệt ưu tiên
theo dõi 301 của Cơ quan
đại diện thương mại Mỹ
(USTR) từ năm 1995
Khả năng chi phí ở mức vừa
phải
Tiếp tục đe dọa đến hành
động thương mại và pháp lý
của Mỹ
Đã được giải quyết từng
phần
Việc tuân thủ của Canada
bao gồm;
Tăng cường bảo vệ dữ liệu
Tham gia vào Hiệp định
Thương mại chống hàng giả
(ACTA) vào năm 2013
Ban hành đạo luật chống
hàng giả (2013)
Khởi động quá trình tăng
cường Đạo luật Tác quyền
và thực thiện các điều ước
của Tổ chức Sở hữu trí tuệ
thế giới
Canada đã được công nhận
là được loại khỏi Danh sách
cần đặc biệt ưu tiên theo dõi
301.
Các loại thuốc theo đơn
Mỹ khiếu nại chống lại
Canada:
Áp mức giá trần làm chuyển
gánh nặng chi phí cho hoạt
động nghiên cứu và triển
khai cho các công ty Mỹ.
Bảo hộ kém quyền sở hữu
trí tuệ đối với bên bán thứ
ba
Quy trình phê duyệt thuốc
theo đơn chậm làm giảm
khả năng thâm nhập thị
trường
Có khả năng ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt
động thương mại
Các công ty lâu năm của
Mỹ bị mất doanh thu và gây
rủi ro cho hoạt động thương
mại
Tiến triển gián tiếp
Tại Hiệp định CETA năm
2013 với Liên minh Châu
Âu, Canada đồng ý bảo vệ
toàn diện bằng sáng chế đối
với các loại thuốc mới trong
thời gian 2 năm.
Quy tắc 2 năm có thể trở
thành giải pháp chung giữa
Mỹ và Canada trong tương
lai.
Nguồn: [30]
PHỤ LỤC 2
Thương mại hàng hóa ròng Canada - Mỹ (hàng tháng)
Đơn vị (Đô la Canada)
Nguồn: Statistics Canada (2013)
PHỤ LỤC 3: Sản lượng quốc gia Mỹ liên quan đến giao dịch
thương mại với Canada, 2008 (đơn vị: tỷ USD)
Tổng 470,3 USD
Các khu vực chính (nông nghiệp,lâm nghiệp, cá, khai
mỏ)
3,1
Hóa dầu và gas 1,2
Xây dựng 13,1
Chế tạo 27,6
Các sản phẩm từ dầu mỏ và than đá 1,8
Dịch vụ 426,5
Vận tải 13,4
Những ngành phục vụ công cộng 11,4
Thương mại bán sỉ và bán lẻ 54,8
Tài chính và bảo hiểm 40,7
Thông tin 20,2
Chuyên môn và kỹ thuật 35,6
Quản trị 23,1
Cho thuê, thuê và bất động sản 68,2
Tiện nghi và lương thực 18,5
Các dịch vụ công và tiêu dùng khác 140,6
Nguồn: [98]
PHỤ LỤC 4: Nhập khẩu dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ của Mỹ từ Canada
(đơn vị: nghìn thùng)
Năm Tháng 1 Tháng 2 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12
1993 24,124 21,896 23,885 23,485 27,100 27,337 30,725 29,934 30,702 31,923 27,498 29,895
1994 28,054 27,819 30,605 27,901 28,045 29,202 30,813 32,828 30,936 30,434 29,644 32,674
1995 31,328 27,006 27,636 29,971 36,162 35,078 31,866 32,789 28,760 32,781 32,060 34,081
1996 34,641 29,763 31,032 30,895 32,744 32,743 33,883 32,316 30,002 32,842 34,515 38,195
1997 36,029 32,343 35,912 31,891 37,296 35,530 37,243 39,513 37,509 36,433 36,379 41,318
1998 41,425 38,237 35,106 37,234 40,354 42,126 42,299 38,691 36,810 37,263 35,970 36,713
1999 37,070 30,278 32,736 31,714 34,237 34,758 41,975 39,149 32,007 38,089 37,918 40,031
2000 57,927 55,230 51,848 52,510 59,123 54,892 55,014 55,478 53,677 53,209 52,067 60,376
2001 59,983 52,274 60,065 55,546 55,182 56,994 52,387 53,405 50,564 53,766 56,957 60,251
2002 58,920 53,112 57,151 60,958 61,052 57,408 58,942 62,609 56,479 65,413 62,495 64,795
2003 70,440 55,908 58,740 53,372 62,463 58,684 66,066 66,082 62,462 67,535 65,575 69,027
2004 68,323 61,902 65,665 61,789 64,708 67,214 67,503 62,358 64,230 68,972 63,235 66,699
2005 69,297 59,199 63,159 62,175 68,689 65,121 64,492 64,637 66,447 65,380 69,156 78,467
2006 73,948 65,456 70,935 68,749 73,134 69,075 68,337 76,123 70,213 67,465 79,108 76,296
2007 78,398 70,922 73,063 74,942 77,494 72,291 73,971 78,336 75,604 75,285 72,124 73,546
2008 82,260 73,364 79,463 77,470 73,378 72,886 74,933 69,648 71,984 80,135 76,027 80,715
2009 79,026 70,808 75,818 68,602 68,662 76,134 82,576 78,201 70,737 73,363 76,962 84,025
2010 80,479 69,750 77,662 74,172 78,371 81,514 79,013 77,148 74,367 72,764 75,377 84,811
2011 90,552 82,104 84,446 80,790 77,652 75,451 81,171 81,295 85,077 82,810 83,919 90,741
2012 93,980 88,647 91,538 89,595 91,934 92,090 90,548 91,570 82,773 81,892 86,101 97,744
2013 107,143 96,793 94,148 96,243 88,464 86,540 93,428 95,556 92,574 99,743 93,898 102,172
2014 105,769 89,968 99,219 94,199 101,549 97,732 101,948 106,396 106,288 106,301 103,978 123,112
2015 123,203 110,221 119,741 114,867 110,282 108,534 109,126 121,522 113,672 105,437 108,258 125,290
Nguồn: U.S. Energy Information Administration.