19
MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 2 NỘI DUNG 3 1. Một số khái niệm 3 1.1. Giới 3 1.2. Bình đẳng xã hội 3 1.3. Bình đẳng giới 3 2. Thực trạng về bất bình đẳng giới trong giáo dục4 2.1. Trên thế giới 4 2.2. Ở Việt Nam 5 3. Những hệ quả của bất bình đẳng giới trong giáo dục 8 4. Một số nguyên nhân 9 5. Một số giải pháp cho vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam 10 KẾT LUẬN 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 14 1

Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

Embed Size (px)

DESCRIPTION

tài liệu mang tính chất tham khảo, ít tính chất khoa học

Citation preview

Page 1: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG 3

1. Một số khái niệm 3

1.1. Giới 3

1.2. Bình đẳng xã hội 3

1.3. Bình đẳng giới 3

2. Thực trạng về bất bình đẳng giới trong giáo dục 4

2.1. Trên thế giới 4

2.2. Ở Việt Nam 5

3. Những hệ quả của bất bình đẳng giới trong giáo dục 8

4. Một số nguyên nhân 9

5. Một số giải pháp cho vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam 10

KẾT LUẬN 13

TÀI LIỆU THAM KHẢO 14

1

Page 2: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp

luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội và gia đình”. Bình đẳng giới là một vấn đề rất quan trọng được cả xã

hội quan tâm. Nếu vấn đề giải phóng phụ nữ và vấn đề cơ bản nhất trong các vấn

đề đấu tranh của phụ nữ thì quyền bình đẳng giữa nam và nữ lại được xem là nội

dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Trong lĩnh vực giáo dục, vấn đề

bình đẳng giới càng có ý nghĩa sâu sắc.

Giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội của cn.

Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim từng nói: “Giáo dục có chức năng xã hội

hóa cá nhân, giáo dục giúp cho các thế hệ trẻ được chuẩn bị để bước vào cuộc

sống xã hội, giáo dục có chức năng củng cố sự đoàn kết xã hội và duy trì trật tự xã

hội.

Nghiên cứu bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục là một việc làm cần thiết

trong xã hội hiện nay, nhằm mục đích tìm ra các biện pháp nâng cao bình đẳng

giới trong giáo dục và trong xã hội. Với tư cách là một bộ phận của xã hội, sự

nghiệp phát triển giáo dục hiện nay không thể không tính đến vấn đề giới.

Chính vì những lí do cấp thiết đó mà chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề bất

bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục.

2

Page 3: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

NỘI DUNG

1. Một số khái niệm

1.1. Giới

“Giới (gender): là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã

hội quy định chon am và nữ nhìn từ góc độ xã hội; giới đề cập đến sự phân công

lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối

cảnh xã hội cụ thể”1

Đặc trưng cơ bản nhất của giới là do dạy và học mà có, Vì vậy, những đặc

trưng về giới mang tính xã hội, do xã hội quy định. Giới thể hiện các đặc trưng

của xã hội của phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào đặc điểm

văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, các khu vực, các giai tầng xã

hội. Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội về giới hoàn toàn có thể thay đổi

được.

1.2. Bình đẳng xã hội

“Bình đẳng xã hội: là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các định kiến, các

cơ hội và các quyền lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân,

các nhóm xã hội”2. Trên lý thuyết, bất bình đẳng xã hội có nghĩa là không bằng

nhau, không ngang nhau về các khía cạnh cơ bản của đời sống xã hội giữa các cá

nhân, các nhóm người. Trên thực tế, khái niệm bất bình đẳng xã hội được dùng

chủ yếu để chỉ mối tương quan xã hội nào không ngang bằng nhau đến mức gây

tổn hại đén quyền và lợi ích của bên yếu thế.

1.3. Bình đẳng giới

1 TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”.2 Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Xã hội học về giới và phát triển, Nxb. ĐHQG HN

3

Page 4: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

“Là một cách tiếp cận giải quyết các vấn đề đang đối diện với cả nam và nữ

theo cách chia sẻ các lợi ích của phát triển một cách bình đẳng, bảo đảm chóng lại

gánh nặng thiên lệch của những tác động tiêu cực”3

Trong đó, nam giới và nữ giới được bình đẳng với nhau về:

- Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng

- Các cơ hội tham gia đóng góp và hưởng lợi từ các nguồn lực xã hội và quá

trình phát triển.

- Quyền tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng.

- Được hưởng thành quả bình đẳng trong mội lĩnh vực của xã hội.

2. Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục

2.1. Trên thế giới

Theo một báo cáo của UNICEF, vào tháng 12 năm 2006, nhân dịp kỉ niệm

60 năm ngày thành lập của tổ chức này, việc loại bỏ sự phân biệt đối xử vè giới và

nâng cao vị thế của phụ nữ sẽ tạo ra một sự tác động sâu sắc và tích cực đến sự

sống còn và phát triển của trẻ em. Bà Ann M. Veneman – Giám đốc điều hành

UNICEF phát biểu: “Khi vị thế của người phụ nữ được nâng lên để có một cuộc

sống đầy đủ và hữu ích, trẻ em và giáo dục họ sẽ trở nên thịnh vượng”. Theo báo

cáo này, mặc dù trong những thập kỉ gần đây đã có một số tiến biij về vị thế của

phụ nữ nhưng cuộc sống của hàng triệu “trẻ em gái và phụ nữ vẫn bị đe dọa bởi sự

phân biệt đối xử, việc bị tước quyền và nghèo khổ. Hậu quả của sự phân biệt đối

xử là trẻ em gái ít có cơ hội được học hơn. Ở các nước đang phát triển, gần như

1/100 trẻ em gái đi học ở trường tiểu học sẽ không theo học được hết cấp. Trình

độ học vấn, theo báo cáo, tương quan đến sự cải thiện về các nguồn lực đầu tự cho

sự sống còn và phát triển của trẻ em.

3 TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”.

4

Page 5: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

Sự phân biệt giới trong lĩnh vực giáo dục thường diễn ra gay gắt nhất trong

nhóm nước nghèo. Một nghiên cứu gần đây về tỉ lệ đến trường của các bé gái và

bé trai ở 41 quốc gia đã cho thấy, trong những nước này, sự pp về giới trong tỉ lệ

đến trường giữa nhóm nghèo thường lớn hơn giữa những nhóm không nghèo. Tuy

sự bình đẳng trong giáo dục đã có sự cải thiện rõ rệt trong vòng 30 năm qua ở các

nước ngày nay còn phụ thuộc diện thu nhập thấp, nhưng sự chênh lệch về số nam

và nữ đến trường ở những nước này vẫn lớn hơn ở các nước có thu nhập trung

bình và cao. Mặc dù giữa phát triển kinh tế và bình đẳng giới có mqh nhất định, sự

hiện diện của phụ nữ trong thu nhập quốc nội vẫn còn khiêm tốn.

2.2. Tại Việt Nam

Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng

cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số

người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong

tất cả các cấp bậc học được thu hẹp4. Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục

tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015. Có bốn loại hình giáo

dục không chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong đó có phụ nữ. Các

chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với

trước.

Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc biệt là vai trò

của giáo dục đối với xã hội, ngành Giáo dục & Đào tạo đã thực hiện tương đối tốt

vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã

khẳng định vai trò to lớn của giới nữ: “Chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành, giới

nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo nước

nhà”. Một số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo như Đại

học Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu trưởng. Nhiều nữ nhà

giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận chức danh Phó

Giáo sư. Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh viên nữ tự khẳng định vai trò của giới

4 Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8 - 2005 đã khẳng định điều này.

5

Page 6: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

mình bằng cách tích cực học tập và rèn luyện, đạt kết quả xuất sắc. Trong các kỳ

tuyển sinh vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là học sinh nữ. Còn trong các kỳ

thi tốt nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân với thành tích xuất sắc: thủ

khoa.

Đối với ngành Giáo dục & Đào tạo quận Ngũ Hành Sơn, nữ cán bộ quản lý giáo

dục và giáo viên đã đóng góp công lớn trong sự nghiệp giáo dục của quận nhà.

Trong những năm qua có bốn nữ cán bộ quản lý được Bộ Giáo dục và Đào tạo

tặng bằng khen, nhiều chị được UBND thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo thành

phố tặng bằng khen, giấy khen. Nữ cán bộ quản lý trong các trường học chiếm tỉ

lệ cao: 80%, có trường Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng hoàn toàn là nữ. Lãnh đạo

Phòng Giáo dục và Đào tạo có 1/3 là nữ.

Về tồn tại:

Tuy nhiên, thực chất bình đẳng giới trong Giáo dục và Đào tạo còn nhiều vấn

đề cần xem xét. Về khách quan, việc nhìn nhận vai trò của nữ giáo viên chưa

đúng, nhiều Hiệu trưởng không muốn nhận giáo viên là nữ vì sợ liên quan đến chế

độ nghỉ sinh nở, con đau ốm ảnh hưởng đến việc giảng dạy, hoặc khi đề bạt, cử đi

học còn e dè trong việc chọn nữ giáo viên. Trẻ em gái ít cơ hội được đến trường

so với nam giới. Nếu tính trung bình cho tất cả các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ

phụ nữ biết chữ thấp hơn 29% so với nam giới, số năm đến trường trung bình thấp

hơn 45% so với nam giới và tỷ lệ nhập học tiểu học, trung học cơ sở và trung học

phổ thông của nữ thấp hơn tương ứng là 9%, 28% và 49% so với nam.

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tự quan trọng về bình đẳng giới. Tuy

nhiên, theo kết quả điều tra chọn mẫu của Ngân hành Thế giới5, năm 1997 – 1998,

tỉ lệ dân số nữ từ 15 tuổi trở lên chưa đến trường là 13,4%, nhiều hơn hai lần tỉ lệ

nam: 5,2%. Số năm đi học trung bình của dân số nam từ 6 tuổi trở lên là 6,7 năm,

nhiều hơn số năm đi học của nữ: 5,6%.

5 Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2000. Tấn công nghèo đói, Hà Nội, 1999.

6

Page 7: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

Biểu đồ và bảng số liệu:

Số lượng học sinh phổ thông tại thời điểm ngày 31 tháng 12 giai đoạn

200 – 2009 phân theo giới tính

0

1000

2000

3000

4000

5000

6000

Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008 2008-2009

Tiểu học

Trung học cơ sở

Trung học phổ thông

Năm: 2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008 2008-2009

  Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

Tiểu học 5127 4615 4887 4428 4617 4199 4359 3987 4053 3692 3781 3523 3622 3408 3576 3284 3501 3231

THCS 3123 2741 3300 2959 3368 3063 3436 3134 3423 3194 3277 3094 3415 2965 2973 2830 2808 2661

THPT 1156 1016 1366 1089 1286 1169 1331 1258 1421 1349 1507 1468 1560 1515 1465 1557 1385 1543

Số học sinh (Đơn

vị: nghìn) 17776,1 17875,6 17699,6 17505,4 17122,6 16650,6 16256,6 15685,2 15127,9

(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn)

Tuy nhiên, nhìn vào biểu dồ, ta cũng có thể nhận thấy, từ năm 2000 đến

2009, số nữ đi học cấp III đã tăng lên đáng kể. Đây là một dấu hiệu tích cực để

đánh giá sự bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục.

7

Page 8: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

3. Những hệ quả của bất bình đẳng trong giáo dục

Khi có những bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận các

nguồn lực cuộc sống thì tất yếu dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Thực tế đã cho

thấy điều này diễn ra ở cả trên thế giới và ở Việt Nam.

Có rất nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em chịu thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ

chúng mù chữ hoặc không được đến trường. Không được đi học dẫn đến chất

lượng chăm sóc con cái thấp, điều này lại khiến tỉ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở

trẻ em và trẻ sơ sinh cao. Những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường có hành vi

bảo vệ sức khỏe cho con cái phù hợp hơn, chẳng hạn như cho con cái đi tiêm

chủng.

Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn đóng vai trò quyết định trong việc

chăm sóc và nuôi dưỡng con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất

lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã

hội sẽ được nâng lên.

Mặt khác, kể cả các nước có nền kinh tế mới phát triển như Trung Quốc, Hàn

Quốc, khi vấn đề bình đẳng giới không được giáo dục cũng ảnh hưởng rất lớn khi

những định kiến “trọng nam” trong xã hội cộng với chính sách chỉ đẻ một con của

Trung Quốc đã khiến tỉ lệ tử vong của bé gái cao hơn của bé trai. Theo một số ước

tính, số phụ nữ đang sống hiện nay ít hơn từ 60 – 100 triệu người so với con số

khi không có sự phân biệt đối xử theo giới6.

Bất bình đẳng giới trong giáo dục làm giảm chất lượng nguồn nhân lực trung

bình của xã hội. thực vậy, nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả

năng thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và

đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có

tiềm năng thấp hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp

hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.

6 Tài liệu: “Đưa giới vào phát triển”

8

Page 9: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

4. Một số nguyên nhân của bất bình đẳng giới trong giáo dục

Hiện tượng bất bình đẳng tạo ra những hệ quả xã hội to lớn. Ảnh hưởng từ

quá trình tiếp cận nguồn lực của nam giới và phụ nữ đến sự phát triển của xã hội

là một thực tế đã được chứng minh. Vậy, nguyên nhân tại sao sự phân biệt đó vẫn

cứ tồn tại dai dẳng? Một số kiểu bất bình đẳng giới còn khó thủ tiêu hơn cả các

hiện tượng xấu khác của xã hội? Dưới đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến các

quan hệ giới và bất bình đẳng xã hội.

Các thể chế xã hội, các chuẩn mực xã hội, tập quán xã hội, quyền hạn, luật

lệ - cũng như các thể chế kinh tế như thị trường… tác động rất lớn đến loại nguồn

lực nào mà họ được tiếp cận, hoạt động nào mà giới nào được phép tham gia, giới

nào được phép tham gia nền kinh tế - xã hội dưới hình thức nào. Chính những thể

chế đó đã quy định động cơ khuyến khích hay không khuyến khích các định kiến

giới. ngay cả khi chúng không công khai phân biệt thì những thể chế chính thức

hay không chính thức đó vẫn thường chịu sự tác động bởi các chuẩn mực xã hội

về những vai trò thích hợp theo giới. Có rất nhiều thể chế có những sức người

nhất định của nó, khiến rất khó và rất chậm để có thể thay đổi được.

Một nguyên nhân nữa là do các hộ gia đình. Các hộ gia đình đã định hình các

mối quan hệ giới ngay từ đầu của quá trình xã hội hóa cá nhân và còn truyền tải

chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những định kiến giới của cha mẹ biểu

hiện như: quan niệm cho rằng các em gái không cần phải học nhiều mà cần phải

làm việc nội trợ giúp gia đình.

Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo

dục. Tình trạng đói nghèo của gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ, các

nghiên cứu xã hội học về giáo dục cho thấy một tỉ lệ bỏ học rất đáng kể của những

trẻ em xuất thân từ gia đình nghèo, cha mẹ ít học thậm chí là không biết chữ sống

ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.7

7 Lê Thúy Hằng: “Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc học của con cái” – Tạp chí xã hội học số 2 – 2006.

9

Page 10: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

Một nguyên nhân nữa là các chính sách phát triển về giới vẫn có thể tạo ra

những kết cục phân biệt về giới. Các chính sách, cùng với các chuẩn mực xã hội

hay phân công đồng đều có thể dẫn đến việc tiếp cận các nguồn lực không đồng

đều giữa nam và nữ. Việc không nhận thức được hoặc bỏ qua sự khác biệt về giới

khi thiết kế các chính sách có thể có hại cho hiệu lực của các chính sách đó, xét cả

trên khía cạnh công bằng lẫn hiệu quả.

Như vậy, các thể chế xã hội, thể chế kinh tế, hộ gia đình và các chính sách

phát triển sẽ cùng nhau quyết định các cơ hội cuộc sống – xét trên khía cạnh giới –

của con người. chúng cũng thể hiện những điểm đột phá quan trọng cho chính

sách công cộng nhằm giải quyết sự bất bình đẳng giới.

5. Một số giải pháp về bất bình đẳng giới

Thứ nhất, thể hiện bình đẳng giới trong các chủ trương, chính sách của Đảng

và Nhà nước, tạo mọi điều kiện cho trẻ em được học hành, phát triển.Ví dụ Nghị

quyết số 11 của Bộ chính trị - BCHTW Đảng khoá X Về công tác phụ nữ trong

thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe: Đổi mới và phát triển

mạng lưới tư vấn sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản; giáo dục giới tính và tình

dục an toàn vị thành niên; vận động nam, nữ áp dụng các biện pháp tránh thai;

tuyên truyền, hướng dẫn phụ nữ biết cách chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình;

phòng trừ bệnh dịch.

Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa việc lồng ghép giới vào chương trình dạy học

trong các nhà trường.

Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng cao

nhận thức về bình đẳng giới.

Thứ năm, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Quốc gia

Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và năng

lực của Hội Phụ nữ các cấp.

10

Page 11: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

Thứ sáu, bản thân chị em phải tự lực tự cường phấn đấu để vươn lên, rèn

luyện theo các tiêu chí: có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động

sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân đạo để khẳng định mình.

Cần một lộ trình tiến tới bình đẳng giới. Trong cuốn “Tình hình trẻ em thế

giới 2007” đưa ra bảy giải pháp chính nhằm cải thiện vấn đề bình đẳng giới, xin

được nêu ra để tham khảo:

+ Giáo dục: Các hành động chính bao gồm bãi bỏ học phí vá khuyến khích

cha mẹ và cộng đồng đầu tư vào giáo dục trẻ em gái.

+ Tài chính: Các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục đích về bình đẳng giới

và nâng cao vị thế của phụ nữ chưa nhận được sự chú ý đầy đủ. Đầu tư để loại trừ

sự phân biệt đối xử về giới phải được đưa vào trong kế hoạch và ngân sách của

các Chính phủ.

+ Pháp luật: Luật pháp quốc gia về luật tài sản và quyền thừa kế phải bao

gồm người phụ nữ cùng với các biện pháp để phòng và xử lý bạo lực gia đình và

bạo lực xuất phát từ giới.

+ Hạn ngạch pháp lý: hạn ngạch là một cách để đảm bảo sự tham gia của phụ

nữ vào chình trường. trong số 20 quốc gia mà nữ giới chiếm đa số trong quốc hội

có 17 quốc gia sử dụng hạn ngạch.

+ Phụ nữ nâng cao vị thế cho phụ nữ: Hoạt động của phụ nữ cấp cơ sở là

tiếng nói tiên phong cho sự bình đẳng và nâng cao vị thế cho nên được đưa vào

giai đoạn đầu của sự hình thành chính sách để các chương trình được thiết kế phù

hợp với nhu cầu của phụ nữ và trẻ em.

+ Sự tham gia của nam giới và trẻ em trai: Giáo dục nam giới và trẻ em trai,

cũng như phụ nữ và trẻ em gái, về lợi ích của bình đẳng giới và cùng đưa ra quyết

định có thể giúp tạo ra mối quan hệ hợp tác tốt hơn.

+ Cải thiện nghiên cứu và số liệu: Số liệu và phân tích tốt hơn rất quan trọng,

đặc biệt là về tỉ lệ tử vong của các bà mẹ, bạo lực đối với phụ nữ, giáo dục, việc

làm, lương bổng, công việc không lương và thời gian sử dụng và sự tham gia vào

chính trị.

11

Page 12: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

KẾT LUẬN

Lợi ích của vấn đề bình đẳng giới vượt xa hơn nhiều những tác động trực

tiếp của chúng tới trẻ em. Báo cáo Tình hình Trẻ em Thế giới 2007 chỉ ra việc

khuyếnh khích bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ - Mục tiêu thiên niên kỉ

thứ 3 – sẽ thúc đẩy những mục tiêu khác từ giảm đói nghèo đến cứu vớt sự sống

còn của trẻ em, tăng cường sức khỏe, bảo đảm giáo dục phổ cập, phòng chống

HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các căn bệnh khác, và bảo đảm sự bền vững về môi

trường.

12

Page 13: Bất bình đẳng giới trong giáo dục - nội dung

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”.

- Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Xã hội học về giới và phát triển, Nxb.

ĐHQG HN

- Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8 - 2005.

- Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2000. Tấn công nghèo

đói, Hà Nội, 1999.

- Tài liệu: “Đưa giới vào phát triển”

- Lê Thúy Hằng: “Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc học của

con cái” – Tạp chí Xã hội học số 2 – 2006.

13