30
Phn 3: Hàng hóa công cng ----------------------------------- 1 Thành viên nhóm: 1. Phm ThXuân CQ534580 2. Vũ Thị Thy CQ533797 3. Phm Thu Uyên CQ534448 4. Nguyn ThHin CQ531268 BÀI THUYT TRÌNH Bài 2: Các tht bi do tính phi hiu quca thtrường và scan thip ca Chính phPHN 3: HÀNG HÓA CÔNG CNG

Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

  • Upload
    gamaham3

  • View
    3.202

  • Download
    21

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

1

Thành viên nhóm:

1. Phạm Thị Xuân CQ534580

2. Vũ Thị Thủy CQ533797

3. Phạm Thu Uyên CQ534448

4. Nguyễn Thị Hiền CQ531268

BÀI THUYẾT TRÌNH

Bài 2: Các thất bại do tính phi hiệu quả của thị trường và sự can thiệp của

Chính phủ

PHẦN 3: HÀNG HÓA CÔNG CỘNG

Page 2: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

2

Mục lục

A. Lời nói đầu

B. Nội dung

I. Lý thuyết về hàng hóa công cộng (HHCC)

1. Khái niệm và thuộc tính cơ bản của HHCC

2. Phân biệt các loại hàng hóa

2.1 HHCC thuần túy và hàng hóa cá nhân (HHCN) thuần túy

2.2 HHCC thuần túy và không thuần túy

2.3 Một số lưu ý về khái niệm HHCC

3. Nguyên nhân ra đời HHCC

4. Cung cấp HHCC

4.1 Các mô hình cung cấp HHCC điển hình trên thế giới

4.1.1 Mô hình “Nhà nước cung ứng tài chính và Nhà nước tổ chức

cung cấp HHCC”

4.1.2 Mô hình “Khu vực tư cung ứng tài chính và khu vực tư tổ

chức cung cấp HHCC”

4.1.3 Mô hình “Nhà nước và khu vực tư nhân cùng liên kết cung

ứng tài chính và tổ chức cung cấp HHCC”

4.1.4 Mô hình “Lấp chỗ trống”

4.2 Cung cấp HHCC và vấn đề tổn thất phúc lợi xã hội

4.2.1 Cung cấp HHCC thuần túy

4.2.2 Cung cấp HHCC không thuần túy

4.2.2.1 Cung cấp HHCC có thể loại trừ bằng giá

4.2.2.2 Cung cấp HHCC mà loại trừ rất tốn kém

II. Một số ví dụ điển hình về HHCC ở Việt Nam và các nước trên thế

giới

1. Trên thế giới

1.1 Y tế và du lịch y tế ở Cuba

Page 3: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

3

1.2 Nghiên cứu cơ bản ở Nhật Bản và Mỹ

1.3 Chi tiêu cho quốc phòng của thế giới

2. Ở Việt Nam

2.1 Một số HHCC điển hình

2.1.1 Giáo dục

2.1.2 Y tế

2.1.3 Giao thông vận tải

2.1.4 Bưu chính viễn thông

2.1.5 Một số HHCC khác

2.2 Thực trạng chung

2.2.1 Hiệu quả cung cấp HHCC thấp

2.2.2 Bộ máy hành chính còn nhiều bất cập

2.2.3 Thiếu hụt ngân sách trong cung cấp HHCC

III. Đổi mới cung cấp HHCC

1. Sự cần thiết phải đổi mới cung cấp HHCC

2. Biện pháp đổi mới cung cấp HHCC

2.1 Đẩy mạnh sự tham gia của khu vực phi nhà nước trong cung cấp

HHCC

2.2 Cải thiện chất lượng HHCC của khu vực Nhà nước

2.3 Tăng cường giám sát của cộng đồng đối với việc hoạch định chính

sách và đảm bảo chất lượng dịch vụ công

C. Kết luận

Page 4: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

4

A. LỜI NÓI ĐẦU

Thất bại của thị trường là những trường hợp mà thị trường cạnh tranh

không thể sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ ở mức hiệu quả xã hội. Có 5 loại thất

bại thị trường là:

Độc quyền thị trường

Ngoại ứng

Hàng hóa công cộng

Thông tin không hoàn hảo

Bất ổn kinh tế

Cùng với vai trò phân phối lại thu nhập và cơ hội kinh tế cho mọi người và

bắt buộc người dân sử dụng hàng hóa khuyến dụng, những thất bại thị trường

chính là cơ sở quan trọng để Chính phủ can thiệp thị trường nhằm giúp thị

trường hoạt động có hiệu quả hơn và các kết quả kinh tế tạo ra công bằng hơn.

Một trong những thất bại thị trường mà ai cũng biết, tiêu dùng nó hàng

ngày nhưng chưa chắc đã hiểu hết về nó chính là hàng hóa công cộng (HHCC).

Bài thuyết trình sẽ cung cấp một số kiến thức về HHCC như khái niệm, phân

biệt HHCC, thực trạng cung cấp HHCC… Hi vọng các bạn sẽ có cái nhìn đầy

đủ hơn về HHCC và sự cần thiết của Chính phủ trong cung cấp và quản lý

HHCC.

B. Nội dung

I. Lý thuyết về HHCC

1. Khái niệm và thuộc tính cơ bản của HHCC

Theo Paul Samuelson( người Mỹ đầu tiên nhận giải Nobel năm 1970) thì,

hàng hóa công cộng là những loại hàng hóa mà chi phí để nhận dịch vụ từ nó

đối với mỗi người là bằng 0, không thể cấm mọi người cùng sử dụng.

Theo Joseph Stighlitz( giáo sư đại học Columbia, nhận giải Nobel năm

2001), hàng hóa công cộng là những loại hàng hóa mà việc một cá nhân này

Page 5: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

5

đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người khác

cùng đồng thời hưởng thụ lợi ích của nó.

Còn trang web doanhnhanhanoi.net thì định nghĩa: Hàng hóa công cộng là

có hai đặc tính quan trọng. Thứ nhất là nó không thể phân bổ theo khẩu phần để

sử dụng. Thứ hai là người ta không sử dụng nó theo khẩu phần.

Khái niệm chung nhất là: Hàng hóa công cộng là hàng hóa có 2 thuộc

tính cơ bản là không có tính cạnh tranh và không có tính loại trừ:

-Không có tính cạnh tranh nghĩa là khi có thêm một người cùng sử dụng hàng

hóa công cộng sẽ không làm giảm lợi ích tiêu dùng của những người tiêu dùng

hiện có. Có thể hiểu hàng hóa công cộng có thể đáp ứng được lợi ích của nhiều

người không hạn chế số người sử dụng. Thực tế, vấn đề lợi ích của hàng hóa

công không phải lúc nào cũng như nhau đối với nhiều người mà nó phụ thuộc

vào điều kiện, hoàn cảnh của người sử dụng hàng hóa này, họ có thể khai thác

được nhiều hoặc ít lợi ích từ nó, cũng có thể là do sự khác nhau trong nhu cầu

của họ.

-Không có tính loại trừ được hiểu ngầm là về mặt kỹ thuật là không thể hoặc

là chi phí rất tốn kém để ngăn ngừa những người khác cùng sử dụng loại hàng

hóa này. Có thể hiểu là người tiêu dùng không bị cản trở khi có nhu cầu về

nó.Có những hàng hóa công cộng mà chi phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm

loại trừ bằng giá (gọi là chi phí giao dịch) rất tốn kém, ví dụ chi phí để duy trì

hệ thống các trạm thu phí trên đường cao tốc,…thì có thể sẽ hiệu quả hơn nếu

cung cấp nó miễn phí và tài trợ bằng thuế.

Đây cũng là 2 thuộc tính cơ bản nhất của HHCC thuần

túy

2. Phân biệt các loại hàng hóa

2.1 HHCC thuần túy và hàng hóa cá nhân (HHCN) thuần

túy.

Page 6: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

6

Tất nhiên là hàng hóa cá nhân không có 2 đặc tính này. Các bạn có thể

thấy rất rõ nếu so sánh 2 hàng hóa. Ví dụ nhà ở là hàng hóa cá nhân thì cái nhà

đó đã là của bạn thì người khác không được quyền sử dụng nếu không được bạn

đồng ý(đây là tính cạnh tranh), bạn có quyền không cho người khác vào (đây là

tính loại trừ). Còn công viên là hàng hóa công cộng, trong cùng 1 lúc có rất

nhiều người trong công viên nhưng bạn vẫn có thể tập thể dục hoặc đi dạo mà

không làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác, và nhân viên công viên cũng

không thể cho người khác vào mà không cho bạn vào.

2.2 HHCC thuần túy và HHCC không thuần túy

Như định nghĩa ở trên thì hàng hóa công cộng là hàng hóa có 2 thuộc tính

cơ bản là tính không cạnh tranh và tính không loại trừ. Hàng hóa công cộng nào

mang đầy đủ 2 đặc tính trên thì là hàng hóa công cộng thuần túy. Một lượng

hàng hóa công cộng khi cung cấp cho 1 cá nhân thì lập tức có thể tiêu dùng bởi

tất cả các cá nhân khác trong cộng đồng. ví dụ như :quốc phòng, đài phát thanh,

đèn chiếu sáng đường,…Ngược lại là hàng hóa cá nhân thuần túy thì nó chỉ tạo

ra lọi ích cho người mua nó chứ không phải bất kỳ ai. Nói cách khác hàng hóa

cá nhân thuần túy có tính cạnh tranh trong tiêu dùng, vừa dễ dàng loại trừ tất cả

những ai không sẵn sàng thanh toán theo mức giá thị trường.

Vì hàng hóa công cộng thuần túy không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng

nên với một lượng hàng hóa công cộng thuần túy nhất định, chi phí biên để

phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0. Tuy nhiên chi phí biên để sản xuất

HHCC vẫn lớn hơn 0 vì để sản xuất thêm HHCC đòi hỏi tốn nguồn lực của xã

hội

Trong thực tế rất ít hàng hóa công cộng thỏa mãn một cách chặt chẽ hai

thuộc tính nói trên và HHCC chỉ có 1 trong 2 thuộc tính trên được gọi là HHCC

không thuần túy. Chúng được coi là trung gian giũa HHCC thuần túy và hàng

hóa cá nhân thuần túy. Có 2 loại HHCC không thuần túy là HHCC có thể tắc

nghẽn và HHCC có thể loại trừ bằng giá.

Page 7: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

7

HHCC có thể tắc nghẽn là những hàng hóa mà khi có thêm nhiều

người sử dụng thì có thể gây ra sự ùn tắc hay tắc nghẽn khiến lợi ích cưa

những người tiêu dùng trước đó bị giảm sút.

Chi phí để phục vụ cho những người tăng thêm sau một giới hạn nhất định

không còn bằng 0 nữa mà bắt đầu tăng lên. Điểm giới hạn đó gọi là điểm tắc

nghẽn. Một hàng hóa công cộng có thể là HHCC thuần túy vào thời điểm này

nhưng lại là HHCC có thể tắc nghẽn vào thời điểm khác. Ví dụ như ghế đá

trong công viên vào những ngày bình thường sẽ là HHCC thuần túy vì nó đủ

chỗ cho những người có nhu cầu ngồi. Tuy nhiên vào những ngày lễ như 14/2

vừa qua hay như mùng 8/3, 20/10 rất nhiều đôi muốn đi chơi công viên với

nhau vì thế nên tính cạnh tranh để có ghế đá giữa các đôi muốn ngồi tâm sự sẽ

tăng lên, chắc chắn ghế đá sẽ hết chỗ như vậy làm giảm lợi ích của những người

trong công viên và xảy ra hiện tượng tắc nghẽn.

Hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá, hay gọi tắt là HHCC có

thể loại trừ, là những hàng hóa công cộng mà lợi ích của chúng có thể định

giá. Việc đi lại có thể loại trừ bằng giá, nhờ việc đặt các trạm thu phí hai bên

đầu cầu…

2.3 Một số lưu ý về khái niệm HHCC

Từ khái niệm HHCC nêu trên có một số khía cạnh quan trọng cần lưu ý.

• HHCC được mọi người tiêu dùng với khối lượng như nhau nhưng không

nhất thiết phải đánh giá giá trị của các HHCC đó ngang nhau. Đối với một loại

HHCC thuần túy như ngọn hải đăng, những chủ tàu có hàng hóa giá trị lớn sẽ

đánh giá cao giá trị của ngọn hải đăng hơn so với những chủ tàu có hàng hóa rẻ

tiền.

• HHCC thuần túy là một dạng đặc biệt của ngoại ứng tích cực. Nói cụ thể,

khi một người tạo ra một hàng hóa mà tất cả những người khác trong cộng đồng

đều được nhận tác động tích cực của nó thì người ấy đã tạo ra được một HHCC

thuần túy.

Page 8: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

8

• Ranh giới phân định một hàng hóa là HHCC không phải là tuyệt đối, nó

có thể thay đổi theo điều kiện thị trường và tình trạng công nghệ. Có nhiều

HHCC không có tính loại trừ chỉ là do sự lạc hậu về công nghệ. Khi điều kiện

tiên tiến hơn, cho phép tìm ra những cách thức loại trừ đơn giản và rẻ tiền thì

HHCC đó sẽ trở thành HHCC có thể loại trừ. Ví dụ như chương trình truyền

hình khi truyền qua song là miễn phí nhưng hiện nay khi truyền qua hệ thống

dây cáp thì người sử dụng phải trả tiền mới có thể xem truyền hình qua hệ thống

cáp này.

• Có rất nhiều thứ không được coi là hàng hóa thông thường vẫn mang đầy

đủ thuộc tính của HHCC như an ninh xã hội, môi trường trong sạch…

• HHCC không nhất thiết phải do khu vực công sản xuất và HHCN không

nhất thiết phải do khu vực tư nhân sản xuất. Trong thực tế, có rât nhiều HHCN

do chính phủ cung cấp như các khu nhà tập thể, dịch vụ y tế cá nhân do bệnh

viện công thực hiện, giáo dục công… Ngược lại, có nhiều HHCC do khu vực tư

nhân sản xuất như các dự án cơ sở xây dựng cơ sở hạ tầng theo hình thức BOT.

Đây là hình thức mà các hãng tư nhân đầu tư thực hiện dự án, vận hành kết quả

dự án trong một thời gian để thu hồi vốn và lợi nhuận xong sau đó chuyển giao

cho nhà nước tiếp tục vận hành.

3. Nguyên nhân ra đời HHCC

Có thể thấy HHCC là hàng hóa hữu ích cho xã hội, không thể hoặc rất khó

khăn để chia nhỏ hàng hóa thành từng đơn vị tiêu dùng (khẩu phần) và lợi ích

tiêu dùng HHCC chỉ có thể hưởng thụ chung giữa tất cả mọi người, việc người

này tiêu dùng không làm giảm lợi ích thụ hưởng của người khác. Vì vậy nó

không dễ gì ngăn cản những cá nhân không đóng góp tài chính để cung cấp tiêu

dùng chúng, khi đó họ trở thành “kẻ ăn không”. Điều này đặc biệt khó khăn nếu

khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa này vì họ không có khả năng cưỡng

chế các cá nhân phải trả tiền sử dụng HHCC mà họ cung cấp. Trong khi đó

Chính phủ có thể khắc phục phần nào được vấn đề ăn không này bằng cách

Page 9: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

9

buộc cá nhân phải đóng góp bắt buộc thông qua đóng thuế, rồi sử dụng thuế thu

được để tài trợ cho việc sản xuất và cung cấp HHCC.

4. Cung cấp HHCC

4.1 Các mô hình cung cấp HHCC điển hình trên thế giới

4.1.1 Mô hình "Nhà nước cung ứng tài chính và Nhà

nước tổ chức cung ứngHHCC”

Ở mô hình này, Nhà nước bỏ vốn ra tạo lập, tiến hành hoạt động sản xuất,

cung ứng HHCC trên cơ sở kế hoạch Nhà nước giao, theo cơ chế bao cấp (lãi

nộp ngân sách nhà nước, lỗ sẽ được Nhà nước bù lỗ). Chủ thể trực tiếp cung

ứng là doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Với cơ chế này, mặc dù DNNN vẫn

mang lại một số hiệu quả kinh tế, nhưng xét về bản chất, đó không phải là hoạt

động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu hoàn thành kế hoạch đã

được giao và được đảm bảo mọi điều kiện cần thiết để hoạt động, kể cả việc tiêu

thụ sản phẩm theo địa chỉ giao nộp đã được Nhà nước ấn định. Cơ chế này đã

từng được áp dụng phổ biến ở Việt Nam và nhiều nước xã hội chủ nghĩa

(XHCN) khác trước đây, khi phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao

cấp. Hiện nay, trên những nét tổng thể và cơ bản, cơ chế này vẫn còn được áp

dụng ở một vài nước như Cuba, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên..

4.1.2Mô hình "Khu vực tư cung ứng tài chính và khu vực tư tổ chức

cung cấp HHCC”

Mô hình này là hình thức cung ứng trong đó Nhà nước dành phần lớn (nếu

không muốn nói là “hầu hết”) việc cung ứng HHCC cho khu vực tư trực tiếp

sản xuất và cho xã hội. Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân

được phát triển mạnh mẽ, ngay cả trong lĩnh vực “công”. Mô hình này được

triển khai ở nhiều nước, điển hình như ở Mỹ, số lượng DNNN rất hạn chế và

nếu có, chỉ chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất, cung ứng HHCC. “Một

trong những điểm khác nhau chủ yếu giữa Mỹ và nhiều nước Tây Âu là Chính

Page 10: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

10

phủ có vai trò hạn chế với danh nghĩa là người sản xuất HHCC”[1]

. Thế nhưng,

Chính phủ Mỹ lại có tác động lớn đối với các quyết định sản xuất và cung cấp

các HHCC thông qua sự điều tiết bằng thuế, đơn đặt hàng hoặc trợ giá để có thể

làm thay đổi hành vi của các doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Việc hạch toán

kinh tế đối với các HHCC do các DNNN sản xuất và cung cấp không phải dựa

trên sự điều tiết của giá cả thị trường. Do không có giá thị trường để đánh giá

những mặt hàng này, HHCC phải được đánh giá theo chi phí đầu vào làm ra

chúng. Ở Mỹ, các DNNN chủ yếu là các doanh nghiệp công ích, hoạt động

không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Số lượng các doanh nghiệp loại này không

nhiều, nên các công ty tư nhân đảm nhận cung ứng phần lớn các HHCC cho xã

hội. Ngoài các công cụ điều tiết vĩ mô để điều chỉnh hành vi của các DNTN sản

xuất và cung ứng HHCC như thuế, đơn đặt hàng, trợ giá..., Chính phủ Mỹ còn

có chính sách mua HHCC của các hãng tư nhân để đáp ứng nhu cầu cho xã hội.

4.1.3 Mô hình “Nhà nước và khu vực tư nhân cùng liên kết cung ứng tài

chính và cung ứngHHCC”

Theo mô hình này, cả Nhà nước và tư nhân đều có thể liên kết, hợp tác sản

xuất, cung ứng HHCC cho xã hội. Cùng với sự khuyến khích khu vực tư đầu tư

vào các lĩnh vực của nền kinh tế, Nhà nước cũng muốn có một số doanh nghiệp

của mình như là một công cụ điều tiết trực tiếp việc sản xuất, cung ứng một số

HHCC quan trọng mà Nhà nước thấy cần thiết. Mô hình này được tiến hành phổ

biến ở New Zealand, Singapore… Trong nền kinh tế này thường xuất hiện các

hình thức cung ứng chủ yếu sau:

Một là, hình thức "Nhà nước cung ứng tài chính và khu vực tư nhân tổ

chức cung ứng HHCC” Toàn bộ kinh phí đảm bảo phục vụ cho cung ứng đều

được Nhà nước đảm nhận chi trả. Điều khác biệt ở đây là chủ thể trực tiếp tổ

chức cung ứng cho xã hội không phải là DNNN mà là doanh nghiệp thuộc khu

vực tư. Ví dụ, để làm một con đường theo nhu cầu xã hội và chủ trương của

Page 11: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

11

Nhà nước, Nhà nước có thể kêu gọi các DNTN, tổ chức đấu thầu, đặt hàng và

doanh nghiệp trúng thầu sẽ nhận kinh phí từ ngân sách nhà nước và tiến hành

xây dựng con đường đó.

Hai là, hình thức “Khu vực tư nhân cung ứng tài chính và Nhà nước cung

ứng HHCC”. Đây là hình thức được áp dụng để cung ứng những loại HHCC

thường gắn liền với đời sống dân sinh mà DNNN có thể được nhân dân (người

trực tiếp thụ hưởng) chọn (thông qua đấu thầu, đặt hàng…) trực tiếp đứng ra tổ

chức cung ứng. Điều đáng chú ý là tài chính phục vụ cho việc tổ chức xây dựng

cung ứng do người dân đảm nhiệm chi trả cho doanh nghiệp. Trên cơ sở số tài

chính đó, doanh nghiệp sẽ tổ chức cung ứng. Hình thức này thường được vận

dụng ở những địa bàn người thụ hưởng có mức sống thuận lợi, khá đồng đều và

lĩnh vực hoạt động phù hợp. Ví dụ như ở một số địa bàn dân cư, người dân có

thể bàn bạc, thoả thuận cùng thống nhất góp tài chính và kêu gọi một doanh

nghiệp thuộc sở hữu nhà nước (DNNN) mà người dân tin tưởng đặt hàng hoặc

tổ chức đấu thầu làm các con đường trong khu dân cư.

Ba là , hình thức “Nhà nước và khu vực tư nhân cùng đầu tư (góp) vốn

cùng cung ứng HHCC”. Đây là hình thức cung ứng HHCC dựa trên nguyên tắc

bình đẳng giữa các nhà đầu tư, trong đó có Nhà nước. Trong mối quan hệ này,

Nhà nước đóng vai trò là một nhà đầu tư, thành viên hay cổ đông công ty. Các

thành viên (cổ đông…) này cùng góp vốn, cùng hưởng lợi và chịu trách nhiệm

về hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp mà mình tham gia.

4.1.4 Mô hình "lấp chỗ trống”

Cung ứng HHCC có đặc trưng rất cơ bản là khả năng tìm kiếm lợi nhuận

rất khó khăn, nếu như không muốn nói là không có lợi nhuận. Vì lẽ đó, doanh

nghiệp của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là của khu vực tư, thường không

quan tâm đến các lĩnh vực hoạt động thuộc khu vực công mà sản phẩm làm ra

cung ứng cho xã hội là HHCC kể cả/mặc dù pháp luật của quốc gia đó vẫn

thừa nhận, cho phép hay khuyến khích các doanh nghiệp thuộc khu vực tư có

Page 12: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

12

quyền đầu tư, cung ứng. Vì lý do đó, Nhà nước với tư cách là một là tổ chức

đặc biệt của quyền lực công - có đủ tư cách đại diện cho một quốc gia, đủ tài

chính và trách nhiệm thực hiện chức năng, vai trò xã hội của mình - phải đứng

ra cáng đáng, thực hiện vai trò, sứ mệnh để xã hội phát triển an toàn, bình

thường, tích cực, lành mạnh bằng cách thực hiện cung ứng HHCC thay thế các

doanh nghiệp thuần tuý khác.

Mô hình "lấp chỗ trống” được hình thành, phát triển và đề cập đến nhiều,

đặc biệt ở các nước phát triển nền kinh tế thị trường xã hội như Đức, Pháp,

Thuỵ Điển… Ở các quốc gia này, DNNN có mặt chủ yếu để “lấp chỗ trống”

trong sản xuất, cung ứng HHCC mà các DNTN không làm vì các lý do trên.

4.2 Cung cấp HHCC và vấn đề tổn thất phúc lợi xã hội

4.2.1 Cung cấp HHCC thuần túy.

Một trong những khó khăn khi cung cấp HHCC là không có một thị trường

để trao đổi mua bán hàng hóa này giống như thị trường tư nhân. Chúng ta có thể

cung cấp HHCC, như vậy có thể nói ta có thể vẽ được đường cung đối với

HHCC nhưng lợi ích và mức giá mà mỗi người sẵn sàng trả cho lợi ích mà

HHCC mang lại là rất khó để đo lường. Nhà kinh tế học Thụy Điển Erik

Lindahl đã đưa ra một mô hình nhằm tạo ra một mô hình nhằm tạo ra một giải

pháp theo kiểu thị trường cho HHCC thuần túy. Theo mô hình này, việc xác

định mức độ sẵn sàng chi trả của các cá nhân cho HHCC, Chính phủ có thể xác

định được một cơ chế đánh thuế tối ưu theo mức độ lợi ích mà cá nhân nhận

được từ HHCC. Cân bằng Lindahl được xác định tại điểm giao giữa đường cung

về HHCC và mức thuế người dân sẵn sàng trả cho lợi ích mình được hưởng từ

HHCC.

Cân bằng Lindahl cho thấy một tập hợp giá Lindahl và mức cung cấp

HHCC hiệu quả được tất cả các thành viên trong xã hội nhất trí và tự nguyện

đóng góp. Tuy nhiên, áp dụng nguyên tắc đóng góp tự nguyện đòi hỏi tất cả các

thành viên bỏ phiếu một cách trung thực theo đúng lợi ích biên mà họ nhận

Page 13: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

13

được từ HHCC mang lại. Nếu người A có thể đoán trước số tiền tối đa mà

người B sẵn sàng trả cho HHCC thì anh ta sẽ cố gắng buộc người B phải đến

gần sự phân bổ đó bằng cách bộc lộ nhu cầu của mình về HHCC thấp hơn thực

tế. Tương tự, người B có động cơ như thế, hành vi tính toán của các cá nhân có

thể ngăn cản việc đạt được một mức HHCC hiệu quả.

Ở một mức độ cực đoan, nếu cá nhân nhận thấy rằng việc mình có trả tiền

để được tiêu dùng HHCC thuần túy hay không không ảnh hưởng tới việc hưởng

thụ lợi ích của HHCC đó thì lúc đó họ đã trở thành những kẻ ăn không. Kẻ ăn

không là những người tìm cách hưởng thụ lợi ích của HHCC mà không đóng

góp một đồng nào cho chi phí sản xuất và phân phối HHCC đó.

Nếu chỉ có một số ít người muốn trở thành kẻ ăn không thì thị trường vẫn

cung cấp được hàng hoá này mà không cầ Chính phủ. Trong thực tế, ở những

cộng đồng nhỏ, mọi người hầu như đã biết hết nhau, việc che giấu lợi ích cá

nhân là rất khó thì dư luận xã hội là một biện pháp rất tốt để cá nhân đóng góp

đầy đủ cho HHCC. Vì thế ở các thôn xóm nhỏ hoặc các khu tập thể, ta vẫn thấy

cá nhân có thể tự thỏa thuận với nhau về mức đóng góp cho các công trình công

cộng như đường làng, ngõ xóm, các công trình cui chơi cho trẻ em, đường điện,

đường nước…

Tuy nhiên, khi cộng đồng càng lớn thì việc che giấu ý muốn cá nhân càng

dễ dàng, sự phát hiện và trừng phạt của xã hội đối với những kẻ ăn không càng

khó khăn thì động cơ trở thành kẻ ăn không càng lớn. Nếu tất cả các cá nhân

trong cộng đồng đều chọn chiến lược hành động như những kẻ ăn không thì kết

cục sẽ không có HHCC nào được cung cấp. Điều này đặc biệt khó khăn khi tư

nhân đứng ra cung cấp HHCC, vì họ không có khả năng cưỡng chế các cá nhân

phải trả tiền sử dụng HHCC mà họ cung cấp. Đây cũng chính là lý do khiến khu

vực tư nhân không muốn tham gia cung cấp HHCC thuần túy.

Chính phủ có thể khắc phục được vấn đề này bằng cách buộc các cá nhân

phải đóng góp bắt buộc thông qua thuế.

Page 14: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

14

4.2.2 Cung cấp HHCC không thuần túy.

4.2.2.1 Đối với những HHCC có thể loại trừ bằng

giá

Với những HHCC có thể loại trừ bằng giá thì quan điểm chung là nên dùng

giá để loại trừ bớt việc tiêu dùng nhằm tranh gây ra tắc nghẽn, đồng thời đảm

bảo các cá nhân sẽ sử dụng hiệu quả hàng hóa này.

Tuy quan điểm này là đúng đối với những hàng hóa nhanh bị tắc nghẽn,

nhưng nó có thể vẫn gây tổn thất phúc lợi cho xã hội nếu việc tiêu dùng hàng

hóa đó chưa đạt đến điểm tắc nghẽn. Lý do là khi chưa đến điểm tắc nghẽn

nghĩa là việc tiêu dùng chúng không có tính cạnh tranh và vẫn tạo ra phúc lợi xã

hội.

(Lưu ý: Qe và Q* đều chỉ lượng cầu cân bằng, E là giao điểm của đường

cầu và trục tung, A là giao điểm của đường cầu và đường giá)

Công suất thiết kế qua cầu là Qc thì điểm tắc nghẽn là Qc. Nếu số lượt qua

cầu tối đa là Qm thì không có hiện tượng tắc nghẽn, tức là chi phí phục vụ thêm

một lượt qua cầu là bằng 0.

Nếu việc qua cầu được thực hiện miễn phí thì số lượt qua cầu sẽ đạt Qm và

lợi ích thu được từ toàn bộ cây cầu là toàn bộ tam giác OEQm. Nhưng nếu một

Page 15: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

15

hãng tư nhân đứng ra xây dựng và thu phí qua cầu tại mức P* thì số lượt qua

cầu là Q*. Một số lượt qua cầu mà lợi ích biên lớn hơn chi phí biên sẽ không

được thực hiện (Qm – Q*), cho dù hãng tư nhân thu được một doanh thu từ phí

bằng diện tích OP*AQ*. Tổn thất phúc lợi đối với xã hội là diện tích tam giác

AQ*Qm.

Có thể nói, nếu hàng hóa mà chi phí của việc cung cấp bằng 0 thì hàng hóa

đó nên được cung cấp miễn phí, còn chi phí để sản xuất ra chúng có thể được

trang trải thông qua các nguồn thu khác, ví dụ từ thuế…

4.2.2.2 Đối với những hàng hóa mà việc loại trừ rất

tốn kém.

Trường hợp thứ hai ta xem xét ở đây là những hàng hóa công cộng có thể

tắc nghẽn, do đóc nên loại trừ bớt việc tiêu dùng để tránh tình trạng tắc nghẽn,

nhưng chi phí để thực hiện việc loại trừ này quá lớn khiến chính phủ phải chấp

nhận cung cấp công cộng hàng hóa này. Gọi tất cả các chi phí liên quan đến

việc điều hành một hệ thống giá cả để loại trừ việc tiêu dùng HHCC là chi phí

giao dịch. Đó là toàn bộ những chi phí cần thiết để hoàn thành một giao dịch

kinh tế, chẳng hạn chi phí để duy trì hệ thống trạm thu phí trên đường cao tốc.

( Hình 2.15 giáo trình trang 94)

Xét một ví dụ về việc đi lại trên đường cao tốc. trường hợp này được mô tả

trong hình sau. Trục hoành thể hiện số lượt người đi lại trên đường đó trong một

ngày, trục tung thể hiện mức giá. Việc đi lại trên đường cao tốc có thể gây tắc

nghẽn, tức là chi phí biên cảu việc cung cấp sẽ lớn hơn 0 trước khi đạt mức tiêu

dùng tối đa. Điều này được mô tả bằng việc Qc (công suất thiết kế cảu con

đường) nhỏ hơn Qm (mức tiêu dùng tối đa khi việc đi lại trên đường là miễn

phí). Như vậy, mức tiêu dùng tối ưu nên dùng lại ở Q*, khi chi phí biên bắng lợi

ích biên.

Nếu chính phủ cung cấp công cộng dịch vụ này thì tổn thất mà xã hội phải

gánh chịu là phẩn diện tích EFQm . Đây là phẩn tổn thất xảy ra do tiêu dùng quá

Page 16: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

16

mức. Để tránh phần tổn thất này, cần dùng một cơ chế loại trừ bằng giá nào đó,

chẳng hạn đặt trạm thu phí ở tất cả các ngả đường dẫn vào con đường này. Tuy

nhiên điều đó làm chi giao dịch để làm điều đó tăng rất cao, làm mức lệ phí tăng

lên mức Po và số lượng đi lại trên tuyến đường này giảm xuống còn Qo .

Việc loại trừ bằng lệ phí sử dụng đã áp đặt thêm cho xã hội một khoản tổn

thất, đó là phần diện tích EAQcQo . Đây là phần lợi ích mà xã hội nhận được do

tăng mức tiêu dùng từ Qo lên Q*, vì chi phí biên vẫn nhỏ hơn lợi ích biên mà xã

hội nhận được.

Như vậy, quyết định cung cấp HHCC theo hình thức nào: Công cộng hay

thu phí cần phải so sánh giữa tổn thất khi cung cấp công cộng (diện tích EFQm)

và tổn thất gây ra do cung cấp tư nhân (diện tích AEQcQo). Nếu diện tích EFQm

nhỏ hơn thì cung cấp công cộng có thể là một hình thức cung cấp hiệu quả hơn.

Tuy nhiên có một điểm cần lưu ý là hình thức cung cấp HHCC không liên

quan gì đến việc ai là người cung cấp nó. Ngay cả khi xem xét xem HHCC có

nên được cung cấp hay không thì cũng chỉ có nghĩa là hàng hóa đó có nên hay

không nên thu phí sử dụng. Còn chính phủ cũng không nhất thiết phải là người

đứng ra sản xuất mà có thể tài trợ tư nhân sản xuất HHCC.

II. Một số ví dụ điển hình về HHCC của Việt Nam và một số

quốc gia trên thế giới

1. Trên thế giới

1.1 Y tế và du lịch y tế ở Cuba

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công nhận hệ thống y tế tốt nhất thế giới là

ở Cuba. Cuba có chuẩn y tế rất cao, hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn diện cho

mọi người dân, hoàn toàn miễn phí, cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế chất lượng

cao, ưu tiên phòng bệnh và chữa bệnh giai đoạn sớm.

Trọng tâm của hệ thống chăm sóc y tế đất nước vùng Caribbe này chính là

hệ thống bác sĩ gia đình. Một bác sĩ và đội ngũ y tá chịu trách nhiệm chăm sóc

sức khỏe cho khoảng 700 người (trong khi các bác sĩ ở Anh phải trông coi gấp

Page 17: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

17

đôi). Ngay cả khi một bệnh nhân được xác định hoàn toàn không có bệnh tật,

bác sĩ cũng bất ngờ đến thăm họ mỗi năm một lần, nhằm quan sát cách sống của

người này và môi trường sống của họ. Hệ thống phòng khám 24/24 cũng là một

sáng kiến của Cuba. Vì vậy, tuổi thọ trung bình của Cuba khá cao là 78, ngang

với Hoa Kỳ. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh của Cuba còn thấp hơn ở Hoa Kỳ. Cuba

chỉ có 200 bệnh nhân AIDS và gần như không có người dân nào bị nhiễm viêm

gan B.

Điều đặc biệt, Cuba được xem là một điểm đến du lịch chăm sóc sức khỏe

hấp dẫn nhất trên toàn thế giới, nhất là với những người tìm kiếm dịch vụ chăm

sóc sức khỏe chất lượng cao với chi phí thấp. Du lịch y tế là sự kết hợp độc đáo

giữa du lịch với khám chữa bệnh, trong thời gian này, bạn sẽ dành cho mình

một kỳ nghỉ trước hoặc sau khi điều trị. Khí hậu nhiệt đới của hòn đảo hình cá

sấu vươn dài trên bờ biển Caribe, trình độ của bác sĩ nơi đây, chi phí sinh hoạt

rất phải chăng và các bãi biển đẹp như thiên đường là những điều kiện thúc đẩy

du lịch y tế phát triển mạnh mẽ.

1.2 Nghiên cứu cơ bản ở Nhật Bản và Mỹ

Vào những năm 1980, khi người Nhật chỉ thiên về hỗ trợ nghiên cứu ứng

dụng và phát triển sản phẩm hơn là khoa học cơ bản nhưng họ đã chiếm lĩnh

nhiều thị trường công nghệ, kể cả những lĩnh vực rất tinh xảo như bộ nhớ truy

cập ngẫu nhiên động (DRAM), và người ta thậm chí tự hỏi ngành công nghiệp

bán dẫn của Mỹ liệu có cơ may sống sót. Nhưng thực tế thì ngành công nghiệp

bán dẫn của Mỹ đã không bị diệt vong, và trong lúc người ta tiên đoán về sự lụi

tàn của nó, thì các nhà nghiên cứu Mỹ từ 1989 đã làm cuộc cách mạng, tạo ra

những thị trường mới với công nghệ sinh học, đa phương tiện, phần mềm máy

tính, và liên lạc điện tử, ... Cùng thời gian đó, nền kinh tế Nhật thụt lùi dần. Vì

thế Chính phủ Nhật trong Kế hoạch Cơ bản cho Khoa học và Công nghệ, công

bố vào 1996, đã dự tính tăng hỗ trợ kinh phí cho khoa học cơ bản thêm 50%

trong vòng 5 năm.

Page 18: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

18

1.3 Chi tiêu cho quốc phòng của thế giới

Theo báo cáo thường niên mang tên Cân bằng Quân sự do Viện Nghiên

cứu Chiến lược Quốc tế (IISS) của Anh vừa công bố, trong năm 2013, với 600,4

tỷ USD, Mỹ đã giành ngôi vị quán quân về chi tiêu quốc phòng. Chỉ tính riêng

chi phí quân sự của Mỹ đã gần bằng tổng chi phí quân sự của 15 nước tiếp sau

trong lĩnh vực này. Nếu so với tổng chi phí quân sự của các nước dưới thứ hạng

15, con số 320 tỷ USD của các nước này chỉ tương đương hơn một nửa mức chi

của Mỹ. Vị trí thứ hai và thứ ba thuộc về Trung Quốc và Nga với con số tương

ứng là 112,2 tỷ USD và 68,2 tỷ USD.

Trong khi đó, với số liệu chênh lệch không quá lớn so với của IISS, báo

cáo của hãng phân tích an ninh - quốc phòng IHS Jane’s cho biết, năm 2013, chi

phí quốc phòng của Mỹ là 582,4 tỷ USD-lớn nhất thế giới, tiếp theo là Trung

Quốc 139,2 tỷ USD và Nga 68,9 tỷ USD. Cũng theo IHS Jane’s, trong khi mức

chi tiêu quân sự của các cường quốc đậm dấu ấn về quy mô thì Trung Đông lại

gây ấn tượng với tốc độ gia tăng nhanh nhất, trong đó Ô-man và A-rập Xê-út đã

tăng hơn 30% trong hai năm qua. Riêng A-rập Xê-út, trong 10 năm qua, ngân

sách quốc phòng đã tăng gấp hơn 3 lần.

IHS Jane’s dự báo trong năm 2014, tổng chi tiêu quốc phòng của toàn cầu

dự kiến đạt 1.547 tỷ USD, tăng 0,6% so với năm 2013 và động lực tăng trưởng

trong chi tiêu quân sự sẽ đến từ Nga, Trung Quốc và Trung Đông. Ngân sách

quốc phòng của Nga dự kiến sẽ tăng 44% trong 3 năm tới lên 98 tỷ USD vào

năm 2016. Riêng Trung Quốc, đến năm 2015, chi phí quốc phòng sẽ vượt tổng

chi của Anh, Đức và Pháp. Với đà như hiện nay, chi phí quốc phòng của Nga và

Trung Quốc trong năm 2014 dự kiến sẽ cao hơn tổng chi phí quốc phòng của

Liên minh châu Âu (EU). Cho dù vẫn là nước dẫn đầu về phí tổn trong lĩnh vực

quốc phòng, nhưng chi phí của Mỹ sẽ giảm xuống còn khoảng 575 tỷ USD vào

năm 2014 và 535 tỷ USD vào năm 2015 do cắt giảm chi tiêu.

2. Ở Việt Nam

Page 19: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

19

2.1 Một số HHCC điển hình

2.1.1Giáo dục

Nếu như năm 1945 nước ta còn 95% người dân mù chữ, thì đến thời điểm

này cả nước đã có hơn 97% người dân biết chữ. Năm 2000, Việt Nam đã đạt

chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Từ năm học 2002-2003, tỷ

lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi 15-24 đã đạt gần 95%, số năm đi học

trung bình của người dân đạt mức 7,3 năm. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy

mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh.

Bên cạnh việc không ngừng tăng tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục từ 8,6%

năm1985 tăng lên 12,3% năm 2003, Nhà nước ta đã tích cực vận động, thu hút

vốn ODA, tài trợ của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước dưới hình thức

viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi. Với mức chi cho

giáo dục - đào tạo hàng năm hiện nay tương đương 20% tổng chi ngân sách nhà

nước, Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới đầu tư cho giáo dục - đào

tạo cao nhất.

Năm 2012, tổng số tiền chi cho giáo dục là 170.349 tỷ đồng, tăng hơn so

với năm trước. Năm 2011, số tiền chi cho giáo dục là 151.200 tỷ đồng.

Tuy nhiên, do quy mô nền kinh tế còn nhỏ, trong khi nước ta lại có dân số

trẻ, số lượng người đi học rất lớn, ngân sách đầu tư cho lĩnh vực này không đáp

ứng được nhu cầu, nên cần phải có sự đóng góp của xã hội cho sự nghiệp giáo

dục - đào tạo.

So với các nước trên thế giới và với cả cơ sở đào tạo có yếu tố nước ngoài,

cơ sở giáo dục xã hội hóa, thì mức học phí của nước ta rất thấp, cơ sở vật chất

cho giáo dục - đào tạo vừa thiếu, vừa lạc hậu.

2.1.2Y tế

Trong lĩnh vực y tế, hệ thống y tế nhà nước đã được xây dựng và phát triển

tương đối rộng khắp. Nhà nước đã có quy hoạch tổng thể phát triển sự nghiệp

chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe người dân. Tổng chi cho y tế năm 2010

Page 20: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

20

của Việt Nam chiếm khoảng 7% GDP. Trong đó chi tiêu từ ngân sách nhà nước

chiếm 3% GDP, phần còn lại là chi tiêu tư cho y tế, chủ yếu là các khoản chi từ

tiền túi người bệnh.

Ngân sách nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho đơn vị cung ứng dịch vụ năm

2010 chiếm 24% tổng chi cho y tế, trong khi chi từ quỹ bảo hiểm y tế là 17%.

Theo Luật Bảo hiểm Y tế được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ năm

2009, Nhà nước hỗ trợ 100% phí bảo hiểm cho người nghèo và trẻ em dưới 6

tuổi.

Năm 2010 tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 60% dân số, và đến tháng 6/2012 là

63%. Mục tiêu của Chính phủ là đến năm 2015 có 75% dân số tham gia BHYT

và 90% vào năm 2020.

Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng gia tăng chi phí cho y tế. Một

nghiên cứu do TCYTTG phối hợp với Trường Đại học Y Hà Nội thực hiện cho

thấy năm 2010 có 2,5% số hộ gia đình bị rơi vào cảnh đói nghèo và 3,9% số hộ

gia đình phải đối mặt với khó khăn về tài chính do các khoản chi phí khám chữa

bệnh gây ra.

Đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2013, Bộ Y tế cho

biết ngân sách toàn ngành ước thực hiện là 71.828 tỷ đồng. Bộ Y tế đưa ra dự

toán chi từ ngân sách nhà nước năm 2014 là 83.807 tỷ đồng.

2.1.3 Giao thông vận tải

Lĩnh vực cung ứng dịch vụ vận tải thu hút sự tham gia của các thành phần

kinh tế, chủ yếu là vận tải đường ô tô và đường sông, còn vận tải đường hàng

không và vận tải biển vẫn tập trung chủ yếu trong tay các công ty của nhà nước.

Vốn đầu tư cho ngành giao thông 3 năm (2009-2011) khoảng 181.324 tỷ

đồng, bình quân 60.441 tỷ đồng/năm, trong đó vốn TW chiếm 61% vốn địa

phương chiếm 39% (các dự án vốn TW thì NSNN chiếm 35,6%; TPCP 40,0%

và ngoài NS 24,3%).

Page 21: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

21

Tỷ lệ đầu tư cho ngành GTVT so với GDP trong giai đoạn 2009 đến 2011

đạt bình quân cả nước là 3,1% (cao hơn giai đoạn 2000 đến 2006 đạt bình quân

cả nước là 2,8%).

Bảng 1.8. Tổng hợp vốn thực hiện đầu tư phát triển ngành GTVT

giai đoạn 2009-2011

Đơn vi: tỷ đồng

T

T Năm

Vốn

TW

Vố

n ĐP

Tổng

Vốn

(TW+ĐP)

GD

P

Tỉ lệ đầu

tư so với

GDP (%)

1 2009 36.1

02

28.

653

64.75

5

1.65

8.400 3,9%

2 2010 39.3

72

22.

595

61.96

7

1.98

0.900 3,1%

3 2011 35.1

02

19.

500

54.60

2

2.53

5.000 2,2%

Cộng 110.

576

70.

748

181.3

24

Bình

quân

36.8

59

23.

583

60.44

1 3,1%

Nguồn: Vụ KHĐT Bộ GTVT và tổng hợp của tư vấn

Như vậy có thể thấy ngành giao thông vận tải chủ yếu do nhà nước đảm

nhận, khu vực tư nhân gần như chưa tham gia vào lĩnh vực này.

Nhìn chung, nhu cầu đi lại và kinh doanh của người dân được đáp ứng tốt

hơn; song chất lượng dịch vụchưa cao. Tình trạng tắc nghẽn giao thông ởcác đô

thị lớn chưa được khắc phục. Tai nạn giao thông tiếp diễn nghiêm trọng.

2.1.4 Bưu chính viễn thông

Việc cung ứng dịch vụ bưu chính viễn thông có bước phát triển mạnh.

Trước thời kỳ đổi mới, dịch vụ viễn thông chủyếu nhằm phục vụ cho các cơ

Page 22: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

22

quan, doanh nghiệp nhà nước và một số cơ sở sản xuất. Đối với người dân, máy

điện thoại khi đó còn là một thứ xa xỉ. Đến năm1990, cảnước mới có 114 nghìn

máy điện thoại, với mật độ0,17 máy/100 dân. Cùng với chính sách cải cách kinh

tếvà mở cửa, ngành bưu chính viễn thông trong một thời gian ngắn đã thay đổi

căn bản từ một hệ thống lạc hậu sang mạng kỹ thuật số hiện đại mở rộng cả cho

các vùng nông thôn, miền núi, biên giới và hải đảo, đảm bảo thông tin nội địa

và quốc tế thông suốt.

2.1.5 Một số dịch vụ khác

- Cấp nước đô thị: Hệ thống cấp nước tại các đô thị được đầu tư xây

dựng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, từ năm 1998 đến nay tổng mức

đầu tư cho cấp nước đô thị khoảng 19.000 tỉ đồng (nguồn vốn nước ngoài

chiếm khoảng 80%) và kết quả đạt được: khoảng 440/755 đô thị có hệ

thống cấp nước sạch tập trung, tổng công suất thiết kế đạt khoảng 6,1- 6,2

triệu m3/ngày đêm, mức sử dụng nước sạch đạt bình quân 90

lít/người/ngày, tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước đạt 76%, tỷ lệ thất thoát

trung bình đã giảm từ 40% năm 2000 xuống còn khoảng 30% năm 2010.

- Thoát nước và xử lý nước thải: Hầu hết các đô thị tỉnh lị đã và

đang được đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước, hiện có 7 đô thị có trạm

xử lý nước thải sinh hoạt đang hoạt động với các công suất khác nhau, 11

đô thị đang triển khai các dự án xây dựng hệ thống thoát nước và 11 đô

thị khác đang triển khai công tác đấu thầu thiết kế hoặc thi công xây

dựng. Tổng công suất các nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt đô thị đạt

khoảng 315.000m3/ngày đêm.

- Dịch vụ về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt

đô thị: Tỉ lệ thu gom trung bình đạt 82%. Tỉ lệ thu hồi các thành phần có

khả năng tái chế và tái sử dụng khoảng 20-25%. Công tác phân loại CTR

tại hộ gia đình cũng đang ở giai đoạn triển khai thí điểm tại một số

phường, xã ở Hà Nội và TPHCM. Công nghệ xử lý CTR chủ yếu được sử

Page 23: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

23

dụng hiện nay là chôn lấp và chế biến chất thải hữu cơ thành phân

compost; công nghệ đốt rác mới chỉ tập trung xử lý chất thải rắn nguy hại

y tế.

- Dịch vụ về cung cấp điện và chiếu sáng đô thị: Tại các đô thị loại

đặc biệt và loại I, II đã có 90% các tuyến đường chính cấp đô thị được

chiếu sáng, tại các đô thị loại III, IV, tỉ lệ này chiếm gần 80%. Các đô thị

loại IV và loại V tập trung chiếu sáng đường phố chính chủ yếu là những

đoạn quốc lộ, tỉnh lộ đi qua đô thị. Việc sử dụng rộng rãi nguồn sáng,

thiết bị chiếu sáng tiết kiệm điện cũng đã và đang được triển khai tại các

địa phương.

2.2 Thực trạng cung cấp hàng hóa công cộng ở Việt Nam

2.2.1Hiệu quả cung cấp HHCC thấp

Các HHCC này nhìn chung không chỉ thiếu về số lượng, mà chất lượng

phục vụ còn thấp do khối lượng HHCC Nhà nước tiếp nhận cung ứng trực tiếp

còn quá lớn trong khi hệ thống cung cấp HHCC còn nhiều hạn chế về năng lực

quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện.

Sự độc quyền của các cơ quan nhà nước trong việc cung ứng một số

HHCClà một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả cung ứng HHCC thấp.

Tình trạng độc quyền đã làm tăng tính quan liêu, cửa quyền của bộ máy nhà

nước. Hoạt động dưới sự bao bọc của Nhà nước, các cơ quan nhà nước chịu

trách nhiệm cung cấp HHCC chưa thực sự phải đối mặt với cạnh tranh và nguy

cơ phá sản nên chưa có động lực để giảm chi phí, hạ giá thành và nâng cao hiệu

quả cung cấp HHCC. Có thể thấy rõ trong ngành điện, với sự độc quyền của

EVN, giá điện tăng liên tục ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất của

người dân.

2.2.2 Bộ máy hành chính nhà nước còn nhiều bất cập

Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước đang bộc lộ nhiều điểm yếu, không

phù hợp với chức năng của nền hành chính nhà nước trong điều kiện kinh tế thị

Page 24: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

24

trường và do đó không có khả năng cung ứng những hàng hóa, dịch vụ mà thực

tế đòi hỏi. Hệ thống thể chế hành chính còn chưa đồng bộ, còn chồng chéo và

thiếu thống nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp;

trật tự kỷ cương chưa nghiêm. Phương thức tổ chức bộ máy hành chính chưa

khoa học, còn cồng kềnh, vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán; chưa có những

cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt động của cơ quan hành chính,

đơn vị sự nghiệp, tổ chức cung ứng HHCC.

Một yếu tố cơ bản khác làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng cung ứng cấp

HHCC của Nhà nước là đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm

chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn và kỹ năng hành chính, tệ

quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng trong một

bộ phận cán bộ, công chức.

2.2.3 Thiếu hụt ngân sách trong cung cấp HHCC

Mặc dù nguồn kinh phí từ ngân sách cho hoạt động sự nghiệp tăng nhanh

hơn các lĩnh vực khác, song vẫn ở mức rất hạn chế, không bảo đảm được chi phí

cần thiết của các đơn vị nhà nước cung cấp HHCC. Mức ngân sách hạn hẹp như

vậy đã ảnh hướng rất lớn đến hiệu quả cung cấp HHCC, làm thu hẹp diện dịch

vụ được cung ứng cũng như chất lượng dịch vụ, trước hết là không đủ trả lương

thỏa đáng cho cán bộ, nhân viên trong các ngành cung ứng HHCC, nhất là các

giáo viên, cán bộ y tế, công nhân vệ sinh môi trường, tiếp đó là không đáp ứng

được yêu cầu phát triển. Trong khi ấy, nhu cầu của nhân dân về các lĩnh vực

này đang tăng lên nhanh chóng với đòi hỏi cao hơn về chất lượng khi mức sống

ngày một cải thiện. Thực trạng này dẫn đến những bất cập trong việc cung cấp

HHCC của Nhà nước, đồng thời làm phát sinh những hiện tượng tiêu cực, phá

huỷ nền tảng đạo đức của xã hội.

III. Đổi mới cung cấp HHCC

1. Sự cần thiết phải đổi mới cung cấp HHCC

Ở nhiều nước trên thế giới, khu vực nhà nước đã từng nắm độc quyền

Page 25: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

25

trong lĩnh vực cung cấp HHCC và nhìn chung chất lượng cung ứng là vấn đề

gây nhiều bức xúc. Những thập kỷ qua đã chứng kiến việc nhà nước trực tiếp

tiến hành quá nhiều hoạt động, trong đó có hoạt động cung cấp HHCC, mà lẽ ra

có thể chuyển giao ở một mức độ nhất định cho thị trường và xã hội dân sự đảm

nhiệm. Kinh nghiệm từ các nước phát triển cho thấy một chính phủ ôm đồm quá

mức sẽ không đưa đến một xã hội phát triển. Do vậy, một trong những mục tiêu

cải cách đã được các nhà nước xác định rõ là chuyển một phần khá lớn chức

năng quản lý xã hội của chính phủ sang cho các tác nhân khác, và xã hội hóa

dịch vụ công là một xu thế lớn trong trào lưu cải cách nhà nước hiện nay ở phần

lớn các nước trên thế giới. Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng nhất trong đảm

bảo cung cấp dịch vụ công, nhưng không nhất thiết phải là người trực tiếp cung

cấp tất cả các dịch vụ đó. Vai trò của nhà nước cần thể hiện rõ hơn trong đẩy

mạnh quản lý cung cấp HHCC bằng luật pháp, chính sách và các biện pháp

mang tính hỗ trợ, kích thích.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nhận thức từ phía các cơ quan

công quyền và từ chính những người dân về sự cần thiết phải có sự chuyển biến

trong cung cấp HHCC:

- Thứnhất, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khu vực tư

nhân về phương diện kinh tế, những thành tựu khoa học công nghệ đã

làm cho khu vực tư nhân có thể tiếp nhận một số dịch vụ trước đây chỉ

thuộc về nhà nước. Thí dụ, kỹ thuật truyền hình cáp phát triển cho phép

nắm được thời gian sử dụng của từng máy thu hình, hoặc qua thiết bị tự

ghi có thể đo chính xác lượng sử dụng khí ga, điện, nước của từng hộ tiêu

thụ ( để thu tiền).

- Thứhai, sự thay đổi về mức sống tạo điều kiện cho cá nhân có thể

tự mua sắm cho mình những phương tiện mà trước đây chỉ có thể sử dụng

công cộng. Có thể thấy rõ điều này trong cung cấp HHCC về lĩnh vực văn

hóa; nếu như trước đây, người dân chỉ có thể xem phim ảnh tại các rạp

Page 26: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

26

chiếu công cộng, thì nay người ta có thể xem tại nhà qua đầu máy VCD,

DVD. Ngoài ra, sự thay đổi về mức sống của người dân theo hướng chất

lượng cuộc sống ngày một nâng cao đòi hỏi số lượng các loại hình và

chất lượng dịch vụ cũng cần phải ngày càng tăng để đáp ứng yêu cầu của

đời sống xã hội.

- Thứ ba, sự kém hiệu quả của khu vực công so với khu vực tư nhân

trong lĩnh vực cung cấp HHCC. Theo J. E. Stiglitz thì các dự án nhà ở

công cộng thường tốn kém hơn nhà ở của khu vực tư nhân khoảng 20%;

chi phí thu gom rác thải do khu vực công thực hiện thường cao hơn khu

vực tư nhân 20%; chi phí phòng cháy chữa cháy của khu vực tư nhân

thấp hơn khu vực công cộng 47%. Khảo sát 58 quốc qia đang phát triển

cho thấy chỉ có 6% số người được hỏi đánh giá dịch vụ công do Nhà

nước cung cấp là có hiệu quả còn 36% trả lời là không.

- Thứ tư, giảm nhẹ gánh nặng ngân sách, huy động được các nguồn

lực tiềm tàng của xã hội. Ví dụ trong lĩnh vực y tế, chi phí của nó rất lớn.

Theo một khảo sát, chi tiêu cho chăm sóc y tế trong GDP nói chung đã

tăng lên ít nhất 50% trong giai đoạn 1965- 1983. Với mức tăng như vậy,

ngân sách nhà nước khó mà chịu nổi và sự tham gia của khu vực tư nhân

là tất yếu.

2. Các biện pháp đổi mới cung cấp HHCC

2.1 Đẩy mạnh sự tham gia của khu vực phi nhà nước trong

cung cấp HHCC

Thực ra, việc khu vực phi nhà nước cung cấp HHCC đã có từ thời xa xưa.

Lịch sử cho thấy rằng, hầu hết các dịch vụ y tế đều được thực hiện trên cơ sở tư

nhân bởi những bà đỡ, các thầy lang. Tại các nước đang phát triển, đô thị hóa và

công nghiệp hóa mạnh mẽ đã dẫn đến việc thành lập các nhóm lao động và họ

đã tự tổ chức để cung ứng dịch vụ bảo hiểm y tế thông qua “những quỹ đề

phòng ốm đau” hoặc đề nghị thành lập các hệ thống bảo hiểm xã hội được nhà

Page 27: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

27

nước cấp kinh phí. Chỉ đến thế kỷ XX nhà nước mới giữ vai trò quan trọng

trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội như giáo dục và y tế, và ngày nay, trong

trào lưu cải cách nhà nước trên khắp thế giới, việc cung cấp HHCC lại được

chuyển từng phần thích hợp cho khu vực phi nhà nước, và đang trở thành một

xu thế phát triển. Thực tế cho thấy, khu vực phi nhà nước đã ngày càng thâm

nhập vào các hoạt động cung cấp HHCC, chẳng hạn như trong lĩnh vực làm

sạch môi trường, cung cấp điện, nước,… Ngay cả ở những lĩnh vực mà theo

truyền thống chỉ do nhà nước quản lý và thực hiện, thì nay cũng trở thành địa

bàn hoạt động của khu vực tư nhân. Ở Mỹ hiện nay, nhiều nhà tù tại các bang

đã được giao cho khu vực tư nhân quản lý, nhiều loại dịch vụ cảnh sát đã được

giao cho các công ty tư nhân đảm nhiệm. Ngoài ra, khu vực tư nhân cũng được

phép tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục và y tế, là loại dịch vụ mà nhà nước

giữ vai trò cơ bản vì chúng liên quan trực tiếp đến mục tiêu phát triển của mỗi

quốc gia. Ở phần lớn các nước trên thế giới tồn tại song song hai hệ thống giáo

dục công lập và giáo dục dân lập. Sự phát triển hệ thống trường tư thục đã tạo

điều kiện cạnh tranh về chất lượng giảng dạy giữa hai hệ thống. Tất nhiên, các

trường tư phải chịu sự quản lý của nhà nước về nội dung giảng dạy, bảo đảm

theo một chương trình chuẩn, thống nhất. Việc chuyển dần mô hình trường công

lập sống nhờ bao cấp nhà nước với sức ỳ quán tính sang định chế hội đồng quản

trị tư doanh đã thúc đẩy tính năng động, sáng tạo và cạnh tranh của các cơ sở

giáo dục.

Bằng việc chuyển hoạt động cung cấp HHCC cho khu vực tư nhân, nhà

nước có thể sử dụng cạnh tranh giữa các nhà cung ứng dịch vụ với nhau để có

được nhà cung ứng dịch vụ có hiệu quả nhất. Chính vì thế, thúc đẩy cạnh tranh

trong cung ứng dịch vụ giữa khu vực công và tư đang là một mục tiêu được

nhiều nước hướng tới nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng. Sử dụng thị

trường để cung ứng những dịch vụ cạnh tranh sẽ giảm bớt chi phí và cải tiến

chất lượng dịch vụ, san sẻ gánh nặng của nhà nước và tiến tới xây dựng mối

Page 28: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

28

quan hệ hợp tác nhà nước- thị trường

Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, ở Braxin, việc ký hợp đồng đối

với các chủ đầu tư tư nhân về bảo dưỡng đường sá đã tiết kiệm được 25% chi

phí so với việc sử dụng DNNN. Cũng vậy, việc cho phép các DNTN tham gia tổ

chức các dịch vụ vận tải nội địa, Chính phủ Niu Di-lân đã tạo được sự cạnh

tranh giữa các tổ chức cung ứng vận tải, từ đó nâng cao chất lượng phục vụ

khách hàng, làm giảm cước phí vận chuyển. Ngay cả ở nước phúc lợi như Phần

Lan, hệ thống bệnh viện tư đã có từ nhiều thập kỷ.

Như vậy, trong việc thúc đẩy cạnh tranh, hoạt động của nhà nước không

đơn thuần là điều tiết, mà còn khuyến khích và tạo động lực thị trường. Chính

phủ tạo ra một sân chơi bình đẳng cho mọi đối tượng có khả năng cung cấp dịch

vụ công để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung cấp dịch vụ, và

người tiêu dùng các dịch vụ công được quyền tự do lựa chọn nhà cung cấp dịch

vụ. Nhiều bằng chứng thực tế cho thấy khi các tổ chức cung cấp HHCC bước

vào cuộc cạnh tranh thì mọi việc đều thay đổi. Những tổ chức nào cung ứng

dịch vụ chất lượng kém với giá cả cao thì dần bị xóa bỏ, trong khi những tổ

chức cung ứng dịch vụ chất lượng cao với giá cả phải chăng thì ngày càng phát

triển. Chính sự cạnh tranh đã buộc các tổ chức cung ứng dịch vụ phải luôn luôn

tự đổi mới và điều đó mang lại lợi ích cho cả người dân, nhà nước và nhà cung

ứng dịch vụ.

2.2 Cải thiện chất lượng cung cấp HHCC trong khu vực nhà

nước

Nâng cao chất lượng cung cấp HHCC không phải là một vấn đề mới mẻ.

Ngay từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, Pháp đã đưa ra các chu trình chất

lượng thử nghiệm trong các cơ quan nhà nước. Trước yêu cầu của người dân

hiện đã trở thành “người tiêu dùng đòi hỏi cao”, vấn đề chất lượng trong cung

cấp HHCC của nhà nước ngày càng trở nên cấp bách. Nguyên tắc chất lượng

trong cung cấp HHCC của các cơ quan nhà nước đã chính thức được đề cập tới

Page 29: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

29

trong Hiến chương dịch vụ công của Pháp ngày 18 tháng 3 năm 1992 và văn

bản ngày 26/7/1996 về cải cách Nhà nước Pháp. Hiến chương đưa ra một loạt

các biện pháp nhằm đảm bảo cung ứng dịch vụ thiết yếu như trường học, bệnh

viện, cảnh sát, bưu điện cho những nơi xa xôi.

Một vấn đ66ề quan trọng cần lưu ý trong việc cải cách nhằm nâng cao chất

lượng dịch vụ công trong khu vực nhà nước chính là yếu tố con người. Nhiều

nước đã tập trung nhiều biện pháp để nâng cao năng lực chuyên môn của công

chức thông qua việc cải tiến công tác cán bộ và khuyến khích sự tham gia của

công chức vào hoạt động quản lý, tăng cường uỷ quyền và trách nhiệm cá nhân.

Phương thức tuyển dụng và đề bạt theo phẩm chất mà nhiều nước sử dụng đã

làm cho bộ máy viên chức có được lực lượng cán bộ, nhân viên chất lượng cao.

Bên cạnh việc nâng cao năng lực chuyên môn, đối với đội ngũ viên chức trực

tiếp thực hiện cung cấp HHCC, cần đặc biệt chú ý nâng cao phẩm chất, đạo đức

phục vụ khách hàng. Kinh nghiệm của nhiều nước chỉ ra rằng một khi người

viên chức có ý thức trong công việc, có thái độ tận tụy phục vụ khách hàng thì

hiệu quả công việc sẽ tăng lên rất nhiều.

2.3 Tăng cường sự tham gia giám sát của cộng đồng đối với

việc hoạch định chính sách và đảm bảo chất lượng dịch vụ công

Quá trình tham gia này thể hiện qua nhiều cách khác nhau, có thể từ tham

khảo ý kiến, trao đổi thông tin, cho tới những hành động trực tiếp tham gia của

công dân, chủ động đề xuất sáng kiến hoặc góp ý vào chính sách. Nhất là ở

những nơi việc cung cấp HHCC không hiệu quả thì người dân có thể thông báo

cho các cấp chính quyền về vấn đề này và thúc ép họ phải cải tiến. Do đó, các

cơ quan công quyền buộc phải có trách nhiệm hơn trong việc lắng nghe tiếng

nói của người dân và phản hồi kịp thời, đầy đủ trước các yêu cầu đó. Cơ chế

phản hồi này giúp cho các thông tin hai chiều luôn thông suốt và được chia sẻ.

Thông qua đó, người dân và các nhà cung cấp dịch vụ có cơ hội cùng đánh giá

và trao đổi ý kiến nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ.

Page 30: Nâng cao hiệu quả sử dụng hàng hóa công cộng

Phần 3: Hàng hóa công cộng

-----------------------------------

30

Ở Singapore, Cục thông tin phản hồi của công chúng tập hợp một cách có

hệ thống những bình luận của công dân về nhiều loại chính sách quốc gia, trong

đó có cung cấp HHCC, và mời những nhóm có quan tâm tới dự những cuộc họp

báo cáo với các bộ trưởng và quan chức cao cấp. Điều này làm tăng tinh thần

trách nhiệm của cơ quan nhà nước cung cấp HHCC thông qua việc đòi hỏi các

cơ quan này phải công bố và tuân thủ những định mức và tiêu chuẩn dịch vụ,

cung cấp thông tin công cộng và trả lời khiếu nại của người dân. Ở các thành

phố của Mỹ, chính quyền các thành phố đã thiết lập một cơ chế đồng bộ, động

viên công chúng tham gia vào toàn bộ quá trình quản lý đô thị. Do những người

có lợi ích liên quan được tham gia một cách rộng rãi vào quá trình quyết định

chính sách, nên quá trình thực thi chính sách được thực hiện một cách tương đối

thuận lợi.

C. KẾT LUẬN

Nói tóm lại, một số vấn đề cơ bản cần nhớ đó là:

- HHCC bao gồm 2 thuộc tính: không cạnh tranh và không loại trừ

để phân biệt với HHCN, phân biệt HHCC thuần túy và không thuần túy.

- Tổn thất xã hội khi cung cấp HHCC quyết định Nhà nước nên cung

cấp miễn phí hay có thu thuế đối với một loại HHCC nào đó.

- HHCC là một dạng thất bại của thị trường, do đó cần có sự can

thiệp của Nhà nước trong vấn đề cung cấp HHCC. Thế nhưng việc cung

cấp HHCC của khu vực công không hiệu quả và gánh nặng ngân sách,

cùng với đó là sự phát triển của khu vực tư, điều kiện kinh tế của người

dân được nâng cao dẫn đến yêu cầu trong việc đổi mới HHCC.