Upload
tin-ha-dang
View
2.094
Download
2
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Tập thơ do cụ BÙI HẠNH CẨN dịch gồm 428 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của 170 tác giả thời Đường và Tống của Trung Hoa cổ đại.
Citation preview
ÂU DƯƠNG CHIÊM
1
BÙI HẠNH CẨN
Biên d�ch
ĐƯỜNG – TỐNG
2014
2
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ÂU DƯƠNG CHIÊM
3
LỜI ĐẦU SÁCH
*****
Năm 1956, có lần gặp nhau ở phố Lê Văn Hưu (Hà Nội), Nguyễn Bính hỏi tôi:
- Dạo này thỉnh thoảng còn dịch thơ chữ nho không?
Tôi đã đọc cho ông nghe hai bản dịch bài thơ "Gửi người xa" của Lý Bạch đời Đường. Nguyên văn như sau:
KÝ VIỄN Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường.
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng
Sàng trung tú bị quyển bất khởi.
Chí kim tam tải văn dư hương.
Hương diệc cánh bất diệt
Nhân diệc cán bất lai
Tương tư hoàng diệp lạc
Bạch lộ thấp thanh đài.
GỬI NGƯỜI XA
Em còn ở đây nhà hoa ngát
Em xa rồi ngơ ngác giường xưa
4
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Chăn thêu nếp nếp hững hờ
Ba năm hương mãi bây giờ còn bay…
Thơm nào nghe quyện đâu đây
Người đi bữa ấy mai này còn sang
Tương tư để rụng lá vàng
Cho sương lạnh trắng mấy làn rêu xanh.
BẢN DỊCH II
Người đẹp ở, hoa thơm đầy buồng
Người đẹp đi rồi trơ giường suông
Trên giường chăn thêu nếp hờ hững
Đến nay ba năm thơm còn vương.
Hương cũng vương không dứt
Người cũng không về chơi
Tương tư vàng lá rụng
Sương lạnh trắng rêu hoài.
Sở dĩ, thêm bản dịch 2, tôi muốn thử nghiệm cách dịch bám sát nguyên tác. Và trong trường hợp cụ thể
ÂU DƯƠNG CHIÊM
5
này, bản dịch 1 được nhiều người thích hơn. Có người đã phê bình kiểu dịch này là "Câu nệ".
Từ đấy tôi vẫn tiếp tục dịch thơ theo hướng thứ 2 nhiều hơn, chủ yếu là chữ Hán. Vì phần lớn sáng tác của tác giả Việt Nam, từ đầu thế kỷ 20 về trước, đều viết bằng chữ Hán và Nôm.
(*)
Cho tới những năm 80 của thế kỷ trước, những thơ văn chữ Hán mà tôi đã dịch và được đăng in trên sách báo, có thể tạm kể:
1. Toàn bộ thơ chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông
2. Toàn bộ thơ chữ Hán và tập "Truyền kỳ Tân Phả" của Đoàn Thị Điểm
3. Toàn bộ thơ chữ Hán trong tập "Lưu Hương Ký" của Hồ Xuân Hương
4. Chinh Phụ Ngâm của Hồng Liệt Bá….v.v…
(*)
Đầu năm Sửu (2009) ông bạn nhà văn, nhà báo Hàm Châu mang cho tôi tờ báo "Sai Gòn giải phóng". Trong có in bài ký của ông viết về một nhà khoa học trẻ tuổi Vi ệt kiều ở Mỹ. Cuối bài, ông có nhắc tới 4 câu thơ tôi dịch của Nguyễn Trãi viết khi về chơi lại Côn Sơn. Quan điểm của ông về thơ dịch là phải "sát và hay".
(*)
6
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Mùa hè năm Sửu này (2009), ông bạn nhà thơ Vũ Minh Tân cho tôi một số tư liệu về thơ chữ Hán, và thỉnh thoảng, ông lại trao đổi với tôi về việc dịch thơ chữ Hán. Mấy việc kể trên, đã khuyến khích tôi hoàn thành hai tập thơ dịch.
Một là: 129 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát (8 câu 7 chữ)
Hai là: 300 bài thơ Đường - Tống ( 4 câu 7 chữ).
Bản dich thơ này chắc chắn có những thiếu sót. Rất mong quý vị độc giả vui lòng chỉ bảo cho.
Tập thơ dịch này có 441 bài thơ (4 câu 7 chữ) của một số các tác giả các thời Đường và Tống của Trung Quốc. Để tiện việc tra cứu, thơ được xếp theo A, B, C về họ tên tác giả. Một tác giả có nhiều bài thơ thì thơ cũng xếp theo thứ tự A, B, C.
ÂU DƯƠNG CHIÊM
7
ÂU DƯƠNG CHIÊM Quê Tấn Giang, Châu Tuyền (Phúc Kiến), tự là Hà Chu,
đỗ tiến sĩ năm 792, đời Đường, bạn thân với Hàn Dũ. Làm
chức Tứ môn trợ giáo, tính phóng khoáng, ưa ngao du.
ĐỀ DIÊN BÌNH KI ẾM ĐÀM
Tưởng tượng tinh linh dục kiến nan
Thông tân nhất khứ thủy man man
Không dư tích nhật lăng sương sắc
Trường dữ trừng đàm sinh trú hàn.
ĐỀ ĐẦM GƯƠM DIÊN BÌNH∗
Muốn thấy gươm thiêng khó vạn ngàn
Sang đò một chuyến nước mênh mang
Suông bao ngày tháng nhòa sương móc
Dài với đầm trong sáng lạnh tràn. ■
∗ Diên Bình nay là Nam Bình, thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ở đây có sông
Mân, thượng lưu sông gọi là Khe Gươm. Thời nhà Tấn có Lôi Hoán và bạn là Trương Hoa tìm được hai thanh gươm quý ở trong đất. Mỗi người giữ một thanh. Thanh của Hoa không rõ thất lạc ở đâu. Còn thanh gươm của Hoán, sau này con trai ông đeo nó, khi đi qua bến Diên Bình, thì gươm rơi xuống sông, nhìn theo thấy hai con rồng bơi lội trong nước. Do đó gọi đoạn sông này là sông Gươm, đầm Gươm.
8
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ÂU DƯƠNG TU (1007 – 1072)
Tự là Vĩnh Thúc, hiệu là Túy Ông, quê Lư Lăng (Giang Tây), một học giả nổi tiếng thời Tống.
HỌA MI ĐIỂU
Bách chuyển thiên thanh tùy ý di
Sơn hoa hồng tử thụ cao đê
Thủy tri tỏa hướng kim lung thính
Bất cập lâm gian tự tại dề.
CHIM HỌA MI
Trăm điệu nghìn làm tuỳ ý thích
Hoa bừng cây núi bóng so le
Mới hay nghe giữa lồng son khóa
Chả sánh rừng xanh hót thoả thuê.
■
ÂU DƯƠNG TU
BẠCH CƯ DỊ
9
BẠCH CƯ DỊ (772- 846)
Tên tự là Lạc Thiên, về già lấy hiệu Hương Sơn cư sĩ, quê ở Hạ Khuê (Thiểm Tây) dỗ tiến sĩ năm 802, đời Đường. Từng làm các chức quan như Hàn Lâm học sĩ, Tả thập di, Tư mã Giang Châu, Thượng thư bộ Hình…Ông chủ trương thơ phải theo “thời sự” sáng tác. Lời thơ của ông rất bình dị. Ông là tác giả những bài “Tr ường hận ca” và “Tỳ bà hành”, v.v…
BẠCH VÂN TUY ỀN
Thiên Bình∗ sơn thượng Bạch Vân tuyền, Vân tự vô tâm thuỷ tự nhàn. Hà tất bôn xung sơn hạ khứ, Cánh thiêm ba lãng hướng nhân gian.
SUỐI BẠCH VÂN
Bạch Vân dòng suối đỉnh Thiên san, Mây tự vô tâm nước tự nhàn. Hà tất ào ào tuôn xuống núi, Lại thêm sóng lớn chốn nhân gian.
■ ∗ Thiên Bình: Tên núi (Tân Cương)
10
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CẢM CỐ TRƯƠNG BỘC XẠ CHƯ KỸ
Hoàng kim bất tích mãi nga mi,
Giản đắc như hoa tam tứ chi.
Ca vũ giáo thành tâm lực tận,
Nhất triêu thân khứ bất tương tuỳ.
CẢM NGHĨ VỀ NHỮNG KỸ NỮ CỦA CỐ BỘC XẠ HỌ TRƯƠNG
Bạc vàng không tiếc mua người ngọc,
Ba bốn hoa xinh kén chuốc về.
Hát múa dạy xong tâm lực hết,
Ra đi chả có kẻ theo đi.
■
BẠCH CƯ DỊ
11
CHIÊU QUÂN ∗ TỪ
Hán sứ khước hồi bằng ký ngữ,
Hoàng kim hà nhật thục nga mi.
Quân vương nhược vấn thiếp nhan sắc,
Mạc đạo bất như cung lý thì.
CHIÊU QUÂN TỪ
Sứ Hán nhớdùm câu nhắn gửi,
Bạc vàng bao nữa chuộc nhau về.
Nhà vua nếu hỏi dung nhan thiếp,
Đừng bảo không bằng thuở mới đi.
■ ∗ Chiêu quân: Tên thực là Vương Tướng được vua Hán chọn
"giả làm công chúa" để gả cho vua Hung Nô. Theo lệ xưa, mỗi cung nữ đều được vẽ tranh chân dung, để vua chọn lựa. Nhiều người hối lộ hoa lộ Họa sĩ Mao Diên Thọ để hắn vẽ cho đẹp. Chiêu Quân không làm thế. Mao bèn vẽ xấu, nên không được vua Hán vời bao giờ. Đến khi gả sang Hồ, nên trước ngày đi có nghi lễ nhà vua tiễn công chúa lên xe hoa. Lúc ấy nhìn người thực thấy Chiêu Quân đẹp quá. Vua Hán rất tiếc, nhưng chuyện đã rồi. Sau đó, Vua Hán ra lệnh chém Mao Diên Thọ.
12
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CUNG TỪ
Lệ tận la cân mộng bất thành,
Dạ thâm tiền điện án ca thanh.
Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn,
Tà ỷ huân lung toạ đáo minh.
LỜI CUNG NỮ
Lệ đẫm khăn thêu mộng chả thành,
Đêm khuya điện trước vẫn đàn sênh.
Má hồng còn đậm ân tình dứt,
Ngồi tựa lồng hương đợi sáng canh.
■
BẠCH CƯ DỊ
13
ĐẠI LÂN T ẨU NGÔN HOÀI
Nhân sinh hà sự tâm vô định,
Túc tích như kim ý bất đồng.
Túc tích sầu thân bất đắc lão,
Như kim hận tác bạch đầu ông.
THAY ÔNG GIÀ XÓM CẢM HOÀI
Đời người hà cớ tâm vô định?
Dạo trước ngày nay ý chả cùng.
Dạo trước buồn thân không thọ lão,
Bạc đầu nay lại hận thành ông.
■
14
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐẠI MÃI TÂN NỮ TẶNG CHƯ KỸ
Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,
Hiểu đạp Hàn sơn tự phụ tân.
Nhất chủng Tiền Đường giang bạn nữ,
Trước hồng kỵ mã thị hà nhân.
THAY LỜI CÔ GÁI BÁN CỦI TẶNG CÁC KỸ NỮ
Bòng bong đầu tóc quàng khăn vải
Sớm vượt non Hàn∗ kiếm củi gai.
Cánh gái Tiền Đường∗ sông bến ấy,
Xiêm hồng ngựa tía hỏi là ai?
■
∗ - Non Hàn: Tên núi ở Giang Tô. ∗ - Tiền Đường: Tên sông ở Giang Tô
BẠCH CƯ DỊ
15
ĐÔNG DẠ VĂN TRÙNG
Trùng thanh đông tứ khổ ư thu,
Bất giải sầu nhân văn diệc sầu.
Ngã thị lão nhân thính bất uý,
Thiếu niên mạc thính bạch quân đầu.
TIẾNG DẾ ĐÊM ĐÔNG
Đêm đông tiếng dế khổ hơn thu,
Người chả sầu nghe cũng hoá sầu.
Ta đã già nua nghe chả sợ
Tuổi xanh nghe tới bạc luôn đầu.
■
16
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀM ĐAN ĐÔNG CHÍ DẠ TƯ GIA
Hàm Đan dịch lý phùng đông chí
Bão tất đăng tiền ảnh bạn thân.
Tưởng đắc gia trung thâm dạ toạ,
Hoàn ưng thuyết trước viễn hành nhân.
ĐÊM ĐÔNG CHÍ Ở HÀM ĐAN NHỚ NHÀ
Hàm Đan∗ giữa trạm ngày đông chí
Ôm gối bên đèn bóng một thân
Nghĩ tới canh khuya quê cũ cũng
Đang ngồi kể chuyện kẻ xa xăm.
■
∗ - Hàm Đan: Kinh đô nước Triệu thời xưa. Một nơi phụ nữ rất
xinh đẹp.
BẠCH CƯ DỊ
17
KHÚC GIANG ỨC NGUYÊN CỬU
Xuân lai vô hạn nhàn du thiểu
Hành lạc tam phân giảm nhị phân.
Hà huống kim triêu hạnh viên lý,
Nhàn nhân phùng tận bất phùng quân.
Ở SÔNG KHÚC NHỚ NGUYÊN CỬU
Xuân về không bạn ngao du ít,
Giảm nửa phần vui ngán quá chừng.
Cho tới hôm nay vườn hạnh cũ,
Người dưng gặp cả chỉ người không.
■
18
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRIỆU THÔN HỒNG HẠNH
Triệu thôn hồng hạnh mỗi niên khai,
Thập ngũ niên trung khán kỷ hồi.
Thất thập tam nhân nan tái đáo,
Kim niên lai thị biệt hoa lai.
HOA HẠNH THÔN TRIỆU
Hạnh∗ hồng thôn Triệu mỗi năm ngời,
Hơn chục năm qua mấy bận chơi.
Người bảy mươi ba gân cốt mỏi,
Năm nay tới để biệt hoa thôi.
■
∗ - Hạnh: Một loại cây mận.
BẠCH CƯ DỊ
19
TAM NIÊN BI ỆT
Du du nhất biệt dĩ tam niên,
Tưởng vọng tương tư minh nguyệt thiên.
Trường đoạn thanh niên vọng minh nguyệt,
Biệt lai tam thập lục hồi viên
BA NĂM LI BIỆT
Ba năm đằng đẵng biệt li rồi,
Mỗi bận nhìn trăng nhớ đến người.
Ngao ngán trời xanh ngó trăng sáng,
Tròn ba mươi sáu lượt xa xôi.
■
20
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÁI LIÊN KHÚC
Lăng diệp oanh ba hà điểm phong,
Hà hoa thâm xứ tiểu thuyền thông.
Phùng lang dục ngữ đê đầu tiếu,
Bích ngọc tao đầu lạc thuỷ trung.
KHÚC HÁT HÁI SEN
Lá ấu xô làn sen gió rung,
Thuyền con lách giữa đám hoa hồng.
Gặp chàng muốn nói, cười nghiêng mái,
Thoa ngọc trên đầu rớt nước trong.
■
BẠCH CƯ DỊ
21
THƯƠNG XUÂN KHÚC
Thâm thiển thiềm hoa thiên vạn chi,
Bích sa song ngoại chuyển hoàng ly.
Tàn trang hoà lệ há liêm toạ,
Tận nhật thương xuân xuân bất tri.
TIẾC THƯƠNG XUÂN
Ngàn vạn hoa thềm đậm nhạt cây,
Ngoài song đâu đó giọng oanh bay.
Buông rèm ngồi lặng xiêm đằm lệ,
Suốt buổi thương xuân xuân chả hay.
■
22
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÙNG DƯƠNG TỊCH THƯỢNG PHÚ BẠCH CÚC
Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng,
Trung hữu cô tùng sắc tự sương.
Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch,
Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.
TIỆC RƯỢU NGÀY TRÙNG DƯƠNG VỊNH HOA CÚC TRẮNG
Đầy vườn bông cúc sắc vàng ươm,
Giữa có cây hoa trắng*) tựa sương.
Cũng giống hôm nay trên chiếu rượu,
Ông già đầu bạc với hoa lang.
■ *) Cây tùng mốc trắng sương
BẠCH CƯ DỊ
23
TRỰC TRUNG THƯ SẢNH∗
Ty luân các hạ văn chương tĩnh,
Chung cổ lâu đài khắc lậu trường.
Độc toạ hoàng hôn thuỳ thị bạn,
Tử vi hoa đối Tử vi lang.
TRỰC Ở TOÀ TRUNG THƯ
Ty luân∗ dưới gác văn chương lặng,
Đây đó lâu đài rộn trống chuông.
Chiều tới ngồi mình không có bạn,
Tử vi hoa∗ với Tử vi lang∗.
■
∗ Trung thư sảnh: Như dinh Tể Tướng. ∗ Ty luận: Tên nơi phụ trách việc ban chiếu, sắc của vua. ∗ Tử vi hoa: Hoa Tường Vi. ∗ Tử vi lang: Chức quan tỏng dinh Tể Tướng.
24
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯỜNG AN CHÍNH NGUY ỆT THẬP NGŨ NHẬT
Huyên huyên xa kỵ đế vương châu,
Cơ bệnh vô tâm trục thắng du.
Minh nguyệt thanh phong tam ngũ dạ,
Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu.
RẰM THÁNG GIÊNG Ở TRƯỜNG AN
Ngựa xe rộn rịp khắp thành đô,
Quán trọ đau nằm, chả dạo đâu.
Gió mát trăng trong rằm đúng buổi,
Muôn người vui thú một người sầu.
■
BẠCH CƯ DỊ
25
TƯ PHỤ MI
Xuân phong dao đãng tự đông lai,
Chiết tận anh đào triển tận mai.
Duy dư tư phụ sầu mi kết,
Vô hạn xuân phong xuy bất khai.
LÔNG MÀY NGƯỜI PHỤ NỮ ĐANG MONG NHỚ
Gió xuân lả lướt từ đông tới,
Bẻ hết anh đào nở hết mai.
Chỉ có mày người đan nỗi nhớ,
Gió dồn thổi mãi cũng không lơi.
■
26
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỰ KHUYẾN
Ức tích cơ hàn ứng cử niên,
Thoát y điển tửu Khúc Giang∗ biên.
Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,
Hà huống quan cung bất trị tiền.
TỰ MỜI
Thi cử cơ hàn thuở thiếu niên,
Bên sông cố áo rượu say mèm.
Mười ngàn một đấu còn không ngại,
Huống nữa giờ lương đã sẵn tiền.
■
∗ - Khúc Giang: Tên con sông ở Tường An. Đỗ Phủ từng có mấy bài thơ rất hay về sông Khúc. (Vì dòng sông khúc khuỷu quanh co, nên gọi là Khúc Giang). Trong có câu khá quen thuộc. Tửu trái tầm thường hành xứ hữu Nhân sinh thất thập cổ la hy
Tạm dịch: Nợ rượu tầm thường đâu cũng có Đời người bảy chục hiếm xưa nay
BẠCH NGỌC THIỀM
27
BẠCH NGỌC THIỀM Còn gọi là Cát Tường Canh – Tên tự là Hải Quynh, đạo sĩ thời nam Tống, thơ và vè đều giỏi.
TẢO XUÂN
Nam chi tài phóng lưỡng tam hoa
Tuyết ký ngâm hương lộng phấn ta
Đạm đạm trước yên, nồng trước nguyệt
Thâm thâm lung thuỷ đạm lung sa.
XUÂN SỚM
Cành nam vừa nở một vài hoa
Giữa tuyết màu thơm vẫn thoáng qua
Khói nhạt lơ thơ, trăng đậm ánh
Nông sâu cát nước bóng giao hoà.
■
28
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BAO HÀ Quê ở Diên Lăng, Chuân Nhuận (Giang Tô). Tên chữ
là Ấu Tự. Năm 748 đỗ tiến sĩ, giữ chức Khởi Cư Xá
nhân thời Đương Đại Lịch. Học phong cách thơ Mạnh
Hạo Nhiên.
KÝ DƯƠNG THỊ NGỰ∗
Nhất quan hà hạnh đắc đồng thì
Thập tải vô môi độc kiến di
Kim nhật bất luân yêu hạ tổ
Thỉnh quân khán thủ mấn biên ty.
GỬI THỊ NGỰ HỌ DƯƠNG
Làm quan may gặp được cùng thời
Không mối∗ mười năm bị bỏ rơi
Trước mắt bàn chi đeo túi ấn
Xin ai ngó tóc muối tiêu∗ rồi.
■
∗ - Dương Thị Ngự: Có thể là Dương Dự, bạn đỗ Tiến sĩ cùng khoa, có làm Thứ sử châu Từ (Sơn Tây) ∗ - Không mối: Không người giới thiệu, cất nhắc. ∗ - Muối tiêu: Tóc hoa râm.
BAO HÀ
CẢNH VỸ
29
CẢNH VỸ
ĐẠI VIÊN TRUNG LÃO NHÂN
Dung nhẫm nan kham nhất lão thân,
Ba ba lực dịch tại thanh xuân.
Lâm viên thủ chủng duy ngô sự,
Đào lý thành âm qui biệt nhân.
THAY LỜI NGƯỜI GIÀ TRỒNG VƯỜN
Làm mướn thân già mấy khó khăn,
Còn gì sức lực thuở thanh xuân.
Vườn rừng trồng tốt tay ta cả,
Ngọt mật thơm đào kẻ khác ăn.
■
30
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CAO BIỀN ( ? – 887) Quê Châu U (Bắc Kinh). Tự là Thiên Ly. Thời Đường
Hi Tông, làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam*) – Giỏi cả phong
thuỷ.
SƠN ĐÌNH HẠ NHẬT
Lục thụ âm nùng hạ nhật trường
Lâu đài đảo ảnh nhập trì đường
Thuỷ tinh liêm động vi phong khởi
Mã giá tường vi nhất viện hương.
ĐÌNH NÚI NGÀY HÈ
Cây cối ngày hè tán thắm rườm
Lâu đài loáng bóng đẹp ao chuôm
Thuỷ tinh rèm động trời hiu gió
Đầt dậu tường vi khắp viện thơm.
■ *) Theo Đại Vi ệt sử ký toàn thư: Năm 866, Cao Biền đem quân tiêu diệt giặc Nam Chiếu ở Long Biên (sau là Thăng Long – Hà Nội). Thắng giặc được vua Đường Ý Tông cho làm Tĩnh Hải Quân (tức Giao Châu) Tiết độ sứ, nhậm chức ở đó đến năm 875 thỉ đổi đi làm Tiết độ sứ ở Tây Xuyên. (Chú thích của NL)
CAO BIỀN
31
CẨM THÀNH XUÂN S ẮC
Thục giang ba ảnh bích du du,
Tứ vọng yên hoá táp quận lâu.
Bất hội nhân giai đa thiểu cẩm,
Xuân lai tận quải thụ sao đầu.
CẢNH XUÂN THÀNH CẨM
Sóng lan sông Thục∗ bóng xanh làu,
Hoa khói tư bề giáp gác lầu.
Chả hiểu mọi nhà nhiều ít gấm,
Xuân sanh treo hết ngọn cây cho.
■
∗ - Sông Thục: Ở Tứ Xuyên.
32
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KHIỂN HOÀI
Hoa mãn tây viên nguyệt mãn trì,
Sinh ca dao duệ hoạ thuyền đi.
Như kim ám dữ tâm tương ước,
Bất động chinh kỳ, động tửu kỳ.
THƯ DÃN
Hoa khắp vườn tây nguyệt khắp hồ,
Đàn ca đưa đẩy động thân đò.
Từ nay ngầm với lòng giao ước,
Không động cờ quân, động rượu cờ.
■
CAO BIỀN
33
KHUÊ OÁN
Nhân thế bi hoan bất khả tri,
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
Như kim hựu hiến Bình nam sách,
Tảo vãn thôi phùng hiệu đới y.
NỖI OÁN PHÒNG KHUÊ
Vui ngán đời người chả biết chi,
Chồng vừa diệt giặc hắc Sơn về.
Lại dâng ngay kế Bình nam tiếp,
Sớm tôi bao lần giục chiến y.
■
34
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KÝ ĐÀI TY PHÓ AN NAM
Tằng khu vạn lý thướng Thiên San,
Phong khứ vân hồi khoảnh khắc gian.
Kim nhật hải môn Nam quốc sự,
Mạc giao hoàn tự Phụng Lâm∗ quan.
GỬI VIÊN ĐÀI TY ĐI AN NAM
Từng phi muôn dặm ngựa Thiên San,
Vùn vụt mây bay gió cuốn tràn.
Sông biển bây giờ Nam quốc tới,
Về đừng trắc trở tựa Lâm quan.
■
∗ Phụng Lâm: Tên cửa ải ở Cam Túc – thời Đường hay xảy ra nhiều loạn.
CAO BIỀN
35
KÝ ĐỀ LA PHÙ BIỆT NGHIỆP
Bất tương chân tính nhiễm ai trần,
Vị hữu yên hà bạn thử thân.
Đới nguyệt Trường Giang tương hảo tín,
Bác La sơn hạ bích đào xuân.
ĐỀ NHÀ RIÊNG Ở LA PHÙ
Không cho thiên tính nhuốm nhơ trần,
Vì có luôn luôn khói ráng gần.
Trăng sáng Trường Giang bao mới đẹp,
Bác La đào núi rộn màu xuân.
■
36
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KÝ HUYNH
Lệ ngạc phân trương tín sứ hi,
Kỷ đa hương lệ sái chính y.
Già thanh vị đoạn hồn tiên đoạn,
Vạn lý Hồ thiên điểu bất phi.
GỬI ANH
Anh em cách biệt lối tin thưa,
Áo chiến miền quê lệ chửa khô.
Chưa dứt tiếng khèn hồn đã đứt,
Cánh chim muôn dặm vắng trời Hồ.
■
CAO BIỀN
37
TỐNG TÀO BIỆT SẮC TỰ AN NAM HỒI TRIỀU
Vân thuỷ thương mang nhật dục thâu,
Dã yên thâm xứ giá cô sầu.
Tri quân vạn lý triều thiên khứ,
Vị thuyết chinh nam dĩ ngũ thu.
TIỄN HỌ TÀO TỪ AN NAM TRỞ VỀ
Mênh mông mây nước chiều dần thẳm,
Nội vắng đồng hoang giọng cuốc sầu.
Muôn dặm anh về chầu điện ngọc,
Tâu dùm nam tiến đã năm thu.
■
38
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CAO THÍCH (707 - 765) Quê ở Bột Hải, Châu Thương (Sơn Đông), tên tự là Đạt
Phu, Trọng Vũ, tính cách phóng khoáng, ham cờ bạc,
được làm chức Uý Phong Khâu (Hà Nam), nhưng bỏ
chức quan đi ngao du đây đó. Sau lại được Tiết Độ sứ
Hà tây là Kha Thư Hãn mời làm việc, dần được đề bạt
chức Gián Nghị Đại Phu. vì nói thẳng, bị bọn quyền thần
ghét, đưa đi làm Thứ sử Châu Thục, rồi Châu Bành (đều
ở Tứ Xuyên). Về sau được thay chức Tiết độ sứ Tây
Xuyên, rồi về kinh làm Thị lang bộ Hình. Từ năm 50 tuổi
thích sáng tác thơ. Là bạn thân của Lý Bạch, Đỗ Phủ.
BIỆT ĐỔNG ĐẠI *
Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân
Bắc phong suy nhạn tuyết phân phân
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ thuỳ nhân bất thức quân
►
* Đổng Đại: Tức nhạc sĩ Đổng Đình Lan. Lý Kỳ có bài thơ “Nghe Đổng Đại gảy đàn cầm”.
CAO THÍCH
39
CHIA TAY ĐỔNG ĐẠI∗
Ngàn dặm mây vàng nắng mỏng manh
Gió may thổi nhạn, tuyết mông mênh
Đừng buồn đường trước không tri kỷ
Thiên hạ ai người chẳng biết anh.
■
TRỪ DẠ TÁC
Lữ quán hàn đăng độc bất miên
Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên
Cố hương kim dạ tư thiên lý
Sương mấn minh triêu hựu nhất niên.
VIẾT ĐÊM 30 TẾT
Quán lạnh đèn trơ ngủ chả nên
Cớ sao nỗi khách chợt sầu lên
Đêm nay làng cũ mong ngàn dặm
Tóc bạc ngày mai tuổi lại thêm.
■
40
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CỬU KHÚC TỪ
Thiết mã hoành hành Thiết lĩnh∗ đầu
Tây khán La Sa∗ thủ phong hầu
Thanh Hải∗ chỉ kim tương mã ẩm
Hoàng Hà bất dụng cánh phòng thu∗
BÀI TỪ CHÍN KHÚC∗
Dọc ngang ngựa khỏe đầu non Thiết
Tây ngó La Sa hỏi ấn Hầu
Thanh Hải hồ giờ cho ngựa uống
Sông Hoàng khỏi nghĩ chuyện phòng thu.
■ ∗ Thiết lĩnh: Tên núi ngoài ải Tây bắc ∗ La Sa: Tức La Sa ở Tây Tạng hiện nay. ∗ Thanh Hải: Tên một hồ lớn của tỉnh Thanh Hải. ∗ Phòng thu: Đề phòng mùa thu. Ngày xưa, nước ngoài thường xâm chiếm Trung Hoa vào mùa thu. Lúc này Cao Thích đang làm việc dưới trướng Tiết độ sứ Lũng Hữu Hà Tây tên là Kha Thư Hãn. Kha đã đánh thắng quân Thổ Phồn năm 754 thời Đường Huyền Tông. ∗ Chín khúc: Là tên một khúc trong nhạc phủ, "Ý nói sông Hoàng Hà có đoạn chín khúc", nay thuộc Thanh Hải.
CAO THÍCH
41
TÁI TH ƯỢNG VĂN XUY ĐỊCH
Tuyết tịnh Hồ∗ thiên mục mã hoàn
Nguyệt minh Khương địch thú lâu nhàn
Tá vấn mai hoa∗ hà xứ lạc
Phong xuy nhất dạ mãn quan san∗.
TRÊN ẢI NGHE THỔI SÁO
Trời Hồ tuyết sạch ngựa theo đàn
Trăng sáng lầu quân rộn tiếng khèn
Thử hỏi hoa mai đâu chốn rụng
Gió bay một tối khắp non ngàn.
■
∗ Hồ, Khương: Tên gọi các nước khác ở Trung Quốc thời xưa ∗ Lạc mai hoa: Tên bản nhạc "Hoa mai rụng". ∗ "Quan sơn nguyệt": Trăng quan ải, cũng là tên một khúc nhạc.
42
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CAO THIỀM Quê Bột Hải (Hà Bắc). Đậu tiến sĩ thời Đường
Hi Tông, lám chức Ngự sử Trung thừa.
THƯỚNG CAO THỊ LANG ∗
Thiên thượng bích đào hoà lộ chủng
Nhật biên hồng hạnh ỷ vân tài
Phù dung∗ sinh tại thu giang thượng
Bất hướng đông phong oán vị lai
DÂNG THỊ LANG HỌ CAO
Đào biếc ngang trời sương móc trong
Nắng soi hồng hạnh ánh mây hồng
Phù dung nở chốn sông thu ấy
Chả có bao giờ oán gió đông
■
∗ - Cao Thị Lang: Cao Biên – Một người văn võ toàn tài. ∗ - Phù dung: Một loại cây hoa màu hồng, sáng nở tối tàn.
CAO THIÊM
CHÍ NAM
43
CHÍ NAM ( ? ) Một vị sư thời Nam Tống
TUYỆT CÚ
Mộc cổ âm trung hệ đoản bồng
Trượng Lê phù ngã quá kiều đông
Chiêm nghi dục thấp hạnh hoa vũ
Suy diện bất hàn dương liễu phong
THƠ BỐN CÂU
Dưới gốc cây xưa buộc mái bồng∗
Gậy Lê∗ mình chống vượt cầu đông
Mưa hồng hạnh muốn làm xiêm ẩm
Gió liễu đùa tai chả lạnh lùng
■ ∗ Mái bồng: Mui thuyền thường lợp bằng lá gồi, bồng. ∗ Lê: Một loại cây như song, sậy, dùng làm gậy chống.
44
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CHU HI ( 1030 – 1120) Quê ở Vụ Nguyên (Giang Tây) tự là Nguyên Hối, nhà lý
học nổi tiếng thời Tống
CHỢT VIẾT
Trẻ trai dễ lão học khôn thành
Một tấc quang âm chẳng được khinh
Chưa tỉnh giấc mơ xuân cỏ bãi (bến)
Tiếng thu đã động lá ngô xanh.
DẠO THUYỀN
Tối trước sông xuân trời nổi dáng
Thuyền to vùn vụt lướt như phi
Bấy nay đẩy kéo hao bao mẻ
Giờ giữa dòng trôi thoải mái đi.
■
CHU HI
45
LỰU HOA
Ngũ nguyệt lựu hoa chiếu nhãn minh
Chi gian thời hiện tử sơ thành
Khả lân thử địa vô xa mã
Điên đảo thương đài lạc giảng anh.
HOA LỰU
Tháng năm hoa lựu nở trên cành
Thấp thoáng vài ba quả mới thành
Đáng tiếc nơi đây xe ngựa vắng
Ngả nghiêng cánh tía rụng rêu xanh.
■
46
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
QUAN THƯ HỮU CẢM
Bán mẫu phương đường nhất kính khai
Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi
Vân cừ na đắc thanh như hử
Vị hữu nguyên đầu hoạt thuỷ lai.
XEM SÁCH CÓ CẢM XÚC
Nửa mẫu hồ gương ảnh sáng ngời
Trời quang mấy sáng thảy bồi hồi
Hỏi hồ sao được trong như vậy
Vì có đầu nguồn nước chảy xuôi.
■
CHU HI
47
TỰ CẢNH
Thập niên phù hải nhất thân khinh
Quy ngộ Lê Oa khước hưu tình
Thế thượng vô như nhân dục hiểm
Kỷ nhân đáo thử ngộ bình sinh.
TỰ RĂN
Mười năm bãi biển tấm thân khinh
Về gặp Lê Oa∗ lại có tình
Cuộc thế duyên tình nguy hiểm quá
Bao người tới đó lỡ bình sinh.
■ ∗ Lê Oa: Đúng nghĩa là má lúm đồng tiền. nhưng ở đây chỉ tên một ca nữ xinh đẹp là Lê Thanh cũng có má lúm đồng tiền. Chuyện kể Hàn Đạm sau khi bị biếm đày ra biên rồi được ân xá về kinh. Trên đường ghé qua Tương Đàm, được mời dự tiệc rượu. Trong tiệc ượu, Hàn gặp ca nữ Lê Thanh, nhân đó làm bài thơ, trong đó có 2 câu: Quân ân hứa quy thử nhất túy Bảng hưu Lê Giáp sinh Vi Oa. Tạm dịch: Ơn vua được về, dự tiệc rượu Ngồi bên cô gái lúm đồng tiền. Sau này, Chu Hi có việc quan Tương Đàm, biết chuyện và làm bài thơ trên.
48
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN NHẬT
Thắng nhật tầm phương Tứ thủy tân
Vô biên quang cảnh nhất thời tân
Đẳng nhàn thức đắc đông phong diện
Vạn tử thiên hồng tổng thuỵ xuân.
NGÀY XUÂN
Ngày đẹp tìm hoa bến Tứ gần
Mênh mang quang cảnh mới vô ngần
Nơi nơi thấy mặt làn Đông đấy
Muôn tía ngàn hồng thảy thảy xuân.
■
CHU KHÁNH DƯ
49
CHU KHÁNH DƯ Nhà thơ thời Đường
CUNG TRUNG TỪ
Tịch tịch hoa thời bế viện môn,
Mỹ nhân tương tịnh lập quỳnh hiên.
Hàm tình dục thuyết cung trung sự,
Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn.
TRONG CUNG
Lặng lẽ nhìn hoa cửa chặt then,
Sáng nay người đẹp tựa Quỳnh hiên.
Những toan kể chuyện nơi cung điện,
Thấy vẹt bay vào, lại lặng yên.∗
■
∗ - Các cung phi định nói chuyện riêng cung cấm, nhưng thấy con vẹt, lại sợ chúng “nói lại”!
50
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CẬN THÍ TH ƯỚNG TRƯƠNG THUỶ BỘ
Động phòng tạc dạ đình hồng chúc,
Đãi hiểu đường tiền bái cữu cô.
Trang bãi đê thanh vấn phu tế,
Hoạ my thâm thiểm nhập thời vô.
GẦN LÚC THI, DÂNG TRƯƠNG THUỶ BỘ
Động phòng tối trước thôi hồng đuốc,
Đợi sáng lên nhà lậy mẹ cha.
Trang điểm vừa xong hỏi chồng nhỏ,
Vữ mày đậm nhạt hợp thời chưa?
■
CHU TẤT ĐẠI
51
CHU TẤT ĐẠI ( 1126 - 1204)
Quê Lư Lăng (Giang Tây). Tự là Tử Sung,
Hằng Đạo. Hiệu là “Bình nguyên lão nhân”.
Đậu tiến sĩ thời Tống Thiệu Hưng, làm chức Tả
Thừa Tướng.
NHẬP TRỰC
Lục hoè giáp đạo tập lôn nha
Sắc sứ truyền tuyên toạ tứ trà
Qui đáo Ngọc Đường thanh bất mị
Nguyệt câu sơ thướng Tử Vi hoa.
VÀO TRỰC BAN
Hoè xanh bên lối chiều đông qua
Sứ tới truyền cho uống ngự trà
Về điện Ngọc Đường chưa muốn ngủ
Trăng liềm vừa rạng Tử Vi hoa
■
52
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CHU THỤC CHÂN
Còn gọi là Chu Thục Trinh. Quê Tiền Đường (Chiết Giang). Năm tháng sinh chưa rõ. Thời Tống chồng là
nhà buôn.
CUNG SẦU
Tịch tịch sơ liêm quải ngọc lâu
Lâu đầu tân nguyệt khúc như câu
Bất tu vấn ngã tình thâm thiển
Câu động trường thiên viễn thuỷ sầu.
NỖI SẦU
Hiu quạnh rèm thưa rủ ngọc lâu
Đầu lầu trăng mới uốn vòng câu
Tình ta sâu cạn xin đừng hỏi
Trăng động trời xa nước loáng sầu.
■
CHU THỤC CHÂN
CHU THỤC CHÂN
53
TỨC CẢNH
Trúc dao thanh ảnh trạo u song
Lưỡng lưỡng thời cầm táo tịch dương
Tạ khước hải đường phi tận nhứ
Nhàn nhân thiên khí nhật sơ trường.
TỨC CẢNH
Trúc lay bóng mảnh xoà song vắng
Vài tiếng chim nào rộn tịch dương
Từ biệt hải đường bay hết cánh
Người nhàn trời đẹp tứ mênh mang.
■
54
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LẠC HOA
Liên lý chi đầu hoa chính khai
Đố hoa phong vũ tiện tương tồ
Thỉnh giao thanh đế thường vi chủ
Mạc khiển phân phân điểm thuý đài.
HOA RỤNG
Đầu những cành giao hao nở tươi
Ghen hoa mưa gió tới tơi bời
Chúa xuân xin hãy luôn làm chủ
Đừng để làn rêu hứng cánh rơi.
■
CHU THỤC CHÂN
55
CÁC THUỶ NGUYỆT TẠI CHỦ
Vô sự giang đầu lộng bích ba
Phân minh chưởng thượng kiến Hằng Nga
Bất tri Lý Trích tiên nhân tại
Tằng hướng giang đầu tróc đắc ma.
VỐC NƯỚC THẤY TRĂNG Ở TAY
Vô sự đầu sông đùa sóng biếc
Trên tay rành thấy dáng cô Hằng
Chẳng hay Lý Trích tiên khi sống
Từng tới đầu sông bắt đựơc trăng?
■
56
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LỘNG HOA HƯƠNG MÃN Y
Diễm hồng ảnh lý biệt phương phi
Chiêm nhạ xuân phong lưỡng tụ y
Giáp lộ lộ đào hồn dục tiếu
Bất câm phong điệp nhiễu nhân phi
ĐÙA HOA THƠM ĐẦY ÁO
Giữa vùng hồng tía ngát thơm tươi
Thấm đượm làn xuân vạt áo dài
Cạnh lối đào sương như mỉm miệng
Ngăn sao ong bướm lượn quanh người.
■
CỐ HUỐNG
57
CỐ HUỐNG Nhà thơ thời Đường. Người Tô Châu, tự là Bô Ông (ông lẫn), đỗ tiễn sĩ năm 757 (Đường Túc Tông), làm chức Bí thư lang, từng theo đòi việc quan dưới quyền Lý Bật, sau được thăng chức Trước tác lang. Tể tướng Lý Bật mất, vì làm thơ châm biếm, bị đổi đi Châu Nhiêu làm chức Tư hộ Tham quân. Cố đưa gia đình rời đến Mai Sơn, rồi không rõ tung tích, có người nói “đi tu tiên”
CUNG TỪ
Ngọc lâu thiên bán khởi sênh ca,
Phong tống cung tần tiếu ngữ hoà.
Nguyệt điện ảnh khai văn dạ lậu,
Thuỷ tinh liêm quyển cận thu hà.
TRONG CUNG
Ngang trời lầu ngọc nổi đàn ca,
Cung nữ cười vui gió dịu hòa
Trăng sáng đồng hồ nghe động giọt,
Thuỷ tinh rèm cuốn giáp Ngân Hà.
■
58
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÍNH GIÁC T Ư QUY
Cố viên hoàng diệp mãn thanh đài,
Mộng phá thành đầu hiểu giác ai.
Thử dạ đoan trường nhân bất kiến
Khởi hành tàn nguyệt ảnh bồi hồi.
NGHE TIẾNG ỐC NGHĨ NGÀY VỀ
Vườn xưa vàng lá xám rêu dầy
Ốc sớm bên thành tỉnh mộng say
Nẫu ruột đêm này người chả thấy
Bâng khuâng cất bước bóng trăng đầy.
■
CỐ HUỐNG
59
HỒ TRUNG
Thanh Thảo hồ biên nhật sắc đê
Hoàng mao chướng lý giá cô đề
Trượng phu phiêu đãng kim như thử
Nhất khúc trường ca Sở thuỷ tê.
GIỮA HỒ
Thanh Thảo∗ hồ bên nắng xế chiều
Giữa vùng gianh úa∗ giá cô∗ kêu
Trẻ trai phiêu bạt nay như thế
Bến Sở ca∗ dài mấy quạnh hiu.
■
∗ Thanh Thảo: Hồ Thanh Thảo ở phía đông bắc hồ Động Đình, vì khi nước cạn thì đây là bãi cỏ xanh, nên có tên là “Thanh Thảo” ∗ Gianh úa: Cỏ gianh úa do một loại sâu bệnh. ∗ Giá cô (đa đa) là loại chim phương nam, có giọng kêu nghe như “đi không được, ai ơi” (B ắt cô trói cột) ∗ - Sở ca: Bài ca dài ở đây chỉ khúc “Ly tao” của Khuất Nguyên, người nước Sở thời Chiến quốc bị đuổi đi khỏi nước.
60
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÚC CHIÊU ỨNG
Vũ Đế kỳ linh Thái Ất đàn
Tân Phong thụ sắc nhiễu thiên quan
Na tri kim dạ Trường Sinh điện
Độc bế không sơn nguyệt ảnh hàn.
NGỦ TRƯA CHIÊU ỨNG∗
Vũ Đế∗ cầu thiêng Thái Ất đàn
Tân Phong cây cối đẹp non ngàn
Đêm nay đâu biết Trường Sinh điện
Trăng lẻ đồi hoang ánh lạnh tràn.
■
∗ Chiêu Ứng: Ở Tây bắc núi Ly (nay thuộc Thiển Tây), trước gọi là Hội Xương. Thời Đường Huyền Tông (748), có tin đồn Lão Tử ( họ Lý, nhà Đường nhận Lão Tử là Tổ sư) giáng lâm ở gác Tiêu huyền, Cung Hoa Thanh núi Ly, nên đổi là Chiêu Ứng. Huyền Tông dựng đàn ở gác Tiêu Huyền cầu Trường Sinh nhưng rồi bị loạn An Lộc Sơn phá hoại ∗ Xưa Hán Vũ Đế cũng lập đàn Tập Linh ở Hoa Sơn để cầu thần linh.
DÃ TĂNG
61
DÃ TĂNG
NGUYỆT VỊNH*)
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Nhất tự ngân câu nhất tự cung.
Nhất phiết ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thuỷ để, bán phù không
VỊNH TRĂNG
Mồng ba mồng bốn nguyệt mơ mòng
Một tựa vòng câu, một tựa cung.
Hồ ngọc một vầng hai nửa cắt,
Nửa chìm đáy nước, nửa ngang không.
■
*) Bài thơ này có thuyết cho là có liên quan tới bài thơ PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế. Hai câu đầu là của sư cụ chùa Hàn San làm giữa đêm khuya, đến đây bí, nghĩ mãi không ra; được chú tiểu tiếp hai câu sau. Sư cu cho là được Phật Tổ phù hộ, cho dóng chuông tạ ơn . Đó chính là tiếng chuông trong câu “Bán dạ chung thanh đáo khách thuyền” của Trương Kế. (NL chú thích)
62
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DIỆP THÁI ( ? )
Quê Phúc Kiến. Hiệu là Bình Nhan. Có làm quan đời Tống.
MỘ XUÂN TỨC SỰ
Song song ngoã tước hành thư án
Điểm điểm dương hoa nhập nghiễn trì
Nhàn toạ tiểu song độc Chu Dịch
Bất tri xuân khứ kỷ đà thì.
XUÂN MUỘN TỨC CẢNH
Chập chờn đôi sẻ ngang bán lượn
Loáng thoáng hoa dương đĩa mực ngời
Ngồi rỗi bên song đọc Chu Dịch
Chả hay xuân trảy tự bao rồi.
■
DIỆP THÁI
DIỆP THIỆU ÔNG
63
DIỆP THIỆU ÔNG Tự là Đắc Tôn, hiệu là Tĩnh Đạt quê Long
Tuyền (Chiết Giang).
DU TIỂU VIÊN BẤT TRỊ
Ưng hiềm kỹ sỉ ấn thương đài
Thập khấu sài phi cửu bất khai
Xuân sắc mãn viên quan bất trụ
Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai.
ĐẾN CHƠI TRẠI VƯỜN KHÔNG GẶP
Những hiềm dấu dép in rêu xám
Gõ cửa mười phen chín vắng người
Xuân sắc đầy vườn ngăn chả nổi
Một cành hồng hạnh vượt tường chơi.
■
64
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG BỊ Thời Tống
PHONG HỎA ĐÀI
Nhất đới đông lưu đương phức khuyết
Trúc đài tương vọng thủy vân gian
Diễm hoa ưng bất như Bao Tự
Kỷ hửa lang yên đắc phá nhan.
ĐÀI NỔI LỬA∗
Miền đông một dải đang nguy khốn
Đài dựng gần nhau nối suối ngàn
Xinh đẹp đừng như Bao Tự nhé!
Mấy rồi khói lửa xém hồng nhan.
■
∗ - Thời xưa có lệ, nếu có giặc ngoại xâm, thì đắp dựng cài cao, đốt lửa, báo cho các nước láng giềng tới cứu viện.
DƯƠNG BỊ
65
TÀM THẤT
Trích kiển trừu ty nữ tại ky
Mao thiềm vi bạc cựu đường phi
Niên niên tang thác như vân lục
Phiên chức thùy gia cẩm địa y.
NHÀ TẰM
Nhặt kén ươm tơ cô gái dệt
Mái xưa cỏ bái với rèm lau
Năm năm dâu duối như mây biếc
Áo gấm chuyên may đẹp chốn nào?
■
66
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG CỰ NGUYÊN ( ? )
Quê Đường Phố (Sơn Tây). Đậu tiến sĩ thời Đường Trịnh Nguyên.
HOẠ LUYỆN TÚ TÀI DƯƠNG LIỄU
Thuỷ biên dương liễu lục yên ti
Lập mã phiền quân chiết nhất chi
Duy hữu xuân phong tối tương tích
Ân cần cánh hướng thủ trung xuy.
HOẠ BÀI THƠ “DƯƠNG LIỄU” CỦA
TÚ TÀI HỌ LUYỆN
Bên bờ dương liễu tơ buông thắm
Xin một cành xanh duổi ngựa về
Chỉ có gió đông là luyến tiếc
Quanh tay cầm liễu vẫn theo đi.
■
DƯƠNG CỰ NGUYÊN
67
THÀNH ĐÔNG TẢO XUÂN
Thi gia thanh cảnh tại tân xuân
Lục liễu tài hoàng, bán vị quân
Nhược đãi Thượng Lâm∗ hoa tự cẩm
Xuất môn câu thị khán hoa nhân
XUÂN SỚM MIỀN ĐÔNG THÀNH PHỐ
Xuân về cảnh đẹp mắt thi gia
Lá liễu xanh vàng sắc chớm pha
Nếu đợi Thượng Lâm hoa tựa gấm
Ra đường chỉ gặp khách xem hoa.
■
∗ Thượng Lâm: Tên vườn hoa của vua Tần (Thiểm Tây) được vua Hán mở rộng. Có chỗ dùng để nhà vua săn bắn.
68
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG VẠN LÝ ( 1124 - 1206)
Quê Cát Thuỷ. Hiệu là Thành Trai. Có làm quan thời Tống. Bạn thân của Lục Du, Phạm Thành Đại v.v.
THƯƠNG XUÂN
Chuẩn nghĩ kim xuân lạc sự nồng
Y nhiên uổng khước nhất đông phong
Niên niên bất đới khan hoa nhãn
Bất thị sầu trung tức bệnh trung.
THƯƠNG XUÂN
Cứ ngỡ xuân nay thú lạ lùng
Nào ngờ để uổng cả làn Đông
Năm năm đều đặn xem hoa đẹp
Sầu cũng không mà ốm cũng không.
■
DƯƠNG VẠN LÝ
69
HIỂU HÀNH ĐẠO BÀNG ĐỖ QUYÊN HOA
Khấp lộ đề hồng tái mố sinh
Khai thời thiên trị đỗ quyên thành
Đỗ quyên khẩu huyết năng đa thiểu
Bất thị chinh nhân lệ trích thành.
HOA ĐỖ QUYÊN BÊN ĐƯỜNG SỚM
Khóc thắm gào sương nỗi đã rành
Quyên kêu đúng lúc nở hoa xinh
Đỗ quyên gào máu nhiều không nhỉ
Hay lệ chinh phu đỏ rọng thành.
■
70
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HẠ THUỴ KHỞI
Mai tử lưu toàn tiện sỉ nha
Ba tiêu phân lục thướng song sa
Nhật trường thuỵ khởi vô tình tứ
Nhàn khán nhi đồng tróc liễu hoa.
SAU GIẤC NGỦ NGÀY HÈ
Chảy thêm nước miếng ngó mai già
Tàu chuối xanh xanh rợp mái nhà
Ngủ dậy ngày dài tình tứ rỗng
Rỗi nhìn đàn trẻ đuổi săn hoa.
■
DƯƠNG VẠN LÝ
71
TIỂU TRÌ
Tuyền nhãn vô thanh tích tế lưu
Thụ âm chiếu thuỷ ái tình nhu
Tiểu hà tài lộ tiêm tiêm giốc
Tảo hữu thanh đình lập thượng đầu.
AO CON
Không làn gợn nhỏ mặt sao sâu
Bóng nước hình cây cảnh rõ màu
Sen búp thon thon vừa nhú ngọn
Chuồn chuồn sớm đã đậu trên đầu.
■
72
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÚC TÂN TH Ị TỪ CÔNG ĐIẾM
Ly lạc sơ sơ nhất kính thâm
Thụ đầu hoa lạc vị thành âm
Nhi đống cấp tẩu truy hoàng điệp
Phi nhập thái hoa vô xứ tầm.
QUA ĐÊM TẠI CỬA HÀNG ÔNG TỪ CHỢ MỚI
Dâu thưa heo hút ngõ mòn sâu
Hoa rụng nên cây chửa rợp mầu
Lũ trẻ chạy ào săn đuổi buớm
Bay vào vườn cải biết tìm đâu.
■
DƯƠNG VẠN LÝ
73
HIỂU XUẤT TĨNH TỪ TỰ TỐNG LÂM TƯ PHƯƠNG
Tất kính Tây hồ lục nguyệt trung
Phong quang bất dữ tứ thời đồng
Tiếp thiên liên diệp vô cùng bịch
Ánh nhật hà hoa biệt dạng hồng.
SÁNG RA CHÙA T ỊNH TỪ TIỄN LÂM TƯ PHƯƠNG
Tháng sáu Tây hồ gương sáng trong
Bốn mùa phong cảnh khác vô cùng
Lá sen xanh biếc chân trời thẳm
Đẵm nắng hoa sen đỏ lạ lùng.
■
74
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG PHÁC ( 921 - 1003)
Quê Tân Trịnh (Hà Nam). Tự là Khế Nguyên. Hiệu là Đông Dã dật dân - Thời Tống. Ở ẩn.
THẤT TỊCH
Vị hội Khiên Ngưu ý nhược hà
Chỉ tu Chức Nữ lộng kim thoa
Niên niên khất giữ nhân gian sảo
Bất đạo nhân gian sảo dĩ đa.
ĐÊM RẰM THÁNG 7
Chưa rõ Ngưu Lang nghĩ thế nào
Chỉ cần Chức Nữ dẻo tay thêu
Năm năm giúp khéo trần gian mãi
Chả kể nhân gian khéo đã nhiều.
■
DƯƠNG PHÁC
DƯƠNG SĨ NGẠC
75
DƯƠNG SĨ NGẠC Quê ở Thái Sơn (Sơn Đông). Năm 735 đỗ tiến sĩ. Thời Đường Thuận Tông, làm chức Tuần tra châu Tuyên (An Huy). Vì tính tình nóng nảy, trái ý quyền thần Vương Thúc Văn, bị dời làm chức Uý Ninh Hoá (Phúc Kiến). Năm 807 được tể tướng Lý Cát Phủ tiến cử làm chức Giám sát ngự sử, nhưng sau đó lại xung đột với Tể tướng, bị biếm làm Thứ sử châu Tư (Tứ Xuyên).
ĐĂNG LÂU ∗
Hoè liễu tiêu sơ nhiễu quận thành
Dạ thiêm sơn vũ tác giang thanh
Thu phong nam mạch vô xa mã
Độc thướng cao lâu cố quốc tình.
LÊN LẦU
Hoè liễu đìu hiu khắp quận thành
Đêm nghe mưa núi ngỡ sông dềnh
Gió thu xe ngựa bờ nam vắng
Nước cũ lầu cao diệu vợi tình.
■
∗ Có thể đây cũng là bài thơ Dương viết ở châu Tư nơi Dương làm việc quan.
DƯƠNG SỸ NGẠC
76
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
QUẬN TRUNG TỨC SỰ∗
Hồng y lạc tận án hương tàn
Diệp thượng thu quang bạch lộ hàn
Việt nữ hàm tình dĩ vô hạn
Mạc giao trường tụ ỷ lan can.
CẢM HỨNG NƠI DỊCH SỞ
Xiêm hồng∗ rơi hết thoáng hương tàn
Trên lá màu thu móc lạnh tràn
Gái Việt∗ tình thầm kể khôn xiết
Đừng thêm vạt múa∗ tựa lan can.
■
∗ Bài thơ có thể viết khi tác giả làm việc ở quận Tư Dương ( Tứ Xuyên) ∗ Xiêm hồng: Ở đây chỉ cánh hoa sen. ∗ Gái Việt: Việt là tỉnh Chiết Giang, nơi nhiều phụ nữ xinh đẹp. Ở đây, là những ca nhi, vũ nữ dự tiệc ở quận (châu Từ). ∗ Vạt múa: Loại áo múa.
ĐOÀN THÀNH THỨC
77
ĐOÀN THÀNH THỨC ( ? - 863)
Người quê ở Lâm Trung, Châu Tề (Sơn Đồng), biểu tự là Kha Cổ. Vì là con Tể tướng thời Đường Mục Tông là Đoàn Văn Xương, nên nhờ công lao của cha mà được bổ nhiệm chức quan Hiệu Thư Lang, rồi Thượng Thư Lang, rồi Thứ Sử châu Cát (tỉnh Giang Tây), Thái Thường Thiếu Khanh. Ông học rộng biết nhiều. Có tập tuỳ bút “ Đậu Dương Tạp Trở” r ất nổi tiếng.
CHIẾT DƯƠNG LIỄU
Chi chi giao ảnh toả Trường Môn
Nộn sắc tằng chiêm vũ lộ ân
Phượng liễn bất lai xuân dục tận
Không lưu oanh ngữ đáo hoàng hôn.
►
78
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BẺ CÀNH DƯƠNG LIỄU∗
Cành cành giao bóng khoá Trường Môn
Mưa móc đòi phen thấm lá non
Kiệu Phượng∗ không qua xuân muốn hết
Tiếng oanh suống giọng tới hoàng hôn.
■
∗ Bẻ dương liễu: Tên một bài hát trong nhạc phủ. Bài này với nội dung tả nỗi buồn than của Trần Hoàng hậu bị ruồng bỏ, giam hờ ở cung Trường Môn. Sau bà cho người tặng Tư Mã Tương Như một ngàn lạng vàng, nhờ Tương Tư viết bài “Phú Trường Môn”. Bởi vậy, lại được Hán Vũ Đế chiều chuộng hơn trước. Đây là một trong bẩy bài thơ của Đoàn lấy tên điệu nhạc phủ này. ∗ Kiệu Phượng: Kiệu có chạm vẽ chim phượng hoàng, dùng cho nhà vua.
ĐỖ LỖI
79
ĐỖ LỖI Quê Lâm Xuyên (Chiết Giang). Tự là Tử Dã. Hiệu là Tiểu Dã. Bạn học cùng Vương An Thạch thời Tống.
HÀN DẠ
Hàn dạ khách lai trà đáng tửu
Trúc lô thang phí hoả sơ hồng
Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt
Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.
ĐÊM LẠNH
Đêm lạnh khách thăm chè thế rượu
Bếp lò đun nước lửa đang hồng
Ngoài song trăng vẫn thường như trước
Chỉ có hoa mai khác lạ lùng
■
80
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỖ MỤC (803 – 852) Đời Đường có 2 đôi “Lý Đỗ” – một là Lý Bạch và Đỗ Phủ - hai là Lý Thường và Đỗ Mục. Người ta còn gọi Đỗ Mục là “Tiểu Đỗ”.
CẢM HOÀI
Lạc phách giang hồ tải tửu hành,
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
Doanh đắc thanh lâu bạc hạnh danh.
CẢM HOÀI
Phiêu bạt hồ sông rượu áp bình,
Lưng eo∗ gái Sở sẵn bên mình.
Mười năm tỉnh giấc Dương Châu mộng,
Kiếm được lầu xanh tiếng “bạc tình”.
■ ∗ - Lưng eo: Vua nước Sở ngày xưa chỉ kén những cô gái lưng eo vào cung.
ĐỖ MỤC
ĐỖ MỤC
81
DẠ BẠC TẦN HOÀI
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa.
ĐÊM ĐỖ BẾN TẦN HOÀI
Nước lồng khói lạnh cát trắng nhoà,
Đêm đậu Tần Hoài cạnh tửu gia
Cô gái chả hay hờn mất nước,
Cách sông còn hát Hậu đình hoa∗.
■
∗ - Hậu đình hoa: Một sáng tác của Trần Hậu chủ - lời ca uỷ mị,
82
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
GIANG NAM XUÂN
Thiên lý oanh đề lục ánh hồng
‘Thuỷ thôn sơn quách tửu kỳ phong
Nam triều∗ tứ bách bát thập tự
Đa thiểu lâu đài yên vũ trung.
XUÂN GIANG NAM
Ngàn dặm oanh kêu thắm điểm hồng
Cờ bay quán rượu gió thôn sông
Bốn trăm tám chục chùa Nam ấy
Lầu gác trong mưa loáng khói lồng.
■
∗ Nam triều: Gồm các triều Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần
ĐỖ MỤC
83
KIM C ỐC∗ VIÊN
Phồn hoa sự tán trục hương trần,
Lưu thuỷ vô tình thảo tự xuân.
Nhật mộ đông phong oán đề điểu,
Lạc hoa do tự truỵ lâu nhân∗.
VƯỜN KIM CỐC
Phồn hoa hết chuyện nhạt hương trầm,
Nước chảy vô tình cỏ tự xuân.
Ngày tới gió đông chim khắc khoải,
Hoa rơi còn tựa gái gieo thân.
■
∗ Kim Cốc: Tên vườn hoa của Thạch Sùng, nhà giàu có bậc nhất đời Tấn. ∗ Truỵ lâu nhân: Người nhảy lầu – đây nói về chuyện Lục Châu một kỹ nữ của Thạch Sùng nhảy lầu quyên sinh để biểu thị tình yêu chung thuỷ.
84
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KÝ DƯƠNG CHÂU HÀN XƯỚC PHÁN QUAN
Thanh sơn ẩn ẩn thuỷ thiều thiều,
Thu tận Giang Nam thảo mộc điêu.
Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ,
Ngọc nhân hà xứ giáo xuy tiêu.
GỬI PHÁN QUAN HÀN XƯỚC Ở CHÂU DƯƠNG
Thấp thoáng non xanh nước dập dìu,
Giang Nam thu hết nội đìu hiu.
Hai mươi bốn nhịp cầu trăng sáng,
Người ngọc nơi nào rộn tiếng tiêu.
■
ĐỖ MỤC
85
QUÁ HOA THANH CUNG
Trường An hồi vọng tú thành đôi,
Sơn đỉnh thiên môn thứ đệ khai.
Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu,
Vô nhân tri thị lệ chi lai.
ĐI QUA CUNG HOA THANH ∗
Trường An ngó lại gấm hoa bời,
Đỉnh núi ngàn song mở bốn trời.
Vó ngựa bụi hồng, Nàng∗ mỉm miệng,
Không ai hay biết vải về rồi.
■
∗ Hoa Thanh: Tên cung điện ở núi Ly, nơi Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi thường tới đó tắm suối nước nóng. ∗ Nàng: Ở đây là Dương Quý Phi, mỉm miệng cười khi thấy người chạy ngựa khoẻ để đưa kịp vải ngon về tiến.
86
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SƠN HÀNH
Viễn thướng hàn sơn thạch kính tà,
Bạch vân sinh xứ hữu nhân gia.
Đình xa toạ ái phong vân lãm,
Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa.
ĐƯỜNG NÚI
Lối đá chênh leo núi lạnh xa,
Ở nơi mây trắng có ngôi nhà.
Dừng xe hóng gió rừng phong tối,
Lá đẵm sương hồng tựa cánh hoa.
■
ĐỖ MỤC
87
TẶNG BIỆT
Đa tình khước tự tổng vô tình,
Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.
Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
Thế nhân thuỳ lệ đáo thiên minh.
TẶNG BIỆT
Nhiều tình mà lại tựa vô tình,
Cười gượng bên li cũng chả thành.
Nến sáp có lòng thương tiếc biệt,
Thay người lệ nhỏ mãi tàn canh.
■
88
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÁN HOA
Tự thị tầm phương khứ hiệu trì,
Bất tu trù trướng oán phương thì.
Cuồng phong lạc tận thâm hồng sắc,
Lục diệp thành âm, tử mãn chi.
THAN HOA
Tự biết tìm hoa lỡ chậm chầy,
Chả nên ngao ngán oán hương bay.
Gió đông rụng hết màu tươi đỏ,
Lá thắm um tùm quả trĩu cây.
■
ĐỖ MỤC
89
THANH MINH
Thanh minh thời tiết vũ phân phân
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tửu gia hà xứ thị
Mục đồng dao chỉ Hạnh hoa thôn.
TIẾT THANH MINH
Thanh minh thời tiết bụi mưa phùn
Khắp nẻo người đi muốn đứt hồn
Xin hỏi nơi đâu là quán rượu
Trẻ chăn xa chỉ Hạnh hoa thôn.
■
90
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THU TỊCH
Ngân chúc thu quang lãnh hoạ bình,
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh.
Thiên gia dạ sắc lương như thuỷ,
Toạ khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh.
ĐÊM THU
Đuốc bạc màu thu lạnh hoà bình,
Nhẹ xua quạt lụa đóm bay quanh.
Bầu trời đêm mát như màu nước,
Chức Nữ Khiên Ngưu ngắm thoả tình.
■
ĐỖ MỤC
91
XÍCH BÍCH HOÀI C Ổ
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều.
NHỚ CHUYỆN XƯA Ở XÍCH BÍCH
Sáo gãy chìm sông chưa rỉ sắt,
Rửa lau tìm lại dấu tiền triều.
Chàng Chu∗ chả được làn đông giúp,
Đồng Tước∗ cung sâu khoá nhị Kiều∗.
■
∗ Chàng Chu: Chu Du, Đại đô đốc của Đông Ngô thời Tam quốc. ∗ Đồng Tước: Tên đài do Tào Tháo xây dựng. ∗ Nhị Kiều: Hai chị em nàng Kiều - Chị là vợ Tôn Sách vua Đông Ngô, em gái là vợ Chu Du. Truyền thuyết, Táo Tháo xây đài Đồng Tước để khi nào đánh thắng Đông Ngô thì sẽ đưa hai nàng Kiều về đó. Hai chị em họ Kiều.
92
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỖ PHỦ (712 - 770)
Tên tự là Tử Mỹ, cháu nội Đỗ Thẩm Ngôn, người Kinh Triệu (có thuyết nói người Tương Dương). Lúc trẻ nhà nghèo túng, đi chơi các nơi, rồi về dự thi ở Trường An, không đỗ. Năm 755 được cử giữ chức Tham quân, ông đưa vợ con đi chơi Phụng Tiên (Thiểm Tây). Loạn An Lộc Sơn, ông tham gia đạo quân của Túc Tông ở Linh Vũ (Ninh Hạ), bị quân giặc bắt, giam tại Trường An. Năm sau, ông cải trang trốn thoát, tới yết kiến Đường Túc Tông ở Phượng Tường (Thiểm Tây), được trao chức Tả Thập Di. Dẹp loạn xong, vì tính hay nói thẳng bị quyền thần ghét, chuyển làm Tham quân ở Hoa Châu (Thiểm Tây). Vì năm đói kém, ông bỏ quan, đưa vợ con đi lưu lạc, rời nhà tới Tần Châu (Tam Cúc). Được Nghiêm Vũ giúp đỡ, nhưng không được bao lâu. Năm 765 ông lại bỏ đi, xuôi dòng Đại Giang (Trường Giang) tới Quỳ Châu (Tứ Xuyên). Ba năm sau lại từ Hồ Bắc về Trường An, rồi lại từ Nhạc Dương đi Tương Giang (Miền Nam), và qua đời trên đò dọc đường.
ĐỖ PHỦ
93
BẦN GIAO HÀNH ∗
Phiên thủ tác vân phú thủ vũ
Phân phân khinh bạc hà tu số
Quân bất kiến: Quản Bão∗ bần thời giao
Thử đạo kim nhân khí như thổ.
HÀNH KHÚC BẠN LÚC NGHÈO
Làm mây tay sấp làm mưa ngửa
Thói đời bạc bẽo kể chi nữa
Người thấy chăng: Quản Bão bạn nghèo
Kiểu ấy nay rẻ như bùn vữa.
■
∗ Năm 752 Đỗ Phủ sống ở Trường An, sinh hoạt túng thiếu, ít được giúp đỡ. ∗ Quản Bão: Quản Trọng và Bão Thúc Nha, hai người cùng làm tướng cho Tề Hoàn Công. Lúc trẻ nghèo túng chơi với nhau, cùng buôn chung, nhưng khi chia phần lãi, bao giờ Bão cũng nhận số ít, nhường cho Quản Trọng nghèo hơn và còn phải nuôi mẹ già.
94
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
GIẢI MUỘN
Nhất từ cố quốc kỷ kinh thâu
Mỗi kiến thu qua ức cố khâu
Kim nhật nam hồ thái vi quyết∗
Hà nhân vị mịch Trịnh qua châu∗.
GIẢI SẦU
Một từ quê cũ mấy thu qua∗
Mỗi thấy dưa thu lại nhớ nhà
Giờ ở Nam Hồ∗ hái rau ngót
Dưa châu Trịnh ấy hỏi giùm ta.
■
∗ Vi quyết: Nói chung các thứ rau thường ngày. ∗ Trịnh Qua Châu:
1. Trịnh Thẩm, làm Bí Thư giám (coi thư viện), kiêm Thiếu doãn Giang Lăng (thuộc tỉnh Hồ Bắc), bạn của Đỗ. 2. Ở Nam Trường An có trang trại gọi là Qua Châu (làng dưa), nơi ở của nhà thơ Trịnh Kiên, cùng họ với Thẩm.
Qua Châu: Có sách ghi Viên Châu. Vì Trịnh Thẩm có thời kỳ làm Thứ sử châu Viên ∗ Lúc này Đỗ Phủ đang ở Châu Quỳ Đời Hán có ông Đông Lăng trồng dưa ở phía ngoài cửa đông Trường An. Thời đó dưa Đông Lăng có tiếng rất ngon. Quê Đỗ Phủ cũng ở Trường An, nên nhớ tới dưa. ∗ Nam Hồ: Có thể là tên chung, các nơi thường có tên hồ như thế.
ĐỖ PHỦ
95
GIANG NAM PHÙNG LÝ QUY NIÊN
Kỳ vương trạch lý tầm thường kiến,
Thôi Cửu đường tiền kỷ độ văn.
Chính thị Giang Nam hảo phong cảnh,
Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân.
GẶP LÝ QUY NIÊN Ở GIANG NAM
Phủ lớn Kỳ vương luôn hội ngộ,
Trước dinh Thôi Cửu mãi đàn sênh.
Giang Nam phong cảnh bao kỳ đẹp,
Hoa rụng đang mùa lặi gặp anh.
■
96
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÂM GIANG T ỐNG HẠ TIÊM
Bi quân lão biệt lệ triêm cân,
Thất thập vô gia vạn lý thân.
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.
BÊN SÔNG TIỄN HẠ TIÊM
Thương ông già lão lệ đằm khăn,
Bảy chục không nhà, vạn dặm thân.
Buồn thấy thuyền đi gió lại nổi,
Bạc đầu sóng cuốn bạch đầu nhân.
■
ĐỖ PHỦ
97
MẠN HỨNG
Trường đoạn xuân giang dục tận đầu, Trượng lê trừ bộ lập Phương Châu. Điên cuồng liễu nhứ tuỳ phong vũ, Khinh bạc đào hoa trục thuỷ lưu.
HỨNG VUI TẢN MẠN (1)
Ngán ngẩm sông xuân mãi tận đâu,
Gậy lê chậm rãi dạo Phương Châu.
Điên cuồng tơ liễu ngang làn múa,
Nênh nổi hoa đào nước cuốn mau.
HỨNG LAN MAN [HỨNG VUI TẢN MẠN (2)]
Tìm ngọn sông xuân dạ não sầu,
Gậy lê chậm rãi dạo Phương Châu.
Điên cuồng tơ liễu theo mưa gió,
Lờ lững hoa đào nước quyện nhau.
■
98
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẶNG HOA KHANH
Cẩm thành ty quản nhật phân phân
Bán nhập giang phong bán nhập vân
Thử khúc chỉ ưng thiên thượng hữu
Nhân gian năng đắc kỷ hồi văn
TẶNG HOA KHANH ∗
Thành Cẩm∗ đàn tơ sớm tối ngân
Nửa sông vào gió nửa mây vần
Nhạc này chỉ dạo trên thiên giới
Hỏi mấy ai nghe ở cõi trần
■
∗ Hoa Khanh: Tên ca nữ. Có thuyết nói là Hoa Kính Định, một viên tướng, nhân có công dẹp loạn rồi cậy thế đàn hát tiệc tùng quá mức. ∗ Thành Cẩm: Mội tên gọi khác của Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên.
ĐỖ PHỦ
99
TẶNG LÝ BẠCH
Thu lai tương cố thượng phiêu bồng,
Vị tựu đan sa quý Cát Hồng.
Thống ẩm cuồng ca không độ nhật,
Phi dương bạt hỗ vị thuỳ hùng.
TẶNG LÝ BẠCH
Thu về lại gặp vẫn thân bồng,
Thuốc luyện chưa nên thẹn Cát Hồng∗.
Uống thoả, ca cuồng, suông sớm tối
Nghênh ngang bay nhảy vị ai hùng?
■
∗ Cát Hồng: Tên một đạo sĩ, giỏi về thuốc, có phép trường sinh. Thời Đường có hai cặp nhà thơ được gọi là Lý Đỗ
Một là: Lý Bạch và Đỗ Phủ Hai là: Lý Thương Ẩn và Đỗ Mục – (Đỗ Mục còn
được gọi là Tiểu Đỗ).
100
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THƯ ĐƯỜNG ẨM KÝ D Ạ, PHỤC YÊU LÝ TH ƯỢNG THƯ HẠ MÃ NGUYỆT
HẠ PHÚ TUYỆT CÚ
Hồ nguyệt lâm phong tương dữ thanh
Tàn tôn hạ mã phục đồng khuynh
Cửu biền dã hạc như song mấn
Già mạc lân kê hạ ngũ canh.
UỐNG RƯỢU Ở PHÒNG SÁCH TRỜI ĐÃ TỐI, LẠI MỜI THƯỢNG
THƯ HỌ LÝ∗ XUỐNG NGỰA CÙNG UỐNG RƯỢU VIẾT THƠ
Rừng gió hồ trăng cảnh rất thanh
Rượu tàn xuống ngựa lại nghiêng bình
Bồng đôi mái tóc như lông hạc
Chả kể thôn gà gáy rộn canh.
■
∗ Thượng thư họ Lý: Tên là Chi Phương.
ĐỖ PHỦ
101
TRÙNG TẶNG TRỊNH LUYỆN
Trịnh tử tương hành bãi sứ thần
Nang vô nhất vật hiến tôn thân
Giang sơn lộ viễn cơ ly nhật
Cừu mã thuỳ vi cảm khích nhân.
LẠI TẶNG TRỊNH LUYỆN∗
Anh Trịnh sắp đi, chào sứ thần
Túi không một vật biếu hai thân
Núi sông khách trọ đường xa ngái
Giàu có ai người thấy động tâm.
■
∗ Trịnh Luyện: Có thể quê ở Tương Dương, làm chức quan nhỏ ở Thành Cẩm. Lúc này từ quan, đời sống thanh bạch.
102
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TUYỆT CÚ
Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.
Song tiền Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.
THƠ 4 CÂU
Hai chiếc oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh.
Song mờ Tây Lĩnh∗ ngàn năm tuyết,
Cổng đậu Đông Ngô∗ vạn dặm mành∗.
■
∗ Tây Lĩnh: Tức núi Mân ∗ Đông Ngô: Phía đông Trường Giang – Một trong ba nước thời Tây Thục ∗ Mành: Thuyền to.
ĐỖ THẨM NGÔN
103
ĐỖ THẨM NGÔN (646 – 708)
Người Kinh Triệu (Có sách nói là người Tương Dương), tự là Tất Giản, ông nội của Đỗ Phủ, đỗ tiến sĩ năm 670, làm chức Uý ở Thấp Thành (tỉnh Sơn Tây) rồi làm chức Thừa ở Lạc Dương. Vì có lỗi phải giáng làm Tham quân tư hộ châu Cát, nhưng được Võ Tắc Thiên biết tài và được Trương Dịch Chi nâng đỡ, lại được làm Trước tác tá lang, rồi Thiện bộ viên ngoại lang. Khi Dịch Chi bị giết, phải đầy ra Châu Phong (Việt Nam). Sau được tha lỗi, về làm Chủ bạ Quốc Tử Giám rồi Tu văn quán Trực học sĩ.
ĐỘ TƯƠNG GIANG ∗
Trì nhật viên lâm bi tích thu Kim xuân hoa điểu tác biên sầu Độc lân Kinh quốc nhân nam thoán Bất tự Tương giang thuỷ bắc lưu.
QUA SÔNG TƯƠNG
Vườn ngự năm xưa nhớ chuyến chơi Xuân giờ biên ải cỏ hoa ngùi Sang nam thương nỗi người Kinh Triệu∗ Chả giống dòng Tương phía bắc trôi.
■ ∗ Bài làm khi sang Châu Phong. ∗ Kinh Triệu: Kinh đô, Đỗ là người Đỗ Lăng, Trường An.
104
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÝ TẶNG TRIỆU SỨ QUÂN MỸ NHÂN
Hồng phấn thanh nga ánh Sở vân Đào hoa mã thượng thạch lưụ quần La Phu độc hướng đông phương khứ Mạn học tha gia tác sứ quân.
ĐÙA TẶNG NGƯỜI ĐẸP NHÀ SỨ QUÂN HỌ TRIỆU
Người đẹp má hồng mây Sở∗ rạng
Ngựa hoa đào∗ mượt thạch lựu quần∗
La Phu∗ đi lẻn về đông đấy Hãy học làm như Triệu sứ quân∗.
■ ∗ Mây Sở: Mây mưa – làm tình, chuyện thần nữ núi Vu gặp vua Sở ∗ Ngựa hoa đào: Ngưạ đóng yên màu trắng và đỏ ∗ Thạch lựu quần: Quần mầu hoa thạch lựu. ∗ La Phu: Tên vợ Vương Nhân, làm chức lệnh nhà Triệu Vương thời Chiến quốc. La phu họ Tần, người Hàm Đan, thường hái dâu trong rừng, vua Triệu muốn cướp lấy làm vợ, La phu bèn làm bài ca “Dâu đầu bờ” rồi gảy đàn và hát. Bài hát hết sức ca ngợi chồng mình. Trong có câu thơ: “ Sứ quân tự có vợ / La phu tự có chồng”. Vua Triệu bèn thôi. ∗ Triệu sứ quân: Sứ quân là một chức quan đứng đầu châu.
ĐỖ TUÂN HẠC
105
ĐỖ TUÂN HẠC
TÁI KINH H Ồ THÀNH HUY ỆN
Khứ tuế tằng kinh thử huyện thành,
Huyện dân vô khẩu bất oan thanh,
Kim lai huyện tể gia chu phất.
Tiện thị sinh linh huyết nhiễm thành.
LẠI QUA HUYỆN HỒ THÀNH
Năm trước từng qua chốn huyện thành,
Kêu oan khắp nẻo tiếng dân lành.
Năm nay quan huyện thêm tua đỏ∗,
Hẳn máu người dân đã nhuộm thành.
■
∗ Thêm tua đỏ: Ý nói được thăng quan tiến chức
106
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỚI THÚC LUÂN Quê Kim Đàn (Giang Tô) vì tránh loạn, dời nhà sang Phiên Dương. Chuyên chú học vấn, từng là học trò Tiêu Dĩnh Sĩ. Năm 800 đỗ tiến sĩ, làm Thứ sử châu Phủ (Giang Tây), được dân các nơi ca ngợi là cai trị tốt. Về sau, xin từ chức, làm Đạo sĩ.
DẠ PHÁT VIÊN GIANG KÝ LÝ D ĨNH XUYÊN LƯU THỊ LANG
Bán dạ hồi châu nhập Sở hương
Nguyệt minh sơn thuỷ cộng thương thương
Cô viên cánh khiếu thu phong lý
Bất thị sầu nhân diệc đoạn trường.
ĐÊM TỪ SÔNG VIÊN∗ GỬI LÝ DĨNHXUYÊN VÀ THỊ LANG HỌ LƯU
Giữa tối quay đò vào đất Sở
Trăng soi sông núi biếc mênh mang
Gió thu vượn lẻ ngân dài hú
Người chẳng buồn thương cũng nát gan.
■
∗ - Sông Viên: Ở phía tây tỉnh Giang Tây.
ĐỚI THÚC LUÂN
GIẢ CHÍ
107
GIẢ CHÍ Tự Ấu Lân (hoặc Ấu Cơ), người Lạc Dương (Hà Nam), đỗ khoa Minh Kinh 753. Làm chức Xá Nhân, Tri chế cáo. Khi An Lộc Sơn làm loạn, ông theo Huyền Tông vào Thục, phụng mệnh viết chiếu văn truyền ngôi cho Túc Tông. Vì phạm tội, phải đầy đi Ba Lăng Hà Nam), Giả đã gặp Lý Bạch ở đây. Năm 770 ông được nhận chức Doãn Kinh Triệu kiêm Ngự Sử Đại phu, rồi Hữu Tán Ky Thường Thị.
NHẠC DƯƠNG LÂU TRÙNG YẾN VƯƠNG BÁT VIÊN NGO ẠI BIẾM TRƯỜNG SA
Giang lộ đông liêu thiên lý triều
Thanh vân bắc vọng Tử Vi∗ diêu
Mạc đạo Ba Lăng hồ thuỷ khoát
Trường Sa nam bạn cánh tiêu điều.
►
∗ - Tử Vi: (1) Tên sao (2) Chỉ kinh đô, nơi vua ở
108
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÊN LẦU NHẠC DƯƠNG∗ MỞ TIỆC TIỄN VIÊN NGOẠI HỌ VIÊN BỊ BIẾM ĐI
TRƯỜNG SA
Sông chảy về đông vạn dặm triều
Kinh kỳ bắc ngó cách mây đèo
Đừng bảo Ba Lăng hồ nước rộng
Nam Trường Sa∗ ấy quá đìu hiu.
■
∗ Lầu Nhạc Dương: Ở trên cửa tây thành Nhạc Dương. Nơi này gần hồ Động Đình. ∗ Trường Sa: Cách Nhạc Dương và Động Đình khoảng 150 km về phía nam
GIẢ CHÍ
109
SƠ CHỈ BA LĂNG∗ DỮ LÝ TH ẬP NHỊ∗ BẠCH ĐỒNG PHIẾM ĐỘNG ĐÌNH HỒ
Phong ngạn phân phân lạc diệp đa
Động Đình thu thuỷ vãn lai ba
Thừa hứng kinh châu vô cận viễn
Bạch vân minh nguyệt điếu Tương Nga∗
MỚI ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÝ BẠCH
CHƠI THUYỀN HỒ ĐỘNG ĐÌNH
Xao xác cành phong lá ngợp bờ
Động Đình chiều xuống sóng thu xa
Đò nhẹ gần xa theo hứng thú
Trăng vàng mây trắng nhớ Tương Nga.
■
∗ Ba Lăng: Tức Nhạc Dương ∗ Thập nhị: Có thể Lý Bạch là con thứ 12 hoặc là xếp thứ 12 trong số anh em kết nghĩa ∗ Tương Nga: Nữ thần hồ Động Đình, vốn là con gái vua Nghiêu, vợ vua Thuấn
110
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÂY ĐÌNH ∗ XUÂN VỌNG
Nhật trường phong noãn liễu thanh thanh
Bắc nhạn quy phi nhập diểu minh
Nhạc Dương thành thượng văn xuy địch
Năng sử xuân tâm mãn Động Đình.
MÙA XUÂN Ở TÂY ĐÌNH NGẮM CẢNH
Ngày dài gió ấm liễu xanh xanh
Nhạn bắc bay sang ngó chả rành
Nhạc dương nghe sáo trên thành nổi
Những khiến lòng xuân rộn Động Đình. ■
∗ Tây Đình: Ở phía tây thành Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam
GIẢ CHÍ
111
TỐNG LÝ TH Ị LANG PHÓ THƯỜNG CHÂU
Tuyết tình vân tán bắc phong hàn, Sở thuỷ Ngô sơn đạo lộ nan. Kim nhật tống quân tu tận tuý, Minh triêu tương ức lộ man man
TIỄN LÝ* THỊ LANG ĐI CHÂU THƯỜNG* (1)
Tuyết lạnh mây tan gió bấc hàn,
Núi Ngô sông Sở lối gian nan.
Tiễn anh nay hãy say thêm nữa,
Mai nhớ mong nhau lối dặm ngàn.
TIỄN THỊ LANG HỌ LÝ ĐI CHÂU THƯỜNG (2)
Mây tan tuyết lạnh gió may hàn,
Sông Sở∗ non Ngô khổ vạn ngàn. Tiễn bác hôm nay say hết mức, Nhớ nhau mai sớm lối mênh mang.
■ * Lý thị Lang : Thị lang Lý Việp, từ Nhạc Dương đi.. * Sông Sở: Tức Nhạc Dương. ∗ Châu Thường: Thuộc tỉnh Giang Tô, thuộc đất Ngô xưa.
112
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN TỨ ( I )
Thảo sắc thanh thanh liễu sắc hoàng,
Đào hoa lịch loạn lý hoa hương.
Đông phong bất vị xuy sầu khứ,
Xuân nhật thiên năng sử hận trường.
TỨ XUÂN ( IA )
Sắc cỏ xanh xanh sắc liễu vàng
Đào hoa nở loạn mận hoa thơm
Gió đông chẳng thổi sầu bay hết
Xuân tới thêm gieo nỗi hận tràn.
■
TỨ XUÂN ( IB )
Cỏ sắc xanh xanh liễu sắc vàng,
Đào hoa bời rối, mận hoa thơm.
Gió đông chả đuổi sầu đi khỏi,
Để mỗi ngày xuân mãi hận vương.
■
GIẢ CHÍ
113
XUÂN TỨ ( II )
Hồng phấn đương nhô lược liễu thuỳ
Kim hoa lạc tửu giải đồ mi
Sênh ca nhật mộ năng lưu khách
Túy sái Trường An khinh bạc nhi.
TỨ XUÂN ( II )
Son phấn bên lò thân liễu mảnh∗
Đồ mi∗ rượu chạp nhạt hoa vàng∗
Sênh ca ngày muộn hay lưu khách
Say khướt Trường An kẻ sỗ sàng.
■
∗ Câu thứ nhất ý nói tới chuyện Tư Mã Tương Như rửa bát chén, còn Trác Văn Quân ngồi bên lò bán rượu cho khách trong quán nhỏ giữa chợ Lâm Cùng thời Hán. ∗ Đồ mi: Ở đây là một loại rượu để nguyên cả “cái” (Vừa là tên một loài hoa Trà Mi) ∗ Hoa vàng: Tên một thứ rượu (cũng là tên của đất Lâm Lăng).
114
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
GIẢ ĐẢO ( 779 - 843) Người quê Phạm Dương (Hồ Bắc), tên tự là Lãng Tiên. Thi mãi không đỗ, đi tu lấy hiệu là Vô Bản, trụ trì ở chùa Thành Long, Trường An. Giả phản đối lối thơ bình dị của Nguyên Chẩn – Bạch Cư Dị lúc đó, bèn ra công rèn luyện câu chữ và nổi tiếng. Hàn Vũ khen có tài. Giả bèn bỏ chùa thi đỗ tiến sĩ, nhưng vì vô lễ với Đường Huyền Tông trong lúc vua vi hành, nên bị đuổi khỏi Kinh đô, đi làm Chủ bạ Trường Giang (Tứ Xuyên), sau chuyển làm Tư Thương Tam quân ở Phổ Châu (tỉnh Tứ Xuyên), nghèo túng, khi mất cũng chỉ có một con lừa ốm và cây đàn cũ.
ĐỘ TANG CÀN
Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương
Uy tâm nhật dạ ức Hàm Dương
Vô đoan cách độ Tang Càn thủy
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương.
►
GIẢ ĐẢO
GIẢ ĐẢO
115
QUA SÔNG TANG CÀN ∗ (1)
Làm khách Tinh Châu∗ trải chục sương
Mong về sớm tối nhớ Hàm Dương∗
Không dưng vượt bến Tang Càn ấy
Lại ngó Tinh Châu gọi cố hương. ■
QUA SÔNG TANG CÀN (2)
Khách trọ Tinh Châu chục độ sương
Ngày đêm mong nhớ đất Hàm Dương
Tang Càn chợt lại sang qua bến
Quay ngó Tinh Châu hóa cố hương ■
∗Sông Tang Càn: Từ phía bắc tỉnh Sơn Tây chảy vào tỉnh Hà Bắc. ∗Tinh Châu: Tức Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. ∗Hàm Dương: Ở tây bắc Trường An. Xưa nhà Tần đóng đô tại đây.
116
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TAM NGUYỆT HỐI NHẬT TỐNG XUÂN
Tam nguyệt chính đương tam thập nhật
Phong quang biệt ngã khổ ngâm thân
Cộng quân kim dạ bất tu thụy
Vị đáo hiểu chung do thị xuân.
30 THÁNG 3 TIỄN XUÂN NGÀY CƯỚI
Tháng ba vào đúng hôm tròn tháng
Xuân biệt ly mình thơ khổ thân
Không ngủ đêm nay cùng người đấy
Chuông mai chưa đóng vẫn còn xuân.
■
GIẢ ĐẢO
117
TUYỆT CÚ
Phá khước thiên gia tác nhất trì,
Bất tài đáo lý, chủng tường vi.
Tường vi hoa lạc thu phong khởi,
Kinh cức mãn đình quân thủy tri.
TUYỆT CÚ
Phá dỡ ngàn nhà đào hồ nước,
Không trồng đào mận, cắm tường vi.
Tường vi hoa rụng làn thu nổi,
Gai góc đầy sân anh nghĩ gì?
■
118
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HẠ TRI CHƯỞNG ( 659 - 744) Quê ở Cối Kê tỉnh Chiết Giang. Tự Quý Chân. Đậu tiến sĩ năm 696 đỡi Võ Tắc Thiên, làm Thái Thường bác sĩ. Đời Đường Minh Hoàng (725), làm Lễ bộ thị lang kiêm Tập hiền viện bác sĩ, đổi làm Thái tử tân khách, chức Bí thư giám. Là bạn thân của Lý Bạch. Sau từ quan về làm Đạo sĩ. Là thành viên trong nhóm Ngô trung tứ sĩ (Hạ Trương Chi, Trương Húc, Bao Dung, Bao Dung, Trương Nhược Hư). Ông giỏi văn từ, tinh thông chữ thảo, chữ lệ, có tài hùng biện, tính tình phóng khoáng. Ông lấy biệt
hiệu là “Tứ minh Cuồng khách” và “Bí thư Ngự giám”, v.v… rong chơi các nơi. Năm Thiên Bảo thứ 3 (744) ông mơ thấy cùng tiên ngao du, bèn dứt khoát theo đạo, nhà ở Kinh chuyển thành Đaọ quán.
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ ( I )
Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa,
Cận lai nhân sự bán tiêu ma.
Duy hữu môn tiền Kính Hồ thủy,
Xuân phong bất cải cựu thời ba.
►
HẠ TRI CHƯỞNG
119
VỀ QUÊ CHỢT VIẾT ( I )
Quê hương ly biệt tháng năm qua,
Việc thế gần đây nửa nhóa nhòa.
Chỉ có Hồ Gương ngay trước cổng,
Gió xuân chưa đổi sóng xa xưa.
■
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ ( II )
Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
Hương âm vô cái mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?
VỀ QUÊ CHỢT VIẾT ( II )
Bé nhỏ xa nhà, già trở lại,
Giọng quê không đổi, tóc râu phai.
Trẻ con gặp mặt nhưng không biết,
Cười hỏi nơi nào khách tới chơi?
■
120
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀN CÂU ( ? )
VỊ Á KHANH TÁC
Quân tại giang tân khởi họa lâu
Thiếp cư hải dốc tống triều đầu
Triều trung hữu thiếp tương tư lệ
Lưu đáo lâu tiền cánh bất lưu.
VIẾT GIÙM Á KHANH
Chàng ở bên sông lầu vẽ dựng
Thiếp nơi góc biển chốn triều dâng
Tương tư lệ thiếp hòa trong sóng
Tôi tới ngang lầu lại tự ngưng.
■
HÀN CÂU
HÀN DŨ
121
HÀN DŨ ( 768 - 824) Quê ở Nam Dương (tỉnh Hà Nam). Có sách nói quê ở Xương Lê, Hồ Bắc. Tên tự là Thoái Chi (sau tên thụy là văn công). Khi trẻ bố và anh mất, ở nhờ anh rể. 25 tuổi đỗ tiến sĩ nhưng không được nhận chức quan, làm việc trong trướng Tiết độ sứ. Năm 802 được cử làm Giám sát Ngự sử. Vì đàn hặc Kinh triệu doãn là Lý Thực, bị biếm làm Lệnh ở Dương Sơn (tỉnh Quảng Đông), sau đó được tha tội, làm Quốc tử bác sĩ, Hà Nam Lệnh, Sử quán Tu soạn, Trung thư Xá nhân, Thị lang Bộ hình. Đường Hiếu Tông mê Phật giáo, ông dâng bài “Biểu xương Phật”, bị nhà vua giận, đày đi làm Thứ sử châu Trào (tỉnh Quảng Đông). Sau lại được vời về kinh làm Thị lang bộ binh, Thị lang bộ Hình. Khi mất được tặng Thượng thư bộ Lễ. Ông cùng Liễu Tông Nguyên, là hai học giả đời Đường, chủ trương cải cách văn xuôi.
►
122
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SƠ XUÂN TI ỂU VŨ
Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô
Thảo sắc giao khan cận nhược vô
Tối thị nhất niên xuân hảo xứ
Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô.
MƯA BỤI ĐẦU XUÂN
Đường như dải sữa loáng trong mưa
Mài cỏ gần xa lúc tỏ mờ
Suốt cả năm dài xuân đẹp nhất
Tuyệt vời khỏi li ễu khắp hoàng đô∗.
■
∗ - Hoàng đô: Kinh đô
HÀN DŨ
123
VÃN XUÂN
Thảo mộc tri xuân bát cửu qui,
Bách ban hồng tử đấu phương phi.
Dương hoa thâu giáp vô tài tứ,
Duy giải man thiên tác tuyết phi.
XUÂN MUỘN
Cây cỏ hay xuân sẽ sớm về,
Trăm ban hồng tía thảy đua khoe.
Hoa dương kém cỏi không tài trí,
Chỉ biết bay tơ tuyết bốn bề.
■
124
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀN HOẰNG (HOÀNH) Quê ở Nam Dương (tỉnh Hà Nam), tên tự là Quân Bình. Năm 735 đỗ tiến sĩ, làm việc dưới trướng Hầu Hy Dật – Tiết độ sư Trung – Thanh, sau đó từ chức, rong chơi các nơi hơn 10 năm, rồi làm việc với Lý Miễn, tiết độ sứ Tuyên Vũ. Về sau, Đường Đức Tôn biết Hán là người có tài, cho giữ chức Giá bộ Lang trung Tri chế cáo, rồi Trung thư lệnh. Ông là một trong 10 tài tử thời Đại L ịch.
HÀN THỰC∗
Xuân thành vô xứ bất phi hoa Hàn thực đông phong ngự liễu tà Nhật mộ hán cung truyền lạp chúc Thanh yên tán nhập ngũ hầu gia.
► ∗ Hàn thực: Mồng 3 tháng 3, truyền thuyết: Thời Xuân Thu, Giới Chi Thôi theo hầu Tấn Văn Công (khi còn là công tử Trùng Nhĩ), bôn ba nước ngoài, sau thu phục nước Tấn, dựng nghiệp bá. Khi bàn công, quên mất họ Giới. Giới đưa mẹ già vào ở ẩn nơi rừng núi. Tấn Văn Công cho người tới mời, ông vẫn không chịu ra. Có người bàn nên “đốt rừng”, để mẹ con ông chạy ra ngoài. Nhưng cuối cùng mẹ con Giới Tử Thôi chết cháy chứ không ra nhận bổng lộc. Tấn Văn Công muốn ghi công nên ra lệnh tới ngày đó, dân gian không được nấu nướng bằng lửa. Do đó, mọi nhà phải làm sẵn thức ăn bánh trái từ hôm trước, và ngày mống 3 tháng 3 chỉ ăn đồ lạnh (Hàn thực).
HÀN HOẰNG (HOÀNH)
125
HÀN THỰC
Thành xuân khắp chốn thảy tươi hoa
Hàn thực làn đông bóng liễu xòa
Cung Hán chiều về truyền đuốc nến
Năm dinh Hầu∗ tước khói bay nhòa. ■
TỐNG KHÁCH CHI NGẠC* CHÂU
Giang khẩu thiên gia đới Sở vân Giang hoa loạn điểm tuyết phân phân Xuân phong lạc nhật thùy tương kiến Thanh Hãn châu trung hữu Ngạc quân.
TIỄN KHÁCH ĐI NHẬN CHỨC Ở CHÂU NGẠC
Cửa bến ngàn nhà mây Sở vân
Hoa sông nở loạn tuyết lâng lâng
Gió xuân ngày muộn ai quen biết
“Thanh Hãn”∗ trong thuyền có Ngạc quân∗./.
∗ Ngũ Hầu: Năm anh em Hoàng Thái hậu họ Vương thời Hán Thành Đế, được phong tước “Hầu”, giàu sang hết mực. ∗ Châu Ngạc: Tức Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc (xưa là đất nước Sở). Nơi đây là chỗ hợp dòng của sông Kinh Hà (Đai Giang) và sông Hán Thủy thành dòng Trường Giang. ∗ Thanh Hãn: Thuyền đẹp khắc hình chim, sơn xanh. ∗ Ngạc quân: Tên là Tích, người đẹp trai, họ hàng với vua Sở, thường ngồi thuyền “Thanh Hãn” đi chơi.
126
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÚC THẠCH ẤP SƠN TRUNG
Phù vân bất cộng thử sơn tề
Sơn ái thương thương vọng chuyển mê
Hiểu nguyệt tạm phi thiên thụ lý
Thu hà cách tại sổ phong tê.
NGỦ TRỌ TRONG NÚI THẠCH ẤP∗
Núi cao hờ hững với mây bay
Mắt ngó mờ sương biếc núi dầy
Trăng sớm tạm theo cây bụi chuyển
Sông thu xa cách mấy non tây.
■
∗ - Thạch Ấp: Tên núi ở cạnh Thạch Gia trang (gần Thạch Lộc), tỉnh Hà Bắc.
HÀN TÔNG
127
HÀN TÔNG
MỘ XUÂN SẢN THỦY TỐNG BIỆT
Lục ám hồng hi xuất đế thành,
Mộ vân cung khuyết cổ kim tình.
Hành nhân mạc thính cung tiền thủy,
Lưu tận niên quang thị thử thanh.
NGÀY XUÂN MUỘN TIỄN NHAU Ở SÔNG SẢN
Xanh đậm hồng thưa vượt đế thành,
Mây chiều cung điện trải bao tình.
Người đi đừng lắng dòng sông chảy,
Ngày tháng vèo trôi sóng cuốn nhanh.
■
128
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀN TƯỜNG Quê Nam Dương ( Hà Nam). Đậu tiến sĩ thời Đường Huyền Tông. Là một trong nhóm 10 người tài thời Đại L ịch.
HÀN THỰC
Xuân thành vô xứ bất phi hoa
Hàn thực đông phong ngự liễu tà
Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc
Khinh yên tán nhập ngũ Hầu gia∗.
TẾT HÀN THỰC
Thành xuân chốn chốn lộng màu hoa
Hàn thực, làn đông ngự liễu roà
Chiều tới, lệnh quan truyền đuốc sáng
Khói lan bay khắp các Hầu gia.
■ ∗ Hầu gia: Các nhà quyền quý, công hầu.
HÀN TƯỞNG
HÀN TÔNG
129
HOA NHAN
ĐIỀN GIA
Kê xướng tam thanh thiên dục minh
An bài phạn uyển dữ trà bình
Lương nhân do khủng thôi canh tảo
Tự chỉ bồng song khán hiểu tinh.
NHÀ NÔNG
Gà gáy ba lần trời muốn sáng
Sẵn sàng cơm giỏ với trà bình
Lương nhân∗ những ngại đi cày sớm
Ra ngó sao trời dưới mái gianh.
■
∗ Lương nhân: Chồng (có thể là vợ)
HOA NHAN
130
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀNG PHỦ NHIỄM
(714 - 767) Người Yên Định (Phía Bắc Kinh Xuyên, tỉnh Hà Bắc), tên tự là Mậu Chính. Sau dời nhà đến Đan Dương, định ẩn dật với cảnh cày cuốc, câu cá, nhưng được Trương Cửu Linh biết là có tài, nên tìm cách khuyến khích giúp đời. Năm 756 đỗ tiến sĩ, làm chức Uý ở Vô Tích (tỉnh Giang Tô). Năm 768 (niên hiệu Đại Lịch 1) làm thư ký cho Tiết độ sứ Hà Nam, sau đó giữ các chức Tả thập di, Tả bổ khuyết.
TĂNG SƠN∗ TỐNG BIỆT
Thê thê du tử khổ phiêu bồng
Minh nguyệt thanh tôn chỉ tạm đồng
Nam vọng thiên sơn như đại sắc
Sàu quân khách lộ tại kỳ trung.
►
∗ Tăng sơn: Không rõ. Có thể ở gần Thái Hồ, tỉnh Giang Tây. Có sách chép “Lỗ” sơn (tỉnh Hà Nam). Vì có lúc Hoàn làm việc dưới trướng Tiết độ sứ Hà Nam.
HOÀNG PHỦ NHIỄM
131
TIỄN BIỆT NON TĂNG
Khách du hiu quạnh kiếp phiêu bồng
Trăng sáng ly suông chỉ tạm cùng
Nam ngó ngàn non màu thẫm lại
Buồn anh quán trọ vẫn nằm trong.
■
VŨ TRUNG ĐĂNG NHẠC DƯƠNG LÂU VỌNG QUÂN SAN
Đầu hoang vạn tử mấn mao ban Sinh nhập Cồ Đường, Diễm Dự∗ quan Vị đáo Giang Nam tiên nhất tiếu Nhạc Dương lâu thượng vọng Quân san.
TRONG MƯA LÊN LẦU NHẠC DƯƠNG NGĂM QUÂN SAN
Nội hoang đầy ải đầu râu bạc
Sống lại về qua mấy ải quan
Chưa tới Giang Nam cười trước đã
Lên lầu Nhạc ngắm đỉnh Quân san. ■
∗ - Cồ Đường, Diễm Dự: Tên các cửa ải biên giới
132
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BÀI 2
Mãn xuyên phong vũ độc bằng lan
Quán kết Tương Nga∗ nhập thị hoàn
Khả tích bất đương hồ thuỷ diện
Ngân sơn đôi lý khán thanh san.
BÀI 2
Đầy sông mưa gió tựa hiên mình
Bím tóc Tương Nga quấn lượn quanh
Ví được giữa hồ trên mặt nước
Trong cồn sóng bạc ngắm non xanh.
■
∗ Tương Nga: Nữ thần núi Quân. Thế núi trông như 12 bím tóc nữ thần.
HOÀNG PHỦ NHIỄM
133
TỐNG NGUỴ THẬP LỤC HOÀN TÔ CHÂU
Thu dạ trầm trầm thử tống quân
Âm trùng thiết thiết bất kham văn
Quy châu minh nhật Tỳ Lăng∗ đạo
Hồi thủ Cô Tô∗ thị bạch vân.
TIỄN ANH NGUỴ VỀ TÔ CHÂU
Thu tối trầm trầm lại tiễn anh
Dế giun rỉ rỉ ngán khôn đành
Tỳ Lăng mai sớm con đò lại
Mây trắng Cô Tô ngó rõ rành.
■
∗ - Tỳ Lăng: Tên đất thuộc Giang Tô ∗ - Cô Tô: Tên núi ở huyện Ngô, tỉnh Giang Tô.
134
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀNG SÀO (Đường)
ĐỀ HOA CÚC
Táp táp tây phong mãn viện tài,
Nhị hàn hương lãnh điệp nan lai.
Tha niên ngã nhược vi thanh đế∗,
Bão dữ đào hoa nhất xứ khai.
ĐỀ HOA CÚC
Xào xạc làn tây khắp viện dài,
Nhị tàn hương lạnh bướm xa xôi.
Năm nao ta được làm thanh đế,
Sẽ báo hoa đào nở sánh đôi.
■
∗ Thanh đế: Chúa xuân.
HOÀNG SÀO
HỒNG TUÂN
135
HỒNG TUÂN
CẤM TOẢ
Cấm môn thâm toả tịch vô hoa
Nồng mặc lâm li lưỡng tướng ma
Xướng triệt ngũ canh thiên vi hiểu
Nhất trì nguyệt tẩm tử vi hoa
CỬA CẤM
Cửa cấm thâm nghiêm khoá lặng tờ
Chữ đề sắc chỉ mực chưa khô
“N ăm canh” báo dứt, trời chưa rạng
Ánh nguyệt đầy sân đẵm bóng hoa.
■
136
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HỨA HỒN
Quê ở Đan Dương, châu Nhuận (tỉnh Giang Tô). Tên chữ là Trọng Hối. Năm 832 đỗ tiến sĩ, làm chức Lệnh ở Đương Đô (An Huy) và Thái Bình (Sơn Tây) nhưng vì ốm đau nên bị miễn chức. Năm 849 lại được vời làm Giám sát Ngự sử, rồi Viên ngoại lang ngu bộ (thuộc bộ Công, trông coi hồ đầm, vườn tược…), Thứ sử châu Mục (tỉnh Chiết Giang) và châu Sính (tỉnh Hồ Bắc). Thời gian này ông có mua đất ở Khe Đinh Mão, cuối đời về ở đấy.
THU TỨ
Kỳ thụ tây phong chẩm đảm thu
Sở vân Tương thuỷ ức đồng du
Cao ca nhất khúc yểm minh kính
Tạc nhật thiếu niên kim bạch đầu.
►
TỨ THU∗
Gối trúc∗ cây kỳ∗ gió thu lộng
Sông Tương∗ mây Sở chuyến chơi lâu ∗ Tứ thu: Đầu đề thơ ở Nhạc phủ. ∗ Gối trúc: Gối đan bằng trúc, tre. Đất Sở có nhiều loại cây này. ∗ Cây kỳ: Loại cây đẹp, mọc ở núi Côn Luân.
HỨA HỒN
137
Ca vang một khúc che gương sáng∗
Trai trẻ hôm nao giờ bạc đầu.
■
BẠC DU NGHIÊN LŨNG
Hải yến tây phong bạch nhật tà,
Thiên môn dao vọng ngũ hầu gia.
Lâu đài thâm toả vô nhân đáo,
Lạc tận đông phong đệ nhất hoa.
LƯỚT CHƠI MIỀN NGHIÊN LŨNG
Cánh én heo may nắng xế tà,
Công hầu dinh thự ngó gần xa.
Lâu đài kín cổng không ai tới,
Rụng hết xuân đầu một cánh hoa.
■
∗ Sông Tương: Chảy từ Hồ Nam vào Động Đình. ∗ Che gương sáng: Thơ Ban Tiệp Dư thời Hán có câu: “Gió thu nổi…che gương”.
138
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LA ẨN
TẶNG KỸ VÂN ANH
Chung Lăng từ biệt thập dư xuân,
Trùng kiến Vân Anh chưởng thượng thân,
Ngã vị thành danh quân vị giá.
Khả năng câu thị bất như nhân.
TẶNG KỸ NỮ VÂN ANH
Chung Lăng li biệt quá mười xuân,
Lại gặp Vân Anh vẹn mọi phần
Tôi chửa thành danh, người chửa cưới
Phải chăng số phận thảy phong trần.
■
LA ẨN
139
TÂY THI
Gia quốc hưng vong tự hữu thì
Ngô nhân hà khổ oán Tây Thi
Tây Thi nhược giải khuynh Ngô quốc
Việt quốc phong lai hựu thị thuỳ.
TÂY THI
Đất nước hưng vong – thời vận cả
Người Ngô chi khổ oán Tây Thi
Tây Thi khiến nước Ngô tan nát
Thì Việt sau đây bởi nỗi gì.
■
140
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỰ KHI ỂN
Đắc tức cao ca thất tức hưu
Đa sầu đa hận diệc du du
Kim triêu hữu tửu kim triêu tuý
Minh nhật sầu lai, minh nhật sầu
TỰ KHUÂY KHOẢ
Khi được ca vang, mất cũng âu
Hận sầu cho lắm ích gì đâu
Sáng nay có rượu, sáng nay khướt
Mai sớm sầu vương, mai sớm sầu.
■
LÂM CHẨN
141
LÂM CHẨN
LÃNH TUY ỀN ĐÌNH
Nhất hoằng thanh khả thấm thi tỳ
Lãnh noãn niên lai chỉ tự tri
Lưu xuất Tây hồ tải ca vũ
Hồi đầu bất tự tại sơn thì.
ĐÌNH SUỐI LẠNH
Trong veo dòng nước hồn thơ đẫm
Nóng lạnh năm năm tự biết mình
Ra tới hồ Tây rồi hát múa
Quay nhìn chẳng giống thuở non xanh.
■
142
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÂM THĂNG
ĐỀ LÂM AN ĐỂ
Sơn ngoại thanh sơn lâu ngoại lâu,
Tây Hồ ca vũ kỷ thời hưu?
Noãn phong huân đắc du nhân tuý,
Trực bả Hàng Châu∗ tác Biện Châu∗.
ĐỀ NHÀ TRỌ LÂM AN
Non biếc ngoài non lầu lại lầu
Hồ Tây hát múa hỏi còn lâu?
Êm êm làn ấm say du khách
Gọi hẳn Hàng Châu hoá Biện Châu.
■
∗ Hàng Châu: Kinh đô của Nam Tống ∗ Biện Châu: Kinh đô của Bắc Tống
LÂM THĂNG
LÂU D ĨNH
143
LÂU D ĨNH
TÂY THI TH ẠCH
Tây Thi∗ tức nhật cán sa tân,
Thạch thượng thanh đài tứ sái nhân.
Nhất khứ Cô Tô bất phục phản,
Ngạn bàng đào lý vị thuỳ xuân.
BẾN ĐÁ TÂY THI
Tây Thi ngày ấy giũ tơ tằm,
Bến đá rêu xanh ngán bội phần.
Một trẩy Cô Tô không trở lại,
Bên bờ đào mận vị ai xuân?
■
∗ Tây Thi: Một trong 4 đại mỹ nhân của Trung Quốc, nơi nàng thường giũ lụa là bến đá Trừ La.
144
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LIỄU TÔNG NGUYÊN ( 773 - 819)
Quê Hà Đông (Sơn Tây), tên tự là Tử Hiệu, năm 793 đỗ Tiến sĩ. Trải làm các chức Hiệu thư lang, Úy Lam Điền, Giám sát Ngự sử. Thời gian này, bên cạnh Hoàng Thái tử (sau này là vua Thuận Tông) là cánh Vương Thúc Văn, Vi Chấp Nghị đang thử nghiệm
cải cách chính trị, Tông Nguyên cũng tham gia. Năm 805, Thuận Tông lên ngôi, bổ nhiệm Liễu làm Viên ngoại lang bộ Lễ. Nhưng sau 7 tháng, Thuận Tông thoái vị, cuộc cải cách thất bại, Liễu phải biếm làm Tư mã châu Vĩnh (Linh Lăng, hồ Nam). Năm 815 ông được triệu về kinh, đi làm Thứ sử châu Liễu (Liễu Giang, Quảng Tây) đồng thời bổ nhiệm Lưu Vũ Tích làm Thứ sử châu Bá (Tuân Nghĩa, Quý Châu). Nhưng với sự đồng tình của mẹ già, ông đã xin đổi với Lưu. Tông Nguyên lại về Châu Liễu rồi mất ở đó. Liễu và Hàn Dũ là hai lá cờ đầu về việc vận động cải cách văn xuôi đời Đường. Do đó người ta có câu "Hàn Liễu".
LIỄU TÔNG NGUYÊN
145
HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN KI ẾN DI TUYỆT CÚ DỤC ĐĂNG TIÊN NHÂN SƠN, NHÂN SĨ
THÙ CHI
Châu thụ linh lung cách thúy vi∗ Bệnh lai phương ngoại sự đa vi
Tiên sơn bất thuộc phân phù∗ khách∗ Nhất nhậm lăng không tích trượng phi.
NHÂN THẤY BÀI THƠ "MUỐN LÊN NÚI TIÊN" CỦA HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN∗ ĐỂ LẠI, BÈN
VIẾT ĐÁP
Óng ánh cây châu∗ cách ráng mây
Ốm đau cõi tục lắm điều gay
∗ Thuý vi: Là mây ráng, nhưng cũng có thể hiểu là lưng chừng núi ∗ Phân phù: Các chức quan lớn đứng đầu địa phương, đều được chia một nửa bùa (phân là chia, phù là bùa) để làm chứng cớ khi làm việc quan. ∗ Khách: Ở đây là tác giả khiêm tốn. ∗ Hạo Sơ Thượng Nhân: Là học trò (đệ tử) của Thiền sư Chu Hải ở chùa Long Am (nay ở phía tây Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam). Khi Hạo Sơ mất, có người tới Chầu Liễu nhờ Liễu Tông Nguyên viết văn bia. Hơn nữa, khi còn sống, có lúc Hạo Sơ đã tới chỗ tác giả cho nên Liễu có bài tựa “Tặng nhà sư Hạo Sơ”. Hạo Sơ gửi thơ tặng Liễu, nên Liễu hoạ lại. Tác giả có chú “Núi Tiên ở địa phận Châu Liễu”
146
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Núi tiên không thuộc người đeo ấn Gậy tích∗ bay cao tự ý thầy.
■ DỮ HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN ĐỒNG KHÁN
SƠN
Hải bạn tiêm sơn tự kiếm mang, Thu lai xứ xứ cát sầu trường. Nhược vi hoa đắc thân thiên ức, Tán tác phong đầu vọng cố hương.
CÙNG NHÀ SƯ HẠO SƠ NGẮM NÚI
Núi biển nhô lên tựa lưỡi gươm, Thu sang chốn chốn cắt sầu thương Thân này hoá được thành muôn triệu Tản khắp đầu non ngó cố hương. ■
∗ Cây châu: Tên một loài cây (trong truyền thuyết Trung Quốc) mọc ở Phương Nam, lá nó toàn là ngọc châu. Liễu Châu là địa phương miền Nam nên có cây này. ∗ Gậy tích: Cũng như thiền trượng, thứ gậy các vị sư thường cầm ở tay (tích là dịch theo tiếng Phạn. Có nghĩa là gõ có tiếng kêu làm cho người khác chú ý). Thời nhà Lương (khoảng thế kỷ thứ V, thứ VI) có vị cao tăng tên là Bảo Chí, khi muốn dựng am trên núi, ông liền quăng “gậy tích” lên không, gậy bay đi, rơi xuống chỗ nào là ông dựng nhà ở đấy.
LỘ ĐỨC CHƯƠNG
147
LỘ ĐỨC CHƯƠNG (Tống)
HU DI LỮ XÁ
Đạo bàng thảo ốc lưỡng tam gia
Kiến khách lôi ma màn điểm trà
Tiệm cận Trung nguyên ngữ âm hảo
Bất tri Hoài thuỷ cận thiên nha.
NHÀ TRỌ HU DI
Bên đường mái cỏ một vài nhà
Thấy khách ……….. sắp ấm trà
Gần với Trung nguyên lời dễ hiểu
Sông Hoài đâu biết lại trời xa.
■
148
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LỤC DU (Thời Tống)
ĐẦU ĐÔNG ĐI CHƠI (Bài này không có phần thơ Hán Việt)
Dong lừa thủng thẳng qua bờ khói
Mười dặm làng non hướng mới tinh
Quán rượu cờ xanh chùa lá úa
Gặp nhau tất thảy giống như tranh.
■
MAI HOA TUY ỆT CÚ
Văn đạo mai hoa sách hiểu phong, Tuyết đôi biến mãn tứ sơn trung. Hà phương khả hóa thân thiên ức, Nhất thụ mai tiền nhất phóng ông.
HOA MAI
Nghe nói hoa mai ưa gió sớm
Bốn bề tuyết phủ núi non chồng
Làm sao mình hóa thành ngàn triệu
Một gốc mai là một Phóng ông. ■
LỤC DU
149
THẬP NHẤT NGUYỆT TỨ NHẬT PHONG VŨ ĐẠI TÁC
Cương ngọa cô thôn bất tự ai
Thượng tư vị quốc thú luân đài.
Dạ lan ngọa thính phong xuy vũ,
Thiết mã băng hà nhập mộng lai.
NGÀY 4 THÁNG 11 MƯA TO GIÓ LỚN
Nằm gượng thôn xa chả tự buồn,
Còn mong vì nước giữ biên cương.
Đêm khuya quạnh quẽ nghe mưa gió,
Ngựa sắt sông băng giấc mộng vương.
■
150
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TUYẾT HẬU TẦM MAI
Thanh đế cung trung đệ nhất phi,
Bảo hương huân triệt tố tiêu y.
Định tri trích trụy bất dung cửu,
Vạn hộc ngọc trần lai sính quy.
SAU TUYẾT TÌM MAI
Giữa điện vua xuân bậc nhất phi
Ngạt ngào hương báu trắng xiêm y
Từng hay đầy ải không nhiều nữa
Vàng ngọc ngàn cân tới rước về.
■
LỤC DU
151
THẨM VIÊN ( I )
Thành thượng tà dương họa giác ai,
Thẩm viên phi phục cựu trì đài.
Thương tâm kiều hạ xuân ba lục,
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.
VƯỜN THẨM∗ ( I )
Nắng xế thành trên tiếng ốc dài,
Nào đâu vườn Thẩm mọi hồ đài.
Dưới cầu ngơ ngẩn xanh làn sóng,
Hồng nhạn từng phen bóng loáng trời.
■
∗ Vườn thẩm: Nơi ở của bố mẹ vợ Lục Du, họ Điền.
152
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THẨM VIÊN (III)
Mộng đoạn hương tiêu tứ thập niên,
Thẩm viên liễu lão bất xuy miên.
Thử thân hành tác Kê sơn thổ,
Do điếu di tung nhất huyễn nhiên.
VƯỜN THẨM (III)
Mộng đứt hương tàn bốn chục niên
Liễu già vườn Thẩm dứt tơ duyên.
Thân này ví hóa thành non núi,
Thăm viếng nơi từng ứa lệ hoen.
■
LỤC DU
153
THẨM VIÊN (IV)
Lộ cận thành nam kỷ phạ hành,
Thẩm gia viên lý tối thương tình;
Hương xuyên khách tụ mai hoa tại,
Lục trám tự kiều xuân thủy sinh.
VƯỜN THẨM (IV)
Lối mé nam thành đi đã ngại,
Vườn xưa họ Thẩm nỗi thương tình.
Hương lùa áo khách, hoa mai trước
Bóng thẫm cầu xuân nước mới duềnh.
■
154
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THẨM VIÊN (V)
Thành nam tiểu mạch hựu phùng xuân,
Chỉ kiến mai hoa bất kiến nhân.
Ngọc cốt dĩ thành tuyền hạ thổ,
Mặc ngân do tỏa bích gian trần.
VƯỜN THẨM (V)
Thành nam đường nhỏ lại xuân rồi,
Chả thấy người đâu chỉ thấy mai.
Xương ngọc đã thành bùn dưới suối,
Bụi tường nét chữ mực chưa phai.
■
LƯ BẬT
155
LƯ BẬT
Còn có tên là Lư Nhữ Bật. Người quê ở huyện Bồ, tỉnh Sơn Tây. Đỗ Tiến sĩ, làm Viên Ngoại lang, bộ Từ (coi việc tế lễ, thiên văn, thuốc men, điều cấm kỵ của nước, giờ giấc, lịch, bói toán), rồi Tri chế cáo. Năm 904, Đường Chiêu Tông bị Chu Toàn Tung tức Thái tổ nước Hậu Lương thời Ngũ Đại, ép phải dời đô sang Lạc Dương, Lư đi theo, nhưng rồi xin từ chức vì biết đời sắp loạn lạc. Ông chuyển nhà sang ở Thượng Đảng (tỉnh Sơn Tây). Sau đó, nương tựa vào quyền thần Lý Khắc Dung, được làm Phó Tiết độ sứ Thái Nguyên, được mọi người phục về tính cách cẩn thận, thẳng thắn.
HỌA LÝ TÚ TÀI BIÊN ĐÌNH TỨ THỜI OÁN ( I )
Bát nguyệt sương phi liễu bán hoàng
Bồng căn xuy đoạn nhạn nam tường
Lũng đầu lưu thủy quan sơn nguyệt
Khấp thượng Long Đôi vọng cố hương.
►
156
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HỌA BÀI NỖI OÁN BỐN MÙA Ở BIÊN ẢI
CỦA TÚ TÀI HỌ LÝ ( I )
Tháng tám sương bay liễu nửa vàng Cá bồng đầy lối nhạn sang nam Sông trôi Lũng Thượng trăng quan ải Đẫm lệ Long Đôi ngó lại làng.
■
HỌA LÝ TÚ TÀI BIÊN ĐÌNH TỨ THỜI OÁN ( II )
Sóc phong xuy tuyết thấu đao ban Ẩm mã trường thành quật cánh hàn Bán dạ hỏa lai tri hữu địch
Nhất thời tề bảo Hạ Lan∗ san.
HỌA THƠ "BIÊN GIỚI BỐN MÙA OÁN" CỦA TÚ TÀI HỌ LÝ ( II )
Gió may thổi tuyết vết đau loang Ngựa uống bên thành vũng nước hàn Giữa tối lửa bùng tin có giặc Cùng nhau gắng sức giữ non Lan. ■
∗ Hạ Lan: Tên dãy núi phía tây bắc Ngân Xuyên, thủ phủ tỉnh Ninh Hạ.
LƯ ĐÌNH KỲ
157
LƯ ĐÌNH KỲ Cùng Trương Ngạc (Tiến sĩ 708) đi lại nhà Kỳ Vương nên mắc tội, bị đầy đi làm Tư Hộ châu Nhã (tỉnh Tứ Xuyên).
ĐỒNG TƯỚC ĐÀI
Đồng đài cung quán ủy hôi trần Ngụy chủ viên lăng Chương thủy tân Tức kim tây vọng do kham tứ Huống phục đương thời ca vũ nhân.
ĐÀI ĐỔNG TƯỚC ∗
Đồng Tước lầu cung vẩn bụi trần
Vườn Lăng∗ Ngụy chủ bến Chương∗ gần
Nay nhìn nơi ấy còn thương nhớ
Ca nữ năm xưa não bội phần.
■ ∗ Đài Đồng Tước: Rất nguy nga tráng lệ, do Nguy Vũ Đế (Tào Tháo) dựng ở Kinh đô Quận Nghiệp (phía bắc tỉnh Hà Nam). Trên nóc trang trí bằng chim sẻ đồng. Sau khi Tháo mất, con cháu thường tới đây tế lễ, lên đài ngó nhìn phần mộ. Hàng tháng mồng một và ngày rằm có cung nữ hát, múa. Ngụy mất, Kinh đô dời về Lạc Dương, đất Nghiệp hoang phế, đài Đồng Tước sụt lở. ∗ Vườn Lăng: Lăng mộ ∗ Sông Chương: Nơi gần mộ Tào Tháo (phía tây Luận Nghiệp)
158
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LƯ MAI PHA
XUÂN DU
Hồng phương mãn nhãn đấu phong lưu,
Thùy tín xuân lai hữu khách sầu.
Trù trướng bất can đào lý sự,
Cố sơn yên vũ ức tùng thu.
CHƠI XUÂN
Hồng thơm đầy mắt rõ phong lưu
Ai biết xuân sang có khách sầu
Ngao ngán buông lơi đào với mận
Non xưa mưa khói nhớ tùng thu.
■
LƯ MAI PHA
159
MẠT L Ị
Kinh trần tiểu ải mộng văn đa,
Bỉ mỹ phồn anh ngọc tuyết khoa.
Kiến vị kiều nhu năng đặc lập,
Khẳng bằng tha vật học đằng la.
HOA NHÀI
Giữa nơi chật hẹp muỗi luôn qua
Lại lắm hoa thơm đẹp ngọc ngà
Nghe nói dịu mềm nhưng cứng vững
Không cần nhờ bám tựa đằng la.
■
160
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TUYẾT MAI NH Ị THỦ
Kỳ nhất
Mai tuyết tranh xuân vị khẳng hàng Tao nhân các bút phí bình chương Mai tu tốn tuyết tam phân bạch Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương.
Kỳ nhị
Hữu mai vô tuyết bất tinh thần Hữu tuyết vô mai tục liễu nhân Nhật mộ thi thành thiên hựu tuyết Dữ mai tịnh tác thập phần xuân.
TUYẾT MAI
1 Mai tuyết giành xuân chả chịu nhường Nhà thơ đành gác chuyện văn chương Mai nên kém tuyết ba phần trắng Tuyết lại thua mai một đoạn hương
2 Có mai không tuyết chẳng tinh thần Có tuyết không mai sẽ tục trần Chiều muộn thơ thành trời lại tuyết Cùng mai góp vẹn mọi phần xuân.
■
LƯƠNG HOÀNG
161
LƯƠNG HOÀNG
KHỐI LỖI NGÂM
Khắc mộc khiên ti tác lão ông
Kê bì hạc phát dữ chân đồng
Tu du lộng bãi tịch vô sự
Hoàn tự nhân sinh nhất mộng trung.
VỊNH CON RỐI
Gọt gỗ đeo râu tượng lão ông
Da gà tóc hạc giống vô cùng
Chơi đùa chốc lát rồi im lặng
Chả khác nhân gian một giấc mòng.
■
162
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LƯU HÀN Quê Trường Đa (Hồ Nam). Tự là Vũ Tử. Thời Tống
LẬP THU
Nhũ nha đề tán ngọc bình không
Nhất chẩm tân lương nhất phiến phong
Thuỵ khởi thu thanh vô mịch xứ
Mãn giai ngô diệp nguyệt minh trung.
ĐẦU THU
Quạ non kêu rải khoảng trời không
Đầy gối thênh thang gió mát lồng
Ngủ dậy tiếng thu tìm chả thấy
Lá ngô đầy cửa ánh trăng trong.
■
LƯU HÀN
LƯU KHẮC TRANG
163
LƯU KHẮC TRANG (1187 - 1269)
Quê Bồ Điền (Phúc Kiến). Tự là Thế Phu. Hiệu là Hậu
Thôn cư sĩ. Làm quan thời Tống. Một nhà thơ nổi tiếng.
OANH THOA
Trịch liễu thiên kiều thái hữu tình
Giao giao thời tác lộng cơ thanh
Lạc dương tam nguyệt hoa như cẩm
Đa thiểu công phu chức đắc thành.
THOI OANH
Nẻm liễu dời dương rất có tình
Gieo qua gieo lại tiếng thoi nhanh
Tháng ba Thành Lạc hoa như gấm
Nhiều ít công phu dệt được thành?
■
164
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LƯU QUÝ TÔN
( ? ) Quê ở Tiền Phú (Hà Nam). Tự là Cảnh Văn – Làm quan thời Tống Thần.
ĐỀ NHIÊU CHÂU T ỬU VỤ SẢNH BÌNH
Ni nam yến tử ngữ lương gian
Để sự lai kinh mộng lý nhàn
Thuyết dữ bàng nhân hồn bất giải
Trượng lê huề tửu khán Chi San.
ĐỀ BÌNH PHONG QUÁN RƯỢU CHÂU NHIÊU
Đàn én liu riu trên nóc nhà
Tiếng chim làm vụt tỉnh cơn mê
Người bên nghe kể cho là bịa
Chống gậy đeo bầu tới núi Chi∗.
■
∗ - Núi chi: Một phong cảnh đẹp ở Giang Tây.
LƯU QUÝ TÔN
LƯU SƯ THIỆU
165
LƯU SƯ THIỆU
PHÙ BÌNH
Xạ nhân khinh lãng điệp tình xa,
Hựu sấn hồi phong ủng điếu sa.
Mạc quái cuồng tung dị phiêu bạc,
Tiền thân chính cá thị dương hoa.
CÁNH BÈO
Sóng nhẹ vừa dồn bờ cát nắng,
Bè câu theo gió lại trôi qua.
Thói ngông trôi dạt, xin đừng lạ,
Kiếp trước thân này chính liễu hoa.
■
LƯU SƯ THIỆU
166
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LƯU TỬ VỰNG
GIANG THƯỢNG
Giang thượng triều lai lãng bạc thiên,
Cách giang hàn thụ vãn sinh yên.
Bắc phong tam nhật vô nhân độ,
Tịch mịch sa đầu nhất thốc thuyền.
TRÊN SÔNG
Triều nổi ngang dòng sóng cuộn lên,
Cách sông cây lạnh khói chiều nhen.
Ba ngày gió bấc đò không khách.
Bến cát đìu hiu mấy chiếc thuyền.
■
LƯU TỨ VỰNG
LƯU TRƯỜNG KHANH
167
LƯU TRƯỜNG KHANH
(709 - 785) Quê Hà Giang (Hà Bắc). Tự là Văn Phòng. Thời trẻ đọc sách ở núi Tung, sau dời sang Phiên Dương. Đậu tiến sĩ năm 733. Giữ nhiều chức quan, trấn nhiệm nhiều nơi như Phan Châu, Tuỳ Châu, Mục Châu. Thời Đường Đúc Tông, từng làm các chức như: Giám sát Ngự sử, Kiểm hiệu Tứ bộ Viên ngoại lang, Vận chuyển sứ, Phán quan, sau làm Tư Hoài Tây Nhạc chuyển vận, nhưng rồi vô cớ bị bỏ ngục, rồi biếm làm chức Uý ở Nam Ba (Quảng Đông). Sau nhờ có người minh oan, lại được làm Tư mã châu Mục, Thứ sử châu Tuỳ.
TỐNG LÝ PHÁN QUAN CHI NHU ẬN CHÂU HÀNH DINH
Vạn lý từ gia sự cổ bề
Kim Lăng dịch lộ Sở vân tê
Giang xuân bất khẳng lưu hành khách
Thảo sắc thanh thanh tống mã đề.
►
168
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TIỄN PHÁN QUAN ∗ HỌ LÝ ĐI TỚI HÀNH DINH CHÂU NHUẬN∗
Muôn dặm xa nhà chiêng trống rộn Kim Lăng∗ lối trạm Sở mây che Sông xuân chả chịu lưu hành khách Màu cỏ xanh rờn vó ngựa phi.
■ QUÁ TRỊNH SƠN NHÂN SỞ CƯ
Tịch tịch cô oanh đề hạnh viên Liêu liêu nhất khuyển phệ đào nguyên Lạc hoa phương thảo vô tầm xứ Vạn hác thiên phong độc bế môn.
QUA CHỖ Ở CỦA SƠN NHÂN HỌ TRỊNH
Vườn hạnh con oanh kêu quạnh quẽ, Nguồn đào tiếng chó sủa xa vang. Hoa rơi cỏ ngát tìm đâu thấy, Muôn động nghìn non cửa đóng tràn.
■
∗ Phán Quan: Một chức quan ở dinh Tiết độ sứ. ∗ Châu Nhuận: Nơi làm việc, nay là Trấn Giang, tỉnh Giang Tô. ∗ Kim Lăng: Tức Nam Kinh hiện nay.
LƯU TRƯỜNG KHANH
169
THÙ LÝ M ỤC KIẾN KÝ
Cô chu tương phỏng chí thiên nha,
Vạn chuyển vân sơn lộ cánh xa.
Dục tảo sài môn nghinh viễn khách,
Thanh đài hoàng diệp mãn bần gia.
TRẢ LỜI LÝ MỤC
Thuyền đơn thăm hỏi nơi trời biển,
Mây núi muôn trùng lối thẳm xa.
Muốn quét cửa sài chờ viễn khách,
Rêu xanh lá úa ngập đầy nhà.
■
170
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÙNG TỐNG BÙI LANG TRUNG BI ẾM CÁT CHÂU
Viên đề khách tán mộ giang đầu
Nhân tự thương tâm thuỷ tự lưu
Đồng tác trục thần quân cánh viễn
Thanh sơn vạn ý nhất cô châu.
LẠI TIỄN LANG TRUNG HỌ BÙI B Ị BIẾM RA CHÂU CÁT ∗
Vượn kêu khách tản bến chiều rồi
Người tự đau lòng nước tự trôi
Cùng bọn quan đày∗, xa nhất bác
Non xanh muôn dặm một thuyền xuôi.
■
∗ Châu Cát: Nay là Cát An, tỉnh Giang Tây. ∗ Quan đày: Quan chức bị lưu đày.
LƯU TRƯỜNG KHANH
171
NGUYỆT DA
Canh thâm nguyệt sắc bán nhân gia,
Bắc đẩu lan can Nam đẩu tà.
Kim dạ thiên tri xuân khí noãn,
Trùng than tân thấu lục song sa.
ĐÊM TRĂNG
Canh khuya trăng ánh nửa gian nhà,
Nam đẩu soi hiên, Bắc đẩu tà.
Xuân ấm tối nay càng tỏ rõ,
Tiếng trùng vừa mới lọt song sa.
■
172
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LƯU PHƯƠNG BÌNH
XUÂN OÁN
Sa song nhật lạc tiệm hoàng hôn,
Kim ốc vô nhân kiến lệ ngân.
Tịch mịch không đình xuân dục vãn,
Lê hoa mãn địa bất khai môn.
OÁN XUÂN
Song the trời xế ánh bên rèm,
Dinh rộng không người thấy lệ hoen.
Vắng vẻ sân suông xuân muốn lỡ,
Hoa lê đầy lối cửa cài then.
■
LƯU PHƯƠNG BÌNH
LƯU VŨ TÍCH
173
LƯU VŨ TÍCH (772 – 812)
Người Trung Sơn (tỉnh Hà Bắc). Có sách nói Lưu quê Bành Thành (tỉnh Giang Tô). Tên chữ là Mộng Đắc. Năm 793 đỗ Tiến sĩ. Cùng Liễu Tông Nguyên ở trong phái Vương Thúc Văn (vị tể
tướng sau này) nhưng khi Vương thất thế, Lưu bị biếm là Tư mã châu Lãng (tỉnh Hồ Nam). Năm 815, Lưu được triệu về kinh, giảm nhẹ tội lỗi, nhưng thời kỳ này, ông lại làm thơ đả kích bọn quyền thần, nên lại bị chúng tìm cách đầy đi làm Thứ sử châu Bá (trong khi Liễu Tông Nguyên bị biếm làm Thứ sử Liễu Châu). Sau lại đổi đi Châu Quỳ, rồi Thứ sử châu Hoà (tỉnh An Huy). Từ đây, Lưu lại được triệu về kinh, trao cho các chức Chủ khách Lang trung, Hàn Lâm học sĩ, rồi Thái tử tân khách. Cuối cùng làm Thượng thư kiểm hiệu bộ Lễ.
►
LƯU VŨ TÍCH
174
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DỮ CA GIẢ∗ HÀ KHAM ∗
Nhị thập dư niên biệt đế kinh
Trùng văn thiên nhạc∗ bất thăng tình
Cựu nhân duy hữu Hà Kham tại
Cánh dữ ân cần xướng Vị thành.
GỬI CA NHI HÀ KHAM
Hai chục năm∗ hơn biệt đế kinh
Lại nghe tiên nhạc xiết bao tình
Người xưa chỉ có Hà Kham gặp
Vẫn thấy say sưa hat “Vị thành∗”.
■ ∗ Ca giả: Ca sĩ nam hoặc nữ chưa rõ. Nhưng có lẽ nữ nhiều hơn. Do đó dịch là ca nhi. ∗ Hà Kham: Không rõ. Có thuyết nói là bài hát hoặc bản nhạc ∗ Thiên nhạc: Âm nhạc tuyệt diệu của tiên. ∗ Hai chục năm: Năm 805 (Vĩnh Trinh 1) Lưu bị biếm đi châu Lãng (Hà Nam), tới năm 806 (Nguyên Hoà 11) mới về kinh lần thứ nhất, sau đó lại đi châu Liên (Quảng Đông), năm 828 lại được triệu về kinh. ∗ Vị thành: Là tên bài thơ của Vương Duy, bài thơ này được phổ nhạc.
LƯU VŨ TÍCH
175
DƯƠNG LIỄU CHI TỪ∗
Dạng Đế∗ hành cung Biện thuỷ tân
Sổ chu dương liễu bất thăng xuân
Vãn lai phong khởi hoa như tuyết
Phi nhập cung tường bất kiến nhân
ĐIỆU TỪ CÀNH DƯƠNG LIỄU
Bến Biện hành cung Dạng Đế gần
Mấy cây dương liễu∗ biết bao xuân
Chiều về gió nổi hoa như tuyết
Bay khắp cung tường vắng mĩ nhân.
■
∗ Theo Mạnh Khải, bài này làm là muốn nói tới hai người thiếp yêu của Bạch Cư Dị (Lạc Thiên), tên là Phàn Tố và Tiểu Man. Đời Tống rất nhiều người thích bài này. ∗ Dạng Đế: Vua thứ hai nhà Tuỳ, làm vua từ năm 605 tới năm 616, xa xỉ cực độ, đắp đê sông Biện, trồng liễu hai bờ, xây hơn 40 hành cung. ∗ Mấy cây dương liễu: Có sách chép “sổ chi tàn liễu” (Mấy cành liễu tàn).
176
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÃNG ĐÀO SA∗ TỪ
Anh Vũ∗ châu đầu lãng thiệm sa
Thanh lâu∗ xuân vọng nhật tương tà
Hàm nê yến tử tranh quy xá
Độc tự cuồng phu bất ức gia.
BÀI TỪ SÓNG CÁT
Anh Vũ cồn dài sóng cát nhoà
Ngóng xuân lầu thắm nắng đương tà
Ngậm bùn∗ chim én tranh làm tổ
Riêng kẻ cuồng phu chẳng nhớ nhà.
■
∗ Lãng đào sa: Tên khúc hát trong Nhạc phủ. ∗ Anh Vũ: Bãi bồi giữa sông Trường Giang ở tây nam Vũ Xương, Hà Bắc. ∗ Thanh lâu: Lầu xanh. Cũng chỉ nơi phụ nữ ở. ∗ Ngậm bùn: Chim én ngậm đất về làm tổ.
LƯU VŨ TÍCH
177
NGUYÊN HÒA TH ẬP NIÊN TỰ LÃNG CHÂU
THỪA TRIỆU CHÍ KINH HÍ T ẶNG KHÁN HOA CHƯ QUÂN TỬ
Tử mạch hồng trần phất diện lai
Vô nhân bất đạo khán hoa hồi
Huyền đô quán lý đào thiên thụ
Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài.
NĂM NGUYÊN HÒA∗ THỨ 10 TỰ LÃNG
CHÂU∗ ĐƯỢC GỌI VỀ KINH, VUI VỚI BÈ BẠN XEM HOA
Đường lớn Kinh thành mờ bụi mắt
Mọi người đều bảo ngắm hoa về
Ngàn cây đào quán Huyền Đô∗ ấy
Tất cả trồng sau lúc Nguyễn∗ đi.
■
∗ Nguyên Hoà: Niên hiệu của vua Đường. ∗ Lãng Châu: Nay là Thường Đắc (Hà Nam). ∗ Huyền Đô: Quán thờ của đạo giáo. ∗ Nguyễn: Nguyễn Triệu. Triệu cùng Lưu Thần là hai chàng đánh cá, lạc vào nguồn đào, gặp tiên.
178
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Ô Y HẠNG
Chu tước kiều biên dã thảo hoa,
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.
Tích thời Vương, Tạ đường tiền yến,
Phi nhập tầm thường bách tính gia.
NGÕ Ô Y∗
Chu Tước∗ cầu bên nội cỏ hoa,
Ô Y cửa ngõ bóng dương tà.
Trước kia đàn én sân Vương, Tạ,
Tản mạn bay tung khắp mọi nhà.
■
∗ Ô Y: Áo đen - Thời Tấn, 2 nhà quyền quý là Vương Đạo và Tạ An ở đây - Thường mặc quần áo màu đen (lông quạ đen), nên dân gian gọi nơi này là ngõ áo đen (ô y hạng) . *) Cũng có thuyết nói Ô y hạng là Ngõ chim én vì ở đó có rất nhiều chim én, giải thích này hợp với Vương Vân Ngữ Đại tự điển và Mathews’ Chinese-English Dictionary, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (giải thích Ô y là chim én), cũng hợp với nội dung của bài thơ. (NL chú thêm) ∗ Chu Tước: (Sẻ lông đỏ) tên cầu.
LƯU VŨ TÍCH
179
TÁI DU HUY ỀN ĐÔ QUÁN
Bách mẫu đình trung bản thị đài
Đào hoa tịnh tận, thái hoa khai
Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ?
Tiền độ Lưu lang kim hựu lai.
LẠI TỚI QUÁN HUYỀN ĐÔ
Trong sân trăm mẫu nửa rêu rồi
Đào rụng tàn hoa, cải nở tươi
Đạo sĩ trồng đào đâu đó tá?
Chàng Lưu dạo trước lại về chơi.
■
180
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÁN ƯNG THUỶ TRÀ
Tối ái phương tùng Ưng chuỷ trà,
Lão lang phong ký tặng tiên gia
Kim triêu cánh hữu Tương Giang nguyệt,
Chiếu xuất phi phi mãn uyển hoa.
TRÀ “MỎ CHIM ƯNG”
Rất thích mùi thơm Ưng chủy trà,
Anh già gửi tặng bạn tiên gia.
Sớm nay lại có trăng Tương sáng,
Soi đẹp li đầy nở cánh hoa.
■
LƯU VŨ TÍCH
181
THẠCH ĐẦU THÀNH
Sơn vi cố quốc chu tao tại,
Triều đả không thành tịch mịch hồi.
Hoài thuỷ đông biên cựu thời nguyệt,
Dạ thâm hoàn quá nữ tường lai.
THÀNH THẠCH ĐẦU
Dẫy núi bao quanh còn dấu vết,
Triều dâng lặng lẽ động thành suông.
Ánh trăng từ phía đông Hoài thuỷ,
Tối vẫn về soi sáng bóng tường.
■
182
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN TỨ
Tân trang nghi diện há chu lâu,
Thâm toả xuân quang nhất viện sầu.
Hành đáo trung đình sổ hoa đoá,
Thanh đình phi thượng ngọc tao đầu.
TỨ XUÂN
Vừa xong trang điểm xuống chơi lầu,
Khoá kín màu xuân một viện sầu.
Đi tới sân trong hoa mấy đoá,
Chuồn chuồn bay tới đậu ngang đầu.
■
LÝ BẠCH
183
LÝ BẠCH (701 – 762)
Người Sơn Đông (sinh ở Tứ Xuyên), tên tự là Thái Bạch. Tuổi trẻ thích múa gươm, ưa hào hiệp, ngao du các nơi ở Tứ Xuyên. Sau đó, rong chơi phía nam sông Đại Giang (Trường Giang), rồi Sơn Tây, Sơn Đông. Năm 42 tuổi tới Trường An. Được Hạ Tri Chương tiến cử, và được Đường Huyền Tông cho giữ chức Hàn lâm cung phụng. Không ưa Cao lực sĩ, nên bị Cao dèm với Dương Quý Phi vì có ba bài thơ "Thanh Bình điệu", rồi bị đưa khỏi triều đình. Sau đó ông lại ngao du các nơi. Khi ông đang ở Tuyên thành (An Huy) thì An Lộc sơn làm loạn. Em trai Túc Tông là Vĩnh Vương dấng quân Giang Lăng rồi chống lại Túc Tông và bị giết. Lý Bạch ở trong đạo quân của Vĩnh Vương, nên phải đầy đi Dạ Lang (Quỳ Châu), nửa đường được ân xá, lại tới Kim Lăng, Tuyên Thành, sống nhờ họ hàng, rồi mất ở vùng này. Truyền thuyết thì cho rằng, ông say rượu quá nhảy xuống sông bắt mặt trăng nên bị chết đuối.
184
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BỒI TỘC THÚC HÌNH B Ộ THỊ LANG VI ỆP CẬP TRUNG THƯ GIẢ XÁ NHÂN ∗ DU ĐỘNG
ĐÌNH
Động Đình tây vọng Sở Giang∗ phân Thủy tận nam thiên bất kiến vân Nhật lạc Trường Sa thu sắc viễn
Bất tri hà xứ điếu Tương Quân∗.
CÙNG CHÚ HỌ∗ THỊ LANG BỘ HÌNH∗ VIỆP VÀ TRUNG THƯ XÁ NHÂN HỌ GIẢ CHƠI HỒ
ĐỘNG ĐÌNH
Động Đình tây ngó Sở Giang gần
Nước láng trời nam chẳng ráng vần
Nắng xế Trường Sa thu sắc thẳm
Biết nơi nào nhỉ viếng Tương Quân.
■
∗ - Giả Xá nhân: Nhà thơ Giả Chí, là Trung thư Xá nhân, Hàn lâm Khởi thảo. ∗ Sở Giang: Một tên khác của sông Trường Giang, ở đoạn gần hồ Động Đình. ∗ Tương quân: Nữ thần hồ Động Đình (tương truyền là con gái vua Nghiêu, vợ vua Thuấn). ∗ Chú họ: Là Lý Việp, con cháu họ tôn thất. ∗ Bộ Hình: Bộ Tư pháp.
LÝ BẠCH
185
DỮ SỬ LANG TRUNG KHÂM THÍNH HOÀNG HẠC LÂU THƯỢNG XUY ĐỊCH
Nhất vi thiên khách∗ khứ Trường Sa
Tây vọng Trường An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang thành ngũ nguyệt “L ạc mai hoa∗”.
CÙNG LANG TRUNG SỬ KHÂM NGHE THỔI SÁO TRÊN LẦU HẠC VÀNG
Một thân khách lẻ tới Trường Sa
Tây ngó Trường An chẳng thấy nhà
Hoàng Hạc ngang lầu nghe sáo ngọc
Thành sông giữa hạ “Rụng mai hoa”.
■
∗ - Thiên khách: Ở đây hiểu như kẻ bị đi đầy. Có thể đây là lúc Lý Bạch bị đày đi “D ạ Lang” chăng? ∗ - Lạc mai hoa: Trong nhạc có khúc “Hoa mai rụng”, nhưng cũng có thể hiểu nghĩa, sáo thổi tuyệt vời làm thay đổi thời tiết, tháng năm giữa hè mà hoa mai cũng rụng.
186
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỀ BẮC TẠ BI
Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa
Tây vọng Trường An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch,
Giang thành ngũ nguyệt Lạc mai hoa.
ĐỀ BIA BẮC TẠ
Từng làm khách trọ tới Trường Sa
Tây ngó Trường An chả thấy nhà.
Hoàng Hạc trong lầu vang sáo ngọc,
Thành sông ai hát “Lạc mai hoa”.
■
LÝ BẠCH
187
HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu∗ Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu∗ Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
TẠI LẦU HOÀNG HẠC, TIẾN MẠNH HẠO NHIÊN (1)
Cố nhân tây dời Hoàng Hạc Lâu,
Khói hoa ba tháng xuống Dương Châu.
Buồm đơn bóng hút vào xanh thẳm
Chỉ thấy Trường Giang chảy mãi đâu.
Ở LẦU HẠC VÀNG TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN (2)
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Khói hoa∗ xuân muộn xuống Dương châu
Buồm đơn bóng lẫn vào xanh tắp
Chỉ thấy Trường Giang sóng cuộn mau.
■ ∗ Hoàng Hạc Lâu: Lầu Hoàng Hạc ở Vũ Xương. ∗ Dương Châu: Châu Dương, quận là Quảng Lăng. ∗ Khói hoa: Ở đây ý nói “đô thị phồn hoa”.
188
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỘNG ĐÌNH
Động Đình hồ tây thu nguyệt huy,
Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi.
Tuý khách mãn thuyền ca “Bạch trữ∗”,
Bất tri sương lộ nhập thu y.
HỒ ĐỘNG ĐÌNH
Phía tây trăng sáng Động Đình hồ,
Mạn bắc Tiêu Tương nhạn sớm qua
Đò chật khách say ca “Bạch trữ”,
Chả hay sương ướt đẫm xiêm thu.
■
∗ - Bạch trữ: Áo vải sợi to - Ở đây là tên bài hát, nói về cuộc sống người nghèo.
LÝ BẠCH
189
HOÀNG HẠC LÂU VĂN ĐỊCH
Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa
Tây vọng Tràng An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang thành ngũ nguyệt Lạc mai hoa∗.
Ở LẦU HẠC VÀNG NGHE SÁO
Đang làm thân khách trẩy Trường Sa
Tây ngó Trường An chả thấy nhà
Sáo ngọc âm vang lầu Hạc mãi
Thành sông rộn khúc Lạc mai hoa.
■
∗ - Lạc mai hoa: “Hoa mai rụng” tên một bản nhạc.
190
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀNH GIANG T Ừ
Hoành Giang quán tiền tân lại nghinh,
Hướng dư đông chỉ hải vân sinh.
Lang kim dục độ duyên hà sự,
Như thử phong ba bất khả hành.
BÀI HÁT B ẾN HOÀNH GIANG
Viên lại Hoành Giang ra bến đón,
Chỉ tay phía biển nổi mây thành.
Việc chi ngài phải sang đò vội,
Chắc chắn phong ba chuyện quá rành.
■
LÝ BẠCH
191
HÁ GIANG L ĂNG
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khing chu dĩ quá vạn trùng san.
XUỐNG GIANG LĂNG
Sớm từ Bạch Đế mây màu đẹp
Nghìn dặm Giang Lăng một buổi về
Không dứt hai bờ nghe vượn hót,
Đò thênh đã vượt vạn non khe.
■
192
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KHÁCH TRUNG HÀNH
Lan Lăng∗ mỹ tửu uất kim hương∗
Ngọc uyển thình lai hổ phách quang
Đãn sử chủ nhân năng túy khách
Bất tri hà xứ thị tha hương
DẶM KHÁCH
Lan Lăng rượu đậm ngát đưa hương
Chén ngọc long lanh đẹp lạ dường
Nhà chủ ví làm say được khách
Chả hay đâu nữa chốn tha hương.
■
∗ Lan Lăng: địa phương thuộc Sơn Đông. ∗ Uất kim hương: hoa "tuy líp"
LÝ BẠCH
193
MẠCH THƯỢNG TẶNG MỸ NHÂN
Tuấn mã kiêu hành đạp lạc hoa,
Thuỳ tiên trực phất ngũ vân xa.
Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc,
Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia.
DỌC ĐƯỜNG TẶNG NGƯỜI ĐẸP
Vó ngựa dồn căng lối rụng hoa,
Xe mây dóng dả ngọn roi qua.
Mỉm cười người đẹp rèm châu vén,
Lầu đỏ nhà em trỏ phía xa.
■
194
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGA MY* SƠN NGUYỆT CA
Nga My sơn nguyệt bán luân thu, Ảnh nhập Bình Khương* giang thuỷ lưu. Dạ phát Thanh Khê∗ hướng Tam Giáp, Tư quân bất kiến há Du Châu.
BÀI CA VẦNG TRĂNG NÚI NGA MY (1)
Nga My trăng núi nửa vầng thu, Bóng loáng Bình khương sóng nước làu Đêm tự Thanh Khê tới Tam giáp Nhớ anh không gặp, tới Châu Du.
BÀI CA TRĂNG NÚI NGA MI (2) Nga Mi trăng núi nửa vành thu In bóng Bình Khương sóng nước mau
Đêm tự Thanh Khê đi Tam Giáp∗ Nhớ người không thấy xuống Du Châu./.
* Nga Mi: Tên núi ở tây Tứ Xuyên, tây nam Thành Đô. Ngọn cao nhất 3.053m, có thể lúc này Lý khoảng hai mươi tuổi. * Bình Khương: Tên sông, còn gọi là Thanh Y, phát nguồn từ rừng đông bắc Nga Mi, sau hợp dòng với sông Dân. ∗ Thanh Khê: Tên khe suối; Cũng tên một thị trấn phía đông nam núi Nga Mi. ∗ Tam Giáp (Tam Hiệp): Giáp – Hai bên bờ sông hẹp có núi cao. Một là Cù Đường Giáp, hai là Vu Giáp, ba là Tây lăng Giáp. Thường gọi chung Tam Giáp (Tam Hiệp) – Có sách nói nơi này gần Tây lăng Giáp.
LÝ BẠCH
195
QUÂN HÀNH
Lưu mã tân khoa bạch ngọc an,
Chiến bãi sa trường nguyệt sắc hàn.
Thành đầu thiết cổ thanh dinh chấn
Hạp lý kim đao huyết vị can.
KHÚC CA HÀNH QUÂN
Ngựa tốt vừa khoe yên ngọc trắng,
Sa trường sau trận ánh trăng hàn
Đầu thành trống sắt còn vang tiếng
Trong hộp gươm vàng máu vẫn nham.
■
196
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SƠN TRUNG VẤN ĐÁP
Vấn dư hà sự thê bích sơn,
Tiếu nhi bất đáp tâm tự nhàn.
Đào hoa lưu thuỷ diểu nhiên khứ.
Biệt hữu thiên địa phi nhân gian.
HỎI ĐÁP Ở TRONG NÚI
Hỏi ta sao lại vào non thẳm
Cười không đáp lại dạ thênh thang
Hoa đào dòng nước trôi lờ lững.
Riêng bầu trời đất khác nhân gian.
■
LÝ BẠCH
197
TẢO PHÁT BẠCH ĐẾ∗ THÀNH
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng∗ nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh châu dĩ quá vạn trùng san.
SÁNG ĐI TỪ THÀNH BẠCH ĐẾ
Sáng từ Bạch Đế ráng mây đi
Ngàn dặm Giang Lăng một buổi về
Tiếng vượn hai bờ kêu chẳng dứt
Con đò nhẹ vượt vạn non khe.
■
∗ Bạch Đế: Tên thành. Cuối thời Hán (thời Tam quốc). Công Tôn Thuật đã chiếm cứ nơi đây. Sau này, Lưu Bị từng ở. Lúc này Lý 25 tuổi quê ở Tứ Xuyên ra đi. ∗ Giang Lăng: Thuộc Hồ Bắc, cách thành Bạch Đế khoảng 300 km.
198
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẶNG UÔNG LUÂN
Lý Bạch thừa chu tương dục hành,
Hốt văn ngạn thượng “Đạp ca” thanh.
Đào hoa đàm thuỷ thâm thiên xích,
Bất cập Uông Luân tống ngã tình.
TẶNG UÔNG LUÂN
Lý Bạch lên khoang sắp khởi hành,
Chợt nghe bờ vẳng tiếng ca nhanh.
Đào hoa đầm nước sâu ngàn thước,
Chả sánh Uông Luân tiễn biệt mình.
■
LÝ BẠCH
199
THÁI LIÊN KHÚC
Nhược Da khê bạng thái liên nữ,
Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ.
Nhật chiếu tân trang thuỷ để minh,
Phong phiêu hương duệ không trung cử.
KHÚC CA HÁI SEN
Nhược Da khe sen nhiều cô gái,
Giữa đám hoa sen rộn nói cười.
Áo mới nắng hoe soi bóng nước,
Vạt thơm làn gió ngát hương trời.
■
200
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THANH BÌNH ĐIỆU TỪ
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Nhược phi Quần Ngọc∗ sơn đầu kiến
Hội chướng Dao Đài* nguyệt hạ phùng
ĐIỆU THANH BÌNH
Mây ngỡ xiêm y hoa ngỡ mặt
Gió xuân hiên lộng đẹp vô chừng
Nếu không quần Ngọc đầu non
Sẽ tới Dao Đài dưới ánh trăng.
■
∗ - Quần Ngọc, Dao Đài: Nơi ở của tiên.
LÝ BẠCH
201
THANH BÌNH ĐIỆU TỪ ∗ ( I )
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng Nhược phi Quần Ngọc∗ sơn đầu kiến Hội hướng Dao đài∗ nguyệt hạ phùng.
ĐIỆU THANH BÌNH ( I )
Hoa ngỡ môi hồng mây ngỡ áo Gió xuân lộng gác vẻ hoa nồng Nếu không Quần Ngọc đầu non hội Trăng sáng đài Dao lại gặp cùng. ■
∗ Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi tới cung Hưng Khánh xem hoa mẫu đơn, sai người tìm Lý Bạch để làm thơ. Ông làm liền ba bài. Theo truyện “Dương Thái Chân” của Nhược Sử (đời Tống), lúc này Lý Bạch đã say rượu từ hai hôm trước, khi nhận được sắc chỉ, ông viết luôn. Huyền Tông bèn sai nhạc sĩ ở Lê Viên (nhạc viện của Triều đình) chuyển thành từ điệu biểu diễn, nhà vua thổi sáo theo, và ca sĩ nổi tiếng thời ấy là Lý Quy Niên hát lời. ∗ Quần Ngọc: Tên núi ở phương Tây (truyền thuyết) nơi ở của Tây Vương Mẫu. ∗ Dao đài: đài xây bằng ngọc, tên cung tiên, có người đẹp Hữu Nhung ở.
202
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THANH BÌNH ĐIỆU TỪ ( III )
Danh hoa khuynh quốc∗ lưỡng tương hoan
Trường đắc quân vương đới tiếu khan
Giải thích xuân phong vô hạn hận
Trầm hương∗ đỉnh bắc ỷ lan can.
ĐIỆU THANH BÌNH ( III )
Hoa thơm người đẹp thảy hân hoan
Mỉm miệng nhà vua ngó ngỡ ngàng
Xua giúp gió xuân bao nỗi hận
Trầm hương đình bắc tựa lan can.
■
∗ Khuynh quốc: “Nghiêng nước”, nghĩa bóng là người đẹp tuyệt vời. Lý Diên Niên tiến cử em gái mình với Hán Vũ Đế có câu:
Phương bắc có người đẹp Một cười nghiêng thành Hai cười nghiêng nước.
∗ Trầm hương: Tên đình trong cung Hưng Khánh, bên cạnh có Ao Rồng (Long Trì).
LÝ BẠCH
203
THIẾU NIÊN HÀNH
Ngũ Lăng niên thiếu Kim thị∗ đông,
Ngân yên bạch mã độ xuân phong.
Lạc hoa đạp tận du hà xứ,
Tiếu nhập Hồ cơ∗ tửu tứ trung.
HÀNH KHÚC TUỔI TRẺ
Ngũ Lăng chàng trẻ qua Kim thị,
Ngựa trắng làn xuân rộn vó đua.
Hoa rụng nhiều nơi đâu nữa nhỉ
Cười vang vào quán rượu Cô Hồ.
■
∗ Kim thị: Tên chợ. ∗ Hồ cơ: Cô gái nước Hồ. Hồ ở đây có thể là Ba Tư (Iran).
204
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THU HÀ KINH MÔN
Sương lạc Kinh Môn∗ giang thụ không Bố phàm vô dạng quải thu phong Thử hành bất vị lô ngư khoái Tự ái danh sơn nhập Diễm Trung.
MÙA THU XUỐNG KINH MÔN
Sương xuống Kinh Môn cây bến suông
Yên lành buồm vải∗ gió thu lồng
Chuyến này chẳng bởi gỏi cá Vược∗
Vì thích non cao đất Diễm Trung∗. ■
∗ Kinh Môn: Ở phía tây Giang Lăng. Kinh là tên gọi khác của Sở (Hồ Bắc). Núi Kinh môn trên bờ sông Trường Giang, núi có nguồn sông chảy qua sông Kinh hà, nên gọi Kinh Môn. ∗ Yên lành buồm vải: Đời Tấn, Cố Khải Chi làm quan ở Giang Lăng, được nghỉ về Giang nam chơi. Vị trưởng quan cho mượn chiếc buồm vải, dọc đường, gió to, nhờ có buồm vải nên không rách. Trong thư gửi Trưởng quan, họ Cố có câu:
Người đi được yên ổn / Buồm vải cũng yên lành ∗ Gỏi cá Vược: Trương Hàn đời Tấn, làm quan ở Lạc Dương, mỗi khi thu về , lại nhớ tới quê ở Ngô Quận (Giang Tô), nơi có đặc sản nổi tiếng như rau thuần và gỏi cá Vược. ∗ Diễm Trung: Vùng đông Thiệu Hưng, Chiết Giang, thượng lưu sông Tào Nga, có khe Diễm, quanh đó nhiều núi cao đẹp.
LÝ BẠCH
205
THƯỢNG HOÀNG TÂY TU ẦN NAM KINH
CA∗
Thùy đạo quân vương hành lộ nan Lục long∗ tây hạnh vạn nhân hoan Địa chuyển Cẩm Giang∗ thành Vị Thủy∗ Thiên hồi Ngọc lũy∗ hóa Trường An
THƯỢNG HOÀNG SANG TÂY TUẦN THÚ NAM KINH ∗
Ai bảo vua đi đường gian nan Sáu rồng xe trẩy vạn hân hoan Đất chuyển Cẩm Giang thành Vị thủy Trời xoay Ngọc lũy hóa Trường An. ■
∗ Năm 756 (Niên hiệu Thiên Bảo 15) loạn quân An Lộc Sơn xâm phạm Trường An, Đường Huyền Tông phải lánh nạn vào Thục (Tứ Xuyên). Dọc đường, ông truyền ngôi cho con (Túc Tông) và trở thành Thượng Hoàng. ∗ Lục Long (sáu rồng): Xe sáu ngựa. ∗ Cẩm Giang: Tên sông ở Thành đô, thượng lưu của sông Trường Giang. ∗ Vị Thủy: Tên sông ở bắc Trường An. ∗ Ngọc lũy: Ở phía tây bắc Thành đô, nay là núi ở huyện Quán. ∗ Nam Kinh: là Thành đô đất Thục, vì ở tây nam Trường An.
206
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÔ∗ ĐÀI LÃM C Ổ
Cựu uyển hoang đài dương liễu tân
Lăng ca∗ thanh xướng bất thăng xuân
Chỉ kim duy hữu Tây giang nguyệt
Tằng chiếu Ngô vương cung lý nhân
THĂM DI TÍCH ĐÀI CÔ TÔ
Vườn cũ, đài hoang liễu mới ngần
"Lăng ca" lời vút xiết bao xuân
Chỉ nay trăng sáng sông Tây∗ ấy
Từng chiếu cung Ngô bóng mỹ nhân.
■ ∗ Tô: Cô Tô, tên cung điện xây dựng do vua Phù Sai nước Ngô thời Xuân Thu, ở phía Tây nam huyện Ngô tỉnh Giang Tô. ∗ Lăng ca: Bài hát khi hái ấu (một thứ củ ở mặt nước), một loại dân ca. ∗ Sông Tây: Sông phía tây. Phía tây đài Cô Tô, không có sông lớn.
LÝ BẠCH
207
VĂN VƯƠNG XƯƠNG LINH THIÊN LONG TI ỂU
Dương Châu hoa lạc tử quy đề,
Văn đạo Long Tiêu quá Ngũ Khê.
Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt,
Tuỳ quân trực đáo Dạ Lang tê.
NGHE TIN VƯƠNG XƯƠNG LINH ĐỔI RA LONG TIÊU
Châu Dương hoa rụng, cuốc kêu hè,
Anh tới Long Tiêu quá Ngũ Khê.
Tôi gửi nỗi buồn cùng trăng sáng,
Dạ Lang theo mãi bước anh đi.
■
208
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VĂN VƯƠNG XƯƠNG LINH THIÊN LONG TI ỂU (dị bản với bài trên)
Dương hoa lạc tận tử quy∗ đề Văn đạo Long Tiêu∗ quá Ngũ Khê∗ Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt Tùy phong trực đáo Dạ Lang∗ tê (tây).
XA NGHE TIN VƯƠNG XƯƠNG LINH ĐỔI LÀM CHỨC ÚY LONG TIÊU
Hoa dương rụng hết rộn từ quy
Nghe nói Long Tiêu quá Ngũ Khê
Ta gửi lòng sầu theo ánh nguyệt
Dạ Lang tây ấy gió đưa đi.
■
∗ Tử quy: Một loài chim, như chim cuốc. Câu này khác với câu 1 của bài trước. Các câu 2,3,4 giống hệt bài trước ∗ Long Tiêu: Địa danh, nay là đất Dương, tỉnh Hồ Nam. Vương Xướng Linh được đổi làm chức úy ở huyện này. "Long Tiêu" trong bài thơ có ý chỉ Vương Xương Linh. ∗ Ngũ Khê: Địa danh, ở phía tây nam hồ Động Đình, phía tây đất Thường Đức. Ở đây có năm dòng suối chảy qua nên gọi tên là Ngũ Khê. ∗ Dạ Lang: Địa danh, ở phía bắc tỉnh Quý Châu
LÝ BẠCH
209
VIỆT TRUNG∗ LÃM CỔ
Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô quy
Nghĩa sỹ hoàn gia tận cẩm y
Cung nữ như hoa mãn xuân điện
Chỉ kim duy hữu giá cô phi.
THĂM DI TÍCH NƯỚC VIỆT CŨ
Dẹp Ngô vua Việt kéo quân về
Áo gấm chàng trai trở lại quê
Cung nữ như hoa tươi khắp điện
Mà nay chỉ thấy cuốc bay đi.
■
∗ Việt Trung: Tức Cối Kê, kinh đô nước Việt thời Xuân Thu, nay là
Thiệu Hưng, Chiết Giang. Để trả thù cho cha, Ngô Phù Sai đánh Việt, bắt Câu Tiễn phải hàng. Câu Tiễn ở Cối Kê nằm gai nếm mật quyết chí phục thù, sau này Câu Tiễn đánh đài Cô Tô, Phù Sai phải tự sát. Ngoài "nằm gai nếm mật" còn có câu "Mối thù Cối Kê".
210
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ THUỶ
Nhật chiếu Hương Lư sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân hà lạc cửu thiên.
NGẮM DÒNG THÁC NÚI LƯ
Nắng chiếu Hương Lư khói tía lên,
Nhìn xa thác đổ dốc sông bên.
Sóng bay dựng đứng ba ngàn thước
Ngỡ đó Ngân Hà rót tự trên.
■
LÝ BẠCH
211
VỌNG THIÊN MÔN SƠN
Thiên Môn∗ trung đoạn Sở giang khai
Bích thủy đông lưu chí thử hồi
Lưỡng ngạn thanh sơn tương đối xuất
Cô phàm nhất phiến nhật biên lai.
NHÌN NÚI THIÊN MÔN
Thiên Môn mở giữa bày sông Sở
Dòng biếc về đông uốn khúc lùi
Núi thẳm đôi bờ cùng ẩn hiện
Buồm đơn một cánh phía bên trời.
■
∗ Thiên Môn: Tên núi ở trên sông Trường Giang từ An Huy tới Giang Tô, dưới Vu Hồ một chút. Hai bờ sững như núi Bác Vọng, Lương Sơn.
212
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ CẤU
ĐỘC "TRƯỜNG HẬN TỪ"
Thục đạo như thiên dạ vũ dâm
Loạn linh thanh lí bội triêm khâm.
Đương thì cánh hữu quân trung tử
Tự thị quân vương bất động tâm.
ĐỌC BÀI TỪ "NỖI HẬN DÀI"
Đường Thục treo leo mưa tối đẵm
Chuông rung loạn tiếng vạt châu đằm
Lại tin có kẻ trong quân chết
Chả thấy nhà vua chút động tâm.
■
LÝ CẤU
213
DƯƠNG LIỄU CHI
Phong tình tiệm lão kiến xuân tu
Đáo xứ phương hồn cảm cựu du.
Đa tạ trường điều tự tương thức,
Cưỡng thùy yên huệ phất nhân đầu.
CÀNH LIỄU
Phong tình già tới thấy xuân sầu
Còn nhớ vùng thơm chuyển gập lầu
Ơn quá cành dài như bạn cũ
Gắng buông hoa khói phất phơ đầu.
■
LÝ CÂU
214
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ CHỬNG (? - 886)
Quê ở Lũng Tây (tỉnh Cam Túc). Biểu tự là Xương Thời. Năm 871 đỗ Tiến sĩ. Làm việc dưới trướng Tiết độ sứ, nhưng gặp loạn Hoàng Sào (Hoàng Sào quê Châu Tạo, làm nghề buôn muối giàu có, ưa giúp đỡ người trốn tránh, giỏi về cưỡi ngựa, múa kiếm, bắn cung, có đọc sách vở. Năm Vương Tiên Chi nổi loạn, Sào theo giúp. Tiên Chi thất bại, Sào tập hợp tàn quân xưng là "Xung Thiên Đại tướng quân", đánh chiếm Lạc Dương, phá Đồng Quan, vây hãm Kinh sư. Đường Hy Tông chạy vào Thục. Sào xưng đế, đặt tên nước là Đại Tề, niên hiệu là Kim Thống. Sau khi bị quân Cần Vương đánh thua. Lý tránh vào Bình Dương (Sơn Tây) nhưng rồi được vua Đường Hy Tông mời ra, giao các chức Thượng thư lang, Khảo công Lang trung, rồi Tri chế cáo. Nhưng tới năm 886, khi Chu Mai nổi loạn, Lý bị giết trong đám loạn quân.
LÝ CHỬNG
215
THOÁI TRI ỀU VỌNG CHUNG NAM SƠN∗
Tử thần∗ triều bãi xuyết uyên loan∗
Đan Phượng∗ lâu tiền trụ mã khan
Duy hữu Chung Nam∗ sơn sắc tại
Tình minh∗ y cựu mãn Trường An.
TAN CHẦU NHÌN NÚI CHUNG NAM
Bãi chầu điện báu sắp hàng loan
Lầu Phượng dùng ngựa bên ngó sang
Chỉ có Chung Nam màu núi đậm
Thanh minh vẫn đẹp khắp Trường An ■
∗ Bài thơ này Lý làm khi bị loạn quân Chu Mai bắt được và phải làm việc cho chúng. Ông hận về chuyện không giữ được khí tiết, và sau đó tỏ ý chống đối Chu Mai. ∗ Tử thần: Tên cung điện. ∗ Uyên loan: Tên chim như Phượng Hoàng, khi bay rất trật tự. Các quan xếp hàng nghiêm túc khi vào hoặc tan chầu cũng như vậy. ∗ Đan Phượng: Tên lầu ở cửa Nam cung Đại Minh (nơi vua ở) ∗ Chung Nam: một núi có tiếng ở Trường An ∗ Tình minh: Là Thanh minh
LÝ CHỬNG
216
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BỆNH NGƯU
Canh lê thiên mẫu thực thiên sương,
Lực tận cân bì thùy phục thương?
Đãn đắc chúng sinh giai đắc bão
Bất từ luy bệnh ngọa tàn dương.
TRÂU ỐM
Ruộng cày ngàn mẫu thóc ngàn rương
Sức cạn gân chùn chả kẻ thương
Nhưng được mọi người no ấm đủ
Chả nề gầy ốm buổi tà dương.
■
LÝ DỤC
217
LÝ DỤC
CẢM HOÀI 1
Hựu kiến đồng hoa phát cựu chi,
Nhất lâu yên vũ mộ thê thê.
Bằng lan trù trướng nhân thùy hội,
Bất giác san nhiên lệ nhãn đê.
CẢM HOÀI 1
Cành cũ hoa vông lại thấy về
Một lầu mưa khói tối lê thê
Tựa hiên rầu rĩ ai người hiểu
Châu lệ không đâu mắt đẫm đìa.
■
218
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CẢM HOÀI 2
Tằng Thành vô phức kiến kiều tư,
Giai tiết triền ai bất tự trì.
Không hữu đương niên cựu yên nguyệt,
Phù Dung thành thượng khốc nga mi.
CẢM HOÀI 2
Đô thành không thấy vẻ xinh tươi
Tết đến nhìn nhau.vẻ ngậm ngùi
Trăng khói năm nào suông vắng cả
Thành Phù Dung ấy khóc mày ngài.
■
LÝ ĐOAN
219
LÝ ĐOAN (732-792)
Quê ở Triệu Châu, khi nhỏ Lý ở Lư Sơn, theo học Hiệu Nhiên. Năm 770 đỗ Tiến sĩ, làm chức Hiệu thư lang, nhưng vì nhiều bệnh nên Lý từ chức, về ở lều tranh tại núi Chung Nam. Sau đó, lại được trao chức Tư mã châu Hàng, nhưng ông không thích giao dịch thế tục, nên dời nhà tới núi Hành (Hồ Nam), và tự xưng là “Hành Nhạc U Nhân”, sống cuộc đời ẩn dật. Lý là một trong “Mười tài tử thời Đại Lịch”.
TỐNG LƯU THỊ LANG ∗
Kỷ nhân đồng nhập Tạ Tuyên thành∗ Vị cập thù ân cánh tử sinh Duy hữu dạ viên tri khách hận Dịch Dương∗ khê lộ đệ tam thanh.
► ∗ Lưu Thị Lang: Chưa rõ, trước từng làm Thứ sử Tuyên Thành. ∗ Tạ Tuyên thành: tức Tạ Diêu, thời Nam Tề, từng làm Thái thú Tuyên Thành, văn hay nổi tiếng về thơ năm tiếng. ∗ Ở đông nam Vu Hồ, tỉnh An Huy. ∗ Dịch Dương: Phía nam núi Dịch. (huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông).
220
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TIỄN THỊ LANG HỌ LƯU
Mấy ai cùng giống Tạ Tuyên thành
Chưa kịp đền ơn đã “tử sinh”
Chỉ có vượn đêm hay hận khách
Dịch Dương ba tiếng hú∗ khe quanh. ■ ∗ Ba tiếng hú (hoặc tiếng hú lần thứ ba): ý nói vô cùng thảm thiết. Trong “Thủy kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên thời Hậu Ngụy có chép: Ba hẻm núi ở Ba Đông, thì Vu Giáp dài nhất. Ai qua đây, khi nghe thấy vượn hú tới tiếng thứ ba, đều không cầm được nước mắt.
LÝ ĐOAN
221
MỤC LỤC PHẦN 1
65 TÁC GIA 268-1-65=202 bài LỜI ĐẦU SÁCH .....................................................3
ÂU DƯƠNG CHIÊM................................................7
ÂU DƯƠNG TU.......................................................8
BẠCH NGỌC THIỀM ............................................27
BAO HÀ ............................................. ...................28
CẢNH VỸ ..............................................................29
CAO BIỀN.............................................................30
CAO THÍCH...........................................................38
CAO THIỀM ..........................................................42
CHÍ NAM ...............................................................43
CHU HI ..................................................................44
CHU KHÁNH DƯ ..................................................49
CHU TẤT ĐẠI........................................................51
CHU THỤC CHÂN ................................................52
CỐ HUỐNG...........................................................57
DÃ TĂNG ..............................................................61
DIỆP THÁI.............................................................62
DIỆP THIỆU ÔNG .................................................63
DƯƠNG BỊ ............................................................64
DƯƠNG CỰ NGUYÊN..........................................66
DƯƠNG VẠN LÝ ..................................................68
DƯƠNG PHÁC .....................................................74
222
BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG SĨ NGẠC.................................................75
ĐOÀN THÀNH THỨC ...........................................77
ĐỖ LỖI ..................................................................79
ĐỖ MỤC................................................................80
ĐỖ PHỦ.................................................................92
ĐỖ THẨM NGÔN ................................................103
ĐỖ TUÂN HẠC ...................................................105
GIẢ CHÍ ...............................................................107
GIẢ ĐẢO .............................................................114
HẠ TRI CHƯỞNG...............................................118
HÀN CÂU............................................ ................120
HÀN DŨ...............................................................121
HÀN HOẰNG (HOÀNH)......................................124
HÀN TÔNG .........................................................127
HÀN TƯỜNG ......................................................128
HOA NHAN ........................................... ..............129
HOÀNG PHỦ NHIỄM ..........................................130
HOÀNG SÀO .......................................... ............134
HỒNG TUÂN.......................................................135
HỨA HỒN ...........................................................136
LA ẨN .................................................................138
LÂM CHẨN .........................................................141
LÂM THĂNG.......................................................142
LÂU D ĨNH ...........................................................143
LIỄU TÔNG NGUYÊN.........................................144
LÝ ĐOAN
223
LỘ ĐỨC CHƯƠNG.............................................147
LỤC DU...............................................................148
LƯ BẬT...............................................................155
LƯ ĐÌNH KỲ........................................................157
LƯ MAI PHA ........................................... ............158
LƯƠNG HOÀNG.................................................161
LƯU HÀN............................................................162
LƯU KHẮC TRANG............................................163
LƯU QUÝ TÔN ...................................................164
LƯU SƯ THIỆU...................................................165
LƯU TỬ VỰNG...................................................166
LƯU TRƯỜNG KHANH......................................167
LƯU PHƯƠNG BÌNH..........................................172
LƯU VŨ TÍCH .....................................................173
LÝ BẠCH.............................................................183
LÝ CẤU ...............................................................212
LÝ CHỬNG .........................................................214
LÝ DỤC ...............................................................217
LÝ ĐOAN ............................................................219
MỤC LỤC .........................................................2211