Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộpMỤC LỤC
PHẦN I:THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ TKTN
I. Khái niệm và đặc điểm của thuế.............................. 5
1. Khái niệm .......................................................... 5
2. Đặc điểm ..................................................... 8
3. Chức năng của thuế....................................................................... 9
II. Giới thiệu về quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp ..... 11
1. Khái niệm về cơ chế tự khai tự nộp và dặc điểm ................. 11
2. Điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế ............. 12
3. Ưu điểm của cơ chế tự khai, tự nộp ............................... 13
4.Hạn chế của cơ chế tự khai, tự nộp................................. 15 5. Đổi mới hoạt động . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
PHẦN II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THÍ ĐIỂM CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP
NHỮNG NĂM 2004-2005 VẦ TÌNH HÌNH HIỆN NAY.
I. Tính tất yếu khách quan thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp ....... 1 II. Kết quả đạt được thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở cục thuế Quảng Ninh và Thành Phố Hồ Chí Minh ......................... 19III.Thực trạng hiện nay.IV. Những khó khăn, thách thức khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp ..
1. “ Gánh nặng” từ dự toán thuế ........................................ 22
2. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, quyền hạn của cơ quan Thuế chưa
ngang tầm.
3. Công nghệ quản lý thuế theo cơ chế mới còn hạn chế ....... 23
4. Công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế, công tác thanh, kiểm tra, công tác thu nợ, và cưỡng chế thuế đat hiệu quả chưa cao......... 24 5. Tổ chức bộ máy ngành thuế chưa hợp lý ..................................... 26V. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tự khai, tự nộp .26 1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về thuế ................... 26
2. Đẩy mạnh công tác hưỡng dẫn, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế thực hiện
cơ chế tự khai, tự nộp ............................................................ 27
3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra ..................................... 28
4. Thông tin tuyên truyền tới các đối tượng nộp thuế về TKTN.....29
5. Hiện đại hóa cơ sở vật chất cho ngành thuế ............................. 29C. KẾT LUẬN .................................................................................... .30
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 31
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới. Hội nhập tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta phát triển, thu hút
được nhiều nguồn đầu tư từ bên ngoài , mở rộng được thị trường, được đối
xử bình đẳng trên trường quốc tế. Để quá trình hội nhập được nhanh
chóng Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành sửa đổi, hoàn thiện và xây
dựng thêm nhiều hệ thống luật mới , cải cách nền hành chính nhà nước…
Cải cách hành chính thuế là một nội dung quan trọng của cải cách hành
chính nhà nước hiện nay. Trong những năm trước,đặc biệt trong năm 2004
và những tháng đầu năm 2005 ngành thuế đã có những bước đi đột phá
trong cải cách hành chính thuế với việc được tổ chức lại bộ máy cơ quan
thuế các cấp, triển khai áp dụng thí điểm cơ chế cơ sở kinh doanh tự kê
khai, tự nộp thuế theo QĐ 197/2003/QĐ - TTg và triển khai sâu rộng chương
trình cải cách và hiện đại hóa ngành thuế. Với mục đích muốn tìm hiểu sâu
hơn về ngành thuế, những cái cách của ngành thuế trong việc quản lý thu
thuế ,một nghĩa vụ mà mọi công dân đều phải thực hiện. Nên em đã chọn
đề tài: “Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ở Việt Nam " làm đề án
môn học cho mình. Do trình độ còn hạn chế và thời gian có hạn chắc rằng đề
án của em chưa thể đầy đủ và còn nhiều sai sót. Em mong nhận được nhiều
sự giúp đỡ , góp ý của quý Thầy cô giáo để đề án của em được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Đà nẵng ngày 15 tháng 10 năm 2009
Sinh viên : Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
PHẦN I : LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ NỘP
I.Khái niệm,đặc điểm chức năng của
thuế.
1. Khái niệm .
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
2. Đặc điểm .
Thuế có những thuộc tính tương đối ổn định qua từng giai đoạn
phát triển và biểu hiện thành những đặc trưng riêng có của nó, qua đó
giúp ta phân biệt thuế với các công cụ khác. Những đặc trưng đó là:
2.1 tính bắt buộc
Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước.
Đặc điểm này cho ta thấy rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hê
tiền tệ được hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội
đặc biệt- việc động viên mang tính chất bắt buộc của nhà nước.Phân
phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một phương thức
phân phối của nhà nước, theo đó một bộ phân thu nhập của người nộp
thuế được chuyển giao cho nhà nước mà không kèm theo một sự cấp
phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế, mà hành động
đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
2.2 Tính không hòan trả trực tiếp.
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ:
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua việc
cung cấp các dịch vụ công cộng của nhà nước. Sự không hoàn hảo trả
trực tiếp được thể hiện kể cả trước và sau thu thuế. Trước khi thu
thuế, nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng
nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, nhà nước cũng không có
sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế.
2.3 Tính pháp lý cao.
Thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao, được quyết định
bởi quyền lực chính trị của nhà nước và quyền lực ấy được thể hiện
bằng pháp luật.
3. Chức năng của thuế.
Chức năng của thuế là sự thể hiện công dụng vốn có của thuế, và
nó có tính ổn định tương đối. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển
thuế luôn luôn thực hiện hai chức năng cơ bản sau.
3.1 Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước.
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện
đông viên nguồn tài chính cho nhà nước, là chức năng cơ bản của
thuế. Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập
trung của nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất
cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Chức năng này đã tạo ra
những tiền đề để nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng
sản phẩm của xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Thuế là một
nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách nhà nước.
3.2 Chức năng điều tiết kinh tế.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc
quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối
tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức
thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế, sử dụng linh
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
họat các ưu đãi và miễn giảm thuế.
Trên cơ sở đó, nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ
đạo chung, phù hợp lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và
kích thích, chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện.
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết
kinh tế có mỗi quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động
nguồn lực tài chính quy định sự tác động và sự phát triển của chức năng
điều tiết. Ngược lại,nhờ sự vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết
kinh tế đã làm cho chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế có
điều kiện phát triển. Chức năng huy động nguồn lực tài chính càng tăng
lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho nhà nước đã tạo ra những điều
kiện để nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh
tế và xã hội. Điều này tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh
nghiệp và các tầng lớp dân cư, do đó mở rộng cơ sở thực hiện chức
năng huy động nguồn lực tài chính.
Cùng với sự thống nhất đó, thì giữa hai chức năng này của
thuế cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường
chức năng huy động tập trung tài chính làm cho mức thu nhập của
nhà nước tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng khả
năng của nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh
tế- xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một
cách quá mức sẽ làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả của nó là
giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói mòn vai trò điều tiết kinh
tế.
Do vậy, trong quá trình quản lý thuế, hoạch định các chính sách
thuế ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau cần phải chú ý
đến mỗi quan hệ giữa chức năng điều tiết kinh tế và chức năng
huy động nguồn tài chính của thuế.
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
II. Giới thiệu về quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
1. Khái niệm về cơ chế tự khai tự nộp và đặc điểm
1.1 Khái niệm
Cơ chế tự khai tư nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó các đối
tượng nộp thuế tự giác căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kì
kê khai của mình và căn cứ vào những quy định của pháp luật tự xác
định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai, nộp thuế vào ngân sách Nhà
nước, và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác
của việc kê khai.
1.2 Đặc điểm.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế là một phương thức quản lý thuế
được xây dựng dựa trên nền tảng là sự tuân thủ tự nguyện của đối
tượng nộp thuế, quản lý thuế dựa trên kĩ thuật quản lý rủi ro.
Cơ chế tự khai tự nộp thuế đòi hỏi các tổ chức, cá nhân nộp thuế
phải nâng cao trách nhiệm vì tờ khai là do tổ chức, cá nhân nộp thuế tự
lập trên cơ sở sản xuất kinh doanh của mình và chính sách chế độ về
thuế mà không cần có sự xác nhận của cơ quan thuế. Tổ chức, cá nhân
nộp thuế phải chịu trách nhiệm về kết quả của việc tính thuế, kê khai
thuế của mình trước pháp luật.
Theo cơ chế này cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê
khai , nộp thuế của tổ chức, cá nhân kinh doanh nhưng cơ quan thuế
sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra và áp dụng các biện pháp xử phạt,
cưỡng chế theo luật định đối với những trường hợp có hành vi vi phạm
pháp luật về thế như không nộp thuế,
trốn thuế, gian lận về thuế …
Áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp, cơ quan Thuế phải tăng cưòng
công tác tuyên truyền, phổ biến và giải đáp các vướng mắc về chính
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
sách, chế độ thủ tục về thuế mà các tổ chức, cá nhân thường gặp trong
quá trình kê khai nộp thuế để đối tượng nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ
thuế của mình đối với Nhà nước.
Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế hiện đại, hiệu quả,
được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, nó cho phép các cơ
quan thuế phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu
trong quản lý cải tiến các quy trình quản lý rõ ràng làm tăng sự minh
bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt chi phí quản lý, thúc đẩy cải
cách hành chính thuế.
2. Điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế.
Việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi các điều kiện sau:
2.1 Hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu chính sách thuế.
Để áp dụng cơ chế quản ký thuế tiên tiến đòi hỏi đối tượng nộp
thuế phải nắm chắc các quy định của luật thuế để tự mình kê khai, tính
toán đúng số thuế phải nộp cho Nhà nước. Muốn vậy, các luật thuế phải
đơn giản , dễ hiểu, minh bạch, từng quy định trong các luật thuế phải
được rõ ràng, không mơ hồ, không làm cho người dân muốn hiểu thế
nào cũng được.
2.2 Trình độ dân trí cao, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật của
người dân tốt, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt hiệu
quả thiết thực.
Vì đối tượng nộp thuế là người trực tiếp tính toán số thuế mà mình
phải nộp cho ngân sách nhà nước, do đó đòi hỏi họ phải có một kiến
thức cơ bản để hiểu được các quy định của luật thuế. Mặt khác , cơ chế
tự khai, tự nôp đòi hỏi sự tự giác cao của đối tượng nộp thuế do vậy mà
người dân cần phải có ý thức tuân thủ pháp luật tốt. để đạt được điều
kiện này thì cơ quan quản lý thuế phải đổi mới và nâng cao hiệu quả của
công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các chính sách thuế.
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
2.3 Các cơ quan hành pháp phải có năng lực cao và phối hợp tốt với cơ quan thuế trong công tác quản lý hành chính
Trong khi cơ chế tự khai, tư nộp thuế đòi hỏi đối tượng nộp thuế
phải có sự tực giác tuân thủ cao thì có một bộ phận không nhỏ dân
chúng có ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt. Vì vậy, đòi hỏi các cơ
quan hành pháp nói chung và cơ quan thuế nói riêng phải có trình độ
quản lý cao để đảm bảo thực hiện đúng những quy định của pháp luật.
2.4 Các thủ tục như đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế…,
phải đơn giản. Các chương trình thanh tra thuế và cưỡng chế
thuế phải có hiệu quả và hiệu lực.
Các thủ tục về thuế phải đơn giản để giúp các tổ chức, cá nhân dễ
dàng hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đồng thời cơ
quan thuế phải luôn luôn thanh tra, kiểm tra viẹc thực hiện nghĩa vụ
thuế của các đối tượng nộp thuế vì gian lận, trốn lậu thuế là một căn
bênh kinh niên tồn tại song song cùng với việc thu thuế của Nhà nước.
2.5 Cần có chế tài pháp luật đủ nghiêm để răn đe các
hành vi vi phạm.
Khi áp dụng mô hình quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thì
các chế tài pháp luật nghiêm minh là rất cần thiết, rất quan trọng trong
bối cánh khả năng lợi dụng sự cho phép tự giác của Nhà nước để
trốn lậu thuế là khá cao, nhất là đối với nước ta- một nước có trình độ
phát triển chưa cao về mọi mặt.
3 .Ưu điểm của cơ chế tự khai, tự nộp.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế đã được áp dụng ở nhiều nước trên
thế giới, đây là cơ chế hành thu tiên tiến đem lại nhiều lợi ích cho cả cơ
quan thu thuế và tổ chức , cá nhân nộp thuế. Cơ chế này có những ưu
điểm sau:
3.1 Tiết kiệm thời gian,công sức.
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cán bộ quản lý
thu thuế sẽ không phải mất thời gian để tính toán lại số thuế phải nộp
của đối tượng nộp thuế, không phải mất thời gian đi gửi thông báo
thuế cho đối tượng nộp thuế. Hơn nữa, trong cơ chế ‘’ Thông báo thuế”
trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện nghiêm túc luật thuế, kê
khai và tính toán chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc phải tính
toán lại của cơ quan thuế là thừa và lãng phí thời gian, công sức. Với số
lượng các đối tượng nộp thuế hiên lên đến gần 100 ngàn doanh nghiệp
và các tổ chức kinh tế hơn 1,4 triệu tổ chức hộ kinh doanh cá thể thì
việc không phải tính toán lại số thuế phải nộp sẽ tiết kiệm được rất
nhiều thời gian và công sức cho cán bộ quản lý thu thuế.
Đối với các đối tượng nộp thuế thì với việc cơ chế tự khai, tự nộp sẽ
làm giảm được các thủ tục hành chính trong việc thực hiện nghĩa vụ kê
khai và nộp thuế của mình, do đó cũng sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian
và công sức.
3.2 Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính về thuế.
Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cơ quan Thuế
không phải gửi hàng triệu thông báo thuế nên ngành thuế tiết kiệm được
chi phí giấy mực, in ấn, cước phí bưu điện… đem lại một hiệu quả kinh
tế không nhỏ, bởi chi phí hành thu càng thấp thì hiệu quả công tác quản
lý thuế càng được nâng cao.Ngoài ra, khi thực hiện cơ chế tự khai, tự
nộp cơ cấu tổ chức của cơ quan Thuế được tổ chức theo chức năng
nên bộ máy quản lý sẽ gọn nhẹ hơn bớt cồng kềnh ,do đó giảm được
một phần lớn chi phí quản lý mà hiệu quả quản lý vẫn cao.
3.3 Nâng cao trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế.
Với cơ chế ‘’ Thông báo thuế “ trách nhiệm pháp lý của đối tượng
nộp thuế đối với tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp không
cao bởi vì số thuế họ phải nộp được xác định theo thông báo của cơ
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
quan Thuế. Vì vậy, có thể có tình trạng các cơ sở kinh doanh tính toán
số liệu một cách qua loa, đại khái và nếu cán bộ thuế kiểm tra không kỹ
thì có thể dẫn đến sai số thuế phải nộp mà các cơ sở kinh doanh đó
không hề có lỗi. Nhưng khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì đối
tượng nộp thuế phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực
của số liệu kê khai và cả tính chính xác của việc tính toán số thuế phải
nộp.Tức là, đối tượng nộp thuế được nâng cao trách nhiệm pháp lý
trong việc kê khai thuế với Nhà nước, tăng sự tự giác ,được chủ động
trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình.Hơn nữa,còn thiết lập được niềm
tin giữa cơ quan Thuế và người nộp thuế.
3.4 Tạo tiền đề nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan Thuế .
Thực hiện áp dụng cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế cơ quan Thuế có
điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu quả nhất các
nguồn lực hiện có ,công tác quản lý thu thuế được tổ chức theo hướng
ngày càng hiện đại và chuyên môn hóa . Nhờ việc không mất thời gian
tính toán lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế và phát hành thông
báo thuế mà cán bộ Thuế có điều kiện tập trung thời gian và công sức
cho các công việc quản lý khác như: công tác phục vụ , hỗ trợ các tổ
chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hiểu và tự giác thực hiện các nghĩa
vụ thuế của mình đối với Ngân sách nhà nước, công tác thanh tra ,kiểm
tra,công tác đôn đốc thu nộp và cưỡng chế thuế…Triển khai thực hiện
cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy mạnh hiện đại hóa công
tác quản lý mà cụ thể là đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học
trong công tác quản lý thu thuế.Đó là tiền đề để nâng cao hiệu quả công
tác quản lý thu thuế.
4. Hạn chế của cơ chế tự khai, tự nộp.
Khi áp dụng một cơ chế chính sách mới bên cạnh những lợi ích to
lớn thì cũng có nhiều điểm hạn chế. Do đó, việc áp dụng cơ chế tự
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
khai, tự nộp thuế nếu không đáp úng đựợc những điều kiện nhất định
thì sẽ có những hạn chế
sau:
4.1 Nguy cơ trốn lậu thuế, thất thoát thuế lớn nếu trình độ
dân trí thấp và không có biện pháp quản lý thuế phù hợp.
Nếu không có biện pháp quản lý phù hợp, chẳng hạn công tác
kiểm tra không kịp thời, việc phổ biến các luật thuế kém hiệu quả, công
tác hướng dẫn các đối tượng nộp thuế không đầy đủ, chu đáo … Có thể
dẫn đến các tình trạng đối tượng nộp thuế lợi dụng việc không kiểm tra
tính toán lại số thu thường kì của cơ quan Thuế để cố tình kê khai sai
nhằm trốn lậu thuế. Trong trường hợp do hiểu biết các luật thuế của đối
tượng nộp thuế kém và công tác hướng dẫn của cơ quan Thuế không
hiệu quả thì có thể có tình trạng kê khai sai số thuế phải nộp một cách
vô ý. Vói trình độ dân trí của nước ta còn thấp ,ý thức tự giác và tuân
thủ pháp luật của người dân chưa cao thì nguy cơ thất thoát thuế là rất
lớn.
4.2 Đòi hỏi cao về cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cơ quan Nhà Nước
Để áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp một cách hiệu quả đòi hỏi cơ
sở vật chất của ngành thuế phải được hiện đại hóa, đặc biệt là hệ thống
cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thông tin, liên lạc sao cho việc kiểm
tra, đối chiếu số liệu có thể phục vụ nhanh chóng và chính xác. Do đó,
cần phải có sự đầu tư ban đầu rất lớn trong khi ngân sách nhà nước còn
hạn hẹp. Mặt khác, trình độ quản lý của các quan hành pháp hiện nay
còn thấp, nếu không có sự chuẩn bị kĩ càng có thể xảy ra tình trạng
buông lỏng công tác quản lý thuế.
5. Đổi mới hoạt động thanh tra – dịch vụ tuyên truyền, hỗ trợ và
hướng dẫn nhằm đáp ứng yêu cầu của cơ chế tự khai, tự nộp.
Để đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp, cơ
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
quan Thuế đã tiến hành cải cách các quy trình quản lý thuế theo hướng
hiện đại với sự hỗ trợ lớn của công nghệ thông tin. Các quy trình
quản lý thuế được xây dựng phù hợp với bộ máy tổ chức theo mô hình
chức năng và thể hiện nguyên tắc quản lý theo rủi ro .Đồng bộ với việc
xây dựng các qui trình mới là các việc đẩy mạnh các nghiệp vụ quản lý
theo từng chức năng quản lý:
Trong nghiệp vụ hỗ trợ cơ sở kinh doanh:cơ quan Thuế chủ
động nắm bắt và tổ chức tuyên truyền ,hỗ trợ đối tượng nộp thuế sát với
yêu cầu ,đặc điểm của từng nhóm đối tượng nộp thuế với những hình
thức phù hợp và chất lượng tốt .Cơ quan Thuế phải biết được nhu cầu
của khách hàng của mình,đó là đối tượng nộp thuế và có trách nhiệm
cung cấp được những dịch vụ hỗ trợ đúng với yêu cầu của khách hàng .
Trong nghiệp vụ xử lý tờ khai thuế: cơ quan Thuế theo dõi tờ khai
thuế của cơ sở kinh doanh từ tờ khai đầu tiên, qua đó tờ khai điều chỉnh
(nếu có) đến tờ khai cuối cùng, các lỗi cơ sở kinh doanh đã mắc. Qua đó,
cơ quan Thuế có thể có biện pháp xử lý phù hợp như: hướng dẫn cơ sở
kinh doanh để tránh các lỗi đã mắc trong kê khai nếu việc mắc lỗi là do
chưa hiểu rõ;hoặc xem xét sửa đổi mẫu tờ khai nếu tờ khai chưa phù hợp;
hoặc đó là dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các trường hợp thanh tra nếu
việc mắc lỗi mang tính lặp đi, lặp lại một cách cố ý …
Trong nghiệp vụ đôn đốc và thu nợ thuế: cơ quan Thuế đẩy mạnh
công tác đôn đốc và thu nợ thuế. Với sự hỗ trợ của các chương trình tin
học, cơ quan Thuế theo dõi chặt chẽ các trường hợp chậm nộp tờ khai,
chậm nộp thuế, phát hành các thông báo nhắc nhở, các thông báo phạt
đối với các cơ sở kinh doanh không nộp tờ khai, nộp thuế. Cơ quan
Thuế theo dõi được số nộp cho số thuế phát sinh và số nộp cho nợ tồn
đọng của cơ sở kinh doanh theo từng loại thuế. Qua đó xác định được
tính chất của nợ thuế, mức nợ, tuổi nợ của từng món nợ thuế để có
biện pháp thu nợ phù hợp theo hướng nhằm giảm cá khoản nợ có
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
mức nợ và tuổi nợ cao.
Trong nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra: cơ quan Thuế tiến hành
thanh tra kiểm tra trên cơ sở thu nhập được đủ các thông tin cần thiết về
cơ sở kinh doanh( từ tờ khai, báo cáo tài chính và các thông tin từ các
nguồn khác) để phân tích, đánh giá xác định theo các tiêu chí đánh giá
rủi ro, dự báo những vấn đề nghi ngờ có gian lận trốn thuế nhằm lựa
chọn trường hợp, chuẩn bị nội dung,cách thức thanh tra phù hợp.
PHẦN II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THÍ ĐIỂM CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ NỘP Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM 2004-2005 VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009
I. Tính tất yếu khách quan thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp.
Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế tiên tiến, hiện đại,
dựa trên ý thức tuân thủ tự giác của người nộp thuế. Với việc áp
dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì cơ quan Thuế sẽ không phải can thiệp
vào việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp mà tập trung nguồn lực
cho công tác tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế có đủ
năng lực thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Đồng thời cũng tăng
cường các biện pháp theo dõi giám sát, kiểm tra để kịp thời phát hiện,
chấn chỉnh các hành vi phạm pháp luật thuế, tránh gây thất thu ngân
sách nhà nước.
Việc chuyển sang thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp là phù hợp với
xu thế cải cách quản lý hành chính của nhà nươc theo hướng dân
chủ, tôn trọng và phát huy tính tự giác, tự chịu trách nhiệm trước pháp
luật của người dân. Người nộp thuế được giảm bớt các thủ tục hành
chính, được chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình đối
với nhà nước. Còn về phía cơ quan Thuế, cơ chế mới sẽ tạo điều kiện
để sắp xếp lại bộ máy quản lý chuyên sâu theo chức năng, chuyên môn
hóa tới từng cán bộ. Khi áp dụng cơ chế này, cơ quan Thuế có thể đáp
ứng yêu cầu quản lý khi số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
chóng, các giao dịch kinh tế diễn ra ngày một phức tạp và đảm bảo yêu
cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, nền kinh tế ngày càng phát
triển, luật doanh nghiệp mới có một số quyết định thông thoáng hơn nên
số lượng các doanh nghiệp, đối tượng sản xuất kinh doanh ngày càng
tăng lên nhiều. Trong khi đó số cán bộ thuế còn thiếu nhiều về cả số
lượng và chất lượng. Do vậy cơ quan Thuế phải đổi mới phương thức
quản lý thuế thì mới có thể theo kịp được yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Như vậy thực hiện quản lý thuế theo cơ chế người nộp thuế tự khai,
tự nộp thuế là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế thời đại, nhất là
trong điềukiện hiện nay nhà nước ta đang đẩy mạnh cải cách hành
chính để đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, trên
thế giới có rất nhiều nước đã áp dụng cơ chế này và đã thu được kết quả
rất cao trong việc thu thuế cho ngân sách nhà nước.
II. Kết quả đạt được thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở cục thuế Quảng Ninh và Thành Phố Hồ Chí Minh.
Thực hiện quyết định số 197/2003/QD-TTg của Thủ tướng chính
phủ và thông tư số 127/2003TT-BTC của Bộ tài chính, từ ngày 1 - 1 –
2004 cục thuế TPHCM và cục thuế Quảng Ninh đã tiến hành thực hiện
thí điểm cơ chế doanh nghiệp tự kê khai tự tính thuế , tự nộp thuế vào
Ngân sách nhà nước đối với hai loại thuế giá trị gia tăng và thu nhập
doanh nghiệp cho một số đối tượng.
Cục thuế TPHCM và Quảng Ninh đã tổ chức tập huấn cho các doanh
nghiệp thí điểm về kê khai thuế, một số chính sách , chế độ như kê khai
thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, chế độ hoàn thuế, việc
sử dụng quản lý hóa đơn chứng từ, chính sách ưu đãi miễn giảm thuế.
Soạn thảo,in tài liệu về cơ chế tự khai, tự nộp thuế, giải đáp vướng mắc
của các doanh nghiệp làm thí điểm. Riêng kế toán trưởng của các doanh
nghiệp thí điểm được cán bộ nghiệp vụ hướng dẫn quy trình quản lý
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp. … Từ ngày 5 đến ngày 10 hằng tháng
phòng tự khai nộp gửi doanh nghiệp tờ khai thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập doanh nghiệp để kê khai và nộp lại cho cơ quan Thuế trực tiếp
hoặc qua bưu điện. Trong tháng 12 –2003 cả hai cục thuế cũng đã
thành lập phòng tự khai nộp với các bộ phận thực hiện bốn chức năng:
bộ phận tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế; bộ phận xử lý tờ khai
thuế; bộ phận đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế , bộ phận thanh tra và
kiểm tra thuế.
Những tháng đầu do bỡ ngỡ, một số doanh nghiệp số tờ khai chậm nhưng đến nay 100% số doanh nghiệp đã nộp đúng hạn, kịp thời , đầy đủ cho cơ quan Thuế.
Cục thuế TPHCM đã lựa chọn 337 doanh nghiệp làm thí điểm, tính đến
ngày 31-12-2004 kết quả 337 doanh nghiệp đã nộp 11912 tỷ đồng trên
21421 tỷ đồng chiếm 55,6% số thu của cục và đạt 135% so với dự toán
năm. song với việc vận hành cơ chế doanh nghiệp tự khai, tự nộp, cục
thuế đã tập trung lực lượng đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra thuế.
Hằng tháng bộ phận thanh tra của phòng tự khai nộp đã lên chương trình
kiểm tra quyết toán thuế, đã kiểm tra quyết toán thuế năm 2003 của
61/337 doanh nghiệp với số thuế truy thu và phạt 17281 triệu đồng. Khi
doanh nghiệp thực hiện tự khai, tự nộp vào ngân sách nhà nước đã tạo
điều kiện cho cơ quan Thuế tập trung lực lượng xử lý những vấn đề lớn
hơn như giúp doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính, kiểm tra hoàn thuế
nhanh chóng kịp thời cho 112 doanh nghiệp làm điểm với số thuế đã
hoàn 143tỷ.Dự kiến năm 2005 bổ sung từ 50 đến 100 doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế vào diện tự khai, tự nộp.
Cục thuế Quảng Ninh cũng đã lưạ chọn 112 doanh nghiệp nhà
nước làm thí điểm.trong năm 2004,12 doanh nghiệp này đã nộp ngân
sách nhà nước hơn 660 tỷ đồng ,chiếm 40% số thu toàn ngành và
đạt 125% so với dự toán năm.Các doanh nghiệp đều nâng cao ý thức
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
trách nhiệm ,chủ động nộp thuế đúng hạn ,hiện tượng tồn đọng thuế đã
chấm dứt.Trên cơ sở những thành công của năm đầu thực thiện chính
sách tự kê khai, tự nộp thuế ,trong năm 2005 cục thuế Quảng Ninh sẽ
mở rộng ra 100% số doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn;doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp quốc doanh làm tốt
công tác kế toán sẽ đưa vào thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Như
vậy ,việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp đảm bảo sự thông
thoáng,giảm các thủ tục kê khai ,báo cáo ,giúp doanh nghiệp có điều
kiện về thời gian để chuẩn bị chu đáo các thủ tục nộp thuế vì theo cơ
chế mới đến ngày 25 hằng tháng các doanh nghiệp mới phải nộp tờ
khai thuế chứ không phải là vào ngày10 hàng tháng như trước đây.Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được ,việc thực hiện cơ chế mới
vẫn còn những mặt tồn tại .Về phía cơ quan Thuế ,việthưc hiện các
chức năng quản lý chuyên sâu còn gặp nhiều khó khăn do bước đầu
còn thiếu kinh nghiệm.Đối với các doanh nghiệp làm thí điểm mức độ
tuân thủ pháp luật thuế chưa đồng đều.Một số doanh nghiệp chưa chủ
động nghiên cứu thực hiện chính sách cũng như những vướng mắc
còn thụ động chờ cơ quan Thuế hướng dẫn.
III .THỰC TRẠNG HIỆN NAY.
Sáu tháng đầu năm 2009 ngành thế đã tổ chức 1.335 hội nghị,đối thoại với 14.453 DN,Doanh nhân,các cơ sở kinh doanh về thủ tục hành chính thuế và tinh thần,thái độ phục vụ của cán bộ thuế .Đã trả lời ngay tại Hội nghị 3.169/3.203 câu hỏi. Số còn lại nhưng vướng mắc về cơ chế chính sách đã được Tổng cục thuế nghiên cứu ,giải quyết giứt điểm.Những vướng mắc đã được giải đáp kịp thời,do đó được dư luận xã hội và cộng đồng DN hoan nghênh
Tổng cục Thuế cũng đã mở trang website điện tử, xuất bản các loại ấn phẩm về thuế để tuyên truyền hướng dẫn về các nội dung chính sách thuế; thủ tục về thuế. Quy mô bộ máy ngày càng được hoàn thiện đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ đề ra
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
Nhờ cải cách trong công tác quản lý nên cũng đã tạo ra một môi trường quản lý nề nếp, văn minh, buộc cán bộ thuế, cơ quan thuế thay đổi phong cách tiếp xúc với NNT thông qua cách thức đón tiếp chu đáo, lịch sự, công khai, minh bạch, với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NNT.
Nhờ đưa cơ chế "một cửa" vào hoạt động tập trung mọi hồ sơ tài liệu về một đầu mối tiếp nhận, theo dõi quá trình xử lí và trả kết quả yêu cầu, thủ tục hành chính thuế đã tăng cường kiểm soát nội bộ và giúp lãnh đạo kiểm tra, đôn đốc tiến độ giải quyết các yêu cầu, vướng mắc của NNT một cách kịp thời; đồng thời việc tăng cường sử dụng các ứng dụng tin học trong công tác tiếp nhận, luân chuyển và trả kết quả tại bộ phận “một cửa” cũng đã cho phép hạn chế tình trạng chậm muộn như trước kia.
IV. Những khó khăn, thách thức khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp.
Đổi mới quản lý thuế, áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp theo tổng
kết của các cục thuế địa phương thực hiện thí điểm đã đạt được kết
quả đáng kể, tổng số thu vượt so với dự toán, tỷ lệ tờ khai thuế lỗi giảm,
cơ quan Thuế được phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa
nên trình độ nghiệp vụ của các cán bộ thuế được đáp ứng nâng cao,
đáp ứng yêu cầu của cơ chế mới, cải tiến các
quy trình quản lý thuế rõ ràng làm tăng sự minh bạch, giảm được lỗi quản lý…
Tuy nhiên, khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì chúng ta còn gặp phải
những khó khăn, thách thức sau:
1. “ Gánh nặng” từ dự toán thuế.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta tăng trưởng chưa thật sự
vững chắc thì dự toán thu thuế mà ngành thuế được Quốc hội và chính
phủ giao thực hiện hàng năm liên tục tăng, năm sau cao hơn năm
trước ít nhất là 10%, là một nhiệm vụ rất nặng nề bởi vì thuế là nguồn
thu chủ yếu để bù đắp cho Ngân sách nhà nước. Đi cùng với việc cải
tiến cách hành thu theo hướng hiện đại, ngành thuế luôn phải đối mặt
và bám sát nhiệm vụ là hoàn thành dự toán thu được giao. Điều này
làm cho quá trình thực hiện các bước cải cách quy trình thu thuế nói
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
chung, áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế nói riêng diễn ra dè dặt,
từng bước để tránh gây ảnh hưởng đến kết quả thu.
2. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, quyền hạn của cơ quan
Thuế chưa ngang tầm. Các thủ tục về kê khai thuế, chính sách
thuế chưa rõ ràng .
Hiện nay, mặc dù chính sách thuế liên tục được sửa đổi, bổ
sung, cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội và phù hợp với
thông lệ quốc tế, nhưng nhìn chung hệ thống chính sách vẫn còn phức
tạp, còn nhiều quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế, chưa đảm bảo sự
trung lập của thuế. Các thủ tục kê khai nộp thuế mặc dù đã được
đơn giản hóa, giảm bớt được những giấy tờ không cần thiết… nhưng
vẫn còn nhiều điểm chưa tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở kinh doanh
và chưa phù hợp với yêu cầu của hệ thống tự khai, tự nộp thuế. Các
mẫu tờ khai thuế hoặc đơn giản quá hoặc phức tạp quá và còn nhiều
biển mẫu kèm theo tờ khai nên chưa phù hợp và tạo điều kiện cho đối
tượng nộp thuế dễ kê khai, cơ quan Thuế dễ thanh tra, kiểm tra.
3. Công nghệ quản lý thuế theo cơ chế mới còn hạn chế.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi cơ quan quản lý thuế và đối
tượng nộp thuế phải có sự trao đổi thông tin chặt chẽ với nhau, phải cập
nhật kịp thời những thay đổi về kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với
sự tiến bộ của công nghệ thông tin, hiện nay việc tin học hóa quá tình
quản lý tuy đã có những tiến bộ so với trước nhưng vẫn còn nhiều hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới. Hệ thống ứng dụng
đã tham gia hỗ trợ trong một số các quy trình nghiệp vụ, nhưng hệ thống
chỉ mới dừng ở mức độ tính thuế và theo dõi thống kê chứ chưa hỗ trợ
tối đa cho yêu cầu quản lý thuế như thanh tra, kiểm tra, thu nợ, cung cấp
thông tin về đối tượng nộp thuế… các thông tin về số thu còn chậm,
chưa phục vụ tôt cho việc chỉ đạo điều hành thu, chưa kết nối thông tin
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
với cơ quan quản lý nhà nước để có thông tin về đối tượng nộp thuế,
ứng dụng tin học trong công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế chưa
nhiều. Mặt khác, việc nộp thuế thông qua các phương tiện tự động chưa
được trang bị đồng bộ ảnh hưởng nhiều đến thời gian cũng như hiệu
quả quản lý. Trình độ về công nghệ thông tin của các cán bộ quản lý
thuế còn thấp nên việc ứng dụng tin học trong quản lý còn hạn chế.
4. Công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế, công tác thanh, kiểm tra,
công tác thu nợ, và cưỡng chế thuế đat hiệu quả chưa cao.
4.1 Về công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế.
Hiện nay, công tác tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế của
ngành thuế đã được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa
phương, song hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Cơ quan Thuế chủ yếu
mới tập trung vào công tác tuyên truyền về thuế, còn công tác hỗ trợ đối
tượng nộp thuế còn nghèo nàn, rời rạc, phân tán và bị động. Chức năng
hỗ trợ hướng dẫn đối tượng nộp thuế còn chưa được phân định rõ ràng
giữa các phòng trong cơ quan Thuế: Phòng hỗ trỡ và các phòng quản
lý. Nội dung hỗ trợ mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp một số lượng rất
hạn chế các văn bản hướng dẫn, chưa co điều tra, khảo sát, phân tích
nhu cầu của đối tượng nộp thuế theo nhu cầu của đối tượng. Cán bộ
làm công tác hỗ trợ còn chưa co kinh nghiệm, chưa được đào tạo
chuyên sâu về các kỹ năng hỗ trợ đối tượng nộp thuế. Bộ phận hỗ trợ tại
tổng cục thuế chưa đảm nhiệm được vai trò trung tâm chỉ đạo thống
nhất về các hoạt động hỗ trợ, chưa lập được chương trình kế hoạch
hoạt động, chưa biên soạn được các tài liệu hỗ trợ để hướng dẫn thực
hiện thống nhất trong nước.
4.2 Về công tác thanh tra, kiểm tra.
Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan Thuế chưa được
đặt đúng vị trí, chất lượng còn hạn chế, phương pháp, kỹ thuật thanh tra
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
, kiểm tra còn lạc hậu. Việc thanh tra, kiểm tra của cơ quan Thuế chủ
yếu được thể hiện dưới các hình thức thanh kiểm tra quyết toán thuế,
các nội dung thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề, kiểm tra thống nhất thu
thuế qua chuyển giá và gian lận thương mại hầu như chưa đựoc thực
hiện. Cơ quan Thuế chưa có chức năng điều tra, khởi tố nên khi thanh
tra, kiểm tra phát hiện dấu hiệu vi phạm thì cơ quan Thuế không thể tiếp
tục tiến hành trên cơ sở sổ sách, chứng từ , tài liệu do doanh nghiệp
cung cấp nên hạn chế đến kết quả thanh tra, kiểm tra.
Tại tổng cục thuế, bộ phận thanh tra, kiểm tra chưa phát huy được
vai trò chủ đạo giám sát. Việc thanh tra, kiểm tra còn phân tán, chưa
có sự phối kết hợp trong cả nước. Việc lựa chọn đối tượng thanh tra,
kiểm tra chưa dựa trên tiêu thức lựa chọn khoa học, chủ yếu tập trung
vào các doanh nghiệp lớn, có số thu cao nhằm mục tiêu tăng số thu, còn
các doanh nghiệp có số lỗ lớn, quy mô nhỏ, các chi nhánh thường rất ít
được kiểm tra, giám sát. Việc ứng dụng tin học trong công tác thanh tra
còn rất hạn chế. Ngành thuế chưa có sự trao đổi thông tin với các ngành
khác nên không nắm bắt kịp thời, đầy đủ các hoạt động kinh doanh và
tình hình nộp thuế của doanh nghiệp khi cần thiết.
4.3 Về công tác thu nợ và cưỡng chế thuế.
Hiện nay, tình trạng nợ đọng thuế khá phổ biến, số nợ thuế gần như
không giảm qua các năm. Cơ quan Thuế lại chưa có bộ phận chuyên
trách thực hiện chức năng thu nợ tại các cục thuế, các cán bộ quản lý
thu thực hiện nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc thu nợ cùng với các nhiệm vụ
khác như hướng dẫn, hỗ trợ đối tượng nộp thuế, thanh tra , kiểm tra
doanh nghiệp. Công tác thu nợ chưa được thực hiện khoa học, chưa
ứng dụng được tin học vào thu nợ và phân tích nợ. Việc xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thuế thực hiện chưa nghiêm do một số mức
hình phạt chưa hợp lý, biện pháp xử lý chưa cương quyết, thiếu sự phối
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
hợp giữa các ngành trong việc thực hiện xử lý, thủ tục còn phức tạp.
Việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế chưa khả thì do thiếu sự phối
kết hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với cơ quan Thuế. Các trình
tự, thủ tục về cưỡng chế chưa được quy định rõ ràng, cụ thể và chưa có
quy định pháp lý về trách nhiệm của các bên có liên quan trong việc
phối hợp với cơ quan Thuế trong việc thu nợ. Cán bộ thuế không đủ
thẩm quyền, kiến thức và nghiệp vụ để tiến hành các biện pháp cưỡng
chế.
5. Tổ chức bộ máy ngành thuế chưa hợp lý.
Tổ chức bộ máy ngành thuế hiện nay còn được tổ chức theo sắc
thuế kết hợp với theo đối tượng. Vai trò xây dựng kế hoạch, chủ đạo,
hướng dẫn, giám sát thực hiện các chính sách, nghiệp vụ quản lý thuế,
đánh giá kết quả thực hiện của cấp Trung ương còn rất hạn chế. Bộ
máy cục thuế được tổ chức chủ yếu theo đối tượng (các phòng quản lý
thu) và theo chức năng (các phòng chức năng). Việc tổ chức các phòng
quản lý vẫn tạo nên mỗi quan hệ thường xuyên trực tiếp giữa cán bộ
quản lý và đối tượng nộp thuế, từ đó dễ dẫn đến tiêu cực giữa đối tượng
nộp thuế và cơ quan Thuế, tình trạng hối lộ các cán bộ thu thuế để trốn
thuế gây thất thoát cho Ngân sách nhà nước. Các phòng quản lý thu vừa
có nhiệm vụ quản lý đôn đốc thu, vừa tham gia thanh tra, kiểm tra
hoàn thuế, quyết toán thuế, vừa hướng dẫn giải đáp cho đối tượng nộp
thuế do đó dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo trong quản lý, không
khách quan, không rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ và không chuyên
sâu theo chức năng công việc.
V. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tự khai, tự nộp.
Để nâng cao hiệu quả của cơ chế tự khai, tự nộp thuế và nhất là tạo
tiền đề cho việc áp dụng đại trà đến năm 2007 thì cơ quan Thuế cần
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
quan tâm, chú trọng tới công tác cơ bản sau:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về thuế.
Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo hướng đơn giản, minh
bạch. Mọi quy định trong chính sách thuế phải rõ ràng, dễ hiểu, các quy
định về thuế chỉ nên chứa đựng trong văn bản thuế, tránh tình trạng
muốn thực hiện một quy định trong luật thuế người ta phải tham chiếu
quá nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chẳng hạn như đối với thuế thu
nhập doanh nghiệp hiện nay, để thực thi nó cần phải đọc tới hàng chục
văn bản khác như: luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, luật doanh
nghiệp, luật lao động, một số quyết định của Bộ tài chính, luật khuyến
khích đầu tư trong nước… Đồng thời cần phải giao thêm quyền cho cơ
quan Thuế trong việc cưỡng chế và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
thuế, hoàn thiện và nâng cao tính pháp lý của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính lên thành Luật xử lý các vi phạm hành chính. Định nghĩa rõ
hành vi trốn lận thuế trong bộ luật hình sự và nâng cao mức hình
phạt đối với tội trốn thuế tương đương với mức hình phạt tội tham
nhũng ( theo quy định hiện hành, tội trốn thuế chỉ phạt tối đa là 7 năm tù
giam, còn tội tham nhũng có thể bị áp dụng hình phạt nặng nhất là tử
hình).
2. Đẩy mạnh công tác hưỡng dẫn, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế
thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp.
Cơ quan Thuế cần phải chuyển đổi từ việc chủ yếu dùng quyền
lực để quản lý sang hỗ trợ phục vụ để các đối tượng nộp thuế thực hiện
đúng nghĩa vụ thuế của mình. Cơ quan Thuế cần nhìn nhận các đối
tượng nộp thuế như là khách hàng của mình, như các đối tượng cần
được phục vụ. Các dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế phải được xuất
phát từ nhu cầu của đối tượng nộp thuế.
Trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu, phân tích nhu cầu của đối tượng nộp
thuế cơ quan Thuế cần phải chủ động cung cấp các dịch vụ hỗ trợ,
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
hướng dẫn với yêu cầu của những nhóm đối tượng nộp thuế. Việc thực
hiện công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế phải đảm bảo sự thống nhất về
nội dung hướng dẫn, cách thức thực hiện trên phạm vi cả nước. Sử
dụng các hình thức hỗ trợ được chuyên môn hóa như: các trung tâm
đón tiếp trả lời đối tượng nộp thuế, các trung tâm trả lời qua điện thoại,
hệ thống điện thoại tự động, trả lời trực tuyến qua mạng, các bộ
phận tiến hành các hội thảo với người nộp thuế…
3. Tăng cường công tác thanh tra.kiểm tra.
Cơ quan Thuế phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc
kê khai, nộp thuế của các đối tượng nộp thuế để phát hiện kịp thời xử lý
nghiêm minh những hành vi gian lận, trốn lận thuế. Cần phải bổ sung lực
lượng cán bộ làm công tác thanh kiểm tra, chú trọng nâng cao chất
lượng đội ngũ cả về trình độ chuyên môn và cả về đạo đức nghề
nghiệp : các cán bộ thanh tra phải đuợc tập huấn và hướng dẫn các kỹ
năng, phương pháp, thanh tra như kỹ năng phân tích báo cáo tài chính,
phân tích số liệu trên tờ khai thuế, kỹ thuật phỏng vấn đối tượng nộp
thuế, trình tự kiểm tra sổ sách, chứng từ…
Cán bộ thanh tra nên được bố trí chuyên sâu theo ngành kinh tế
như : dầu khí, ngân hàng, xây dựng…. Hoặc theo quy định của đối
tượng nộp thuế hay sự phức tạp của cuộc thanh tra như thanh tra các
doanh nghiệp đơn lẻ, các công ty, tổng công ty, công ty đa quốc gia,…
Ngoài ra, trong điều kiện nguồn lực cho công tác thanh tra, kiểm tra còn
hạn chế, cơ quan Thuế cần tiến hành phân loại, chọn lọc đối tượng
nộp thuế để kiểm tra, giám sát, nên tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực,
các trường hợp có khả năng không tuân thủ, trốn lận thuế cao. Do vậy,
cơ quan Thuế cần phải có đủ thông tin về đối tượng nộp thuế ít nhất là
3 đến 5 năm, các thông tin phải đầy đủ, kịp thời và tin cậy. Cơ quan
Thuế cũng nên có sự phối hợp của các ngành khai thác để thu thập đầy
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
đủ thông tin về đối tượng bị thanh tra và tránh sự thanh tra, kiểm tra
chồng chéo, trùng lặp giữa các ngành.
Các quy trình, phương pháp, thủ tục tiến hành thanh kiểm tra
phải đơn giản, rõ ràng, công khai sao cho vừa nâng cao được hiệu quả
của công tác thanh kiểm tra và không ảnh hưởng đển hoạt động sản
xuất kinh doanh của các đối tượng bị thanh kiểm tra. Thông báo cho đối
tượng nộp thuế biết rõ thời gian trình trự, thủ tục thanh kiểm tra, nghĩa
vụ của các bên trong quá trình kiểm tra, thanh tra… cơ quan Thuế phải
cung cấp đầy đủ thông tin về chính sách , pháp luật cũng như các vấn
đề có liên quan tới các tổ chức quản lý thu thuế, trên cơ sở đó để đối
tượng nộp thuế tự kiểm tra họat động của mình, xã hội cũng có thể kiểm
tra hoạt động của đối tượng nộp thuế và hoạt động của cơ quan Thuế.
Cơ quan Thuế phải thông báo kết quả thanh kiểm tra cho đối tượng
nộp thuế, tuyên dương các doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế
đồng thời cũng nên thông báo cho các doanh nghiệp khác biết những
trường hợp doanh nghiệp đã cố tình kê khai không đúng đã bị cục thuế
xử lý phạt theo luật định để răn đe các trường hợp vi phạm.
4. Thông tin tuyên truyền tới các đối tượng nộp thuế về thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp .
Cơ quan Thuế cần chú trọng công tác thông tin tuyên truyền, tư
vấn thuế nhằm nâng cao trình độ nhận thức và hiểu biết về thuế cho các
đối tượng nộp thuế. Công tác thông tin tuyên truyền về thuế cần thực
hiện qua nhiều hình thức khác nhau, thông qua các chương trình truyền
thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, thực hiện giáo dục pháp
luật thuế trong nhà trường, tăng cường các chương trình giải trí có lồng
ghép nội dung phổ biến các luật thuế để cho mọi người đều hiểu và ý
thức được nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.
5. Hiện đại hóa cơ sở vật chất cho ngành thuế.
Cơ quan Thuế cần phải được hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
cho công tác quản lý thu thuế, trang bị máy tính nối mạng toàn quốc, đào
tạo nâng cao trình độ kiến thức tin học cho các cán bộ thuế, không
ngừng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế. Hoàn chỉnh
thống nhất chương trình kết nối thông tin giữa các cơ quan Thuế, kho
bạc nhà nước, hải quan, cơ quan quản lý và cấp đăng ký kinh doanh để
theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước của các đối tượng
nộp thuế tốt hơn.
KẾT LUẬN
Áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế mang lại lợi ích cho cả
cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế. Đây là cơ chế quản lý thu thuế hiện
đại, hiệu quả nhằm mục đích tăng tính tự giác, nâng cao trách nhiệm của
đối tượng nộp thuế đối với nhà nước. Cơ chế này góp phần hiện đại hóa
quá trình quản lý thuế chuyên môn hóa theo chức năng, công việc. Hiện
nay ở Việt Nam cơ chế thu nộp phù hợp là một cơ chế kết hợp giữa cơ
chế tự khai, tự nộp với cơ chế thông báo thuế. Cơ chế tự khai, tự nộp
cần được áp dụng một cách chọn lọc do vậy cơ quan Thuế cần phải thận
trọng và nên áp dụng từng bước cơ chế này để tránh gây thất thu thuế
cho ngân sách nhà nước, đạt hiệu quả quản lý cao, đáp ứng được yêu
cầu của cải cách hành chính thuế.
Đà Nẵng,Ngày15tháng 10năm 2009
SVTH: Đặng Thanh Hiếu
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lý thuyết thuế- nhà Xuất Bản Tài Chính – năm 2005.2. Giáo trình chính sách kinh tế- xã hội- NXB Khoa học kỹ
thuật năm 2000.3. Tạp chí tài chính doanh nghiệp
Tháng 5/ 2005 : Bàn về các yêu cầu quản lý thuế theo cơ chế TKTN - Hoàng Thị Lan Anh –Tr15, 16, 17,18.Tháng 11/2004 : Cơ chế TKTN ở Việt Nam – Hoàng Thị Giang- Tr 32,33.
4. Tạp chí thuế nhà nước- KỳI tháng 8/2005 :+ Cải cách hành chính thuế những vấn đề đặt ra sau giai đoạn
đầu triển khai – Lê Anh Tuấn- Tr 8,9,10.+ Cơ chế TKTN phù hợp với xu thế cải cách quản lý hành
chính nhà nước – Châu Giang – Tr12,13.+ Tháng 9/ 2004 cơ chế TKTN ưu điểm, hạn chế và điều kiện áp
dụng- Lê Xuân Trọng- Tr 6,7,8 .+ Tháng 10/2004 mấy vấn đề khi thực hiện cơ chế TKTN – Nguyễn Bá Phú – Tr14,15.
- Kỳ II tháng 9/2005.Phát huy hiệu quả TKTN- Trần Văn Thông – Tr14,15.
5. Các trang Webhttp ://www.mo f.gov.vn : Tổng cục thuế – dịch vụ hỗ trợ DTN http://www.caicachhanhchinh.gov.vn
- Thí điểm mô hình TKTN ở Quảng Ninh và TP HCM - Thí điểm cơ chế TKTN ở HN.
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn
Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
http://www.mi s a.c o m.vn : Sau một năm thí điểm việc doanh nghiệp TKTN thuế
SVTH: Đặng thanh Hiếu Trần thanh Nhàn