100
1 Chương 1: KINH DOANH QUỐC TTRONG BI CNH TOÀN CU HÓA 1.1. Khái quát vkinh doanh quc tế 1.1.1. Khái nim vkinh doanh quc tế Ngày nay, nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia trên thế giới thực hiện mở rộng hoạt động kinh doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia của mình. Ví dụ: - Honda (Nhật Bản) xây dựng các nhà máy lắp ráp ô tô, xe máy và hệ thống các cửa hàng bán lẻ tại thị trường Việt Nam. - Viettel (Việt Nam) đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở dịch vụ viễn thông và cung cấp dịch vụ viễn thông tại Campuchia, Lào, Haiti, Mozambic,... - Quá trình mở rộng hoạt động sang thị trường Việt Nam của HSBC: Với trụ sở chính tại Luân Đôn, Tập đoàn HSBC có 7.200 văn phòng tại 85 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổng giá trị tài sản của Tập đoàn tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2011 là 2.556 tỉ đô la Mỹ. Năm 1870 HSBC mở văn phòng đầu tiên tại Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh). Tháng 8 năm 1995, chi nhánh TP. Hồ Chí Minh được cấp phép hoạt động và cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính ngân hàng. HSBC khai trương chi nhánh Hà Nội và thành lập Văn phòng Đại diện tại Cần Thơ vào năm 2005. Ngày 29 tháng 12 năm 2005, HSBC mua 10% cổ phần của Ngân hàng Cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), một trong các ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất tại Việt Nam xét về vốn. Tháng 07 năm 2007, HSBC mua thêm 5% cổ phần tại Techcombank. Tháng 09 năm 2008, HSBC hoàn tất việc nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 15% lên 20%, trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước. Tháng 09 năm 2007, HSBC ký hợp đồng mua 10% cổ phần của Tập Đoàn Bảo Việt, tập đoàn bảo hiểm và tài chính hàng đầu của Việt Nam và trở thành đối tác chiến lược nước ngoài duy nhất của Bảo Việt. Tháng 10 năm 2009, HSBC ký thoả thuận tăng tỷ lệ cổ phần nắm giữ tại Bảo Việt từ mức 10% lên 18% với trị giá 1,88 nghìn tỷ đồng (khoảng 105,3 triệu Đôla Mỹ). Ngày 01 tháng 01 năm 2009, HSBC chính thức đưa ngân hàng con đi vào hoạt động, trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên đưa ngân hàng con vào hoạt động tại Việt Nam sau khi nhận được giấy phép của Ngân hàng Nhà Nước để thành lập Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam vào tháng 09 năm 2008. Ngân hàng mới có tên Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam) đặt trụ sở chính ở tòa nhà Metropolitan, 235 Đồng Khởi, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Với số vốn đăng kí 3.000 tỷ đồng, Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam) thuộc 100% sở hữu của Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải, đơn vị sáng lập và thành viên chính thức của tập đoàn HSBC. Tính đến tháng 7 năm 2011, mạng lưới hoạt động của HSBC Việt Nam mở rộng lên đến 16 điểm trên toàn quốc bao gồm một hội sở, một chi nhánh và năm phòng giao dịch tại thành phố Hồ Chí Minh; một chi nhánh, ba phòng giao dịch và một quỹ tiết kiệm tại Hà Nội và bốn chi nhánh tại Bình Dương, Cần Thơ, Đà Nẵng và Đông Nai. (http://www.hsbc.com.vn/1/2/about-hsbc/about_HSBC ) Qua đó cho thấy, các doanh nghiệp không chỉ tập trung cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng tại thị trường trong nước mà còn thực hiện xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng ở thị trường nước ngoài. Không chỉ thực hiện hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp còn đầu

Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

  • Upload
    mai-mai

  • View
    34

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

1

Chương 1: KINH DOANH QUỐC TẾ TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA

1.1. Khái quát về kinh doanh quốc tế

1.1.1. Khái niệm về kinh doanh quốc tế

Ngày nay, nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia trên thế giới thực hiện mở rộng hoạt động kinh

doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia của mình. Ví dụ:

- Honda (Nhật Bản) xây dựng các nhà máy lắp ráp ô tô, xe máy và hệ thống các cửa hàng bán lẻ

tại thị trường Việt Nam.

- Viettel (Việt Nam) đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở dịch vụ viễn thông và cung cấp dịch vụ viễn

thông tại Campuchia, Lào, Haiti, Mozambic,...

- Quá trình mở rộng hoạt động sang thị trường Việt Nam của HSBC: Với trụ sở chính tại Luân

Đôn, Tập đoàn HSBC có 7.200 văn phòng tại 85 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổng giá trị tài sản của Tập

đoàn tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2011 là 2.556 tỉ đô la Mỹ. Năm 1870 HSBC mở văn phòng đầu tiên

tại Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh). Tháng 8 năm 1995, chi nhánh TP. Hồ Chí Minh được cấp phép

hoạt động và cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính ngân hàng. HSBC khai trương chi nhánh Hà Nội và

thành lập Văn phòng Đại diện tại Cần Thơ vào năm 2005.

Ngày 29 tháng 12 năm 2005, HSBC mua 10% cổ phần của Ngân hàng Cổ phần Kỹ thương Việt

Nam (Techcombank), một trong các ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất tại Việt Nam xét về vốn.

Tháng 07 năm 2007, HSBC mua thêm 5% cổ phần tại Techcombank. Tháng 09 năm 2008, HSBC hoàn

tất việc nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 15% lên 20%, trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên

tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước.

Tháng 09 năm 2007, HSBC ký hợp đồng mua 10% cổ phần của Tập Đoàn Bảo Việt, tập đoàn bảo

hiểm và tài chính hàng đầu của Việt Nam và trở thành đối tác chiến lược nước ngoài duy nhất của Bảo

Việt. Tháng 10 năm 2009, HSBC ký thoả thuận tăng tỷ lệ cổ phần nắm giữ tại Bảo Việt từ mức 10% lên

18% với trị giá 1,88 nghìn tỷ đồng (khoảng 105,3 triệu Đôla Mỹ).

Ngày 01 tháng 01 năm 2009, HSBC chính thức đưa ngân hàng con đi vào hoạt động, trở thành

ngân hàng nước ngoài đầu tiên đưa ngân hàng con vào hoạt động tại Việt Nam sau khi nhận được giấy

phép của Ngân hàng Nhà Nước để thành lập Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam vào tháng 09

năm 2008. Ngân hàng mới có tên Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam) đặt trụ sở chính ở

tòa nhà Metropolitan, 235 Đồng Khởi, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Với số vốn đăng kí 3.000 tỷ

đồng, Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam) thuộc 100% sở hữu của Ngân hàng Hồng

Kông và Thượng Hải, đơn vị sáng lập và thành viên chính thức của tập đoàn HSBC.

Tính đến tháng 7 năm 2011, mạng lưới hoạt động của HSBC Việt Nam mở rộng lên đến 16 điểm

trên toàn quốc bao gồm một hội sở, một chi nhánh và năm phòng giao dịch tại thành phố Hồ Chí Minh;

một chi nhánh, ba phòng giao dịch và một quỹ tiết kiệm tại Hà Nội và bốn chi nhánh tại Bình Dương, Cần

Thơ, Đà Nẵng và Đông Nai.

(http://www.hsbc.com.vn/1/2/about-hsbc/about_HSBC )

Qua đó cho thấy, các doanh nghiệp không chỉ tập trung cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách

hàng tại thị trường trong nước mà còn thực hiện xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của

khách hàng ở thị trường nước ngoài. Không chỉ thực hiện hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp còn đầu

Page 2: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

2

tư vốn, công nghệ sang thị trường nước ngoài để cung cấp hàng hóa và dịch vụ, tìm kiếm những cơ hội để

phát triển hoạt động kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận. Khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

vượt ra khỏi biên giới của quốc gia, mang tầm quốc tế, đó chính là lúc các doanh nghiệp đang thực hiện

các hoạt động kinh doanh quốc tế. Có một số cách hiểu về “Kinh doanh quốc tế” như sau:

Kinh doanh quốc tế là tất cả các giao dịch mang tính thương mại của tư nhân hoặc chính phủ giữa

hai hay nhiều quốc gia1. Các công ty tư nhân thực hiện các giao dịch này vì mục đích lợi nhuận, các chính

phủ thực hiện các giao dịch này có thể vì mục đích lợi nhuận hoặc không. Những giao dịch này bao gồm

bán hàng, đầu tư, vận tải. Như vậy, theo cách hiểu này, Kinh doanh quốc tế là hoạt động mua bán hàng

hóa và dịch vụ, hoặc hoạt động đầu tư giữa các chủ thể ở hai hay nhiều quốc gia. Cũng trong cuốn sách

này, một cách hiểu khác về Kinh doanh quốc tế được đưa ra, đó là các hoạt động gắn liền với lợi nhuận

được thực hiện qua biên giới của quốc gia. Một lần nữa, cách hiểu này cho thấy kinh doanh quốc tế bao

gồm những hoạt động vượt qua biên giới của quốc gia, được thực hiện vì mục đích sinh lợi.

Một cách hiểu khác về Kinh doanh quốc tế, đó là: Kinh doanh quốc tế (international business),

hiểu đơn giản, là việc thực hiện hoạt động đầu tư vào sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ

nhằm mục đích sinh lợi có liên quan tới hai hay nhiều nước và khu vực khác nhau2. Khái niệm này cho

thấy những hoạt động cụ thể của kinh doanh quốc tế, bao gồm đầu tư, mua bán hàng hóa và dịch vụ, đó là

những hoạt động được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi, có liên quan giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc

khu vực khác nhau.

Như vậy, từ những cách hiểu về Kinh doanh quốc tế được trình bày ở trên cho thấy Kinh doanh

quốc tế là những hoạt động được thực hiện bởi các chủ thể từ hai hay nhiều quốc gia khác nhau nhằm

mục đích sinh lợi, bao gồm những hoạt động như đầu tư, trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ.

Từ những khái niệm và ví dụ về kinh doanh quốc tế trên đây cho thấy kinh doanh quốc tế có

những đặc điểm cơ bản như sau:

- Chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế có trụ sở ở các quốc gia khác nhau. Đây là đặc điểm

cơ bản đầu tiên có ý nghĩa quyết định tính quốc tế của hoạt động kinh doanh quốc tế. Chủ thể tham gia

hoạt động kinh doanh quốc tế chủ yếu là các doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực, mọi loại hình, các loại quy mô,

từ những doanh nghiệp vừa và nhỏ tới những doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, các công ty quốc tế,

công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia. Trong đó, các công ty đa quốc gia và các công ty xuyên quốc gia là

những chủ thể có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy dòng lưu chuyển hàng hóa dịch vụ giữa các quốc

gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước, thậm chí các công ty đó còn là những chủ thể có vai trò đáng

kể trong việc thúc đẩy quá trình hình thành thị trường chung và quá trình liên kết giữa các quốc gia, phát

triển các mối quan hệ quốc tế.

- Hoạt động kinh doanh quốc tế chịu sự tác động bởi các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh mang tính

quốc tế, bao gồm môi trường chính trị, pháp luật, kinh tế, văn hóa. Sự khác biệt về chính trị, luật pháp,

kinh tế, văn hóa ở các quốc gia khác nhau yêu cầu các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có chiến

lược và cách thức thực hiện sao cho phù hợp nhằm đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Ví

1 Marios I.Katsioloudes, Spyros Hadjidakis, International Business – A global perspective, 2007.

2 TS Nguyễn Thị Hồng Yến, Giáo trình KDQT, 2011.

Page 3: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

3

dụ “Tại Lào, thói quen không làm việc ngoài giờ và nghỉ toàn bộ các ngày cuối tuần của nhân viên bản xứ

khiến cho Viettel đã gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo việc phục vụ khách hàng 24/7 như các công

ty viễn thông cần phải làm. Trong giao tiếp và làm việc, nhân viên người Lào thích được nói chuyện nhẹ

nhàng, chứ không quen với tác phong quân đội, chấp hành mệnh lệnh. Chính vì vậy, bộ máy nhân viên

Viettel đã quyết định vừa phải thay đổi bản thân, vừa phải thay đổi chính cách nhìn và làm việc của nhân

viên bản xứ”3.

- Đồng tiền được sử dụng trong kinh doanh quốc tế cũng mang tính quốc tế. Trong kinh doanh quốc tế,

chủ thể có thể sử dụng đồng tiền của quốc gia mình, cũng có khi sử dụng đồng tiền của quốc gia của đối tác,

hoặc sử dụng đồng tiền của một nước thứ ba. Khi đó cần có sự chuyển đổi giữa các đồng tiền theo một tỷ

giá nhất định. Doanh nghiệp có thể có lợi hoặc bất lợi trước một diễn biến của tỷ giá mà diễn biến này phát

sinh do cung cầu thị trường hoặc do tác động từ một văn bản pháp luật của Nhà nước.

- Quản trị tại các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh quốc tế khác với quản trị tại các doanh nghiệp

chỉ có hoạt động kinh doanh trong nước, đòi hỏi nhà quản trị phải có kỹ năng và nghệ thuật quản trị trong

môi trường có tính quốc tế với nhiều cơ hội nhưng không ít khó khăn thách thức, nhà quản trị cũng phải

có tầm nhìn mang tính chiến lược trên một phạm vi thị trường rộng lớn với rất nhiều yếu tố từ môi trường

kinh doanh tác động tới hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ chính sự

khác biệt về chính trị, pháp luật, văn hóa, kinh tế giữa các quốc gia.

1.1.2. Các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế

Người tiêu dùng, các công ty, các tổ chức tài chính, các chính phủ, tất cả đều liên quan tới hoạt

động kinh doanh quốc tế và có vai trò quan trọng đối với các hoạt động kinh doanh quốc tế. Bởi lẽ người

tiêu dùng có nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ từ các công ty quốc tế, các công ty này chính là người

sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, các tổ chức tài chính giúp

các công ty trong quá trình tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế thông qua việc tài trợ vốn, trao đổi

ngoại tệ, chuyển tiền, còn chính phủ là người xây dựng các văn bản pháp lý để điều chỉnh các dòng trao

đổi hàng hóa, dịch vụ, con người, vốn giữa các quốc gia.

Tuy nhiên, chủ thể thực hiện các hoạt động kinh doanh quốc tế chủ yếu là các công ty, bao gồm

các công ty ở tất cả các loại hình, các loại quy mô và ở tất cả các ngành nghề lĩnh vực. Tất cả các công ty

sản xuất, công ty dịch vụ, công ty bán lẻ đều tìm kiếm khách hàng ngoài biên giới quốc gia của mình.

Một công ty kinh doanh quốc tế là công ty tham gia trực tiếp vào bất kỳ hình thức kinh doanh quốc tế nào

như xuất khẩu, nhập khẩu hay sản xuất quốc tế, đầu tư quốc tế. Nếu xét theo khía cạnh quy mô về vốn và

lao động, bên cạnh những doanh nghiệp nhỏ và vừa là các công ty mang tầm cỡ lớn như công ty đa quốc

gia, công ty xuyên quốc gia4. Những công ty này có nguồn vốn lớn hơn cả GDP của một quốc gia, thậm

3 Mạnh Chung, Viettel đầu tư ra nước ngoài, kỹ thuật đi trước. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2012 tại

http://vneconomy.vn/20110208100937782P0C5/viettel-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-ky-thuat-di-truoc.htm 4 công ty đa quốc gia (MNC – multinational company), công ty xuyên quốc gia (TNC – transnational company):

Công ty đa quốc gia hay doanh nghiệp đa quốc gia (MNE) và công ty xuyên quốc gia đôi khi được sử dụng thay thế

cho nhau. HIện nay chưa có nghiên cứu nào đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về MNC và TNC. Từ năm 1973, Liên

hợp quốc đưa ra 21 định nghĩa về MNC trong khi trong các báo cáo hàng năm về đầu tư của thế giới do UNCTAD

Page 4: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

4

chí có khả năng vận động các chính phủ đưa ra những văn bản pháp luật có lợi cho họ. Nếu căn cứ vào

chiến lược kinh doanh của công ty, chúng ta có thể gọi các công ty kinh doanh quốc tế với các tên gọi:

công ty đa quốc nội, công ty toàn cầu, công ty quốc tế5.

Tóm lại chủ thế tham gia kinh doanh quốc tế chính là các doanh nghiệp, các công ty ở các loại

hình, các loại quy mô, ở các lĩnh vực ngành nghề, thực hiện các hoạt động kinh doanh vượt ra khỏi biên

giới của quốc gia và mang tính quốc tế như hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư quốc tế,…

1.1.3. Mục đích của hoạt động kinh doanh quốc tế

Các chủ thể thực hiện kinh doanh quốc tế vì những mục đích cơ bản sau:

Thứ nhất, các công ty thực hiện kinh doanh quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tăng doanh thu, lợi

nhuận, thị phần và củng cố năng lực cạnh tranh. Mục đích chính của các công ty khi thực hiện hoạt động

kinh doanh là lợi nhuận. Vì vậy, để tăng lợi nhuận, các công ty phải tìm kiếm các cơ hội giúp tăng doanh

thu và giảm chi phí. Mở rộng thị trường là một trong những cách giúp công ty có thể tăng doanh thu, tăng

thị phần, từ đó có thể nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh của công ty.

Ví dụ, năm 2006, Viettel bắt đầu nghiên cứu tìm kiếm thị trường ngoài nước. Tháng 2/2009,

Viettel đã chính thức khai trương mạng di động Metfone tại Cam-pu-chia, khởi đầu quá trình kinh doanh

tại nước ngoài. Ngay sau đó, Viettel tiếp tục mở rộng thị trường sang Lào với mạng di động mang thương

hiệu Unitel vào tháng 10/2009. Tháng 9/2011, Viettel tiến sang thị trường châu Mỹ với việc khai trương

mạng di động Natcom tại Ha-i-ti. Ngày 15/5/2012, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đã chính thức

khai trương mạng di động tại Mozambique, thị trường nước ngoài thứ 5 của Viettel và là thị trường đầu

tiên tạo đà để tập đoàn tiến quân mạnh hơn vào châu Phi. Thương hiệu của Viettel tại Mozambique có tên

là Movitel. Movitel là liên doanh giữa Viettel, SPI và Invespar (Mozambique), trong đó Viettel chiếm

70% vốn. Các mạng viễn thông mà Viettel đầu tư và kinh doanh ở nước ngoài chỉ sau hai năm đều bắt

đầu có lãi và trở thành công ty lớn ở nước sở tại. Năm 2011, Unitel trở thành công ty số một tại Lào (về

cả hạ tầng, thuê bao và doanh thu) với 42,23% thị phần. Doanh thu năm 2011 của Unitel đạt 110 triệu

USD, chiếm 1,4% tổng GDP của Lào. Còn tại Cam-pu-chia, mặc dù là DN thứ tám tham gia thị trường

viễn thông nước này nhưng chỉ sau hai năm hoạt động, Metfone cũng đã dẫn đầu thị trường với 49% thị

phần. Doanh thu năm 2011 của Metfone là 255 triệu USD, chiếm gần 2% tổng GDP của Cam-pu-chia.

Tại Ha-i-ti, là DN thứ ba tham gia thị trường nhưng ngay tại thời điểm khai trương, Natcom cũng đã là

công bố, tổ chức này chỉ đưa ra định nghĩa về công ty xuyên quốc gia và thường có những thông kê về hoạt động

của các công ty này. Nhìn chung, đây là những công ty có trụ sở chính/ công ty mẹ ở một quốc gia (nước chủ nhà,

nước chủ đầu tư – home country) và có hệ thống các chi nhánh, các công ty con ở nhiều quốc gia khác nhau (nước

tiếp nhận đầu tư – host country) thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

5 công ty đa quốc nội (MDC - multidomestic company): là một tổ chức luôn cố gắng cá biệt hóa sản phẩm, chiến

lược marketing và các hoạt động khác nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường ở từng quốc gia. Công ty toàn

cầu (GC – global company): là một tổ chức luôn cố gắng tiêu chuẩn hóa và nhất thể hóa các hoạt động trên phạm vi

toàn thế giới ở mọi bộ phận chức năng. Hay nói cách khác, công ty toàn cầu không có chiến lược cá biệt hóa sản

phẩm, chiến lược marketing hay các hoạt động khác theo những thị trường cụ thể. Công ty quốc tế (IC -

international company): là công ty vừa có hoạt động ở thị trường trong nước, vừa có hoạt động ở thị trường nước

ngoài.

Page 5: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

5

công ty số một tại Ha-i-ti về hạ tầng mạng viễn thông với 1.300 trạm thu phát sóng di động 2G và 3G

(tương đương 74% tổng số trạm của toàn Ha-i-ti).

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Viettel đã đóng góp đáng kể vào con số doanh thu của

Viettel. Năm 2011, Viettel đạt doanh thu gần sáu tỷ USD và có 60 triệu thuê bao đang hoạt động trên toàn

cầu. Sau ba năm kinh doanh ở nước ngoài, Viettel đã bắt đầu chuyển lợi nhuận về nước. Năm 2011, Tập

đoàn chuyển về nước hơn 40 triệu USD, lớn hơn số tiền mà Viettel đầu tư vào thị trường Cam-pu-chia.

Dự kiến lợi nhuận năm 2012 Viettel sẽ chuyển về nước đạt hơn 80 triệu USD6.

Thứ hai, các công ty thực hiện kinh doanh quốc tế để sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả,

đó là nguồn lực về vốn, khoa học công nghệ, lao động và các yếu tố sản xuất khác. Để đạt được mục đích

sinh lợi, các công ty không chỉ mở rộng thị trường cho sản phẩm, dịch vụ nhằm tăng doanh thu, lợi

nhuận, thị phần mà họ còn phải thực hiện tối thiểu hóa chi phí đầu vào thông qua các hoạt động như mua

bán quốc tế hàng hóa và dịch vụ, đầu tư quốc tế, tiếp nhận đầu tư quốc tế. Với những công ty có lợi thế về

vốn, khoa học công nghệ, họ sẽ thực hiện đầu tư ra nước ngoài, vào những thị trường có nhu cầu về vốn,

khoa học công nghệ, đủ điều kiện đảm bảo an toàn cho hoạt động đầu tư, thậm chí đó là những thị trường

có lợi thế về lao động giá rẻ, nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú,… Đồng thời, chính công ty tiếp nhận

đầu tư được giải quyết nhu cầu về vốn, công nghệ. Như vậy, các bên có thể sử dụng hiệu quả hơn nguồn

lực thông qua hoạt động kinh doanh quốc tế. Ví dụ, khi HONDA đầu tư vào Việt Nam, xây dựng nhà máy

và đầu tư công nghệ lắp ráp ô tô, xe máy tại Việt Nam, HONDA có cơ hội sử dụng nguồn lao động với

chi phí thấp hơn ở thị trường Nhật Bản, nhờ đó góp phần giảm giá thành của sản phẩm khi được lắp ráp

tại Việt Nam. Một ví dụ khác là các doanh nghiệp sản xuất phần mềm ở Mỹ đặt gia công sản xuất phần

mềm ở các nước khác như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ với mục đích là tranh thủ nguồn nhân công có

trình độ, có tay nghề nhưng chi phí cho người lao động thấp hơn ở Mỹ.

Thứ ba, các công ty thực hiện kinh doanh quốc tế để có thể tranh thủ những điều kiện thuận lợi từ thị

trường bên ngoài, đặc biệt khi thị trường trong nước không có đủ những điều kiện thuận lợi cho hoạt động

kinh doanh của công ty. Doanh nghiệp cần những điều kiện thuận lợi nhất định để phát triển hoạt động kinh

doanh của mình, đó là những điều kiện thuận lợi về khung pháp luật, cơ chế, chính sách, hay về điều kiện cạnh

tranh, nhu cầu của khách hàng,... Vì vậy, các doanh nghiệp phát triển hoạt động kinh doanh sang thị trường

nước ngoài nhằm tranh thủ những điều kiện thuận lợi hơn mà tại thị trường trong nước doanh nghiệp không

có. Chẳng hạn, tại thị trường trong nước khi xuất hiện nhiều nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, thị trường trong

nước cũng trở nên bão hòa, Viettel đã mở rộng hoạt động kinh doanh của mình sang các thị trường nước

ngoài, vừa để tăng doanh thu, lợi nhuận, nâng cao vị thế của doanh nghiệp, vừa để tránh áp lực cạnh tranh tại

thị trường trong nước khi xuất hiện nhiều nhà cung cấp dịch vụ và nhu cầu trong nước đã được đáp ứng tương

đối đầy đủ.

Thứ tư, các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh quốc tế để phân tán, giảm thiểu rủi ro

trong kinh doanh. Việc đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hóa thị trường giúp doanh nghiệp có thể

phân tán, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh thay vì chỉ tập trung vào một hay một số thị trường hay đối

6 Tổng hợp từ các nguồn: http://www.nhandan.org.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/kinh-te/kinh-t-tin-chung/v-n-ra-

th-tr-ng-n-c-ngoai-1.348965?mode=print và http://vneconomy.vn/201205160902510P0C16/viettel-khai-truong-

mang-di-dong-o-mozambique.htm ngày 15/7/2012

Page 6: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

6

tác. Ví dụ các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam không chỉ xuất khẩu sang các thị trường

khu vực châu Âu mà còn mở rộng sang thị trường các nước thuộc khu vực châu Á, châu Mỹ,… Qua đó,

các doanh nghiệp vừa có cơ hội tăng doanh thu, lợi nhuận, vừa có cơ hội giảm thiểu rủi ro trước những

biến động từ một thị trường cụ thể.

1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

1.2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế và các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế

Có nhiều cách hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, có quan điểm cho rằng “hội nhập kinh tế quốc

tế là quá trình ở đó các quốc gia hợp tác với nhau để giảm thiểu hoặc dỡ bỏ những trở ngại đối với dòng lưu

chuyển quốc tế về hàng hóa, con người và vốn”7. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các

quốc gia hợp tác để đàm phán nhằm giảm và đi đến dỡ bỏ những yếu tố cản trở đối với sự di chuyển của hàng

hóa, vốn đầu tư và kể cả con người giữa các quốc gia. Hay nói cách khác, đó là quá trình hướng đến dỡ bỏ

những trở ngại đối với thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. Cũng có quan điểm thì khẳng định “hội nhập

kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ thuế quan và những rào cản phi thuế đối với các dòng lưu chuyển hàng hóa,

dịch vụ và các yếu tố của quá trình sản xuất giữa các quốc gia với nhau”8. Cách hiểu này, một lần nữa, cho

thấy hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tiến tới xóa bỏ những trở ngại đối với dòng lưu chuyển của

hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố của quá trình sản xuất. Cách hiểu thứ hai nêu rõ những yếu tố trở ngại cần

được các quốc gia dỡ bỏ là thuế quan và những rào cản phi thuế quan nhằm đảm bảo dòng lưu chuyển của

hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố của quá trình sản xuất thông thoáng, thuận lợi. Như vậy, theo cách hiểu

thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là một quá trình ở đó các quốc gia tiến tới xóa bỏ những trở ngại

đối với dòng lưu chuyển của hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố của quá trình sản xuất, đó là thuế quan và

các biện pháp phi thuế quan. Cách hiểu thứ ba cho rằng “hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện

đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới

thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; mặt khác, gia nhập và

góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu” (Nguyễn Xuân Thắng 2007, tr.21). Cách hiểu

này cho thấy hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình trong đó mỗi quốc gia, một mặt, thực hiện mở cửa

nền kinh tế, thực hiện tự do hóa các hoạt động thương mại, đầu tư, mặt khác gia nhập và góp phần xây

dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Thực chất, đây cũng là quá trình liên kết và hợp tác giữa

các quốc gia nhằm xây dựng khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các hoạt động kinh tế, thương mại giữa các

nước theo hướng ngày càng tự do, tạo thuận lợi cho dòng lưu chuyển hàng hóa, vốn, con người giữa các

quốc gia.

Như vậy, từ những cách hiểu trên đây, tác giả cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình ở đó

có sự liên kết, hợp tác giữa hai hay nhiều quốc gia với nhau nhằm xây dựng và thực hiện một cơ chế

chung, thống nhất điều chỉnh dòng lưu chuyển của hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố liên quan quá trình sản

7 Tiếng Anh là “Economic integration: A process whereby countries cooperate with one another to reduce or

eliminate barriers to the international flow of products, people or capital”, tác giả truy cập ngày 19 tháng 10 năm

2010 tại http://basiccollegeaccounting.com/the-meaning-and-level-of-economic-integration/ 8 “Economic integration: The elimination of tariff and nontariff barriers to the flow of goods, services, and factors of

production between a group of nations, or different parts of the same nation”. Tác giả truy cập tại

http://www.businessdictionary.com/definition/economic-integration.html ngày 19 tháng 10 năm 2010.

Page 7: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

7

xuất theo hướng ngày càng tự do, thông thoáng, thuận lợi, góp phần hình thành thể chế kinh tế khu vực

hoặc thế giới.

Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra và thể hiện thông qua sự liên kết, hợp tác trên bình diện

song phương (giữa hai quốc gia với nhau hoặc giữa một quốc gia với một khu vực), hoặc hợp tác trong

khu vực (giữa các quốc gia trong cùng khu vực), hoặc hợp tác liên khu vực (giữa các quốc gia ở các khu

vực), thậm chí trên bình diện toàn thế giới, khi đó có sự tham gia, liên kết, hợp tác của hầu hết các quốc

gia trên thế giới.

Hội nhập kinh tế quốc tế là cả một quá trình, diễn ra từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao, hay nói

cách khác quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trải qua các mức độ khác nhau. Lịch sử chứng minh có 5 giai

đoạn (hay mức độ) của hội nhập kinh tế quốc tế, đó là:

Khu vực mậu dịch tự do (free trade area): đây là mức độ hội nhập thấp nhất hay là giai đoạn ban

đầu của quá trình hội nhập, thường được thể hiện thông qua việc các quốc gia ký kết với nhau Thỏa thuận

thương mại tự do (FTA), theo đó họ dành cho nhau những ưu đãi (đặc biệt ưu đãi về thuế quan) trong

thương mại hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, mỗi Thành viên của FTA vẫn có quyền đối xử với các quốc

gia khác không phải là Thành viên của FTA bằng những quy định, chính sách của riêng mình. AFTA -

Thỏa thuận thương mại tự do giữa các nước ASEAN hay NAFTA – Thỏa thuận thương mại tự do giữa

các nước khu vực Bắc Mỹ,… là những ví dụ về khu vực mậu dịch tự do giữa các nước trong khu vực.

Liên minh thuế quan (custom union): là mức độ hay giai đoại thứ hai của quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế, có tính liên kết, thống nhất cao hơn. Hơn cả việc dành cho nhau những ưu đãi, thuận lợi trong

hoạt động thương mại, các Thành viên trong liên minh thuế quan còn hợp tác để xây dựng một cơ chế hải

quan chung áp dụng thống nhất tại các Thành viên của liên minh và một biểu thuế quan thống nhất, kể cả

hạn ngạch nhập khẩu, để áp dụng trong hoạt động thương mại với các nước ngoài liên minh.

Thị trường chung (common market): đây là mức độ hội nhập sâu hơn giữa các quốc gia, thể hiện

ở việc các quốc gia trong khối thị trường chung thực hiện những quy định, cơ chế chung thống nhất nhằm

điểu chỉnh dòng lưu chuyển hàng hóa, vốn và con người giữa các quốc gia đó được tự do, thông thoáng,

thuận lợi. Tuy nhiên, các nước trong khối vẫn duy trì một hệ thống thuế quan thống nhất đối với các nước

ngoài khối. Thị trường chung châu Âu (cộng đồng kinh tế châu Âu) bao gồm 12 quốc gia đã được thành

lập từ năm 1957.

Liên minh kinh tế (economic union): đây là hình thức hội nhập ở mức độ cao hơn, sâu hơn so với

“thị trường chung”, bởi ngoài những đặc điểm của một thị trường chung, giữa các nước trong liên minh

kinh tế có một chính sách chung về tiền tệ và tài chính, sử dụng một đồng tiền chung. Tháng 1/1999, liên

minh châu Âu bao gồm 25 quốc gia đã được thành lập.

Liên minh chính trị (political union): đây là hình thức hội nhập ở mức độ cao nhất, đó là sự hội

nhập về thể chế, chính trị với sự ra đời của một Chính phủ chung. Liên minh châu Âu đã đạt được mức độ

hội nhập như vậy vào năm 2007, với luật pháp, các chính sách tiền tệ và tài chính chung, có nghị viện

châu Âu, hội đồng các Bộ trưởng,…

Page 8: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

8

Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế còn được thể hiện thông qua quá trình gia nhập của một quốc

gia vào một tổ chức kinh tế quốc tế, chẳng hạn WTO – một tổ chức hiện có 161 Thành viên9 hoạt động

trên cơ sở những nguyên tắc và quy định nhằm điều chỉnh dòng lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa các

Thành viên theo hướng càng tự do, càng thông thoáng, càng khả đoán càng tốt.

Như vậy, về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình liên kết, hợp tác giữa hai hay nhiều

quốc gia nhằm giải quyết những vấn đề chủ yếu: (i) cắt giảm và đi đến xóa bỏ thuế quan cũng như những

hàng rào phi thuế đối với thương mại quốc tế; (ii) giảm bớt các hạn chế đối với đầu tư quốc tế; (iii) điều

chỉnh các chính sách thương mại, tài chính và triển khai các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, ... có tính

chất toàn cầu. Đó là quá trình thể hiện sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế

quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới; là quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức

tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự công

bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia. Hội nhập

kinh tế quốc tế là quá trình xoá bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các

quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế; một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong

sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh

trên thương trường. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở

các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn

thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô, tạo dựng các nhân tố mới

và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển

ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là sự khơi thông

các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ

và chia sẻ các kinh nghiệm quản lý.

1.2.2. Khái niệm về toàn cầu hóa và nội dung của toàn cầu hóa

Trong quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn đến sự ra đời

của tổ chức kinh tế, chính trị, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực như: Tổ chức thương mại thế giới

(WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các

nước Đông Nam Á (ASEAN), khu thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á

- Thái Bình Dương (APEC), thị trường tự do Nam Mỹ (Mercosur)...

Cũng trong quá trình toàn cầu hóa về kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến chính trị dẫn đến sự ra đời

của các tổ chức chính trị quốc tế như Liên hợp quốc và các tổ chức của nó như UNDP, UNFPA,

UNESCO, UNICEP, INCTAD, FAO... đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các nước trên phạm

vi toàn cầu. Cùng với sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế, quá trình toàn cầu hóa đã hình thành

luật pháp quốc tế như công ước quốc tế về luật biển năm 1982, tuyên bố thế giới về nhân quyền, công ước

LHQ về quyền trẻ em mà Việt nam là nước tham gia ký kết sớm nhất châu Á. Như vậy, không có quá

trình toàn cầu hóa thuần nhất về kinh tế. Toàn cầu hóa diễn ra ở mọi lĩnh vực đời sống bao gồm kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội. Dưới đây là một số cách hiểu về toàn cầu hóa:

9 https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/org6_e.htm, cập nhật tháng 7 năm 2015

Page 9: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

9

- Thứ nhất, toàn cầu hóa là thuật ngữ được sử dụng để mô tả về quá trình quốc tế hóa thị trường hàng hóa

và dịch vụ, các phương tiện sản xuất, hệ thống tài chính,… Đây cũng là quá trình thúc đẩy dòng lưu

chuyển của vốn, quá trình đổi mới công nghệ trở nên nhanh hơn và làm tăng tính phụ thuộc, làm nhất thể

hóa thị trường các quốc gia10.

- Thứ hai, toàn cầu hóa là quá trình liên kết, hội nhập giữa các cá nhân, công ty và chính phủ ở các quốc

gia khác nhau, quá trình đó phát triển nhờ có hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, và được hỗ

trợ bởi công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa có tác động đối với môi trường, văn hóa, hệ thống chính trị,

phát triển kinh tế và đời sống của con người11.

- Thứ ba, toàn cầu hóa liên quan quá trình nhất thể hóa trật tự kinh tế thông qua việc giảm dần những rào

cản đối với thương mại quốc tế như thuế quan, phí XK, hạn ngạch NK. Theo đó, các nền kinh tế khu vực,

các xã hội và các nền văn hóa trở nên hội nhập thông qua liên lạc, vận tải và thương mại. Toàn cầu hóa

dường như được nhắc đến với ý nghĩa là quá trình toàn cầu hóa kinh tế, đó là quá trình hội nhập của nền

kinh tế các quốc gia với nền kinh tế thế giới thông qua thương mại, đầu tư, di chuyển thể nhân, và sự phát

triển của khoa học công nghệ. Quá trình toàn cầu hóa chịu sự tác động bởi các yếu tố kinh tế, khoa học

công nghệ, văn hóa xã hội, chính trị, công nghệ sinh học…12

- Thứ tư, toàn cầu hóa là quá trình hội nhập của các xã hội, các nền văn hóa và các nền kinh tế khác

nhau. Trong lĩnh vực kinh tế, toàn cầu hóa là quá trình tạo ra một thị trường chung, nơi đó có trao đổi

hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia mà không bị giới hạn gì13.

10 “The term globalisation is generally used to describe an increasing internationalisation of markets for goods and

services, the means of production, financial systems, competition, corporations, technology and industries.

Amongst other things this gives rise to increased mobility of capital, faster propagation of technological innovations

and an increasing interdependency and uniformity of national markets”. Nguồn: OECD glossary statistical terms,

2008. 11 Globalization is a process of interaction and integration among the people, companies, and governments of

different nations, a process driven by international trade and investment and aided by information technology. This

process has effects on the environment, on culture, on political systems, on economic development and prosperity,

and on human physical well-being in societies around the world.

(http://www.globalization101.org/What_is_Globalization.html) 12 Globalization refers to the increasing unification of the world's economic order through reduction of such barriers

to international trade as tariffs, export fees, and import quotas. The goal is to increase material wealth, goods, and

services through an international division of labor by efficiencies catalyzed by international relations, specialization

and competition. It describes the process by which regional economies, societies, and cultures have become

integrated through communication, transportation, and trade. The term is most closely associated with the term

economic globalization: the integration of national economies into the international economy through trade, foreign

direct investment, capital flows, migration, the spread of technology, and military presence.[1] However,

globalization is usually recognized as being driven by a combination of economic, technological, sociocultural,

political, and biological factors.[2] The term can also refer to the transnational circulation of ideas, languages, or

popular culture through acculturation. An aspect of the world which has gone through the process can be said to be

globalized. (http://en.wikipedia.org/wiki/Globalization) 13 Globalization is the integration of different societies, cultures and economies. In economic terms, globalization is

the creation of a common global market, where the exchange of goods and services between nations is not restricted.

Page 10: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

10

Như vậy, qua những cách hiểu trên đây cho thấy, theo nghĩa rộng, toàn cầu hoá là một hiện

tượng, một quá trình, một xu thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều

mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá đến môi trường, v.v…) giữa các quốc gia.

Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ quá trình hình thành thị trường toàn cầu làm

tăng sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia.

Nội dung của toàn cầu hóa

Nếu tiếp cận toàn cầu hóa từ góc độ mang tính khái quát, toàn cầu hóa được thể hiện qua 3 dấu

hiệu sau đây:

Thứ nhất, toàn cầu hóa thể hiện qua sự gia tăng ngày càng mạnh mẽ của các luồng giao lưu quốc

tế về hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất như vốn, công nghệ, nhân công... Có thể nói thương mại

quốc tế là thước đo đầu tiên của mức độ toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước. Khi các

nước trao đổi hàng hóa và dịch vụ cho nhau đó cũng chính là quá trình các nước xóa nhòa dần sự biệt lập

giữa các nền kinh tế quốc gia. Thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Trong vòng 100 năm từ 1850

– 1948, thương mại thế giới tăng lên 10 lần, trong giai đoạn 50 năm tiếp theo từ 1948 -1997, tăng 17 lần. Từ

giữa thập niên 1970 đến giữa thập niên 1990, mức tăng bình quân của xuất khẩu thế giới là 4,5%. Trong giai

đoạn này, đánh dấu bắt đầu từ năm 1985, hàng năm tốc độ tăng bình quân của xuất khẩu hàng hóa thế giới

là 6,7%, trong khi đó sản lượng thế giới chỉ tăng lên 6 lần. Sự phát triển của thương mại thế giới và khoảng

cách ngày càng tăng giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ phát triển thương mại quốc tế thể hiện mức độ

toàn cầu hóa ngày càng cao.

Sự phát triển trao đổi dịch vụ giữa các nước ngày càng có vị trí quan trọng trong thương mại quốc

tế và đóng góp tích cực vào xu hướng toàn cầu hóa. Trong vòng 10 năm từ 1986 đến 1996, thương mại

dịch vụ thế giới tăng gấp gần 3 lần, từ 449 tỷ USD lên 1.260 tỷ USD. Các nước phát triển có mức tăng

thương mại dịch vụ cao gấp 3 lần so với mức tăng thương mại hàng hóa và trở thành khu vực đóng góp

chủ yếu vào GDP (Hoa Kỳ là 76%, Canada là 80%, Nhật Bản là 65%, EC là 64%).

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự di chuyển tư bản (vốn và tiền tệ) giữa các nước là một

yếu tố ngày càng quan trọng đối với từng nền kinh tế quốc gia nói riêng và toàn bộ nền kinh tế thế giới

nói chung. Các luồng FDI có tốc độ tăng nhanh hơn cả mức tăng của thương mại hàng hóa và dịch vụ

quốc tế, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của toàn cầu hóa. Trong những năm 1970, các luồng FDI

hàng năm ở vào khoảng 27 – 30 tỷ USD; trong nửa đầu của thập niên 1980, con số này là 50 tỷ USD;

trong nửa cuối của thập niên của 1980 là 170 tỷ USD; năm 1995 gần 400 tỷ USD, 1998 là 845 tỷ USD,

năm 2000 vượt trên 1.000 tỷ USD, năm 2007 là 1.900 tỷ USD. Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ tăng nhanh,

hiện nay chiếm khoảng 50%. Cac luồng FDI vào các nước phát triển chiếm ¾ tổng số FDI trên thế giới.

Tuy nhiên, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, gắn với luồng lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ

bên trong hệ thống của các công ty đa quốc, xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển từ năm 1990 có

xu hướng tăng lên.

Thứ hai, toàn cầu hóa thể hiện qua sự hình thành và phát triển các thị trường thống nhất trên

phạm vi khu vực và toàn cầu. Trong thời gian nửa đầu của thập kỷ 1990, theo thống kê của Tổ chức

(http://www.whatisglobalization.org/#read)

Page 11: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

11

Thương mại Thế giới (WTO) có tới 33 thỏa thuận liên kết kinh tế khu vực dưới dạng các thỏa thuận

thương mại ưu đãi, khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, liên minh kinh tế được ký kết đã thông

báo cho Ban thư ký của WTO. Số lượng này nhiều gấp 3 lần số lượng các thỏa thuận được ký trong thập

kỷ 1980 và bằng gần 1/3 tổng số các thỏa thuận liên kết khu vực được ký trong giai đoạn 1947 – 1995.

Riêng trong giai đoạn từ 2000 – 2008, có trên 140 thỏa thuận liên kết khu vực đã được thông báo cho

WTO. Cùng với các thỏa thuận trên, nhiều tổ chức hợp tác kinh tế đa phương thế giới và khu vực đã ra

đời, ngày càng được tăng cường về số lượng và cơ chế tổ chức. Theo số liệu thống kê của Liên minh các

Tổ chức Quốc tế, nếu như tính vào năm 1909, số lượng các tổ chức quốc tế trên toàn cầu chỉ là 213 thì

đến năm 1960, con số này là 1.422 tổ chức, năm 1981 là 14.273, năm 1991 là 28.200; năm 2001 là 55.282

và 2006 là 58.859 tổ chức. Trên phạm vi toàn cầu, ngoài các tổ chức kinh tế - tài chính được thành lập

trước đây như hệ thống các tổ chức thuộc Liên Hợp quốc, năm 1995, trên cơ sở Hiệp định chung về

Thương mại và Thuế quan (GATT), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã được hình thành. Tính đến

tháng 3 năm 2013, WTO có 159 thành viên, chiếm tới trên 90% tổng giá trị thương mại thế giới. Ở phạm

vi khu vực, các tổ chức và cơ chế liên kết kinh tế cũng được tăng cường. Tại Châu Âu, Liên minh Châu

Âu EU với số lượng 27 nước thành viên hiện nay đã trở thành một liên kết quốc tế chặt chẽ toàn diện ở

hầu hết mọi lĩnh vực. Ở Châu Á-Thái Bình Dương, Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Hiệp hội

hợp tác khu vực Nam Á (SAARC), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC)... đã ra

đời và ngày càng tích cực đóng góp vào quá trình tăng cường liên kết quốc tế về thương mại trong khu

vực. Tại Châu Mỹ, ta có thể sự hình thành liên kết khu vực qua việc hình thành Khu vực mậu dịch tự do

Bắc Hoa Kỳ (NAFTA), Hiệp hội liên kết Hoa Kỳ La Tinh (LAIA), Thị trường chung Nam Hoa Kỳ

(MERCOSUR), nhóm các nước ANDEAN, Cộng đồng Caribe và Thị trường chung (CARICOM), Thị

trường chung Trung Hoa Kỳ (CACM)... Tại Châu Phi, Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi (ECOWAS),

Liên minh kinh tế và thuế quan Trung Phi (UDEAC), Cộng đồng phát triển miền Nam Châu Phi (SADC),

Liên minh Châu Phi (AU) là những nỗ lực để hình thành những khối thị trường chung và thống nhất

trong khu vực.

Thứ ba, toàn cầu hóa thể hiện qua sự gia tăng số lượng, quy mô và vai trò ảnh hưởng các công

ty xuyên quốc gia tới nền kinh tế thế giới. Theo số liệu của UNCTAD, năm 1998 có 53.000 công ty

xuyên quốc gia với 450.000 công ty con ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Năm 2000, trên thế giới

có khoảng 63.000 công ty xuyên quốc gia với 700.000 các công ty con ở khắp các nước. Năm 1995, các

công ty xuyên quốc gia bán ra một lượng hàng hóa và dịch vụ có giá trị bằng 7.000 tỷ USD. Năm 1999,

tổng doanh số ban ra của công ty xuyên quốc gia đã đạt đến giá trị 14.000 tỷ USD. Hiện nay, các công

ty xuyên quốc gia chi phối và kiểm soát trên 80% thương mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở

nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu chuyển giao công nghệ trên thế giới. Hệ thống dày đặc các công

ty xuyên quốc gia này không những đã tạo ra một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất thế giới

mà còn liên kết các quốc giá lại với nhau ngày càng chặt chẽ hơn, góp phần làm cho quá trình toàn cầu

hóa trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết.

Nếu tiếp cận toàn cầu hóa dưới góc nhìn của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế, toàn cầu hóa có

thể nhìn nhận ở góc độ toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu hóa quá trình sản xuất.

Toàn cầu hóa các thị trường (The globalization of markets)

Page 12: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

12

Toàn cầu hóa các thị trường đề cập tới việc gắn kết (hợp nhất) các thị trường quốc gia vốn riêng

rẽ và tách biệt thành một thị trường rộng lớn mang tính toàn cầu. Việc hạ thấp các hàng rào đối với hoạt

động thương mại giữa các nước giúp cho việc bán hàng hóa trên phạm vi quốc tế trở nên dễ dàng hơn.

Đôi khi có những ý kiến cho rằng sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau đang

dần trở nên có sự đồng nhất, điều này giúp cho tạo nên thị trường toàn cầu. Các sản phẩm tiêu dùng như

thẻ tín dụng Citigroup, đồ uống Coca – Cola, các trò chơi video Sony PlayStation, bánh humberger

McDonald’s, và cà phê Starbucks thường được lấy làm ví dụ điển hình cho xu hướng này. Các doanh

nghiệp như Citygroup, Coca-Cola, McDonald’s, Starbucks và Sony không đơn thuần chỉ là những người

được hưởng lợi mà còn là những nhân tố tạo thuận lợi cho sự phát triển của xu hướng này. Bằng việc

cung cấp các sản phẩm cơ bản ra thị trường nước ngoài, họ đang góp phần giúp tạo nên một thị trường

toàn cầu. Một doanh nghiệp không cần phải có quy mô khổng lồ như một tập đoàn đa quốc gia mới có thể

gặp thuận lợi và thu được lợi ích từ việc toàn cầu hóa các thị trường. Ví dụ như ở Mỹ, gần 90% số lượng

các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu là những doanh nghiệp quy mô nhỏ với số lượng lao động ít

hơn 100 người, và tỷ trọng của họ trong tổng sản lượng xuất khẩu của Mỹ đang tăng dần trong suốt thập

niên vừa qua và hiện đang vượt quá 20%. Các doanh nghiệp với số lượng lao động ít hơn 500 người

chiếm khoảng 97% số lượng các nhà xuất khẩu của Mỹ và chiếm 30% trong tổng giá trị xuất khẩu. Điển

hình trong số đó là Hytech, nhà sản xuất tấm nền năng lượng mặt trời có trụ sở tại New York đạt doanh

thu hàng năm là 3 triệu USD và 40% trong số đó là từ việc xuất khẩu sang 5 quốc gia khác. Hay B&S

Aircraft Alloys một doanh nghiệp khác ở New York cũng là ví dụ phù hợp khi mà 40% trong con số 8

triêu USD doanh thu hàng năm cũng đến từ hoạt động xuất khẩu. Tình trạng này cũng tương tự như ở một

số quốc gia khác. Ví dụ như ở Đức, các doanh nghiệp với ít hơn 500 lao động chiếm khoảng 30% số

lượng các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu của quốc gia này. Bất chấp sự phổ biến của thẻ tín dụng

Citygroup, bánh humberger Mc Donald’s hay cà phê Starbucks, cần lưu ý rằng không nên đẩy quan điểm

tiếp cận đi quá xa khi cho rằng các thị trường quốc gia sẽ bị thay thế hoàn toàn bằng thị trường toàn cầu.

Có nhiều khác biệt đáng kể tồn tại giữa thị trường các nước theo các yếu tố liên quan, bao gồm sở thích

và thị hiếu của người tiêu dùng, các kênh phân phối, hệ thống các giá trị văn hóa, hệ thống kinh doanh và

các quy định pháp lý. Các khác biệt này thường đòi hỏi khi đưa ra chiến lược marketing, đặc trưng sản

phẩm, và tác nghiệp trong thực tế cần có những điều chỉnh cho phù hợp nhất với điều kiện thực tế ở mỗi

quốc gia. Ví dụ như các công ty ô tô sẽ xúc tiến bán các mẫu xe khác nhau căn cứ theo các yếu tố như chi

phí nhiên liệu ở địa phương đó, mức thu nhập, tình trạng tắc nghẽn giao thông, và các giá trị văn hóa.

Tương tự như vậy, nhiều doanh nghiệp cần điều chỉnh định hướng sản phẩm và tác nghiệp giữa các quốc

gia tùy theo sở thích và thị hiếu của từng nơi. Toàn cầu hóa thị trường hiện nay chủ yếu không phải dành

cho các sản phẩm tiêu dùng – khi mà giữa các quốc gia vẫn có những khác biệt về sở thích và thị hiếu và

đây vẫn là những nhân tố quan trọng góp phần kìm hãm xu hướng toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa các thị

trường hiện này chủ yếu dành cho các hàng hóa và vật liệu công nghiệp đáp ứng cho nhu cầu trên phạm vi

toàn cầu. Điều này bao gồm thị trường cho các hàng hóa như nhôm, dầu mỏ, và lúa mì; thị trường đối với

các sản phẩm công nghiệp như vi mạch, DRAMs (chip nhớ của máy tính), và máy bay thương mại; thị

trường cho phần mềm máy tính; và các thị trường đối với các loại tài sản tài chính từ như tài sản của Mỹ,

trái phiếu Châu Âu, đồng peso Mehico. Ở nhiều thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp cùng ngành

Page 13: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

13

thường đương đầu với nhau ở các thị trường quốc gia. Ví dụ như hai đối thủ kình địch trên phạm vi toàn

cầu là Coca Cola và PepsiCo, hay như giữa Ford và Toyota, Boeing và Airbus, Caterpillar và Komatsui

trong lĩnh vực thiết bị đào đất, hay Sony, Nintendo và Microsoft trong lĩnh vực trò chơi video. Nếu một

doanh nghiệp tiến vào một thị trường nơi các đối thủ cạnh tranh chưa tiếp cận thì chắc chắn các doanh

nghiệp kình địch sẽ theo chân vào thị trường này để ngăn chặn đối thủ của mình thu được lợi ích và

chiếm ưu thế. Do các công ty nối đuôi nhau trên phạm vi toàn cầu nên họ thương mang theo mình các tài

sản để phục vụ hoat động sản xuất và kinh doanh ở các thị trường các quốc gia, bao gồm các sản phẩm,

chiến lược hoạt động, chiến lược tiếp thị, các tên nhãn hiệu, tạo nên tính đồng nhất ở khắp các thị trường.

Vì thế, tính đồng nhất ngày một tăng lên và dần thay thế cho tính đa dạng. Ngày một nhiều các lĩnh vực

sản xuất, khái niệm thị trường Đức, thị trường Mỹ, thị trường Brazin hay thị trường Nhật Bản dường như

không còn tồn tại nữa mà thay vào đó đối với nhiều doanh nghiệp chỉ tồn tại duy nhất một thị trường toàn

cầu.

Toàn cầu hóa hoạt động sản xuất (The globalization of production)

Toàn cầu hóa hoạt động sản xuất đề cập đến việc sử dụng các nguồn lực về hàng hóa và dịch vụ

từ các địa điểm khác nhau ở khắp nơi trên thế giới nhằm khai thác những lợi ích do sự khác biệt giữa các

quốc gia về chi phí và chất lượng của các yếu tố phục vụ sản xuất như (lao động, năng lượng, đất đai và

vốn). Bằng cách này, các công ty hy vọng có thể hạ thấp cấu trúc chi phí chung/hoặc cải thiện chất lượng

hoặc tăng khả năng chuyên môn hóa các chức năng trong hoạt động sản xuất, điều này cho phép các

doanh nghiệp cạnh tranh hiệu quả hơn. Xem xét trường hợp đối với mẫu máy bay thương mại 777 của

hãng Boeing. Có tám nhà cung cấp Nhật Bản tham gia sản xuất các phần như thân, cửa và cánh máy bay;

một doanh nghiệp từ Singapore cung cấp cửa cho càng hạ cánh; ba nhà cung cấp từ Italia chế tạo vỏ cánh

máy bay… Tổng cộng có khoảng 30% giá trị của chiếc máy bay 777 được cung cấp bởi các công ty nước

ngoài. Đối với chiếc máy bay 787, Boeing còn định đẩy mạnh xu hướng này nhiều hơn, họ dự định tới

65% giá trị của chiếc máy bay sẽ được thuê ngoài từ các công ty nước ngoài và 35% trong số đó sẽ đến từ

3 công ty lớn của Nhật Bản. Một phần lý do căn bản của Boeing khi thuê ngoài khá nhiều trong hoạt động

sản xuất đó là vì các nhà cung ứng nước ngoài này thực sự là những doanh nghiệp giỏi nhất trong lĩnh

vực chuyên môn của họ. Một mạng lưới toàn cầu các nhà cung cấp sẽ tạo ra những sản phẩm cuối cùng

tốt hơn, điều này cho phép Boeing có thêm cơ hội dành thị phần nhiều hơn trong tổng đơn hàng máy bay

thương mại so với đối thủ chính của họ là Airbus. Bên cạnh đó, việc Boeing outsource một số hoạt động

sản xuất ở các nước khác là nhằm tăng cơ hội dành được các đơn hàng quan trọng

từ các hãng hàng không có trụ sở ở nước đó.

Một ví dụ khác về mạng lưới các hoạt động toàn cầu, hãy xem xét chiếc laptop X31 của IBM.

Sản phầm này được các kỹ sư của IBM thiết kế tại Mỹ vì IBM tin rằng đây là địa điểm tốt nhất cho việc

thiết kế các mẫu sản phẩm. Vỏ máy, bàn phím và ổ đĩa cứng được sản xuất tại Thái Lan; màn hình hiển

thị và bộ nhớ được sản xuất tại Hàn Quốc; card không dây gắn trong được sản xuất tại Malaysia, và vi

mạch xử lý được chế tạo tại Mỹ. Trong mỗi case, các linh kiện này được sản xuất tại các địa điểm tối ưu

với các khoản chi phí sản xuất và vận chuyển. Các linh kiện này sẽ được chuyển tới bộ phận của IBM tại

Mehico để lắp ráp trước khi được chuyển về Mỹ để tiêu thụ. IBM thực hiện việc lắp ráp máy tính

ThinkPad tại Mehico vì các nhà quản lý tính toán rằng do chi phí nhân công ở quốc gia này khá rẻ, nên họ

Page 14: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

14

có thể giảm thiểu chi phí lắp ráp khi thực hiện tại đây. Chiến lược marketing và bán hàng đối với thị

trường Bắc Mỹ do nhân sự của IBM tại Mỹ xây dựng và phát triển, chủ yếu là do công ty này tin rằng dựa

trên sự am hiểu về thị trường địa phương, nhân sự của IBM ở Mỹ sẽ tạo thêm giá trị cho sản phẩm thông

qua các nỗ lực marketing của họ hơn là nhân sự ở nơi khác. (Năm 2005, bộ phận kinh doanh các sản

phẩm máy tính cá nhân của IBM, bao gồm cả ThinkPad, đã được công ty Lenovo của Trung Quốc mua

lại và công ty này đã nhanh chóng chuyển trụ sở chính của mình về Mỹ vì tin rằng đây là nơi tốt nhất đề

điều hành công việc kinh doanh). Trong khi các hoạt động thuê ngoài (outsource) chủ yếu như Boeing và

IBM giới hạn đối với các doanh nghiệp chế tạo thì ngày càng nhiều công ty tận dụng sự tiến bộ của công

nghệ truyền thông, đặc biệt là Internet để outsource các hoạt động dịch vụ sang các nhà sản xuất với chi

phí thấp ở các nước khác. Ví dụ, Internet cho phép các bệnh viện ở Mỹ thuê ngoài (outsource) công việc

liên quan đến chẩn đoán bệnh thông qua phim chụp sang Ấn Độ, nơi mà hình ảnh của chụp cộng hưởng

từ và các phương pháp tương tự được phân tích vào ban đêm khi các bác sĩ điều trị ở Mỹ ngủ và kết quả

sẵn sàng cho họ vào sáng hôm sau. Tương tự như vậy vào tháng 12 năm 2003, IBM tuyên bố công ty này

sẽ chuyển công việc của khoảng 4,300 kỹ sư phần mềm từ Mỹ sang Ấn Độ và Trung Quốc (sản xuất phần

mềm được coi là một loại hoạt động dịch vụ). Nhiều công ty phần mềm hiện đang sử dụng kỹ sư người

Ấn Độ để thực hiện chức năng bảo trì đối với các phần mềm được thiết kế tại Mỹ. Do sự khác biệt về thời

gian, các kỹ sư Ấn Độ có thể thực hiện công việc kiểm tra debugging đối với các phần mềm được viết ở

Mỹ khi các kỹ sư bên Mỹ đi ngủ, và chuyển các mã đã được sửa lỗi về Mỹ thông qua kết nối Internet

được bảo mật và sẵn sàng cho các kỹ sư bên Mỹ tiếp tục công việc vào ngày hôm sau. Việc phân tách các

hoạt động tạo ra giá trị theo cách này có thể rút ngắn thời gian và giảm chi phí cần thiết để phát triển các

chương trình phần mềm mới. Các doanh nghiệp khác từ các công ty sản xuất máy tính đến các ngân hàng

cũng đang thực hiện việc outsource các chức năng dịch vụ khách hàng, chẳng hạn như trung tâm giải đáp

điện thoại, sang các quốc gia đang phát triển nơi mà chi phí lao động rẻ hơn. Robert Reich người đã từng

đảm nhiệm vị trí bộ trưởng lao động dưới thời chính quyền Clinton, cho rằng xu hướng mà các công ty

như Boeing, Microsoft hay IBM đang thực hiện dẫn tới kết quả là giờ đây nhiều trường hợp không còn

thích hợp khi nói đến hàng hóa của Mỹ, của Nhật Bản, của Đức hay của Hàn Quốc. Theo Reich, khi việc

outsourcing các hoạt động sản xuất sang các nhà cung ứng khác đang ngày một tăng như hiện nay thì kết

quả tất yếu của hoạt động toàn cầu hóa, người ta đã đề cập đến “sản phẩm toàn cầu”. Tuy nhiên, giống

như với việc toàn cầu hóa các thị trường, người ta cũng phải cẩn trọng tránh việc đẩy toàn cầu hóa hoạt

động sản xuất đi quá xa. Có rất nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi họ tìm cách phân

tán hoạt động sản xuất ra nhiều nơi trên phạm vi toàn cầu một cách tối ưu. Những trở ngại này bao gồm

các rào cản chính thức hoặc không chính thức cản trở hoạt động thương mại giữa các nước, các rào cản

đối với đầu tư nước ngoài, chi phí vận chuyển và các vấn đề liên quan đến rủi ro kinh tế và chính trị. Ví

dụ, như các quy định của Chính phủ hạn chế việc các bệnh viện thực hiện outsource công việc chẩn đoán

bệnh qua ảnh chụp cộng hưởng từ sang các nước đang phát triển nơi mà chi phí cho bác sĩ Xquang rẻ hơn.

Tuy nhiên, chúng ta đang tiến bước về một tương lai được đặc trưng bởi toàn cầu hóa các thị trường và

hoạt động sản xuất. Các doanh nghiệp hiện đại đóng vai trò nhân tố quan trọng trong xu thế này khi các

hoạt động của họ góp phần thúc đẩy toàn cầu hóa. Tuy vậy, các doanh nghiệp này cũng phản ứng lại một

cách hiệu quả với những thay đổi về điều kiện trong môi trường hoạt động.

Page 15: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

15

1.2.3. Các nhân tố thúc đẩy toàn cầu hóa

Có hai nhân tố chính thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, đó là việc dỡ bỏ các rào cản trong các hoạt

động thương mại và đầu tư ở các lĩnh vực; và sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ.

Việc dỡ bỏ các rào cản trong các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ, công nghệ, sở hữu trí

tuệ giữa các nước và lãnh thổ trên phạm vi khu vực và toàn cầu cùng với sự hình thành và tăng cường các

quy định, nguyên tắc, luật lệ chung với cơ chế tổ chức để điều chỉnh và quản lý các hoạt động, giao dịch

kinh tế quốc tế theo hướng tự do hoá là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Đối với lĩnh

vực hàng hóa, trong khuôn khổ của Hiệp định GATT, thương mại hàng hóa là lĩnh vực thể hiện rõ nét

nhất việc dỡ bỏ các rào cản theo hướng tự do hóa. Từ năm 1947 đến nay đã diễn ra 8 vòng đàm phán để

cắt giảm thuế quan. Kết quả của các vòng đàm phán đã đưa thuế quan của các nước công nghiệp phát

triển giảm xuống từ 40% năm 1947 xuống còn gần 10% vào cuối thập niên 1960 và dưới 4% sau khi hoàn

thành thực hiện các cam kết của vòng đàm phán Urugoay. Hiệp định đạt được tại vòng đàm phán

Urugoay làm giảm tới 38% mức thuế quan của hàng nghìn mặt hàng trên thế giới. Về hàng rào phi thuế

quan, tổ chức WTO cũng như các khuôn khổ khu vực đều đưa vào trong chương trình đàm phán. Vòng

đàm phán Urugoay đã đề cập tới một các lĩnh vực liên quan tới các hàng rào phí thuế quan như biện pháp

vệ sinh an toàn và kiểm dịch động thực vật, các rào cản kỹ thuật, các quy định về định giá hải quan, quy

tắc xuất xứ... Trên phạm vi khu vực, hàng rào thuế quan nội khối đã được gỡ bỏ như trong EU, NAFTA,

AFTA. Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ, Hiệp định GATS trong khuôn khổ của WTO là nỗ lực đầu

tiên nhằm xây dựng các quy định trên phạm vi toàn cầu để quản lý các luồng lưu chuyển dịch vụ giữa các

quốc gia. Hiệp định đã đưa ra các nguyên tắc mang tính chất khung, dựa vào đó các nước đưa ra những

cam kết cụ thể về mở cửa và tiếp cận thị trường.

Sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ có tác động mạnh mẽ tới quá trình toàn

cầu hóa, là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình này. Những tiến bộ của khoa học – kỹ thuật và công

nghệ bao gồm những phát minh, sáng chế, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống mới, các phương

pháp công nghệ hiện đại, các lý thuyết và phương thức quản lý mới trong mọi lĩnh vực được áp dụng vào

thực tiễn sản xuất, kinh doanh làm tăng năng suất lao động, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư

cho xã hội với chi phí thấp hơn, giá rẻ hơn, tạo ra tiền đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển sự phân

công, chuyên môn hóa lao động, sản xuất và kinh doanh theo ngành nghề, vùng lãnh thổ và giữa các quốc

gia. Nhờ đó, thương mại và trao đổi quốc tế về hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động và tri thức ngày một

tăng.

Sự phát triển của khoa học – công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và

lần thứ hai đã mở đường cho sự hình thành và phát triển nhanh chóng của thị trường thế giới. Nếu cuộc

cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chủ yếu dựa vào máy hơi nước, sắt và than thì cuộc cách mạng công

nghiệp lần thứ hai chủ yếu dựa vào máy chạy bằng nhiên liệu lỏng, điện và năng lượng nguyên tử và

những vật liệu đặc biệt: kim loại không sắt, chất dẻo, sợi hóa chất, đặc biệt là dựa vào những thành tựu

của lĩnh vực thông tin và phương thức quản lý mới. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong

ngành giao thông và kỹ thuật thông tin làm cho thế giới bị thu nhỏ lại về không gian và thời gian. Các chi

phí về vận tải, về thông tin ngày càng giảm, sự cách trở về địa lý dần được khắc phục, các quốc gia và dân

Page 16: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

16

tộc trở nên gần gũi hơn với những hình ảnh và thông tin được truyền hình liên tục về các sự kiện đang xẩy

ra ở mọi nơi trên trái đất.

Trong thế kỷ XIX, sự ra đời của đường sắt đã làm giảm chi phí vận tải khoảng 85 – 95%. Trong

khoảng 10 – 15 năm, phí vận tải đường biển đã giảm khoảng 70%; phí vận tải hàng không giảm mỗi năm

khoảng 3 – 4%. Sự phát triển của máy tính cá nhân và thương mại điện tử đã diễn ra với tốc độ nhanh

chóng hơn. Năng suất trong ngành công nghệ thông tin suốt trên ba thập kỷ tăng khoảng 5% một năm,

cao gấp 5 lần so với tốc độ tăng năng suất chung của tất cả các ngành. Dưới tác động của cuộc cách mạng

công nghệ về công nghệ thông tin, kinh tế tri thức đang hình thành trong đó tri thức trở thành một lực

lượng sản xuất ngày càng quan trọng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế nói chung và từng

loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và tiêu thục trên thị trường quốc tế nói riêng.

Khoa học và công nghệ từ cuối thập niên 1970 đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tham gia

vào quá trình sản xuất toàn cầu, làm thay đổi hầu hết mọi mặt hoạt động sản xuất cả về lượng và chất và

mang tính quốc tế hóa cao độ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ này đã làm cho nền kinh tế thế giới

phát triển với tốc độ trên 3%/năm trong vòng hơn 20 năm. Hai cuộc cách mạng công nghiệp trước đây đã

mang lại những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế và xã hội toàn cầu, đặc biệt là sự phát triển nhanh

chóng của sản xuất, tạo ra nguồn của cải phong phú cho loài người. Tuy nhiên, với hai cuộc cách mạng

đầu tiên, hàm lượng vật chất (năng lượng, nguyên nhiên liệu, thiết bị máy móc, vốn và lao động) vẫn

chiếm phần lớn trong một sản phẩm. Với cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay, hàm lượng vật

chất trong các sản phẩm ngày càng giảm, hiện nay chỉ còn chiếm tỷ lệ bình quân từ 25 – 30% trong một

sản phẩm, phần còn lại là hàm lượng tri thức. Đặc điểm này cũng thể hiện tính toàn cầu, tính quốc tế hóa

của hoạt động lao động sản xuất ngày càng cao.

Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba gắn với sự ra đời của những công nghệ cao

trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực sinh học, thông tin, tự động hóa, vật liệu mới và năng lực.

Trong lĩnh vực sinh học, việc khám phá ra cấu trúc ADN, hiểu biết được mật mã của sự sống là

một bước ngoặt trong lịch sử sinh học. Với những kỹ thuật về di truyền học, về gien và nuôi cấy tế bào,

nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi và nguồn dinh dưỡng mới được tạo ra, góp phần nâng cao năng suốt

nông nghiệp, tạo ra lương thực và thực phẩm dồi dào cho con người sử dụng và trao đổi. Trong vòng ba

thập kỷ, sản xuất lương thực thế giới tăng trên 100% trong khi dân số tăng trên 60%.

Lĩnh vực thông tin chứng kiến những tiến bộ phi thường, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc

đẩy xu thế toàn cầu hóa. Với hệ thống các phương tiện và kỹ thuật thông tin hiện đại, cách mạng thông tin

toàn cầu như điện thoại, fax, Internet... mối liên hệ qua lại và giao dịch giữa các cá nhân và doanh nghiệp

ở mọi nơi trên thế giới trở nên nhanh chóng, thường xuyên và thuận tiện với chi phí ngày càng giảm dần;

biên giới giữa các quốc gia trên nhiều phương diện đã và đang bị xóa mờ. Sự biến đổi trong lĩnh vực

thông tin, đặc biệt đã biến thông tin trở thành môt thứ hàng hóa, truyền thông trở thành một trong những

ngành công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Nhờ vào công nghệ thông tin, thương mại điện tử ra đời và

phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nhờ vào công nghệ thông tin, phương thức tổ chức và quản lý sản xuất –

kinh doanh đã thay đổi vô cùng nhanh chóng. Một số nhà phân tích dự đoán rằng “Nền kinh tế điện tử„ sẽ

tạo ra nhiều công ty với quy mô nhỏ, hoạt động thông qua mạng điện tử với cơ chế tạm thời hoặc không

cần phải có một trụ sở làm việc chung.

Page 17: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

17

Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ cũng tạo ra nhiều loại vật liệu mới có chất lượng tốt hơn,

chi phí thấp hơn thay thế những vật liệu truyền thống. Từ những năm 1980 cho đến nay, thế giới đã tăng

cường sử dụng những nguồn năng lượng và vật liệu mới, khiến cho lượng dầu lửa do các nước công

nghiệp tiêu thụ giảm đi trung bình 1 tỷ tấn/năm. Tỷ lệ nguồn điện nguyên tử, thủy điện, năng lượng mặt

trời được sử dụng ngày càng cao trong sản xuất và đời sống. Các vật liệu mới như chất dẻo đặc biệt, vật

liệu tổng hợp, sợi quang học, gốm sứ... thay thế ngày càng nhiều nguyên liệu truyền thống. Tự động hóa

cũng trở thành một nét đặc trưng của khoa học – công nghệ, nhiều khâu trong sản xuất được tự động hóa,

lập trình khoa học.

1.3. Cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với hoạt động kinh doanh quốc tế

1.3.1. Cơ hội

Toàn cầu hóa vừa tạo cơ hội, vừa tạo thách thức cho các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động

kinh doanh quốc tế. Về mặt tích cực, toàn cầu hóa mang lại cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế

những cơ hội như:

- Thứ nhất, các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, tăng doanh thu, lợi nhuận, thị

phần. Đặc biệt, khi các quốc gia là thành viên của các liên kết khu vực, ở đó quan hệ thương mại giữa các

thành viên là các thỏa thuận thương mại tự do (chẳng hạn các nước ASEAN ký kết thỏa thuận thương mại

tự do AFTA, các nước thuộc khu vực Bắc Mỹ ký kết thỏa thuận thương mại tự do NAFTA) hoặc khi các

quốc gia là thành viên của một tổ chức kinh tế quốc tế, chẳng hạn Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ở

đó quan hệ thương mại được điều chỉnh bởi những nguyên tắc và quy định nhằm đảm bảo thương mại

càng trở nên thông thoáng và khả đoán thì điều kiện tiếp cận thị trường trở e, thuận lợi hơn. Đây chính là

cơ hội tốt đối với các doanh nghiệp trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường kinh doanh của mình.

- Thứ hai, toàn cầu hóa giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực

một cách tối ưu. Khi điều kiện tiếp cận thị trường trở nên thông thoáng, thuận lợi thì việc di chuyển các

nguồn lực giữa các quốc cũng trở nên dễ dàng, đó là sự di chuyển của nguồn vốn, nguồn lao động,kỹ

thuật, công nghệ,… Nhờ đó, các doanh nghiệp có thể tiếp cận với nguồn lực có chi phí thấp, góp phần

giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- Thứ ba, toàn cầu hóa giúp doanh nghiệp có cơ hội củng cố, nâng cao khả năng cạnh tranh

của doanh nghiệp. Dưới tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu

vực và thế giới, bởi vậy thị trường được mở rộng và thị trường trong nước cũng trở thành thị trường quốc

tế. Do đó, áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp tăng lên, đòi hỏi các doanh nghiệp phải củng cố và

nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể giữ vững vị thế tại thị trường trong nước và ngoài nước. Điều đó

cũng có nghĩa là toàn cầu hóa đã mang lại cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cơ hội củng cố khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

1.3.2. Thách thức

Bên cạnh những tác động tích cực theo hướng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc

tế, toàn cầu hóa còn có những tác động không tích cực, tạo ra những thách thức cho các doanh nghiệp.

Những thách thức của quá trình toàn cầu hóa đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế bao gồm:

Page 18: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

18

- Thứ nhất, toàn cầu hóa khiến các doanh nghiệp phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng

lớn.

- Thứ hai, toàn cầu hóa đặt ra cho các doanh nghiệp những thách thức trong việc củng cố

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như hoạt động quản trị doanh nghiệp.

- Thứ ba, toàn cầu hóa cũng đặt ra những thách thức cho các doanh nghiệp trong việc đáp ứng

những quy định pháp luật quốc gia và quốc tế, những yêu cầu, đòi hỏi của thị trường ở các quốc gia khác

nhau.

1.4. Hệ thống thương mại thế giới

1.4.1. Bán phá giá và các biện pháp chống bán phá giá

§iÒu VI - GATT 1947 quy ®Þnh: B¸n ph¸ gi¸ lµ hµnh ®éng mang s¶n phÈm cña mét n­íc sang

b¸n thµnh hµng ho¸ ë mét n­íc kh¸c, víi møc gi¸ xuÊt khÈu thÊp h¬n gi¸ b¸n th«ng th­êng cña s¶n

phÈm ®ã khi b¸n ë trong n­íc xuÊt khÈu. Kh¸i niÖm nµy sau ®ã tiÕp tôc ®­îc WTO sö dông trong

HiÖp ®Þnh vÒ chèng b¸n ph¸ gi .̧ (§iÒu 2.1 ADA: Mét s¶n phÈm bÞ coi lµ b¸n ph¸ gi¸ - tøc lµ ®­îc ®­a

vµo l­u th«ng th­¬ng m¹i cña mét n­íc kh¸c thÊp h¬n trÞ gi¸ th«ng th­êng cña s¶n phÈm ®ã – nÕu nh­

gi¸ xuÊt khÈu cña s¶n phÈm ®­îc xuÊt khÈu tõ mét n­íc nµy sang mét n­íc kh¸c thÊp h¬n møc gi¸ cã

thÓ so s¸nh ®­îc cña s¶n phÈm t­¬ng tù ®­îc tiªu dïng t¹i n­íc xuÊt khÈu theo c¸c ®iÒu kiÖn th­¬ng

m¹i th«ng th­êng).

Chống bán phá giá là hành động đối kháng của Chính phủ nước nhập khẩu đối với hàng nhập

khẩu bị bán phá giá nhằm chống lại hành động cạnh tranh không công bằng, bảo vệ lợi ích của những nhà

sản xuất hàng hóa tương tự tại thị trường nước nhập khẩu. Theo Hiệp định ADA, để áp dụng biện pháp

chống bán phá giá, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu phải trải qua quy trình điều tra và tìm các bằng

chứng để chứng minh hội đủ 3 điều kiện:

Hµng nhËp khÈu bÞ b¸n ph¸ gi¸ (that dumping is occurring). Thông thường cơ quan điều tra phải

xác định biên độ phá giá. Biên độ phá giá = (giá thông thường – giá xuất khẩu)/ giá xuất khẩu. Nếu Biên

độ bán phá giá dương chứng tỏ hàng nhập khẩu bị bán phá giá. Thông thường cơ quan điều tra sẽ các định

thiệt hại của ngành sản xuất trong nước nếu biên độ phá giá lớn hơn 2%.

Ngµnh s¶n xuÊt s¶n phÈm t­¬ng tù cña n­íc nhËp khÈu bÞ thiÖt h¹i ®¸ng kÓ hoÆc bÞ ®e däa

thiÖt h¹i ®¸ng kÓ, hoÆc ng¨n c¶n ®¸ng kÓ sù h×nh thµnh ngµnh s¶n xuÊt trong n­íc (that the domestic

industry producing the like product in the importing country is suffering material injury).

Cã mèi quan hÖ nh©n qu¶ gi÷a viÖc hµng nhËp khÈu b¸n ph¸ gi ̧vµ thiÖt h¹i nãi trªn (that there

is a causal link between the two).

Khi có cơ sở khẳng định hội đủ 3 điều kiện trên, cơ quan điều tra đưa ra quyết định áp dụng biện

pháp chống bán phá giá. Ban đầu, biện pháp thường được sử dụng có thể là yêu cầu nâng giá xuất khẩu

hoặc biện pháp chống bán phá giá tạm thời (đó là một khoản tiền đối với hàng nhập khẩu phải nộp khi

làm thủ tục hải quan, được xác định trên cơ sở biên độ phá giá tạm thời). Sau 4 tháng áp dụng, nếu biện

pháp tạm thời không làm thay đổi tình trạng bán phá giá, cơ quan điều tra áp dụng biện pháp cuối cùng,

đó là thuế chống bán phá giá. Thuế chống bán phá giá là loại thuế đánh vào hàng nhập khẩu, được tính

toán trên cơ sở biên độ phá giá, không vượt quá biên độ phá giá và được sử dụng trong thời hạn không

quá 5 năm.

Page 19: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

19

Vì vậy các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần tìm hiểu kỹ luật pháp về chống bán phá giá ở

các nước nhập khẩu, đảm bảo hệ thống kế toán minh bạch và theo chuẩn quốc tế để sẵn sàng cung cấp

bằng chứng chứng minh với cơ quan điều tra khi bị điều tra chống bán phá giá. Doanh nghiệp nên hợp tác

với cơ quan điều tra để quá trình điều tra diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và có thể giảm thiểu thiệt hại đối

với doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp nên đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để giảm thiểu những

thiệt hại nếu bị áp thuế chống bán phá giá.

1.4.2. Trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp

Trî cÊp (Subsidies) lµ viÖc chÝnh phñ dµnh cho c¸c doanh nghiÖp nh÷ng lîi Ých trùc tiÕp hay

gi¸n tiÕp mµ trong ®iÒu kiÖn th«ng th­êng doanh nghiÖp kh«ng thÓ cã.

Kh¸i niÖm lîi Ých ë ®©y lµ rÊt quan träng trong viÖc x¸c ®Þnh mét biÖn ph¸p cã ph¶i lµ mét trî

cÊp hay kh«ng. §èi víi mét quèc gia, c¸c chÝnh s¸ch, c¸c biÖn ph¸p ®Òu nh»m mang l¹i c¸c lîi Ých cho

doanh nghiÖp, nh­ng chØ c¸c ho¹t ®éng cña chÝnh phñ t¹o ra c¸c lîi Ých cho doanh nghiÖp kh«ng phï

hîp víi c¸ch tÝnh th­¬ng m¹i th«ng th­êng míi ®­îc coi lµ trî cÊp.

Nh÷ng lîi Ých nµy cã thÓ ph¸t sinh tõ viÖc chÝnh phñ trùc tiÕp cung cÊp tiÒn cho doanh

nghiÖp, cho vay víi ®iÒu kiÖn ­u ®·i hoÆc b¶o l·nh cho vay, hoÆc chÝnh phñ miÔn, ho·n c¸c kho¶n

thuÕ ph¶i thu, hoÆc viÖc cung cÊp hay mua hµng ho¸ dÞch vô víi gi¸ c¶ thuËn lîi cho doanh nghiÖp,

hoÆc hç trî thu nhËp hay trî gÝa cho c¸c doanh nghiÖp.

Trong WTO, trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong thương mại hàng phi nông sản được điều

chỉnh bởi Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM), trong khi trợ cấp trong

thương mại hàng nông sản được quy định và điều chỉnh theo Hiệp định nông nghiệp (hiệp định AoA).

Ph©n lo¹i trî cÊp

Nhằm đảm bảo trợ cấp và các biện pháp chống tMçi mét lo¹i trî cÊp sÏ cã c¸c t¸c ®éng kh¸c nhau

®Õn ho¹t ®éng th­¬ng m¹i quèc tÕ. §Ó cã c¸c c¨n cø ¸p dông c¸c biÖn ph¸p ®èi víi tõng lo¹i trî cÊp, hiÖp

®Þnh SCM ph©n trî cÊp thµnh ba lo¹i nh­ sau:

Trî cÊp bÞ cÊm (trî cÊp ®Ìn ®á - Prohibited subsidies)

Trõ mét sè ngo¹i lÖ nh­ ®èi xö ­u tiªn ®èi víi c¸c n­íc ®ang ph¸t triÓn vµ c¸c nÒn kinh tÕ

chuyÓn ®æi, tÊt c¶ c¸c trî cÊp ®Ìn ®á ®Òu bÞ cÊm sö dông, nÕu mét trî cÊp ®Ìn ®á ®­îc sö dông, nã

sÏ trë thµnh ®èi t­îng bÞ ®iÒu chØnh.

Trî cÊp bÞ cÊm bao gåm trî cÊp xuÊt khÈu (export subsidies) vµ trî cÊp sö dông hµng néi (local

content subsidies) thay cho hµng nhËp khÈu

Theo HiÖp ®Þnh, c¸c biÖn ph¸p sau ®©y ®­îc coi lµ trî cÊp xuÊt khÈu:

- ChÝnh phñ trî cÊp trùc tiÕp cho c¸c doanh nghiÖp hay ngµnh c«ng nghiÖp ®Ó thùc hiÖn ho¹t ®éng

xuÊt khÈu

- C¸c biÖn ph¸p gióp b¶o l­u tiÒn hoÆc bÊt cø ho¹t ®éng t­¬ng tù nµo liªn quan tíi viÖc trî cÊp cho hµng

xuÊt khÈu

- C¸c biÖn ph¸p trong viÖc vËn chuyÓn trong n­íc hoÆc c­íc phÝ vËn t¶i ®èi víi hµng xuÊt khÈu ®­îc

­u tiªn h¬n so víi hµng tiªu dïng néi ®Þa

- C¸c biÖn ph¸p cung cÊp hµng ho¸ vµ dÞch vô ®Ó s¶n xuÊt hµng xuÊt khÈu ®­îc ­u ®·i h¬n so víi s¶n

xuÊt hµng tiªu dïng trong n­íc.

Page 20: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

20

- C¸c biÖn ph¸p miÔn toµn bé hay mét phÇn, c¾t gi¶m hoÆc ho·n thu c¸c lo¹i thuÕ trùc thu hay chi phÝ

phóc lîi x· héi mµ c¸c doanh nghiÖp ph¶i tr¶ cã liªn quan tíi hµng xuÊt khÈu.

- C¸c biÖn ph¸p miÔn hay c¾t gi¶m riªng ®èi víi hµng xuÊt khÈu c¸c lo¹i thuÕ gi¸n thu nh­ thuÕ gi¸ trÞ

gia t¨ng.

- C¸c biÖn ph¸p cung cÊp ®¶m b¶o tÝn dông xuÊt khÈu hoÆc c¸c ch­¬ng tr×nh b¶o hiÓm xuÊt khÈu víi

møc phÝ kh«ng ®ñ bï ®¾p c¸c chi phi ho¹t ®éng dµi h¹n còng nh­ c¸c rñi ro cña ch­¬ng tr×nh.

Trî cÊp cã thÓ bÞ khiÕu n¹i (trî cÊp ®Ìn vµng - Actionable subsidies)

§©y lµ lo¹i trî cÊp ®Æc thï chØ ¸p dông cho mét doanh nghiÖp hay mét nhãm doanh nghiÖp,

mét lÜnh vùc c«ng nghiÖp, mét ngµnh c«ng nghiÖp, hay cho mét khu vùc ®Þa lý.

Trî cÊp cã thÓ bÞ khiÕu n¹i lµ trî cÊp ®­îc chÊp nhËn trong khu«n khæ cña HiÖp ®Þnh trong

chõng mùc kh«ng g©y bÊt lîi trùc tiÕp hoÆc gi¸n tiÕp ®Õn lîi Ých cña ngµnh hoÆc lîi Ých th­¬ng m¹i

cña n­íc kh¸c vµ chØ bÞ khiÕu kiÖn khi g©y t¸c ®éng tiªu cùc ®Õn quyÒn lîi cña thµnh viªn kh¸c, cô

thÓ:

- Hµng nhËp khÈu ®­îc trî cÊp g©y tæn h¹i ®Õn lîi Ých cña n­íc kh¸c

- Hµng nhËp khÈu ®­îc trî cÊp lµm ph­¬ng h¹i ®Õn nÒn s¶n xuÊt trong n­íc nhËp khÈu.

- Lµm v« hiÖu hoÆc suy gi¶m quyÒn lîi mµ c¸c thµnh viªn trùc tiÕp hoÆc gi¸n tiÕp ®­îc h­íng tõ

GATT .

Trî cÊp kh«ng bÞ khiÕu kiÖn (trî cÊp ®Ìn xanh - non-actionable subsidies)

Trợ cấp không cá biệt: Tức là các loại trợ cấp không hướng tới một (một nhóm) doanh

nghiệp/ngành/khu vực địa lý nào. Tiêu chí để hưởng trợ cấp là khách quan; không cho cơ quan có thẩm

quyền cấp khả năng tuỳ tiện xem xét và không tạo ra hệ quả ưu đãi riêng đối với bất kỳ đối tượng nào;

hoặc

Các trợ cấp sau (dù cá biệt hay không cá biệt):

- Trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu do các công ty, tổ chức nghiên cứu tiến hành (với một số điều kiện

về loại trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể);

- Trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với các tiêu chí xác định cụ thể về mức thu nhập bình quân hoặc tỷ

lệ thất nghiệp)

- Trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi trường kinh doanh mới. Các

nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên khác khiếu kiện (tức là loại trợ

cấp được phép vô điều kiện).

C¸c biÖn ph¸p ®èi kh¸ng

C¸c biÖn ph¸p ®èi kh¸ng (countervailing measures) ®­îc ¸p dông ®èi víi trî cÊp ®Ìn ®á vµ ®Ìn

vµng khi hµng ho¸ nhËp khÈu ®­îc trî cÊp lµm ph­¬ng h¹i tíi nghµnh c«ng nghiÖp trong n­íc.

ThuÕ chèng trî cÊp lµ kho¶n thuÕ bæ sung ngoµi kho¶n thuÕ NK th«ng th­êng ®¸nh vµo hµng

nhËp khÈu ®­îc trî cÊp nh»m lo¹i bá t¸c ®éng lµm thiÖt h¹i cho ngµnh s¶n xuÊt trong n­íc nhËp khÈu.

SCM quy ®Þnh c¸c biÖn ph¸p ®èi kh¸ng sÏ ®­îc ¸p dông sau khi c¬ quan cã thÈm quyÒn cña

n­íc nhËp khÈu tiÕn hµnh ®iÒu tra vµ ®­a ra kÕt luËn kh¼ng ®Þnh sù tån t¹i cña c¶ 3 ®iÒu kiÖn sau:

Page 21: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

21

- Hµng NK ®­îc trî cÊp víi biªn ®é trî cÊp h¬n 1%. Biªn ®é trî cÊp lµ phÇn tr¨m møc trî cÊp trªn

trÞ gi¸ hµng hãa. Møc trî cÊp ®­îc x¸c ®Þnh tu©n thñ theo luËt ph¸p n­íc nhËp khÈu. Nh×n chung møc

trî cÊp ®­îc tÝnh theo h­íng dÉn:

Nếu Nhà nước cho doanh nghiệp vay một khoản với mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất

thương mại bình thường cho khoản vay tương tự: Mức trợ cấp được tính là phần chênh lệch giữa 2 mức

lãi suất này;

Nếu Nhà nước bảo lãnh vay với phí bảo lãnh thấp hơn chi phí mà doanh nghiệp phải trả

cho khoản vay thương mại tương tự nếu không có bảo lãnh của Nhà nước: Mức trợ cấp sẽ được tính là

phần chênh lệch giữa 2 mức này

Nếu Nhà nước mua hoặc cung cấp hàng hoá, dịch vụ với giá mua cao hơn mức hợp lý

hoặc giá cung cấp thấp hơn mức hợp lý (xác định theo các điều kiện thị trường của hàng hoá/dịch vụ liên

quan): mức trợ cấp là mức chênh lệnh giá.

- Ngµnh s¶n xuÊt s¶n phÈm t­¬ng tù cña n­íc nhËp khÈu bÞ thiÖt h¹i ®¸ng kÓ hoÆc bÞ

®e däa thiÖt h¹i ®¸ng kÓ hoÆc ng¨n c¶n ®¸ng kÓ sù h×nh thµnh cña ngµnh s¶n xuÊt trong n­íc.

- Cã mèi quan hÖ nh©n qu¶ gi¸ hµng nhËp khÈu ®­îc trî cÊp vµ thiÖt h¹i.

Về nguyên tắc, mức thuế chống trợ cấp được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu nước

ngoài và không cao hơn biên độ trợ cấp xác định cho họ; Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước

ngoài không được lựa chọn để tham gia cuộc điều tra thì mức thuế chống trợ cấp áp dụng cho họ không

cao hơn biên độ trợ cấp trung bình của tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều

tra.

Sau khi áp thuế một thời gian (thường là theo từng năm) cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra lại để

xem xét tăng, giảm mức thuế hoặc chấm dứt việc áp thuế đối kháng nếu có yêu cầu; Việc áp thuế chống

trợ cấp không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có Quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát

lại trừ khi cơ quan có thẩm quyền thấy rằng việc chấm dứt áp thuế sẽ dẫn tới việc tái trợ cấp hoặc gây

thiệt hại; Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với hàng hoá liên quan nhập khẩu sau thời điểm ban hành

Quyết định; việc áp dụng hồi tố (áp dụng cho những lô hàng nhập khẩu trước thời điểm ban hành Quyết

định) chỉ được thực hiện nếu thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội địa là thiệt hại thực tế.

Trong thương mại hàng nông sản, theo Hiệp định AoA, trợ cấp được chia thành các nhóm:

- Trợ cấp hộp màu xanh lá cây bao gồm những trợ cấp không có tác động trực tiếp làm bóp méo

thương mại hàng nông sản như trợ cấp để ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, trợ cấp phát triển hạ

tầng cơ sở nông thôn, trợ cấp để phòng trừ dịch, bệnh, trợ cấp để đảm bảo an ninh lương thực,…

- Trợ cấp hộp màu xanh da trời bao gồm trợ cấp cho vùng sâu vùng xa, vùng có hoàn cảnh khó

khăn, …

- Trợ cấp hộp màu hổ phách, bao gồm những trợ cấp có tác động trực tiếp làm bóp méo thương

mại hàng nông sản như trợ cấp thu mua giống và vật tư đầu vào, trợ giá bán hoặc trợ cấp xuất khẩu,…

Các thành viên của WTO đều cam kết cắt giảm trợ cấp đối với nông nghiệp, thậm chí nhiều thành

viên cam kết không trợ cấp xuất khẩu cho hàng nông sản.

Các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần chú ý luật pháp về trợ cấp và các biện pháp đối kháng

của thị trường trong nước cũng như thị trường nhập khẩu để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, tránh những

Page 22: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

22

tổn thất, thiệt hại có thể có khi bị nước nhập khẩu sử dụng các biện pháp đối kháng. Doanh nghiệp nên

tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm bằng chất lượng của hàng hóa, bao bì, kiểu dáng, dịch vụ kèm

theo,… hơn là cạnh tranh bằng việc xin trợ cấp từ chính phủ hoặc bán phá giá. Ngoài ra doanh nghiệp cần

đa dạng hóa thị trường, áp dụng chế độ kế toán minh bạch phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và hợp tác với cơ

quan điều tra khi cần thiết để tránh những thiệt hại có thể có đối với doanh nghiệp.

1.4.3. Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế

Tự vệ là biện pháp được nước nhập khẩu sử dụng dưới hình thức t¹m thêi h¹n chÕ nhËp khÈu

nÕu sau khi ®iÒu tra kh¼ng ®Þnh r»ng hµng nhËp khÈu ®ang t¨ng ®ét biÕn theo nghÜa t­¬ng ®èi vµ

tuyÖt ®èi sÏ g©y thiÖt h¹i nghiªm träng cho ngµnh s¶n xuÊt trong n­íc vµ s¶n xuÊt ra c¸c s¶n phÈm

t­¬ng tù.

Theo HiÖp ®Þnh tù vÖ (AS) cña WTO, viÖc ®iÒu tra ®Ó ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ cã thÓ do

ChÝnh phñ hoÆc mét ngµnh c«ng nghiÖp yªu cÇu tiÕn hµnh. ViÖc ®iÒu tra ph¶i ®­îc th«ng b¸o c«ng

khai ®Ó c¸c nhµ nhËp khÈu, xuÊt khÈu vµ c¸c bªn liªn quan kh¸c cã thÓ ®­a ra chøng cí vµ quan ®iÓm

cña m×nh.

ViÖc ¸p dông c¸c biÖn ph¸p tù vÖ chØ ®­îc tiÕn hµnh khi viÖc ®iÒu tra x¸c ®Þnh ®­îc r»ng:

+ S¶n phÈm ®ang nhËp khÈu víi sè l­îng t¨ng theo nghÜa tuyÖt ®èi vµ t­¬ng ®èi.

+ Trong ®iÒu kiÖn ®ã sÏ g©y ra hoÆc ®e do¹ g©y ra thiÖt h¹i nghiªm träng ®èi víi nÒn s¶n xuÊt

c¸c s¶n phÈm t­¬ng tù hoÆc trùc tiÕp c¹nh tranh.

C¸c biÖn ph¸p tù vÖ chØ ®­îc ¸p dông trong thêi h¹n t¹m thêi ®Ó t¹o ®iÒu kiÖn cho ngµnh c«ng

nghiÖp bÞ thiÖt h¹i tiÕn hµnh c¸c b­íc tù ®iÒu chØnh nh»m thÝch øng víi c¹nh tranh khi ngõng ¸p dông

c¸c biÖn ph¸p tù vÖ ®ã.

MÆt kh¸c, c¸c biÖn ph¸p tù vÖ chØ ®­îc ¸p dông ë møc ®é cÇn thiÕt ®Ó ng¨n ngõa hoÆc kh¾c

phôc thiÖt h¹i nghiªm träng vµ thóc ®Èy ®iÒu chØnh vµ dùa trªn nguyªn t¾c kh«ng ph©n biÖt ®èi xö

®èi víi hµng nhËp khÈu tõ c¸c nguån kh¸c nhau.

Cã hai h×nh thøc tù vÖ lµ t¨ng møc thuÕ trÇn hoÆc ¸p dông h¹n chÕ sè l­îng. Trong tr­êng hîp sö

dông h¹n ng¹ch, h¹n ng¹ch ®­îc ph©n bæ trªn c¬ së thÞ phÇn nhËp khÈu cña c¸c n­íc nµy trong thêi gian

nhÊt ®Þnh tr­íc ®ã, cã tÝnh ®Õn c¸c nhµ cung cÊp míi.

- Thêi gian ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ vµ båi th­êng thiÖt h¹i th­¬ng m¹i

Thêi gian ¸p dông c¸c biÖn ph¸p tù vÖ tèi ®a lµ 4 n¨m, ®­îc phÐp kÐo dµi nh­ng kh«ng qu¸ 8

n¨m, thêi gian kÐo dµi møc tù vÖ kh«ng ®­îc cao h¬n thêi gian chÝnh thøc.

Cho phÐp n­íc nhËp khÈu ®­îc phÐp t¸i ®iÒu tra ®Ó ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ víi mét mÆt hµng

sau kho¶ng thêi gian b»ng thêi gian tù vÖ lÇn tr­íc nh­ng kh«ng Ýt h¬n 2 n¨m.

¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ sÏ g©y tæn thÊt cho c¸c n­íc bÞ ¸p dông. V× vËy, c¸c n­íc thµnh viªn dù

®Þnh ¸p dông c¸c biÖn ph¸p tù vÖ sÏ ®­a ra ®Ò nghÞ bèi th­êng cho n­íc cã lîi Ých th­¬ng m¹i bÞ ¶nh

h­ëng do viÖc ¸p dông c¸c biÖn ph¸p tù vÖ nµy.

ViÖc båi th­êng cã thÓ ®­îc tho¶ thuËn d­íi h×nh thøc n­íc muèn ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ sÏ gi¶m

thuÕ ®¸nh vµo c¸c mÆt hµng xuÊt khÈu kh¸c cña n­íc bÞ ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ. ViÖc båi th­êng ph¶i

theo nguyªn t¾c t­¬ng ®­¬ng, nÕu kh«ng tho¶ thuËn ®­îc møc ®é båi th­êng th× c¸c n­íc thµnh viªn

xuÊt khÈu cã thÓ ¸p dông c¸c biÖn ph¸p tr¶ ®òa.

Page 23: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

23

BiÖn ph¸p tr¶ ®òa th­êng d­íi h×nh thøc chÊm døt sù nh©n nh­îng hoÆc kh«ng thùc hiÖn nghÜa

vô mµ n­íc ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ lÏ ra cã quyÒn yªu cÇu. Vµ biÖn ph¸p tr¶ ®òa chØ ®­îc phÐp ¸p

dông sau 3 n¨m kÓ tõ khi biÖn ph¸p tù vÖ cã hiÖu lùc trong tr­êng hîp biÖn ph¸p tù vÖ ®­îc ¸p dông phï

hîp víi ®iÒu kho¶n cña HiÖp ®Þnh vµ do møc t¨ng tuyÖt ®èi hµng nhËp khÈu t¹o nªn.

- §èi xö ®Æc biÖt vµ kh¸c biÖt víi c¸c n­íc ®ang ph¸t triÓn

HiÖp ®Þnh cã quy ®Þnh c¸c h×nh thøc ®èi xö ®Æc biÖt vµ kh¸c biÖt ®èi víi c¸c n­íc ®ang ph¸t

triÓn khi ¸p dông c¸c biÖn ph¸p tù vÖ.

NÕu hµng nhËp khÈu tõ mét n­íc ®ang ph¸t triÓn cã tû phÇn nhËp khÈu cña s¶n phÈm ®ã vµo

n­íc ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ mµ nhá h¬n 3% th× kh«ng ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ ®èi víi n­íc ®ang ph¸t

triÓn.

MÆt kh¸c, ®èi víi n­íc ®ang ph¸t triÓn thêi gian ¸p dông biÖn ph¸p tù vÖ khëi ®Çu lµ 4 n¨m, cã

thÓ ®­îc kÐo dµi tèi ®a thµnh 10 n¨m vµ cho phÐp ¸p dông biÖn ph¸p t¸i tù vÖ ®èi víi mÆt hµng ®ã

sau kho¶ng thêi gian b»ng 1/2 thêi gian tù vÖ lÇn tr­íc nh­ng kh«ng Ýt h¬n 2 n¨m.

Như vậy, trước sự gia tăng mạnh mẽ, liên tục về khối lượng và kim ngạch của hàng nhập khẩu

làm cho ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể hoặc nguy cơ thiệt hại đáng kể, các doanh nghiệp

trong nước có thể kiến nghị cơ quan chức năng điều tra và áp dụng Biện pháp tự vệ như là công cụ giúp

các doanh nghiệp trong nước được bảo hộ (bảo hộ có chi phí) trong một thời gian nhất định nhằm lấy lại

khả năng cạnh tranh.

1.4.4. Hàng rào kỹ thuật trong thương mại quốc tế

Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế thuộc nhóm rào cản phi thuế, bao gồm tiêu chuẩn về

lao động và trách nhiệm xã hội như SA8000, quy định về bảo vệ môi trường như hệ thống quản lý môi

trường ISO 14000, đặc biệt rào cản kỹ thuật bao gồm những biện pháp kỹ thuật (hay còn gọi là các biện

pháp TBT), đó là các tiêu chuẩn kỹ thuật, qui chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng nhập

khẩu hoặc qui trình đánh giá sự phù hợp của hàng nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật

đó. Đối với hàng nông sản, hàng rào kỹ thuật không chỉ bao gồm những biện pháp TBT mà còn bao gồm

các biện pháp SPS (những biện pháp vệ sinh dịch tễ). Nhìn chung, các quốc gia sử dụng các biện pháp

TBT với mục đích đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ sức khỏe và sự an toàn cho con người, đời sống

động thực vật, bảo vệ môi trường, tránh những hành động man trá. Do vậy, để được tiêu thụ tại thị trường

nước nhập khẩu, hàng hóa cần đáp ứng những biện pháp kỹ thuật của thị trường này. Hay nói cách khác,

chính những biện pháp kỹ thuật được coi là hàng rào kỹ thuật trong thương mại bởi những biện pháp đó

có thể làm cản trở hoạt động xuất khẩu hàng hóa từ một quốc gia khác. Chẳng hạn, luật về quản lý hóa

chất của EU (REACH) hay Quy định ghi nhãn hướng dẫn sử dụng hàng may mặc của Hoa kỳ là một

trong số những biện pháp kỹ thuật được sử dụng tại các thị trường này. Vì vậy hàng may mặc từ Việt nam

muốn xuất khẩu được vào các thị trường đó phải đáp ứng những quy định như vậy, tức là phải vượt được

hàng rào kỹ thuật của thị trường nhập khẩu. Điều đó cũng cho thấy những quy định đó có tác động làm

cản trờ việc xuất khẩu hàng may mặc của các doanh nghiệp Việt Nam, bởi vì nếu không đáp ứng được

những biện pháp kỹ thuật của thị trường nhập khẩu, hàng may mặc của Việt Nam không thể được tiêu thụ

tại các thị trường này. Một ví dụ khác, tháng 10 năm 2014 vừa qua, một doanh nghiệp Việt Nam xuất

khẩu cá ngừ sang thị trường Mỹ đã bị trả lại hàng do cá ngừ bị nhiễm khuân ecoli và vi sinh salmonella,

không đáp ứng được yêu cầu của thị trượng này. Như vậy, rõ ràng là nếu hàng hóa không đáp ứng được

Page 24: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

24

những biện pháp kỹ thuật của thị trường nước nhập khẩu thì sẽ không có cơ hội được thâm nhập thị

trường này. Những biện pháp kỹ thuật đang tồn tại như là rào cản trong thương mại quốc tế mặc dù mục

đích của việc sử dụng những biện pháp đó là hợp pháp, chính đáng.

Các biện pháp TBT bao gồm quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự hợp

chuẩn. Trong đó Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý

mà sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã

hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường;

bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác.

Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp

dụng. Tiêu chuẩn kỹ thuật là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân

loại, đánh giá sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động

kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ chức

công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng. Đánh giá sự phù hợp là việc xác định đối tượng của

hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phù

hợp với đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý quy định trong tiêu chuẩn tương ứng và quy chuẩn kỹ thuật

tương ứng. Đánh giá sự phù hợp bao gồm hoạt động thử nghiệm, hiệu chuẩn, giám định, chứng nhận hợp

chuẩn, chứng nhận hợp quy, công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy, công nhận năng lực của phòng thử

nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức chứng nhận sự phù hợp, tổ chức giám định.

Trong khi đó các biện pháp SPS bao gồm những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, về kiểm

dịch động vật, kiểm dịch thực vật…. Để đảm bảo rằng những biện pháp TBT và biện pháp SPS không thể

trở thành rào cản không cần thiết trong thương mại quốc tế, WTO đã xây dựng hai Hiệp định (Hiệp định

về hàng rào kỹ thuật trong thương mại – TBT và Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ - SPS) nhằm

điều chỉnh việc xây dựng và áp dụng các quy định về TBT và SPS ở các quốc gia, đảm bảo thương mại

quốc tế thông thoáng, minh bạch, công bằng.

Vì vậy, để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước, đòi hỏi các doanh nghiệp cần

có sản phẩm đáp ứng những quy định về TBT, SPS của các thị trường này.

1.4.5. Bảo hộ sở hữu trí tuệ trong thương mại quốc tế

Sự đóng góp ngày càng tăng của tài sản trí tuệ vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra tri thức một cách nhanh

chóng, bao gồm sự xuất hiện của những công nghệ mới, đã dẫn đến sự thay đổi chính sách về quyền

SHTT và sự lựa chọn cách thức quản lý mới đối với tài sản trí tuệ. Bên cạnh đó, khuynh hướng sử dụng

trái phép các tài sản trí tuệ đã và đang diễn ra ngày một phổ biến và trầm trọng với vấn nạn hàng giả, hàng

nhái bùng nổ trên toàn cầu. Việc bắt chước, sao chép để sản xuất và bán các sản phẩm có chứa các thành

quả sáng tạo đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đẩy những người đã bỏ công sức đầu tư

thực sự ra khỏi thị trường. Thực tế này đã khiến họ không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần thiết

để tiếp tục các hoạt động sáng tạo. Do vậy, một số nước phát triển đã bắt đầu sử dụng những biện pháp

thương mại nhằm kiềm chế nạn đánh cắp tài sản trí tuệ ở nước ngoài, đó là bảo hộ quyền SHTT. Bảo vệ

quyền SHTT là việc chủ thể quyền SHTT hoặc cơ quan có thẩm quyền sử dụng các biện pháp cần thiết

mà pháp luật cho phép để bảo đảm quyền SHTT được thực thi trên thực tế. Dưới góc độ chủ thể quyền,

việc bảo vệ quyền SHTT sẽ bảo đảm việc xử lý, ngăn chặn và ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền; dưới

Page 25: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

25

góc độ xã hội, bảo vệ quyền SHTT có tác dụng kích thích, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tạo

môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn và lành mạnh; dưới góc độ quốc tế, bảo vệ quyền SHTT luôn là

mối quan tâm to lớn không chỉ ở từng quốc gia mà ở cả bình diện quốc tế. Trong thực tiễn hoạt động

thương mại quốc tế, mức độ bảo hộ quyền SHTT ở các quốc gia là khác nhau thường dẫn tới tình trạng

các tranh chấp thương mại không được giải quyết theo tiêu chí thống nhất. Trong bối cảnh đó, việc tạo lập

một hệ thống bảo hộ quyền SHTT có tính bắt buộc trên phạm vi quốc tế nhằm ngăn chặn việc sử dụng trái

phép tài sản trí tuệ và khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo đang ngày càng trở nên bức thiết. Phần

lớn các quốc gia đều nhất trí rằng cần phải nghiên cứu, thảo luận nhằm hình thành một công ước mới điều

tiết các vấn đề về quyền SHTT. Hiệp định TRIPs của WTO (được ký kết năm 1994 và chính thức có hiệu

lực vào tháng 1/1995) đã ra đời nhằm giải quyết một cách toàn diện vấn đề bảo hộ quyền SHTT. Với

Hiệp định này, lần đầu tiên những quy định về quyền SHTT được đưa vào hệ thống thương mại đa biên

và người ta kỳ vọng rằng Hiệp định sẽ “góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công

nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ cũng như lợi ích kinh tế - xã

hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ” (Điều 7, Hiệp định TRIPs).

Hiệp định TRIPs đề cập chi tiết đến các quyền SHTT khác nhau và cách thức bảo hộ. Các thành

viên của WTO đều bắt buộc phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền SHTT quốc gia nhằm đảm bảo đáp

ứng các tiêu chuẩn tối thiểu được nêu trong Hiệp định theo hai chuẩn mực cơ bản về bảo hộ, đó là tính

đầy đủ và tính hiệu quả của hệ thống pháp luật về quyền SHTT hiện hành. Nền tảng của Hiệp định là

những nghĩa vụ được nêu trong các hiệp định quốc tế ký kết trong khuôn khổ Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế

giới (WIPO) như Công ước Paris, Công ước Bern. Ngoài ra, Hiệp định TRIPs còn bổ sung một số lượng

lớn các quy định mới. Cụ thể, các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPs bao gồm:

quyền tác giả và quyền liên quan; nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu; chỉ dẫn địa lý; bản vẽ và kiểu dáng

công nghiệp; bằng sáng chế; sơ đồ bố trí mạch tích hợp và bảo vệ thông tin bí mật.

- Quyền tác giả: Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải tuân thủ Công ước Bern và Phụ lục

kèm theo. Quyền tác giả được bảo hộ cho đến 50 năm sau khi tác giả qua đời. Hiệp định TRIPs quy định

các chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu cũng được bảo vệ như các tác phẩm văn học theo đúng Công

ước Bern.

- Nhãn hiệu hàng hóa: Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá

nhân khác nhau. Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đồng thời đáp ứng hai điều kiện: Dấu hiệu sử dụng làm nhãn

hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được, có thể là dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ảnh ba

chiều hoặc kết hợp các yếu tố trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; Dấu hiệu đó có khả năng

phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Nhãn hiệu

phải đăng ký và được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu.

Chủ sở hữu có toàn quyền đối với nhãn hiệu đang được bảo hộ. Hiệp định TRIPs quy định mọi dấu hiệu

hoặc sự kết hợp các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng

hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp khác đều có thể được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Trong hoạt động

thương mại, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa có quyền ngăn chặn bên thứ ba sử dụng các dấu hiệu trùng

hoặc tương tự đối với hàng hóa, dịch vụ giống hệt hay tương tự với hàng hóa, dịch vụ đã được đăng ký

nhãn hiệu hàng hóa của mình nếu việc này có nguy cơ gây nhầm lẫn. Thời hạn bảo hộ một nhãn hiệu

hàng hóa không dưới 7 năm và có thể được gia hạn với số lần không hạn chế.

Page 26: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

26

- Chỉ dẫn địa lý: là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ một nước, khu vực hay địa phương thuộc

nước đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định do xuất xứ địa lý quyết định. Các thành viên WTO

phải quy định những biện pháp để các bên liên quan ngăn chặn việc mô tả gây nhầm lẫn cho công chúng

về xuất xứ địa lý của hàng hóa hoặc tạo thành “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” theo Công ước

Paris.

- Kiểu dáng công nghiệp: Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, thể hiện bằng

đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó. Để được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp

phải có tính mới đối với thế giới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Kiểu dáng công

nghiệp có chức năng thẩm mỹ, hấp dẫn thị hiếu người tiêu dùng bằng nét độc đáo, vẽ đẹp và nâng cao

tính tiện ích của sản phẩm. Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải bảo hộ những kiểu dáng

công nghiệp ít nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ có quyền ngăn cấm việc sản

xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc có chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ.

Hiệp định TRIPs cho phép các thành viên tùy ý quyết định bảo hộ kiểu dáng hàng dệt bằng kiểu dáng

công nghiệp hoặc bằng quyền tác giả.

- Bằng sáng chế: Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một

vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức Bằng

độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các yêu cầu sau: có tính mới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng

công nghiệp. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải

là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau: có tính mới, có khả năng áp dụng công nghiệp.

Hiệp định quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua bằng sáng chế trong vòng ít nhất 20 năm.

Trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ, cả sản phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ. Chính phủ

các nước có thể từ chối cấp bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự

công cộng hoặc đạo đức. Hiệp định đề ra các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu bằng sáng chế, tuy

nhiên, cũng quy định một số ngoại lệ để đối phó với trường hợp người sở hữu bằng sáng chế lạm dụng

quyền của mình (như không cung ứng sản phẩm cho thị trường). Trong trường hợp này, theo một số điều

kiện nhất định trong Hiệp định, chính phủ các nước có thể cấp “giấy phép bắt buộc” cho phép các nhà sản

xuất khác sản xuất sản phẩm này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Một số quy

định mềm dẻo như vậy đặc biệt có ý nghĩa trong việc tiếp cận những sản phẩm thiết yếu, nhất là đối với

các nước đang phát triển và kém phát triển.

- Thiết kế bố trí mạch tích hợp: Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành

phẩm, trong đó các phần tử (với ít nhất một phần từ tích cực) và một số hoặc tất cả các mối liên kết được

gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn để nhằm thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích

hợp đồng nghĩa với thuật ngữ “IC”, “chíp”, “mạch vi điện tử”. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là

cấu trúc không gian của các phần tử mạch và các mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán

dẫn (Điều 4.15 Luật SHTT 2005). Thiết kế bố trí mạch tích hợp được bảo hộ khi có tính nguyên gốc và

tính mới thương mại. Hiệp định TRIPs quy định việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch tích hợp trên cơ sở Hiệp

định Washington về quyền SHTT trong lĩnh vực mạch tích hợp. Theo điều 36, các hành vi nhập khẩu, bán

hoặc phân phối nhằm mục đích thương mại một thiết kế bố trí mạch tích hợp được bảo hộ mà không được

phép của chủ sở hữu được coi là bất hợp pháp. Điều 37 quy định, các thành viên sẽ không coi những hành

vi liên quan đến việc vi phạm quyền sở hữu một thiết kế bố trí mạch tích hợp do vô ý là bất hợp pháp

nhưng sẽ yêu cầu bồi thường cho chủ sở hữu thiết kế bố trí mạch tích hợp sau khi có thông báo vi phạm.

Page 27: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

27

- Bảo hộ thông tin bí mật: Hiệp định TRIPs không yêu cầu các thành viên phải bảo hộ thông tin bí mật

như một dạng sở hữu mà chỉ dành cho người có quyền kiểm soát thông tin đó khả năng ngăn chặn việc

người khác làm tiết lộ, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thông tin này trái với hành vi thương mại trung

thực. Hiệp định quy định các thành viên không được phép tiết lộ những dữ liệu mật được nộp cho các cơ

quan chính phủ để xin phép lưu hành dược phẩm hoặc nông hóa phẩm (trừ trường hợp cần thiết nhằm bảo

vệ công chúng hoặc khi đã tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo các dữ liệu đó không bị tiết lộ)

nhằm mục tiêu thương mại không lành mạnh.

Các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần chủ động, tích cực trong việc tìm hiểu và thực thi luật

pháp về sở hữu trí tuệ ở thị trường trong nước cũng như những thị trường mà doanh nghiệp hướng đến để

được pháp luật bảo vệ lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần xem xét và lựa

chọn những khía cạnh cần được bảo hộ để đảm bảo hiệu quả kinh tế.

Page 28: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

28

Chương 2

MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ

2.1. Khái niệm và đặc điểm của môi trường kinh doanh quốc tế

2.1.1. Khái niệm về môi trường kinh doanh quốc tế

KDQT khác rất nhiều so với hoạt động kinh doanh nội địa bởi vì một công ty hoạt động vượt ra

khỏi biên giới quốc gia phải đối mặt với các yếu tố 3 thuộc cả ba môi trường - môi trường quốc gia, môi

trường nước ngoài, và môi trường quốc tế Domestic Environment, Foreign Environment, International

Environment - Donald A. Bai VendeII H. McCuIloch... (2004), International Business: The challenge of

Global competilion, NXB MeGraw-Hill, trl7..) Tuy nhiên, một công ty dù chỉ hoạt động trong phạm vi biên

giới một quốc gia cũng cần phải đặc biệt chú ý không chỉ môi trường kinh doanh quốc gia mà còn phải chú

ý tới hai MTKD còn lại. Không một công ty nào có thế hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thuộc

môi trường kinh doanh nước ngoài hoặc môi trường kinh doanh quốc tế; bởi vì, với xu thế toàn cầu hóa hiện

nay thì các công ty nội địa luôn phải cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài hay sản phẩm của

các công ty nước ngoài có cơ sồ kinh doanh tại quốc gia họ. Để hình thành khái niệm về môi trường KDQT,

cần tìm hiểu các yếu tố của MTKD và hoạt động của chúng trong cả ba môi trường trên.

Các yếu tố cấu thành trong môi trường kinh doanh

Môi trường kinh doanh là sự tổng hợp các yếu tố có liên quan và tác động tới sự tồn tại và phát triển

của mỗi doanh nghiệp. Các yếu tố đó được phân chia thành các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài.

Thêm vào đó, các nhà quản lý không thể kiểm soát trực tiếp các yếu tố đó, dù họ có nhiều cố gắng trong

việc tác động tới chúng như: vận động hành lang đối với việc thay đổi các điều luật, tăng cường các hoạt

động xúc tiến thương mại cho sản phẩm mới tung ra thị trường nhằm thay đổi thái độ cấa người tiêu dùng...

Yếu tố bên ngoài thường được gọi là yếu tố không kiểm soát được (uncontrollable íorces), gồm có

các yếu tố sau:

- Cạnh tranh - dựa vào vị trí và hoạt động mà có rất nhiều kiểu cạnh tranh và nhiều đối thấ cạnh

tranh.

- Phân phối - các công ty trong nước và quốc tế cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng phân phối

hàng hóa và dịch vụ

- Kinh tế-các biến số kinh tế như GNP, chi phí lao động theo đơn vị, mức chi tiêu cá nhân,... ảnh

hưởng tới khả năng kinh doanh cấa mỏi doanh nghiệp.

- Kinh té xã hội - đặc điểm và sự phân bố dân cư.

- Luật pháp – mỗi doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh với rất nhiều bộ luật cả quốc gia và

quốc tế.

- Địa lý - các yếu tố tự nhiên như địa hình, khí hậu, và tài nguyên thiên nhiên...

- Chính trị - các yếu tố thuộc môi trường chính trị quốc gia như chủ nghĩa dân tộc, chế độ chính trị,

và các tổ chức quốc tế.

Page 29: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

29

- Văn hóa xã hội - các yếu tố văn hóa như thái độ, niềm tin, và quan điểm... là các yếu tố quan trọng

đối với các nhà KDQT

- Công nghệ - trình độ kỹ thuật và các thiết vị tác động tới quá trình sử dụng các yếu tố đẩu vào để

tạo ra sản phẩm.

Ngoài các yếu tố trên, các nhà quản lý còn phải đối mặt với các yếu tố bên trong như đầu vào sản

xuất (vốn, nguyên liệu, và con người) và các hoạt động của tổ chức (nhãn sự, tài chính, sản xuất và

marketing). Những yếu tố này được gọi là các yếu tố có thể kiểm soát được (controllable forces), các nhà

kinh doanh cần phải quán lý điều hành một cách có trật tự các yếu tố này để có thể thích ứng được những

thay đổi của các yếu tố trong môi trường không kiếm soát được. Ví dụ sự thay đổi chính trị - thị trường

chung ASEAN được hình thành - ảnh hưởng tới toàn bộ các yếu tố có thế kiểm soát được của các công ty

quốc tế đang hoạt động liên quan tới các quốc gia nằm trong khối ASEAN. Các công ty phải xem xét lại các

hoạt động kinh doanh của mình và có những điều chỉnh cho phù hợp với luật mới khi thị trường chung

chính thức đi vào hoạt động. Ví dụ, một số công ty của Mỹ hay Nhật Bản có chi nhánh công ty đặt tại

Singapore, một nơi có chi phí lao động rất cao, có thể xem xét lại việc chuyển chi nhánh tới quốc gia khác

có chi phí lao động rẻ hơn nhiều như Philippin, Việt Nam... khi mà rào cản thương mại giữa các quốc gia

này được xóa bỏ

Vậy, MTKDQT là sự tác động qua lại giữa các yếu tố thuộc môi trường quốc gia với môi trường

nước ngoài; và giữa các yếu tố môi trường nước ngoài của hai quốc gia khi một công ty tại quốc gia này

hoạt động kinh doanh với khách hàng ở quốc gia khác. Khái niệm này cũng phù hợp với khái niệm KDQT

là hoạt động kinh doanh vượt ra khỏi biên giới một quốc gia. [Donald A. Bai VendeII H. McCuIloch...

(2004), International Business: The challenge of Global competilion, NXB MeGraw-Hill, trl9]..

Ví dụ, nhân sự tại trụ sở chính của một công ty đa quốc gia được xem là làm việc trong môi trường

kinh doanh quốc tế nếu công việc của họ có liên quan tới quốc gia khác; trong khi đó nhân sự tại các chi

nhánh nước ngoài sẽ không làm việc trong môi trường kinh doanh quốc tế nếu họ không hoạt động kinh

doanh quốc tế xuất khẩu, hoặc quản lý công ty con khác. Ví dụ, các nhà quản lý bán hàng thuốc tập đoàn

GM Motor sẽ không làm việc trong môi trường kinh doanh quốc tế nếu họ chỉ bán oto tại thị trường Hàn

Quốc. Nếu công ty này xuất khẩu oto sang Việt Nam, thì các nhà quản lý bán hàng chịu tác động của cả hai

yếu tố môi trường kinh doanh trong nước là Hàn Quốc và môi trường kinh doanh nước ngoài là Việt Nam,

nghiax là các nhà quản lý đã làm việc trong môi trường kinh doanh quốc tế. Các tổ chức quốc tế cũng ảnh

hưởng tới MTKDQT, và trở thành một phần của MTKDQT. Các tổ chức quốc tế bao gồm: tổ chức thế giới

(WTO, WB...), các tổ chức kinh tế khu vực(AFTA, EU...). tổ chức gồm các quốc gia ký kết hiệp định công

nghiệp (OPEC).

2.1.2. Đặc điểm của môi trường kinh doanh quốc tế

Kinh doanh quốc tế là hoạt động được thực hiện bởi các chủ thể có trụ sở kinh doanh ở nhiều quốc

gia khác nhau. Kinh doanh quốc tế khác biệt so với kinh doanh nội địa do môi trường thay đổi khi một

doanh nghiệp mở rộng hoạt động của mình vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Thông thường, một doanh

nghiệp hiểu rất rõ về môi trường trong nước nhưng lại kém hiểu biết về môi trường ở các nước khác và do

vậy doanh nghiệp phải đầu tư thời gian và nguồn lực để hiểu về môi trường kinh doanh mới. Môi trường

kinh doanh quốc tế là môi trường kinh doanh ở nhiều quốc gia khác nhau. Môi trường này có nhiều đặc

Page 30: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

30

điểm khác biệt so với môi trường trong nước của doanh nghiệp, có ảnh hưởng quan trọng tới các quyết

định của doanh nghiệp về sử dụng nguồn lực và năng lực. Vì các doanh nghiệp không có khả năng kiểm

soát được môi trường bên ngoài nên sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào việc các doanh

nghiệp thích ứng như thế nào với môi trường này. Năng lực của một doanh nghiệp trong việc thiết kế và

điều chỉnh nội lực để khai thác được các cơ hội của môi trường bên ngoài và khả năng kiểm soát

các thách thức đặt ra của môi trường sẽ quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh

quốc tế không chỉ bao gồm nhưng yếu tố bên trong liên quan hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,

những yếu tố bên ngoài là luật pháp, bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, nhân khẩu học, văn hóa ở các quốc

gia khác nhau mà còn bao gồm những yếu tố khác như sự liên kết và hợp tác giữa các quốc gia và khu vực

trên thế giới, các thỏa thuận song phương và đa phương giữa các quốc gia và khu vực, các quy định của các

tổ chức quốc tế như WTO, UN,…

2.1.3. Sự cần thiết của việc tìm hiểu về môi trường kinh doanh quốc tế

Mỗi quốc gia tồn tại một MTKD nhất định và MTKD luôn khác nhau từ nước này qua nước khác,

việc tìm hiểu môi trường bên ngoài giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn được các quốc gia, thị trường để

tiến hành các hoạt động kinh doanh, các loại hình kinh doanh phù hợp.

Mục đích của việc phân tích, đánh giá MTKDQT là: (1) lựa chọn những thị

trường (quốc gia) phù hợp với khả năng hoạt động của doanh nghiệp; (2) tạo cơ sớ

cho việc xác định các chức năng nhiệm vụ và mục tiêu; (3) giúp doanh nghiệp xác

định được những việc gì cần làm để đạt được những mục tiêu đã định.

Khi tham gia kinh doanh quốc tế, các công ty buộc phải hoạt động trong môi trường nước ngoài,

với các đặc điểm môi trường kinh doanh khác biệt với môi trường trong nước. Do vậy, nếu không có những

hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về môi trường kinh doanh, công ty sẽ vấp phải rất nhiều khó khăn cũng như bị

thiệt hại, thua lỗ, bị đối thủ cạnh tranh tước đoạt thị phần. Ví dụ như khi xuất khẩu hàng hóa, doanh nghiệp

không đáp ứng đủ những quy định về vệ sinh dịch tễ của nước sở tại, hàng hóa có thể bị từ chối thông quan,

thậm chí bị tiêu hủy. Những mâu thuẫn về chính trị có thể dẫn đến chiến tranh, cấm vận làm hoạt động kinh

doanh cùa doanh nghiệp tại quốc gia đó bị đình trệ, hàng hóa không lưu thông được. Tình hình lạm phát tại

nước ngoài khiến giá cả đầu vào gia tang đối với các công ty nhập khẩu nguyên vật liệu. Mẫu mã sản phẩm,

cách thức quảng cáo không phù hợp với thẩm mỹ, tôn giáo, phong tục tập quán của người dân bản địa cũng

có thể khiến hàng hóa đó không tiêu thụ được, thậm chí bị tẩy chay. Do đó, các thông tin về môi trường

kinh doanh quốc tế luôn hết sức cẩn thiết đối với mọi doanh nghiệp.

Khi nghiên cứu về môi trường kinh doanh quốc tế, các công ty sẽ thu được

những thông tin hữu ích cho việc lựa chọn thị trường và quyết định chiến lược kinh doanh. Môi trường kinh

tế và điều kiện tự nhiên cho thấy sự hấp dẫn của một thị trường thông qua sự giàu có của tài nguyên, sự phát

triển của cơ sở hạ tầng, mức thu nhập bình quân, tốc độ tăng trường kinh tế, nguồn tín dụng của các ngân

hàng và các tổ chức tài chính. Môi trường pháp lý và chính trị thường đem đến nhiều rủi ro, trở ngại do sự

thay đổi các chính sách của Chính phủ, các hàng rào thương mại và đầu tư... Môi trường văn hóa-xã hội với

Page 31: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

31

các yếu tô như thành phần dân số, thị hiếu tiêu dùng, thẩm mỹ, tôn giáo, tập quán... sẽ quyết định chiến lược

sàn phẩm, cách thức quảng bá, phân phối, cách thức quản trị nguồn nhân lực. Môi trường ngành cung cấp

thông tin có thể về khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh... giúp doanh nghiệp lựa chọn chiến lược

cạnh tranh phù hợp.

Như vậy, tìm hiểu môi trường kinh doanh giúp các công ty quốc tế nhìn nhận tổng thể các yếu tố

của môi trường kinh doanh, phân tích đồng bộ các tác nhân ảnh hưởng trong hiện tại và tương lai, từ đó có

những quyết định chiến lược nhằm triển khai những lợi thế và ngăn ngừa rủi ro, giúp doanh nghiệp thích

ứng và phát triển trong môi trường kinh doanh mới mẻ và xa lạ.

2.2. Những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh quốc tế

2.2.1. Môi trường chính trị

2.2.1.1. Hệ thống chính trị trên thế giới

Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, hệ thống chính trị là tổng thể những tổ chức thực

hiện quyền lực chính trị được xã hội chính thức thừa nhận. Vì vậy, hệ thống chính trị bao gồm các cơ

quan luật pháp, các đảng phái chính trị, các nhóm vận động hành lang và các công đoàn.

Trên thế giới, mỗi quốc gia lại chọn cho mình các tổ chức hệ thống chính trị riêng. Trong lịch sử

gần đây, hệ thống chính trị trên thế giới được chia thành 3 loại chế độ chính trị, đó là chế độ chuyên chế,

chế độ xã hội chủ nghĩa, và chế độ dân chủ. Tuy vậy, cần chú ý rằng sự phân loại này chỉ mang tính chất

tương đối. Ví dụ, hầu hết các nền dân chủ đều bao hàm một số yếu tố xã hội chủ nghĩa, hầu hết các cơ chế

chuyên chế của thế kỷ XX ngày nay có sự kết hợp của chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ dân chủ.

Chế độ chuyên chế (totalitarianism)

Chế độ chuyên chế là chế độ chính trị trong đó nhà nước nắm quyền điều tiết hầu như mọi khía

cạnh của xã hội.

Một số quốc gia được coi là có chế độ chuyên chế như Đức (1933 – 1945), và Tây Ba Nha (1939 –

1975) và cả Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông. Ngày nay, một vài nhà nước ở khu vực Trung Đông

và Châu Phi vẫn còn giữ một số yếu tố của chế độ chuyên chế. Một chính phủ chuyên chế thường tìm

cách kiểm soát không chỉ các vấn đề kinh tế chính trị mà cả thái độ, giá trị và niềm tin của nhân dân nước

mình. Quyền lực được duy trì bằng cảnh sát ngầm, thông tin truyền qua các phương tiện thông tin đại

chúng do nhà nước kiểm soát, các cuộc thảo luận và phê bình đều đã biến mất hoặc chuyển sang đường

lối dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự chuyển đổi không hề dễ dàng, và những nhà nước chuyên

chế trước đây vẫn duy trì sự kiểm soát chặt chẽ, bao gồm cả sự can thiệp vào các hoạt động kinh doanh.

Nhiều quốc gia vẫn đặc trưng với thủ tục pháp lý cồng kềnh rườm rà, các quy định về thuế và kế toán hết

sức quan liệu, cũng như hệ thống pháp lý không đủ bảo vệ cho hoạt động kinh doanh, và cơ sở hạ tầng

yếu kém (đường xá, thông tin liên lạc, công nghệ thông tin), gây trở ngại cho kinh doanh.

Chế độ xã hội chủ nghĩa (Socialism)

Nguyên lý cơ bản của xã hội chủ nghĩa là vốn và sự giàu có cần phải được sử dụng trước hết như

một phương tiện để sản xuất, chứ không phải như một nguồn lợi nhuận. Điều này dựa trên tư tưởng tập

thể trong đó cho rằng tổng phúc lợi của mọi người sẽ lớn hơn rất nhiều so với phúc lợi của cá nhân. Các

Page 32: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

32

nhà xã hội chủ nghĩa tin rằng các nhà tư bản nhận được một khoản lợi nhuận không xứng đáng từ các

công nhân của họ, do khoản lương trả cho các công nhân không thể hiện hết toàn bộ phần lao động, họ đã

bỏ ra. Vì thế chính phủ cần kiểm soát những phương tiện cơ bản của việc sản xuất, phân phối và hoạt

động thương mại.

Chế độ dân chủ (democracy)

Chế độ dân chủ trở thành chế độ chính trị ở hầu hết các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. Chế độ

này có hai đặc trưng cơ bản sau:

- Quyền sở hữu tư nhân: chỉ khả năng sở hữu tài sản và làm giàu bằng tích lũy tư nhân. Tài sản ở

đây là tài sản hữu hình, như đất đai, nhà cửa, và tài sản vô hình, như cổ phần, hợp đồng, bằng sáng chế,

và các tài sản trí tuệ. Các chính phủ dân chủ xây dựng một bộ luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cá nhân

và các doanh nghiệp có quyền sở hữu, sử dụng, mua hoặc bán, và ủy nhiệm chúng cho bất kỳ ai họ muốn.

Những quyền này là hết sức quan trọng vì chúng khuyến khích sự chủ động, tham vọng, và cấp tiến, cũng

như tính cần kiệm và mong muốn làm giàu. Con người có xu hướng không có nhứng phẩm chất này nếu

họ không chắc chắn về việc mình có được kiểm soát tài sản và lợi nhuận sản sinh từ tài sản của mình hay

không.

- Quyền lực có giới hạn của chính phủ: chính phủ nơi đây chỉ thực hiện một số chức năng thiết yếu

cơ bản phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân như bảo vệ quốc phòng, duy trì luật pháp và trật tự xã hội,

quan hệ ngoại giao, xây dựng và bảo trì cơ sở hạ tầng như đường xá, trường học, và các công trình công

cộng. Sự kiểm soát và can thiệp của chính phủ đối với các hoạt động kinh tế của cá nhân và các doanh

nghiệp được giảm thiểu. Bằng cách cho phép quy luật thị trường chi phối hoạt động kinh tế, các nguồn tài

nguyên được đảm bảo phân phối một cách có hiệu quả.

Dưới chế độ dân chủ, những mưu cầu của cá nhân và của các doanh nghiệp có thể không tương

đồng với sự công bằng và công lý. Do mỗi người có khả năng và nguồn tài chính khác nhau, nên mỗi

người có được mức độthành đạt khác nhau, dẫn tới bắt bình đẳng. Các nhà phê bình chủ nghĩa dân chủ

thuần túy cho rằng khi vượt quá giới hạn bình đẳng, cần có sự can thiệp của chính phủ để bình đẳng hóa

sân chơi. Hầu hết các chế độ dân chủ đều bao hàm một số yếu tố của xã hội chủ nghĩa, ví dụ như sự can

thiệp của chính phủ vào hoạt động của các cá nhân và doanh nghiệp. Xu hướng xã hội chủ nghĩa nổi lên

xuất phát từ việc lạm dụng hoặc những ngoại ứng xấu nảy sinh trong chế độ dân chủ thuần túy.

2.2.1.2. Tác động của môi trường chính trị đến kinh doanh quốc tế

Môi trường chính trị có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Tác động này có thể là

tác động tích cực hoặc không tích cực. Nhìn chung, khi môi trường chính trị mang tính ổn định sẽ là nhân

tố thuận lợi thúc đẩy tốt các hoạt động kinh doanh quốc tế. Sự bình ổn của hệ thống chính trị thể hiện

trong các yếu tố xung đột chính trị, ngoại giao. Thể chế nào có sự bình ổn cao sẽ có thể tạo điều kiện tốt

cho việc hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ của nó. Các thể chế bình ổn và không có xung đột tạo điều

kiện hài hòa hóa chính sách và tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh quốc tế

Ngược lại khi môi trường chính trị không ổn định, không lành mạnh…sẽ dẫn đến các rủi ro và tác

động bất lợi trong việc phát triển hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. Một xã hội càng rối loạn,

hay càng tiềm ẩn những bất ổn ngay trong lòng thì nguy cơ rủi ro về chính trị gặp phải ngày càng cao.

Những bất ổn xã hội biểu hiện rõ ràng dưới hình thức của các cuộc bãi công, biểu tình, khủng bố, và những

Page 33: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

33

xung đột vũ lực. Nhiều khả năng chúng có thể diễn ra tại các quốc gia nhiều sắc tộc, tại những nơi ở đó các

hệ tư tưởng đấu tranh lẫn nhau để giành lấy quyền lực chính trị, hoặc là ở những nền kinh tế cơ chế quản lý

kém, lạm phát cao, tiêu chuẩn cuộc sống thấp… Rủi ro chính trị cũng xuất phát từ mâu thuẫn hay xung đột

về chính trị giữa các quốc gia dẫn đến ảnh hưởng tới việc vận hành kinh doanh của các doanh nghiệp. Rối

loạn xã hội có thể là nguyên nhân dẫn tới những thay đổi đột ngột trong chính quyền, trong chính sách nhà

nước, và một số trường hợp trong cả những cuộc xung đột dân quyền kéo dài. Các cuộc xung đột này có

những tác động tiêu cực đến mục tiêu lợi nhuận kinh tế của một số doanh nghiệp. Chẳng hạn, việc Liên

bang Nam Tư tan rã, phân chia thành các nước xung khắc, gồm Bosnia, Croatia, và Serbia, đã khiến cho các

nên kinh tế địa phương, cũng như hi vọng thu lợi nhuận từ nguồn đầu tư vào các nền kinh tế này nhanh

chóng sụp đổ. Nói chung, thay đổi trong thể chế chính trị có thể dẫn đến việc ban hành những điều luật ít

thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế. Ví dụ như Venezuela, Tổng thống Hugo Chavez đã nắm được

quyền lực năm 1998 và tái đắc cử vị trí Tổng thống năm 2000 và 2006. Ông cũng cam kết hỗ trợ người

nghèo bằng những can thiệp của chính phủ đến việc kinh doanh tư nhân, cùng với đó lên tiếng phê phán,

chống lại Chủ nghĩa đế quốc ở Mỹ. Những phát biểu này của ông đều ảnh hưởng tới các công ty phương

Tây đang hoạt động kinh doanh trong đất nước ngày. Song song với nhiều hoạt động khác, Tổng thống

Chavez đã tiến hành tăng đặc quyền buộc các công ty dầu khí nước ngoài đang hoạt động ở Venezuela phải

nộp cho chính phủ nơi đây 1% đến 30% tổng doanh số thu được.

Do đó việc nghiên cứu về hệ thống chính trị tại các quốc gia liên quan đến hoạt động kinh doanh

của các doanh nghiệp đều hết sức cần thiết. Khi các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh vào một

quốc gia theo chế độ dân chủ thì sự tác động của nó sẽ khác biệt so với khi tham gia hoạt động kinh

doanh vào một quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Với chế độ dân chủ thì chính phủ chỉ thực hiện một

số chức năng thiết yếu cơ bản phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân như bảo vệ quốc phòng, duy trì

luật pháp và trật tự xã hội, quan hệ ngoại giao, xây dựng và bảo trì cơ sở hạ tầng như đường xá, trường

học, và các công trình công cộng và các hoạt động kinh tế được chi phối bởi quy luật thị trường điều này

khiến các doanh nghiệp được cạnh tranh công bằng với nhau tuy nhiên với chế độ xã hội chủ nghĩa thì các

chính sách bảo hộ vẫn còn tồn tại khiến các doanh nghiệp nước ngoài sẽ kém lợi thế hơn các doanh

nghiệp trong nước

2.2.2. Môi trường pháp luật

Ở mỗi quốc gia, hệ thống pháp luật bao gồm những văn bản luật và những văn bản dưới luật, tạo

nên một khung pháp lý cho phép hoặc hạn chế các mối quan hệ cụ thể giữa con người và các tổ chức, đưa

ra các hình phạt cho những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật. Hệ thống pháp luật được xây

dựng trên nền tảng của một chế độ chính trị và được hoàn thiện theo thời gian, phù hợp với sự thay đổi và

phát triển về mặt xã hội, chính trị, kinh tế và công nghệ của mỗi quốc gia cũng như để phù hợp với luật

pháp quốc tế. Các hệ thống chính trị như chế độ chuyên chế, chủ nghĩa xã hội và chế độ dân chủ cũng có

xu hướng tác động đến hệ thống pháp luật tương ứng. Nền dân chủ có xu hướng khuyến khích các lực

lượng thị trường và tự do thương mại.

Môi trường pháp luật của hoạt động kinh doanh quốc tế không chỉ là hệ thống luật pháp của một

quốc gia mà còn là những quy định pháp lý của các tổ chức quốc tế như các Công ước, Hiệp ước hay các

Hiệp định. Ngoài ra còn có những thỏa thuận song phương, đa phương giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc

Page 34: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

34

khu vực như thỏa thuận về thương mại, đầu tư hay thỏa thuận đối tác kinh tế,... Nếu xét ở khía cạnh đặc

điểm hệ thống pháp luật trên thế giới, có 5 hình thức Dưới đây là các hình thức hệ thống pháp luật tồn tại

trên thế giới.

2.2.2.1. Hệ thống pháp luật trên thế giới

Trên thế giới có năm hình thức hệ thống luật pháp cơ bản, đó là: Luật án lệ, Luật dân sự, Luật tôn

giáo, Luật xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật hỗn hợp. Những hệ thống pháp luật này là nền móng cho các

đạo luật và quy định. Bảng dưới đây cung cấp một số ví dụ về các quốc gia nơi những hệ thống pháp luật

này có xu hướng thịnh hành.

Bảng 2.1. Hệ thống luật chiếm ưu thế tại một số quốc gia trên thế giới

Luật án lệ Luật Dân sự Luật tôn giáo Luật xã hội CN Các hệ thống

luật hỗn hợp

Autralia Đa số các nước Tây Âu

và các nước Hoa Kỳ

Latinh

Trung Đông Bắc Phi

và một vài quốc gia

Châu Á

Nga Đa số các nước

Đông Âu

Ireland Trung Quốc Philippines

New Zealand Thổ nhĩ kỳ Cu Ba Puerto rico

Anh Bắc Triều Tiên Hàn quốc

Canada Nhật Bản Kazakhstan Nam phi

Mỹ Mexico Uzbekitan Thái Lan

Ấn độ Ukranie Sri Lanka

Pakistan Azerbaijan Ethiopia

Ghana Moldova Hồng Koong

Nigeria Taiikistan Bahrain

Zimbabwe Kyrgyzstan Quatar

Malaysia Singapore

Morcco

Tunisia

Việt Nam

Ai Cập

Nguồn: S.Tamer Cavusgil and other, International Business – Strategy, Management and the New

Reality, Pearson Prentice Hall 2008.

Luật án lệ

Luật án lệ (còn được gọi là tiền lệ pháp) là một hệ thống luật pháp có nguồn gốc từ Anh và lan rộng

sang Autralia, canada, Hoa kỳ và những nước cựu thành viên của khối thịnh vượng chung. Cơ sở của luật

tiền lệ là theo dõi thực tiễn vừa qua và các tiền lệ pháp lý do tòa án quốc gia thông qua việc giải thích các

quy chế, pháp luật và sự điều hành trước đó. Các quốc gia sử dụng luật tiền lệ (như Viện quý tộc ở Anh và

Quốc hội Mỹ) nắm giữ quyền lực cuối cùng trong việc thông qua hoặc sửa đổi luật. Tại Hoa kỳ, vì hiến

Page 35: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

35

pháp Hoa kỳ rất khó khăn trong việc sửa đổi, tòa án tối cao và thậm chí các tòa án cấp thấp cũng được

hưởng sự linh hoạt đáng kể trong việc diễn giải luật. Và bởi vì luật án lệ cởi mở hơn đối với các quyết định

của tòa án, nó có tính linh hoạt hơn các hệ thống luật pháp khác. Như thế, hệ thống tiền lệ pháp có quyền lực

đáng kể để diễn giải pháp luật dựa trên những hoàn cảnh riêng của từng trường hợp cá nhân, bao gồm các

tình huống tranh chấp kinh doanh thương mại khác.

Luật dân sự (civil law)

Luật dân sự ra đời tại Pháp, Đức, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico và ở Hoa kỳ Latin. Nguồn gốc

của nó xuất phát từ các đạo luật của Rome và bộ luật Napoleon. Luật dân sự được căn cứ trên một hệ

thống pháp luật đầy đủ và được hệ thống hóa – một cách rõ ràng bằng văn bản và có thể tiếp cận. Luật

dân sự chia hệ thống pháp luật làm 3 bộ luật: thương mại, dân sự và Hình sự. Bộ luật được coi là hoàn

chỉnh như là kết quả của việc cung cấp đầy đủ các hạng mục và thường gặp ở đa số các hệ thống Luật

Dân sự. Các điều luật và nguyên tắc hình thành điểm khởi đầu cho những pháp lý và thực thi công lý. Các

quy định đã được hệ thống hóa nổi bật lên với những điều luật cụ thể và các quy tắc ứng xử được tạo ra

bởi cơ quan lập pháp hoặc các cơ quan tối cao khác.

Cả 2 hệ thống luật án lệ và Luật Dân sự đều bắt nguồn từ Tây âu và đều đại diện cho các giá trị

chung của cộng đồng Tây âu. Sự khác biệt chính giữa hai hệ thống là trong khi luật án lệ chủ yếu xuất

phát từ tòa án và được phán xét dựa trên quyết định của tòa án, thì Luật Dân sự chủ yếu xuất phát từ cơ

quan lập pháp và dựa trên những đạo luật được ban hành bởi cơ quan lập pháp quốc gia và địa phương.

Luật án lệ và Luật Dân sự đặt ra những sự khác biệt đa dạng trong kinh doanh quốc tế. Trong thực tế, hệ

thống luật án lệ nói chung bao gồm các yếu tố của Luật Dân sự và ngược lại. Hai hệ thống này có thể bổ

sung cho nhau và các nước sử dụng một trong 2 hệ thống thường có xu hướng sử dụng một số yếu tố của

hệ thống kia.

Luật Tôn giáo (Luật Thần quyền)

Luật Tôn giáo (Luật Thần quyền) là một hệ thống pháp lý bị ảnh hưởng rõ rệt của tôn giáo, nguyên

tắc đạo lý, và các giá trị đạo đức được xem như là một hiện thân tối cao. Hệ thống Luật Tôn giáo quan

trọng nhất được dựa trên các đạo luật của Ấn Độ giáo, Do Thái và Hồi giáo. Trong số đó, phổ biến nhất là

luật Hồi giáo, phổ biến ở Trung Đông, Bắc Phi, và Indonesia. Pháp luật Hồi giáo có nguồn gốc từ những

quy định của kinh Koran, Kinh thánh của người Hồi giáo và lời dạy của nhà Tiên tri Mohammed. Còn

được biết đến với tên gọi Shariah, luật Hồi giáo không phân biệt gia tôn giáo và hiến pháp. Luật Hồi giáo

đưa ra các tiêu chí về các hành vi liên quan đến chính trị, kinh tế, ngân hàng, hợp đồng, hôn nhân và các

vấn đề xã hội khác. Luật Hồi giáo điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người, giữa người dân và nhà

nước, và giữa con người và đấng tối cao. Được xem như lời dạy của đấng Tối cao, luật Hồi giáo mang

tính tuyệt đối và phát triển rất ít theo thời gian.

Hầu hết các nước Hồi giáo hiện nay đang duy trì một hệ thống kép, nơi tôn giáo và tòa án hiến

pháp cùng tồn tại. Các quốc gia khác có đông dân cư Hồi giáo như Indonesia, Bangladesh, và Pakistan,

hiện nay đã có hiến pháp thế tục và các đạo luật. Thổ Nhĩ Kì, một quốc gia khác với số lượng tôn dân cư

Hồi giáo đã có hiếnpháp thế tục vững chắc. Arab Sau di và fran là các nước mà ở đó .các tòa án tôn giáo

có thẩm quyền trên cả luật pháp.

Page 36: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

36

Quan điểm truyền thống của Luật Tôn giáo phản đối mọi sự tự do và hiện đại hóa tại các nước theo

đạo Hồi. Ví dụ như, quy định nghiêm khắc của luật Hồi giáo nghiêm cấm cho và nhận lãi suất vay hay

đầu tư. Như vậy, đê tuân theo luật Hồi giáo, các ngân hàng không thể cho vay lấy lãi như thông lệ mà

phải thu lợi nhuận bằng cách tính lệ phí hành chính hoặc mức lợi nhuận hợp lý trong các dự án tài chính

mà họ cấp vốn.

Nhiều ngân hàng phương Tây, như Citibank, JP và Ngân hàng Deutsche- có các chi nhánh ở các

nước Hồi giáo phải tuân thủ Luật Shariah. Các quốc gia Hồi giáo như Malaysia đã ban hành trái phiếu

Hồi giáo cho hưởng lợi tức từ tài sản, ví dụ như tài sản cho thuê thay vì trả lãi suất.

Luật Xã hội chủ nghĩa

Luật Xã hội chủ nghĩa là một hệ thống pháp lý thường gặp chủ yếu ở các nước cựu thành viên của

Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc và một số ít nước châu Phi. Nó được dựa trên Luật Dân sự, kết hợp với

các yếu tố của nguyên tắc xã hội chủ nghĩa mà nhấn mạnh quyền sở hữu tài sản của nhà nước. Các quyền

hành của nhà nước được nhấn mạnh hơn của các cá nhân. Các nước xã hội chủ nghĩa có xu hướng coi tài

sản và quyền sở hữu trí tuệ chặt chẽ hơn so với những nước áp dụng Luật Dân sự hoặc luật tiền lệ. Với sự

sụp đổ của Liên Bang Xô Viết và sự chuyển đổi của Trung Quốc đối với chủ nghĩa tư bản, Luật Xã hội

chủ nghĩa đang lan dần tới phương Tây. Vì các nước này áp dụng nguyên tắc thị trường tự do, hệ thống

pháp luật của họ ngày càng kết hợp nhiều hơn các yếu tố bổ sung của Luật Dân sự.

Luật hỗn hợp

Luật hỗn hợp đề cập đến một biến thể của 2 hoặc nhiều hệ thống pháp lý điều hành với nhau. Ở đa

số các quốc gia, hệ thống pháp luật tiến hóa theo thời gian, áp dụng các yếu tổ của một hay nhiều hệ

thống nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của họ. S ự tương phản giữa Luật Dân sự và luật án lệ đã trở thành

đặc biệt lu mờ vì có rất nhiều quốc gia kết hợp cả 2 hệ thống. Ngoài ra, hệ thống pháp lý ở Đông âu

thường kết hợp các yếu tố của Luật Dân sự và Luật Xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp lý tại Lebanon, Ma

rốc và Tunisia thì áp dụng cả các yếu tố của Luật Dân sự và luật Hồi giáo.

2.2.2.2. Tác động của môi trường pháp luật đến kinh doanh quốc tế

Tác động thuận chiều

Hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý xác định, chịu sự điều

chỉnh của luật pháp quốc gia và quốc tế. Vì vậy, môi trường pháp luật có tác động trực tiếp tới hoạt động

kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp.

Hệ thống pháp luật giúp cho các hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng

được diễn ra theo nguyên tắc, trật tự, đảm bảo lợi ích về cả kinh tế và xã hội cho doanh nghiệp và cho

toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn những quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh giúp

doanh nghiệp hiểu quy trình thủ tục của việc đăng ký kinh doanh và thành lập doanh nghiệp, những mặt

hàng hay lĩnh vực doanh nghiệp được phép và không được phép kinh doanh. Hay những quy định về vệ

sinh dịch tễ giúp doanh nghiệp thực hiện việc kinh doanh những sản phẩm được đảm bảo về mặt vệ sinh

dịch tễ, thông qua đó vừa đảm bảo uy tín của doanh nghiệp, vừa đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng.

Một môi trường pháp lý minh bạch, khả đoán sẽ có tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh

của các doanh nghiệp, giúp cho hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một cách thuận lợi, dễ

Page 37: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

37

dàng. Ví dụ những quy định về thủ tục hải quan, về thuế xuất nhập khẩu đảm bảo tính rõ ràng, dễ dự đoán

sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình làm thủ tục hải quan cho hàng hóa.

Ngoài ra, hệ thống pháp luật càng đầy đủ và hoàn thiện, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện sẽ giúp

cho hoạt động kinh doanh trở nên hiệu quả hơn.

Tác động nghịch chiều

Bên cạnh những tác động tích cực, môi trường pháp luật có thể có những tác động không tích cực

tới hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. Đó là khi hệ thống văn bản pháp luật liên quan điều

chỉnh một lĩnh vực cụ thể chưa đảm bảo tính đầy đủ, tính thống nhất, tính minh bạch, đó là rào cản đáng

kể cho các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp thực hiện hoạt

động kinh doanh quốc tế dễ gặp phải một tác động không tích cực khác từ môi trường pháp luật đó là sự

khác biệt giữa các quốc gia về những quy định pháp lý. Ví dụ, quy định về chống bán phá giá của Hoa kỳ

có một số khác biệt so với luật pháp của nhiều quốc gia khác và với ngay cả Hiệp định ADA của WTO,

điển hình là quy định cho phép sử dụng quy tắc zeroing trong việc xác định biên độ phá giá – cơ sở để

tính thuế chống bán phá giá. Ngoài ra, một hệ thống pháp luật liên tục được thay đổi, điều chỉnh cũng là

một trở ngại lớn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.

2.2.3. Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế bao gồm rất nhiều yếu tố. Trước hết, nhà kinh doanh cần biết nền kinh tế của

một quốc gia đang được vận hành theo cơ chế nào, kinh tế thị trường hay kinh tế kế hoạch hóa tập trung,

hay là nền kinh tế hỗn hợp. Bên cạnh đó, nhà kinh doanh quan tâm đến những yếu tố khác của môi trường

kinh tế như tốc độ tăng trưởng theo thời gian, thu nhập bình quân/ người, biến động của lãi suất, tỷ giá, cơ

cấu kinh tế… Tùy thuộc nhà kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực gì, hình thức nào để quan tâm tới những

chỉ tiêu cụ thể phù hợp với hình thức và mục đích kinh doanh của mình.

Phần dưới đây giới thiệu về hệ thống nền kinh tế trên thế giới và một số yếu tố thuộc môi trường

kinh tế.

2.2.3.1. Hệ thống nền kinh tế trên thế giới

Hệ thống kinh tế là một cơ chế liên quan đến sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ.

Nó bao gồm các cấu trúc và các quá trình hướng dẫn phân phối các nguồn lực và hình thành nguyên tắc

hoạt động kinh doanh trong một đất nước. Hệ thống chính trị và hệ thống kinh tế có liên quan chặt chẽ

đến nhau. Hiện nay có hai hình thức hệ thống kinh tế phổ biến là hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và hệ

thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Sự khác biệt chủ yếu giữa hai hệ thống này được thể hiện rõ trong các yếu

tố như quyền sở hữu và chi phối các nhân tố sản xuất cũng như quyền tự do định giá để cân bằng cung

cầu.

Có nhiều ví dụ để diễn đạt khái niệm kinh tế chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa cộng sản. Thay vào đó,

nhà quản lý sử dụng những nguyên tắc của cả hai tư tưởng này để phân chia những hệ thống kinh tế hiện hành

thành: nền kinh tế thị trường, kinh tế tập trung và kinh tế hỗn hợp nhằm định nghĩa môi trường kinh doanh trên

thế giới.

Kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là một hệ thống trong đó các cá nhân chứ không phải là chính phủ sẽ quyết định các

vấn đề kinh tế. Mọi người có quyền tự do lựa chọn làm việc gì, ở đâu, tiêu dùng hay tiết kiệm như thế nào và

Page 38: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

38

nên tiêu dùng bây giờ hay sau này. Như vậy, trong một nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế tư nhân được tự

do phát triển. Quan điểm này dựa trên nguyên tắc cho phép tư nhân tự do kinh doanh và nên để thị trường tự

quyết định. Thoát khỏi các quy định của nhà nước, một thị trường tự do sẽ quyết định một các hiệu quả mối

quan hệ giữa giá, số lượng, cung và cầu.

Bởi vì các cá nhân đưa ra các quyết định cho nên nền kinh tế thị trường sẽ phụ thuộc vào cá nhân và

doanh nghiệp sở hữu và chi phối các nguồn lực hơn là chính phủ. Chỉ có quyền sở hữu tư mới giúp cho hệ

thống kinh tế kiểu này phân bố được các nhân tố sản xuất, hay như Adam Smith gọi là bàn tay vô hình đã

hướng dẫn các cá nhân hưởng quyền lợi hành động một cách hiệu quả. Do đó, “sự thống trị của người tiêu

dùng”, hay nói theo cách khác là ảnh hưởng của người tiêu dùng lên phân bố các nguồn lực thông qua nhu cầu

với sản phẩm, chính là cơ sở nền tảng của nền kinh tế thị trường.

Một nền kinh tế thị trường phụ thuộc rất ít vào những quy định của chính phủ. Nhà nước càng can thiệp

nhiều thì thị trường càng hoạt động kém hiệu quả hơn. Tuy nhiên, “bàn tay vô hình” cũng không phải là không

có hạn chế, ví dụ như nhu cầu các sản phẩm công (như đèn giao thông hay quốc phòng hoặc các quy định về

bảo vệ môi trường) thường không hấp dẫn với các nhà đầu tư nhưng lại vô cùng quan trọng với một quốc gia.

Do đó, một thị trường tự do vẫn cần đến hoạt động của nhà nước để đảm bảo hieeuh lực cho hợp đồng, bảo vệ

quyền sở hữu, đảm bảo cạnh tranh công bằng và tự do, quản lý một vài hoạt động kinh tế nhất định và đảm

bảo an ninh, trật tự xã hội.

Kinh tế tập trung

Một nền kinh tế tập trung là hệ thống kinh tế trong đó nhà nước sở hữu chi phối mọi nguồn lực. Có

nghĩa là, nhà nước có quyền quyết định hàng hóa và dịch vụ nào được sản xuất, với một số lượng bao

nhiêu, chất lượng như thế nào và giá cả ra sao. Ví dụ, trong một nền kinh tế thị trường, nếu chính phủ

muốn có được nhiều ô tô hơn, chính phủ đó phải thu thuế và mua xe từ thị trường. Còn trong nền kinh tế

tập trung, bàn tay vô hình của chính phủ sẽ yêu cầu các nhà sản xuất trong ô tô do nhà nước sở hữu và

điều khiển phải sản xuất nhiều xe hơn mà không cần quan tâm đến giá cả.

Những nền kinh tế tập trung có nhiều nhược điểm. Việc Nhà nước sở hữu các phương tiện sản xuất

– đất đai, nông trai, nhà xưởng, ngân hàng, cửa hàng, bệnh viên… các phương tiện này lại được quản lý

bởi các nhân viên làm việc cho chính phủ. Kết quả là, giá cả của dịch vụ và hàng hóa không có nhiều biến

động trong một nền kinh tế tập trung, bởi vì chính là các quan chức chính phủ chứ không phải người tiêu

dùng quyết định điều này. Tuy nhiên, chất lượng thì lại có xu hướng thay đổi rất nhanh, thường là tệ

đitheo thời gian do ít nhất là một trong 3 nguyên nhân sau:

- Hầu hết các sản phẩm được cung cấp số lượng ít

- Người tiêu dùng về cơ bản là không có hoặc có ít lựa chọn thay thế

- Không có nhiều động lực để nhà sản xuất cải tiến, đầu tư hay nâng cấp

Nền kinh tế tập trung có thể hoạt động tốt trong ngắn hạn, đặc biệt là trong quá trình tăng trưởng

bởi nhà nước có khả năng di chuyển những nguồn lực chưa được khai thác hay khai thác chưa hiệu quả để

tạo ra tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng ấn tượng có thể đạt được cho đến khi những nguồn lực chưa được

sử dụng được đem vào hoạt động hiệu quả (chủ yếu là nguồn lao động). Tương tự như vậy, các nước

kinh tế tập trung có xu hướng phát triển những ngành sản xuất đòi hỏi quy mô và vốn lớn để có được lợi

Page 39: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

39

nhuận cao nhưng lại chỉ sản xuất các sản phẩm không có lợi thế cạnh tranh với nước ngoài với chất lượng

chỉ ở mức chấp nhận được.

Kinh tế hỗn hợp

Trong thực tế, không có một mô hình kinh tế nào là hoàn toàn tự do hay tập trung. Thay vào đó,

hầu hết các nền kinh tế có thể được coi là kinh tế hỗn hợp, có nghĩa là rơi vào khoảng giữa của thang

phân cực kinh- tế tu bản - kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một nền kinh tế hỗn hợp là kinh tế mà hầu hết do thị

trường quyết định, và hình thức sở hữu tư nhân là phổ biến hơn, nhưng vẫn có can thiệp của nhà nước vào

các quyết định cá nhân.

Như vậy hình thức kinh tế hỗn hợp có những yếu tố của cả kinh tế thị trường và kinh tế tập trung -

nhà nước sở hữu các nhân tố kinh tế quan trọng trong khi người tiêu dùng và các công ty tư nhân có thể

ảnh hưởng đến giá cả, chất lượng hàng hóa. Ví dụ, chính phủ có thể sở hữu các công ty sản xuất Ô tô.

Những thay vì yêu cầu các nhà quản lý phải bán mỗi chiếc xe với giá bao nhiêu, chính phủ để cung cầu

thị trường quyết đinh giá bán Của xe. Các nước được xếp vào hang các nền kinh tế hỗn hợp tiêu biểu gồm

có Nam Phi, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Braxin, Đức và ấn Độ.

2.2.3.2. Các chỉ số phân tích môi trường kinh tế

Có nhiều chí số kinh tế được sử dụng để đánh giá hiệu năng và tiềm năng của nền kinh tế một đất

nước. Một số trong đó có thể là các chỉ số không chính thống hoặc đặc trưng cho từng nước - ví dụ -

lượng điện thoại không dây hoặc vòng đời của một tờ báo. Trên thực tế, khi dự đinh kinh doanh ở nước

ngoài, nhà kinh doanh cân khởi sự xem xét giá trị tiền tệ của dòng hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế

quốc gia, sau đó là các vấn đề khác như tốc độ tăng trường, phân phối thu nhập, lạm phát, thất nghiệp,

tiền lương, năng suất, nợ và cán cân thanh toán. Giờ đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể các yếu tố này.

Tổng thu nhập quốc gia

Tổng thu nhập quốc gia (Gross National Income - GNI) là thu nhập tạo bởi tất cả các hoạt động sản

xuất trong nước và quốc tế của các công ty một quốc gia. GNI là giá trị của mọi hoạt động sản xuất của

nền kinh tế nội địa cộng với thu nhập ròng (như tiền thuê lợi nhuận, thu nhập nhân công) từ nước ngoài

trong vòng 1 năm. Về mặt kỹ thuật, GNI là giá trị thị trường 'của mọi hàng hóa dịch vụ mới được sản xuất

bởi các nhân tố sản xuất trong nước.

Tổng sản phẩm nội địa (GDP): GNI là thước đo bao quát nhất của các hoạt động kinh tếtrong một

nước. Một phần cơ bản cấu thành GNI là tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic Product - GDP). GDP

là tổng giá trị của mọi hàng hóa dịch vụ được sản xuất trong biên giới của một quốc gia trong vòng 1

năm, không phân biệt các chủ thể kinh tế nội địa hay nước ngoài. Do đó, GDP đặc biệt có ích khi kinh

doanh quốc tế đóng góp đáng kể trong nền kinh tế của các nước được đánh giá.

Một cách kỹ thuật, khi ta lấy GDP cộng với thu nhập từ xuất nhập khẩu, các hoạt động quốc tế của

các công ty trong quốc gia sẽ được GNI. GNI là thước đo trực tiếp về quy mô tuyệt đối của nền kinh tế.

Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng GNI, các nhà kinh doanh có thể làm lẫn trong việc lựa chọn quốc gia để kinh

doanh. Ví dụ, các cường quốc kinh tế như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Đức đều đứng ở đầu bảng xếp hạng về

GNI, gây ấn tượng là các quốc gia nảy giàu có hơn nhiều các nước 1 như Ireland hoặc Luxembourg. Vì

vậy, các nhà quản lý nên sử dụng GNI bằng cách kết hợp chỉ tiêu này với dân số, tốc độ phát triển, chi phí

sinh hoạt địa phương và sự bền vững của nền kinh tế.

Page 40: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

40

Tính toán các chỉ số trên đầu người: Cách phổ biến nhất là chia GNI cũng như nhiêu chỉ báo kinh

tế khác theo số người sống trong một quốc gia để tìm ra chỉ số GNI/GDP… dựa trên đầu người. Những

chỉ số ngày có thể cho biết GNI/GDP tương đối của quốc gia. Một cách kỹ thuật, ta tính GNI trên đầu

người bằng cách chia giá trị của GNI đã được chuyển đổi sang một đồng tiền tiêu chuẩn, ví dụ như đồng

USD, theo tỷ giá hối đoái phổ biến, rồi chia cho dân số.

Chỉ số này và các chỉ số khác cho thấy hiệu năng của nền kinh tế trên cơ sở số người sống trong một

nước. Ví du, Luxembourg, một nước có nền kinh tế nhỏ nhất thế giới, giá trị tuyệt đối GNI khá thấp, nhưng

GNI trên đầu người lại cao nhất thế giới.

Ngân hàng Thế giới gọi các nước thu nhập thấp và trung bình thấp là các nước đang phát triển -

developing countries. Một số nhà phân tích gọi đây là các nước mới nổi - emerging countries hoặc các

nền kinh tế mới nổi - emerging economies. Đây là nhóm có số lượng quốc gia và dân cư lớn nhất trên thế

giới từ trước đến giờ. Các quốc gia thu nhập cao gọi là các nước phát triển (developed countries), hoặc

các nước công nghiệp (industrial countries). Nhìn chung, các quốc gia thu nhập cao nằm ở một số khu

vực nhất định, chủ yếu là Ở Nhật Bản, Australia, New Zealand, Canada, Hoa Kỳ và Tây âu. Các nước này

hiện chiếm 15% dân số nhưng chiếm tới 75% GNI của thế giới. Các nước thu nhập thấp trải rộng trên

khắp thế giới, từ châu Á đến châu Phi, Nam Hoa Kỳ và khu vực Thái Bình Dương. Những nước này chỉ

chiếm một phần nhỏ trong GNI thế giới và có GNI đầu người từ mức dưới 100 đến dưới 1000 USD.

Tỉ lệ thay đổi: các chỉ số như GNI, GDP, các chỉ số trên đầu người... cho chúng ta biết kết quả hoạt

động trong năm của một quốc gia, nhưng không cho biết sự biến động của các chỉ số này. Việc nghiên

cứu tình hình hiện tại và dự đoán hiệu quả kinh tế tương lại đòi hỏi xác định tỉ lệ của các thay đổi. Ví dụ,

từ năm 1998 đến 2002, Ireland là nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, với tốc độ 8% một năm, còn

Nhật Bản, ngược lại, là nền kinh tế chậm phát triển nhất với chỉ 0.2%/năm trong cùng thời kỳ. Nhìn

chung, tỉ lệ tăng trưởng GNI cho thấy tiềm năng của nền kinh tế - nếu GNI tăng với mức nhanh hơn (hoặc

thấp hơn) mức tăng dân số, mức sống của người dân sẽ tăng lên (hoặc giảm đi). Tỉ lệ tăng trưởng GNI

cũng thể hiện các cơ hội kinh doanh. Ví dụ, Trung Quốc là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh

nhất trong vòng 25 năm trở lại đây với tốc độ trung bình là 9% trong vài năm gần đây. Sự tăng trưởng này

dẫn đến tốc độ giảm mức nghèo đói mà chưa quốc gia nào tùng thấy, và hấp dẫn nguồn đầu tư nước ngoài

khổng lồ. Sự xuất hiện của nền kinh tế mới nổi như ấn độ, các nước Đông á.... cũng kích thích sự tăng

mức sống.

Sức mua tương đương (Purchasing Power Parity - PPP): Các nhà quản lý khi so sánh giữa các thị

trường thường chuyển đổi chỉ số GNI của nước ngoài về đồng tiền của nước họ. Ví dụ, khi chuyển đồng

rupi ấn Độ sang USD với tỷ giá chính thức, GNI đầu người của ấn Độ năm 2008 chỉ ở khoảng hơn 1 .070

USD so với mức 47.580USD của Mỹ. Khoảng cách này cho thấy sự khác biệt lớn giữa hai nước. Tuy

nhiên, cách chuyển đổi này quá đơn giản. Tỷ giá hối đoái cho ta biết bao nhiêu đồng tiền này đổi được 1

đồng tiền kia, ví dụ, bao nhiêu rubi ấn Độ đổi được một USD. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái không cho ta biết

đồng tiền nội địa kia mua được cái gì ở Hoa Kỳ. Nói cách khác, cách tính GNI theo đầu người không xem

xét đến sự khác nhau giữa chi phí sống giữa các nước mà giả định một USD ở Chicago có một “sức mua”

giống như 1 USD ở Mumbai (trước đây là Bom bay), cho dù chi phí sinh hoạt ở Hoa Kỳ và ấn Độ khác

Page 41: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

41

nhau. Bởi thế, GNI đầu người không thể cho ta biết người ta có thể mua được bao nhiêu hàng hóa dịch vụ

với một đơn vị thu nhập ở đất nước này với một đất nước khác.

Vì vậy cần điều chỉnh GNI đầu người theo từng nước riêng biệt dựa trên sức mua tương đương

(purchasing power parity - PPP). Về mặt tính toán, PPP là số đơn vị tiền tệ của một quốc gia cần thiết để

mua cùng một khối lượng hàng hóa dịch vụ trong thị trường nội địa của một nước khác. Rõ hơn, ta tính

PPP bằng cách ước lượng trị giá của một "rổ" hàng hóa (như xà bông, bánh mỹ và quần áo), dịch vụ (như

điện thoại, điện và năng lượng) có thể mua được bằng đồng tiền của một nước. Kết quả ước lượng của

GNI đầu người dựa trên sức mua của một nước cho ta thấy người tiêu dùng địa phương có thể mua những

gì với một đơn vị thu nhập. Giá cả rổ hàng hóa ở Hoa Kỳ thường được coi là tiêu chuẩn để chuyển đổi

PPP của các quốc gia khác!

Mức độ phát triển con người: Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các chỉ số như GNI, PPP… quá tập

trung vào tăng trưởng chỉ dựa trên các chỉ báo về tiền tệ mà bỏ qua tầm vóc và phạm vi của mức độ phát

triển. Các nhà quản lý có thể giải quyết các quan ngại trên bằng cách xem xét mức độ phát triển con

người của quốc gia (Human development Index - HDI) - dựa trên các nhân tố xã hội và kinh tế - để ước

lượng các hoạt động kinh tế hiện tại và tương lai. Chỉ số phát triển con người bao gồm chỉ báo về sức mua

thực tế, giáo dục và sức khỏe để có một thước đo toàn diện về phát triển kinh tế. Sử dụng chỉ số này kết

hợp các chỉ báo kinh tế và xã hội sẽ cho phép nhà quản lý đánh giá, toàn diện hơn nữa sự phát triển dựa

trên khả năng và cơ hội mà con người được hưởng.

Chỉ số đo lường Xanh (Green Measures) của GNP: Trước sự quan tâm ngày một lớn đến môi

trường, nhiều tổ chức quốc tế đã đưa ra một số chỉ số Xanh của GNP. Các chỉ số Xanh của nền kinh tế

quốc dân nhằm đo lường kết quả của nền kinh tế dựa trên phát triển bền vững. Các nhà kinh tế học xanh

tuyên bố rằng kinh tê thế giới là một bộ phận cấu thành và phụ thuộc vào thế giới tụ nhiên. Do đó, sẽ là

sai lầm nếu chỉ quan tâm đến các chỉ số như GNI và GNP.

Cụ thể hơn, đánh giá các hoạt động thị trường mà không tính đến các chi phí xã hội và sinh thái

liên quan sẽ dẫn đến hiểu lầm về hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, muốn phát triển bền vững các nhà quản lý

cần lưu tâm đến việc các hoạt động kinh tế cuối cùng sẽ đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không phải thỏa

hiệp với năng lực của các thế hệ tương lại để đảm bảo nhu cầu của họ". Do đó, các nhà kinh tế học xanh

kêu gọi có sự nhìn nhận rộng hơn về các chỉ số như tăng trưởng và tiến bộ kinh tế khi tìm hiểu nền kinh tế

quốc gia.

Hiện tại, chưa có sự đồng thuận trong cách điều chỉnh GDP cho môi trường. Các chỉ số đang được

sử dụng là:

Tổng sản phẩm xanh quốc gia (Green Net National Product): đánh giá GNP có tính đến sự cạn kiệt

của tài nguyên thiên nhiên, sự xuống cấp của môi trường (tương tự như việc các công ty phải khấu hao

giá trị các tài sản vô hình cũng như hữu hình khi sản xuất). Chỉ báo kết quả là sản phẩm ròng quốc dân

(Net natzonal product - NNP) thể hiện việc khấu hao giá trị của các tài sản hữu hình của quốc gia.

Chỉ số tiến bộ thực tế (Genuine Progress Indicator):chỉ số này cũng sử dụng các kế toán số liệu

như khi tính toán GDP nhưng được bổ sung bằng các chỉ số hướng tới chất lượng môi trường, sức khỏe

dân số, an ninh sinh sống, tài sản, thời gian rỗi và thành tựu giáo dục. Chỉ số này cũng bổ sung giá trị

Page 42: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

42

của các công việc không được trả tiền như tình nguyện, nội trợ cũng như các công việc trả tiền và loại trừ

đi các yếu tố như tội phạm, Ô nhiễm, rạn nứt gia đình.

Hình dưới đây thể hiện những yếu tố trong một thị trường có ảnh hưởng đến việc kinh doanh của

doanh nghiêp, trong đó các yếu tố quan trọng nhất của môi trường kinh tế là: thu nhập, sức mua, hình

thức và quy mô cũng như độ mở của thị trường. Hình này cũng cho thấy sự biến động trong một thành tố

của môi trường kinh tế có thể tác động đến những thành phần khác của thị trường.

Hình 2.2: Những yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động thương mại quốc tế.

Nắm được môi trường kinh tế của một đất nước sẽ giúp các nhà quản lý nhận biết được chính xác

sự phát triển và các xu hướng kinh doanh đã và sẽ có thể ảnh hương như thế nào đến doanh nghiệp của

họ.

2.2.3.3. Tác động của môi trường kinh tế đến kinh doanh quốc tế

Môi trường kinh tế của hoạt động kinh doanh quốc tế không bị giới hạn trong một quốc gia cụ thể

mà còn là nền kinh tế của khu vực hoặc thế giới. Khi tiến trình toàn cầu hóa diễn ra càng mạnh mẽ và sâu

rộng, nền kinh tế của các quốc gia có sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, điều đó khiến ảnh hưởng từ môi

trường kinh tế tới hoạt động kinh doanh quốc tế trở nên phức tạp hơn.Một nền kinh tế có dấu hiệu tăng

trưởng tốt và ổn định là điều kiện thuận lợi đối với nhà kinh doanh, đó chính là tác động tích cực từ môi

trường kinh tế đối với hoạt động kinh doanh quốc tế.

Chẳng hạn, trong khoảng thời gian từ năm 1998-2008, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tương

đối tốt với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5%, đó là điều kiện thuận lợi đối với nhà đầu tư nước ngoài vào

thị trường Việt Nam. Tính đến cuối năm 2008, Việt Nam đã thu hút hàng nghìn dự án ĐTNN với tổng

vốn đăng ký trên 150 tỷ USD (vốn thực hiện trên 50 tỷ USD), góp phần không nhỏ trong phát triển kinh

tế đất nước. Năm 2007, vốn ĐTNN vượt ngưỡng 20 tỷ USD (tăng 8% so với 2006, vượt tổngmức ĐTNN

của cả 5 năm 2001-2005), đến năm 2008, sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế

giới (WTO) thì mức độ thu hút vốn ĐTNN đã tăng đến mức kỷ lục, vốn đăng ký vượt ngưỡng 60 tỷ

USD,trong đó vốn thực hiện gần 13 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2007.

Tuy nhiên, khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn, ví dụ khi lãi suất, tỷ giá thường xuyên biến

động, kinh tế suy thoái,… nhà kinh doanh sẽ gặp phải nhiều rủi ro, thiệt hại. Đó chính là tác động không

tích cực từ môi trường kinh tế tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một ví dụ thực tế cho thấy

điều đó chính là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế bắt nguồn từ Mỹ vào giữa năm 2008 đã

lan tỏa mạnh mẽ sang nhiều quốc gia ở các khu vực châu Âu, châu Á, khiến cho rất nhiều nhà kinh doanh

trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Mọi hoạt

- Các phân tích kinh tế

- Các chỉ số kinh tế

- Các hệ thống kinh tế

- Tự do hóa kinh tế

- Chuyển dịch sang nền

kinh tế thị trường

Những tác động bên ngoài

Các yếu tố tự nhiên xã hội

Chính sách chính trị và quy

định của pháp luật

- Các yếu tố văn hóa

- Các lực lượng kinh tế

- Các ảnh hưởng địa lý

Môi trường cạnh tranh

HOẠT ĐỘNG

MỤC TIÊU

CHIẾN LƯỢC

CÁCH THỨC

Page 43: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

43

động thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài trở nên trầm lắng hẳn do những cơ hội kinh doanh bị thu hẹp

vì ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đó. Ngoài ra, thực tế cho

thấy nền kinh tế thị trường thường tạo ra nhiều cơ hội và động lực phát triển cho các doanh nghiệp hơn là

nền kinh tế tập trung, tuy nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường chính là khủng hoảng kinh tế dễ dàng

có thể xảy ra và gây ra những thiệt hại đáng kể cho Nhà nước, doanh nghiệp, người tiêu dùng. Nền kinh tế

tập trung không tạo ra động lực cho các doanh nghiệp phát triển, từ đó khó có thể đảm bảo sự phát triển

bền vững cho nền kinh tế.

Như vậy, môi trường kinh tế có thể mang lại cho các doanh nghiệp những cơ hội tốt khi nền kinh

tế tăng trưởng và phát triển ổn định. Ngược lại, khi có những dấu hiệu bất ổn từ nền kinh tế khiến hoạt

động kinh doanh gặp nhiều rủi ro và khó khăn, vì vậy sẽ khó có thể phát triển hoạt động kinh doanh quốc

tế trong môi trường kinh tế biến động.

2.2.4. Môi trường xã hội

Môi trường xã hội có ảnh hưởng lớn hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh

quốc tế của doanh nghiệp nói riêng, là yếu tố hình thành tâm lí, thị hiếu của người tiêu dùng . Thông qua

yếu tố này cho phép các doanh nghiệp hiểu biết ở mức độ khác nhau về đối tượng phục vụ qua đó lưạ

chọn các phương thức kinh doanh cho phù hợp. bao gồm các yếu tố như: dân số; thu nhập trung bình và

phân phối thu nhập; nghề nghiệp; tâm lý dân tộc; phong cách lối sống; tuổi thọ trung bình; tình trạng sức

khoẻ; điều kiện sống và chế độ dinh dưỡng; lối sống; học thức..vv..vv..là các yếu tố tác động đến hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế

(1) Dân số

Để sản xuất hay kinh doanh, các nhà quản trị cần phải sử dụng đến nguồn nhân lực, để bán được

hàng họ cần đến khách hàng. Để hoạch định chiến lược phát triển của mỗi công ty, người ta phải xuất

phát từ cả hai yếu tố ảnh hường này. Nói một cách khác, dân số và mức gia tăng dân số ở mỗi thị trường,

ở mỗi quốc gia luôn luôn là lực lượng có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi hoạt động về quản trị sản xuất

và quản trị kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp.

Ví dụ: Năm 1987, dân số thế giới là 5 tỷ, đến năm 1999 lên đến 6 tỷ . Trong đó dân số Ấn độ và

Trung Quốc chiếm 1/3 dân số thế giới. Các chuyên gia cho rằng đến năm 2200 dân số toàn thế giới có thể

ổn định ở con số 10 tỷ, nếu có sự giảm tốc độ tăng dân số thế giới của các nước đứng đầu thế giới diễn ra

liên tục. Đến năm 2050 Ấn độ (dự kiến trên 1,5 tỷ người) Trung Quốc (dưới 1,5 tỷ) là những nước đông

dân nhất thế giới. Quan sát sự thay đổi nhân khẩu học về mặt dân số làm nổi bật tầm quan trọng của phân

đoạn này. Dự kiến về dân số cho thấy những thách thức toàn cầu về vấn đề dân số của thế kỷ 21 và cơ hội

cho các nhà kinh doanh

Thông thường các nhà quản trị phải phân tích cơ cấu dân số trên cơ sở giới tính, tuổi tác để phân

khúc và xác định thị trường mục tiêu, phải xác định được nhu cầu thực tế về sản phẩm hàng hoá của mình

và dựa vào đó để quyết định kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.

Sự dịch chuyển dân số từ vùng này sang vùng khác; từ địa phương này sang địa phương khác

cũng là những yếu tố tác động đến các hoạt động hoạch định về các chiến lược và chính sách quản lý

nguồn nhân lực, chiến lược thị trường và các chiến lược sản xuất kinh doanh hỗ trợ khác trong vùng

không gian kinh doanh hiện có. Chẳng hạn sự di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành thị nhanh đã làm

Page 44: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

44

bùng nổ các nhu cầu nhà ớ, mở rộng đường xá, các hàng hóa tiêu dùng v.v… Chính những điều này đến

lượt nó lại buộc các nhà hoạch định chiến lược và chính sách kinh doanh phải có những chủ trương và

chính sách kinh doanh cho phù hợp.

(2) Thu nhập

Thu nhập có ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại sản phẩm và chất lượng đáp ứng, nghề nghiệp tầng

lớp xã hội tác động đến quan điểm và cách thức ứng xử trên thị trường , các yếu tố về dân tộc ,nền văn

hoá phản ánh quan điểm và cách thức sử dụng sản phẩm , điều đó vừa yêu cầu đáp ứng tình riêng biệt vừa

tạo cơ hội đa dạng hoá khả năng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp .

(3) Nghề nghíệp

Chuyên môn hóa và hợp tác hóa lao động xã hội là một qui luật tất yếu trong quá trình phát triển

của mỗi nước, mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Ở nơi nào nền kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ thì

trình độ chuyên môn hóa lao động và hợp tác hóa lao động càng cao và ngược lại.Điều này cũng có nghĩa

là xã hội ngày càng phát triển thì tính chuyên môn hóa và đa dạng hóa về nghề nghiệp ngày càng mạnh.

Nghề nghiệp khác nhau sẽ dẫn đến những đòi hỏi về phương tiện và công cụ lao động chuyên biệt khác

nhau Ngoài ra do ngành nghề khác nhau mà những nhu cầu tiêu dùng về ăn ở đi lại vui chơi giải trí.v.v.

cũng khác nhau. Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau về nghề nghiệp trong xã hội, các nhà quản trị ở mỗi

doanh nghiệp phải tính đến toàn bộ những ảnh hưởng của các yếu tố vừa nêu đến việc hoạch định và thực

hiện các chiến lược và sách lược kinh doanh của mình.

(4) Tâm lý dân tộc

Tình cảm quê hương, tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí ngoan cường, tính hiếu học,

lòng nhân nghĩa vị tha… luôn luôn là những yếu tố tinh thần thuộc về tâm lý dân tộc. Chúng có ảnh

hưởng rất lớn không chỉ đến cách suy nghĩ và hành động của mỗi nhà quản trị cũng như của mỗi con

người bị quản trị, mà nó còn có ảnh hưởng sâu sắc đến phong cách tiêu dùng, ảnh hưởng đến sự hình

thành các khúc thị trường khác nhau và chính những điều này buộc các nhà quản trị phải cân nhắc, tính

toán trong các quyết định quản trị kinh doanh của mình. Ví dụ nước ta có 54 dân tộc, qui mô dân số mỗi

dân tộc khác nhau, quan điểm tiêu dùng của mỗi dân tộc cũng khác nhau và nhu cầu tiêu dùng cũng có

những điểm khác nhau. Tất cả những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải soạn thảo các chiến lược

sản xuất kinh doanh khác nhau cho phù hợp với tâm lý, thị hiếu của các dân tộc anh em đó. Đây cũng là

yếu tố mà các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia vào thị trường Việt Nam cần lưu ý

(5) Phong cách và lối sống

Xã hội là bức tranh muôn màu do các cá thể với các phong cách và lối sống khác nhau tạo nên. Dẫu

không có hai người cùng giống nhau tuyệt đối về một phong cách hay lối sống, nhưng nhìn chung, ở bất

cứ đâu, bất cứ thời điểm nào cũng tồn tại những phong cách và lối sống tiêu biểu cho nơi đó hay thời

điểm đó. Mỗi phong cách và lối sống lại có những đặc trưng riêng của mình về cách mỗi cá thể suy nghĩ,

hành động và thể hiện ra thế giới bên ngoài. Chính điều này đến lượt nó lại chi phối rất mạnh đến việc

hình thành những nhu cầu về chủng loại, chất lượng, số lượng, hình dáng, mẫu mã… của hàng hóa, dịch

vụ đặc trưng cho các phong cách và lối sống đó. Như vậy muốn kinh doanh có hiệu quả, các nhà quản trị

không thể không điều chỉnh các hoạt động của mình phong cách và lối sống của xã hội đương thời và xã

hội tương lai sắp đến. Ví dụ phong cách sống của phụ nữ phương Tây khác phụ nữ Việt Nam đã dẫn đến

Page 45: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

45

sự tiêu dùng hàng hóa dịch vụ khác nhau và điều này lại buộc các nhà quản trị phải hoạch định và thực

hiện các chiến lược về hàng hóa và dịch vụ khác nhau cho hai loại đối tượng đó.

(6) Hôn nhân và gia đình

Hôn nhân và gia đình trong cuộc sống của mỗi con người có một vị trí và vai trò hết sức quan

trọng. Hôn nhân và gia đình là qui luật tất yếu và muôn thuở của xã hội loài người. Mỗi gia đình là một tế

bào của xã hội và chính điều này nói lên sự gắn bó chặt chẽ giữa các hoạt động quản trị và các nhà quản

trị với hôn nhân và gia đình của mình. Không thể có một nhà quản trị nào yên tâm làm việc, nếu gia đình

nhà mình có vấn đề bất ổn. Không có người nhân viên nào toàn tâm toàn ý để làm việc có hiệu quả nếu

cuộc sống trong gia đình của họ không được bảo đảm v.v… Tất cả những điều này nói lên rằng, hôn nhân

và gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi người, từ giám đốc cho

đến một người công nhân lao động bình thường trong mỗi doanh nghiệp.

Hôn nhân và gia đình không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các nhà quản trị ở mỗi doanh

nghiệp mà nó cũng còn có những ảnh hưởng rất sâu sắc tới việc hình thành nhiều loại nhu cầu trong xã

hội như: nhà ở, ti vi, máy giặt, giường tủ, bàn ghế v.v… và các mặt hàng khác có liên quan đến các hộ gia

đình. Các nhà quản trị khi vạch ra và tổ chức thực hiện các chiến lược và sách lược kinh doanh càng

không được phép bỏ qua tác động của những yếu tố này trong các hoạt động của mình. Ví dụ tỉ lệ hôn

nhân gia tăng sẽ có ảnh hưởng đến nhu cầu về nhà ở. Qui mô của các hộ gia đình có ảnh hưởng đến nhu

cầu về kích cỡ của các loại tivi, dung tích của các loại tủ lạnh v.v…

Bên cạnh đó, các yếu tố như tuổi thọ trung bình; tình trạng sức khoẻ; điều kiện sống và chế độ

dinh dưỡng; lối sống; trình độ học vấn cũng đóng vai trò tác động đến hoạt động kinh doanh của các

doanh nghiệp trong việc lựa chọn sản phẩm, chất lượng phù hợp với từng thị trường mà mình tham gia.

Ví dụ, các quốc gia có điều kiện sống và trình độ học vấn cao thì yêu cầu của khách hàng về chất lượng

sản phẩm cũng cao điều này buộc doanh nghiệp phải có chiến lược nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm

của mình.

2.2.5. Môi trường nhân khẩu học

Môi trường nhân khẩu học mô tả những đặc trưng cơ bản nhất liên quan đến con người ở mỗi

quốc gia. Việc nghiên cứu môi trường nhân khẩu học sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu hàng hóa, chủng loại, khối

lượng hàng hóa được đóng gói, tiêu thụ trên mỗi khu vực thị trường. Các nghiên cứu nhân khẩu học bao

gồm:

+ Nghiên cứu về hình dáng, tầm vóc của người tiêu dùng trên thị trường mục tiêu. Tầm vóc và

hình dáng của con người trên thị trường quyết định đến khối lượng, kích cỡ hàng hóa tiêu dùng. Việc

quyết định số lượng quần áo, giày dép sản xuất theo các kích cỡ khác nhau được dựa hoàn toàn trên

nghiên cứu nhân khẩu học.

+ Phân bố dân cư về mặt địa lý cũng là một yếu tố cần phải nghiên cứu trong môi trường nhân

khẩu học. Ví dụ: Sự phân bổ dân cư từ khu vực này sang khu vực khác từ quốc gia này sang quốc gia

khác có thể tạo cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ viễn thông. Bằng máy

tính con người có thể ở nhà và thực hiện các trao đổi với người khác qua mạng viễn thông.

Page 46: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

46

+ Xu hướng kết hôn và ly hôn cũng là yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu hàng hóa tiêu dùng trên một

thị trường. Tỷ lệ kết hôn tăng có thể dẫn đến tỷ lệ thu nhập dành cho chi tiêu gia đình tăng. Tỷ lệ kết hôn

giảm, ly hôn tăng làm cho giảm số lượng hàng hóa tiêu dùng gia đình, gia tăng dịch vụ tiêu dùng phục vụ

nhu cầu giải trí.

+ Kết cấu dân số: Cấu trúc tuổi già đi ở các nước phát triển do tỷ lệ sinh thấp, và tuổi thọ có

khuynh hướng tăng. Cho thấy các cơ hội của các dịch vụ chăm sóc người già, các dịch vụ bảo hiểm.

Nhưng cũng tiềm ẩn một đe dọa với các doanh nghiệp về vấn đề nguồn lao động. Đối với những nước

đang phát triển cơ cấu dân số trẻ, là cơ hội để các doanh nghiệp dịch chuyển đến tìm nguồn lao động trẻ.

Song sự tăng dân số nhanh chóng đang làm sói mòn khả năng phát triển bền vững ở các quốc gia này. Sự

thay đổi kết cấu dân số là một nhân tố của môi trường kinh tế vĩ mô mà nó cũng có thể tạo ra các các cơ

hội lẫn đe dọa. Ví dụ, do thế hệ bùng nổ trẻ em ở Mỹ năm 1960 đã lớn lên, nó tạo ra một loạt các cơ hội

và đe dọa. Trong những năm 1980, nhiều người của thế hệ này lập gia đình và tạo ra nhu cầu đột biến về

các máy móc cho các cặp vợ chồng trẻ lần đầu cưới nhau. Các công ty như Whirlpool và General Electric

đã đầu tư cho sự đột biến của nhu cầu máy giặt, máy rửa chén, máy sấy… Mặt khác, các ngành định

hướng vào giới trẻ như ngành đồ chơi đã nhận thấy các khách hàng của họ giảm xuống trong những năm

gần đây.

2.2.6. Môi trường địa lý kinh tế

Địa lý nghiên cứu các vấn đề về bề mặt trái đất, khí hậu, đất đai, đất nước, các nguồn tài nguyên...

đây là một yếu tố không kiểm soát được mà các nhà KDQT phải đối mặt nhưng vẫn chưa được xem

trọng. Xu hướng chung là chì nghiên cứu các khía cạnh địa lý khi được tách riêng, độc lập là một môn

khoa học chứ không được xem xét như một yếu tố quan trọng trong tổng thể MTKDQT. Địa lý không chỉ

là vị trí đất nước, thủ đó một quốc gia hay nhỗng con sông... mà còn là nhỗng hiểu biết về văn hóa xã hội

và kinh tế với nguồn lực hạn chế có thể đáp ứng nhu cầu của con người. Vì vậy, nghiên cứu địa lý có vai

trò quan trọng trong việc đánh giá thị trường và môi trường. Yếu tố thuộc về địa lý, khí hậu và địa thế của

một quốc gia là một vấn đề quan trọng được nhác đến khi đánh giá một thị trường. Những yếu tố địa lý

này có ảnh hường trực tiếp, rõ ràng tới sự chấp nhận sản phẩm mới trên thị trường, tới những ảnh hưởng

sâu sắc hơn trong việc phát triển chiến lược kinh doanh.

Độ cao, độ ẩm, nhiệt độ, là những đặc điếm khí hậu ảnh hưởng tới công dụng và chức năng của

sản phẩm. Sản phẩm được xem là hoàn hảo ở những nước ôn đới cũng có thể bị hư hỏng nhanh chóng tại

những nước hàn đới, hay cần được thường xuyên bảo dưỡng tại những nước thuộc khu vực nhiệt đới. Ví

dụ, các nhà sản xuất nhận ra rằng khi các thiết bị xây dựng ở Mỹ được đem bán tại sa mạc Sahara thì cần

phải có thay đổi lớn để có thể chịu đựng được cái nóng và bụi gay gắt của vùng sa mạc này. Một công ty

Đài Loan đã vận chuyển hàng hóa thủy tinh bằng đường biển tới người mua ở Trung Á. Hàng thủy tinh

được đóng trong những chiếc thùng gỗ có lót xung quanh bằng cỏ khô đê tránh va đập mạnh. Tuy nhiên,

khi hàng hóa đến nơi thì hầu như toàn bộ đã bị vỡ, vậy tại sao? Khi hàng hóa được vận chuyên tới vùng

ấm hơn, khí hậu khô hanh hơn ờ Trung Á, đã làm cho lượng nước trong cỏ khô giảm nhanh chóng, cỏ co

lại, tạo những khe hở lớn khiến cho đồ thủy tinh bị va đập trên đường vận chuyển và vỡ. Thậm chí khi ở

cùng một thị trường thì khí hậu cũng có thể rất khác nhau giữa các vùng, đòi hỏi sản phẩm cẩn có sự thay

đổi tương ứng. Khí hậu khác nhau ở châu Âu khiến cho hãng Bosch-Siemens buộc phải sửa đổi những

Page 47: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

47

chiếc máy giặt của họ. Bởi vì ớ Đức và Scandinavia không có nhiều ánh nắng mặt trời nên những chiếc

máy giặt phải có đặc điếm là tốc độ vắt cao từ 1000-1600 vòng/phút (rpm). Quần áo phải khô hơn khi ra

khỏi máy giặt vì người sử dụng không thể chờ có quần áo khô khi phải phơi thêm ngoài trời cả ngày.

Ngược lại, ở Italia và Tây Ban Nha thì lượng ánh sáng chiếu hàng năm cao hơn rất nhiều, nên tốc độ quay

của máy giặt chỉ khoảng 500 vòng/phút.

Như vậy, có thể nói, để có thế thành công trong KDQT, các nhà quản lý không thể bỏ qua hay

xem nhẹ yếu tố địa lý, trong chừng mực nào đó, hay trong những trường hợp cụ thế thì yếu tố này cũng có

tính chất quyết định đối với sự thành công của sản phẩm trên thị trường.

2.2.7. Môi trường văn hóa

2.2.7.1. Khái niệm về văn hóa

Khái niệm rộng nhất về văn hóa có lẽ là của nhà nghiên cứu Herskovit đưa ra theo đó "văn hóa là

phần do con người tạo ra trong môi trường". Văn hóa bao gồm những yếu tố hữu hình và vô hình. Các

yếu tố hữu hình như đường xá, các công trình kiến trúc, hàng hóa tiêu dùng và các giá trị vật thể khác còn

các yếu tố vô hình bao gồm các qui tắc ứng xử, giá trị, ý tưởng, phong tục tập quán và các biểu tượng có

nghĩa khác.

Văn hóa phát triển trong lòng mỗi xã hội để tạo nên đặc thù riêng cho những người thuộc xã hội đó

và để phân biệt họ với những người thuộc những xã hội khác. Đầu tiên, văn hóa định hình cách sống của

các thành viên trong xã hội chẳng hạn như cách ăn mặc, ở. Thứ hai, văn hóa giải thích cách mà các thành

viên cư xử với nhau và với các nhóm người khác. Thứ ba, văn hóa xác định hệ thống các niềm tin và các

giá tri của các thành viên và cả cách họ cảm nhận về ý nghĩa của cuộc sống.

Văn hóa được coi là thành phần quan trọng nhất trong nền văn minh của mỗi quốc gia vì nó thể

hiện sự khác biệt giữa các xã hội thông qua ngôn ngữ, thói quen, tập quán Tuy nhiên, đa số chúng ta lại

không hoàn toàn hiểu được văn hóa tác động đến hành vi của chúng ta như thế nào cho đến khi ta bắt đâu

giao tiếp với những người đến từ những nền văn hóa khác.

2.2.7.2. Các yếu tố trong môi trường văn hóa

Nhìn chung, văn hóa có yếu tố cấu thành cơ bản là:

- Ngôn ngữ, bao gồm ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời.

- Tôn giáo

- Các giá trị và thái độ

- Phong tục tập quán và thói quen

- Đời sống vật chất

- Nghệ thuật

- Giáo dục

Page 48: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

48

Ngôn ngữ:

Ngôn ngữ là một yếu tố hết sức quan trọng của văn hóa. Ngôn ngữ được coi là tấm gương để

phản ánh văn hóa. Chính nhờ ngôn ngữ mà con người mới có thể xây dựng và duy trì văn hóa của mình.

Sở dĩ như vậy là vì văn hóa được duy trì nhờ truyền thống, mà cơ chế truyền thống hoạt động được là nhờ

có ngôn ngữ làm công cụ lưu trữ và truyền đạt thông tin. Ngôn ngữ còn giúp chúng ta tạo dựng một nhận

thức về thế giới. Ngôn ngữ một quốc gia có thê hướng sự chú ý của các thành viên vào một số đặc trưng

nhất dịp của thế giới. Một minh hoạ rõ ràng cho hiện tượng này là hầu hết các ngôn ngữ châu âu chỉ có

một từ về tuyết, nhưng ngôn ngữ của người Eskimo lại không có một thuật ngữ chung về tuyết. Thay vào

đó, họ có tới 24 từ mô tả các trạng thái khác nhau của tuyết (chẳng hạn như tuyết bột, tuyết rơi, tuyết

ướt...), bởi vì việc phân biệt các dạng tuyết rất quan trọng với đời sống của người Eskimo. Hay trong

tiếng Anh chỉ có 1 từ sun để chỉ nắng, nhưng trong từ điển Lạc Việt có tới 18 từ chỉ các sắc thái nắng

khác nhau như nắng quái, nắng sớm, nắng xiên khoai..., vì việc miêu tả chính xác các mức độ nắng khác

nhau rất quan trọng cho nông nghiệp ở Việt Nam.

Vì ngôn ngữ hình thành nên cách con người nhận thức về thế giới nên nó cũng có tác dụng định

hình đặc điểm văn hoá. Ở những nước có nhiều ngôn ngữ người ta cũng thấy có nhiều nền văn hoá. Ví dụ,

ở Canađa có hai nền văn hoá: nền văn hoá tiếng Anh và nền văn hoá tiếng Pháp. Sự căng thẳng giữa hai

nền văn hoá có phần tăng lên và bộ phân dân nói tiếng Pháp đã từng đòi tách ra khỏi Canađa - quốc gia do

người nói tiếng Anh hiện chiếm đa số. Người ta có thể thấy hiện tượng tương tự ở nhiều nước khác nhau

trên thế giới như ở Bỉ, ở Tây Ban Nha... Tuy nhiên, không phải lúc nào sự khác biệt về ngôn ngữ cũng

dẫn đến sự khác biệt về văn hoá (ví dụ có đến bốn ngôn ngữ được sử dụng ở Thụy Sỹ), nhưng nhìn chung

thì điều này có xu hướng xảy ra.

Tuy nhiên, khi bàn về ngôn ngữ, chúng ta không thể chỉ lưu ý đến ngôn ngữ chính thức là ngôn ngữ

có lời (verbal language). Bản thân ngôn ngữ đã rất đa dạng. Trong giao tiếp, thông điệp không chỉ thể

hiện bằng lời nói mà còn cả bằng ngôn ngữ không lời (non - verbal langụage).

Thông điệp được chuyển giao bằng nội dung của từ ngữ, bằng cách diễn tả các thông tin đó (ví dụ

như âm điệu giọng nói) và bằng cả các phương tiện không lời như cử chỉ, tư thế, ánh mắt... Tất cả chúng

ta đều giao tiếp với nhau bằng nhiều biểu hiện của ngôn ngữ không lời. Ví dụ: một cái ngước mắt là dấu

hiệu nhận biết, nụ cười là dấu hiệu vui vẻ ở nhiều nền văn hoá. Tuy nhiên, một số dấu hiệu của ngôn ngữ

cử chỉ lại bị giới hạn về mặt văn hoá.. Ví dụ: dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái tạo thành một vòng tròn là

biểu hiện thân thiện ở Hoa Kỳ nhưng lại là một lời mời mọc khiếm nhã ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Tương

ty như vậy, trong khi phần lớn người Hoa Kỳ và Châu âu khi giơ ngón cái lên hàm ý "mọi thứ đều ổn", thì

ở Hy Lạp, dấu hiệu đó là mang ý khiêu dâm.

Tôn giáo:

Tôn giáo có thể được định nghĩa như một hệ thống các tín ngưỡng và nghi thức liên quan đến lĩnh

vực thần thánh. Mối liên hệ giữa tôn giáo và đời sống xã hội rất tinh tế và sâu sắc. Trên thế giới hiện nay

tồn tại hàng nghìn tôn giáo khác nhau, nhưng có năm tôn giáo lớn nhất, đó là Đạo Thiên Chúa, Đạo Hồi,

Đạo Hin du, Đạo Phật và Đạo Khổng. Tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đến mọi lĩnh vực trong đời sống con

Page 49: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

49

người, kể cả kinh doanh. Các lễ nghi đạo giáo có thể cấm sử dụng một số hàng hoá hay dịch vụ nào đó

(như thịt lợn ở các nước Hồi giáo).

Tôn giáo ảnh hưởng lớn đến vai trò của nam giới và nữ giới, cũng như các tập quán và đạo đức xã

hội, chẳng hạn như các nghi lễ đám cưới, đám ma... Hầu hết các tôn giáo đều hạn chế vai trò của nữ giới

trong xã hội, đặc biệt là dạo Hỏi. Tại các nước theo đạo Hồi, vai trò của người phụ nữ bị giới hạn trong

gia đình, mả ngay cả trong các quan hệ gia đình cũng vẫn có sự phân biệt đối xử. Ngoài ra. đàn ông là tín

đồ đạo Hồi có thể lấy tới bốn vợ, nhưng phụ nữ chỉ được lấy một chồng.

Tôn giáo còn ảnh hưởng tới lối sống. Nó tạo ra các mối quan hệ quyền lực, trách nhiệm và bổn

phận của mỗi cá nhân, kể cả trẻ em và người lớn. Giáo hội Thiên chúa giáo đến tận bây giờ vẫn tiếp tục

cấm sử dụng các biện pháp tránh thai. Đạo Phật cấm sát sinh, nên các tín đồ trung thành thường mua cá

để phóng sinh vào các ngày rằm và mồng một. Có thể nói, tôn giáo có mặt trong mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội.

Các giá trị và thái độ:

Giá trị (value) là những niềm tin và chuẩn mực chung cho một tập thể người được các thành viên

chấp nhận, còn thái độ (attitude) là sự đánh giá những giải pháp khác nhau dựa trên những giá trị này. Nền

văn hoá Nhật đã dựng lên một bức tường vô hình, thường là không thể vượt qua để chống lại các gaijin (tức

là người nước ngoài). Ví dụ: rất nhiều quan chức tuổi trung niên của Chính phủ và các công ty cho rằng

dùng hàng nước ngoài là không yêu nước. Tương tự như vậy, những công ty nước ngoài thường gặp khó

khăn trong việc thuê những nhân viên có trình độ đại học hay các nhân viên lâu năm do ý thức chống đối

ông chủ nước ngoài của những người này.

Phong tục tập quán và chuẩn mực đạo đức:

Phong tục tập quán và chuẩn mực đạo đức là những luật lệ xã hội để kiểm soát hành động của

người này với .người kia. Phong tục tập quán (folkways) là những quy ước thông thường của cuộc sống

hàng. ngày. Nói chung, phong tục tập quán là những: hành động ít mang tính đạo đức. Phong tục tập quán

chỉ là những quy ước xã hội có liên quan đến các vấn đề như: nên ăn mặc như thế nào trong từng hoàn

cảnh cụ thể, như thế nào thì được coi là cách cư xử đúng đắn, cách sử dụng các đồ dùng ăn uống (dao,

dĩa, đũa. . .) trong bữa ăn, cách xử sự với những người xung quanh ...

Trong khi phong tục tập quán quy định các cách cư xử được coi là phù hợp thì vi phạm phong tục

tập quán không phải là vấn đề nghiêm trọng. Người vi phạm phong tục tập quán chỉ bị coi là lập dị hoặc

không biết cách cư xử, chứ ít khi bị coi là hư hỏng hay xấu xa. Ở nhiều nước, người nước ngoài có thể

được tha thứ cho việc vi phạm phong tục tập quán lần đầu tiên.

Một ví dụ điển hình về tập quán là vấn đề thời gian ở các nước khác nhau. Ở Hoa Kỳ, mọi người

rất coi trọng thời gian. Người Hoa Kỳ thường đến sớm vài phút trong các cuộc gặp gỡ kinh doanh. Khi họ

mời ai ăn tối, đến đúng giờ hoặc chỉ trễ vài phút được coi là lịch sự. Nhưng ở các nước khác, quan niệm

về thời gian có thể khác biệt hoàn toàn. Đến muộn một chút trong các buổi hẹn gặp vì công việc không

nhất thiết bị coi là bất lịch sự.

Tục lệ, tập tục (mores) là những quy tắc được coi là trọng tâm trong việc thực hiện các chức năng

xã hội và của đời sống xã hội. Những tập tục này có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với tập quán. Do đó, việc

làm trái tập tục có thể gây nên hậu quả nghiêm trọng. Tập tục bao gồm các yếu tố như sự lên án các hành

Page 50: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

50

động trộm cắp, ngoại tỉnh, loạn luân và giết người. Ở nhiều xã hội, một số tập tục đã được cụ thể hoá

trong luật pháp. Hầu hết các xã hội phát triển đều có luật chống trộm cắp, loạn luân và giết người. Mặc dù

vậy, có rất nhiều sự khác biệt giữa các nền văn hoá trong việc xây dựng các tập tục.

Đời sống vật chất.

Trong thời đại ngày nay, nền văn hoá vật chất được khởi đầu từ Hoa Kỳ và có xu hướng lan rộng

khắp các nước trên thế giới. Một nền văn hoá vật chất thường được coi là kết quả của công nghệ và được

liên hệ trực tiếp tới việc xã hội đó tổ chức hoạt động kinh tế của mình như thế nào. Văn hoá vật chất thể

hiện qua đời sống vật chất của quốc gia đó. Chính vì vậy, nó cũng có ảnh hưởng to lớn đến trình độ dân

trí, lối sống của các thành viên trong nền văn hoá đó.

Giáo dục:

Một nền giáo dục, dù chính quy hay không, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc vượt qua và

chia sẻ những trở ngại về văn hoá. Giáo dục chính quy là nền giáo dục mà học viên, nhất là lớp trẻ, được

tiếp nhận tại nhà trường, còn giáo dục không chính quy là những gì họ tiếp thu được ở gia đình và xã hội.

Nền giáo dục chính quy đóng vai trò chủ chốt trong xã hội, thông qua đó các cá nhân có thể học được rất

nhiều kỹ năng cần thiết trong xã hội hiện đại về ngôn ngữ, nhận thức hay toán học. Cùng với giáo dục gia

đình, giáo dục chính quy có vai trò bổ sung vào việc giáo dục giới trẻ những giá trị và chuẩn mực xã hội.

Nhà trường cũng giáo dục cho học sinh những nghĩa vụ cơ bản của công dân và những chuẩn mực xã hội

như tôn trọng người khác, tuân thủ luật pháp, trung thực, gọn gàng, ngăn nắp, đúng giờ... Việc đánh giá

kết quả học tập theo điểm cũng giáo dục cho học sinh thấy giá trị thành công của mỗi cá nhân và khuyến

khích tinh thẩn cạnh tranh ở học sinh.

Trình độ giáo dục của một cộng đồng có thể đánh giá qua tỷ lệ người biết đọc biết viết, tỷ lệ người

tốt nghiệp phổ thông, trung học hay đại học... Đây chính là yếu tố quyết định sự phát triển của văn hoá vì

nó sẽ giúp các thành viên trong một nền văn hoá kế thừa được những giá trị văn hoá cổ truyền và học hỏi

những giá trị mới từ các nền văn hoá khác.

Cấu trúc xã hội.

Nói đến cấu trúc xã hội là nói đến cách thức tổ chức cơ bản của xã hội đó. Tuy cấu trúc xã hội bao

gồm nhiêu khía cạnh khác nhau, nhưng trong đó nổi lên hai đặc điềm đặc biệt quan trọng giúp ta phân

biệt sự khác nhau giữa các nền văn hoá. Đặc điểm đầu tiên là mức độ coi trọng tính cá nhân (và đối lập

với nó là tập thể ) của từng xã hội. Các xã hội phương Tây có xu hướng nhấn mạnh ưu thế của cá nhân,

trong khi nhiều xã hội khác lại coi trọng tập thể hơn. Đặc điểm thứ hai là khoảng cách phân cấp của xã

hội. Một số xã hội có khoảng cách phân cấp cao và mức độ linh hoạt chuyển đổi giữa các giai cấp thấp

(Ví dụ như ấn Độ và trong chừng mực thấp hơn là Anh quốc) Trong khi đó, ở một số xã hội khác khoảng

cách phân cấp ít hơn, nhưng lại linh hoạt hơn trong việc chuyển đổi giai cấp (ví dụ như Hoa Kỳ).

Phân cấp trong xã hội

Tất cả xã hội đều được phân cấp theo một trật tụ nhất định. Sự phân cấp này được xác định dựa trên

các tiêu chí như nền tảng gia đình, nghề nghiệp và thu nhập. Mỗi cá nhân đều được sinh ra trong một

phân cấp nhất định nào đó. Cá nhân đó sẽ thuộc về phân cấp mà cha mẹ mình là thành viên. Những cá

nhân thuộc về phân cấp cao trong xã hội có nhiều cơ hội có một cuộc sống tốt hơn là những cá nhân thuộc

về phân cấp thấp. Những người thuộc tầng lớp cao được giáo dục tốt hơn, có sức khoẻ tốt hơn, điều kiện

Page 51: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

51

sống tốt hơn và cơ hội việc làm cũng tốt hơn. Mặc dù tất cả các xã hội đều được phân chia thành các giai

cấp nhưng giữa các xã hội vẫn có sự khác nhau theo hai cách có liên quan đến vấn đề của chúng ta đang

thảo luận: Thứ nhất, các xã hội khác nhau về tính linh hoạt chuyển đổi giữa các tầng lớp, và thứ hai, các

xã hội khác nhau về ý nghĩa của các tầng lớp xã hội trong môi trường kinh doanh.

2.2.7.3. Tác động của môi trường văn hóa đến kinh doanh quốc tế

Trong kinh doanh quốc tế, chúng ta phải làm việc trong những môi trường hóa khác nhau với những

ngôn ngữ, những hệ thống giá trị, những niềm tin và hành vi ứng xử khác biệt. Chúng ta sẽ có cơ hội gặp gỡ

những khách hàng và đối tác với những lối sống, những qui tắc và những thói quen tiêu dùng hoàn toàn

khác biệt. Những khác biệt này ảnh hưởng đến tất cả các phương diện trong kinh doanh quốc tế.

Rủi ro văn hóa được hiểu là những tình huống hay sự kiện trong đó việc truyền đạt sai lệch về văn

hóa có thể gây nên hiểu nhầm nghiêm trọng trong quan hệ giữa các đối tác từ những nền văn hóa khác

nhau.

Rủi ro đa văn hóa thường xuyên nảy sinh trong hoạt động kinh doanh quốc tế bởi vì những người

tham gia vào hoạt động này được thừa hưởng những di sản văn hóa vô cùng đa dạng.

Văn hóa là những khuôn mẫu có tính chất đinh hướng được học hỏi, chia sẻ và có giá tri lâu bền trong

một xã hội. Con người biểu hiện nền văn hỏa của mình thông qua các giá trị, quan niệm, thái độ, hành vi, và

các biểu tượng. Văn hóa có ảnh hưởng đến mọi hành vi, suy nghĩ của con người, do đó cũng có ảnh hưởng

mạnh mẽ đến kinh doanh. Ngay từ những hành vi đơn giản như việc chào hỏi và chia tay, ta cũng có thể nhận

thấy tác động của văn hỏa. Các nghi lễ chào hỏi chính là một dấu hiệu của văn hóa hình thành qua nhiều thế kỉ

. Ở Trung Quốc hay Việt Nam, bạn bè biểu lộ sự quan tâm bằng cách hỏi nhau xem đã ăn cơm hay chưa. Ở

Thổ Nhĩ Kỳ, khi gặp nhau lần đầu tiên, người ta thường chào nhau bằng câu: “Anh có gì mới không?”; hay

khi muốn tạo một sự tương đồng với người kia, người ta thường chào “Anh ở vùng nào vậy?” Ở Nhật, người

ta vẫn còn duy trì những nghi lễ chào hỏi và chia tay rất trang trọng, và người Nhật thường nói xin lỗi trước

khi kết thúc một cuộc nói chuyện điện thoại.

Tuy nhiên, khác với các hệ thống chính trị, luật pháp và kinh tế, văn hóa rất khó xác định và phân

tích. Văn hóa tác động đến các trao đổi giữa các cá nhân với nhau cũng như việc vận hành các chuỗi giá

trị như việc thiết kế sản phẩm và dịch vụ, marketing và bán hàng. Các nhà quản lí phải chú ý đến vấn đề

văn hóa khi thiết kế sản phẩm, bao bì và kể cả màu sắc. Màu đỏ là một màu sắc đẹp theo quan niệm của

người Nga, nhưng lại là biểu tượng của sự tang tóc đối với người Nam Phi. Quan niệm về một món quà

tặng phù hợp cho đối tác kinh doanh cũng rất khác nhau trên thế giới. Bút là một trong số ít những loại

quà được chấp nhận rộng rãi ở nhiêu nơi còn những vật phẩm khác thì không phải lúc nào cũng phù hợp.

Chẳng hạn, các vật sắc như dao, kéo thường được cho là mang ngụ ý cắt bỏ mọi quan hệ và những ẩn ý

không tốt khác; hoa cúc thường được gắn với liên tưởng về những đám tang; khăn tay thường gắn với sự

buồn bã.

Hiện nay hầu hết các công ty đa quốc gia đều quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng đa văn hóa cho

nhân viên của mình.

Việc va chạm với những nền văn hóa xa lạ có thể xuất hiện trong cả các giao dịch buôn bán trong

và ngoài nước, như khi làm việc với khách hàng nước ngoài, hay khi tìm kiếm các nhà cung ứng ở các

quốc gia khác hoặc khi thu nhận các nhân viên từ những nền văn hóa khác nhau.

Page 52: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

52

Các nhà quản lý phải thường xuyên đối mặt với rủi ro mắc phải những sai lầm văn hóa có thể gây

trở ngại. Sự truyền đạt sai lầm có liên quan đến quá trình giao thoa văn hóa có thể làm hỏng các thỏa

thuận làm ăn, làm giảm lượng hàng bán được và làm xấu đi hình ảnh của doanh nghiệp. Ngày nay, việc

phát triển một khả năng nhận thức cũng như một sự nhạy cảm đối với các khác biệt về văn hóa đã trở

thành một nhiệm vụ cấp bách đối với bất cứ nhà quản lí nào.

Kỹ năng thích nghi văn hóa có ý nghĩa then chốt trong việc xây dựng lợi ích cạnh tranh của doanh

nghiệp. Các nhà quản lý không những cần phải thấu hiểu và chấp nhận sự khác nhau giữa các nền văn hóa

mà còn cần phải hiểu biết sâu sắc về niềm tin và các giá trị văn hóa của đối tác nước ngoài. Kỹ năng này

đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong nhiều nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, như:

Phát triển sản phẩm và dịch vụ.

Giao tiếp và trao đổi đối với đối tác kinh doanh nước ngoài.

Xem xét và lựa chọn nhà cung cấp và đối tác nước ngoài

Đàm phán và thiết kế các hợp đồng kinh tế quốc tế.

Giao tiếp với khách hàng hiện tại và tiềm năng ở nước ngoài.

Chuẩn bị các cuộc triển lãm và hội chợ thương mại ở nước ngoài.

Chuẩn bị cho hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại.

Chúng ta có thể thấy được ảnh hưởng của văn hóa đến một số vấn đề của kinh doanh quốc tế như

sau:

Làm việc nhóm (teamwork). Sự hợp tác vì mục tiêu chung của doanh nghiệp rất quan trọng

đối với sự thành công trong kinh doanh. Nhưng ngày nay ngày càng có nhiều nhân viên xuất thân từ các

nền văn hóa khác nhau làm việc trong một công ty. Vậy các nhà quản lý cần làm gì để dung hòa sự khác

biệt văn hóa giữa các thành viên trong và ngoài nước? Huấn luyện kỹ năng thích nghi văn hóa cho nhân

viên? Tập trung các nhóm quanh mục tiêu chung? Đưa ra phần thưởng đặc biệt để khuyến khích sự hợp

tác?

Chế độ tuyển dụng nhân viên: Nhiều công ty châu Á có truyền thống lưu giữ quan hệ kiểu

“gia tộc’ với nhân viên và thường đưa ra chế độ tuyển dụng suốt đời (lifetime employment), theo đó nhân

viên làm việc suốt đời ở một doanh nghiệp. Những nhân viên này sẽ gặp khó khăn khi chuyển sang làm

việc với các công ty phương Tây, nơi người quản lý khuyến khích sự năng động trong sử dụng lao động.

Hệ thống lương thưởng. Trong một vài nước, hiệu quả công việc thường không phải là cơ sở

chính để thăng cấp công nhân. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, tuổi đời mới là nhân tố quyết định hàng đầu

trong việc thăng cấp. Vì vậy, nhân viên sẽ được đãi ngộ dựa trên thâm niên chứ không phải theo kết quả

công việc. Điều này sẽ gây khó khăn khi liên doanh với các công ty nước ngoài, vì phong cách quản lý

phương Tây lại là trả lương theo hiệu quả công việc, nên nhân viên thâm niên cao chưa chắc đã được đãi

ngộ tương xứng.

Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Các công ty châu Á thường có mô hình tổ chức theo kiểu

quản lý tập trung với giám đốc là người nắm quyền quyết định tối cao. Ngược lại. các công ty Bắc Âu lại

khuyến khích trao quyền cho các nhà quản lý cấp dưới, tạo nên cấu trúc phân cấp. Mô hình nào cũng có

ưu nhược điểm riêng. Cấu trúc phân cấp được coi là ít tính quan liêu và năng động hơn. Nhưng ngược lại,

Page 53: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

53

bạn có thể gặp khó khăn khi buộc một nhà ohaan phối thực hiện yêu cầu của công ty mẹ và giao hàng

đúng hạn.

Phong cách lãnh đạo: Phong cách lãnh đạo chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa. Ví dụ, ở các nước

Châu Á, nhân viên thường chờ đợi người quản lý đưa ra những chỉ dẫn chi tiết và chính xác về công việc phải

làm, trong khi đó, người quản lý ở các nước Âu Hoa Kỳ lại đưa ra những chỉ dẫn chung chung và khuyến

khích nhân viên tự tìm cách hoàn thiện. Nếu bạn không thích làm việc với chỉ dẫn tối thiểu hay hoạt động độc

lập, thì bạn gặp khó khăn khi làm việc ở đây.

Ngoài ra môi trường văn hóa còn có nhiều tác động khác đến hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh

nghiệp. Đây cũng được coi là một thách thức lớn đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực sự am hiểu và có ứng xử

phù hợp với văn hóa tại các thị trường đặt hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp nào làm được điều đó thì sẽ có

nhiều thuận lợi để tạo nên thành công trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Và ngược lại, không ít các doanh

nghiệp, thậm chí là các tập đoàn lớn, có thể rất thành công tại thị trường này nhưng lại thất bại tại thị trường

khác chỉ vì các thách thức của môi trường văn hóa quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp cần xác định rõ tầm quan

trọng của việc am hiểu môi trường văn hóa tại các thị trường khác nhau trước khi tiến hành kinh doanh để đảm

bảo tăng khả năng thành công và giảm các rủi ro do môi trường văn hóa mang lại.

2.2.8. Môi trường công nghệ

Đây là một trong những yếu tố vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức đối với doanh nghiệp khi tham

gia vào thị trường kinh doanh nói chung và môi trường kinh doanh quốc tế nói riêng

Những áp lực và thách thức từ môi trường công nghệ có thể là:

(1) Sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh của các sản phẩm thay

thế, đe doạ các sản phẩm truyền thống của ngành hiện hữu.

(2) Sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện hữu bị lỗi thời và tạo ra áp lực đòi hỏi các

doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng cạnh tranh.

(3) Sự ra đời của công nghệ mới càng tạo điều kiện thuận lợi cho những người xâm nhập mới và làm

tăng thêm áp lực đe dọa các doanh nghiệp hiện hữu trong ngành.

(4) Sự bùng nổ của công nghệ mới càng làm cho vòng đời công nghệ có xu hướng rút ngắn lại, điều

này càng làm tăng thêm áp lực phải rút ngắn thời gian khấu hao so với trước.

Những cơ hội có thể đến từ môi trường công nghệ đối với các doanh nghiệp có thể là:

(1) Công nghệ mới có thể tạo điều kiện để sản xuất sản phẩm rẻ hơn với chất lượng cao hơn, làm cho

sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Thường thì các doanh nghiệp đến sau có nhiều ưu thế để tận dụng

được cơ hội này hơn là các doanh nghiệp hiện hữu trong ngành.

(2) Sự ra đời của công nghệ mới có thể làm cho sản phẩm có nhiều tính năng hơn và qua đó có thể tạo

ra những thị trường mới hơn cho các sản phẩm và dịch vụ của công ty.

Page 54: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

54

Page 55: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

55

Page 56: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

56

Chương 3

CHIẾN LƯỢC KINH DOANH QUỐC TẾ VÀ CÁC MÔ HÌNH CẤU TRÚC TỔ CHỨC CỦA DOANH

NGHIỆP KINH DOANH QUỐC TẾ

Mục tiêu của chương

Để giúp doanh nghiệp có định hướng trong hoạt động kinh doanh quốc tế và có thể thành công

trên trường quốc tế, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược hoạt động của mình. Bên cạnh đó, cấu trúc tổ

chức của doanh nghiệp cũng là yếu tố góp phần quyết định tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Vì vậy, xác định và lựa chọn mô hình cấu trúc tổ chức phù hợp và chiến lược kinh doanh

hợp lý là điều cần thiết để giúp doanh nghiệp thành công. Chương 3 giúp người học có những kiến thức

cơ bản về các chiến lược kinh doanh quốc tế điển hình và một số mô hình cấu trúc tổ chức của doanh

nghiệp kinh doanh quốc tế hiện nay.

3.1. Chiến lược kinh doanh quốc tế

3.1.1. Khái niệm về chiến lược kinh doanh quốc tế

3.1.1.1. Chiến lược kinh doanh

Chiến lược (strategy) là thuật ngữ được sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực quân sự. Trong lĩnh vực

quân sự, thuật ngữ chiến lược thường được sử dụng để chỉ các kế hoạch lớn, dài hạn được đưa ra trên cơ

sở tin chắc rằng cái gì đối phương có thể làm và cái gì đối phương không thể làm.

Như vậy, có thể hiểu “chiến lược” là phương hướng và quy mô của một tổ chức trong dài hạn,

chiến lược sẽ mang lại lợi thế cho tổ chức thông qua việc sắp xếp tối ưu các nguồn lực trong một môi

trường cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và kỳ vọng của các nhà góp vốn.

Một chiến lược của doanh nghiệp có thể định nghĩa như các hoạt động mà nhà quản lý thực hiện để đạt

được mục tiêu của doanh nghiệp. Với hầu hết các công ty, mục tiêu đầu tiên đó là tối đa hóa giá trị cho những

người sở hữu doanh nghiệp, các cổ đông. Để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, nhà quản trị cần thực thi các chiến

lược để gia tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp và tốc độ gia tăng lợi nhuận theo thời gian.

3.1.1.2. Chiến lược kinh doanh quốc tế

Chiến lược kinh doanh quốc tế là tập hợp các mục tiêu, chính sách và kế hoạch hoạt động của doanh

nghiệp nhằm đảm bảo sự phát triển quốc tế của doanh nghiệp.

Chiến lược kinh doanh quốc tế là một bộ phận trong chiến lược kinh doanh và phát triển của công

ty, nó bao gồm các mục tiêu dài hạn mà công ty cần phải đạt được thông qua các hoạt động kinh doanh

quốc tế, các chính sách và các giải pháp lớn nhằm đưa hoạt động quốc tế hiện tại của công ty phát triển

lên một trạng thái mới cao hơn về chất.

Điều quan trọng để hình thành một chiến lược tốt là xác định rõ ràng các mục tiêu cần đạt được

của công ty và dự kiến trước xem công ty sẽ đạt được các mục tiêu này như thế nào. Điều đó đòi hỏi công

ty phải tiến hành phân tích các khả năng và thế mạnh của chính nó để xác định cái mà công ty có thể làm

tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Mặt khác đòi hỏi công ty phải đánh giá môi trường kinh doanh quốc gia và

môi trường toàn cầu.

3.1.2. Vai trò của chiến lược kinh doanh quốc tế

Page 57: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

57

Thực tế đã cho thấy rằng có không ít người gia nhập thương trường, thị trường toàn cầu với số

vốn không quá lớn nhưng lại gặt hái được thành công vang dội, đó chính là nhờ có chiến lược kinh doanh

quốc tế đúng đắn. Chiến lược kinh doanh quốc tế như kim chỉ nam, định hướng cho doanh nghiệp từng

bước chinh phục thị trường toàn cầu, đánh bại các đối thủ cạnh tranh. Như vậy có thể thấy rằng chiến

lược kinh doanh quốc tế là một phần không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp khi tham gia thương mại

quốc tế. Vai trò của chiến lược kinh doanh quốc tế đối với doanh nghiệp được thể hiện trên các khía cạnh

sau:

(1) Chiến lược kinh doanh quốc tế giúp cho doanh nghiệp nhận rõ được mục đích, hướng đi của mình trong

tương lai, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp.

(2) Chiến lược kinh doanh quốc tế giúp cho doanh nghiệp nắm bắt và tận dụng các cơ hội kinh doanh, đồng

thời có biện pháp chủ động đối phó với những nguy cơ và mối đe dọa trên thương trường kinh doanh.

(3) Chiến lược kinh doanh quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, tăng cường vị thế của

doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển liên tục và bềnvững.

(4) Chiến lược kinh doanh quốc tế tạo ra các căn cứ vững chắc cho doanh nghiệp đề ra các quyết định phù

hợp với sự biến động của thị trường. Nó tạo ra cơ sở vững chắc cho các hoạt động nghiên cứu và triển

khai, đầu tư phát triển đào tạo bồi dưỡng nhân sự, hoạt động mở rộng thị trường và phát triển sản

phầm. Như vậy, cội nguồn của thành công hay thất bại phụ thuộc vào một trong những yếu tố quan trọng

là doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh như thế nào

(5) Chiến lược kinh doanh quốc tế là công cụ chia sẻ tầm nhìn của lãnh đạo doanh nghiệp đối với các cấp quản lý

trực thuộc có thẩm quyền liên quan. Thông qua bản chiến lược kinh doanh quốc tế, các cấp quản lý trực thuộc có

thể hiểu được, thống nhất được tầm nhìn với lãnh đạo, thông qua đó sẽ có các định hướng kinh doanh phù hợp.

(6) Là cơ sở để xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh, có khả năng tự vận hành

hướng tới các mục tiêu chiến lược đặt ra.

(7) Là nền tảng để xây dựng kế hoạch kinh doanh chi tiết.

3.1.3. Quá trình hình thành chiến lược kinh doanh quốc tế

Quá trình hình thành chiến lược được chia làm 6 bước có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Bước 1: Phân tích môi trường bên ngoài doanh nghiệp:

Mục đích của việc phân tích môi trường bên ngoài là nhằm tìm kiếm cơ hội và phát hiện ra những

thách thức đặt ra cho doanh nghiệp. Môi trường bên ngoài của doanh nghiệp bao gồm môi trường vĩ mô

và môi trường vi mô (môi trường ngành).

a. Môi trường vĩ mô

Môi trường vĩ mô bao gồm các yếu tố nằm bên ngoài tổ chức, định hình và ảnh hưởng đến môi

trường tác nghiệp cũng như hoàn cảnh nội bộ của tổ chức, nó tạo ra cơ hội và nguy cơ đối với tổ chức.

Các nhân tố quan trọng của môi trường vĩ mô là:

Môi trường kinh tế:

Môi trường kinh tế có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp,đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến

sức thu hút của các chiến lược khác nhau. Các nhân tố chủ yếu mà nhiều doanh nghiệp thường phân tích

là tốc độ tăng trưởng củanền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát.

Môi trường công nghệ:

Page 58: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

58

Đây là loại nhân tố có ảnh hưởng lớn, trực tiếp cho chiến lược kinh doanh của các lĩnh vực,

ngành cũng như nhiều doanh nghiệp.

Trình độ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho phép doanh nghiệp chủ động nâng cao chất lượng

sản phẩm, năng suất lao động. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình, tăng

vòng quay của vốn lưu động, tăng lợi nhuận, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh

nghiệp.

* Môi trường văn hóa- xã hội:

Trong thời gian chiến lược trung và dài hạn có thể đây là loại nhân tố thay đổi lớn nhất. Những

lối sống tự thay đổi nhanh chóng theo hướng du nhập những lối sống mới luôn là cơ hội cho nhiều nhà

sản xuất. Doanh nghiệp cũng phải tính đến thái độ tiêu dùng, sự thay đổi của tháp tuổi, tỷ lệ kết hôn và

sinh đẻ, vị trí vai trò của người phụ nữ tại nơi làm việc và gia đình. Sự xuất hiện của Hiệp hội những

người tiêu dùng là một cản trở đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm, đặc biệt là chất lượng sản phẩm

phải đảm bảo vì lợi ích người tiêu dùng. Trình độ dân trí ngày càng cao, đa dạng và sẽ là một thách thức

đối với các nhà sản xuất.

Môi trường tự nhiên:

Các yếu tố tự nhiên có tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp. Các nhà chiến lược khôn ngoan thường có những quan tâm đến môi trường khí hậu và sinh thái.

Đe dọa của những thay đổikhông dự báo được về khí hậu đôi khi đã được các doanh nghiệp mà sản xuất,

dịch vụcủa họ có tính mùa vụ, xem xét một cách cẩn thận để có những phương án phòng tránhvà giảm

thiểu tối đa hậu quả do các yếu tố tự nhiên đem lại.

* Môi trường chính trị- pháp luật:

Các nhân tố chính phủ, luật pháp và chính trị tác động đến doanh nghiệp theo nhiều hướng khác

nhau. Sự ổn định về chính trị, sựnhất quán về quan điểm chính sách lớn luôn là sự hấp dẫn các nhà đầu tư.

Hệ thống luật pháp được xây dựng và hoàn thiện sẽ là cơ sở để kinh doanh ổn định.

b. Môi trường vi mô

Ta sẽ áp dụng mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Michael E. Porter để phân tích cấu trúc ngành

kinh doanh. Theo mô hình này, 5 yếu tố cơ bản tạo thành bối cảnh cạnh tranh của một doanh nghiệp là:

đối thủ cạnh tranh, người mua, người cung cấp, đối thủ tiềm ẩn và sản phẩm thay thế.

Phân tích áp lực cạnh tranh từ đối thủ cạnh tranh

Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở

lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Trong một ngành các yếu tố sẽ làm gia tăng sức ép cạnh

tranh trên các đối thủ là tình trạng ngàn, cấu trúc của ngành và các rào cản rút lui

Phân tích quyền lực thương lượng của khách hàng (người mua)

Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động sản xuất

kinh doanh của ngành, bởi họ có thể gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ

đi kèm và chính họ là người điểu khiển cạnh tranh trong ngành thông qua quyết định mua hàng.

Phân tích quyền lực thương lượng của người cung cấp

Người cung cấp bao gồm các đối tượng: người bán vật tư, thiết bị, cộng đồngtài chính, nguồn lao

động. Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với

Page 59: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

59

ngành, doanh nghiệp. Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh

tranh, ảnh hưởng tới toàn bộhoạt động sản xuất kinh doanh của ngành

Phân tích sự đe dọa của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn

Theo M.Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên trong ngành nhưng có thể ảnh

hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít,áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ

phụ thuộc vào sức hấp dẫn của ngành và những rào cản gia nhập ngành.

Phân tích sự đe dọa của sản phẩm thay thế

Sản phẩm thay thế là các sản phẩm có cùng công dụng như sản phẩm củangành, tức là có khả

năng thoả mãn cùng một nhu cầu của khách hàng.

Như vậy, áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với

các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa là các nhân tố về giá, chất lượng, các yếu tố khác của môi

trường như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế

Bước 2: Phân tích môi trường bên trong

Có hai cách tiếp cận để phân tích môi trường bên trong đó là phân tích chuỗigiá trị và phân tích

các nguồn lực chức năng. Các nguồn lực chức năng chủ yếu trong doanh nghiệp bao gồm: quản trị,

marketing, tài chính-kế toán, sản xuất, nghiên cứu và phát triển, nguồn nhân lực và hệ thống thông tin.

- Quản trị:

Quản trị, thông qua 4 chức năng cơ bản là hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt

động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lựckhác của tổ chức nhằm đạt được

mục tiêu đã đề ra.

- Marketing

Marketing có thể được mô tả như một quá trình xác định, dự báo, thiết lập vàthỏa mãn các nhu cầu

mong muốn của người tiêu dùng đối với sản phẩm hay dịch vụ.Theo Philips Kotler, marketing bao gồm

bốn công việc cơ bản: (1) phân tích khả năng của thị trường; (2) lựa chọn thị trường mục tiêu; (3) soạn

thảo chương trình marketingmix (gồm thành phần cơ bản: sản phẩm, giá, phân phối và chiêu thị); (4) tiến

hành các hoạt động marketing.

- Sản xuất, công nghệ và quản trị chất lượng

Sản xuất -tác nghiệp bao gồm tất cả các hoạt động nhằm biến đổi đầu vào thành hàng hoá và dịch vụ.

Quá trình quản trị sản xuất - tác nghiệp gồm 5 loại chức năng: quy trình, công suất, hàng tồn kho, lực

lượng lao động, chất lượng. Những điểm mạnh và yếu trong 5 chức năng này có thể đồng nghĩa với sự

thành công hay thất bại của tổ chức.

- Nghiên cứu và phát triển (R&D - Research & Development)

Hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm phát triển sản phẩm mới trước đối thủ cạnh tranh, nâng

cao chất lượng sản phẩm, kiểm soát tốt giá thành hay cải tiến quytrình sản xuất để giảm chi phí. Chất

lượng của nỗ lực nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp có thể giúp doanh nghiệp giữ vững vị trí đi đầu

hoặc làm doanh nghiệp tụt hậu so với các đối thủ dẫn đầu trong ngành.

- Nhân sự

Nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng đối với sự thành công của công ty.Cho dù chiến lược có

đúng đắn đến mấy, nó cũng không mang lại hiệu quả nếu khôngcó những con người làm việc hiệu quả.

Page 60: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

60

- Tài chính - kế toán

Điều kiện tài chính thường được xem là phương pháp đánh giá vị trí cạnh tranhtốt nhất của công

ty và là điều kiện thu hút nhất đối với các nhà đầu tư. Các chức năng chính của tài chính - kế toán bao

gồm 3 loại quyết định: quyết định đầu tư, quyết định tài trợ, quyết định về tiền lãi cổ phần.

- Hệ thống thông tin

Hệ thống thông tin là nguồn chiến lược quan trọng vì nó tiếp nhận dữ liệu thô từ cả môi trường

bên ngoài và bên trong của tổ chức, giúp theo dõi các thay đổi củamôi trường, nhận ra những mối đe dọa

trong cạnh tranh và hỗ trợ cho việc thực hiện, đánh giá và kiểm soát chất lượng.

Bước 3: Xác định hoạt động kinh doanh và tầm nhìn của công ty:

Tầm nhìn chiến lược là định hướng cho tương lai, là khát vọng của doanh nghiệp về những điều

mà doanh nghiệp muốn đạt tới.

Tầm nhìn chiến lược của doanh nghiệp về cơ bản là hướng tiếp cận tiên phong đối với lĩnh vực

kinh doanh mà doanh nghiệp đang theo đuổi. Khi hoạch định tầm nhìn chiến lược và phổ biến nó tới các

nhân viên cũng như cộng đồng sẽ giúp các kháchhàng và bản thân doanh nghiệp tin tưởng và hành động

theo những niềm tin đó.Với tầm nhìn chiến lược và bản sắc rõ ràng, doanh nghiệp sẽ có được những bước

đi chắc chắn để đạt đến cái đích mà doanh nghiệp mong muốn.

Bước 4: Xác định mục tiêu và lượng hóa mục tiêu của công ty:

Theo nghĩa chung nhất, tầm nhìn và mục tiêu chiến lược là lời phát biểu rõ rang tham vọng mà

doanh nghiệp theo đuổi. Như vậy, mục tiêu chiến lược là những đích mong muốn đạt tới của doanh

nghiệp. Nó là sự cụ thể hóa mục đích của doanh nghiệp về định hướng, quy mô, cơ cấu và tiến trình triển

khai theo thời gian. Trong nền kinhtế thị trường, nhìn chung các doanh nghiệp theo đuổi ba mục đích chủ

yếu là tồn tại, phát triển và đa dạng hóa.

Mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp bao gồm mục tiêu dài hạn và mục tiêu thường niên. Mục

tiêu dài hạn (3 – 5 năm) nhằm chuyển hóa tầm nhìn và sứ mạng của doanh nghiệp thành các mục tiêu

thực hiện cụ thể, có thể đo lường được. Các mục tiêu dài hạn mà các doanh nghiệp thường hướng tới đó

là mục tiêu về lợi nhuận, vị thế cạnh tranh, hiêu quả kinh doanh, thỏa mãn người lao động, khả năng dẫn

đầu về công nghệ, trách nhiệm xã hội… Còn mục tiêu thường niên là những mốc trung gian mà doanh

nghiệp phải đạt được hàng năm để đạt các mục tiêu dài hạn.

Các nhà quản lý phải luôn xác định những mục tiêu mà họ muốn đạt được trên thị trường toàn

cầu. Những mục tiêu này thường là một hệ thống bao gồm nhiều mục tiêu có mức độ chi tiết khác nhau

và hợp thành một hệ thống mà các nhà quản trị gọi là “cây mục tiêu”. Trong đó, các cấp cao nhất của

công ty thường có các mục tiêu chung nhất, tổng quát nhất. Còn các cấp thấp hơn thì thường xác định

những mục tiêu cụ thể hơn, và nhiều khi những mục tiêu này được cụ thể hóa bằng những con số. Thậm

chí, các mục tiêu sẽ trở nên chính xác hơn tại các cấp, các phòng ban.

Bước 5: HÌnh thành chiến lược:

Qua các phân tích ở các bước trên, chúng ta thấy được những điểm mạnh và những khả năng đặc

biệt của công ty quốc tế cùng với các yếu tố môi trường mà ở đó công ty đang tiến hành hoạt động kinh

doanh. Những hiểu biết đó của công ty có một vai trò cực kỳ to lớn trong việc lựa chọn loại chiến lược

mà công ty áp dụng.

Page 61: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

61

Bước 6: Xây dựng kế hoạch chiến thuật:

Các doanh nghiệp khi quyết định xây dựng kế hoạch chiến lược kinh doanh quốc tế để cạnh tranh

trên thị trường quốc tế sẽ phải đối mặt với hai loại sức ép cạnh tranh có thể ảnh hưởng đến khả năng thu

được lợi ích kinh tế theo địa điểm và hiệu ứng kinh nghiệm, để từ đó quảng bá về sản phẩm và chuyển

giao năng lực và kỹ năng trong nội bộ doanh nghiệp, đó là sức ép về chi phí và sức ép địa phương hoá.

Những sức ép cạnh tranh này mâu thuẫn với mong muốn của doanh nghiệp. Để vượt qua sức ép giảm chi

phí, doanh nghiệp phải cố gắng tối thiểu hóa chi phí sản xuất tính trên đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên để

vượt qua sức ép địa phương hóa, doanh nghiệp cần phải khác biệt hóa sản phẩm, có chiến lược marketing

phù hợp với từng thị trường để phù hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của từng quốc gia, văn hóa kinh

doanh, kênh phân phối, điều kiện cạnh tranh và chính sách của chính phủ. Bởi vì sự khác biệt hóa giữa

các quốc gia có thể lặp đi lặp lại đáng kể và khi không thể sản xuất sản phẩm tiêu chuẩn hóa thì chi phi

sản xuất sẽ tăng lên.

Sức ép giảm chi phí

Trong thị trường cạnh tranh toàn cầu, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thường xuyên đối mặt

với sức ép giảm chi phí. Đối mặt với sức ép giảm chi phí đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn cố gắng giảm

chi phí tạo ra giá trị. Ví dụ như một nhà sản xuất có thể sản xuất một sản phẩm tiêu chuẩn hóa với số

lượng lớn tại một vị trí tối ưu trên thế giới, dù là ở bất cứ đâu, để có được lợi thế kinh tế theo quy mô,

hiệu quả của việc học tập và lợi ích kinh tế theo địa điểm. Ngoài ra, một doanh nghiệp có thể tiến hành

thuê ngoài một số hoạt động từ các nhà cung cấp nước ngoài có chi phí thấp để giảm chi phí của mình.

Theo cách đó, nhiều công ty máy tính đã thuê các công ty ở Ấn Độ đảm nhiệm mảng chăm sóc khách

hàng qua điện thoại cho họ. Đó là nơi có thuê được các kỹ thuật viên có trình độ, nói tiếng Anh với mức

lương thấp hơn so với Mỹ. Cùng cách làm như vậy, nhà bán lẻ như Wal-Mart có thể thuê các nhà cung

cấp (sản xuất) của họ. Việc Wal-Mart đòi hỏi các nhà cung cấp của họ giảm giá hàng nhập vào được coi

là nguyên nhân chính của xu hướng nhiều nhà sản xuất ở Bắc Mỹ đã chuyển cơ sở sản xuất của họ sang

Trung Quốc. Đối với ngành dịch vụ, như với một ngân hàng có thể vượt qua sức ép giảm chi phí bằng

cách chuyển một số nghiệp vụ back-office như xử lý thông tin tới các nước đang phát triển vì tại đó mức

lương họ phải chi trả sẽ thấp hơn.

Sức ép giảm chi phí có thể đặc biệt lớn ở những ngành sản xuất các hàng hóa đặc trưng, khi giá là

công cụ chủ yếu để cạnh tranh, việc tạo ra sự khác biệt hóa với các yếu tố khác là rất khó. Xu hướng này

đúng với trường hợp của những sản phẩm phục vụ nhu cầu toàn xã hội. Nhu cầu của toàn xã hội là những

nhu cầu khi mà thị hiếu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau đều giống nhau. Ví dụ như các sản

phẩm hàng hóa có tính tiêu chuẩn như hóa chất, xăng dầu, thép, đường. Điều này cũng đúng với các hàng

tiêu dùng và các sản phẩm công nghiệp, ví dụ như máy tính cầm tay, chip bán dẫn, máy tính cá nhân, màn

hình tinh thể lỏng.

Sức ép giảm chi phí cũng khá lớn trong những ngành mà phần lớn các đối thủ cạnh tranh có được

những địa điểm chi phí thấp, hoặc những ngành có công suất vượt quá liên tục, hay những ngành mà

khách hàng có quyền chi phối lớn và nếu họ muốn đổi sang sử dụng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh thì

cũng chỉ mất chi phí thấp. Sự tự do hóa thương mại quốc tế và môi trường đầu tư trong các thập kỷ gần

Page 62: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

62

đây ngày càng tạo điều kiện cho sự cạnh tranh quốc tế, cũng tạo ra sức ép về chi phí cho các doanh

nghiệp.

Sức ép địa phương hóa

Sức ép địa phương hóa xuất hiện do sự khác biệt giữa các quốc gia về nhu cầu, thị hiếu của người

tiêu dùng, cơ sở hạ tầng, văn hóa kinh doanh, hệ thống phân phối và yêu cầu của chính phủ. Để vượt qua

sức ép địa phương hóa, một doanh nghiệp cần tạo sự khác biệt hóa cho sản phẩm và chiến lược marketing

theo mỗi quốc gia, nhưng điều này sẽ dẫn đến tăng chi phí của doanh nghiệp. Sức ép địa phương hóa

được biểu hiện trên những khía cạnh sau:

- Sự khác biệt về nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng

Sức ép rất lớn đòi hỏi sự địa phương hóa là do nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ở mỗi

quốc gia khác nhau đáng kể, điều đó là do yếu tố văn hóa và lịch sử tác động. Trong những trường hợp

như vậy, sản phẩm và thông điệp marketing của một công ty đa quốc gia cần phải thay đổi để phù hợp với

nhu cầu và thị hiếu của khách hàng tại địa phương đó. Điều này lại tạo ra trở ngại nếu họ muốn giao phó

hoạt động sản xuất và marketing cho chi nhánh của công ty ở các nước khác.

Ví dụ như ngành sản xuất ô tô những năm 80 và đầu thập kỷ 90 đã có biến chuyển với sự ra đời

của “những chiếc xe hơi của thế giới”. Ý tưởng này có nghĩa là các công ty toàn cầu như GM, Ford và

Toyota có thể bán cùng một loại xe ra khắp thế giới, với việc sản xuất từ những địa điểm sản xuất tập

trung. Nếu như thành công, chiến lược này sẽ giúp cho các công ty sản xuất xe hơi đạt được những thành

tựu đáng kể từ lợi ích kinh tế theo quy mô toàn cầu. Tuy nhiên, chiến lược này thường xuyên gặp trở ngại

từ phía khách hàng. Người tiêu dùng ở mỗi thị trường khác nhau có nhu cầu và thị hiếu khác nhau, do đó

loại xe mà họ mong muốn sử dụng không giống nhau. Người tiêu dùng ở thị trường Bắc Mỹ có nhu cầu

lớn về xe tải nhỏ mui trần. Điều này một phần đúng với khu vực phía Nam và phía Đông do ở đó có rất

nhiều gia đình có chiếc xe thứ hai hoặc thứ ba là xe tải nhỏ mui trần. Nhưng ở các nước châu Âu, loại xe

này chỉ được sử dụng để vận chuyển hàng hóa, và đối tượng khách hàng chủ yếu là các công ty chứ

không phải là khách hàng cá nhân. Như vậy, sản phẩm và thông điệp marketing cần được thay đổi để

thích ứng với sự khác biệt vốn có trong nhu cầu của khách hàng tại Bắc Mỹ và châu Âu.

Một số nhà phê bình cho rằng nhu cầu của khách hàng đòi hỏi sự địa phương hóa thuộc về phần

đi xuống của thế giới. Theo quan điểm này, công nghệ thông tin và giao thông hiện đại có thể tạo điều

kiện để có sự hội tụ nhu cầu và thị hiếu của khách hàng từ các quốc gia khác nhau. Vì vậy, thị trường toàn

cầu có sự bùng nổ của các sản phẩm tiêu chuẩn hóa. Các sản phẩm tiêu chuẩn hóa như hamburger của

McDonald, Coca-Cola, quần áo Gap, điện thoại di động Nokia, PlayStation của Sony được bán khắp thế

giới chính là minh chứng cho sự đồng nhất ngày càng lớn của thị trường toàn cầu.

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quan điểm trên lại không đúng. Thị hiếu và nhu cầu của

người tiêu dùng ở những quốc gia khác nhau và nền văn hóa khác nhau vẫn có sự khác biệt đáng kể. Nhà

quản trị hoạt động kinh doanh quốc tế chưa thể nghĩ đến việc không cần quan tâm đến những khác biệt

đó. Thậm chí trong các ngành hiện đại, như kinh doanh điện thoại di động, sự khác biệt đó có thể thấy

được. Ví dụ như người Mỹ thường coi điện thoại di động chỉ là một thiết bị để đàm thoại chứ không phải

là một thiết bị cũng có thể giúp họ gửi email và duyệt web. Do đó, khi bán sản phẩm tại thị trường Mỹ,

các nhà sản xuất điện thoại di động tập trung vào các sản phẩm thiết kế nhỏ gọn và ít các chức năng, đặc

Page 63: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

63

tính nâng cấp. Điều này hoàn toàn trái ngược với thị trường châu Á và châu Âu vì chức năng nhắn tin và

duyệt web được khách hàng ở các thị trường này sử dụng rất thường xuyên. Văn hóa có thể là nguyên do

cho sự khác biệt này. Người dân ở châu Á và châu Âu thường có nhiều thời gian hơn để vào web từ điện

thoại của họ bởi vì họ tốn thiếu thời gian để đi làm bằng tàu điện, trong khi đó người Mỹ sử dụng phần

lớn thời gian trên ô tô, khi đó họ lái xe nên không thể dùng điện thoại bằng tay được nữa.

- Sự khác biệt về cơ sở hạ tầng và tập quán

Sức ép của địa phương hóa còn xuất phát từ sự khác biệt về cơ sở hạ tầng hay tập quán truyền

thống giữa các nước, do đó yêu cầu cần phải thay đổi sản phẩm cho thích ứng. Để đáp ứng yêu cầu này,

doanh nghiệp cần chuyển hoạt động chế tạo và sản xuất tới các chi nhánh tại nước ngoài. Ví dụ như tại

Bắc Mỹ, đồ điện tử gia dụng sử dụng điện 110V nhưng tại một số nước châu Âu, hệ thống điện tiêu chuẩn

là 240V. Do đó, các thiết bị điện nội địa phải được thiết kế phù hợp với tiêu chuẩn đó. Thực tiễn ở mỗi

nước là khác nhau. Ví dụ tại Anh, xe đi bên trái làn đường, do đó vô lăng phải thiết kế bên ghế phải, trong

khi ở Pháp cũng như các quốc gia khác của châu Âu, xe đi bên phải làn đường, do đó vô lăng phải thiết kế

bên ghế trái. Rõ ràng, các hãng sản xuất xe phải điều chỉnh thiết kế sản phẩm phù hợp với thực tế có tính

truyền thống này.

Mặc dù nhiều điểm khác biệt giữa các quốc gia có nguồn gốc từ lịch sử, nhưng cũng có những

khác biệt chỉ mới xuất hiện. Ví dụ trong ngành viễn thông không dây, mỗi khu vực của thế giới có các

tiêu chuẩn công nghệ khác nhau. Một tiêu chuẩn công nghệ như GSM rất phổ biến ở châu Âu và một tiêu

chuẩn khác là CDMA, lại phổ biến hơn tại Mỹ và một số khu vực của châu Á. Thiết bị thiết kế dùng

mạng GSM sẽ không hoạt động được với mạng CDMA và ngược lại. Do đó các công ty như Nokia,

Motorola, Ericsson là các nhà sản xuất thiết bị cầm tay không dây và các thiết bị như bộ chuyển mạch,

phải thiết kế sản phẩm theo tiêu chuẩn kỹ thuật của từng nước nhất định.

- Sự khác biệt về các kênh phân phối

Chiến lược marketing của một doanh nghiệp có thể sẽ chịu sức ép từ sự khác biệt trong hệ thống

phân phối của từng nước, do đó giao mảng hoạt động marketing cho các chi nhánh tại quốc gia đó là một

việc làm cần thiết. Ví dụ trong ngành dược phẩm,hệ thống phân phối của Nhật và Anh hoàn toàn khác so

với Mỹ. Các bác sĩ Nhật và Anh sẽ không chấp nhận hay ưu tiên cho các chương trình khuyến mãi ồ ạt

theo kiểu của Mỹ. Do đó, các công ty dược phẩm phải áp dụng chiến lược marketing tại Nhật và Anh

khác với tại Mỹ, một chiến lược mềm so với một chiến lược cứng.

Page 64: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

64

- Yêu cầu của chính phủ nước sở tại

Những yêu cầu về mặt chính trị và kinh tế do chính phủ nước sở tại đặt ra cũng có thể là nguyên

do đòi hỏi doanh nghiệp có chiến lược địa phương hóa. Ví dụ như các công ty dược phẩm luôn bị quản lý

về những thử nghiệm lâm sàng, các thủ tục đăng ký và giới hạn về mức giá. Các yếu tố đó đòi hỏi hoạt

động sản xuất và marketing cho một loại thuốc phải đáp ứng các yêu cầu tại khu vực thị trường đó. Do

chính phủ và các cơ quan của chính phủ kiểm soát một phần đáng kể ngân sách dành cho chăm sóc sức

khỏe tại hầu hết các nước, nên họ có vai trò lớn để đòi hỏi các doanh nghiệp phải sản xuất sản phẩm phù

hợp với thị trường.

Khái quát chung hơn, thách thức của việc bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc về kinh tế và các chính sách

riêng của địa phương (ví dụ như yêu cầu một lượng nhất định của sản phẩm phải được sản xuất tại địa

phương đó) đòi hỏi các công ty kinh doanh quốc tế phải đặt hoạt động sản xuất tại ngay chính thị trường

đó. Ví dụ như Bombardier là một hãng của Canada sản xuất đường ray tàu hỏa, máy bay, tàu phản lực và

xe chạy trên tuyết. Bombardier có 12 nhà máy sản xuất đường ray ở châu Âu. Những người chỉ trích cho

rằng việc duy trì các nhà máy sản xuất nhiều như vậy tiêu tốn nhiêu phí tốn, và chính là nguyên nhân vì

sao công ty có lợi nhuận cận biên thấp hơn trong sản xuất đường ray so với các sản phẩm khác. Các nhà

quản trị của công ty đã giải thích rằng tại châu Âu, những chính sách không chính thức để ưu tiên cho địa

phương đó là phải sử dụng nhân công tại chính đó. Vì vậy để bán được đường ray tại Đức, chính phủ Đức

yêu cầu họ phải sản xuất tại Đức. Công ty gặp phải điều tương tự tại Bỉ, Áo và Pháp. Để cố gắng khắc

phục khó khăn về vấn đề chi phí sản xuất tại châu Âu, Bombardier đã tập trung hóa hoạt động cơ khí và

thu mua, nhưng họ không hề có kế hoạch nào để tập trung hóa hoạt động sản xuất.

Sức ép đòi hỏi địa phương hóa kéo theo việc doanh nghiệp có thể sẽ không thể đạt được mọi lợi

ích từ tính kinh tế theo quy mô, các hiệu ứng bài học và tính kinh tế theo địa điểm. Doanh nghiệp không

thể phục vụ thị trường toàn cầu từ một địa điểm chi phí thấp duy nhất, sản xuất sản phẩm tiêu chuẩn hóa

toàn cầu và marketing sản phẩm đó ra toàn thế giới để giảm được chi phí, gắn liền với hiệu quả kinh

nghiệm. Sự đòi hỏi phải khác biệt hóa sản phẩm cho thích ứng với điều kiện của thị trường sở tại có thể

gây ra cản trở cho doanh nghiệp khi họ thực hiện chiến lược trên. Ví dụ như các hãng sản xuất ô tô đã

nhận ra rằng nhu cầu về xe hơi của khách hàng Nhật Bản, Mỹ và châu Âu là khác nhau, do đó việc thiết

kế sản phẩm phù hợp với từng thị trường là rất cần thiết. Do đó, các hãng Honda, Ford và Toyota đang

thực hiện chiến lược thiết lập hoạt động thiết kế và sản xuất từ đầu đến cuối tại mỗi khu vực này, để đảm

bảo rằng họ có thể đáp ứng nhu cầu của từng khu vực tốt hơn. Mặc dù những chính sách địa phương hóa

như vậy mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, khả năng một doanh nghiệp đạt được lợi ích kinh tế theo quy

mô và theo địa điểm vẫn sẽ bị hạn chế.

Ngoài ra, sức ép địa phương hóa khiến cho việc chuyển giao các kỹ năng và sản phẩm gắn liền

với năng lực cốt lõi của doanh nghiệp từ chi nhánh một nước sang một nước khác có thể sẽ không thể tiến

hành được. Việc chuyển giao này thường phải thay đổi để phù hợp với điều kiện tại thị trường khu vực

đó.. Mặc dù được coi là hình mẫu cho sự phát triển mạnh mẽ các sản phẩm tiêu chuẩn hóa toàn cầu,

McDonald vẫn nhận thấy rằng họ cần địa phương hóa sản phẩm (ví dụ như thực đơn) để phù hợp với nhu

cầu và thị hiếu ăn uống ở từng quốc gia.

Page 65: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

65

Dưới đây là sơ đồ thể hiện quá trình hình thành chiến lược bao gồm các bước như được giới thiệu

ở trên.

Page 66: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

66

Phân tích môi trường

bên ngoài

Phân tích môi trường

bên trong

Xác định hoạt động kinh doanh

và tầm nhìn của công ty

Có phải

điều chỉnh?

Xác định mục tiêu của

công ty

Lượng hóa mục tiêu

Có phải điều chỉnh hay bổ

sung những mục tiêu và

những mục tiêu lượng hóa

Hình thành chiến lược

Có phải điều chỉnh những

mục tiêu hay tầm nhìn của

công ty

Xây dựng kế hoạch

chiến thuật

yes

No

O

No

O

No

O

yes

yes

Page 67: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

67

3.1.4. Phân loại chiến lược kinh doanh quốc tế

Các công ty sử dụng 4 chiến lược cơ bản để cạnh tranh trong môi trường quốc tế: chiến

lược quốc tế (international strategy), chiến lược đa nội địa/ chiến lược đa quốc gia (multidomestic

strategy/ multinational), chiến lược toàn cầu (global stategy) và chiến lược xuyên quốc gia (transnational

strategy). Mỗi một chiến lược đều có những ưu và nhược điểm. Mỗi một chiến lược sẽ có một sự thích

nghi khác nhau đối với các sức ép giảm chi phí và địa phương hóa như đã đề cập đến ở trên.

1. Chiến lược quốc tế

Các công ty theo đuổi chiến lược quốc tế sẽ cố gắng tạo ra giá trị bằng cách đưa các kỹ năng giá

trị và các sản phẩm đến thị trường nước ngoài, nơi mà các nhà cạnh tranh bản địa thiếu những kỹ năng và

sản phẩm này. Rất nhiều doanh nghiệp đã thực hiện chiến lược quốc tế, bằng cách đưa sản phẩm được

sản xuất tại thị trường nội địa bán ra thị trường quốc tế chỉ với sự điều chỉnh nhỏ cho phù hợp với thị

trường địa phương. Điều khác biệt của các công ty này đó là họ kinh doanh một sản phẩm phục vụ nhu

cầu toàn thế giới, nhưng họ không gặp phải các đối thủ cạnh tranh lớn, do đó, không giống với các công

ty thực thi chiến lược tiêu chuẩn hóa toàn cầu, họ không phải đối mặt với sức ép giảm chi phí. Ví dụ như

Xerox đã tìm được vị trí này vào nhưng năm 60 sau sự phát minh và thương mại hóa sản phẩm máy

photocopy. Công nghệ để sản xuất ra sản phẩm này được họ đăng ký bằng phát minh sáng chế rất chặt

chẽ, do đó trong một vài năm, Xerox đã không hề có đối thủ nào cạnh tranh được, họ là người độc quyền.

Sản phẩm này cung cấp ra toàn cầu, và có giá trị rất cao đối với các quốc gia phát triển. Do đó, Xerox có

thể bán một sản phẩm giống nhau ra toàn thế giới với mức giá tương đối cao. Do họ không gặp phải đối

thủ cạnh tranh nào, nên họ không hề phải đối mặt với sức ép tối thiểu hóa chi phí.

Các doanh nghiệp thực thi chiến lược quốc tế thường có quá trình phát triển giống nhau khi họ

mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài. Họ có xu hướng tập trung hóa hoạt động phát triển sản phẩm

như hoạt động nghiên cứu và phát triển tại nước sở tại. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất và marketing

thường được đặt tại mỗi quốc gia hay khu vực mà họ kinh doanh. Sự trùng lặp các hoạt động có thể dẫn

đến tăng chi phí, nhưng đó sẽ chỉ là vấn đề nhỏ nếu như công ty không gặp phải sức ép giảm chi phí quá

lớn. Mặc dù họ có thể tạo ra một số đặc điểm khác biệt hóa sản phẩm và chiến lược marketing cho phù

hợp với thị trường địa phương, nhưng trong định hướng của họ, họ cố gắng hạn chế điều này. Cuối cùng,

hầu hết các công ty áp dụng chiến lược quốc tế, trụ sở chính thường giữ sự kiểm soát tương đối chặt với

chiến lược marketing và sản xuất.

Các công ty đã thực hiện chiến lược này có thể kể ra là P&G và Microsoft. Ban đầu, P&G đã đặt

mảng phát triển sản phẩm mới tại Cincinnati và sau đó đưa sản phẩm bán ra thị trường khu vực. Tương

tự, việc phát triển sản phẩm của Microsoft được tiến hành tại Redmond, Washington, nơi đặt trụ sở chính

của công ty. Mặc dù họ đã điều chỉnh một số đặc tính cho phù hợp với thị trường địa phương, các sản

phẩm phần mềm phổ biến của Microsoft rất ít khi được thiết kế với phiên bản ngôn ngữ nước ngoài.

Ưu điểm

Công ty đã chuyển giao các lợi thế của mình ra thị trường nước ngoài. Nghĩa là, công ty thành lập

các nhà xưởng sản xuất, hình thức quảng cáo, thông điệp sản phẩm ở các thị trường ngoài nước giống như

Page 68: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

68

các mô hình sản xuất, marketing trong nước. Tận dụng các kinh nghiệm sản xuất trước đó và ưu thế vè

sản phẩm, kỹ năng để cạnh tranh trên thị trường.

Nhược điểm

- Do sử dụng cùng mô hình nên sản phẩm của công ty ở các thị trường giống nhau, cách thức tiếp

thị cũng như nhau vì vậy sản phẩm của công ty đáp ứng được những yêu cầu chung nhất của người tiêu

dùng trên tất cả thị trường chứ chưa thể đáp ứng được những yêu cầu riêng biệt của từng khu vực. Hay

thực hiện chiến lược này công ty thiếu đáp ứng yêu cầu địa phương.

- Hơn nữa, thay vì đưa các sản phẩm được sản xuất trong nước ra thị trường nước ngoài. Công ty

lại thành lập các nhà xưởng để sản xuất các sản phẩm đó ở ngoài nước nên không thể tận dụng được hiệu

ứng kinh nghiệm và tiết kiệm chi phí.

- Nếu công ty thực hiện chiến lược quốc tế ở những thị trường có áp lực yêu cầu địa phương cao

thì công ty sẽ dễ dàng đánh mất lợi thế cạnh tranh của mình. Do có các đối thủ cạnh tranh sản xuất sản

phẩm tập trung vào những yêu cầu khác biệt ở từng địa phương và thực hiện các chiến lược marketing,

phân phối, chiêu thị,.. theo những yêu cầu riêng biệt đó.

Điều kiện áp dụng

Từ khái niệm và những ưu nhược điểm của chiến lược quốc tế chúng ta có thể khái quát những điều

kiện cần thiết để công ty thực hiện chiến lược này bao gồm:

- Một là, công ty có tiềm lực tài chính vững mạnh để có thể xây dựng lại toàn bộ hệ thông sản xuất

và hệ thống phân phối ở các thị trường ngoài nước. Đồng thời cũng tạo điều kiện để công ty tồn tại và đối

phó với các đối thủ cạnh tranh khi họ có những hành động làm ảnh hưởng tới công ty như: giảm giá,

khuyến mại,...

- Hai là, công ty có khả năng tạo ra sự khác biệt về kỹ năng, sản phẩm mà các đối thủ nội địa khó

đáp ứng. Do công ty cung cấp các sản phẩm giống nhau trên tất cả thị trường của mình nên sản phẩm của

công ty phải có những ưu thế hơn hẳn so với các đối thủ trong nước thì mới có thể cạnh tranh được.

- Ba là, công ty hoạt động trong lĩnh vực có sức ép giảm giá thấp. Chiến lược quốc tế đòi hỏi

nguồn kinh phí khá cao, chi phí sản xuất sản phẩm gần như được cố định bởi chi phí đầu tư cho các trang

thiết bị sản xuất lúc ban đầu nên rất khó để giảm giá thành. Vì vậy nếu thị trường yêu cầu giảm giá mạnh

thì công ty không thể đáp ứng và dễ dàng bị đào thải khỏi thị trường.

- Bốn là, sức ép yêu cầu đáp ứng địa phương thấp. Sản phẩm và các hoạt động chiêu thị ở các thị

trường là như nhau do vậy các sản phẩm chỉ đáp ứng những nhu cầu tương đồng của các khách hàng khác

nhau ở những nơi khác nhau. Chiến lược không đáp ứng được hết các yêu cầu của từng địa phương.

Tóm lại, chiến lược quốc tế chỉ thích hợp với những công ty có khả năng tạo ra sự khác biệt với đối

thủ về kỹ năng hay sản phẩm. Đồng thời công ty đó phải hoạt động trong lĩnh vực có sức ép giảm chi phí

và yêu cầu đáp ứng nhu cầu địa phương thấp.

2. Chiến lược toàn cầu

Là chiến lược tung ra các sản phẩm giống nhau và sử dụng cùng một chiến lược marketing ở tất

cả các thị trường quốc gia.

Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược tiêu chuẩn hóa toàn cầu tập trung vào việc tăng khả năng

sinh lời và tốc độ tăng trưởng lợi nhuận bằng cách giảm chi phí. Điều này có được nhờ lợi ích kinh tế theo

Page 69: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

69

quy mô, hiệu quả của việc học tập và lợi ích kinh tế theo địa điểm. Mục tiêu chiến lược của họ là nhằm

thực hiện chiến lược chi phí thấp trên quy mô toàn cầu. Khi đó, hoạt động sản xuất, marketing, nghiên

cứu và phát triển sẽ được đặt tại một số địa điểm thuận lợi. Với chiến lược tiêu chuẩn hóa toàn cầu, doanh

nghiệp sẽ không tạo ra sản phẩm khác biệt hóa hoặc chiến lược marketing phù hợp với thị trường địa

phương đó bởi vì khác biệt hóa nghĩa là vòng đời của sản phẩm ngắn và sự lặp lại các chức năng, do đó

chi phí sẽ tăng lên. Thay vào đó, họ bán các sản phẩm tiêu chuẩn hóa toàn cầu để có thể tối đa hóa lợi

nhuận từ tính kinh tế theo quy mô và hiệu quả từ việc học tập. Họ cũng sử dụng lợi thế chi phí để cạnh

tranh giá với đối thủ của họ trên thị trường toàn cầu.

Ưu điểm:

Chiến lược này phù hợp nhất khi sức ép về giảm chi phí cao và sức ép về địa phương hóa thấp.

Hơn nữa, chiến lược này chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất hàng công nghiệp bởi vì sản phẩm trong

những ngành này phục vụ nhu cầu toàn cầu. Ví dụ ngành công nghiệp bán dẫn có tiêu chuẩn toàn cầu, do

đó sản phẩm đòi hỏi phải được tiêu chuẩn hóa toàn cầu. Theo đó, những công ty như Intel, Texas

Instruments và Motorola đều thực hiện chiến lược tiêu chuẩn hóa toàn cầu.

Nhược điểm:

Nhược điểm của chiến lược này là các sản phẩm ra đời sẽ thiếu sức đáp ứng nhu cầu địa phương

hay nói cách khác, chiến lược này chỉ phat shuy tác dụng khi sức ép về địa phương hóa thấp. Như vây,

với các sản phẩm hàng tiêu dùng, chiến lược này không phù hợp bởi vì các sản phẩm đó đòi hỏi sự địa

phương hóa rất cao.

Điều kiện áp dụng:

Một là, để thực hiện chiến lược toàn cầu trước hết cần phải căn cứ vào những yếu tố nội bộ của

doanh nghiệp như: đủ tiềm lực về tài chính, nguồn nhân lực có chuyên môn cao, trình độ quản lý chuyên

nghiệp, có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế như am hiểu về văn hóa, pháp luật và chính trị của quốc gia sẽ

kinh doanh.

Hai là, dựa vào đặc tính của sản phẩm. Với chiến lược toàn cầu, các sản phẩm của công ty tại mỗi thị

trường là như nhau, nghĩa là với cùng một loại sản phẩm sẽ được công ty đưa đến toàn bộ các thị trường trong và

ngoài nước mà sự thay đổi về hình dáng, mẫu mã, chất lượng,... là không đáng kể thậm chí là không có. Nói đúng

hơn là nhu cầu về một loại sản phẩm của các khách hàng ở mỗi thị trường không có sự khác biệt nhiều. Tóm lại,

chiến lược toàn cầu sẽ khả thi khi áp lực về đòi hỏi đáp ứng địa phương thấp.

Ba là, Sức ép giảm chi phí cao. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh tốn khá nhiều chi phí thì hoạt

động theo chiến lược toàn cầu sẽ giúp tiết kiệm chi phí rất nhiều. Sản phẩm được kinh doanh ở các thị

trường là như nhau, do đó, doanh nghiệp san sẻ khối lượng sản phẩm giữa cácthị trường dễ dàng. Sản

phẩm được sản xuất ở thị trường này vẫn được bán ở thị trường khác một cách thuận lợi. Các doanh

nghiệp không cần phải đặt nhà máy sản xuất ở tất cả các thị trường.

Hơn thế nữa, với lợi thế về chi phí thấp chiến lược này sẽ giúp các công ty dễ dàng tấn công vào

thị trường quốc tế, nhất là khi trên thế giới quan tâm đến vấn đề tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, chiến lược

toàn cầu hóa sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn khi lĩnh vực kinh doanh của công ty nằm trong chính sách

khuyến khích kinh doanh của các quốc gia mà công ty nhắm đến. Sản phẩm được đưa đến các nước này

là sản phẩm vốn có của doanh nghiệp, chúng không những không gặp nhiều rào cản thương mại mà còn

Page 70: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

70

nhận được sự ưu ái của chính phủ các nước này. Đồng thời, cũng không chịu nhiều sự chống đối của các

tổ chức và người dân của quốc gia đó.

Nói chung, để thực hiện chiến lược toàn cầu doanh nghiệp cần quan sát, nghiên cứu kỹ về tình

hình của chính doanh nghiệp, sản phẩm kinh doanh, tình hình thế giới cũng như tình hình kinh doanh,

điều kiện kinh doanh ở nước ngoài.

3. Chiến lược đa nội địa

Chiến lược đa quốc gia có mục tiêu tăng khả năng sinh lời bằng cách khác biệt hóa sản phẩm,

dịch vụ của doanh nghiệp cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu khác nhau của từng quốc gia. Chiến lược

này phù hợp nhất khi có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia về nhu cầu và thị hiếu của khách hàng, và

khi sức ép về giảm chi phí không quá lớn. Bằng cách khác biệt hóa sản phẩm theo nhu cầu địa phương,

các doanh nghiệp có thể tăng giá trị cảm nhận của sản phẩm tại thị trường địa phương đó. Tuy nhiên,

chiến lược này sẽ khiến doanh nghiệp phải thực hiện một số hoạt động lặp đi lặp lại, vòng đời sản phẩm

ngắn do đó rất khó để đạt được mục tiêu chi phí giảm. Chiến lược này sẽ có ý nghĩa nếu như những giá trị

tăng lên nhờ vào việc sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu của từng thị trường giúp doanh nghiệp định giá

sản phẩm cao hơn, từ đó có thể bù lại phần chi phí sản xuất cao, hoặc sản phẩm đó có được nhu tiêu thụ

lớn đáng kể thì doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí nhờ vào tính kinh tế theo quy mô tại thị trường địa

phương đó.

MTV là một ví dụ điển hình đã áp dụng chiến lược đa quốc gia. Ra đời năm 1981, mạng truyền

hình âm nhạc của Mỹ đã mở rộng ra ngoài Bắc Mỹ từ năm 1987 khi thành lập MTV châu Âu. Hiện nay,

được sở hữu bởi tập đoàn truyền thông Viacom, MTV Networks bao gồm chương trình Nickelodeon và

VH1, kênh âm nhạc cho thế hệ trẻ có doanh thu hơn 1 tỷ USD cho hoạt động bên ngoài nước Mỹ. Từ năm

1987, MTV đã trở thành chương trình truyền hình có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Đến năm 2004,

MTV có 72 kênh, đến với tổng số 321 triệu hộ gia đình tại 140 quốc gia. Mặc dù đã thành công trong hoạt

động kinh doanh quốc tế nhưng sự mở rộng toàn cầu của MTV cũng đã có những bước đầu khó khăn.

Năm 1987, MTV đã phát sóng một chương trình cho toàn châu Âu, biên soạn từ một chương trình của

Mỹ với giọng dẫn tiếng Anh. Các nhà quản trị người Mỹ của mạng lưới này nghĩ rằng người châu Âu sẽ

lũ lượt kéo đến để xem một chương trình của Mỹ. Nhưng khán giả ở châu Âu chỉ có cùng mối quan tâm

với một số ngôi sao âm nhạc nổi tiếng toàn thế giới như Madonna và Michael Jackson tại thời điểm đó,

còn lại sở thích của họ lại phân chia theo khu vực một cách đáng ngạc nghiên. Những gì nổi tiếng ở Đức

sẽ không phổ biến ở Anh. Rất nhiều sản phẩm âm nhạc tiêu thụ mạnh tại Mỹ lại rất ế ẩm tại châu Âu.

MTV đã phải đối mặt với điều đó. Ngay lập tức, các hãng in sao sản phẩm âm nhạc tại các nước châu Âu

đã đứng lên bằng cách tập trung vào thị trường âm nhạc của từng quốc gia. Vào năm 1995, MTV đã thay

đổi chiến lược và thâm nhập thị trường châu Âu với những chương trình riêng cho từng khu vực, đến nay

họ có 8 chương trình: một tại Anh và Ai len, mộttại Đức, Áo, Thụy Sĩ, một chương trình cho các nước

Scandinavia, một tại Ý, một tại Pháp, một tại Tây Ban Nha, một tại Hà Lan và một cho các nước châu Âu

khác bao gồm Bỉ và Hy Lạp. Họ đã áp dụng chiến lược địa phương hóa ở mọi nơi trên thế giới. Ví dụ tại

châu Á, họ có kênh phát sóng bằng tiếng Anh Hindi cho người Ấn Độ, chương trình tiếng Trung riêng

dành cho Trung Quốc và Đài Loan, chương trình tiếng Hàn cho Hàn Quốc, tiếng Bahasa cho người

Indonesia, tiếng Nhật tại Nhật Bản, vv. Công nghệ kỹ thuật số và vệ tinh đã giúp việc địa phương hóa các

Page 71: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

71

chương trình dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn. MTV Networks có thể phát sóng hàng tá chương trình qua

một băng tần vệ tinh. Sự đẩy mạnh chiến lược địa phương hóa đã mang lại những lợi ích to lớn giúp MTV

lấy lại được khách hàng của mình từ các hãng sao chép đĩa tại thị trường địa phương. Ở Ấn Độ, tốc độ

tăng lên đạt hơn 200% từ năm 1996 là thời điểm chiến lược địa phương hóa được đẩy mạnh đến năm

2000. Chiến lược địa phương hóa đã giúp MTV thu được lợi nhuận lớn hơn từ các hợp đồng quảng cáo,

thậm chí là từ những tập đoàn đa quốc gia như Coca-Cola, hãng có nguồn kinh phí riêng dành cho quảng

cáo, rất chú trọng đến vấn đề địa phương hóa. Tại châu Âu, lợi nhuận thu được từ hoạt động quảng cáo

của MTV tăng lên 50% chỉ từ năm 1995 đến năm 2000. Khi toàn bộ thị trường quảng cáo ngoài châu Âu

có giá trị chỉ đạt 200 triệu USD thì tổng thị trường quảng cáo địa phương của châu Âu lớn hơn rất nhiều,

giá trị đến 12 tỉ USD. Hiện nay, MTV chiếm đến 70% lợi nhuận quảng cáo của châu Âu từ các hợp đồng

quảng cáo theo từng thị trường, trong khi năm 1995 chỉ là 15%.

Qua ví dụ trên có thể thấy rằng, nếu như MTV không khác biệt hóa các chương trình của họ để

phù hợp với nhu cầu của khán giả ở từng nước, họ sẽ bị mất thị phần vào tay đối thủ cạnh tranh, doanh

thu từ hoạt động quảng cáo sẽ giảm xuống và do đó khả năng sinh lời cũng bị giảm. Do đó, kể cả tiêu tốn

nhiều chi phí, chiến lược đa quốc gia vẫn hết sức cần thiết đối với MTV.

Các công ty thực hiện chiến lược đa quốc gia vẫn cần sự hiệu quả, và bất cứ khi nào có thể, họ

đều muốn đạt lợi ích kinh tế theo quy mô. Như đã đề cập trước đó, rất nhiều hãng sản xuất ô tô nhận thấy

rằng họ phải sản xuất sản phẩm khác biệt hóa theo từng thị trường, ví dụ như sản xuất xe tải nâng hàng cỡ

lớn cho khách hàng tại Mỹ và xe tiết kiệm nhiên liệu cho khách hàng tại Nhật và châu Âu. Vào thời điểm

đó, nhiều công ty đa quốc gia cố gắng để đạt được một số lợi ích kinh tế theo quy mô bằng cách sử dụng

khung xe và các bộ phận giống nhau cho các mẫu xe khác nhau và sản xuất tại các nhà máy được đặt tại

vị trí tối ưu để sản xuất quy mô lớn và có hiệu quả. Khi thiết kế sản phẩm theo cách đó, các công ty này

vẫn có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường địa phương, mặt khác vẫn đạt được lợi ích kinh tế theo quy mô,

hiệu quả từ việc học tập và lợi ích kinh tế theo địa điểm ở mức nhất định.

Ưu điểm

Ưu điểm chủ yếu của chiến lược đa quốc gia là đáp ứng được yêu cầu địa phương. Chiến lược này cho phép

các công ty nghiên cứu kỹ sở thích của người tiêu dùng ở thị trường các quốc gia khác nhau, đáp ứng nhanh

chóng và có hiệu quả các sở thích mới của người tiêu dùng. Kết quả mà các công ty mong đợi khi đưa ra

những sản phẩm mới là người tiêu dùng sẽ nhận biết được giá trị cao hơn so với sản phẩm của đối thủ cạnh

tranh, cho phép công ty theo chiến lược đa nội địa được định giá cao hơn và giành được thị phần lớn hơn.

Chiến lược đa quốc gia hợp lý khi có sức ép cao về phản ứng địa phương và sức ép thấp về giảm chi phí.

Nhược điểm:

Nhược điểm của chiến lược đa quốc gia là không cho phép các công ty khai thác lợi ích kinh tế

của qui mô trong việc phát triển, sản xuất hay marketing sản phẩm. Như vậy, thông thường một chiến

lược đa quốc gia làm tăng chi phí cho các công ty quốc tế và buộc các công ty này phải định giá bán cao

hơn để thu hồi những chi phí đó. Do đó, chiến lược đa quốc gia thường không thích hợp với các ngành mà

công cụ cạnh tranh bằng giá cả, quyết định thực hiện chiến lược này, định hướng chủ yếu của các công ty

là đáp ứng các điều kiện môi trường của từng quốc gia thị trường, vì vậy công ty khó có thể xây dựng tốt

Page 72: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

72

và rõ ràng các khả năng và các năng lực tiềm tàng xuyên suốt nhằm tạo lợi thế cạnh tranh vượt trội so với

các đối thủ cạnh tranh quốc tế hay toàn cầu và các công ty địa phương của các công ty chủ nhà.

* Điều kiện áp dụng:

- Sự khác biệt về văn hóa và xã hội đòi hỏi phải có những thay đổi trong chiến thuật. Các chính

quyền của các nước trên thế giới cũng thường đòi hỏi rằng các hành động của các công ty là phải phù hợp

với lợi ích của nước sở tại.

- Khi công nghiệp hóa phát triển, các nhà cạnh tranh nội địa tranh giành trong việc phục vụ từng phân

khúc thị trường nhỏ, điều này ép công ty phải thích ứng với nó. Với một nhà cung ứng địa phương có khả

năng tạo ra sản phẩm đơn chiếc phù hợp với nhu cầu cụ thể, khách hàng sẽ không còn bị ép buộc phải chấp

nhận các sản phẩm được thiết kế cho quốc gia khác. Việc phân phối và bán hàng là hai yếu tố cần được

thích nghi với mỗi nước. Mặc dù tên nhãn và việc quảng cáo có thể giống nhau ở các nước nhưng sự phân

phối và tổ chức bán hàng không thể tiêu chuẩn hóa được vì việc tiết kiệm do quy mô thì chẳng bao nhiêu mà

để cho thích hợp thì có nhiều vấn đề.

- Khó khăn trong việc tiêu chuẩn hóa bởi vì những khác biệt giữa các quốc gia và bởi vì tiềm năng

có do tiết kiệm quy mô là rất ít. Ngay việc dùng một cái tên chung cũng có nhiều bất tiện vì sự liên kết về

ngôn ngữ mỗi nơi mỗi khác. Ví dụ xe tải của Ford hiện là Fiera lại có nghĩa là “bà già xấu xí” ở những

nước nói tiếng Tây Ban Nha. Một nhãn hiệu mang tính địa phương có thể kích thích sự tự hào, có thể kết

nối với những truyền thông hay đặc điểm của địa phương. Còn một tên nhãn mang tính toàn cầu có thể có

ý nghĩa xấu ở một số địa phương hoặc có thể liên kết vào chính trị của một nước và do đó cũng thăng

trầm theo những biến cố quốc tế.

4. Chiến lược xuyên quốc gia

Chiến lược xuyên quốc gia (địa phương hóa) thích hợp nhất khi có sự đòi hỏi cao phải khác biệt

hóa theo địa phương nhưng sức ép giảm chi phí chỉ ở mức thấp hoặc vừa phải. Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy

ra khi doanh nghiệp phải đối mặt đồng thời với việc sức ép giảm chi phí và sức ép địa phương hóa đều

cao? Câu trả lời là chiến lược xuyên quốc gia sẽ được lựa chọn. Các nhà quản trị áp dụng chiến lược này

để cân bằng giữa sự đối lập và không nhất quán giữa các sức ép đó.

Có thể nói, chiến lược xuyên quốc gia là chiến lược kết hợp giữa chiến lược đa quốc gia và chiến

lược toàn cầu.

Trong bối cảnh toàn cầu ngày nay, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, do đó để tồn tại, doanh

nghiệp phải làm tất cả để có thể vượt qua sức ép giảm chi phí và thích ứng với thị trường địa phương. Họ

phải cố gắng để đạt được lợi ích kinh tế theo địa điểm và hiệu quả kinh nghiệm, bán sản phẩm ra toàn

cầu, chuyển giao các năng lực và kỹ năng cốt lõi trong nội bộ doanh nghiệp và đồng thời chú trọng đến

những áp lực đòi hỏi khác biệt hóa theo thị trường địa phương. Trong công ty xuyên quốc gia hiện tại,

năng lực và kỹ năng cốt lõi không chỉ thuộc về trụ sở chính mà có thể phát triển ở bất cứ chi nhánh nào

của công ty trên thế giới. Theo đó, dòng luân chuyển kỹ năng và sản phẩm bán ra không chỉ diễn ra một

chiều, từ nước sở tại tới các chi nhánh nước ngoài, mà còn có thể từ các chi nhánh nước ngoài tới nước sở

tại và giữa các chi nhánh với nhau. Nói một cách khác, các công ty xuyên quốc gia phải chú trọng vào

việc chuyển giao các kỹ năng của các chi nhánh.

Page 73: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

73

Về cơ bản, các doanh nghiệp áp dụng chiến lược xuyên quốc gia luôn cố gắng đồng thời đạt được

mức chi phí thấp thông qua lợi ích kinh tế theo địa điểm, lợi ích kinh tế theo quy mô, hiệu quả của học

tập, sự khác biệt hóa sản phẩm phù hợp với thị trường địa phương; và thúc đẩy dòng chuyển giao kỹ năng

đa chiều giữa các chi nhánh khác nhau trong mạng lưới hoạt động kinh doanh toàn cầu của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, không như lý thuyết, trên thực tế, chiến lược này không dễ dàng thực hiện được vì đưa ra

những đòi hòi trái ngược nhau đối với doanh nghiệp. Sự khác biệt hóa sản phẩm để phù hợp với nhu cầu

của thị trường từng khu vực sẽ dẫn đến tăng chi phí, điều đó đi ngược lại mục tiêu giảm chi phí của doanh

nghiệp. Các công ty như Ford và ABB (một trong những tập đoàn kỹ thuật lớn nhất thế giới) đã cố gắng

đi theo chiến lược xuyên quốc gia nhưng gặp rất nhiều khó khăn.

Câu hỏi làm thế nào để thực hiện chiến lược xuyên quốc gia là một trong những câu hỏi phức tạp

nhất mà các công ty đa quốc gia lớn đều đang đau đầu. Chỉ một số ít các công ty đã thực hiện thành công

chiến lược này, giúp chúng ta rút ra một số bí quyết để cho hướng đi đúng trong trường hợp này. Một ví

dụ đó là trường hợp của Caterpillar. Sự đòi hỏi phải cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh có chi phí thấp

như Komatsu của Nhật khiến Caterpillar phải tìm cách đạt được lợi ích chi phí lớn hơn. Tuy nhiên, sự

khác nhau trong thực tế kinh doanh và quy định của chính phủ các nước khiến Caterpillar phải thay đổi

sao cho thích ứng với nhu cầu của thị trường nước đó. Do đó, Caterpillar đối mặt với áp lực lớn trong cả

việc giảm chi phí lẫn thích ứng với thị trường địa phương.

Để vượt qua sức ép giảm chi phí, Caterpillar đã thiết kế lại sản phẩm sao cho có thể sử dụng

nhiều bộ phận giống nhau với các sản phẩm khác nhau và đầu tư xây dựng một số nhà máy sản xuất các

bộ phận của sản phẩm với quy mô lớn, đặt tại các địa điểm thuận lợi để đáp ứng thị trường toàn cầu và

đạt được lợi ích kinh tế theo quy mô. Cùng lúc đó, công ty đã gia tăng việc tập trung hóa bước sản xuất

các bộ phận với các nhà máy lắp ráp ở các thị trường chính. Tại các nhà máy này, Caterpillar bổ sung các

đặc điểm để sản phẩm cuối cùng phù hợp với thị trường địa phương. Do đó, Caterpillar có thể đạt được

nhiều lợi ích từ việc sản xuất toàn cầu trong khi đó vẫn vượt qua được sức ép khác biệt hóa sản phẩm phù

hợp với thị trường địa phương. Caterpillar bắt đầu áp dụng chiến lược này vào năm 1979 và đến năm

1997 họ đã thành công với mức sản lượng gấp đôi tính trung bình trên một nhân viên, giảm đuợc đáng kể

tổng chi phí sản xuất. Trong khi đó, Komatsu và Hitachi vẫn theo đuổi chiến lược toàn cầu với trung tâm

tại Nhật, và lợi thế chi phí của họ mất dần, sau đó thị phần của họ rơi vào tay Caterpillar.

Thay đổi chiến lược của doanh nghiệp để có đủ khả năng theo đuổi chiến lược xuyên quốc gia là

một nhiệm vụ phức tạp và đầy thách thức, tuy nhiên là vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp hoạt

động kinh doanh quốc tế trong thời gian dài.

Ưu điểm

- Có khả năng khai thác kinh tế địa phương

- Có khả năng khai thác đường cong kinh nghiệm

- Thay đổi sản phẩm và marketing đáp ứng yêu cầu địa phương

- Thu lợi ích từ học tập toàn cầu

Nhược điểm: Các công ty lựa chọn chiến lược này thường khó khăn trong việc thực hiện

về vấn đề tổ chức

Điều kiện áp dụng

Page 74: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

74

Chiến lược xuyên quốc gia tập trung các nỗ lực chuyển giao các kỹ năng và cung cấp theo nhiều

chiều giữa các công ty con trên toàn cầu.

Chiến lược xuyên quốc gia có nghĩa là khi một công ty đối mặt với áp lực giảm chi phí cao và áp

lực đáp ứng yêu cầu địa phương cao. Một công ty áp dụng chiến lược xuyên quốc gia phải cố gắng đạt

mục tiêu chi phí thấp và lợi thế khác biệt.

Biểu đồ: Bốn loại chiến lược quốc tế cơ bản

3.2. Mô hình cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế

Cấu trúc tổ chức là cách thức phân chia hoạt động giữa những cơ sở riêng biệt của một công ty và

phối hợp các hoạt động của chúng lại với nhau. Nếu cơ cấu tổ chức của một công ty phù hợp với kế hoạch

chiến lược, thì công ty này sẽ đạt được mục tiêu của họ một cách có hiệu quả hơn

3.2.1. Mô hình cấu trúc theo chức năng

Mô hình theo chức năng là cách thức tổ chức công việc của doanh nghiệp khi sản phẩm của

doanh nghiệp có cùng công nghệ và các áp lực cạnh tranh phải theo đuổi chiến lược toàn cầu. Mô hình

chức năng cho phép doanh nghiệp tối đa hóa được lợi ích theo quy mô thông qua việc sắp xếp trách

nhiệm công việc và các thiết kế hiệu quả nhất các quan hệ quản lý trong doanh nghiệp. Vì vậy, mô hình

này cho phép thành lập các bộ phận riêng biệt tập hợp nhân sự theo chức năng truyền thống của doanh

nghiệp nhưng ở các khu vực địa lý khác nhau, tại đó nhân viên sản xuất làm việc với nhân viên sản xuất,

nhân viên bán hàng làm việc với nhân viên bán hàng, nhân viên tài chính làm việc với nhân viên tài

chính, v.v

Trụ sở chính

Sản xuất Marketing

Sản xuất châu Á Sản xuất Châu

Âu

Marketing Châu

Á

Marketing Châu

Âu

Áp

lự

c ch

i p

Áp lực phản ứng địa phương

Chiến

lược

toàn cầu

Chiến lược

xuyên quốc

gia

Chiến lược

quốc tế

Chiến lược đa

nội địa

Page 75: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

75

Hình 3.2. Mô hình cấu trúc theo chức năng

Mô hình theo chức năng thường được các doanh nghiệp có dải hàng hóa hẹp trong đó phương

pháp sản xuất và marketing thường không khác nhau nhiều, và thị trườngkhông thường xuyên thay đổi

nhiều áp dụng. Ví dụ, những công ty khai thác dầu hay khoáng sản như Total hay British Petroleum

thường sử dụng mô hình tổ chức này.Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình này là doanh nghiệp không thể

thích nghi kịp theo các thay đổi của thị trường đòi hỏi có sự phối hợp giữa nhiều chức năng. Mô hình theo

chức năng thường khó xây dựng được mối quan hệ hiệu quả giữa việc sáng tạo tri thức với việc ra quyết

định nhằm tạo điều kiện cho chức năng marketing phối hợp đượcvới chức năng sản xuất và chức năng tài

chính. Cơ chế quản lý theo chiều dọc của mô hình theo chức năng là một chuỗi dài mệnh lệnh trải ở nhiều

cấp, khiến cho việc ra quyết định phải dịch chuyển chậm vì thông tin phải trải rộng tới hầu khắp các cấp

bậc cần xử lýthông tin.

3.2.2. Mô hình cấu trúc theo sản phẩm

Đây là cấu trúc tổ chức phân chia các hoạt động của công ty trên toàn thế giới theo nhóm sản

phẩm (Xem hình 3.3).

Hình 3.3: Cấu trúc sản phẩm

Chẳng hạn, các bộ phận trong công ty máy tính có thể là bộ phận mạng (Internet) và thông tin

(Communications), bộ phận phát triển phần mềm (Software Development) và bộ phận công nghệ mới.

Mỗi bộ phận sản phẩm, sau đó lại được chia ra thành các đơn vị trong nước và các đơn vị quốc tế. Như

vậy, mỗi chức năng nghiên cứu và phát triển (R&D), Marketing…lại được lặp lại ở các đơn vị nội địa và

các đơn vị quốc tế của mỗi bộ phận sản phẩm.

Trụ sở chính

(Head quarters)

Nhánh máy bay

(toàn cầu)

Nhánh tàu hỏa

(toàn cầu)

Nhánh ô tô

(toàn cầu)

Chi nhánh

tàu hỏa Ấn

Độ

Chi nhánh

tàu hỏa

Mexico

Chi nhánh

tàu hỏa nội

địa

Chi nhánh

tàu hỏa Đức

Page 76: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

76

Cấu trúc này thích hợp đối với công ty cung các sản phẩm và dịch vụ đa dạng. Do trọng tâm cơ bản là

sản phẩm, nên cả hai phía quản lý nội địa và quốc tế ở mỗi nhánh sản phẩm phải phối hợp các hoạt động của họ

lại với nhau để không gây xung đột.

Ví dụ, việc sáp nhập giữa công ty Moet Hennessy và LouisVuitton đã tạo ra tập đoàn hàng hóa

sang trọng lớn nhất thế giới, tập đoàn LVMH, trongđó những hãng nước hoa Christian Dior, đồng hồ Tag

Heuer, đồ túi xách Louis Vuitton,rượu sâm panh Moet & Chandon là thuộc trong các thương hiệu hàng

hóa của tập đoàn.Việc không có sự tương đồng giữa nhiều dòng sản phẩm đã dẫn tới việc tập đoàn

LVMHchia nhỏ thành 5 bộ phận, mỗi bộ phận tập trung vào một phân đoạn thị trường riêng biệttrên quy

mô toàn cầu, đó là: rượu và đồ uống có cồn, thời trang và đồ da thuộc, nước hoavà mỹ phẩm, đồng hồ và

trang sức, và hàng bán lẻ khác. Mặc dù có sự lắp lẫn, trùng lặp ở các thị trường cụ thể, các kênh phân

phối, các chuỗi cung ứng nhưng các bộ phận này đềutương đối độc lập.

Tương tự như mô hình theo chức năng, mô hình cấu trúc theo sản phẩm được thiết kế phù hợp

với chiến lược toàn cầu do hoạt động ở thị trường nội địa và thị trường nướcngoài đối với cùng một sản

phẩm được một bộ phận phụ trách sản phẩm chịu tráchnhiệm. Bộ phận này có thể kết hợp tương ứng và

kinh nghiệm, tri thức giữa hai thị trường(ví dụ như chia sẻ thông tin về thành công hoặc thất bại trên các

thị trường khác nhau vớinhau).Thêm vào đó, mô hình phụ trách sản phẩm tăng cường năng lực bán hàng

hoặctung sản phẩm mới hoặc dừng bán một dòng sản phẩm nhất định vì các dòng sản phẩm là không có

liên hệ với nhau. Tất nhiên, sẽ có các chức năng hoặc hoạt động bị lặp đi lặp lại giữa các bộ phận phụ

trách sản phẩm và cũng khó có cơ hội hay cách nào mà một bộ phận phụ trách sản phẩm này có thể học

tập được kinh nghiệm quốc tế từ một bộ phận phụ trách sản phẩm khác. Các công ty con khác nhau của

các bộ phận phụ trách sản phẩm khác nhau hoạt động ở cùng một quốc gia ở nước ngoài sẽ báo cáo về

cho các ban và bộ phận khác nhau tại trụ sở chính.

Page 77: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

77

3.2.3. Mô hình cấu trúc theo khu vực địa lý

Cấu trúc khu vực địa lý là cấu trúc trong đó tất cả các hoạt động toàn cầu của công ty được tổ

chức theo nước hay theo khu vực (xem hình 3.4)

Hình 3.4: Cấu trúc khu vực địa lý

Nếu công ty càng hoạt động ở nhiều nước thì khả năng tổ chức theo khu vực của công ty cũng

càng lớn thay cho việc tổ chức theo nước. Thông thường, tổng giám đốc phụ trách mỗi nước hay mỗi khu

vực. Theo cấu trúc này, mỗi bộ phận theo khu vực địa lý hoạt động như là một dơn vị độc lập, với hầu hết

các quyết định được phân chia cho người quản lý khu vực hoặc quốc gia. Mỗi đơn vị có các phòng ban

riêng như phòng cung ứng, sản xuất, Marketing và bán hàng, nghiên cứu và phát triển, kế toán…Mỗi đơn

vị cũng có xu hướng quản lý hầu hết việc lập kế hoạch chiến lược của riêng nó. Trụ sở chính của công ty

mẹ ra quyết định về chiến lược tổng thể của công ty và phối hợp các hoạt động của các cơ sở khác nhau.

Cấu trúc theo khu vực là phù hợp nhất đối với các công ty coi mỗi thị trường khu vực hay quốc gia

là duy nhất. Cấu trúc này đặc biệt có ích khi giữa các quốc gia hay các khu vực có sự khác nhau lớn về văn

hóa, chính trị hay kinh tế. Khi các tổng giám đốc có quyền giám sát các hoạt động ở chính môi trường họ

hoạt động thì họ trở thành các giám sát viên duy nhất cần cho khách hàng của họ. Mặt khác, vì các đơn vị

hoạt động độc lập, các nguồn lực được phân bổ có thể trùng nhau một phần và việc truyền đạt kiến thức từ

đơn vị này sang đơn vị khác có thể không theo mong muốn.

Hạn chế của mô hình này là khả năng lắp lẫn công việc trong mỗi khu vực do cáccông ty con có

các hoạt động tạo giá trị giống nhau ở những địa điểm khác nhau chứkhông tập trung vào địa điểm hiệu

quả nhất. Ví dụ, hãng Neslé có hơn 500 nhà máy ở gần 90 nước để bán khoảng 8.000 nhãn hàng hóa tới

hầu hết các nước trên thế giới. Do vậy,trụ sở tại Thụy Sĩ đã đau đầu để quyết định xem chi phí nguyên

liệu đầu vào của các côngty con mua từ các nhà cung cấp trên khắp thế giới. Và có những trường hợp,

mỗi nhà máy trong số 40 nhà máy của Nestlé tại Hoa Kỳ đã tiến hành mua nguyên liệu một cách độc lập.

Việc thiếu sự phối hợp này đã dẫn tới hiện tượng các nhà máy của doanh nghiệp tại Hoa Kỳ phải thanh

toán tới 20 mức giá khác nhau đối với sản phẩm vanilla cho cùng một nhà cung cấp.

3.2.4. Mô hình cấu trúc theo sản phẩm – khu vực địa lý

Page 78: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

78

Các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế theo đuổi chiến lược xuyên quốc gia tại đó đáp ứng cả hai

yêu cầu đó là hội nhập, toàn cầu hóa và thích nghi địa phương. Để thực hiện chiến lược này, các doanh

nghiệp thường thiết kế tổ chức của mình theo mô hình cấu trúc sản phẩm – địa lý để cho phép tận dụng

được ưu điểm của mô hình theo sản phẩm và mô hình theo địa lý.

Mô hình cấu trúc theo sản phẩm – khu vực địa lý về mặt lý thuyết cho phép một doanh nghiệp

kinh doanh quốc tế còn hạn chế được những nhược điểm của hai mô hình kể trên.

Mô hình cấu trúc theo sản phẩm – khu vực địa lý thường xác định rõ một công ty con phải báo

cáo tới hơn một bộ phận phụ trách bao gồm cả về sản phẩm và địa lý. Giả định cơ bản ở đây là mỗi nhóm

phải chia sẻ trách nhiệm về hoạt động vận hành ở nước ngoài sẽ khuyến khích việc mỗi nhóm trao đổi

thông tin và nguồn lực một cách tự nguyện hơn. Ví dụ, các bộ phận phụ trách sản phẩm phải cạnh tranh

với nhau để đảm bảo rằng bộ phận R&D đượcliên kết với nhóm chức năng như sản xuất, phát triển công

nghệ đối với sản phẩm của họ. Các bộ phận phụ trách sản phẩm sẽ phải cạnh tranh để đảm bảo rằng các

đối tác ở các khu vực địa lý khác nhau sẽ chú ý và đầu tư quan tâm thỏa đáng đến dòng sản phẩm của

mình. Ví dụ, số lượng các nguồn lực cần thiết để phát triển sản phẩm dệt ở Mexico phụthuộc một phần

vào cạnh tranh giữa nhóm Châu Âu và Châu Mỹ La tinh và một phần phụ thuộc vào cạnh tranh nguồn lực

giữa nhóm sản phẩm dệt và sản phẩm nông sản. Do vậy, mô hình cấu trúc theo sản phẩm – khu vực địa lý

là sự nhân nhượng hữu ích khi các bộ phận gặp khó khăn trong việc liênkết hay phân tách các hoạt động ở

nước ngoài.

Mô hình cấu trúc theo sản phẩm – khu vực địa lý cũng có một số hạn chế. Mô hình này yêu cầu

các nhóm cạnh tranh nhau vì các nguồn lực có hạn, phương pháp vận hành ưa thích, chia sẻ lợi ích hoặc

rủi ro. Xung đột giữa các bộ phận cấp thấp có khả năng phát sinh khi cấp quản lý cấp cao phải ủng hộ

nhóm này hay nhóm kia. Có thể nói, mô hình cấu trúc theo sản phẩm – khu vực địa lý tạo ra một cơ chế

quản lý kép làm vi phạm nguyên tắc một lệnh thống nhất (unity of command principle). Nguyên tắc một

lệnh thống nhất cho rằng chuỗi lệnh và thông tin không bị ngắt quãng sẽ truyền từ cấp cao nhất đến cấp

thấp nhất trong tổ chức. Còn theo mô hình cấu trúc theo sản phẩm – khu vực địa lý, trách nhiệm và mối

quan hệ công tác nhằng nhịt trong tổ chức có thể làm cho chuỗi lệnh bị bóp méo hoặc sai lệch. Trong

trường hợp này, quản lý cấp cao không thể giám sát được cán bộ cấp dưới do họ giả định là có nhóm khác

chịu trách nhiệm về việc đó. Ví dụ, giám đốc ở bộ phận Châu Á có thể không quan tâm tới hoạt động

hàng ngày tại một bộ phận sản phẩm B ở Nhật Bản do họ cho rằng bộ phận phụ trách sản phẩm B sẽ chịu

trách nhiệm làm việc này, trong khi đó, ngược lại bộ phận phụ trách sản phẩm B lại giả định rằng bộ phận

phụ trách Châu Á phải giám sát hoạt động tại Nhật Bản. Công ty Dow Chemical thực hiện theo mô hình

cấu trúc theo sản phẩm – khu vực địa lý cho rằng “chúng tôi theo mô hình cấu trúc theo sản phẩm – khu

vực địa lý và phụ thuộc vào tinh thần hợp tác, ở đó không có ai chịu trách nhiệm cả. Khi mọi thứ ok,

chúng tôi không biết ai để khen thưởng và khi một thứ tồi tệ, chúngtôi không biết ai để phê bình„. Việc

giả định nhầm ai đó chịu trách nhiệm đã khiến chonhiều công ty lại phải quay lại mô hình phân định vai

trò và chức năng của các bộ phận

3.3. Các nguyên tắc quản lý trong doanh nghiệp kinh doanh quốc tế

3.3.1. Nguyên tắc quản lý tập trung

Page 79: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

79

Quản lý tập trung (Centralized discision making) là quyết định được ban hành tập trung tại cấp cao nhất

trong hệ thống quản lý và tại một điểm, thường là ở trụ sở chính.

Nguyên tắc quản lý tập trung có 4 ưu điểm sau:

Thứ nhất, quản ký tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp. Chẳng hạn một công ty có chi

nhánh sản xuất bán thành phẩm tại Đài Loan và một chi nhánh lắp ráp tại Mexico. Hai chi nhánh này có thể

cần phối hợp hoạt động với nhau để đảm bảo các quá trình sản xuất và lắp ráp diễn ra một cách suôn sẻ. Điều

này có thể đạt được nếu các quyết định sản xuất - lắp ráp được đưa ra tại trụ sở chính của công ty.

Thứ hai, quản lý tập trung có thể giúp đảm bảo các quyết định đưa ra thích hợp với các mục tiêu

của công ty. Khi các quyết định được phân cấp cho các cấp quản lý thấp hơn thì các cấp đó có thể ra

những quyết định không phù hợp với mục tiêu của cấp quản lý cao nhất. Việc những quyết định quan

trọng được tập trung ở cấp quản lý cao nhất sẽ giảm thiểu khả năng xảy ra tình trạng này.

Thứ ba, việc tập trung quyền lực và thẩm quyền cho một cá nhân hoặc một nhóm các nhà quản lý

cấp cao nhất cho phép những người này có được công cụ để thực hiện những thay đổi chủ yếu cần thiết về

cơ cấu tổ chức.

Thứ tư, quản lý tập trung có thể tránh được sự trùng lặp hoạt động khi các bộ phận khác nhau

trong tổ chức tiến hành những công việc tương tự nhau. Ví dụ, nhiều công ty quốc tế tập trung các chức

năng nghiên cứu và phát triển chỉ ở một hoặc hai địa điểm để đảm bảo rằng hoạt động này không bị trùng

lặp. Tương tự, các họat động sản xuất cũng có thể được tập trung ở một số địa điểm quan trọng vì lý do

như trên.

Tuy nhiên, quản lý tập trung có một số nhược điểm chính như sau:

- Nó không khuyến khích được ý tưởng của các nhân viên cấp dưới

- Không tạo được động lực phấn đấu cho nhân viên cấp dưới vì họ chỉ làm những cái bị bào phải

làm

- Luồng thông tin từ trên xuống nên hạn chế những sang tạo từ dưới lên

3.3.2. Nguyên tắc quản lý phân quyền

Phân cấp quản lý (decentralized discision making) là việc ra quyết định được thực hiện ở các cấp

thấp hơn trong hệ thống quản lý, thường là ở các công ty lép vốn quốc tế (công ty bị một công ty nước

ngoài khác có quá nửa số cổ phần kiểm soát). Tất nhiên là phân cấp ra quyết định tạo cho các công ty lép

vốn quyền tự chủ lớn hơn trong việc quản lý các hoạt động của mình.

Quản lý theo nguyên tắc phân quyền có những lợi ích (ưu điểm) sau:

Thứ nhất, các nhà quản lý cấp cao có thể phải làm việc quá tải khi được trao thẩm quyền đưa ra

tất cả các quyết định, và điều đó có thể dẫn đến những quyết định sai lầm. Sự phân cấp quản lý cho phép

cấp quản lý cao nhất có thời gian để tập trung vào các vấn đề cốt yếu và ủy quyền cho các cấp quản lý

thấp hơn xử lý những vấn đề thông thường.

Thứ hai, việc nghiên cứu động cơ của con người cũng thiên về tán đồng cho việc phân cấp quản

lý. Các nhà khoa học hành vi từ lâu đã cho rằng con người sẽ làm việc tốt hơn nếu họ có được mức độ tự

do cá nhân và mức độ kiểm soát đối với công việc cao hơn.

Page 80: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

80

Thứ ba, việc phân cấp quản lý tạo ra mức độ linh hoạt cao hơn - cụ thể là sự phản ứng nhanh hơn

đối với những biến động của môi trường, bởi vì các quyết định không nhất thiết lúc nào cũng phải được

“đệ trình lên các cấp cao hơn”, trừ những trường hợp ngoại lệ.

Thứ tư, sự phân cấp quản lý có thể dẫn tới những quyết định tốt hơn vì chúng được đưa ra bởi những

cá nhân có thông tin tốt hơn so với nhà quản lý ở cấp cao hơn.

Thứ năm, phân cấp quản lý có thể giúp tăng cường sự kiểm soát. Có thể sử dụng sự phân cấp

quản lý để thiết lập những bộ phận nhỏ có tính độc lập tương đối trong phạm vi một tổ chức. Các nhà

quản lý ở những đơn vị này phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hoạt động của mình. Nếu trách nhiệm của

họ đối vớí các quyết định đưa ra càng cao thì càng có ít lý do để họ có thể phủ nhận trách nhiệm của mình

đối với hoạt động yếu kém của các dơn vị đó.

Tuy nhiên nguyên tắc quản lý này tồn tại những hạn chế sau:

- Có thể xảy ra rủi ro cho tổ chức nếu cấp dưới có nhiều quyết định sai lầm

- Hạn chế việc phối hợp chéo giữa các đơn vị và khai thác được các lợi ích chiến lược

- Các công ty con sẽ ưu tiên các dự án và hoạt động riêng của mình với mức cái giá phải trả của hoạt động

toàn cầu hay hoạt động chung

Tóm lại, khi nghiên cứu vấn đề tập trung quản lý và phân cấp quản lý trong việc ra quyết định,

cần phải lưu ý hai vấn đề cơ bản sau đây

Một là: Hiếm khi các công ty tập trung hoàn toàn hay phân cấp tất cả việc ra quyết định. Họ chỉ

lựa chọn cách thức có thể làm cho các quyết định của họ có hiệu lực cao nhất.

Hai là: Các công ty quốc tế có thể ra quyết định tập trung ở một khu vực thị trường nhất định

trong khi phân cấp quyết định ở thị trường khác. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn này, như

nhu cầu thay đổi sản phẩm và khả năng của các nhà quản lý tại mỗi địa điểm khác nhau.

Sự lựa chọn giữa quản lý tập trung và phân cấp quản lý không mang tính chất tuyệt đối. Thường

thì một số quyết định nên được đưa ra ở cấp quản lý cao, còn những quyết định khác được giao cho các

cấp khác thấp hơn tùy thuộc vào loại hình quyết định và chiến lược của công ty. Các quyết định liên quan

đến chiến lược của công ty, các khoản chi tiêu tài chính chủ yếu, các mục tiêu tài chính, và những vấn đề

tương tự khác thường do cấp quản lý cao nhất đưa ra. Tuy nhiên, các quyết định về hoạt động - chẳng hạn

như các quyết định liên quan đến sản xuất, thị trường, nghiên cứu và phát triển, quản lý nguồn nhân lực,

thì không nhất thiết cứ phải do cấp quản lý cao nhất đưa ra. Điều này còn tùy thuộc vào chiến lược quốc

tế của công ty.

Hãy xem xét trường hợp các công ty đang theo đuổi chiến lược toàn cầu. Họ phải quyết định phân

tán các hoạt động tạo giá trị trên toàn thế giới để tìm ra địa điểm thích hợp và phát huy kinh nghiệm hoạt

động của mình. Cơ quan đầu não của công ty phải quyết định lựa chọn địa điểm để tiến hành các hoạt

động nghiên cứu và phát triển, sản xuất, marketing.v.v. Ngoài ra, các hoạt động tạo ra giá trị phân tán trên

khắp thế giới phải được phối hợp chặt chẽ với nhau. Tất cả những vấn đề này tạo nên áp lực buộc cấp

quản lý cao nhất phải đưa ra một số quyết định về hoạt động.

Ngược lại, phản ứng của môi trường địa phương tới hoạt động của công ty sẽ buộc công ty phải

thực hiện phân cấp quản lý đối với các chi nhánh ở nước ngoài. Vì vậy, trong một công ty đa quốc gia cổ

điển, các chi nhánh nước ngoài có quyền độc lập trong việc đưa ra hầu hết các quyết định về sản xuất và

Page 81: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

81

marketing. Các công ty quốc tế có xu hướng duy trì sự kiểm soát tập trung đối với những vấn đề chủ yếu

và phân cấp quản lý cho các chi nhánh nước ngoài về những vấn đề khác. Thông thường, việc kiểm soát

các hoạt động nghiên cứu và phát triển, marketing được tập trung trong nước, còn các quyết định kinh

doanh được dành cho các chi nhánh nước ngoài. Công ty Microsoft tập trung những hoạt động phát triển

sản phẩm (là lĩnh vực thể hiện năng lực đặc biệt của công ty) tại trụ sở chính ở Redmond, Washington, và

thực hiện phân cấp quản lý đối với các quyết định kinh doanh cho các chi nhánh nước ngoài. Vì vậy trong

khi các sản phẩm được phát triển trong nước thì những người phụ trách các chi nhánh nước ngoài có

quyền tự chủ rất lớn trong việc hoạch định các chiến lược để đưa những sản phẩm đó ra thị trường.

Đối với các công ty xuyên quốc gia thì vấn đề trở nên phức tạp hơn. Sự cần thiết phải khai thác

tính kinh tế theo địa điểm và lợi ích của đường cong kinh nghiệm đòi hỏi phải duy trì mức độ kiểm soát

tập trung nhất định đối với các trung tâm sản xuất toàn cầu (tương tự như trường hợp các công ty toàn

cầu). Tuy nhiên, yêu cầu về sự phản ứng nhanh đối với tình hình cụ thể của địa phương đòi hỏi phải có sự

phân cấp quản lý đối với nhiều quyết định kinh doanh, đặc biệt là các quyết định về marketing đối với các

chi nhánh nước ngoài. Vì vậy, trong các công ty xuyên quốc gia, một số quyết định kinh doanh được tập

trung, còn một số quyết định khác đựơc phân cấp. Hơn nữa, quá trình học hỏi toàn cầu dựa trên việc

chuyển giao kĩ năng đa chiều giữa các chi nhánh với nhau, và giữa các chi nhánh với trung tâm đầu não

của công ty, là đặc trưng cơ bản của công ty theo đuổi chiến lược đa quốc gia. Thuật ngữ quá trình học

hỏi toàn cầu được dùng để chỉ ra khả năng của các chi nhánh nước ngoài thuộc một công ty đa quốc gia

có mức độ độc lập khá cao trong việc phát triển các kĩ năng và năng lực đặc biệt riêng của mình. Chỉ khi

đó các chi nhánh này mới có thể tác động tích cực đến các bộ phận khác trong công ty. Mức độ phân cấp

quản lý cao là cần thiết nếu các chi nhánh được quyền tự do phát triển kĩ năng và năng lực đặc biệt riêng

của mình. Việc theo đuổi một chiến lược xuyên quốc gia cũng đòi hỏi phải có sự phân cấp quản lý cao vì

lý do tương tự như vậy.

Câu hỏi ôn tập và thảo luận

1. Chiến lược kinh doanh quốc tế là gì? Vì sao doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược kinh doanh

quốc tế? Quá trình xây dựng chiến lược kinh doanh quốc tế được thực hiện như thế nào?

2. Phân tích ưu điểm, nhược điểm và hoàn cảnh sử dụng chiến lược toàn cầu?

3. Phân tích ưu điểm, nhược điểm và hoàn cảnh sử dụng chiến lược quốc tế?

4. Phân tích ưu điểm, nhược điểm và hoàn cảnh sử dụng chiến lược đa quốc nội?

5. Phân tích ưu điểm, nhược điểm và hoàn cảnh sử dụng chiến lược xuyên quốc gia?

6. Phân tích ưu điểm, nhược điểm của các hình thức cấu trúc tổ chức doanh nghiệp?

7. Tìm những ví dụ thực tế chứng minh sự cần thiến phải điều chỉnh chiến lược kinh doanh quốc tế

và mô hình cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp?

Tài liệu tham khảo

1. Donald A. Ball, Wendell H. McCulloch, Jr, Paul L.Frantz, J. Michael Geringer, Michael S. Minor -

Ninth Edition ,2009, International Business, The Challenge of Global Competition, Mc Graw Hill

2. Charles W. L. Hill, 1999, Internatinal Business – Irwin/ Mc Graw Hill,

Page 82: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

82

Page 83: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

83

Chương 4

THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ

Những rào cản trong kinh doanh quốc tế được hiểu là những trở ngại từ môi trường kinh doanh

đối với các hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế, bao gồm những rào cản từ sự khác biệt về

chính trị, luật pháp, văn hóa, … Ngoài ra, cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng chính là những rào

cản lớn bên cạnh những quy định về bảo vệ môi trường, bảo vệ sự an toàn sức khỏe của con người được

xem như là những rào cản khá phổ biến trong kinh doanh quốc tế hiện nay.

4.1. Thâm nhập thị trường thông qua thương mại quốc tế

4.1.1. Xuất khẩu

Các doanh nghiệp lần đầu tiên kinh doanh ở nước ngoài thường sử dụng xuất khẩu như là một

phương thức thâm nhập. Xuất khẩu cũng là phương thức thâm nhập được các doanh nghiệp vừa và nhỏ ưa

thích nhất. Tuy nhiên không chỉ đối với lần đầu tiên, xuất khẩu cũng được sử dụng trong tất cả các giai

đoạn quốc tế hóa bởi tất cả các loại hình doanh nghiệp, lớn và nhỏ.

Phương thức thâm nhập thị trường bằng xuất khẩu rất linh hoạt. Trong mối tương quan với các

phương thức phức tạp hơn như FDI, nhà xuất khẩu có thể tham gia vào hoặc rút lui khỏi thị trường dễ

dàng hơn, với rủi ro và chi phí tối thiểu.

Xuất khẩu có thể được tiến hành nhiều lần trong suốt quá trình quốc tế hóa, từ giai đoạn đầu và

tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã tạo dựng được những lợi thế sản xuất ở thị trường nước ngoài và khi

đó xuất khẩu để thâm nhập vào thị trường nước ngoài khác.

Các doanh nghiệp quốc tế có nhiều kinh nghiệm thường kết hợp xuất khẩu với các phương thức

khác như liên doanh và đầu tư nước ngoài. Toyota là một ví dụ. Họ đã sử dụng FDI để xây dựng các nhà

máy tại các vị trí then chốt ở Châu Á, châu Âu, và Bắc Hoa Kỳ, với mục đích xuất khẩu ô tô ra thị trường

các nước và các khu vực lân cận các điểm đó.

Bên cạnh xuất khẩu hàng hóa thì ở hầu hết các nền kinh tế phát triển, dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong các hoạt động kinh tế. Gần như tất cả các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đều bán sản phẩm

của họ ở nước ngoài. Dịch vụ bao gồm: du lịch, giao thông, kiến trúc, xây dựng, công trình, giáo dục,

nhân hang, bảo hiểm, giải trí, thông tin, và các dịch vụ kinh doanh chuyên nghiệp. Ví dụ như các xưởng

phim Hollywood thu nhập hàng tỷ USD từ việc xuất khẩu phim và video. Các công ty xây dựng gửi

chuyên gia ra nước ngoài làm việc trong các dự án xây dựng cơ bản. Các dịch vụ chuyên nghiệp như kế

toán, kỹ sư, cố vấn kinh doanh thường cung cấp dịch vụ của họ qua internet, bằng điện thoại hoặc thư,

bằng cách trực tiếp phục vụ khách hàng tại nước của họ. Công ty bảo hiểm các khoản vay thế chấp của

Hoa Kỳ, PMI, đã xuất khẩu các gói bảo hiểm khoản vay thế chấp ra nhiều thị trường khác nhau. Các gói

bảo hiểm này có thể được tạo ra tại một điểm tập trung, như ở Luân Đôn, và sau đó xuất khẩu qua thư và

internet đến các khách hàng ở những nước khác. Công ty này đã đạt được thành công đáng kể ở châu Á

và nhiều nước ở châu Âu.

Page 84: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

84

Tuy nhiên dich vụ và hàng hóa có sự khác nhau trên nhiều mặt. Nhiều dịch vụ ‘thuần’ không thể

xuất khẩu được vì chúng không thể vận chuyển được. Ví dụ như bạn không thể đóng gói việc cắt tóc và

gửi bán nó ở nước ngoài. Hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ, như Carefour và Mark & Spencer, cung cấp

dich vụ bằng cách thành lập các cửa hàng bán lẻ ở các thị trường mục tiêu - Nghĩa là họ thậm nhập thị

trường nước ngoài thông qua FDI, vì bán lẻ yêu cầu trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Mặt khác, nhiều

doanh nghiệp dịch vụ chỉ xuất khẩu một số sản phẩm, còn số còn lại được cung ứng cho thị trường bên

ngoài thông qua các phương thức thâm nhập khác. Ví dụ như đối với các dịch vụ chuyên nghiệp, một vài

sản phẩm lĩnh vực này không thể xuất khẩu được và vì thế doanh nghiệp kinh doanh chúng cần phải

thành lập đại lý ở thị trường mục tiêu. Trường hợp của Ernst & Young là một điển hình. Nó vừa xuất

khẩu một số dịch vụ kế toán bằng cách gửi nhân viên ra nước ngoài vừa xây dựng một đại lý ở nước

ngoài bằng cách thành lập một văn phòng, sau đó thuê nguồn nhân lực tại chỗ để cung cấp dịch vụ kế

toán cho vùng đó.

Nói chung, hầu hết các dịch vụ được “giao” đến khách hàng nước ngoài thông qua đại diện hay

đại lý của công ty cung ứng đặt ở nước đó, hoặc bán nó bằng cách kết hợp với FDI, nhượng qyền kinh

doanh và cho thuê giấy phép kinh doanh. Internet tạo ra một số cách thức để xuất khẩu một vài loại hình

dịch vụ, từ đặt vé máy bay đến các dịch vụ liên quan đến kiến trúc. Internet còn góp phần làm cho khu

vực dịch vụ trở thành một trong những khu vực có tốc độ phát triển xuất khẩu nhanh nhất trong kinh

doanh quốc tế.

Dịch vụ còn góp phần xúc tiến và duy trì các hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Nhiều hoạt động xuất

khẩu hàng hóa không thể thực hiện được nếu không có sự hỗ trợ từ các hoạt động dịch vụ. Ví dụ như sẽ

rất ít người muốn mua ô tô nếu họ không được đảm bảo là xe của họ sẽ được sửa chữa nếu có hỏng hóc.

Theo đó thì các doanh nghiệp xuất khẩu ô tô sẽ phải cung cấp các dịch vụ sửa chữa ngay tại nước nhập

khẩu ô tô của họ. Họ thành lập các trung tâm chăm sóc khách hàng ở các thị trường mục tiêu thông qua

FDI, hoặc là họ kí hợp đồng với các cửa hàng ở trong nước đó để cung cấp các dịch vụ trên.

Phân loại xuất khẩu:

- Xuất khẩu gián tiếp: là hình thức xuất khẩu trong đó doanh nghiệp bán các sản phẩm của họ cho

các trung gian thương mại rồi các nhà trung gian này bán lại cho những người mua trong thị trường mục

tiêu. Những kênh trung gian này đảm nhiệm việc tìm kiếm người mua hàng nước ngoài, vận chuyển sản

phẩm, và thu tiển hàng. Đối với hầu hết các doanh nghiệp thì lợi thế chủ yếu mà xuất khẩu gián tiếp mang

lại cho họ là có thể bước vào thị trường nước ngoài mà không gặp những phức tạp và rủi ro như đối với

xuất khẩu trực tiếp. Doanh nghiệp quốc tế mới có thể bắt đầu xuất khẩu mà không phải tăng đầu tư vào

vốn cố đinh, với chi phí khởi đầu thấp, và rất ít rủi ro, mà lại có thể giúp doanh nghiệp tăng doanh số.

- Xuất khẩu trực tiếp: là hình thức doanh nghiệp bán các sản phẩm của họ trực tiếp cho người

mua ở thị trường mục tiêu.

So với xuất khẩu gián tiếp thì lợi thế chính của xuất khẩu trực tiếp là nó mang lại cho nhà xuất khẩu

khả năng kiểm soát quá trình xuất khẩu lớn hơn, khả năng thu lợi nhuận cao hơn, và mối quan hệ với khách

hàng và thị trường nước ngoài gần gũi hơn.

Tuy nhiên nhà xuất khẩu lại phải dành nhiều hơn thời gian, nguồn nhân lực, và các nguồn lực khác

của doanh nghiệp để phát triển và quản lý các hoạt động xuất khẩu.

Page 85: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

85

Lưu ý:

Xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp không loại trừ nhau, và nhiều doanh nghiệp còn sử dụng cả hai

hình thức này để tiếp cận các thị trường khác nhau. Các doanh nghiệp cần lưu ý 4 vấn đề sau khi lựa chọn

giữa xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp:

-Mức độ các nguồn lực- chủ yếu là thời gian, vốn, và trình độ quản lý- mà nhà kinh doanh sẵn

sàng dành cho việc mở rộng quốc tế và các thị trường khác nhau

- Tầm quan trọng phương thức của thị trường nước ngoài

- Bản chất của hàng hóa của doanh nghiệp, bao gồm cả yêu cầu có sự hỗ trợ sau bán hàng

- Sự sẵn sàng của các trung gian nước ngoài có khả năng ở thị trường mục tiêu.

Một hình thức xuất khẩu khác là doanh nghiệp sẽ thành lập một văn phòng đại diện bán hàng

hoặc là một chi nhánh thuộc sở hữu của doanh nghiệp để điều hành các hoạt động bán hàng, các đại lý

phân phối, các hoạt động xúc tiến, và các dich vụ chăm sóc khách hàng ở thị trường nước ngoài. Theo

cách thức này, doanh nghiệp sẽ trực tiếp đảm nhận các nhiệm vụ quan chính ở thị trường nước ngoài như

tham gia vào các hội chợ thương mại, thực hiện nghiên cứu thị trường, tìm kiếm các nhà phân phối, tìm

kiếm và phục vụ khách hàng. Nhà kinh doanh có thể chọn lộ trình này nếu đó là thị trường có khả năng

tạo ra doanh số bán hàng cao hoặc có tầm quan trọng chiến lược. Nhà kinh doanh cũng có thể chọn cách

thành lập các trụ sở hoặc các trung tâm phân phối mang tầm quốc gia hoặc khu vực. Ở mức cao nhất,

doanh nghiệp có thể xây dựng một chi nhánh bán hàng đầy đủ chức năng, thuê nhân lực tại chỗ. Ví dụ,

Việc xuất khẩu phần mềm internet của công ty Webspy đóng tại Australia hiện nay chiếm khoảng 80%

doanh thu hàng năm của công ty. Ban đầu công ty này chỉ xuất khẩu thông qua các nhà phân phối độc lập

ở nước ngoài. Nhưng sau đó, Webspy đã thành lập các chi nhánh bán hàng ở Luân Đôn và Seatle để phục

vụ hai thị trường khu vực quan trọng nhất của công ty là châu Âu và Bắc Hoa Kỳ (www.

Austrade.gov.au).

Lợi ích của doanh nghiệp khi thâm nhập bằng phương thức xuất khẩu

- Tăng doanh số, phát triển thị phần, tạo ra mức lợi nhuận biên cao hơn so với kinh doanh trong thị

trường nội địa.

- Tăng quy mô kinh tế, do đó làm giảm chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm.

- Đa dạng hóa khách hàng, giảm sự phụ thuộc vào thị trường trong nước.

- Ổn định sự biến động của doanh số do các chu kỳ kinh tế, và do tính chất mùa vụ của cầu. Ví dụ

một doanh nghiệp có thể bù đắp sự giảm sút trong doanh số - gây ra bởi sự giảm sút của cầu vì thị trường

trong nước đang suy thoái - bằng cách tái tập trung các nguồn lực vào các thị trường nước ngoài có mức

tăng trưởng mạnh hơn.

- Tối thiểu hóa rủi ro và tối đa hóa tính linh hoạt - trong mối tương quan với các phương thức khác.

Nếu cần thiết doanh nghiệp có thể nhanh nhóng rút lui khỏi một thị trường xuất khẩu.

- Chi phí thâm nhập thị trường thấp bởi vì doanh nghiệp không cần phải thực hiện các dự án đầu tư

hay phải duy trì một đại lý ở thị trường mục tiêu. Vì thế doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức xuất khẩu

để kiểm nghiệm thị trường mới trước khi tập trung nhiều nguồn lực hơn vào thị trường đó thông qua FDI.

- Phát triển khả năng và kĩ năng của các nhà phân phối nước ngoài cũng như của các đối tác kinh

doanh nước ngoài khác.

Page 86: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

86

Với đặc trưng là tốn ít chi phí và rủi ro thấp, cùng với khả năng tăng thêm các đối tác nước ngoài,

xuất khẩu thực sự rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Ví dụ: như các nhà máy sản xuất rượu vang có quy mô nhỏ ở California đã bắt đầu xuất khẩu các loại

rượu vang ra khắp thế giới. Gần 20% tổng sản lượng của các nhà máy này là dành cho xuất khẩu. Cách tiếp

cận thị trường mà các nhà máy này đã làm và thành công đó là Hợp tác thương hiệu. Theo đó thì các loại rượu

có chất lượng tương tự nhau sẽ được đóng gói trong cùng một kiện và sau đó được bán cho khách hàng nước

ngoài. Tổng giá trị xuất khẩu rượu của Hoa Kỳ đạt gần 1 tỷ USD 1 năm và có xu hướng tăng lên nhanh chóng.

Nhưng các nhà máy rượu ở California lại đang bị đe dọa ngay trong chính thị trường Hoa Kỳ bởi các loại rượu

nhập khẩu từ các nhà máy có lợi thế ở các nước như Australia, Chi Lê, và Nam Phi.8 Đặc điểm của xu thế toàn

cầu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng chủ động hơn trong hoạt động xuất khẩu.

Khó khăn của doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường bằng phương thức xuất khẩu

- Thứ nhất, vì không cần có bất cứ đại diện nào ở nước ngoài (khác với FDI), nên các nhà kinh

doanh có rất ít cơ hội để tham khảo ý kiến khách hàng, học hỏi từ các đối thủ, và nhận biết đặc điểm riêng

biệt của thị trường. Không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nên doanh nghiệp rất khó có thể nắm bắt các

cơ hội, nhận biết các nguy cơ, hay không thể có những kiến thức cần thiết để đạt được thành công ở nước

ngoài trong dài hạn.

- Thứ hai, để đảm bảo việc xuất khẩu doanh nghiệp cần khai thác được các khả năng tiềm tàng và

ưu tiên các nguồn lực của doanh nghiệp để thực hiện hiệu quả các giao dịch xuất khẩu. Các doanh nghiệp

chuyên về xuất khẩu cần phải có những nhân viên giỏi về giao dịch quốc tế và tiếng nước ngoài. Hơn nữa,

các nhà kinh doanh cũng cần phải dành thời gian và công sức nghiên cứu các lĩnh vực như: giao nhận,

chứng từ, ngoại hối, và các phương thức tài chính mới. Các yêu cầu này sẽ tạo ra các gánh nặng cho các

nguồn lực của doanh nghiệp.

- Thứ ba, so với các phương thức khác, mức độ nhạy cảm của xuất khẩu đối với thuế quan và các

rào cản thương mại khác, cũng như đối với sự biến động trong tỷ giá hối đoái thì lớn hơn. Ví dụ như vào

năm 2005, đồng đô la Hoa Kỳ được định giá cao hơn 12% so với đồng Euro và 15% so với đồng yên

Nhật. Điều này dẫn đến sự giảm sút của xuất khẩu của Hoa Kỳ, đe dọa các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào

xuất khẩu thực hiện mua bán quốc tế. Các nhà xuất khẩu buộc phải chịu thiệt vì sản phẩm của họ ở thị

trường nước ngoài có giá quá cao nếu tỷ giá hối đoái chuyển đổi làm cho sản phẩm của họ đắt hơn lên đối

với người mua nước ngoài.

- Thứ tư, trong trường hợp chi phí vận chuyển cao hay giá trị lô hàng thấp không bù đắp được chi phí

xuất khẩu thì lựa chọn phương thức xuất khẩu là không khả thi. Ví dụ như ngành xi măng của Việt Nam mặc

dù dư thừa công suất nhưng không thể xuất khẩu do chi phí vận chuyển quá lớn trong khi trị giá lô hàng không

cao

- Thứ năm, xuất khẩu từ thị trường nước sở tại (trụ sở chính của doanh nghiệp) sẽ không thích

hợp khi doanh nghiệp tìm được địa điểm ở nước ngoài có chi phí thấp hơn để đặt làm cơ sở sản xuất.

4.1.2. Nhập khẩu

Nhập khẩu là hình thức trong đó các doanh nghiệp chọn mua sản phẩm và dịch vụ từ các nguồn

cung ứng bên ngoài và mang nó vào thị trường trong nước. Các doanh nghiệp nhập khẩu, cho dù là nhà

sản xuất, nhà bán buôn, hay nhà bán lẻ đều được gọi chung là nhà nhập khẩu. Nhập khẩu cũng được nhắc

Page 87: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

87

đến như nguồn cung ứng toàn cầu và mua toàn cầu. Nguồn cung ứng có thể là từ các nhà phân phối độc

lập ở nước ngoài, hoặc từ các chi nhánh thuộc quyền sở hữu của công ty hay các chi nhánh hợp tác.

Nhiều nhà sản xuất và nhà bán lẻ cũng là các nhà xuất khẩu lớn.Các công ty sản xuất có xu hướng

nhập khẩu nguyên liệu thô và linh kiện để lắp ráp. Các nhà bán lẻ có một lượng hàng lớn được cung cấp từ thị

trường nước ngoài. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, các nhà bán lẻ như Wal-Mart, Home Depot, và Target là 3 trong số

các nhà nhập khẩu lớn nhất. Cụ thể, sản phẩm mà Wal-Mart nhập về từ Trung Quốc chiếm khoảng 10% tổng

hàng hóa nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Trung Quốc, khoảng 20 tỉ USD hàng năm. Những nhà nhập khẩu lớn khác

bao gồm các công ty hóa chất (VD: LG), các tập đoàn điện tử (VD: Phillips), và các nhà bán buôn thực phẩm

(VD: Chiquita Brands International).

Xuất nhập khẩu muốn thành công thì cần có sự quản lý chặt chẽ về chuỗi cung ứng toàn cầu của

doanh nghiệp, có nghĩa là, mạng lưới tổng hợp của doanh nghiệp về nguồn cung ứng, sản xuất, và các

hoạt động phân phối phải được tổ chức trên quy mô toàn cầu. Ngày nay, nhiều nhà sản xuất huy động đầu

vào từ các nhà cung ứng bên ngoài trên phạm vi toàn thế giới.

Phân loại phương thức nhập khẩu:

Nhập khẩu trực tiếp: Theo cách thức này, bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc

mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán

mà không mua. Hoạt động chủ yếu là doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hoá, vật tư ở thị trường

nước ngoài đem về tiêu thụ ở thị trường trong nước. Để tiến tới ký kết hợp đồng kinh doanh nhập khẩu,

doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu vật tư, thiết bị trên thị trường nội địa, tính toán đầy

đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả, đàm phán kỹ lưỡng về các điều kiện giao dịch

với bên xuất khẩu, thực hiện theo hành lang pháp lý quốc gia cũng như thông lệ quốc tế. Với loại hình

này bên nhập khẩu phải nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng và thực hiện theo đúng

hợp đồng, phải tự bỏ vốn, chịu mọi rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên cứu, giao nhận, kho b•i cùng các

chi phí có liên quan đến tiêu thụ hàng háo, thuế nhập khẩu...

Nhập khẩu uỷ thác: Theo quyết định số 1172/TM/XNK ngày 22/9/1994 của Bộ trưởng Bộ

Thương Mại về việc ban hành” Quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước” được định nghĩa

như sau: Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức nhận làm dịch vụ nhập khẩu.

Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng uỷ thác giữa các doanh nghiệp phù hợp với những quy định

của pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Như vậy, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được hình thành giữa các doanh

nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một loại vật tư, thiết bị nào đó nhưng lại

không được phép nhập khẩu trực tiếp hoặc gặp khó khăn trong việc tìm kiếm bạn hàng, thực hiện thủ tục

uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp có chức năng thương mại quốc tế tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu

của mình. Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho bên uỷ thác các thông tin về thị trường, giá cả, khách

hàng, những điều kiện có liên quan đến đơn hàng uỷ thác thương lượng đàm phán và ký kết hợp đồng uỷ

thác. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành làm các thủ tục nhập khẩu và được hưởng phần thù lao gọi là phí uỷ

thác.

Page 88: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

88

Doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn

ngạch, không phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng nhập, giá trị hàng nhập chỉ được tính vào kim ngạch

XNK không được tính vào doanh thu. Khi nhận uỷ thác phải làm hai hợp đồng: Một hợp đồng mua bán

hàng hoá, vật tư với nước ngoài và một hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác ở trong nước.

4.1.3. Mua bán đối lưu

Là phương thức giao dịch trong đó việc nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán

đồng thời cũng là người mua, tổng giá trị hàng hóa trao đổi thường có giá trị tương đương nhau.

Ví dụ: Caterpillar xuất khẩu máy xúc sang Venezuela. Đổi lại, chính phủ Venezuela trả cho

Caterpillar 350.000 tấn quặng sắt. Ả Rập Saudi mua máy bay phản lực của Hoa Kỳ và trả tiền hàng nhập

khẩu bằng dầu thô. Phương thức này còn được gọi là mua bán hai chiều hoặc mua bán đối ứng, nguyên

tắc hoạt động của nó là “ Tôi sẽ mua hàng hóa của anh nếu anh mua hàng của tôi”. Ngoài người mua và

người bán, trong mua bán đối lưu còn có sự tham gia của nhà môi giới. Các giao dịch nhiều bên cũng có

thể phải mất nhiều năm mới hoàn thành. Như bạn có thể thấy, các giao dịch mua bán đối lưu ngày càng có

xu hướng phức tạp hơn nhiều so với phương thức tiền đổi hàng truyền thống.

Page 89: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

89

Phân loại mua bán đối lưu

Hàng đổi hàng (barter):

Hai bên trao đổi với nhau những hàng hóa hoặc dịch vụ có giá trị tương đương, việc giao hàng

diễn ra hầu như đồng thời.

Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng cổ điển trước đây chỉ có 2 bên tham gia nhưng ngày nay có thể có

3,4 bên tham gia

Ví dụ: Công ty A ở Việt Nam muốn đổi café lấy nhôm theo tỷ lệ 2kg café = 1kg thép với thương

gia người Nhật Bản,nhưng thương gia người Nhật chỉ có xe hơi mà không có nhôm, thương gia Nhật đổi

xe hơi với một công ty của Nga để lấy nhôm giao cho công ty A của Việt Nam để lấy café

Trao đổi bù trừ (Compensation)

Phương thức này áp dụng cho hoạt động buôn bán đối lưu có thời hạn tương đối dài và hàng

được giao nhiều lần. Mỗi khi xuất, nhập sẽ mở tài khoản ghi chép theo dõi. Sau một khoảng thời gian

nhất định 2 bên sẽ quyết toán bù trừ cho nhau. Nếu có phát sinh chênh lệch thì khoản tiền này sẽ được giữ

lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ

Ví dụ: Trong 5 công ty A ở Việt Nam có 2 giao dịch mua bán đối lưu với công ty B ở Đài Loan

Lần 1: Công ty A giao cho công ty B lô hàng trị giá 1triệu USD, công ty B giao lại cho

công ty A lô hàng trị giá 600.000 USD

Lần 2: Công ty A giao cho công ty B lô hàng trị giá 700.000 USD, công ty B giao lại cho

công ty A lô hàng trị giá 800.000 USD

Số tiền chênh lệch là 300.000 USD công ty B sẽ trả bằng tiền hoặc giao bổ sung bằng

hàng hóa theo yêu cầu của công ty A

Mua lại (buyback):

Mua lại từ việc xuất khẩu thiết bị kỹ nghệ để đổi lấy các sản phẩm do thiết bị đó sản xuất. Việc

thực hiện phương thức này thường được diễn ra khi các công ty có mối quan hệ lâu dài.

Ví dụ, người bán sẽ thiết kế và xây dựng một nhà máy ở nước người mua để sản xuất máy kéo.

Người bán này được nhận lại các máy kéo hoàn chỉnh do nhà máy đó sản xuất, sau đó bán lại trên thị

trường thế giới. Về bản chất, các hàng hóa và dịch vụ được mua bán trong giao dịch gốc đã sinh ra các

hàng hóa và dịch vụ khác, chúng đóng vai trò như một khoản thanh toán cho các hàng hóa và dịch vụ

được mua bán trong giao dịch gốc. Nghiệp vụ mua lại sản phẩm có thể phải mất vài năm mới hoàn thành

do đó nó chứa đựng rủi ro khá lớn.

Page 90: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

90

Mua đối lưu ( Counter – Purchase)

Trong phương thức này nước xuất khẩu trước sẽ cam kết dùng tiền đó để mua lại hàng hóa của

nước nhập khẩu trước nhưng phải sau một khoảng thời gian nhất định ( thường thì nước xuất khẩu trước

là nước phát triển và nước nhập khẩu trước là nước đang phát triển)

Lợi ích khi lựa chọn phương thức mua bán đối lưu

Rất nhiều công ty đa quốc gia đã tiến hành mua bán đối lưu từ những năm 1960, không chỉ các

công ty ở những nước đang phát triển - những nước thường xuyên thiếu ngoại tệ mạnh mà cả các công ty

ở những nước công nghiệp phát triển. Rất khó thống kê chính xác phạm vi của mua bán đối lưu, một số

nhà nghiên cứu ước đoán nó chiếm khoảng hơn 1/3 doanh số mua bán của thế giới. Mua bán đối lưu cũng

rất phổ biến trong các dự án mua bán lớn của chính phủ. Ví dụ, chính phủ liên bang Áo đã phải mua hàng

hoá trị giá hơn 25 triệu đ ôla Áo bằng phương thức mua bán đối lưu. Ở Hàn Quốc, mua bán đối lưu chiếm

hơn một triệu USD trong chi tiêu cho quốc phòng và viễn thông của chính phủ. Ở châu Á, Indonesia đi

tiên phong trong việc sử dụng buôn bán đối lưu cho các chương trình chi tiêu công cộng qui mô lớn. Các

nước Đông Âu và Nga đã có thời giao dịch thông qua nghiệp vụ hàng đổi hàng và mua bán đối lưu.

Mua bán đối lưu ra đời để khắc phục hai vấn đề cơ bản.

- Thứ nhất đó là tình trạng thiếu tiền tệ mạnh thường xuyên xảy ra ở các nước đang phát triển.

- Thứ hai là các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển thiếu các chuyên gia marketing có đủ

trình độ và sự am hiểu về thị trường các quốc gia phương Tây. Mua bán đối lưu giúp các doanh nghiệp

này tiếp cận những thị trường mà họ không thể tiếp cận được, đồng thời tạo thêm nguồn tiền tệ mạnh cho

đất nước.

- Mua bán đối lưu giúp doanh nghiệp thâm nhập thị trường mới và tạo dựng được các mối quan

hệ mới với khách hàng. Ví dụ, trong ngành công nghiệp khai thác mỏ, một số loại khoáng sản chỉ có ở

các nước đang phát triển. Và chỉ có các doanh nghiệp sẵn sàng mua bán đối lưu mới có quyền khai thác

mỏ ở những khu vực này.

- Nhiều công ty dùng mua bán đối ứng một cách sáng tạo như là một cách để phát triển những

nguồn cung mới. Nếu một công ty có thể bảo vệ sản phẩm mà nó cung cấp, mua bán đối ứng sẽ trở nên

hấp dẫn hơn.Doanh nghiệp có thể tìm thấy những nhà cung cấp mới trong quá trình đó.

- Các doanh nghiệp có thể sử dụng mua bán đối lưu như một cách để kiếm lại lợi nhuận đã không

còn trong những tài khoản bị phong tỏa của chi nhánh nước ngoài. Nếu không thể tìm lại lợi nhuận của

mình, doanh nghiệp sẽ tìm kiếm thị trường địa phương cho những sản phẩm mà nó có thể xuất khẩu thành

công trên thị trường thế giới. Văn phòng chi nhánh Motor Trading cũ của General Motors được thành lập

để thực hiện các khoản tín dụng thương mại, tức là bán các sản phẩm xe cộ của nó nhằm dóng góp vào

kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của đất nước mình.

- Xét về tính chất mạo hiểm và phiền hà của hoạt động mua bán đối lưu, các doanh nghiệp có thể

đạt được thành công trong việc đào tạo các nhà quản lý có thể chịu đựng được áp lực tâm lí trong thương

mại. Các công ty đa quốc gia như GM, GE, Siemens, Toshiba, Caterpillar... đã thiết lập các bộ phận riêng

biệt để làm cho các nhà quản lý toàn cầu quen với áp lực tinh thần trong buôn bán, bằng cách đó họ trở

nên có khả năng kinh doanh, sáng tạo, có mối quan hệ chính trị và hiều biết nhiều về các loại hàng hóa

Page 91: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

91

cũng như các sản phẩm có thể bán được. Các doanh nghiệp này nhận thấy rõ giá trị của những điều đó đối

với hoạt động kinh doanh quốc tế và luôn cố gắng để thúc đẩy kinh doanh bằng cách để các nhà quản lý

tham gia vào mua bán đối lưu. Các kỹ năng mà các nhà quản lý có được có ý nghĩa lớn cho hoạt động

kinh doanh quốc tế, không chỉ cho buôn bán đối lưu mà còn cho rất nhiều giao dịch qua biên giới khác.

- Đối với nước NK trước, có thể lợi dụng mua đối lưu để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của mình. Song

không những bất lợi về vốn mà còn phải trả trước một số tiền. Hơn nữa do mua bán đối lưu là cam kết của bên

XK trước về việc sau này sẽ làm nên bên NK trước phải đối đầu với rủi ro của việc cam kết này không được

thực hiện

- Đối với nước XK trước có thể lợi dụng vốn của đối phương trong thời gian từ khi nhận được

tiền hàng cho đến lúc thanh toán tiền hàng và ngược lại, tạo được vị thế cao hơn trong các cuộc đàm phán

sau này

Khó khăn khi lựa chọn phương thức mua bán đối lưu

- Thứ nhất, hàng hóa mà người mua bán cho nhà xuất khẩu có thể có chất lượng kém, ít có khả

năng bán được trên thị trường quốc tế.

- Thứ hai, rất khó để định giá thị trường cho hàng hóa người mua cung cấp bởi vì chúng đa phần

đều là những sản phẩm kém chất lượng. Thêm vào đó không phải lúc nào người mua cũng có cơ hội để

kiểm tra hàng hóa hay có thời gian để tiến hành phân tích thị trường.

- Thứ ba, mua bán đối lưu không hiệu quả vì cả hai bên đều độn giá hàng hóa của mình. Người

mua có thể gặp khó khăn lớn khi bán lại số hàng mà họ được trả thay tiền thanh toán. Như trường hợp

công ty General Electric (GE) thỏa thuận trả cho công ty môi giới tiền hoa hồng để họ bán số hàng mà GE

được trả trong mua bán đối lưu. Kết cục là GE đã cộng thêm chi phí bán hàng vào giá bán cho người mua.

Đến lượt mình, do phán đoán được hành động độn giá của GE, người mua lại chuyển khoản chi phí phụ

đó sang khách hàng của mình. Do vậy, cuối cùng giao dịch giữa GE và bên mua không mấy hiệu quả.

- Thứ tư, mua bán đối ứng là những giao dịch rất phức tạp, phiền hà và tốn thời gian. Kết quả là

tỷ lệ các giao dịch mua bán đối ứng mà các doanh nghiệp có thể hoàn thành là tương đối thấp.

- Thứ năm, mua bán đối ứng thường rất quan liêu do chịu ảnh hưởng của các luật lệ mà chính phủ

ban hành. Các luật lệ đó thực sự rất phiền hà và thường làm nản lòng các doanh nghiệp xuất khẩu.

4.1.4. Thuê ngoài

Khái niệm Outsourcing đi vào thuật ngữ kinh doanh từ những năm 1980, dùng để chỉ một

phần/công đoạn nào đó của công việc trong sản xuất được thuê công ty khác làm để tiết kiệm chi phí và

nguồn lực cho doanh nghiệp. Phần công việc này chỉ là các công đoạn phụ trong sản xuất. Công ty thuê

ngoài chuyên môn hóa vào làm những công việc như vậy nên họ có chuyên môn và có lợi thế so sánh hơn

so với công ty.

Phân loại outsourcing:

Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân loại có nhiều hình thức outsourcing.

Nếu căn cứ vào vị trí địa lý của 2 bên trong hoạt động outsourcing thì có thể phân loại ra thành 2

loại outsourcing là thuê ngoài nội biên (onshore outsourcing – tức là bên outsource và bên cung cấp dịch

vụ ở trong cùng một quốc gia ) và thuê ngoài ngoại biên (offshore outsourcing – bên outsource và bên

cung cấp dịch vụ ở 2 quốc gia khác nhau)

Page 92: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

92

Theo phân loại theo báo cáo “International Recommendation for Industrial Statistics 2008” của

Liên Hợp Quốc thì outsourcing gồm 3 dạng:

- Outsourcing những chức năng hỗ trợ: theo loại hình này, bên outsource sẽ thực hiện quy trình sản

xuất cốt lõi (của một hàng hóa hay dịch vụ) nhưng thuê ngoài những chức năng hỗ trợ nhất định, ví dụ như kế

toán, các dịch vụ máy tính, kiểm toán…

- Outsourcing một phần trong quy trình sản xuất: doanh nghiệp đi thuê ngoài một phần của quy

trình sản xuất (một sản phẩm hoặc một dịch vụ), nhưng không phải là toàn bộ quy trình. Doanh nghiệp sở

hữu đầu vào được giao cho bên cung cấp dịch vụ outsourcing và vì thế có quyền sở hữu với đầu ra cuối

cùng

- Outsourcing toàn bộ quy trình sản xuất: doanh nghiệp thuê ngoài toàn bộ quy trình sản xuất

Theo báo cáo “World Investment Report 2011: Non-equity Modes of International Production

and Development” của UNCTAD (2011), outsourcing gồm 2 dạng: outsourcing trong sản xuất (contract

manufacturing – sản xuất theo hợp đồng) và outsourcing trong lĩnh vực dịch vụ (services outsourcing –

thuê ngoài các dịch vụ). Trong đó, outsourcing dịch vụ bao gồm sự thuê ngoài các quy trình hỗ trợ gồm

các chức năng công nghệ thông tin, kinh doanh và tri thức.

Tuy nhiên, ngày nay trong hầu hết các báo cáo thống kê về hoạt động outsourcing, thuật ngữ này

được hiểu là outsourcing trong lĩnh vực dịch vụ bao gồm 2 hình thức chính là thuê ngoài công nghệ thông

tin (ITO) và thuê ngoài quy trình kinh doanh (BPO)

Thuê ngoài công nghệ thông tin (ITO):

Đây là lĩnh vực được thuê ngoài nhiều nhất hiện nay, đồng thời công nghệ thông tin cũng tạo điều

kiện cho thuê ngoài trong các dịch vụ khác được tiến hành dễ dàng. Thuê ngoài công nghệ thông tin

(ITO- Information Technology Outsourcing) là hoạt động khi một tổ chức, doanh nghiệp sử dụng các

dịch vụ liên quan đến công nghệ thông tin từ các nhà cung cấp chuyên nghiệp bên ngoài thay vì tự tổ

chức. Các dịch vụ được thuê ngoài có thể là một phần hoặc toàn bộ các công việc, từ xây dựng tới vận

hành và chuyển giao tất cả các thành phần của hệ thống thông tin. Các loại hình dịch vụ công nghệ thông

tin trong hoạt động thuê ngoài (Gary Gereffi và các cộng sự, 2009) phổ biến bao gồm:

- Tư vấn CNTT (IT Consulting): các chính sách khai thác, vận hành, nguồn nhân lực

- Phần mềm: Phát triển và bảo trì các ứng dụng (Applications Development and Maintenance –

ADM), tích hợp các ứng dụng (Applications Integration), Quản lý giao diện ( Desktop Management)

- Hạ tầng công nghệ thông tin (Infrastructure): quản lý các ứng dụng (Application Management),

Quản trị mạng ( Network Management)

Eastman Kodak là hãng đi tiên phong trong công việc thuê ngoài các dịch vu công nghệ thông tin,

vào năm 1989 đã chi hàng trăm triệu USD cho hoạt động này

Thuê ngoài quy trình kinh doanh (BPO)

Thuê ngoài quy trình kinh doanh (BPO- Business Process Outsourcing) là một sự di chuyển

những quy trình kinh doanh từ bên trong doanh nghiệp tới các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài. Hiện nay

khi cơ sở hạ tầng viễn thông toàn cầu được thiết lập ngày càng nhiều và bền vững, các kế hoạch BPO

thường bao gồm sự di chuyển công việc tới các nhà cung cấp quốc tế. Các hoạt động của quy trình kinh

doanh thường được thuê ngoài được chia thành 9 nhóm (theo Halvey và Melby, 2005) bao gồm:

Page 93: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

93

- Công việc hành chính (thuế, sổ sách)

- Quản lý tài sản

- Tài chính (kế toàn, quản lý ngân sách tài sản cố định, hệ thống tài chính…)

- Nguồn nhân lực ( tiền trợ cấp, tiền lương, quản lý nhân sự…)

- Công việc tổng hợp (dịch vụ năng lượng, dịch vụ khách hàng…)

- Dịch vụ vật tư/ logistics (lựa chọn sản phẩm, chuyển phát, đóng gói, quản lý kho hàng, lắp đặt

máy móc…)

- Tổng đài (call center, contact center)

- Xử lý các yêu cầu của khách hàng

- Quản lý dữ liệu

Trong những năm gần đây, hình thức thuê ngoài quy trình tri thức (KPO – Knowledge Process

Outsourcing) xuất hiện như một bước phát triển cao hơn của hoạt động BPO, khi các doanh nghiệp thuê làm

bên ngoài các công việc quan trọng liên quan đến việc sang tạo ra năng lực cốt lõi của tổ chức, đòi hỏi nhiều

kỹ năng chuyên biệt, chuyên môn và trình độ cao. Các hoạt động sử dụng KPO phổ biến bao gồm nghiên

cứu và phân tích tài chính, nghiên cứu và phân tích kinh doanh và thị trường, nghiên cứu dược phẩm, nghiên

cứu công nghệ sinh học và nghiên cứu động vật

Lợi ích của Outsourcing

Thế giới ngày nay trong giai đoạn toàn cầu hoá và hội nhập nên việc sử dụng Outsourcing rất phổ biến

đối với các doanh nghiệp.

- Thứ nhất, sang nhượng việc quản lý cơ sở sản xuất (bao gồm máy móc và nhân lực) cho một

doanh nghiệp khác sẽ biến các chi phí cố định (fixed cost) thành chi phí biến đổi (variable cost). Nếu như

ngay từ đầu giao việc quản lý cơ sở sản xuất cho bên ngoài, doanh nghiệp sẽ tối thiểu hóa chi phí cố định,

tạo nên sự năng động và uyển chuyển thật sự của doanh nghiệp. Khi tình hình tiêu thụ trên thị trường khó

khăn, outsourcing là chính sách doanh nghiệp chia sẻ rủi ro. Ví dụ, từ đầu năm 2008 đến nay, tình hình

lạm phát tăng, sức mua giảm mạnh, doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn. Doanh nghiệp nào sử dụng

outsourcing, thời điểm này, họ chia sẻ rủi ro cho đơn vị bên ngoài.

- Thứ hai, doanh nghiệp nhận làm "co-contracting" cho doanh nghiệp cũng nhận sản xuất cho các

doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng lĩnh vực thì giá thành sẽ thấp hơn nhờ sự phát triển của kinh tế

qui mô (economic scale).

- Thứ ba, doanh nghiệp nhận làm outsourcing sẽ phải chuyên môn hóa trong lĩnh vực đó, chất

lượng được đảm bảo đúng theo yêu cầu, và doanh nghiệp sang nhượng cơ sở sản xuất sẽ đỡ tốn tài lực

vào khâu đào tạo nhân sự cho việc nói trên.

- Thứ tư, doanh nghiệp sang nhượng việc quản lý sản xuất sẽ tiết kiệm được tài lực và thời gian để dồn

sức cho việc đi sâu, nâng cao và mở rộng năng lực lõi, và tay nghề chuyên môn của mình ở các lĩnh vực

nghiên cứu, thiết kế và quảng bá thương hiệu.

Lưu ý khi sử dụng phương thức thuê ngoài:

Ở doanh nghiệp nào cũng vậy, không phải tất cả các bộ phận, phòng ban đều mang lại lợi nhuận,

tuy nhiên tất cả các bộ phận đều tạo nên chi phí, ít nhất cũng là lương cho nhân viên. Như vậy về lý

thuyết, chúng ta có thể tách riêng ra thành những bộ phận sinh lợi tiềm năng (tức là bộ phận có doanh thu

Page 94: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

94

vượt mức chi phí) và những phòng ban làm thâm hụt ngân sách (không mang lại thu nhập, nhưng lại cần

thiết để duy trì hoạt động của công ty). Chúng ta sẽ gọi những bộ phận sinh lợi tiềm năng là “trung tâm

lợi nhuận”, còn bộ phận kia là “trung tâm chi phí”.

Thông thường, “trung tâm chi phí” bao gồm: bộ phận quản trị kinh doanh, bảo vệ, bộ phận tiếp

thị, phòng kế toán, bộ phận công nghệ thông tin…; còn “trung tâm lợi nhuận” sẽ gồm có bộ phận bán

hàng, bộ phận sản xuất hay cung cấp dịch vụ…Nếu các trung tâm lợi nhuận thường được xác định bởi

chức năng, nhiệm vụ và chiến lược của công ty, thì các “trung tâm chi phí” lại hình thành theo mức độ

cần thiết. Trên thực tế thật khó hình dung chức năng của một công ty dưới dạng “Trở thành công ty tư vấn

hàng đầu với phòng hành chính - quản trị hạng nhất”, mặc dù bất kỳ công ty nào cũng đều muốn có một

phòng ban như thế.

Đối với doanh nghiệp, trung tâm lợi nhuận là bộ phận cần được chăm sóc nhiều hơn cả với mục

tiêu biến nó trở thành trung tâm lợi nhuận tốt nhất, đem lại doanh thu cao nhất trên thị trường. Do đó, việc

đưa trung tâm này ra bên ngoài sẽ mâu thuẫn và đi ngược lại với chức năng, nhiệm vụ của công ty. Như

vậy, chỉ còn lại trung tâm chi phí có thể được xem xét để sử dụng outsourcing. Tuy nhiên, ở đây có một

điều kiện: outsourcing chỉ khả thi, khi nó không chỉ cho phép giảm chi phí để duy trì bộ phận này, mà còn

phải giữ vững hoặc cải thiện các chỉ số chủ yếu của những bộ phận đó như: chất lượng nhiệm vụ thi hành,

tính hiệu quả của công việc, đảm bảo mức độ bí mật cần thiết… Các chỉ số này có thể thay đổi phụ thuộc

vào từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể.

4.2. Thâm nhập thị trường thông qua đầu tư quốc tế

4.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Khi thảo luận về việc đầu tư trực tiếp nước ngoài, điều quan trọng là chúng ta phải phân biệt được

giữa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và giá trị đầu tư. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

xem như là khoản FDI được thực hiện trên một khoảng thời gian nhất định( thông thường là một năm).

Giá trị đầu tư nói tới tổng tất cả các giá trị tài sản được tích luỹ bởi vốn chủ sở hữu ở nước ngoài trong

khoảng thời gian nhất định.Chúng ta cũng bàn tới dòng vốn ra của FDI nghĩa là dòng vốn FDI trong

quốc gia ra bên ngoài, dòng vốn vào của FDI nghĩa là dòng vốn FDI từ ngoài vào.

FDI có 2 hình thức chính. Thứ nhất là đầu tư mới 100% mang tính chất khai phá thị trường, công

nghệ và lĩnh vực mới, liên quan đến việc thành lập một hoạt động mới ở nước ngoài. Thứ hai là liên quan

đến việc mua lại hoặc sáp nhập với một công ty hiện tại ở nước ngoài (nơi mà các công ty nước ngoài có

10 phần trăm đến 49 phần trăm cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty), phần lớn (nước ngoài quan

tâm của 50 phần trăm đến 99 phần trăm) hoặc cổ phần hoàn toàn đầy đủ (nước ngoài quan tâm của 100

phần trăm).

Các số liệu cho thấy phần lớn đầu tư qua biên giới là trong hình thức sáp nhập và mua lại hơn đầu

tư mới 100%. Liên Hợp Quốc ước tính chỉ ra rằng khoảng 40 đến 80 phần trăm tất cả các nguồn vốn FDI

là trong các hình thức sáp nhập và mua lại giữa năm 1998 đến năm 2003. Ví dụ trong năm 2001, việc sáp

nhập và mua chiếm khoảng 78 của tất cả các nguồn vốn FDI. Năm 2003 con số này là 49 phần trăm. Tuy

nhiên, dòng vốn FDI chảy vào các nước phát triển khác nhau rõ rệt với những dòng vốn chảy vào các

nước đang phát triển. Ở các nước đang phát triển, chỉ có khoảng một phần ba FDI thuộc các hình thức sáp

Page 95: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

95

nhập và mua lại xuyên biên giới.Tỷ lệ này thấp hơn ở các nước phát triển đơn giản chỉ có thể phản ánh

một thực tế là có rất ít các công ty đạt được mục tiêu này ở các nước đang phát triển.

Vậy tại sao phần lớn đầu tư qua biên giới là trong hình thức sáp nhập và mua lại hơn đầu tư mới

100%. Thứ nhất, sáp nhập và mua được thi công nhanh hơn so với đầu tư mới 100%. Đây là một yếu tố

quan trọng trong thế giới kinh doanh hiện đại, nơi thị trường phát triển rất nhanh chóng. Trường hợp của

Cemex minh họa cho điều này (xem các trường hợp mở đầu).Cemex là công ty xi măng lớn thứ ba thế

giới và là công ty đa quốc gia lớn nhất Mexico.Sự tăng trưởng của Cemex đã được thúc đẩy chủ yếu bằng

cách mua lại.Nếu Cemex đầu tư mới 100%, nó không thể phát triển rộng lớn và nhanh chóng. Thứ hai,

các công ty nước ngoài được mua lại bởi những công ty này có những tài sản chiến lược giá trị, chẳng hạn

như sự trung thành thương hiệu, quan hệ khách hàng, nhãn hiệu, bằng sáng chế, hệ thống phân phối, hệ

thống sản xuất vv.... Nó sẽ dễ dàng hơn và có lẽ sẽ ít rủi ro hơn cho một công ty để có được những tài sản

này hơn là xây dựng chúng từ mặt đất lên thông qua việc đầu tư mới 100%. Mua lại hãng sản xuất

Houston của Cemex dựa trên xi măng vùng Nam Mỹ với giá 2,5 tỷ USD là một ví dụ tốt. Cemex muốn

nhập cảnh nhanh vào thị trường xây dựng ngày càng tăng của Mỹ, vùng sản xuất Nam Mỹ và phân phối

tài sản để cho phép Cemex đạt được điều này. Thứ ba, các công ty thực hiện mua lại bởi vì họ tin rằng họ

có thể làm tăng hiệu quả của các đơn vị được mua lại bởi việc chuyển nhượng vốn, công nghệ, hay kỹ

năng quản lý. Ví dụ, Cemex đã phát triển các hệ thống thông tin tốt nhất trong ngành công nghiệp xi

măng toàn cầu, trong đó đã cho phép nó đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Cemex có thể tăng hiệu quả

của các đơn vị mua, chẳng hạn như vùng Nam Mỹ, bằng cách chuyển cho nó bí quyết công nghệ cho các

đơn vị sau khi mua lại. do đó, một số tranh luận khá hấp dẫn ủng hộ việc sáp nhập và mua qua các khoản

đầu tư vào các công ty có vốn rủi ro. Nhưng nhiều vụ sáp nhập và mua lại không nhận ra lợi nhuận nhận

được từ dự kiến của họ.

4.2.2. Đầu tư gián tiếp

Đầu tư loại này nhằm tìm lợi nhuận về tài chính (như cho vay tiền) và không trực tiếp điều hành

hoạt động ở ngoại quốc. Đầu tư danh mục chứng khoán thường được thực hiện bằng một trong hai hình

thức: mua cổ phần trong công ty hay cho công ty hoặc quốc gia vay tiền dưới hình thức trái phiều dài hạn

hay ngắn hạn. Thí dụ, công ty phát hành trái phiếu, hoặc nhà nước phát hành trái phiếu quốc tế để vay tiền

các nhà đầu tư quốc tế. Đầu tư vào danh mục chứng khoán ngoại quốc rất quan trọng đối với đa số công

ty có các hoạt động quốc tế mạnh. Các thủ quỹ công ty thường chuyển vốn của họ từ nước này sang nước

khác để kiếm lợi cao hơn đối với việc đầu tư ngắn hạn.

Ưu điểm của đầu tư nước ngoài:

Thứ nhất, Tăng khả năng thâm nhập đối với các thị trường mới khuyến khích nhiều công ty đầu

tư sản xuất hàng hóa tại hoặc gần các địa điểm của khách hàng. Việc sản xuất ngay tại địa phương sẽ cải

thiện dịch vụ khách hàng và giảm chi phí vận chuyển hàng hóa đến địa điểm của người mua. Coca-Cola,

IBM, và Toyota đều có doanh số bán hàng ở nước ngoài cao hơn thị trường trong nước. Nhà sản xuất chíp

khổng lồ Intel hi vọng sẽ có doanh số bán hàng lớn ở Trung Quốc, khi mà thu nhập của người dân ở nước

này đang tăng lên và chỉ chưa đầy 10% các hộ gia đình sở hữu một chiếc máy tính.

Thứ hai, Rõ ràng, đầu tư nước ngoài giúp các doaonh nghiệp tiếp cận những nguyên liệu thô cần

thiết trong ngành công nghiệp khai khoáng và nông nghiệp. Ví dụ, các công ty trong các ngành công

Page 96: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

96

nghiệp mỏ, dầu, và trồng cây theo vụ không có sự lựa chọn nào khác là phải đến những nơi có nguồn

nguyên liệu thô. Trong ngành công nghiệp rượu vang, các công ty thành lập các nhà máy rượu vang ở

những khu vực thích hợp cho trồng nho.

Thứ ba, Tăng khả năng tiếp cận tri thức và các tài sản khác. Trong những lĩnh vực như R&D, chế

tạo, và marketing, công ty mẹ có thể hưởng lợi từ bí quyết sản xuất của đối tác. Ví dụ, General Motors và

Toyota lần đầu tiên liên kết để tạo ra New United Motor Manufacturing Inc., hay NUMMI, ở Fremont,

California. Kết quả là General Motor đã học hỏi công nghệ từ Toyota trong việc sản xuất xe chất lượng

cao. Đến lượt mình, Toyota cũng nhận lại khả năng chuyên môn về công nghệ và thiết kế cho phép hãng

phát triển các dòng xe hợp với khách hàng Hoa Kỳ hơn.

Thứ tư, Giảm chi phí sản xuất và tìm kiếm nguồn nguyên liệu bằng cách sử dụng lao động giá rẻ

và các đầu vào rẻ tiền trong quá trình sản xuất. Động cơ này đã giải thích cho sự phát triển ồ ạt của các

nhà máy và các cơ sở sản xuất dịch vụ ở Trung Quốc, Mexico, Đông Âu và Ấn Độ.

Thứ năm, trong những ngành công nghiệp đòi hỏi các công ty phải đặc biệt nhạy cảm với nhu cầu

của người tiêu dùng, hay là những ngành có thị hiếu thay đổi nhanh chóng, các nhà quản lý thường đặt

các nhà máy hoặc các hoạt động lắp ráp gần với những khách hàng quan trọng bằng cách sử dụng phương

thức đầu tư nước ngoài. Ví dụ, trong ngành công nghiệp thời trang, nhãn hiệu Zara của Tây Ban Nha và

H&M của Thụy Điển đặt phần lớn cơ sở sản xuất của họ ở những thị trường trọng điểm như Châu Âu.

Chi phí sản xuất tất nhiên sẽ đắt hơn, nhưng sản phẩm sẽ đến được với các cửa hàng nhanh hơn và giới

thiệu những xu hướng thời trang mới nhất sớm hơn.

Thứ sáu, sử dụng phương thức đầu tư nước ngoài sẽ tận dụng tối đa những ưu đãi của Chính phủ.

Để hạn chế nhập khẩu, các Chính phủ có thể trợ cấp hoặc có những ưu đãi về thuế đối với các công ty

nước ngoài để khuyến khích họ đầu tư cục bộ. Chính phủ khuyến khích đầu tư của các công ty nước

ngoài bởi vì nó sẽ tạo ra nguồn vốn và việc làm cho địa phương, tăng thu từ thuế và chuyển giao kĩ năng

cũng như công nghệ.

Thứ bảy, Tránh hàng rào thương mại. Các công ty tham gia vào đầu tư nước ngoài có thể nhằm

mục đích tránh thuế quan và các hàng rào thương mại khác, do những biện pháp này thường chỉ áp dụng

cho xuất khẩu. Bằng cách thiết lập sự hiện diện của mình ở trong một khối kinh tế như là EU, một công ty

nước ngoài có thể có được những lợi thế tương tự như là các công ty sở tại. Làm đối tác với một công ty

địa phương sẽ khắc phục được những luật lệ và rào cản thương mại, hoặc là đáp ứng các luật lệ địa

phương. Mong muốn tránh được các hàng rào thương mại đã giải thích cho việc tại sao một số lượng lớn

các hãng sản xuất ô tô của Nhật Bản lại thành lập các nhà máy ở Hoa Kỳ trong những năm 1980. Tuy

nhiên, động cơ này ngày nay đã trở nên ít quan trọng hơn trước đây do các hàng rào thương mại đã giảm

đáng kể ở nhiều quốc gia.

Nhược điểm của đầu tư nước ngoài:

So sánh với những phương thức xâm nhập khác, đầu tư nước ngoài khiến các doanh nghiệp phải

đối mặt với nhiều rủi ro hơn, do việc thiết lập sự hiện diện ổn định ở một quốc gia nước ngoài khiến cho

hãng sẽ dễ bị tác động trước những hoàn cảnh đặc biệt của quốc gia đó. Sự đầu tư lớn vào nhà máy, trang

thiết bị và nguồn lực con người ở nước sở tại sẽ khiến cho nhà đầu tư trực tiếp phải đối mặt với những rủi

ro chính trị và sự can thiệp của chính quyền địa phương về giá, lương và thủ tục thuê. FDI cũng làm giảm

Page 97: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

97

tính linh hoạt của công ty bằng cách thắt chặt vốn cổ phần trên thị trường nước ngoài. Các nhà đầu tư trực

tiếp thường phải đấu tranh với lạm phát và các điều kiện kinh tế khác ở địa phương đó. Ví dụ,

Procter&Gamble (P&G) có công việc kinh doanh phát đạt thông qua một công ty con của hãng bán những

sản phẩm tiêu dùng ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ lại có lịch sử về lạm phát cao, thỉnh thoảng lên

đến 100% một năm. P&G đã phải nghĩ ra rất nhiều phương thức khác nhau để tối thiểu hóa những thiệt

hại của mình do những hiệu ứng bất lợi của lạm phát, bao gồm những đàm phán về lương vẫn đang tiếp

diễn với lực lượng lao động địa phương, tăng giá phù hợp với những điều kiện địa phương và thu hồi lợi

nhuận nhanh chóng.

Những nhà đầu tư trực tiếp phải đối mặt nhiều hơn với những vấn đề về văn hóa và xã hội đặc

trưng ở nước sở tại. Các doanh nghiệp đa quốc gia với những hoạt động gây chú ý lại đặc biệt dễ phải

chịu những sự giám sát chặt chẽ từ phía công chúng đối với những hoạt động đó. Để có thể tối thiểu hóa

những vấn đề tiềm năng, các doanh nghiệp đa quốc gia thường thích đầu tư vào những quốc gia có văn

hóa và ngôn ngữ tương tự với nước đầu tư. Ví dụ, khi mở cửa hàng ở Châu Âu, các công ty Hoa Kỳ có

thể lựa chọn Bỉ hoặc Hà Lan bởi vì Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi ở những nước này.

4.3. Thâm nhập thị trường thông qua hợp đồng

4.3.1. Hợp đồng mua bán giấy phép

Là phương thức khi một công ty trong nước, cấp phép, giấy phép cho một công ty nước ngoài,

người được cấp phép, quyền sản xuất sản phẩm của mình, để sử dụng quy trình sản xuất của nó, hoặc sử

dụng tên thương hiệu hoặc thương hiệu của mình. Đổi lại để cho người được cấp phép các quyền này,

người cấp phép thu phí bản quyền trên mỗi đơn vị có giấy phép bán, trên tổng doanh thu giấy phép. Một

nhà kinh doanh có thể đi đến quyết định rằng việc sản xuất sản phẩm ở nước ngoài sẽ đem lại hiệu quả

cao hơn là sản xuất sản phẩm đó ở trong nước rồi mang bán ở nước ngoài. Đó là trường hợp xảy ra khi

nhà kinh doanh đó có thể quyết định việc cấp giấy phép để sản xuất và bán các sản phẩm của mình cho

một công ty khác. Cấp giấy phép là một biện pháp đặc biệt có hiệu quả để một công ty có thể sử dụng trên

khắp thế giới công nghệ và quyền sở hữu công nghiệp.

Một hình thức cấp giấy phép đặc biệt có hiệu quả trong hoạt động buôn bán quốc tế là trao đặc

quyền kinh doanh. Cả hàng hóa và dịch vụ đều có thể là đối tượng của loại giao dịch quốc tế này. Đôi khi

việc trao đặc quyền kinh doanh là một phương pháp ít tốn kém để mở rộng sang các thị trường mới. Loại

giao dịch này có liên quan đến việc cấp giấy phép sử dụng nhãn hiệu hàng hóa đối với tên gọi của một sản

phẩm và tên gọi dùng trong kinh doanh. Trong một số trường hợp, đó là việc cấp giấy phép sử dụng “bí

quyết kỹ thuật” hay các bằng sáng chế. Những ví dụ điển hình cho những người cấp các đặc quyền kinh

doanh có thể kể đến là McDonals, KFC, Servicemaster (Dịch vụ thẻ tín dụng) và Pizza Hut.

Nhiều công ty tham gia vào các hợp đồng bản quyền quốc tế, cho phép các quốc gia khác trên thế

giới sử dụng tài sản của mình (ví dụ: thương hiệu, bằng sáng chế, bản quyền, hoặc chuyên môn) theo hợp

đồng, nhận các khoản thanh toán tiền bản quyền trong trở lại.

Ưu điểm của phương thức cấp phép:

- Các công ty không phải chịu các chi phí phát triển và rủi ro kết hợp với mở rộng ra thị trường

nước ngoài. Cấp giấy phép hấp dẫn cho các doanh nghiệp thiếu vốn để phát triển các hoạt động ở nước

ngoài

Page 98: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

98

- Phương thức này trở nên đặc biệt hiệu quả trong trường hợp một công ty không sẵn sang đầu tư

lớn cho thị trường nước ngoài với lý do không quen thuộc thị trường hoặc các yếu tố môi trường kinh

doanh dễ biến động

- Khi gặp các rào cản đầu tư thì các công ty cũng nên lựa chọn phương thức này

- Phương thức này được sử dụng phổ biến khi một công ty sở hữu một số tài sản vô hình có thể có

những hiệu ứng kinh doanh và muốn phát triển những hiệu ứng đó. Ví dụ: Hãng phim Waner Bros đã cấp

phép các nhân vật hoạt hình của mình như Tom và Jerry cho các nhà sản xuất giầy, quần áo, đồ chơi trẻ

em…

- Phương thức nãy cũng phát huy ưu điểm của mình trong trường hợp khi giá thành thành phẩm ở

trong nước cao hơn nước ngoài thì doanh nghiệp trong nước có thể cấp phép tên thương hiệu cho nước

ngoài để sản xuất sau đó nhập khẩu thành phẩm trở lại bán trong nước như trường hợp của thép Việt Ý

4.3.2. Hợp đồng nhượng quyền thương mại

Nhượng quyền thương mại tương tự như cấp phép, nhưng hợp đồng nhượng quyền thường dài

hạn hơn hợp đồng mua bán giấy phép.

Nhượng quyền không chỉ bán tài sản vô hình (và một nhãn hiệu hàng hóa) cho bên nhận quyền,

mà còn khẳng định rằng bên nhận quyền đồng ý tuân thủ các quy tắc nghiệm ngặt trong cách thức hoạt

động kinh doanh

Bên nhượng quyền thường được nhận một khoản thanh toán tiền bản quyền một số tỷ lệ phần

trăm của doanh thu

Nếu như phương thức cấp phép thường được các doanh nghiệp sản xuất sử dụng thì nhượng

quyền thương mại thường được các công ty dịch vụ sử dụng

Ưu điểm của phương thức nhượng quyền thương mại:

Nhượng quyền thương mại có ưu điểm gần giống như cấp phép

- Cho phép các công ty giảm hoặc miễn nhiều chi phí và rủi ro trong việc thâm nhập thị trường

nước ngoài

- Bằng cách sử dụng một chiến lược nhượng quyền thương mại, một công ty dịch vụ có thể xây

dựng một mạng lưới toàn cầu một cách nhanh chóng với chi phí và rủi ro tương đối thấp như KFC

Nhược điểm của nhượng quyền thương mại:

- Phương thức này khiến các công ty ít linh hoạt trong việc điều phối chiến lược hoạt động của

các chi nhánh

- Một nhược điểm lớn của phương thức này là vấn đề kiểm soát chất lượng. Như trường hợp của

cà phê Trung Nguyên. Sau 4 năm ra đời Trung nguyên đã có hơn 400 quán cà phê nhượng quyền ở 61

tỉnh thành của Việt nam. Tuy nhiên chiến lược nhượng quyền của Trung Nguyên chủ yếu tập trung vào

tên thương hiệu mà không chú trọng phát tiển công thức kinh doanh toàn diện (cách thức trưng bày bên

trong cửa hafngm cách thức phục vụ, đội ngũ nhân viên) đãn đến việc nhiều của hàng có thể nhái thương

hiệu dẫn đến công ty không kiểm soát được chất lượng. Bên cạnh đó khoảng cách về địa lý cũng là một

nguyên nhân khiến các công ty nhượng quyền khó kiểm soát về chất lượng

4.3.3. Hợp đồng chìa khóa trao tay

Page 99: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

99

Hợp đồng chìa khóa trao tay là một loại đặc biệt của hợp đồng được sử dụng khi 1 công ty xây

dựng một cơ sở, bắt đầu các hoạt động, đào tạo nguồn nhân lực địa phương, sau đó \\\

chuyển giao cơ sở cho chủ sở hữu nước ngoài. Những hợp đồng này thường sử dụng cho các dự án cơ sở

hạ tầng lớn, ví dụ như xây dựng đường sắt, sân bay, các dự án liên quan đến nguồn tài chính đáng kể, do

đó chúng thường được tài trợ bởi các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới. Các công ty

chuyên về các dự án này có thể thu được rất nhiều lợi nhuận, nhưng họ cũng phải là những công ty có

chuyên môn. Hơn nữa việc đầu tư vào các dự án này đòi hỏi chi phí cao, vì vậy chỉ có một số tương đối

nhỏ các công ty lớn tham gia vào các dự án này, và thường là một tập đoàn hoặc liên kết giữa nhiều công

ty với nhau

Chìa khóa trao tay dự án phổ biến nhất trong các ngành công nghiệp hóa chất, dược phẩm, lọc

dầu, và kim loại, tất cả đều sử dụng công nghệ sản xuất phức tạp, đắt tiền. Ví dụ: Nhà máy lọc dầu Dung

Quất của Việt Nam được xây dựng theo hình thức hợp đồng trọn gói, chìa khóa trao tay với tổ hợp nhà

thầu TPC gồm các đơn vị là Công ty Technip (Pháp), Technip Geoproduction (Malaysia), JGC (Nhật

Bản) và Tecnicas Reunidas (Tây Ban Nha)

Ưu điểm của phương thức này:

- Trong trường hợp khi chính phủ của một quốc gia hạn chế FDI vào một số lĩnh vực quan trọng

hay nhạy cảm như dầu mỏ thì phương thức chìa khóa trao tay trở nên hữu hiệu

- Xét về thời gian , khi doanh nghiệp không tiên đoán được rủi ro của một quốc gia mà doanh

nghiệp dự định đầu tư lâu dài vào (như bất ổn chính trị, quốc hữu hóa tài sản), phương thức chìa khóa trao

tay cũng có ưu điểm hơn hình thức FDI thông thường

Nhược điểm của phương thức này:

- Thứ nhất, Khi một công ty thực hiện hợp đồng chìa khóa trao tay ở nước ngoài thì nó không

đem lại lợi ích lâu dài

- Thứ hai, công ty tham gia vào một dự án chìa khóa trao tay với một doanh nghiệp nước ngoài có

thể vô tình tạo thêm ra một đối thủ cạnh tranh

- Thứ ba, trong trường hợp nếu quy trình công nghệ của công ty là một nguồn lợi thế cạnh tranh,

nếu công ty bán công nghệ thông qua một dự án chìa khóa trao tay cũng là bán lợi thế cạnh tranh

4.3.4. Hợp đồng cho thuê

Hợp đồng là hình thức được sử dụng thường xuyên bởi các công ty cung cấp các dịch vụ đặc

biệt, chẳng hạn như quản lý, kỹ thuật, công nghệ thông tin, giáo dục.vv..với công ty nước ngoài trong

khoảng thời gian và thu khoản lệ phí quy định. Các công ty sử dụng hợp đồng trong trường hợp khả

năng cung cấp của họ không được sử dụng đầy đủ ở trong nước và nhu cầu ở nước ngoài. Hợp đồng

thường là loại tương đối ngắn hạn, linh hoạt, và khoản lệ phí thường là cố định vì vậy các khoản thu là

được quy định và biết trước trong hợp đồng. Tuy nhiên, tính ngắn hạn của hợp đồng cũng chính là hạn

chế chủ yếu, nghĩa là công ty phải liên tục đàm phán các hợp đồng mới để phù hợp với nhu cầu phát

triển kinh doanh. Những cuộc đàm phán này thường tốn kém thời gian, tiền của và đồi hỏi kỹ năng đàm

phán phù hợp với các nền văn hóa khác nhau. Các khoản công ty thu được thường không đồng đều và

công ty phải có khả năng điều tiết các giai đoạn khi không có hợp đồng mới nào được thực hiện

4.4. Cơ sở lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường quốc tế

Page 100: Bgkdqt cô phan thu trang dhtm

100

Lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường quốc tế là một vấn đề lớn hết sức quan trọng đối với

các công ty muốn tham gia vào thị trường nước ngoài. Có rất nhiều phương thức tham gia vào thị trường

quốc tế mà chúng ta đã được nghiên cứu ở trên, mỗi phương thức đều có những ưu điểm và hạn chế và nó

phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giá vận chuyển, rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế, rào cản thương mại, giá

thành sản xuất và chiến lược của từng công ty. Có phương thức đem lại hiệu quả cho công ty này nhưng

cũng có thể là hạn chế đối với công ty khác. Chính vì vậy khi lựa chọn phương thức thâm nhập vào thị

trường quốc tế chúng ta cần phải nghiên cứu toàn diện ở cả những nhân tố chủ quan từ phía doanh nghiệp

và những nhân tố khách quan từ môi trường kinh doanh

4.4.1. Những nhân tố khách quan từ môi trường kinh doanh

Những nhân tố khách quan bao gồm những nhân tố thuộc môi trường chính trị, pháp luật, văn

hóa, kinh tế và công nghệ. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn phương thức thâm nhập

thị trường của các doanh nghiệp

Đối với các quốc gia mà có môi trường chính trị dễ biến động thì doanh nghiệp nên chọn phương

thức xuất khẩu vào thị trường đó vì phương thức này có tính linh hoạt, khi có biến động doanh nghiệp dễ

rút ra khỏi thị trường

Đối với các quốc gia mà có nhiều rào cản thương mại thì các công ty lại không nên chọn phương

thức xuất khẩu mà nên chọn phương thức đầu tư nước ngoài để tránh các rào cản đó. Khi gặp các rào cản

đầu tư thì các công ty cũng nên lựa chọn phương thức cấp phép

Bên cạnh đó yếu tố văn hóa cũng ảnh hưởng lớn đến việc quyết định lựa chọn phương thức thâm nhập

thị trường. Yếu tố văn hóa bao gồm thói quen, tập quán tiêu dùng. Nếu muốn lựa chọn phương thức đầu tư

trực tiếp thì các nhà đầu tư nên lựa chọn thâm nhập vào các quốc gia có nền văn hóa tương tự với văn hóa của

nước đầu tư.

4.4.2. Những nhân tố chủ quan từ phía doanh nghiệp

Bên cạnh những nhân tố khách quan từ các môi trường bên ngoài thì các nhân tố chủ quan từ phía

doanh nghiệp như nguồn vốn, nguồn nhân lực, nguồn hàng, vị thế cạnh tranh, mức độ bao phủ toàn cầu,

quan hệ với đối tác bạn hàng và kinh nghiệm của các doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn

phương thức thâm nhập thị trường.

Trước khi lựa chọn phương thức kinh doanh công ty nên xem xét đầy đủ các yếu tố trên vì mỗi

phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó.

Đối với các doanh nghiệp có nguồn nhân lực mạnh, trình độ chuyên môn cao nhưng nguồn vốn đầu tư

còn hạn chế thì doanh nghiệp nên chọn phương thức xuất khẩu.

Nếu doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh về độc quyền công nghệ thì không nên chọn phương thức

cấp phép để giảm thiểu mất kiểm soát công nghệ mà nên chọn phương thức đầu tư nước ngoài