223
ÂU DƯƠNG CHIÊM 1 BÙI HNH CN Biên dch ĐƯỜNG – TNG 2014

ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Tập thơ do cụ BÙI HẠNH CẨN dịch gồm 428 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của 170 tác giả thời Đường và Tống của Trung Hoa cổ đại.

Citation preview

Page 1: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ÂU DƯƠNG CHIÊM

1

BÙI HẠNH CẨN

Biên d�ch

ĐƯỜNG – TỐNG

2014

Page 2: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

2

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

Page 3: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ÂU DƯƠNG CHIÊM

3

LỜI ĐẦU SÁCH

*****

Năm 1956, có lần gặp nhau ở phố Lê Văn Hưu (Hà Nội), Nguyễn Bính hỏi tôi:

- Dạo này thỉnh thoảng còn dịch thơ chữ nho không?

Tôi đã đọc cho ông nghe hai bản dịch bài thơ "Gửi người xa" của Lý Bạch đời Đường. Nguyên văn như sau:

KÝ VIỄN Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường.

Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng

Sàng trung tú bị quyển bất khởi.

Chí kim tam tải văn dư hương.

Hương diệc cánh bất diệt

Nhân diệc cán bất lai

Tương tư hoàng diệp lạc

Bạch lộ thấp thanh đài.

GỬI NGƯỜI XA

Em còn ở đây nhà hoa ngát

Em xa rồi ngơ ngác giường xưa

Page 4: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

4

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

Chăn thêu nếp nếp hững hờ

Ba năm hương mãi bây giờ còn bay…

Thơm nào nghe quyện đâu đây

Người đi bữa ấy mai này còn sang

Tương tư để rụng lá vàng

Cho sương lạnh trắng mấy làn rêu xanh.

BẢN DỊCH II

Người đẹp ở, hoa thơm đầy buồng

Người đẹp đi rồi trơ giường suông

Trên giường chăn thêu nếp hờ hững

Đến nay ba năm thơm còn vương.

Hương cũng vương không dứt

Người cũng không về chơi

Tương tư vàng lá rụng

Sương lạnh trắng rêu hoài.

Sở dĩ, thêm bản dịch 2, tôi muốn thử nghiệm cách dịch bám sát nguyên tác. Và trong trường hợp cụ thể

Page 5: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ÂU DƯƠNG CHIÊM

5

này, bản dịch 1 được nhiều người thích hơn. Có người đã phê bình kiểu dịch này là "Câu nệ".

Từ đấy tôi vẫn tiếp tục dịch thơ theo hướng thứ 2 nhiều hơn, chủ yếu là chữ Hán. Vì phần lớn sáng tác của tác giả Việt Nam, từ đầu thế kỷ 20 về trước, đều viết bằng chữ Hán và Nôm.

(*)

Cho tới những năm 80 của thế kỷ trước, những thơ văn chữ Hán mà tôi đã dịch và được đăng in trên sách báo, có thể tạm kể:

1. Toàn bộ thơ chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông

2. Toàn bộ thơ chữ Hán và tập "Truyền kỳ Tân Phả" của Đoàn Thị Điểm

3. Toàn bộ thơ chữ Hán trong tập "Lưu Hương Ký" của Hồ Xuân Hương

4. Chinh Phụ Ngâm của Hồng Liệt Bá….v.v…

(*)

Đầu năm Sửu (2009) ông bạn nhà văn, nhà báo Hàm Châu mang cho tôi tờ báo "Sai Gòn giải phóng". Trong có in bài ký của ông viết về một nhà khoa học trẻ tuổi Vi ệt kiều ở Mỹ. Cuối bài, ông có nhắc tới 4 câu thơ tôi dịch của Nguyễn Trãi viết khi về chơi lại Côn Sơn. Quan điểm của ông về thơ dịch là phải "sát và hay".

(*)

Page 6: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

6

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

Mùa hè năm Sửu này (2009), ông bạn nhà thơ Vũ Minh Tân cho tôi một số tư liệu về thơ chữ Hán, và thỉnh thoảng, ông lại trao đổi với tôi về việc dịch thơ chữ Hán. Mấy việc kể trên, đã khuyến khích tôi hoàn thành hai tập thơ dịch.

Một là: 129 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát (8 câu 7 chữ)

Hai là: 300 bài thơ Đường - Tống ( 4 câu 7 chữ).

Bản dich thơ này chắc chắn có những thiếu sót. Rất mong quý vị độc giả vui lòng chỉ bảo cho.

Tập thơ dịch này có 441 bài thơ (4 câu 7 chữ) của một số các tác giả các thời Đường và Tống của Trung Quốc. Để tiện việc tra cứu, thơ được xếp theo A, B, C về họ tên tác giả. Một tác giả có nhiều bài thơ thì thơ cũng xếp theo thứ tự A, B, C.

Page 7: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ÂU DƯƠNG CHIÊM

7

ÂU DƯƠNG CHIÊM Quê Tấn Giang, Châu Tuyền (Phúc Kiến), tự là Hà Chu,

đỗ tiến sĩ năm 792, đời Đường, bạn thân với Hàn Dũ. Làm

chức Tứ môn trợ giáo, tính phóng khoáng, ưa ngao du.

ĐỀ DIÊN BÌNH KI ẾM ĐÀM

Tưởng tượng tinh linh dục kiến nan

Thông tân nhất khứ thủy man man

Không dư tích nhật lăng sương sắc

Trường dữ trừng đàm sinh trú hàn.

ĐỀ ĐẦM GƯƠM DIÊN BÌNH∗

Muốn thấy gươm thiêng khó vạn ngàn

Sang đò một chuyến nước mênh mang

Suông bao ngày tháng nhòa sương móc

Dài với đầm trong sáng lạnh tràn. ■

∗ Diên Bình nay là Nam Bình, thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ở đây có sông

Mân, thượng lưu sông gọi là Khe Gươm. Thời nhà Tấn có Lôi Hoán và bạn là Trương Hoa tìm được hai thanh gươm quý ở trong đất. Mỗi người giữ một thanh. Thanh của Hoa không rõ thất lạc ở đâu. Còn thanh gươm của Hoán, sau này con trai ông đeo nó, khi đi qua bến Diên Bình, thì gươm rơi xuống sông, nhìn theo thấy hai con rồng bơi lội trong nước. Do đó gọi đoạn sông này là sông Gươm, đầm Gươm.

Page 8: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

8

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ÂU DƯƠNG TU (1007 – 1072)

Tự là Vĩnh Thúc, hiệu là Túy Ông, quê Lư Lăng (Giang Tây), một học giả nổi tiếng thời Tống.

HỌA MI ĐIỂU

Bách chuyển thiên thanh tùy ý di

Sơn hoa hồng tử thụ cao đê

Thủy tri tỏa hướng kim lung thính

Bất cập lâm gian tự tại dề.

CHIM HỌA MI

Trăm điệu nghìn làm tuỳ ý thích

Hoa bừng cây núi bóng so le

Mới hay nghe giữa lồng son khóa

Chả sánh rừng xanh hót thoả thuê.

ÂU DƯƠNG TU

Page 9: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

9

BẠCH CƯ DỊ (772- 846)

Tên tự là Lạc Thiên, về già lấy hiệu Hương Sơn cư sĩ, quê ở Hạ Khuê (Thiểm Tây) dỗ tiến sĩ năm 802, đời Đường. Từng làm các chức quan như Hàn Lâm học sĩ, Tả thập di, Tư mã Giang Châu, Thượng thư bộ Hình…Ông chủ trương thơ phải theo “thời sự” sáng tác. Lời thơ của ông rất bình dị. Ông là tác giả những bài “Tr ường hận ca” và “Tỳ bà hành”, v.v…

BẠCH VÂN TUY ỀN

Thiên Bình∗ sơn thượng Bạch Vân tuyền, Vân tự vô tâm thuỷ tự nhàn. Hà tất bôn xung sơn hạ khứ, Cánh thiêm ba lãng hướng nhân gian.

SUỐI BẠCH VÂN

Bạch Vân dòng suối đỉnh Thiên san, Mây tự vô tâm nước tự nhàn. Hà tất ào ào tuôn xuống núi, Lại thêm sóng lớn chốn nhân gian.

■ ∗ Thiên Bình: Tên núi (Tân Cương)

Page 10: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

10

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CẢM CỐ TRƯƠNG BỘC XẠ CHƯ KỸ

Hoàng kim bất tích mãi nga mi,

Giản đắc như hoa tam tứ chi.

Ca vũ giáo thành tâm lực tận,

Nhất triêu thân khứ bất tương tuỳ.

CẢM NGHĨ VỀ NHỮNG KỸ NỮ CỦA CỐ BỘC XẠ HỌ TRƯƠNG

Bạc vàng không tiếc mua người ngọc,

Ba bốn hoa xinh kén chuốc về.

Hát múa dạy xong tâm lực hết,

Ra đi chả có kẻ theo đi.

Page 11: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

11

CHIÊU QUÂN ∗ TỪ

Hán sứ khước hồi bằng ký ngữ,

Hoàng kim hà nhật thục nga mi.

Quân vương nhược vấn thiếp nhan sắc,

Mạc đạo bất như cung lý thì.

CHIÊU QUÂN TỪ

Sứ Hán nhớdùm câu nhắn gửi,

Bạc vàng bao nữa chuộc nhau về.

Nhà vua nếu hỏi dung nhan thiếp,

Đừng bảo không bằng thuở mới đi.

■ ∗ Chiêu quân: Tên thực là Vương Tướng được vua Hán chọn

"giả làm công chúa" để gả cho vua Hung Nô. Theo lệ xưa, mỗi cung nữ đều được vẽ tranh chân dung, để vua chọn lựa. Nhiều người hối lộ hoa lộ Họa sĩ Mao Diên Thọ để hắn vẽ cho đẹp. Chiêu Quân không làm thế. Mao bèn vẽ xấu, nên không được vua Hán vời bao giờ. Đến khi gả sang Hồ, nên trước ngày đi có nghi lễ nhà vua tiễn công chúa lên xe hoa. Lúc ấy nhìn người thực thấy Chiêu Quân đẹp quá. Vua Hán rất tiếc, nhưng chuyện đã rồi. Sau đó, Vua Hán ra lệnh chém Mao Diên Thọ.

Page 12: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

12

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CUNG TỪ

Lệ tận la cân mộng bất thành,

Dạ thâm tiền điện án ca thanh.

Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn,

Tà ỷ huân lung toạ đáo minh.

LỜI CUNG NỮ

Lệ đẫm khăn thêu mộng chả thành,

Đêm khuya điện trước vẫn đàn sênh.

Má hồng còn đậm ân tình dứt,

Ngồi tựa lồng hương đợi sáng canh.

Page 13: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

13

ĐẠI LÂN T ẨU NGÔN HOÀI

Nhân sinh hà sự tâm vô định,

Túc tích như kim ý bất đồng.

Túc tích sầu thân bất đắc lão,

Như kim hận tác bạch đầu ông.

THAY ÔNG GIÀ XÓM CẢM HOÀI

Đời người hà cớ tâm vô định?

Dạo trước ngày nay ý chả cùng.

Dạo trước buồn thân không thọ lão,

Bạc đầu nay lại hận thành ông.

Page 14: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

14

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐẠI MÃI TÂN NỮ TẶNG CHƯ KỸ

Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,

Hiểu đạp Hàn sơn tự phụ tân.

Nhất chủng Tiền Đường giang bạn nữ,

Trước hồng kỵ mã thị hà nhân.

THAY LỜI CÔ GÁI BÁN CỦI TẶNG CÁC KỸ NỮ

Bòng bong đầu tóc quàng khăn vải

Sớm vượt non Hàn∗ kiếm củi gai.

Cánh gái Tiền Đường∗ sông bến ấy,

Xiêm hồng ngựa tía hỏi là ai?

∗ - Non Hàn: Tên núi ở Giang Tô. ∗ - Tiền Đường: Tên sông ở Giang Tô

Page 15: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

15

ĐÔNG DẠ VĂN TRÙNG

Trùng thanh đông tứ khổ ư thu,

Bất giải sầu nhân văn diệc sầu.

Ngã thị lão nhân thính bất uý,

Thiếu niên mạc thính bạch quân đầu.

TIẾNG DẾ ĐÊM ĐÔNG

Đêm đông tiếng dế khổ hơn thu,

Người chả sầu nghe cũng hoá sầu.

Ta đã già nua nghe chả sợ

Tuổi xanh nghe tới bạc luôn đầu.

Page 16: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

16

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀM ĐAN ĐÔNG CHÍ DẠ TƯ GIA

Hàm Đan dịch lý phùng đông chí

Bão tất đăng tiền ảnh bạn thân.

Tưởng đắc gia trung thâm dạ toạ,

Hoàn ưng thuyết trước viễn hành nhân.

ĐÊM ĐÔNG CHÍ Ở HÀM ĐAN NHỚ NHÀ

Hàm Đan∗ giữa trạm ngày đông chí

Ôm gối bên đèn bóng một thân

Nghĩ tới canh khuya quê cũ cũng

Đang ngồi kể chuyện kẻ xa xăm.

∗ - Hàm Đan: Kinh đô nước Triệu thời xưa. Một nơi phụ nữ rất

xinh đẹp.

Page 17: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

17

KHÚC GIANG ỨC NGUYÊN CỬU

Xuân lai vô hạn nhàn du thiểu

Hành lạc tam phân giảm nhị phân.

Hà huống kim triêu hạnh viên lý,

Nhàn nhân phùng tận bất phùng quân.

Ở SÔNG KHÚC NHỚ NGUYÊN CỬU

Xuân về không bạn ngao du ít,

Giảm nửa phần vui ngán quá chừng.

Cho tới hôm nay vườn hạnh cũ,

Người dưng gặp cả chỉ người không.

Page 18: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

18

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TRIỆU THÔN HỒNG HẠNH

Triệu thôn hồng hạnh mỗi niên khai,

Thập ngũ niên trung khán kỷ hồi.

Thất thập tam nhân nan tái đáo,

Kim niên lai thị biệt hoa lai.

HOA HẠNH THÔN TRIỆU

Hạnh∗ hồng thôn Triệu mỗi năm ngời,

Hơn chục năm qua mấy bận chơi.

Người bảy mươi ba gân cốt mỏi,

Năm nay tới để biệt hoa thôi.

∗ - Hạnh: Một loại cây mận.

Page 19: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

19

TAM NIÊN BI ỆT

Du du nhất biệt dĩ tam niên,

Tưởng vọng tương tư minh nguyệt thiên.

Trường đoạn thanh niên vọng minh nguyệt,

Biệt lai tam thập lục hồi viên

BA NĂM LI BIỆT

Ba năm đằng đẵng biệt li rồi,

Mỗi bận nhìn trăng nhớ đến người.

Ngao ngán trời xanh ngó trăng sáng,

Tròn ba mươi sáu lượt xa xôi.

Page 20: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

20

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THÁI LIÊN KHÚC

Lăng diệp oanh ba hà điểm phong,

Hà hoa thâm xứ tiểu thuyền thông.

Phùng lang dục ngữ đê đầu tiếu,

Bích ngọc tao đầu lạc thuỷ trung.

KHÚC HÁT HÁI SEN

Lá ấu xô làn sen gió rung,

Thuyền con lách giữa đám hoa hồng.

Gặp chàng muốn nói, cười nghiêng mái,

Thoa ngọc trên đầu rớt nước trong.

Page 21: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

21

THƯƠNG XUÂN KHÚC

Thâm thiển thiềm hoa thiên vạn chi,

Bích sa song ngoại chuyển hoàng ly.

Tàn trang hoà lệ há liêm toạ,

Tận nhật thương xuân xuân bất tri.

TIẾC THƯƠNG XUÂN

Ngàn vạn hoa thềm đậm nhạt cây,

Ngoài song đâu đó giọng oanh bay.

Buông rèm ngồi lặng xiêm đằm lệ,

Suốt buổi thương xuân xuân chả hay.

Page 22: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

22

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TRÙNG DƯƠNG TỊCH THƯỢNG PHÚ BẠCH CÚC

Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng,

Trung hữu cô tùng sắc tự sương.

Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch,

Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.

TIỆC RƯỢU NGÀY TRÙNG DƯƠNG VỊNH HOA CÚC TRẮNG

Đầy vườn bông cúc sắc vàng ươm,

Giữa có cây hoa trắng*) tựa sương.

Cũng giống hôm nay trên chiếu rượu,

Ông già đầu bạc với hoa lang.

■ *) Cây tùng mốc trắng sương

Page 23: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

23

TRỰC TRUNG THƯ SẢNH∗

Ty luân các hạ văn chương tĩnh,

Chung cổ lâu đài khắc lậu trường.

Độc toạ hoàng hôn thuỳ thị bạn,

Tử vi hoa đối Tử vi lang.

TRỰC Ở TOÀ TRUNG THƯ

Ty luân∗ dưới gác văn chương lặng,

Đây đó lâu đài rộn trống chuông.

Chiều tới ngồi mình không có bạn,

Tử vi hoa∗ với Tử vi lang∗.

∗ Trung thư sảnh: Như dinh Tể Tướng. ∗ Ty luận: Tên nơi phụ trách việc ban chiếu, sắc của vua. ∗ Tử vi hoa: Hoa Tường Vi. ∗ Tử vi lang: Chức quan tỏng dinh Tể Tướng.

Page 24: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

24

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TRƯỜNG AN CHÍNH NGUY ỆT THẬP NGŨ NHẬT

Huyên huyên xa kỵ đế vương châu,

Cơ bệnh vô tâm trục thắng du.

Minh nguyệt thanh phong tam ngũ dạ,

Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu.

RẰM THÁNG GIÊNG Ở TRƯỜNG AN

Ngựa xe rộn rịp khắp thành đô,

Quán trọ đau nằm, chả dạo đâu.

Gió mát trăng trong rằm đúng buổi,

Muôn người vui thú một người sầu.

Page 25: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH CƯ DỊ

25

TƯ PHỤ MI

Xuân phong dao đãng tự đông lai,

Chiết tận anh đào triển tận mai.

Duy dư tư phụ sầu mi kết,

Vô hạn xuân phong xuy bất khai.

LÔNG MÀY NGƯỜI PHỤ NỮ ĐANG MONG NHỚ

Gió xuân lả lướt từ đông tới,

Bẻ hết anh đào nở hết mai.

Chỉ có mày người đan nỗi nhớ,

Gió dồn thổi mãi cũng không lơi.

Page 26: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

26

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TỰ KHUYẾN

Ức tích cơ hàn ứng cử niên,

Thoát y điển tửu Khúc Giang∗ biên.

Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,

Hà huống quan cung bất trị tiền.

TỰ MỜI

Thi cử cơ hàn thuở thiếu niên,

Bên sông cố áo rượu say mèm.

Mười ngàn một đấu còn không ngại,

Huống nữa giờ lương đã sẵn tiền.

∗ - Khúc Giang: Tên con sông ở Tường An. Đỗ Phủ từng có mấy bài thơ rất hay về sông Khúc. (Vì dòng sông khúc khuỷu quanh co, nên gọi là Khúc Giang). Trong có câu khá quen thuộc. Tửu trái tầm thường hành xứ hữu Nhân sinh thất thập cổ la hy

Tạm dịch: Nợ rượu tầm thường đâu cũng có Đời người bảy chục hiếm xưa nay

Page 27: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẠCH NGỌC THIỀM

27

BẠCH NGỌC THIỀM Còn gọi là Cát Tường Canh – Tên tự là Hải Quynh, đạo sĩ thời nam Tống, thơ và vè đều giỏi.

TẢO XUÂN

Nam chi tài phóng lưỡng tam hoa

Tuyết ký ngâm hương lộng phấn ta

Đạm đạm trước yên, nồng trước nguyệt

Thâm thâm lung thuỷ đạm lung sa.

XUÂN SỚM

Cành nam vừa nở một vài hoa

Giữa tuyết màu thơm vẫn thoáng qua

Khói nhạt lơ thơ, trăng đậm ánh

Nông sâu cát nước bóng giao hoà.

Page 28: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

28

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BAO HÀ Quê ở Diên Lăng, Chuân Nhuận (Giang Tô). Tên chữ

là Ấu Tự. Năm 748 đỗ tiến sĩ, giữ chức Khởi Cư Xá

nhân thời Đương Đại Lịch. Học phong cách thơ Mạnh

Hạo Nhiên.

KÝ DƯƠNG THỊ NGỰ∗

Nhất quan hà hạnh đắc đồng thì

Thập tải vô môi độc kiến di

Kim nhật bất luân yêu hạ tổ

Thỉnh quân khán thủ mấn biên ty.

GỬI THỊ NGỰ HỌ DƯƠNG

Làm quan may gặp được cùng thời

Không mối∗ mười năm bị bỏ rơi

Trước mắt bàn chi đeo túi ấn

Xin ai ngó tóc muối tiêu∗ rồi.

∗ - Dương Thị Ngự: Có thể là Dương Dự, bạn đỗ Tiến sĩ cùng khoa, có làm Thứ sử châu Từ (Sơn Tây) ∗ - Không mối: Không người giới thiệu, cất nhắc. ∗ - Muối tiêu: Tóc hoa râm.

BAO HÀ

Page 29: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CẢNH VỸ

29

CẢNH VỸ

ĐẠI VIÊN TRUNG LÃO NHÂN

Dung nhẫm nan kham nhất lão thân,

Ba ba lực dịch tại thanh xuân.

Lâm viên thủ chủng duy ngô sự,

Đào lý thành âm qui biệt nhân.

THAY LỜI NGƯỜI GIÀ TRỒNG VƯỜN

Làm mướn thân già mấy khó khăn,

Còn gì sức lực thuở thanh xuân.

Vườn rừng trồng tốt tay ta cả,

Ngọt mật thơm đào kẻ khác ăn.

Page 30: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

30

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO BIỀN ( ? – 887) Quê Châu U (Bắc Kinh). Tự là Thiên Ly. Thời Đường

Hi Tông, làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam*) – Giỏi cả phong

thuỷ.

SƠN ĐÌNH HẠ NHẬT

Lục thụ âm nùng hạ nhật trường

Lâu đài đảo ảnh nhập trì đường

Thuỷ tinh liêm động vi phong khởi

Mã giá tường vi nhất viện hương.

ĐÌNH NÚI NGÀY HÈ

Cây cối ngày hè tán thắm rườm

Lâu đài loáng bóng đẹp ao chuôm

Thuỷ tinh rèm động trời hiu gió

Đầt dậu tường vi khắp viện thơm.

■ *) Theo Đại Vi ệt sử ký toàn thư: Năm 866, Cao Biền đem quân tiêu diệt giặc Nam Chiếu ở Long Biên (sau là Thăng Long – Hà Nội). Thắng giặc được vua Đường Ý Tông cho làm Tĩnh Hải Quân (tức Giao Châu) Tiết độ sứ, nhậm chức ở đó đến năm 875 thỉ đổi đi làm Tiết độ sứ ở Tây Xuyên. (Chú thích của NL)

Page 31: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO BIỀN

31

CẨM THÀNH XUÂN S ẮC

Thục giang ba ảnh bích du du,

Tứ vọng yên hoá táp quận lâu.

Bất hội nhân giai đa thiểu cẩm,

Xuân lai tận quải thụ sao đầu.

CẢNH XUÂN THÀNH CẨM

Sóng lan sông Thục∗ bóng xanh làu,

Hoa khói tư bề giáp gác lầu.

Chả hiểu mọi nhà nhiều ít gấm,

Xuân sanh treo hết ngọn cây cho.

∗ - Sông Thục: Ở Tứ Xuyên.

Page 32: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

32

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

KHIỂN HOÀI

Hoa mãn tây viên nguyệt mãn trì,

Sinh ca dao duệ hoạ thuyền đi.

Như kim ám dữ tâm tương ước,

Bất động chinh kỳ, động tửu kỳ.

THƯ DÃN

Hoa khắp vườn tây nguyệt khắp hồ,

Đàn ca đưa đẩy động thân đò.

Từ nay ngầm với lòng giao ước,

Không động cờ quân, động rượu cờ.

Page 33: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO BIỀN

33

KHUÊ OÁN

Nhân thế bi hoan bất khả tri,

Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.

Như kim hựu hiến Bình nam sách,

Tảo vãn thôi phùng hiệu đới y.

NỖI OÁN PHÒNG KHUÊ

Vui ngán đời người chả biết chi,

Chồng vừa diệt giặc hắc Sơn về.

Lại dâng ngay kế Bình nam tiếp,

Sớm tôi bao lần giục chiến y.

Page 34: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

34

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

KÝ ĐÀI TY PHÓ AN NAM

Tằng khu vạn lý thướng Thiên San,

Phong khứ vân hồi khoảnh khắc gian.

Kim nhật hải môn Nam quốc sự,

Mạc giao hoàn tự Phụng Lâm∗ quan.

GỬI VIÊN ĐÀI TY ĐI AN NAM

Từng phi muôn dặm ngựa Thiên San,

Vùn vụt mây bay gió cuốn tràn.

Sông biển bây giờ Nam quốc tới,

Về đừng trắc trở tựa Lâm quan.

∗ Phụng Lâm: Tên cửa ải ở Cam Túc – thời Đường hay xảy ra nhiều loạn.

Page 35: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO BIỀN

35

KÝ ĐỀ LA PHÙ BIỆT NGHIỆP

Bất tương chân tính nhiễm ai trần,

Vị hữu yên hà bạn thử thân.

Đới nguyệt Trường Giang tương hảo tín,

Bác La sơn hạ bích đào xuân.

ĐỀ NHÀ RIÊNG Ở LA PHÙ

Không cho thiên tính nhuốm nhơ trần,

Vì có luôn luôn khói ráng gần.

Trăng sáng Trường Giang bao mới đẹp,

Bác La đào núi rộn màu xuân.

Page 36: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

36

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

KÝ HUYNH

Lệ ngạc phân trương tín sứ hi,

Kỷ đa hương lệ sái chính y.

Già thanh vị đoạn hồn tiên đoạn,

Vạn lý Hồ thiên điểu bất phi.

GỬI ANH

Anh em cách biệt lối tin thưa,

Áo chiến miền quê lệ chửa khô.

Chưa dứt tiếng khèn hồn đã đứt,

Cánh chim muôn dặm vắng trời Hồ.

Page 37: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO BIỀN

37

TỐNG TÀO BIỆT SẮC TỰ AN NAM HỒI TRIỀU

Vân thuỷ thương mang nhật dục thâu,

Dã yên thâm xứ giá cô sầu.

Tri quân vạn lý triều thiên khứ,

Vị thuyết chinh nam dĩ ngũ thu.

TIỄN HỌ TÀO TỪ AN NAM TRỞ VỀ

Mênh mông mây nước chiều dần thẳm,

Nội vắng đồng hoang giọng cuốc sầu.

Muôn dặm anh về chầu điện ngọc,

Tâu dùm nam tiến đã năm thu.

Page 38: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

38

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO THÍCH (707 - 765) Quê ở Bột Hải, Châu Thương (Sơn Đông), tên tự là Đạt

Phu, Trọng Vũ, tính cách phóng khoáng, ham cờ bạc,

được làm chức Uý Phong Khâu (Hà Nam), nhưng bỏ

chức quan đi ngao du đây đó. Sau lại được Tiết Độ sứ

Hà tây là Kha Thư Hãn mời làm việc, dần được đề bạt

chức Gián Nghị Đại Phu. vì nói thẳng, bị bọn quyền thần

ghét, đưa đi làm Thứ sử Châu Thục, rồi Châu Bành (đều

ở Tứ Xuyên). Về sau được thay chức Tiết độ sứ Tây

Xuyên, rồi về kinh làm Thị lang bộ Hình. Từ năm 50 tuổi

thích sáng tác thơ. Là bạn thân của Lý Bạch, Đỗ Phủ.

BIỆT ĐỔNG ĐẠI *

Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân

Bắc phong suy nhạn tuyết phân phân

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ

Thiên hạ thuỳ nhân bất thức quân

* Đổng Đại: Tức nhạc sĩ Đổng Đình Lan. Lý Kỳ có bài thơ “Nghe Đổng Đại gảy đàn cầm”.

Page 39: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO THÍCH

39

CHIA TAY ĐỔNG ĐẠI∗

Ngàn dặm mây vàng nắng mỏng manh

Gió may thổi nhạn, tuyết mông mênh

Đừng buồn đường trước không tri kỷ

Thiên hạ ai người chẳng biết anh.

TRỪ DẠ TÁC

Lữ quán hàn đăng độc bất miên

Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên

Cố hương kim dạ tư thiên lý

Sương mấn minh triêu hựu nhất niên.

VIẾT ĐÊM 30 TẾT

Quán lạnh đèn trơ ngủ chả nên

Cớ sao nỗi khách chợt sầu lên

Đêm nay làng cũ mong ngàn dặm

Tóc bạc ngày mai tuổi lại thêm.

Page 40: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

40

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CỬU KHÚC TỪ

Thiết mã hoành hành Thiết lĩnh∗ đầu

Tây khán La Sa∗ thủ phong hầu

Thanh Hải∗ chỉ kim tương mã ẩm

Hoàng Hà bất dụng cánh phòng thu∗

BÀI TỪ CHÍN KHÚC∗

Dọc ngang ngựa khỏe đầu non Thiết

Tây ngó La Sa hỏi ấn Hầu

Thanh Hải hồ giờ cho ngựa uống

Sông Hoàng khỏi nghĩ chuyện phòng thu.

■ ∗ Thiết lĩnh: Tên núi ngoài ải Tây bắc ∗ La Sa: Tức La Sa ở Tây Tạng hiện nay. ∗ Thanh Hải: Tên một hồ lớn của tỉnh Thanh Hải. ∗ Phòng thu: Đề phòng mùa thu. Ngày xưa, nước ngoài thường xâm chiếm Trung Hoa vào mùa thu. Lúc này Cao Thích đang làm việc dưới trướng Tiết độ sứ Lũng Hữu Hà Tây tên là Kha Thư Hãn. Kha đã đánh thắng quân Thổ Phồn năm 754 thời Đường Huyền Tông. ∗ Chín khúc: Là tên một khúc trong nhạc phủ, "Ý nói sông Hoàng Hà có đoạn chín khúc", nay thuộc Thanh Hải.

Page 41: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO THÍCH

41

TÁI TH ƯỢNG VĂN XUY ĐỊCH

Tuyết tịnh Hồ∗ thiên mục mã hoàn

Nguyệt minh Khương địch thú lâu nhàn

Tá vấn mai hoa∗ hà xứ lạc

Phong xuy nhất dạ mãn quan san∗.

TRÊN ẢI NGHE THỔI SÁO

Trời Hồ tuyết sạch ngựa theo đàn

Trăng sáng lầu quân rộn tiếng khèn

Thử hỏi hoa mai đâu chốn rụng

Gió bay một tối khắp non ngàn.

∗ Hồ, Khương: Tên gọi các nước khác ở Trung Quốc thời xưa ∗ Lạc mai hoa: Tên bản nhạc "Hoa mai rụng". ∗ "Quan sơn nguyệt": Trăng quan ải, cũng là tên một khúc nhạc.

Page 42: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

42

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CAO THIỀM Quê Bột Hải (Hà Bắc). Đậu tiến sĩ thời Đường

Hi Tông, lám chức Ngự sử Trung thừa.

THƯỚNG CAO THỊ LANG ∗

Thiên thượng bích đào hoà lộ chủng

Nhật biên hồng hạnh ỷ vân tài

Phù dung∗ sinh tại thu giang thượng

Bất hướng đông phong oán vị lai

DÂNG THỊ LANG HỌ CAO

Đào biếc ngang trời sương móc trong

Nắng soi hồng hạnh ánh mây hồng

Phù dung nở chốn sông thu ấy

Chả có bao giờ oán gió đông

∗ - Cao Thị Lang: Cao Biên – Một người văn võ toàn tài. ∗ - Phù dung: Một loại cây hoa màu hồng, sáng nở tối tàn.

CAO THIÊM

Page 43: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHÍ NAM

43

CHÍ NAM ( ? ) Một vị sư thời Nam Tống

TUYỆT CÚ

Mộc cổ âm trung hệ đoản bồng

Trượng Lê phù ngã quá kiều đông

Chiêm nghi dục thấp hạnh hoa vũ

Suy diện bất hàn dương liễu phong

THƠ BỐN CÂU

Dưới gốc cây xưa buộc mái bồng∗

Gậy Lê∗ mình chống vượt cầu đông

Mưa hồng hạnh muốn làm xiêm ẩm

Gió liễu đùa tai chả lạnh lùng

■ ∗ Mái bồng: Mui thuyền thường lợp bằng lá gồi, bồng. ∗ Lê: Một loại cây như song, sậy, dùng làm gậy chống.

Page 44: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

44

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHU HI ( 1030 – 1120) Quê ở Vụ Nguyên (Giang Tây) tự là Nguyên Hối, nhà lý

học nổi tiếng thời Tống

CHỢT VIẾT

Trẻ trai dễ lão học khôn thành

Một tấc quang âm chẳng được khinh

Chưa tỉnh giấc mơ xuân cỏ bãi (bến)

Tiếng thu đã động lá ngô xanh.

DẠO THUYỀN

Tối trước sông xuân trời nổi dáng

Thuyền to vùn vụt lướt như phi

Bấy nay đẩy kéo hao bao mẻ

Giờ giữa dòng trôi thoải mái đi.

Page 45: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHU HI

45

LỰU HOA

Ngũ nguyệt lựu hoa chiếu nhãn minh

Chi gian thời hiện tử sơ thành

Khả lân thử địa vô xa mã

Điên đảo thương đài lạc giảng anh.

HOA LỰU

Tháng năm hoa lựu nở trên cành

Thấp thoáng vài ba quả mới thành

Đáng tiếc nơi đây xe ngựa vắng

Ngả nghiêng cánh tía rụng rêu xanh.

Page 46: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

46

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

QUAN THƯ HỮU CẢM

Bán mẫu phương đường nhất kính khai

Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi

Vân cừ na đắc thanh như hử

Vị hữu nguyên đầu hoạt thuỷ lai.

XEM SÁCH CÓ CẢM XÚC

Nửa mẫu hồ gương ảnh sáng ngời

Trời quang mấy sáng thảy bồi hồi

Hỏi hồ sao được trong như vậy

Vì có đầu nguồn nước chảy xuôi.

Page 47: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHU HI

47

TỰ CẢNH

Thập niên phù hải nhất thân khinh

Quy ngộ Lê Oa khước hưu tình

Thế thượng vô như nhân dục hiểm

Kỷ nhân đáo thử ngộ bình sinh.

TỰ RĂN

Mười năm bãi biển tấm thân khinh

Về gặp Lê Oa∗ lại có tình

Cuộc thế duyên tình nguy hiểm quá

Bao người tới đó lỡ bình sinh.

■ ∗ Lê Oa: Đúng nghĩa là má lúm đồng tiền. nhưng ở đây chỉ tên một ca nữ xinh đẹp là Lê Thanh cũng có má lúm đồng tiền. Chuyện kể Hàn Đạm sau khi bị biếm đày ra biên rồi được ân xá về kinh. Trên đường ghé qua Tương Đàm, được mời dự tiệc rượu. Trong tiệc ượu, Hàn gặp ca nữ Lê Thanh, nhân đó làm bài thơ, trong đó có 2 câu: Quân ân hứa quy thử nhất túy Bảng hưu Lê Giáp sinh Vi Oa. Tạm dịch: Ơn vua được về, dự tiệc rượu Ngồi bên cô gái lúm đồng tiền. Sau này, Chu Hi có việc quan Tương Đàm, biết chuyện và làm bài thơ trên.

Page 48: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

48

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

XUÂN NHẬT

Thắng nhật tầm phương Tứ thủy tân

Vô biên quang cảnh nhất thời tân

Đẳng nhàn thức đắc đông phong diện

Vạn tử thiên hồng tổng thuỵ xuân.

NGÀY XUÂN

Ngày đẹp tìm hoa bến Tứ gần

Mênh mang quang cảnh mới vô ngần

Nơi nơi thấy mặt làn Đông đấy

Muôn tía ngàn hồng thảy thảy xuân.

Page 49: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHU KHÁNH DƯ

49

CHU KHÁNH DƯ Nhà thơ thời Đường

CUNG TRUNG TỪ

Tịch tịch hoa thời bế viện môn,

Mỹ nhân tương tịnh lập quỳnh hiên.

Hàm tình dục thuyết cung trung sự,

Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn.

TRONG CUNG

Lặng lẽ nhìn hoa cửa chặt then,

Sáng nay người đẹp tựa Quỳnh hiên.

Những toan kể chuyện nơi cung điện,

Thấy vẹt bay vào, lại lặng yên.∗

∗ - Các cung phi định nói chuyện riêng cung cấm, nhưng thấy con vẹt, lại sợ chúng “nói lại”!

Page 50: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

50

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CẬN THÍ TH ƯỚNG TRƯƠNG THUỶ BỘ

Động phòng tạc dạ đình hồng chúc,

Đãi hiểu đường tiền bái cữu cô.

Trang bãi đê thanh vấn phu tế,

Hoạ my thâm thiểm nhập thời vô.

GẦN LÚC THI, DÂNG TRƯƠNG THUỶ BỘ

Động phòng tối trước thôi hồng đuốc,

Đợi sáng lên nhà lậy mẹ cha.

Trang điểm vừa xong hỏi chồng nhỏ,

Vữ mày đậm nhạt hợp thời chưa?

Page 51: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHU TẤT ĐẠI

51

CHU TẤT ĐẠI ( 1126 - 1204)

Quê Lư Lăng (Giang Tây). Tự là Tử Sung,

Hằng Đạo. Hiệu là “Bình nguyên lão nhân”.

Đậu tiến sĩ thời Tống Thiệu Hưng, làm chức Tả

Thừa Tướng.

NHẬP TRỰC

Lục hoè giáp đạo tập lôn nha

Sắc sứ truyền tuyên toạ tứ trà

Qui đáo Ngọc Đường thanh bất mị

Nguyệt câu sơ thướng Tử Vi hoa.

VÀO TRỰC BAN

Hoè xanh bên lối chiều đông qua

Sứ tới truyền cho uống ngự trà

Về điện Ngọc Đường chưa muốn ngủ

Trăng liềm vừa rạng Tử Vi hoa

Page 52: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

52

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHU THỤC CHÂN

Còn gọi là Chu Thục Trinh. Quê Tiền Đường (Chiết Giang). Năm tháng sinh chưa rõ. Thời Tống chồng là

nhà buôn.

CUNG SẦU

Tịch tịch sơ liêm quải ngọc lâu

Lâu đầu tân nguyệt khúc như câu

Bất tu vấn ngã tình thâm thiển

Câu động trường thiên viễn thuỷ sầu.

NỖI SẦU

Hiu quạnh rèm thưa rủ ngọc lâu

Đầu lầu trăng mới uốn vòng câu

Tình ta sâu cạn xin đừng hỏi

Trăng động trời xa nước loáng sầu.

CHU THỤC CHÂN

Page 53: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHU THỤC CHÂN

53

TỨC CẢNH

Trúc dao thanh ảnh trạo u song

Lưỡng lưỡng thời cầm táo tịch dương

Tạ khước hải đường phi tận nhứ

Nhàn nhân thiên khí nhật sơ trường.

TỨC CẢNH

Trúc lay bóng mảnh xoà song vắng

Vài tiếng chim nào rộn tịch dương

Từ biệt hải đường bay hết cánh

Người nhàn trời đẹp tứ mênh mang.

Page 54: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

54

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LẠC HOA

Liên lý chi đầu hoa chính khai

Đố hoa phong vũ tiện tương tồ

Thỉnh giao thanh đế thường vi chủ

Mạc khiển phân phân điểm thuý đài.

HOA RỤNG

Đầu những cành giao hao nở tươi

Ghen hoa mưa gió tới tơi bời

Chúa xuân xin hãy luôn làm chủ

Đừng để làn rêu hứng cánh rơi.

Page 55: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CHU THỤC CHÂN

55

CÁC THUỶ NGUYỆT TẠI CHỦ

Vô sự giang đầu lộng bích ba

Phân minh chưởng thượng kiến Hằng Nga

Bất tri Lý Trích tiên nhân tại

Tằng hướng giang đầu tróc đắc ma.

VỐC NƯỚC THẤY TRĂNG Ở TAY

Vô sự đầu sông đùa sóng biếc

Trên tay rành thấy dáng cô Hằng

Chẳng hay Lý Trích tiên khi sống

Từng tới đầu sông bắt đựơc trăng?

Page 56: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

56

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LỘNG HOA HƯƠNG MÃN Y

Diễm hồng ảnh lý biệt phương phi

Chiêm nhạ xuân phong lưỡng tụ y

Giáp lộ lộ đào hồn dục tiếu

Bất câm phong điệp nhiễu nhân phi

ĐÙA HOA THƠM ĐẦY ÁO

Giữa vùng hồng tía ngát thơm tươi

Thấm đượm làn xuân vạt áo dài

Cạnh lối đào sương như mỉm miệng

Ngăn sao ong bướm lượn quanh người.

Page 57: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CỐ HUỐNG

57

CỐ HUỐNG Nhà thơ thời Đường. Người Tô Châu, tự là Bô Ông (ông lẫn), đỗ tiễn sĩ năm 757 (Đường Túc Tông), làm chức Bí thư lang, từng theo đòi việc quan dưới quyền Lý Bật, sau được thăng chức Trước tác lang. Tể tướng Lý Bật mất, vì làm thơ châm biếm, bị đổi đi Châu Nhiêu làm chức Tư hộ Tham quân. Cố đưa gia đình rời đến Mai Sơn, rồi không rõ tung tích, có người nói “đi tu tiên”

CUNG TỪ

Ngọc lâu thiên bán khởi sênh ca,

Phong tống cung tần tiếu ngữ hoà.

Nguyệt điện ảnh khai văn dạ lậu,

Thuỷ tinh liêm quyển cận thu hà.

TRONG CUNG

Ngang trời lầu ngọc nổi đàn ca,

Cung nữ cười vui gió dịu hòa

Trăng sáng đồng hồ nghe động giọt,

Thuỷ tinh rèm cuốn giáp Ngân Hà.

Page 58: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

58

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THÍNH GIÁC T Ư QUY

Cố viên hoàng diệp mãn thanh đài,

Mộng phá thành đầu hiểu giác ai.

Thử dạ đoan trường nhân bất kiến

Khởi hành tàn nguyệt ảnh bồi hồi.

NGHE TIẾNG ỐC NGHĨ NGÀY VỀ

Vườn xưa vàng lá xám rêu dầy

Ốc sớm bên thành tỉnh mộng say

Nẫu ruột đêm này người chả thấy

Bâng khuâng cất bước bóng trăng đầy.

Page 59: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CỐ HUỐNG

59

HỒ TRUNG

Thanh Thảo hồ biên nhật sắc đê

Hoàng mao chướng lý giá cô đề

Trượng phu phiêu đãng kim như thử

Nhất khúc trường ca Sở thuỷ tê.

GIỮA HỒ

Thanh Thảo∗ hồ bên nắng xế chiều

Giữa vùng gianh úa∗ giá cô∗ kêu

Trẻ trai phiêu bạt nay như thế

Bến Sở ca∗ dài mấy quạnh hiu.

∗ Thanh Thảo: Hồ Thanh Thảo ở phía đông bắc hồ Động Đình, vì khi nước cạn thì đây là bãi cỏ xanh, nên có tên là “Thanh Thảo” ∗ Gianh úa: Cỏ gianh úa do một loại sâu bệnh. ∗ Giá cô (đa đa) là loại chim phương nam, có giọng kêu nghe như “đi không được, ai ơi” (B ắt cô trói cột) ∗ - Sở ca: Bài ca dài ở đây chỉ khúc “Ly tao” của Khuất Nguyên, người nước Sở thời Chiến quốc bị đuổi đi khỏi nước.

Page 60: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

60

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TÚC CHIÊU ỨNG

Vũ Đế kỳ linh Thái Ất đàn

Tân Phong thụ sắc nhiễu thiên quan

Na tri kim dạ Trường Sinh điện

Độc bế không sơn nguyệt ảnh hàn.

NGỦ TRƯA CHIÊU ỨNG∗

Vũ Đế∗ cầu thiêng Thái Ất đàn

Tân Phong cây cối đẹp non ngàn

Đêm nay đâu biết Trường Sinh điện

Trăng lẻ đồi hoang ánh lạnh tràn.

∗ Chiêu Ứng: Ở Tây bắc núi Ly (nay thuộc Thiển Tây), trước gọi là Hội Xương. Thời Đường Huyền Tông (748), có tin đồn Lão Tử ( họ Lý, nhà Đường nhận Lão Tử là Tổ sư) giáng lâm ở gác Tiêu huyền, Cung Hoa Thanh núi Ly, nên đổi là Chiêu Ứng. Huyền Tông dựng đàn ở gác Tiêu Huyền cầu Trường Sinh nhưng rồi bị loạn An Lộc Sơn phá hoại ∗ Xưa Hán Vũ Đế cũng lập đàn Tập Linh ở Hoa Sơn để cầu thần linh.

Page 61: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DÃ TĂNG

61

DÃ TĂNG

NGUYỆT VỊNH*)

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung

Nhất tự ngân câu nhất tự cung.

Nhất phiết ngọc hồ phân lưỡng đoạn

Bán trầm thuỷ để, bán phù không

VỊNH TRĂNG

Mồng ba mồng bốn nguyệt mơ mòng

Một tựa vòng câu, một tựa cung.

Hồ ngọc một vầng hai nửa cắt,

Nửa chìm đáy nước, nửa ngang không.

*) Bài thơ này có thuyết cho là có liên quan tới bài thơ PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế. Hai câu đầu là của sư cụ chùa Hàn San làm giữa đêm khuya, đến đây bí, nghĩ mãi không ra; được chú tiểu tiếp hai câu sau. Sư cu cho là được Phật Tổ phù hộ, cho dóng chuông tạ ơn . Đó chính là tiếng chuông trong câu “Bán dạ chung thanh đáo khách thuyền” của Trương Kế. (NL chú thích)

Page 62: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

62

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DIỆP THÁI ( ? )

Quê Phúc Kiến. Hiệu là Bình Nhan. Có làm quan đời Tống.

MỘ XUÂN TỨC SỰ

Song song ngoã tước hành thư án

Điểm điểm dương hoa nhập nghiễn trì

Nhàn toạ tiểu song độc Chu Dịch

Bất tri xuân khứ kỷ đà thì.

XUÂN MUỘN TỨC CẢNH

Chập chờn đôi sẻ ngang bán lượn

Loáng thoáng hoa dương đĩa mực ngời

Ngồi rỗi bên song đọc Chu Dịch

Chả hay xuân trảy tự bao rồi.

DIỆP THÁI

Page 63: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DIỆP THIỆU ÔNG

63

DIỆP THIỆU ÔNG Tự là Đắc Tôn, hiệu là Tĩnh Đạt quê Long

Tuyền (Chiết Giang).

DU TIỂU VIÊN BẤT TRỊ

Ưng hiềm kỹ sỉ ấn thương đài

Thập khấu sài phi cửu bất khai

Xuân sắc mãn viên quan bất trụ

Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai.

ĐẾN CHƠI TRẠI VƯỜN KHÔNG GẶP

Những hiềm dấu dép in rêu xám

Gõ cửa mười phen chín vắng người

Xuân sắc đầy vườn ngăn chả nổi

Một cành hồng hạnh vượt tường chơi.

Page 64: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

64

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG BỊ Thời Tống

PHONG HỎA ĐÀI

Nhất đới đông lưu đương phức khuyết

Trúc đài tương vọng thủy vân gian

Diễm hoa ưng bất như Bao Tự

Kỷ hửa lang yên đắc phá nhan.

ĐÀI NỔI LỬA∗

Miền đông một dải đang nguy khốn

Đài dựng gần nhau nối suối ngàn

Xinh đẹp đừng như Bao Tự nhé!

Mấy rồi khói lửa xém hồng nhan.

∗ - Thời xưa có lệ, nếu có giặc ngoại xâm, thì đắp dựng cài cao, đốt lửa, báo cho các nước láng giềng tới cứu viện.

Page 65: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG BỊ

65

TÀM THẤT

Trích kiển trừu ty nữ tại ky

Mao thiềm vi bạc cựu đường phi

Niên niên tang thác như vân lục

Phiên chức thùy gia cẩm địa y.

NHÀ TẰM

Nhặt kén ươm tơ cô gái dệt

Mái xưa cỏ bái với rèm lau

Năm năm dâu duối như mây biếc

Áo gấm chuyên may đẹp chốn nào?

Page 66: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

66

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG CỰ NGUYÊN ( ? )

Quê Đường Phố (Sơn Tây). Đậu tiến sĩ thời Đường Trịnh Nguyên.

HOẠ LUYỆN TÚ TÀI DƯƠNG LIỄU

Thuỷ biên dương liễu lục yên ti

Lập mã phiền quân chiết nhất chi

Duy hữu xuân phong tối tương tích

Ân cần cánh hướng thủ trung xuy.

HOẠ BÀI THƠ “DƯƠNG LIỄU” CỦA

TÚ TÀI HỌ LUYỆN

Bên bờ dương liễu tơ buông thắm

Xin một cành xanh duổi ngựa về

Chỉ có gió đông là luyến tiếc

Quanh tay cầm liễu vẫn theo đi.

Page 67: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG CỰ NGUYÊN

67

THÀNH ĐÔNG TẢO XUÂN

Thi gia thanh cảnh tại tân xuân

Lục liễu tài hoàng, bán vị quân

Nhược đãi Thượng Lâm∗ hoa tự cẩm

Xuất môn câu thị khán hoa nhân

XUÂN SỚM MIỀN ĐÔNG THÀNH PHỐ

Xuân về cảnh đẹp mắt thi gia

Lá liễu xanh vàng sắc chớm pha

Nếu đợi Thượng Lâm hoa tựa gấm

Ra đường chỉ gặp khách xem hoa.

∗ Thượng Lâm: Tên vườn hoa của vua Tần (Thiểm Tây) được vua Hán mở rộng. Có chỗ dùng để nhà vua săn bắn.

Page 68: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

68

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG VẠN LÝ ( 1124 - 1206)

Quê Cát Thuỷ. Hiệu là Thành Trai. Có làm quan thời Tống. Bạn thân của Lục Du, Phạm Thành Đại v.v.

THƯƠNG XUÂN

Chuẩn nghĩ kim xuân lạc sự nồng

Y nhiên uổng khước nhất đông phong

Niên niên bất đới khan hoa nhãn

Bất thị sầu trung tức bệnh trung.

THƯƠNG XUÂN

Cứ ngỡ xuân nay thú lạ lùng

Nào ngờ để uổng cả làn Đông

Năm năm đều đặn xem hoa đẹp

Sầu cũng không mà ốm cũng không.

Page 69: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG VẠN LÝ

69

HIỂU HÀNH ĐẠO BÀNG ĐỖ QUYÊN HOA

Khấp lộ đề hồng tái mố sinh

Khai thời thiên trị đỗ quyên thành

Đỗ quyên khẩu huyết năng đa thiểu

Bất thị chinh nhân lệ trích thành.

HOA ĐỖ QUYÊN BÊN ĐƯỜNG SỚM

Khóc thắm gào sương nỗi đã rành

Quyên kêu đúng lúc nở hoa xinh

Đỗ quyên gào máu nhiều không nhỉ

Hay lệ chinh phu đỏ rọng thành.

Page 70: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

70

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HẠ THUỴ KHỞI

Mai tử lưu toàn tiện sỉ nha

Ba tiêu phân lục thướng song sa

Nhật trường thuỵ khởi vô tình tứ

Nhàn khán nhi đồng tróc liễu hoa.

SAU GIẤC NGỦ NGÀY HÈ

Chảy thêm nước miếng ngó mai già

Tàu chuối xanh xanh rợp mái nhà

Ngủ dậy ngày dài tình tứ rỗng

Rỗi nhìn đàn trẻ đuổi săn hoa.

Page 71: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG VẠN LÝ

71

TIỂU TRÌ

Tuyền nhãn vô thanh tích tế lưu

Thụ âm chiếu thuỷ ái tình nhu

Tiểu hà tài lộ tiêm tiêm giốc

Tảo hữu thanh đình lập thượng đầu.

AO CON

Không làn gợn nhỏ mặt sao sâu

Bóng nước hình cây cảnh rõ màu

Sen búp thon thon vừa nhú ngọn

Chuồn chuồn sớm đã đậu trên đầu.

Page 72: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

72

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TÚC TÂN TH Ị TỪ CÔNG ĐIẾM

Ly lạc sơ sơ nhất kính thâm

Thụ đầu hoa lạc vị thành âm

Nhi đống cấp tẩu truy hoàng điệp

Phi nhập thái hoa vô xứ tầm.

QUA ĐÊM TẠI CỬA HÀNG ÔNG TỪ CHỢ MỚI

Dâu thưa heo hút ngõ mòn sâu

Hoa rụng nên cây chửa rợp mầu

Lũ trẻ chạy ào săn đuổi buớm

Bay vào vườn cải biết tìm đâu.

Page 73: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG VẠN LÝ

73

HIỂU XUẤT TĨNH TỪ TỰ TỐNG LÂM TƯ PHƯƠNG

Tất kính Tây hồ lục nguyệt trung

Phong quang bất dữ tứ thời đồng

Tiếp thiên liên diệp vô cùng bịch

Ánh nhật hà hoa biệt dạng hồng.

SÁNG RA CHÙA T ỊNH TỪ TIỄN LÂM TƯ PHƯƠNG

Tháng sáu Tây hồ gương sáng trong

Bốn mùa phong cảnh khác vô cùng

Lá sen xanh biếc chân trời thẳm

Đẵm nắng hoa sen đỏ lạ lùng.

Page 74: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

74

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG PHÁC ( 921 - 1003)

Quê Tân Trịnh (Hà Nam). Tự là Khế Nguyên. Hiệu là Đông Dã dật dân - Thời Tống. Ở ẩn.

THẤT TỊCH

Vị hội Khiên Ngưu ý nhược hà

Chỉ tu Chức Nữ lộng kim thoa

Niên niên khất giữ nhân gian sảo

Bất đạo nhân gian sảo dĩ đa.

ĐÊM RẰM THÁNG 7

Chưa rõ Ngưu Lang nghĩ thế nào

Chỉ cần Chức Nữ dẻo tay thêu

Năm năm giúp khéo trần gian mãi

Chả kể nhân gian khéo đã nhiều.

DƯƠNG PHÁC

Page 75: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG SĨ NGẠC

75

DƯƠNG SĨ NGẠC Quê ở Thái Sơn (Sơn Đông). Năm 735 đỗ tiến sĩ. Thời Đường Thuận Tông, làm chức Tuần tra châu Tuyên (An Huy). Vì tính tình nóng nảy, trái ý quyền thần Vương Thúc Văn, bị dời làm chức Uý Ninh Hoá (Phúc Kiến). Năm 807 được tể tướng Lý Cát Phủ tiến cử làm chức Giám sát ngự sử, nhưng sau đó lại xung đột với Tể tướng, bị biếm làm Thứ sử châu Tư (Tứ Xuyên).

ĐĂNG LÂU ∗

Hoè liễu tiêu sơ nhiễu quận thành

Dạ thiêm sơn vũ tác giang thanh

Thu phong nam mạch vô xa mã

Độc thướng cao lâu cố quốc tình.

LÊN LẦU

Hoè liễu đìu hiu khắp quận thành

Đêm nghe mưa núi ngỡ sông dềnh

Gió thu xe ngựa bờ nam vắng

Nước cũ lầu cao diệu vợi tình.

∗ Có thể đây cũng là bài thơ Dương viết ở châu Tư nơi Dương làm việc quan.

DƯƠNG SỸ NGẠC

Page 76: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

76

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

QUẬN TRUNG TỨC SỰ∗

Hồng y lạc tận án hương tàn

Diệp thượng thu quang bạch lộ hàn

Việt nữ hàm tình dĩ vô hạn

Mạc giao trường tụ ỷ lan can.

CẢM HỨNG NƠI DỊCH SỞ

Xiêm hồng∗ rơi hết thoáng hương tàn

Trên lá màu thu móc lạnh tràn

Gái Việt∗ tình thầm kể khôn xiết

Đừng thêm vạt múa∗ tựa lan can.

∗ Bài thơ có thể viết khi tác giả làm việc ở quận Tư Dương ( Tứ Xuyên) ∗ Xiêm hồng: Ở đây chỉ cánh hoa sen. ∗ Gái Việt: Việt là tỉnh Chiết Giang, nơi nhiều phụ nữ xinh đẹp. Ở đây, là những ca nhi, vũ nữ dự tiệc ở quận (châu Từ). ∗ Vạt múa: Loại áo múa.

Page 77: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐOÀN THÀNH THỨC

77

ĐOÀN THÀNH THỨC ( ? - 863)

Người quê ở Lâm Trung, Châu Tề (Sơn Đồng), biểu tự là Kha Cổ. Vì là con Tể tướng thời Đường Mục Tông là Đoàn Văn Xương, nên nhờ công lao của cha mà được bổ nhiệm chức quan Hiệu Thư Lang, rồi Thượng Thư Lang, rồi Thứ Sử châu Cát (tỉnh Giang Tây), Thái Thường Thiếu Khanh. Ông học rộng biết nhiều. Có tập tuỳ bút “ Đậu Dương Tạp Trở” r ất nổi tiếng.

CHIẾT DƯƠNG LIỄU

Chi chi giao ảnh toả Trường Môn

Nộn sắc tằng chiêm vũ lộ ân

Phượng liễn bất lai xuân dục tận

Không lưu oanh ngữ đáo hoàng hôn.

Page 78: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

78

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BẺ CÀNH DƯƠNG LIỄU∗

Cành cành giao bóng khoá Trường Môn

Mưa móc đòi phen thấm lá non

Kiệu Phượng∗ không qua xuân muốn hết

Tiếng oanh suống giọng tới hoàng hôn.

∗ Bẻ dương liễu: Tên một bài hát trong nhạc phủ. Bài này với nội dung tả nỗi buồn than của Trần Hoàng hậu bị ruồng bỏ, giam hờ ở cung Trường Môn. Sau bà cho người tặng Tư Mã Tương Như một ngàn lạng vàng, nhờ Tương Tư viết bài “Phú Trường Môn”. Bởi vậy, lại được Hán Vũ Đế chiều chuộng hơn trước. Đây là một trong bẩy bài thơ của Đoàn lấy tên điệu nhạc phủ này. ∗ Kiệu Phượng: Kiệu có chạm vẽ chim phượng hoàng, dùng cho nhà vua.

Page 79: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ LỖI

79

ĐỖ LỖI Quê Lâm Xuyên (Chiết Giang). Tự là Tử Dã. Hiệu là Tiểu Dã. Bạn học cùng Vương An Thạch thời Tống.

HÀN DẠ

Hàn dạ khách lai trà đáng tửu

Trúc lô thang phí hoả sơ hồng

Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt

Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.

ĐÊM LẠNH

Đêm lạnh khách thăm chè thế rượu

Bếp lò đun nước lửa đang hồng

Ngoài song trăng vẫn thường như trước

Chỉ có hoa mai khác lạ lùng

Page 80: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

80

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ MỤC (803 – 852) Đời Đường có 2 đôi “Lý Đỗ” – một là Lý Bạch và Đỗ Phủ - hai là Lý Thường và Đỗ Mục. Người ta còn gọi Đỗ Mục là “Tiểu Đỗ”.

CẢM HOÀI

Lạc phách giang hồ tải tửu hành,

Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.

Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,

Doanh đắc thanh lâu bạc hạnh danh.

CẢM HOÀI

Phiêu bạt hồ sông rượu áp bình,

Lưng eo∗ gái Sở sẵn bên mình.

Mười năm tỉnh giấc Dương Châu mộng,

Kiếm được lầu xanh tiếng “bạc tình”.

■ ∗ - Lưng eo: Vua nước Sở ngày xưa chỉ kén những cô gái lưng eo vào cung.

ĐỖ MỤC

Page 81: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ MỤC

81

DẠ BẠC TẦN HOÀI

Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,

Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu đình hoa.

ĐÊM ĐỖ BẾN TẦN HOÀI

Nước lồng khói lạnh cát trắng nhoà,

Đêm đậu Tần Hoài cạnh tửu gia

Cô gái chả hay hờn mất nước,

Cách sông còn hát Hậu đình hoa∗.

∗ - Hậu đình hoa: Một sáng tác của Trần Hậu chủ - lời ca uỷ mị,

Page 82: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

82

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIANG NAM XUÂN

Thiên lý oanh đề lục ánh hồng

‘Thuỷ thôn sơn quách tửu kỳ phong

Nam triều∗ tứ bách bát thập tự

Đa thiểu lâu đài yên vũ trung.

XUÂN GIANG NAM

Ngàn dặm oanh kêu thắm điểm hồng

Cờ bay quán rượu gió thôn sông

Bốn trăm tám chục chùa Nam ấy

Lầu gác trong mưa loáng khói lồng.

∗ Nam triều: Gồm các triều Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần

Page 83: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ MỤC

83

KIM C ỐC∗ VIÊN

Phồn hoa sự tán trục hương trần,

Lưu thuỷ vô tình thảo tự xuân.

Nhật mộ đông phong oán đề điểu,

Lạc hoa do tự truỵ lâu nhân∗.

VƯỜN KIM CỐC

Phồn hoa hết chuyện nhạt hương trầm,

Nước chảy vô tình cỏ tự xuân.

Ngày tới gió đông chim khắc khoải,

Hoa rơi còn tựa gái gieo thân.

∗ Kim Cốc: Tên vườn hoa của Thạch Sùng, nhà giàu có bậc nhất đời Tấn. ∗ Truỵ lâu nhân: Người nhảy lầu – đây nói về chuyện Lục Châu một kỹ nữ của Thạch Sùng nhảy lầu quyên sinh để biểu thị tình yêu chung thuỷ.

Page 84: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

84

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

KÝ DƯƠNG CHÂU HÀN XƯỚC PHÁN QUAN

Thanh sơn ẩn ẩn thuỷ thiều thiều,

Thu tận Giang Nam thảo mộc điêu.

Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ,

Ngọc nhân hà xứ giáo xuy tiêu.

GỬI PHÁN QUAN HÀN XƯỚC Ở CHÂU DƯƠNG

Thấp thoáng non xanh nước dập dìu,

Giang Nam thu hết nội đìu hiu.

Hai mươi bốn nhịp cầu trăng sáng,

Người ngọc nơi nào rộn tiếng tiêu.

Page 85: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ MỤC

85

QUÁ HOA THANH CUNG

Trường An hồi vọng tú thành đôi,

Sơn đỉnh thiên môn thứ đệ khai.

Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu,

Vô nhân tri thị lệ chi lai.

ĐI QUA CUNG HOA THANH ∗

Trường An ngó lại gấm hoa bời,

Đỉnh núi ngàn song mở bốn trời.

Vó ngựa bụi hồng, Nàng∗ mỉm miệng,

Không ai hay biết vải về rồi.

∗ Hoa Thanh: Tên cung điện ở núi Ly, nơi Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi thường tới đó tắm suối nước nóng. ∗ Nàng: Ở đây là Dương Quý Phi, mỉm miệng cười khi thấy người chạy ngựa khoẻ để đưa kịp vải ngon về tiến.

Page 86: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

86

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

SƠN HÀNH

Viễn thướng hàn sơn thạch kính tà,

Bạch vân sinh xứ hữu nhân gia.

Đình xa toạ ái phong vân lãm,

Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa.

ĐƯỜNG NÚI

Lối đá chênh leo núi lạnh xa,

Ở nơi mây trắng có ngôi nhà.

Dừng xe hóng gió rừng phong tối,

Lá đẵm sương hồng tựa cánh hoa.

Page 87: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ MỤC

87

TẶNG BIỆT

Đa tình khước tự tổng vô tình,

Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.

Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,

Thế nhân thuỳ lệ đáo thiên minh.

TẶNG BIỆT

Nhiều tình mà lại tựa vô tình,

Cười gượng bên li cũng chả thành.

Nến sáp có lòng thương tiếc biệt,

Thay người lệ nhỏ mãi tàn canh.

Page 88: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

88

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THÁN HOA

Tự thị tầm phương khứ hiệu trì,

Bất tu trù trướng oán phương thì.

Cuồng phong lạc tận thâm hồng sắc,

Lục diệp thành âm, tử mãn chi.

THAN HOA

Tự biết tìm hoa lỡ chậm chầy,

Chả nên ngao ngán oán hương bay.

Gió đông rụng hết màu tươi đỏ,

Lá thắm um tùm quả trĩu cây.

Page 89: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ MỤC

89

THANH MINH

Thanh minh thời tiết vũ phân phân

Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn

Tá vấn tửu gia hà xứ thị

Mục đồng dao chỉ Hạnh hoa thôn.

TIẾT THANH MINH

Thanh minh thời tiết bụi mưa phùn

Khắp nẻo người đi muốn đứt hồn

Xin hỏi nơi đâu là quán rượu

Trẻ chăn xa chỉ Hạnh hoa thôn.

Page 90: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

90

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THU TỊCH

Ngân chúc thu quang lãnh hoạ bình,

Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh.

Thiên gia dạ sắc lương như thuỷ,

Toạ khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh.

ĐÊM THU

Đuốc bạc màu thu lạnh hoà bình,

Nhẹ xua quạt lụa đóm bay quanh.

Bầu trời đêm mát như màu nước,

Chức Nữ Khiên Ngưu ngắm thoả tình.

Page 91: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ MỤC

91

XÍCH BÍCH HOÀI C Ổ

Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,

Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.

Đông phong bất dữ Chu lang tiện,

Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều.

NHỚ CHUYỆN XƯA Ở XÍCH BÍCH

Sáo gãy chìm sông chưa rỉ sắt,

Rửa lau tìm lại dấu tiền triều.

Chàng Chu∗ chả được làn đông giúp,

Đồng Tước∗ cung sâu khoá nhị Kiều∗.

∗ Chàng Chu: Chu Du, Đại đô đốc của Đông Ngô thời Tam quốc. ∗ Đồng Tước: Tên đài do Tào Tháo xây dựng. ∗ Nhị Kiều: Hai chị em nàng Kiều - Chị là vợ Tôn Sách vua Đông Ngô, em gái là vợ Chu Du. Truyền thuyết, Táo Tháo xây đài Đồng Tước để khi nào đánh thắng Đông Ngô thì sẽ đưa hai nàng Kiều về đó. Hai chị em họ Kiều.

Page 92: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

92

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ PHỦ (712 - 770)

Tên tự là Tử Mỹ, cháu nội Đỗ Thẩm Ngôn, người Kinh Triệu (có thuyết nói người Tương Dương). Lúc trẻ nhà nghèo túng, đi chơi các nơi, rồi về dự thi ở Trường An, không đỗ. Năm 755 được cử giữ chức Tham quân, ông đưa vợ con đi chơi Phụng Tiên (Thiểm Tây). Loạn An Lộc Sơn, ông tham gia đạo quân của Túc Tông ở Linh Vũ (Ninh Hạ), bị quân giặc bắt, giam tại Trường An. Năm sau, ông cải trang trốn thoát, tới yết kiến Đường Túc Tông ở Phượng Tường (Thiểm Tây), được trao chức Tả Thập Di. Dẹp loạn xong, vì tính hay nói thẳng bị quyền thần ghét, chuyển làm Tham quân ở Hoa Châu (Thiểm Tây). Vì năm đói kém, ông bỏ quan, đưa vợ con đi lưu lạc, rời nhà tới Tần Châu (Tam Cúc). Được Nghiêm Vũ giúp đỡ, nhưng không được bao lâu. Năm 765 ông lại bỏ đi, xuôi dòng Đại Giang (Trường Giang) tới Quỳ Châu (Tứ Xuyên). Ba năm sau lại từ Hồ Bắc về Trường An, rồi lại từ Nhạc Dương đi Tương Giang (Miền Nam), và qua đời trên đò dọc đường.

Page 93: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ PHỦ

93

BẦN GIAO HÀNH ∗

Phiên thủ tác vân phú thủ vũ

Phân phân khinh bạc hà tu số

Quân bất kiến: Quản Bão∗ bần thời giao

Thử đạo kim nhân khí như thổ.

HÀNH KHÚC BẠN LÚC NGHÈO

Làm mây tay sấp làm mưa ngửa

Thói đời bạc bẽo kể chi nữa

Người thấy chăng: Quản Bão bạn nghèo

Kiểu ấy nay rẻ như bùn vữa.

∗ Năm 752 Đỗ Phủ sống ở Trường An, sinh hoạt túng thiếu, ít được giúp đỡ. ∗ Quản Bão: Quản Trọng và Bão Thúc Nha, hai người cùng làm tướng cho Tề Hoàn Công. Lúc trẻ nghèo túng chơi với nhau, cùng buôn chung, nhưng khi chia phần lãi, bao giờ Bão cũng nhận số ít, nhường cho Quản Trọng nghèo hơn và còn phải nuôi mẹ già.

Page 94: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

94

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIẢI MUỘN

Nhất từ cố quốc kỷ kinh thâu

Mỗi kiến thu qua ức cố khâu

Kim nhật nam hồ thái vi quyết∗

Hà nhân vị mịch Trịnh qua châu∗.

GIẢI SẦU

Một từ quê cũ mấy thu qua∗

Mỗi thấy dưa thu lại nhớ nhà

Giờ ở Nam Hồ∗ hái rau ngót

Dưa châu Trịnh ấy hỏi giùm ta.

∗ Vi quyết: Nói chung các thứ rau thường ngày. ∗ Trịnh Qua Châu:

1. Trịnh Thẩm, làm Bí Thư giám (coi thư viện), kiêm Thiếu doãn Giang Lăng (thuộc tỉnh Hồ Bắc), bạn của Đỗ. 2. Ở Nam Trường An có trang trại gọi là Qua Châu (làng dưa), nơi ở của nhà thơ Trịnh Kiên, cùng họ với Thẩm.

Qua Châu: Có sách ghi Viên Châu. Vì Trịnh Thẩm có thời kỳ làm Thứ sử châu Viên ∗ Lúc này Đỗ Phủ đang ở Châu Quỳ Đời Hán có ông Đông Lăng trồng dưa ở phía ngoài cửa đông Trường An. Thời đó dưa Đông Lăng có tiếng rất ngon. Quê Đỗ Phủ cũng ở Trường An, nên nhớ tới dưa. ∗ Nam Hồ: Có thể là tên chung, các nơi thường có tên hồ như thế.

Page 95: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ PHỦ

95

GIANG NAM PHÙNG LÝ QUY NIÊN

Kỳ vương trạch lý tầm thường kiến,

Thôi Cửu đường tiền kỷ độ văn.

Chính thị Giang Nam hảo phong cảnh,

Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân.

GẶP LÝ QUY NIÊN Ở GIANG NAM

Phủ lớn Kỳ vương luôn hội ngộ,

Trước dinh Thôi Cửu mãi đàn sênh.

Giang Nam phong cảnh bao kỳ đẹp,

Hoa rụng đang mùa lặi gặp anh.

Page 96: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

96

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÂM GIANG T ỐNG HẠ TIÊM

Bi quân lão biệt lệ triêm cân,

Thất thập vô gia vạn lý thân.

Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,

Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.

BÊN SÔNG TIỄN HẠ TIÊM

Thương ông già lão lệ đằm khăn,

Bảy chục không nhà, vạn dặm thân.

Buồn thấy thuyền đi gió lại nổi,

Bạc đầu sóng cuốn bạch đầu nhân.

Page 97: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ PHỦ

97

MẠN HỨNG

Trường đoạn xuân giang dục tận đầu, Trượng lê trừ bộ lập Phương Châu. Điên cuồng liễu nhứ tuỳ phong vũ, Khinh bạc đào hoa trục thuỷ lưu.

HỨNG VUI TẢN MẠN (1)

Ngán ngẩm sông xuân mãi tận đâu,

Gậy lê chậm rãi dạo Phương Châu.

Điên cuồng tơ liễu ngang làn múa,

Nênh nổi hoa đào nước cuốn mau.

HỨNG LAN MAN [HỨNG VUI TẢN MẠN (2)]

Tìm ngọn sông xuân dạ não sầu,

Gậy lê chậm rãi dạo Phương Châu.

Điên cuồng tơ liễu theo mưa gió,

Lờ lững hoa đào nước quyện nhau.

Page 98: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

98

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TẶNG HOA KHANH

Cẩm thành ty quản nhật phân phân

Bán nhập giang phong bán nhập vân

Thử khúc chỉ ưng thiên thượng hữu

Nhân gian năng đắc kỷ hồi văn

TẶNG HOA KHANH ∗

Thành Cẩm∗ đàn tơ sớm tối ngân

Nửa sông vào gió nửa mây vần

Nhạc này chỉ dạo trên thiên giới

Hỏi mấy ai nghe ở cõi trần

∗ Hoa Khanh: Tên ca nữ. Có thuyết nói là Hoa Kính Định, một viên tướng, nhân có công dẹp loạn rồi cậy thế đàn hát tiệc tùng quá mức. ∗ Thành Cẩm: Mội tên gọi khác của Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên.

Page 99: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ PHỦ

99

TẶNG LÝ BẠCH

Thu lai tương cố thượng phiêu bồng,

Vị tựu đan sa quý Cát Hồng.

Thống ẩm cuồng ca không độ nhật,

Phi dương bạt hỗ vị thuỳ hùng.

TẶNG LÝ BẠCH

Thu về lại gặp vẫn thân bồng,

Thuốc luyện chưa nên thẹn Cát Hồng∗.

Uống thoả, ca cuồng, suông sớm tối

Nghênh ngang bay nhảy vị ai hùng?

∗ Cát Hồng: Tên một đạo sĩ, giỏi về thuốc, có phép trường sinh. Thời Đường có hai cặp nhà thơ được gọi là Lý Đỗ

Một là: Lý Bạch và Đỗ Phủ Hai là: Lý Thương Ẩn và Đỗ Mục – (Đỗ Mục còn

được gọi là Tiểu Đỗ).

Page 100: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

100

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THƯ ĐƯỜNG ẨM KÝ D Ạ, PHỤC YÊU LÝ TH ƯỢNG THƯ HẠ MÃ NGUYỆT

HẠ PHÚ TUYỆT CÚ

Hồ nguyệt lâm phong tương dữ thanh

Tàn tôn hạ mã phục đồng khuynh

Cửu biền dã hạc như song mấn

Già mạc lân kê hạ ngũ canh.

UỐNG RƯỢU Ở PHÒNG SÁCH TRỜI ĐÃ TỐI, LẠI MỜI THƯỢNG

THƯ HỌ LÝ∗ XUỐNG NGỰA CÙNG UỐNG RƯỢU VIẾT THƠ

Rừng gió hồ trăng cảnh rất thanh

Rượu tàn xuống ngựa lại nghiêng bình

Bồng đôi mái tóc như lông hạc

Chả kể thôn gà gáy rộn canh.

∗ Thượng thư họ Lý: Tên là Chi Phương.

Page 101: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ PHỦ

101

TRÙNG TẶNG TRỊNH LUYỆN

Trịnh tử tương hành bãi sứ thần

Nang vô nhất vật hiến tôn thân

Giang sơn lộ viễn cơ ly nhật

Cừu mã thuỳ vi cảm khích nhân.

LẠI TẶNG TRỊNH LUYỆN∗

Anh Trịnh sắp đi, chào sứ thần

Túi không một vật biếu hai thân

Núi sông khách trọ đường xa ngái

Giàu có ai người thấy động tâm.

∗ Trịnh Luyện: Có thể quê ở Tương Dương, làm chức quan nhỏ ở Thành Cẩm. Lúc này từ quan, đời sống thanh bạch.

Page 102: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

102

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TUYỆT CÚ

Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu,

Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.

Song tiền Tây Lĩnh thiên thu tuyết,

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.

THƠ 4 CÂU

Hai chiếc oanh vàng kêu liễu biếc,

Một hàng cò trắng vút trời xanh.

Song mờ Tây Lĩnh∗ ngàn năm tuyết,

Cổng đậu Đông Ngô∗ vạn dặm mành∗.

∗ Tây Lĩnh: Tức núi Mân ∗ Đông Ngô: Phía đông Trường Giang – Một trong ba nước thời Tây Thục ∗ Mành: Thuyền to.

Page 103: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ THẨM NGÔN

103

ĐỖ THẨM NGÔN (646 – 708)

Người Kinh Triệu (Có sách nói là người Tương Dương), tự là Tất Giản, ông nội của Đỗ Phủ, đỗ tiến sĩ năm 670, làm chức Uý ở Thấp Thành (tỉnh Sơn Tây) rồi làm chức Thừa ở Lạc Dương. Vì có lỗi phải giáng làm Tham quân tư hộ châu Cát, nhưng được Võ Tắc Thiên biết tài và được Trương Dịch Chi nâng đỡ, lại được làm Trước tác tá lang, rồi Thiện bộ viên ngoại lang. Khi Dịch Chi bị giết, phải đầy ra Châu Phong (Việt Nam). Sau được tha lỗi, về làm Chủ bạ Quốc Tử Giám rồi Tu văn quán Trực học sĩ.

ĐỘ TƯƠNG GIANG ∗

Trì nhật viên lâm bi tích thu Kim xuân hoa điểu tác biên sầu Độc lân Kinh quốc nhân nam thoán Bất tự Tương giang thuỷ bắc lưu.

QUA SÔNG TƯƠNG

Vườn ngự năm xưa nhớ chuyến chơi Xuân giờ biên ải cỏ hoa ngùi Sang nam thương nỗi người Kinh Triệu∗ Chả giống dòng Tương phía bắc trôi.

■ ∗ Bài làm khi sang Châu Phong. ∗ Kinh Triệu: Kinh đô, Đỗ là người Đỗ Lăng, Trường An.

Page 104: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

104

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÝ TẶNG TRIỆU SỨ QUÂN MỸ NHÂN

Hồng phấn thanh nga ánh Sở vân Đào hoa mã thượng thạch lưụ quần La Phu độc hướng đông phương khứ Mạn học tha gia tác sứ quân.

ĐÙA TẶNG NGƯỜI ĐẸP NHÀ SỨ QUÂN HỌ TRIỆU

Người đẹp má hồng mây Sở∗ rạng

Ngựa hoa đào∗ mượt thạch lựu quần∗

La Phu∗ đi lẻn về đông đấy Hãy học làm như Triệu sứ quân∗.

■ ∗ Mây Sở: Mây mưa – làm tình, chuyện thần nữ núi Vu gặp vua Sở ∗ Ngựa hoa đào: Ngưạ đóng yên màu trắng và đỏ ∗ Thạch lựu quần: Quần mầu hoa thạch lựu. ∗ La Phu: Tên vợ Vương Nhân, làm chức lệnh nhà Triệu Vương thời Chiến quốc. La phu họ Tần, người Hàm Đan, thường hái dâu trong rừng, vua Triệu muốn cướp lấy làm vợ, La phu bèn làm bài ca “Dâu đầu bờ” rồi gảy đàn và hát. Bài hát hết sức ca ngợi chồng mình. Trong có câu thơ: “ Sứ quân tự có vợ / La phu tự có chồng”. Vua Triệu bèn thôi. ∗ Triệu sứ quân: Sứ quân là một chức quan đứng đầu châu.

Page 105: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỖ TUÂN HẠC

105

ĐỖ TUÂN HẠC

TÁI KINH H Ồ THÀNH HUY ỆN

Khứ tuế tằng kinh thử huyện thành,

Huyện dân vô khẩu bất oan thanh,

Kim lai huyện tể gia chu phất.

Tiện thị sinh linh huyết nhiễm thành.

LẠI QUA HUYỆN HỒ THÀNH

Năm trước từng qua chốn huyện thành,

Kêu oan khắp nẻo tiếng dân lành.

Năm nay quan huyện thêm tua đỏ∗,

Hẳn máu người dân đã nhuộm thành.

∗ Thêm tua đỏ: Ý nói được thăng quan tiến chức

Page 106: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

106

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỚI THÚC LUÂN Quê Kim Đàn (Giang Tô) vì tránh loạn, dời nhà sang Phiên Dương. Chuyên chú học vấn, từng là học trò Tiêu Dĩnh Sĩ. Năm 800 đỗ tiến sĩ, làm Thứ sử châu Phủ (Giang Tây), được dân các nơi ca ngợi là cai trị tốt. Về sau, xin từ chức, làm Đạo sĩ.

DẠ PHÁT VIÊN GIANG KÝ LÝ D ĨNH XUYÊN LƯU THỊ LANG

Bán dạ hồi châu nhập Sở hương

Nguyệt minh sơn thuỷ cộng thương thương

Cô viên cánh khiếu thu phong lý

Bất thị sầu nhân diệc đoạn trường.

ĐÊM TỪ SÔNG VIÊN∗ GỬI LÝ DĨNHXUYÊN VÀ THỊ LANG HỌ LƯU

Giữa tối quay đò vào đất Sở

Trăng soi sông núi biếc mênh mang

Gió thu vượn lẻ ngân dài hú

Người chẳng buồn thương cũng nát gan.

∗ - Sông Viên: Ở phía tây tỉnh Giang Tây.

ĐỚI THÚC LUÂN

Page 107: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIẢ CHÍ

107

GIẢ CHÍ Tự Ấu Lân (hoặc Ấu Cơ), người Lạc Dương (Hà Nam), đỗ khoa Minh Kinh 753. Làm chức Xá Nhân, Tri chế cáo. Khi An Lộc Sơn làm loạn, ông theo Huyền Tông vào Thục, phụng mệnh viết chiếu văn truyền ngôi cho Túc Tông. Vì phạm tội, phải đầy đi Ba Lăng Hà Nam), Giả đã gặp Lý Bạch ở đây. Năm 770 ông được nhận chức Doãn Kinh Triệu kiêm Ngự Sử Đại phu, rồi Hữu Tán Ky Thường Thị.

NHẠC DƯƠNG LÂU TRÙNG YẾN VƯƠNG BÁT VIÊN NGO ẠI BIẾM TRƯỜNG SA

Giang lộ đông liêu thiên lý triều

Thanh vân bắc vọng Tử Vi∗ diêu

Mạc đạo Ba Lăng hồ thuỷ khoát

Trường Sa nam bạn cánh tiêu điều.

∗ - Tử Vi: (1) Tên sao (2) Chỉ kinh đô, nơi vua ở

Page 108: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

108

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TRÊN LẦU NHẠC DƯƠNG∗ MỞ TIỆC TIỄN VIÊN NGOẠI HỌ VIÊN BỊ BIẾM ĐI

TRƯỜNG SA

Sông chảy về đông vạn dặm triều

Kinh kỳ bắc ngó cách mây đèo

Đừng bảo Ba Lăng hồ nước rộng

Nam Trường Sa∗ ấy quá đìu hiu.

∗ Lầu Nhạc Dương: Ở trên cửa tây thành Nhạc Dương. Nơi này gần hồ Động Đình. ∗ Trường Sa: Cách Nhạc Dương và Động Đình khoảng 150 km về phía nam

Page 109: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIẢ CHÍ

109

SƠ CHỈ BA LĂNG∗ DỮ LÝ TH ẬP NHỊ∗ BẠCH ĐỒNG PHIẾM ĐỘNG ĐÌNH HỒ

Phong ngạn phân phân lạc diệp đa

Động Đình thu thuỷ vãn lai ba

Thừa hứng kinh châu vô cận viễn

Bạch vân minh nguyệt điếu Tương Nga∗

MỚI ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÝ BẠCH

CHƠI THUYỀN HỒ ĐỘNG ĐÌNH

Xao xác cành phong lá ngợp bờ

Động Đình chiều xuống sóng thu xa

Đò nhẹ gần xa theo hứng thú

Trăng vàng mây trắng nhớ Tương Nga.

∗ Ba Lăng: Tức Nhạc Dương ∗ Thập nhị: Có thể Lý Bạch là con thứ 12 hoặc là xếp thứ 12 trong số anh em kết nghĩa ∗ Tương Nga: Nữ thần hồ Động Đình, vốn là con gái vua Nghiêu, vợ vua Thuấn

Page 110: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

110

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TÂY ĐÌNH ∗ XUÂN VỌNG

Nhật trường phong noãn liễu thanh thanh

Bắc nhạn quy phi nhập diểu minh

Nhạc Dương thành thượng văn xuy địch

Năng sử xuân tâm mãn Động Đình.

MÙA XUÂN Ở TÂY ĐÌNH NGẮM CẢNH

Ngày dài gió ấm liễu xanh xanh

Nhạn bắc bay sang ngó chả rành

Nhạc dương nghe sáo trên thành nổi

Những khiến lòng xuân rộn Động Đình. ■

∗ Tây Đình: Ở phía tây thành Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam

Page 111: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIẢ CHÍ

111

TỐNG LÝ TH Ị LANG PHÓ THƯỜNG CHÂU

Tuyết tình vân tán bắc phong hàn, Sở thuỷ Ngô sơn đạo lộ nan. Kim nhật tống quân tu tận tuý, Minh triêu tương ức lộ man man

TIỄN LÝ* THỊ LANG ĐI CHÂU THƯỜNG* (1)

Tuyết lạnh mây tan gió bấc hàn,

Núi Ngô sông Sở lối gian nan.

Tiễn anh nay hãy say thêm nữa,

Mai nhớ mong nhau lối dặm ngàn.

TIỄN THỊ LANG HỌ LÝ ĐI CHÂU THƯỜNG (2)

Mây tan tuyết lạnh gió may hàn,

Sông Sở∗ non Ngô khổ vạn ngàn. Tiễn bác hôm nay say hết mức, Nhớ nhau mai sớm lối mênh mang.

■ * Lý thị Lang : Thị lang Lý Việp, từ Nhạc Dương đi.. * Sông Sở: Tức Nhạc Dương. ∗ Châu Thường: Thuộc tỉnh Giang Tô, thuộc đất Ngô xưa.

Page 112: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

112

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

XUÂN TỨ ( I )

Thảo sắc thanh thanh liễu sắc hoàng,

Đào hoa lịch loạn lý hoa hương.

Đông phong bất vị xuy sầu khứ,

Xuân nhật thiên năng sử hận trường.

TỨ XUÂN ( IA )

Sắc cỏ xanh xanh sắc liễu vàng

Đào hoa nở loạn mận hoa thơm

Gió đông chẳng thổi sầu bay hết

Xuân tới thêm gieo nỗi hận tràn.

TỨ XUÂN ( IB )

Cỏ sắc xanh xanh liễu sắc vàng,

Đào hoa bời rối, mận hoa thơm.

Gió đông chả đuổi sầu đi khỏi,

Để mỗi ngày xuân mãi hận vương.

Page 113: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIẢ CHÍ

113

XUÂN TỨ ( II )

Hồng phấn đương nhô lược liễu thuỳ

Kim hoa lạc tửu giải đồ mi

Sênh ca nhật mộ năng lưu khách

Túy sái Trường An khinh bạc nhi.

TỨ XUÂN ( II )

Son phấn bên lò thân liễu mảnh∗

Đồ mi∗ rượu chạp nhạt hoa vàng∗

Sênh ca ngày muộn hay lưu khách

Say khướt Trường An kẻ sỗ sàng.

∗ Câu thứ nhất ý nói tới chuyện Tư Mã Tương Như rửa bát chén, còn Trác Văn Quân ngồi bên lò bán rượu cho khách trong quán nhỏ giữa chợ Lâm Cùng thời Hán. ∗ Đồ mi: Ở đây là một loại rượu để nguyên cả “cái” (Vừa là tên một loài hoa Trà Mi) ∗ Hoa vàng: Tên một thứ rượu (cũng là tên của đất Lâm Lăng).

Page 114: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

114

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIẢ ĐẢO ( 779 - 843) Người quê Phạm Dương (Hồ Bắc), tên tự là Lãng Tiên. Thi mãi không đỗ, đi tu lấy hiệu là Vô Bản, trụ trì ở chùa Thành Long, Trường An. Giả phản đối lối thơ bình dị của Nguyên Chẩn – Bạch Cư Dị lúc đó, bèn ra công rèn luyện câu chữ và nổi tiếng. Hàn Vũ khen có tài. Giả bèn bỏ chùa thi đỗ tiến sĩ, nhưng vì vô lễ với Đường Huyền Tông trong lúc vua vi hành, nên bị đuổi khỏi Kinh đô, đi làm Chủ bạ Trường Giang (Tứ Xuyên), sau chuyển làm Tư Thương Tam quân ở Phổ Châu (tỉnh Tứ Xuyên), nghèo túng, khi mất cũng chỉ có một con lừa ốm và cây đàn cũ.

ĐỘ TANG CÀN

Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương

Uy tâm nhật dạ ức Hàm Dương

Vô đoan cách độ Tang Càn thủy

Khước vọng Tinh Châu thị cố hương.

GIẢ ĐẢO

Page 115: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIẢ ĐẢO

115

QUA SÔNG TANG CÀN ∗ (1)

Làm khách Tinh Châu∗ trải chục sương

Mong về sớm tối nhớ Hàm Dương∗

Không dưng vượt bến Tang Càn ấy

Lại ngó Tinh Châu gọi cố hương. ■

QUA SÔNG TANG CÀN (2)

Khách trọ Tinh Châu chục độ sương

Ngày đêm mong nhớ đất Hàm Dương

Tang Càn chợt lại sang qua bến

Quay ngó Tinh Châu hóa cố hương ■

∗Sông Tang Càn: Từ phía bắc tỉnh Sơn Tây chảy vào tỉnh Hà Bắc. ∗Tinh Châu: Tức Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. ∗Hàm Dương: Ở tây bắc Trường An. Xưa nhà Tần đóng đô tại đây.

Page 116: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

116

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TAM NGUYỆT HỐI NHẬT TỐNG XUÂN

Tam nguyệt chính đương tam thập nhật

Phong quang biệt ngã khổ ngâm thân

Cộng quân kim dạ bất tu thụy

Vị đáo hiểu chung do thị xuân.

30 THÁNG 3 TIỄN XUÂN NGÀY CƯỚI

Tháng ba vào đúng hôm tròn tháng

Xuân biệt ly mình thơ khổ thân

Không ngủ đêm nay cùng người đấy

Chuông mai chưa đóng vẫn còn xuân.

Page 117: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

GIẢ ĐẢO

117

TUYỆT CÚ

Phá khước thiên gia tác nhất trì,

Bất tài đáo lý, chủng tường vi.

Tường vi hoa lạc thu phong khởi,

Kinh cức mãn đình quân thủy tri.

TUYỆT CÚ

Phá dỡ ngàn nhà đào hồ nước,

Không trồng đào mận, cắm tường vi.

Tường vi hoa rụng làn thu nổi,

Gai góc đầy sân anh nghĩ gì?

Page 118: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

118

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HẠ TRI CHƯỞNG ( 659 - 744) Quê ở Cối Kê tỉnh Chiết Giang. Tự Quý Chân. Đậu tiến sĩ năm 696 đỡi Võ Tắc Thiên, làm Thái Thường bác sĩ. Đời Đường Minh Hoàng (725), làm Lễ bộ thị lang kiêm Tập hiền viện bác sĩ, đổi làm Thái tử tân khách, chức Bí thư giám. Là bạn thân của Lý Bạch. Sau từ quan về làm Đạo sĩ. Là thành viên trong nhóm Ngô trung tứ sĩ (Hạ Trương Chi, Trương Húc, Bao Dung, Bao Dung, Trương Nhược Hư). Ông giỏi văn từ, tinh thông chữ thảo, chữ lệ, có tài hùng biện, tính tình phóng khoáng. Ông lấy biệt

hiệu là “Tứ minh Cuồng khách” và “Bí thư Ngự giám”, v.v… rong chơi các nơi. Năm Thiên Bảo thứ 3 (744) ông mơ thấy cùng tiên ngao du, bèn dứt khoát theo đạo, nhà ở Kinh chuyển thành Đaọ quán.

HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ ( I )

Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa,

Cận lai nhân sự bán tiêu ma.

Duy hữu môn tiền Kính Hồ thủy,

Xuân phong bất cải cựu thời ba.

Page 119: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HẠ TRI CHƯỞNG

119

VỀ QUÊ CHỢT VIẾT ( I )

Quê hương ly biệt tháng năm qua,

Việc thế gần đây nửa nhóa nhòa.

Chỉ có Hồ Gương ngay trước cổng,

Gió xuân chưa đổi sóng xa xưa.

HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ ( II )

Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,

Hương âm vô cái mấn mao tồi.

Nhi đồng tương kiến bất tương thức,

Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?

VỀ QUÊ CHỢT VIẾT ( II )

Bé nhỏ xa nhà, già trở lại,

Giọng quê không đổi, tóc râu phai.

Trẻ con gặp mặt nhưng không biết,

Cười hỏi nơi nào khách tới chơi?

Page 120: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

120

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀN CÂU ( ? )

VỊ Á KHANH TÁC

Quân tại giang tân khởi họa lâu

Thiếp cư hải dốc tống triều đầu

Triều trung hữu thiếp tương tư lệ

Lưu đáo lâu tiền cánh bất lưu.

VIẾT GIÙM Á KHANH

Chàng ở bên sông lầu vẽ dựng

Thiếp nơi góc biển chốn triều dâng

Tương tư lệ thiếp hòa trong sóng

Tôi tới ngang lầu lại tự ngưng.

HÀN CÂU

Page 121: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀN DŨ

121

HÀN DŨ ( 768 - 824) Quê ở Nam Dương (tỉnh Hà Nam). Có sách nói quê ở Xương Lê, Hồ Bắc. Tên tự là Thoái Chi (sau tên thụy là văn công). Khi trẻ bố và anh mất, ở nhờ anh rể. 25 tuổi đỗ tiến sĩ nhưng không được nhận chức quan, làm việc trong trướng Tiết độ sứ. Năm 802 được cử làm Giám sát Ngự sử. Vì đàn hặc Kinh triệu doãn là Lý Thực, bị biếm làm Lệnh ở Dương Sơn (tỉnh Quảng Đông), sau đó được tha tội, làm Quốc tử bác sĩ, Hà Nam Lệnh, Sử quán Tu soạn, Trung thư Xá nhân, Thị lang Bộ hình. Đường Hiếu Tông mê Phật giáo, ông dâng bài “Biểu xương Phật”, bị nhà vua giận, đày đi làm Thứ sử châu Trào (tỉnh Quảng Đông). Sau lại được vời về kinh làm Thị lang bộ binh, Thị lang bộ Hình. Khi mất được tặng Thượng thư bộ Lễ. Ông cùng Liễu Tông Nguyên, là hai học giả đời Đường, chủ trương cải cách văn xuôi.

Page 122: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

122

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

SƠ XUÂN TI ỂU VŨ

Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô

Thảo sắc giao khan cận nhược vô

Tối thị nhất niên xuân hảo xứ

Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô.

MƯA BỤI ĐẦU XUÂN

Đường như dải sữa loáng trong mưa

Mài cỏ gần xa lúc tỏ mờ

Suốt cả năm dài xuân đẹp nhất

Tuyệt vời khỏi li ễu khắp hoàng đô∗.

∗ - Hoàng đô: Kinh đô

Page 123: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀN DŨ

123

VÃN XUÂN

Thảo mộc tri xuân bát cửu qui,

Bách ban hồng tử đấu phương phi.

Dương hoa thâu giáp vô tài tứ,

Duy giải man thiên tác tuyết phi.

XUÂN MUỘN

Cây cỏ hay xuân sẽ sớm về,

Trăm ban hồng tía thảy đua khoe.

Hoa dương kém cỏi không tài trí,

Chỉ biết bay tơ tuyết bốn bề.

Page 124: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

124

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀN HOẰNG (HOÀNH) Quê ở Nam Dương (tỉnh Hà Nam), tên tự là Quân Bình. Năm 735 đỗ tiến sĩ, làm việc dưới trướng Hầu Hy Dật – Tiết độ sư Trung – Thanh, sau đó từ chức, rong chơi các nơi hơn 10 năm, rồi làm việc với Lý Miễn, tiết độ sứ Tuyên Vũ. Về sau, Đường Đức Tôn biết Hán là người có tài, cho giữ chức Giá bộ Lang trung Tri chế cáo, rồi Trung thư lệnh. Ông là một trong 10 tài tử thời Đại L ịch.

HÀN THỰC∗

Xuân thành vô xứ bất phi hoa Hàn thực đông phong ngự liễu tà Nhật mộ hán cung truyền lạp chúc Thanh yên tán nhập ngũ hầu gia.

► ∗ Hàn thực: Mồng 3 tháng 3, truyền thuyết: Thời Xuân Thu, Giới Chi Thôi theo hầu Tấn Văn Công (khi còn là công tử Trùng Nhĩ), bôn ba nước ngoài, sau thu phục nước Tấn, dựng nghiệp bá. Khi bàn công, quên mất họ Giới. Giới đưa mẹ già vào ở ẩn nơi rừng núi. Tấn Văn Công cho người tới mời, ông vẫn không chịu ra. Có người bàn nên “đốt rừng”, để mẹ con ông chạy ra ngoài. Nhưng cuối cùng mẹ con Giới Tử Thôi chết cháy chứ không ra nhận bổng lộc. Tấn Văn Công muốn ghi công nên ra lệnh tới ngày đó, dân gian không được nấu nướng bằng lửa. Do đó, mọi nhà phải làm sẵn thức ăn bánh trái từ hôm trước, và ngày mống 3 tháng 3 chỉ ăn đồ lạnh (Hàn thực).

Page 125: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀN HOẰNG (HOÀNH)

125

HÀN THỰC

Thành xuân khắp chốn thảy tươi hoa

Hàn thực làn đông bóng liễu xòa

Cung Hán chiều về truyền đuốc nến

Năm dinh Hầu∗ tước khói bay nhòa. ■

TỐNG KHÁCH CHI NGẠC* CHÂU

Giang khẩu thiên gia đới Sở vân Giang hoa loạn điểm tuyết phân phân Xuân phong lạc nhật thùy tương kiến Thanh Hãn châu trung hữu Ngạc quân.

TIỄN KHÁCH ĐI NHẬN CHỨC Ở CHÂU NGẠC

Cửa bến ngàn nhà mây Sở vân

Hoa sông nở loạn tuyết lâng lâng

Gió xuân ngày muộn ai quen biết

“Thanh Hãn”∗ trong thuyền có Ngạc quân∗./.

∗ Ngũ Hầu: Năm anh em Hoàng Thái hậu họ Vương thời Hán Thành Đế, được phong tước “Hầu”, giàu sang hết mực. ∗ Châu Ngạc: Tức Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc (xưa là đất nước Sở). Nơi đây là chỗ hợp dòng của sông Kinh Hà (Đai Giang) và sông Hán Thủy thành dòng Trường Giang. ∗ Thanh Hãn: Thuyền đẹp khắc hình chim, sơn xanh. ∗ Ngạc quân: Tên là Tích, người đẹp trai, họ hàng với vua Sở, thường ngồi thuyền “Thanh Hãn” đi chơi.

Page 126: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

126

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TÚC THẠCH ẤP SƠN TRUNG

Phù vân bất cộng thử sơn tề

Sơn ái thương thương vọng chuyển mê

Hiểu nguyệt tạm phi thiên thụ lý

Thu hà cách tại sổ phong tê.

NGỦ TRỌ TRONG NÚI THẠCH ẤP∗

Núi cao hờ hững với mây bay

Mắt ngó mờ sương biếc núi dầy

Trăng sớm tạm theo cây bụi chuyển

Sông thu xa cách mấy non tây.

∗ - Thạch Ấp: Tên núi ở cạnh Thạch Gia trang (gần Thạch Lộc), tỉnh Hà Bắc.

Page 127: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀN TÔNG

127

HÀN TÔNG

MỘ XUÂN SẢN THỦY TỐNG BIỆT

Lục ám hồng hi xuất đế thành,

Mộ vân cung khuyết cổ kim tình.

Hành nhân mạc thính cung tiền thủy,

Lưu tận niên quang thị thử thanh.

NGÀY XUÂN MUỘN TIỄN NHAU Ở SÔNG SẢN

Xanh đậm hồng thưa vượt đế thành,

Mây chiều cung điện trải bao tình.

Người đi đừng lắng dòng sông chảy,

Ngày tháng vèo trôi sóng cuốn nhanh.

Page 128: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

128

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀN TƯỜNG Quê Nam Dương ( Hà Nam). Đậu tiến sĩ thời Đường Huyền Tông. Là một trong nhóm 10 người tài thời Đại L ịch.

HÀN THỰC

Xuân thành vô xứ bất phi hoa

Hàn thực đông phong ngự liễu tà

Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc

Khinh yên tán nhập ngũ Hầu gia∗.

TẾT HÀN THỰC

Thành xuân chốn chốn lộng màu hoa

Hàn thực, làn đông ngự liễu roà

Chiều tới, lệnh quan truyền đuốc sáng

Khói lan bay khắp các Hầu gia.

■ ∗ Hầu gia: Các nhà quyền quý, công hầu.

HÀN TƯỞNG

Page 129: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HÀN TÔNG

129

HOA NHAN

ĐIỀN GIA

Kê xướng tam thanh thiên dục minh

An bài phạn uyển dữ trà bình

Lương nhân do khủng thôi canh tảo

Tự chỉ bồng song khán hiểu tinh.

NHÀ NÔNG

Gà gáy ba lần trời muốn sáng

Sẵn sàng cơm giỏ với trà bình

Lương nhân∗ những ngại đi cày sớm

Ra ngó sao trời dưới mái gianh.

∗ Lương nhân: Chồng (có thể là vợ)

HOA NHAN

Page 130: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

130

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HOÀNG PHỦ NHIỄM

(714 - 767) Người Yên Định (Phía Bắc Kinh Xuyên, tỉnh Hà Bắc), tên tự là Mậu Chính. Sau dời nhà đến Đan Dương, định ẩn dật với cảnh cày cuốc, câu cá, nhưng được Trương Cửu Linh biết là có tài, nên tìm cách khuyến khích giúp đời. Năm 756 đỗ tiến sĩ, làm chức Uý ở Vô Tích (tỉnh Giang Tô). Năm 768 (niên hiệu Đại Lịch 1) làm thư ký cho Tiết độ sứ Hà Nam, sau đó giữ các chức Tả thập di, Tả bổ khuyết.

TĂNG SƠN∗ TỐNG BIỆT

Thê thê du tử khổ phiêu bồng

Minh nguyệt thanh tôn chỉ tạm đồng

Nam vọng thiên sơn như đại sắc

Sàu quân khách lộ tại kỳ trung.

∗ Tăng sơn: Không rõ. Có thể ở gần Thái Hồ, tỉnh Giang Tây. Có sách chép “Lỗ” sơn (tỉnh Hà Nam). Vì có lúc Hoàn làm việc dưới trướng Tiết độ sứ Hà Nam.

Page 131: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HOÀNG PHỦ NHIỄM

131

TIỄN BIỆT NON TĂNG

Khách du hiu quạnh kiếp phiêu bồng

Trăng sáng ly suông chỉ tạm cùng

Nam ngó ngàn non màu thẫm lại

Buồn anh quán trọ vẫn nằm trong.

VŨ TRUNG ĐĂNG NHẠC DƯƠNG LÂU VỌNG QUÂN SAN

Đầu hoang vạn tử mấn mao ban Sinh nhập Cồ Đường, Diễm Dự∗ quan Vị đáo Giang Nam tiên nhất tiếu Nhạc Dương lâu thượng vọng Quân san.

TRONG MƯA LÊN LẦU NHẠC DƯƠNG NGĂM QUÂN SAN

Nội hoang đầy ải đầu râu bạc

Sống lại về qua mấy ải quan

Chưa tới Giang Nam cười trước đã

Lên lầu Nhạc ngắm đỉnh Quân san. ■

∗ - Cồ Đường, Diễm Dự: Tên các cửa ải biên giới

Page 132: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

132

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BÀI 2

Mãn xuyên phong vũ độc bằng lan

Quán kết Tương Nga∗ nhập thị hoàn

Khả tích bất đương hồ thuỷ diện

Ngân sơn đôi lý khán thanh san.

BÀI 2

Đầy sông mưa gió tựa hiên mình

Bím tóc Tương Nga quấn lượn quanh

Ví được giữa hồ trên mặt nước

Trong cồn sóng bạc ngắm non xanh.

∗ Tương Nga: Nữ thần núi Quân. Thế núi trông như 12 bím tóc nữ thần.

Page 133: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HOÀNG PHỦ NHIỄM

133

TỐNG NGUỴ THẬP LỤC HOÀN TÔ CHÂU

Thu dạ trầm trầm thử tống quân

Âm trùng thiết thiết bất kham văn

Quy châu minh nhật Tỳ Lăng∗ đạo

Hồi thủ Cô Tô∗ thị bạch vân.

TIỄN ANH NGUỴ VỀ TÔ CHÂU

Thu tối trầm trầm lại tiễn anh

Dế giun rỉ rỉ ngán khôn đành

Tỳ Lăng mai sớm con đò lại

Mây trắng Cô Tô ngó rõ rành.

∗ - Tỳ Lăng: Tên đất thuộc Giang Tô ∗ - Cô Tô: Tên núi ở huyện Ngô, tỉnh Giang Tô.

Page 134: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

134

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HOÀNG SÀO (Đường)

ĐỀ HOA CÚC

Táp táp tây phong mãn viện tài,

Nhị hàn hương lãnh điệp nan lai.

Tha niên ngã nhược vi thanh đế∗,

Bão dữ đào hoa nhất xứ khai.

ĐỀ HOA CÚC

Xào xạc làn tây khắp viện dài,

Nhị tàn hương lạnh bướm xa xôi.

Năm nao ta được làm thanh đế,

Sẽ báo hoa đào nở sánh đôi.

∗ Thanh đế: Chúa xuân.

HOÀNG SÀO

Page 135: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HỒNG TUÂN

135

HỒNG TUÂN

CẤM TOẢ

Cấm môn thâm toả tịch vô hoa

Nồng mặc lâm li lưỡng tướng ma

Xướng triệt ngũ canh thiên vi hiểu

Nhất trì nguyệt tẩm tử vi hoa

CỬA CẤM

Cửa cấm thâm nghiêm khoá lặng tờ

Chữ đề sắc chỉ mực chưa khô

“N ăm canh” báo dứt, trời chưa rạng

Ánh nguyệt đầy sân đẵm bóng hoa.

Page 136: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

136

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HỨA HỒN

Quê ở Đan Dương, châu Nhuận (tỉnh Giang Tô). Tên chữ là Trọng Hối. Năm 832 đỗ tiến sĩ, làm chức Lệnh ở Đương Đô (An Huy) và Thái Bình (Sơn Tây) nhưng vì ốm đau nên bị miễn chức. Năm 849 lại được vời làm Giám sát Ngự sử, rồi Viên ngoại lang ngu bộ (thuộc bộ Công, trông coi hồ đầm, vườn tược…), Thứ sử châu Mục (tỉnh Chiết Giang) và châu Sính (tỉnh Hồ Bắc). Thời gian này ông có mua đất ở Khe Đinh Mão, cuối đời về ở đấy.

THU TỨ

Kỳ thụ tây phong chẩm đảm thu

Sở vân Tương thuỷ ức đồng du

Cao ca nhất khúc yểm minh kính

Tạc nhật thiếu niên kim bạch đầu.

TỨ THU∗

Gối trúc∗ cây kỳ∗ gió thu lộng

Sông Tương∗ mây Sở chuyến chơi lâu ∗ Tứ thu: Đầu đề thơ ở Nhạc phủ. ∗ Gối trúc: Gối đan bằng trúc, tre. Đất Sở có nhiều loại cây này. ∗ Cây kỳ: Loại cây đẹp, mọc ở núi Côn Luân.

Page 137: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HỨA HỒN

137

Ca vang một khúc che gương sáng∗

Trai trẻ hôm nao giờ bạc đầu.

BẠC DU NGHIÊN LŨNG

Hải yến tây phong bạch nhật tà,

Thiên môn dao vọng ngũ hầu gia.

Lâu đài thâm toả vô nhân đáo,

Lạc tận đông phong đệ nhất hoa.

LƯỚT CHƠI MIỀN NGHIÊN LŨNG

Cánh én heo may nắng xế tà,

Công hầu dinh thự ngó gần xa.

Lâu đài kín cổng không ai tới,

Rụng hết xuân đầu một cánh hoa.

∗ Sông Tương: Chảy từ Hồ Nam vào Động Đình. ∗ Che gương sáng: Thơ Ban Tiệp Dư thời Hán có câu: “Gió thu nổi…che gương”.

Page 138: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

138

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LA ẨN

TẶNG KỸ VÂN ANH

Chung Lăng từ biệt thập dư xuân,

Trùng kiến Vân Anh chưởng thượng thân,

Ngã vị thành danh quân vị giá.

Khả năng câu thị bất như nhân.

TẶNG KỸ NỮ VÂN ANH

Chung Lăng li biệt quá mười xuân,

Lại gặp Vân Anh vẹn mọi phần

Tôi chửa thành danh, người chửa cưới

Phải chăng số phận thảy phong trần.

Page 139: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LA ẨN

139

TÂY THI

Gia quốc hưng vong tự hữu thì

Ngô nhân hà khổ oán Tây Thi

Tây Thi nhược giải khuynh Ngô quốc

Việt quốc phong lai hựu thị thuỳ.

TÂY THI

Đất nước hưng vong – thời vận cả

Người Ngô chi khổ oán Tây Thi

Tây Thi khiến nước Ngô tan nát

Thì Việt sau đây bởi nỗi gì.

Page 140: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

140

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TỰ KHI ỂN

Đắc tức cao ca thất tức hưu

Đa sầu đa hận diệc du du

Kim triêu hữu tửu kim triêu tuý

Minh nhật sầu lai, minh nhật sầu

TỰ KHUÂY KHOẢ

Khi được ca vang, mất cũng âu

Hận sầu cho lắm ích gì đâu

Sáng nay có rượu, sáng nay khướt

Mai sớm sầu vương, mai sớm sầu.

Page 141: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÂM CHẨN

141

LÂM CHẨN

LÃNH TUY ỀN ĐÌNH

Nhất hoằng thanh khả thấm thi tỳ

Lãnh noãn niên lai chỉ tự tri

Lưu xuất Tây hồ tải ca vũ

Hồi đầu bất tự tại sơn thì.

ĐÌNH SUỐI LẠNH

Trong veo dòng nước hồn thơ đẫm

Nóng lạnh năm năm tự biết mình

Ra tới hồ Tây rồi hát múa

Quay nhìn chẳng giống thuở non xanh.

Page 142: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

142

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÂM THĂNG

ĐỀ LÂM AN ĐỂ

Sơn ngoại thanh sơn lâu ngoại lâu,

Tây Hồ ca vũ kỷ thời hưu?

Noãn phong huân đắc du nhân tuý,

Trực bả Hàng Châu∗ tác Biện Châu∗.

ĐỀ NHÀ TRỌ LÂM AN

Non biếc ngoài non lầu lại lầu

Hồ Tây hát múa hỏi còn lâu?

Êm êm làn ấm say du khách

Gọi hẳn Hàng Châu hoá Biện Châu.

∗ Hàng Châu: Kinh đô của Nam Tống ∗ Biện Châu: Kinh đô của Bắc Tống

LÂM THĂNG

Page 143: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÂU D ĨNH

143

LÂU D ĨNH

TÂY THI TH ẠCH

Tây Thi∗ tức nhật cán sa tân,

Thạch thượng thanh đài tứ sái nhân.

Nhất khứ Cô Tô bất phục phản,

Ngạn bàng đào lý vị thuỳ xuân.

BẾN ĐÁ TÂY THI

Tây Thi ngày ấy giũ tơ tằm,

Bến đá rêu xanh ngán bội phần.

Một trẩy Cô Tô không trở lại,

Bên bờ đào mận vị ai xuân?

∗ Tây Thi: Một trong 4 đại mỹ nhân của Trung Quốc, nơi nàng thường giũ lụa là bến đá Trừ La.

Page 144: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

144

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LIỄU TÔNG NGUYÊN ( 773 - 819)

Quê Hà Đông (Sơn Tây), tên tự là Tử Hiệu, năm 793 đỗ Tiến sĩ. Trải làm các chức Hiệu thư lang, Úy Lam Điền, Giám sát Ngự sử. Thời gian này, bên cạnh Hoàng Thái tử (sau này là vua Thuận Tông) là cánh Vương Thúc Văn, Vi Chấp Nghị đang thử nghiệm

cải cách chính trị, Tông Nguyên cũng tham gia. Năm 805, Thuận Tông lên ngôi, bổ nhiệm Liễu làm Viên ngoại lang bộ Lễ. Nhưng sau 7 tháng, Thuận Tông thoái vị, cuộc cải cách thất bại, Liễu phải biếm làm Tư mã châu Vĩnh (Linh Lăng, hồ Nam). Năm 815 ông được triệu về kinh, đi làm Thứ sử châu Liễu (Liễu Giang, Quảng Tây) đồng thời bổ nhiệm Lưu Vũ Tích làm Thứ sử châu Bá (Tuân Nghĩa, Quý Châu). Nhưng với sự đồng tình của mẹ già, ông đã xin đổi với Lưu. Tông Nguyên lại về Châu Liễu rồi mất ở đó. Liễu và Hàn Dũ là hai lá cờ đầu về việc vận động cải cách văn xuôi đời Đường. Do đó người ta có câu "Hàn Liễu".

Page 145: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LIỄU TÔNG NGUYÊN

145

HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN KI ẾN DI TUYỆT CÚ DỤC ĐĂNG TIÊN NHÂN SƠN, NHÂN SĨ

THÙ CHI

Châu thụ linh lung cách thúy vi∗ Bệnh lai phương ngoại sự đa vi

Tiên sơn bất thuộc phân phù∗ khách∗ Nhất nhậm lăng không tích trượng phi.

NHÂN THẤY BÀI THƠ "MUỐN LÊN NÚI TIÊN" CỦA HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN∗ ĐỂ LẠI, BÈN

VIẾT ĐÁP

Óng ánh cây châu∗ cách ráng mây

Ốm đau cõi tục lắm điều gay

∗ Thuý vi: Là mây ráng, nhưng cũng có thể hiểu là lưng chừng núi ∗ Phân phù: Các chức quan lớn đứng đầu địa phương, đều được chia một nửa bùa (phân là chia, phù là bùa) để làm chứng cớ khi làm việc quan. ∗ Khách: Ở đây là tác giả khiêm tốn. ∗ Hạo Sơ Thượng Nhân: Là học trò (đệ tử) của Thiền sư Chu Hải ở chùa Long Am (nay ở phía tây Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam). Khi Hạo Sơ mất, có người tới Chầu Liễu nhờ Liễu Tông Nguyên viết văn bia. Hơn nữa, khi còn sống, có lúc Hạo Sơ đã tới chỗ tác giả cho nên Liễu có bài tựa “Tặng nhà sư Hạo Sơ”. Hạo Sơ gửi thơ tặng Liễu, nên Liễu hoạ lại. Tác giả có chú “Núi Tiên ở địa phận Châu Liễu”

Page 146: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

146

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

Núi tiên không thuộc người đeo ấn Gậy tích∗ bay cao tự ý thầy.

■ DỮ HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN ĐỒNG KHÁN

SƠN

Hải bạn tiêm sơn tự kiếm mang, Thu lai xứ xứ cát sầu trường. Nhược vi hoa đắc thân thiên ức, Tán tác phong đầu vọng cố hương.

CÙNG NHÀ SƯ HẠO SƠ NGẮM NÚI

Núi biển nhô lên tựa lưỡi gươm, Thu sang chốn chốn cắt sầu thương Thân này hoá được thành muôn triệu Tản khắp đầu non ngó cố hương. ■

∗ Cây châu: Tên một loài cây (trong truyền thuyết Trung Quốc) mọc ở Phương Nam, lá nó toàn là ngọc châu. Liễu Châu là địa phương miền Nam nên có cây này. ∗ Gậy tích: Cũng như thiền trượng, thứ gậy các vị sư thường cầm ở tay (tích là dịch theo tiếng Phạn. Có nghĩa là gõ có tiếng kêu làm cho người khác chú ý). Thời nhà Lương (khoảng thế kỷ thứ V, thứ VI) có vị cao tăng tên là Bảo Chí, khi muốn dựng am trên núi, ông liền quăng “gậy tích” lên không, gậy bay đi, rơi xuống chỗ nào là ông dựng nhà ở đấy.

Page 147: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LỘ ĐỨC CHƯƠNG

147

LỘ ĐỨC CHƯƠNG (Tống)

HU DI LỮ XÁ

Đạo bàng thảo ốc lưỡng tam gia

Kiến khách lôi ma màn điểm trà

Tiệm cận Trung nguyên ngữ âm hảo

Bất tri Hoài thuỷ cận thiên nha.

NHÀ TRỌ HU DI

Bên đường mái cỏ một vài nhà

Thấy khách ……….. sắp ấm trà

Gần với Trung nguyên lời dễ hiểu

Sông Hoài đâu biết lại trời xa.

Page 148: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

148

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LỤC DU (Thời Tống)

ĐẦU ĐÔNG ĐI CHƠI (Bài này không có phần thơ Hán Việt)

Dong lừa thủng thẳng qua bờ khói

Mười dặm làng non hướng mới tinh

Quán rượu cờ xanh chùa lá úa

Gặp nhau tất thảy giống như tranh.

MAI HOA TUY ỆT CÚ

Văn đạo mai hoa sách hiểu phong, Tuyết đôi biến mãn tứ sơn trung. Hà phương khả hóa thân thiên ức, Nhất thụ mai tiền nhất phóng ông.

HOA MAI

Nghe nói hoa mai ưa gió sớm

Bốn bề tuyết phủ núi non chồng

Làm sao mình hóa thành ngàn triệu

Một gốc mai là một Phóng ông. ■

Page 149: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LỤC DU

149

THẬP NHẤT NGUYỆT TỨ NHẬT PHONG VŨ ĐẠI TÁC

Cương ngọa cô thôn bất tự ai

Thượng tư vị quốc thú luân đài.

Dạ lan ngọa thính phong xuy vũ,

Thiết mã băng hà nhập mộng lai.

NGÀY 4 THÁNG 11 MƯA TO GIÓ LỚN

Nằm gượng thôn xa chả tự buồn,

Còn mong vì nước giữ biên cương.

Đêm khuya quạnh quẽ nghe mưa gió,

Ngựa sắt sông băng giấc mộng vương.

Page 150: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

150

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TUYẾT HẬU TẦM MAI

Thanh đế cung trung đệ nhất phi,

Bảo hương huân triệt tố tiêu y.

Định tri trích trụy bất dung cửu,

Vạn hộc ngọc trần lai sính quy.

SAU TUYẾT TÌM MAI

Giữa điện vua xuân bậc nhất phi

Ngạt ngào hương báu trắng xiêm y

Từng hay đầy ải không nhiều nữa

Vàng ngọc ngàn cân tới rước về.

Page 151: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LỤC DU

151

THẨM VIÊN ( I )

Thành thượng tà dương họa giác ai,

Thẩm viên phi phục cựu trì đài.

Thương tâm kiều hạ xuân ba lục,

Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.

VƯỜN THẨM∗ ( I )

Nắng xế thành trên tiếng ốc dài,

Nào đâu vườn Thẩm mọi hồ đài.

Dưới cầu ngơ ngẩn xanh làn sóng,

Hồng nhạn từng phen bóng loáng trời.

∗ Vườn thẩm: Nơi ở của bố mẹ vợ Lục Du, họ Điền.

Page 152: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

152

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THẨM VIÊN (III)

Mộng đoạn hương tiêu tứ thập niên,

Thẩm viên liễu lão bất xuy miên.

Thử thân hành tác Kê sơn thổ,

Do điếu di tung nhất huyễn nhiên.

VƯỜN THẨM (III)

Mộng đứt hương tàn bốn chục niên

Liễu già vườn Thẩm dứt tơ duyên.

Thân này ví hóa thành non núi,

Thăm viếng nơi từng ứa lệ hoen.

Page 153: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LỤC DU

153

THẨM VIÊN (IV)

Lộ cận thành nam kỷ phạ hành,

Thẩm gia viên lý tối thương tình;

Hương xuyên khách tụ mai hoa tại,

Lục trám tự kiều xuân thủy sinh.

VƯỜN THẨM (IV)

Lối mé nam thành đi đã ngại,

Vườn xưa họ Thẩm nỗi thương tình.

Hương lùa áo khách, hoa mai trước

Bóng thẫm cầu xuân nước mới duềnh.

Page 154: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

154

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THẨM VIÊN (V)

Thành nam tiểu mạch hựu phùng xuân,

Chỉ kiến mai hoa bất kiến nhân.

Ngọc cốt dĩ thành tuyền hạ thổ,

Mặc ngân do tỏa bích gian trần.

VƯỜN THẨM (V)

Thành nam đường nhỏ lại xuân rồi,

Chả thấy người đâu chỉ thấy mai.

Xương ngọc đã thành bùn dưới suối,

Bụi tường nét chữ mực chưa phai.

Page 155: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯ BẬT

155

LƯ BẬT

Còn có tên là Lư Nhữ Bật. Người quê ở huyện Bồ, tỉnh Sơn Tây. Đỗ Tiến sĩ, làm Viên Ngoại lang, bộ Từ (coi việc tế lễ, thiên văn, thuốc men, điều cấm kỵ của nước, giờ giấc, lịch, bói toán), rồi Tri chế cáo. Năm 904, Đường Chiêu Tông bị Chu Toàn Tung tức Thái tổ nước Hậu Lương thời Ngũ Đại, ép phải dời đô sang Lạc Dương, Lư đi theo, nhưng rồi xin từ chức vì biết đời sắp loạn lạc. Ông chuyển nhà sang ở Thượng Đảng (tỉnh Sơn Tây). Sau đó, nương tựa vào quyền thần Lý Khắc Dung, được làm Phó Tiết độ sứ Thái Nguyên, được mọi người phục về tính cách cẩn thận, thẳng thắn.

HỌA LÝ TÚ TÀI BIÊN ĐÌNH TỨ THỜI OÁN ( I )

Bát nguyệt sương phi liễu bán hoàng

Bồng căn xuy đoạn nhạn nam tường

Lũng đầu lưu thủy quan sơn nguyệt

Khấp thượng Long Đôi vọng cố hương.

Page 156: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

156

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HỌA BÀI NỖI OÁN BỐN MÙA Ở BIÊN ẢI

CỦA TÚ TÀI HỌ LÝ ( I )

Tháng tám sương bay liễu nửa vàng Cá bồng đầy lối nhạn sang nam Sông trôi Lũng Thượng trăng quan ải Đẫm lệ Long Đôi ngó lại làng.

HỌA LÝ TÚ TÀI BIÊN ĐÌNH TỨ THỜI OÁN ( II )

Sóc phong xuy tuyết thấu đao ban Ẩm mã trường thành quật cánh hàn Bán dạ hỏa lai tri hữu địch

Nhất thời tề bảo Hạ Lan∗ san.

HỌA THƠ "BIÊN GIỚI BỐN MÙA OÁN" CỦA TÚ TÀI HỌ LÝ ( II )

Gió may thổi tuyết vết đau loang Ngựa uống bên thành vũng nước hàn Giữa tối lửa bùng tin có giặc Cùng nhau gắng sức giữ non Lan. ■

∗ Hạ Lan: Tên dãy núi phía tây bắc Ngân Xuyên, thủ phủ tỉnh Ninh Hạ.

Page 157: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯ ĐÌNH KỲ

157

LƯ ĐÌNH KỲ Cùng Trương Ngạc (Tiến sĩ 708) đi lại nhà Kỳ Vương nên mắc tội, bị đầy đi làm Tư Hộ châu Nhã (tỉnh Tứ Xuyên).

ĐỒNG TƯỚC ĐÀI

Đồng đài cung quán ủy hôi trần Ngụy chủ viên lăng Chương thủy tân Tức kim tây vọng do kham tứ Huống phục đương thời ca vũ nhân.

ĐÀI ĐỔNG TƯỚC ∗

Đồng Tước lầu cung vẩn bụi trần

Vườn Lăng∗ Ngụy chủ bến Chương∗ gần

Nay nhìn nơi ấy còn thương nhớ

Ca nữ năm xưa não bội phần.

■ ∗ Đài Đồng Tước: Rất nguy nga tráng lệ, do Nguy Vũ Đế (Tào Tháo) dựng ở Kinh đô Quận Nghiệp (phía bắc tỉnh Hà Nam). Trên nóc trang trí bằng chim sẻ đồng. Sau khi Tháo mất, con cháu thường tới đây tế lễ, lên đài ngó nhìn phần mộ. Hàng tháng mồng một và ngày rằm có cung nữ hát, múa. Ngụy mất, Kinh đô dời về Lạc Dương, đất Nghiệp hoang phế, đài Đồng Tước sụt lở. ∗ Vườn Lăng: Lăng mộ ∗ Sông Chương: Nơi gần mộ Tào Tháo (phía tây Luận Nghiệp)

Page 158: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

158

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯ MAI PHA

XUÂN DU

Hồng phương mãn nhãn đấu phong lưu,

Thùy tín xuân lai hữu khách sầu.

Trù trướng bất can đào lý sự,

Cố sơn yên vũ ức tùng thu.

CHƠI XUÂN

Hồng thơm đầy mắt rõ phong lưu

Ai biết xuân sang có khách sầu

Ngao ngán buông lơi đào với mận

Non xưa mưa khói nhớ tùng thu.

Page 159: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯ MAI PHA

159

MẠT L Ị

Kinh trần tiểu ải mộng văn đa,

Bỉ mỹ phồn anh ngọc tuyết khoa.

Kiến vị kiều nhu năng đặc lập,

Khẳng bằng tha vật học đằng la.

HOA NHÀI

Giữa nơi chật hẹp muỗi luôn qua

Lại lắm hoa thơm đẹp ngọc ngà

Nghe nói dịu mềm nhưng cứng vững

Không cần nhờ bám tựa đằng la.

Page 160: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

160

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TUYẾT MAI NH Ị THỦ

Kỳ nhất

Mai tuyết tranh xuân vị khẳng hàng Tao nhân các bút phí bình chương Mai tu tốn tuyết tam phân bạch Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương.

Kỳ nhị

Hữu mai vô tuyết bất tinh thần Hữu tuyết vô mai tục liễu nhân Nhật mộ thi thành thiên hựu tuyết Dữ mai tịnh tác thập phần xuân.

TUYẾT MAI

1 Mai tuyết giành xuân chả chịu nhường Nhà thơ đành gác chuyện văn chương Mai nên kém tuyết ba phần trắng Tuyết lại thua mai một đoạn hương

2 Có mai không tuyết chẳng tinh thần Có tuyết không mai sẽ tục trần Chiều muộn thơ thành trời lại tuyết Cùng mai góp vẹn mọi phần xuân.

Page 161: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯƠNG HOÀNG

161

LƯƠNG HOÀNG

KHỐI LỖI NGÂM

Khắc mộc khiên ti tác lão ông

Kê bì hạc phát dữ chân đồng

Tu du lộng bãi tịch vô sự

Hoàn tự nhân sinh nhất mộng trung.

VỊNH CON RỐI

Gọt gỗ đeo râu tượng lão ông

Da gà tóc hạc giống vô cùng

Chơi đùa chốc lát rồi im lặng

Chả khác nhân gian một giấc mòng.

Page 162: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

162

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU HÀN Quê Trường Đa (Hồ Nam). Tự là Vũ Tử. Thời Tống

LẬP THU

Nhũ nha đề tán ngọc bình không

Nhất chẩm tân lương nhất phiến phong

Thuỵ khởi thu thanh vô mịch xứ

Mãn giai ngô diệp nguyệt minh trung.

ĐẦU THU

Quạ non kêu rải khoảng trời không

Đầy gối thênh thang gió mát lồng

Ngủ dậy tiếng thu tìm chả thấy

Lá ngô đầy cửa ánh trăng trong.

LƯU HÀN

Page 163: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU KHẮC TRANG

163

LƯU KHẮC TRANG (1187 - 1269)

Quê Bồ Điền (Phúc Kiến). Tự là Thế Phu. Hiệu là Hậu

Thôn cư sĩ. Làm quan thời Tống. Một nhà thơ nổi tiếng.

OANH THOA

Trịch liễu thiên kiều thái hữu tình

Giao giao thời tác lộng cơ thanh

Lạc dương tam nguyệt hoa như cẩm

Đa thiểu công phu chức đắc thành.

THOI OANH

Nẻm liễu dời dương rất có tình

Gieo qua gieo lại tiếng thoi nhanh

Tháng ba Thành Lạc hoa như gấm

Nhiều ít công phu dệt được thành?

Page 164: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

164

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU QUÝ TÔN

( ? ) Quê ở Tiền Phú (Hà Nam). Tự là Cảnh Văn – Làm quan thời Tống Thần.

ĐỀ NHIÊU CHÂU T ỬU VỤ SẢNH BÌNH

Ni nam yến tử ngữ lương gian

Để sự lai kinh mộng lý nhàn

Thuyết dữ bàng nhân hồn bất giải

Trượng lê huề tửu khán Chi San.

ĐỀ BÌNH PHONG QUÁN RƯỢU CHÂU NHIÊU

Đàn én liu riu trên nóc nhà

Tiếng chim làm vụt tỉnh cơn mê

Người bên nghe kể cho là bịa

Chống gậy đeo bầu tới núi Chi∗.

∗ - Núi chi: Một phong cảnh đẹp ở Giang Tây.

LƯU QUÝ TÔN

Page 165: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU SƯ THIỆU

165

LƯU SƯ THIỆU

PHÙ BÌNH

Xạ nhân khinh lãng điệp tình xa,

Hựu sấn hồi phong ủng điếu sa.

Mạc quái cuồng tung dị phiêu bạc,

Tiền thân chính cá thị dương hoa.

CÁNH BÈO

Sóng nhẹ vừa dồn bờ cát nắng,

Bè câu theo gió lại trôi qua.

Thói ngông trôi dạt, xin đừng lạ,

Kiếp trước thân này chính liễu hoa.

LƯU SƯ THIỆU

Page 166: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

166

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU TỬ VỰNG

GIANG THƯỢNG

Giang thượng triều lai lãng bạc thiên,

Cách giang hàn thụ vãn sinh yên.

Bắc phong tam nhật vô nhân độ,

Tịch mịch sa đầu nhất thốc thuyền.

TRÊN SÔNG

Triều nổi ngang dòng sóng cuộn lên,

Cách sông cây lạnh khói chiều nhen.

Ba ngày gió bấc đò không khách.

Bến cát đìu hiu mấy chiếc thuyền.

LƯU TỨ VỰNG

Page 167: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU TRƯỜNG KHANH

167

LƯU TRƯỜNG KHANH

(709 - 785) Quê Hà Giang (Hà Bắc). Tự là Văn Phòng. Thời trẻ đọc sách ở núi Tung, sau dời sang Phiên Dương. Đậu tiến sĩ năm 733. Giữ nhiều chức quan, trấn nhiệm nhiều nơi như Phan Châu, Tuỳ Châu, Mục Châu. Thời Đường Đúc Tông, từng làm các chức như: Giám sát Ngự sử, Kiểm hiệu Tứ bộ Viên ngoại lang, Vận chuyển sứ, Phán quan, sau làm Tư Hoài Tây Nhạc chuyển vận, nhưng rồi vô cớ bị bỏ ngục, rồi biếm làm chức Uý ở Nam Ba (Quảng Đông). Sau nhờ có người minh oan, lại được làm Tư mã châu Mục, Thứ sử châu Tuỳ.

TỐNG LÝ PHÁN QUAN CHI NHU ẬN CHÂU HÀNH DINH

Vạn lý từ gia sự cổ bề

Kim Lăng dịch lộ Sở vân tê

Giang xuân bất khẳng lưu hành khách

Thảo sắc thanh thanh tống mã đề.

Page 168: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

168

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TIỄN PHÁN QUAN ∗ HỌ LÝ ĐI TỚI HÀNH DINH CHÂU NHUẬN∗

Muôn dặm xa nhà chiêng trống rộn Kim Lăng∗ lối trạm Sở mây che Sông xuân chả chịu lưu hành khách Màu cỏ xanh rờn vó ngựa phi.

■ QUÁ TRỊNH SƠN NHÂN SỞ CƯ

Tịch tịch cô oanh đề hạnh viên Liêu liêu nhất khuyển phệ đào nguyên Lạc hoa phương thảo vô tầm xứ Vạn hác thiên phong độc bế môn.

QUA CHỖ Ở CỦA SƠN NHÂN HỌ TRỊNH

Vườn hạnh con oanh kêu quạnh quẽ, Nguồn đào tiếng chó sủa xa vang. Hoa rơi cỏ ngát tìm đâu thấy, Muôn động nghìn non cửa đóng tràn.

∗ Phán Quan: Một chức quan ở dinh Tiết độ sứ. ∗ Châu Nhuận: Nơi làm việc, nay là Trấn Giang, tỉnh Giang Tô. ∗ Kim Lăng: Tức Nam Kinh hiện nay.

Page 169: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU TRƯỜNG KHANH

169

THÙ LÝ M ỤC KIẾN KÝ

Cô chu tương phỏng chí thiên nha,

Vạn chuyển vân sơn lộ cánh xa.

Dục tảo sài môn nghinh viễn khách,

Thanh đài hoàng diệp mãn bần gia.

TRẢ LỜI LÝ MỤC

Thuyền đơn thăm hỏi nơi trời biển,

Mây núi muôn trùng lối thẳm xa.

Muốn quét cửa sài chờ viễn khách,

Rêu xanh lá úa ngập đầy nhà.

Page 170: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

170

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TRÙNG TỐNG BÙI LANG TRUNG BI ẾM CÁT CHÂU

Viên đề khách tán mộ giang đầu

Nhân tự thương tâm thuỷ tự lưu

Đồng tác trục thần quân cánh viễn

Thanh sơn vạn ý nhất cô châu.

LẠI TIỄN LANG TRUNG HỌ BÙI B Ị BIẾM RA CHÂU CÁT ∗

Vượn kêu khách tản bến chiều rồi

Người tự đau lòng nước tự trôi

Cùng bọn quan đày∗, xa nhất bác

Non xanh muôn dặm một thuyền xuôi.

∗ Châu Cát: Nay là Cát An, tỉnh Giang Tây. ∗ Quan đày: Quan chức bị lưu đày.

Page 171: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU TRƯỜNG KHANH

171

NGUYỆT DA

Canh thâm nguyệt sắc bán nhân gia,

Bắc đẩu lan can Nam đẩu tà.

Kim dạ thiên tri xuân khí noãn,

Trùng than tân thấu lục song sa.

ĐÊM TRĂNG

Canh khuya trăng ánh nửa gian nhà,

Nam đẩu soi hiên, Bắc đẩu tà.

Xuân ấm tối nay càng tỏ rõ,

Tiếng trùng vừa mới lọt song sa.

Page 172: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

172

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU PHƯƠNG BÌNH

XUÂN OÁN

Sa song nhật lạc tiệm hoàng hôn,

Kim ốc vô nhân kiến lệ ngân.

Tịch mịch không đình xuân dục vãn,

Lê hoa mãn địa bất khai môn.

OÁN XUÂN

Song the trời xế ánh bên rèm,

Dinh rộng không người thấy lệ hoen.

Vắng vẻ sân suông xuân muốn lỡ,

Hoa lê đầy lối cửa cài then.

LƯU PHƯƠNG BÌNH

Page 173: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU VŨ TÍCH

173

LƯU VŨ TÍCH (772 – 812)

Người Trung Sơn (tỉnh Hà Bắc). Có sách nói Lưu quê Bành Thành (tỉnh Giang Tô). Tên chữ là Mộng Đắc. Năm 793 đỗ Tiến sĩ. Cùng Liễu Tông Nguyên ở trong phái Vương Thúc Văn (vị tể

tướng sau này) nhưng khi Vương thất thế, Lưu bị biếm là Tư mã châu Lãng (tỉnh Hồ Nam). Năm 815, Lưu được triệu về kinh, giảm nhẹ tội lỗi, nhưng thời kỳ này, ông lại làm thơ đả kích bọn quyền thần, nên lại bị chúng tìm cách đầy đi làm Thứ sử châu Bá (trong khi Liễu Tông Nguyên bị biếm làm Thứ sử Liễu Châu). Sau lại đổi đi Châu Quỳ, rồi Thứ sử châu Hoà (tỉnh An Huy). Từ đây, Lưu lại được triệu về kinh, trao cho các chức Chủ khách Lang trung, Hàn Lâm học sĩ, rồi Thái tử tân khách. Cuối cùng làm Thượng thư kiểm hiệu bộ Lễ.

LƯU VŨ TÍCH

Page 174: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

174

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DỮ CA GIẢ∗ HÀ KHAM ∗

Nhị thập dư niên biệt đế kinh

Trùng văn thiên nhạc∗ bất thăng tình

Cựu nhân duy hữu Hà Kham tại

Cánh dữ ân cần xướng Vị thành.

GỬI CA NHI HÀ KHAM

Hai chục năm∗ hơn biệt đế kinh

Lại nghe tiên nhạc xiết bao tình

Người xưa chỉ có Hà Kham gặp

Vẫn thấy say sưa hat “Vị thành∗”.

■ ∗ Ca giả: Ca sĩ nam hoặc nữ chưa rõ. Nhưng có lẽ nữ nhiều hơn. Do đó dịch là ca nhi. ∗ Hà Kham: Không rõ. Có thuyết nói là bài hát hoặc bản nhạc ∗ Thiên nhạc: Âm nhạc tuyệt diệu của tiên. ∗ Hai chục năm: Năm 805 (Vĩnh Trinh 1) Lưu bị biếm đi châu Lãng (Hà Nam), tới năm 806 (Nguyên Hoà 11) mới về kinh lần thứ nhất, sau đó lại đi châu Liên (Quảng Đông), năm 828 lại được triệu về kinh. ∗ Vị thành: Là tên bài thơ của Vương Duy, bài thơ này được phổ nhạc.

Page 175: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU VŨ TÍCH

175

DƯƠNG LIỄU CHI TỪ∗

Dạng Đế∗ hành cung Biện thuỷ tân

Sổ chu dương liễu bất thăng xuân

Vãn lai phong khởi hoa như tuyết

Phi nhập cung tường bất kiến nhân

ĐIỆU TỪ CÀNH DƯƠNG LIỄU

Bến Biện hành cung Dạng Đế gần

Mấy cây dương liễu∗ biết bao xuân

Chiều về gió nổi hoa như tuyết

Bay khắp cung tường vắng mĩ nhân.

∗ Theo Mạnh Khải, bài này làm là muốn nói tới hai người thiếp yêu của Bạch Cư Dị (Lạc Thiên), tên là Phàn Tố và Tiểu Man. Đời Tống rất nhiều người thích bài này. ∗ Dạng Đế: Vua thứ hai nhà Tuỳ, làm vua từ năm 605 tới năm 616, xa xỉ cực độ, đắp đê sông Biện, trồng liễu hai bờ, xây hơn 40 hành cung. ∗ Mấy cây dương liễu: Có sách chép “sổ chi tàn liễu” (Mấy cành liễu tàn).

Page 176: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

176

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÃNG ĐÀO SA∗ TỪ

Anh Vũ∗ châu đầu lãng thiệm sa

Thanh lâu∗ xuân vọng nhật tương tà

Hàm nê yến tử tranh quy xá

Độc tự cuồng phu bất ức gia.

BÀI TỪ SÓNG CÁT

Anh Vũ cồn dài sóng cát nhoà

Ngóng xuân lầu thắm nắng đương tà

Ngậm bùn∗ chim én tranh làm tổ

Riêng kẻ cuồng phu chẳng nhớ nhà.

∗ Lãng đào sa: Tên khúc hát trong Nhạc phủ. ∗ Anh Vũ: Bãi bồi giữa sông Trường Giang ở tây nam Vũ Xương, Hà Bắc. ∗ Thanh lâu: Lầu xanh. Cũng chỉ nơi phụ nữ ở. ∗ Ngậm bùn: Chim én ngậm đất về làm tổ.

Page 177: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU VŨ TÍCH

177

NGUYÊN HÒA TH ẬP NIÊN TỰ LÃNG CHÂU

THỪA TRIỆU CHÍ KINH HÍ T ẶNG KHÁN HOA CHƯ QUÂN TỬ

Tử mạch hồng trần phất diện lai

Vô nhân bất đạo khán hoa hồi

Huyền đô quán lý đào thiên thụ

Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài.

NĂM NGUYÊN HÒA∗ THỨ 10 TỰ LÃNG

CHÂU∗ ĐƯỢC GỌI VỀ KINH, VUI VỚI BÈ BẠN XEM HOA

Đường lớn Kinh thành mờ bụi mắt

Mọi người đều bảo ngắm hoa về

Ngàn cây đào quán Huyền Đô∗ ấy

Tất cả trồng sau lúc Nguyễn∗ đi.

∗ Nguyên Hoà: Niên hiệu của vua Đường. ∗ Lãng Châu: Nay là Thường Đắc (Hà Nam). ∗ Huyền Đô: Quán thờ của đạo giáo. ∗ Nguyễn: Nguyễn Triệu. Triệu cùng Lưu Thần là hai chàng đánh cá, lạc vào nguồn đào, gặp tiên.

Page 178: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

178

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

Ô Y HẠNG

Chu tước kiều biên dã thảo hoa,

Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.

Tích thời Vương, Tạ đường tiền yến,

Phi nhập tầm thường bách tính gia.

NGÕ Ô Y∗

Chu Tước∗ cầu bên nội cỏ hoa,

Ô Y cửa ngõ bóng dương tà.

Trước kia đàn én sân Vương, Tạ,

Tản mạn bay tung khắp mọi nhà.

∗ Ô Y: Áo đen - Thời Tấn, 2 nhà quyền quý là Vương Đạo và Tạ An ở đây - Thường mặc quần áo màu đen (lông quạ đen), nên dân gian gọi nơi này là ngõ áo đen (ô y hạng) . *) Cũng có thuyết nói Ô y hạng là Ngõ chim én vì ở đó có rất nhiều chim én, giải thích này hợp với Vương Vân Ngữ Đại tự điển và Mathews’ Chinese-English Dictionary, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (giải thích Ô y là chim én), cũng hợp với nội dung của bài thơ. (NL chú thêm) ∗ Chu Tước: (Sẻ lông đỏ) tên cầu.

Page 179: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU VŨ TÍCH

179

TÁI DU HUY ỀN ĐÔ QUÁN

Bách mẫu đình trung bản thị đài

Đào hoa tịnh tận, thái hoa khai

Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ?

Tiền độ Lưu lang kim hựu lai.

LẠI TỚI QUÁN HUYỀN ĐÔ

Trong sân trăm mẫu nửa rêu rồi

Đào rụng tàn hoa, cải nở tươi

Đạo sĩ trồng đào đâu đó tá?

Chàng Lưu dạo trước lại về chơi.

Page 180: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

180

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TÁN ƯNG THUỶ TRÀ

Tối ái phương tùng Ưng chuỷ trà,

Lão lang phong ký tặng tiên gia

Kim triêu cánh hữu Tương Giang nguyệt,

Chiếu xuất phi phi mãn uyển hoa.

TRÀ “MỎ CHIM ƯNG”

Rất thích mùi thơm Ưng chủy trà,

Anh già gửi tặng bạn tiên gia.

Sớm nay lại có trăng Tương sáng,

Soi đẹp li đầy nở cánh hoa.

Page 181: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LƯU VŨ TÍCH

181

THẠCH ĐẦU THÀNH

Sơn vi cố quốc chu tao tại,

Triều đả không thành tịch mịch hồi.

Hoài thuỷ đông biên cựu thời nguyệt,

Dạ thâm hoàn quá nữ tường lai.

THÀNH THẠCH ĐẦU

Dẫy núi bao quanh còn dấu vết,

Triều dâng lặng lẽ động thành suông.

Ánh trăng từ phía đông Hoài thuỷ,

Tối vẫn về soi sáng bóng tường.

Page 182: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

182

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

XUÂN TỨ

Tân trang nghi diện há chu lâu,

Thâm toả xuân quang nhất viện sầu.

Hành đáo trung đình sổ hoa đoá,

Thanh đình phi thượng ngọc tao đầu.

TỨ XUÂN

Vừa xong trang điểm xuống chơi lầu,

Khoá kín màu xuân một viện sầu.

Đi tới sân trong hoa mấy đoá,

Chuồn chuồn bay tới đậu ngang đầu.

Page 183: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

183

LÝ BẠCH (701 – 762)

Người Sơn Đông (sinh ở Tứ Xuyên), tên tự là Thái Bạch. Tuổi trẻ thích múa gươm, ưa hào hiệp, ngao du các nơi ở Tứ Xuyên. Sau đó, rong chơi phía nam sông Đại Giang (Trường Giang), rồi Sơn Tây, Sơn Đông. Năm 42 tuổi tới Trường An. Được Hạ Tri Chương tiến cử, và được Đường Huyền Tông cho giữ chức Hàn lâm cung phụng. Không ưa Cao lực sĩ, nên bị Cao dèm với Dương Quý Phi vì có ba bài thơ "Thanh Bình điệu", rồi bị đưa khỏi triều đình. Sau đó ông lại ngao du các nơi. Khi ông đang ở Tuyên thành (An Huy) thì An Lộc sơn làm loạn. Em trai Túc Tông là Vĩnh Vương dấng quân Giang Lăng rồi chống lại Túc Tông và bị giết. Lý Bạch ở trong đạo quân của Vĩnh Vương, nên phải đầy đi Dạ Lang (Quỳ Châu), nửa đường được ân xá, lại tới Kim Lăng, Tuyên Thành, sống nhờ họ hàng, rồi mất ở vùng này. Truyền thuyết thì cho rằng, ông say rượu quá nhảy xuống sông bắt mặt trăng nên bị chết đuối.

Page 184: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

184

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BỒI TỘC THÚC HÌNH B Ộ THỊ LANG VI ỆP CẬP TRUNG THƯ GIẢ XÁ NHÂN ∗ DU ĐỘNG

ĐÌNH

Động Đình tây vọng Sở Giang∗ phân Thủy tận nam thiên bất kiến vân Nhật lạc Trường Sa thu sắc viễn

Bất tri hà xứ điếu Tương Quân∗.

CÙNG CHÚ HỌ∗ THỊ LANG BỘ HÌNH∗ VIỆP VÀ TRUNG THƯ XÁ NHÂN HỌ GIẢ CHƠI HỒ

ĐỘNG ĐÌNH

Động Đình tây ngó Sở Giang gần

Nước láng trời nam chẳng ráng vần

Nắng xế Trường Sa thu sắc thẳm

Biết nơi nào nhỉ viếng Tương Quân.

∗ - Giả Xá nhân: Nhà thơ Giả Chí, là Trung thư Xá nhân, Hàn lâm Khởi thảo. ∗ Sở Giang: Một tên khác của sông Trường Giang, ở đoạn gần hồ Động Đình. ∗ Tương quân: Nữ thần hồ Động Đình (tương truyền là con gái vua Nghiêu, vợ vua Thuấn). ∗ Chú họ: Là Lý Việp, con cháu họ tôn thất. ∗ Bộ Hình: Bộ Tư pháp.

Page 185: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

185

DỮ SỬ LANG TRUNG KHÂM THÍNH HOÀNG HẠC LÂU THƯỢNG XUY ĐỊCH

Nhất vi thiên khách∗ khứ Trường Sa

Tây vọng Trường An bất kiến gia

Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch

Giang thành ngũ nguyệt “L ạc mai hoa∗”.

CÙNG LANG TRUNG SỬ KHÂM NGHE THỔI SÁO TRÊN LẦU HẠC VÀNG

Một thân khách lẻ tới Trường Sa

Tây ngó Trường An chẳng thấy nhà

Hoàng Hạc ngang lầu nghe sáo ngọc

Thành sông giữa hạ “Rụng mai hoa”.

∗ - Thiên khách: Ở đây hiểu như kẻ bị đi đầy. Có thể đây là lúc Lý Bạch bị đày đi “D ạ Lang” chăng? ∗ - Lạc mai hoa: Trong nhạc có khúc “Hoa mai rụng”, nhưng cũng có thể hiểu nghĩa, sáo thổi tuyệt vời làm thay đổi thời tiết, tháng năm giữa hè mà hoa mai cũng rụng.

Page 186: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

186

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỀ BẮC TẠ BI

Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa

Tây vọng Trường An bất kiến gia

Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch,

Giang thành ngũ nguyệt Lạc mai hoa.

ĐỀ BIA BẮC TẠ

Từng làm khách trọ tới Trường Sa

Tây ngó Trường An chả thấy nhà.

Hoàng Hạc trong lầu vang sáo ngọc,

Thành sông ai hát “Lạc mai hoa”.

Page 187: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

187

HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu∗ Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu∗ Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

TẠI LẦU HOÀNG HẠC, TIẾN MẠNH HẠO NHIÊN (1)

Cố nhân tây dời Hoàng Hạc Lâu,

Khói hoa ba tháng xuống Dương Châu.

Buồm đơn bóng hút vào xanh thẳm

Chỉ thấy Trường Giang chảy mãi đâu.

Ở LẦU HẠC VÀNG TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN (2)

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

Khói hoa∗ xuân muộn xuống Dương châu

Buồm đơn bóng lẫn vào xanh tắp

Chỉ thấy Trường Giang sóng cuộn mau.

■ ∗ Hoàng Hạc Lâu: Lầu Hoàng Hạc ở Vũ Xương. ∗ Dương Châu: Châu Dương, quận là Quảng Lăng. ∗ Khói hoa: Ở đây ý nói “đô thị phồn hoa”.

Page 188: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

188

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

ĐỘNG ĐÌNH

Động Đình hồ tây thu nguyệt huy,

Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi.

Tuý khách mãn thuyền ca “Bạch trữ∗”,

Bất tri sương lộ nhập thu y.

HỒ ĐỘNG ĐÌNH

Phía tây trăng sáng Động Đình hồ,

Mạn bắc Tiêu Tương nhạn sớm qua

Đò chật khách say ca “Bạch trữ”,

Chả hay sương ướt đẫm xiêm thu.

∗ - Bạch trữ: Áo vải sợi to - Ở đây là tên bài hát, nói về cuộc sống người nghèo.

Page 189: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

189

HOÀNG HẠC LÂU VĂN ĐỊCH

Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa

Tây vọng Tràng An bất kiến gia

Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch

Giang thành ngũ nguyệt Lạc mai hoa∗.

Ở LẦU HẠC VÀNG NGHE SÁO

Đang làm thân khách trẩy Trường Sa

Tây ngó Trường An chả thấy nhà

Sáo ngọc âm vang lầu Hạc mãi

Thành sông rộn khúc Lạc mai hoa.

∗ - Lạc mai hoa: “Hoa mai rụng” tên một bản nhạc.

Page 190: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

190

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

HOÀNH GIANG T Ừ

Hoành Giang quán tiền tân lại nghinh,

Hướng dư đông chỉ hải vân sinh.

Lang kim dục độ duyên hà sự,

Như thử phong ba bất khả hành.

BÀI HÁT B ẾN HOÀNH GIANG

Viên lại Hoành Giang ra bến đón,

Chỉ tay phía biển nổi mây thành.

Việc chi ngài phải sang đò vội,

Chắc chắn phong ba chuyện quá rành.

Page 191: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

191

HÁ GIANG L ĂNG

Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,

Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.

Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ

Khing chu dĩ quá vạn trùng san.

XUỐNG GIANG LĂNG

Sớm từ Bạch Đế mây màu đẹp

Nghìn dặm Giang Lăng một buổi về

Không dứt hai bờ nghe vượn hót,

Đò thênh đã vượt vạn non khe.

Page 192: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

192

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

KHÁCH TRUNG HÀNH

Lan Lăng∗ mỹ tửu uất kim hương∗

Ngọc uyển thình lai hổ phách quang

Đãn sử chủ nhân năng túy khách

Bất tri hà xứ thị tha hương

DẶM KHÁCH

Lan Lăng rượu đậm ngát đưa hương

Chén ngọc long lanh đẹp lạ dường

Nhà chủ ví làm say được khách

Chả hay đâu nữa chốn tha hương.

∗ Lan Lăng: địa phương thuộc Sơn Đông. ∗ Uất kim hương: hoa "tuy líp"

Page 193: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

193

MẠCH THƯỢNG TẶNG MỸ NHÂN

Tuấn mã kiêu hành đạp lạc hoa,

Thuỳ tiên trực phất ngũ vân xa.

Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc,

Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia.

DỌC ĐƯỜNG TẶNG NGƯỜI ĐẸP

Vó ngựa dồn căng lối rụng hoa,

Xe mây dóng dả ngọn roi qua.

Mỉm cười người đẹp rèm châu vén,

Lầu đỏ nhà em trỏ phía xa.

Page 194: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

194

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

NGA MY* SƠN NGUYỆT CA

Nga My sơn nguyệt bán luân thu, Ảnh nhập Bình Khương* giang thuỷ lưu. Dạ phát Thanh Khê∗ hướng Tam Giáp, Tư quân bất kiến há Du Châu.

BÀI CA VẦNG TRĂNG NÚI NGA MY (1)

Nga My trăng núi nửa vầng thu, Bóng loáng Bình khương sóng nước làu Đêm tự Thanh Khê tới Tam giáp Nhớ anh không gặp, tới Châu Du.

BÀI CA TRĂNG NÚI NGA MI (2) Nga Mi trăng núi nửa vành thu In bóng Bình Khương sóng nước mau

Đêm tự Thanh Khê đi Tam Giáp∗ Nhớ người không thấy xuống Du Châu./.

* Nga Mi: Tên núi ở tây Tứ Xuyên, tây nam Thành Đô. Ngọn cao nhất 3.053m, có thể lúc này Lý khoảng hai mươi tuổi. * Bình Khương: Tên sông, còn gọi là Thanh Y, phát nguồn từ rừng đông bắc Nga Mi, sau hợp dòng với sông Dân. ∗ Thanh Khê: Tên khe suối; Cũng tên một thị trấn phía đông nam núi Nga Mi. ∗ Tam Giáp (Tam Hiệp): Giáp – Hai bên bờ sông hẹp có núi cao. Một là Cù Đường Giáp, hai là Vu Giáp, ba là Tây lăng Giáp. Thường gọi chung Tam Giáp (Tam Hiệp) – Có sách nói nơi này gần Tây lăng Giáp.

Page 195: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

195

QUÂN HÀNH

Lưu mã tân khoa bạch ngọc an,

Chiến bãi sa trường nguyệt sắc hàn.

Thành đầu thiết cổ thanh dinh chấn

Hạp lý kim đao huyết vị can.

KHÚC CA HÀNH QUÂN

Ngựa tốt vừa khoe yên ngọc trắng,

Sa trường sau trận ánh trăng hàn

Đầu thành trống sắt còn vang tiếng

Trong hộp gươm vàng máu vẫn nham.

Page 196: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

196

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

SƠN TRUNG VẤN ĐÁP

Vấn dư hà sự thê bích sơn,

Tiếu nhi bất đáp tâm tự nhàn.

Đào hoa lưu thuỷ diểu nhiên khứ.

Biệt hữu thiên địa phi nhân gian.

HỎI ĐÁP Ở TRONG NÚI

Hỏi ta sao lại vào non thẳm

Cười không đáp lại dạ thênh thang

Hoa đào dòng nước trôi lờ lững.

Riêng bầu trời đất khác nhân gian.

Page 197: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

197

TẢO PHÁT BẠCH ĐẾ∗ THÀNH

Triêu từ Bạch Đế thái vân gian

Thiên lý Giang Lăng∗ nhất nhật hoàn

Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ

Khinh châu dĩ quá vạn trùng san.

SÁNG ĐI TỪ THÀNH BẠCH ĐẾ

Sáng từ Bạch Đế ráng mây đi

Ngàn dặm Giang Lăng một buổi về

Tiếng vượn hai bờ kêu chẳng dứt

Con đò nhẹ vượt vạn non khe.

∗ Bạch Đế: Tên thành. Cuối thời Hán (thời Tam quốc). Công Tôn Thuật đã chiếm cứ nơi đây. Sau này, Lưu Bị từng ở. Lúc này Lý 25 tuổi quê ở Tứ Xuyên ra đi. ∗ Giang Lăng: Thuộc Hồ Bắc, cách thành Bạch Đế khoảng 300 km.

Page 198: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

198

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TẶNG UÔNG LUÂN

Lý Bạch thừa chu tương dục hành,

Hốt văn ngạn thượng “Đạp ca” thanh.

Đào hoa đàm thuỷ thâm thiên xích,

Bất cập Uông Luân tống ngã tình.

TẶNG UÔNG LUÂN

Lý Bạch lên khoang sắp khởi hành,

Chợt nghe bờ vẳng tiếng ca nhanh.

Đào hoa đầm nước sâu ngàn thước,

Chả sánh Uông Luân tiễn biệt mình.

Page 199: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

199

THÁI LIÊN KHÚC

Nhược Da khê bạng thái liên nữ,

Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ.

Nhật chiếu tân trang thuỷ để minh,

Phong phiêu hương duệ không trung cử.

KHÚC CA HÁI SEN

Nhược Da khe sen nhiều cô gái,

Giữa đám hoa sen rộn nói cười.

Áo mới nắng hoe soi bóng nước,

Vạt thơm làn gió ngát hương trời.

Page 200: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

200

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THANH BÌNH ĐIỆU TỪ

Vân tưởng y thường hoa tưởng dung

Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng

Nhược phi Quần Ngọc∗ sơn đầu kiến

Hội chướng Dao Đài* nguyệt hạ phùng

ĐIỆU THANH BÌNH

Mây ngỡ xiêm y hoa ngỡ mặt

Gió xuân hiên lộng đẹp vô chừng

Nếu không quần Ngọc đầu non

Sẽ tới Dao Đài dưới ánh trăng.

∗ - Quần Ngọc, Dao Đài: Nơi ở của tiên.

Page 201: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

201

THANH BÌNH ĐIỆU TỪ ∗ ( I )

Vân tưởng y thường hoa tưởng dung Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng Nhược phi Quần Ngọc∗ sơn đầu kiến Hội hướng Dao đài∗ nguyệt hạ phùng.

ĐIỆU THANH BÌNH ( I )

Hoa ngỡ môi hồng mây ngỡ áo Gió xuân lộng gác vẻ hoa nồng Nếu không Quần Ngọc đầu non hội Trăng sáng đài Dao lại gặp cùng. ■

∗ Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi tới cung Hưng Khánh xem hoa mẫu đơn, sai người tìm Lý Bạch để làm thơ. Ông làm liền ba bài. Theo truyện “Dương Thái Chân” của Nhược Sử (đời Tống), lúc này Lý Bạch đã say rượu từ hai hôm trước, khi nhận được sắc chỉ, ông viết luôn. Huyền Tông bèn sai nhạc sĩ ở Lê Viên (nhạc viện của Triều đình) chuyển thành từ điệu biểu diễn, nhà vua thổi sáo theo, và ca sĩ nổi tiếng thời ấy là Lý Quy Niên hát lời. ∗ Quần Ngọc: Tên núi ở phương Tây (truyền thuyết) nơi ở của Tây Vương Mẫu. ∗ Dao đài: đài xây bằng ngọc, tên cung tiên, có người đẹp Hữu Nhung ở.

Page 202: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

202

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THANH BÌNH ĐIỆU TỪ ( III )

Danh hoa khuynh quốc∗ lưỡng tương hoan

Trường đắc quân vương đới tiếu khan

Giải thích xuân phong vô hạn hận

Trầm hương∗ đỉnh bắc ỷ lan can.

ĐIỆU THANH BÌNH ( III )

Hoa thơm người đẹp thảy hân hoan

Mỉm miệng nhà vua ngó ngỡ ngàng

Xua giúp gió xuân bao nỗi hận

Trầm hương đình bắc tựa lan can.

∗ Khuynh quốc: “Nghiêng nước”, nghĩa bóng là người đẹp tuyệt vời. Lý Diên Niên tiến cử em gái mình với Hán Vũ Đế có câu:

Phương bắc có người đẹp Một cười nghiêng thành Hai cười nghiêng nước.

∗ Trầm hương: Tên đình trong cung Hưng Khánh, bên cạnh có Ao Rồng (Long Trì).

Page 203: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

203

THIẾU NIÊN HÀNH

Ngũ Lăng niên thiếu Kim thị∗ đông,

Ngân yên bạch mã độ xuân phong.

Lạc hoa đạp tận du hà xứ,

Tiếu nhập Hồ cơ∗ tửu tứ trung.

HÀNH KHÚC TUỔI TRẺ

Ngũ Lăng chàng trẻ qua Kim thị,

Ngựa trắng làn xuân rộn vó đua.

Hoa rụng nhiều nơi đâu nữa nhỉ

Cười vang vào quán rượu Cô Hồ.

∗ Kim thị: Tên chợ. ∗ Hồ cơ: Cô gái nước Hồ. Hồ ở đây có thể là Ba Tư (Iran).

Page 204: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

204

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

THU HÀ KINH MÔN

Sương lạc Kinh Môn∗ giang thụ không Bố phàm vô dạng quải thu phong Thử hành bất vị lô ngư khoái Tự ái danh sơn nhập Diễm Trung.

MÙA THU XUỐNG KINH MÔN

Sương xuống Kinh Môn cây bến suông

Yên lành buồm vải∗ gió thu lồng

Chuyến này chẳng bởi gỏi cá Vược∗

Vì thích non cao đất Diễm Trung∗. ■

∗ Kinh Môn: Ở phía tây Giang Lăng. Kinh là tên gọi khác của Sở (Hồ Bắc). Núi Kinh môn trên bờ sông Trường Giang, núi có nguồn sông chảy qua sông Kinh hà, nên gọi Kinh Môn. ∗ Yên lành buồm vải: Đời Tấn, Cố Khải Chi làm quan ở Giang Lăng, được nghỉ về Giang nam chơi. Vị trưởng quan cho mượn chiếc buồm vải, dọc đường, gió to, nhờ có buồm vải nên không rách. Trong thư gửi Trưởng quan, họ Cố có câu:

Người đi được yên ổn / Buồm vải cũng yên lành ∗ Gỏi cá Vược: Trương Hàn đời Tấn, làm quan ở Lạc Dương, mỗi khi thu về , lại nhớ tới quê ở Ngô Quận (Giang Tô), nơi có đặc sản nổi tiếng như rau thuần và gỏi cá Vược. ∗ Diễm Trung: Vùng đông Thiệu Hưng, Chiết Giang, thượng lưu sông Tào Nga, có khe Diễm, quanh đó nhiều núi cao đẹp.

Page 205: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

205

THƯỢNG HOÀNG TÂY TU ẦN NAM KINH

CA∗

Thùy đạo quân vương hành lộ nan Lục long∗ tây hạnh vạn nhân hoan Địa chuyển Cẩm Giang∗ thành Vị Thủy∗ Thiên hồi Ngọc lũy∗ hóa Trường An

THƯỢNG HOÀNG SANG TÂY TUẦN THÚ NAM KINH ∗

Ai bảo vua đi đường gian nan Sáu rồng xe trẩy vạn hân hoan Đất chuyển Cẩm Giang thành Vị thủy Trời xoay Ngọc lũy hóa Trường An. ■

∗ Năm 756 (Niên hiệu Thiên Bảo 15) loạn quân An Lộc Sơn xâm phạm Trường An, Đường Huyền Tông phải lánh nạn vào Thục (Tứ Xuyên). Dọc đường, ông truyền ngôi cho con (Túc Tông) và trở thành Thượng Hoàng. ∗ Lục Long (sáu rồng): Xe sáu ngựa. ∗ Cẩm Giang: Tên sông ở Thành đô, thượng lưu của sông Trường Giang. ∗ Vị Thủy: Tên sông ở bắc Trường An. ∗ Ngọc lũy: Ở phía tây bắc Thành đô, nay là núi ở huyện Quán. ∗ Nam Kinh: là Thành đô đất Thục, vì ở tây nam Trường An.

Page 206: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

206

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TÔ∗ ĐÀI LÃM C Ổ

Cựu uyển hoang đài dương liễu tân

Lăng ca∗ thanh xướng bất thăng xuân

Chỉ kim duy hữu Tây giang nguyệt

Tằng chiếu Ngô vương cung lý nhân

THĂM DI TÍCH ĐÀI CÔ TÔ

Vườn cũ, đài hoang liễu mới ngần

"Lăng ca" lời vút xiết bao xuân

Chỉ nay trăng sáng sông Tây∗ ấy

Từng chiếu cung Ngô bóng mỹ nhân.

■ ∗ Tô: Cô Tô, tên cung điện xây dựng do vua Phù Sai nước Ngô thời Xuân Thu, ở phía Tây nam huyện Ngô tỉnh Giang Tô. ∗ Lăng ca: Bài hát khi hái ấu (một thứ củ ở mặt nước), một loại dân ca. ∗ Sông Tây: Sông phía tây. Phía tây đài Cô Tô, không có sông lớn.

Page 207: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

207

VĂN VƯƠNG XƯƠNG LINH THIÊN LONG TI ỂU

Dương Châu hoa lạc tử quy đề,

Văn đạo Long Tiêu quá Ngũ Khê.

Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt,

Tuỳ quân trực đáo Dạ Lang tê.

NGHE TIN VƯƠNG XƯƠNG LINH ĐỔI RA LONG TIÊU

Châu Dương hoa rụng, cuốc kêu hè,

Anh tới Long Tiêu quá Ngũ Khê.

Tôi gửi nỗi buồn cùng trăng sáng,

Dạ Lang theo mãi bước anh đi.

Page 208: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

208

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

VĂN VƯƠNG XƯƠNG LINH THIÊN LONG TI ỂU (dị bản với bài trên)

Dương hoa lạc tận tử quy∗ đề Văn đạo Long Tiêu∗ quá Ngũ Khê∗ Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt Tùy phong trực đáo Dạ Lang∗ tê (tây).

XA NGHE TIN VƯƠNG XƯƠNG LINH ĐỔI LÀM CHỨC ÚY LONG TIÊU

Hoa dương rụng hết rộn từ quy

Nghe nói Long Tiêu quá Ngũ Khê

Ta gửi lòng sầu theo ánh nguyệt

Dạ Lang tây ấy gió đưa đi.

∗ Tử quy: Một loài chim, như chim cuốc. Câu này khác với câu 1 của bài trước. Các câu 2,3,4 giống hệt bài trước ∗ Long Tiêu: Địa danh, nay là đất Dương, tỉnh Hồ Nam. Vương Xướng Linh được đổi làm chức úy ở huyện này. "Long Tiêu" trong bài thơ có ý chỉ Vương Xương Linh. ∗ Ngũ Khê: Địa danh, ở phía tây nam hồ Động Đình, phía tây đất Thường Đức. Ở đây có năm dòng suối chảy qua nên gọi tên là Ngũ Khê. ∗ Dạ Lang: Địa danh, ở phía bắc tỉnh Quý Châu

Page 209: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

209

VIỆT TRUNG∗ LÃM CỔ

Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô quy

Nghĩa sỹ hoàn gia tận cẩm y

Cung nữ như hoa mãn xuân điện

Chỉ kim duy hữu giá cô phi.

THĂM DI TÍCH NƯỚC VIỆT CŨ

Dẹp Ngô vua Việt kéo quân về

Áo gấm chàng trai trở lại quê

Cung nữ như hoa tươi khắp điện

Mà nay chỉ thấy cuốc bay đi.

∗ Việt Trung: Tức Cối Kê, kinh đô nước Việt thời Xuân Thu, nay là

Thiệu Hưng, Chiết Giang. Để trả thù cho cha, Ngô Phù Sai đánh Việt, bắt Câu Tiễn phải hàng. Câu Tiễn ở Cối Kê nằm gai nếm mật quyết chí phục thù, sau này Câu Tiễn đánh đài Cô Tô, Phù Sai phải tự sát. Ngoài "nằm gai nếm mật" còn có câu "Mối thù Cối Kê".

Page 210: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

210

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ THUỶ

Nhật chiếu Hương Lư sinh tử yên,

Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.

Phi lưu trực há tam thiên xích,

Nghi thị Ngân hà lạc cửu thiên.

NGẮM DÒNG THÁC NÚI LƯ

Nắng chiếu Hương Lư khói tía lên,

Nhìn xa thác đổ dốc sông bên.

Sóng bay dựng đứng ba ngàn thước

Ngỡ đó Ngân Hà rót tự trên.

Page 211: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ BẠCH

211

VỌNG THIÊN MÔN SƠN

Thiên Môn∗ trung đoạn Sở giang khai

Bích thủy đông lưu chí thử hồi

Lưỡng ngạn thanh sơn tương đối xuất

Cô phàm nhất phiến nhật biên lai.

NHÌN NÚI THIÊN MÔN

Thiên Môn mở giữa bày sông Sở

Dòng biếc về đông uốn khúc lùi

Núi thẳm đôi bờ cùng ẩn hiện

Buồm đơn một cánh phía bên trời.

∗ Thiên Môn: Tên núi ở trên sông Trường Giang từ An Huy tới Giang Tô, dưới Vu Hồ một chút. Hai bờ sững như núi Bác Vọng, Lương Sơn.

Page 212: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

212

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ CẤU

ĐỘC "TRƯỜNG HẬN TỪ"

Thục đạo như thiên dạ vũ dâm

Loạn linh thanh lí bội triêm khâm.

Đương thì cánh hữu quân trung tử

Tự thị quân vương bất động tâm.

ĐỌC BÀI TỪ "NỖI HẬN DÀI"

Đường Thục treo leo mưa tối đẵm

Chuông rung loạn tiếng vạt châu đằm

Lại tin có kẻ trong quân chết

Chả thấy nhà vua chút động tâm.

Page 213: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ CẤU

213

DƯƠNG LIỄU CHI

Phong tình tiệm lão kiến xuân tu

Đáo xứ phương hồn cảm cựu du.

Đa tạ trường điều tự tương thức,

Cưỡng thùy yên huệ phất nhân đầu.

CÀNH LIỄU

Phong tình già tới thấy xuân sầu

Còn nhớ vùng thơm chuyển gập lầu

Ơn quá cành dài như bạn cũ

Gắng buông hoa khói phất phơ đầu.

LÝ CÂU

Page 214: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

214

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ CHỬNG (? - 886)

Quê ở Lũng Tây (tỉnh Cam Túc). Biểu tự là Xương Thời. Năm 871 đỗ Tiến sĩ. Làm việc dưới trướng Tiết độ sứ, nhưng gặp loạn Hoàng Sào (Hoàng Sào quê Châu Tạo, làm nghề buôn muối giàu có, ưa giúp đỡ người trốn tránh, giỏi về cưỡi ngựa, múa kiếm, bắn cung, có đọc sách vở. Năm Vương Tiên Chi nổi loạn, Sào theo giúp. Tiên Chi thất bại, Sào tập hợp tàn quân xưng là "Xung Thiên Đại tướng quân", đánh chiếm Lạc Dương, phá Đồng Quan, vây hãm Kinh sư. Đường Hy Tông chạy vào Thục. Sào xưng đế, đặt tên nước là Đại Tề, niên hiệu là Kim Thống. Sau khi bị quân Cần Vương đánh thua. Lý tránh vào Bình Dương (Sơn Tây) nhưng rồi được vua Đường Hy Tông mời ra, giao các chức Thượng thư lang, Khảo công Lang trung, rồi Tri chế cáo. Nhưng tới năm 886, khi Chu Mai nổi loạn, Lý bị giết trong đám loạn quân.

Page 215: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ CHỬNG

215

THOÁI TRI ỀU VỌNG CHUNG NAM SƠN∗

Tử thần∗ triều bãi xuyết uyên loan∗

Đan Phượng∗ lâu tiền trụ mã khan

Duy hữu Chung Nam∗ sơn sắc tại

Tình minh∗ y cựu mãn Trường An.

TAN CHẦU NHÌN NÚI CHUNG NAM

Bãi chầu điện báu sắp hàng loan

Lầu Phượng dùng ngựa bên ngó sang

Chỉ có Chung Nam màu núi đậm

Thanh minh vẫn đẹp khắp Trường An ■

∗ Bài thơ này Lý làm khi bị loạn quân Chu Mai bắt được và phải làm việc cho chúng. Ông hận về chuyện không giữ được khí tiết, và sau đó tỏ ý chống đối Chu Mai. ∗ Tử thần: Tên cung điện. ∗ Uyên loan: Tên chim như Phượng Hoàng, khi bay rất trật tự. Các quan xếp hàng nghiêm túc khi vào hoặc tan chầu cũng như vậy. ∗ Đan Phượng: Tên lầu ở cửa Nam cung Đại Minh (nơi vua ở) ∗ Chung Nam: một núi có tiếng ở Trường An ∗ Tình minh: Là Thanh minh

LÝ CHỬNG

Page 216: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

216

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

BỆNH NGƯU

Canh lê thiên mẫu thực thiên sương,

Lực tận cân bì thùy phục thương?

Đãn đắc chúng sinh giai đắc bão

Bất từ luy bệnh ngọa tàn dương.

TRÂU ỐM

Ruộng cày ngàn mẫu thóc ngàn rương

Sức cạn gân chùn chả kẻ thương

Nhưng được mọi người no ấm đủ

Chả nề gầy ốm buổi tà dương.

Page 217: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ DỤC

217

LÝ DỤC

CẢM HOÀI 1

Hựu kiến đồng hoa phát cựu chi,

Nhất lâu yên vũ mộ thê thê.

Bằng lan trù trướng nhân thùy hội,

Bất giác san nhiên lệ nhãn đê.

CẢM HOÀI 1

Cành cũ hoa vông lại thấy về

Một lầu mưa khói tối lê thê

Tựa hiên rầu rĩ ai người hiểu

Châu lệ không đâu mắt đẫm đìa.

Page 218: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

218

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

CẢM HOÀI 2

Tằng Thành vô phức kiến kiều tư,

Giai tiết triền ai bất tự trì.

Không hữu đương niên cựu yên nguyệt,

Phù Dung thành thượng khốc nga mi.

CẢM HOÀI 2

Đô thành không thấy vẻ xinh tươi

Tết đến nhìn nhau.vẻ ngậm ngùi

Trăng khói năm nào suông vắng cả

Thành Phù Dung ấy khóc mày ngài.

Page 219: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ ĐOAN

219

LÝ ĐOAN (732-792)

Quê ở Triệu Châu, khi nhỏ Lý ở Lư Sơn, theo học Hiệu Nhiên. Năm 770 đỗ Tiến sĩ, làm chức Hiệu thư lang, nhưng vì nhiều bệnh nên Lý từ chức, về ở lều tranh tại núi Chung Nam. Sau đó, lại được trao chức Tư mã châu Hàng, nhưng ông không thích giao dịch thế tục, nên dời nhà tới núi Hành (Hồ Nam), và tự xưng là “Hành Nhạc U Nhân”, sống cuộc đời ẩn dật. Lý là một trong “Mười tài tử thời Đại Lịch”.

TỐNG LƯU THỊ LANG ∗

Kỷ nhân đồng nhập Tạ Tuyên thành∗ Vị cập thù ân cánh tử sinh Duy hữu dạ viên tri khách hận Dịch Dương∗ khê lộ đệ tam thanh.

► ∗ Lưu Thị Lang: Chưa rõ, trước từng làm Thứ sử Tuyên Thành. ∗ Tạ Tuyên thành: tức Tạ Diêu, thời Nam Tề, từng làm Thái thú Tuyên Thành, văn hay nổi tiếng về thơ năm tiếng. ∗ Ở đông nam Vu Hồ, tỉnh An Huy. ∗ Dịch Dương: Phía nam núi Dịch. (huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông).

Page 220: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

220

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

TIỄN THỊ LANG HỌ LƯU

Mấy ai cùng giống Tạ Tuyên thành

Chưa kịp đền ơn đã “tử sinh”

Chỉ có vượn đêm hay hận khách

Dịch Dương ba tiếng hú∗ khe quanh. ■ ∗ Ba tiếng hú (hoặc tiếng hú lần thứ ba): ý nói vô cùng thảm thiết. Trong “Thủy kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên thời Hậu Ngụy có chép: Ba hẻm núi ở Ba Đông, thì Vu Giáp dài nhất. Ai qua đây, khi nghe thấy vượn hú tới tiếng thứ ba, đều không cầm được nước mắt.

Page 221: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ ĐOAN

221

MỤC LỤC PHẦN 1

65 TÁC GIA 268-1-65=202 bài LỜI ĐẦU SÁCH .....................................................3

ÂU DƯƠNG CHIÊM................................................7

ÂU DƯƠNG TU.......................................................8

BẠCH NGỌC THIỀM ............................................27

BAO HÀ ............................................. ...................28

CẢNH VỸ ..............................................................29

CAO BIỀN.............................................................30

CAO THÍCH...........................................................38

CAO THIỀM ..........................................................42

CHÍ NAM ...............................................................43

CHU HI ..................................................................44

CHU KHÁNH DƯ ..................................................49

CHU TẤT ĐẠI........................................................51

CHU THỤC CHÂN ................................................52

CỐ HUỐNG...........................................................57

DÃ TĂNG ..............................................................61

DIỆP THÁI.............................................................62

DIỆP THIỆU ÔNG .................................................63

DƯƠNG BỊ ............................................................64

DƯƠNG CỰ NGUYÊN..........................................66

DƯƠNG VẠN LÝ ..................................................68

DƯƠNG PHÁC .....................................................74

Page 222: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

222

BÙI H�NH CN — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

DƯƠNG SĨ NGẠC.................................................75

ĐOÀN THÀNH THỨC ...........................................77

ĐỖ LỖI ..................................................................79

ĐỖ MỤC................................................................80

ĐỖ PHỦ.................................................................92

ĐỖ THẨM NGÔN ................................................103

ĐỖ TUÂN HẠC ...................................................105

GIẢ CHÍ ...............................................................107

GIẢ ĐẢO .............................................................114

HẠ TRI CHƯỞNG...............................................118

HÀN CÂU............................................ ................120

HÀN DŨ...............................................................121

HÀN HOẰNG (HOÀNH)......................................124

HÀN TÔNG .........................................................127

HÀN TƯỜNG ......................................................128

HOA NHAN ........................................... ..............129

HOÀNG PHỦ NHIỄM ..........................................130

HOÀNG SÀO .......................................... ............134

HỒNG TUÂN.......................................................135

HỨA HỒN ...........................................................136

LA ẨN .................................................................138

LÂM CHẨN .........................................................141

LÂM THĂNG.......................................................142

LÂU D ĨNH ...........................................................143

LIỄU TÔNG NGUYÊN.........................................144

Page 223: ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU

LÝ ĐOAN

223

LỘ ĐỨC CHƯƠNG.............................................147

LỤC DU...............................................................148

LƯ BẬT...............................................................155

LƯ ĐÌNH KỲ........................................................157

LƯ MAI PHA ........................................... ............158

LƯƠNG HOÀNG.................................................161

LƯU HÀN............................................................162

LƯU KHẮC TRANG............................................163

LƯU QUÝ TÔN ...................................................164

LƯU SƯ THIỆU...................................................165

LƯU TỬ VỰNG...................................................166

LƯU TRƯỜNG KHANH......................................167

LƯU PHƯƠNG BÌNH..........................................172

LƯU VŨ TÍCH .....................................................173

LÝ BẠCH.............................................................183

LÝ CẤU ...............................................................212

LÝ CHỬNG .........................................................214

LÝ DỤC ...............................................................217

LÝ ĐOAN ............................................................219

MỤC LỤC .........................................................2211