62
MỤC LỤC Danh sách nhóm sinh viên thực hiện................................................... ......................2 Đề tài………………………………………………………………………………..3 Chương I: Phần mở đầu…………………………………………………………….3 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………….3 2. Mục đích khi phân tích đề tài………………………………………………..5 3. Nhiệm vụ khi phân tích đề tài……………………………………………….5 4.Đối tượng và khách thể trong việc phân tích đề tài………………………….6 5.Phạm vi phân tích, nghiên cứu đề tài………………………………………..6 6.Phương pháp phân tích, nghiên cứu đề tài…………………………………..7 Chương II: Phần nội dung 1. Giải thích việc “Học, học nữa, học mãi”…………………………………….8 2. Biểu hiện của chúng ta về việc học tập không ngừng……………………...14 3. Lợi ích của việc không ngừng “Học, học nữa, học mãi”…………………..19 4. Hậu quả của việc xem thường việc “Học, học nữa, học mãi”……………...21 1 | Page

Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

MỤC LỤC

Danh sách nhóm sinh viên thực hiện.........................................................................2

Đề tài………………………………………………………………………………..3

Chương I: Phần mở đầu…………………………………………………………….3

1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………….32. Mục đích khi phân tích đề tài………………………………………………..53. Nhiệm vụ khi phân tích đề tài……………………………………………….54. Đối tượng và khách thể trong việc phân tích đề tài………………………….65. Phạm vi phân tích, nghiên cứu đề tài………………………………………..66. Phương pháp phân tích, nghiên cứu đề tài…………………………………..7

Chương II: Phần nội dung

1. Giải thích việc “Học, học nữa, học mãi”…………………………………….82. Biểu hiện của chúng ta về việc học tập không ngừng……………………...143. Lợi ích của việc không ngừng “Học, học nữa, học mãi”…………………..194. Hậu quả của việc xem thường việc “Học, học nữa, học mãi”……………...215. Tại sao chúng ta cần phải “Học, học nữa, học mãi”……………………….256. Làm thế nào để chúng ta có thể “Học, học nữa, học mãi”…………………297. Trong thời đại ngày nay chúng ta càng cần phải “Học, học nữa, học mãi”..34

Chương III: Phần kết luận………………………………………………………...37

Tài liệu tham khảo………………………………………………………………...39

1 | P a g e

Page 2: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

DANH SÁCH NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN (Nhóm 9)

Mã SV Họ tên SV Phần thực hiện

B13DCCN437 PHẠM THỊ HUYỀN Chương I. Phần mở đầu

B13DCCN457 NGUYỄN DƯƠNG TÙNG Chương II. 1) Giải thích việc “Học, học nữa, học mãi”.

B13DCCN455 NGUYỄN HỒNG TRUNGChương II. 2) Biểu hiện của chúng ta về việc học tập không ngừng.

B13DCCN438 ĐÀO BÁ HUỲNHChương II. 3) Lợi ích của việc không ngừng “Học, học nữa, học mãi”.

B13DCCN451 LÊ THẾ TÌNHChương II. 4) Hậu quả của việc xem thường việc “Học, học nữa, học mãi”.

B13DCCN394 NGUYỄN VĂN QUÝChương II. 5) Tại sao chúng ta cần phải “Học, học nữa, học mãi”.

B13DCCN411 TRẦN VĂN TUYÊNChương II. 6) Làm thế nào để chúng ta có thể “Học, học nữa, học mãi”.

B13DCCN382 TRẦN MẠNH LINH

Chương II. 7) Trong thời đại ngày nay chúng ta càng cần phải “Học, học nữa, học mãi”.

B13DCCN435 NGUYỄN THU HƯỜNG-Xây dựng đề cương.-Phân chia, tổng hợp bài.-Chương III. Phần kết luận.

ĐỀ TÀI2 | P a g e

Page 3: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Phân tích trong thời đại ngày nay chúng ta cần phải học, học nữa, học mãi.

CHƯƠNG I: PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì nhu cầu tìm hiểu

tri thức nhân loại ngày được mở rộng. Kiến thức ngày càng rộng lớn, con người không thể chỉ biết một mà phải biết mười, không chỉ nắm tình hình trong nước mà còn cả thế giới, không chỉ biết cảnh vật ở quốc gia mình mà còn biết thêm những cảnh vật của nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Ngày nay, truyền thông được mở rộng, con người có thể ngồi một chỗ mà vẫn biết và truy cập được nhiều thông tin trên thế giới, nhưng không biết sử dụng thông tin thì cũng như không biết chữ. Việc học là để giúp ta chọn lọc thông tin, phân tích và sử dụng thông tin một cách chính xác. Nói đến tiêu chí đánh giá dân trí của một quốc gia thì chưa có tiêu chí nào rõ ràng và chính xác. Trước đây, người dân không biết chữ, biết đọc, biết viết thì tìm cách dạy cho họ biết đọc, biết viết. Còn bây giờ biết đọc, biết viết là chưa đủ mà còn phải biết chọn lọc thông tin, vận dụng thông tin vào cuộc sống, còn phải biết trao đổi với mọi người và phải phát triển ngôn ngữ của mình.

Các dân tộc sống chung với nhau trên cùng lãnh thổ để có cuộc sống tốt đẹp, hòa thuận thì không chỉ biết phong tục, tập quán của nhau, biết yêu thương nhau mà còn phải biết ngôn ngữ của nhau nữa. Do đó, học là để biết, học là để hiểu, học là để làm và học còn để chung sống hòa bình với nhau. Như vậy, chúng ta cần phải học để con đường chúng ta đi sẽ ít gặp chông gai trắc trở hơn, nếu không học tầm nhìn của ta bị thiển cận, nhìn không xa, bàn không tới, đi không lâu và dễ gặp sai lầm. Như Bác Hồ đã dạy “Đi đường mà biết rõ đường, thì đi thoải mái và thấy như đường dài mà ngắn lại. Đi đường mà không biết trước những chặng phải đi qua, thì mò mẫm, không rõ xa gần, chỉ thấy đường dài thăm thẳm, đi chưa được mấy đã thấy mệt”(1).

Việc học sẽ giúp chúng ta tìm ra con đường đúng đắn và ngày càng mở rộng ra cho ta nhiều cơ hội mới.                                        

3 | P a g e

Page 4: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Học nhiều nhưng không thừa, càng học rộng, hiểu biết càng nhiều thì càng giúp chúng ta giải quyết công việc tốt hơn, càng trau dồi thêm kiến thức, tâm chúng ta càng sáng hơn như câu “ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”. Việc học như viên ngọc phải rèn giũa thường xuyên và càng mở rộng phạm vi học tập, không chỉ học tri thức mà còn trau dồi đạo đức và phải thực hành. Học phải đi đôi với hành, Hồ Chí Minh là người luôn quan tâm đến việc học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, nói đi đôi với làm “Lý luận mà không có thực tiễn thì trở thành lý luận suông, thực tiễn mà không có lý luận thì trở thành thực tiễn mù quáng” (2). Người có kinh nghiệm thì chưa đủ mà cần phải có lý luận đi kèm, người có lý luận thì phải đem ra thực hành, giữa học và hành phải luôn luôn đồng thuận với nhau. Nói mà không làm thì không giỏi, làm mà không có lý luận đi kèm thì sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, công việc sẽ không đi đến nơi.

Việc học không phải lên lớp nghe giảng bài thì mới được gọi là học, mà việc học được tổ chức mọi lúc, mọi nơi, mọi thời điểm, chúng ta có thể học khi ta đang làm, học trong khi đang vui chơi. Học không kén chọn ai, ai cũng có thể học, học nhiều hơn nữa. Việc học không chỉ giúp chúng ta tìm cho mình một nghề mà còn giúp chúng ta nhận biết thế giới, phân tích và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Vì trong cuộc sống mỗi bước ta đi tới luôn có những khó khăn và thách thức, làm thế nào vượt qua nó, đó là do thái độ của ta nhìn nhận nó và giải quyết nó theo hướng khoa học, mà chính việc học vạch ra cho ta.

Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của việc học đối với bất cứ ai, bất cứ cá nhân hay tập thể nào trong cuộc sống hiện nay nên nhóm em đã quyết định phân tích về câu nói của Lê-nin: “Học, học nữa, học mãi” cũng như sự đúng đắn của và tầm quan trọng của nó trong thời đại hiện nay.

2. Mục đích khi phân tích về đề tài.Việc học quan trọng là thế nhưng có mấy ai hiểu hết giá trị của việc

học, do đó mà có nhiều người xem việc học như trò đùa, cưỡi ngựa xem hoa, thích hưởng thụ mà không lao động, nên có nhiều thanh thiếu niên lơ là việc học tập và đó cũng chính là lơ là tương lai của mình. Thực trạng đang diễn ra hiện nay là nhiều thanh thiếu niên bỏ bê việc học, học không nhiệt tình, xem việc học như là hàng hóa, học để lấy bằng đối phó không vì tay nghề vững chắc, nên các em lơ là việc học thậm chí còn xem thường người dạy mình.

4 | P a g e

Page 5: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Giá trị của việc học bị xem nhẹ, trước đây có câu “người ta lấy thúng đong lúa, có ai lấy thúng đong chữ bao giờ”, do kém hiểu biết nên họ xem trọng việc ruộng nương hơn học, còn bây giờ người ta coi trọng đồng tiền hơn việc học thực thụ.

Trước thực trạng đáng buồn như hiện nay, chúng ta cần làm gì để tất cả nhìn nhận lại việc học, quan tâm và đầu tư vào việc học. Có rất nhiều công trình từ thiện chung tay giúp đỡ các em nghèo khó học giỏi, những em vì hoàn cảnh khó khăn mà không thể tiếp tục việc học của mình, nhưng chưa có tổ chức nào giúp đỡ các em có điều kiện mà xem thường việc học, lôi kéo các em vào việc học để giáo dục các em thành người có ích cho xã hội.

Nhóm em phân tích về vấn đề trong câu nói “Học, học nữa, học mãi” của Lê-nin với hi vọng phần nào đó giúp mọi người nhận thức được tầm quan trọng của việc học, cũng như hiểu rằng câu nói đó chính là một lời khuyên, một định hướng đúng đắn trong cuộc sống. Có học mới có được kiến thức, có được kiến thức mới có thể có hành trang để bước vào đời. Từ đó giúp bất cứ ai cũng có thể nhận thức được rằng việc học hỏi không ngừng là rất quan trọng. Cho dù là ai, dù ở bất cứ độ tuổi nào thì việc học không bao giờ là muộn cả. Vì kiến thức của nhân loại bao la, mênh mông như biển cả còn sự hiểu biết của mỗi con người chỉ nhỏ như 1 giọt nước mà thôi.

3. Nhiệm vụ khi phân tích đề tài- Đưa ra được cái nhìn tổng quát nhất về vấn đề “Học, học nữa, học mãi”:

Học là gì? Học là một hành động của con người, rèn luyện tư duy lô-gic theo một cách nào đó, để tiếp thu kiến thức chưa biết, rèn luyện những kiến thức đã biết. Việc học có rất nhiều cách, chúng ta có thể học trong trường lớp, trong gia đình, ngoài xã hội,... Nhưng dù cho ta học theo cách nào đi nữa thì mục đích chính của ta là tiếp thu, tích lũy kiến thức cho bản thân. Bởi học chính là tìm hiểu, khám phá những điều mình chưa biết, rèn luyện bản thân để tăng hiểu biết, trình độ về mọi mặt. Ngoài học những kiến thức văn hóa mà chúng ta còn phải học cách làm người. Học rất đa dạng, học ở khắp mọi nơi, học bất kì lúc nào. Học nữa là học thêm tới mức cao hơn nữa, học hết trình độ này đến trình độ khác, học từ trình độ thấp tới cao. Như những người đã học xong đại học, đi làm cần phải học thêm cao học để trở thành tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư,… Thế nào là học mãi? Học mãi có nghĩa là học liên tục, học đến suốt đời, học cả khi về

5 | P a g e

Page 6: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

già. “Học, học nữa, học mãi” chính là phải dốc hết sức mình vào việc học. Luôn luôn học hỏi những điều chưa biết để mở rộng thêm con đường dẫn đến thành công.

- Trình bày được thực trạng liên quan đến vấn đề “Học, học nữa, học mãi” trong thời đại hiện nay, từ đó đưa ra được một số giải pháp, ứng dụng để góp phần nâng cao tinh thần học tập của mỗi con người, mỗi cá nhân trong xã hội này.

- Ngoài ra, nhóm cũng sẽ tìm hiểu về những lợi ích của việc không ngừng “Học, học nữa, học mãi” cũng như những hậu quả của khi xem thường việc “Học, học nữa, học mãi” để người đọc có thể nắm bắt được những vấn đề cơ bản nhất liên quan đến đề tài…

4. Đối tượng và khách thể trong việc phân tích đề tài.a) Đối tượng

Đối tượng cần phân tích chính là việc “Học, học nữa, học mãi” trong xã hội hiện nay. Cụ thể là thực trạng hiện tại cũng như tầm quan trọng của việc học, tính đúng đắn trong câu nói của Lê-nin.b) Khách thể

Con người trong thời đại hiện nay: tất cả mọi người, bất kể già hay trẻ, nam hay nữ, đi học hay đi làm… và cũng liên hệ với chính bản thân mình.

5. Phạm vi phân tích, nghiên cứu đề tàiViệc “Học, học nữa, học mãi” được khảo sát chủ yếu trong con người

Việt Nam ở thời đại hiện nay, so sánh với ông cha ta trong lịch sử, đồng thời liên hệ với việc học của các quốc gia bên ngoài, với các bậc thiên tài, các nhà bác học… trong quá khứ và hiện tại.

6. Phương pháp phân tích, nghiên cứu đề tàiĐể phân tích, nghiên cứu về vấn đề “Học, học nữa, học mãi”, nhóm

đã sử dụng một số phương pháp như: phân tích, nghiên cứu tài liệu; quan sát, điều tra, khảo sát thực tế; tổng kết kinh nghiệm và thống kê toán học…

6 | P a g e

Page 7: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

CHƯƠNG II: PHẦN NỘI DUNG

1. Giải thích việc “Học, học nữa, học mãi”.

1.1) Nguồn gốc của sự học?

Định nghĩa lại sự học luôn là khởi nguồn cho mọi cuộc cách mạng về giáo dục. Do đó, điều quan trọng nhất hiện nay là nỗ lực tạo nhận thức cho người học để mỗi người hiểu rằng, họ mới chính là “ông chủ” của quá trình giáo dục, là “nhà quản trị” sự học của bản thân, với tâm thế: “Ta là sản phẩm của chính mình!”.

Từ một góc nhìn về giáo dục

Chúng ta có một niềm tin bất biến vào giáo dục: Giáo dục là công cụ để định danh con người. Nếu không có nó, con người, muông thú và cỏ cây sẽ đều là những sinh vật giống nhau trong vạn vật của vũ trụ.

Con người là sản phẩm của giáo dục. Hệ thống giáo dục bao gồm nhiều nhân tố, từ chính sách của nhà nước, đến nhà trường, nhà giáo… và gần gũi nhất là từ gia đình và các tác nhân ngoài xã hội.

Tuy nhiên, có thể nhận thấy, đồng thời với quá trình chịu tác động của hệ thống giáo dục này, con người còn là “sản phẩm” của chính mình, của một quá trình “giáo dục tự thân”. Nghĩa là, người học vừa là nguyên liệu, vừa là sản phẩm và cũng lại là trung tâm của cả quá trình giáo dục. Người học cần phải biết nắm lấy sự chủ động cao nhất, phải biết “làm chủ” trong toàn bộ quá trình này. Và mọi sự đổi thay, mọi sự cải cách hay mọi cuộc cách mạng về giáo dục đều bắt đầu từ sự học, chính xác là bắt đầu từ “cách mạng sự học” của bản thân mỗi người.Một số người vẫn bảo rằng, rất nhiều người trong số chúng ta là những sản phẩm bị “lỗi” của nền giáo dục Việt Nam. Nhưng có một thực tế khác, là đâu phải tất cả những ai thụ hưởng nền giáo dục trong nước đều bị “lỗi”. Vẫn có rất nhiều người thành nhân và thành tài mà chưa hề thụ hưởng một nền giáo dục nào khác ngoài những điều đã được học, được dạy trong nhà trường “made in Việt Nam” như bất kỳ ai. Tìm hiểu những kinh nghiệm của họ, sẽ rất dễ nhận ra, điểm khác nhau chính là ở nhận thức về sự học và quá trình tự học, tự rèn luyện, tự thân vận động của họ.Phải chăng, đã đến lúc người học cần ý thức được vai trò “làm chủ” của mình trong toàn bộ quá trình giáo dục - quá trình mà ở đó, mọi tác nhân bên ngoài khác như nhà nước, nhà trường hay nhà giáo… chỉ đóng vai trò hỗ trợ, bổ sung và cung cấp thông tin, kiến thức cho người học để họ tự hoàn thành mục tiêu học tập của chính mình?

7 | P a g e

Page 8: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Sự học bắt đầu từ khát vọng

Sự học của dân tộc bắt đầu từ khát vọng quốc gia. Sự học của tổ chức bắt đầu từ hoài bão và sứ mệnh chung mà tổ chức đó theo đuổi. Sự học của bản thân sẽ bắt đầu từ lẽ sống của chính cuộc đời mình. Đồng thời, sự học của bản thân mỗi người cũng thường chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi sự học chung của môi trường xung quanh (quốc gia, cơ quan, trường học, gia đình, bạn bè,…).Hàng trăm năm trước, nước Nhật đã thực hiện cuộc Duy Tân Minh Trị, trong đó có chủ trương “Hòa thần Dương khí” (Tinh thần Nhật Bản, Tinh hoa phương Tây) nhằm đưa tất cả những quyển sách quý nhất của thế giới trong hầu hết các lĩnh vực đến với mọi người dân. Những tinh hoa tri thức của loài người đã phủ đều lên khắp nước Nhật với nhiều triệu bản in của mỗi tựa sách đã được phát hành. Người Nhật, trước đó, vốn không hẳn là một dân tộc mê đọc sách, cũng không phải là một dân tộc sính ngoại, nhưng khát khao vươn mình, khát vọng đua tranh cùng phương Tây đã làm cho họ hiểu và tin rằng, sự học và tiếp nhận tinh hoa tri thức của phương Tây chính là con đường ngắn nhất và khôn ngoan nhất đã giúp họ có đủ năng lực để thành công trong cuộc đua tranh khó tưởng tượng này.Và chính khát vọng mãnh liệt của dân tộc đã hun đúc cho hàng triệu công dân của đất nước mặt trời mọc, đã thổi bùng một niềm tin, một động lực ghê gớm, để mỗi ngày, họ dốc sức cho sự học, cho việc tiếp thu tri thức và văn minh của loài người, cho sự phát triển của bản thân, cho sự phồn thịnh của quốc gia.Quả thật, một quốc gia chỉ có thể hùng mạnh khi quốc gia đó chia sẻ được nhiều giá trị với thế giới. Điều này đòi hỏi quốc gia ấy phải có nhiều con người có khát vọng và có khả năng tạo ra những giá trị đẳng cấp toàn cầu thông qua việc cung cấp các “sản phẩm” của mình cho “thị trường” toàn cầu.Những thách thức mới của thời đại mới đặt Việt Nam vào tình thế cần có nhiều hơn những doanh nhân tạo ra được những sản phẩm cho thế giới dùng, những nhà văn viết ra được những quyển sách cho thế giới đọc, những nhạc sĩ sáng tác ra được những bản nhạc cho thế giới nghe, những họa sĩ vẽ ra được những bức tranh cho thế giới xem, những nhà khoa học đưa ra được những phát kiến cho thế giới ứng dụng…, cần có nhiều hơn những nhân sự có khả năng sống một cách đàng hoàng và làm việc thành công ở bất cứ môi trường nào trên thế giới này.Sự học – chính là con đường để tạo ra những con người mới cho xã hội tương lai. Những con người mới cần có khát vọng mới và lẽ sống mới mang tên “ta là ai trên thế gian này?” và “ta sẽ dùng cuộc đời mình vào việc gì?”. Những con người mới cần có khát vọng mới và năng lực mới được định danh là “đua tranh mạnh mẽ cùng thế giới”. Và những con người mới này, cũng cần có một hệ giá trị mới, hệ giá trị phù hợp với bối cảnh “loài người sống chung”.

8 | P a g e

Page 9: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Khát vọng thay đổi thế giới, định vị lại hình ảnh quốc gia, tạo dựng vị trí cho tập thể, hay đơn giản hơn là khẳng định bản thân mình, luôn là những động lực, những tác nhân tạo ra sức mạnh lớn lao cho sự học của mỗi người.Sẽ phải mất rất nhiều năm để có thể tạo ra một cuộc cách mạng về giáo dục trong toàn xã hội. Nhưng một cuộc cách mạng về sự học của mỗi người thì có thể diễn ra một cách rất nhanh chóng, chỉ bằng sự chủ động và quyết tâm của chính bản thân mình.

“2W1H” và Định nghĩa lại sự học

Trong một báo cáo toàn cầu về giáo dục, UNESCO dã đưa ra mục tiêu của sự học dành cho mỗi người: học để hiểu biết, học để làm việc, học để làm người và học để chung sống (trong bối cảnh loài người sống chung). Chúng ta cũng có thể có một cách hiểu, một cách diễn đạt khác về mục tiêu của sự học dành cho mỗi cá nhân, đó là: học làm người, học làm việc và học làm dân. Từ những cách hiểu này về mục tiêu của sự học, ta có thể nhận ra có một cái “nghề” chung của tất cả mọi người trong xã hội bên cạnh nghề nghiệp chuyên môn của mình: “Nghề làm người”.Bên cạnh mục tiêu về sự học của cá nhân, thì chúng ta cũng đã được biết mục tiêu về giáo dục của quốc gia được thừa nhận rộng rãi trên khắp thế giới, đó là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.Những mục tiêu này sẽ được giải quyết một cách thấu đáo bằng phương pháp luận cơ bản mà chúng tôi gọi là: “Nguyên tắc giải quyết vấn đề: 2W1H”. Cụ thể, chúng ta sẽ tìm được ý nghĩa thực sự của từng tiết học, buổi học, môn học, lớp học, khóa học, cấp học, bậc học… với hệ thống câu hỏi: “Why – Tại sao học, Học để làm gì?” (mục tiêu học); “What – Học cái gì để đạt được mục tiêu đó?” (nội dung học) và “How – Học như thế nào?” (phương pháp học).Trật tự của chuỗi câu hỏi này là không thể đảo ngược. Bởi điều quan trọng nhất là, sự học hay giáo dục, đều phải được bắt đầu từ những mục tiêu rất rõ ràng, cụ thể và thuyết phục. Vì khó ai có thể làm tốt việc gì, bất kể người đó là ai và bất kể việc đó là việc gì, nếu người đó không biết rõ mục tiêu của việc mà mình làm.Hãy bắt đầu bằng một ví dụ cụ thể, học để “làm việc”: Một sinh viên bước chân vào khoa điện của một trường đại học. Có thể hình dung rất nhiều “kịch bản tương lai” của người sinh viên đó từ ngưỡng cửa này: “Lấy được tấm bằng kỹ sư điện, nhưng không biết gì về điện”; “Chẳng lấy được tấm bằng nào nhưng lại là một chuyên gia giỏi về điện do suốt ngày tự nghiên cứu và thực hành trong thực tế mà bỏ lơ sách vở ở trường”; “Vừa có bằng kỹ sư hẳn hoi mà lại rất giỏi nghề”. Chỉ có người sinh viên này, chứ không ai khác, mới có thể quyết định tương lai của chính mình bằng việc hiểu rõ động cơ thực sự bên trong của mình trong suốt quá trình đào luyện này.

9 | P a g e

Page 10: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Qua đó, ta dễ thấy rằng, tất cả những môn học, những lớp học… và thậm chí cả hệ thống giáo dục, đều có thể được định nghĩa lại bằng 2W1H. Không chỉ định nghĩa lại từ cấp vĩ mô mà còn từ bản thân mỗi người học, không chỉ định nghĩa lại từ cả một đời học mà còn từ mỗi tiết học….

Đối với bậc giáo dục phổ thông, ta có thể sử dụng 2W1H để có cái nhìn “cận cảnh” đối với hàng loạt môn học ở bậc học này. Cụ thể, vì sao ta phải học môn giáo dục công dân? Phải chăng học để thuộc lòng, để thi, để lấy điểm, để lên lớp, để lấy bằng? Nếu không vì điểm, vì bằng… thì người học có muốn học môn này không? Giáo dục công dân là môn học mà ta cần học để biết cách “làm dân” theo đúng như tên gọi của nó, học để có năng lực thực hiện các quyền và nghĩa vụ của một công dân trong một quốc gia độc lập có chủ quyền, học để biết phục vụ đồng bào và biết sống chung với đồng loại… Với mục tiêu như thế thì môn học này ắt hẳn sẽ có những nội dung rất hấp dẫn và có vô số phương pháp học thú vị có thể được sáng tạo?Học môn thể dục để làm gì? Thể dục, xét cho cùng là giúp cho người học biết cách tạo dựng một cơ thể khỏe mạnh trong cả cuộc đời mình, chứ không phải học để trở thành vận động viên điền kinh. Do vậy, nội dung môn học có thể là: học ăn gì, uống gì, ngủ ra sao, tập luyện thế nào, bệnh lý nào thường gặp… Thể dục cũng chính là một phần quan trọng của bốn yếu tố mà mỗi con người cần được xây dựng để biết “làm người”: Thể dục, Đức dục, Trí dục và Mỹ dục (Tứ dục).Và chắc hẳn, ta học họa là để nâng cao năng lực mỹ cảm chứ không phải để trở thành họa sỹ; học văn để hiểu con người, hiểu cuộc đời, để yêu thương con người, yêu thương cuộc đời… chứ không phải để trở thành nhà văn; học lịch sử để biết về quá khứ từ đó mới hiểu về hiện tại và hướng tới tương lai một cách tích cực và khôn ngoan nhất…, chứ không phải chỉ để thuộc lòng ngày sinh của các nhân vật lịch sử;…Từ những “mổ xẻ” trên, chúng ta tin rằng: Chỉ có học thực, mới có năng lực thực; chỉ có năng lực thực, mới có thể làm thực; chỉ có làm thực, mới có thể tạo ra giá trị thực; chỉ có tạo ra giá trị thực, mới có thể sống thực. Tất cả, bắt đầu từ thực học. Và mỗi người sẽ có thể “thực học” thông qua việc “làm chủ” quá trình giáo dục và quá trình tự học của chính mình bằng “công nghệ quản trị sự học 2W1H”.Như vậy, rõ ràng, việc tham gia quá trình học đang đổi ngôi. Người học – “ông chủ”, hay “nhà quản trị” – mới chính là người quyết định mình vì sao mình học, từ đó chuyển tải thành nội dung và cách thức để họ có thể đạt đến mục tiêu học tập một cách hiệu quả nhất.

10 | P a g e

Page 11: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Cách mạng sự học là nền tảng cho niềm tin giáo dục

Bất kỳ một nền giáo dục nào cũng cần có sự cải tổ, đổi mới liên tục để ngày một hoàn thiện hơn. Vai trò của nhà nước, nhà trường, nhà giáo và các bậc thức giả trong xã hội trong quá trình này là quan trọng hàng đầu.Và thông thường, mỗi con người – “nguyên liệu” và cũng đồng thời là “sản phẩm” của giáo dục, nếu được thụ hưởng một nền giáo dục tốt, thì chắc hẳn “ta” cũng sẽ là một sản phẩm tốt. Còn nếu ta đang phải sống trong một nền giáo dục chưa đạt chất lượng, thì có thể “ta” là một sản phẩm “lỗi”.Tuy nhiên, để có thể bảo đảm cho sự thành công, bất kể trong bối cảnh nào, bất kể trong nền giáo dục nào, thì chúng ta phải bắt đầu từ sự học và người học phải luôn biết cách nắm lấy thế chủ động trong suốt quá trình giáo dục để tự đào luyện mình bằng một cuộc “cách mạng về sự học” của cá nhân - Ta là sản phẩm của chính mình.Khi hiểu rõ vai trò “làm chủ” và “nhà quản trị” trong quá trình học, thì mọi thông tin, mọi kiến thức từ sách, từ kinh nghiệm…, từ mọi tiết học, môn học, khóa học, lớp học, cấp học, bậc học…, từ mọi người, mọi nơi và mọi lúc… sẽ được người học tích hợp và sắp xếp lại theo đúng tư duy, đúng hệ thống và đúng logic của bản thân mình sao cho đạt được những mục tiêu học tập mà cá nhân mình đã đặt ra.Như vậy, mỗi chúng ta có hai niềm tin vào giáo dục. Niềm tin vĩ mô, khách quan, nằm ở tổng thể nền giáo dục. Niềm tin vi mô, chủ quan, nằm ở chính mình.Khi thấu hiểu được rằng, “Ta là sản phẩm của chính mình”, thì cuộc “cách mạng về sự học” càng làm cho ta có thêm thật nhiều “niềm tin vào giáo dục”. Có niềm tin vào sự học, có niềm tin vào giáo dục, thì sẽ có niềm tin vào tất cả! Đó là tiền đề, cũng là cơ sở cho mọi thành công của chính mình và của cả xã hội trên con đường dài phía trước.

1.2. Cần phải làm gì để “học nữa, học mãi”?

Mỗi con người muốn thành công thì phải học, việc học không phải chỉ dành cho những người còn ngồi trên ghế nhà trường mà dành cho tất cả mọi người. Bởi tri thức là vô hạn, không bao giờ chúng ta có thể học hết được tri thức. Vì thế mà câu nói của Lê Nin dưới đây thật có ý nghĩa: “Học, học nữa, học mãi".

Nói đến học chúng ta hiểu ngay là quá trình khám phá và tiếp thu những tinh hoa kiến thức của nhân loại. Học theo đó mà hướng đến việc mở rộng khả năng hiểu biết, hướng đến việc rèn luyện kĩ năng. Và từ đó mà tạo dựng nền móng vững chắc cho nghề nghiệp của mình. Học không chỉ ở trường, mà chúng ta còn học ở gia

11 | P a g e

Page 12: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

đình, ở ngoài xã hội. Học không chỉ cứ nhằm đến những kiến thức khoa họ lớn lao mà việc học chỉ đơn giản là việc học ăn, học nói, học cách cư xử, đối đãi, giao tiếp hằng ngày. Như vậy học là một quá trình luyện rèn toàn diện và diễn ra ở khắp mọi nơi. Nó hướng đến mục tiêu giúp cho bản thân mỗi chúng ta trở thành những con người hoàn thiện, có đức, có tài và có ích cho sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng tương lai.

Vì sao Lê Nin lại dùng từ học nữa và học mãi để răn dạy thế hệ đi sau. Học nữa là học để nâng cao trình độ, để mở mang vốn trí thức cho bản thân mình. Tri thức của con người là vô cùng, vô tận, mà tri thức nào cũng đẹp, cũng hay, cũng cần thiết và hữu ích. Thế nên chúng ta phải rèn luyện thói quen không ngừng học tập. Học tập là sự nghiệp suốt cuộc đời. Vì thế mà Lênin mới gọi đó là học nữa học mãi. Mỗi con người chúng ta có học nữa học mãi suốt cuộc đời cũng không bao giờ là đủ. Làm sao trong đời một con người có thể học hết được vốn tri thức của nhân loại. Điều này lại một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc học cũng như nhiệm vụ của mỗi con người là không ngừng học tập.

Thực tế chỉ ra rằng kho tàng tri thức của nhân loại là mênh mông, chúng ta có dành hết cuộc đời cũng không sao tìm tòi hết được. Nhưng nếu chúng ta không học, chúng ta sẽ không có tri thức để đảm bảo cho cuộc sống. Hơn thế nữa, tri thức của chúng ta lại luôn lạc hậu so với sự phát triển nói chung. Thế nên để có thể tồn tại và trong cuộc sống này một cách vững vàng và hữu ích, chúng ta phải luôn luôn có ý thức bổ sung và tinh lọc ngay chính kho tàng tri thức của bạn thân mình.

Ngày nay trình độ khoa học kĩ thuật cũng ngày một phát triển hiện đại. Vì thế nếu chúng ta không xác định được rõ mục đích và động cơ học tập, chúng ta sẽ bi tụt hậu trước sự phát triển quá nhanh của xã hội. Khi ấy chúng ta sẽ trở thành những người vô dụng. Cuộc sống của chúng ta sẽ nhàm chán và vất vả biết nhường nào nếu không có tri thức.

Lời căn dặn của Lê Nin thật bất hủ, nó có ý nghĩa rất lớn và đặc biệt nó rất phù hợp với truyền thống hiếu học của dân tộc chúng ta. Truyền thống ấy trở thành ngọn lửa thắp sáng niềm tin, ước mơ và khát khao cho không biết bao thế hệ. Vì thế để xứng đáng với quá khứ của cha ông, thế hệ trẻ chúng ta ngay từ hôm nay cũng phải ra sức học hành, phải coi việc học là mục tiêu, là đích đến và tương lai bền vững lâu dài.

 Ngày nay chúng ta vẫn coi câu nói của Lê Nin như một khẩu hiệu về niềm ham mê học tập mà thế hệ trước để lại cho thế hệ sau. Rất nhiều trường học để dòng chữ : Học, học nữa, học mãi, ngay trước cổng trường, như một lời nhắc nhở chúng

12 | P a g e

Page 13: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

ta không ngừng học tập. Chỉ có học tập con người mới tiếp thu được kiến trức của nhân loại, từ đó giúp ích cho bản thân và cho nước nhà.(3)

2. Biểu hiện của chúng ta về việc học tập không ngừng.

2.1) Từ xa xưa việc học luôn được coi trọng.

Từ ngàn đời xưa, La Sơn Phu Tử - Nguyễn Thiếp, một viên quan nổi tiếng “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê đã từng nói: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo. Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy…Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”.          Ngày xưa, ông cha ta rất coi trọng việc học nên thường răn dạy con cháu phải học tập cho tốt. Có biết bao nhiêu câu chuyện cảm động về những tấm gương hiếu học. Xưa kia, Mạc Đĩnh Chi là con nhà nghèo, đêm đến vì không có đèn học nên ông đã phải bắt đom đóm cho vào vỏ trứng để học. Hay là nhân vật Trạng Nồi cũng là một chàng thư sinh nghèo khó, không có tiền mua gạo nấu cơm, nên mỗi lần học xong, chàng thường sang bên hàng xóm mượn nồi cơm, vét những hột cơm còn sót lại để ăn. Sau này, trạng Nồi đã thi đỗ Trạng nguyên mà vẫn không quên công ơn của người hàng xóm tốt bụng đó. Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ, có rất nhiều bạn nhỏ phải lặn lội trong mưa bom bão đạn của giặc để đến trường. Cuộc sống tuy có khó khăn gian khổ nhưng họ vẫn chăm chỉ học tập, không ngừng học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không ít người đã trở thành những giáo sư, tiến sĩ góp phần xây dựng đất nước, xã hội ngày một giàu đẹp, văn minh và hiện đang nắm trọng trách quan trọng trong bộ máy nhà nước ta.

Nước ta từ thời Văn Lang Âu – Lạc đã có nhà nước, nhưng tình hình giáo dục thời kỳ này như thế nào không thể tra cứu được. Năm 111 TCN, nước ta bị nội thuộc đế quốc Tây Hán. Trước đó, năm 136 TCN, vua Tây Hán là Vũ Đế tuyên bố “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”. Nho giáo vốn là trường phái tư tưởng rất coi trọng việc giáo dục, do đó đến thời kỳ này ở Trung Quốc càng được đề cao. Sau khi thống trị nước ta, quan cai trị của triều Hán đã truyền bá chế độ giáo dục của Trung Quốc sang nước ta, chữ Hán trở thành văn tự dùng trong giáo dục, các sách do các nhà Nho ở Trung Quốc soạn thành tài liệu học tập.

Sau khi giành được độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam quán triệt tư tưởng Nho giáo, rất coi trọng việc giáo dục, vì họ nhận thức được rằng đó là biện pháp chủ yếu để đào tạo nhân tài cho đất nước.

13 | P a g e

Page 14: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Chính vì thế, từ năm 1970, vua Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu. Năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc tử giám bên cạnh văn miếu.

Đến đời Lê, từ vua đến quan đều cho rằng: “Sự nghiệp trị nước lớn lao của đé vương không gì cần kíp hơn nhân tài, điển chương chế độ đầy đủ của nhà nước tất phải chờ các bậc hậu thánh. Là bởi trị nước mà không lấy nhân tài làm gốc, chế tác mà không dựa vào thánh nhân đời sau thì đều chỉ là cẩu thả tạm bợ mà thôi, sao có thể đạt tới chính trị phong hóa phồn vinh, văn vật điển chương đầy đủ” (Văn bia do Đỗ Nhuận soạn năm 1984).

Nói về việc coi trọng giáo dục của triều Lê ngay từ buổi đầu dựng nước, trong Kiến văn tiều học, Lê Quý Đôn viết:

“Năm Mậu Thân, niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1428), hạ chiếu trong nước dựng nhà học, dạy dỗ nhân tài, trong đó có Quốc tử giám, bên ngoài có nhà học các phủ. Nhà vua thân hành chọn con cháu các quan và thường dân tuấn tú bổ sung vào học các cục chầu hầu cận, chầu ở ngự tiền và sung vào giám sinh Quốc tử giám, lại hạ lệnh cho các viên quan chịu trách nhiệm tuyển rộng cả con em nhà lương gia ở dân gian sung vào sinh đồ ở các phủ để dạy bảo.”

Trên cơ sở khuyến khích việc học tập. Nhà Lê còn rất chú ý đến việc thi cử để tuyển chọn nhân tài.

Năm 1434, Lê Thánh Tông hạ chiếu nói:

“Muốn có được nhân tài trước hết phải chọn lựa kẻ sĩ, mà phép chọn lựa kẻ sĩ phải lấy thi cử làm đầu. Nhà nước ta từ thủa xưa loạn lạc, người anh tài như lá mùa thu, bậc tuấn kiệt như sao buổi sớm. Thái tổ ta trước, bạn đầu dựng nước, mở mang nhà học hiệu, dùng cỗ thái lao để tế Khổng Tử, rất mực sùng Nho, trọng đạo. Nhưng vì nước mới dựng nên chưa kịp đặt khoa thi. Trẫm nối theo chí hướng người xưa lo, được nhân tài để thỏa lòng mong đợi.”

Đến thời Nguyễn, năm 1814, Gia Long cũng nói:

“Học hiệu là nơi chứa nhân tài, phải giáo dục có căn bản thì mới có thể thành tài, trẫm muốn bắt trước người xưa, đặt nhà học để nuôi học trò ngõ hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nổi cho nhà nước dùng.”

Năm 1827, Minh Mạng nói với đình thần rằng:

14 | P a g e

Page 15: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

“Trẫm từ khi thân chinh đến nay, chưa từng lúc nào không lấy việc đào tạo nhân tài làm việc ưu tiên… Đế vương ngày xưa dùng người có phải vay mượn nhân tài ở đời khác đâu.”

Do nhận thức như vậy, các triều đại thường thi hành những chính sách khuyến khích việc học tập và đỗ đạt.

Năm 1486, nhà Lê quy định những người làm thuê làm mướn có biết chữ và có Ty Thừa tuyên bản xứ chuẩn cho thì được miễn xung quân.

Năm 1488, vua Lê Thánh Tông lại hạ chiếu cho “các sĩ nhân đã từng đi học, biết làm văn, có hạnh kiểm đã thì đỗ và được miễn tuyển thì miễn cho nửa phần thuế và sai dịch.”

Đối với những người đỗ đạt, nhà nước phong kiến có ý thức dùng nhiều biện pháp để làm thêm sự vinh quang của họ như tổ chức lễ vinh quy rất long trọng, dựng bia Tiến sĩ ở văn miếu.

Mặc dầu thời phong kiến, do đời sống của đại đa số nông dân rất khổ cực, những người có điều kiện đi học không nhiều, những người có thể đỗ đạt lại càng ít, nhưng so với các nước trên thế giới lúc bấy giờ, nước ta là một trong số ít nước có nền giáo dục có quy củ và tương đối phát triển.

Cuối đời Trần, năm 1397, nhà Trần đặt chức giáo thụ ở các châu trấn. Lời chiếu của vua Trần Thuận Tông viết:

“Đời xưa, nước có nhà học, đảng có nhà tự , toại có nhà tường để tỏ rõ giáo hóa, giữ gìn phong tục, ý trẫm rất chuộng như vậy.

Nay quy chế ở kinh đô đã đầy đủ, mà ở Châu huyện thì có thiếu, làm thế nào rộng đường giáo hóa cho dân? Nên lệnh cho các phủ lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, đều đặt một học quan, ban cho quan điền theo thứ tự bậc khác nhau: phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa thì 12 mẫu, phủ châu nhỏ thì 10 mẫu để chi dùng cho việc học trong phủ châu mình (một phần để cúng ngày mùng một, một phần cho nhà học, một phần cho đèn sách). Lộ quan và quan đốc học hãy dạy bảo cho học trò cho thành tài nghê, cứ đến cuối năm thì chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình, trẫm sẽ thân hành thi chọn và cất nhắc”.

Ngô Sĩ Liên nhận xét về việc ấy như sau:

15 | P a g e

Page 16: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

“Bấy giờ có chiếu lệnh này, còn gì tốt đẹp hơn bằng thế nữa? Nhưng lệnh này không thấy thi hành, vì không phải là bản ý của nhà vua, mà vì Quý Ly muốn làm việc cướp ngôi, mượn việc ấy để thu lòng người mà thôi.”

2.2) Ngày nay việc học ra sao?

Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì nhu cầu tìm hiểu tri thức nhân loại ngày được mở rộng. Con người phải biết nhiều thứ tiếng để trao đổi với nhau trên nhiều quốc gia. Kiến thức ngày càng rộng lớn, con người không thể chỉ biết một mà phải biết nhiều, không chỉ nắm tình hình trong nước mà còn cả thế giới, không chỉ biết cảnh vật ở quốc gia mình mà còn biết thêm những cảnh vật của nhiều nước trên thế giới.

Nelson Mandela, vị anh hùng giải phóng dân tộc Nam Phi từng nói: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể dùng để thay đổi thế giới.”

Mandela là một nhà cách mạng, một nhà chính trị, nhưng ông hiểu rõ rằng ở những quốc gia như của ông, khi mà nhận thức còn kém, giáo dục còn chưa tốt thì mọi cuộc cách mạng đều khó mà đi tới thành công, hoặc chỉ thu được những thành công tạm thời, không bền vững. Chỉ có giáo dục, làm thay đổi nhận thức của nhân dân, mới mang đến cho họ cuộc sống mới, thế giới mới.

Nhận biết rõ tầm quan trọng của tri thức và việc học tập của mỗi cá nhân nên chỉ một ngày sau khi đọc tuyên ngôn độp lập, trong phiên học đầu tiên vào ngày 3-9-1945, của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những biện pháp cấp bách của Nhà nước ta lúc bấy giờ. Trong nhiệm vụ cấp bách thứ hai, Người đã nói: “…Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ…”, (Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002, tập 4, trang 8).

Và trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã khẳng định rằng: “…Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”, (Sđd, t 4, tr 33). Từ quan điểm vô cùng sáng suốt và đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta về giáo dục, về khuyến học, khuyến tài… đã phát huy tác dụng to lớn trong việc nhanh chóng nâng cao dân trí, thu hút tầng lớp trí thức tham gia phong trào cách mạng.

16 | P a g e

Page 17: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Có thể khẳng định, từ khi được thành lập đến nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục và đào tạo. Các văn kiện của Đảng về giáo dục và đào tạo đã nêu nhiều quan điểm chỉ đạo mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị và cần tiếp tục quán triệt và thực hiện. Những quan điểm đó là: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh; đa dạng hóa các loại hình giáo dục; học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình, xã hội; thực hiện công bằng trong giáo dục; ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và các đối tượng diện chính sách; thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục… Tuy nhiên, để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đề ra một số nội dung mới trong quan điểm chỉ đạo và những nội dung này được nêu cụ thể trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8, khóa XI, gồm:

Thứ nhất là giáo dục và đào tạo là một nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đầu tư cho giáo dục được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai là cụ thể hóa nội hàm quan niệm và các yêu cầu về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Tức là: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.

Thứ ba là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Tứ là người dạy và người học hiểu đúng mục đích của việc dạy và học; dạy và học thực chất; kết quả thi, kiểm tra phản ánh đúng, thực chất chất lượng giáo dục; người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục, sau khi tốt nghiệp có đủ năng lực và phẩm

17 | P a g e

Page 18: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

chất cần thiết để sống và làm việc. Đồng thời, phát triển giáo dục và đào tạo phải phù hợp quy luật phát triển khách quan, những tiến bộ khoa học và công nghệ. Chuyển phát triển giáo dục từ chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa.

Thứ tư là đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, bảo đảm liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập suốt đời; xây dựng xã hội học tập. Cụ thể là đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết là đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Đối với các ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích tài năng. Tiến tới bình đẳng về quyền được hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công lập và trường ngoài công lập. Bảo đảm bình đẳng giữa nhà giáo trường công lập và nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.

Thứ năm là chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục. Phát triển hài hóa, bình đẳng, hỗ trợ lẫn nhau giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giáo dục các vùng miền. Đồng thời, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.

3. Lợi ích của việc không ngừng “Học, học nữa, học mãi”.

Lợi ích của việc học là điều dễ có thể nhìn thấy, nhưng nó thường không đến ngay. Nhưng không phải cứ học là sẽ đạt được thành công, mà phải nỗ lực học tập không ngừng, học nữa học mãi!

Có một câu ngạn ngữ của người Gruzia “Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc”. Muốn có được cái cây hạnh phúc bạn cần phải có hạt giống-kiến thức, mà kiến thức thì không tự có mà phải do quá trình học tập, tích lũy mà ra. Đây là một cách ví von rất hay nói về lợi ích của việc học.

18 | P a g e

Page 19: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Học ít nhất cũng sẽ đem đến nhiều lợi ích cho bản thân của người học, từ những việc dù là nhỏ nhất đến những việc to lớn. Thật vậy, trong xã hội hiện nay việc học càng thể hiện được tầm quan trọng mạnh mẽ của nó. Hãy thử so sánh giữa hai người, một người lao động chân tay thuần túy và một người lao động có sử dụng tri thức xem ai mới là người đạt được hiệu quả cao hơn trong công việc. Người lao động chân tay thuần túy dù có chăm chỉ đến đâu, nhưng nếu gặp phải một số vấn đề nào đó khúc mắc mà không có đủ tri thức để vượt quá thì mãi mãi hiệu quả lao động của họ chỉ nằm ở mức trung bình. Còn với một người có tri thức, người ta sẽ giải quyết những vấn đề khó khăn trong công việc của mình một cách dễ dàng khoa học hơn, đạt được hiệu quả công việc cao hơn. Như Francis Bacon-một nhà triết học, chính khách và tiểu luận người Anh đã nói : “Tri thức là sức mạnh”. Quả không sai, cái làm cho con người trở thành loài vật thống trị Trái Đất là minh chứng cụ thể nhất, loài người so với dưới biển không to khỏe bằng loài cá voi, cá mập,.. trên cạn cũng không thể đọ được với loài voi, gấu, hổ,... Cái làm loài người trở thành kẻ thống trị đó chính là do con người biết vận dụng sức mạnh tri thức. Trên thực tế, ở lứa tuổi học sinh sinh viên, cái mà ta quan tâm thiết thực nhất có lẽ là bổ sung được thật nhiều tri thức, mỗi kỳ lại có học bổng, ra trường tốt nghiệp với bằng giỏi, xin được một công việc phù hợp với trình độ, đúng ngành và đúng sở thích. Đó là điều có lẽ đa số các bạn sinh viên đều mong muốn, nhưng để đạt được những điều đó quả thật không dễ dàng gì. Nhưng nếu muốn cuộc sống được tốt đẹp hơn bạn cần phải học.

Học trước tiên cho chính bản thân của mình, sâu xa hơn học vì gia đình, học vì sự phát triển của đất nước. Một con người dù có tài giỏi đến đâu mà không có đóng góp cho đất nước thì đối với xã hội anh vẫn chỉ là một con người bình thường. Việc đem tri thức của bản thân đóng góp cho đất nước là điều mà mọi công dân Việt Nam nên làm, nhất là trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế thế giới, và Trung Quốc đang có những bước đi chèn ép nhằm thôn tính nước ta. Trong thời đại hiện nay, sức mạnh quân sự chỉ là một phần trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Quân sự phải với đi đôi với kinh tế, những nước là cường quốc kinh tế tự khắc địa vị trên trường quốc tế của học sẽ được nâng cao. Nếu ta bị chi phối về kinh tế thì sức mạnh quân sự không thể nào lớn mạnh được. Hãy nhìn sang Nhật Bản, họ là một đất nước không hề rộng lớn, cũng không hề được thiên nhiên ưu đãi, không có đất đai màu mỡ, không có các mỏ khoáng sản giàu có, hàng năm họ vẫn phải hứng chịu các trận động đất, các cơn sóng thần, nhưng với sự kiên cường

19 | P a g e

Page 20: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

của con người Nhật Bản, và vốn tri thức cao họ vẫn trở thành 1 trong những nước có nền kinh tế lớn mạnh nhất trên thế giới. Đó là điều mà Việt Nam nên học tập, với một đất nước giàu tài nguyên như chúng ta, như cha ông ta đã Việt Nam là nước có “rừng vàng biển bạc”, nhưng nếu không biết sử dụng một cách hợp lý thì tài nguyên đó rồi cũng sẽ cạn kiệt. Hiện nay khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, vì vậy việc đòi hỏi áp dụng những công nghệ mới vào việc hỗ trợ sản xuất là điều không thế thiếu, nó giúp phần làm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng của sản phẩm. Muốn tăng sức cạnh tranh kinh tế trên trường quốc tế thì việc áp dụng kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất là điều thiết yếu. Nhưng việc đòi hỏi lắp ráp và vận hành những thiết bị đó chúng ta cần đội ngũ lao động có tri thức cao.

Học tập để góp phần làm vẻ vang đất nước trước bạn bè năm châu, để chứng minh cho bạn bè quốc tế rằng Việt Nam chúng ta tuy nhỏ bé nhưng không hề thiếu nhân tài. Như Hồ Chủ Tịch từng căn dặn : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Tiếp thu lời dạy ấy của Bác, hàng năm chúng ta vẫn được thấy những con người ưu tú đem lại vẻ vang cho đất nước trên khắp các lĩnh vực, từ các cuộc thi Robocon của khu vực cho đến thế giới chúng ta đều giành được thành tích cao. Trong lĩnh vực toán học chúng ta có giáo sư Ngô Bảo Châu, là người Việt Nam đầu tiên giành được giải thưởng Fields cao quý. Trong các cuộc thi Olympic quốc tế về Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học,…diễn ra hằng năm thì đoàn của Việt Nam cũng giành được những thành tích đáng tự hào. Tất cả những thành tích đó đều do quá trình nỗ lực cố gắng học tập trao dồi kiến thức mà ra.

4. Hậu quả của việc xem thường việc “Học, học nữa, học mãi”.

Xem thường việc “học, học nữa, học mãi” được hiểu là chúng ta xem việc đó là việc hết sức bình thường, không quan trọng và có thái độ không tích cực với mọi công việc trong học tập lao động cũng như trong cuộc sống hằng ngày vì chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã biết, hiểu hết mọi việc và giỏi hơn mọi người nên không cần học hỏi điều gì thêm hay học hỏi thêm từ những người xung quanh thêm bất cứ điều gì. Như chúng ta đã phân tích ý nghĩa của câu nói ở trên, nếu việc xem thường

20 | P a g e

Page 21: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

việc “học, học nữa, học mãi” xảy ra thì nó sẽ gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng như sau:

4.1) Đối với bản thân:

+ Sẽ không thể độc lập vì: Chúng ta sẽ không thu nhận đủ kiến thức để trưởng thành và trở thành một con người độc lập về tài chính và suy nghĩ. Nếu bạn phụ thuộc vào bố mẹ, bạn sẽ phải mua chiếc áo mà bố mẹ bạn thích. Nhưng nếu bạn độc lập, bạn sẽ mua chiếc áo đó theo ý bạn muốn.

+ Không thể trưởng thành: Khi học tiểu học, bạn học "i", "tờ" để nhìn nhận và gọi tên được cuộc sống. Lớn hơn, bạn học tập để biết ước mơ và lựa chọn nghề nghiệp. Sự học không chỉ gói gọn trong 16 năm ngồi ghế nhà trường. Khi đi làm, bạn càng cần thiết phải học. Bạn sẽ khao khát được học tập từ đồng nghiệp, người quản lí, đối tác thậm chí học tập chính đối thủ của mình. Học tập chính là quá trình để mỗi người trưởng thành. Chính vì vậy nếu bạn coi thường việc “học, học nữa, học mãi” thì bạn khó có thể trưởng thành được.

+ Bạn sẽ không biết yêu: vì tình yêu không là bản năng. Tình yêu cũng cần phải học. Cha mẹ yêu con là bản năng. Nhưng không phải tình yêu nào cũng là chiều chuộng. Cha mẹ cũng cần học để biết yêu con đúng cách. Học tập cũng như thế! Học chính là con đường duy nhất để bạn hạnh phúc.

Dễ bị đào thải khỏi xã hội: Chúng ta sẽ không thể “phát triển” được thêm do luôn có sự đề kháng với những cái tốt cái hay cái mới trong con người ta. Nghĩa là khi chúng ta phạm lỗi hay bất cứ điều gì sai trái chúng ta luôn đẩy xa ra khỏi cơ thể chúng ta mọi sự góp ý đóng góp từ mọi người, hay trong công việc còn những điểm yếu kém, hay những điều chưa biết nhưng do thái độ không tốt, không chịu học hỏi hoặc tính tự mãn nên chúng ta luôn nghĩ thế là đủ, mình làm vậy là đúng rồi không cần tham khảo thêm bài của bất cứ ai nữa. Điều đó sẽ làm cho lượng kiến thức, hiểu biết của bạn sẽ trở nên hạn hẹp, và có thể nhận biết được rõ ràng khi chỉ sau một thời gian ngắn xem thường việc “học , học nữa, học mãi”, ta có thể lấy một ví dụ đơn giản như: trong một cuộc thi về làm sản phẩm phần mềm ứng dụng chỉ đường ở Hà Nội, bạn A do trước đó không cập nhật thông tin, cũng như học hỏi thêm nên không biết rằng sản phẩm này có rất nhiều framework hỗ trợ

21 | P a g e

Page 22: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

để làm nó nên đã làm rất lâu, và không tối ưu, còn bạn B do luôn tìm hiểu được framework hỗ trợ nên đã làm sản phẩm rất nhanh, không những thế sau khi làm xong bạn ấy còn đưa sản phẩm ra để mọi người dùng thủ cũng như để lắng nghe những ý kiến của góp ý của mọi người để hoàn thiện sản phẩm của mình. Chính vì vậy trong cuộc thì năm đó bạn B đã đạt giải nhất còn bạn A thậm chí chẳng được giải gì. Như vậy việc xem thường việc “học, học nữa, học mãi”sẽ khiến bạn thụt lùi so với những người khác và nếu việc đó diễn ra lâu thì rất có thể sẽ khiến bạn bị đào thải nhanh chóng khỏi xã hội vì xã hội của chúng ta là một xã hội văn minh, luôn có những phát minh và luôn không ngừng tìm tòi và phát triển cái hay cái mới và tìm mọi cách để phát triển và đưa nhân loại tiến về phía trước. Và bản thân của mỗi con người khi sống trong xa hội như vậy thì cũng đòi hỏi sự đổi mới không ngừng về tư duy cũng như những kiến thức, bởi vậy nếu ta không học sau này ta sẽ không thể làm tốt công việc được hoặc kết quả công việc sẽ không được tốt đẹp như ta mong muốn và chúng ta sẽ không thể nuôi sống bản thân mình thậm chí là sẽ trở thành gánh nặng với gia đình và xã hội.

4.2) Đối với đất nước thì nó ảnh hưởng đến các mặt:

Kinh tế: Do tình trạng xem thường việc “học, học nữa, học mãi” mà sự học hỏi tiếp thu kiến thức mới sẽ rất kém, hoặc tồi tệ hơn sẽ không được diễn ra sự trao đổi học hỏi điều đó sẽ dẫn tới lượng kiến thức mà mỗi người tích lũy được sẽ rất ít dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong công việc, và những người như vậy dễ bị đào thải giữa lúc nền kinh tế đất nước đang trên đà hội nhập và đang rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao: có năng lực, có khả năng làm việc nhóm sáng tạo, và luôn tìm tòi phát triển. Nếu đất nước tồn tại nhiều cá thể như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nền kinh tế trì trệ , kém phát triển vì thiếu đi nguồn nhân lức có đủ năng lực, và kĩ năng để có thể lĩnh hội được những thực tựu khoa học cũng những đòi hỏi ngày càng cao của công việc ngày nay.

Văn hóa, giáo dục: Một nền văn hóa, giáo dục sẽ như thế nào nếu mọi người xem nhẹ việc “học, học nữa, học mãi” ? Rõ ràng đó là một đất nước mà có nền giáo dục khó có thể phát triển vì đó đâu phải là mục tiêu của họ, dẫn đến tình trạng trình độ dân trí thấp cùng với đó là các hệ lụy về kinh tế, xã hội . Gần đây ta nghe nói về vụ thảm sát ở Bình Dương hay mấy năm trước nữa là vụ án Lê Văn

22 | P a g e

Page 23: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Luyện cướp tiệm vàng giết hại gần hết một gia đình rúng động dư luận tất cả những tên này đều chung một đặc điểm là ra tay hết sức dã man, và dường như không còn tính người đó một phần hậu quả của việc xem nhẹ việc học,thể hiện cho nền giáo dục kém hiệu quả. Cái những tên này còn thiếu đó là việc học ở trường đời và học cách làm người…Hay đơn giản hơn trong giao tiếp hằng ngày những câu nói văng tục có thể được phát ra mọi nơi mà ta có thể dễ dàng bắt gặp, điều đó cũng cho ta thấy sự ảnh hưởng xấu của nền giáo dục bị xem với một góc, hay nhìn tổng thể lên là cả nền văn hóa là hết sức to lớn.Từ đó ta thấy vai trò của việc học với sự phát triển của đất nước, điều đó đã được Bác Hồ đặc biệt nhấn mạnh: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần công lao học tập của các cháu”.

Chính trị: Nhưng còn một vấn đề nghiêm trọng hơn nữa của việc xem thường việc học gây ra đó là việc nước ta dần sẽ bị thâu tóm bởi các nước phát triển bởi vì chúng ta lạc hậu thiếu hiểu biết và không có khả năng tự chủ về tài chính cũng như sự đề kháng về quốc phòng. Ta có thể lấy một ví dụ đang là vấn đề rất nóng trong thời gian gần đây mà được tất cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam hết sức chú ý đó là: vấn đề chủ quyền trên biển khi mà Trung Quốc ngang nhiên vạch ra “đường lưỡi bò” trên biển Đông, và hơn nữa nó còn trắng trợn mang các dàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của nước ta để thăm dò dầu, trước điều đó thì dư luận nước ta hết sức căm phẫn và nhiều ý kiến đã được đưa ra, rất nhiều bạn trẻ đòi đánh, đánh cho nó biết tay…Đó là nhưng suy nghĩ thiếu hiểu biết và mang tính bộc phát,nóng nảy của những người chưa xem xét rõ mọi bản chất của vấn đề vì đó là cả một âm mưu rất to lớn của Trung Quốc, và nếu chúng ta đánh thật sự thì ta đã sập bẫy của chúng.Hay vụ Sáng 10/4/2004, khoảng hàng ngàn đồng bào người dân tộc thiểu số gồm người già, thanh niên và trẻ em nam nữ thuộc các thôn của 39 xã của 17 huyện tại các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai và Đắk Nông đã dùng hơn 350 máy cày, máy kéo và hàng trăm xe máy, mang theo hung khí, gậy gộc và đá... kéo đến các địa điểm trung tâm của các địa phương nói trên để thực hiện cuộc gây rối với quy mô lớn, Những người gây rối đã tạo ra tình hình hết sức căng thẳng, đe dọa cuộc sống bình yên và gây ảnh hưởng xấu đến công cuộc làm ăn của dân lành. Trước tình hình đó, lãnh đạo chính quyền địa phương đã cử cán bộ đến các điểm nóng để lắng nghe ý kiến và kiên trì giải thích nhằm ổn định trật tự. Các lực lượng bảo vệ an ninh trật tự cũng đã có nhiều nỗ lực nhằm ổn định tình hình và kiên trì

23 | P a g e

Page 24: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

kiềm chế trong việc ngăn chặn những hành vi quá khích của những người gây rối. Đó là những việc do trình độ dân trí của ta bị thấp của đồng bào dân tộc ,hoặc do thiếu hiểu biết của những người không học hỏi, tìm tòi nghe ngóng tin tức nên dễ bị những kẻ phản động kích động vì thế việc học tập là vô cùng cần thiết và hơn thế còn là trách nhiệm đối với mỗi người học sinh chúng ta để đưa đất nước sáng ngang với các nước khác trên thế giới. Và chúng ta không học tập tốt không nắm được những tri thức khoa học hiện đại chúng ta sẽ trở thành những người lạc hậu trước sự lớn mạnh như vũ bão của khoa học kĩ thuật trong ngày nay. Như vậy học tập tốt là giúp cho ta và cho xã hội hơn nữa là phát huy truyền thống hiếu học của ông cha ta từ xưa cho đến nay.

5. Tại sao chúng ta cần phải “Học, học nữa, học mãi” .

5.1) Tại sao chúng ta cần phải “học”?

Đặt vấn đề:

+ Để trả lời câu hỏi tại sao phải học, chắc chắn có nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau bởi nhiều chuyên gia và các nhà khoa học. Trên thực tiễn, có nhiều con đường đi đến thành công, làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình, xã hội và phụng sự tổ quốc. Bên cạnh những người nổi tiếng, những người thành đạt được đào tạo với trình độ học vấn cao, có nhiều người không được thông qua đào tạo chính qui tại các trường đại học, cao đẳng, nhưng họ vẫn đi đến tương lai tươi sáng, trở thành người hữu ích và đóng góp rất nhiều cho xã hội. Trong đó, Bill Gates là một trong những tỷ phú thành công nhất nước Mỹ, mặc dù năm 1975 ông đã nghỉ học ở trường Đại học Harvard và ông dành thời gian cho việc thành lập Microsoft, một trong những hãng nổi tiếng nhất về lãnh vực phần mền máy tính hiện nay.

+ Những người thành đạt ấy không chỉ học tập từ nhà trường mà còn từ một xã hội tri thức với trình độ khoa học kỹ thuật phát triển và mặt bằng dân trí tương đối đồng đều. Định hướng đến xã hội hóa việc học tập, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác đang học tập các hình mẫu từ những quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật, Châu Âu, Singapore … Việc đào tạo nguồn nhân lực với chất lượng tốt luôn là những động lực rất quan trọng cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Cách thức giải quyết được bài toán “xã hội hóa giáo dục” và “học tập là suốt đời” cần có

24 | P a g e

Page 25: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

sự quan tâm đúng mức của Đảng, Nhà nước, của xã hội và gia đình đối với chất lượng giáo dục và đào tạo.

Quan điểm của Việt Nam về “Xã hội học tập” và “Học tập là suốt đời”:

Việt Nam, xã hội học tập và học tập suốt đời đang là những khái niệm mới, cho nên chúng ta cần phải học các nước bạn về xây dựng chính sách cũng như cả về những khái niệm, quan niệm, cách làm thế nào để có sự phối hợp với nhau, hướng cho người dân, cán bộ có ý thức về học tập suốt đời, học tập suốt đời có một ý nghĩa rất to lớn, mọi người dân Việt Nam đều có thể tranh thủ cơ hội mọi lúc, mọi nơi để mà học tập.

Việt Nam chúng ta sẽ tổng kết 5 năm xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010 và xây dựng đề án mới “Xây dựng xã hội học tập và học tập suốt đời” giai đoạn 2011-2020. Đây chính là một cơ hội tốt cho nền giáo dục nước ta, chúng ta sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn để phát triển đề án, mà khó khăn nhất hiện nay là ý thức học tập thường xuyên của cán bộ, của người dân chúng ta chưa hình thành thực sự.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người:

- “Trồng người là khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng.

- Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.

- Chiến lược trồng người là trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội”.(5)

-“Trồng người” là công việc “trăm năm” không thể nóng vội “một sớm một chiều”. không phải một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề là có nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời của mỗi người, trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.

HồChí Minhcho rằng: “ Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.(6)

Như vậy học tập để làm gì?

+ Học để độc lập: Chúng ta thu nhận kiến thức để trưởng thành và trở thành một con người độc lập về tài chính và suy nghĩ. Nếu bạn phụ thuộc vào bố mẹ, bạn sẽ

25 | P a g e

Page 26: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

phải mua chiếc áo mà bố mẹ bạn thích. Nhưng nếu bạn độc lập, bạn sẽ mua chiếc áo đó theo ý bạn muốn. Chỉ khi có độc lập, bạn mới được tự do sống, suy nghĩ và hành động bằng cách của bản thân mình. Chỉ khi có độc lập, tự do bạn mới trở thành người hạnh phúc. Mỗi người sẽ có một "công thức" hạnh phúc của riêng mình. Có người lựa chọn "mòn gót" ở giảng đường đại học để hạnh phúc. Cũng có người lựa chọn bơi ra trường đời để hạnh phúc. Nhưng dù ở đâu, để hạnh phúc, bạn nhất định phải học.

+ Học để trưởng thành: Khi học tiểu học, bạn học "i", "tờ" để nhìn nhận và gọi tên được cuộc sống. Lớn hơn, bạn học tập để biết ước mơ và lựa chọn nghề nghiệp. Sự học không chỉ gói gọn trong 16 năm ngồi ghế nhà trường. Khi đi làm, bạn càng cần thiết phải học. Bạn sẽ khao khát được học tập từ đồng nghiệp, người quản lí, đối tác thậm chí học tập chính đối thủ của mình. Học tập chính là quá trình để mỗi người trưởng thành. Ngày hôm nay thấy mình trưởng thành hơn ngày hôm qua, đó là cảm giác hạnh phúc. + Học để biết yêu: Nếu bạn cho rằng tình yêu là bản năng thì bạn đã sai rồi. Tình yêu cũng cần phải học. Cha mẹ yêu con là bản năng. Nhưng không phải tình yêu nào cũng là chiều chuộng. Cha mẹ cũng cần học để biết yêu con đúng cách. Học tập cũng như thế.Học chính là con đường duy nhất để bạn hạnh phúc. Và bản thân quá trình cũng học tập cũng là quá trình hạnh phúc.

+Học để thưởng thức cuộc sống: Cuộc sống ngày càng phát triển, kiến thức thường thức ngày càng nhiều, quá trình học dưới ghế nhà trường chính là điều kiện rất tốt để bạn hiểu biết rất nhiều cuộc sống. Môi trường học sinh, sinh viên là nơi ta giao lưu rất tốt để có thể biết được nhiều hơn, học nhiều hơn. Nó hiệu quả hơn rất nhiều so với bạn nghiên cứu qua sách báo, Internet, hay đài báo tivi.

+ Học để rèn luyện trí não : Tại sao chúng ta phải làm bài tập, tại sao thầy giáo hay đưa ra các bài toán khó, ngoài đời chả ai gặp nhau bằng cách : " Hello, phương trình bậc 2 này có mấy nghiệm cả". Đó thật ra là cách thức để rèn luyện trí não, tập nhớ, tập tìm phương pháp giải quyết vấn đề. Nếu bạn tư duy theo cách này thì việc học tập sẽ đỡ nhàm chán hơn rất nhiều.

+ Học để được xã hội công nhận: Lại nói về bằng cấp, tại sao chúng ta lại nể những người có học vị cao? Tất nhiên người ta có thể có học vị cao không phải bằng con đường học hành, nhưng những người có học vị cao xứng đáng được xã hội nể trọng bởi những cố gắng của họ. Còn những người không phải đi bằng con đường học hành thì sẽ bị khinh bỉ. Bởi vì bằng cấp là một chứng nhận cho chúng ta vì những cố gắng của bản thân ta trong quá trình rèn luyện, nó đánh dấu những mốc lớn của cuộc đời. Nó thể hiện, ghi lại những cố gắng, phấn đấu, nghị lực của

26 | P a g e

Page 27: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

chúng ta. Đừng ai nói rằng không hề tự hào khi cầm trong tay một tấm bằng khen vì thành tích xuất sắc trong học tập, kể cả bạn mua nó bằng tiền.

+ Học để sống lâu hơn: Chúng ta được như ngày nay vượt xa tổ tiên cũng chúng ta là nhờ có lao động trí tuệ. Thực tế cho thấy những người lao động trí tuệ thường xuyên có tuổi thọ cao hơn những người lao động chân tay.

+ Cho bản thân, gia đình: Là một công cụ kiếm sống suốt đời. Nghề nghiệp được ví như là “cần câu cơm”. Trong tương lai có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nông nghiệp, việc tham gia vào các lãnh vực như thương mại, dịch vụ … khác phải có khả năng, học vấn nhất định. Học tập là một trong những biện pháp quan trọng để cải thiện đời sống, hoàn thiện chính mình.(7)

+ Cho xã hội, đất nước: Góp phần quan trọng cho việc phát triển kinh tế-xã hội, động lực góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.(7)

+ Học để biết rằng ta phải học rất nhiều: Học dưới mái trường xong cũng mới chỉ là sự khởi đầu của quá trình học tập, tất cả các vấn đề chỉ mới ở dạng gợi mở. Chúng ta còn phải cố gắng trong suốt cả cuộc đời. Có những kiến thức chúng ngày nay có được như một sự tất nhiên thì đã có người vì nó mà hi sinh cả tính mạng của mình. Hãy trân trọng những kiến thức đó. Hãy cố gắng học thật nhiều để biết rằng ta vẫn là con ếch ngồi trong đáy giếng, trừ khi bạn chấp nhận ngồi trong đáy giếng không bao giờ đi ra ngoài.

5.2) Tại sao chúng ta cần phải “học nữa, học mãi”

Vì sao Lê Nin lại dùng từ học nữa và học mãi để răn dạy thế hệ đi sau. Học nữa là học để nâng cao trình độ, để mở mang vốn trí thức cho bản thân mình. Tri thức của con người là vô cùng, vô tận, mà tri thức nào cũng đẹp, cũng hay, cũng cần thiết và hữu ích. Thế nên chúng ta phải rèn luyện thói quen không ngừng học tập. Học tập là sự nghiệp suốt cuộc đời. Vì thế mà Lênin mới gọi đó là học nữa học mãi. Mỗi con người chúng ta có học nữa học mãi suốt cuộc đời cũng không bao giờ là đủ. Làm sao trong đời một con người có thể học hết được vốn tri thức của nhân loại. Điều này lại một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc học cũng như nhiệm vụ của mỗi con người là không ngừng học tập.

Tại sao lại còn phải học nữa và học mãi? Bởi điều ta biết chỉ là những giọt nước nhỏ bé, điều ta chưa biết là biển cả, cho nên, chúng ta không được thảo mãn với những gì mà mình đã có, mà cần luôn học tập để nâng cao trình độ. Mỗi lần học tập để nâng cao trình độ, ta sẽ cảm thấy kiến thức của mình thu được quá ít so với

27 | P a g e

Page 28: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

biển kiến thức mênh mông của nhân loại. Vì thế, con người cần tiếp tục học, học không ngừng, học ở mọi lúc mọi nơi, học để hiểu biết hơn.

Thực tế chỉ ra rằng kho tàng tri thức của nhân loại là mênh mông, chúng ta có dành hết cuộc đời cũng không sao tìm tòi hết được. Nhưng nếu chúng ta không học, chúng ta sẽ không có tri thức để đảm bảo cho cuộc sống. Hơn thế nữa, tri thức của chúng ta lại luôn lạc hậu so với sự phát triển nói chung. Thế nên để có thể tồn tại và trong cuộc sống này một cách vững vàng và hữu ích, chúng ta phải luôn luôn có ý thức bổ sung và tinh lọc ngay chính kho tàng tri thức của bạn thân mình.

Trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội và sự phát triền nhanh chóng của khoa học- kĩ thuật, đòi hỏi học sinh chúng ta cũng như tất cả mọi người phải không ngừng học tập để có trình độ đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Vì thế, Lê -nin đã từng nhắc nhở: “ Học, học nữa, học mãi”. Câu nói đó đã trở thành chân lí cho mọi thời đại.

Lời căn dặn của Lê Nin thật bất hủ,  nó có ý nghĩa rất lớn và đặc biệt nó rất phù hợp với truyền thống hiếu học của dân tộc chúng ta. Truyền thống ấy trở thành ngọn lửa thắp sáng niềm tin, ước mơ và khát khao cho không biết bao thế hệ. Vì thế để xứng đáng với quá khứ của cha ông, thế hệ trẻ chúng ta ngay từ hôm nay cũng phải ra sức học hành, phải coi việc học là mục tiêu, là đích đến và tương lai bền vững lâu dài.

Ngày nay chúng ta vẫn coi câu nói của Lê Nin như một khẩu hiệu về niềm ham mê học tập mà thế hệ trước để lại cho thế hệ sau. Rất nhiều trường học để dòng chữ : Học, học nữa, học mãi, ngay trước cổng trường, như một lời nhắc nhở chúng ta không ngừng học tập. Chỉ có học tập con người mới tiếp thu được kiến trức của nhân loại, từ đó giúp ích cho bản thân và cho nước nhà.

6. Làm thế nào để chúng ta có thể “Học, học nữa, học mãi”.

Để học, học nữa, học mãi thì phải làm thế nào? Những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường phải học như thế nào mới có hiệu quả? Với con người có nhiều cách học khác nhau; nhưng quan trọng nhất học phải đi đôi với hành. Chúng ta được học qua nhà trường, qua sách vở thì phải học có lý thuyết vững vàng, phải biết kết hợp làm cho lý thuyết gắn liền với thực tế. Để bổ sung kiến thức chúng ta cần nghiên cứu và thm khảo thêm nhiều sách vở các thông tin khác. Là học sinh chúng ta cần phải xác định mục tiêu rõ ràng, phải có tính tự giác trong học tập, học

28 | P a g e

Page 29: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

từ thầy cô, gia đình, bạn bè, hay những người đã thành đạt… phải biết dựa vào những điều đã học để vận dụng vào cuộc sống. Cần say mê, sáng tạo trong học tập. Vì thế “học, học nữa, học mãi” luôn mang một giá trị to lớn, khích lệ chúng ta cần chăm chỉ, cần cù học tập thường xuyên mới đảm bảo cho mình một cuộc sống tiến bộ không ngừng.

6.1) Chúng ta có thể học ở đâu?

Sách vở cho ta những lý thuyết. Thầy cô, gia đình, bạn bè hay những tấm gương là nơi dạy dỗ ta, là nơi để chúng ta học tập và noi gương và chúng ta cũng cần học ở mọi thời điểm.

Vai trò của sách, thầy cô, gia đình, bạn bè hay những tấm gương đối với việc học.

Sách cho ta tri thức, nhưng ta học được gì trong đó, vai trò của nó đối với chúngta như thế nào?

Chúng ta khi mới lớn lên, học đọc, học viết, học tính toán… là nhờ thầy cô giáo hướng dẫn là chính. Nhưng khi học các kiến thức cao hơn, rộng hơn, chuyên ngành hơn, lúc ấy ta phải tự đọc sách, nên sách là thầy, là người hướng dẫn ta đến tri thức nhân loại. Khi ta đọc truyện cười ta thấy vui, đọc những truyện “Hạt giống tâm hồn” ta thấy xúc động, đọc đến các mảnh đời ta thấy xót xa… khi ấy sách là bạn cùng ta chia sẻ các cảm xúc cuộc sống. ta đọc một cuốn sách hay và muốn chia sẻ với mọi người. Khi ta mua được cuốn sách quý và muốn lưu lại cho con cháu, lúc ấy sách là tài sản.

Sách là nơi ghi lại, lưu trữ những điều hiểu biết của con người và ở đó cũng là nơi chia sẻ những thông tin, những suy nghĩ giữa con người với con người. ngoài việc học ở ngoài đời, thực tế, từ mọi người xung quanh, sách là người bạn không thể thiếu với con người. Nó là nguồn tri thức vô giá mà mỗi chúng ta có thể tự tìm tòi trong suốt cuộc đời mình vào cũng là nguồn kiến thức vô tận của nhân loại. Khi đọc sách bạn sẽ có cảm giác như mình đang được dẫn vào thế giới thực, từ đó bạn thấy, hiểu và bắt gặp nhiều điều bổ ích. Cũng như M.Gorki đối với ông: “mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách ra khỏi côn thúvà tới gần con người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất và về sự thèm khát cuộc sống”. M.Gorki, ông không học qua trường lớp nhiều nhưng lai có

29 | P a g e

Page 30: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

cái nhìn phong phú và tinh tế về cuộc sống, ông để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng và gây được sự chú ý với bạn đọc thế giới, những tác phẩm của ông được đưa vào trường học. Những điều ông có được là cái nhìn về thực tế và qua việc tự học cho nên bản thân ông đã là nhâ chứng hung hồn cho câu nói “Hãy yêu quý sách vì đó là nguồn gốc của mọi tri thức”.

Không những thế ngoài ông ra còn có nhiều nhà khoa học, bác học lớn trên thế giới cũng thành công qua việc tự học, tự mày mò qua sách…

Nếu có một quyển sách hay và thêm một người thầy giỏi nữa thì tuyệt vời hơn! Vì thế nên chọn một quyển sách hay có giá trị, nội dung tốt, bổ ích chứ không phải sách nào cũng là hay là quý cả. Mọi thứ đề phải có sự chắt lọc mới có kết quả như ý: “Sách có thể ít đy một chút nhưng phải tốt đẹp hơn, không nên đặt một cuốn sách bình thường lên giá sách, đừng ăn cắp thời gian của người lao động”. (N.Ô-xtơ-rốp-xki) 

Sách là tri thức vô tận, chỉ mình ta sẽ không bao giờ đy tới được bến bờ vô tận đó. Trên đó còn nhiều yếu tố để ta nhận thức để ta hòa mình vào không gian vô tận của tri thức. Một trong số đó là người thầy. Hồ Chí Minh có chỉ rõ, người làm thầy giáo phải luôn là tấm gương không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để làm tấm gương sáng cho học trò noi theo, để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới trên mọi phương diện. Người thầy giáo phải luôn gương mẫu trong học tập, trau dồi trình độ chuyên môn, tri thức khoa học, phải là tấm gương tự học với quan niệm “Sự học không bao giờ cùng” để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời đại trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trước tình hình mới. Đặc biệt là trong bối cảnh khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay thì tấm gương tự học của người thầy càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Người thầy giáo luôn tự rèn luyện và trở thành tấm gương sáng về đạo đức cách mạng cho người học nói riêng và mọi người nói chung noi theo. Hình ảnh người thầy giáo luôn được xã hội xem là biểu tượng của văn hóa, là đại diện cho văn minh thời đại. Chính vì thế người thầy giáo giúp ta hiểu nhanh hơn những điều có trong sách, cũng giúp ta hiểu thế nào về cuộc sống, con người, giúp vốn kiến thức của chúng ta phong phú hơn.

Ngoài ra gia đình, bạn bè cũng là nhân tố không nhỏ trong việc học của chúng ta. Gia đình là môi trường xã hội hoá quan trọng bậc nhất của cá nhân - đặc

30 | P a g e

Page 31: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

biệt là khi còn nhỏ, bởi đây là nhóm xã hội đầu tiên và gắn bó suốt đời của mỗi người, là môi trường chính yếu hình thành nên nhân cách của cá nhân. Tại gia đình, trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc và được dạy bảo những điều đầu tiên, sơ đẳng để sống làm người. Ở tuổi ấu thơ, gia đình là cả thế giới, bố mẹ là những thần tượng của trẻ.

Chính vì gia đình là cả thế giới, cha mẹ là những thần tượng, nên trẻ em nhanh chóng lĩnh hội những điều được dạy dỗ trong gia đình. Bằng sự giáo dục, gia đình tạo nên “sản phẩm” của mình, đưa nó hoà nhập vào với xã hội. Tất nhiên sẽ có những em bé thiếu sự quan tâm giáo dục của người cha hoặc người mẹ nhưng vẫn có thể hình thành được nhân cách tốt, hoặc có những em bé tuy được giáo dục chu đáo mà vẫn xuất hiện những tính xấu. Nhưng quy luật chung là giáo dục gia đình như thế nào sẽ có được những con người như thế ấy.

Hơn thế, con người bình thường không thể sống ngoài gia đình (trừ một số trường hợp đặc biệt). Họ được sinh ra trong một gia đình, sống với gia đình suốt thời thơ ấu. Lớn lên họ lập gia đình, có một gia đình nhỏ của riêng mình... Mối quan hệ trong gia đình là quan hệ tình cảm, dựa trên sự yêu thương, chia sẻ, chăm sóc lẫn nhau. Không có ở đâu khác, con người được nhận nhiều tình cảm và nhiều sự chăm sóc như ở gia đình. Đây là môi trường lý tưởng cho sự hình thành và hoàn thiện nhân cách.

Giáo dục gia đình có vai trò quyết định đối với việc hình thành nhân cách cá nhân còn bởi lẽ, ngoài những yếu tố sinh học và di tuyền, thì tri thức, kỹ năng chuyên môn, niềm tin, hệ giá trị- chuẩn mực... chỉ có thể hình thành thông qua giáo dục. Đây là những tài sản mà các thế hệ trước đã thu lượm, đúc kết, sáng tạo và truyền lại cho các thế hệ sau, được các thế hệ sau lĩnh hội, biến đổi và chuyển hoá thành kinh nghiệm của bản thân và tạo nên nhân cách của mình. Cũng chính giáo dục vạch ra kế hoạch và phương pháp bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh- di truyền hoặc hoàn cảnh gây nên, nhằm xây dựng những nhân cách hoàn thiện nhất có thể. Giáo dục còn có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách và uốn nắn những sai lệch theo đúng hướng mong muốn của xã hội. Hơn thế, giáo dục có thể đi trước, đón đầu sự phát triển để “hoạch định nhân cách trong tương lai” phù hợp với sự phát triển của xã hội.

Mỗi cá nhân là một sản phẩm của sự giáo dục trong gia đình. Những điều trẻ em lĩnh hội được ở gia đình trong những năm đầu đời sẽ hình thành những nét nền tảng của nhân cách. Ngay cả những điều mà cha mẹ không chủ ý truyền dạy cho con, nhưng trẻ quan sát được hàng ngày thì cũng sẽ rất tự nhiên ngấm vào trẻ và

31 | P a g e

Page 32: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

được chúng lặp lại, học theo. Dấu ấn gia đình, vì thế, rất đậm nét và khó xoá bỏ trong nhân cách mỗi cá nhân, vì những gì được xây dựng ban đầu thường rất bền vững, tuy sau đó có thể được điều chỉnh, nhưng rất khó bị xoá bỏ hoàn toàn.

Còn bạn bè cũng luôn chia sẻ cho nhau những hiểu biết của mình. Có câu “Học thầy không tày học bạn” luôn nhắc chúng ta học thầy cùng với đó là học hỏi bạn bè để ta biết được những gì còn thiếu sót, để bù đắp vào.

6.2) Xác định mục tiêu rõ ràng.

Bạn phải đặt mục tiêu rõ ràng cho việc học.

Học để biết, Học để làm , Học để chung sống và Học để khẳng định mình . Đó là một mục tiêu chính đáng và rộng lớn, không chỉ cho người lớn khi đi học mà còn cần phải truyền thụ, thậm chí truyền cảm hứng cho trẻ khi bước chân đến trường.

Để thực hiện được điều mình muốn, các bạn trẻ cần học cách làm chủ bản thân. Đó là nhân cách, là thái độ sống: Biết thích nghi, không sợ hãi và có lòng tự trọng, đó là cái học cần duy trì liên tục suốt đời. Còn nhiệm vụ trước mắt là phải xác định rõ mục tiêu cụ thể nhất, mục tiêu cần thiết nhất ngay lúc nay. Ưu tiên dồn nhiều thời gian và tâm trí để phấn đấu hoàn thành mục tiêu này trước đã, từng bước như vậy bạn mới có thể đi đến thành công.

6.3) Học phải đi đôi với hành.

Học là hoạt động tiếp thu những tri thức cơ bản của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô giáo; học ở bạn bè; tự học qua sách vở và thực tế đời sống. Mục đích của việc học là để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt để có thể làm chủ bản thân, làm chủ công việc của mình, góp phần hữu ích vào việc xây dựng sự nghiệp riêng và sự nghiệp chung.

 Hành là quá trình vận dụng những kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình

học vào thực tế công việc hằng ngày. Ví dụ như người thầy thuốc đem hiểu biết của mình học được ở trường Đại học Y Dược trong suốt sáu năm để vận dụng vào việc chữa bệnh cứu người. Những kiến trúc sư, kĩ sư xây dựng thiết kế và thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, sân. bay, nhà ga, công viên, trường học… Những kĩ sư cơ khí chể tạo máy móc phục vụ sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp,

32 | P a g e

Page 33: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

nông nghiệp… Nông dân áp dụng khoa học kĩ thuật vào chăn nuôi, trồng trọt để thu hoạch với năng suất cao… Đó là hành.

Học để hành, có nghĩa là phải học để làm cho tốt. Thực tế cho thấy có học vẫn hơn. Ông cha chúng ta đã khẳng định: Bất học bất tri lí, có nghĩa là không học thì không biết đâu là phải, là đúng. Người có học khác hẳn người vô học không phải chỉ ở chữ nghĩa mà còn ở nhiều thứ khác như trình độ nhận thức, khả năng ứng xử trong giao tiếp xã hội, khả năng giải quyết công việc trong những tình huống phức tạp… Mục đích của việc học là để làm cho mọi công việc được thực hiện với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Nếu chúng ta học những lí thuyết dù cao siêu đến đâu mà không vận dụng được vào thực tế thì đó chỉ là lí thuyết suông, tốn thời gian, tiền bạc mà vô ích, giống như truyện ngụ ngôn ngày xưa kể về người đàn ông mất bao công phu tìm thầy học nghề giết rồng để rồi suốt đời chẳng tìm thấy một con rồng nào cả.

7. Trong thời đại ngày nay chúng ta càng cần phải “Học, học nữa, học mãi”.

Đất nước của chúng ta đang tiến theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy rất cần có những người tài. Học sinh chúng ta cũng như tất cả những người dân Việt càng ngày phải có nhiều hiểu biết, trình độ cao để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Vì vậy học là điều rất cần thiết với chúng ta để nâng cao trình độ, kĩ năng đáp ứng cho cuộc sống sau này. Lê-nin có câu nói rất nổi tiếng: “Học, học nữa, học mãi”.

Học ở đây không phải chỉ đến trường mới học, mà ngay từ nhỏ, khi ta còn sống trong vòng tay chăm sóc của gia đình chưa được đến trường, cha mẹ đã dạy ta học nói, học đi, học ăn, học cư xử trong đời sống thông thường. Khi được đến trường, chúng ta được học kiến thức khoa học và xã hội, học một cách toàn diện cả tài cả đức theo chương trình của nhà trường dưới sự dạy dỗ tận tình của các thầy cô giáo. Ngoài ra, chúng ta còn có thể học hỏi thêm ở bạn nếu không hiểu, học những cái hay của bạn để bổ sung cho chỗ thiếu sót của mình và học ở mọi lúc, mọi nơi. Chúng ta còn có thể học hỏi, tìm hiểu thêm trên sách, báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng, học ở những người lao động xung quanh mình, trong cộng đồng của mình. Bên cạnh đó ta cần phải chú ý việc học toàn diện, không học lệch, học lí thuyết đi đôi với thực hành, vận dụng vào đời sống để nắm chắc bài học hơn. Còn “học nữa” là học hết trình độ này lại đến trình độ khác, từ dễ đến khó. Chúng ta học tất cả mọi thứ xung quanh, học tất cả những gì mà chúng ta quan sát được, tất cả mọi thứ ta cảm nhận được; ta không chỉ

33 | P a g e

Page 34: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

học ở thầy cô, ở bạn bè, ở mọi người xung quanh mà còn phải tự học bằng chính bản thân ta, ta phải tự tìm tòi, nghiên cứu những gì ta chưa hiểu, chưa biết, chưa nắm vững. việc tự học quan trọng hơn việc học hỏi người khác rất nhiều, tuy nhiên, chúng ta cần phải biết tham khảo kiến thức của những người khác, bởi vì, chúng ta đều biết, kiến thức của mỗi người chỉ là mọt hạt cát bé nhỏ trên bờ biển, một giọt nước trong lòng đại dương; kiến thức ta đã biết thì quá hạn hẹp mà kiến thức ta chưa biết là vô tận, vì vậy ta luôn phải không ngừng học hỏi ở mọi lúc mọi nơi. Ta còn phải học thêm, nâng cao, bổ sung thêm vào những điều đã học được. Vì những điều ta biết chưa bao giờ là vô tận, chúng chỉ nhỏ hẹp trong một vốn nhất định nào đó. Cho nên, chúng ta luôn phải nâng cao hơn nữa vốn kiến thức của chính mình; biết được một điều thì không thể dừng lại để học điều mới, mà phải tìm hiểu kĩ hơn điều ta đã biết, phải khai thác tận cùng của điều ấy, vậy thì kiến thức của ta mới thật sự phong phú được. Vậy tại sao phải học, học nữa, học mãi? Là vì kiến thức nhân loại phát triển từng ngày, vốn kiến thức ngày càng dồi dào và càng ngày càng nhiều hơn nữa; trình đọ khoa học kĩ thuật của nhân loại ngày một cao hơn, con người cũng đã biết chế ra các loại máy móc, robot hiện đại để làm việc thay cho con người; nếu như ta dừng học một ngày, ta sẽ chậm hơn thế giới một ngày, và ai có thể biết rằng trong một ngày ngắn ngủi ấy trình độ của nhân loại sẽ cao hơn đến mực nào; nếu ta dừng học một ngày, ta sẽ lạc hậu hơn cả thế giới, sẽ bị người khác coi thường, và cũng không thể theo kịp trình độ phát triên của nền văn minh nhân loại. Học tập còn giúp ta nâng cao trình độ hiểu biết, mở rộng vốn kiến thức vốn là vô cùng hạn hẹp của ta, giúp ta nâng cao trình độ chuyên môn của công việc hiện tại mà ta đang làm, giúp ta làm việc đạt kết quả tốt hơn. Ngoài ra còn phải học không ngừng, học suốt đời. Mọi người đều phải học, già, trẻ, gái, trai ai ai cũng phải học. Và mỗi người cũng có phương pháp và mục đích học khác nhau. Một người công nhân học để nâng cao tay nghề, một người giám đốc học để nâng cao công tác quản lí… Và cũng vì thế, việc học tập không hạn chế tuổi tác, hoàn cảnh mà tùy thuộc vào chính chúng ta. Học tập không ngừng nghỉ sẽ giúp ta trưởng thành và thành công trong mọi lĩnh vực. Những con người ham học thì họ không bao giờ thỏa mãn với chính mình mà luôn chăm chỉ học suốt cuộc đời của mình nhằm nâng cao trình độ hiểu biết. Cũng giống như hôm nay chúng ta học xong vấn đề này thì không nên dừng lại mà ngày mai lại chuyển sang kiến thức khác mới hơn, hay hơn. Cũng giống như học hết lớp 12, ta học tiếp lên đại học, cao học và hơn nữa... Mỗi lần nâng một mức học như thế, con người sẽ trưởng thành và được trang bị đầy đủ, toàn diện đáp ứng mọi yêu cầu của xã hội, sau này sẽ tự nuôi sống được bản thân mình, giúp đỡ gia đình và đóng góp cho xã hội. Nhất là khi chúng ta còn trẻ, có sức khỏe, trí nhớ tốt thì phải chăm chỉ học tập. Còn “học mãi” là học liên tục, không ngừng nghỉ suốt cuộc đời, luôn nâng cao vốn hiểu biết của mình về mọi mặt.

34 | P a g e

Page 35: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Đó là những người ham học, lúc nào cũng cảm thấy mình còn chưa đủ hiểu biết, luôn đòi hỏi phải nâng cao trí tuệ, nâng cao hiệu suất làm việc. Tuy đã qua tuổi học, họ đã già, đầu óc không còn được minh mẫn như trước nữa nhưng họ vẫn tiếp tục vừa tham gia công tác, vừa học, vừa làm việc và rút ra những kinh nghiệm quý báu cũng là học. Như vậy, học là vô tận, học ở mọi lúc, mọi nơi, mọi điều, nó giúp cho con người chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn, nâng cao năng suất công việc. Trong lời dạy của Lê-nin có ba vế ngắt làm ba nhịp kết hợp với các từ “nữa”, “mãi”, điệp từ “học" được nhắc lại ba lần. Lời nói của Lê-nin rất đúng với thực tế, chí nghĩa, chí tình. Những con người thực hiện đúng lời dạy của Lê-nin thường là những người tài giỏi, nổi tiếng, có sự nghiệp rạng rỡ và hết lòng cống hiến cho dân, cho nước.

Vậy vì sao chúng ta phải hiểu như vậy? Trước hết đó là vì chính bản thân chúng ta. Nếu không đi học chúng ta sẽ không có nhiều tri thức, hiểu biết để vận dụng vào cuộc sống sau này. Kết quả công việc sẽ không tốt đẹp như mong đợi. Có học chúng ta mới có được việc làm tốt để nuôi sống bản thân mình, giúp đỡ gia đình, xây dựng đất nước giàu đẹp, hạnh phúc hơn. Bác Hồ đã từng dạy: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần công lao học tập của các cháu”. Đúng như vậy, nếu con cháu chúng ta chăm chỉ học tập, rèn luyện thì đó sẽ là những nhân tố tích cực xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh, đất nước ta sẽ không thua kém gì các nước khác trên thế giới. Một đất nước no ấm, hạnh phúc thì mỗi gia đình, bản thân chúng ta sẽ được sông đầy đủ, hạnh phúc hơn. Với lại, kiến thức của loài người là một kho tàng khổng lồ, thế giới càng ngày càng phát triển, mỗi ngày đều có thêm nhiều sáng tạo, tìm tòi, phát minh hơn. Xã hội ngày càng phát triển, khoa học kĩ thuật càng tiến lên, sự đòi hỏi của xã hội ngày càng tăng, ta không học, không thể làm việc được, không theo kịp bước tiến của thời đại. Đến lúc đó, chúng ta sẽ trở thành những người lạc hậu trước xã hội, cộng đồng. Hơn thế nữa, hiếu học là một truyền thống tốt đẹp mà từ bao đời nay, ông cha chúng ta đã truyền lại cho con cháu. Không chăm chỉ học tập sẽ đi ngược với truyền thông, đạo lí tốt đẹp đó. Việc học trở thành một vấn đề rất cần thiết, cấp bách với chúng ta nên ta cần chăm chỉ học tập cho tốt.

Ngày xưa, ông cha ta rất coi trọng việc học nên thường răn dạy con cháu phải học tập cho tốt. Trong xã hội xưa có Mạc Đĩnh Chi là con nhà nghèo, đêm đến vì không có đèn học nên ông đã phải bắt đom đóm cho vào vỏ trứng để học. Hay là nhân vật Trạng Nồi cũng là một chàng thư sinh nghèo khó, không có tiền mua gạo nấu cơm, nên mỗi lần học xong, chàng thường sang bên hàng xóm

35 | P a g e

Page 36: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

mượn nồi cơm, vét những hột cơm còn sót lại để ăn. Sau này, trạng Nồi đã thi đỗ Trạng nguyên và vẫn không quên công ơn tốt bụng của người hàng xóm đó.

Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ có rất nhiều các bạn nhỏ phải lặn lội trong mưa bom bão đạn của giặc để đến trường. cuộc sống tuy có khó khăn, gian khổ nhưng họ vẫn chăm chỉ học tập. Không ít những người trong họ đã trở thành những giáo sư, tiến sĩ góp phần xây dựng đất nước, xã hội ngày một giàu đẹp, văn minh và hiện đang nắm trọng trách quan trọng trong bộ máy nhà nước ta.

Trong thời đại ngày nay, xã hội ta cũng xuất hiện nhiều tấm gương sáng về lòng ham học. Những bạn nhỏ ở vùng sâu vùng xa phải trèo đèo, lội suối qua những quãng đường dài để đến học ở những lớp học nghèo nàn, đơn sơ dựng tạm. Ấy vậy mà trong số họ xuất hiện bao bạn nhỏ là học sinh giỏi vượt khó, không thua kém bất kì bạn học sinh nào. Hay như những bạn nhỏ vừa học vừa làm thêm để lấy tiền nuôi sống bản thân, chi phí cho việc học. Họ đều là những con người có hoàn cảnh khó khăn, thiếu thôn, nhưng học tập vẫn chăm chỉ, cần mẫn, có những thành tích cao, tốt đẹp.

Trong văn học phải kể đến nhân vật Mã Lương ở truyện Cây bút thần - một tấm gương về lòng ham học và học thành tài. Vậy học tập góp phần rất quan trọng tới công việc, tương lai sau này của chúng ta nên cần phải học tập thật tốt.

Vậy muôn thực hiện lời dạy của Lê-nin ta phải làm gì? Chúng ta phải tự tìm lấy những cái thích thú, say mê trong học tập và phải luôn sáng tạo trong việc học của mình để học tốt hơn. Bên cạnh đó, để học tốt, chúng ta còn rất cần đến nghị lực, quyết tâm học tập. Trong giờ học, ta cần phải chăm chỉ lắng nghe lời giảng của thầy giáo, nắm chắc bài học, học thêm ở bạn bè, lắng nghe thông tin đại chúng, sách báo. Ngoài ra chúng ta cần học tập trong cuộc sống, tìm tòi, sáng tạo thêm để học cho tốt. Học phải đi đôi với thực hành, học toàn diện.

Câu nói trên của Lê-nin đã khuyên chúng ta phải học tập thật nhiều, không được ngừng nghỉ để rồi sẽ phục vụ cho công việc sau này của mình. Học là rất quan trọng, vì nhờ có học, có kiến thức mới giúp chúng ta làm được việc, nuôi sông bản thân, gia đình và xây dựng đất nước. Bản thân ta sẽ luôn cố gắng để học tập thật tốt để góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh. Hãy đừng bao giờ quên lời dạy của Lê-nin “Học, học nữa, học mãi! ”.

Bác Hồ cũng có câu “…Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường

36 | P a g e

Page 37: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.”

CHƯƠNG III: PHẦN KẾT LUẬN

Về nội dung tóm tắt của đề tài

“Học, học nữa, học mãi” - câu nói nổi tiếng của Lê-nin mà ai cũng biết nhưng không phải ai cũng thấy được sự đúng đắn và tầm quan trọng của nó trong thời đại hiện nay.

Trong phạm vi chương I, người viết đã đưa ra một cái nhìn tổng quát và chung nhất về đề tài, cụ thể là:- Đề tài cho thấy tầm quan trọng của việc học và việc cần học nhiều trong

thời kì hội nhập và thấy được việc học là không bao giờ thừa.- Giá trị của việc học được người viết chú trọng thể hiện nhất là trong thời

buổi hiện nay nhiều người cũng chỉ học theo nhau, theo phong trào mà không biết được lợi ích và tầm quan trọng của nó.

- Đưa ra khái niệm học một cách rộng rãi bên cạnh đó cũng nói lên thực trạng việc học hiện nay của mỗi cá nhân trong xã hội.

- Đưa ra đối tượng và phạm vi nghiên cứu cụ thể cho đề tài.

Trong chương II, người viết đi vào phân tích rõ ràng và cụ thể hơn từ mọi góc nhìn để chúng ta hiểu thật tường tận về câu nói “Học, học nữa, học mãi”- Giải thích nguồn gốc của sự học là ở chính mỗi con người.Từ một góc

nhìn về giáo dục ta có thể khẳng định giáo dục là công cụ để định danh con người.

- Cần phải bắt đầu sự học từ khát vọng bởi đó là động lực những tác nhân tạo ra sức mạnh lớn lao cho sự học mỗi con người

- Đưa ra nguyên tắc giải quyết vẫn đề “2W1H” để định nghĩa lại sự học: người học mới chính là người quyết định vì sao mình học từ đó chuyển tải nội dung và cách thức để đạt mục tiêu học tập hiệu quả nhất. Đồng

37 | P a g e

Page 38: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

thời cần phải có một cuộc cách mạng để đổi mới và hoàn thiện nền giáo dục hiện nay.

- Trong phần này cũng đưa ra câu trả lời cho câu hỏi chúng ta cần làm gì để thực hiện được câu nói của Lê-nin. Đó là mỗi người cần biết khám phá và tiếp thu những tinh hoa kiến thức nhân loại và không ngừng mở rộng khả năng hiểu biết và rèn luyện kĩ năng.

- Đưa ra cho chúng ta những dẫn chứng những biểu hiện của việc học tập không ngừng từ xa xưa đã luôn được coi trọng và hiệu quả nó mang lại ở thời buổi đó. Sau đó liên hệ với thực trạng việc học ngày nay và cho ra mục tiêu phát triển giáo dục nước nhà.

- Hậu quả của việc xem thường việc học là rất nghiêm trọng cho bản thân khiến ta không thể độc lập và trưởng thành được và dễ dàng bị đào thải khỏi xã hội.

- Đối với đất nước thì nó khiến cho nền kinh tế kém phát triển từ đó sa sút về chính trị. Bởi vậy mới nói học để thành công, học để đất nước phát triển.

- Đưa ra quan điển của Việt nam “xã hội học tập” và “học tập là suốt đời”. Cần xác định mục tiêu rõ ràng học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình.

- Học phải đi đôi với hành là điều vô cùng cần thiết.

Cuối cùng, khẳng định lại một lần nữa lợi ích to lớn của “Học, học nữa, học mãi” trong thời đại ngày nay và vì vậy điều mỗi chúng ta cần làm là học tập không ngừng.

38 | P a g e

Page 39: Bài tiểu luận môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1)_ Hồ Chí Minh, toàn tập, 2010, tập 10, tr.40

(2)_Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496

(3)_Nguồn: http://saigonxe.net/em-hay-giai-thich-noi-dung-va-y-nghia-loi-khuyen-cua-lenin-hoc-hoc-nua-hoc-mai--3-507

(4)_Nguồn:http://vanhoagiaoduc.vn/bao-van-hoa-giao-duc-ta-la-san-pham-cua-chinh-minh-%E2%80%93-gian-tu-trung-10947

(5)_Trích lời Thứ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển Nguồn: http://thanhgiong.vn/Home/Trithucmoi/NewsDetails.aspx?id=;3/12/2010

(6)_ Hồ Chí Minh : Toàn tập, Tập 9, tr.222.

(7)_ Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 tr.286.

(8)_Giáo trình Lịch sử giáo dục Việt Nam – Nguyễn Duy Phú, Đại học Đà Lạt 1999.(9)_Nghị quyết trung ương 8.

39 | P a g e