25
Câu 1: Phân tích vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ý nghĩa của sự kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (3-2-1930). Trả lời I, Bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời 1. Tình hình thế giới Đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của các dân tộc Châu Á cùng với phong trào tư sản ở Đông Âu bắt đầu từ cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành một cao trào thức tỉnh các dân tộc phương đông. Hàng trăm người hướng về một cuộc sống mới với bối cảnh tự do Năm 1917, cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của cách mang tháng 10 Nga đặt ra cho những người yêu nước Việt Nam một sư lựa chọn mới: độc lập dân tộc đi lên CNXH hay độc lập đi lên CNTB. 2.Hoàn cảnh trong nước Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế. Mọi quyền hành đêu nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Về kinh tế, tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt. Về xã hội, các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của nhân dân ta. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo

Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Embed Size (px)

DESCRIPTION

123

Citation preview

Page 1: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Câu 1: Phân tích vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ý nghĩa của sự kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (3-2-1930).

Trả lời

I, Bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

1. Tình hình thế giới

Đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của các dân tộc Châu Á cùng với phong trào tư sản ở Đông Âu bắt đầu từ cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành một cao trào thức tỉnh các dân tộc phương đông. Hàng trăm người hướng về một cuộc sống mới với bối cảnh tự do

Năm 1917, cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của cách mang tháng 10 Nga đặt ra cho những người yêu nước Việt Nam một sư lựa chọn mới: độc lập dân tộc đi lên CNXH hay độc lập đi lên CNTB.

2.Hoàn cảnh trong nước

Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. 

Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế. Mọi quyền hành đêu nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.

 Về kinh tế, tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt. 

Về xã hội, các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của nhân dân ta.

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời. Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định. 

Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến và thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đông vẫn giữ được khí tiết. Khi có điều kiện, những trí thức yêu nước thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân phong kiến

Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân là một lực lượng đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. 

Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đôn trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10 vạn người và trình độ còn thấp. Qua thời kỳ khai

Page 2: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng công nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người làm thuê trong các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản, nửa vô sản sống ở thành thị và nông thôn, thì đội quân vô sản ở Việt Nam trước nǎm 1930 có đến hàng triệu người. Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng. 

II. Các phong trào yêu nước

Trong bối cảnh lịch sử trên tinh thần yêu nước của người dân Việt Nam ngày càng được phát huy mạnh mẽ, thu hút sự tham ra nhiệt tình của các tầng lớp, giai cấp

Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913.Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.

Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908).Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công. Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong tràođấu tranh chống thuế (1908).Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau.

Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.

Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.

Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh.

Page 3: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).

Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp

Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất

Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân”.

Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. ở một số địa phương như Thái Bình, Hải Dương... cũng có những hoạt động phối hợp. Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hô vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.

Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, và không có một đường lối cứu nước đúng đắn. 

III.Vai trò của Nguyễn Ái Quốc

Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5 – 6 – 1911, Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người sang Pháp tìm hiểu tư tưởng hòa bình, bác ái, xã hội chủ nghĩa, dân chủ mà Pháp nói khi sang xâm lược Việt Nam . Người nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình và tham gia hoạt động trong Đảng Xã Hội Pháp, sau đó trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người đã từng bước rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình. Năm 1923, Người sang Liên Xô gặp Lênin, luận cương của Lênin đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc trăn trở, giúp Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng trong nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới… và công tác chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản

Người đã chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng như sau: Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Thanh niên cách mạng đồng chí hội, Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập và viết bài cho báo Thanh Niên, mặt khác tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng từ nhận thức cách mạng vô sản, Đảng Cộng sản lãnh đạo nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, truyền bá tư tưởng Mác – Lênin trong tổ chức, giai cấp công nhân và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Chủ nghĩa Mác – Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, phong trào công nhân đại diện công nhân đấu tranh từ tự phát lên tự giác đòi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo. Kết quả là năm 1929 Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc kỳ, mùa thu 1929 An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam kỳ, 1930 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung kỳ. Chỉ trong một thời gian ngắn đã có 3 tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong

Page 4: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam . Song đó sự tồn tại của 3 tổ chức hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ, cạnh tranh phạm vi hoạt động, nhân sự. Yêu cầu bức thiết phải có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Vì vậy quốc tế cử Nguyễn Ái Quốc thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam . Năm 1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, Hội nghị nhất trí thành lập Đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, chương trình tóm tắt …

IV. Ý Nghĩa của việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX, là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng. Đó là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặc trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam , chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng đắn để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam: thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức cách mạng tiên phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về con đường cứu nước: “Từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân. Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần Vương, phong trào yêu nớc ba mươi năm đầu thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng, từ khởi nghĩa Yên Thế và các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến khởi nghĩa Yên Bái… nhưng không thành công vì thiếu một đường lối đúng”. “Năm 1930, kế thừa “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và các tổ chức cộng sản tiền thân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó nói lên quy luật ra đời của Đảng và cũng chứng tỏ giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đã trưởng thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để khẳng định sự đảm nhiệm vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đánh dấu bước phát triển vế chất của cách mạng Việt Nam.

  Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường đi lên của dân tộc Việt Nam từ 1930 là con đường cách mạng vô sản. Đó là sự lựa chọn của chính nhân dân Việt Nam, chính lịch sử dân tộc Việt Nam trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc.

Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh được thông qua ở Hội nghị thành lập Đảng, từ năm 1930 cách mạng Việt Nam có được đường lối chính trị toàn diện đề ra mục tiêu và phương pháp đấu tranh thích hợp, giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản của xã hội, đồng thời có được tổ chức Đảng cách mạng để lãnh đạo và tổ  chức phong trào cách mạng.  Sự ra đời của Đảng đã tạo những tiền đề và điều kiện để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước .

Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên CNXH của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".

Câu 2. Đồng chí hãy nêu nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Hãy phân tích sâu một nội dung mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. Liên hệ bản thân?

Trả lời:

I.Nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Page 5: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Hồ Chí Minh là một người tiêu biểu nhất về đạo đức cách mạng. Người đã dày công xây dựng nền đạo đức cách mạng ở Việt Nam. Người đã phát triển lý luận đạo đức Mác- Lênin và kế thừa xuất sắc những tinh hoa đạo đức của dân tộc. Người đã tự tu dưỡng, rèn luyện mình trở thành con người mẫu mực nhất, là tấm gương trong sáng nhất về đạo đức cách mạng. Đó là di sản văn hóa vô giá của dân tộc ta và Đảng ta, là cống hiến đặc sắc của Bác Hồ cho dân tộc và cho loài người.

 1. Tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức cổ truyền của dân tộc có mối tương quan; có thể thấy đạo đức cổ truyền của dân tộc ta là do thực tế hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh đấu tranh của nhân dân ta trong trường kỳ lịch sử (đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội); đạo đức Hồ Chí Minh là sự kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống và được nâng lên một tầm cao mới, phù hợp với thời đại, đồng thời là sự kết hợp của tinh hoa nhân loại, gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.   Điều này đã được lịch sử dân tộc chứng minh. Khái quát lịch sử Việt Nam cho thấy người dân ta từ đời này sang đời khác, đều hướng vào mấy nhiệm vụ to lớn, bao trùm: Làm người, dựng làng, giữ nước- truyền thống đạo đức Việt Nam là truyền thống giáo dục con người phải tu dưỡng trọn đời để nên người, dựng làng và giữ nước. Chính từ truyền thống đạo đức này mà có lòng yêu nước, lòng nhân ái và những đức tính cần cù giản dị…Những đức tính như yêu nước, cần cù, thương người…thì trên thế giới nhiều dân tộc có. Cái riêng của dân tộc Việt Nam là ở lý tưởng: dạy cho con nên người, là sống ở làng, sang ở nước, là nhiễu điều phủ lấy giá gương, là sự lo lắng nước mất nhà tan…lịch sử ta, hoàn cảnh ta quy định nên bối cảnh truyền thống đạo đức ấy. Chính từ bối cảnh này, mà Hồ Chí Minh mới luôn luôn có sự kêu gọi “học để làm người”, mới có câu nói bất hủ “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chính trên bối cảnh đạo đức truyền thống của dân tộc, mà Hồ Chí Minh xuất hiện.

 Một bối cảnh văn hóa nữa, có nhiều tác động thiết thực đến nhân vật lịch sử, là hoàn cảnh quê hương và gia đình Hồ Chí Minh là con người Nghệ Tĩnh, là gia đình nhà Nho. Tư tưởng đạo đức của quê hương và của gia đình có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tính cách xứ Nghệ với các đặc điểm: lý tưởng trong tâm hồn, trung kiên trong bản chất, khắc khổ trong sinh hoạt, cứng cỏi trong giao lưu…đều là những tính cách có ý nghĩa đạo đức. Đặc biệt nổi lên ở đại đa số con người đạo đức ở Nghệ Tĩnh trong các thế kỷ trước, là gương hy sinh vì độc lập tự do của đất nước. Những tấm gương gia đình Nghệ Tĩnh và riêng gia đình Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn, lý tưởng cậu bé Nguyễn Sinh Cung, của chàng trai Nguyễn Tất Thành. Đa số là “những gia đình nghĩa khí”.

Bản thân gia đình Hồ Chí Minh cũng là một gia đình văn hóa đạo đức, vừa có chất Nho phong, vừa chịu ảnh hưởng Duy Tân. Những người trong và ngoài gia đình Hồ Chí Minh, đây là những nhân vật khá tiêu biểu, những hình ảnh đẹp của thời đại. Những bạn bè của ông, rồi của cha như Hồ Sĩ Tạo, Vương Thúc Mậu, Hà Văn Cận, Phan Bội Châu, những bà ngoại như Nguyễn Thị Kép, ông ngoại như Hoàng Xuân Đường có công lao tác thành cho Nguyễn Sinh Sắc. Những vị quan có uy tín và thế lực lớn như Cao Xuân Dục, Đào Tấn đã dành cho Nguyễn Sinh Sắc rất nhiều thiện cảm và cả những người bạn trong tuổi trẻ Hồ Chí Minh như Diệp Văn Kỳ, Trần Đình Nam ở Huế, các con cháu của Nguyễn Thông, của Hồ Bá Tang ở miền Nam và ở Phan Thiết. Môi trường văn hóa mà Hồ Chí Minh tiếp cận từ lúc thiếu thời là một môi trường đặc biệt có tác động sâu sắc đến tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh không lặp lại truyền thống một cách giản đơn và cũng không chỉ khai thác ở truyền thống đạo đức dân tộc, cũng không chỉ tự hạn định trong phạm vi cổ truyền. Để có phần sáng tạo của mình, Hồ Chí Minh đã tiếp cận cả ba nguồn văn hóa, văn hóa dân tộc, văn hóa khu vực, văn hóa thế giới. Hồ Chí Minh đã nâng đạo đức truyền thống của dân tộc lên một tầm cao mới- đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh.

              Không chỉ thừa hướng và kết tinh những tinh hoa của dân tộc Hồ Chí Minh còn tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực của văn hoá phương Đông trong Nho giáo và Phật giáo, như lòng vị tha, tư tưởng từ bi bác ái, tình yêu thương con người; triết lý hành đạo giúp đời, tu thân dưỡng tính, truyền thống hiếu học…Tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ và phong cách dân chủ, nhân quyền của văn hoá phương Tây trên con đường hoạt động cách mạng Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ của thời đại: Đông, Tây, kim, cổ…, vừa thu hái, vừa gạn lọc, suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa, vận dụng, phát triển góp phần làm phong phú, tạo nên tư tưởng của Người.

2. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc:

Page 6: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

“Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. 

3 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người

Một là: Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.

Hai là: Xây đi đôi với chống.

Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ trong ra.

Ba là: Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

 Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". 

Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra. 

4. Theo Hồ Chí Minh những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam

Gồm có:

Một là, trung với nước hiếu với dân.

Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.  

Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.

“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau. 

Hai là, yêu thương con người.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng

Page 7: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". 

Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.

Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời". 

Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. 

Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. - Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.

Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá". 

Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.

Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. 

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người. Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". 

Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.

Page 8: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất đạo đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh "cá nhân", đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ.

Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba loại hình là tham ô, lãng phí quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí quan liêu cũng nặng như tội lỗi "Việt gian, mật thám". Người cho rằng: "Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót". 

Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục các nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng.

Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” . 

Đây cũng chính là nội dung mà tôi thấy tâm đắc nhất.

II. Liên hệ bản thân

Đất nước ta đang trên đà phát triển, xây dựng tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo đó, nhiều lần Bác khẳng định muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Để làm tròn trọng trách người chủ tương lai của đất nước Tôi luôn nhắc nhở bản thân luôn luôn tu dưỡng và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Tu dưỡng đạo đức cách mạng: Cái cốt lõi của đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này giống như bốn mùa trong năm: thiếu đi một mùa thì không thành năm, thiếu đi một đức tính thì không thể trở thành con người theo đúng nghĩa. Do vậy, Tôi luôn nỗ lực rèn luyện đạo đức cách mạng: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và đoàn kết, không kiêu ngạo; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư tật xấu; thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê bình… để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học – kỹ thuật: Theo Người thanh niên phải vừa có đức vừa có tài. Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Người có tài mà không có đức sẽ trở lên vô dụng. Hơn nữa dốt nát là một trong những nguyên nhân gây ra sự kìm hãm trong xã hội. Nhận thấy tầm quan trọng của việc học tập , là một sinh viên của một trường Đại học danh tiếng Tôi luôn cố gắng học tập thật tốt, lắng nghe sự hướng dẫn và giảng dạy của Thầy Cô. Bên cạnh việc học tập trên lớp Tôi luôn trao dồi cho mình những kiến thức về các vấn đề văn hóa , xa hội , thế giới. Đặc biệt là những kiến thức về kinh tế, mottj trong những kiến thức thực tế liên quan trưc tiếp tới công việc sau này của Tôi

Bồi dưỡng thể chất: Theo Người, việc giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới… tất thảy đều phải có sức khỏe thì mới thành công. Bởi vì “mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe mạnh, tức là cà nước khỏe mạnh”. Chính người cũng nêu gương sáng về rèn luyện sức khỏe. Tôi coi trọng việc bồi dưỡng thể chất là nhiệm vụ và trách nhiệm của bản thân

Câu 3 -Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên như thế nào?

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Đảng viên của Đảng là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong đó, suốt đời phấn đấu vì một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Page 9: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Vì vậy, việc kết nạp người vào Đảng, theo đúng các quy định của Điều lệ Đảng. Người muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần hiểu rõ các điều kiện được xét để kết nạp vào Đảng, tự giác và nỗ lực phấn đấu, rèn luyện đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết đó.

a) Tiêu chuẩn để kết nạp Đảng :

1. Là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên.

- Đảng không thể xét tất cả mọi người, mà chỉ xét kết nạp những công dân Việt Nam.

“Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam” (Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, Điều 49).

Theo quy định này, chỉ những người có quốc tịch Việt Nam mới là công dân Việt Nam, còn những người không có quốc tịch Việt Nam hoặc đã từ bỏ quốc tịch Việt Nam thì không được thừa nhận là công dân Việt Nam.

Là công dân Việt Nam được hưởng quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nước ta. Đây là đòi hỏi về pháp lý và nhân cách công dân của người xin vào Đảng; trước khi trở thành đảng viên phải là công dân Việt Nam.

- Đảng xét kết nạp những công dân Việt Nam nhưng phải từ mười tám tuổi trở lên, vì ở độ tuổi đó mới có trình độ nhận thức, năng lực tư duy cần thiết, có ý thức trách nhiệm về mọi hành động của mình, đủ sức thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên.

- Điều lệ Đảng không quy định tuổi tối đa của người vào Đảng. Vì quy định như vậy, trong thực tế công tác phát triển đảng viên sẽ nghiêng về tuổi tác, sức khoẻ, không đúng với yêu cầu về sự giác ngộ lý tưởng, phẩm chất chính trị, kiến thức và năng lực hành động … của người vào Đảng. Song hiện nay, bình quân tuổi đời của đảng viên khá cao, do đó Đảng ta hết sức quan tâm phát triển Đảng trong thanh niên để trẻ hoá đội ngũ đảng viên, bảo đảm sự phát triển và tương lai của Đảng.

2. Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng.

Là công dân cho nên đảng viên phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Nhưng khác với công dân bình thường, đảng viên còn ý thức sâu sắc được trách nhiệm chính trị của mình là làm cách mạng, lãnh đạo và vận động nhân dân thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Do đó, muốn trở thành đảng viên phải thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng.

Đây là đòi hỏi quan trọng nhất đối với người vào Đảng. Nội dung điều kiện này yêu cầu người muốn được đứng vào đội ngũ của Đảng phải có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đính, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Người vào Đảng phải có trình độ và sự tin cậy về chính trị. Tiêu chuẩn đảng viên, Điểm 1, Điều 1 trong Điều lệ Đảng quy định: “đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đòan kết thống nhất trong Đảng”.

Tiêu chuẩn nói trên cũng là yêu cầu phấn đấu của những người muốn gia nhập Đảng.

Đòi hỏi đối với người vào Đảng không chỉ thừa nhận mà còn phải tự nguyện thực hiện. Thừa nhận mà không tự nguyện thực hiện thì chưa phải là thừa nhận thực sự. Hành động thực tế là thước đo nhận thức, tư tưởng và ý thức phấn đấu của người vào Đảng. Không thể coi là thừa nhận chủ nghĩa xã hội mà trong việc làm hàng ngày lại luôn luôn chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân hoặc lợi ích bộ phận, cục bộ, bởi vì bản chất của chủ nghĩa xã hội là vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc; kết hợp hài hoà lợi ích chung của đất nước và lợi ích cá nhân. Không thể coi là thừa nhận Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn đảng viên mà lười lao động hoặc không lao động (lao động chân tay hoặc lao động trí óc), bóc lột lao động của người khác, buông thả bản thân, không dám đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực ở ngay đơn vị mình … Không tự giác rèn luyện, không nghiêm túc tham gia sinh hoạt, đặt mình trong sự quản lý, giáo dục của đơn vị, của đoàn thể ở cơ sở thì không đảm bảo về ý thức kỷ luật và không thật sự thừa nhận hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng.

Page 10: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Đảng không chỉ căn cứ vào những lời nói, dù đó là những lời nói mạnh mẽ, mà còn phải căn cứ vào việc làm thực tế hàng ngày để thấy được người xin vào Đảng có thật sự vì mục đích, lý tưởng của Đảng mà phấn đấu hay không? Vào Đảng có tự giác chấp nhận phục tùng tổ chức kỷ luật của Đảng hay không? Đây là điều kiện được tổ chức đảng đặc biệt quan tâm khi xem xét để kết nạp người vào Đảng.

3. Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm.

Một trong những phẩm chất cơ bản thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng là Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Đảng phải tỏ ra xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Vì vậy, nhân dân cũng gắn bó máu thịt với Đảng, coi Đảng là Đảng của mình, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng. Người không được nhân dân tín nhiệm thì không thể là đảng viên.

Muốn được nhân dân tín nhiệm thì phải là người ưu tú, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới, nêu tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức và năng lực sáng tạo trong sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập. Trở thành một con người ưu tú la kết quả phấn đấu, rèn luyện của một quá trình nhất định. Chỉ có thông qua thực tiễn mới biết được ai là người ưu tú, vì “lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Thực tiễn là thước đo chính xác phẩm chất con người, là chỗ dựa tin cậy để nhân dân lựa chọn, giới thiệu những người xứng đáng vào Đảng. Sự đánh giá trung thực, khách quan của nhân dân giúp Đảng xem xét, kết nạp đảng viên một cách đúng đắn.

Ba điều kiện nói trên là những điều kiện cần thiết phải có đối với người được xét để kết nạp vào Đảng. Đảng không thể kết nạp những người không có nhân cách, không đủ tư cách công dân, chưa đủ mười tám tuổi. Những người chưa đủ trình độ giác ngộ giai cấp, giác ngộ chính trị cần thiết, chưa được nhân dân tín nhiệm không thể được đứng trong hàng ngũ của Đảng.

Hướng dẫn số 04 – HD/TCTW ngày 05 – 02 – 2002 của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề cụ thể về thi hành Điều lệ Đảng có quy định về trình độ học vấn của người vào Đảng:

Căn cứ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tỉnh ủy và đảng uỷ trực thuộc Trung ương có thể quy định trình độ học vấn của người vào Đảng, theo hướng như sau:

a. Người vào Đảng nói chung phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở (và tương đương) trở lên.

b. Nếu là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo mà điều kiện học tập khó khăn, không bảo đảm như quy định tại điều a nêu trên thì tỉnh ủy, thành uỷ có thể xem xét, giải quyết từng trường hợp cụ thể.

Sau khi được kết nạp vào Đảng, mọi đảng viên phải tiếp tục học tập nâng cao trình độ học vấn. Nghị quyết Trung ương 5 Khoá IX chỉ rõ: “công tác phát triển đảng viên mới nhằm vào những người lao động giỏi, có đạo đức và lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng, những người có lý tưởng cách mạng, tích tực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân và các tổ chức tự quản của dân”1

b)Nhiệm vụ của đảng viên:

Nhiệm vụ của mỗi đảng viên thường được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Trong thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảng viên có bốn nhiệm vụ được xác định trong Điều 2, Điều lệ Đảng hiện hành của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Page 11: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định”.

Phân tích:

Theo quan điểm của tôi: trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam hiện nay, người đảng viên đứng trước những đòi hỏi mới và nhiệm vụ mới. Đó là nhiệm vụ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; là yêu cầu giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực. Để làm được điều đó Đảng viên cần phải:

- Đảng viên phải kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, trung thành với lý tưởng cộng sản, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Cùng với việc thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu, người đảng viên lúc này cần ủng hộ nhân tố mới, tích cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng, chống các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội, phê phán những biểu hiện mơ hồ, cực đoan hay tư tưởng sai lệch.

- Đảng viên cần có kiến thức, có trình độ nhất định về các mặt văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế, pháp luật…Thời đại chúng ta là thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, thời đại tin học đạt nhiều thành tựu kỳ diệu, hằng ngày lượng thông tin ồ ạt dồn đến rất nhanh và rất nhiều, đòi hỏi phải có trình độ thu nhận, phân tích và xử lý đúng đắn. Rõ ràng, trong tình hình đó, nếu cán bộ đảng viên không có kiến thức, không có trình độ nhất định về các mặt văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế, pháp luật… thì không thể có đủ năng lực để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, thậm chí còn phạm những sai lầm. Vừa qua, không ít trường hợp đảng viên không phát huy được tác dụng, rơi vào tình trạng “trung bình”, mất uy tín trước quần chúng, là do thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức. Đã qua rồi cái thời hễ cứ là đảng viên, là cán bộ thì dường như có thể làm được mọi việc. Ngày nay, mỗi người cộng sản chỉ có thể khẳng định vai trò lãnh đạo và uy tín của mình trong quần chúng bằng sự kiên định, trí thông minh, sự hiểu biết và năng lực hoàn thành nhiệm vụ.

-Đối với người đảng viên, chí phấn đấu cho cá nhân trở nên lương thiện, giữ gìn phẩm chất cá nhân cho trong sạch là chưa đủ và chưa thể hiện tính tiên phong gương mẫu. Người đảng viên không thể là người đứng ngoài cuộc đấu tranh loại trừ cái ác, thờ ơ và lảng tránh trước sự hoành hành của cái ác trong đời sống. Đạo đức hành động đòi hỏi ở họ dũng khí trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền, ức hiếp quần chúng; bảo vệ sự thật, chân lý, lẽ công bằng và các giá trị dân chủ xã hội vì lợi ích công dân và vì lợi ích chung của xã hội. Dũng khí đó phải biểu hiện trong đấu tranh bảo vệ sự trong sạch, vững vàng của Đảng, uy tín của Đảng đối với xã hội; đồng thời, còn biểu hiện trong đời sống chính trị- xã hội, gắn liền mật thiết với các sinh hoạt của nhân dân, của xã hội, tích cực bảo vệ pháp luật, kỷ cương, an ninh trật tự, luân lý đạo đức, văn hóa tinh thần và lối sống lành mạnh của từng gia đình, từng tập thể đến toàn xã hội.

- Mỗi đảng viên, trước hết đảng viên là cán bộ lãnh đạo, có chức có quyền, phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân, chăm lo đời sống hằng ngày của quần chúng, tìm hiểu nguyện vọng và lắng nghe ý kiến của quần chúng, giúp đỡ quần chúng khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập ức hiếp quần chúng và mọi hành vi vi phạm quyền làm chủ của dân. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền. Nó quyết định sự tín nhiệm của nhân dân đối với đảng viên. Không phải ngẫu nhiên khi còn sống, Bác Hồ luôn luôn quan tâm đến vấn đề này, nói nhiều về vấn đề này. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi quan điểm và thái độ đúng đắn đối với quần chúng, coi việc tôn trọng quần chúng, học hỏi quần chúng, có quan hệ mật thiết với quần chúng là một vấn đề thuộc về phẩm chất, tư cách, đạo đức của đảng viên.Đương nhiên, trong quá trình phát huy dân chủ, phải chống thái độ theo đuôi quần chúng, mị dân, dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan. Dân chủ phải đi đôi với kỷ luật và pháp luật. Dân chủ không có nghĩa là tự do vô tổ chức, vô chính phủ.

c)Quyền của đảng viên:

Điều 3, Điều lệ Đảng chỉ rõ đảng viên có những quyền sau:

Page 12: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

“1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.

2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị, với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.

4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoắc thi hành kỷ luật đối với mình.

Đảng viên dự bị có các quyền trên đây trừ quyền biểu quyết ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng”.

Các quyền của đảng viên nêu trong Điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho đảng viên thực hiện đầy đủ quyền dân chủ về mặt chính trị trong tổ chức và sinh hoạt Đảng. Những quyền đó phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện, nhất là quyền thảo luận các vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “ Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Những quy định về quyền của đảng viên tạo điều kiện cho đảng viên và tổ chức đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.

Phân tích:

“Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, những việc khó khăn, gian khổ, Đảng viên phải gương mẫu đi đầu, lo trước nỗi lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ. Tất nhiên, đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ Đảng viên thì cũng có cả quyền lợi. Nhưng vượt lên trên tất cả cái gọi là quyền lợi ấy phải là đạo đức cách mạng, là phẩm chất của người Đảng viên tận tụy vì dân. Nếu Đảng viên mà đặt lợi ích cá nhân, gia đình mình lên trên hết thì người Đảng viên đó không được lòng tin của nhân dân. Mất lòng tin của dân và xa dời quần chúng nhân dân thì mọi việc đều thất bại. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Câu 5-Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên? Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên?

Căn cứ vào tiêu chuẩn, nhiệm vụ của Đảng viên, để trở thành Đảng viên đối với mỗi người cần phải xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn: phấn đấu vào Ðảng phải xuất phát từ động cơ trong sáng, với thanh niên lại càng mang ý nghĩa cống hiến, chứ không phải lợi dụng vào Ðảng để làm "bình phong", "chỗ dựa" tiến thân. Vào Ðảng không phải là để tranh giành quyền lợi, thỏa mãn tham vọng cá nhân. Tuy nhiên người vào Ðảng không phải ai cũng hoàn hảo, không có khiếm khuyết mà quan trọng là xác định được rõ vai trò, trách nhiệm của một người đảng viên để rèn luyện và trưởng thành hơn. Chưa vào Ðảng không có nghĩa là chưa phấn đấu, chưa rèn luyện, chưa cống hiến. Một đoàn viên, thanh niên muốn trở thành đảng viên phải có hai yếu tố cơ bản: Một là, chính bản thân phải thật sự có quyết tâm phấn đấu, có tinh thần giác ngộ cách mạng cao; hai là, tổ chức đảng, đoàn thanh niên phải hướng dẫn đoàn viên, thanh niên xây dựng động cơ phấn đấu vào Ðảng đúng đắn, quan tâm đánh giá đầy đủ sự phấn đấu, cống hiến của quần chúng.

Mỗi đoàn viên thanh niên cần học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong quá trình phấn đấu của đồng chí để trở thành Đảng viên. Nội dung và ý nghĩa của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, Đảng viên và mỗi người dân Việt Nam. Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với cường quốc năm châu”. Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân chính. Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát

Page 13: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước.

đấu của đồng chí để trở thành Đảng viên.

Trong quá trình phấn đấu vào Đảng, việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định vì: Đảng chỉ kết nạp những người thực sự giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nạp vào hàng ngũ mình những người mang động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc; càng không để cho các phần tử có cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau đồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng. Phấn đấu vào Ðảng là lý tưởng cao cả để được đóng góp, cống hiến nhiều hơn cho tập thể, cho nhân dân và rộng hơn là cho quốc gia, dân tộc. Khi nhận thức đúng đắn ta sẽ có động cơ đúng, có sức mạnh bên trong là động lực hướng dẫn hành động, thôi thúc chúng ta sống, hoạt động với lý tưởng cao đẹp cho Ðảng và cho chính mình. Vì vậy vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên.

Tự bản thân mình, tôi cũng biết mình còn nhiều nhược điểm, cần tiếp tục rèn luyện, phấn đấu hơn nữa. Ngay từ khi còn là học sinh, sinh viên, tôi đã rất tích cực tham gia các hoạt động của tổ chức đoàn, hội, đội… Mục đích cao nhất là trở thành một học sinh, sinh viên giỏi, gương mẫu, một công dân tốt. Khi được học tập, nghiên cứu, hiểu biết về Đảng, tôi mong ước một ngày nào đó mình sẽ vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đó là mục tiêu và lý tưởng phấn đấu của bản thân. Mục tiêu đó là động lực lớn để tôi học tập, công tác tốt, sống gương mẫu, hoà đồng và có trách nhiệm.

Theo quan điểm của tôi với mỗi đoàn viên, thanh niên sống và học tập ở nước ngoài cần có:

- Lập trường chính trị, tư tưởng: phải kiên định, vững vàng; chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước Việt Nam...

- Đạo đức, lối sống: trong sáng, lành mạnh, hòa đồng... với mọi người trong đơn vị.

- Tích cực tham gia các phong trào chung.

- Tuân thủ pháp luật nước sở tại.

- Tuân thủ nội, qui, qui chế của nhà trường, ký túc xá nơi mình cư trú.

- Nỗ lực, cố gắng trong học tập để đạt được kết quả cao nhất.

Đối với trường đại học xây dựng Matcvova. Qua quá trình học tập ở đây tôi thấy để xây dựng được đơn vị vững mạnh cần phát huy hơn nữa các hoạt động sau:

- Quan hệ tốt với sinh viên Nga và sinh viên quốc tế khác. Sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam luôn được đánh giá cao trong khả năng học tập, nhất là các môn tự nhiên như: toán lý, hóa, chuyên môn ( đối với các nghiên cứu sinh)… Chính vì vậy, sinh viên, nghiên cứu sinh trường xây dựng cần hăng hái tự tin tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, hội thảo, học nhóm, thi Olympic…

- Giới thiệu, tuyên truyền giúp sinh viên các nước hiểu biết về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam.

- Tham gia các phong trào chung của nhà trường, đặc biệt là các buổi giao lưu về văn hóa, nghệ thuật…

- Tìm hiểu thông tin chính trị, thời sự, văn hóa trong nước. Nhu cầu cập nhật thông tin, tìm hiểu chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước Việt Nam luôn là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi công dân, nhất là các du học sinh cần quan tâm, tìm hiểu, nắm bắt kịp thời các vẫn đề thời sự trong nước.

Trong thời gian sinh sống và học tập trong nước bản thân tôi và gia đình luôn: gắn bó với tập thể, làng xóm với bà con làng xóm, khối phố; tôn trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Tham gia các hoạt động tập thể như: đóng góp ủng hộ đồng bào lũ lụt, tham gia các công tác từ thiện, mua công trái…Bản thân tôi sinh ra trong ra đình có truyền thống Cách Mạng: bà ngoại tôi từng tham gia giúp đỡ cán bộ tiền khởi nghĩa 1945- cuộc cách mạng ruộng đất bà được chia nhà của địa chủ nhưng bà tôi chỉ xin phần lại phần đất vườn của tổ tiên, em trai bà ngoại tôi là bộ đội đặc công sau này mất do nhiễm bệnh trong thời gian chiến đấu; bố tôi tham gia bộ đội- trở thành Đảng viên, sau này khi xuất ngũ bố tôi tự thấy mình không đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ mới của Đảng viên mới nên xin ra khỏi Đảng, nhưng vẫn tham gia vào các đoàn thể hội cựu

Page 14: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

chiến binh, tham gia tích cưc các hoạt động của làng xã. Từ nhỏ tôi luôn được nghe bà ngoại kể về thời gian trước Cách Mạng tháng 8- 1945; rồi cuộc sống sau năm 1945 có nhiều thay đổi to lớn: nông dân có dân cày, không còn cường hào địa chủ…, rồi về chuyện đánh đồn bốt tây của em trai bà ngoại tôi…Khi trở thành học sinh, sinh viên được học tập lịch sử Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, triết học Mác-Lê Nin; tôi hiểu rằng để đạt được thành quả như ngày hôm nay Đảng, nhân dân, thế hệ cha anh đã trải qua muôn vàn khó khăn gian khổ. Tôi thấy rất tự hào khi phấn đấu để được đứng vào hàng ngũ của Đảng và thấy rõ đó là một trọng trách, một nhiệm vụ cao cả và cũng đầy vinh quang xong cũng đầy thử thách. Với lòng quyết tâm và bầu nhiệt huyết của mình và mong muốn được đứng vào hàng ngũ của Đảng để đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước.

Qua thời gian tham gia lớp cảm tình Đảng, tôi được một lần nữa ôn lại lịch sử đấu tranh vẻ vang của dân tộc ta, ôn lại truyền thống tự hào của Đảng ta, hiểu được nhiệm vụ to lớn của người Đảng viên trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng tôi xin hứa nghiêm chỉnh chấp hành điều lệ Đảng, hoàn thành nhiệm vụ của người Đảng viên.

Câu 4 : Trình bày tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phân tích nội dung học tập tấm gương đạo đức Hô Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người bình thường, ai cũng có thể học theo, để trở thành một người cách mạng, người công dân tốt trong xã hội. Tấm gương đạo đức của Người thể hiện tập trung trong các điểm sau:

1. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại.

Ngay từ thưở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu cho cả cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trên con đường phục vụ mục tiêu đó, Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức thực hiện bằng được mục tiêu đó.

Sự kiên định mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới thừa nhận và kính phục. Trong bức điện chia buồn gửi Đảng ta khi Bác mất, Đảng Cộng sản Cu Ba viết: “Hiếm có một nhà lãnh đạo nào, trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy”.

2. Đạo đức Hồ chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng.

Cuộc đời của Người là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách; bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thách thức. Người tự răn mình:

“Muốn nên sự nghiệp lớn,Tinh thần càng phải cao”.

     3. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người. Người luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; “người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”.

4. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người.

Với tình yêu thương bao la, Người dành tình yêu thương cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”.

5. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

Page 15: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng. Suốt cuộc đời Người sống trong sạch, vì dân, vì nước, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã đề ra tư cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình gương mẫu thực hiện.

Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cao thượng tuyệt vời. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi mà mọi người đều có thể noi theo.      * Phân tích nội dung học tập tấm gương đạo đức Hô Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?

1) Ý nghĩa ,tầm quan trọng của việc học tập và làm theo Tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch ,vững mạnh" là đạo đức ,là văn minh "

1- Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam .

- Đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam .Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập lãnh đạo và rèn luyện Đảng cộng sản Việt Nam .Sự nghiệp cách mạng luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của Đảng với văn minh của giai cấp công nhân ,nhân dân dân tộc Việt Nam

 Thắng lợi của cách mạng VN trong 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn xây dựng Đảng ,sự kiên định nền tảng tư tưởng la f chủ nghĩa Mác -Lênin,Tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ,từ công tác xây dựng Đảng trong sạch ,vững mạnh ,thực sự của mình ,xứng đáng là người lãnh đạo ,là mhười đày tớ trung thành của nhân dân .

2) Quán triệt tầm quan trọng ,ý nghĩa chiến lược cơ bản ,lâu dài và thực tiển trước mắt của công tác xây dựng Đảng :

-Xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng .Sự nghiệp đấu tranh nền độc lập dân tộc trước đây ,công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới ngày nay phải trong sạch vững mạnh ,có tần cao trí tuệ ,sức chiến đấu ,đủ năng lực lãnh đạo ,đáp ứng tốt yêu cầu cách mạng .

Trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ,giữa cách mạng và phản cách mạng với khu vự diễn ra gay gắt ,quyết liệ nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và công tác xây dựng Đảng là trong sạch vững mạnh có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ ché độ chính trị ,con đường phát triển của đất nước xã hội với mục tiêu " Dân giàu ,nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ ,văn minh ".

Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường cho Đảng ta xây dựng và trưởng thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiển sâu sắc ,góp phần xây dựng sự trong sạch ,vững mạnh xã hội công bằng ,dân chủ văn minh ".

Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XI cua rĐảng là sinh hoạt chính trị toàn diện và rộng lớn và sâu sắc và là tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch ,vững mạnh là dịp để các tổ chức Đảng và các đảng viên ôn lại và nâng cao nhận thức lý luận về xây dựng Đảng ,nhìn lại công tác xây dựng Đảng trong nhận thức đánh giá đúng những thành tựu ,ưu điểm cũng như những khuyết điểm ,hạn chế nâng cao hơn nữa tinh thần tự giác ,đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng ,góp phần tích cực vào thành công của Đại hội Đảng các cấp và Đại hội XI của Đảng trong sạc vững mạnh ,có tầm cao trí tuệ ,sức chiến đấu ,đủ năng lực lãnh đạo ,xây dựng Đảng trong sạch ,vững mạnh có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị ,con đường phát triển của đất nước lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu " Dân giàu ,nước mạnh xahội công bằng ,dân chủ văn minh " Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường cho Đảng ta xây dựng và trưởng thành .

* Nội dung tư tưởng Hò Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch ,vững mạnh thực sự là đạo đức là văn minh rất phong phú ,trong đó tập trung vào các điểm chủ yếu sau :

1- Cách mạng cần có Đảng và có chủ nghĩa làm nồng cốt ( Đảng cách mạng để lãnh đạo và chủ nghĩa Mác -Lênin làm cốt .

2- Xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyêntắc tổ chức và sinh hoạt Đảng .

- Nguyên tắc tập trung dân chủ .

Page 16: Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

-Nguyên tắc tập thể lãnh đạo ,cá nhân phụ trách .

- Nguyên tắc tự phê bình và phê bình ;

- Kỷ luật nghiêm minh ,tự giác ;

-Đoàn kết thống nhất trong Đảng .

3- Quan tâm xây dựng Đảng ,rèn luyện đội ngủ cán bộ ,đảng viên có đức ,có tài để Đảng xứng đáng " là đạo đức ,là văn minh " .

4- Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân . Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân .Mỗi Đảmg viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân dân .Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với dân ,phải không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân .Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân ,hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân ,tổ chức và vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng .

5- Phải thường xuyên đổi mới ,tự chính đổn ,theo yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng ,của dân tộc gắn với từng giai đoạn lịch sử .