Download pdf - VMM14 Q3 20141029.VIE

Transcript

BÁO CÁO

KINH TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM

Quý 3 - 2014

Báo cáo này được thực hiện với sự hỗ trợ của

Bộ Ngoại giao và Thương mại Ôx-trây-lia

Danh mục từ viết tắt

Bộ KH-ĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Bộ LĐ-TB-XH Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội

BoJ Ngân hàng Trung ương Nhật Bản

BSC Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Việt Nam

BTC Bộ Tài chính

DN Doanh nghiệp

ĐTNN Đầu tư nước ngoài

EA Khu vực Đồng tiền chung Châu Âu

ECB Ngân hàng Trung ương Châu Âu

EU Liên minh châu Âu

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Fed Cục Dự trữ Liên bang Mỹ

FMCG Hàng tiêu dùng nhanh

GDP Tổng sản lượng quốc nội

HSCB Ngân hàng Thương mại Hồng Kông-Thượng Hải

IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế

lhs trục trái

NHNN Ngân hàng Nhà nước

OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

PMI Chỉ số Nhà quản trị Mua hàng

qoq Thay đổi so với quý trước

rhs trục phải

TCTK Tổng cục Thống kê

TTCK Thị trường chứng khoán

UN Cơ sở dữ liệu Liên hợp quốc

USD Đồng dollar Mỹ

VAMC Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam

VCB Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

VEPR Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách

VND Đồng Việt Nam

WB Ngân hàng Thế giới

yoy Thay đổi so với cùng kỳ năm trước

Mục lục

Tóm lược kinh tế thế giới 5

Tóm lược kinh tế Việt Nam 6

I. Khái quát 8

Tăng trưởng 8

Lạm phát 8

II. Tổng cung 8

Công nghiệp 8

Dịch vụ 9

Thị trường nhân tố 9

III. Tổng cầu 10

Tiêu dùng 10

Đầu tư 10

Đầu tư nước ngoài 10

Chi tiêu chính phủ 11

Xuất nhập khẩu 11

IV. Cân đối vĩ mô 11

Cán cân ngân sách 11

Cán cân thanh toán 12

V. Thị trường vốn và thị trường tiền tệ 12

Thị trường vốn 12

Thị trường tiền tệ 13

Tỷ giá 13

VI. Thị trường tài sản 14

Thị trường chứng khoán 14

Thị trường vàng 14

Thị trường bất động sản 14

VII. Triển vọng kinh tế và khuyến nghị chính sách 15

Tóm lược kinh tế thế giới

Các dữ liệu kinh tế trong quý 3 vẫn cho thấy sự phục hồi kinh tế diễn ra không

đồng đều. Các nền kinh tế chủ chốt tại châu Âu và Nhật từng thắp lên hy vọng về

khả năng phục hồi và dẫn dắt tăng trưởng thế giới đã bộc lộ những dấu hiệu đảo

chiều. Các nền kinh tế mới nổi đang định hình quỹ đạo tăng trưởng thấp hơn

trong trung hạn. Các dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu phản ánh thái độ bi

quan hơn so với đầu năm.

Kinh tế Mỹ trỗi dậy trong quý II, tăng trưởng kinh tế và việc làm đều bật mạnh.

GDP tăng 1,1% qoq trong quý II sau khi giảm 0,5% trong quý I. Tỷ lệ thất nghiệp

đã giảm còn 5,9% trong tháng 9. Sản xuất và tiêu dùng mang quán tính mở rộng

sang quý III. Thị trường nhà ở có dấu hiệu phục hồi lại mức trước khủng hoảng.

Các tín hiệu vĩ mô tích cực dự báo các chương trình kích nới lỏng định lượng thứ

3 (QE3) sẽ tiếp tục được cắt giảm. Đồng USD đang mạnh lên so với các đồng

tiền chủ chốt khác và sẽ tác động lên sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Mỹ

và tình hình lợi nhuận của các DN.

Kinh tế châu Âu trong quý II giảm tốc so với quý I. GDP tại Khu vực đồng Euro

(EA) tăng nhẹ 0,7% yoy, trong khi toàn bộ Liên minh châu Âu (EU) tăng trưởng

1,2% yoy. Tăng trưởng tốt hơn khiến cho thất nghiệp của EU chỉ còn 10,1% so

với tỷ lệ 11,5% của EA. PMI ngành sản xuất giảm dần kể từ tháng 4/2014 xuống

mức thấp nhất trong 1 năm trở lại vào tháng 9, cùng với độ sụt giảm ở chỉ số

niềm tin của EC báo hiệu khu vực sản xuất đứng trước thách thức lớn và đe doạ

tăng trưởng. Hoạt động sản xuất suy yếu tại EA hối thúc ECB cắt giảm lãi suất

chủ chốt xuống còn mức thấp kỷ lục 0,05%.

Do sức tiêu dùng tại Nhật Bản đã dồn nén vào trong quý I trước khi tăng thuế

VAT lên 8% có hiệu lực kể từ tháng 4, GDP trong quý II chứng kiến mức giảm

mạnh nhất kể từ năm 2011, mất 7,1% yoy do tiêu dùng và đầu tư đồng loạt giảm

mạnh (19%). Mức sụt giảm mạnh này có thể sẽ ảnh hưởng tới kế hoạch tăng thuế

lần thứ 2 dự trù vào quý IV năm 2015 và nội dung của các chương trình cải cách

kinh tế sắp tới.

GDP Trung Quốc tăng trưởng 7,5% yoy trong quý II từ 7,4% trong quý I nhờ

ảnh hưởng của gói kích thích kinh tế; vay nợ và tín dụng tăng vọt. Trung Quốc

chưa cho thấy nước này sẽ xử lý khối nợ lớn đang treo lơ lửng như thế nào, một

cú sốc sẽ kéo lùi tăng trưởng trong trung hạn.

Căng thẳng Nga-châu Âu hạ nhiệt song vẫn phủ bóng lên niềm tin vào triển vọng

phục hồi của châu Âu và làm suy yếu đồng Euro. Ảnh hưởng kinh tế nghiêm

trọng do gián đoạn xuất khẩu dầu và khí đốt trong mùa đông vẫn là rủi ro hiện

hữu cho Tây Âu. Một rủi ro khác xuất phát từ tăng trưởng chậm lại tại các nền

kinh tế chủ chốt tại Nhật và EA đi cùng với lạm phát thấp kéo dài. Lãi suất chủ

chốt tại Mỹ và Anh có thể tăng và thị trường tài chính toàn cầu sẽ biến động

mạnh hơn khi QE3 tiến dần đến thời điểm kết thúc và lãi suất của ECB đã giảm

xuống xấp xỉ 0%.

-3.0

-2.0

-1.0

0.0

1.0

2.0

3.0

2011Q

1

2011Q

3

2012Q

1

2012Q

3

2013Q

1

2013Q

3

2014Q

1

Nguồn: OECD

Tăng trưởng kinh tế tại các

nền kinh tế chủ chốt, % qoq

EA Mỹ

Nhật Trung Quốc

0.00%

0.40%

0.80%

1.20%

1.60%

05-0

9

11-0

9

05-1

0

11

-10

05-1

1

11-1

1

05-1

2

11-1

2

05

-13

11-1

3

05-1

4

Nguồn: ECB, BoJ, BoE, Fed

Lãi suất điều hành của

một số NHTW

ECB BoJ

BoE Fed

0.0%

0.5%

1.0%

1.5%

2.0%

2.5%

3.0%

3.5%

4.0%

08-1

3

10-1

3

12-1

3

02-1

4

04-1

4

06-1

4

Nguồn: OECD

Lạm phát tại các nền kinh tế

chủ chốt

Mỹ Nhật

EA Trung Quốc

Tóm lược kinh tế Việt Nam

Môi trường vĩ mô ổn định và các cải cách thể chế đang bôi trơn cỗ máy tăng

trưởng.

GDP quý III tăng 6,19% biến mục tiêu tăng trưởng 5,8% cả năm 2014 trở nên

khả thi hơn. Sản xuất công nghiệp-xây dựng bứt phá còn dịch vụ giảm quán tính.

Số việc làm tăng nhưng chưa đi cùng cải thiện về chất lượng. Tiêu thụ chậm và

tồn kho tăng làm yếu triển vọng của ngành công nghiệp. Số DN giải thể và ngừng

hoạt động tăng mạnh so với 2013.

Tiêu dùng và đầu tư chưa khởi sắc

Cầu tiêu dùng yếu ngay cả trong các tháng có tính mùa vụ. Khối lượng hàng hoá

bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng nhanh hơn năm ngoái gần 1 điểm %. Hàng

tiêu dùng nhanh tăng trưởng yếu ớt ở thành thị và hạ nhiệt ở nông thôn.

Tổng đầu tư toàn xã hội duy trì ở mức 30% GDP. Vốn đầu tư trực tiếp giải ngân

nhỉnh hơn năm ngoái, trong khi vốn đăng ký mới giảm mạnh do quan ngại về vấn

đề an ninh của môi trường đầu tư trong nước.

Mất cân đối ngân sách, tiết kiệm và đầu tư

Thâm hụt ngân sách kéo dài khoảng 5% GDP vẫn là một yếu tố gây bất ổn vĩ mô.

Thu từ thuế chỉ vừa đủ cho chi thường xuyên, chi đầu tư và trả nợ phải trông cậy

vào nguồn thu từ trái phiếu. Tỷ lệ tăng chi thường xuyên và chi trả nợ gây cảnh

báo, vượt khả năng kiểm soát.

Thặng dư tài khoản vãng lai và chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng (7%) so với

tiền gửi (11%) đều hàm ý đầu tư nội địa đang thấp hơn tiết kiệm. Nguồn cung

vốn dư thừa nhưng tín dụng vào nền kinh tế chỉ nhỏ giọt, trái phiếu chính phủ vẫn

là kênh đầu tư hấp dẫn do rủi ro thấp.

Nợ xấu gia tăng, xử lý bế tắc

Các NHTM ghi nhận và trích lập dự phòng cho nợ xấu theo quy định mới trong

Thông tư 02. Nợ nghi ngờ và nợ mất vốn tăng mạnh, tài sản thế chấp rớt giá làm

tăng quỹ trích lập dự phòng, cắt vào lợi nhuận ngân hàng.

Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng gặp bế tắc do thiếu thị trường và

cơ sở pháp lý cần thiết còn hiệu năng của VAMC rất thấp. Nợ xấu được gom lại

nhưng không xuất hiện dòng chảy mua bán nợ.

Thặng dư ngoại tệ, tỷ giá có xu hướng giảm

Cán cân thanh toán nửa đầu năm thặng dư gần 10 tỷ USD và có thể vượt mức kỷ

lục năm 2012. Cung ngoại tệ dư thừa giữ lãi suất cho vay bằng USD ở mức thấp.

Trạng thái dư thừa ngoại tệ khiến VND có xu hướng tăng giá so với USD, cộng

với xu hướng tăng giá của USD so với các đồng tiền chủ chốt khác khiến cho

VND mạnh lên thật sự. Lần điều chỉnh tỷ giá lên 1% trong tháng 6, cam kết giữ

tỷ giá, và hoạt động mua ngoại tệ bền bỉ của NHNN không đủ để đưa tỷ giá theo

hướng có lợi đối với sản xuất và xuất khẩu.

Chứng khoán điều chỉnh, bất động sản khởi sắc

Thị trường chứng khoán giảm điểm mạnh. Lực bán ròng đến từ khối ngoại trước

những thông tin vĩ mô kém tích cực và ảnh hưởng của sự thu hẹp gói QE3. Khối

nội nương theo khối ngoại để mua vào hoặc bán ra nhưng chứng khoán giảm sâu

hơn có thể kéo theo hành động bán tháo từ những nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy.

Thị trường bất động sản sôi động nhất trong nhiều năm trở lại ở cả nguồn cung và

cầu, thanh khoản gia tăng. Chính sách mới mở rộng hỗ trợ người được vay và

thời hạn ưu đãi lãi suất lên 15 năm trong chương trình hỗ trợ cho vay nhà ở

thương mại.

I. Khái quát

Tăng trưởng

Trong khi các lo ngại vẫn xoay quanh các điểm nghẽn của của nền kinh tế chưa

được khai thông, tăng trưởng trong 9 tháng đầu năm được công bố ở mức 5,62%

vượt kỳ vọng của đa số. Theo thống kê, sản lượng tăng tốc trong quý III đạt mức

tăng 6,19% yoy, vượt lên mức 5,54% cùng kỳ năm ngoái, đồng thời tăng trưởng

quý II cũng được điều chỉnh lên 5,42% từ mức ước tính 5,25%.

Khác với các năm trước, tăng trưởng nhanh hơn chủ yếu nhờ sự tăng tốc của

ngành công nghiệp-xây dựng. Dù vẫn đóng góp nhiều nhất vào GDP với tốc độ

tăng 5,99% yoy, ngành dịch vụ có dấu hiệu giảm tốc trên diện rộng. Nông, lâm

nghiệp và thuỷ sản tăng trưởng nhỉnh hơn 2013 (3% so với 2,39%) nhờ thuỷ sản

vượt lên (6,15%).

Tốc độ tăng trưởng trong quý 3 cũng vượt kỳ vọng của quốc tế. ADB hạ dự báo

tăng trưởng kinh tế năm 2014 của Việt Nam từ 5,6% về 5,5%. Khảo sát của

Bloomberg cho thấy giới tài chính nhận định triển vọng kinh tế Việt Nam kém

lạc quan hơn đầu năm. Tăng trưởng kinh tế có thể thấp hơn mục tiêu 5,8% và

thậm chí không bằng năm ngoái.

Lạm phát

Tốc độ cải thiện chậm trong tiêu dùng và đầu tư không tác động đáng kể lên giá

cả. Tỷ lệ lạm phát hiện tại là mức thấp hiếm thấy trong hơn một thập kỷ. Tốc độ

giá tiêu dùng đã trượt xuống dưới 4% và đang hướng về ngưỡng 3%. Lạm phát đi

xuống hàm ý rằng người tiêu dùng đang sống trong thời kỳ giá cả ổn định nhất

trong nhiều năm, song dường như niềm tin tiêu dùng chưa mạnh mẽ vẫn đang trì

kéo sức mua.

Giá cả lương thực và xăng dầu không còn gây quan ngại như nửa đầu năm và có

dấu hiệu đảo chiều. Lạm phát lõi tiếp tục giảm là một dấu hiệu cho thấy chi tiêu

cho các hàng hoá kém thiết yếu vẫn cầm chừng. Mức độ điều chỉnh giá các dịch

vụ công không đủ mạnh để đẩy lạm phát lên như hai năm trước. Lạm phát không

còn là vấn đề đáng quan ngại trong quý còn lại của năm 2014. Lãi suất kỳ hạn

dưới 1 năm trên thị trường liên ngân hàng cũng gợi ý lạm phát được kỳ vọng

quanh mức 4%.

II. Tổng cung

Công nghiệp

Sản xuất công nghiệp gia tăng đáng kể trong năm 2014 nhưng tốc độ tiêu thụ

chậm hơn và tồn kho tăng so với năm ngoái phản ánh một phần đáng kể sản

lượng công nghiệp đang ở dạng tồn kho thành phẩm. Được hỗ trợ bởi nhu cầu

bên ngoài và sự có mặt của các nhà xưởng có vốn FDI, IPI ngành chế biến-chế

tạo tăng 8,3%, cao hơn nhiều so với mức tăng 6,7% của 3 quý năm ngoái. Sản

xuất và phân phối điện duy trì tốc độ mở rộng cao 2 chữ số. Chỉ số tồn kho kể từ

đầu năm cao hơn từ 3-4 điểm phần trăm so với 2013, còn tốc độ gia tăng tiêu thụ

cũng chậm hơn trung bình 2 điểm%.

3.0%

4.0%

5.0%

6.0%

7.0%

I II III IV I II III IV I II III IV

2012 2013 2014

Nguồn: TCTK

Tăng trưởng GDP, yoy

GDP

0

2

4

6

8

10

12

01-1

3

03-1

3

05-1

3

07-1

3

09-1

3

11-1

3

01-1

4

03-1

4

05-1

4

07-1

4

09-1

4

Nguồn: TCTK

Lạm phát hàng tháng, % yoy

i

toàn phần

ngoài lõi

0.0

4.0

8.0

12.0

16.0

20.0

02-1

3

04-1

3

06-1

3

08-1

3

10-1

3

12-1

3

02-1

4

04-1

4

06-1

4

08-1

4

Nguồn: TCTK

Chỉ số công nghiệp chế biến

chế tạo

tiêu thụ tồn kho phát triển

PMI ở trong vùng mở rộng tháng thứ 13 liên tiếp kể từ tháng 9 năm ngoái và đã

không rơi vào vùng suy giảm do tính mùa vụ trong tháng 7 và tháng 8. Vận động

này xác nhận điều kiện sản xuất thuận lợi giữ được quán tính và sự phục hồi kinh

tế có nền tảng vững chắc. Nhưng một thách thức mới xuất hiện, đó là tăng trưởng

chậm hơn tại châu Âu và Mỹ có thể ảnh hưởng tới đơn hàng xuất khẩu trong khi

nhu cầu nội địa chưa đủ mạnh.

Mặc dù thay đổi tồn kho cũng được tính vào tăng trưởng GDP như một khoản

đầu tư và có thể đã đóng góp không nhỏ vào mức tăng GDP trong quý III, tồn

kho gia tăng hàm ý rằng sức mua đang chậm lại, báo trước khả năng thu hẹp sản

xuất và giảm thuê lao động của DN.

Hoạt động xây dựng gia tăng trong quý III (9 tháng tăng 6,3% yoy) nhờ đẩy

nhanh tiến độ các công trình lớn sử dụng vốn vay như cao tốc Hà Nội-Lào Cai,

nhà ga T2 Nội Bài, cầu Nhật Tân, đồng thời hoạt động xây dựng của khu vực

ĐTNN cũng đang nóng lên.

Dịch vụ

Ngành dịch vụ tăng trưởng thấp hơn 0,26 điểm % so với năm ngoái, trong đó sụt

giảm đáng kể nhất ở nhóm dịch vụ lưu trú và ăn uống (mất 2,3 điểm %), và tài

chính-ngân hàng (mất 1,2 điểm %). Các dịch vụ liên quan tới khu vực công gồm

y tế, giáo dục, hành chính công có mức tăng 7-7,5% dù cũng giảm tới 0,5 điểm%

so với năm ngoái.

Một thước đo khác là bán lẻ cho thấy bức tranh hỗn hợp. Tốc độ tăng cao (17%

yoy) cho thấy du lịch vượt qua khó khăn từ căng thẳng tại biển Đông. Tăng

trưởng khách du lịch nước ngoài chỉ nhỉnh hơn năm ngoái do khai thác khách

Trung Quốc khó khăn hơn. Thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ

tăng trưởng không bằng năm ngoái dù vẫn ghi nhận mức tăng doanh thu 2 chữ số.

Thị trường nhân tố

Tốc độ tiêu thụ kém hơn năm ngoái khiến tồn kho tăng cao, khó khăn tìm kiếm

đơn hàng mới và điều kiện cho vay chặt chẽ hơn cản trở DN vay vốn để duy trì

hoạt động. Số DN thành lập mới giảm 9% trong khi số DN giải thể và ngừng hoạt

động tăng 20%, đa phần là các DN vừa và nhỏ ở khu vực tư nhân. Quá trình giải

đòn bẩy tài chính của nền kinh tế sẽ còn kéo theo nhiều DN ngừng hoạt động vì

bị ngắt nguồn tín dụng dễ dãi như trước. Khu vực ĐTNN đang tỏ ra vượt trội về

năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu (chiếm xấp xỉ 2/3) và hướng tới mức

đóng góp ¼ tổng GDP của cả nền kinh tế. Suy yếu nền tảng sản xuất và động lực

tăng trưởng nội địa sẽ đặt nền kinh tế Việt Nam ở thế bị tổn thương trước các

thay đổi từ bên ngoài, ví dụ FDI chuyển hướng tới các nước có chi phí lao động

thấp hơn.

Nền kinh tế sôi động hơn thường đi liền với thất nghiệp giảm. Với tăng trưởng

bật tăng tại các ngành thâm dụng lao động như chế biến chế tạo và xây dựng thì

số người có việc làm gia tăng và tỷ lệ thất nghiệp giảm là có cơ sở. Chỉ số sử

42

44

46

48

50

52

54

04-1

1

08-1

1

12

-11

04-1

2

08-1

2

12

-12

04-1

3

08-1

3

12

-13

04-1

4

08-1

4

Nguồn: HSBC

Chỉ số Nhà quản trị

Mua hàng - PMI

PMI

42459

58229

52822

53222

0

20000

40000

60000

ngừng hoạt động thành lập

Nguồn: Bộ KH-ĐT

Biến động số lượng DN

3Q13 3Q14

dụng lao động tại các DN công nghiệp tăng 4,2% yoy, xấp xỉ năm ngoái. Số việc

làm tăng nhanh hơn ở khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài và ngành công

nghiệp chế biến chế tạo.

Tỷ lệ thất nghiệp giảm về mức thấp 1,84% tại quý II trước khi bật lên 2,29% tại

quý III do sự thay đổi số người gia nhập lực lượng lao động (sinh viên ra trường).

Tỷ lệ thất nghiệp trên dưới 2% bộc lộ hạn chế của tiêu chuẩn đo lường hơn là bản

chất của thị trường lao động. Làm việc trong khu vực phi chính thức hay trái

ngành nghề đào tạo dù có bằng đại học là hai hiện tượng phản ánh chất lượng

việc làm thấp và lãng phí nguồn lực.

Trong dự thảo nghị định về khung giá đất 2015 soạn thảo theo Luật đất đai 2013,

giá đất cao nhất tại 2 khu đô thị đặc biệt là Hà Nội và Hồ Chí Minh tăng gấp đôi

từ mức hiện tại (81 triệu đồng/m2). Thị trường bất động sản sẽ gặp khó khăn hơn

nếu đề xuất này được thông qua. Khả năng tăng giá đất trong năm sau kích thích

giao dịch nhà ở, và có ý kiến nghi ngờ đây là mục đích chính của đề xuất này.

III. Tổng cầu

Tiêu dùng

Nền kinh tế có dấu hiệu khởi sắc nhưng nhu cầu tiêu dùng tăng khiêm tốn, trở

thành rào cản không nhỏ. Khối lượng bán lẻ 9 tháng tăng 6,2% yoy, cao hơn gần

1 điểm% cùng kỳ năm ngoái. Ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) cũng chứng

kiến sự đình trệ tại thành thị (tăng 0.9% so với 4% năm ngoái) trong khi nông

thôn hạ nhiệt những vẫn có mức tăng cao (8% so với 8,6% năm ngoái). Cầu tiêu

dùng không đủ mạnh ngay cả trong các tháng thường có tính mùa vụ cao, điển

hình là Tết Nguyên đán và mùa du lịch.

Dù môi trường vĩ mô ổn định và có nhiều dấu hiệu tích cực (như lạm phát, tỷ giá,

lãi suất) nhưng vẫn chưa đủ mạnh để hâm nóng tiêu dùng. Niềm tin tiêu dùng

khôi phục chậm và không vững chắc đang là rào cản lớn nhất. Người tiêu dùng

cần có thêm thời gian để nới lỏng chi tiêu, do vậy duy trì ổn định vĩ mô là rất

quan trọng.

Đầu tư

Nằm trong xu hướng giảm đòn bẩy tài chính, tỷ lệ tổng đầu tư trên GDP giảm

dần do không được “nuôi dưỡng” bằng nguồn tín dụng như trước. Cuối tháng 9,

dư nợ tín dụng tăng thực tế khoảng 4% so với cuối năm ngoái, trong khi tổng đầu

tư chỉ tương đương 31% GDP. Vốn từ bên ngoài mang lại luồng sinh khí cần

thiết cho đầu tư và sản xuất trong nước.

Đầu tư nước ngoài

FDI giải ngân 8,9 tỷ USD, chỉ nhỉnh hơn 3,4% so với năm ngoái. Vốn đăng ký

mới giảm 18% phản ánh sự thay đổi trong đánh giá của nhà đầu tư về môi trường

đầu tư trong nước sau khi xảy ra vụ việc biểu tình đốt phá nhà xưởng vào tháng 5

và tình hình an ninh trên biển Đông. Công tác đền bù thiệt hại từ biểu tình bộc lộ

sự thiếu chuyên nghiệp và tệ nạn tham nhũng tại địa phương.

12.5

9.9

11.1

4.0

5.3

4.9

6.2

0.9

Bán lẻ Tiêu dùngnhanh

Bán lẻ Tiêu dùngnhanh

13q3 14q3

Nguồn: BCT, Kantar

Tiêu dùng, % thay đổi

Giá trị Khối lượng

4.00%

4.20%

4.40%

4.60%

2.00%

2.10%

2.20%

2.30%

Nguồn: TCTK

Việc làm

thất nghiệp (lhs)

sử dụng lao động (rhs)

Việt Nam đang tụt hậu trong một khu vực có các bước tiến rất mạnh mẽ nhằm

nâng cao năng lực cạnh tranh. Các cải cách đã được quốc tế ghi nhận, nhưng cần

đẩy mạnh các biện pháp thực dụng hướng tới một nền hành chính hiệu quả và

minh bạch.

FDI không còn tập trung ở các dự án mới (greenfield) và đang hướng đến mua lại

và sát nhập (M&A) tại các ngành then chốt như bán lẻ, dịch vụ ăn uống, kho vận.

FDI. Đầu tư nước ngoài sẽ tăng cường sức ép và thách thức yếu tố trong nước

phải thay đổi, với mức độ ngày càng tăng khi Việt Nam sắp hội nhập sâu hơn vào

kinh tế quốc tế với AEC trong năm 2015 và xa hơn là TPP và EU-Việt Nam

FTA.

Chi tiêu chính phủ

Chi ngân sách trong 9 tháng đầu năm tương đương 28,7% GDP, trong đó chi đầu

tư phát triển xấp xỉ 4,8%, chi thường xuyên chiếm 20,1% và chi trả nợ chiếm

3,8%.

So với 3 quý đầu năm 2013, tổng chi ngân sách (không gồm trả nợ gốc) tăng

danh nghĩa 11,5%, Chi thường xuyên tăng tới 13,4% so với chi đầu tư phát triển

chỉ tăng 3,4%, cho thấy phần chi tiêu để duy trì bộ máy Nhà nước đang lớn nhanh

hơn nhiều so với đầu tư phát triển.

Gánh nặng ngân sách không chỉ ở bộ máy cồng kềnh mà còn ở nghĩa vụ trả nợ.

Nợ gốc phải trả tăng 23% từ 40 nghìn tỷ lên 49 nghìn tỷ đồng, còn trả nợ lãi còn

tăng gần gấp rưỡi, từ 36 nghìn tỷ lên 52 nghìn tỷ đồng, tức là số tiền lãi đã vượt

qua số nợ gốc phải trả. Khối lượng trái phiếu ngắn hạn tăng mạnh trong 3 năm trở

lại là nguyên nhân dẫn tới nghĩa vụ trả nợ tăng đột biến.

Xuất nhập khẩu

Ảnh hưởng từ các rắc rối trên biển Đông không cản trở nhiều tới hoạt động

thương mại Việt Nam-Trung Quốc. Đề phòng căng thẳng leo thang, hoạt động

ngoại thương đã tăng cường trong tháng 5 trước khi hạ nhiệt và trở lại nhịp độ

bình thường trong quý III. Tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu ở mức hai chữ

số, dù mức này là chưa đủ để cứu vãn các DN trong nước.

Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 109, 6 tỷ USD, tăng 14% yoy, còn kim ngạch

nhập khẩu đạt 107,2 tỷ USD, tăng 11% yoy. Khu vực kinh tế trong nước trỗi dậy

đạt tăng trưởng 14% nhờ các mặt hàng nông sản và nguyên liệu thô như rau quả,

hạt tiêu, hạt điều, cà phê, thuỷ sản đều có mức tăng 2 chữ số. Khu vực gia công

lắp ráp tăng mạnh cả xuất khẩu thành phẩm và nhập khẩu nguyên phụ kiện. Nhập

khẩu tư liệu sản xuất chiếm khoảng 70%, hàng tiêu dùng chỉ chiếm tỷ lệ kiêm tốn

6,5%.

IV. Cân đối vĩ mô

Cán cân ngân sách

Dẫu cho tình hình thu nội địa tiến triển tích cực so với năm ngoái, chi tiêu ngân

sách cho các khoản mục thường xuyên tăng nhanh khiến bội chi vẫn ở mức cao.

Bội chi ngân sách 9 tháng đầu năm xấp xỉ 132 nghìn tỷ đồng, tương đương với

5.0

6.0

7.0

8.0

9.0

10.0

3Q11 3Q12 3Q13 3Q14

Nguồn: Bộ KH-ĐT

FDI, tỷ USD

Giải ngân Đăng ký

40

49

36

52

3q13 3q14

Nguồn: BTC

Nghĩa vụ nợ, nghìn tỷ đồng

trả nợ gốc trả lãi

2.0

1.5

1.0

0.5

0.0

0.5

1.0

1.5

2.0

-80%

-60%

-40%

-20%

0%

20%

40%

60%

80%

07-1

0

01-1

1

07-1

1

01-1

2

07-1

2

01-1

3

07-1

3

01-1

4

07-1

4

Tỷ

USD

Nguồn: tính toán từ BTC

Thương mại hàng hoá

Cán cân (rhs)

Xuất khẩu, yoy (lhs)

Nhập khẩu, yoy (lhs)

4,9% GDP. Với tình trạng bội chi như hiện tại được duy trì đến cuối năm, thâm

hụt ngân sách lại thêm một năm lỡ kế hoạch.

Cán cân ngân sách thiếu bền vững khi thu từ thuế và lệ phí (602 nghìn tỷ đồng)

chỉ suýt soát đủ cho chi thường xuyên (590 nghìn tỷ). Những khoản chi tiêu còn

lại phụ thuộc phần lớn vào nguồn tài chính từ phát hành trái phiếu. Khối lượng

trái phiếu phát hành từ đầu năm đạt hơn 220 nghìn tỷ đồng, không chỉ bù đắp

thâm hụt ngân sách mà còn để đảo nợ các trái phiếu hết hạn. Vấn đề nợ công lại

được quan tâm khi tỷ lệ nợ công đã gần chạm tới trần 65% còn Quốc hội không

thể kiểm soát tốc độ tăng chi tiêu của Chính phủ.

Cán cân thanh toán

Chưa có dữ liệu cụ thể về cán cân thanh toán đến hết quý II, song dựa vào lượng

dự trữ ngoại hối giữa tháng 6/2014 so với tháng 12/2013 có thể thấy cán cân tổng

thể đã thặng dư gần 10 tỷ USD. Có thể tin chắc rằng Việt Nam đang có thặng dư

tương đối lớn trên cả hai cán cân vãng lai và vốn dựa vào dữ kiện của quý I.

Thặng dư năm 2014 có thể vượt qua mức 11,86 tỷ USD của năm 2012 và dự trữ

ngoại hối sẽ tăng tương ứng lên 37-38 tỷ USD.

Thặng dư tài khoản vãng lai bộc lộ nền kinh tế đang phụ thuộc nhiều vào xuất

khẩu còn tiêu dùng đang rất thấp. Ở khía cạnh khác, đầu tư đang ở mức thấp so

với tiết kiệm. Thặng dư tổng thể không nhất thiết là một tín hiệu tốt, khi thặng dư

trên tài khoản vãng lai không đi cùng sự thâm hụt tương ứng trên tài khoản vốn

mà chuyển vào dự trữ của NHTW, khiến vốn không sinh lợi hiệu quả. Mức thặng

dư này cũng hàm ý sự dư thừa ngoại tệ trong nước, chủ yếu là USD, duy trì lãi

suất cho vay USD ở mức thấp và kích thích tín dụng ngoại tệ.

V. Thị trường vốn và thị trường tiền tệ

Thị trường vốn

Biểu lãi suất điều hành không đổi trong quý III. Lãi suất tái chiết khấu và lãi suất

tái cấp vốn giữ ở mức 4,5% và 6,5% kể từ cuối quý I. Các cân đối trên thị trường

vốn và thị trường tiền tệ không có nhiều chuyển biến. Biểu lãi suất huy động có

xu hướng giảm ở tất cả các kỳ hạn, tuy nhiên lượng tiền gửi vào ngân hàng, nhất

là các ngân hàng TM lớn, vẫn gia tăng.

Nợ xấu trong 3 quý đầu năm gia tăng do quy định mới về phân loại và trích lập

dự phòng nợ xấu. Gia tăng mạnh ở nhóm nợ nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có

khả năng mất vốn). Nợ xấu đang manh nha hình thành trên những khoản nợ mới.

Xử lý nợ xấu gặp bế tắc do VAMC không thể thực hiện chức năng như bản thiết

kế. VAMC chỉ đơn thuần giữ nợ xấu của các TCTD và chưa thể bán được nợ xấu

cho chủ thể khác. Nợ xấu vẫn phù thuộc hoàn toàn vào hệ thống các tổ chức tín

dụng. Cho đến nay, các các cơ chế pháp lý cần thiết để thúc đẩy quá trình xử lý

nợ xấu chưa được xây dựng đầy đủ. Quyền tài sản, nhất là quyền sở hữu gắn với

đất đai, chưa được phân định rõ ràng, dẫn tới việc đưa cơ chế thị trường vào quá

trình định giá và xác định người mua gặp nhiều vướng mắc. Nợ xấu chỉ được xử

lý khi có sự chuyển giao nợ xấu cùng với quyền sở hữu gắn với tài sản thế chấp

12.5 13.5

25.6 25.9

33.3 35.8

-10

0

10

20

30

40

2010

2011

2012

2013

2014Q

1

2014Q

2

Nguồn: NHNN, UNdata

Dự trữ ngoại hối và

cán cân thanh toán, tỷ USD

dự trữ ngoại hối

cán cân thanh toán

0.0%

2.0%

4.0%

6.0%

8.0%2005

2006

2007

20

08

20

09

2010

2011

2012

2013

3Q

2014

Nguồn: tính toán từ BTC

Thâm hụt, % GDP

Thâm hụt

-2

0

2

4

6

8

10

12

01-1

4

02-1

4

03-1

4

04

-14

05-1

4

06

-14

07-1

4

08-1

4

09-1

4

Nguồn: NHNN

Cung tiền và tín dụng, % ytd

tín dụng cung tiền

và có “dòng chảy” trên thị trường. Để có “dòng chảy” vốn mua bán nợ xấu thì

nhất thiết phải sử dụng tiền thật, bất kể là tiền ngân sách hay vốn của tư nhân, và

sự thiếu nhất trí về việc sử dụng vốn từ ngân sách hay vay nợ nước ngoài đang trì

hoãn việc tạo thanh khoản cho thị trường.

Vốn vay khó chảy vào nền kinh tế khi mà DN kinh doanh tốt có nhu cầu tín dụng

thấp, còn ngân hàng hạn chế cho vay số còn lại do rủi ro cao. Vốn nhàn rỗi tìm

đến các nơi có rủi ro thấp như trái phiếu chính phủ và bảo lãnh bởi chính phủ.

Trái phiếu kho bạc phát hành kể từ đầu năm tăng gấp rưỡi so với cả năm 2013,

khoảng 220.000 tỷ đồng – một kỷ lục mới về huy động trái phiếu. Nhu cầu với kỳ

hạn dài hơn đang tăng lên cũng gợi ý sự lạc quan vào tình trạng vĩ mô của nền

kinh tế.

Thị trường tiền tệ

Thị trường tiền tệ tiếp tục bộc lộ trạng thái dư thừa tiền đồng. Lãi suất kỳ hạn 3

tháng trên thị trường liên ngân hàng đã về dưới 4%, biểu hiện tình trạng thanh

khoản tốt của ngân hàng cho đến hết năm. Lãi suất thấp cũng hàm ý nhu cầu tín

dụng và nhu cầu thanh toán ở mùa cao điểm cuối năm sẽ ít có khả năng cải thiện

nhiều.

Tỷ giá

Tỷ giá hối đoái giữa VND và USD dao động trong vùng 21200 và 21250 trong

phần lớn thời gian của quý III. Tỷ giá đã hạ nhiệt từ sức nóng ở cuối quý II khi

thị trường phản ứng với sự điều chỉnh tỷ giá lên 1% so với đầu năm của NHNN.

Diễn biến trên thị trường tiền tệ sau đó phản ánh đúng trạng thái của VND so với

USD: VND có xu hướng mạnh lên so với USD do nền kinh tế có thặng dư lớn

trong thương mại và đầu tư. Tỷ giá danh nghĩa đến cuối tháng 9 giảm 0,48% so

với tỷ giá tham chiếu của NHNN.

Đồng USD đang tăng giá so với các đồng tiền chủ chốt khác, kết hợp với xu

hướng tăng giá của VND so với USD khiến VND tăng giá so với các đồng tiền

của các đối tác thương mại chính của mình. Không chỉ vậy, xu hướng tăng tỷ giá

hiệu dựng thực tế vẫn ngầm diễn ra. Để tiếp tục hỗ trợ khu vực xuất khẩu và sản

xuất thay thế nhập khẩu ở trong nước, NHNN cần duy trì VND yếu so với USD.

Lời cam kết giữ tỷ giá cuối năm không tăng quá 1,43% của Thống đốc khó làm

thay đổi kỳ vọng của thị trường vào giá trị của VND.

21,000

21,100

21,200

21,300

21,400

01-1

4

02-1

4

03-1

4

04-1

4

05-1

4

06-1

4

07-1

4

08-1

4

09-1

4

Nguồn: NHNN, VCB

Tỷ giá VND/USD

Liên ngân hàng

VCB bán ra

VI. Thị trường tài sản

Thị trường chứng khoán

Việt Nam đang nổi lên là thị trường tiềm năng (frontier market) sáng giá nhất

toàn cầu. Với sự nhìn nhận lạc quan về triển vọng kinh tế và cổ phiếu được định

giá thấp, nhà đầu tư nước ngoài đang tăng đầu tư vào thị trường.

Trong ngắn hạn, các thông tin vĩ mô như nợ công, nợ xấu, DN giải thể và ngừng

hoạt động đang phủ bóng lên tâm lý của thị trường. Các chỉ số chứng khoán bước

vào giai đoạn đi xuống, lực bán mạnh khẳng định cái nhìn quan ngại và quyết

định chốt lời rút vốn của nhà đầu tư. Việc Vn-index liên tục phá vỡ các mức

kháng cự kỹ thuật cũng làm yếu đi triển vọng ngắn hạn. Khối ngoại tận dụng giá

xuống để tái cơ cấu danh mục đầu tư tại các mã lớn, trong khi các mã cổ phiếu thị

giá nhỏ thu hút dòng vốn nội, giúp chỉ số chứng khoán sàn Hà Nội (HNX) chỉ

giảm 2,6% trong tháng 9, thấp hơn mức giảm 6,4% của sàn TP Hồ Chí Minh.

Thị trường vàng

Giảm giá là xu hướng xuyên suốt của quý III với tốc độ giảm chậm. Tỷ lệ lạm

phát thấp khiến cho dòng vốn rời khỏi thị trường vàng và đi tìm các kênh đầu tư

có rủi ro và lợi nhuận cao hơn. Sự biến động của môi trường kinh tế chính trị thế

giới làm tăng biên độ dao động của giá vàng thế giới nhưng ảnh hưởng không

đáng kể tới thị trường trong nước. So với đầu năm thì giá vàng SJC cuối tháng 9

quanh mức 35,9 triệu đồng/lượng, tăng khoảng 1 triệu đồng/lượng hay gần 3%.

Khoảng cách giữa giá vàng trong nước và giá thế giới quy đổi đang dần thu hẹp

lại.

Thị trường bất động sản

Thị trường bất động sản đang có một năm bận rộn nhất trong vài năm trở lại,

thanh khoản thị trường gia tăng đáng kể. Các báo cáo bất động sản đều nhấn

mạnh sự gia tăng trong nguồn cung căn hộ, nhất là phân khúc giá tầm trung đang

có sức hút khá mạnh. Nhu cầu đầu tư và đầu cơ quay trở lại bên cạnh nhu cầu sử

dụng cuối cùng. Sự xuất hiện của các dự án hạ tầng tại TP Hồ Chí Minh và tiến

độ của các dự án ở Hà Nội như cầu Nhật Tân được xem là những cú hích tới sự

hồi phục của thị trường.

Về phía chính sách, Nghị quyết 61 của Chính phủ sửa đổi Nghị quyết 02 về hỗ

trợ cho vay nhà ở tối đa lên 15 năm, mở rộng đối tượng được mua nhà khi tổng

giá trị dưới 1,05 tỷ đồng thay thế quy định về giá và diện tích. Ngoài ra, dự thảo

một số Luật và quyết định có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường như Luật

kinh doanh bất động sản đề xuất nhiều loại phí áp lên DN kinh doanh địa ốc,

quyết định dừng xây chung cư thương mại tại các quận nội đô và giới hạn chiều

cao, Luật nhà ở loại người nhập cảnh vào Việt Nam trong đối tượng được phép

mua nhà.

0

50

100

150

200

250

300

500

520

540

560

580

600

620

640

660

01-1

4

02-1

4

03-1

4

04-1

4

05-1

4

06-1

4

07-1

4

08-1

4

09-1

4

triệ

u

Nguồn: BSC

VN-index

khối lượng (rhs) Vn-index (lhs)

25.00

30.00

35.00

40.00

45.00

50.00

01-1

3

04-1

3

07-1

3

10-1

3

01-1

4

04-1

4

07-1

4

Nguồn: SJC

Giá vàng, triệu đồng/lượng

Trong nước (SJC) Quốc tế

VII. Triển vọng kinh tế và khuyến nghị chính sách

Triển vọng kinh tế

Do tình hình căng thẳng tại biển Đông được kiểm soát, không gây hậu quả kéo

dài và nghiêm trọng lên chuỗi cung ứng và sản xuất của Việt Nam, tăng trưởng

kinh tế cả năm có thể đạt 5,8%. Các yếu tố tổng cầu và các cải cách ở phía cung

chưa đủ để kéo nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng trung hạn.

Sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng sẽ còn kéo theo nhiều hệ luỵ, một trong

số đó là đà giảm của lạm phát. Lạm phát năm 2014 có thể thấp dưới 4%, và nếu

đà giảm còn duy trì trong năm 2015 thì sẽ kìm hãm nhu cầu. Người tiêu dùng có

thể hạn chế chi tiêu hiện tại do kỳ vọng giá còn giảm thêm trong tương lai. Tăng

trưởng tiêu dùng sẽ ổn định quanh ngưỡng thấp trước khi chậm rãi đi lên khi

những cải thiện trong thu nhập hình thành rõ ràng hơn, điều sẽ có được nếu khu

vực chế biến chế tạo và chế biến lâm thuỷ sản tiếp tục mở rộng.

Hệ luỵ thứ hai là nhu cầu tiêu dùng thấp sẽ tiếp tục gây căng thẳng cho khu vực

DN trong nước, vốn đã phải cạnh tranh một cách không sòng phẳng với hàng

nhập khẩu giá rẻ do tỷ giá thấp. Số DN gặp khó khăn phải ngừng hoạt động được

thay thế bởi lớp DN mới hưởng lợi từ lãi suất thấp và môi trường vĩ mô ổn định

hơn. Nhu cầu về lao động cho các nhà xưởng gia công và lắp ráp sẽ gia tăng vào

cuối năm theo mùa vụ, do đó tỷ lệ thất nghiệp có thể giảm nhẹ nhưng không có

cải thiện về chất lượng việc làm hay năng suất lao động.

Tình hình tồn kho và tiêu thụ sản phẩm như hiện tại sẽ cản trở khu vực tư nhân

mở rộng đầu tư, còn lãi suất cho vay chỉ có ảnh hưởng hạn chế lên tín dụng vì

điều kiện vay vốn không còn dễ dàng như trước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ

duy trì trạng thái dè dặt và thận trọng trước khi nhà đầu tư nước ngoài phục hồi

niềm tin về khả năng bảo vệ nhà đầu tư và mức độ an toàn của môi trường đầu tư

trong nước. Đầu tư của khu vực Nhà nước khó bung ra mạnh vì quá trình tái cấu

trúc đầu tư của DNNN và vốn ngân sách chịu ràng buộc bởi vốn vay.

Chi tiêu Chính phủ vẫn nằm ngoài khả năng kiểm soát của Quốc hội. Bội chi

ngân sách có thể trong vòng 4,5-5% GDP, vượt quá mục tiêu giảm dần thâm hụt.

Mức bội chi này khiến không gian chính sách chịu trói buộc vì thiếu nguồn tài

chính cần thiết cho nhiều khoản đầu tư. Một trong số đó là nguồn tài chính cho

VAMC xử lý nợ xấu. Để làm được việc này, mức bội chi phải giảm về 4%/năm

cho đến 2020.

Năm 2014 có thể có xuất siêu tương đối lớn nhờ vào sự gia tăng kim ngạch xuất

khẩu nông sản và nguyên liệu thô của khu vực kinh tế trong nước. Thặng dư trên

cán cân tổng thể và sự gia tăng tương ứng của dự trữ ngoại hối có thể vượt quá 12

tỷ USD cả năm. NHNN sẽ duy trì mua vào USD, cùng với hoạt động trung hoà

bằng trái phiếu đối với tiền đồng, để giữ tỷ giá không làm bất lợi cho khu vực

xuất khẩu. Xu hướng tăng giá VND so với USD khiến tỷ giá khó tăng quá 1,43%.

Mặt bằng lãi suất sẽ ổn định cho đến hết năm. Lãi suất huy động thực tăng dần

(do lạm phát giảm) sẽ tiếp tục khuyến khích tiền gửi VND và kéo theo các điều

chỉnh lãi suất tiếp theo. Nới lỏng cung tiền qua hạ lãi suất tái chiết khấu và tái cấp

vốn sẽ không gây ảnh hưởng đáng kể lên tín dụng mà sẽ tạo trạng thái thanh

khoản dồi dào cho hệ thống ngân hàng thương mại. Với rủi ro gây lạm phát là

tương đối thấp, việc nới lỏng này khiến cho NHTM có đủ thanh khoản để tiếp tục

mua vào trái phiếu chính phủ.

Thị trường chứng khoán đang trong pha điều chỉnh và đo lường sức kháng cự.

Nhà đầu tư ngoại sẽ tiếp tục bán ròng tại các mã lớn nhằm rút tiền về dưới ảnh

hưởng cắt giảm QE3 tại Mỹ. Lực mua của khối nội xuất hiện tại những mã được

bán ra khi triển vọng kinh tế vĩ mô là tương đối sáng theo đánh giá của nhà đầu

tư. Giá giảm sâu có thể tác động tới những người sử dụng đòn bẩy, trong trường

hợp có thông tin không tốt, lực bán của khối nội sẽ xuất hiện và có thể tạo ra xu

hướng bán tháo.

Khuyến nghị chính sách

Ổn định vĩ mô

Giảm mức độ rủi ro của nền kinh tế thì lãi suất mới giảm một cách lành mạnh,

không duy trì áp chế lãi suất và can thiệp hành chính đối với tín dụng. Về phía tài

khoá, cắt giảm biên chế nhà nước và thu hẹp khu vực công là giải pháp tất yếu để

giảm chi thường xuyên và qua đó giảm thâm hụt ngân sách và kìm hãm tích luỹ

nợ công. Nguồn cung giảm sẽ hạ lãi suất trái phiếu, tạo cơ sở để giảm lãi suất cho

vay. Về phía tiền tệ, nền kinh tế đang trên đà hồi phục nên NHNN có thể thu dần

các biện pháp nới lỏng.

Cải cách hành chính

Tinh giản thủ tục hành chính, giảm giấy phép “con”, mở rộng phạm vi ứng dụng

của công nghệ thông tin trong lĩnh vực thuế và hải quan. Đặt lộ trình và mục tiêu

cụ thể theo từng giai đoạn để đo lường chất lượng và tiến độ cải cách hành chính.

Cải cách phải có tính thực dụng, do đó phải hướng tới cải thiện các chỉ tiêu phù

hợp trong bộ chỉ số cạnh tranh toàn cầu hay chỉ số tự do kinh tế.

Khai thông kênh phân phối

Nỗ lực kích cầu sẽ xuất phát từ phía các nhà sản xuất và bán lẻ cho nên việc khai

thông các kênh phân phối sẽ giảm giá thành và góp thêm lực đẩy cho tiêu dùng.

Về hạ tầng, giải pháp bao gồm nâng cấp hệ thống giao thông, quy hoạch hệ thống

kho bãi và vận tải. Về thượng tầng, cần xây dựng Bộ quy tắc ứng xử chuyên

nghiệp cho các nhà giao nhận, các nhà cung cấp dịch vụ logistic nhằm nâng cao

năng lực cạnh tranh và hiệu năng của dịch vụ.

Kiểm soát tỷ giá

NHNN đẩy mạnh mua ngoại tệ nhằm nâng tỷ giá danh nghĩa đồng VND với USD

để triệt tiêu ảnh hưởng tăng giá của USD so với các đồng tiền chủ chốt khác.

Trong tương lai có thể xem xét chuyển đổi cơ chế neo tỷ giá vào đồng USD sang

neo tỷ giá vào một rổ tiền tệ, không chỉ đơn thuần cho phép chuyển đổi tự do

giữa các loại tiền tệ.

Xử lý nợ xấu

Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN để lấy nguồn tài chính cung ứng vốn cho VAMC

xử lý nợ xấu. Có thể kết hợp với vốn vay của nước ngoài và phối hợp với đối tác

nước ngoài trong việc giám sát quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

Bên cạnh cung cấp vốn, cơ chế pháp lý cần thiết cho sự vận hành của một thị

trường mua bán công cụ nợ phải được gấp rút xây dựng, bao gồm xác định rõ

ràng quyền tài sản gắn với đất đai, thay đổi quy định pháp luật liên quan đến phát

mại, mua bán tài sản thế chấp hoặc công trình, dự án liên quan đến các khoản nợ

xấu.

Biện pháp quốc hữu hoá có thể được áp dụng cho các ngân hàng kém lành mạnh

về tài chính, sau khi được tái cấu trúc có thể tiến hành bán phần tài sản NHNN đã

mua.

Những quy định về công bố thông tin

Chứng nhận của tác giả

Các nhà kinh tế, nhà phân tích, người nghiên cứu sau sẽ chịu trách nhiệm về nội

dung của báo cáo này, đồng thời chứng nhận rằng những quan điểm, nhận định,

dự báo trong báo cáo này phản ánh ý kiến chủ quan của người viết: Nguyễn Đức

Thành, Ngô Quốc Thái, Hoàng Thị Chinh Thon.

Tài liệu này được thực hiện và phân phối bởi Bộ phận Nghiên cứu của Trung tâm

Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), chỉ nhằm mục đích cung cấp tài liệu

tham khảo cho các khách hàng hoặc đối tác đặc biệt của VEPR, không nhằm mục

đích thương mại và xuất bản, dù thông qua báo chí hay các phương tiện truyền

thông khác. Các khuyến nghị trong báo cáo mang tính gợi ý và không nên coi

như lời tư vấn cho bất kỳ cá nhân nào, vì báo cáo được xây dựng không nhằm

phục vụ lợi ích cá nhân.

Các thông tin cần chú ý khác

Báo cáo được xuất bản vào ngày 29 tháng 10 năm 2014.

Các dữ liệu kinh tế và thị trường trong báo cáo được cập nhật tới ngày

28/09/2014, nếu khác sẽ được đề cập cụ thể trong báo cáo.

Tất cả những thông tin nêu trong báo cáo phân tích đều đã được thu thập, đánh

giá với mức cẩn trọng tối đa có thể. Tuy nhiên, do các nguyên nhân chủ quan và

khách quan từ các nguồn thông tin công bố, Bộ phận Nghiên cứu không đảm bảo

về tính xác thực của các thông tin được đề cập trong báo cáo phân tích cũng như

không cập nhật những thông tin trong báo cáo sau thời điểm báo cáo này được

phát hành.

VEPR có quy trình thủ tục để xác định và xử lý các mâu thuẫn về lợi ích nảy sinh

liên quan đến nhóm Nghiên cứu. Các thông tin mật hay nhạy cảm sẽ được xử lý

và điều chỉnh theo những chuẩn mực phù hợp.

CÁC BÀI NGHIÊN CỨU KHÁC

NC-32: Tổng quan kinh tế thế giới 2013, Lê Kim Sa, Nguyễn Cẩm Nhung.

NC-31: Tổng quan kinh tế thế giới 2012, Lê Kim Sa.

NC-30: Tổng quan kinh tế Việt Nam 2012, Nguyễn Đức Thành, Ngô Quốc Thái,

Vũ Minh Long, Hoàng Thị Chinh Thon.

NC-29: Những vấn đề nổi bật của kinh tế Trung Quốc sau Đại hội XVIII, Phạm Sỹ

Thành.

NC-28: Khủng hoảng nợ công tại một số nền kinh tế trên thế giới: Nguyên nhân,

diễn biến, hậu quả, biện pháp khắc phục và những hàm ý chính sách cho Việt

Nam, Vũ Minh Long.


Recommended