126
Phạm Việt Long NGỜ VỰC Tập truyện ngắn và tản văn 1

Ngờ vực - Phạm Việt Long - Tập truyện và tản văn

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Tập truyện và tản văn Phạm Việt Long

Citation preview

Page 1: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Phạm Việt Long

NGỜ VỰCTập truyện ngắn và tản văn

Nhà xuất bản Thanh Niên - 2006

1

Page 2: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Ngờ vực(Tập Truyện ngắn và Tản văn )

Mục lục: Lời Nhà xuất bản

Tựa

Phần thứ nhất: Truyện ngắn

1. Ngọn lửa đốt nương2. Ngờ vực3. Thành Hoàng làng4. Ánh sáng từ biên giới5. Bà mẹ và con chó nhỏ6. Rắn thần7. Hồi quang8. Cơn mưa rừng năm ấy9. Hồn tường 10. Bà Cục trưởng thích nhận thư11. Sự tích đầm Bạch Liên

Phần thứ hai: Tản văn1. Những ý kiến quý báu2. Chỉ thương người Tây sang ta3. Tại mình là người Việt4. Lá thư trong cổ áo5. Dàn Đồng ca6. Bài học đầu tiên7. Mèo một hột8. Mong được mẹ khinh9. Cái mũi thính10.Đẻ xa

2

Page 3: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

3

Page 4: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

TỰA

Trịnh Thanh Sơn

Phạm Việt Long tin cậy trao cho tôi bản thảo tập Truyện ngắn và Tạp văn mới nhất của anh, dự định sẽ cho ấn hành ở Nhà xuất bản Thanh Niên năm nay (2006). Đây là cuốn sách thứ ba của Phạm Việt Long mà tôi được đọc, sau tập Nhật ký chiến trường Bê trọc và tập truyện ngắn Âm bản rất nổi tiếng của anh.

Người làm văn chương ở trong đời có nhiều loại. Có người viết văn để mong được nổi danh, có người dùng văn chương làm thứ trang sức để loè thiên hạ, chỉ cốt tỏ ra là người có chữ, có người dùng văn chương để thăng quan tiến chức, vinh thân phì gia. Nhưng cũng có người dùng văn chương để bày tỏ tâm sự của mình trước nhân tình thế thái, đem cái sở nguyện trong Tâm của mình mà chia sẻ vui buồn, và giác ngộ, đặng an ủi và cứu rỗi tâm linh của đồng bào, đồng chí và đồng loại. Văn chương ấy là thứ văn chương nhọc nhằn, khổ luỵ, thứ văn chương “khư khư mình buộc lấy mình vào trong!” vậy. Phạm Việt Long đi theo lối văn chương này, đi từ khi tóc xanh cho đến hồi đầu bạc, nhất quán và quyết liệt. Văn chương đối với anh không phải một trò đùa, một trò giải trí, một áng phù vân, ngược lại, anh dùng văn chương để suy ngẫm, đồng cảm, cảnh báo và giáo hoá. Đọc Phạm Việt Long, tôi thấy anh như là hậu duệ của cụ Đồ Chiểu:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳmĐâm mấy thằng gian bút chẳng tà!Từ Bê trọc, qua Âm bản rồi đến Ngờ vực hôm nay, Phạm Việt Long đã

tỏ ra nhất quán, vững vàng trong tư tưởng và khẳng định được phong cách hiện thực của mình qua ngòi bút. Ở một phía nào đó, xét trên bình diện đề tài, tư tưởng và sự cập nhật, văn anh gần với báo chí, nhưng không vì thế mà bị báo chí hoá. Từ những đề tài và sự kiện thường nhật, với cách nhìn sắc sảo và hóm hỉnh, với lối viết uyển chuyển, nhiều cảm xúc, truyện của Phạm Việt long rất giầu chất văn chương.

Trở lại với tập Ngờ vực mà bạn đang có trên tay, chúng ta thấy được những gì?

Tập sách bao gồm 21 tác phẩm, được chia thành hai phần Truyện ngắn và Tản văn. Phần Truyện ngắn gồm 11 truyện ngắn được viết rải rác trong một quáng thời gian khá dài, với khoảng không gian rộng lớn, đề tài và nhân vật phong phú, nhiều mầu sắc, từ chiến tranh tới hoà bình, từ miền xuôi tới miền ngược, từ nông thôn tới thành thị. từ thời bao cấp tới thời thị trường… Với một vốn sống phong phú, với cái nhìn sắc sảo và nhạy bén của một nhà báo, văn

4

Page 5: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

chương của Phạm Việt Long dù có hơi nghiêng về phía tân văn, nhưng vẫn thấm đẫm tình người, tình đời, có sức lôi cuốn người đọc.

Truyện ngắn của Phạm Việt Long thường có cốt truyện giản dị, mạch lạc, nhiều chi tiết, nhân vật được khắc hoạ sắc nét, bật ra được tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, dù đó là nhân vật chính diện hay phản diện, nhân vật chính hay nhân vật phụ. Giọng điệu trong văn Phạm Việt Long vừa nhất quán lại vừa biến ảo, tạo được nhiều sắc thái tình cảm, đa thanh và phức điệu. Tuy đi theo xu hướng hiện thực nghiêm ngặt là chính, nhưng đôi khi anh cũng sử dụng bút pháp phúng dụ, ngụ ngôn và huyền ảo, vì vậy đọc anh, chúng ta thấy bất ngờ và thú vị.

Những truyện trong phần Truyện ngắn có đề tài khác nhau, nhưng thống nhất trong một tư tưởng, một cách nhìn nhân bản và nhân văn về bức tranh xã hội, đời sống tâm lý và thân phận con người. Nếu như Ngọn lửa đốt nương và Thành Hoàng làng là những chuyện giản dị về cuộc sống của người dân hôm nay, dù là miền xuôi hay miền núi, thì các truyện Ngờ vực và Cơn mưa rừng năm ấy là nỗi ăn năn, hối hận sâu thẳm trong lòng người vì một hành vi xốc nổi, không nên, không phải, gây ra những hậu quả khôn lường. Nếu truyện ngắn Ánh sáng từ biên giới bàn về xự ứng xử giữa người với người thì truyện ngắn Người mẹ và con chó nhỏ lại bàn về việc ứng xử giữa con người với vật nuôi trong nhà. Đây là một truyện ngắn thật hay, hết sức độc đáo, rất đặc trưng cho bút pháp hài hước và thâm thuý Phạm Việt Long. Mầu sắc ngụ ngôn ở truyện này thể hiện rất rõ, chính vì thế tư tưởng và triết lý của truyện càng trở nên sâu sắc, cười ra nước mắt! Chính vì thế mà sức khái quát và sự ám chỉ của truyện rất cao, nó chỉ ra những khiếm khuyết và bất cập trong quan hệ giữa con người với con người và cả sự băng hoại của đạo đức xã hội. Truyện ngắn Hồi quang có cách viết rất mới, bố cục theo cách mờ chồng và song hành của điện ảnh, làm nổi bật số phận và tính cách của nhân vật chính. Đặc biệt là cái kết bất ngờ, lên án sự giả dối và hèn nhát của những kẻ hoạt đầu và đê tiện, gieo vào lòng người đọc một nỗi cảm thương và một niềm đau xót khôn nguôi. Truyện ngắn này rất gần với một kịch bản điện ảnh, nếu khai thác để làm phim, chúng ta sẽ có một bộ phim truyện rất hay. Tôi nói điều này như một sự gợi ý cho các nhà điện ảnh, trong khi chúng ta vẫn phàn nàn là quá hiếm những kịch bản có giá trị. Truyện ngắn Bà Cục trưởng thích nhận thư khá độc đáo, xây dựng được tính cách điển hình của một nhân vật điển hình, tiêu biểu cho xã hội ta hôm nay, đó là sự dốt nát, giả dối, kệch cỡm, tham lam, thớ lợ và vô liêm sỉ trong một thứ "văn hoá" tệ hại đang lan rộng trong xã hội ta ngày nay là "văn hoá phong bì". Truyện viết rất giản dị, theo mạch kể, nhưng dựng được chân dung một con người nham hiểm, xấu xa, vì đồng tiền nhưng lại được che dấu dưới một vỏ bọc nhân từ và liêm khiết.

5

Page 6: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Các truyện ngắn Rắn thần, Hồn tường, Huyền thoại đầm Bạch Liên đều được viết theo phong cách cổ tích và hiện thực huyền ảo. Chính vì thế mà có sức hấp dẫn người đọc và sự khái quát rất cao về nhân tình thế thái và triết lý nhân sinh. Điều mà tác giả khuyến cáo hay là thông điệp của những truyện ngắn này là đưa con người về với bản chất người, về với cái chân và cái thiện. Trong ba truyện này thì Huyền thoại đầm Bạch Liên là truyện ngắn công phu và sâu sắc hơn cả. Cái xóm chài bên đầm Đại kia là biểu tượng cho xã hội loài người thu nhỏ, ở đó diễn ra mọi cung bậc của đời sống và tâm lý con người. Việc cha mẹ Liên kén rể bằng cách thi tài có gì đó giống với chuyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, nhưng cũng hoàn toàn khác. Khi phát hiện ra sự man trá của Lực, kẻ thắng cuộc và là chồng mình, Liên ra giữa đầm Đại trầm mình là một hành động cao cả, giống như một tiếng chuông cảnh báo đối với lương tâm và tình yêu con người. Câu chuyện tình yêu và hôn nhân của Liên tuy bi thảm, nhưng kết thúc truyện lại rất có hậu. Mọi sự giả dối đều phải trả giá, để tình yêu trở về với sáng trong vốn có và mãi mãi! Tôi nghĩ Phạm Việt Long đã viết câu chuyện này bằng tất cả rung động của anh với con người, với tình yêu, với một thiết chế xã hội mà anh hằng ấp ủ. Câu chuỵện tuy đau buồn mà vẫn trong veo và thanh khiết như những bông sen trắng trong đầm Bạch Liên kia.

Tuy nhiên, theo tôi, nổi bật nhất trong phần Truyện ngắn là truyện Ngờ vực, truyện mà Phạm Việt Long đã lấy tên cho cả tập sách. Chuyện kể rằng có anh chàng Trần Đơn kia, một hôm đi làm xa về, chợt bắt gặp vợ mình đang cùng một người đàn ông khác trên giường. Thất vọng và uất hận, Trần Đơn bỏ ra đảo khỉ. Trong nhiều năm chăn nuôi đàn khỉ, Trần Đơn đã chứng kiến lòng thuỷ chung giữa những đôi khỉ với nhau. Chúng có thể vì nhau mà chết trên biển cả. Trần Đơn suy nghĩ lại, và hiểu ra rằng vợ anh không phụ tình. Người đàn ông ở trên giường cùng vợ anh ngày nào không phải là tình nhân, mà là một nạn nhân được vợ anh cứu sống. Câu chuyện có mầu sắc Liêu Trai, giống như nỗi oan của người thiếu phụ trong truyện Người thiếu phụ Nam Xương thuở xa xưa nào. Và nhà văn kết luận:

"Bây giờ, ngồi bên con khỉ chung tình, Đơn trầm ngâm suy nghĩ. Anh chợt đứng vùng dậy, bởi một hình ảnh lúc này mới loé lên, rõ mồn một trong ký ức anh: dạo ấy, khi anh bước vào nhà, vợ anh đang đỡ một người đàn ông ngồi dậy. Anh ta cởi trần, người rớm máu, một cánh tay bị nẹp gỗ...

Con khỉ được sưởi ấm, đã hồi tỉnh. Nó dụi dụi vào người Trần Đơn. Anh ôm nó vào lòng: Bạc má ơi, ngày mai mày sẽ được gặp lại chồng mày! Nhưng rồi, anh lại chết lặng bởi một ý nghĩ u ám: Không hiểu rằng con khỉ đực kia trong cơn tuyệt vọng lao vào rừng sâu có còn quay về nơi này hay không? Cũng như người đàn bà khốn khổ vợ anh, không rõ với nỗi oan khiên cao như núi, nàng vẫn còn trên cõi đời này hay đã về nơi chín suối?"

6

Page 7: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Đọc những đoạn văn ấy, thiết nghĩ bạn đọc có thể nhận ra phong cách và bút lực của Phạm Việt Long trong thể loại Truyện ngắn.

Phần thứ hai của cuốn sách gồm 10 tác phẩm Tản văn. Qua 10 tác phẩm này, thấy Phạm Việt long có tài viết Tản văn lắm. Tản văn là một thể loại văn học rất được ưa chuộng ở Trung Quốc, với những tên tuổi hiện đại như Giả Bình Ao, Mạc Ngôn, Trương Hiền Lượng, Cao Hành Kiện, Vương Mộng... Ở xứ ta, Tản văn không được các nhà văn mặn mà lắm, mà nếu có viết Tản văn thì họ thường gọi là Tạp bút hay Tạp văn. Nhưng xét cho cùng, Tản văn, Tạp văn và Tạp bút chỉ là một.

Như trên đã nói, Phạm Việt Long rất có duyên khi viết Tản văn. Những bài Tản văn được tập hợp và công bố trong Tập truyện này đều có chung một phẩm chất là hài hước và diễu cợt. Tác giả đã dùng tiếng cười để phê phán những thói hư, tật xấu ẩn náu trong mỗi người, nói riêng và xã hội, nói chung. Một ông Sếp ba hoa chích choè, đi đâu cũng rao giảng đạo lý, nhưng bản thân thì ích kỷ, thô thiển, đến nỗi gia đình nát bét, con cái hư hỏng (Những ý kiến quý báu). Một tờ báo đưa tin thất thiệt, giật gân cốt để bán báo, xúc phạm đến nhân cách người khác một cách vô lý, thậm chí làm phương hại đến danh dự và hạnh phúc của họ, khi bị kiện thì chỉ "nói lại cho rõ" và chỉ xin lỗi người nước ngoài, công ty nước ngoài, còn đơn vị trong nước, người trong nước thì lờ tịt, không có một dòng đính chính nào (Tại mình là người Việt). Một đơn vị kinh doanh du lịch, đưa người Việt sang một nước phía Bắc, nhân viên hướng dẫn du lịch cấm không cho khách tham quan được nói, vì nếu nói sẽ lộ ra là người Việt, vé vào cửa sẽ đắt như người nước ngoài, không được hưởng ưu tiên như người bản địa. Ngược lại, nếu người Tây sang ta du lịch thì không sao dối trá được (Chỉ thương người Tây sang ta). Lại nữa, có một ông cán bộ kia rất sính đồ ngoại, tất cả các vật dụng trong nhà ông đều là hàng ngoại. Nhân có dịp sang Tây, ông mua được một chiếc sơ mi, ông cho là hàng ngoại quý hiếm nên đi đâu cũng diện. Một hôm kia, trong khi là quần áo cho ông, vợ ông lơ đãng làm cho cổ áo bị cháy. Trong cổ cáo có lá thư của chính con trai ông. Thì ra, chiếc sơ mi đó là do chính xí nghiệp may của con trai ông sản xuất trong nước (Lá thư trong cổ áo). Rồi còn bao nhiêu chuyện khôi hài, cười ra nước mắt nữa, nào là Dàn đồng ca, nói về nạn đút lót, nạn con ông cháu cha, không quan tâm gì đến chất lượng lao động và nghề nghiệp, nào là Mong được mẹ khinh, nói về thói lắm điều trong sinh hoạt hàng ngày, rồi thì Mèo một hột nói về yêu cầu ngang giá trong xã hội thời thị trường. Các bài Cái mũi thính, Đẻ xa lại lên án thói vong ân bội nghĩa, thích sống ở nước ngoài cho sung sướng, mà quên mất mình là ai và quên cả đạo lý làm người. Còn một Tản văn không thể không nhắc đến, đó là Bài học đầu tiên, viết về tệ quan liêu, dốt nát, sách nhiễu, cửa quyền của các cơ quan hành chính nước ta hiện nay. Một nữ Giám đốc chỉ xin được gặp

7

Page 8: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

một Chủ tịch Phường sở tại mà tại sao gian nan làm vậy! Bài học đầu tiên nghĩa là bài học "tiền đâu?". Một xã hội mà cái gì cũng tiền, đến một cái Huân chương xứng đáng cho Tập thể cũng phải mua bằng tiền! Câu chuyện được tác giả kể với cách viết và giọng văn tưng tửng, nhưng gieo vào lòng người đọc một nỗi ấm ức và bức xúc khôn nguôi.

Tập Truyện ngắn và Tản văn của Phạm Việt long đang nằm trên tay bạn. Xin bạn hãy đọc và nghĩ ngợi cùng tác giả. Những điều mà Phạm Việt Long gửi gấm trong tác phẩm xuất sắc này cũng là những điều chúng ta đang trăn trở. Mong so cuộc sống và tâm hồn con người chung quanh ta mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

Hà Nội, mùa hạ năm 2006 T.T.S

8

Page 9: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Phần thứ nhất: Truyện ngắn

NGỌN LỬA ĐỐT NƯƠNG

Đồng chí Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Sông Mã giới thiệu tôi với một phụ nữ Lào chừng hai lăm tuổi và nói:

- Chị Y Chung, Uỷ viên Hội đồng nhân dân Huyện, sẽ đi cùng anh vào vùng biên giới. Chúng tôi đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân khoá mới, vào cuối tháng này.

Y Chung cười, nụ cười lúm đồng tiền rất duyên dáng:- Đường vào khu trong xa lắm, “dô...ốc” lắm anh ạ, đi “khô...ông” vui

đâu!Tôi khoác ba lô, còn chị đeo trên lưng chiếc kíp đựng đồ dùng, rời khỏi

huyện vào một buổi sáng trời trong. Chúng tôi xuôi dọc theo bờ sông Mã. Con sông dạo này cạn nước, chảy

xô vào đá, tung bọt trắng xoá. Cả hai đều im lặng, cắm cúi bước đi. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.

Khi vượt qua sông để đi lên con đường tắt vào Mường Và, nhớ đến một câu dân ca học được của đồng bào Thái, tôi nói:

- Y Chung này, bao giờ sông Đà hẹp bằng đũa, sông Mã cạn bằng đĩa, cá bống đớp sao trên trời, thì các dân tộc chúng ta mới hết đoàn kết, chị nhỉ!

Ở vùng Tây Bắc này, dân tộc Lào rất gần dân tộc Thái, nhiều nơi tiếng Lào và tiếng Thái gần như là một.Tôi không ngờ lời nói vừa rồi lại làm cho Y Chung vui lạ lùng. Chị reo to: “Men lẹo! Muôn hênh! – Đúng rồi! Vui lắm!” và cười vang. Tiếng cười của chị sao mà lạ lùng, nó lanh lảnh, lan tỏa khắp rừng núi. Rồi chị hát lên câu ca dao theo cách hát của người Thái. Tôi sững người vì giọng chị hay quá. Nó vang và ấm lạ lùng. Giai điệu còn đơn giản, chỉ cao lên, thấp xuống một chút và kết thúc bằng một câu ngân dài, nhưng qua giọng chị, nó trở nên uyển chuyển, duyên dáng đến ngất ngây. Chị vừa hát, vừa tung tẩy bước chân như một thiếu nữ tuổi mười sáu. Hai tay chị vung mạnh, khiến mấy chiếc vòng bạc hoa lên lấp lánh. Đầu chị hơi cúi về phía trước. Chiếc khăn piêu mầu đen thêu chỉ đỏ với những đường nét giản dị nằm gọn trên đầu chị, hơi bị gồ lên ở phía dưới vì búi tóc buông xuôi - loại búi tóc của phụ nữ chưa có

9

Page 10: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

chồng. Chiếc áo mầu xanh thể hiện rõ đặc trưng của trang phục phụ nữ Lào: hai vai bồng lên, thân áo ngắn, chỉ che nửa lưng người và hơi phồng ra, để lộ chiếc áo lót đen bó sát thân hình chị. Được bao quanh bởi chiếc thắt lưng vải mầu xanh đằm thắm, trông chị càng khoẻ mạnh. Đôi bắp chân Y Chung không to, mà thon thon, bước thoăn thoắt, hất hất chiếc gấu váy thêu mầu sặc sỡ, khiến nó bay lên, hạ xuống gấp gấp nhưng nhịp nhàng như cánh con bướm đỏm dáng đang bay chập chờn tìm hoa. Y Chung lại hát, một bài hát theo làn điệu dân ca Thái mà lời do chị vừa nghĩ ra:

- Em, anh khác bản khác mường, cùng đi với nhau một con đường. Người miền ngược, kẻ miền xuôi, ta cùng uống chung nguồn nước...

Chân Y Chung bước gấp gấp. Giọng hát cũng gấp gấp. Hình như âm thanh của chị hơi bị quẩn lại bởi rừng cây bao phủ, ngơ ngác một chút, rồi vượt khỏi mọi cành lá, bay vút lên không trung.

Tôi buột miệng khen: - Y Chung hát hay quá nhỉ!Y Chung quay đầu lại, cười mà đôi chân vẫn bước gấp gáp:- Chẳng hay đâu! Mà anh hát đi chứ!Không kịp để tôi đáp lại, Y Chung đã cất tiếng hát. Lần này là bài hát mời

- chị mời tôi hát theo cách của người Thái.... Mặt trời đã lên gần đến đỉnh đầu. Chúng tôi cũng đã đi được chặng

đường khá dài. Tôi thầm cảm ơn Y Chung, vì tiếng hát của chị làm tôi quên cả mệt, giúp tôi băng đèo, vượt suối một cách nhẹ nhàng. Chúng tôi đi xuyên qua một rừng nứa. Ngước nhìn qua những khoảng trống giữa những vòm nứa khum khum, xanh xanh, tôi có cảm giác trên đầu mình có nhiều bầu trời nhỏ đang lặng lẽ trôi theo những bước chân của tôi. Y Chung vẫn hát trong khi bước chân vẫn không ngơi nghỉ. Vào giữa rừng nứa, tiếng hát hình như ấm lên một chút. Thỉnh thoảng, chị dẫm mạnh vào những cây nứa khô nằm ngang đường, khiến nó vỡ ra, kêu “rố...ốp” thật vui tai. Một lần, chị vấp vào một thanh nứa nằm dọc đường. Thanh nứa xuyên dọc giữa chiếc dép và bàn chân chị. Chị cúi xuống rút thanh nứa ra, ngắm nghía rồi cười vang. Chị hú lên một tiếng rõ to: “H... à... ơi!” rồi lại đi. Tôi biết chị đang vui lắm. Ngôn ngữ không đủ thể hiện nổi tình cảm xáo động trong lòng chị.

Cứ như thế, tiếng hát, tiếng cười của Y Chung nâng bước chúng tôi vượt rừng, vượt núi, tới một con suối nước trong veo. Đột ngột, Y Chung đứng lại, không hát nữa mà nói một câu nghe mới hồn nhiên làm sao:

- Cán bộ, áp nậm - tắm đi! Ta cùng tắm nhé! Tôi ngỡ ngàng trước lời mời lạ lùng ấy. Mồ hôi đẫm lưng áo, tôi cũng

thấy nóng thật, nhưng tôi chưa hề nghĩ tới cách giải nhiệt đột ngột như vậy. Sống ở vùng Tây Bắc này một thời gian, nhưng ở trong một cơ quan toàn người

10

Page 11: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Kinh, tôi chưa hề tắm chung với một thiếu nữ miền núi bao giờ! Tôi chỉ nghe anh em kháo nhau là phụ nữ trên này toàn "tắm tiên", tắm giữa dòng suối hay dưới máng nước cũng đều phơi thân thể ngọc ngà cho thiên nhiên chiêm ngưỡng! Chính những lời kháo đó làm cho tôi lúng túng. Thì kia, Y Chung đã lội xuống nước rồi! Làn nước trong veo đón nhận chị trong tiếng róc rách như reo vui. Y Chung lội từ từ, xa bờ dần dần, vừa lội vừa cuốn váy áo lên, để lộ làn da mịn màng, muớt mát. Khi nước ngập tới ngực, thì váy áo chị đã được cuốn gọn trên đầu! Chị gọi như động viên tôi:

- Cán bộ! Xuống tắm đi!Nụ cười tươi rói và hồn nhiên, vô tư biết bao. Tôi nhìn chị qua nụ cười

trong trắng ấy, nhưng mắt lại bị hút vào một tác phẩm kỳ thú của tạo hoá, tác phẩm ấy ẩn hiện giữa dòng nước trong và những vòng xoáy nhỏ, bật lên vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt. Thảo nào mà đã có một nhạc sĩ thốt lên: "Noọng (em) về cùng ta tiếng ca rừng núi, ta tắm chung dòng suối!" Tiếc thay, với cái dè dặt của một thanh niên mới bước vào đời, bị biết bao sự ràng buộc của những bài học đạo đức, tôi không dám ào xuống dòng nước cùng Y Chung, để rồi bao nhiêu năm sau vẫn tiếc vì đã không được hưởng cái mát ngọt của dòng suối hôm ấy!

...Khi chúng tôi vượt lên một con đèo, thì Y Chung thay đổi hẳn thái độ. Chị đứng sững lại. Hai cánh mũi chị phập phồng, hít hít. Mắt chị chớp chớp, rồi trân ra, không rõ nhìn về đâu, trông xa thăm thẳm. Chị nói, giọng trầm và chậm:

- Những ngọn lửa đốt nương!Tôi ngạc nhiên vì không hề thấy lửa đốt nương đâu! Đứng hẳn lại, lặng

nghe hơi thở của rừng, tôi mới cảm thấy có tiếng nổ lép bép và mùi khói hăng hắc. Bước tiếp, vượt qua đỉnh đèo, tôi sững người: phía trước, bên sườn núi, một vùng lửa đang cuồn cuộn bốc lên. Hoá ra, Y Chung nhạy thật, từ xa đã cảm nhận được cái mùi đặc biệt của ngọn lửa đốt nương này. Như kiệt sức, Y Chung vịn tay vào một thân cây, thở dốc. Tôi vội đỡ chiếc kíp cho chị, lập tức chị ngồi phịch xuống tảng đá liền kề. Một làn gió thổi thốc về phía chúng tôi, kéo theo hơi lửa phừng phực, nồng khét. Y Chung lại hít hơi, thở dốc. Tôi ngơ ngác không hiểu tại sao Y Chung lại xúc động mạnh đến thế trước ngọn lửa rừng này. Bởi vậy, tôi cứ lóng nga lóng ngóng hết đứng lại ngồi. Đột nhiên, Y Chung đứng dậy, bảo tôi:

- Cán bộ, pay nớ! - đi nhé!Giọng nói của chị lúc này lại đầy sức mạnh. Tuy nhiên, từ đó chị cứ cắm

cúi bước, không hát, không nói. Cũng chính vì vậy, tôi không dám hỏi gì chị nữa...

Tối ấy, tôi cùng Y Chung họp với cán bộ xã và tôi đã hiểu phần nào thái độ của Y Chung khi bắt gặp ngọn lửa đốt nương. Huyện đang vận động nhân dân định canh định cư, không phá rừng làm nương nữa. Cuộc vận động này gặp

11

Page 12: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

biết bao trở ngại, bởi du canh du cư đã thành tập tục từ ngàn đời rồi. Những ngọn lửa đốt nương kia là bằng chứng hiển nhiên về khiếm khuyết của phong trào định canh định cư nơi đây. Cuộc họp tập trung bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn, giúp đồng bào cách làm ăn ở những vùng có ruộng, không làm nương rẫy nữa. Mãi khuya, cuộc họp mới kết thúc. Lúc này, trăng đã lên cao, toả ánh sáng hiền dịu xuống núi rừng. Y Chung bảo tôi:

- Cán bộ, ra đón trăng đi!Tôi cùng Y Chung ngồi trên một thân cây đổ, nhìn bao quát xuống thung

lũng. Thung lũng ngập tràn ánh trăng, giống như một dòng sông huyền ảo. Thấy thái độ Y Chung đã trở lại bình thường, không căng thẳng như hồi trưa, tôi mạnh dạn hỏi:

- Y Chung, có chuyện gì về những ngọn lửa đốt nương, nói cho tôi nghe nào!

Qua ánh trăng, tôi thấy đôi mắt Y Chung lấp láy. Y Chung thở ra nhè nhẹ và nói, giọng mềm và trầm:

- Có đấy, có nhiều chuyện lắm, mà toàn chuyện buồn thôi!Qua câu chuyện của Y Chung, tôi hiểu thêm nhiều về cuộc sống cơ cực

của nhân dân miền núi này. Lối làm ăn du canh du cư, chọc lỗ tra hạt kéo theo cái thiếu đói triền miên, truyền đời truyền kiếp cho bà con dân tộc vùng núi này. Riêng với Y Chung, ngọn lửa đốt nương còn là ngọn lửa của tang tóc...

Chuyện xảy ra cách đây bốn năm rồi, nhưng qua lời Y Chung, như vẫn sống động trước mắt tôi. Khi ấy, Y Chung đang như chồi cây vươn lên mạnh mẽ trong mùa xuân - mùa xuân của tình yêu: một chàng trai mạnh khoẻ, hát hay tên là Lò Văn Khang vừa mới ngỏ lời yêu Y Chung. Họ yêu nhau với tình yêu phơi phới như măng rừng gặp mưa, như hoa ban gặp mùa xuân. Cho đến một hôm, Khang, lúc ấy là cán bộ đoàn của xã. được cử lên bản Bó làm công tác vận động thanh niên nhập ngũ. Không ngờ, chưa kịp tới bản thì Khang gặp một trận cháy rừng. Ngọn lửa đốt nương ở phía Tây bản Bó bị cơn gió Tây tạt về thổi thốc, lồng lên như bầy ngựa hoang. Lửa réo ào ào, liếm mất một cánh rừng, liếm vào căn nhà đầu tiên của bản. Trong ngọn lửa hừng hực, vang lên tiếng kêu thét. Khang vội lao về phía căn nhà sàn đang bốc lửa. Nơi ấy, ngay đầu cầu thang, một phụ nữ nằm sóng xoài. Khang vội bế thốc chị lên, vác chạy ra xa ngọn lửa. Vừa hoàn hồn, chị bỗng giãy lên:

- Con tôi, con tôi còn trong nhà!Khang vội buông chị xuống, chạy trở lại. Ngọn lửa đã liếm hết vách, liếm

lên mái nhà. Tiếng trẻ con kêu nghẹt bên trong. Khang bươn bả vượt chín bậc thang, lao vào trong nhà. Đúng lúc ấy, cả mái nhà với khối lủa rừng rực đổ sập xuống, bao phủ tất cả...

12

Page 13: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Tôi không dám hỏi chi tiết về vụ cháy đó, vì sợ sẽ gợi nên nỗi đau khủng khiếp trong lòng Y Chung. Tôi chỉ nhìn chị, người phụ nữ trẻ đẹp, vừa rất hồn nhiên lại vừa có những nét cương nghị lạ lùng. Hoá ra, những ngọn lửa đốt nương truyền kiếp của đồng bào vùng núi này không chỉ đem theo cái đói nghèo, mà còn đem theo cả cái chết thảm khốc cho con người, thiêu luôn hạnh phúc mới chớm nở của một người con gái trong trắng, thơ ngây.

Thế rồi tôi đi chiến trường miền Nam, không gặp lại Y Chung nữa. Cho tới tận hôm nay, tôi vẫn chưa có dịp lên lại vùng Sông Mã gặp lại người năm ấy. Không hiểu Y Chung đã xây dựng hạnh phúc cùng ai chưa?

Sơn La 1968. Hà Nội 2003

13

Page 14: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Ngờ vực

Kể từ khi rời bỏ ngôi nhà trong đó có người vợ bạc tình và một người đàn ông xa lạ, Trần Đơn sống một cuộc đời cô độc. Anh lầm lũi trong cuộc sống thường ngày, một cuộc sống gần như tách biệt với thế giới loài người. Nhưng ẩn sau vẻ ngoài lạnh lùng ấy, từ trong sâu thẳm tâm can anh lại bừng bừng ngọn lửa căm hận - căm hận người vợ mà anh đã từng thương yêu hơn bản thân mình. Anh day dứt triền miên vì câu hỏi: cô ấy hiền lành, chất phác như thế mà còn phản bội, thì liệu trên đời này có còn người đàn bà nào chung tình nữa không? Không tìm được câu trả lời, anh căm ghét luôn cả giới đàn bà. Chính vì thế, anh ra hòn đảo này sinh sống. Một hòn đảo ngoài khơi xa, nhỏ nhoi giữa muôn trùng sóng vỗ. Dường như đó là cách để anh xa cõi đời bụi bậm, về sống với thiên nhiên thuần khiết. Anh thấy cuộc sống ngọt ngào trong sự cô đơn của con người nhưng lại được bao bọc trong một thiên nhiên trong lành.

Hòn đảo tưởng như bị bỏ hoang ấy bỗng sôi động lên từ khi nó được chọn làm đảo nuôi khỉ. Trần Đơn được nhà nước giao cho trông coi đảo khỉ này. Công việc trôi đi êm ả như một giòng suối đã quen nếp, cứ chảy về xuôi. Ngày ngày nấu cơm, luộc khoai cho khỉ ăn. Thế thôi. Sự nhộn nhạo của bầy khỉ đôi khi phá vỡ sự tĩnh lặng trong tâm hồn con người ấy, nhưng chỉ là những xao động nhẹ, giống như cơn gió nam lướt qua làm những tán lá khẽ lay động. Cho đến một hôm, anh nhìn thấy một đôi khỉ. Một đôi khỉ khác thường trong bầy khỉ nghịch ngợm. Cả hai đều có cái đuôi dài và đôi má bạc lông. Anh gọi chúng là đôi bạc má. Nhưng, cái làm anh chú ý không phải là hình thức của chúng, mà bởi những hành động của chúng. Chúng quấn lấy nhau, âu yếm. Khi con khỉ đực kêu lên: "Khẹc, khẹc, khẹc..." thì con khỉ cái cũng tiếp luôn ba tiếng kêu như vậy. Khi con khỉ đực rúc lên tiếng kêu lảnh lót, con khỉ cái liền hoạ theo, làm núi rừng rộn rã hoan ca. Trần Đơn phát hiện ra rằng đó là lối "hát đối" của đôi khỉ, con xướng, con hoạ, thể hiện tình âu yếm. Điều đó càng làm cho Trần Đơn đắng cay. Anh cố gắng xua đuổi hình ảnh của quá khứ, nhưng không được. Nó cứ làm sống lại trong anh kỷ niệm êm đẹp của những ngày xa ngái. Hồi ấy, trong những cuộc hát giao duyên vào dịp hội làng đầu xuân, anh đã quen Thắm, cô gái duyên dáng nhất làng. Anh xướng, cô hoạ, rồi cô xướng, anh lại hoạ, hai giọng hát quấn quýt, vờn lượn. Hai giọng hát như sợi giây vô hình đầy ân tình đã cột chặt hai số phận vào nhau. Tuy nhiên, lối "hát giao duyên" của đôi khỉ chỉ làm anh thoáng chua xót, rồi lắng lại ngấm ngáp nỗi đau của riêng mình. Chỉ đến khi chứng kiến những hành động âu yếm của chúng đối với nhau thì anh mới nổi giận thực sự. Theo dõi chúng, anh thấy đôi này tuy vẫn đi theo đàn, nhưng lại sống khá tách biệt. "Tổ ấm" của chúng nằm chót vót trên ngọn cây trò

14

Page 15: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

giữa rừng. Sau bữa ăn, chúng nhanh chóng leo lên cây, chuyền về "tổ ấm". Có lúc, con khỉ cái ngồi khoanh tròn cho con khỉ đực bắt chấy. Thỉnh thoảng, nó lại quàng tay ra sau ôm cổ con khỉ đực. Anh trân trân cặp mắt to ẩn dưới hai hàng lông mày rậm, nhìn và nghĩ: "Giống cái là vậy đấy. Thích nhận sự âu yếm của giống đực và biết khêu gợi để nhận được nhiều sự âu yếm hơn!". Có lần, con đực phóng ào ào trên các tán lá, bổ nhào vào con cái. Hai con quấn lấy nhau như bện thừng. Rồi con đực giơ ra một con cua lớn mà anh đoán nó phải kỳ công lắm mới mò bắt được ở tận khe Hoa. Con cái nhận lấy, ăn ngon lành. Con đực ngồi nhìn con cái, vẻ mặt hoan hỉ. Anh lại chạnh nghĩ đến mình. Cái giống đàn ông khổ vậy, suốt ngày đầu tắt mặt tối kiếm chác, có miếng ngon lại nhường cho vợ con, để rồi cô vợ no cơm ấm cật rậm rật toàn thân, rước trai về hú hí. Nghĩ đến đấy, anh thấy ớn lạnh. Dường như những con kiến từ khắp các tổ kiến trên đảo đều ào đến, đốt lấy đốt để làm cho anh ngứa, buốt, xót khắp người.

Ký ức về sự phản bội của vợ khiến anh nghi ngờ cả loài vật. Phải rồi, sự nghi ngờ của anh đâu phải là sự suy đoán thành kiến? Trong dân gian, chẳng đã có những câu chuyện nghiệt ngã về sự phản bội của giống cái đối với giống đực đó sao! Nào là con rắn cái khi lột xác, được con rắn đực chăm nom tận tuỵ, đến khi con rắn đực lột xác thì con rắn cái đi tình tự với con rắn đực khác, không những vậy còn dẫn nó về hại chồng mình nữa. Nào là chuyện con cua cái, khi bấy mai nằm một chỗ, được con cua đực tận tình chăm nom, đến khi con cua đực nằm bấy mai, ả liền dẫn bạn tình về ăn thịt chồng! Nếu cuộc sống không có những sự phản bội hèn hạ và dã man như vậy của giống cái thì đâu có thể nảy sinh ra trong dân gian những câu chuyện bi thương như thê? Trần Đơn luôn luôn nhìn đôi khỉ với con mắt nghi ngờ và nhạo báng. Có lần, thấy đôi khỉ quấn tròn lấy nhau trên "tổ ấm", anh nói thành lời: "Này, chú khỉ cả tin kia ơi, mi thử đi kiếm ăn lâu ngày một chút coi, đến khi về có bắt gặp một chú khỉ đực khác đang làm cái việc mà chú đang làm hay không?". Thế rồi, anh để thời gian rình mò con khỉ cái, xem nó có chung tình hay không? Đó là những lúc con khỉ đực đi kiếm ăn. Thực ra, bầy khỉ ở đảo này đã đủ thức ăn, vì nhà nước cấp cho anh đủ khoai, gạo để anh nuôi chúng. Nhưng loài khỉ vốn siêng năng, lại thích "cải thiện" nên chúng thường mò xuống khe bắt cua, cá. Con khỉ đực bạc má thường mò vào khe Hoa, nơi có những hang đá lớn, trong đó có nhiều cua sinh sống. Có khi con khỉ đực đi cả buổi, bỏ cả bữa ăn chính thức của đàn do Trần Đơn cung cấp. Những lúc ấy, anh thấy con khỉ cái ăn rất nhanh, nuốt lấy nuốt để rồi bốc thêm thức ăn bỏ vào miệng, lùa sang hai bên làm cho mặt nó bạnh ra trông thật dễ ghét. Xong, cô ả vơ một nắm cơm và phóng về "tổ ấm''. Trần Đơn kín đáo đi theo. Nhưng anh chỉ thấy mình con khỉ cái bạc má với tán cây đung đưa trong gió...

15

Page 16: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Thế rồi đàn khỉ cứ đông dần lên. Trần Đơn được lệnh xẻ đôi đàn khỉ, chuyển một nửa sang hòn đảo bên. Thật không may cho đôi khỉ kia. Vào đúng lúc cần chia đàn ấy thì chúng lại xuất hiện trước mắt anh, hồn nhiên vờn nhau. Một ý nghĩ độc ác nảy ra trong đầu anh: chúng mày phải chia lìa. Và anh lừa bắt được con khỉ cái, nhốt vào lồng cùng một bầy khỉ khác. Anh chuyển những lồng khỉ lên thuyền. Con khỉ cái bạc má vật vã trong cũi, nhảy chồm lên cắn xé, rồi lại lăn lộn kêu choe choé. Con khỉ đực bạc má chuyền ào ào trên các tán cây, rồi nhảy bổ xuống đất, lăn lộn. Đúng lúc ấy thì trời vần vũ. Mây đen kéo kín bầu trời. Con thuyền lớn vượt sóng, hướng về phía đảo nhỏ. Con khỉ đực bạc má chạy ra sát mép nước, nhảy chồm chồm trên bãi cát. Chiếc thuyền dần dần mất hút giữa các lớp sóng cồn. Con khỉ đực chừng như thất vọng, hú to một tiếng rồi chạy biến vào rừng sâu.

Chiều ấy, Trần Đơn bỗng thấy đắng miệng, không nuốt nổi bát cơm. Hình ảnh đôi khỉ cứ nhảy nhót trong đầu anh. Mưa đã ngớt, nhưng sấm chớp vẫn cứ nhoang nhoáng trên bầu trời xám pha ráng đỏ của hoàng hôn. Anh mặc áo mưa, ra khỏi nhà, hướng về phía bờ biển. Những tia chớp rạch đôi bầu trời, loé lên những tia sáng xanh. Mặt biển đen ngòm nổi sóng dữ dội như bị những luồng sáng chớp nhoá ấy xé vỡ ra. Sấm nổ. Chớp loè. Sóng ào ạt. Một luồng sét dữ dội nổ ầm vang. Trần Đơn giật thót mình khi nhìn ra khơi thấy một sinh vật nhỏ bé đang vùng vẫy giữa lớp sóng cồn. Rõ ràng đó là một sinh vật. Bởi nó không bị trôi dạt một cách vô tình, mà nó vùng vẫy, vùng vẫy để tiến vào bờ mặc sóng gió dập vùi. Trần Đơn rùng mình khi loé lên ý nghĩ: đó là con khỉ cái bạc má. Mi dám vượt biển để về đây ư? Giữa hai hòn đảo là một vùng biển rộng với sóng bạc đầu, với đá ngầm, với cá dữ. Chỉ một cú quăng của cơn sóng cũng đủ đập mi vào những tảng đá nhọn hoắt của bờ đảo bên kia. Làm cách nào mà mi vượt qua được nhữg hàm răng đá đó? Một lớp sóng cuồn cuộn dồn vào bờ. Một tia chớp sáng chói bầu trời. Trần Đơn nhìn rõ sóng đã quăng cái sinh vật nhỏ nhoi ấy lên bờ cát. Anh lại gần và run bắn người khi nhận ra đó chính là con khỉ cái bạc má. Nó nằm bẹp như một đám rong biển vô hồn. Anh chợt thấy một nỗi xót thương trào lên trong lòng. Đồng thời, một cảm giác kính phục chiếm ngự tâm hồn anh. Ôi loài vật, loài vật chỉ biết sống theo bản năng, chúng mày cũng có tình yêu ư? Có phải là tình yêu đã tạo ra sức mạnh cho mi, con vật bé bỏng kia? Phải chăng niềm tin vào tình yêu đã tiếp cho mi sức mạnh để mi dám quăng thân vào muôn trùng bão tố và đã dẫn hướng cho mi vượt qua không gian mịt mùng, về đến nơi trú ngụ tình yêu của mi? Anh chua chát nghĩ tới bản thân.Tấm thân cao to lừng lững của anh rũ xuống. Gắng gượng, Trần Đơn quỳ trên bãi cát, ôm lấy con khỉ. Bãi biển nhập nhoà trong ráng hoàng hôn, thỉnh thoảng lại loá lên những ánh chớp, muốn nuốt gọn hình bóng anh. Anh lảo đảo bước, chân liêu xiêu nhưng đôi tay lại ghì chặt lấy con khỉ. Anh đốt lửa sưởi cho nó. Trong ánh

16

Page 17: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

lửa bập bùng, anh ngắm nhìn con khỉ. Người nó ướt sũng, đôi chỗ tróc lông, rớm máu. Nó ngước đôi mắt tròn nhưng mờ đục vì mệt mỏi nhìn anh, như cầu cứu, như biết ơn. Trần Đơn chợt ứa nước mắt. Lần đầu tiên trong cuộc đời, người đàn ông can trường ấy biết thế nào là những giọt nước mắt nóng hổi của chính mình. Mấy chục năm qua, biết bao đắng cay, tủi nhục chỉ khiến Trần Đơn bặm môi lại, ngày một lỳ lợm. Còn bây giờ, cái sinh linh nhỏ bé và yếu ớt này lại làm chấn động tới phần sâu thẳm nhất trong lòng anh, dồn ép cảm xúc từ nơi tận cùng con tim anh thành những giọt nước mắt đặc quánh lăn nặng nề trên đôi gò má.

Trần Đơn chợt nhớ lại dĩ vãng. Cái dĩ vãng làm anh đau buồn. Một ngôi nhà nhỏ bên sông cái. Những ngày mưa gió dữ dội. Một buổi sớm, sau chuyến đi làm ăn xa về, anh xăng xái đẩy cửa nhà mình. Và anh giật nảy mình khi thấy vợ đang nâng giấc một người đàn ông. Không thể tin được, nhưng rõ ràng là vợ anh và một người đàn ông lạ đang bên nhau trên chiếc giường duy nhất của vợ chồng anh. Một thoáng sững người, rồi anh bật ngược trở ra. Và lùi lũi đi. Mặc tiếng gào của vợ: "Anh ơi, quay lại nào!". Anh cứ đi. Vốn sống cảnh phiêu bạt từ thời ấu thơ, đến khi lấy vợ, vẫn bôn ba khắp các nẻo đường kiếm kế sinh nhai, Trần Đơn quen sòng phẳng, dứt khoát. Nhiều khi, trong cảnh bon chen, chụp giật, không thể dùng dằng suy xét, anh phải tức thời quyết định hành động, phó mặc cho may rủi. Nhờ giời, anh gặp may nhiều hơn rủi. Nhưng những lần gặp rủi, anh chấp nhận mà không khi nào nài nỉ, van xin. Anh không bao giờ níu kéo những gì mà anh cho là đã tuột khỏi tầm tay mình. Giờ đây, trước hình ảnh vợ và người đàn ông xa lạ trên chiếc giường duy nhất của vợ chồng anh, phản ứng duy nhất mà anh có được là thối lui! Không ngờ rằng bước chân vội vàng ấy cứ kéo anh xa mãi, xa mãi ngôi nhà thân yêu. Đôi khi đang ngủ, giật mình vì từ trong tiềm thức vọng lên tiếng gào của vợ, anh định lần đường trở lại cố hương. Nhưng hình ảnh người đàn ông lạ mình trần trên chiếc giường duy nhất của vợ chồng anh lại khiến anh giữ lòng sắt đá. Rồi một lần đi tầu biển trong chuyến làm ăn xa, tầu bị đắm, anh trôi dạt về đảo hoang này. Tưởng rằng sẽ sống nốt quãng đời cô độc giữa mịt mù biển khơi, ngờ đâu đảo lại được con người để mắt đến và anh lại trở về với cuộc sống có đồng loại. Có lần một nhóm người từ đất liền chở khỉ ra đảo, nghỉ lại một đêm. Trong câu chuyện vui bên bếp lửa cùng nhóm người ấy, anh được nghe kể câu chuyện "Người phụ nữ Nam Xương" thời nay. Người phụ nữ này và người phụ nữ Nam Xương trong câu chuyện cổ đều bị nỗi oan khiên đè nặng lên cuộc đời. Có điều, người phụ nữ Nam Xương chỉ có cái bóng mình giả làm bóng chồng. Còn người phụ nữ thời nay ấy lại có cả một người đàn ông bằng xương bằng thịt trong nhà khi chồng về bất chợt. Thực ra, người đàn ông ấy bị lật thuyền, bị một thân cây trôi trên sông đập gẫy tay, xô dạt vào bờ, đúng trước bến nước của người phụ nữ nọ. Với tấm lòng nhân hậu, chị đã vực người đàn ông xa lạ về căn nhà nhỏ bé của mình... Trần Đơn thoáng rùng

17

Page 18: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

mình khi chợt nghĩ rằng câu chuyện kia có liên quan đến mình. Nhưng rồi anh lại gạt phăng ý nghĩ ấy đi... Anh không còn niềm tin và sự tỉnh táo để suy xét chuyện quá khứ nữa.

Bây giờ, ngồi bên con khỉ chung tình, Đơn trầm ngâm suy nghĩ. Anh chợt đứng vùng dậy, bởi một hình ảnh lúc này mới loé lên, rõ mồn một trong ký ức anh: dạo ấy, khi anh bước vào nhà, vợ anh đang đỡ một người đàn ông ngồi dậy. Anh ta cởi trần, người rớm máu, một cánh tay bị nẹp gỗ...

Con khỉ được sưởi ấm, đã hồi tỉnh. Nó dụi dụi vào người Trần Đơn. Anh ôm nó vào lòng: Bạc má ơi, ngày mai mày sẽ được gặp lại chồng mày! Nhưng rồi, anh lại chết lặng bởi một ý nghĩ u ám: Không hiểu rằng con khỉ đực kia trong cơn tuyệt vọng lao vào rừng sâu có còn quay về nơi này hay không? Cũng như người đàn bà khốn khổ vợ anh, không rõ với nỗi oan khiên cao như núi, nàng vẫn còn trên cõi đời này hay đã về nơi chín suối?

14 tháng 2 năm 2004

18

Page 19: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Thành hoàng làng

Một buổi chiều êm ả, tôi về Khánh Yên. Trong ráng chiều nhạt nhoà, mầu xanh của những ruộng đậu, những luỹ tre càng thêm ngăn ngắt. Những làn khói lam bảng lảng giữa không trung, toả ra mùi thơm nồng nồng của rơm rạ, lùa nhè nhẹ vào lồng ngực tôi hơi ấm của làng quê. Cùng đi với tôi là Cẩn, cán bộ văn hoá xã. Vóc dáng nhỏ bé, hay nói hay cười, nhưng thấy tôi mải mê hít thở bầu không khí nồng đượm hương quê, Cẩn cũng trở nên trầm mặc. Bỗng dưng, Cẩn kéo tay tôi, chỉ về phía một ngôi nhà, thầm thì:

- Đền ông Nghè đấy! Anh nhìn xem, có phải là hào quang đang toả ra trên mái đền không anh?

Tôi chăm chú nhìn. Giữa một doi đất không rộng lắm bên con sông đào là một ngôi đền xây theo kiểu truyền thống. Với những đầu đao uốn cong và hình hai con rồng chầu nhau trên nóc, đền có vẻ trầm tư và linh thiêng. Từ hướng chúng tôi nhìn về, ánh chiều tà xuyên ngược viền một vùng mờ ảo nhiều mầu sắc quanh mái đền, làm cho ngôi đền càng thêm vẻ uy nghi! Nếu bảo rằng ngôi đền đang toả hào quang, quả cũng không sai! Tôi đang liên tưởng như vậy thì Cẩn lại giật tay tôi, nói chậm rãi vẻ thành kính:

- Nếu được thờ thành hoàng làng như xưa các cụ vẫn làm, dân làng tôi sẽ thờ cụ Phúc!

- Sao? Làng có thành hoàng mới ư?Tôi ngỡ ngàng vì câu chuyện xoay sang hướng một con người có vẻ như

huyền thoại mà tôi nghĩ chẳng liên quan gì đến ngôi đền cả.- Sao? Anh không biết cụ Phúc à?Cẩn hỏi lại tôi, vẻ ngạc nhiên. Hình như đối với anh, bất cứ ai đã bước

chân về đến đất Khánh Yên này đều phải biết cụ Phúc, và phải tin rằng cụ Phúc là thành hoàng làng mình!

Tôi thú thật:- Mình có nghe nhiều người ca ngợi cụ Phúc, chủ nhiệm hợp tác xã làng

ta, chứ không biết thành hoàng làng là cụ.- À, có lẽ do anh là cán bộ trung ương nên mọi người tránh nói đến

chuyện thờ cúng, chứ còn cụ Phúc mà anh nghe kể, chính là cụ Phúc thành hoàng làng tôi đấy.

19

Page 20: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Và rồi tôi được nghe kể rất chi tiết về cuộc đời của một chủ nhiệm hợp tác xã của cả hai thời kì - bao cấp và đổi mới. Tôi chỉ xin ghi lại đây những nét chính trong vô vàn câu chuyện đẹp đẽ về cụ Phúc.

...Khi nông thôn chuyển sang làm ăn quy mô lớn, thì cụ Lê Văn Phúc đã làm chủ nhiệm hợp tác xã Khánh Yên được hai năm. Có điều, Khánh Yên không phải chuyển đổi gì cả, bởi vì do làm ăn phát đạt, cần mở rộng tầm hoạt động, cho nên bốn hợp tác xã của bốn thôn đã tự hợp nhất thành hợp tác xã toàn xã do cụ Phúc làm chủ nhiệm từ lâu rồi. Hồi ấy cụ Phúc đã chỉ đạo hợp tác xã lập những trang trại, chăn nuôi từ lợn đến bò sữa, cả trâu sữa nữa. Cụ lên tận tỉnh liên hệ, được cung cấp giống trâu sữa Mua ra về nhân giống và lập trại. Nhìn đàn trâu to kềnh càng, lông rậm rì, mọi người vừa thích vừa ngại. Chăn thả nó thế nào đây? Khánh Yên không bị cái dớp làm ăn manh mún, mấy nhà chăn dắt một con trâu, con bò để mỗi nhà có một đùi, nhưng cũng chưa bao giờ lập một trại cỡ lớn chuyên chăn nuôi trâu lấy sữa cả. Cụ Phúc báo với Ban Chủ nhiệm rằng cụ cần nghỉ ít ngày, rồi đi biệt một tuần lễ. Hoá ra cụ lên nông trường Mộc Châu học cách chăn nuôi đại gia súc. Về, cụ chỉ đạo Hợp tác xã dành hẳn khu vực đất cao cuối làng lập trại nuôi trâu, rồi chọn những người khoẻ khoắn, chăm chỉ vào đội chăn nuôi, lại tận dụng đất ven sông đào trồng cỏ riêng cho trâu. Giống cỏ này do cụ Phúc đem từ Sơn La về, lạ lắm – mọc dầy ken vào nhau, cao tới ngực người, lại mềm và có vị ngòn ngọt. Đàn trâu phát triển, cung cấp sữa và giống cho cả vùng. Nguồn lợi đem về từ đàn trâu nhiều chẳng kém gì lúa, nhưng ấn tượng sâu sắc nhất lại là chuyện sau buổi cầy các thợ cầy được bồi dưỡng bằng sữa tươi Mua ra! Vào những trưa hè oi ả, dưới gốc đa giữa đồng, toán thợ cầy vục bát vào xô sữa, ngửa cổ ực một hơi thứ nước đùng đục, gây gây và mát ngọt, tỉnh cả người. Rồi, họ tráng miệng bằng bát nước vối làng, cười vang với lời nói đùa: có đi sang Tây uống sữa rồi cũng phải về Khánh Yên này uống hớp nước vối nồng hơi mẹ cái hĩm!

Sản xuất ngày càng phát triển lại làm nảy sinh những nỗi lo mới. Nói là lo mới, bởi vì nó khác trước lắm. Ví như trước kia lo thiếu ăn, thì nay lại lo thừa sản phẩm, không nơi tiêu thụ! Cụ Phúc nghĩ: “Cứ làm ra những cái mình cần ăn, đến khi mình đủ ăn, thì đổ đi đâu? Phải làm ra cả những cái mà thiên hạ cần, thì mới bán được!” Thế là đồng đất Khánh Yên làm chuyển mình, đón nhận những thứ nông sản xuất khẩu, như tỏi, lạc... Khốn nỗi, việc tiêu thụ cũng khó khăn vô cùng. Mà khó nhất, lại do chính những người thu mua tạo ra. Họ làm cho công ty của nhà nước, ăn lương tháng, cho nên thu mua được bao nhiêu, họ không mấy quan tâm. Mỗi lần chở hàng lên cân, bà con Khánh Yên nơm nớp lo bị đánh xuống cấp, hạ giá. Việc ấy xảy ra như cơm bữa. Lần này, cụ Phúc đưa một đoàn xe của hợp tác xã chở tỏi lên thị xã cân cho Công ty Xuất nhập khẩu nông sản. Cụ muốn trực tiếp tìm hiểu những nỗi khúc mắc của dân quê mình để xem xem

20

Page 21: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

có cách nào giải toả không. Đoàn xe cải tiến của Hợp tác xã chở đầy tỏi nằm ở sân Công ty đã quá trưa mà vẫn chưa có người ra cân. Cụ Phúc kiên nhẫn ngồi đợi. Dáng người lừng lững, tóc bạc râu trắng, mặt vuông da hồng, cụ nổi bật lên giữa những thanh niên dáng nhỏ nhưng săn chắc và nhanh nhẹn. Cụ ngồi lặng thinh, nét mặt đăm chiêu. Mãi gần hai giờ chiều mới có một cậu thanh niên dáng loẻo khoẻo, mắt ốc nhồi ra hất hàm:

- Cân gì đấy?- Tỏi!

Cụ Phúc đáp cụt lủn, đứng vùng dậy, nhìn xoáy vào mặt anh cán bộ thu mua. Anh ta chun mũi khịt khịt, rồi dịu giọng:

- Mời các cụ chuyển tỏi lên hè để phân loại!Lúc này, nhân viên Công ty mới kéo ra, sao mà đông thế! Họ bảo bà con

xã viên lôi các bao tải tỏi từ trên xe xuống, mở ra. Họ đến từng bao, kéo lên những túm tỏi, tung tung trên tay. Họ chụm quanh chàng thanh niên loẻo khoẻo, mắt ốc nhồi bàn bạc. Lát sau, chàng thanh niên này dõng dạc tuyên bố:

- Toàn bộ là tỏi loại ba. Các cụ vào cân rồi thanh toán!Cụ Phúc đã thấy nóng mặt. Dân Khánh Yên có bao giờ làm ăn trí trá?

Trước khi đóng bao tải, bà con xã viên đã cẩn thận lựa chọn kĩ càng, toàn là tỏi loại một, có lẫn củ sâu, củ lép đâu! Cụ Phúc nói giọng sang sảng:

- Này chú, tỏi làng tôi không có loại hai, chỉ có loại nhất thôi, chú có cân không?

- Cân sao được, toàn loại ba mà đòi loại nhất, tôi không đền được nhà nước đâu!

- Chú xem lại cho kĩ, củ to, đều, chắc thế này, không thể là loại hai, chứ nói gì đến loại ba!

- Mặc kệ, loại ba đấy. Không cân thì đem đi đi!- Chú có cân không thì bảo?- Loại ba!- Tôi đổ hết đi bây giờ!- Tuỳ cụ!Cụ Phúc mở to mắt nhìn trừng trừng vào đôi mắt ốc nhồi, há miệng định

nói thêm một câu, rồi đột ngột ngậm miệng, mím chặt môi lại. Cụ hướng về phía bà con xã viên của mình, nói chậm rãi nhưng dứt khoát:

- Đổ! Đổ xuống sông hết!Cụ băng qua sân, phăm phăm đi về hướng sông Vân Sàng. Cả đoàn người

kéo các xe tỏi đùng đùng theo cụ. Mọi người có thói quen nghe lời cụ một cách tuyệt đối. Đến bờ sông, cụ hô:

- Mở bao, trút hết xuống sông!Thế là ào ào, tỏi tuôn xuống, trôi trắng cả một khúc sông!

21

Page 22: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Chuyện cụ Phúc đổ tỏi xuống sông nhanh chóng lan truyền, làm ầm ĩ cả tỉnh. Khánh Yên trở nên “nổi tiếng”, cho nên dù bị mất một lần mấy tạ tỏi, nhưng lại tạo được cái thế với các công ty thu mua nông sản. Mỗi lần dân Khánh Yên chở tỏi, chở lạc lên, đố ai dám hoạnh hoẹ hạ cấp, giảm giá.

Sang thời kì đổi mới, Cụ Phúc dẫn dắt dân làng chuyển mạnh cơ cấu nông nghiệp. Cụ hay có những chuyến đi xa. Có lần, cụ đi tận Đà Lạt, đem về giống bí ngô mà theo cụ nói, đó là loại bí ngô ngọt, có giá trị xuất khẩu cao. Con người nóng như lửa ấy lại rất tỉ mẩn. Cụ học kĩ càng cách chăm sóc loại giống bí khó tính này về dạy lại cho dân. Nào là ngắt ngọn, tỉa lá. Nào là thụ phấn đúng lúc. Nhưng có một bí quyết tưởng như rất bình thường mà lại giúp đảm bảo chất lượng bí, đó là giữ cho quả bí đều một mầu xanh, không được loang lổ những đám trắng. Cụ bảo bà con:

- Bí của làng ta xuất hẳn sang Nhật. Mà cái anh Nhật này kĩ lắm, tài lắm. Chỉ nhìn thấy bí loang một mảng trắng là họ hạ cấp hoặc loại liền!

Mọi người nhìn cụ, ngơ ngác. Bí ngô là loại mà dân làng này trồng khối ra, nhưng là loại quả to, không ngọt như loại bí cụ Phúc đem giống về. Nhưng dầu sao cũng là bí ngô bò trên ruộng. Quả bí lê la trên đất, phần tiếp xúc với đất bị loang mầu, làm sao tránh được? Cụ Phúc cười hồn hậu:

- Có cách rồi, nhưng bà con phải chịu khó. Về cắt lấy những miếng xốp ra lót dưới quả bí, rồi mỗi tuần lật đảo một lần, quả bí được tiếp xúc đều với ánh mặt trời, sẽ không loang mầu, sẽ cho vị ngọt!

Từ đấy, giống bí ngô ngọt bò loang ra khắp đồng đất Khánh Yên, cho hàng chục tấn quả. Cái anh bí này được người Nhật ưa thế, ra đến đâu họ mua tuốt đến đấy, đến nỗi phải dành dụm lắm mới có được mấy quả thắp hương Tổ tiên, bẩm báo các Cụ về sản vật mới của quê hương!

Năm tháng qua đi, cụ Phúc thấy mình tuổi đã cao, sức đã yếu, cho nên xin bà con cho thôi làm chủ nhiệm hợp tác xã. Bà con nhất quyết không nghe. Lúc này, cụ bộc bạch:

- Bà con tín nhiệm, tôi không dám từ nan. Vậy thì tôi chỉ xin làm nốt khoá này, để tôi trả nợ cho làng, rồi tôi nhất quyết phải nghỉ!

Bà con xã viên ngớ ra: nào cụ Phúc có nợ gì làng đâu mà phải trả nợ? Thế nhưng, nhìn đôi mắt sáng đượm buồn và nét mặt đầy xúc động của cụ Phúc, mọi người hiểu rằng trong tâm khảm cụ, chắc chắn ẩn chứa những điểu uẩn khúc. Trước không khí lặng im như tờ, cụ Phúc cất giọng nhè nhẹ và trầm ấm:

- Bà con có nhớ rằng làng ta có đền ông Nghè không?Đám trẻ ngơ ngác, không hiểu gì. Nhưng những bậc trung niên thì ồ lên:- Có chứ, ở ngay gần sông đào, nhưng đã bị phá rồi!- Chính tôi là người chỉ huy phá đền đấy, mọi người không nhớ sao? Tôi

nợ làng món nợ ấy đấy!

22

Page 23: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Ngược lại thời gian, người ta nhớ tới cái thời lâu lắm rồi, khi mà làng quê đang thực hiện phong trào phản phong triệt để. Tất cả những gì thuộc chế độ phong kiến đều phải xoá bỏ hoàn toàn. Đây vốn là làng kháng chiến, bị bom đạn tơi bời của cả hai cuộc chiến tranh, cho nên chẳng còn lưu giữ được những gì gọi là di sản phong kiến! Duy nhất có ngôi đền ông Nghè, do nằm tách khỏi làng, cho nên không bị tàn phá. Giờ đây, ngôi đền trở thành vật chứng sinh động cho chế độ phong kiến thối nát! Anh thanh niên Phúc hồi ấy làm cán bộ văn hoá, đã xăng xái chỉ huy toán thanh niên làng kéo ra phá trụi ngôi đền. Có ai biết rằng, từ sau ngày ấy, anh Phúc đã bị một nỗi dằn vặt ám ảnh suốt ngày đêm. Nhất là vào ban đêm, cứ nhắm mắt ngủ là anh thấy hiện lên bức tượng ông Nghè với đôi mắt hiền từ nhưng nghiêm nghị nhìn thẳng vào mình. Ông Nghè không quở trách nhưng ánh mắt cứ như xoáy vào tâm can anh làm cho anh phải tự hỏi mãi: “Đền ông Nghè có gì xấu? Ông Nghè là tấm gương về học hành, sao lại đập tượng ông?”. Cũng từ đấy, anh thanh niên xốc nổi đổi hẳn tính nết. Anh trở nên trầm lắng, nói ít, làm nhiều... Khi trở thành chủ nhiệm hợp tác xã, thì cụ Phúc chăm lo đặc biệt đến việc học hành của dân làng. Cụ vận động nhân dân góp công của xây dựng trường học. Dân chưa giầu, nhưng nghe lời cụ, họ không tiếc của tiếc công. Cụ bảo dân tự lập một ban quản lí để thu và chi, trông coi việc xây dựng. Ngôi trường hai tầng mọc lên nhanh chóng, trở thành niềm tự hào của cả huyện Yên Khánh này. Những cháu học giỏi, cụ còn trích quỹ hợp tác xã thưởng khá hậu...

Sau một hồi lặng im như chìm trong lớp bụi thời gian, cụ Phúc chợt vươn người, nói chân thành:

- Thế đấy, bà con ơi! Đền là nơi thờ ông Nghè của làng ta, ông đã học hành giỏi giang, thi đỗ đạt cao, đem vinh hạnh đến cho làng, thế mà tôi lại phá đi! Tôi lúc nào cũng ôm mối nợ với dân làng, bởi vì đã phá mất nơi linh thiêng, nơi nhắc nhở con cháu phải biết chăm chỉ học hành! Có lẽ vì thế mà làng ta tuy làm ăn giỏi, nhưng cũng chỉ là giỏi giang quanh luỹ tre thôi, có mấy người đỗ đạt đâu! Tôi làm gì cũng thấy không đủ để trả món nợ ấy! Nay, tôi xin đứng ra xây lại đền, trả lại nơi tôn nghiêm cho làng!

Nói sao làm vậy, cụ Phúc chạy vạy khắp nơi xin phép xây lại đền. Không ai dám cho phép, mặc dù ai cũng thấy cần khôi phục ngôi đền như khôi phục chính lòng tự hào về truyền thống hiếu học của ông cha. Một hôm, có ông Bí thư tỉnh về thăm, cụ Phúc dẫn ông đi khắp nơi - hết ra đồng lại vào xóm thăm thú cảnh làm ăn, hỏi han về đời sống của bà con nông dân. Đến cống thuỷ lợi, cụ Phúc dừng bước, chỉ tay về phía bãi đất cao ven sông đào: “Báo cáo Bí thư, dân chúng tôi sẽ xây lại đền ông Nghè ở chỗ ấy!” Ông Bí thư nheo mắt ngắm bãi đất, rồi lại bước đi. Sau buổi ấy, cụ Phúc huy động nhân dân góp công của xây đền. Cũng có người vẫn sợ cái dớp phong kiến, nên chần chừ. Cụ Phúc bảo:

23

Page 24: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

- Tôi đã xin phép hẳn Bí thư rồi, bà con không ngại.Nói vậy, nhưng tính qua tính lại, cụ Phúc chuyển hướng:- Thôi, ta xây câu lạc bộ văn hoá!Mọi việc nhanh chóng được khai thông. Cụ Phúc trực tiếp chỉ huy công

trường. Không cần bản thiết kế, cụ bầy cho thợ xây dựng theo hình ảnh ngôi đền trong tâm trí mình. Và thế là ngôi đền mọc lên uy nghi như mọi người thấy hôm nay. Khác với những ngôi đền thông thường, ngôi đền ông Nghè có chức năng khá rộng. Nó trở thành nơi sinh hoạt câu lạc bộ của các cháu học sinh ngoan, giỏi và câu lạc bộ của các cụ gương mẫu. Trong khi đó, trên bệ thờ, vẫn nghi ngút khói hương thờ phụng ông Nghè của làng. Ngự trên ngai, tượng Ngài rủ đôi mắt hiền từ nhìn lớp người hậu thế...

Thôn xóm cứ thế đi lên, nhà ngói, nhà mái bằng đã thay thế hết nhà tranh. Đường làng đổ toàn bê tông, ô tô vào tận từng ngõ. Cụ Phúc dường đã thoả tâm nguyện. Chuẩn bị đại hội xã viên, cụ dứt khoát rút khỏi danh sách đề cử vào ban chủ nhiệm mới. Cũng dịp ấy, nhà nước có chủ trương phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động để tiến tới đại hội Thi đua toàn quốc. Dân Khánh Yên háo hức kéo về cuộc họp, nhất nhất tôn vinh cụ Phúc làm Anh hùng lao động! Hồ sơ của cụ nhanh chóng được chuyển lên tỉnh. Tại đây, nó được cơ quan thường trực thi đua thẩm định. Phụ trách thẩm định là một vị chức sắc có vóc dáng loẻo khoẻo, đôi mắt ốc nhồi. Vị này nhíu mày khi nhìn thấy cái tên Khánh Yên. Chẳng phải mất công lục trong trí nhớ, hình ảnh “dòng sông tỏi” đã hiển hiện lên trong óc của vị. Cũng bởi cái đận ấy, mà vị bị “bật bãi”, mất ghế trạm trưởng thu mua. Phải mất bao nhiêu năm đôn đáo chạy vạy, vị mới lấy lại được cái ghế cho mình ở Hội đồng này. Vị lẩm bẩm: “Chủ nhiệm hợp tác xã Khánh Yên à? Thôi, hãy ở yên đây nhé!”. Và rồi, “xoạch”, hồ sơ của cụ Phúc nằm còng queo trong góc tủ...

Cơn gió đầu mùa đông thổi thốc từ phía cuối cánh đồng lên, lùa vào người khiến tôi rùng mình, kéo tôi ra khỏi dòng suy tưởng về cụ Phúc. Anh Cẩn bảo tôi rằng cụ Phúc đã thành anh hùng trong lòng người dân Khánh Yên. Trong mỗi sinh linh nơi thôn dã này đều có một ngôi đền thờ cụ. Ngay cả khi cụ đi chầu tiên tổ, cũng với cái vẻ lạ kì như huyền thoại. Hôm ấy, dàn thiên lí trước nhà cụ Phúc bỗng dưng đồng loạt trổ bông trắng ngà, toả hương thơm lừng khắp ngõ xóm. Sau khi ăn sáng, tắm rửa sạch sẽ, cụ Phúc bắc thang lên hái những bông thiên lí nõn nà. Bỗng cụ thấy lẫn trong hương hoa, một mùi trầm đậm đà lan toả. Cụ toát mồ hôi, chậm rãi leo xuống thang. Con cháu vội vàng đỡ cụ vào giường. Thế là cụ đi, nhẹ nhàng, tay vẫn cầm chùm hoa thiên lí ngát hương...

Ninh Bình – Hà Nội, cuối năm 2002

24

Page 25: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

ÁNH SÁNG TỪ BIÊN GIỚI

Căn phòng dùng làm nơi ghi hoá đơn gạo chật ních người và đầy ắp tiếng ồn. Người ta chen nhau xếp sổ lương thực. Người ta hỏi nhau về số lượng mì, gạo được mua đợt này. Đôi người cằn nhằn về việc lương thực khó khăn, mua đong mất thời gian. Nhưng, đột nhiên, tiếng quát của một thanh niên vang lên, dìm mọi tiếng ồn kia xuống:

- Tôi ở phòng tuyến về!

Theo tiếng quát, anh ta gạt mọi người, len về phía chiếc bàn có hai cô nhân viên lương thực đang ghi hoá đơn. Đó là một thanh niên trạc 20 tuổi, tóc quăn, da xạm đen, mặt điểm mấy nốt trứng cá.

- Tôi vừa ở phòng tuyến về, vừa ở phòng tuyến về!

Anh ta lắp đi lắp lại đến gần chục lần cái câu ấy. Mọi người ngơ ngác, không hiểu anh ta muốn gì? Giữa lúc ấy, một bà cụ từ ngoài cửa len vào, gọi với:

- Tập ơi, thì hãy từ từ chứ!

Bắt gặp cái nhìn ngạc nhiên của mọi người, bà cụ phân trần:

- Cháu nó đi đắp phòng tuyến. Khi đi, đã cắt lương thực. Bây giờ về, đem theo giấy chuyển lương, nhưng cửa hàng lại không cho đong.

Hình như không quan tâm đến sự khó chịu của mọi người, Tập vẫn sấn sổ lách tới. Anh ta đập tay đánh bốp xuống bàn, làm lọ mực nảy dựng lên, suýt đổ. Rồi bàn tay gân guốc ấy ngửa lên, xoè ra một tờ giấy nhàu nát:

- Đây, xem đi, tôi vừa ở phòng tuyến về!

Cô nhân viên ngồi phía ngoài cầm lấy tờ giấy, vuốt vuốt cho thẳng, chăm chú đọc, rồi bảo:

- Anh phải nhập tiêu chuẩn vào sổ lương thực của gia đình rồi mới đong được. Anh ra văn phòng nhập đã nhé.

- Thì tôi vừa ở phòng tuyến về, phải bán cho tôi chứ!

Dường như muốn tăng thêm sức mạnh cho lời nói, anh ta lại giáng nắm đấm xuống bàn. Một người nào đó mai mỉa:

- Tay khoẻ đấy, nhưng để thụi bọn giặc thì hơn.

Tập mím môi, quắc mắt nhìn quanh, như muốn tìm địch thủ để trừng trị. Song, đôi mắt ấy vội cụp ngay xuống, khi gặp toàn những nét mặt khó chịu hoặc

25

Page 26: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

những ánh mắt trách móc chiếu vào mình. Cô nhân viên lương thực từ tốn nói với bà cụ mẹ Tập - lúc này đang đứng cạnh Tập:

- Cụ ạ, đã cắt thì phải nhập. Cụ tới văn phòng nhập, rồi quay lại, chúng cháu ghi hoá đơn ngay cho.

Bà cụ gật gật đầu. Mấy người xung quanh góp ý:

- Đúng đấy cụ ạ. Thằng cháu nhà tôi cũng đi phòng tuyến về, tôi đã nhập cho nó từ nửa tháng nay rồi.

- Sao cụ không nhập từ đầu tháng?

Một bác to béo nói nhát gừng:

- Chưa nhập thì ai cho đong. Thế mà cũng ầm ĩ...

Cái bản tính sỗ sàng kéo ngay Tập về với tiếng quát:

- Bà im đi, biết gì mà nói. Tôi ở phòng tuyến về đây này.

Lập tức, anh ta lại bị chìm trong tiếng phản đối nhao nhao:

- Vô lễ thế. Bác ấy đáng tuổi mẹ cậu đấy!

- Riêng gì anh đi phòng tuyến mà cứ nhắng lên thế. Bao nhiêu người đi bộ đội, đổ máu hy sinh, mà họ có vỗ ngực như anh đâu!

- Thôi, đừng lấy tí chút thành tích ấy làm ngoáo ộp doạ người nữa!

Bị phản đối mạnh quá, Tập đứng né vào một góc, nhưng mặt vẫn hầm hầm:

- Được, tôi chờ ở đây đến cuối giờ, xem có bán cho tôi không thì bảo.

Cũng lúc này, một cô gái mặc bộ quần áo xanh công nhân, dáng người rắn chắc, từ ngoài sân bước lên hè. Cô gạt những sợi tóc dính bết mồ hôi, hỏi một chị mặc áo trắng:

- Chị ơi, ghi hoá đơn gạo ở đây phải không ạ?

- Đúng đấy cô ạ.

Cô gái rút cái khăn tay từ trong túi xách ra, thấm thấm mồ hôi trên mặt, lắc lắc đầu:

- Gớm, thế mà em tìm mãi. Em cứ tưởng ghi hoá đơn ở của hàng cơ, chứ đâu biết là ở tận đây.

Chị áo trắng giải thích:

- Ấy, từ dạo lương thực khó khăn, cửa hàng cắt lịch bán theo khối cho công bằng, khỏi đông. Cô không đi đong gạo bao giờ hay sao mà không biết ?

26

Page 27: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Cô gái mủm mỉm cười:

- Dạ, em mới đi khỏi Hà Nội 2 năm mà lạc hậu thế đấy. Để em vào xếp sổ nhé...

Từ nãy đến giờ, có hai người rất chăm chú nghe câu chuyện của cô gái. Đó là bác Thăng - cán bộ thông tin của tiểu khu - và bác Hồng, người bán sách báo ở quầy đầu ngã tư. Bác Hồng thì thào:

- Hình như đúng là cô ấy, bác nhỉ.

Bác Thăng quả quyết:

- Dứt khoát là cô ấy rồi. Tôi nhớ lắm chứ. Ảnh in trên báo rõ rành rành mà. Lại cả một bài viết dài nữa, tôi vẫn giữ ở nhà ấy.

Câu chuyện bị cắt ngang bởi mấy tiếng gọi giật giọng:

- Nguyễn Văn Hồng. Ai là Hồng, đến lượt rồi.

Bác Hồng luống cuống:

- Tôi đây, à... à... tôi đây.

Lại một câu trách móc:

- Đến lượt rồi mà cứ chuyện trò suốt. Có mau lên không. Sắp hết ngày rồi ông ạ.

Bác Hồng vừa dạ dạ như để xin lỗi, vừa lách người về phía bàn ghi hoá đơn.

“Nào, bác mua nốt tiêu chuẩn cả tháng nhé?” - vừa lúi húi ghi chép, cô nhân viên lương thực vừa nói. Rồi cô chìa tay ra: “Bác đưa cháu 9 đồng”. Không thấy bác Hồng nói gì, cô ngạc nhiên nhìn lên. Hoá ra, bác Hồng đang mải nhìn cô gái mặc bộ quần áo công nhân:

- Cô là Tuyết phải không?

- Vâng ạ... mà... sao ạ?

Không trả lời Tuyết, bác quay sang phía cô nhân viên lương thực, sởi lởi:

- Để tôi mua sau, tôi nhường cô này mua trước.

Cô nhân viên lương thực lục lục chồng sổ để tìm sổ gạo của Tuyết. Tuyết đỏ mặt:

- Ấy chết, bác mặc cháu, để cháu đong sau.

- Không, dứt khoát là tôi nhường lượt cho cô mà.

27

Page 28: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Vẫn chưa thấy sổ gạo của Tuyết - từ nãy đến giờ có tới chục người nữa xếp sổ, nên nó đã lẫn vào giữa. Có tiếng phản đối:

- Thôi, mất thì giờ quá !

- Đề nghị cứ bán theo số thứ tự.

Bác Hồng ấp úng phân trần:

- Chẳng là... chẳng là... cô ấy là...

Ai đó dài giọng:

- Ông hâm ơi, cất cái máu tốt của ông đi cho con cháu nhờ với.

Thấy vậy, bác Thăng len tới, nói to:

- Bà con bình tĩnh đã nào. Cô này - bác chỉ Tuyết - là dũng sĩ diệt bọn xâm lược, ở biên giới về đấy.

Mọi người “à” lên một tiếng, rồi lặng đi. Từ lâu nay, “biên giới” đã trở thành hai tiếng thân thương với mỗi người dân Hà Nội này rồi. Hai tiếng ấy gợi lên chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Hai tiếng ấy đã gọi lớp lớp thanh niên lên đường chiến đấu. Thế nhưng, khi hai tiếng ấy hiện thân vào cô gái bình dị này, trong cái hoàn cảnh bình thường này, thì ai cũng thấy ngỡ ngàng, lạ lẫm. Ai cũng muốn xích lại gần cô gái. Và ai cũng muốn làm cái gì đó để tỏ thiện cảm với cô. Tự thấy mình phải có trách nhiệm làm cho mọi người hiểu cô gái hơn nữa, bác cán bộ thông tin nói rành rọt:

- Trên báo đã có ảnh, có bài viết về cô đây. Cô là Đoàn Thị Tuyết, 20 tuổi, con gái Hà Nội, (bác nhấn mạnh 4 chữ “Con gái Hà Nội”), công nhân lâm trường. Trong một ngày, cô đã chiến đấu dũng cảm, một mình diệt 1 tiểu đội quân xâm lược... à... mà để cô Tuyết kể cho bà con nghe thì hơn.

Từ nãy đến giờ, Tuyết vẫn đứng bẽn lẽn bên bàn. Khuôn mặt bầu bầu, có đôi mắt to đen đằm thắm của cô ửng đỏ. Cô cúi đầu, di di ngón chân cái trên chiếc dép cao su, ấp úng:

- Dạ, dạ... cháu cũng cùng các anh ấy đánh lại bọn nó, có gì đâu mà kể ạ.

Mọi người vây tròn lấy cô, quên cả chuyện đong gạo. Ai cũng năn nỉ:

- Nào, cô kể đi cho bà con nghe với.

- Cô nhớ lại xem đã đánh tụi nó thế nào thì kể lại vậy.

Tuyết càng lúng túng. Cô chưa từng làm diễn giả bao giờ. Nhất là bây giờ lại phải nói về mình trước đông người... Hiểu rõ điều khó xử của Tuyết, bác Thăng nói: "Thôi, để tôi kể vậy nhé". Rồi bác cao giọng:

28

Page 29: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

- Hôm ấy, cô Tuyết đã nhận được điện báo tin mẹ ốm nặng. Lâm trường đã cấp giấy phép cho cô. Nhưng trước tình hình biên giới căng thẳng, cô đã tự nguyện ở lại tham gia giữ chốt.

Một bà cụ xuýt xoa với người bên cạnh:

- Khổ, tôi ở gần nhà cô ấy, tôi biết. Bà cụ cô ấy phải đi cấp cứu đấy.

Tiếng bác Thăng vang vang trong phòng. Không ai còn nhận ra đây là nơi bán lương thực nữa. Bác chỉ kể lại điều bác đọc trên báo, mà sao nghe hấp dẫn thế. Phải chăng, vì nhân vật chính trong câu chuyện ấy đang ở ngay trước mặt người nghe? Chính cô ấy đã dùng tới 5 thứ súng để đánh giặc. Chính cô ấy đã nhường nắm cơm cuối cùng, giọt nước cuối cùng cho đồng đội. Cũng chính cô ấy đã cõng đồng chí bị thương luồn rừng, lách địch về nơi an toàn. Và bây giờ, thì cô ấy đây, đang xếp hàng mua gạo như mọi người. Cô ấy đứng nép bên bàn, như muốn thu nhỏ mình lại. Thế nhưng, như ánh sáng rực rỡ của mùa xuân, cô vẫn ngời lên trước mọi người. Các chú thiếu niên thấy ở cô sức mạnh của lý tưởng, và thấy lòng háo hức ra trận lập công. Nhưng, với những người đứng tuổi - mà phần đông trong phòng là những người đứng tuổi, thì ánh sáng của cô lại soi rọi vào mặt đạo đức nhiều hơn. Có những người thấy tự hào, vững tin ở mình hơn khi thấy mình đã sống xứng đáng với cô. Nhưng cũng có những người phải giật mình bởi chính mình, như người ốm nằm lâu trong buồng kín, khi ra ngoài trời chợt hoảng hốt, vì dưới ánh nắng họ chợt nhận ra nước da tái nhợt của mình, những đường gân xanh nhằng nhịt của mình, và lớp ghét lưu cữu đóng dày trên da thịt mình. Mấy người mà hồi nãy lớn tiếng phản đối việc bác Hồng nhường chỗ cho cô gái, đứng lùi lại sau bác Thăng, mong bác đừng nhận ra mình. Mấy người đã trót lợi dụng lúc lộn xộn xếp chèn xổ của mình lên trên, ngượng ngập nhìn chồng sổ. Nhiều người lại thấy ân hận về những lời phàn nàn của mình trước việc phải ăn mì, mầu, bớt gạo. Thế đấy, người ta đã thực lòng hô nhiều khẩu hiệu thể hiện quyết tâm đánh thắng giặc xâm lược, và khi cần thì sẵn lòng ra trận, nhưng khi còn ở tại Thủ đô, tại vị trí đương nhiệm của mình, cần phải hy sinh chút ít quyền lợi, cần phải làm nhiều hơn chút nữa vì đồng bào biên giới, thì không phải ai cũng thấy lòng thanh thản...

Mọi người vừa lắng nghe, vừa suy nghĩ. Duy chỉ có cô nhân viên lương thực vừa nghe vừa lật lật chồng sổ. Cô ghé vào tai bạn, thì thầm:

- Có nhớ sổ chị ấy tên là gì không?

Cô kia thì thào:

- Trần Thị Bích.

Lát sau, sổ gạo của gia đình Tuyết đã nằm ngay bên quyền sổ hoá đơn.

29

Page 30: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

... Khi bác Thăng kể xong, mọi người càng xích lại gần Tuyết hơn. Một bác hỏi:

- Thế bà cụ đã khoẻ chưa cô?

- Cảm ơn bác, mẹ cháu được đưa đi bệnh viện, đã khỏi, nay sắp khoẻ rồi ạ.

Một bà cụ âu yếm:

- Vậy mà hồi nãy con không nói trước, để cửa hàng bán ưu tiên cho. Thế hôm nào con đi?

- Thưa cụ, ngày mai con đi ạ.

- Ôi, sao vội thế? Ở thêm dăm bảy ngày nữa cũng được chứ gì?

- Đơn vị cháu cho nghỉ một tuần, thế là nhiều rồi ạ.

- Khổ chưa, mai đã ra địa đầu, trước thằng giặc, mà hôm nay còn xếp hàng mua gạo cho mẹ. Thế không có ai đỡ cô à?

Tuyết cười hồn hậu:

- Mẹ cháu đang mệt. Em cháu hôm nay lao động ở công trường Tô Lịch. Cháu đi mua là phải, có gì đâu ạ.

Bác Thăng ghé sang nói với bác Hồng:

- Nghĩ cũng hay, bác nhỉ. Nhiều khi, mình biết làm việc đại sự mà lại quên những việc nhỏ bé nhưng thiết thực. Đấy, mình đã từng dự hàng bao cuộc mít tinh, dán hàng bao nhiêu khẩu hiệu, nhưng mấy ai nghĩ tới những việc làm thật chi ly, như quan tâm đến gia đình cô Tuyết này chẳng hạn, để bà con trên đó yên tâm chiến đấu? Kỳ này về họp tiểu khu, tôi phải có ý kiến mới được.

- Ừ, phải đấy bác ạ

... Trời đã về chiều. Ánh nắng xế gay gắt xuyên qua cửa sổ, rọi vào khắp căn phòng. Cô nhân viên lương thực đứng lên:

- Thưa các bác, chúng ta lại vào việc chứ ạ. Bây giờ đến chị Tuyết vào ghi hoá đơn nhé.

- Cả ông Hồng nữa! - Mọi người đồng thanh vui vẻ.

Lúc này, không ai còn nhớ đến anh chàng Tập hung hăng hồi nãy nữa. Mà anh chàng cũng đã biến đâu mất, như giọt nước đọng trên phiến đá, nhanh chóng bay hơi dưới ánh nắng mùa hè, không để lại dấu vết gì.

Hà Nội, 1979

30

Page 31: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Người mẹ và con chó nhỏ

Nhà Li nuôi một con chó cái. Vốn thuộc giống nhỏ, lại là con cuối đàn, cho nên nó bé tí tẹo. Bố Li chọn con này, vì ông bảo rằng ông thích nuôi chó nhỏ, mèo to. Mẹ Li đặt tên cho nó là Mimi. Với thân hình thon dài được bao phủ một lớp lông trắng muốt, mềm mại, Mimi trông yểu điệu và duyên dáng làm sao. Thế nhưng nó không yếu đuối, mà săn chắc, mạnh khoẻ, nhanh nhẹn. Nó rất ngoan, dạy gì biết nấy, bảo sao nghe vậy. Đêm, có động tĩnh gì, Mimi biết sủa, tiếng sủa phát ra từ cái cổ khẳng khiu, chỉ kêu nhanh nhách, nghe không oai vệ gì, nhưng cũng đủ báo động cho cả nhà. Có hôm, vào nửa đêm, nghe Mimi cứ nhí nhách sủa mãi, bố Li mở cửa thì thấy hai chú nhóc đang ngồi bên hè tiêm chích cho nhau. Hai chú vội đứng dậy, vật vờ dắt nhau ra ngõ. Bố Li rất hài lòng với con chó nhỏ.

Muốn giữ cho Mimi sạch sẽ, mẹ Li cấm chỉ nó ra khỏi nhà. Nó cũng tuân thủ tuyệt đối kỉ luật ấy. Thậm chí có lần Li ôm nó ra ngõ chơi, nó liền toài xuống đất, chạy về nhà. Trên đường, nó gặp một con chó đực đen tuyền cũng nhỏ bé nhưng săn chắc như nó. Chàng hắc cẩu tiến tới ve vãn, dí sát cái mũi đen sì vào cuối lưng nàng bạch cẩu hít hít. Hình như đã quên cả mùi đồng loại, con Mimi run rẩy, co rúm người lại, rồi cụp đuôi phóng rõ nhanh vào nhà.

Người ta bảo chó là loài trung thành và chân thật. Con Mimi thể hiện đúng như vậy. Nó luôn biểu đạt tình cảm thắm thiết với chủ một cách vô tư, mộc mạc, không phải là sự quấn quýt nịnh bợ. Có đợt bố Li đi công tác dài ngày, Mimi hầu như bỏ ăn. Nó nằm ghếch mõm bên hè, mặt buồn rầu, mắt ươn ướt nhìn vào cõi vô định. Khi bố Li về, Mimi nhảy cẫng lên, chạy vòng quanh, hết lậy lại lăn tròn trên nền nhà, cuống cuồng, xoắn xuýt. Nhưng sự chân thật đến vụng về ấy của Mimi đôi khi làm phiền con người. Có hôm, mẹ Li đi làm về, vừa dắt xe lên hè thì Mimi chạy ra mừng rỡn, quẩn quanh chân, khiến mẹ Li vấp suýt ngã. Thế là Mimi ăn quát. Nó tiu nghỉu chui vào gầm ghế, lấm lét nhìn theo mẹ Li, đuôi vẫn vẫy vẫy. Khi bố Li gọi: "Mimi, ra đây nào! Lại phạm khuyết điểm, bị mắng chứ gì?", Mimi rụt rè chui ra, vẫy vẫy đuôi, xán lại gần bố Li, nhưng mắt vẫn liếc nhìn mẹ Li vẻ ân hận. Mimi vẫn vậy, bất cứ khi nào chủ gọi, là nó ngoan ngoãn đến bên, sẵn sàng nghe lệnh. Thực ra, nó có làm nên công cán gì đâu, bởi vì cũng chẳng có việc gì cho nó làm. Cùng lắm là nó được mẹ Li sai đứng lên hai chân sau, chắp hai chân trước lạy khách, tỏ lòng hiếu khách mà thôi. Thế nhưng, hễ gọi là nó đến, sẵn sàng phục dịch, chứ không đòi hỏi gì.

31

Page 32: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Cứ thế, con Mimi lớn lên trong thanh bình. Nhưng từ bên trong cái cơ thể nhỏ nhoi ấy, có một nỗi khát thèm đang lớn dần lên, như hũ rượu nếp đang ủ men cứ bốc lên dần cái nồng say, thẩm thấu vào từng tế bào, khiến nó râm ran, rậm rật. Có lần, nó chạy lên, chạy xuống cầu thang, kêu ăng ẳng. Có lần, nó lại ôm ghì lấy chân bố Li, nhún nhún, cọ sát... Bố Li bảo: "Con này động đực rồi". Mẹ Li bảo: "Nó mà đẻ thì bẩn lắm. Không cho nó đi tơ được đâu". Thế là mọi người cảnh giác với Mimi. Cửa, cổng lúc nào cũng đóng kín, phòng khi Mimi ra ngoài tìm đực. Một thời gian sau nó dịu đi, ăn chơi bình thường. Rồi ít lâu sau, nó lại nhảy cẫng lên, lăn lộn. Cứ thành chu kỳ như thế, Mimi khi thì cuồng loạn trong cơn dục vọng, lúc lại lặng lẽ trong nếp sống êm đềm. Có điều, nó sống bình lặng trong nhà, cuồng loạn cũng trong nhà, không hề tìm cách bung phá. Có hôm, mẹ Li đi đổ rác, để hé cửa, cổng. Đúng lúc ấy, có một con chó đực từ ngoài ngõ chạy vào đứng trước cửa nhà Li rít liên hồi. Mimi thò cổ ra, nhìn đồng loại với con mắt âu sầu và lãnh đạm rồi lặng lẽ quay vào, leo lên gác hai, chui vào gầm giường nằm im thin thít. Nhưng tối ấy, thì Mimi vật vã đến cùng cực. Nó lao một mạch từ tầng một lên tầng năm, rồi phóng xuống, cuống cuồng chạy vòng quanh phòng khách, lăn lộn dưới đất. Chạy, lăn không biết bao nhiêu vòng rồi nó thở hổn hển, chồm lên bức tượng gỗ tạc hình con chó nhỏ mà bố Li vẫn để ở góc phòng, nhún lên nhún xuống, cọ cọ sát sát... Cái giống động vật cái thường có biểu hiện như vậy mỗi khi hứng tình. Bố Li nhớ lại hồi kháng chiến chống Mỹ ở Trường Sơn, những con lợn cái không có đực, cũng thường nhảy bừa lên lưng những con lợn cái khác, nhún nhảy như vậy. Ngay cả con gà mái thiếu trống, khi thấy đàn ông đi qua cũng nằm ẹp xuống, ngỏng phao câu lên, xoè bộ lông đuôi ra chờ đợi. Loài vật là vậy, không bị ý thức kìm nén, chúng biểu hiện bản năng sinh tồn một cách chân thực và lộ liễu. Cũng vì vậy, sự không được thoả mãn và đòi hỏi được thoả mãn của chúng bộc lộ một cách trần trụi, biến thành những hành động thô cuồng không cần che dấu, trông thật đáng thương hại. Bố Li bảo: "Hay là cho nó đi tơ, chịu khó bận bịu một chút, chứ ai lại kìm hãm nó như thế!" Nhưng mẹ Li nhất quyết không đồng ý, vì không thể chịu nổi sự bận rộn và bẩn thỉu mà một con chó đẻ có thể đem lại ngôi nhà này. Cuộc sống ngoài xã hội vốn đã có quá nhiều thứ phải tẩy uế rồi, không nên đem thêm cái dơ dáy vào trong nhà mình.

Từ khi nhà Li đưa về một con mèo nhỏ, thì cuộc sống của Mimi có những thay đổi. Con mèo tam thể được đặt tên theo tiếng kêu - Meomeo. Li lấy cho nó cái đĩa sạch, trộn cơm cá, để cạnh cái đĩa cơm thịt của con Mimi. Mimi quen nếp, tiến lại ăn. Con mèo tỏ ra sợ hãi, rúm người lại. Mẹ Li bảo: "Chành choẹ như chó với mèo. Thôi, con Mimi lớn hơn, cho ăn sau". Thế là Mimi bị đưa ra ngoài phòng khách, trực cơm con Meomeo.

32

Page 33: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Ngày qua ngày, con Meomeo lớn dần lên, to béo và hùng dũng. Bây giờ, Li không phải cho nó ăn trước nữa, mà nó tự giành phần ăn trước. Nó hết sức đáo để, vừa ăn vừa canh chừng, không cho con Mimi ăn. Mimi vốn khảnh ăn, nhưng thấy chủ đã cho phép cùng ăn với con mèo mà lại bị con mèo ngăn cản, liền xán lại, rúc mõm vào đĩa thức ăn. Con Mèo quá đáo để, giơ chân trước tát lấy tát để vào mặt con chó. Mimi lùi mấy bước, nhìn chủ bằng đôi mắt vừa như tố cáo vừa như dò hỏi. Thấy chủ không tỏ thái độ gì, Mimi buồn bã rời khỏi nơi ăn, ra phòng khách nằm cuộn tròn. Còn con mèo, được thể càng lấn tới, ăn hết phần ở đĩa mình lại sang liếm láp phần của Mimi. Nhưng bụng mèo nào có chứa được bao nhiêu thức ăn, cho nên nó chỉ liếm láp giữ chỗ, chứ có ăn thêm đâu. Ăn, liếm chán rồi, nó bỏ đi, leo lên đệm ghế nằm khoanh tròn, vẻ thoả mãn. Lúc ấy Mimi mới lặng lẽ vào bếp, lùi lũi ăn. Bữa sau, Li tách hai đĩa cơm ra xa nhau, nhưng Meomeo vẫn chạy qua chạy lại hăm doạ, giữ rịt lấy cả hai. Sự việc cứ thế tiếp diễn, Meomeo ăn trước, chán chê rồi mới đến Mimi. Tự nhiên, Meomeo trở thành bá chủ, dương dương tự đắc nhìn con chó nằm chực ăn mỗi bữa cơm, cứ như đó là kẻ hầu người hạ không được ăn cùng một lúc với chủ. Càng lớn, con mèo càng ra oai với con chó và càng khéo nịnh người. Nếu nói rằng loài người có quy luật là ai đã nịnh trên, kẻ ấy hay nạt dưới thì những biểu hiện của Meomeo cũng rất gần với loại người này. Khi đói, nó tiến đến sát mẹ Li, kêu khừ... khừ... rồi cọ cọ mình vào chân bà. Thế là nó được ăn. Nhưng, chỉ có những lúc cần ăn hoặc cần giành phần với Mimi, nó mới sán lại bên chủ, chứ nói chung, nó rất thờ ơ với chủ. Như là mèo hoang hay cáo ấy, thấy người đến gần là Meomeo lảng ra xa, chủ chẳng khi nào gọi được nó đến gần. Nhiều lần có khách đến chơi, mẹ Li muốn khoe con mèo tam thể đẹp như tranh của mình, cứ gọi "Meo meo" mãi mà nó làm như không nghe thấy, tảng lờ leo lên đệm xe máy nằm lim dim mắt. Những lúc ấy, mẹ Li bực lắm, nhưng đành kìm nén. Bù vào, bà lại gọi Mimi. Nghe mẹ Li gọi:"Mi mi, Mi mi!", nó liền chạy tới, đến trước từng người lạy rối rít, làm cho khách mở tròn mắt thán phục và cười vui vẻ. Mẹ Li cũng cười, đầy tự hào. Thế nhưng, chẳng bao giờ bà vuốt ve nó cả. Chứ con mèo, với cái thói hoang đàng nhưng khéo nịnh lại hay được chủ quan tâm. Mỗi lần nó đến cọ mình vào chân chủ, khừ khừ vẻ thân ái, dù biết là nó nịnh xin ăn, mẹ Li vẫn cứ thấy thích thú, thế nào cũng thưởng cho nó chút cá hay miếng mỡ. Meomeo còn hay tự thưởng cho mình bằng cách ăn vụng. Khi nhà để thức ăn sơ hở trên bàn, nó cướp miếng thịt hay miếng cá đã đành, mà ngay cả khi thức ăn được để nơi kín đáo, nó vẫn có cách ăn vụng. Một hôm, đang ngủ thì cả nhà giật mình vì một tiếng "choang" rất to ở dưới bếp. Li xuống, thấy lọ ruốc đã vỡ tan, ruốc vãi ra nền nhà, còn con mèo thì đang tranh thủ "bồi dưỡng". Li liền bỏ thời gian rình xem cách thức ăn vụng của Meomeo ra sao. Vốn là cô bé có cá tính, hoạt bát, Li cũng phải thán phục cho sự tinh ranh của

33

Page 34: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

con mèo. Hoá ra, nó leo lên bàn, dùng chân trước gạt những lọ đựng thức ăn cho rơi xuống đất, vỡ ra. Không những vậy, nó còn biết mở tủ lạnh tha thức ăn ra nữa. Cả nhà tỏ ra bực với con mèo, nhưng đồng thời lại thấy thú vị bởi cái thói mạnh bạo, tinh khôn của nó. Cái thói ma mãnh của Meomeo, khi khừ khừ quanh chân nịnh bợ, khi lảng tránh, lúc phá phách, ăn vụng, lại khiến chủ phải gượng nhẹ và nuông chiều nó hơn. Thảng hoặc có khi nó tỏ ra âu yếm chủ, thì nó liền được đáp lại một cách nồng thắm. Ấy là vào một tối mùa đông, vừa đi hoang về, lạnh quá, Meomeo nhảy tót vào lòng mẹ Li, khừ khừ trong họng bài ca cò cử, làm mẹ Li vui hết cỡ. Bà rối rít gọi Li: "Li ơi, hôm nay con mèo quý mẹ ghê, nó tự nhảy vào lòng mẹ đây này! Tý nữa thưởng cho nó khúc cá mè nhé!". Bố Li cười: "Thật là bất công, giống như đối với con cái vậy, đứa con ngoan thường ít được quan tâm, đứa con ngang bướng lại hay được kiềng nể, gượng nhẹ và khen ngợi!"

Không rõ có hiểu được lời bố Li bình luận không, mà Mimi bỗng đứng dậy, vẫy vẫy đuôi. Thấy mẹ Li vẫn vuốt ve con Meomeo, Mimi lẳng lặng chui vào gầm ghế - có lẽ nó dỗi. Vào các bữa ăn, nó cũng hay dỗi như thế. Có khi chị Li trộn xong hai đĩa cơm rồi, nhưng thấy Meomeo luồn qua luồn lại giữa hai chân mẹ Li, rồi lại khừ khừ, rồi lại uốn mình cọ cọ vào chân mẹ Li, Mimi lẳng lặng chui vào gậm bàn. Nó lạnh lùng nhìn Meomeo, rồi lại chăm chú nhìn mẹ Li, lúc sau nhắm mắt vờ ngủ. Khi ấy, Li phải dỗ dành mãi, Mimi mới ăn nhưng không hết khẩu phần.

Sự việc kéo dài một thời gian thì Mimi bỗng thay đổi thái độ. Vừa thấy Li trộn xong hai đĩa thức ăn, Mimi liền xông tới. Meomeo quen thói đành hanh, giơ chân trước tát vào mặt Mimi, liền bị Mimi tớp cho một miếng. Meomeo hoảng quá, kêu ngoắng lên một tiếng rồi co rúm mình, chui tọt vào gầm cầu thang. Mẹ Li liền mắng: "Mày cậy lớn bắt nạt em à, tao cho một trận bây giờ!". Mimi nghếch mõm, dỏng tai nghe, ve vẩy đuôi, rồi lặng lẽ ăn.

Con mèo sống trong nhà một thời gian thì bắt đầu kêu ngoao, ngoao. Bố Li lại bảo: "Nó động đực đấy". Mẹ Li lại cũng bảo: "Không cho nó đẻ. Bẩn lắm!". Thế là Li đem về một cái cũi sắt, nhốt mèo lại. Nhưng Meomeo thuộc loại ghê gớm. Nó lồng lộn trong cũi, sứt sát cả mặt mày. Đêm, nó kêu gào thê thảm, khiến cả nhà không chịu nổi, đành thả nó ra. Mèo ta lập tức vọt lên tầng hai, lao qua cửa sổ, tuồn theo tường rào xuống đất, biến mất. Và nó đi hoang. Mãi hai ngày hai đêm sau Memeo mới về, đem theo một vết rách dài ở mép. Li bảo là con này ghê thật, dám ra ngoài đánh ghen. Chẳng biết đi hoang làm những việc gì, có đánh ghen hay không, nhưng vừa về đến nhà là Meomeo giở thói nịnh nọt ra: nó đi quanh, cọ mình vào chân mẹ Li, kêu khừ... khừ... Mẹ Li sai Li đem Meomeo đi tắm, rồi cho ăn cơm với cá. Hình như chuyến đi trăng gió vừa rồi không đạt kết quả gì, cho nên chỉ ít ngày sau, Meomeo lại quậy phá. Nó

34

Page 35: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

ngoao ngoao một thôi một hồi rồi chuồn khỏi nhà, biến luôn cả một tuần. Hôm nó trở về, người xơ xác, lông rụng mấy mảng, mặt đầy thương tích, tai rách làm đôi. Thế nhưng, ẩn sau cái bề ngoài tả tơi của nó, là một vẻ mãn nguyện và một sức sống mới phơi phới. Thời gian sau thì Meomeo to bụng rồi đẻ ra 4 con...

Chuyện Meomeo đi hoang đã thành bình thường. Cứ sau mỗi lứa mèo đẻ một thời gian, mẹ Li chưa kịp cho hết mèo con, nó đã biến khỏi nhà. Mà nó mới mắn đẻ làm sao, cứ sòn sòn lứa này tiếp lứa khác. Chỉ một thời gian ngắn, Meomeo đã sản sinh một đàn một lũ mèo tam thể mèo nhị thể mèo mướp mèo xám mèo vàng đủ loại mang giòng máu của không biết cơ man nào là mèo đực hoang, kết quả của những cuộc đi tơ ngắn ngủi đã thành chu kỳ của nó. Tội nghiệp cho Li, cô bé thương súc vật cho nên vất vả với con mèo lắm. Lần con Meomeo đẻ lứa đầu, Li lo lót ổ, rồi thức hầu mèo suốt đêm. Chẳng hiểu học ở đâu mà Li biêt đỡ đẻ cho mèo. Cô bé chờ nó đẻ một con, lại hai con. Loài mèo đẻ cũng lạ, không cho ra con liền nhau, mà cứ cách quãng cả giờ đồng hồ. Mãi gần sáng, sờ nắn bụng mèo thấy rỗng không rồi, Li mới pha cho nó bát sữa, dỗ dành nó uống. Người ta bảo trẻ con mà thương yêu súc vật là người có tâm, lớn lên thường làm điều thiện. Không rõ điều đó có đúng không, nhưng cái thiện của Li đối với mèo thi Meomeo dường như cảm nhận được. Chẳng thế mà từ ấy, cứ mỗi lần sắp đẻ là Meomeo theo riết chị Li. Có lần, chị Li xuống nhà nó theo xuống, lên gác nó lên theo, vào nhà vệ sinh nó cũng cào cửa xin vào. Hoá ra nó sắp đẻ, nó muốn nhờ chị Li đỡ. Tất nhiên, con mèo chỉ theo chị Li những khi nó cần đẻ, chứ hàng ngày nó vẫn lạnh nhạt với người và hay lẩn đi chơi một mình.

Một đêm nghe Mimi sủa liên hồi dưới nhà, bố Li xuống thì nghe tiếng lục sục ngoài cửa. Cảnh giác, ông cầm cái cán cờ, nhẹ nhàng mở cửa. Hoá ra có một bọn trộm mèo đang câu mèo. Con Meomeo bị trúng câu, đang vật mình. Một gã đàn ông ngồi sẵn trên xe, giữ ga nhè nhẹ. Một gã trai đang ra sức kéo sợi dây câu. Con Meomeo đang cố ghì chân để khỏi bị kéo bật ra khỏi khe song sắt. Thấy động, hai tên trộm mèo vội rồ xe chạy thẳng, để lại chiếc cần câu với sợi dây dù cùng chiếc lưõi câu to sụ mắc ở mép Meomeo. Mimi chạy quanh Meomeo, hít hít sợi dây, dùng mõm ngoạm vào, dứt dứt. Hình như nó muốn gỡ lưõi câu ra khỏi mép Meomeo. Bố Li cười: "Mày rộng lượng ghê, không ghét cái thói Memeo hay bắt nạt mày hay sao mà còn muốn giúp nó?" Mimi vẫy vẫy đuôi, kêu ư ử, mặt mày hoan hỉ. Bố Li gỡ xong lưỡi câu, ôm mèo vào nhà. Mimi nhảy cẫng dưới chân. Thế nhưng, hành động đầy ân tình ấy của con chó chẳng làm cho con mèo mảy may xúc động. Nó vẫn giành ăn với Mimi. Thảo nào mà dân gian có chuyện kể rằng mèo là giống vong ơn bội nghĩa. Tuy vậy, Mimi cũng được mẹ Li bớt bắt bẻ, đối xử công bằng hơn.

Nỗi hoảng sợ sau lần bị câu hụt không làm cho Meomeo bớt thói hoang đàng. Vừa đẻ con được ít ngày, nó đã ngoào ngoào quyậy phá và bỏ nhà, lao vào

35

Page 36: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

cuộc tìm kiếm con đực mới. Mà đi đêm lắm ắt có mgày gặp ma, vào mùa hè năm ấy, nó mất tích luôn. Li thương nó lắm, cứ than vãn hoài với bố rằng không hiểu giờ này Meomeo ở đâu, đang lang thang nơi bãi rác hay đã trở thành món nhậu của một quán tiểu hổ nào đó trong số các quán thịt mèo đang đua nhau mọc lên phục vụ một mốt ẩm thực mới ở Thủ đô này. Thế là 5 đứa con của Meomeo vừa mới ra đời còn bé tí hin đã bị bơ vơ. Chúng đói, kêu không thành tiếng. Bố Li bảo: “Chị nó vừa sinh con hơn một tháng, bây giờ cho nó bú trực!” Hai bố con Li xúm lại, dằn ngửa con mèo chị ra và lùa bầy mèo con vào cho bú. Lũ mèo con ngửi thấy hơi sữa thì thục mạng bò vào rúc, bú. Con mèo chị đột nhiên nổi cáu, kêu phà... phà... đạp tung bốn chân, làm cho bầy mèo con văng cả ra. Hai con đầu đàn khoẻ hơn, bò lổm ngổm tránh xa con chị. Lúc ấy con Mimi cũng đang đứng cạnh bố Li, đuôi vẫy rối rít. Hai con mèo con bò vội vã đến bên con Mimi, rúc vào chân nó. Con Mimi bỗng nằm ngửa ra, dơ bốn cẳng, mắt lim dim. Hai con mèo con rúc tới, ngậm vào hai cái ti nhỏ xíu của Mimi. Mimi nằm im, vẻ sung sướng... Nhìn cảnh ấy, lúc đầu mẹ Li cười riễu. Sau đó, bà im lặng, suy nghĩ. Lòng trắc ẩn của một người mẹ trỗi dậy. Cái cảnh động đực nhảy cỡn của Mimi làm bà ghét nó bao nhiêu, thì cái cảnh nó thay mèo mẹ, nằm ngửa cho lũ mèo con rúc bú trên bầu vú khô tóp của mình lại làm bà xúc động bấy nhiêu.

Ngày hôm sau, mẹ Li bảo: "Hôm vừa rồi đến nhà chú Phùng, mẹ thấy chú mới có một con Phốc đực rất mạnh khoẻ. Chủ nhật này Li đem con Mimi đến nhà chú Phùng, gửi đấy ít bữa". Bố Li băn khoăn: "Đã lâu không thấy Mimi động cỡn, liệu nó có còn khả năng làm mẹ không?"

Tháng 11 năm 2003

36

Page 37: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

RẮN THẦN

Câu chuyện tôi kể dưới đây nghe có vẻ hoang đường, nhưng vì tôi trực tiếp nghe một người bạn thân kể lại, sau đó lại chứng kiến những sự việc chứng minh cho tính chân xác của nó, cho nên tôi vẫn viết ra...

Đó là vào một ngày đầu xuân. Đường lên Yên Tử nườm nượp những người. Đến quãng giữa đường lên dốc Tùng, đoàn người bỗng ùn lại. Hoá ra có một chú thanh niên người địa phương đang rao bán một con rắn. Chú bảo rằng con rắn này rất đặc biệt, đã lớn, lại có một cái mào đỏ chót trên đầu. Đó là do chú ta nói, chứ kỳ thực không ai nhìn thấy con rắn dài ngắn ra sao, bởi vì nó bị nhốt trong một cái bao dứa trắng.

Khi những người tò mò bỏ đi dần, đường thoáng ra, thì có một tốp chừng chục người đi tới. Dẫn đầu là một người đàn ông trung niên, dáng tầm thước, da trắng hồng, mặt sáng như gương. Anh tên là Thuận, từ thành phố Hồ Chí Minh ra. Anh bảo đoàn người dừng lại, đứng dẹp vào bên vệ cỏ. Anh cất giọng sang sảng hỏi:

- Chú em có thể cho xem con rắn không?Chú thanh niên lắc đầu: - Thưa không. Con rắn này dữ lắm, mở ra, cháu e nó làm các bác hãi!Thuận nhìn kỹ cái bao dứa bằng đôi mắt sáng. Có lẽ con rắn đang khoanh

tròn trong bao, cho nên cái bao im lìm. Người ta hay nói mua mèo trong bị chứ có ai nói mua rắn trong bao bao giờ. Thế mà giờ đây lại có người bán rắn trong bao thật. Thuận ngắm nghía cái bao, nó vẫn im lìm. Nhưng anh bỗng cảm thấy có một luồng sinh khí từ trong bao toát ra, ấm áp và thơm lừng. Anh bảo chú thanh niên:

- Được, ta mua, chú tính bao nhiêu?- Bác cho con một triệu ba!- Sao lại lẻ loi triệu ba? Thôi, ta đưa tròn một triệu.Chú thanh niên gật đầu, trao bao dứa cho Thuận. Anh trả tiền rồi nhận bao

dứa. Cái bao động đậy. Thuận nhẹ nhàng xách cái bao ra bãi cỏ cách xa đường, đặt xuống và từ từ mở dây buộc. Mọi người căng mắt nhìn vào cái bao. Tất cả bỗng ồ lên một tiếng: có một cái mào đỏ chót động đậy nơi miệng bao. Rồi cả cái đầu con rắn lộ ra với cái mào lớn, dầy và đỏ như bông hoa mào gà. Con rắn trườn ra khỏi bao trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Chao ơi, nó lớn và dài làm sao, với làn da loang lổ trắng đen thật dữ tợn. Thế nhưng, con rắn không tỏ ra hung dữ như người ta tưởng. Trườn đi một đoạn rồi, nó quay đầu lại. Có

37

Page 38: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

người nhát gan định co giò chạy, thì đứng sững lại bởi thấy con rắn không trườn tới nữa, mà vươn mình lên cao. Cái đầu nó dựng thẳng, cái mào đỏ lắc lư. Nó hướng về phía anh Thuận, dập đầu ba lần, rồi nhẹ nhàng quay mình, lướt vào rừng xanh.

Nhìn theo con rắn, Thuận mỉm cười, nụ cười nhân ái. Anh thuộc loại người nặng về tình cảm, hay mơ mộng, mặc dầu anh là tiến sĩ về công nghệ viễn thông. Với anh, Yên Tử như một tình yêu. Khi chưa đến nơi, anh đọc những áng văn thơ về Yên Tử và luôn luôn bị rung động bởi cái cảnh, cái tình nơi đây. Để rồi khi đến, anh thấy lòng rạo rực như gặp được người yêu. Tuy ở xa, anh vẫn thường lên Yên Tử để được sống trong tình yêu ấy. Nhưng lần này lại thật đặc biệt. Yên Tử như đã trở thành một phần của tâm linh anh. Đêm ấy, phải khuya lắm anh mới chợp mắt. Vào giữa canh hai, Thuận bỗng bừng thức bởi một tiếng chuông lảnh lót. Một vừng sáng hồng lơ lửng trước mắt anh. Thoáng trong vừng sáng ấy là hình ảnh con rắn có mào đỏ. Rồi lại thoáng qua hình ảnh một vị sư có khuôn mặt đầy đặn, cặp mắt sáng như sao, mỉm cười với anh. Chưa kịp định thần, anh bỗng nghe tiếng vị sư bảo:

-Con hãy đem giấy bút ra! Như là một hành động vô thức, anh đến bên bàn, mở giấy bút và bắt đầu

viết. Không rõ anh nhìn bằng loại ánh sáng gì? Chỉ biết rằng những vần thơ về Yên Tử bỗng vang lên trong tâm khảm anh, và anh lặng lẽ chép lại. Những bài thơ viết theo thể Đường luật mô tả từng cảnh đẹp của Yên Tử với những nét phác hoạ thần kỳ, sống động, lại ẩn chứa những triết lý sâu xa về nhân luân. Chỉ một đêm ấy, Thuận đã hoàn tất một tập thơ với tên Thi vân Yên Tử mà sau này được xuất bản như một hiện tượng văn học lạ kỳ!

Lại một mùa xuân nữa đến với Yên Tử. Lần này, tôi và mấy anh em cùng cơ quan cũng tham gia chuyến hành hương lên Yên Tử với Thuận. Khi tới bãi đỗ xe, chuẩn bị leo dốc Tùng, tôi thấy một chàng thanh niên gầy gò nhưng nhanh nhẹn chạy tới:

- Các chú có thuê gánh đồ không? Cháu gánh cho!Thuận reo lên một tiếng và nói với tôi:- Chính cậu bé bán cho mình rắn thần đấy!Tò mò, tôi kéo cậu thanh niên ra một góc, thầm thì:- Có đúng cháu là người đã bắt được rắn thần không?Cậu thanh niên gật đầu, nhưng sắc mặt tái đi. Cậu bảo:-Cháu không dám nhắc tới Ngài nữa đâu!Tôi động viên:-Cứ mạnh dạn lên, Ngài đã được về với rừng núi rồi, cháu nào còn mang

tội nợ với Ngài?

38

Page 39: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

-Không, cháu vẫn sợ lắm, chính vì Ngài mà cháu bỏ nghề bắt rắn, làm nghề này đấy!

-Sao? Hoá ra cháu chuyển nghề vì Ngài? Ngài đã khuyên bảo cháu ư?-Dạ không. Nhưng ngài răn đe cháu!-Răn đe?-Vâng, một lần cháu mang bao lên tận gần lưng núi tìm bắt rắn thì gặp

Ngài. Từ xa, cháu đã giật bắn mình khi thấy Ngài với cái mào đỏ chót nghển cao khỏi lùm cỏ. Cháu đứng chết trân trong khi Ngài trườn tới. Cách cháu chừng sải tay, Ngài dừng lại, vươn cổ phun phì phì. Cháu hoảng quá, cố rút chân, quay lưng chạy. Vẫn nghe tiếng phì phì sau lưng. Cháu vấp một tảng đá, ngã bổ nhào. Vùng dậy, đã thấy ngài chặn trước mặt. Thế nhưng Ngài không mổ cháu. Cháu vái lấy vái để và lẩm nhẩm khấn rằng sẽ không bao giờ làm nghề sát sinh nữa, ngài liền trườn đi...

Tôi bán tín bán nghi. Lẽ nào chỉ một chút hù doạ của một con rắn mà có tác dụng giáo dục một con người nhanh đến thế. Trong khi đó quanh tôi đây, có biết bao người chẳng biết sợ là gì, gặp bao sự răn đe của pháp luật, sự khuyên bảo của người thân mà vẫn cứ lao vào làm việc xấu. Kể cả trong những người đang đi hành hương về đất Phật này, có khối kẻ miệng thì khấn vái cầu phúc cầu lộc nhưng tâm địa lại tối đen. Có lần tôi đứng sau một bà có dáng vẻ sang trọng nhưng mặt lại nhăn nhúm đến thiểu não đang sì sụp khấn vái. Bà ta lẩm nhẩm nhưng tôi vẫn nghe rõ: "Cầu Trời khấn Phật phù hộ độ trì cho nhà con được thăng quan tiến chức đợt này. Con đã lo lót cấp trên, lo lót tổ chức tiền nong, vàng bạc không thiếu gì, nhưng con cầu mong Trời Phật vật chết cái lão Hùng đang chạy đua với nhà con cho nhà con rộng đường thăng tiến..." Còn chuyện của cậu thanh niên này thì cứ như huyền thoại. Nhưng người thật việc thật lại sờ sờ trước mắt tôi. Tôi cố bứt khỏi dòng suy tư, vỗ vai chàng thanh niên:

-Cháu làm thế này có đủ sống không?-Vất vả lắm chú ạ. Gánh đồ đạc lên núi suốt buổi, kiếm được 15 ngàn

đồng, vã mồ hôi hột. Trước kia, làm nghề cũ, kiếm dăm bẩy chục ngàn một ngày không khó gì.

-Thế cháu có định trở lại nghề cũ không?-Không, không! Không bao giờ chú ạ. Làm nghề cũ sợ lắm. Làm nghề

này vất vả nhưng thảnh thơi. Ngày làm mệt, đêm ngủ tròn một giấc, không mộng mị hoảng hốt gì, thế là sướng!

Tôi nhìn thấy nụ cười mãn nguyện trên đôi môi khô của chàng trai gầy còm. Cũng lúc ấy, Thuận gọi tôi:

- Đi thôi bạn ơi, đi nhanh mà còn lên chùa Đồng!Tôi trao túi xách cho chàng thanh niên. Mặc dù không nặng nhọc gì,

nhưng tôi không muốn đeo túi lên non, bởi tôi muốn thể hiện chút tri ân với

39

Page 40: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

chàng thanh niên hướng thiện nọ. Làm theo tôi, anh chị em trong đoàn đều trao ba lô, túi xách cho chàng thanh niên. Thế là đủ việc làm cho chàng trong buổi sáng hôm ấy.

Cuộc đời là những cuộc đổi thay liên tục. Yên Tử giờ đây đã có cáp treo. Du khách đến Yên Tử ngày càng đông. Nhưng cũng vì có cáp treo, mà cái nghề mang vác đồ thuê giờ không thịnh nữa. Không rõ chàng thanh niên có còn kiếm sống được bằng nghề này không? Tôi cứ băn khoăn hoài, mong ai gặp được chàng thanh niên đó thì nói lại cho tôi rõ. Chàng ta đã đổi tên cũ sang tên mới như một Phật tử: Thích Thiện Tâm.

Ngày 28 tháng 11 năm 2003

40

Page 41: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Hồi quang

Ngồi trên chuyến xe về vùng Trà Nô, căn cứ cách mạng xưa, Hoài An thấy lỏng bồi hồi, rộn lên bao cảm xúc. Biết mấy năm rồi sau khi kết thúc chiến tranh, anh mới về vùng đất đã từng gắn bó với cuộc đời mình trong những ngày đầy ác liệt, gian khổ ấy. Đã bao lần anh tự nhủ phải sớm về vùng đất máu thịt kia, nhưng rồi công việc cuốn hút, anh lại lỡ hẹn. Nhưng lần này thì dứt khoát anh phải về. Bởi lẽ, anh phải về với những kỷ niệm xưa đã đành, mà còn phải thực hiện lời hứa với một người vừa mới qua đời...

Một cú xóc khá mạnh khiến cả xe lao xao. Hoài An ngó quanh: chuyến xe khách này đầy người, bộ đội có, dân thường có, nam có, nữ có. Ngay trước ghế anh ngồi là ba người - một bà lão, hai thiếu nữ. Qua khỏi chỗ đường xấu, xe lướt êm êm. An nghe giọng bà cụ rủ rỉ:

- Em nó hy sinh ngay ở bên sông Trà Nô!Hai tiếng Trà Nô khơi dậy trong An bao kỷ niệm. Bởi vậy, anh chú ý lắng

nghe. Bà cụ vẫn với cái giọng rủ rỉ:- Đây là Thanh, em của em Thuý. Hai mẹ con tôi vào tìm mộ em Thuý

đây!Nghe nói đến tên Thuý, An giật mình sửng sốt. Cuộc sống lại có sự tình

cờ đầy ân nghĩa vậy sao? An cũng về Trà Nô tìm mộ Thuý đây mà. Anh định vươn tới nói cho bà cụ rõ điều ấy thì bà cụ đã nói tiếp:

- Các anh ấy kể rằng em nó hy sinh anh dũng lắm, dám chiến đấu với cả một tiểu đội biệt kích Mỹ!

An hơi ngạc nhiên. Thuý có hy sinh trong tình huống chiến đấu với biệt kích đâu! Hay là Thuý khác? Nghĩ vậy, An hỏi bà cụ:

- Thế bác người vùng nào ạ?Bà cụ sởi lởi:- Tôi ở Gia Viễn Ninh Bình!- Xã nào ạ?- Ở ngay Lai Thành ấy mà! Thế chú cũng người Ninh Bình ư? Chú có ở

chiến trường không?- Dạ có, cháu có ở chiến trường, đóng ngay trên vùng Trà Nô!- Thế chú có biết em Thuý?- Dạ... Dạ...

41

Page 42: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

An ậm ừ rồi ngồi im. Anh thấy trong câu chuyện của bà cụ có gì đó không bình thường. Với quê hương bản quán như bà cụ vừa nói, thì người trong câu chuyện của bà chính là Thuý, liệt sĩ mà anh cần đi tìm mộ theo lời trăn chối của người bạn vừa mới qua đời. Thế nhưng, Thuý hy sinh trong trường hợp khác, thật là thê thảm, đâu phải là trong chiến đấu như bà cụ nói? Bà cụ lại hỏi anh:

- Chú biết em Thuý hy sinh thế nào chứ?Chưa đợi An trả lời, bà cụ đã tiếp lời:- Chắc chắn là chú biết rồi, Em Thuý hy sinh trong khỉ đánh bọn biệt

kích.... Một cánh rừng lòn bon ngút ngát. Một bãi sông lô nhô những tảng đá

hình đầu ông sư. Một giòng nước trong xanh cuồn cuộn chảy giữa một thung lũng hẹp. Một người con gái mảnh mai, vai gùi một gùi sắn to tướng, tay cầm khẩu tiểu liên AK. Người con gái đó là Thuý. Cô vừa qua sông sang nóc ông Chanh đổi muối lấy sắn về cho cơ quan. Rừng chiều âm u và tịch mịch. Người con gái lội qua sông, vượt lên một con dốc. Ánh chiều chập choạng. Tiếng con chim khó khăn khắc phục thỉnh thoảng cất lên làm cho cảnh rừng càng thêm thanh vắng. Mồ hôi nhỏ giọt trên vầng trán cao thông minh của cô gái. Tay gạt mồ hôi, tay níu lấy một cành cây, Thuý gắng sức leo lên. Cô cố gắng vượt dốc để về cơ quan trước lúc hoàng hôn ập xuống. Gùi sắn trĩu nặng không kéo cô lùi bước. Mải miết bước mải miết leo, cô đã vượt qua cánh rừng, lên đến gần đỉnh ngọn đồi. Bỗng cô ngửi thấy mùi khét. Dừng lại, cô ngó quanh, cảnh giác. Bọn biệt kích Mỹ thường toả ra mùi khét như loài ác thú. Bỗng nhiên, một loạt đạn súng liên thanh AR15 rẹt tới. Thuý quăng gùi sắn, lăn vào dệ dốc. Bọn biệt kích Mỹ nhả đạn như mưa xuống. Thuý nấp sau gốc lòn bon, giương súng AK lên. Thấp thoáng mấy bóng áo rằn ri động đậy. Cô nhả đạn. Những tiếng kêu hoảng loạn. Tiếng ằng ặc như lợn bị chọc tiết. Tiếng người đổ vật xuống nền đất. Im lặng. Thuý nhẹ nhàng len trong rừng, vượt lên. Một loạt đạn từ đỉnh dốc xả xuống. Cô ngã gục, máu trào ra nơi bắp đùi. Khẩu AK văng xuống lưng dốc. Hai thằng Mỹ lừng lững tiến lại. Thuý móc quả lựu đạn duy nhất bên thắt lưng, mở chốt. Hai thằng Mỹ vẫn tiến tới. "Vi xi! Vi xi! - Việt cộng! Việt cộng!". Thấy trước mắt là một thiếu nữ bị thương, hai thằng Mỹ coi thường, khoác súng lên vai. Đến gần, chúng khom người ngồi xuống bên cô gái. "Ầm!" Tiếng lựu đạn nổ vang. Rừng núi đáp lại bằng những tiếng vọng ầm... ầm...đầy căm hận...

Trận chiến không cân sức giữa Thuý và bọn biệt kích Mỹ đã diễn ra sống động theo lời kể của bà cụ như vậy. Hoài An lắng nghe, lòng rưng rưng cảm động. Nhưng anh biết, vào năm ấy, trên vùng Trà Nô này không có vụ biệt kích Mỹ đột nhập nào, và cũng chẳng hề có trận chiến đấu không cân sức nào giữa một cô gái và một tiểu đội biệt kích Mỹ. Anh chỉ biết một câu chuyện tình bi thương nhưng cũng đầy chất anh hùng...

42

Page 43: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

... - Nhất định ông phải về vùng Trà Nô. Nhất định ông phải tìm được mộ

Thuý, chuyển về nghĩa địa làng ta. Tôi sẽ nằm ở đấy đợi Thuý! Đó là lời van xin tha thiết của Quý, người bạn đồng hương đã cùng ở

chiến trường với An trong thời chống Mỹ. Ra khỏi cuộc chiến tranh, Quý về làng. Nhưng gia đình anh không còn một ai - trận bom Mỹ dội vào làng đã biến căn nhà của vợ chồng anh thành cái hố sâu hoắm. Gắng vượt qua nỗi đau, anh trở lại làm ruộng, rồi tham gia ban lãnh đạo xã. Nhưng sức khoẻ của Quý cứ đuối dần. Anh mắc một chứng bệnh lạ - mục xương! Lúc đầu là xương cẳng tay, tự nhiên gãy ra, không thể nào liền lại được, cuối cùng phải tháo khớp khuỷu tay. Rồi đến xương vai. Cơ thể cứ mục ruỗng dần như gỗ bị mối xông. Khi phải nằm một chỗ rồi, Quý mới dốc hết lời với An về mối tình của mình với Thuý, một điện báo viên cùng đơn vị. Anh ta đưa cho An một tấm ảnh chụp chung hai người, đã nhoè nhoẹt:

- Đây là hình ảnh của chúng tôi khi còn ở rừng. Tôi hèn lắm, cứ giấu tẩm ảnh này mãi, có dám cho ai xem đâu. Cũng như tôi cứ giấu mối tình với Thuý, không dám công khai. Ông biết đấy, ở quê, tôi đã có vợ. Nhưng em nào biết, em cứ yêu tôi, chân thành, cả tin.

Thấy Quý hổn hển thở, An bảo:- Thôi, ông không phải sám hối nữa, cuộc sống đã có biết bao thay đổi.

Tự trách mình phỏng ích gì?...Một cú xóc nữa lại kéo An ra khỏi giòng ký ức. Bà cụ hỏi:- Sông kia rồi, có phải sông Trà Nô không chú?- Vâng, sông Trà Nô đấy ạ!

Trả lời xong, An vờ cúi xuống sửa quai dép, sợ bà cụ hỏi tiếp....Núi rừng Trường Sơn những năm chống Mỹ đâu chỉ chứng kiến cảnh

bom rơi đạn nổ, lũ lụt, mà còn chứng kiến cả những mối tình vụng trộm nhưng cháy bỏng khát khao nữa. Những mối tình như thế là điều cấm kỵ ở cơ quan. Mọi người đang chiến đấu, không thể lãng mạn theo tình cảm riêng tư được. An đã chứng kiến một cuộc chia ly đầy mầu xám. Đó là cặp tình nhân trí thức - một nhà thơ, một nữ bác sĩ. Họ yêu nhau trên đường vượt Trường Sơn vào cơ quan dân chính này. Hồn nhiên. trong sáng, họ phơi bầy tình yêu trước bàn dân thiên hạ. Họ nghe hơi ấm đường rừng theo từng bước chân. Họ ra bờ suối câu cá và tình tự. Thế rồi đột nhiên cô gái bác sĩ nhận được quyết định chuyển về cơ quan dân y vùng Tây Nguyên! Lệnh ban ra buổi sớm và ngay sáng ấy cô bác sĩ phải lên đường. Anh nhà thơ rên lên trong niềm đau đớn nhưng không dám phản kháng. Anh cõng ba lô cho cô gái, theo đường giao liên được nửa buổi thì phải

43

Page 44: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

quay lại. Anh cũng được lệnh sớm hôm sau xuống vùng Đác Ta tham gia sản xuất! Anh không ngờ rằng hai người sẽ chia tay nhau mãi mãi, bởi vì khi sản xuất ở Đác Ta, đơn vị anh bị một toán biệt kích đổ bộ từ máy bay trực thăng xuống tấn công. Anh lĩnh trọn một băng đạn tiểu liên của kẻ địch... Thế đấy, mối tình chính đáng còn bị ngăn cấm, huống chi mối tình ngang trái. Cho nên Quý dấu biệt chuyện yêu đương. Thuý một mực theo anh. Thuý yêu anh với tình yêu đầu đời non trẻ và sôi nổi. Quý yêu Thuý với mối tình muộn đậm đà của người đã trải qua hôn nhân, một cuộc hôn nhân không hạnh phúc bởi tệ tảo hôn. Anh từng trải và khôn khéo dẫn dụ Thuý vào vườn tình ái đầy đam mê quyến rũ, khiến cô quên cả thực tại nghiệt ngã ở chiến trường. Có hôm, đợi đến gần nửa đêm, khi mọi người đã ngủ yên, Quý mới bấm Thuý ra bờ suối. Tại đó, Quý đã mắc sẵn một chiếc võng dù. Hai người ngồi sóng đôi trên võng. Suối róc rách tiếng đàn nước muôn thuở. Rừng tịch mịch, chỉ có tiếng gió thổi lao xao. Ánh trăng soi chếch tán lá, chiếu một vùng sáng vàng nhạt vào khuôn mặt rạng rỡ của Thuý. Và rồi Thuý lịm đi trong vòng tay Quý. Chiếc võng rung lên đều đặn từng nhịp. Suối vẫn róc rách bài ca đàn nước.

...- Xe đến nơi rồi. Nào, mọi người xuống!Nơi này là vùng gần đồng bằng cho nên không có núi cao, dốc đứng. Nó

thân thuộc với An quá. Anh hăm hở dẫn đầu nhóm người đi tìm mộ, vượt lên. Anh lội băng qua con sông nhỏ. Sông Thanh đây mà. Giòng nước luồn lỏi qua các tảng đá, tạo nên tiếng róc rách nghe vui tai lạ. Những khóm rù rì mềm mại mọc đầy bên bờ suối như muốn níu kéo những bước chân. An rời xa bờ suối, vượt lên một cánh rừng thành ngạnh. Những cây thành ngạnh này thân nhỏ, nhiều gai, những năm chiến tranh vừa là tấm màn nguỵ trang, vừa cung cấp cho các đơn vị Giải phòng củi đun - một nguồn năng lượng vô tận. Con đường mòn nhỏ xíu lẩn khuất dưới lớp lá rừng rụng đầy. Ôi, những con đường rừng. Ôi, hơi ấm đường rừng. An cũng đã có mối tình nồng thắm nơi rừng núi này. Và hạnh phúc thay cho An, mối tình ấy đã nở hoa trong chiến tranh và đến nay đã kết thành trái ngọt. Lại lội qua suối. Lại vượt lên dốc. Lại vào một rừng thành ngạnh. Một đám đất nổi gồ lên giữa vạt rừng thưa. Đầu đám đất là một gốc cây to sần sùi. Đây rồi, chính là mộ Thuý! Ký ức luôn luôn sống động trong tâm tưởng An đã dẫn dắt anh đến với ngôi mộ mà năm xưa anh đã cùng đồng đội vun đắp. Ngôi mộ của Thuý, chính là Thuý.

…Đó là vào mùa mưa. Nước mưa trút sầm sập bào mòn đồi núi, tạo thành

những khe, những rãnh chứa thứ nước sền sệt đỏ quạch tuôn ào ào xuống các con sông, con suối. Cả cơ quan bị cô lập trong vòng vây của sông suối với những giòng nước đục ngầu, hung tợn. Lương thực cạn kiệt rồi. Phải đi cõng

44

Page 45: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

gạo. Anh em trong cơ quan lại đi công tác đồng bằng, cho nên vắng người quá. Thủ trưởng muốn phân công Quý cùng với Tiến đi cõng gạo. Nhưng thật không may, Quý đang ốm.

Gay quá, không thể để Tiến đi một mình. Đường xá xa xôi, nước cuốn hung dữ như thế, phải có hai người đỡ đần nhau. Thủ trưởng đi qua đi lại trong nhà. Anh muốn tham gia gùi cõng, nhưng nhận được lệnh của Khu phải trực đài chờ tin đặc biệt. Lúc ấy, Thuý vừa dưới bếp lên. Thấy Quý trùm kín tấm dù hoa nằm thu lu trên võng, Thuý hốt hoảng lại ngồi bên, vạch tấm dù, sờ trán. Trán Quý mát! Cô càng hốt hoảng. Thông thường, sốt rét thì người nóng lắm. Nay, anh Quý ốm lại không nóng, không hiểu là bệnh gì? Quý rên hừ hừ, run run giọng:

- Anh chỉ ốm mấy ngày là khỏi thôi, anh biết mà. Em đừng lo. Bây giờ anh yếu lắm, không đi dược, nhưng ba bốn hôm nữa anh lại khoẻ thôi!

Thuý nói với Thủ trưởng:- Anh để cho em đi. Em khoẻ và bơi giỏi lắm!Nằm kín trong võng, Quý giật bắn mình. Chết thật, cô ấy yếu đuối thế,

nước lũ chỉ cần lướt qua cũng đủ cuốn về hạ nguồn. Quý định chui khỏi võng. Quý định liều đi cõng gạo. Cứ định và định. Nhưng Quý vẫn nằm co trong võng như con chồn nằm co trong hang. Thủ trưởng không còn cách nào khác, phải đồng ý cử Thuý và Tiến đi cõng gạo.

... Mưa rừng dầm dề dễ đến gần tháng trời rồi. Lúc sầm sập. Lúc rả rích. Những hạt mưa dăng mắc lúc thưa lúc mau, khi nặng hạt, khi bay bay ấy không ngưng nghỉ phút giây. Hạt mưa như những mũi thuốn thọc sâu vào lòng đất. Đất bã ra, tơi tả. Đây đó có những tiếng nổ rền rĩ như tiếng nổ của bom tấn. Đó chính là tiếng núi lở. Núi lở còn khủng khiếp hơn lũ cuốn. Bởi vì chỉ trong phút chốc, một cơn lở đất có thể vùi lấp cả một đoàn người, không để lại dấu tích gì. Thuý đi cõng gạo trong trận mưa rừng dầm dề ấy, trong tiếng lở núi ầm ầm ấy. Sáng hôm sau, Thuý và Tiến vừa đến vùng Tà Ma thì đất trời rung chuyển. Bùn cuốn từ hai đầu núi xuống như thác đổ. Phút chốc, hai anh em bị vây trong một biển bùn đỏ quánh. May mà hai người vừa vượt lên một ngọn dốc thì bùn đổ xuống, nếu không, chắc họ đã chìm sâu dưới biển bùn đặc quánh ấy. Thế là, ở ngay trên cạn mà họ như giữa một hòn đảo chơ vơ. Ngày qua ngày, thức ăn cạn kiệt. Cái đói hành hạ hai người. Hôm ấy, còn phong lương khô 701 cuối cùng, Thuý đưa cho Tiến:

- Anh ơi, em đuối sức lắm rồi, em không trụ nổi đâu. Anh khoẻ hơn, còn có cơ may trở về. Anh ăn đi!

Gương mặt Thuý hốc hác như bức tượng nhà mồ bị mưa gió xói mòn. Tiến nhất quyết không nhận phong lương khô. Thuý cũng nhất quyết không ăn phong lương khô ấy. Qua ngày hôm sau, một cơn đau bụng dữ dội khiến Thuý

45

Page 46: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

co rúm người lại. Cô cảm thấy ruột mình bị kéo căng, đứt từng khúc. Thuý thở hổn hển, môi khô nẻ như ruộng gặp hạn. Rồi Thuý qua đời. Phong lương khô vẫn còn nguyên. Tiến ôm xác người nữ đồng chí, run lên trong cái đói và nỗi đau. Không hiểu nhờ sức mạnh nào mà Tiến không ngã gục. Nắng lên. Bùn khô đi, tạo thành một lớp đất nứt nẻ đỏ đồng đọc. Rồi, một tốp cán bộ Tuyên Huấn tình cờ đi tới, cứu được Tiến.... Hoài An chính là một trong ba người đã cứu Tiến và đưa Thuý về chôn cất ở cánh rừng thành ngạnh này đây... Đến bây giờ, xúc cảm về cái chết thê lương của người nữ đồng chí vẫn còn bóp ngẹt trái tim anh. Hồi ấy, vào chiến trường, ai chả muốn xông pha chiến trận, nếu có hy sinh cũng trong trận mạc, hiên ngang trước nòng súng quân thù. Có ai muốn sống mòn mỏi trên núi cao rừng sâu. Thế nhưng, cuộc chiến không phải chỉ cần những chiến binh trên chiến trận, mà còn cần cả những người chiến sĩ thầm lặng phục vụ ở vùng căn cứ, tạo sức mạnh cho đồng đội nơi tiền phương. Bản thân An cũng phải kiên trì ngồi ghi tin đọc chậm, làm tài liệu tuyên truyền ở căn cứ, đã lần nào anh được xuống đồng bằng đâu! Nhưng ngay trên vùng căn cứ này, cuộc sống cũng đâu phải tĩnh lặng, mà vẫn có đạn nổ, máu đổ, người hy sinh. An đã từng chôn cất bao nhiêu đồng chí ngay trên căn cứ này - người chết vì sốt rét ác tính, người chết vì vướng mìn của lũ biệt kích, người chết dưới làn mưa bom B52… Tuy vậy, hy sinh như Thuý cũng thê thảm quá! Nơi tận cùng tâm linh An, vẫn phảng phất hình ảnh ma đói mà anh thường nghe bà nhắc đến trong những câu chuyện cổ tích bi thương nói về những người bị chết đói. Anh cố gạt nỗi ám ảnh đó đi và tự nhủ: dù hy sinh bởi lý do nào, thì cũng là hy sinh trên chiến trường chống Mỹ cứu nước, đều vẻ vang như nhau…

…Nhìn lại cánh rừng thành ngạnh lần nữa, An tin chắc rằng cô Thuý dưới

mộ kia, cô Thuý người yêu của Quý, cũng chính là cô Thuý con bà cụ này, chị cô Thanh kia. Cho dù câu chuyện về sự hy sinh là khác nhau, nhưng An biết chắc rằng chỉ nói về một người mà thôi. Có lẽ đồng đội của Thuý không muốn gia đình Thuý quá đau xót trước cái chết thê thảm của con mình nên đã kể ra câu chuyện đầy tính anh hùng ca như vậy. Còn sự thực, vẫn là sự thực.

…- Chính mình là người giết chết Thuý! - Thôi, ông đừng quá xúc động như thế!- Thật đấy! Mình hèn quá. Chính cái hèn của mình đã giết chết Thuý!- Nào, hãy nghe tôi, bình tâm đi! Ông đừng tự dằn vặt quá đáng như thế.

Bão lũ, đất lở đã giết chết Thuý chứ đâu phài là ông!Quý cố sức nhổm người lên, mặt ướt đầm mồ hôi:

46

Page 47: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

- Ông, ông hãy nhìn kỹ tôi đi. Tôi lột trần bộ mặt của tôi cho ông nhìn rõ đây: Hôm đó tôi không ốm. Tôi sợ đi cõng gạo, sợ nước lũ cuốn mất xác cho nên giả ốm. Cho nên Thuý mới phải đi, Thuý mới hy sinh! Ông hiểu rõ chưa?

...- Anh ơi, anh mệt hay sao? - Thanh ghé sát mặt An hỏi. An giật mình, đứng dậy:- Không, tôi khoẻ mà!Bà cụ mẹ Thuý nắm tay An giật giật:- Chú ơi, chú nhớ rồi chứ, em Thuý đã hy sinh anh dũng trong một trận

chiến đấu với bọn biệt kích Mỹ. Em nó được chôn cất tại đây, có đúng không?- Vâng, thưa mẹ, chính đây là em Thuý, người anh hùng mà chúng con vô

cùng khâm phục!An dắt bà cụ lại gần mộ. Thanh hạ ba lô, lấy ra bó hương. Lát sau, mùi

hưong toả ra ngan ngát cả cánh rừng. Mấy làn khói mỏng tang vương vấn luồn qua các tán lá. Về trời!

Giữa năm 2003 - tháng 1 năm 2004

47

Page 48: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

CƠN MƯA RỪNG NĂM ẤY

Vào đúng ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng thì ông Quang báo cho vợ con một cái tin không biết là vui hay buồn: ông có đứa con riêng ở huyện Vĩnh Thạnh tỉnh Bình Định! Vốn nhân hậu, vợ ông cười gượng: “Thế đứa con ấy ra sao?” Anh con trai và cô con gái không cười cũng chẳng nhăn nhó: “Hoá ra chúng con có thêm một người em?”. Còn ông? Ông như trút được một gánh nặng! Cái gánh nặng đã đè trĩu cuộc đời ông suốt hơn chục năm qua. Ông mang theo nó lúc ăn, lúc ngủ, cả lúc làm việc. Và thật là khủng khiếp, cứ mỗi khi trời đổ mưa trong đêm, là ông cảm thấy sắp đổ gục xuống dưới cái gánh nặng vô hình kia... Lúc ấy, dù là mưa khi ông đang yên ấm trong nhà hay đang rong ruổi trên dường, dù là mưa sầm sập hay mưa lâm thâm, ông vẫn như nghe tiếng gió gào thét và tiếng rừng quằn quại cùng tiếng kêu thảng thốt của một người con gái: "Ơ, cán bộ ơi, cán bộ đừng làm thế!..."

... Thời ấy đã trôi qua trên chục năm rồi! Đó là khi cách mạng miền Nam đang trong thời kỳ khó khăn. Quang là cán bộ cách mạng được phân công phụ trách vùng Bắc Vĩnh Thạnh. Cái thời chui rúc trong các lèn đá bám dân, chỉ đạo phong trào mới cơ cực làm sao. Nhưng cứ nghĩ tới ngày chiến thắng, anh lại gồng mình lên vượt qua hết thẩy. Nhiều khi, bụng rỗng tuyếch không hạt cơm, nhưng anh lại nhẩm trong bụng câu hát "Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa... Gió đưa hoa về một miền dân chủ. Cánh hoa muôn mầu, đẹp đời tự do!". Bài thơ về ông Lê Nin, về nước Nga của Tố Hữu thắp mãi trong anh ngọn lửa ấm áp giúp anh vượt qua những cơn lạnh của rừng sâu. Nhiều đêm, rừng rùng mình, run lên cầm cập trong giá rét tháng 10, phả vào lèn đá hơi lạnh thấu xương nhưng anh vẫn ca lên bài ca tháng Mười, mơ về thời thế giới đại đồng. Ngày ở rừng, đêm, anh bám về buôn làng của đồng bào Ba na vận động nhân dân chống địch dồn dân, bắt lính. Có một cô gái Ba na da ngăm mắt sáng tên là Bia Kơ Mưa làm cơ sở cho anh. Cô thường ra mỏm núi Đầu Chồn làm ám hiệu khi không có địch để anh rời nơi ẩn nấp. Rồi cô dẫn anh vượt qua con đường mòn giữa rừng cây lúp xúp, vượt qua một trảng tranh rậm rạp về buôn. Thời kỳ đầu, anh chỉ tiếp xúc với những người trong gia đình cô Bia Kơ Mưa. Dần dần, mối quan hệ được mở rộng ra hầu khắp buôn làng. Dù trong tầm kiểm soát của địch, người dân buôn Bok Rơh đã được nghe đến tên miền Bắc, tên nước Việt Nam, tên Bok Hồ và biết rằng người Ba na cũng như người Kinh, người Hrê... đều là anh em một nhà và Bok Hồ là cha chung của gia đình lớn ấy, Đó là do anh, Lê Quang, cán bộ cách mạng truyền bá cho. Người dân tộc thiểu số vốn hay tin người. Thấy cán bộ Quang bỏ quê hương xứ sở về với đồng bào để dẫn đồng bào tới ngày sung sưóng, đồng bào thương lắm, tin lắm. Và thế là, đồng bào tin

48

Page 49: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

mọi chuyện do Quang nói. Bà con bảo nhau không theo thằng Mỹ đánh giết người Kinh, không nộp lúa gạo cho quân Nguỵ... Từ đốm lửa nhỏ xíu trong nhà Bia Kơ Mưa, ánh sáng cách mạng toả rộng dần ra cả buôn Bok Rơh. Ở khắp nơi trong huyện Vĩnh Thạnh này đều có những cán bộ như Quang, và ánh sáng cách mạng cứ lan toả mãi, lan toả mãi...

Nhưng, cách mạng phát triển thì quân Mỹ - nguỵ cũng tìm mọi cách ngăn chặn. Chúng điều máy bay lên thẳng thả xuống một Trung đội lính Cộng hoà đóng chốt ở ngay đồi Bok Thiên để khống chế đồng bào. Nhiều khi, chúng "chài" xuống buôn suốt mấy ngày. Những khi ấy, mượn cớ đi rẫy, Bia Kơ Mưa đem đồ ăn thức uống cho cán bộ Quang. Cô lên rẫy, tuột xuống một cái dốc, băng ngang một triền đá, vượt qua một con suối lớn rồi ngược lên khu lèn đá mà Quang ở. Những tiếng chim toóc toóc rúc lên, và những tiếng chim bắt cô trói cột đáp lại. Ấy là lúc Quang ra khỏi nơi ẩn nấp gặp Bia Kơ Mưa, dẫn Bia Kơ Mưa vào nơi tạm trú của mình. Trong lèn đá chật hẹp, hai người ngồi sát vào nhau. Nhìn Quang xanh xao, hốc hác, Bia Kơ Mưa đau cái ruột khôn tả. Cô đưa nắm xôi nếp, gói muối xả và hai trái ngô nướng cho Quang: "Cán bộ ăn đi! Rủi quá, không có con thịt nào..." Mặc dù đói ngấu, Quang vẫn chậm rãi ăn, vừa nhai, vừa ngắm nhìn người con gái Ba na mạnh khoẻ và hồn nhiên. Tình cảm đồng bào, đồng chí cuộn trào khiến anh thấy ấm lòng, tăng sức. Khi Quang uống xong hớp nước, Bia Kơ Mưa ân cần:

- Cán bộ có đủ no không?- No lắm rồi Bia Kơ Mưa ạ!Quang trả lời chân thành. Anh nhớ tới người vợ của mình đang ở miền

Bắc. Trong bữa ăn, chị cũng hay hỏi anh ăn đã no chưa, có cần ăn thêm gì không? Thế đấy, dù là người Kinh hay người dân tộc thiểu số, người phụ nữ nào cũng chu đáo và biết lo cho người đàn ông đến từng chi tiết như vậy. Thấm thoắt, anh đã xa gia đình, xa vợ con ba năm rồi! Ba năm chui rúc trong rừng, ẩn mình dưới các lèn đá, luồn lỏi dưới con mắt cú vọ của bọn Mỹ - nguỵ để thắp lửa cách mạng trong vùng đồng bào miền núi. Ba năm sống trong sự đùm bọc của bà con miền Tây Bình Định, anh càng thấm thía nghĩa đồng bào và càng say mê theo đuổi lý tưởng cách mạng. Anh ngắm nhìn Bia Kơ Mưa với ánh mắt thân thiện của người trong gia đình. Cô gái Ba Na này mới chưa tròn 20 tuổi, da ngăm ngăm đen, thân hình đang phổng phao dần trong lứa tuổi dậy thì. Đặc biệt là đôi mắt, đôi mắt to, sáng, với cái nhìn ấm áp. Bia Kơ Mưa chợt hỏi:

- Cán bộ Quang! Đến ngày chiến thắng, mình có được đi học để biết cái chữ như cán bộ không?

- Có chứ, được đi học, học nhiều để còn xây dựng đất nước!Nụ cười rạng rỡ trên môi, Bia Kơ Mưa nhìn ra bầu trời xanh lơ, đôi mắt

xa xăm, hy vong…

49

Page 50: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Hôm ấy, Bia Kơ Mưa đến gặp Quang thì đã xế chiều. Trời chợt nổi giông bão. Mây đen đặc khiến bầu trời tối sầm. Ngồi trong lèn đá, nghe gió quất trên ngọn cây, lồng qua các triền đá vun vút mà rợn mình. Rồi mưa, mưa như trút nước từ trời xuống, ào ào, ào ào. Bia Kơ Mưa vội vã đứng dậy: "Cán bộ ơi, mình về!" Quang lo lắng: "Trời, về sao được. Lúc này nước suối chắc đã dâng cao, về sao được!" Thế là Bia Kơ Mưa đành ở lại. Trời cứ đổ mưa. Lèn đá chật hẹp, ẩm ướt như cũng rung lên sau những tiếng sét đùng đoàng. Quang trải tấm áo mưa vào góc lèn đá cho Bia Kơ Mưa rồi nằm co ở phía ngoài. Nước mưa trút xuống các tảng đá, bắn tung toé, văng cả vào người Quang. Những giọt nước mưa như bàn tay ma lạnh ngắt rờ rẫm từng đường gân, thớ thịt khiến Quang run lẩy bẩy. Anh choài dần khỏi miệng lèn đá, choài dần vào trong mà không biết rằng mình đã nằm sát Bia Kơ Mưa. Anh ngỡ ngàng khi cảm thấy một làn hơi ấm toả từ bên trong sang người anh. Phải mất một lúc định thần, anh mới ý thức được rằng hơi ấm ấy là từ thân thể người con gái đang tuổi dậy thì toả sang anh. Anh chợt thấy ớn lạnh, rồi lại chợt thấy nóng bừng toàn thân. Đã lâu lắm rồi anh mới có cảm giác lạ lùng như thế. Và trong cơn vô thức, anh ôm choàng lấy Bia Kơ Mưa. Mưa vẫn rơi. Gió vẫn gào. Xen trong tiếng gầm rú của thiên nhiên là tiếng kêu thảng thốt của người con gái: "Ơ, cán bộ ơi, cán bộ đừng làm thế..." Không có tiếng đáp lại. Chỉ có mưa. Chỉ có gió. Chỉ có một cơ thể thô ráp quấn quắn, quằn quại trên cơ thể mây mẩy của người con gái mới lớn...

Trăng khuyết, trăng lại tròn. Trăng tròn, trăng lại khuyết. Thiên nhiên xoay vần theo quy luật. Cái bụng của Bia Kơ Mưa cũng xoay vần, không chịu ở yên. Nó cứ lum dần lên. Lum lên mãi, lên mãi. Đến khi cái bụng đã lùm lùm thì thằng đồn trưởng sinh nghi. Nó gọi Bia Kơ Mưa lên tra hỏi: "Mày chửa với đứa nào?" Cô không trả lời. Nó đem Bia Kơ Mưa ra giữa buôn mà đánh đập. Vừa đánh, nó vừa quan sát dân làng. Rồi nó bảo: "Tao biết rồi, mày cho thằng cán bộ cách mạng đổ nước! Vậy thằng cách mạng trốn ở đâu, mày khai ra!" ...

Tin tức từ cơ sở báo ra khiến chi bộ Bắc Vĩnh Thạnh hết sức lo ngại. Ngày ngày, Bia Kơ Mưa vẫn bị lôi ra đánh và bị tra khảo về người đàn ông đã làm cho cô to bụng. Thằng đồn trưởng nhất quyết bảo rằng đó là một cán bộ nằm vùng. Hắn cho quân lục tung các ngôi nhà, kho thóc, bụi bờ hòng tìm ra nơi ẩn nấp của cán bộ cách mạng. Nghe đâu, nó còn báo cáo với cấp trên xin tổ chức càn quét lớn cả vùng này. Chi bộ họp, nhận định: ''Cứ để như thế này, bị đánh đau quá, Bia Kơ Mưa có thể sẽ khai ra nơi ẩn nấp của cán bộ cách mạng. Mà nếu cô không khai, có thể bọn địch sẽ giết cô!" Có một giải pháp mà mọi ngưòi đều tán thành là động viên một cơ sở cách mạng người Ba na đứng ra nhận đã yêu thương Bia Kơ Mưa để giải toả tình huống khó khăn này! Nhưng cơ sở ấy là ai? Bí quá, bởi vì chỉ có 3 cơ sở tin cậy nhất, thì một là Bia Kơ Mưa, còn lại một đã có vợ, một đang ở tuổi thiếu niên! Còn nếu cứ vận động quần chúng không

50

Page 51: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

chọn lọc, biết đâu sẽ bị lộ kế hoạch? Vả lại, bà con nơi đây tôn trọng luật tục của cha ông, không mấy ai làm bậy, có thấy ai chửa hoang bao giờ đâu! Giải pháp chưa tìm ra, chi bộ tạm ngưng họp sau khi đã ra Nghị quyết kỷ luật khai trừ lưu đảng Quang! Cuộc họp chi bộ chưa kịp giải tán thì một quả pháo từ biển dội đến vu vơ. Một quầng lửa bùng lên kèm theo một tiếng nổ dữ dội. Ngồi ở trong cùng, khuất sau một tảng đá, khi định thần lại thì Quang nhận ra rằng chỉ còn có mình anh sống sót...

Bọn địch không buông tha Bia Kơ Mưa. Hình như chúng bắt đầu tìm ra được đầu mối về hoạt động cách mạng ở vùng này, hoạt động đã khiến chúng mất dần thế kìm kẹp dân. Chúng quyết bám theo đầu mối này để tìm ra sự thật. Sáng hôm ấy, chúng bắt trói Bia Kơ Mưa ở chiếc cột giữa buôn và tập hợp bà con lại. Chúng tuyên bố: "Hôm nay là ngày cuối cùng, nếu không khai ra cán bộ cách mạng, sẽ giết chết!"

Cả buôn lặng đi trong nỗi xót thương Bia Kơ Mưa và căm giận lũ giặc. Nhưng cũng không ai có thể giải đáp được câu hỏi của tên đồn trưởng. Không khí căng lên như mặt trống. Bỗng nhiên, từ góc sân, một thanh niên cường tráng, da nâu bóng, tóc đen xoăn tít, mắt rực sáng bước về phía trước và nói rành rẽ: "Tôi là cha đứa bé trong cái bụng kia!" Cả buôn sững sờ. Tên đồn trưởng cũng sững sờ... Đó là Yang Yol, một trai buôn chăm chỉ và hiền lành. Thằng đồn trưởng gầm lên:

- Có thực không? Tại sao bây giờ mày mới nhận?- Vì sợ làng phạt vạ!Yang Yol trả lời gọn lỏn. Tên đồn trưởng cười gằn:- Thực hả?- Thực!- Tao không tin. Nếu đúng là mày đã đổ nước cho nó, bây giờ mày hãy đổ

nước lần nữa coi!Đồng bào ồ lên phản đối. Tên đồn trường càng tức giận:- Mày đã làm một lần thì mày phải làm nhiều lần. Lại đây, làm thử tao

coi!Hắn lệnh cho bọn lính kéo Yong Yol lại gần và cởi trói cho Bia Kơ Mưa.

Bọn lính bắt đầu lột áo Bia Kơ Mưa. Tóc tai cô rũ rượi. Khuôn ngực trần nhô cao, phập phồng. Tên đồn trưởng gầm lên:

- Lột hết khố, váy của hai đứa ra! Nào, diễn lại trò đổ nước cho tao xem!Ở giữa nhóm phụ nữ, một cô gái bỗng ngã xuống, ngất xỉu. Như nước vỡ

bờ, đồng bào ào đến xô đẩy bọn lính. Chừng như thấy tình thế đã trở nên quá căng thẳng, tên đồn trưởng hạ giọng:

- Thôi, dừng tay!Khi đám đông đã tạm yên, tên đồn trưởng nói gằn từng tiếng:

51

Page 52: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

- Nghe đây Bia Kơ Mưa, Yang Yol! Từ bây giờ chúng mày là vợ chồng, phải chung sống với nhau và không được ra khỏi buôn!

Đồng bào xoay qua cứu chữa cho cô gái bị ngất lúc nãy. Yang Yol và Bia Kơ Mưa bị bọn lính xô về phía nhà Yang Yol. Anh thẫn thờ ngoái lại, đôi mắt sáng nhưng u uẩn nhìn mãi về phía cô gái kia…

Tình hình tạm lắng dịu. Quang được điều về huyện, rồi về tỉnh công tác, sau đó được điều ra miền Bắc. Bí mật của anh chìm sâu vào quá khứ... Chỉ có anh và Bia Kơ Mưa mới biết rằng họ đã có với nhau một đứa con. Lại chỉ có Quang mới biết rằng mình có một án kỷ luật khai trừ lưu đảng không bao giờ được thi hành, bởi những đồng chí trong chi bộ của anh đã hy sinh hết.

Nay đã là cán bộ cao cấp, Quang bỗng xót xa nhớ về quá khứ. Nhờ nhiều nguồn tin, ông biết chắc vợ chồng Bia Kơ Mưa vẫn sống, có với nhau 3 con. Còn đứa con của ông là một cậu trai khôi ngô. Khi ông đi chiếc xe cơ quan về huyện, mọi người liền chỉ cho ông về buôn Bok Rơh, nay đã dời về gần huyện lỵ. Ông bước lên cầu thang ngôi nhà sàn nhỏ đầu buôn thì gặp một người đàn ông da nâu, mắt sáng, tóc quăn đã điểm bạc. Không cần nghe Quang giới thiệu, người đàn ông đã nói oang oang: "Cán bộ Quang đó sao?! Cán bộ vô nhà chơi!" Thấy Quang ngơ ngác ngó quanh, người đàn ông nói tiếp: “Con của cán bộ lớn rồi, khoẻ lắm, về trường của tỉnh học rồi! Má nó cùng đi, mai mới về!”

Đêm ấy, trong ánh lửa bập bùng, Yang Yol cùng Quang tâm sự dài dài. Quang nhớ, hồi cách mạng còn khó khăn, Yang Yol không theo giặc, nhưng cũng không thuộc diện cơ sở của cách mạng. Anh chỉ ngày ngày chăm lo làm rẫy, săn bắt thú. Quang hỏi:

- Hồi đó, anh có biết tôi không?Yang Yol hồn hậu trả lời:- Biết chứ! Biết cả cán bộ Quang, biết cả Bia Kơ Mưa làm việc với cán bộ

Quang nữa. Ngày ấy, có lần đi săn, mình đã thấy Bia Kơ Mưa đem cơm cho cán bộ Quang mà!

- Tại sao Yang Yol không báo tin ấy cho thằng đồn trưởng mà lĩnh thưởng?

- Chà, bậy nào. Cán bộ đến bầy cho dân mình làm cách mạng, làm điều tốt, mình phải biết thương chớ!

- Thế tại sao Yang Yol không làm cơ sở cho cách mạng?- Mình cũng muốn làm chứ, nhưng cán bộ có bảo mình làm đâu!Quang giật mình nhớ lại rằng hồi đó, anh có để ý đến Yang Yol, nhưng

thấy anh ta ít nói, chỉ cần cù làm ăn, ông cho rằng anh ta là kẻ an phận, không thể đảm nhận công việc cách mạng được.

- Thế tại sao Yang Yol lại nhận con của Bia Kơ Mưa là con của mình?

52

Page 53: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

- Không biết vì sao đâu! Mình chỉ nghĩ nếu không có người nhận thì Bia Kơ Mưa phải chết và cán bộ Quang cũng khó sống! Mà cán bộ Quang thì không thể tới mà nhận con được!

Lại một lần nữa Quang giật mình. Hoá ra người đàn ông Ba na này biết chắc rằng đứa con trong bụng Bia Kơ Mưa chính là con của cán bộ Quang. Làm sao mà anh ấy biết được nhỉ? Trời, hoá ra chẳng có gì có thể che mắt người dân được!

Quang hỏi Yang Yol: - Hồi đó có một cô gái trong buôn ngã xuống bất tỉnh khi nghe Yang Yol

nhận là cha đứa bé trong bụng Y Kơ Mưa. Đó là ai?Vẫn cái giọng vô tư và hồn hậu, Yong Yol trả lời:- Là Bia Rak, người thương của mình đó!- Người thương của anh ư?- Chớ sao! Lũ mình thương nhau qua hai mùa rẫy rồi!- Lúc ấy, anh không nghĩ tới Bia Rak à?- Có nghĩ tới chứ, nhưng mình tin rằng Bia Rak cũng muốn cứu cách

mạng!- Thế bây giờ cô ấy đâu?- Đang làm việc ở Hội Phụ nữ tỉnh.Quá khứ như còn in đậm trong đôi mắt sáng nhưng sâu thăm thẳm của

người đàn ông Ba na. Đôi mắt ấy như có một ánh lửa bập bùng, ấm nhưng buồn. Yang Yol chậm rãi nói tiếp:

- Sau hôm đó, Bia Rak trốn khỏi buôn, thoát ly làm cách mạng. - Bây giờ, cô ấy sống ra sao?- Từ hồi đó, cô ấy sống một mình. Bây giờ cũng chỉ sống một mình!- Trời!Quang kêu to lên một tiếng rồi rũ người xuống. Từ trong trái tim ông dội

lên một cơn đau thắt. Ông nhủ thầm: "Cha mẹ ơi, chỉ một lúc con để cho bản năng chế ngự mà làm hỏng cuộc đời của mấy con người!".

Trời nổi gió nhè nhẹ, khiến ống lô ô đầu hồi nhà khẽ hú lên tiếng hú âm u. Mặc dù ngọn lửa vẫn bập bùng sưởi ấm cả căn nhà, nhưng Lê Quang cảm thấy giá lạnh vô cùng. Ông như đang ngập chìm trong cơn mưa rừng năm ấy…

21 tháng 7 năm 2005

53

Page 54: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

HỒN TƯỜNG

Chuyện mới xảy ra không lâu nhưng nghe như đã trải qua cà nghìn năm bởi mầu sắc rêu phong của nó. Chuyện về một bức tường. Một bức tường có hồn!

Chuyện kể rằng: Nhà họ Hoàng ở một vùng trung du sống quây quần trên một quả đồi. Chính giữa quả đồi có một ngôi nhà nhỏ mà theo truyền thống, là ngôi nhà chung của cả họ, dùng làm nơi hương hoả gia tiên. Lạ một điều, nhà thì nhỏ, mà có một tủ thờ cực lớn. Chiếc tủ thờ này được làm cách đây mấy đời người, bằng thứ gỗ quý chắc nịch, nhuốm mầu thời gian, trở nên đen bóng. Có lẽ từ khi được đóng và kê ở đây đến nay, chiếc tủ thờ không hề nhúc nhích. Người ta đồn rằng vào những đêm trăng lu, tổ tiên của giòng họ Hoàng thường về tụ tập nơi tủ thờ. Khi mà những đám mây trôi bảng lảng trên bầu trời làm cho ánh trăng khi mờ khi tỏ, cũng là lúc các hồn thiêng ngự lên mặt tủ để xem xét công lao cũng như tội lỗi của con cháu. Nếu như người nào được tổ tiên khen ngợi, thì ăn nên làm ra. Ngược lại, nếu bị quở trách, sẽ ốm đau rên siết. Ấy là người ta đồn vậy, chứ thực hư ra sao, chẳng ai kiểm chứng đựơc. Chỉ có chiếc tủ thờ là hiện hữu với dáng vẻ uy nghi và độ lớn quá cỡ, khiến người ta vì nể. Còn một điều lạ nữa là bức tường mặt trước ngôi nhà được xây cực kỳ kiên cố. Nó dầy gấp ba lần các bức tường khác. Tường dầy, nhưng cửa ra vào lại nhỏ. Người ta đồn rằng, chủ nhân đầu tiên của ngôi nhà này là một người kỳ lạ. Ngài cho dựng nhà chỉ có ba bức tường. Rồi cho đóng một tủ thờ lớn như ta đã thấy, kê vào chỗ mà hiện nay nó vẫn ngự trị. Ngài giải tán hội thợ xây, sau khi đã thuê họ chuyển đến nào gạch, nào vôi, cát, mật… đẩy cả sân. Rồi Ngài tự xây bức tường ấy. Chỉ rất ít người thân thích trong nhà được Ngài cho phụ việc. Sau khi xây tường, Ngài tổ chức cúng lễ suốt 3 ngày đêm. Riêng bức tường, Ngài hun bằng cả chục đỉnh trầm lớn, khói nghi ngút, thơm nồng khiến người ta say say mê mê như lạc vào cõi u linh... Bản thân ngài cũng ngồi hầu dưới chân bức tường suót ba đêm. Không hiểu Ngài lầm rầm khấn vái những gì, nhưng người ta tin rằng ngài đang truyền hồn của cả giòng họ vào bức tường ấy... Qua thời gian, thứ hồ kết dính các lớp gạch trở nên cứng đanh, làm cho bức tường vững chắc tựa một vách đá. Lời truyền từ đời này qua đời khác của chủ nhân ngôi nhà này là phải gìn giữ chiếc tủ thờ và bức tường: Không được đế vấy thứ gì uế tạp. Phải lau chùi sạch bụi bậm. Phải luôn luôn hương khói…

Thế gian vật đổi sao dời. Những người trong giòng họ Hoàng lần lượt ra tỉnh làm ăn. Họ bán đi từng khoảnh đất để cuối cùng chỉ còn lại chỏm đồi với ngôi nhà cùng chiếc tủ thờ vĩ đại và bức tường kiên cố kia. Gia đình lúc này chỉ

54

Page 55: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

còn ba người con trai chung sống trong ngôi nhà ấy. Người anh cả đã có vợ. Người anh thứ hai chuẩn bị làm đám cưới. Chỉ có chú Út là còn son trẻ. Bỗng một hôm có một một ông khách đến hỏi mua ngôi nhà. Ông là một quan chức giàu có của Chính phủ. Ông ta trả giá rất hời. Đặc biệt, ông rất thích chiếc tủ thờ, cho nên yêu cầu mua luôn. Ba anh em chụm lại bàn bạc. Người anh cả nhất quyết bán toàn bộ ngôi nhà, kể cả chiếc tủ thờ. Người anh hai thấy vấn vương chiếc tủ, muốn chuyển đi. Nhưng khi tính đến chuyện di chuyển chiếc tủ thì anh hai ngãng ra. Quá phiền toái! Còn chú Út? Chú khăng khăng giữ chiếc tủ. Chú bảo, đó là nơi trú ngụ của hương hồn bao đời tổ tiên, đi đâu hãy đem theo đó, không thể giao phó cho người khác được. Chuyện bán nhà cứ dềnh dang mãi vì lẽ đó.

Hôm ấy, ngưòi mua nhà yêu cầu chủ nhà giải quyết dứt điểm. Nếu thoả thuận được, ông ta sẽ đưa trước hai phần ba số tiền, nửa năm sau mới đến nhận nhà, giao nốt tiền. Nhìn cặp tiền ông ta đem theo, ba anh em không khỏi băn khoăn. Nếu bán ngôi nhà cùng chiếc tủ thờ đi, chia ra thì mỗi người có hẳn một gia tài lớn, đủ mua đất, xây nhà ở. Nếu không bán chiếc tủ, thì số tiền vẫn lớn lắm, có mơ cũng khó thấy. Bàn bạc mãi, người em đi đến quyết định: Không bán tủ thờ, người em sẽ hưởng chiếc tủ ấy cộng với một chút tiền đủ mua một mảnh đất nhỏ, dựng một túp lều tranh! Bàn đi bàn lại cũng đến hồi kết. Ông khách đồng ý mua nhà và không lấy tủ, với điều kiện gia đình phải giữ nguyên trạng ngôi nhà. Hai người anh sẽ nhận tiền trước để đi mua đất ở nơi khác. Chú em út ở lại trông nhà rồi nhận tiền và chuyển đi sau.

Thời gian thấm thoắt trôi. Đã gần đến ngày bàn giao nhà. Đúng lúc ấy thì trời xui đất khiến thế nào, một gia đình cùng làng gọi chú Út để nhượng lại một khoảnh đất nhỏ. Họ còn thể hiện lòng tốt bằng cách cho chú dọn đến trước, trả tiền sau! Không những vậy, cả nhà họ còn tình nguyện đến giúp chú chuyển nhà. Của nả có gì đâu – toòng teeng hai quẩy là hết. Duy chỉ có chiếc tủ thờ là quá lớn. Làm sao để chuyển đi đây? Có người bảo nên tháo rời ra rồi ghép lại sau. Chú Út nhất quyết không chịu. Vì chú bảo rằng ấy là nơi hồn tổ tiên thường tụ hợp, không thể động vào. Nhưng không tháo rời thì chả làm cách nào đưa tủ ra khỏi nhà. Nó quá lớn mà cửa nhà thì quá hẹp. Chẳng cần suy tính, chú Út đề nghị phương án phá tường rồi xây lại. Nếu thế, lại thêm tốn kém. Nhưng chú bảo dù tốn kém mà làm hài lòng tổ tiên, chú không nề.

Chọn ngày lành tháng tốt, chú Út biện mâm cỗ thanh đạm thắp hương tổ tiên, xin dỡ bức tường và di dời chiếc tủ thờ. Sau khi cúng bái chu đáo và hạ cỗ, chú dùng vải điều phủ kín chiếc tủ rồi bắt đầu phá tường. Khi ấy, vào sáng mùa đông mà lạ thay, trời rực nắng, trong veo. Lạ hơn nữa, khi chú vừa đập nhát búa đầu tiên vào lưng bức tường thì một tiếng nổ “bụp” phát ra, cả bức tường kiên cố là thế bỗng sụm đổ xuống. Khi bụi vừa tan, một vừng hào quang toả lan làm

55

Page 56: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

sáng hẳn ngôi nhà. Chú Út ngạc nhiên thấy giữa đống đổ nát có một chiếc hòm gỗ sơn son thếp vàng trông như mới. Lại gần, chú thấy trên mặt chiếc hòm nổi lên hai chữ Nho cỡ lớn: "Phúc Đức" được dát vàng, ánh lên rực rõ. Phía mép tủ còn có một hàng chữ Nôm vàng chói: "Tổ tiên trao cho con! Chỉ mình con được hưởng gia tài này" Sở dĩ chú đọc được những hàng chữ này là vì khi học phổ thông, chú vẫn học thêm chữ Hán - Nôm. Chú Út vừa động tay vào chiếc hòm thì nắp hòm tự bật lên, làm lộ ra những thỏi vàng xếp vuông vắn bên trong. Cả ngôi nhà sáng bừng lên trong ánh hào quang rực rỡ...

Lại nói về người mua nhà. Khi ông này quay lại trả nốt tiền thì thấy mọi sự đã đổi thay. Bức tường kiên cố không còn nữa - người ta đang xây lại nó! Ông khách sa sầm nét mặt, gằn giọng: "Anh đã làm sai lời cam kết!" Chú Út hồn nhiên trả lời: "Chúng cháu đang xây lại bức tường đúng như ngày xưa, bác đừng vội trách chúng cháu!" Ông khách vẫn không dịu giọng: "Xây lại thì nói làm gì, tôi yêu cầu để nguyên dạng ngôi nhà cơ mà!" Sau đó, ông khách đòi lại tiền, không mua nhà nữa. Chú Út vui vẻ trả ông đủ số tiền mà hai người anh đã nhận và chia nhau, không quên trả lãi. Ông khách nhận tiền và nhanh chóng rời ngôi nhà. Có ai biết đâu, ông là hậu duệ một thầy Địa lý giỏi có tiếng. Lời truyền qua các thế hệ của gia đình ông có dặn rõ rằng đến đời ông thì lên vùng này mua căn nhà có chiếc tủ thờ to lớn nhất vùng rồi phá bức tường mà chuyển tủ ra. Hoá ra tổ tiên ông đã biết bí mật của chiếc tủ thờ cùng bức tường, nên đã dặn cháu chắt biết để chờ thời mà chiếm đoạt. Hay đâu rằng, nhờ hiếu thảo, tôn kính tổ tiên, chú Út đã giữ được toàn vẹn những gì qúy giá mà tổ tiên truyền lại... Từ câu chiuyện kỳ lạ này, mấy ông già trong vùng vốn hay chữ Nho truyền nhau một câu triết lý rằng PHÚC ĐỨC sinh TÀI LỘC..

Hà Nội, cuối tháng 11 năm 2005

56

Page 57: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Bà Cục trưởng thích nhận thư

Bà sinh ra ở một vùng đất trung du "chó ăn đá gà ăn sỏi". Thủa hàn vi, bà gầy tong teo, quần ống thấp ống cao, áo xẻ tà xộc xệch. Vì thế, tuy bà tên là Huyền Mai, nhưng anh em cơ quan gọi đùa là mẹ mướp. Thực ra, tên gốc của bà là Trần Thị Quynh, nhưng ra thành phố, để "giã từ chất quê" như bà nói, bà đổi tên thành Huyền Mai.

Bây giờ, đã là Cục trưởng một Cục lớn thuộc một Bộ quan trọng nắm cơm áo gạo tiền của cả nước, Huyền Mai béo ị ra. Cái mông lúc nào cũng nhô cao, ưỡn về phía sau - người ta nói đùa rằng khi Huyền Mai vào nhà 5 phút rồi mông mới vào đến cửa.

Huyền Mai có biệt tài về tiếu lâm, thứ tiếu lâm thô tục mà một người đàn ông bình thường không bao giờ dám mở miệng mà kể. Nhưng Huyền Mai chẳng ngại gì cả. Có lẽ, vì bà nghĩ rằng với một phụ nữ chức quyền oai vệ như bà, thì tiếu lâm là thứ trang sức tạo nên vẻ đẹp duyên dáng, chẳng có gì mà ngại! Với cái miệng khá rộng, môi dày cộp hơi loe ra, Huyền Mai kể tiếu lâm phăm phăm như người lao xuống dốc. Đại khái những chuyện Huyền Mai kể như sau:

- Bưu điện có sáng kiến dùng người thật để làm người mẫu trong việc bán tem. Đó là một thanh niên cường tráng. Anh ta được đặt đứng ngay bên quầy bán tem, thay vào quần áo là các bộ tem dán khắp người. Không ngờ, sáng kiến này lại có hiệu quả quá cao. Các cô gái xúm đến lột tem và trả tiền nhanh đến mức không kịp dán tem vào chỗ bị bóc, thành thử thân thể anh ta lõa lồ, phơi cả "của quý" ra. Một cô gái chen mãi mới vào tới nơi, nhưng không còn một con tem nào. Cô ta nói với mọi người: "Tôi mua hồ rồi mua tem sau cũng được" và đưa tay bóp vào "của quý" của người mẫu, lập tức "hồ" phụt ra đầy tay!

Chuyện "thanh" nhất mà Huyền Mai kể cũng đại loại như sau:- Trên chuyến tàu xuyên Việt, trong toa nằm, có mỗi hai hành khách, một

nam, một nữ, đều ở lứa tuổi sồn sồn. Tầu chạy suốt ngày, hai người vẫn chưa bắt chuyện với nhau, mà người nào cũng đăm chiêu buồn thảm. Đêm, hai người chẳng ai ngủ được, trăn trở, thở dài mãi. Rồi người đàn ông lên tiếng trước: "Chị có việc buồn phải không?" Chị phụ nữ trả lời: "Phải, buồn và bực nữa!" Thế là hai người ngồi dậy nói chuyện với nhau. Hóa ra họ cùng cảnh ngộ - đều bị phản bội. Anh có vợ ngoại tình với một tay buôn. Chị có chồng cặp bồ với một ả cave. Câu chuyện giữa hai người tạo ra sự thông cảm sâu sắc. Họ bàn nhau phải trả thù. Cách trả thù tốt nhất là làm đúng như kẻ phản bội đã làm. Thế là họ cùng nhau... Sau khi trả thù tới nơi tới chốn, mỗi người lại về giường của mình.

57

Page 58: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Người đàn ông ngủ li bì. Gần sáng, chị phụ nữ leo sang, lay anh dậy:"Gần đến nơi rồi, ta trả thù lần nữa đi!". Người đàn ông đã mệt nhoài, ngáp ngắn ngáp dài rồi trả lời: "Tôi trả thù thế là hả lắm rồi. Khiếp, phụ nữ các bà thù dai thật!"

Bà kể tiếu lâm hồn nhiên như vậy, mọi người cười ha hả, bà cũng cười loe xoe. Nhưng có người tinh ý lại thấy phía sau giọng cười ấy là ẩn ức sinh lý. Người ta đồn rằng do bà mải mê công cán quá, ông chồng lại cù lần, cho nên hai ông bà li thân tại gia nhiều năm rồi. Mà bà thì oai quyền quá, cao sang quá, cho nên không người đàn ông nào dám mon men tán tỉnh. Nhưng cái cơ thể tràn đầy sinh lực của bà lại vẫn đòi hỏi được tưới tắm thêm nhựa sống. Cho nên, mọi năng lượng dư thừa của bà được thăng hoa thành những câu chuyện tiếu lâm tập trung vào chủ đề gối chăn.

Tuy oai quyền như vậy, nhưng có những trường hợp, Huyền Mai lại nhát như cáy. Có một lần, Bộ tổ chức đấu thầu xây dựng mạng máy vi tính với số tiền trên trăm tỷ đồng, Huyền Mai làm chủ tịch Hội đồng đấu thầu. Mọi việc diễn ra đúng nguyên tắc, nhưng cái trò đấu thầu có ai chịu ai bao giờ đâu. Bởi vì hàng chục kẻ lao vào thì chỉ một kẻ giành được hợp đồng, làm sao mà đoàn kết được. Do đó, một số vị chủ công ty cay cú nói lung tung, đến cả tai nhà báo. Chuyện phóng đại tới mức nói rằng Huyền Mai ăn cánh từ trước với công ty DECO, báo trước giá chuẩn nên công ty này mới có gói thầu phù hợp nhất. Đổi lại, Huyền Mai được hưởng 20% doanh số. Biết được chuyện này, Chủ nhiệm tuyên truyền đến báo với Huyền Mai. Huyền Mai giật nẩy mình, nhăn nhúm cả mặt lại, vật nài: "Này, em đi lo cho chị việc bịt mồm báo chí với. Rách việc quá!" Rồi Huyền Mai mở tủ quẳng ra một cọc tiền loại 500.000 đồng: "Đấy, mời họ đi ưống bia cho trôi hết cái thứ tin vịt ấy đi!" Chủ nhiệm trả lại gói tiền, Huyền Mai trừng mắt quát: "Chị em thân quen từ lâu, nay có một việc mà nhờ không được à?"

Tuy xuất thân từ xứ sỏi đá khô cằn, con người quen tằn tiện, nhưng Huyền Mai rất rộng rãi. Vào dịp tết nhất, Huyền Mai thường cho tiền khắp các cán bộ trong cơ quan. Đặc biệt, với những anh hay ngồi lê đôi mách ở đội xe, Huyền Mai thường ưu ái hơn. Huyền Mai nói rằng Huyền Mai có một ông chú ở nước ngoài rất giầu, thường xuyên tài trợ cho, mà lộc thì bất khả tận hưởng, chia sẻ cho mọi người mới hợp đạo lý. Tình thương yêu của Huyền Mai với mọi người được tiếp nhận sâu sắc. Nhiều anh lắm mồm, thường hay rỗi hơi xăm xỉa vào việc của người khác, lại trở thành cái loa tuyên truyền cho tấm lòng thơm thảo của người nữ cán bộ lãnh đạo nhân đức. Rất dễ dàng, Huyền Mai bố trí được hơn tiểu đội cháu gọi bằng cô bằng gì bằng bác vào làm kế toán ở các công ty, đơn vị thuộc Bộ này Bộ khác. Lòng thương yêu mênh mông của Huyền Mai với gia đình và đồng sự thế là tuyệt vời. Giá như không có chuyện con chó tặng Sếp lớn thì còn trên cả tuyệt vời. Đó là vào dịp Sếp lớn khánh thành nhà. Huyền

58

Page 59: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Mai suy nghĩ lung lắm: mừng nhà mới của Sếp bằng quà gì đây? Bây giờ người ta hay chưng cây cảnh, hay là ta tặng một cây thật giá trị? Không được, cây với cối cồng kềnh lắm, chở đến phơi mặt ra có mà lộ hết. Hay là tặng phong bì? Cũng không được, Sếp nghiêm lắm, đưa vật chất ra có khi lại hại vào thân! Đúng rồi, chó, chó là hay nhất! Ngày nay, người ta tặng nhau chó là thường, chứ không mang ý nghĩa kinh tế như mươi năm trước đây, chó Nhật là thương phẩm, có con trị giá vài cây vàng. Huyền Mai nghĩ rằng chó là thứ quấn quýt chủ, chủ chăm chó sẽ luôn nhớ đến người tặng chó. Vậy nên Huyền Mai là người đầu tiên đến mừng Sếp, quà tặng là một con chó Phốc thuần chủng, nhỏ bé nhưng săn chắc và nhanh nhẹn. Không may, con chó này trái tính thế nào, toàn cắn người tâm phúc của Sếp lớn. Hôm đầu, Sếp trưởng Tổ chức vừa bước vào sân, thì "phốc" một cái, chú chó lao từ thềm ra đợp vào cẳng chân Sếp trưởng, làm anh hoảng hồn. Cũng may, do tính cẩn trọng, Sếp trưởng Tổ chức thường xuyên mặc tới hai quần dài, nên không bị xây xát da thịt. Sau đó ít ngày, Sếp trưởng Đối ngoại vừa bước lên thềm, thì lại "phốc" một cái, chú Phốc tợp rách mất vạt áo bành tô mà anh này thường mặc. Xếp lớn thấy rầy rà quá, bèn bảo người nhà lẳng lặng đem thả chó ở một nơi thật xa... Chuyện kín tưởng sẽ lặng lẽ trôi qua. Cho tới một hôm, vừa đi làm về thì Huyền Mai thấy một con chó nhỏ lao đến. Hốt hoảng, tưởng nó cắn mình, Huyền Mai đá cho nó một cú bằng chiếc giầy da ngoại mõm nhọn hoắt, khiến con chó đập đầu vào tường, lăn quay ra. Lại gần, Huyền Mai giật mình nhận ra đó chính là con Phốc mà mình đã tặng Sếp lớn. Con chó đang ngắc ngoải, khoé miệng ri rỉ một dòng máu đỏ, đôi mắt ứa hai hàng lệ, nhưng vẫn cố ngóc cổ dậy, vẫy vẫy đuôi mừng chủ cũ!

Đã sắp đến tuổi về hưu, không hiểu thế nào, mà Huyền Mai cứ "đứng tuổi" suốt. Năm này 48 thì 3 - 4 năm sau vẫn 48! Hóa ra Huyền Mai đã xin điều chỉnh tuổi vì trước đây khai tăng để đi học (ấy là theo lời Huyền Mai). Thế là năm sinh của Huyền Mai "nhảy số", từ 1943 thành 1947. Dư luận rộ lên một hồi về việc Huyền Mai khai man tuổi, nhưng rồi mọi việc lại trôi qua bởi vì Huyền Mai có giấy xác nhận của Sở Tư pháp hẳn hoi (lúc nào cùng đem theo bên mình bản sao, khi cần là đưa ra khoe). Mái tóc điểm bạc được nhuộm bằng thứ thuốc siêu nhất của Nhật Bản, có mầu đen ngả nâu tự nhiên chứ không đen xì như thứ thuốc nhuộm tóc Thái lan mà mọi người hay dùng. Nhưng khốn thay, cái tuổi thật nó cứ đòi thể hiện. Huyền Mai thường khoe rằng mình đã "sạch sẽ" từ lâu, đã "nghỉ hưu bộ phận" từ mấy năm qua rồi. Má Huyền Mai chảy xệ, nhăn nhúm, dù đã được trát lên mấy lớp phấn. Nhưng trớ trêu nhất là Huyền Mai luôn quen mồm gọi những người sinh từ năm 1944 trở đi bằng em, mà lẽ ra, Huyền Mai phải gọi bằng anh, chị mới phù hợp với cái tuổi Huyền Mai đang nhận. Hôm gặp mặt mấy bác đã nghỉ hưu nhân chuẩn bị đón thiên niên kỷ mới, Huyền Mai tâm sự rằng có người xấu bụng vu cho Huyền Mai khai man tuổi, thì một bác

59

Page 60: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

nguyên là nhân viên tổ chức thật thà: "Tôi nhớ là trước đây cô hay nói với chúng tôi rằng cô tuổi Thân nên vất vả lắm!". Huyền Mai giật thót mình, nói vội: "Ô ô, chị nhớ nhầm rồi! Em tuổi Hợi cơ mà!". Bác về hưu cười: "Thế à, xin lỗi cô nhé. Hóa ra cô là con lợn chứ không phải con khỉ, thảo nào cô béo thế!"

Huyền Mai rất thương địa phương, nên những ai chịu đến tâm sự để Huyền Mai hiểu hoàn cảnh khó khăn của đơn vị mình, đều được Huyền Mai ưu tiên trợ cấp. Trung tâm Đồng Tiến ở Đồng Nai được 49 triệu đồng. Trung tâm Thành Công ở Minh Hải được 38 triệu đồng... Nhiều tỉnh thì thụt lên xin máy phô tô cop py. Huyền Mai cấp cho liền. Văn phòng liền trình với Bộ: các Tỉnh đều cần máy phô tô cop py, nếu Bộ đã cấp, thì cấp đồng loạt. Bộ đồng ý. Văn phòng thông báo công khai bằng văn bản tới tất cả các địa phương. Rồi Cục Tài thảo quyết định cho Bộ ký cấp máy cho từng tỉnh. Lâu lâu sau, có dịp về Hà Thành, Chánh Văn phòng hỏi đã lĩnh máy chưa, Chánh Văn phòng Uỷ ban Tỉnh ngơ ngác: "Máy gì?" Sau này mới biết, vì hết sức chu đáo với địa phương, Huyền Mai không cho gửi quyết định của Bộ theo đường công văn, mà mời lần lượt từng tỉnh lên nhận trực tiếp ở Cục cho bảo đảm. Có lẽ tỉnh Hà Thành chưa đến lượt triệu tập chăng?

Huyền Mai rất liêm khiết, không nhận quà bao giờ. Có Tỉnh vùng biển ra đem biếu Huyền Mai mực khô, Huyền Mai bảo: "Răng tôi yếu lắm, không nhá được, đem về đi!" Có Tỉnh xách can nước mắm đặc sản từ đảo xa đến, Huyền Mai xua tay: "Tôi đã chết nhạt đâu mà phải mang mắm đến ướp!" Có Tỉnh vùng núi, cầu kỳ đem một túi hạt óc chó kiếm tận rừng sâu về làm quà, Huyền Mai chỉ vào đầu và nói: "Trong này đầy óc rồi, cho thêm óc chó vào chỗ chó nào được? Thôi, đem về đi!".

Vì liêm khiết, nên Huyền Mai rất giầu tình cảm. Huyền Mai rất thích nhận thư, thư của người nhà đã đành, nhưng chủ yếu là thư của người dưng. Hầu hết là thư đưa trực tiếp (nhất là đối với những đơn vị được triệu tập trực tiếp lên Cục nhận thông báo về ngân sách). Có lẽ Huyền Mai bận quá, ít thời gian tâm sự, mà người đến lại quá đông, nên dù có gặp, cũng cần có thư bổ sung thêm tình cảm. Vào dịp lễ tết, và nhất là vào dịp chuẩn bị phân bổ kinh phí, thư đến với Huyền Mai nhiều như bươm bướm rừng Cúc Phương. Cũng cần nói thêm rằng, vào dịp phân bổ kinh phí cho các Bộ, ngành, các địa phương, Huyền Mai vất vả vô cùng. Một lúc mà phải chia hàng nghìn tỷ bạc ra khắp nước, mất biết bao là trí tuệ. Được cái, Bộ rất tin Huyền Mai, cho nên chỉ bố trí có mỗi một buổi để duyệt phân bổ ngân sách, chứ không cần nghiên cứu, săm soi trước, cho nên trách nhiệm của Huyền Mai càng nặng nề... Cũng vì thế, mà Huyền Mai cần có nhiều thư động viên. Có hôm, cô nhân viên tạp vụ phải đổ đi một sọt đầy những phong bì đã bóc. Trong thời buổi thông tin hiện đại này, nhấc máy bấm số là dù cách xa nhau vạn dặm, người ta vẫn có thể giao tiếp được với nhau, mấy ai còn

60

Page 61: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

dùng thư từ cho cách rách. Phải là tình cảm lắm mới dùng phương pháp cổ lỗ ấy. Huyền Mai cười hể hả: "Mình sống có tình nên anh em họ quý mình, tình cảm sâu nặng biết bao!"

Một hôm vào dịp cuối năm, thư nhiều quá, Huyền Mai đánh rơi ra cả hành lang. Chẳng may hôm đó trời nổi giông tố, mưa xối xả tạt ướt sũng hành lang. Cô nhân viên tạp vụ thấy thư đề tên Huyền Mai còn dán kín, không dám mở ra. Nhưng khổ một nỗi nước đã làm cho phong bì mủn ra, dù cô cầm lên nhẹ nhàng, nó vẫn cứ rã rời, để lộ phía trong một tập thư khá dầy mầu xanh xanh, nhìn rõ con số 100 và hình Tổng thống nước Mỹ... Vừa lúc ấy, Huyền Mai đẩy cửa bước ra. Bà lao vội đến phía cô nhân viên tạp vụ, chẳng may bị trượt chân, ngã sấp, mặt đập vào bờ tường, khiến môi sưng vều. Từ đó, bà có thêm một biệt danh là Huyền Vêu!

61

Page 62: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Huyền thoại đầm Bậch Liên

Hà Nội là vùng đất lắm ao, hồ, đầm. Những hồ, đầm lớn đều gắn với những huyền thoại, cổ tích mang tính giáo dục sâu sắc. Đầm Bạch Liên cũng vậy. Xưa kia, khi Hà Nội còn khuôn trong năm cửa ô, thì đầm Bạch Liên nằm ỡ mãi tận phía Đông Bắc thành phố, khá heo hút. Dần dần, quá trình đô thị hoá đã khiến cho đầm Bạch Liên nằm lọt vào một khu phố sầm uất, buôn bán tấp nập. Người ta bảo đây là đất kim cương chứ không phải chỉ là đất vàng.

Vào thủa hồng hoang, đầm chưa có tên Bạch Liên như bây giờ. Người ta quen gọi đó là Đầm Đại, bởi đầm rộng mênh mông, lớn vào loại nhất vùng. Mặt đầm bao la bát ngát, nhìn ngút tầm mắt không thấy bờ bên kia. Vào những ngày lặng gió, mặt nước đầm vẫn lao xao sóng vỗ. Còn khi gió to, sóng đầm cuộn lên xô bờ ì oạp. Quây quanh đầm nước là những bãi sú vẹt, những rặng cây um tùm. Ở bờ phía Tây đầm, đất cao hơn, tạo thành một bãi bằng khô ráo chạy dọc bờ đầm. Cả một vùng trời nước mênh mông, cây cối um tùm ấy tạo nên môi sinh lý tưởng cho các loài thuỷ sản, thuỷ cầm. Cư dân ở đây thưa thớt. Trên bãi đất bằng ấy, có một xóm khoảng trên ba chục nóc nhà, gọi là xóm Chài. Bà con xóm Chài làm nghề chài lưới, sống nhờ nguồn thuỷ sản, thuỷ cầm vô cùng phong phú trong đầm. Cuộc sống đang êm ả trôi thì có một gia đình gồm ba người đến xin nhập cư. Lúc này người hiếm đất rộng, bà con xóm Chài tỏ ra mừng vui và hào hiệp đón vào xóm một gia đình mới. Gia đình này làm nghề buôn bán nhỏ. Họ vào kinh kỳ mua hàng tạp phẩm về bán cho dân xóm Chài, và mua cá về giao cho những người buôn ở chợ lớn. Không biết hai ông bà tên gì, chỉ biết rằng cô con gái có tên là Liên, cho nên dân xóm chài gọi hai ông bà là ông Liên, bà Liên. Còn cô gái, mọi người gọi thân mật là cháu Liên. Cháu Liên khoảng chừng mười tám, xinh đẹp lạ kỳ. Cháu có dáng người thon thon mình trắm. Khuôn mặt trái xoan. Mũi dọc dừa. Mắt bồ câu. Da trắng hồng. Môi đỏ thắm. Sắc đẹp của cháu Liên làm cho cả xóm chài xao động. Những ông già cũng thích nhìn cháu, có lẽ để hồi tưởng những phút giấy xao lòng thời trai trẻ của mình. Các chàng thanh niên, khỏi phải nói, thường tìm mọi cách tiếp xúc với Liên. Tính dịu dàng không e lệ nhưng cũng không quá cứng cỏi, Liên tiếp mọi người, chuyện trò với mọi người, đem lại niềm vui cho cả xóm. Trong xóm có hai chàng trai đều mạnh khoẻ, tài ba. Một chàng tên là Lực. Một chàng tên là Điền. Lực người cân đối, nhanh nhẹn mềm mại như con báo. Điền dáng cao to, chắc nịch, mặt vuông chữ điền, mắt to, sáng như sao. Cả Lực và Điền đều chiếm được cảm tình của Liên. Nếu Liên mến Lực ở tính khí mạnh mẽ, trí khôn sắc sảo, thì cô mến Điền ở tính tình hiền hậu, trí lực song toàn. Điền mồ côi nên chí thú làm ăn, hoà hiếu với

62

Page 63: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

mọi người, cho nên dân xóm ai cũng yêu mến. Mối quan hệ tình cảm của hai người trai trẻ và một cô trinh nữ lớn dần lên, mạnh dần lên, đến lúc phải rẽ lối. Ông bà Liên biết con đang lưỡng lự, mà mình cũng khó xử, bèn hỏi Liên: "Con phải chọn đi, con cũng đã đến thì rồi. Phải chọn lấy một, con ạ!" Liên thẹn thùng: "Con theo lời bố mẹ!" Ông bà bèn nói với Liên: "Dân vùng đầm có tục chọn rể bằng cách cho thi tài. Đầm này có một con thuỷ quái, ta hẹn với hai anh ai diệt được nó thì làm rể nhà ta, được không?" Liên đồng tình. Thế là hai chàng thanh niên được mời đến và họ thống nhất cách thức thi tài. Trước khi vào cuộc thi, ông Liên trao cho mỗi chàng trai một chiếc lưỡi câu lớn, có cái mũi nhọn hoắt như mũi lao, có chùm lưỡi bén ngọt mà ông thửa từ thợ rèn phường Sinh Từ để hai chàng làm vũ khí.

Dân vùng đầm này vẫn lưu truyền những câu chuyện kinh hoàng về con thuỷ quái Đầm Đại. Chưa ai thực sự nhìn rõ nó, nhưng người ta hình dung nó như một con rồng vĩ đại. Theo truyền thuyết, mỗi năm vài ba lần, vào những đêm mưa to gió lớn, thuỷ quái lại trồi lên khỏi lòng đầm, bơi vào bờ và biến thành con rồng có cánh, bay tới các xóm nhà bắt trinh nữ. Cũng mỗi năm vài ba lần, vào mùa khô ráo, khi dân vùng đầm đang lênh đênh trên các con thuyền đánh cá thì mặt đầm bỗng cuộn sóng. Thuỷ quái quần lộn đảo điên tạo nên những con sóng dữ dâng những con thuyền bé nhỏ lên cao rồi lại dìm xuống đáy sóng. Lần nào cũng có vài ba chiếc thuyền bị nhấn chìm. Lần nào cũng có vài ba người bị chết. Lạ một điều, chỉ chết những chàng trai chưa vợ. Thế là, trong dân gian lưu truyền niềm tin rằng con thuỷ quái là loài vô tính (không phải đực cũng chẳng phải cái), nó bắt trinh nữ và thanh niên chưa vợ về dựng vợ gả chồng dưới thuỷ cung để tạo dựng cuộc sống đông đúc dưới đó. Muốn bắt được con thuỷ quái, phải chèo thuyền ra giữa đầm vào đêm trời giông bão, rình đúng lúc nó vừa trồi dưới lòng đầm lên, chưa kịp hoá rồng. Lúc ấy, nó đang thoát xác, cơ thể yếu ớt, chỉ quăng lưỡi câu vào, giật dây câu là kéo được nó vào bờ. Tin câu chuyện này, một đêm tháng mười giá lạnh, giữa cơn sấm chớp mưa gió đùng đùng, hai chàng trai chèo hai con thuyền hướng tới giữa lòng hồ. Cô gái mở cửa sổ rõi theo ánh đèn leo lét trên hai con thuyền. Ánh đèn nhỏ dần và mất hút trong màn đêm đen kịt. Mỗi giờ khắc qua đi là mỗi khắc khoải, bồn chồn dậy lên trong lòng cô gái. Sấm chớp đùng đùng. Mưa sầm sập. Đầm nổi sóng ầm ào. Mệt quá, cô thiếp đi lúc nào không biết. Trong mơ, Liên thấy một cảnh tượng hãi hùng: Lực bị con thuỷ quái nuốt chửng vào bụng. Còn Điền thì bị đuôi nó quật nát đầu. Cô thét lên một tiếng kinh hoàng, chấm dứt cơn ác mộng. Trời cũng vừa sáng. Thấy ngoài sân có tiếng lao xao, Liên vội chạy ra. Trước mắt Liên là Lực - quần áo tả tơi, sũng nước. Lực nói trong hơi thở đứt quãng rồi ngã gục xuống: "Thuỷ quái nuốt anh Điền rồi!". Ngày hôm sau Lực mới tỉnh. Theo lời kể của Lực, khi hai người vừa ra đến giữa đầm thì thuỷ quái xuất hiện. Lực

63

Page 64: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

chỉ kịp quăng dây câu với cái lưỡi câu to đùng do ông Liên đưa cho vào phía đầu con thuỷ quái thì nó đã vùng lên nuốt chứng anh Điền, nuốt luôn lưỡi câu của Lực. Nó quật đuôi muốn hạ gục Lực. Nhờ nhanh nhẹn, lợi dụng triền sóng vừa trườn lên, Lực lái thuyền chạy thẳng vào bờ. Nếu không nhanh trí, chắc giờ này Lực đã nằm trong bụng thuỷ quái rồi.

Cuộc đua diệt thuỷ quái không thành. Thuỷ quái vẫn hiện diện trong tâm thức người dân vùng Đầm Đại. Tuy vậy, Lực là người sống sót. Có nghĩa là, trong cuộc đua giữ quyền được sống, Lực đã thắng Điền. Như một lẽ tất yếu, Liên trở thành vợ Lực từ đấy.

Cuộc sống của cư dân xóm Chài vùng Đầm Đại và gia đình Liên có lẽ sẽ trôi đi bình thường nếu không có sự trở về của Điền. Một sự trở về đột ngột. Không ai nhận ra người đàn ông chột mắt ấy. Một người đàn ông mà mắt trái là một hố đen sâu hoắm, mắt phải lại sáng một cách lạ kỳ, long lên đầy uất hận. Mặt anh ta méo mó, đầy sẹo. Anh ta cầm theo một cây nhị và hát. Anh không hát xẩm, không hát dân ca, mà hát lên một bản trường ca chẳng ai từng nghe, kể chuyện mặt đầm và lòng người. Chuyện kể rằng xưa kia có hai chàng trai vì cùng yêu một cô gái mà tranh đua nhau trong trận diệt thuỷ quái. Hai người đều được người cha của cô gái tặng chiếc lưỡi câu lớn làm vũ khí. Trong đêm giông tố mịt mùng, hai chàng trai dong thuyền ra đầm. Đến giữa đầm, chẳng thấy thuỷ quái đâu, chỉ thấy sấm sét, mưa gió đùng đùng. Một người ghé thuyền vào gần thuyền người kia định liên kết thành khối để chống sóng gió. Bất ngờ, anh ta tối tăm mặt mũi, không biết gì nữa. Khi tỉnh lại, anh ta đã nằm trong một túp lều, không rõ là nơi nào. Một chiếc lưỡi câu to đùng móc sâu vào mắt anh. Những vết thương bầm vập cùng mình do mái chèo đập vào đang rỉ máu. Nhờ sức lực cường tráng và nhờ ơn trời phật, anh vùng vẫy theo chiều sóng, dạt được vào bờ. Một lão nông cô độc vớt được anh...

Câu chuyện dài được hát bằng những giai điệu, tiết tấu khác nhau nhưng đều mang đậm chất chèo Bắc Bộ, thể hiện được nhiều sắc thái trong cung bậc tình cảm của con người cũng như trong những diễn biến phức tạp của đời sống. Liên tục trong nhiều ngày, cứ vào lúc sáng sớm và lúc chiều hôm là người đàn ông chột mắt lại kéo nhị, ngồi hát bài ca mặt đầm và lòng người trước cửa nhà Liên. Bài ca gieo vào trái tim nhân hậu của Liên một nỗi thương cảm vô bờ bến đối với nỗi bất hạnh mà người đàn ông trong câu chuyện phải gánh chịu. Dần dần, bài hát gieo vào bộ óc nhạy cảm của Liên những câu hỏi và sự liên tưởng. Tại sao người đàn ông chột mắt này chỉ ngồi hát trước cửa nhà Liên? Tại sao khi nghe người đàn ông hát lần đầu, sắc mặt Lực - chồng Liên - lại tái dại đi? Tại sao Lực cứ bắt mình đóng cửa lại, không nghe hát? Chuyện hai người đàn ông đi diệt thuỷ quái trong bài ca sao giống chuyện Lực và Điền thế? Băn khoăn, nhưng Liên không dám nói điều này ra. Cũng có hôm, Liên định gợi chuyện để

64

Page 65: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

hỏi người hát xẩm về lai lịch bài ca, nhưng cô lại thôi. Cô chần chừ, vì muốn giữ một cuộc sống êm ả, không muốn nó bị xáo trộn. Nhưng mặt khác, nỗi khao khát đi đến bến bờ của sự thật cứ thôi thúc Liên phải tìm hiểu xuất xứ và ý nghĩa của bài ca. Cứ lần khân mãi, cho đến một buổi sớm, Liên không nghe thấy tiếng nhị và tiếng hát của người đàn ông chột mắt nữa. Mở cửa sổ, cô rú lên khi thấy treo toòng teeng trước cửa là hai chiếc lưõi câu to đùng cùng hai đoạn dây câu... Cô đã nhận ra hai lưỡi câu đó là của những ai... Cô rú lên rồi ngất đi, mê man. Cô chìm đắm trong cơn mê kéo dài ba ngày đêm. Trong giấc điệp dài dặc, Liên chỉ nghe duy nhất lời một ông cụ nói đi nói lại rằng làm gì có thuỷ quái hại người, con người hại nhau rồi đổ tội cho thuỷ quái mà thôi. Sợ mang tiếng ác, con người bịa ra đủ loài thuỷ quái, yêu tinh, quỷ dữ, ma cà rồng để chúng nhận tội thay mình. Ông cụ còn trừng mắt qưở trách Liên đã không có một tình yêu đích thực, đến nỗi phải nhờ đến chuyện thi thố tài năng để chọn chồng. Các cuộc thi thố đều ẩn chứa trong đó mầm mống của sự gian lận, dối lừa. Tình yêu đòi hỏi sự chân thực tuyệt đối, không có chỗ cho các cuộc thi thố, trỏ tài.

Tỉnh dậy, Liên như người mất hồn. Cô tự vấn lương tâm. Chính vì mình mà anh Điền phải tật nguyền suốt đời. Chính vì mình mà anh Điền phải chịu cảnh tha phương cầu thực, không chốn nương thân. Mà tại sao mình lại không tự chọn được ngưòi mình yêu. Thử tài đâu là biểu hiện của tình yêu. Hoá ra cả cha mình, cả mình chỉ muốn chọn người giỏi giang nhằm gây dựng cuộc sống no đủ cho mình, chứ đâu phải chọn cho mình người mình yêu... Trời ơi, yêu ai thì lấy người nấy, bắt họ thi tài làm gì... Nỗi ân hận đè nặng cuộc sống của Liên. Một hôm, trời trong veo, nắng vàng lóng lánh, mặt đầm xanh thẳm, Liên một mình chèo thuyền ra đầm. Cô chèo một cách khoan thai, thơi thả. Gió nhẹ vờn mái tóc. Sóng vỗ nhẹ mạn thuyền như lời ru dìu dặt của thiên nhiên. Đến giữa đầm, Liên rời thuyền, thả mình vào lòng nước trong vắt, mát rượi. Ít lâu sau, từ nơi Liên trầm mình, mọc lên những cây hoa sen tươi tốt lạ kỳ. Bông sen trắng muốt, toả hương thơm ngát. Cũng vào dịp ấy, Lực biến đi đâu, không ai biết.

Từ đấy, đầm Đại có tên chính thức là đầm Bạch Liên. Cư dân trong vùng đầm phá miếu thờ thuỷ quái, dựng một đền thờ ngay trên bến mà Bạch Liên đã lên thuyền ra đi mãi mãi để tỏ lòng thương tiếc vô bờ bến của mình với người thiếu phụ xinh đẹp, nhân hậu mà bất hạnh của làng xóm. Trên tấm bia dựng bên trong đền, người ta ghi lại chi tiết thiên tình sử bi thảm của nàng. Cũng trên tấm bia ấy, người ta ghi lại quy ước sống của cư dân vùng đầm. Nội dung quy ước có nhiều điều, trong đó có điều bãi bỏ tục lệ kén rể thi tài. Các đôi trai gái được tự do tìm hiểu, khi thấy đã thực sự yêu thương nhau thì trình với xóm làng để xóm làng vun đắp hạnh phúc cho. Quy ước cũng nêu lên những điều mà mọi người phải thực hiện nhằm tạo dựng một cuộc sống đậm đà tình làng nghĩa xóm, chống dối lừa, ngăn ác độc, cấm chỉ hại nhau. Điều cuối cùng ghi rõ ai không

65

Page 66: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

thực hiện quy ước này thì phải rời bỏ vùng đầm, đi đâu thì đi. Đó là hình thức xử phạt duy nhất mà bản quy ước nêu lên...

Nghe đâu, tới ngày nay, tinh thần của Quy ước xưa vẫn được vận dụng trong cuộc sống hàng ngày của người dân vùng đầm. Gần đây nhất, tinh thần ấy đẫ được thể chế hoá nằng Quy ước nếp sống văn hoá của nhiều phường trong khu vực đầm Bạch Liên này.

Hà Nội, 1/6/2006

66

Page 67: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Phần hai: Tản văn

Những ý kiến quý báu

Sếp là người giỏi diễn thuyết vào bậc nhất ở địa phương tôi. Cơ quan nào, cơ sở nào mà được sếp đến diễn thuyết, thì nơi ấy như được tắm trong một dòng suối trí tuệ tuyệt vời, người người đều thấy sáng mắt sáng lòng ra. Theo tục lệ chung, sau mỗi bài diễn thuyết của sếp, người đứng đầu cơ quan hay cơ sở đều lên diễn đàn, cung kính cảm ơn sếp và không quên nhấn mạnh:

- Thay mặt lãnh đạo và nhân dân (hoặc cán bộ công nhân viên), tôi xin tiếp thu những ý kiến quý báu của sếp. Những ý kiến quý báu của sếp làm tất cả mọi người bừng sáng ra!

Đề tài diễn thuyết của Sếp vô cùng phong phú. Đề cập tới bất cứ vấn đề gì thuộc về loài người, sếp đều có những ý kiến quý báu. Nhưng khi nói về những vấn đề liên quan đến đạo đức tác phong lý tưởng thì có nhiều ý kiến quý báu nhất.

Đến với Hội phụ nữ, Sếp nói như sau:- Thưa chị em. Phụ nữ là một nửa của thế giới. Thiếu phụ nữ thì thế giới

không chỉ mất đi một nửa, mà nhân loại còn không thể nào sinh sôi nảy nở được, sẽ dẫn cả loài người đến nguy cơ diệt vong. Chính vì vậy mà chúng ta phải tôn vinh phụ nữ không phải với tính cách một nửa thế giới, mà là cứu tinh của thế giới. Chính vì vậy, chúng ta phải hết sức coi trọng phụ nữ. Đó là đạo lý mà bất cứ một người làm cách mạng nào cũng phải tuân thủ!

Đến với thanh thiếu niên, Sếp phát biểu:- Thưa các em. Thanh thiếu niên là tương lai của đất nước. Như măng

mọc thay tre, thanh niên học sinh sẽ thay thế lớp lớp cha anh xây dựng đất nước. Muốn cho thanh niên học sinh làm trọn sứ mạng vẻ vang ấy, lớp người đi trước phải tăng cường chăm nom, giáo dục các em. Biết chăm nom, giáo dục lớp trẻ thành người có ích cho đất nước, tức là chúng ta đã chăm lo đến thế giới tương lai.

Đến với tầng lớp lãnh đạo, Sếp phát biểu:- Là người lãnh đạo, chúng ta phải gương mẫu, lo trước thiên hạ, hưởng

sau thiên hạ. Chúng ta phải kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, chống tệ nạn xã hội.

Một hôm, hai đại biểu phụ nữ đến thăm Sếp. Nhà Sếp kín cổng cao tường, phải bấm chuông chờ khá lâu. Đang ngong ngóng vào nhà để được nghe những

67

Page 68: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

ý kiến quý báu của sếp, hai cán bộ phụ nữ bỗng giật mình khi nghe tiếng sếp quát oang oang từ căn phòng có cửa sổ mở rộng trên tầng hai:

- Sao bà ngu thế. Tôi đã bảo đừng đưa bà ngoại ra đây, mà bà cứ đưa. Người già ăn ở bẩn thỉu, phiền phức quá...

Xen trong tiếng quát của xếp là tiếng đàn bà khóc tấm tức.Hai cán bộ phụ nữ lặng cả người. Một người bảo:- Sếp vẫn dạy phải tôn trọng phụ nữ. Những ý kiến quý báu của sếp mình

còn nhớ. Sao sếp không thực hành nhỉ.Chị kia vẻ thành thạo:- Thì những ý kiến quý báu của sếp đã đem phân phát hết cho chị em

chúng mình, còn đâu đến lượt mẹ sếp, vợ sếp...Hai chị em không đợi mở cửa, lẳng lặng rút lui. Họ không dám tranh thủ

xin những ý kiến quý báu của sếp nữa.Đến một hôm, đọc báo, mọi người giật mình thấy ảnh con trai sếp in ở

trang ba, kèm theo một bài dài nói về thành tích bất hảo của cậu ta. Sành điệu vô cùng, cậu ta mừng sinh nhật mình bằng cách cậy két của bố mẹ lấy đô la mua 19 con a còng tặng bạn bè. Bây giờ, cậu ta lại mắc nghiện, bị bắt quả tang đang tiêm chích và nhảy nhót trong một động lắc lớn ở trung tâm thành phố.

Mọi người lại bàn tán:- Sếp vẫn dạy phải chăm lo thế hệ mai sau. Những ý kiến quý báu của sếp

ta còn nhớ đinh ninh. Vậy mà con sếp vô phúc quá.Một anh cướp lời:- Chớ, chớ nói rằng con sếp vô phúc. Ấy là vì sếp hy sinh cho nhân dân

đấy, ngay cả những ý kiến quý báu cũng đem dâng hiến hết cho đời, đến nỗi quên cả dành cho vợ con. Tấm lòng vì dân của sếp thật đáng trân trọng.

Mấy anh hay vặn vẹo lại đặt vấn đề:- Này, nhưng còn bản thân sếp thì sao nhỉ. Sếp dạy chúng mình phải chịu

khó tu dưỡng, lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ, chống tham nhũng, tiêu cực. Những ý kiến quý báu ấy, sếp hiến dâng hết cho bọn mình rồi, liệu sếp có còn chút nào dành cho bản thân không?

Mọi người đều trầm hẳn xuống, vừa thương, vừa lo cho sếp, con người có tài diễn thuyết ấy, con người luôn luôn vì nhân dân quên mình ấy, không rõ có còn để lại cho mình chút ý kiến quý báu nào không.

Hà Nội, 21/6/06

68

Page 69: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

CHỈ THƯƠNG NGƯỜI TÂY SANG TA

Vào thời kỳ đất nước mở cửa, đi du lịch sang các nước bạn không còn là

điều khó khăn nữa. Thậm chí, người ta còn dễ dàng thành lập các công ty du lịch, công ty lữ hành... Vì thế, để tỏ lòng hiếu thảo với mẹ, anh Tuynh mời cụ Hỉn từ vùng quê Hạ Hòa về Hà Nội để làm chuyến du lịch phương Bắc.

Chuyến đi kéo dài một tuần, qua cả thủ đô lẫn ba tỉnh của đất nước Đại Bắc, mà chỉ tốn có 6 triệu bạc. Khi mẹ về, câu đầu tiên mà Tuynh hỏi là: "Mẹ đi có thích không?"

- Thích thì có thích, nhưng khổ lắm!- Sao, họ để mẹ khổ lắm à, con phải kiện họ mới được!Cụ Hỉn vội xua tay: - Chớ, chớ kiện họ, họ có tội tình gì đâu!- Thế sao mẹ bảo khổ lắm!- Khổ là vì không được nói!- Sao lại không được nói hở mẹ?- Nào mẹ có biết. Cô hướng dẫn du lịch dặn là khi sang nước bạn, không

được nói! Tai mẹ nghễnh ngãng, không rõ cô ấy giải thích vì sao! Thế là suốt 7 ngày mẹ không dám hé răng, thật khổ hết chỗ nói!

Thắc mắc, Tuynh sang nhà bà cụ Ngần, cũng đã đi du lịch Đại Bắc về, hỏi thực hư ra sao, được cụ cho hay chuyến đi của cụ kéo dài 10 ngày thì đến ngày thứ 11 mới được mở miệng. Cụ bình luận: "Hay là tại nước mình với nước họ có hiềm khích, mình nói, lộ ra là người Việt, họ bắt?" Tuynh lắc đầu:"Làm gì có chuyện ấy, hai nước là anh em cơ mà!". Cụ lại bình luận thêm: "Hay là sợ mình nói lộ bí mật nhà nước nên họ cấm nói?" Tuynh lại lắc đầu: "Không phải đâu cụ ạ!"

Trăm nghe không bằng một thấy, Tuynh làm một chuyến đi Đại Bắc theo tuyến du lịch Nam Phương. Anh liền được nghe hướng dẫn viên phổ biến là khi sang nước bạn, không ai được nói, nhất là những khi đến các khu di tích, danh lam thắng cảnh.

Muốn tự mình khám phá bí mật, Tuynh không hỏi han gì thêm mà cứ lẳng lặng nhập đoàn lữ hành tiến về phương Bắc bằng tầu hỏa.

Biết ngoại ngữ, Tuynh chú ý lắng nghe xem bên nước bạn có gì đặc biệt mà đoàn mình không được nói năng gì. Hóa ra cũng giống bên mình, dân bạn vui vẻ trò chuyện, bàn bạc làm ăn, chẳng có gì khác lạ. Khi tới di tích Hỏa Sơn, vừa mới nhìn lướt qua bảng giá, thấy có ghi "10 đồng, 10 USD", chưa hiểu ra sao thì đã thấy cô hướng dẫn du lịch ra hiệu cả đoàn xếp hàng. Cùng lúc ấy, anh

69

Page 70: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

nghe cô hướng dẫn du lịch nói với người soát vé: "Xin chào! Đoàn chúng tôi thuộc dân tộc Choang từ Nội Mông về!". Anh đang ngơ ngác không hiểu vì sao bỗng dưng mình lại hóa thành người thiểu số nước bạn, thì cô hướng dẫn du lịch đã dẫn tuột đoàn vào trong. Khi ngồi nghỉ ở thềm di tích, anh đem nỗi thắc mắc ấy ra hỏi, thì nữ hướng dẫn viên giải thích: "Anh xem, nước này có giống mấy nước Tây đâu, vé tham quan cho người ngoại quốc đắt gấp hơn chục lần cho người trong nước. Nếu phải mua vé tham quan theo giá ngoại địa, thì tụi em lỗ chỏng gọng, lấy gì mà tổ chức lữ hành du lịch?" Cô cười khúc khích: "Được cái dân mình cũng na ná dân họ, chỉ có ăn mặc hơi khác, em nói với người soát vé đây là đoàn khách người dân tộc thiểu số, thế mà họ tin sái cổ anh ạ! Em đi thoát hàng chục đoàn rồi". Cô chép miệng:"Nhưng cũng lo lắm, nhỡ đang lúc ấy mà có ai sổ ra một tràng tiếng Việt thì lộ hết!"

Về nước, mất 6 triệu bạc nhưng lại được đi tham quan bao cảnh đẹp, học thêm được bài học về đời thường, Tuynh lấy làm hài lòng lắm. Anh đem chuyện này ra nói với Hẽm, vợ anh, cũng là một nhân viên kiểm soát khu di tích lớn, rồi truyền đạt kinh nghiệm: "Nước ta cũng bán vé tham quan di tích cho người ngoại quốc đắt gấp 10 cho người bản địa, có đoàn khách nào mua vé, em cảnh giác nhé, thấy họ ngậm miệng như thóc là phải hỏi chuyện ngay đấy!"

Hẽm vẻ thành thạo:- Lẫn làm sao được anh, khách nước ngoài vào tham quan hầu hết là mắt

xanh mũi lõ, tóc vàng, có ngậm miệng cũng không dấu được quốc tịch, đố mà lập lờ đánh lận con đen được đấy!

Như để chứng minh cho nhận định của mình, Hẽm kể: - Hôm nọ có đoàn người Pháp định vào tham quan, nhưng thấy giá vé

đắt, cả đoàn vội quay ra. Đấy, họ có dám mua vé theo người Việt mình đâu!Cô chép miệng tiếc rẻ:- Đoàn ấy đi tới 2 xe, hơn 50 người chứ có ít gì đâu, thất thu khối ra!Vốn nhân hậu lại hay hài hước, Hẽm nói tiếp:- Ta thất thu cũng tiếc, nhưng dù sao vẫn bán được khối vé cho người

Tây, vé nào chắc vé ấy, chẳng hụt đồng xu nào. Chỉ thương người Tây du lịch sang ta, ngoại hình khác ta quá nên chẳng giả làm người dân tộc thiểu số nước ta mà mua vé nội địa được!

70

Page 71: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

TẠI MÌNH LÀ NGƯỜI VIỆT

Chưa bao giờ các cô nguôi nỗi tự hào mình là người Việt. Là nghệ sĩ ca múa, các cô đi đủ các phương trời bắc nam đông tây, ở đâu cũng thấy dân tộc mình dược hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là vào thời còn cả phe xã hội chủ nghĩa, đi đâu cũng chỉ thấy khẩu hiệu, hoa và những lời hữu nghị.

Đến thời kinh tế thị trường, đất nước mở cửa, văn công cũng phải đổi phương thức hoạt động. Rất hiếm các chuyến lưu diễn hữu nghị theo Hiệp định, mà phần lớn đã chuyển sang chế độ hợp đồng, hạch toán. Vào một ngày đẹp trời, đoàn ca múa nhạc nhẹ lên đường sang đất nước Phù Tang biểu diễn theo hợp đồng với công ty đa quốc gia TAXATA. Đây là chuyến thứ hai sau chuyến thứ nhất thành công mỹ mãn, nên trưởng đoàn quyết định ghép hai đội thuộc hai thế hệ già - trẻ thành một, kết hợp giữa làm ăn và thực hiện chế độ đối với những chị em lớn tuổi.

Mọi chuyện không được thuận buồm xuôi gió. Việc biểu diễn ở khách sạn lớn giữa thủ đô nước bạn không thực hiện được, phải chuyển về tỉnh lẻ. Cả đoàn phải ở chung trong một căn phòng rộng, thiếu tiện nghi. Phải nấu nướng lấy mà ăn. Động cái gì cần, hỏi đến phía bạn, cũng được trả lời "Không có trong hợp đồng!":

- Cho chúng tôi dao, thớt!- Không có trong hợp đồng!- Cho chúng tôi mượn bộ đồ nhà bếp!- Không có trong hợp đồng!- Cho chúng tôi mượn máy giặt!- Không có trong hợp đồng!- Lo giúp chúng tôi máy phóng thanh cho đàn bầu, vì máy chúng tôi đem

đi bị hỏng!- Không có trong hợp đồng!Các cô diễn viên trẻ cố gắng xoay xở, vào siêu thị mua dao thớt. Riêng cái

máy phóng thanh thửa riêng cho đàn bầu thì khó quá, vì nước bạn không có loại này! Lúc ấy, nhạc sĩ đàn bầu Mạo Thăng mới ân hận vì định mang cái máy cũ đi, sang bên này tiện thể nhờ bạn thay cho máy mới, ai dè "không có trong hợp đồng!", đành xếp xó, tạm nghỉ biểu diễn.

Riêng các chị diễn viên múa lớn tuổi thì không thể nào chịu nổi. Bọn Tư bản này quá đáng thật, chẳng biết tương thân tương ái là gì, động một cái là "hợp đồng", nghe mà điên cả ruột. Đã vậy không thèm biểu diễn nữa. Thế là hợp đồng phải hủy, cả đoàn kéo nhau về nước.

71

Page 72: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Trong buổi họp báo công bố kết quả chuyến đi, sau giờ họp chính thức đến phần liên hoan nhẹ. Lúc này cánh nhà báo mới có dịp phỏng vấn sâu các nghệ sĩ. Chị A Sa, diễn viên múa tuổi sồn sồn, buột miệng than thở: "Thật cực hết chỗ nói, vừa phải biểu diễn lại vừa phải tiếp khách, cái mụ Tú Bà này làm cho mình khổ quá!" Anh bạn phóng viên báo Đông Lạo dỏng tai nghe, ghi vội lấy chi tiết "vàng" ấy. Về tòa soạn, chắp ghép các chi tiết, nhà báo đại tài có bút danh Hư Như Thực này viết ngay một bài in trên trang nhất: "Bộ Lễ đưa văn công đi làm nghề bất chính ở nước ngoài!" Nghe mà rùng mình! Bài báo dựng nên cảnh các nghệ sĩ ta phải lê lết hết khách sạn này đến khách sạn khác để vừa trình diễn nghệ thuật, vừa "tiếp khách"! Các chi tiết về "tiếp khách" không được đào sâu, để ai hiểu thế nào thì hiểu.

Từ bài báo của nhà báo Hư Như Thực, dư luận rộ lên làn sóng phản đối bộ Lễ. Quốc Hội chất vấn. Bộ phải giải trình. Thì có gì đâu, chỉ là biểu diễn không thành công, nghệ sĩ vất vả, phải về. Làm gì có chuyện tổ chức biểu diễn kiêm kinh doanh xác thịt chị em. Quốc Hội tỏ vẻ thông cảm với nỗi oan Thị Kính của bộ Lễ. Nhưng các nữ nghệ sĩ trẻ thì không còn biết chui xuống đất hay bay lên giời cho thoát nỗi nhục. Cái từ "tiếp khách" cứ lơ lững giữa không trung, gây nghi ngờ cho những người thân của họ. Có cô còn bị người yêu cắt đứt quan hệ. Các cô kéo nhau đến tòa soạn, vật nài xin báo "nói lại cho rõ", nhưng chẳng báo nào lên tiếng.

Chuyện bay sang đất Phù tang. Bà chủ công ty TAXATA thấy mình bị xúc phạm nghiêm trọng. Bà tập hợp toàn bộ hồ sơ thành một chồng dầy tới nửa thước, cử người ôm sang Việt Nam, chứng minh cho tính đàng hoàng của Công ty TAXATA. Đại diện của Bà gặp đại diện báo để phản đối bài báo của ông Hư Như Thực. Quen thói cửa quyền (người ta vẫn nói rằng báo chí là quyền lực thứ tư), ông chủ báo từ chối phắt việc cải chính (hình như ở nước ta, hai từ "cải chính" là điều kiêng kỵ, các báo chỉ chỉ viết "nói lại cho rõ"). Đại điện công ty TAXATA lẳng lặng ra về. Sau một ngày, báo Đông Lạo giật thót mình khi nghe đài BBC đưa tin "Công ty TAXATA chuẩn bị phát động chiến dịch quốc tế chống báo Đông Lạo của Việt Nam vì đã phao tin đồn nhảm. Đại diện công ty tuyên bố nếu báo Đông Lạo không đăng tin cải chính vào thứ bẩy này, thì chiến dịch sẽ bắt đầu vào ngày chủ nhật!". Tin này đến tai mấy cô nghệ sĩ trẻ. Các cô hồ hởi: "Phen này nhờ Phù Tang mà mình được rửa nhục, thật may quá!" Các cô hong hóng chờ số thứ bẩy của báo Đông Lạo. Sớm thứ bẩy, các cô văn công rủ nhau ra bưu điện mua hết 100 bản báo Đông Lạo bầy trên quầy. Các cô vội vã về nhà, vội vã giở báo ra đọc. Trên trang nhất có đăng một bài ngắn với dòng tít:"Báo Đông Lạo xin lỗi công ty TAXATA". Các cô diễn viên xúm lại, cắm cúi đọc. Đọc đi đọc lại cũng chỉ thấy quanh quẩn chuyện báo xin lỗi công ty TAXATA, khẳng định công ty này là công ty lớn xuyên quốc gia của Phù Tang,

72

Page 73: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

làm ăn có uy tín! Đọc đến rách báo cũng không thấy một dòng nào đả động đến việc thanh minh cho mấy cô diễn viên tội nghiệp - họ "tiếp khách" nghĩa là ngồi cùng khách trong các bữa ăn để nói chuyện về Việt Nam! Thanh minh hộ cũng không, chứ nói gì đến cải chính với cải tà.

Đọc chán rồi, cô Lê Vin than thở:- Sao báo Đông Lạo không xin lỗi mình nhỉ, họ xúc phạm mình nhiều hơn

xúc phạm công ty TAXATA cơ mà!Anh cán bộ tuyên truyền của Đoàn ca nhạc ngồi cạnh đấy phân tích:- Có gì đâu, tại vì mình là người Việt mà. Dân ta nhiều người có thói sùng

ngoại, khinh nội, báo chí cũng có anh như vậy, cho nên chỉ xin lỗi ngoại nhân, không xin nỗi người trong nước, có gì là lạ!

73

Page 74: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

LÁ THƯ TRONG CỔ ÁO

Đối với ông Trần Trọng Vọng, một người yêu nước không cần thiết phải có đức tính trọng dụng hàng nội. Ông thường bảo con cháu rằng phải dùng hàng ngoại mới tiết kiệm, vì nó đẹp, nó bền, nó xứng đáng với đồng tiền bát gạo mình bỏ ra.

Nói sao làm vậy, mọi thứ đồ dùng trong nhà, ông đều dùng hàng ngoại. Chỉ có đất để làm nhà không thể nhập khẩu, cho nên ông cất ngôi lầu 4 tầng 1 tum ngay trên mảnh đất cha ông để lại, chứ nếu nhập được, chắc ông sẽ nhập đất Pháp về làm nhà cho phù hợp với ngôi nhà kiểu Pháp mà ông gửi mua thiết kế tận bên Pháp. Còn mọi thứ, từ xe máy, ti vi đến máy giặt, giường tủ... đều là hàng ngoại. Chỉ những thứ thông dụng mà người ta chưa nhập vào được ông mới dùng hàng nội. Nhưng đến khi đất nước mở rộng cửa, người ta nhập khẩu đến cả cây tăm xỉa răng, lọ dưa muối, hạt gạo... thì ông cũng loại trừ ngay mấy thứ hàng nội vẫn dùng trước đây. Loại gạo thơm ngoại, ông khen nó dẻo, ngọt hơn gạo dự quê ta, ăn vào có chất hơn, từ này cả nhà chỉ được ăn gạo Thái nhập. Loại tăm Hội người mù làm bằng tre, trước đây ông bảo nên dùng, vì để ủng hộ những người bị tàn tật, nay ông bảo nó sắc cạnh quá, xỉa chảy máu chân răng, trong khi đó tăm Thái tròn, nhẵn, xỉa "êm cả răng", dùng là phải. Vân vân. Riêng anh Bảo, con ông, thì ca thán là loại tăm gỗ này rất dễ gãy, lại to quá cỡ, xỉa vừa làm giắt răng thêm, vừa làm kẽ răng thưa hoác ra.

Tuy vậy, ông Vọng vẫn chưa thật thỏa mãn lắm lòng hướng ngoại của mình, vì ông chưa bao giờ được mua những thứ hàng đó ngay ở nước ngoài. May thay, gần nghỉ hưu, ông được cơ quan chiếu cố cho đi Pháp một chuyến cùng đoàn của Bộ ký Hiệp định. Với số tiền được cấp, ngoài quà cáp cho vợ con, ông tìm mua bằng được một chiếc áo sơ mi trắng dài tay. Ông vẫn ước ao áo của Pháp, vì ông nói rằng Pháp là cha đẻ của loại áo sơ mi mà loài người đang dùng.

Về nhà, ông thú vị nhất là đã tự tay mua tận bên Pháp chiếc áo sơ mi hết sức ưng ý. Mọi đồ dùng khác mua tại Pháp cũng tốt, nhưng chỉ ở mức bình thường, không bì được với chiếc áo sơ mi vừa sít như may đo cho ông. Chẳng thế mà riêng tiền mua nó đã bằng tiền mua tất cả quà cáp cho gia đình, bạn bè. Ông gọi con trai thứ hai của ông là Trần Trọng Bảo, công nhân kiểm tra chất lượng xí nghiệp may Mười, lại vừa khoe, vừa dạy dỗ:

- Con làm ở xí nghiệp may, phải học tập cái anh Pháp này. Con xem, đường chỉ nó may mới đều đặn, chắc chắn làm sao. Tuyệt nhất là cái cổ, vừa ôm gáy, vừa dựng, mặc vào con người lịch sự lên gấp mười lần. Gớm, nhìn cái sơ

74

Page 75: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

mi ta may mà phát khiếp, nhăn nhúm, xộc xệch, mặc vào trông người ta hèn đi như con sâu con bọ, không thể chấp nhận được.

Anh Bảo nhỏ nhẹ:- Vâng, con xin học tập. Nhưng ba ạ, ngành may nước ta cũng rất có uy

tín trên thế giới. Sản phẩm may mặc xuất khẩu của ta có giá trị lớn, chỉ sau ngành Dầu khí thôi ba ạ!

Ông Vọng cười khẩy:- Tôi biết rồi, anh khỏi phải thuyết. Khốn nỗi, quần áo xuất khẩu sang

Tây, chắc là họ đưa về nông thôn, vùng núi cho những người nhà quê, chứ người thành thị ai thèm dùng hàng của ta!

Anh Bảo chỉ mủm mỉm cười.Quý chiếc áo do chính tay mình mua được của Pháp ngay tại nước Pháp,

ông Vọng dùng khá thường xuyên. Được cái nó bền, lại được giặt bằng thứ bột giặt siêu sạch, cho nên dù đã dùng đến 2 năm, trông vẫn như mới (cũng cần nói thêm rằng thứ bột giặt này của nội, nhưng được ông Tây quảng cáo trên truyền hình bằng cái giọng lơ lớ nên ông Vọng coi như hàng ngoại và cho phép gia đình dùng).

Một hôm, vợ ông Vọng đang là chiếc áo sơ mi Pháp của ông thì có người gọi cổng. Vội vã, bà đặt chiếc bàn là ngay trên cổ áo đang là dở, chạy vội ra. Mải tiếp khách, đến khi ngửi mùi khét, bà mới chạy vội vào, nhấc bàn là ra, thì cổ áo đã bị cháy xém. Ông Vọng nghe vợ gọi, chạy xồng xộc từ trên gác xuống, nhấc vội chiếc áo sơ mi lên, suýt soa:

- Có khổ tôi không kia chứ, chiếc áo Pháp này ở Hà Nội là chiếc áo độc nhất vô nhị, làm sao bây giờ!

Trong khi sờ nắn cái áo, ông thấy phần lót cổ áo hơi cồm cộm. Lần ra thì thấy một mảnh giấy nhỏ có ghi mấy dòng chữ cũng nhỏ ly ti với hai ngôn ngữ Pháp, Việt. Ông Vọng phải lấy kính lúp soi và đọc được như sau:

Thưa quý khách hàng! Mong quý khách đóng góp ý kiến cho chúng tôi về loại áo sơ mi này, loại mà chúng tôi đang thử nghiệm cắt may theo phương pháp mới. Địa chỉ: Trần Trọng Bảo, xí nghiệp may Mười, Hà Nội, Việt Nam!

75

Page 76: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Dàn đồng caKhông ở vùng nào có Dàn Đồng ca tuyệt vời như ở vùng tôi. Nét đặc biệt

là khi Dàn Đồng ca này hát lên bài hát nào, thì cuộc sống được dẫn dắt theo bài hát ấy. Vào buổỉ sáng, Dàn Đồng ca xướng lên bài ca lao động, lập tức mọi người ai vào việc nấy. Suốt ngày, giai điệu và nhịp điệu của Dàn Đồng ca điều khiển xã hội hành động theo nhiều cung bậc, tiết tấu khác nhau. Cũng vì Dàn Đồng ca quan trọng như vậy cho nên lương bổng của những thành viên rất cao. Và cũng chính vì thế mà ai ai cũng muốn được gia nhập Dàn Đồng ca ấy. Tuy nhiên, vốn nghiêm khắc, ông Nhạc trưởng hết sức khắt khe trong việc tuyển người vào Dàn Đồng ca.

Rồi ông Nhạc trưởng này nghỉ hưu và ông Nhạc trưởng khác thay thế. Ông Nhạc trưởng mới sống hiện đại, phóng khoáng. Người ta đồn rằng bây giờ vào Dàn dễ lắm, không phải trải qua những cuộc kiểm tra chuyên môn ngặt nghèo như trước. Chỉ cần giỏi "chạy" thôi - chạy vào cửa sau, chạy ngầm. Nhất là khi có ngoại tệ hoặc vàng bốn số chín làm động cơ thì tốc độ chạy vào Dàn càng nhanh. Riêng những người có họ hàng, máu mủ với ông Nhạc trưởng hoặc với cán bộ có chức quyền của Dàn thì được ưu tiên số một, khỏi qua mọi cuộc tuyển lựa, đánh giá tài đức. Chính vì vậy, Dàn Đồng ca ngày càng đông. Khốn nỗi, người càng đông thì hát càng yếu đi. Thậm chí còn có cả những ca sĩ hát lạc điệu, sai nhịp. Dàn đồng ca đã lâm vào cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Đến nỗi chính Dàn Đồng ca cũng thiếu hẳn tự tin khi tấu lên những bài ca dẫn dắt cuộc sống. Khi cần xã hội tiến đều bước, Dàn lại hát theo kiểu đuổi bè, loạn xị ngậu. Khi cần xã hội tiến mạnh về tương lai, Dàn lại hát bằng cái giọng ẻo lả, rên rỉ. Khi cần đưa xã hội vào giấc ngủ êm đềm, Dàn lại hát lên những khúc hát chói tai như còi xe lửa rúc. Khi cần một không khí trong lành làm sạch tinh thần, thì Dàn lại hát bằng cái giọng đục ngầu giống như nước cống làm bốc lên toàn mùi xú khí. Cuộc sống vì thể mà bị rối loạn, chẳng ra làm sao cả. Dân vùng tôi tức quá, kéo lên kiện Dàn Đồng ca. Ông Nhạc trưởng lúc đầu lẩn trốn, toàn nói là đi vắng, nhưng sau, bị dân thúc dữ quá, liền đem cái bộ mặt thiểu não, chân thành ra nhận lỗi. Ông Nhạc trưởng đặt tay trước ngực trái, lưng hơi cúi lom khom, miệng dẻo quẹo:

- Thưa bà con! Chúng tôi rất biết lỗi. Chúng tôi ân hận lắm. Chúng tôi sẽ đấu tranh bằng đựoc với những sai sót, sẽ phục vụ đồng bào tốt!

Dân vùng tôi vốn hiền lành và cả tin, thấy ông Nhạc trưởng âu sầu chân thành nhận lỗi thì họ tha lỗi ngay. Họ chẳng để ý là ông Nhạc trưởng nhận lỗi cho ai, ai sẽ bị xử lý. Bởi vì đây là Dàn Đồng ca, mà đồng ca thì biết ai hát đúng ai hát sai, cuối cùng cả Dàn chịu trách nhiệm.

76

Page 77: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Một hôm có việc ra ngoài đường, ông Nhạc trưởng giao cho người anh em cọc chèo thay mình chỉ huy dàn nhạc. Sự lộn xộn càng trở nên không thể chịu nổi bởi vì Dàn Đồng ca đã kém, mà ngay cả Nhạc trưởng cũng kém, cho nên bất ngờ Dàn Đồng ca xướng lên một khúc hát rối loạn, làm cho xe cộ chạy lung tung. Chẳng may, ông Nhạc trưởng đỉ trên hè phố đúng vào lúc loạn nhạc đó, và ông bị mấy cái xe phóng ẩu vượt lên hè, đè chết.

Ông Nhạc trưởng thứ ba vốn là trưởng đoàn văn công kháng chiến, khi hoà bình lại được đi học ở nước bạn cho nên vừa nghiêm túc vừa giỏi chuyên môn. Qua chỉ huy, ông thấy trình độ của các ca sĩ chênh lệch nhau nhiều quá. Ông bèn nêu ra kế hoạch cải tổ Dàn Đồng ca. Đầu tiên, ông giao cho các nhạc sĩ viết những bài ca dành cho đơn ca với nhiều loại giọng và sắc thái khác nhau. Sở dĩ như thế vì ông muốn chọn được những ca sĩ thích hợp cho những vai của họ. Rồi ông cho thông báo: các ca sĩ phải đăng ký hát đơn ca hai bài, nhận bài ở phòng Nghệ thuật, sau một tuần sẽ lần lượt đến đơn ca thử tài. Ngay trong tuần lễ đầu tiên, Dàn hụt mất hai ca sĩ. Hoá ra hai ca sĩ này là cháu ông Nhạc trưởng cũ, vốn làm nghề bán báo rong, chả biết nốt nhạc nào nhưng được cái gào khoẻ, được ông nhận vào Dàn ngay sau khi ông nhậm chức. Trong tuần ấy, một chục ca sĩ khác đã qua kiểm tra nhẹ nhàng. Qua tuần sau, có thêm ba ca sĩ nữa biến mất. Hoá ra đó cũng là người nhà hoặc người mà theo dư luận họ là những kẻ chạy chọt dữ lắm đối với ông Nhạc trưởng và cậu Trưởng ban Tổ chức, cho nên được tuyển vào. Cứ thế, đến thời hạn chót kiểm tra khả năng ca sĩ thì đoàn hụt đi mất một phần ba quân số. Ông Nhạc trưởng mừng vui vì biện pháp thanh lọc đội ngũ đạt kết quả bất ngờ - những người bỏ đi toàn là loại ca sĩ rởm, chỉ vì chạy ngầm, chạy cửa sau hoặc được ưu tiên mà vào được Dàn Đồng ca này. Dàn Đồng ca hát hay hẳn lên...

Một hôm, ông Nhạc trưởng nhận được trát của Dàn Đồng ca Bề trên triệu về tập huấn. Phấn chấn, ông chuẩn bị chu đáo mọi phương tiện để lĩnh hội thật tốt những điều mà Bề trên dạy bảo. Không những mang sổ sách mà ông còn đem theo cả một chiếc camera và máy ghi âm kỹ thuật số nữa. Khi mọi người đã tập trung đông đủ ở Hội trường, ngồi ngay ngắn thì cánh màn nhung trên sân khấu từ từ mở ra - Dàn Đồng ca Bề trên xuất hiện. Sau một lúc choáng ngợp trước vẻ hào hùng của Dàn Đồng ca Bề trên, ông Nhạc trưởng định thần lại và bắt đầu ngắm kỹ các khuôn mặt trên sân khấu. Ông giật nảy mình: kìa, hai cu cậu ca sĩ rởm vốn là dân bán báo rong vừa bỏ trốn khỏi đoàn, nay đang đứng hàng giữa! Dụi mắt tưởng nhầm, rồi lại mở to mắt nhìn, ông lắc đầu chán ngán. Nhìn sang hàng thứ hai, rồi thứ ba, ông Nhạc trưởng cứ giật mình thon thót - lõm đõm chỗ này chỗ kia đều có các ca sĩ rởm từ Dàn của ông chạy lên. Ông lo lắng vô cùng. Về nhà, ông vội dốc bầu tâm sự với vợ:

77

Page 78: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

- Chết, thế này thì dàn đồng ca Bề trên sẽ xuống cấp, làm loạn cả khu mất!

Bà vợ đưa ông cốc nước lọc, trấn an ông:- Ông khéo lo bò trắng răng, dàn đồng ca trên đó đông lắm, có thêm mấy

ca sĩ rởm, ai mà phát hiện ra. Họ cứ mấp máy môi hát theo là ổn ấy mà!- Thế thì tôi phải xin lên gặp Bề trên, yêu cầu các ca sĩ đơn ca!

Bà vợ cười đến sặc hơi:- Ai cho ông lên ông hâm ơi! Đồng ca chính là sức mạnh của tập thể, ông

lại muốn xé lẻ họ ra, làm cho họ yếu đi, Bề trên nào mà chịu ông! Vả lại, biết đâu, khi đơn ca, lại lòi ra những ca sĩ rởm của chính Dàn Bề trên, lúc ấy có mà họ vả cho ông méo mặt! Thôi, ông cứ yên tâm chỉ huy Dàn Đồng ca ở vùng ta, thế là tròn bổn phận rồi.

Ông Nhạc trưởng gật gù vẻ tán thưởng lời khuyên chí tình của vợ. Nhưng ông bỗng giật thót mình:

- Này bà ơi, nhưng rồi sắp tới có đại nhạc hội toàn Khu, mình sẽ phải hát theo dàn đồng ca của Bề trên, thế thì mình lại loạn à?

- Ông khéo vẽ chuyện, cứ hát theo đúng Bề trên là được, cần gì đúng với luật nhạc dở hơi nhà ông? Phường Bát âm là thế mà!

Ông Nhạc trưởng trợn tròn mắt nhìn vợ, miệng há to mà chẳng thốt nên lời.

Tháng 1 năm 2004

78

Page 79: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Bài học đầu tiên

Ngát Hường là một nhà văn, nhà thơ, biên kịch điện ảnh và Giám đốc hãng phim. Bất cứ trên lĩnh vực nào, chị cũng thể hiện được tài năng của mình. Trong thơ, trong văn, và ngay cả trong phim của chị, hình tượng nổi bật là người phụ nữ nết na, đảm đang, nhưng hay bị người đời hiểu lầm và hay chịu thiệt thòi. Đến nhân vật con chó cái, con mèo cái già cũng bị hắt hủi.

Cởi mở, đằm thắm, nhưng chị cũng khá rắn rỏi, không chịu khuất phục kẻ mạnh. Vào dịp chị cùng đoàn làm phim sang Nga quay bộ phim Trăng trên xứ người, có mấy "ông chủ" người Việt làm ăn bên Nga có ý định dùng điện ảnh ca ngợi công ty của mình. Như đã nói ở trên, Ngát Hường bao giờ cũng yêu quý những nhân vật nữ chịu thiệt thòi; trong phim này, nhân vật trung tâm là một nữ diễn viên Ba lê, yêu nghề tha thiết, nhưng do hoàn cảnh kinh tế, phải sang Nga lao động, đồng thời tranh thủ thời gian ngoài giờ lao động để buôn bán nhỏ kiếm thêm. Niềm mong ước khôn nguôi của cô diễn viên là được làm nghề, luôn luôn va đập với thực tế nghiệt ngã của chuyện làm ăn. Nhưng cô luôn luôn giữ mình trong sạch. Vậy mà vẫn bị nhiều người coi thường, không những vậy mà còn bị mấy kẻ đàn ông gạ gẫm, đồn thổi chuyện trăng hoa, nên bị chồng giận... Kết thúc, cô bị tai nạn gẫy chân... Chuyện là thế, nhưng mấy ông chủ ta ở bên Tây lại muốn chuyển nội dung sang mô tả các hoạt động kinh doanh "tài ba" của mình. Hường thẳng thừng từ chối. Họ viết thư về nước cho Chính phủ, cho Bộ Văn hoá bôi nhọ kịch bản phim. Họ cho rằng bộ phim này gây chia rẽ dân tộc, nói xấu người Nga. Thế là Hường phải về nước giải trình. Được cái lãnh đạo Bộ rất hiểu chị, vả lại làm phim là quyền của tác giả, Bộ không can thiệp quá sâu, nên các ông chủ ta bên Tây đành chịu thua người đàn bà mảnh khảnh, yếu đuối.

Dáng người gầy, mặt xương, nhưng được cái tươi tắn, hồn hậu, Ngát Hường là người phụ nữ dễ ưa. Chị đã phải Ba lần sống một mình. Chẳng phải vì chị đáo để hay quá bay bướm, mà số phận cứ bắt chị phải lìa bỏ những người đàn ông của mình do chính những lỗi lầm của họ. Người thì trót cưỡng bức gái vị thành niên phải đi tù, người thì uống rượu say, đứt mạch máu não mà chết, người lại quá đào hoa, thói trăng hoa làm cho trái tim anh ta bị chia thành trăm mảnh, không còn biết gửi vào nơi nào nữa... Đến lần thứ tư, cuộc đời mới đem đến cho chị hạnh phúc thực sự. Anh là tiến sĩ, một nhà nghiên cứu có hạng, sống chân chất và đằm thắm. Bất cứ buổi chiếu phim, giới thiệu sách nào của chị, anh cũng đến dự một cách nghiêm túc và say sưa.

79

Page 80: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Lên làm Giám đốc vào cái thời điện ảnh gặp khó khăn, Hường phải bươn chải rất nhiều. Toàn bộ lương thưởng của hàng trăm con người đều đổ vào ban giám đốc, mà trụ cột là đôi vai mảnh mai của chị. Mặc dù là người thành đạt trên nhiều lĩnh vực như vậy, chị vẫn phải học thêm - học rất nhiều để làm quản lý - đó là một nghề thực sự. Dần dà, chị biết cách thực hiện các biện pháp quản lý. Các đoàn làm phim phải hạch toán, chứ không làm theo kiểu cấp tiền tràn lan như trước.

Rồi đến dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập hãng. Theo truyền thống, đây là dịp trình Nhà nước để được tặng thưởng Huân chương. Ngát Hường rất tin vào khả năng của hãng, vì đã có bề dầy truyền thống, với những bộ phim trở thành kinh điển cho điện ảnh nước nhà. Những diễn viên nổi tiếng nhất cũng là người của hãng. Thành tích ấy đáng được Huân chương hạng cao. Bộ hướng dẫn làm hồ sơ khen thưởng rất chu đáo. Bộ còn mời cả chuyên viên của Viện Thi đua khen thưởng Nhà nước đến làm việc trực tiếp, xem phim, hướng dẫn thêm những điểm cần làm rõ. Mọi việc đều thuận buồm xuôi gió, chỉ còn việc nhờ Phường xác nhận theo quy định là gửi hồ sơ lên cấp trên. Bây giờ, Chính quyền cơ sở được coi trọng lắm. Cơ quan trung ương đóng trên địa bàn nào thì phải chịu sự quản lý về mặt chấp hành pháp luật của chính quyền nơi ấy. Ngát Hường cẩn thận dặn Văn thư cho hồ sơ vào phong bì, cầm trực tiếp đến Ủy ban phường sở tại, có tên là phường Bòng. Anh nhân viên hành chính biết thủ trưởng rất nghiêm khắc, khi làm xong việc đã lên trình sổ công văn có chữ ký nhận của phường Bòng. Thế là yên trí. Nhưng rồi một tuần qua, hai tuần qua, vẫn không thấy hồi âm của phường. Ngát Hường phái người đến hỏi cho rõ ngọn ngành thì được biết phường đang nghiên cứu. Lại chờ. Một tuần nữa lại trôi qua. Đến nước này thì giám đốc phải ra tay. Trước hết là bằng phương tiện hiện đại:

- A lô! Có phải Ủy ban phường Bòng đó không ạ?- Phải, cần gì?- Làm ơn cho tôi gặp chị Chủ tịch!- Chị là ai?- Tôi là giám đốc hãng phim!- Hãng phim à? Buôn bán hay sản xuất?- Hãng phim là hãng làm phim!- Vâng, nhưng hãng bán hàng gì hay làm ra hàng gì mới là hãng, chứ

phim thì gọi là hãng sao được! Mà phường đang bận với những hãng sản xuất có doanh thu từ 100 tỷ trở lên, chưa có thời gian tiếp hãng phim.

Và rồi "cụp", điện thoại bị ngắt. Một tuần nữa lại trôi qua. Giám đốc sốt ruột quá. Việc xin Huân chương

là trách nhiệm với cả mấy thế hệ đi trước, đâu phải chuyện vinh dự cho cá nhân chị! Phen này phải đến tận nơi kêu xin mới được. Thế là lần đầu tiên sau mấy

80

Page 81: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

chục năm, hãng phim có người đến phường sở tại. Một cảm giác là lạ đến với chị. Dù sao, đây cũng là chốn công đường. Dù là thiếu sự uy nghi của công sở, nhưng vẫn có cái oai nghiêm của nơi có quyền thế. Ngát Hường vừa bước lên thềm nhà, người thường trực đã hỏi giật giọng:

- Chị kia! Đến có việc gì? Gặp ai?- Tôi gặp chị Chủ tịch!- Có hẹn trước chưa?- Chưa!- Thế thì không vào được. Chủ tịch bận lắm. Phải đăng ký trước!Thế là phải về. Rồi phải đăng ký gặp Chủ tịch phường. Vẫn bận. Hóa ra

chính quyền cấp phường gần dân nên lắm việc thật. Thời giờ đâu mà tiếp giám đốc hãng phim. Gọi đi gọi lại, chỉ được gặp cô thư ký. Thấy Ngát Hường tha thiết gặp Chủ tịch quá mà không được, cô thư ký tên là Thùy tỏ vẻ thông cảm:

- Hay là em bố trí cho chị gặp ngoài giờ!- Ôi, thế thì hay quá!- Vậy chiều mai hết giờ, chị đến gặp em, em sẽ hướng dẫn cho chị cách

thức gặp Chủ tịch phường nhé!- Hướng dẫn?- Ngát Hường thốt lên! Sao mà sự đời lắm chuyện vậy, đến

gặp riêng Chủ tịch phường cũng phải hướng dẫn. Hóa ra trường đời là cả chuỗi dài học. Học làm đạo diễn điện ảnh. Học viết văn. Học quản lý kinh tế. Còn bây giờ thì học cách tiếp xúc với chính quyền cơ sở.

- A lô! A lô!Ngát Hường giật mình. Mải chìm vào suy tư, Ngát Hường lãng mất cuộc

nói chuyện điện thoại. Bây giờ, tiếng cô thư ký từ đầu dây bên kia khiến Ngát Hường giật mình.

- Vâng, vâng, tôi vẫn nghe đây! Xin chị nói tiếp!- Vâng, em nói tiếp nhé! Chị cần đến để em hướng dẫn. Hướng dẫn về

cách quan hệ ấy mà!Chỉ còn một tuần nữa là đến ngày lễ của Hãng rồi. Phải gấp rút lấy được

xác nhận của Phường để trình lên Viện! Thôi thì đành vậy, chiều nay Ngát Hường về nhà muộn. Chị gọi điện về cơ quan chồng:

- A lô! Bố đấy à? (Chị hay gọi đùa chồng là bố).- Anh đây!- Chiều nay em phải về muộn, anh cứ đặt cơm trước nhé!- Tốt thôi, nhưng em đi đâu thế, có thể nói cho anh biết không?- Em đi học!- Học? Em mới theo lớp nào vậy?- Lớp quản lý hành chính!- Đột ngột nhỉ. Học bài gì đầu tiên đấy?

81

Page 82: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

- Bài về quan hệ. Quan hệ Đầu tiên - Tiền đâu? Bây giờ em hiểu lơ mơ rồi, có lẽ bài học đầu tiên của người đứng đầu cơ quan là bài về quan hệ, và nhất là quan hệ với chính quyền sở tại! Cái quan hệ đầu tiên ấy mà!

82

Page 83: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

MÈO MỘT HỘT

Hôm ấy là ngày chủ nhật. Cái ngõ nhỏ trong phố Hoàng Cầu đang yên tĩnh thì bị khuấy động bởi tiếng rao:

- Mài dao kéo. Thiến chó mèo đây! Bà Nhân mở cửa tầng hai, bước ra ban công, nhìn xuống thì thấy một cậu

thanh niên chừng hơn hai mươi tuổi, người nhỏ bé, áo bỏ ngoài quần, đi chiếc xe đạp cũ kỹ, vừa đạp xe vừa rao. Vào hết ngõ, cậu thanh niên quay ra. Bà Nhân gọi :

- Chờ nhé, vào thiến giúp con mèo.Nhà bà Nhân nuôi một con mèo Tây trắng tuyền rất đẹp. Lông nó bông

bông, nõn nà. Nó hiền lành, ít chạy hoang như mèo ta. Thời này chuột phá như ranh, không có mèo, là một tai hoạ. Nhưng nuôi mèo ta, thì mèo lại hay đi hoang quá, luôn làm mồi cho bọn câu trộm. Nuôi mãi, bị mất mãi, bà Nhân định không nuôi mèo nữa. Nhưng lũ chuột phá quá, không tài nào chịu nổi. Chúng kéo vào đầy nhà. Từ gác một đến tầng thượng đều có chuột. Chúng cắn quần áo, chăn màn, cắn cả dây điện, dây loa, không tài nào chịu nổi. Thế là bà Nhân lại phải nuôi mèo. Nghe nói mèo Tây đỡ hoang đàng hơn, bà thử nuôi một con.

Con mèo ta cuối cùng mà bà Nhân nuôi là một con mèo mướp. Lúc đem về nuôi, nó chỉ nặng có ba lạng, trông như con chuột. Hôm ấy, bà Nhân đi chợ, qua bến xe buýt thì gặp một chị nhà quê ôm con mèo này. Gặp bà Nhân, chị nhà quê níu lại :

- Bác ơi, bác mua giúp cháu con mèo.- Nhà tôi có mèo rồi, không mua đâu.- Bác làm ơn mua giúp cháu, chỉ hai mươi nghìn thôi.- Tôi có mèo rồi mà.- Bác thương cháu với. Cháu làm ô sin ở ngõ Hào Nam, được bà chủ cho

con mèo này. Cháu định đem về quê cho bố mẹ, dưng mà bác lái xe không cho đem lên xe. Bác ấy bảo chở mèo đen đủi lắm.

- Nhưng mà tôi có mèo rồi.- Bác giúp cháu với. Đem theo không được, bỏ đi thì tiếc, cháu chẳng còn

biết làm cách nào.Nhìn cô gái nhà quê lam lũ ôm con mèo gầy guộc nhỏ xíu, mặt mày thiểu

não, bà Nhân động lòng thương. Thế là bà đưa ra hai chục nghìn, ôm con mèo về. Nó gầy quắt qoeo, lem nhem. Đang không có mèo, tự nhiên một lúc nuôi hai

83

Page 84: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

con, mèo Tây, mèo ta. Con mèo Tây do cô Li, con gái bà, được bạn tặng, mới đem về cách đó một tuần. Con mèo ta, bà Nhân miễn cưỡng đem về hôm nay.

Được chăm nom, hai con mèo lớn nhanh như thổi. Li đặt tên cho con mèo Tây là Hoàng Tử, còn con mèo ta là Ô sin. Con mèo Ô xin trước ở với ô sin kham khổ, nay được ăn ngon, ăn thoả thuê thì mượt lông, phổng phao lên như có phép tiên. Con mèo Hoàng Tử vốn khoẻ mạnh, nay càng hùng dũng. Nhưng có lẽ là ô xin, nên con mèo ta chăm chỉ hơn. Hôm ấy, vừa trên nhà xuống thì ông chồng bà Nhân nhìn thấy cô mèo Ô sin trổ tài. Bé tí teo, nó đã vồ gọn một con chuột khá lớn. Nó tha con chuột vào một góc nhà vờn, quăng lên quật xuống. Trong khi đó, chú mèo Hoàng tử đứng ngay cạnh, mặt nghệt ra nhìn. Nhờ tài săn bắt và sự siêng năng của cô mèo ô sin, lũ chuột biến hết.

Cho tới khi chú mèo Hoàng tử nặng hai cân rưỡi, cô mèo Ô sin nặng hơn một cân, thì bắt đầu có những chuyện nhì nhằng. Chẳng hiểu có phải vì chỉ thích của nội, có tư tưởng bài ngoại hay không, mà cô mèo Ô sin chê chú mèo Hoàng tử, toàn lang thang ra ngõ kiếm các chú mèo ta. Chú mèo Hoàng tử thì ngơ ngơ chẳng biết tán tỉnh đực cái gì hết. Cứ tối là cô mèo Ô sin phốc ra ngoài, biến mất, có khi đi cả đêm không về. Một tối, khoảng 9 giờ, bà Nhân ra ngõ thì thấy cô mèo Ô sin đang lăn lộn dưới đất. Tưởng cô nàng nổi hứng làm trò lăn mình, bà Nhân lại gần định bế cô ta dậy. Đến nơi mới thấy một sợi giây cước khá to dính vào mình cô mèo bởi một cái lưỡi câu khá lớn. Mấy chị xe rác bảo với bà Nhân rằng con mèo suýt bị bọn câu trộm bắt mất. May có xe rác đến, hai thằng chúng nó bỏ của chạy lấy người. Gỡ lưỡi câu ra khỏi mình con mèo, bà Nhân vứt cả sợi dây và lưỡi câu ở đầu ngõ, bế con mèo về. Tưởng rằng sau trận ấy, cô mèo Ô sin tởn đến già. Ngờ đâu, ngay tối hôm sau, cô ta lại tếch, rồi mất tích luôn. Có lẽ đáng trách là chú mèo Hoàng tử, của nhà đấy mà cứ thờ ơ, khiến cô mèo Ô sin tự ái, đi tìm ái tình ở nơi nguy hiểm để đến nỗi mất xác.

Cái thói đời khi có sẵn thì không thèm đụng chạm, khi mất rồi mới ngao ngáo đi tìm. Từ khi cô mèo Ô sin mất tích, chú mèo Tây đâm ra hứng tình, lại vọt khỏi rào ra ngõ tìm bạn tình. Thế này thì chẳng khác gì mèo ta. Lúc này, ông Nhân mới khích vợ:

- Thấy chưa, bà cứ ham của ngoại. Mèo nào chả là mèo, chả hoang đàng. Mèo ta còn ăn đứt mèo Tây ở tài bắt chuột.

Bà Nhân cũng tức lắm, tức mèo, tức cả lời khích của chông. Bà bèn nghĩ ra cách hạn chế thói hoang đàng của con mèo Tây. Vì thế, bà mới gọi cậu mài dao kéo kiêm thiến chó mèo vào xử lý chú mèo Hoàng Tử.

Khi chú thợ mài kiêm thợ thiến vào nhà, bà Nhân bảo :- Đấy, con mèo nhà tôi đấy. Chú thiến bao nhiêu tiền ?- 40.000 đồng.- Sao đắt thế ?

84

Page 85: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

- Giá chung mà!- Giá của trạm y tế, có cả thuốc sát trùng, thuốc tê, chỉ tự tiêu, cũng chỉ

40.000 đồng. Còn chú, đi dạo với đồ nghề thủ công như thế này, 20.000 đồng thôi.

- 40.000 đồng mà.- 20.000 đồng, nếu không thì thôi, mời chú đi.- Thôi được, bác nhốt con mèo vào lồng đi, cháu làm vậy.Chú thợ mài kiêm thợ thiến hí hoáy một lúc rồi bào :- Bác ơi, xong rồi. Bác cho xin tiền.Bà Nhân móc túi lấy 20.000 đồng trả cho chú thợ mài kiêm thợ thiến. Chú

ta nhận tiền, thu dọn đồ nghề rồi tót lên xe, bon ra ngõ...Một lúc sau, thấy chồng từ trên gác hai xuống, bà Nhân khoe :- Thiến mèo rồi đấy ông ạ. Con mèo nhà ta chỉ có một hột, to lắm!Lại gần lồng nhốt mèo, nhìn chú mèo đang cụp tai nằm run run, ông

chồng bà Nhân nói khô khốc:- Mèo nào mà lại có một hột. Nó lừa bà rồi!- Sao lại lừa được tôi?- Chẳng lừa là gì. Mèo nào mà chả có hai hột, nó chỉ lấy ra một hột, tức là

lừa bà rồi chứ còn gì nữa.- Thật ư? Tôi hay bị lừa quá. Hôm nọ mua cân cam 40.000 đồng về cân

lại chỉ có tám lạng.Trầm ngâm một lúc, ông chồng bà Nhân an ủi vợ:- Thôi, bà ơi, đừng bực. Tôi hiểu ra rồi. Bà chả bị lừa lần nào đâu. Cam

50.000 một cân, bà mua 40.000 thì được tám lạng. Mèo thiến 40.000 bà trả 20.000 nghìn, thì nó lấy ra một hột là phải. Thời buổi thị trường này, cái gì chả có giá của nó. Bà rõ chưa.

Bần thần một lúc, bà Nhân bảo :- Thôi, hôm nào chú thiến mèo qua, ta lại mời vào đưa 20.000 đồng để

chú ấy móc nốt một hột mèo ra... Chứ để nó dở đực dở cái thế này, chịu sao nổi.

Hà Nội, 20/5/2006

85

Page 86: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Mong được mẹ khinh

Mẹ của Li là người phụ nữ tốt bụng. Bà chăm bẵm việc gia đình, có miếng ngon vật lạ đều dành cho chồng con. Chỉ có một nhược điểm là bà hay nói, lại nói dai, nói không đúng lúc cho nên nhiều khi cũng gây phiền hà cho gia đình.

Bà hay mở máy phát thanh vào giờ cả nhà ngồi ăn cơm. Thực ra, thời buổi năng động này, gia đình nào còn giữ được bữa cơm có đủ các thành viên trong nhà là nền nếp lắm. Nhà Li vẫn giữ được nếp ấy vào bữa cơm chiều hàng ngày. Có lẽ nghĩ rằng đây là lúc đông đủ mọi người, nói gì lúc này cũng thích hợp, nên bà Nhân luôn luôn phát huy tài diễn thuyết của mình vào lúc ấy.

Li có khi nhức đầu quá, vặc lại mẹ:- Sao mẹ nói nhiều với người trong nhà thế. Người ngoài, mẹ cứ im thin

thít là sao?- Con định nói gì?- Thì con nói việc mẹ chẳng chịu nói gì với hàng xóm, cứ để họ bắt nạt

mẹ mãi!Li kể ra hàng loạt chuyện mà hàng xóm bắt nạt mẹ mà mẹ cứ im như

thóc, chẳng chịu phản ứng gì. Đây nhé, nhà bà Trúc bên cạnh lấn đất nhà mình khi bà ta xây lại nhà, mẹ chẳng nói gì. Nhà bà Thuần chuyên vứt rác sang ngõ nhà mình, mẹ cũng chẳng nói gì... Ròi hôm nọ mẹ vừa đi xe đạp vào ngõ, liền bị bà Nhâm hắt cho cả một chậu nước bẩn, mẹ cũng chẳng nói gì... Nghe Li kể một lô một lốc những chuyện mẹ nhịn hàng xóm xong, bà Nhân bảo: "Tại vì mẹ khinh họ con ạ. Những người ấy, mẹ không thèm chấp, mẹ khinh! Còn người trong nhà, mẹ không khinh, mẹ coi trọng, mẹ cần nói để cho mà tiến bộ!"

Hôm ấy, vừa vào bữa cơm thì bà Nhân mở máy:- Li này, tại sao ngủ dậy con không gấp chăn màn. Bố mày chiều mày quá

thành thử mày lười biếng. Tại sao lại có thứ dạy con như thế nhỉ. Mà mày lại dựng xe ngang ngược thế kia. À, mà hôm qua tao đã dặn phải phơi chăn đệm ra, trời nắng, tranh thủ lấy ánh nắng làm thơm tho chăn đệm, diệt lũ côn trùng gây ngứa, mà mày chẳng phơi phóng gì cả. Sao mày mải chơi thế. Tại bố mày chiều quá đấy mà. Con gái phải chăm chỉ rồi đến khi có chồng mới biết chăm nom gia đình, chứ không thì chồng nó bỏ cho. Tao phát ngán cái thói lười biếng của mày rồi. Từ hồi bé, mày đã lười biếng, ngủ sưng mắt, gọi như hò đò không thèm dậy. Đấy, vì cái kiểu giáo dục của bố mày mà mày thành ra như thế...

Bà Nhân quên cả gắp thức ăn, gác đũa nói một thôi một hồi về những khuyết điểm của Li và lối dạy con của bố Li.

86

Page 87: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Đợi mẹ ngừng lại lấy hơi, Li xen vào:- Mẹ ơi, mẹ đừng nói nữa để cho con ăn với.Bà Nhân vừa định mở miệng nói tiếp, thì Li nói dấn lên:- Mẹ hãy khinh con đi. Đừng chấp con. Con dang mong dược mẹ khinh

đây!Ông chồng bà Nhân cũng buông đũa đứng dậy:- Còn tôi, thì từ sau, cứ vào bữa cơm là bà khinh tôi đi nhé. Tôi cũng

mong được bà khinh lắm rồi đây!

87

Page 88: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

CÁI MŨI THÍNH

Chuyện xảy ra từ thời bao cấp. Hồi ấy, ai được đi Đức lao động xuất khẩu, coi như người đó là cứu tinh cho cả gia đình. Gia đình bạn tôi - Nguyễn Thành, cũng nằm trong số đó. Cô vợ anh - Yến Nhung - được cơ quan ưu tiên cho đi Đức lao động, thời gian là 4 năm.

Cùng với những lời chúc mừng của bạn bè, Thành nhận được không ít lời khuyên can:

- Vợ trẻ hơn hớn như thế, đưa đi Đức khác nào để xe Pơ giô ở bờ Hồ không khoá.

- Cậu nên tính kĩ lại. Có thể cải thiện được về kinh tế đấy, nhưng tình cảm thì sao? Xa mặt cách lòng, không biết thế nào đâu!

Thành không nói gì, chỉ ậm ừ cho qua chuyện, vì việc đi Đức, đã được cả nhà quyết định.

Thời gian đầu, Nhung thư về liên tục. Trong thư, cô kể về nỗi cô đơn khi xa nhà, về tình thương yêu vô bờ bến của cô với chồng, con, về những đêm cô không ngủ, thức trong nước mắt... Cô chịu khó làm ăn, đã gửi về nhiều chuyến hàng cho hai bố con. Có anh bạn từng ở bên Đức về, nói với Thành rằng thực tế cho hay, những người phụ nữ xa nhà mà cắn răng chịu đựng thì chịu đựng được, bởi họ là loại người cứng rắn. Còn những người hay khóc lóc, thì chỉ được một thời gian, sau đó, rất dễ bị cuốn hút vào cuộc sống mới, bởi họ thuộc hạng người yếu đuối. Những người yếu đuối có tình cảm rất mạnh mẽ với chồng con, nhưng lại hay bị cám dỗ bởi những lời đường mật của những chàng trai khác.

Qua thời gian, những chuyến hàng gửi về thưa dần. Tới khi Nhung về phép lần đầu, cô không về thẳng nhà, mà về nhà chị gái. Chiều, về nhà, vừa vào đến cửa, Nhung đã nhăn mũi:

- Khiếp, sao nhà hôi thế?Thành loanh quanh luẩn quẩn bên vợ, bỗng cảm thấy xa lạ vô cùng.

Không hiểu tại sao bây giờ Nhung bỗng thính mũi như thế? Trước kia, ở Mai Hương, căn nhà cấp bốn ẩm thấp, mốc meo, có bao giờ thấy Nhung chê nhà hôi đâu? Vậy mà bây giờ nhà cao cửa rộng, bỗng nhiên cái mũi Nhung lập tức nhận ra mùi hôi! Chiều muộn, Thành xán đến bên vợ, vừa định thơm một cái cho bõ những ngày xa cách nhớ nhung, thì Nhung đẩy phắt ra, kêu: "Gớm, anh toàn mùi thuốc lá, hôi quá!" Tủi thân, Thành lảng ra phòng ngoài. Nghĩ thế nào, Thành gọi điện thoại rủ mấy cậu bạn ra Vân hồ uống bia, rồi xách xe chạy thẳng.

Trong quán bia, sự ồn ào, náo nhiệt xua đi phần nào nỗi ấm ức trong lòng Thành. Bạn bè nâng cốc chúc mừng cái xe pơ dô để Bờ Hồ không khoá nay đã

88

Page 89: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

trở về. Thành chẳng dấu gì bạn bè, kể hết sự tình. Cậu bạn thân nhất của Thành, nhà thơ Trịnh Thanh, phân tích:

- Hỏng rồi, cậu ạ. Đấy là biểu hiện của việc cô ta không còn chung thuỷ với cậu nữa. Những người phụ nữ phản bội chồng bao giờ cũng có giác quan khác thường. Này nhé, An na ka tê ri na trong tiểu thuyết của cụ Lép Tôn Xtôi khi chạy theo người đàn ông khác, thì mắt bỗng tinh khác thường, do vậy trong đêm mới nhận ra rằng cái tai của chồng to quá. Còn cái mũi thính lên, là biểu hiện phổ biến của tình trạng chê chồng. Chứ nếu chung thuỷ, thì phải như người phụ nữ trong ca dao: Chồng em áo rách em thương/ Chồng người áo gấm xông hương mặc người! Đấy, người phụ nữ trong dân gian chung thuỷ với chồng cho nên cái mũi trở nên điếc tịt trước mùi hương của người đàn ông khác...

Trịnh Thanh phân tích một thôi một hồi về các giác quan của người phụ nữ chê chồng, làm cho Thành cứ ngẩn người ra, quên cả uống bia.

Về nhà thì gần tối rồi. Lúc ấy, Nhung cũng đang chuẩn bị ra khỏi nhà. Ngỡ ngàng, Thành hỏi:

- Em định đi đâu đấy?- Em sang nhà chị Mai ngủ, ở đây hôi quá, không chịu nổi!

..............Chuyện chỉ có vậy mà dẫn tới cuộc ly hôn thực sự. Bây giờ, Nguyễn

Thành đã có vợ mới. Đó là một cô giáo hiền thục. Trong một cuộc vui tại nhà Thành, Trịnh Thanh vừa nhìn vợ Thành, vừa cười hóm hỉnh:

- Thế cô này có cái mũi thính không?Cô giáo hiền thục chẳng hiểu mô tê gì, chỉ cười:Nguyễn Thành cũng cười:- Không, cô ấy hay bị ngạt mũi lắm.Trong khi mọi người cười ran, thì vợ Thành vào bếp lấy hoa quả. Thành

nhìn theo vợ, vẻ hóm hỉnh: - Mà mình cũng phải có cách để chống lại bệnh thính mũi của phụ nữ chứ.

Phải ăn ở sao cho người ta không nhận ra thứ mùi khó chịu từ mình, dù mũi người ta có thính đến đâu. Tốt hơn, là phải làm cho đời toả hương, mũi càng thính, người ta càng thêm nghiện mùi của mình...

2/7/2006

89

Page 90: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

Đẻ xa

Thời đại chúng ta là thời đại tri thức, cho nên việc học hành được toàn dân coi trọng. Với những gia đình khá giả, thì việc học ở trong nước là xoàng xĩnh. Phải du học nước ngoài. Nhất là học tại Mỹ, đó mới gọi là học thực sự.

Trong bối cảnh xã hội ấy, gia đình ông Tinh tuy không khá giả lắm, nhưng cũng cố gắng chắt bóp để có tiền nuôi dạy cô con gái độc nhất học hành nên người. Nhưng cô Trinh, con gái ông, thì luôn ôm mối hận là chỉ được học trong nước, chưa ra dáng con người. Chẳng rõ việc học trong nước của cô Trinh chưa ra dáng ở chỗ nào, nhưng sau khi tốt nghiệp đại học, cô thi vào một công ty của Mỹ tại Việt Nam liền đỗ. Sự may mắn liên tiếp đến với cô, quá trình làm việc, cô quen, rồi thân, rồi trở thành người yêu của một thanh niên Hà Nội cũng làm việc tại công ty Mỹ. Hai người đều phấn đấu hết mình trong công việc, cho nên đều được thăng tiến. Rồi đám cưới được tổ chức. Rồi cô bắt đầu mang một mầm sống mới trong mình... Khi cái thai được 7 tháng, thì chồng cô được công ty cho sang Mỹ tu nghiệp, còn cô được phép theo chồng, vẫn hưởng lương. Công ty Mỹ này quả là quý trọng nhân tài, đã thực hiện những chế độ đãi ngộ tuyệt vời chăm sóc nhân tài, giữ chặt nhân tài lại với mình. Hai vợ chồng chuẩn bị lên đường.

Chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như ông Tinh không lăn ra ốm. Thật là rầy rà, vì ông sống độc thân - bà Tinh đã khuất núi vài năm nay. Ông bị tai biến mạch máu não. Ông Tinh phải vào cấp cứu ở A9 bệnh viện Bạch Mai. Vợ chồng cô Trinh cuống lên với sức khoẻ của bố. Nhưng thời buổi này, đông tiền rất có giá trị. Mà hai vợ chồng lại có khá tiền. Cho nên, làm theo lời dạy của cha ông đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, Trinh rải tiền từ cửa phòng cấp cứu trở vào, và ông Tinh được dành cho sự chăm sóc đặc biệt nhất. Đến khi ông Tinh đã qua cơn nguy kịch, được chuyển về phòng bệnh, thì Trinh lại thuê riêng phòng đặc biệt, lại thuê hai ô sin trông nom ông. Sự chăm sóc của cô con gái rượu đã vượt xa ngưỡng chu đáo, đến mức tuyệt hảo.

Cùng thời gian này, anh chồng cô Trinh đến ngày phải lên dường sang Mỹ. Tất nhiên, cô Trinh cũng đã có vé máy bay bay cùng. Ông Tinh vẫn mơ mơ tỉnh tỉnh trong bệnh viện. Hai vợi chồng bàn tính rất nhanh. Thời này, lớp trẻ không thích bàn bạc dài dòng. Bàn nhanh. Quyết nhanh. Hành động nhanh. Có vậy mới phù hợp với thời đại. Họ quyết rằng cứ bay cho đúng chuyến bay. Nếu

90

Page 91: Ngờ vực - Phạm Việt Long -  Tập truyện và tản văn

lỡ chuyến này, cái thai lớn lên, không được phép bay, thì hỏng cả việc lớn. Ông, dã có ô sin lo. Cứ gửi tiền lại cho họ hàng, chi dần, thiếu đâu gửi về đấy, lo gì.

Một buổi sáng, ông Tinh bỗng thoát khỏi cơn mê. Ông tỉnh táo ra. Câu đầu tiên ông Tinh hỏi là con Trinh đâu. Cô ô sin đáp cô ấy đi Mỹ rồi ông ạ! Ông Tinh bỗng thét lên: "Con ơi!" rồi bất tỉnh. Cô ô sin hoảng quá, lay lay ông Tinh: "Ông ơi, ông tỉnh lại đi. Cô Trinh đi, đẻ xong, cô lại về. Cô bảo phải sang Mỹ cho kịp đẻ, con cô sẽ được mang quốc tịch Mỹ. Con cô được mang quốc tịch Mỹ thì vẻ vang cả nhà. Là người Mỹ, con cô sẽ được học ở Mỹ mà không mất tiền. Con cô thành người Mỹ rồi thì cô sẽ trở lại Việt Nam với ông. Ông ơi tỉnh lại đi!". Cô ô sin cứ lay lay mãi thân hình bất động của ông Tinh. Không hiểu ông có nghe thấy cô nói gì không... hay là ông cũng bay sang Mỹ để làm ma nước Mỹ...

91