View
218
Download
2
Category
Preview:
Citation preview
LỄ HỘI DÂN GIAN VIỆT NAMLỄ HỘI DÂN GIAN VIỆT NAM
Vương Tuyển (sưu tầm và tuyển chọn)
LỜI NÓI ĐẦU
Hàng năm, có lẽ không có làng quê Việt Nam nào lại không mở hội,
nhỏ thì một ngày, lớn thì nhiều ngày, nhất là những năm được mùa thì lễ hội
vui không kể xiết. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian,
Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong
bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Song nhiều nhất là vào mùa xuân, bởi lẽ mùa
xuân là mùa khởi đầu cho một năm, mùa sinh sôi nảy nở của vạn vật, cỏ
cây... Giữa tiết trời ấm áp ấy, lòng người phơi phới rủ nhau trẩy hội, hành
hương về cội nguồn, vui chơi và cầu mong cho mùa màng tốt tươi, con người
hạnh phúc. Lễ hội Việt Nam không chỉ cuốn hút ở sự tưng bừng náo nhiệt mà
còn bởi những nghi thức tôn nghiêm và thuần Việt được trao truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác: tế lễ, rước, trò vui và hát xướng... Lễ hội dân gian
được ví như một mạch nước ngầm xuyên thời gian, nuôi dưỡng đời sống tinh
thần của con người Việt.
Có thể nói, lễ hội là hoạt động mang tính cộng đồng sâu sắc, đó là đỉnh
cao của sự hòa hợp, đoàn kết vì một ước nguyện chung cho sự phồn vinh
của quê hương đât nước. Lễ hội gồm hai phần là phần lễ và phần hội, thường
diễn ra ở các ngôi đình làng. Phần lễ diễn ra trang nghiêm tôn kính thể hiện
lòng ngưỡng mộ, sùng bái các vị anh hùng, tôn vinh danh nhân, người có
công với dân với nước, tổ nghề, cũng có thể là những Thần, Thánh, Phật,
Mẫu, những nhân vật siêu phàm hay những đại diện cho tôn giáo, người bảo
trợ tinh thần và đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho cộng đồng. Phần lễ
gồm các hoạt động rước nước, mộc dục và tế... Còn phần hội là dịp thể hiện
những sinh hoạt văn hóa cộng đồng bao gồm: múa, hát giao duyên, hát thờ,
các diễn xướng sân khấu cổ truyền, các cuộc thi tài mang tính thượng võ,
hoặc những trò chơi dân gian đặc sắc, náo nhiệt.
Trong các sinh hoạt hội, mọi người tham gia trình diễn, sáng tác,
thưởng thức và hưởng thụ sau những ngày lao động vất vả, không kể sang
hèn. Vì thế, lễ hội đã tạo nên niềm cộng cảm sâu sắc giữa các thành viên
trong cộng đồng, là sự nhất quán trong việc trao truyền các giá trị văn hóa
giữa các thế hệ.
Sự phong phú của lễ hội ở Việt Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc
cũng vừa là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và
ngoài nước. Hy vọng, đây sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích, giúp bạn đọc,
đặc biệt là các bạn đọc trẻ tuổi có thêm hiểu biết về kho tàng văn hoá dân
gian của dân tộc.
Phần 1. LỄ HỘI DÂN GIAN VIỆT NAM
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN
Trong lịch sử đã hình thành hai vùng văn hoá lớn là phương Tây và
phương Đông. Phương Tây là khu vực Tây - Bắc gồm toàn bộ châu Âu (đến
dãy Uran); phương Đông gồm châu Á và châu Phi; nếu trừ ra một "vùng đệm"
như một dải đường chéo chạy dài ở giữa từ Tây - Nam lên Đông - Bắc thì
phương Đông sẽ là khu vực Đông -Nam còn lại. Hai vùng này có sự khác biệt
rõ rệt về mọi mặt. Trong khi các ngôn ngữ phương Tây biến hình thì các ngôn
ngữ phương Đông chủ yếu là đơn lập; trong khi người phương Tây coi trọng
cá nhân thì người phương Đông coi trọng cộng đồng...
Môi trường sống của cư dân phương Đông là xứ nóng sinh ra nhiều
mưa, tạo nên các con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú. Còn
phương Tây là xứ lạnh với khí hậu khô, không thích hợp cho thực vật phát
triển. Hai loại địa hình này khiến cho cư dân hai khu vực phải sinh sống bằng
hai nghề khác nhau là trồng trọt và chăn nuôi.
Sau này, các dân tộc ven biển thì phát triển thương nghiệp buôn bán,
chỉ còn lại các dân tộc trong lục địa làm nông nghiệp, nhưng chăn nuôi vẫn là
mối quan tâm chủ yếu của họ. Mặc dù sau này các dân tộc phương Tây đã
chuyển sang thương nghiệp, rồi phát triển công nghiệp và đô thị, nhưng cái
gốc du mục đã để lại dấu ấn quan trọng trong đời sống văn hoá của họ. Do
đó, căn cứ vào nguồn gốc của hai khu vực văn hoá, chúng ta có thể phân
chia văn hoá nhân loại ra thành 2 loại hình văn hoá: Loại hình văn hoá gốc
nông nghiệp và loại hình văn hoá gốc du mục.
Việt Nam nằm trong vùng văn hoá phương Đông, do vậy thuộc loại văn
hoá gốc nông nghiệp điển hình. Các cư dân nông nghiệp phải sống định cư
để gieo trồng và chờ cây cối lớn, ra hoa kết trái và thu hoạch. Do sống phụ
thuộc nhiều vào thiên nhiên nên họ ước vọng sống hoà hợp với thiên nhiên,
có lúc họ còn thần thánh hoá thiên nhiên. Bởi thế mà trên khắp các vùng miền
đâu đâu cũng có những lễ hội tưởng nhớ công ơn của các vị thần thiên nhiên
như: Thần Nước, Thần Sông, Thần Biển... Do vậy cũng có thể nói rằng,
phương thức sản xuất nông nghiệp là một trong các nguồn gốc của lễ hội dân
gian Việt Nam.
Ngoài ra, lễ hội dân gian còn là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm
tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử.
Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống "Uống nước nhớ
nguồn". Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng,
tôn vinh những hình tượng thiêng liêng, được suy tôn là những vị "Thần" -
những nhân vật có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các
vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những
anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo
dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những
người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc
sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh
phúc... Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị Thần
đối với cộng đồng, dân tộc.
Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn cội. Dù là nguồn cội tự nhiên
hay nguồn cội của dân tộc thì đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi
người.
Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn
là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung một vị Thần, có chung mục tiêu đoàn kết để
vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật
chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao
cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm
linh và các trò chơi đua tài, giải trí...
Lễ hội còn là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với
Thần linh, mong được Thần giúp đỡ, chở che để vượt qua những khó khăn
vất vả trong cuộc sống.
II. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN
Nếu lễ tết là một hệ thống phân bố theo thời gian thì lễ hội là hệ thống
phân bố theo không gian. Vào mùa xuân và mùa thu, khi công việc đồng áng
rảnh rỗi nhất, lễ hội diễn ra liên tiếp hết chỗ này đến chỗ khác, mỗi vùng có lễ
hội riêng của mình. Chẳng thế mà vùng Kinh Bắc có câu:
Mùng 7 hội Khám
Mùng 8 hội Dâu,
Mùng 9 đâu đâu
Nhớ về hội Gióng
Lễ hội có phần lễ và phần hội.
Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin Thần linh bảo trợ cho cuộc sống
của mình. Căn cứ vào mục đích này và dựa vào cấu trúc của hệ thống văn
hoá, có thể phân biệt ba loại lễ hội: lễ hội liên quan đến tự nhiên, ví dụ: lễ hội
cầu mưa, hội xuống đồng, hội đâm trâu, hội cơm mới, hội cốm, hội đua
thuyền, hội đua ghe ngo...; lễ hội tưởng nhớ ơn đức đối với những người có
công với dân tộc, ví dụ: hội Đền Hùng, hội Gióng, hội Tây Sơn, hội Đống Đa...
và lễ hội tôn giáo và văn hoá, ví dụ như: hội Chùa Hương, hội Chùa Tây
Phương, hội Chùa Thầy, hội đền Bắc Lệ, hội đền Dạ Trạch, hội Phủ Giày, hội
Núi Bà Đen...
Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn
gốc, phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng
của cư dân nông nghiệp. Xuất phát từ ước vọng cầu mưa là các trò tạo ra
tiếng nổ mô phỏng tiếng sấm, như thi đốt pháo, đi thuyền, ném pháo, đánh
pháo đất... Xuất phát từ ước vọng phồn thực là các trò cướp cầu thả lỗ, đánh
đáo, ném còn, nhún du, bắt trạch trong chum... Xuất phát từ ước vọng rèn
luyện sự nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo là các trò thi nấu cơm, thi luộc thịt
gà, thi dọn cỗ, thi bắt lợn, thi bắt vịt, thi dệt vải, thi leo cầu, thi bịt mắt bắt dê,
đua cà keo... Xuất phát từ ước vọng rèn luyện sức khoẻ và khả năng chiến
đấu là các trò đấu vật, kéo co, chọi gà, chọi trâu, chọi dế...
Lễ tết và lễ hội đều là sự tổng hợp uyển chuyển của cái linh thiêng (lễ)
và cái trần thế (tết, hội), nhưng lễ tết thiên về vật chất (ăn), còn lễ hội thiên về
tinh thần (chơi). Vì thế dân gian thường nói "ăn tết", nhưng "chơi hội". Lễ tết
giới hạn trong mỗi gia đình còn lễ hội mở rộng ra phạm vi toàn cộng đồng. Lễ
tết duy trì quan hệ tôn ti trên dưới giữa các thành viên trong gia đình, lễ hội
duy trì quan hệ dân chủ bình đẳng giữa các thành viên trong làng xã và liên
kết các lứa đôi thành những gia đình mới. Lễ tết phân bố theo thời gian, lễ hội
phân bố theo không gian. Hai trục này một dọc một ngang kết hợp với nhau
làm nên nhịp sống âm dương hài hoà xuyên suốt bao đời của người dân Việt.
Một đặc trưng nổi bật nữa của lễ hội Việt Nam là tính đa dạng và phong
phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có
gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng
bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như
những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền
nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế... Với tư
tưởng "uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây", ngày hội diễn ra
sôi động bằng việc diễn lại những sự tích, công trạng của những thế hệ trước,
nó giống như cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay
hiểu được công lao của Tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất
nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng
đất như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân
dân.
Bởi phần lớn các lễ hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử,
tưởng nhớ người có công với nước nên các trò vui chơi ở lễ hội thường
mang tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: đấu vật (hội cổ Loa), đấu
võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam Định), thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng đồng
bào dân tộc phía Bắc)... Đối với bà con các dân tộc Tây Nguyên, lễ hội đâm
trâu là tiêu biểu nhất. Trong lễ hội này, ngoài nghi lễ đâm trâu hiến tế hấp dẫn,
ly kỳ còn có trò múa khiên, ném lao, đấu gậy.
Các trò vui chơi giải trí ở lễ hội còn bao gồm những hoạt động văn hoá,
xã hội khác như thi hát quan họ, thi nấu cơm, chọi gà, dệt vải, đấu vật, đánh
đu... Đặc biệt trò thi đánh đu không chỉ xuất hiện trong dịp lễ hội lớn mà còn là
một trò vui chơi dân dã trong những ngày tết ở khắp các làng xã.
III. QUY TRINH CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN
Quy trình lễ hội thường được tiến hành theo ba bước:
Chuẩn bị: Bước này bao gồm 2 giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị cho mùa
lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Việc chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được
tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự
phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn
ra thì công tác chuẩn bị bao gồm: việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét
dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế
tự, thay trang phục mũ cho thần...
Vào hội: Các hoạt động được chính thức trong ngày hội, đó là các nghi
thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những
hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều hay ít
khách, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn được chi phối bởi
các hoạt động trong hội có hấp dẫn hay không.
Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng
cửa di tích.
Trong lễ hội thông thường bao giờ cũng có 1 số nghi thức bắt buộc.
Các nghi thức này được tiến hành theo một trình tự chặt chẽ, nghiêm ngặt từ
khi chuẩn bị lễ hội cho đến khi hết hội. Thông thường một lễ hội có các nghi
lễ: lễ mộc dục, lễ tế gia quan, lễ rước, lễ tế khai hội và tế giã đám.
Lễ mộc dục (tắm tượng Thần hay Thần vị):
Lễ này thường được tiến hành vào nửa đêm hôm trước ngày khai hội.
Trước khi làm lễ mộc dục, có nơi người ta còn tổ chức lễ rước nước. Trước
khi thực hiện việc tắm tượng (lau chùi tượng thờ) phải làm lễ cáo Thần.
Lễ tế gia quan:
Sau lễ mộc dục là tế gia quan (mặc áo, đội mũ cho tượng Thần). Nếu
Thần không có tượng mà chỉ có bài vị (Thần vị) thì áo mũ đặt lên ngai. Sau đó
tượng Thần (hay Thần vị, hoặc có khi chỉ là áo mũ) được đặt lên kiệu, chuẩn
bị cho đám rước thần sáng ngày khai hội.
Lễ rước:
Trong một lễ hội thường có rước Thần, rước Thành Hoàng, rước văn
hay rước nưốc. Lễ rước Thần hay rước Thành Hoàng thường cử hành trước
khi vào lễ khai hội và kết thúc hội. Nội dung, ý nghĩa của lễ rước ở mỗi lễ hội
đều có sự khác biệt về đối tượng rước, cách thức tiến hành, trình tự đoàn
rước, thành phần người tham gia... Trong số các lễ rước thì rước Thần và
rước nước phổ biến hơn cả.
Lễ hội là hoạt động cộng đồng tôn vinh các nhân vật linh thiêng, như:
Thánh, Thần, nhưng Thánh và Thần thường được thờ ở đền, miếu mà đa số
lễ hội thường được tổ chức ở đình làng, đền, nơi rộng rãi tiện cho việc hành
lễ và tổ chức các trò chơi. Do vậy trước khi khai hội, người ta thường tổ chức
cuộc rước Thần đi theo lộ trình từ đền hoặc đình về nơi hành lễ, xong hội lại
rước Thần, Thánh trở lại nơi thờ cũ. Sau lễ rước sẽ là lễ tế Thần, Thánh và
khai hội. Đặc biệt có nơi, trong dịp lễ hội ngày nào cũng có rước. Lễ rước này
không phải rước Thần mà là rước sớ (rước văn) - tức bài văn cúng Thần,
Thánh. Mỗi ngày người ta cúng Thần, Thánh bằng một bài sớ riêng. Trong
đám rước văn, bài sớ cũng được đặt lên kiệu rước, gọi là kiệu văn.
Lễ rước trong các lễ hội truyền thống thường quy định người trực tiếp
tham gia rước phải là nam giới tuổi từ 18 trở lên, không có phụ nữ, trừ một
vài lễ hội thờ nữ Thần (như lễ hội Phủ Giày, lễ hội Hạ Lôi) thì đoàn rước lại
chủ yếu do nữ đảm nhiệm.
Người tham gia rước (gọi là giai đô) là những người được dân làng lựa
chọn, cắt cử. Họ là những chàng trai khoẻ mạnh, có tài có đức, không có điều
tiếng đáng chê trách trong làng xóm. Ai được chọn trong đội rước là vinh dự
cho bản thân và gia đình.
Ngoài rước Thần, Thánh, Thành Hoàng... còn có lễ rước kiệu. Đám
rước kiệu khi đi đường có biểu tượng riêng để tránh sự trùng lặp giữa các
nhóm cộng đồng. Trước khi khởi hành, chiêng, trống nổi lên từ trong đền,
đình. Thường từ nửa đêm, tiếng trống đã gióng liên hồi để mọi người đều
biết, ai có phận sự phải lo sửa soạn trước. Ngày xưa thường đốt pháo lệnh
trước khi đám rước bắt đầu.
Tế giã đám:
Ngày giã đám (xuất tịch) thường có một buổi đại tế cuối cùng gọi là tế
giã đám. Nghi thức này cũng thực hiện với đầy đủ các bước theo quy định
của từng lễ hội.
Phần 2. NHỮNG LỄ HỘI DÂN GIAN TIÊU BIỂU
1. Lễ hội Bạch Hạc
Làng Bạch Hạc (thuộc tỉnh Phú Thọ) hàng năm mở hai kỳ hội Xuân, kỳ
đầu từ mùng 3 đến hết mùng 5 tháng giêng, kỳ sau từ mùng 10 đến 13 tháng
3.
Bạch Hạc chính là Phong Châu, kinh đô nước Văn lang thời Hùng
Vương.
Hùng Vương đô ở Châu Phong
Ấy nơi Bạch Hạc, hợp dòng Thao Giang.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ bản chương cũng liền.
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Bạch Hạc nằm bên tả ngạn sông Lô, khúc chảy qua đất Phú Thọ còn
gọi là sông Thao, trông sang thành phố Việt Trì.
Đình làng Bạch Hạc trông thẳng ra sông Lô, trên một khu đất cao vừa
trang nghiêm vừa thanh tịnh. Nơi đây thờ Thổ lệnh đại vương - một vị thiên
tướng đã xuất hiện ở đất Phong Châu vào đời nhà Đường.
Thần tích ghi rằng về đời Đường khi Lý Thường Minh làm Thứ sử Giao
Châu, một hôm nhàn du đến đây ngắm phong cảnh, nằm mộng thấy từ trên
trời bay xuống hai thiên tướng.
Hai thiên tướng này là hai anh em ruột. Lý Thường Minh mời hai vị thi
tài, ai hơn sẽ ở lại hưởng hương khói của dân làng Bạch Hạc. Đức Thổ lệnh
đại vương là anh, bước một bước qua sông và một bước nữa thì lui về chỗ
cũ. Ngài bước mạnh đến nỗi in hằn vết chân lên một tảng đá.
Theo lời dân chúng, ở bên kia sông cũng có một vết chân như vậy,
nhưng vì lâu năm bị đất phù sa che lấp đi. Tảng đá về mé sông Bạch Hạc,
dân làng còn ghi được và cất giữ ở đình làng, vết chân dài một thước, rộng
năm tấc.
Em đức Thổ lệnh đại vương là đức Thạch Khanh đại vương được dân
làng Thọ Sơn, huyện Hạc Trì tỉnh Phú Thọ thờ phụng.
Do sự liên hệ huynh đệ giữa hai vị thần linh, dân hai làng Bạch Hạc và
Thọ Sơn có tục giao hiếu với nhau trong những kỳ tế lễ hội hè của hai làng.
Hội Bạch Hạc với hai kỳ tháng giêng và tháng ba mỗi năm, nhiều cổ tục
được nhắc lại, nhưng đáng chú ý nhất, ở đây có cuộc thi thuyền trên sông Lô
và tục cướp cầu. Còn những tục khác như chơi cờ bỏi, tế lễ thì cũng không
khác gì ở những ngày hội xuân, hội thu khác trên miền Bắc.
Tục cướp cầu diễn ra trong thời kỳ hội mùng 3 tháng giêng. Đây là một
lễ hội đặc biệt của cư dân vùng này. Hàng năm, trong ngày hội, dân chúng
các xã lân cận đã kéo nhau tới đây rất đông để xem và đôi khi cũng tham dự
cuộc cướp cầu.
Mỗi năm dân làng cử một người may bộ cầu để tung cho dân làng
cướp trong dịp hội. Được cử may bộ cầu là một điều vinh dự trong dân xã,
thường là hương chức trong làng. Bộ cầu gồm một quả cầu mẹ và tám quả
cầu con. Mỗi quả cầu gồm một nắm bông bọc trong vải ngũ sắc có thêu chỉ
mầu sặc sỡ. Một sợi chỉ được đính vào quả cầu, một đầu chỉ buộc vào một
ngành tre. Mỗi quả cầu đều có dải buông thõng. Dải được khâu bằng lụa màu
hoặc kết bằng chỉ sặc sỡ.
Sáng ngày mùng 3 Tết, dân làng tới nhà vị hương chức được chỉ định
may cầu để rước bộ cầu ra đình. Đám rước long trọng có cụ Tiên chỉ trong
làng cầm hương, các nam nữ thanh niên đi theo, có phường bát âm cử nhạc
điểm theo tiếng chiêng trống rất oai nghiêm. Chín mẹ con quả cầu bày trên
Long đình do bốn thanh niên khiêng. Rước tới đình, cả bộ cầu được kính cẩn
đặt lên bàn thờ thay cho bộ cầu năm trước. Kế đó là lễ tế cầu. Tế cầu xong là
cuộc tung cầu để tất cả những người đi trẩy hội cùng chen nhau cướp.
Cầu tung từng ba quả một, mỗi lần tung đều do một vị hương chức
hoặc một vị bô lão đảm nhiệm.
Đầu tiên là ông Tiên chỉ hoặc viên trưởng lão trong làng tung quả cầu
mẹ và hai quả cầu con. Vị này trước hết phải đọc một bài văn chúc, đại ý ca
tụng phong cảnh của làng, dân phong và nhất là sự linh thiêng của đức Thành
Hoàng đã che chở cho dân được thịnh vượng, làng xã được yên bình. Sau
bài văn chúc ba cành tre được giơ cao theo nhịp trống thờ. Khi tiếng trống
dứt, dân làng hò reo ầm ĩ. Dứt hồi hò reo, vị Tiên chỉ lại đọc một bài văn chúc
thứ hai cầu cho dân chúng trong xã gặp được mọi sự tốt lành. Tiếp theo bài
văn chúc thứ hai lại là một hồi trống và một loạt hò reo ầm ĩ.
Sau đó vị Tiên chỉ hoặc niên trưởng tháo ba quả cầu buộc ở ngành tre
ra, buộc lại với nhau làm một rồi tung lên để dân chúng xô nhau cướp. Bộ ba
quả cầu không kịp chạm đất đã có người đỡ, nhưng liền đó, người đỡ được
ba quả cầu lại bị người khác chen đẩy giằng mất. Họ xô lấn nhau, họ chen
chúc nhau, họ cười, họ gọi nhau ơi ới, người này ngã, người kia reo, cho đến
khi một người nắm chặt được bộ cầu, sự ồ ạt mới ngừng.
Sáu quả cầu sau đó do hai vị chức sắc hoặc bô lão khác mỗi người
tung ba quả, nhưng lần này, không còn hai bài văn chúc, chỉ có trống đánh
nhịp và tiếng hò reo của người dự hội. Mọi người lại xô đẩy chen lấn nhau
như lần thứ nhất. Họ tin rằng cướp được quả cầu sẽ gặp may mắn. Họ tranh
nhau rất hăng hái, đàn ông, đàn bà, thanh niên nam, nữ đều dự cuộc, không
phân biệt người thân kẻ lạ, người gần kẻ xa, người sang kẻ hèn.
Cướp được cầu, dù một quả hay bộ ba quả đều có thể đem về nhà làm
kỷ niệm, hoặc để thờ tại đình. Thường thường dân làng Bạch Hạc cướp được
cầu, họ mang tới đình để thờ cho tới năm sau.
Tục cướp cầu, tuy chỉ là một cổ tục cử hành hàng năm theo nghi thức
cổ truyền, nhưng đây chính là một cổ tục đề cao tinh thần thượng võ của dân
tộc Việt Nam.
Còn cuộc thi thuyền được tổ chức vào ngày rã đám trong kỳ hội từ
mùng 10 đến 11 tháng ba. Địa điểm tổ chức là trên dòng sông Lô để dân xã
và khách trẩy hội từ thập phương tới có thể đứng hai bên bờ sông dự xem.
Làng Bạch Hạc có bốn giáp: Bộ Đầu, Tiểu Hạc, Đông Nam và Thần
Chúc. Mỗi giáp có một chiếc trải dài bằng gỗ chò, dài hơn hai chục thước,
rộng chừng thước rưỡi, đóng bằng nguyên cả cây gỗ theo chiều dài. Chiếc
trải có năm có tới chục bơi chèo ở hai bên; đầu trải uốn thành rồng và đuôi
trải cũng lượn khúc như đuôi rồng.
Để dự cuộc bơi trải các giáp đều kén những dân đinh khoẻ mạnh làm
những tay bơi. Mỗi giáp có khoảng năm chục người là những tay trải chính,
ngoài ra giáp nào cũng kén một số người dự khuyết. Ngoài những tay bơi,
mỗi giáp còn phải kén ba người (thường là các bậc đàn anh trong giáp), một
người đứng đầu thuyền cầm cờ hiệu, một ngươi đứng giữa gõ một chiếc
trống khẩu để giữ nhịp cho những tay chèo, và ở cuối thuyền, một người ngồi
cầm lái. Mỗi bên mạn thuyền là hai mươi lăm tay chèo, đây là những tay trải
lực lưỡng đã được hàng giáp lựa chọn, và đã có luyện tập cùng với ba vị đàn
anh điều khiển chiếc trải. Trong lúc bơi, họ vừa chèo vừa hò reo.
Người đứng đầu thuyền cầm cờ hiệu, và đồng thời cầm trịch cho chiếc
thuyền bơi. Người này trước hết phải luôn luôn đứng cho cân, tự giữ lấy
thăng bằng, mặc con thuyền lao đi vun vút trên mặt nước theo đà các tay
chèo, trong khi đó lại phải cầm trịch cho chiếc trải, dùng cờ hiệu phất cho
chiếc trải hoặc đi thẳng, hoặc tiến trái, hoặc tiến phải, hoặc vòng theo một độ
nào để quay đầu trở lại đây quả là một việc không dễ dàng bởi chỉ cần một
chút sơ ý có thể bị ngã lao xuống nước trong khi chiếc trải vẫn vun vút bơi đi.
Người cầm trống khẩu đứng giữa thuyền cũng phải giữ thăng bằng tốt,
để không bị ngã và tiếng trống phải đều để khỏi lạc tay chèo những người
đang bơi. Người cầm lái đứng ở cuối đây có thể coi là người cầm cả vận
mệnh của chiếc trải trong tay. Trải đi nhanh hay chậm là do nhiệm vụ người
cầm lái. Anh ta phải giữ lái cho trải đi thẳng, phải lựa tránh những chiếc trải
khác mà vẫn vượt lên đầu; lúc quay, khi lượn, phải lựa cho thuyền theo lái...
Với từng ấy khó khăn, ngươi cầm lái lại phải đứng cho vững, cho cân ở cuối
thuyền vì nếu vô ý ngã xuống sông, chiếc trải không lái sẽ bơi ngang, bơi
ngửa... Người cầm lái phải luôn luôn để ý tới người cầm trịch, theo hiệu của
người cầm trịch để lái chiếc trải.
Năm chục tay chèo, đã ngồi xuống chiếc trải, phải chú ý hết sức đến
việc bơi, tai phải nghe tiếng trống, tay phải bơi cho đều, tránh không để sai
nhịp với bạn cùng bơi. Một tay chèo bơi sai nhịp, có thể gây rối loạn cho ba
bốn tay chèo khác, có khi cho cả một mé chiếc trải. Thật là khó khăn! Do đó
phải có sự luyện tập hàng tháng trước.
Lúc xuống bơi trải, các tay chèo đều mình trần đóng khố, mỗi đội một
màu khố, trông rất đẹp và khoẻ khoắn, có thể ví họ như những bức tượng
đồng lực sĩ.
Lúc cuộc thi bắt đầu, bốn chiếc trải xếp hàng đều nhau ở trước cửa
đình làng rất nhộn nhịp làm cho người xem và người dự cuộc đều hân hoan.
Dân giáp nào cũng hồi hộp như chính những tay bơi vậy.
Trên chiếc trải, ngoài những tay chèo mình trần đóng khố, ba người
đàn anh cầm trịch, đánh trống và giữ bánh lái, người nào cũng khăn áo chỉnh
tề, thắt lưng đỏ buộc múi sang bên, trông có vẻ ung dung bình tĩnh và rất tự
tin.
Các chiếc trải khởi hành ở trước cửa đình làng và bơi cho tới ngã ba
nhánh sông Chảy vào sông Lô. Theo lời truyền tụng đây là dân làng diễn lại
tích đức Thổ lệnh đại vương tiễn đức Tản Viên ra về lúc đức Tản Viên tới
thăm ngài. Chiếc trải về tới đình trước nhất sẽ được giải thưởng.
Dân làng Bạch Hạc giải thích cuộc thi bơi trải bằng sự tích: đức Thổ
lệnh tiễn đức Tản Viên. Nhưng trên thực tế, dân ta cần luôn luôn tập luyện
cho quen, sông nước, và kết quả là đã hơn một lần chúng ta thắng giặc trên
mặt sông với những Bạch Đằng giang, Chương Dương Độ và cả trận sông Lô
năm 1947, khiến gần ba nghìn quân Pháp vong thân trôi theo dòng nước!
Gặp những năm làm ăn thịnh vượng, mùa màng bội thu, nhân dịp hội
tháng ba, ngoài bơi trải dân làng Bạch Hạc còn tổ chức đấu cờ người thay
cho cờ bỏi. Cờ người cũng chơi như cờ bỏi chỉ khác quân cờ thay vì những
biển cờ có khắc chữ là những nam nữ thanh niên mặc quần áo có thêu chữ
mang tên những quân cờ ở trước ngực và sau lưng. Cũng có nơi, quân cờ
mặc quần áo như thường, nhưng có thêm chiếc biển khắc hoặc viết chữ theo
bộ cờ và mỗi nước đi, nếu quân cờ di chuyển phải mang theo chiếc biển của
mình. Tại mỗi vị trí của bàn cờ đều có một chiếc ghế để quân cờ ngồi.
Tại những xã lớn thịnh đạt, những nam nữ đóng quân cờ còn mang
theo khí giới, và khi quân bên nọ ăn quân bên kia, quân cờ ăn sẽ múa một thế
võ như hạ quân cờ bị ăn, y như trong một màn hát bội.
Trên đây là mấy cổ tục đặc biệt diễn ra hàng năm tại xã Bạch Hạc trong
những ngày hội. Nhờ những cổ tục này mà hội Bạch Hạc thu hút đông đảo
người xem.
(Theo http:/ /www.e-cadao.com)
2. Lễ hội chọi trâu
Dân gian xưa có câu:
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mùng chín tháng tám thì về chọi trâu.
Hội chọi trâu ở Đồ Sơn có từ bao giờ? Tới nay chưa tìm ra chứng cứ
hoặc văn bản nào ghi lại. Còn truyền thuyết về nguồn gốc lễ hội "độc nhất vô
nhị" này thì có rất nhiều. Mỗi một truyền thuyết đều gắn với một sự tích kỳ bí
khác nhau, nhưng đều khẳng định: Hội chọi trâu là mỹ tục hào hùng đề cao
tinh thần thượng võ, lòng quả cảm độc đáo của người Đồ Sơn.
Hội chọi trâu Đồ Sơn đã từng mai một trong suốt một thời gian dài.
Năm 1990, Đảng bộ, chính quyền thị xã Đồ Sơn đã có nhiều biện pháp khôi
phục lại hội chọi trâu truyền thống. Để có những ngày hội náo nức, người dân
Đồ Sơn phải chuẩn bị rất công phu trong khoảng 8 tháng. Quan trọng nhất là
việc tìm và nuôi dưỡng trâu.
Sau Tết âm lịch, các xới chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi
khắp nơi để mua trâu. Họ thường đến những vùng lân cận như Hải Dương,
Hưng Yên, Thái Bình... và một số huyện ở ngoại thành Hải Phòng để tìm mua
trâu. Theo kinh nghiệm thì trâu chọi được mua ở những nơi này thường giật
giải nhiều hơn. Chọn trâu là một công việc cầu kỳ và tỉ mỉ. Những con trâu đủ
tiêu chuẩn là những con trâu đực khoẻ mạnh: ức rộng, cổ tròn dài và hơi thu
nhỏ về phía đầu. Đó là trâu cổ cò. Lưng trâu càng dày, càng phang càng tốt.
Háng trâu phải rộng, nhưng thu nhỏ về phía hậu, càng nhọn càng quý. Sừng
trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng
có túm tóc hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ.
Mặt trâu càng giống mặt ngựa là trâu chọi hay.
Việc chọn trâu đã khó, việc huấn luyện trâu càng khó hơn. Những
người được cử ra chăm sóc trâu thường là những người có nhiều kinh
nghiệm. Trâu chọi được nuôi ở chuồng riêng, kín đáo. Điều đặc biệt là không
cho trâu chọi trông thấy trâu nhà. Mục đích là để trâu chọi khôi phục bản năng
hoang dã. Trâu được huấn luyện tại các sới chọi là những bãi đất rộng, nhiều
người đứng xung quanh, gõ chiêng trống và hò hét để tập cho trâu quen với
không khí của ngày hội. Những người nhiều kinh nghiệm mới có thể huấn
luyện cho trâu có những miếng đánh hay, độc đáo. Trâu được chọn là trâu
chọi, mọi người đều phải gọi là "Ông trâu". Trâu nào đoạt giải nhất, được tôn
lên thành cụ: "Cụ trâu".
Ở Đồ Sơn, mỗi phường đều có những người mê trâu chọi, có kinh
nghiệm chọn, chăn dắt, huấn luyện trâu chọi, đáng tôn bậc nghệ nhân. Trong
ngày hội, tên của họ được nhắc đến với tư cách là chủ của "Ông trâu" đang
vào trận.
Mở đầu hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm Tước (vị Thuỷ Thần Đồ Sơn và
cũng là Thành Hoàng chung cho cả vùng Đồ Sơn). Gần đây nhiều thủ tục
trước khi chọi có phần đơn giản hơn, nhưng không vì vậy mà lượng người
đến xem ít đi. Trái lại quanh sân vận động, người trẩy hội vẫn vòng trong,
vòng ngoài.
Sau tiếng loa giới thiệu, các "Ông trâu" được các chàng trai dẫn vào
sới. Khi cách nhau khoảng 20m các đối thủ được bỏ sẹo. Lúc này cả đấu
trường lặng đi một lúc. Bất chợt, hai trâu lao vào nhau gọi là thế "tử lao".
Cuộc đấu diễn ra trong tiếng reo hò vang dậy của hàng ngàn khán giả.
Có trận chọi trâu chỉ diễn ra dăm phút là có thể phân thắng bại. Song có
trận kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Không khí sới chọi sôi động, tiếng cổ vũ, vỗ
tay, reo hò vang dậy. Cuối trận đấu là màn thu trâu diễn ra đầy tính nghệ
thuật và không kém phần hồi hộp. Khi con trâu thua bỏ chạy, trâu thắng vẫn
còn hăng máu đuổi theo, người bắt trâu có nhiệm vụ giữ trâu thắng lại. Đây là
một việc làm dũng cảm, vì hai trâu chỉ cách nhau vài mét, nếu không có kinh
nghiệm sẽ rất nguy hiểm.
Theo truyền thuyết và Thần tích kể rằng, từ rất lâu, một số ngư dân ở
bể Thần Hóa bị bão làm trôi dạt vào chân núi Tháp. Nhưng khi đó Đồ Sơn con
hoang vu, con người bất lực trước thiên nhiên, họ chi biết cầu xin Thần linh
phù hộ. Đúng vào dịp rằm tháng tám, chợt nhìn thấy trên biển có vòng hào
quang lớn, giữa hào quang là một cụ già đầu tóc bạc phơ, đang ngắm nhìn
một đôi trâu đang chọi nhau trên song. Người Đồ Sơn thuở ấy tin rằng Thần
hiển linh phù hộ nên lập đền thờ theo duệ hiệu Thần là "Điểm Tước Đại
vương". Họ đi mua trâu về mổ để tế Thần. Qua đình, hai con trâu quay vào
nhau chọi nhau quyết liệt. Người dân cho rằng Thần thích xem trâu chọi nên
Hàng năm tổ chức chọi trâu để tế Thần và hội chọi trâu bắt nguồn từ đó.
Từ cuối tháng giêng âm lịch, ăn Tết xong là người Đồ Sơn đã ngược
lên mạn Tây Bắc, hay xuôi vào Nghệ An, Hà Tĩnh để tìm cho được những con
trâu tốt với những đặc điểm: "ức rộng, háng to, cổ cò, đuôi trai, đít nhót, lưng
tôm bà, sừng cánh cung...", độ tuổi từ 7 - 8 năm tuổi.
Mua được con trâu vừa ý là điều đáng mừng, nhưng để con trâu chọi
được và đem về chiến thắng cho phường thì còn phải luyện. Khi mới đưa về,
trâu thường được tẩm bổ cho có đủ sức lực rồi tập chạy, lội bùn, leo núi để
thích nghi với những biến đổi thời tiết nhằm nâng sức chịu đựng và sự dẻo
dai. Tùy từng trường hợp, có thể vót sừng nhọn hoặc múi khế. Tiếp đó là tập
cho trâu bạo dạn trước đông người và âm thanh huyên náo, mầu sắc rực rỡ
để khi bước vào hội trâu không bị bỡ ngỡ. Trước khi vào vòng chung kết,
vòng loại thường được tổ chức vào ngày 8 - 6 âm lịch. Trâu được vào vòng
trong sẽ tiếp tục được luyện tập với cường độ cao hơn, học những ngón đòn
hiểm hơn nữa.
Lễ hội chọi trâu cũng như nhiều lễ hội khác có hai phần, là phần lễ và
phần hội đan xen. Từ ngày mùng 1 đầu tháng, các vị cao niên trong làng đã
ra làm lễ tế thần Điểm Tước ở đình Tổng. Lúc này, các làng có trâu chọi đều
phải ra làm lễ. Sau đó là lễ rước nước (có gắn với tục tế Thuỷ Thần). Lọ nước
Thần mỗi năm thay một lần được từng làng (phường) mang về đình riêng. Tại
đình làng, các chủ trâu cho trâu ra làm lễ Thành Hoàng. Sau khi làm lễ Thần,
trâu chọi chính thức được gọi là "Ông trâu".
Sáng ngày chính hội, 9 - 8 âm lịch, dân cư trong phường đều kéo ra
đình. Từ đây, lễ rước các "Ông trâu" ra xới đấu với kiệu bát cống, long đình
bát biểu, cờ Thần bay phấp phới, rộn rã trong tiếng nhạc bát âm.
Phần hội diễn ra với nhiều hoạt động mang đậm bản sắc dân tộc. Điệu
múa khai hội được 24 tráng niên của làng chia thành hai hàng trình diễn vừa
uyển chuyển, vừa mạnh mẽ, màu sắc biến hoá linh hoạt và huyền ảo trong
âm thanh của trống, thanh la. Theo cách nói của các lão làng, tiếng trống,
tiếng thanh la có tác dụng tạo không khí trong sân bãi thúc giục các "Ông
trâu" thi đấu thêm phần quyết liệt. Màn múa cờ với, những lá cờ vung lên quật
xuống mạnh mẽ, dứt khoát, nhịp nhàng, có lúc đan chéo vào nhau như hai đội
quân đang giao chiến, thể hiện sự dũng cảm của con người chống chọi với
biển khơi.
Đúng 8 giờ, tiếng trống, tiếng chiêng khai hội, tiếng loa gọi các "Ông
trâu" vào trận vang lên. Từ hai cổng Bắc - Nam của xới đấu, từng đôi trâu
được dắt ra đứng dưới chân cột cờ Ngũ Phụng (ở hai bên). Hiệu lệnh phát ra
thì hai trâu từ hai phía di chuyển lại gần nhau hơn, cách nhau chừng 20m.
Hiệu lệnh tiếp theo người dắt trâu đột nhiên rút dây mũi, hai trâu liền lao vào
nhau. Thường thì các trâu chọi đâm phập vào nhau, một tiếng động khô khốc
của sọ trâu, sừng trâu va chạm. Cú đánh này có tên là miếng "hổ lao". Sau
miếng hổ lao có khi làm nổ mắt, long sừng, vỡ sọ, hai đấu thủ hăng tiết choãi
chân lấy tấn, dùng lực từ đẩy lùi hoặc lật ngửa đối phương bằng cặp sừng
khóa chặt vào nhau. Cũng có nhiều cặp trâu vào trận cứ ung dung, cứ nhởn
nhơ gặm cỏ, hít hít, nghênh nghênh. Theo những người có kinh nghiệm đây
là lúc trâu đang thăm dò nhau để tìm ra ngón đòn quyết định có thể là một cú
"cáng" hoặc "càm" hiểm hóc để phân thắng bại. Khi con trâu thua trận bỏ
chạy, là lúc người có trâu thắng phải thực hiện "thu trâu" rất nguy hiểm.
Sau trận đấu, dù thắng hay thua, trâu chọi đều được xẻ thịt để lễ tạ
Thành Hoàng. Thịt trâu chọi còn được đem bán để người dân mua với ý
nghĩa lấy lộc cho cả năm.
Theo quan niệm cổ xưa, nếu trâu làng nào thắng trận trong lễ hội, năm
ấy cả làng sẽ gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hoà, mọi người bình yên
trong suốt hành trình đi biển. Bởi thế lễ hội chọi trâu mang đậm nét văn hoá
tâm linh của người dân miền biển đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn của
du khách, góp phần tạo nên phong cách rất riêng cho một vùng duyên hải.
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
3. Lễ hội chùa Hương
Hương Sơn là một quần thể gồm những danh lam thắng cảnh và di tích
nằm trên một dải núi chạy từ núi Hoàng Côn trong dãy Hoàng Liên Sơn, vượt
qua sông Đà, núi Ba Vì, qua Chương Mỹ - Hà Nội xuống tận Nho Quan - Ninh
Bình. Ca dao có câu:
Một vùng non nước bao la
Rằng đây lạc quốc hay là Đào Nguyên
Hương Sơn là chốn non tiên
Bồng lai mà thấy ở miền nhân gian.
Cảnh sắc Hương Sơn quả là danh bất hư truyền. Bên cạnh các cảnh
đẹp thiên tạo như suối Yến, động Hương Tích, động Tiên Sơn, động Tuyết
Quỳnh, suối Giải Oan... còn rất nhiều các công trình kiến trúc nghệ thuật do
bàn tay con người tạo nên và đã trở thành những di tích lịch sử rất có giá trị
như đền Trình, chùa Thiên Trù, đền Cửa Võng, Hương Sơn Tự...
Quần thể danh thắng Hương Sơn hình thành ba tuyến chính
a) Tuyến Hương Tích: gồm suối Yến, đền Trình, cầu Hội, chùa Thanh
Sơn, hương Đài, Thiên Trù, Hinh Bồng, chùa Tiên, chùa Giải Oan, đền Cửa
Võng, động Hương Tích.
- Suối Yến
Trong các thắng cảnh Hương Sơn, núi non trùng điệp với những dòng
suối hiền hoà lượn quanh đã tạo nên cảnh "sơn thuỷ hữu tình" như mộng,
như mơ, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là suối Yến. Suối Yến mang một vẻ đẹp
hiền hoà giữa hai triền núi. Suối dài khoảng 3km với khúc thẳng, khúc quanh,
khiến cho du khách có cảm giác như con suối dài vô tận. Vào mùa lễ hội,
dòng suôi hiền hoà bỗng sôi động hẳn lên bởi những con thuyền thoi lao vun
vút chở khách vào đi hội và thăm cảnh chùa.
Lên thuyền từ bến Đục, theo dòng suối Yến, du khách có thể thư thái
thả hồn mình hoà quyện cùng thiên nhiên. Phía bên trái là núi Đụn, trông tựa
như một đụn thóc; gần núi Đụn là núi Soi có hình giống như con kỳ lân nên
còn được gọi là núi Lân; cạnh núi Soi là núi Ái và núi Phượng đang dang rộng
cánh (cánh là hai chỏm núi) mà đầu và mỏ Phượng là chùa và động Thanh
Sơn. Đi quá lên một chút là núi Đổi Chèo giống hình một con trăn lớn đang bò
trên mặt nước; gần đó là núi Bưng và núi Voi với những truyền thuyết thật thú
vị.
Hương Sơn có tới chín chín ngọn núi có hình con voi quay đầu về động
Hương Tích, riêng có một ngọn núi lại quay đầu ra, quay mông vào.Theo
truyền thuyết, giận quá, Hộ Pháp lấy gươm phạt vào một mảng mông voi nên
bây giờ núi Voi vẫn bị sạt mất một mảng. Qua núi Voi, đến núi Mâm Xôi. Phía
bên phải, từ ngoài vào là núi Ngũ Nhạc có Đền Trình. Du khách dừng chân
vài phút để ghé vào thắp hương, trình lễ với Sơn Thần. Đi tiếp là núi Dẹo, núi
Phòng Sư, hang Sơn Thuỷ Hữu Tình, hang Trâu, cầu Hội, Thung Dâu... Và
nơi cuối cùng của dòng suối Yến là rừng Vài và núi Nhà Lang Lão Tác.
- Chùa Thiên Trù
Chùa còn có tên gọi là chùa Trò, trước đây chỉ là một thảo am nhỏ do
hoà thượng Vân Thuỷ Thiền Thiên sáng lập. Trong kháng chiến chống Pháp
chùa đã bị phá huỷ và đến năm 1954 được xây dựng lại. Năm 1991, Tam Bảo
Thiên Trù được xây lại to đẹp như ngày nay. Bên phải chùa là vườn tháp, nơi
cất giữ xá lị của các vị Tổ sư quy tịch. Sau chùa, bên sườn núi còn có toà
Thiên Thuỷ tháp, bên trái có chiếc hồ hình bán nguyệt.
Sau khi vào chùa lễ Phật, du khách nghỉ ngơi lấy sức để tiếp tục cuộc
hành trình mới.
- Chùa Tiên Sơn
Từ Thiên Trù (chùa Ngoài) rẽ phải theo một con đường nhỏ men sườn
núi lối đi vào chùa Trong khoảng hơn 1km là tới chùa Tiên Sơn. Chùa được
dựng trên một ngọn núi cao. Chùa nhỏ nhưng có cổng tam quan vút cao như
sắp bay lên. Chùa ở trong động Núi Tiên, thờ Phật Bà Quan Thế Âm. Trong
động có những nhũ đá rủ xuống với nhiều dáng vẻ khác nhau, có những nhũ
đá khi gõ vào thì nổi lên tiếng tiêu thiền nhã nhạc du dương.
- Chùa Giải Oan
Vẫn trên đường vào chùa Trong, rẽ tay trái là chùa Giải Oan. Chùa do
Sư Tổ Thông Dụng huý Thám pháp danh Cương Trực đời thứ 2 khai sáng.
Chùa được dựng ở lưng chừng núi Long Tuyền, lúc đầu chỉ là một thảo am
nhỏ bằng tre gỗ đơn sơ. Năm 1995 chùa được tu bổ thêm am Từ Vân, kè lại
sân chùa.
Chùa là nơi thờ phụng đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Hiện nay am Từ Vân
còn lưu giữ được pho tượng Tứ Tý Quán Âm được đúc vào thế kỷ 18. Trong
chùa có giếng Thanh Trì nước trong suốt không bao giờ cạn. Tương truyền
đây chính là nơi đức Chúa Ba (Quan Âm Diệu Thiện) đã dùng để tắm, tẩy
sạch bụi trần trước khi đi vào cõi Phật. Từ đó giếng này được gọi là giếng
Giải Oan, khách đi lễ thường múc nước uống để cầu mong giải thoát khỏi mọi
nỗi oan ức trên đời.
- Động Hương Tích
Từ chùa Giải Oan, du khách lại tiếp tục cuộc hành trình khoảng 2,5km
lên động và chùa Hương Tích (còn gọi là chùa Trong). Đường lên động có
nhiều chỗ quanh co, lúc lên dốc, lúc xuống dốc. Càng gần tới động thì dốc
càng cao. Lên tới bậc đá cao nhất đứng nhìn xuống, du khách sẽ nhìn thấy
một vòm hang rộng sâu hun hút trông giống như hàm của một con rồng đó là
động Hương Tích.
Qua cổng, đi xuống 120 bậc đá là vào tới lòng động. Ngay ở khoảng
giữa gần cửa ra vào có một nhũ đá gọi là "đụn gạo". Đi sâu vào một chút có
một lối lên Trời và một lối xuống âm phủ. Trong động những măng đá, nhũ đá
rủ xuống tạo thành muôn hình vạn dạng, người xưa thoả sức để đặt tên: nong
tằm, né kén, chuồng lợn, ao bèo, cây vàng, cây bạc, đầu cô, đầu cậu... Bên
cạnh những công trình điêu khắc thiên nhiên còn có những công trình điêu
khắc nhân tạo, trong đó giá trị nhất là pho tượng Phật Bà Quan Thế Âm bằng
đá xanh được tạc vào thời Tây Sơn.
Hương Tích là một động đẹp nổi tiếng và đã được chúa Trịnh Sâm (thế
kỷ 17) tự tay đề năm chữ Hán lên cửa động: "Nam Thiên đệ nhất động" (Động
đẹp nhất trời Nam).
b) Tuyến Long Vân: gồm động và chùa Long Vân, động Tiên, động
Người xưa, chùa Cây Khế, Hinh Bồng Tự.
Sau khi vào đặt lễ ở đền Trình, xuống đò đi tiếp, du khách sẽ thấy dòng
suối rẽ đôi, phía phải là đường vào Hương Tích, phía trái là đi vào động và
chùa Long Vân.
Chùa nằm ở trên sườn núi, một nửa lấp sau núi Ân Sơn, một nửa lộ ra
giữa rừng cây xanh biếc, mây trắng quấn quýt quanh năm. Chùa được xây
dựng vào năm 1920. Động Long Vân cũng được khai tạo vào thời gian này.
Động tuy nhỏ nhưng lam khói quanh năm nên khiến cho du khách luôn có
cảm giác thần tiên thoát tục.
c) Tuyến Chùa Tuyết: gồm đền Trình, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả, Bảo
Đài, đền Mẫu, đền Thượng, động Ngọc Long...
Sau khi vào chùa Thiên Trù, theo con đường nhỏ men sườn núi, rẽ trái
đi phía nam khoảng 4km là tới khu Tuyết Sơn. Đây là quần thể di tích đẹp thứ
hai sau động Hương Tích. Suối Tuyết tuy nhỏ nhưng nước trong xanh, uốn
lượn quanh co như một con rồng đang bò sâu vào trong dãy núi cao chất
ngất. Từ đây, du khách vào thắp hương, trình lễ ở đền Trình Phú Yên rồi vào
Bảo Đài Cổ Sái để lễ phật, nghe kinh. Chùa Bảo Đài có phong cảnh phong
quang u tịch, trong chùa có toà cửu Long có giá trị mỹ thuật cao.
Tiếp đến là động Ngọc Long, động không rộng lắm nhưng có những nét
đẹp độc đáo. Trong động, ánh sáng mờ ảo, nhũ đá, măng đá rủ xuống trông
như những ổ rồng quấn quýt. Đẹp nhất vẫn là pho tượng Bồ Tát Quan Thế
Âm tạc liền vào vách đá với vẻ mặt rất từ bi, nhân hậu.
Từ đầu thế kỷ 20, toàn khu Hương Sơn đã có tới hơn một trăm chùa,
trong đó có những ngôi chùa có quy mô lớn với nghệ thuật kiến trúc tinh xảo
như chùa Tam Bảo và nhà thờ Tổ Thiên Trù tráng lệ. Từ đó đến nay, việc
kiến tạo chùa có lúc thăng lúc trầm nhưng chùa Hương không bao giờ bị lãng
quên trong tâm trí người dân, điều này phản ánh vai trò của đạo Phật đối với
người Việt Nam có sức ảnh hưởng rất lớn.
Hội chùa Hương hàng năm thu hút tới hàng chục vạn người về trẩy hội,
trong đó có rất nhiều đoàn khách quốc tế. Có những hôm cao điểm khách về
hội tới cả vạn người. Ca dao cổ có câu:
Làng Yến Vĩ có non Hương Tích
Bao khí thiêng đất Việt đúc nên
Phật Quan Âm ngự toà sen
Mười phương quý tiện đua chen tìm về.
Người xưa thường nói hội chùa tự mở và tự đóng, thường là sau tết
Thượng Nguyên (rằm tháng giêng), khách đã đông đúc về hội đến khoảng
rằm tháng ba thì vãn khách.
Gần đây, hội chùa mở sớm hơn, ban tổ chức hội lấy ngày mùng 6
tháng giêng để khai hội (có năm chọn ngày mùng 2 hoặc mùng 4 tuỳ theo
ngày đó được xem là ngày tốt nhất đầu năm). Ngày này vốn là ngày lễ khai
sơn (lễ mở cửa rừng) của người làng Yến Vĩ và Phú Yên. Lễ mở cửa rừng
của làng Yến Vĩ tổ chức ở đền Ngũ Nhạc - khu đền xưa kia thờ Sơn Thần
(Ông Hổ) còn làng Phúc Yên làm lễ mở cửa rừng ỏ đền Hạ cũng thờ Sơn
Thần. Lễ khai sơn vốn là nghi lễ nông nghiệp của người Việt cổ tạ thần núi, tạ
Chúa Sơn Lâm cầu mong trong năm làm ăn gặp nhiều may mắn, mưa gió
thuận hoà, người dân được mạnh khoẻ, bình yên. Nay lễ này chỉ còn sót lại ở
một số vùng người Mường. Đối với cư dân ở đồng bằng, lễ khai sơn không
còn nữa mà có lễ hạ cây nêu (mùng bảy tháng giêng) chấm dứt một tuần vui
tết để bắt tay vào mùa làm ăn mới. Sau lễ khai sơn, dân làng mới đi rừng, làm
nương, phát rẫy và chuẩn bị cho lễ hội chùa Hương. Ngày nay, nghi thức mở
cửa rừng đồng nghĩa với mở cửa chùa - khai hội chùa Hương.
Do biến động về địa lý nên đền Trình của chùa Hương, xưa là ở đình
của làng Đục Khê, gần con sông Đáy, nay chuyển vào đền Ngũ Nhạc của
thôn Yến Vĩ (nơi diễn ra lễ mở cửa rừng) và có tên gọi mái là đền Trình.
Ngày mùng sáu tháng giêng là lễ khai hội, khách du lịch và các tín đồ
của đạo Phật đến hành hương rất đông. Ngày nay có lễ dâng hương tưởng
nhớ vị tướng của vua Hùng do nhà chức trách địa phương đảm nhiệm. Hôm
ấy, dân Yến Vĩ tổ chức múa rồng ở sân đền Trình, bơi thuyền múa rồng trên
dòng suối Yến.
Sau lễ mở cửa chùa, du khách trẩy hội trên ba tuyến, chùa Hương
đông dần, mà cao điểm nhất là vào ngày khánh đản Đức Quan Thế Âm,
nghĩa là ngày sinh của bà Chúa Ba Quan Âm Diệu Thiện. Lễ Khánh đản là
một nghi thức không thể thiếu trong truyền thống văn hoá vùng Hương Sơn,
gắn liền với truyền thuyết về việc tu hành đắc đạo của bà Chúa Ba ở trong
chùa Tiên Sơn của động Hương Tích.
Theo Phật thoại, chùa Hương là nơi Đức Quan Âm Bồ Tát đã tu hành
trong chín năm. Bà vốn là công chúa Diệu Thiện, thường gọi là bà Chúa Ba,
con của vua Diệu Trang Vương nước Hưng Lâm. Được vua cha rất yêu chiều
nhưng bà không tuân lời cha, không chịu lấy chồng mà quyết chí tu hành nên
bị vua cha sai lính giết. Ngọc Hoàng biết chuyện sai thần linh hoá hổ đến cứu
bà. Mãnh hổ cõng bà đến núi Hương Sơn. Nơi bà đặt chân xuống ngày nay là
hang Thánh Mẫu, còn gọi là am Phật Tích (tương truyền vẫn còn dấu chân bà
in trên đá cho đến tận ngày nay). Bà sang một vũng nước trong hang bên
cạnh tắm gội, rửa sạch oan ức, bụi trần, nơi đó sau thành chùa Giải Oan, có
giếng Thiên Nhiên Thanh Trì (còn gọi là giếng Giải Oan) và dòng suối Giải
Oan chảy trước cửa hang. Người xưa truyền rằng ai có oan ức điều gì, khi
đến đây hãy thành tâm lễ Phật và uống nước giếng Giải Oan là sẽ giải được
nỗi oan ức trong lòng.
Sau chín năm tu hành và đắc đạo, tuy đã trở thành Đức Quan Thế Âm
Bồ Tát nhưng bà không về trời mà lại ở lại trần gian để cứu khổ, cứu nạn cho
chúng sinh. Bà trở về chữa bệnh cho cha, giúp đất nước dẹp loạn và bắt đầu
sự nghiệp phổ độ chúng sinh, lắng nghe nơi đâu những lời than cầu mà đến
cứu giúp. Ngày nay, trong động chùa Tiên còn năm pho tượng đá trắng thể
hiện cảnh sum vầy của gia đình bà Chúa Ba sau bao năm gian lao, đau khổ:
Bà Chúa Ba ngồi giữa, phía sau là cha và mẹ. Phía trước bà là hai chị, chị cả
Diệu Thanh cưỡi sư tử xanh, chị hai Diệu Âm cưỡi voi trắng.
Lễ Khánh đản bà Chúa Ba diễn ra trong khoảng từ chiều ngày 18 đến
sáng ngày 19 tháng 2 âm lịch. Động chủ động Hương Sơn cùng các tăng ni,
Phật tử lập đàn Mông Sơn thí thực ở sân chùa Thiên Trù để cúng các vong
linh không có nơi nương tựa.
Sau khi tế đàn Mông Sơn, các sư tăng và Phật tử tụng kinh Phổ môn
trong chùa Thiên Trù từ khoảng 14 đến 16 giờ 30. Người được chọn để đứng
đầu tụng kinh phải là một chư tăng thành đạo và có căn duyên. Lễ vật chay
tịnh gồm có hoa quả, oản, xôi, chuối, bỏng... được đặt trên mâm trải dọc theo
các bậc thềm từ gác chuông đến gian giữa Tiền đường chùa Thiên Trù. Nơi
đứng hành lễ của hoà thượng chủ trì có một số bài vị hình nhân để làm lễ cắt
giải, trong có những đồng xu vối tổng số là 6 và hợp thể của 6 tượng trưng
cho lục căn, lục trần, lục đạo...
Sau lễ cúng Phật, hoà thượng đi tới bàn cúng, diễu quanh đàn lễ, lễ bái
các phương rồi lễ thỉnh các Thánh. Tiếp đến là tục cướp cháo cúng (còn gọi
là cháo lá đa). Trong khi hành lễ, vị sư chủ trì đọc kinh và thực hiện một số ấn
quyết.
Tối ngày 18, lễ kỷ niệm Khánh đản Bà chúa Ba được tổ chức tại sân
Thiên Trù và trong lòng động Hương Tích (trước ban thờ Phật). Khắp các
chùa và trong lòng động trên tuyến Hương Tích được chăng đèn, kết hoa. Tại
sân Thiên Trù có diễn chèo tái hiện lại sự tích bà chúa Ba. Trong tam bảo
chùa Thiên Trù và động Hương Tích, tăng ni và Phật tử tụng kinh niệm Phật.
Phật tử dâng lễ chay và cùng ngồi dự lễ.
Lúc 23 giờ, một đoàn tăng ni cùng động chủ Hương Sơn hành hương
lên động, vừa đi vừa tụng kinh niệm Phật Hương Tích đèn đuốc rực rỡ như
hoa đăng.
Đúng 24 giờ, đoàn người vào động Hương Tích và bắt đầu buổi lễ. Mở
đầu là động chủ Hương Sơn thuyết giảng về sự hoá thân của bà Chúa Ba và
sự tích của ngày Khánh đản. Sau đó, tăng ni Phật tử cùng đọc kinh và hành
lễ. Kết thúc buổi lễ, hoà thượng nhúng cành lá vào cốc nước tượng trưng cho
bình nước Cam Lồ của Phật Bà Quan Âm vẩy lên bàn lễ và chúng sinh xung
quanh để ban phước lộc cho mọi người. Sau đó là lễ đọc kinh Di Đà kéo dài
đến sáng sớm ngày 19 thì kết thúc.
Những người hành hương đến chùa Hương thường đi thành đoàn. Đến
đây du khách còn được thưởng thức hát chèo đò, hát văn - nét văn hoá đặc
sắc của Hương Sơn. Sau khi lễ Phật, các vãi thường tổ chức hình thức sinh
hoạt vui là hát chèo đò. Hát chèo đò được thực hiện ở bất cứ chỗ nào nhưng
đông vui hơn cả là ở sân chùa, sân nhà tổ. Các vãi có giọng hay đứng dậy
làm động tác như chèo đò và hát những đoạn văn trên sáu dưới tám kể lại
Phật thoại, gọi là kể hạnh. Các vãi già nghe hát, chắp tay thành kính và
xướng lại lời người hát như thể thức hát - hò.
Những đoàn tín đồ theo tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ đến lễ các
Thánh Mẫu ở các đền, điện thờ, chùa Giải Oan, điện Cô gần động Tuyết Sơn,
đền Mắc Võng thờ bà Chúa Thượng Ngàn... lại được xem những màn hầu
bóng kèm theo múa và hát văn. Thầy cúng hát văn có trống chầu, bộ nhạc cụ
đàn, sáo, nhị, hồ dân tộc phụ trợ. Lời hát văn nhiều chỗ khó hiểu nhưng nhịp
điệu hát lại luyến láy, hài hoà với các nhạc cụ dân tộc.
Người đã đến chùa Hương hẳn không quên một đặc sản rất hấp dẫn
của nơi đây là mơ. Nhờ chất đất ở vùng núi đá vôi nên mơ chùa Hương có
hương vị rất kỳ lạ: vị chua mà không gắt. Quả mơ to, cùi dày, hạt nhỏ, khi
chín có màu vàng, mùi thơm.
Mơ chùa Hương có tới bốn loại với vị khác nhau được người địa
phương gọi là mơ đào, mơ chấm son, mơ bồ hóng, mơ nứa. Cả bốn loại mơ
trên đều có tác dụng giải khát, ngâm rượu, làm ô mai, làm sirô... Ong bướm
rất thích bay đến với hoa mơ chùa Hương để làm mật. Mật ong từ hoa mơ
chùa Hương có chất lượng rất cao.
Đã hơn 700 năm nay, mơ chùa Hương còn được sử dụng làm thuốc
chữa bệnh đường ruột, trừ đờm, chữa các bệnh viêm họng, mất tiếng, phù
thũng, khô miệng, háo nước, an thần, đặc biệt là trừ ho, bổ phổi.
Người dân ở đây còn lấy gỗ cây mơ già, chặt từng thanh, từng miếng
nhỏ cho vào nước sạch nấu lấy nước uống gọi là nước "lão mai". Nước màu
hồng, thơm mát. Đến chùa Hương, ngửi mùi lan thơm trong gió, thoảng nghe
tiếng chim rừng, ăn một quả mơ rừng, uống bát chè lão mai, du khách cảm
thấy như đang được thoát tục, đạt tới sự viên mãn của cuộc đời.
Mơ là món quà trời đất đã ban cho chùa Hương, cho nên du khách
hành hương đến chùa Hương không mấy ai bỏ qua dịp mua một ít về, vừa để
thưởng thức hương vị đặc biệt của mơ, vừa để làm quà cho người thân.
Hội chùa Hương cứ đông vui tấp nập đến tháng ba, tới tận khi cái nắng
đầu hè oi bức làm cho thú leo núi không còn hấp dẫn nữa mới kết thúc, hội
vãn dần. Hội chùa Hương là mùa hội dài nhất ở Việt Nam, suốt 3 tháng mùa
xuân. Sau khi khép hội chùa, vào mùng 1, hôm rằm và các ngày chủ nhật
những tháng sau đó, du khách lui tới thăm Hương Sơn và lễ Phật vẫn đông
như hội.
Hội chùa Hương là cuộc hội ngộ của con người với con người, sự giao
hoà của con người với trời đất, với cõi Phật linh thiêng, là mơ ước của con
người về thế giới bình đẳng, chan hoà, chỉ có những điều thiện. Bởi thế đến
với chùa Hương là đến với cái chân - thiện - mỹ, phản ánh sự khao khát ước
vọng tự hoàn thiện bản thân của mỗi người. Yếu tố này tạo nên sắc thái văn
hoá du lịch của hội chùa Hương.
Đi hội chùa Hương, du khách không chỉ đi để lễ Phật mà còn để
thưởng ngoạn biết bao cảnh đẹp thiên nhiên và ngắm nhìn những công trình
kiến trúc đặc sắc lớn nhỏ của đạo Phật. Hương Sơn đã trở thành một đại kỳ
quan của đất nước và là cõi Phật trong lòng người dân Việt Nam.
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
4. Lễ hội Chùa Keo
Chùa Keo thuộc xã Vũ Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là ngôi
chùa có tổng thể kiến trúc đồ sộ, một danh thắng văn hoá - nghệ thuật hiếm
thấy ở vùng châu thổ sông Hồng. Hàng năm, hội chùa Keo diễn ra trong 3
ngày từ ngày 13 đến 15 tháng 9 âm lịch, suy tôn Đức thiền sư Không Lộ là
người rất giỏi Phật pháp, giỏi cả pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý.
Lễ hội chùa Keo được chuẩn bị rất chu đáo, mang đậm tính lịch sử -
văn hoá. Ngày 13, mở đầu là cuộc rước kiệu kỷ niệm ngày tịch của thiền sư
Không Lộ. Buổi chiều có các cuộc đua trải. Tối đến có cuộc thi kèn và trống.
Sáng 14, kỷ niệm ngày sinh của sư Không Lộ. Sau lễ dâng hương đến đám
rước gồm có đôi ngựa hồng, ngựa bạch có đủ yên cương và 4 bánh do người
kéo. Tiếp đến là 8 lá cờ thần, 42 người vác bát bửu lỗ bộ... Chiều 14, tại toà
Giá Roi diễn ra nghi lễ chầu Thánh mang tính nghệ thuật, đó là điệu múa cổ
còn gọi là "múa ếch vồ". Ngày 15, mọi nghi lễ diễn ra như ngày 14 nhưng có
thêm một số trò diễn sau khi rước kiệu hoàn cung.
Hội chùa Keo diễn ra đông vui tấp nập suốt 3 ngày, 3 đêm bằng nghi lễ
tôn giáo và một số tập tục cổ truyền để tưởng nhớ vị thiền sư đã có công với
nước và qua hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian đã phản ánh được lối
sống của vùng dân cư ven sông mang màu sắc văn hoá nông nghiệp của
đồng bằng Bắc Bộ.
(Theo http://www.e-cadao.com)
5. Lễ hội Chùa Thầy
Chùa Thầy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai (Hà Nội), nơi thờ pháp sư
Từ Đạo Hạnh với 3 kiếp sống của ông. Ông là Tăng, là Phật, là Vua và được
nhân dân coi là ông Tổ nghệ thuật múa rối nước Việt Nam.
Hội diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 3 âm lịch hàng năm. Ngày 7
tháng 3 âm lịch là chính hội. Hội mở đầu bằng lễ cúng Phật và chạy đàn - một
diễn xướng có tính chất tôn giáo với sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc,
trang nghiêm. Người đi hội bị cuốn hút theo nhịp hát kinh của các nhà sư.
Trong các ngày diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi, đặc biệt là múa rối
nước, mà sân khấu biểu diễn ở ngay trước Thủy đình với nhiều tích trò rối
như Thạch Sanh, Tấm Cám hay các cảnh sinh hoạt dân dã như đi cày, chăn
vịt, đấu vật. Đây là môn nghệ thuật truyền thống do sư tổ Từ Đạo Hạnh truyền
lại.
Trẩy hội chùa Thầy ngoài lễ Phật du khách còn được hưởng thú vui leo
núi, thưởng ngoạn cảnh trí thiên nhiên của xứ Đoài. Ngoài ra khách còn được
về thăm vùng quê văn hiến gắn với những huyền tích về những danh nhân,
những thiền sư của nhiều thời đại đã từng đến đây và làm giàu thêm những
giá trị truyền thống của miền đất danh thắng này.
Chùa Thầy có vẻ đẹp vừa linh thiêng, vừa huyền diệu. Hàng năm trước
khi mở hội, những nghi lễ bắt buộc được tiến hành trang nghiêm theo phong
tục cổ truyền như: lễ tắm tượng, lễ cúng Phật và chạy đàn, rước kiệu.
Trước mùa lễ hội, nhân dân xã Sài Sơn lại tập trung chăm lo nhiều tới
công tác vệ sinh môi trường, chỉnh trang khu di tích thắng cảnh, quy hoạch
hàng quán, có phương án bảo vệ an ninh trật tự cho lễ hội và bên cạnh đó
còn tiến hành tu bổ, hoàn thiện một số hạng mục công trình có giá trị. Các sư
trụ trì trong chùa và đông đảo phật tử ở Sài Sơn và các nơi cùng lo lắng cho
mùa hội được chu đáo. Xung quanh chùa, đường đi lối lại trong sân chùa và
trên núi Phong Quang được dọn dẹp sạch sẽ, gọn gàng.
Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 3 âm lịch, nhưng
cũng giống như chùa Hương, du khách đến chùa Thầy "lai rai" hết xuân và
vãn cảnh quanh năm. Ngày hội quan trọng nhất là ngày mùng 7, tương truyền
đó là ngày Pháp sư Từ Đạo Hạnh hóa Phật và hội chùa Thầy được mở ra
chính là để tưởng niệm ngài. Thiền sư Từ Đạo Hạnh khi đã học được pháp
thuật, trở về núi Sài dựng gậy tích, ngày đêm tụng tập rồi đi khắp nơi tham
thiền vấn đạo, sau trở về núi Sài dạy học, hái thuốc cứu dân, dạy dân nhiều
trò vui, trong đó có múa rối nước. Nhân dân đã tôn thiền sư làm thầy, vì vậy
chùa ngài tu là chùa Thầy, núi ngài hóa là núi Thầy, làng ngài sống là làng
Thầy.
Ngoài những sinh hoạt lễ hội hấp dẫn, đến hội chùa Thầy, du khách
còn được thưởng ngoạn danh thắng nổi tiếng: "Có động, có hồ, có chợ trời,
núi sông tiểu biểu giải kỳ quan". Kiến trúc ban đầu của chùa Thầy chỉ là một
thảo am nhỏ, xây dựng vào thời Lý Nhân Tông (1072 - 1127) là nơi Thiền sư
tu tập; sau mới xây thành quy mô lớn, gồm hệ thống chùa Thượng, chùa
Trung, chùa Hạ, chùa Cả. Quy mô, kiến trúc nghệ thuật chùa Thầy đặc sắc,
có hệ thống tượng thờ quý giá. Qua cầu Nguyệt Tiên Kiều, là đường lên núi,
trên đường lên núi có chùa Cao với hang Thánh Hóa (tương truyền là nơi
Thiền sư Từ Đạo Hạnh trút xác để đầu thai làm vua Lý Thần Tông); có hang
Các Cớ (tương tuyền là nơi nghĩa quân họ Lã tuẫn tiết). Trên núi có chợ Trời,
từ hang Cắc Cớ lên là đến đền Thượng, đi tiếp sẽ đến chùa Bối Am (chùa
Một Mái), cạnh chùa có đền kỷ niệm Phan Huy Chú, có nhà lưu niệm Bác
Hồ...
Như vậy, chùa Thầy không chỉ là công trình kiến trúc cổ có giá trị, thỏa
mãn các hoạt động tín ngưỡng mà còn thỏa mãn những hoạt động du lịch
thắng cảnh hấp dẫn đối với du khách. Hội chùa Thầy hàng năm diễn ra là sự
hòa hợp giữa tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Đạo giáo. Nhận thức được ý
nghĩa và giá trị của di tích danh thắng và để phát huy giá trị đó, hàng năm xã
Sài Sơn luôn dành kinh phí đầu tư cho công tác bảo vệ, tôn tạo, làm đẹp thêm
phong cảnh chùa Thầy. Do vậy dân gian mới có câu:
Vui nhất là hội chùa Thầy...
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
6. Lễ hội Cổ Loa
Cổ Loa là di tích lịch sử nổi tiếng nằm trên địa phận huyện Đông Anh
cách trung tâm Hà Nội khoảng 17 km về phía Tây Bắc, là một vùng thành trì
lớn, một dấu tích vật chất về kiến trúc quân sự và thành cổ cách đây hơn 2
thiên niên kỷ. Đây là thủ đô thứ hai của Việt Nam, sau Phong Châu (Phú Thọ)
- là thủ đô thời các vua Hùng). Thành Cổ Loa gắn liền với câu chuyện An
Dương Vương và Nhà nước Âu Lạc cuối thời Hùng Vương.
Tuy phải làm chứng cho một câu chuyện buồn về sự mất cảnh giác để
nước rơi vào tay giặc, song trải qua thời gian, thành cổ Loa vẫn luôn mãi là
niềm tự hào của người Việt Nam về lịch sử chống ngoại xâm. Hàng năm cứ
đến ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch, nhân dân Cổ Loa và khách du lịch trên
khắp mọi miền Tổ quốc lại về dâng hương tưởng niệm vua An Dương Vương
và tổ chức trọng thể lễ hội đền cổ Loa với các cuộc thi và trò chơi dân gian.
Làng Cổ Loa gồm 12 xóm nhưng hội cổ Loa là của chung một cụm tám
làng (ngày trước gọi là Bát Xã) gồm: Đài Bi, Sàn Dã, Cầu Cả, Mạch Tràng,
Văn Thượng, Thư Cưu, Cổ Loa, Xép. Cả tám làng này đều thờ Thục Phán
nên đều tham gia tổ chức hội. Hội bắt đầu từ sáng sớm ngày 6 tháng Giêng
âm lịch.
Ngay từ sáng sớm hôm đó, các chức sắc của tám làng đến nhà ông
Tiên chỉ của làng Văn Thượng (làng có đặc quyền soạn thảo văn tế) để rước
văn tế. Tại đây có một cái giá văn dán sẵn bài tế. Tiên chỉ và các chức sắc áo
mũ nghiêm chỉnh đến trước giá văn làm lễ rồi đám rước văn gồm có phường
bát âm đi đầu, đến các chức sắc và tám ông Tiên chỉ của tám làng cùng các
dân đinh khiêng giá văn tế, kiệu long đình, cờ lọng đi ra đền An Dương
Vương tức đền Thượng. Sân đền được bài trí cờ quạt rực rỡ cho cuộc tế
Thần.
Ngoài cửa đền, có ngựa hồng, ngựa bạch (bằng gỗ) đứng chầu. Hai
bên đường đi vào đền có các giá gỗ cắm cờ quạt và lộ bộ bát bửu (các đồ thờ
cúng làm theo kiểu dáng tám loại vũ khí). Kiệu của tám xã xếp theo thứ tự qui
định. Trước đền đặt một hương án lớn, trên để hộp kính đựng đôi hia vàng và
các đồ thờ. Trước hương án lớn là một hương án nhỏ hơn trên bày những
khí giới của vua Thục như cung, kiếm, tên, nỏ. Tiếp đó trải một hàng chiếu
cạp điều để làm chỗ tế Thần.
Khi đám rước tới, long đình được đặt trước hai hương án. Cuộc tế
Thần được tiến hành trong nền nhạc của phường bát âm. Tiên chỉ làng Văn
Thượng là chủ tế. Sau cuộc tế, đến lượt dân làng vào làm lễ. Cuộc lễ kéo dài
đến gần trưa mới xong.
Tiếp đó chuyển sang cuộc rước Thần đi đầu cũng là cờ quạt rồi đến
long đình cùng các lộ bộ bát bửu. Tiếp theo là phường bát âm và các quan
viên đội mũ tế áo thụng, đai hia, tay bưng các vũ khí của nhà vua. Liền sau đó
là chức sắc và trai đinh xóm Chùa thuộc làng Cổ Loa khiêng long đình trên có
bài vị của nhà vua. Rồi đến chức sắc và dân của các làng khác, mỗi làng
rước kiệu của mình, với cờ quạt, phường bát âm riêng. Toàn bộ đám rước rất
dài, lại đi rất chậm, đàn sáo tưng bừng. Đường đi bắt đầu từ đền Thượng
vòng quanh giếng Ngọc rồi theo đường chân thành Nội tới đình Ngự Triều. Đi
sau mỗi kiệu có 4 trai đinh mỗi người cầm một cây cờ đại, vừa đi vừa múa.
Tới ngã tư ở cửa điếm làng Cổ Loa kiệu làng nào quay về làng ấy. Riêng kiệu
của làng Cổ Loa thì quay vào đình Ngự Triều, được đặt trước sân đình và
dân Cổ Loa lại làm lễ Thần lần nữa. Đến lúc này là tối mịt, hết ngày lễ hội
chính nhưng đó chỉ mới là phần lễ.
Còn phần hội thì kéo dài tới rằm tháng giêng bằng nhiều trò vui. Tối ở
đình làng có đốt pháo hoa, hát ca trù, hát tuồng. Ban ngày, các cụ ông chơi
bài, đánh cờ. Các cụ bà đi lễ đình lễ chùa. Thanh thiếu niên nam nữ có trò
chơi: đánh đu, đấu vật, kéo co, leo dây, bắn cung nỏ, cờ người, nấu cơm thi,
chọi gà, đánh đáo mẹt...
Trong những ngày hội Cổ Loa, nhân dân quanh vùng cùng khách thập
phương đến xem thật đông, coi đây là dịp vui xuân có ý nghĩa.
Đền thờ Cổ Loa còn gọi là đền Chủ hay đền vua An Dương Vương, tọa
lạc tại xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội
Muốn trẩy hội Cổ Loa, du khách có thể đi tàu hỏa từ ga Hà Nội đến
Đông Anh, xuống ga Đông Kiều thì đến nơi. Nếu đi ô tô hoặc xe máy thì phải
qua Gia Lâm, cầu Đuống rẽ sang tay trái 15km, sau đó rẽ sang tay phải đi vào
1km nữa thì đến Cổ Loa.
Ở đây còn di tích thành cổ gọi là Loa Thành đắp từ thời An Dương
Vương (207 - 208 trước Công Nguyên). Thành đắp theo hình trôn ốc nên mới
gọi là thành ốc hay Loa Thành.
Thành Cổ Loa có ba lớp, xây bằng đất. Vòng trong cùng hình chữ nhật
dài 500m, rộng 350m, ở đây có hình Cổ Loa, chùa và đền cùng mộ Mỵ Châu,
vòng thứ ba hình trái xoan, chu vi 10km, là tuyến phòng ngự chính của Loa
Thành.
Trước khi vào Thành cổ phải đi qua cây cầu gạch bắc qua con suối
nhỏ. Tục truyền nơi đây thuở xa xưa, thần Kim Quy hiện ra và dâng lên nhà
vua cái móng chân rùa để dùng làm cái lẫy của nỏ thần.
Sau hai vòng ngoài, mỗi thành cách nhau chừng 200m, bên trái đình là
mộ và đền Mỵ Châu nấp dưới cây đa cổ thụ đình Cổ Loa cất theo lối cổ trông
đơn sơ, giản dị nhưng rất trang nghiêm. Trong hậu cung có bài vị vua An
Dương Vương làm bằng gỗ bạch đàn. Trước bài vị có tượng An Dương
Vương bằng đồng cao gần bằng người thật, đội mũ bình thiên. Còn đền Mỵ
Châu cũng có hậu cung và tượng Mỵ Châu bằng đá, tục truyền, đó là thân thể
nàng sau khi chết đã biến dạng trông giống như thiếu phụ đã cụt mất đầu.
Ngoài đền thờ vua Thục An Dương Vương ở Cổ Loa, còn có đền thờ
Vua Thục ở chân núi Mộ Dạ, thuộc xã Hương Ái, huyện Đông Thành, tỉnh
Nghệ An, tục gọi là đềng Cuông và ở xã Đông Cao, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh
Nam Định, cũng có đền thờ Mỵ Châu.
Những ngày hội đền Cổ Loa là những ngày để nhân dân trong vùng
họp mặt ôn lại những truyền thống đánh giặc giữ nước của Tổ tiên.
(Theo http://www.lyhocdongphuong.org.vn)
7. Lễ hội đền Cửa Ông
Đền Cửa Ông là một trong những di tích nhà Trần nổi tiếng ở vùng
Đông Bắc. Đền có 3 khu: đền Hạ, đền Trung và đền Thượng tạo thành quần
thể kiến trúc hình chân vạc trông ra vịnh Bái Tử Long hùng vĩ. Trong chiến
tranh, đền Trung và đền Hạ đã bị phá hủy, ngày nay đền Hạ đã được phục
hồi. Đền Cửa Ông thờ Trần Quốc Tảng, con thứ 3 của Trần Hưng Đạo cùng
nhiều tướng lĩnh nhà Trần có công đánh giặc và trấn ải vùng Đông Bắc. Đền
Cửa Ông còn thờ Hoàng cầu, một tướng lĩnh người địa phương có công dẹp
giặc.
Hàng năm, hội đền Cửa Ông chính thức mở vào ngày mùng 2 tháng
giêng cho đến hết tháng 3 (âm lịch). Đền Cửa Ông có tiếng linh thiêng từ khi
mới chỉ là một thảo am dưới gốc cây cổ thụ bên bờ cửa Suốt.
Vào mùa hội, đền Cửa Ông nườm nượp du khách từ khắp mọi miền
đất nước. Khách đến dự hội có thể đi bằng đường bộ qua thành phố Hạ
Long, cũng có thể đi bằng đường thủy ven vịnh Hạ Long, qua vịnh Bái Tử
Long đến sát cửa đền Hạ.
Trước kia nhân dân ở địa phương có tổ chức ngày hội chính vào ngày
mùng 2 tháng 3 âm lịch. Lễ hội được tổ chức linh đình tế lễ và rước kiệu bài vị
Trần Quốc Tảng từ đền ra miếu ở xã Trác Chân, tên tục là Vườn Nhãn (theo
truyền thuyết là nơi Đức Ông hoá trôi dạt vào...) và quay trở về đền tượng
trưng cho cuộc tuần du của Đức Ông.
(Theo http:// www.e-cadao.com)
8. Lễ hội đền Đô
Đền Đô là một ngôi đền đẹp toạ lạc tại làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 18 km. Lễ hội hàng năm được tổ chức từ ngày 15
tháng 3 đến ngày 19 tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ công lao của 8 vị vua nhà
Lý.
Chính hội là ngày 16 tháng 3, có lễ trình Thánh, rước kiệu long trọng.
Đám rước với hàng vạn người tham gia từ chùa Kim Đài đến đền Đô (khoảng
3km). Đi đầu đám rước gồm có một đoàn tướng võ, cởi trần, đóng khố, tay
cầm truỳ đồng và hàng trăm quân sĩ đi theo. Tiếp đến là 100 người khiêng
kiệu mặc áo đỏ, mũ đen. Đi đầu là kiệu của Thánh Mẫu có 18 nữ tướng theo
sau rồi đến kiệu Bát Đế, mỗi kiệu một con ngựa và có 16 nam tướng mặc áo
đỏ. Sau cùng đoàn rước là các vị mặc sắc phục lễ hội, hương lão và dân làng
dự hội, cờ lọng che rợp đồng nội, tiếng trống vang trời. Phần hội có các trò vui
như chọi gà, thả chim bồ câu, thi đấu vật, hát quan họ...
Du khách về dự hội đền Đô, vừa được dâng hương tưởng niệm 8 vị
vua nhà Lý, vừa được ghé thăm, vãn cảnh vùng đất Kinh Bắc. Đám rước hội
đền Đô vừa là dịp để tưởng nhớ các nhân vật lịch sử, vừa là dịp khơi dậy
lòng tự hào về cội nguồn dân tộc.
(Theo http://www.e-cadao.com)
9. Lễ hội Đền Hùng
Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương,
huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, ở độ cao 175m so với mực nước biển. Quần
thể di tích lịch sử Đền Hùng là đế đô của nước Văn Lang từ hàng nghìn năm
trước, là nơi ghi lại dấu tích của các vua Hùng trong buổi đầu dựng nước, trở
thành vùng đất Tổ thiêng liêng của dân tộc ta.
Xưa kia, các vua Hùng đã lựa chọn nhiều nơi, cuối cùng mới tìm được
"thánh địa" này để đóng đô. Nơi đây ở phía trước có sông "tụ hội", hai bên có
núi "chầu", bãi sông tiện lợi cho sinh hoạt của người dân, đất đai màu mỡ
thích hợp với việc cày cấy, trồng trọt, đất gò đồi cao thuận lợi việc lập ấp mở
làng.
Vùng đất Phong Châu gắn liền với bao truyền thuyết, huyền thoại như:
chuyện mẹ Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con mà con
cả chính là vua Hùng thứ nhất; truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh cầu hôn
con gái vua Hùng; chuyện công chúa Tiên Dung - con gái đầu của vua Hùng
kết hôn cùng chàng trai nghèo Chử Đồng Tử; chuyện vua Hùng dạy dân cày
cấy; chuyện Bà Trưng quê ở Châu Phong... Vùng đất lịch sử ấy ghi dấu cho
truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta trong suốt hàng nghìn
năm lịch sử. Ngọn núi Nghĩa Lĩnh còn là nơi tế Thần, tế Trời Đất của các vua
Hùng. Vì vậy, nơi đây có sức hút tâm linh, khiến người dân luôn nhớ về cội
nguồn thiêng liêng của dân tộc, điều này không phải dân tộc nào cũng có.
Chẳng thế mà trên thế giới có duy nhất Việt Nam có ngày Quốc giỗ.
Vào khoảng thế kỷ 7 trước Công nguyên, các vua Hùng đã thành lập
nước Văn Lang mà ban đầu là Bộ Gia Ninh (tức Phú Thọ ngày nay). "Đại Việt
sử lược" có ghi: "Đầu thời Trang Vương nhà Chu (tức vào năm 696 - 682
trước Công nguyên) ở Bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được
các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn
Lang... Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.
Tương truyền rằng nơi đây có tất cả 99 ngọn đồi vốn là 99 con voi có
nghĩa phủ phục chầu núi Tổ, riêng có 1 con bất nghĩa, quay ngược lại bị chém
đầu. Vì vậy, vùng này có một quả đồi có vết xẻ thành khe.
Khi vào khu quần thể di tích đền Hùng, trước mắt hiện ra là cổng đền
Hùng được xây theo kiểu tam quan, hai tầng, góc mái uốn cong. Bờ nóc có
"Lưỡng long chầu nhật" (hai con rồng cùng chầu mặt trời). Cách hai tường
ngắn là hai cột trụ, đỉnh có đắp đèn lồng và hình con nghê. Phía trên cửa
chính có 4 đại tự "Cao sơn cảnh hàng" (núi cao đường lớn).
Để đến được đền Hạ, du khách phải trèo lên 255 bậc thang bằng đá.
Theo truyền thuyết, đây là nơi mẹ Âu Cơ hạ sinh bọc trăm trứng, nở thành
trăm người con: 50 người theo cha là Lạc Long Quân xuôi về miền biển, 49
người theo mẹ lên núi, để lại 1 người làm vua nước Văn Lang, đó là vua
Hùng thứ nhất.
Trong khu vực đền Hạ có chùa Thiên Quang. Trước cửa chùa là cây
thiên tuế đã được trồng từ hơn 700 năm trước, tại nơi này, vào ngày 19 tháng
8 năm 1954, Bác Hồ đã nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ sư đoàn 308 có
nhiệm vụ tiếp quản thủ đô Hà Nội, Bác dặn: "Các vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Từ Đền Hạ, đi xuống chân núi ở phía Đông Nam khoảng vài chục bậc
đá là tới Đền Giếng - nơi thờ hai vị công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con
gái vua Hùng thứ 18. Trong đền có Giếng Ngọc, là nơi hai công chúa vẫn
thường ra đây soi bóng chải tóc lúc còn chưa xuất giá.
Từ Đền Hạ, leo lên 168 bậc thang đá là tới Đền Trung, tương truyền
đây là nơi các vua Hùng thường đến họp bàn việc nước với quần thần. Ngày
nay, nơi này là nơi thờ 18 chi vua Hùng. Những cây hoa đại ở đây đã có đến
600 năm tuổi mà vẫn toả hương thơm ngát.
Tiếp tục lên 102 bậc đá nữa, tới tận đỉnh núi Nghĩa Linh chót vót là Đền
Thượng, nơi các vua Hùng làm lễ tế Trời Đất, Thần Núi và Thần Lúa. Trước
đền Thượng có một cột đá lớn, cao khoảng năm gang, rộng ba tấc, dựng trên
bệ cao, khói hương ám đen, được gọi là đá Thề. Theo truyền thuyết, đây là
nơi vua Thục Phán đã nguyện xin đời đời tế tự các vua Hùng và giữ gìn cơ
nghiệp họ Hùng truyền lại. Trước đền, hoa hải đường rực đỏ, bướm bay rập
rờn. Trong đền, bức hoành phi có bốn chữ vàng "Nam Việt triệu Tổ" được
treo ở chính giữa.
Kề bên đền Thượng, thấp hơn vài chục bậc là lăng vua Hùng - mộ Tổ
ẩn hiện trong rừng cây xanh. Lăng được xây dựng vào đầu thế kỷ 20, kiến
trúc giản dị đơn sơ. Toàn bộ khu di tích hiện nay bao gồm 4 đền, 1 chùa, 1
lăng, đều được trùng tu hoặc xây thêm cách đây khoảng một trăm năm.
Từ đền Thượng nhìn xuống, du khách thấy phía xa xa là ngã ba Bạch
Hạc, nơi sông Lô nhập dòng với sông Hồng. Phía bên trái là đỉnh Ba Vì là nơi
công chúa Mị Nương - con gái vua Hùng thứ 18 cùng Sơn Tinh trấn giữ núi
cao. Bên phải là dãy Tam Đảo như bức tường xanh sừng sững chìm trong
mây trắng cuồn cuộn. Xa xa là núi Sóc Sơn, nơi Phù Đổng thiên vương cưỡi
ngựa sắt từ biệt quê hương bay lên trời. Trước mặt là vùng trung du với đồng
ruộng, đồi cọ, nương chè, làng xóm trù phú trải rộng ra trước mắt.
Có giả thuyết cho rằng người Việt Nam đã xây dựng đền Hùng và tổ
chức giỗ Tổ từ thế kỷ thứ 10. Lễ hội có nhiều nghi thức, phong tục mang đậm
bản sắc văn hoá dân gian Việt Nam. Từ đó đến nay, việc xây dựng các công
trình kiến trúc và tổ chức ngày giỗ Tổ được duy trì và ngày càng hoàn thiện.
Vào thời Lê, làng Cổ Tích và khu di tích đền Hùng bị giặc phương Bắc
tàn phá. Sau khi giành lại độc lập, vua Lê đã cho xây dựng lại đền Hùng, soạn
Ngọc Phả Hùng Vương thần tích vào năm Hồng Đức nguyên niên (1406) và
sao lại vào năm Hoàng Địch nguyên niên (1600).
Năm 2000, theo quyết định của Đảng và Nhà nước, ngày 10 tháng 3
(âm lịch) được chọn làm ngày Quốc lễ để dâng hương giỗ Tổ, chính hội đền
Hùng. Khác với các cuộc hành hương khác thường gắn với những nghi thức
tôn giáo, lễ hội đền Hùng lại có đặc trưng riêng, hoàn toàn tự nguyện, mang ý
nghĩa tưởng nhớ đến cội nguồn dân tộc. Người Việt Nam có câu:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười.
Đồ tế lễ ngoài mâm ngũ quả bao giờ cũng phải có bánh chưng, bánh
dày để nhắc lại sự tích Lang Liêu, cũng là biết ơn công đức các vua Hùng đã
dạy dân trồng lúa.
Hội đền Hùng có nhiều cuộc rước như rước Thần, rước voi, rước
kiệu... của các làng Tiên Cương, Hy Cương, Phượng Giao, Cổ Tích... Sau tế
lễ là đến phần hội với nhiều hoạt động văn hoá, nghệ thuật, hát ca trù (ở đền
Hạ) và nhiều trò chơi khác thể thao phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc
dân tộc. Đặc biệt, hát xoan, hát ghẹo được tổ chức ở đền Thượng là loại hình
dân ca độc đáo của đất Tổ, thể hiện "tầng sâu của nền văn hoá Việt Nam" với
các làn điệu: giáo trống, giáo pháp, xin huê - đố chữ, hát đúm, giã cá, xe chỉ -
vá may, mời trầu, bắc cầu, xẻ ván... Bên cạnh đó là các hoạt động thể thao
truyền thống được tổ chức trong suốt thời gian lễ hội với các bộ môn như:
bắn nỏ, cờ tướng, bóng chuyền...
Ngoài ra, các hoạt động văn hoá dân gian đậm nét truyền thống từ thời
Hùng Vương dựng nước sẽ diễn ra sôi động tại nhiều địa điểm với các loại
hình: rước kiệu, đánh trống đồng, đâm đuống, múa lân, thi giã bánh dày, gói
bánh chưng, kéo lửa nấu cơm thi... Các hoạt động văn nghệ quần chúng và
hội trại văn hoá được dàn dựng công phu với nhiều chủ đề, nhiều hình tượng
hàm chứa ý nghĩa hướng về cội nguồn.
Tại lễ hội, nhiều hoạt động du lịch, dịch vụ được tổ chức như: hội chợ
Hùng Vương với sự tham gia của các doanh nghiệp, các làng nghề truyền
thống trong và ngoài tỉnh Phú Thọ; nhiều hãng lữ hành tổ chức tour, tuyến du
lịch thăm các di tích lịch sử văn hoá, di chỉ khảo cổ học, lễ hội, trò diễn dân
gian mang dấu ấn văn hoá thời đại Hùng Vương.
Ngày nay, đồng bào và du khách về dự hội đền Hùng được lực lượng
an ninh và thanh niên tình nguyện dẫn đường theo lộ trình hợp lý. Hệ thống
bãi đỗ xe, nhà vệ sinh, biển bảng chỉ dẫn đã được chỉnh trang, nâng cấp. Các
hàng quán tại khu vực Đền Hùng và Việt Trì được quy hoạch về vị trí mới, và
có bảng niêm yết giá rõ ràng.
Bên cạnh lễ hội đền Hùng ở Phú Thọ còn rất nhiều các lễ hội mang
đậm tín ngưỡng dân gian, xung quanh chủ đề thời đại các vua Hùng như tục
hát xoan, hát ghẹo nổi tiếng mà tương truyền là có xuất xứ từ Hùng Duệ
Vương tức vua Hùng thứ 17; tục hát giao duyên ở huyện Thanh Ba; tục bơi
trải dọc hai bờ sông Thao, sông Đà; tục đánh phết, cướp cầu, làm bánh dày
(ở xã Tiên Du, xã Phù Ninh), tục đâm trâu, chém lợn, tục bánh chưng bánh
dày ngày Tết gắn liền với truyền thuyết Lang Liêu làm bánh dâng vua Hùng...
Cứ vào dịp giỗ Tổ - đền Hùng, người dân Bạch Hạc - Việt Trì lại náo
nức chuẩn bị cho hội bơi trải. Vừa có lệnh xuất phát, những chiếc thuyền con
thoi vun vút rẽ sóng lao như tên. Những chàng trai mình trần, đóng khố, bắp
thịt vồng lên cuồn cuộn cố hết sức chèo thật nhanh. Những tay chèo đều tăm
tắp, nhịp nhàng, ăn ý. Hai bên bờ, tiếng hò reo của hàng ngàn người cổ vũ
vang dội cả mặt nước. Không khí tưng bừng của ngày hội như khuấy động lại
hình bóng của những thuỷ binh với chiến thuyền dọc ngang sông nước thuở
Vua Hùng dựng nghiệp năm xưa.
Tục bơi trải, đua trải đã có từ xa xưa. Đây là hình thức luyện quần thuỷ
của cha ông ta. Bơi trải thể hiện sự dẻo dai, bền bỉ và tinh thần đoàn kết của
những đội thuỷ binh. Sau này, tục trở thành cuộc đua tài gắn với lễ thức cầu
mùa màng của các làng xã dọc hai bên bờ sông Hồng, sông Lô, trở thành một
nét đẹp văn hoá truyền thống đầy tinh thần thượng võ của những người dân
vùng quê quanh năm gắn bó với sông nước.
Người dân Bạch Hạc có câu: "Rau gác, Hạc bơi, Hạc gác, Me bơi, Me
gác, Đức Bác bơi, Đức Bác gác, Dạng bơi", đó là các địa danh dọc hai bờ
sông Hồng, sông Lô (thuộc huyện Vĩnh Lạc và Lập Thạch, trước thuộc phủ
Tam Đái - trấn Sơn Tây) có tục bơi trải đua trải và những cuộc đua này kế
tiếp nhau. Mở đầu là hội thi của làng Kẻ Rau (tức làng Cựu Ấp, nay thuộc xã
Liên Châu) tiếp đến là bơi của Kẻ Hạc (nay là phường Bạch Hạc, thành phố
Việt Trì), sau là tiệc bơi của Kẻ Me (nay là xã Yên Lập huyện Vĩnh Lạc)...
Hội rước Chúa Gái cũng diễn ra trùng với dịp lễ hội đền Hùng. Truyền
thuyết kể lại rằng trải qua cuộc giao tranh quyết liệt với Thuỷ Tinh, cuối cùng
Sơn Tinh cũng chiến thắng và được rước công chúa Ngọc Hoa về làm vợ.
Sau khi đã kết hôn, công chúa Ngọc Hoa đã trở về với cha mẹ mà không về ở
với chồng, nên Sơn Tinh phải đem lễ lại mặt để đón vợ về. Vì nhớ mẹ cha
nên khi sắp ra khỏi cổng làng, công chúa Ngọc Hoa không chịu đi nữa. Dân
làng thấy vậy đã làm đủ mọi trò vui để nàng vui lòng lên kiệu về với chồng
bên quê hương Núi Tản - Sông Đà (Ba Vì - Hà Nội). Từ đó, hàng năm nhân
dân làng He lại tổ chức lễ hội rước Chúa Gái và hội diễn trò bách nghệ khôi
hài.
Cứ vào tháng Chạp, các cụ già của làng He lại tụ họp tại đình cả để
bàn việc tổ chức lễ hội mùa xuân và bàn việc rước Chúa Gái. Chúa Gái được
chọn lựa kỹ càng từ những thiếu nữ vừa độ tuổi trăng tròn (15 - 16 tuổi). Đó
phải là một cô gái chưa chồng, xinh đẹp, thùy mị, nết na, có đủ cả Công,
Dung, Ngôn, Hạnh, là con nhà phong quang, không có tang chế, cha là người
có chức sắc, dẫu không là quan trong làng thì cũng phải là người sang trong
họ. Trước ngày rước một tuần, dân làng đến trang trí nhà Chúa Gái, chăng
đèn, kết hoa lộng lẫy. Mọi sinh hoạt của Chúa Gái được khép kín trong
phòng, tất cả các cô gái khác cùng trong độ tuổi phải phục vụ.
Hội làng He được tổ chức thành 2 phần riêng biệt: Phần lễ được tiến
hành trọng thể tại đình làng, thể hiện phần đời thường của con dân trước các
thiên thần và các nhân thần đã có công dựng nước và bảo vệ xã tắc. Phần
hội thể hiện nhu cầu thưởng ngoạn của cuộc đời mỗi con ngươi. Trong hội,
dân làng tổ chức nhiều trò vui như: săn lợn, chạy địch, chạy tùng dí và diễn
trò... nhằm làm cho Chúa Gái vui vẻ vì dân làng cho rằng nếu Chúa Gái vui
cười thật nhiều thì năm ấy cả làng sẽ làm ăn thuận lợi hơn.
Vì thế mà người xưa có câu:
Sơn Tây vui nhất hội chùa Thầy
Vui thì vui thật chẳng tày hội He.
Lễ hội đền Hùng và các lễ hội như hội bơi trải, hội làng He không chỉ
thu hút khách thập phương đến dự lễ bởi những nét sinh hoạt văn hoá đặc
sắc mà còn ở tính thiêng liêng, hướng về cội nguồn dân tộc của các thế hệ
người Việt Nam. Người Việt về dự hội ngoài nhu cầu thưởng thức những trò
vui còn vì mục đích hướng đến cội nguồn tâm linh, nhớ về quê cha đất Tổ.
Đây là một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức mỗi con người Việt Nam, cho
dù ở bất cứ nơi đâu cũng không thể nào quên.
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
10. Lễ hội gò Đống Đa
Lễ hội gò Đống Đa (thuộc quận Đống Đa - Hà Nội) hàng năm diễn ra
vào ngày mùng 5 Tết Nguyên Đán. Đây là lễ hội mừng chiến thắng lẫy lừng
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, do Hoàng đế Quang Trung
(Nguyễn Huệ) người anh hùng áo vải Tây Sơn lãnh đạo. Cách đây hơn 2 thế
kỷ (1789), Đống Đa là nơi hơn 29 vạn quân Thanh bị tiêu diệt. Gò Đống Đa
trở thành di tích lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
Sáng sớm ngày 5, đám rước Thần mừng chiến thắng từ đình Khương
Thượng về Gò Đống Đa trong rừng cờ, tàn, tán, lọng, kiệu,... rực rỡ màu sắc
cùng chiêng, trống, thanh la....diễu hành chậm rãi mang tính hoành tráng của
cuộc mừng đón chiến công. Đặc biệt nhất là rước rồng lửa được bện bằng
nùi rơm, mo nang và giấy bồi trang trí thành hình con rồng, một tốp thanh niên
bận võ phục đi quanh, biểu diễn côn, quyền như tái hiện lại cuộc chiến đấu đã
qua. "Rồng lửa Thăng Long" trở thành biểu tượng chiến thắng của nhân dân
ta.
Khi đám rước về đến gò Đống Đa, có lễ dâng hương, lễ đọc văn kể lại
sự tích chiến công năm Kỷ Dậu, ca ngợi thiên tài quân sự của anh hùng dân
tộc Quang Trung.
Hội còn có nhiều trò chơi vui khoẻ, đua tài, đua trí trên bãi rộng trước
gò.
(Theo http://www.lyhocphuongdong.org.vn)
11. Lễ hội cờ lau Hoa Lư
Để tưởng nhớ công lao to lớn của Đinh Tiên Hoàng, từ 8 đến 13 tháng
3 âm lịch hàng năm, nhân dân Ninh Bình tổ chức lễ hội cờ lau Hoa Lư tại xã
Trường Yên, huyện Hoa Lư - nơi Đinh Tiên Hoàng đã xây dựng kinh đô.
Lễ hội diễn ra ở 2 đền thờ nhà Đinh và nhà Lê. Ngày mở đầu hội, nhân
dân khởi hành từ đền vua Đinh ra sông Hoàng Long, nơi vua Đinh thường ra
tắm khi còn nhỏ, lấy nước về tế lễ. Theo truyền thuyết, khi Đinh Bộ Lĩnh ở với
chú là Đinh Thúc Dự, bị chú cầm gươm đánh đuổi vì đã giết của ông một con
trâu khao lũ trẻ chăn trâu, Đinh Bộ Lĩnh chạy vào núi Trường Yên trốn tránh,
trên đường gặp dòng sông chắn ngang, không đi qua được, ông bèn gọi đò
nhưng không có, tức thì một con rồng vàng nổi lên làm cầu để Đinh Bộ Lĩnh đi
qua bên kia sông. Thấy vậy, người chú kinh hoàng, cắm gươm xuống chân
núi bên sông rồi lạy như tế sao. Con sông đó sau được gọi là Hoàng Long.
Quả núi mà ông chú cắm gươm xuống cũng được gọi là núi cắm Gươm. Việc
đi lấy nước thánh trong ngày hội là tưởng nhớ người xưa nhưng cũng là sự
cầu mong mưa thuận gió hòa để nhân dân cày cấy đủ nước, làm ăn thịnh
vượng.
Đoàn rước nước, đi đầu là cờ quạt rồi đến phường bát âm, tiếp theo
đến kiệu rồng, trên đặt một cái chóe để đựng nước sông Hoàng Long. Mọi
người đi rước nước đều mặc đồng phục quần trắng, áo the, thắt lưng xanh,
đỏ. Những người cầm cờ đội thêm chiếc nón nhỏ. Đi theo sau kiệu là một cụ
già cao tuổi mặc áo thụng tế màu lam cùng với một nhà sư hoặc một người
có quyền thế nhất ở làng.
Phần hội, ngoài những trò như: thi vật, thi bơi trải, thi nấu cơm, múa
lân, múa rồng, cờ người... còn có trò cờ lau tập trận và kéo chữ.
Đội quân cờ lau gồm các thiếu niên từ 14 đến 16 tuổi chia làm hai toán.
Một bên mặc quần đùi xanh có nẹp đỏ, áo màu xanh lá cây, đội nón lá; một
bên cũng quần đùi xanh nhưng mặc áo màu trắng, cả hai toán đều giắt hai
bông lau bắt chéo nhau ở sau lưng, tay cầm gậy. Mỗi toán đều có tướng chỉ
huy. Tướng cầm kiếm, đội mũ bằng lá mít hay lá dừa.
Riêng tướng đóng vai vua Đinh phải khôi ngô tuấn tú, mặc quần đen có
sọc đỏ, đội mũ Bình Thiên bằng rơm, tay cầm thêm bông lau ngồi trên con
trâu béo khỏe. Hai phe dàn quân tập trận. Đội này tiến, đội kia lùi. Nhạc đệm
có trống, chiêng, thanh la, kèn.
Sau đó, đến trò kéo chữ "Thái Bình", thể hiện niềm mong ước nền thái
bình muôn thuở của nhân dân. Những ngày hội là những ngày vui, nhộn nhịp,
sôi động, thể hiện tinh thần thượng võ, mang tính nhân văn, giàu bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam.
(Theo http://www.baoninhbinh.org.vn)
12. Lể hội mùa xuân và hội hát quan họ
Cho đến tận ngày nay, dân gian vẫn truyền nhau về những lễ hội quan
họ nổi tiếng của một số làng quan họ gốc như: Lim, Diềm, Bịu, Ó, Nhồi, Bùi,
Bò, Nưa... với những câu ca:
"Mùng năm hội Ô
Mùng sáu hội Nhồi
Mùng bẩy hội Bùi..."
Hoặc
"Mùng năm hội Ó
quan họ dồn về
Hội vui vui lắm
Chưa kịp đi tắm
Chưa kịp gội đầu
Giầu chưa kịp têm
Cau chưa kịp bổ
Miếng lành miếng xổ
Miếng lại quên vôi
Người có yêu tôi
Thì người cầm lấy".
Giống như lễ hội của các làng khác, lễ hội của các làng quan họ cũng
có hai phần: phần lễ và hội. Phần lễ là để thờ Thần (Thánh), Phật mong cho
dân an vật thịnh, mùa màng bội thu. Nghi lễ này nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm
linh là cầu may. Phần hội diễn ra các trò chơi dân gian và các mỹ tục như:
tuồng, chèo, ca trù, quan họ, vật... nhằm thư giãn sức dân sau những ngày
mùa vụ vất vả trong năm. Khác với lễ hội của các làng khác, lễ hội của các
làng quan họ thường có tục hát quan họ diễn ra cả phần lễ và phần hội gồm
những làn điệu cổ có nội dung ca ngợi công đức của Thần, Phật và những làn
điệu do các liền anh, liền chị của các làng đến dự hội hát đối đáp giao lưu,
mang đậm văn hóa lễ nghĩa của một vùng quê hàng ngàn năm văn hiến.
Vào những ngày hội của các làng quan họ, các liền anh, liền chị quan
họ cùng quý khách thập phương nô nức đến trẩy hội. Sức hấp dẫn của hội
hát quan họ được thể hiện không chỉ là lề lối sinh hoạt mà còn ở lời ca tiếng
hát ngọt ngào, sâu lắng tình nghĩa. Đối với các làng quan họ "kết chạ" (kết
bạn) với nhau như: Diềm - Bịu, Bồ Sơn - Y Na - Khả Lễ... thì không những họ
coi nhau như anh em ruột thịt trong cuộc sống hàng ngày, mà những ngày
đình đám hội hè là dịp để sinh hoạt giao lưu văn hóa quan họ, thắt chặt thêm
mối quan hệ đầy tính nhân văn giữa hai làng. Thường thì từ vài ngày trước
hội, làng có hội cử đôi quan họ sang làng chạ (bạn) để có "nhời" mời quan họ
bạn. Đúng hẹn, quan họ chủ nhà sẽ ra tận đầu làng đón bạn (khách) "tay bắt
mặt mừng" bằng những câu ca quan họ nghe ngọt ngào, lịch thiệp, tế nhị, ví
như:
"Ngày ngày ra đứng cổng làng
Trông về quan họ mà mua lấy sầu
Ai làm mặt ủ mày chau
Ai làm đến nỗi nhớ nhau đi tìm
Ước gì đôi cánh như chim
Bay đến quan họ để xem thế nào
Xem rằng ý ở làm sao
Nước thì không khát, nhưng khát khao tình".
Khi đón được bạn, khách, quan họ chủ nhà sẽ đưa bạn vào đình, chùa
hát những làn điệu cổ ca ngợi công đức của Thần, Phật để cầu may, ví như:
"Chúng em ra tận đầu làng
Nghe lời thày dạy đón già thập phương
Lễ này có quả có hương
Dâng lên tam bảo Người biên đôi dòng
Người biên là tấm lòng thành
Mong người phù hộ an khang cửa nhà".
Sau đó, quan họ chủ nhà đưa bạn tham gia phần hát hội. Các liền anh,
liền chị quan họ từng tốp hát đối đáp giao duyên say sưa bên nhau ở sân
đình, sân chùa, tràn cả xuống những vạt núi, đồi, ruộng và trên ao hồ quanh
đình, chùa Đây chính là phần hấp dẫn nhất của hội hát quan họ. Sau khi tham
gia hát hội, quan họ chủ nhà đưa bạn mình về để hát canh quan họ với nhau.
Vào canh hát quan họ, bao giờ quan họ chủ nhà cũng mời trầu nước bằng
những cử chỉ, lời ca cung kính, tế nhị, như: "Nhất niên nhất lệ, đầu xuân năm
mới, hội lệ làng em được đương quan họ sang thăm đất nước làng em, trước
là lễ Thần Phật, sau là vãn cảnh thăm đình chùa, xin mời đương quan họ liền
anh xơi trầu, xơi nước cho chị em chúng em được bằng lòng". Tiếp theo quan
họ mời nhau hát rất khéo và trong canh hát bao giờ người ta cũng hát đôi, hát
đối. Giữa canh hát quan họ chủ nhà mời bạn xơi cơm, nước, bánh, quả. Mặc
dù cỗ quan họ rất to, nhưng quan họ chủ nhà mời mọc khiêm tốn, tế nhị,
không những trong khi ca hát với nhau, mà ngay cả khi sinh hoạt ăn uống.
Sau đó quan họ chủ nhà sẽ mời bạn về nhà từng thành viên trong nhóm quan
họ để thăm hỏi động viên cha mẹ, anh em và tặng quà cho nhau.
Kết thúc hội, quan họ chủ nhà lại tiễn bạn ra về tận cổng làng. Ở đấy,
họ còn dùng dằng quyến luyến bằng những lời ca, tiếng hát nghe sâu nặng
ân tình, ví như:
"Người ơi, người ở đừng về
Người về em vẫn khóc thầm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa..."
Hội các làng quan họ mặc dù chỉ diễn ra trong thời khắc, song dư âm
về sự mến mộ, cung kính, lịch thiệp, tế nhị cùng lời ca tiếng hát ngọt ngào, sự
sâu sắc của quan họ chủ nhà sẽ mãi mãi đi vào tình cảm của các làng quan
họ bạn, cũng như quý khách thập phương. Cứ mỗi dịp đầu xuân năm mới
những lễ hội của các làng quan họ đã trở thành biểu tượng của văn hiến xứ
Kinh Bắc.
(Theo http:/ / www.e-cadao.com)
13. Hội Lim
Lim là tên Nôm của xã Lũng Giang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh,
cách Hà Nội 18km. Hội mở trên đồi Lim, có chùa Lim là nơi thờ ông Hiếu
Trung Hầu, người sáng lập tục hát quan họ.
Hội Lim mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Khách kéo về
dự hội Lim rất đông để được xem hát quan họ giữa các liền anh, liền chị, hát
sau chùa, hát trên đồi, hát đối đáp từng cặp đôi, hát trên thuyền... với đủ các
làn điệu quan họ khác nhau. Ngoài ra, trẩy hội Lim còn được xem các cuộc thi
dệt của các cô gái Nội Duệ, vừa dệt thi vừa hát quan họ.
Hội Lim là một sinh hoạt văn hoá - nghệ thuật truyền thống đặc sắc lâu
đời ở xứ Bắc và dân ca quan họ là tài sản văn hoá chung của dân tộc, tiêu
biểu cho loại hình dân ca trữ tình Bắc Bộ.
Vùng đất Kinh Bắc không chỉ là đất võ mà còn là đất văn, nơi đây đã
sản sinh cho đời rất nhiều thuần phong mỹ tục. Hội Lim là một trong những lễ
hội tiêu biểu của đất này, gây dấu ấn sâu đậm đối với du khách thập phương.
Như các lễ hội khác, hội Lim cũng có đủ các phần từ lễ rước, lễ tế đến
các trò chơi như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm...
nhưng phần căn bản nhất của hội Lim là hát quan họ. Từ hát mời trầu, hát gọi
đò đến con sáo sang sông, con nhện giăng mùng... Cả một trời âm thanh, thơ
và nhạc náo nức không gian, xao xuyến lòng người. Những áo mớ bảy mớ
ba, nón ba tầm, quai thao, dải yếm lụa, sồi, những ô lục soạn, khăn đóng, áo
cặp the hoa gấm... như ẩn chứa cả sức sống mùa xuân của con người và tạo
vật.
Cách chơi hội của ngươi quan họ vùng Lim cũng là cách chơi độc đáo.
Dường như mỗi cử chỉ giao tiếp đã mang trong nó một sắc thái văn hoá độc
đáo. Người vùng Lim, mỗi lần hồi tưởng lại các ngày hội là như nhớ về tuổi
xuân sôi nổi. Hội Lim bây giờ vẫn bảo tồn cốt cách của hội Lim xưa, nhưng đã
xen phần dấu ấn của văn hoá đương đại.
Chỉ cách Hà Nội 18km nên hội Lim không chỉ mở riêng cho tổng Nội
Duệ xưa mà trai thanh gái lịch thủ đô và các vùng lân cận cũng náo nức mong
chờ. Ngày nay, người Lim vẫn hát quan họ trên đồi Lim và dưới thuyền,
nhưng phải hát bằng micro qua máy phóng thanh. Vậy là người Lim không
còn hát giao duyên trong một không gian hạn hẹp mà hát cho tất cả đất trời
và mùa xuân cùng nghe.
Tuy nhiên, những ai sành thưởng thức dân ca quan họ thường đi lang
thang trong các làng vào ngày hội, để nghe các cụ vùng quan họ hát quan họ
cổ thâu đêm. Lời ca quan họ cổ và tiếng trống hội làng như len lỏi trong tâm
khảm làm thức dậy trong mỗi người những gì thiêng liêng và cao quý nhất.
(Theo http://www.lyhocdongphuong.org.vn)
14. Hội Lồng Tồng
... Áo em thêu chỉ biếc hồng
Ngày xuân đi hội Lồng Tồng thêm tươi.
Trong ký ức của người dân Phú Đình (Định Hoá) nói riêng, người Thái
Nguyên nói chung, hình ảnh trong câu thơ trên vẫn sống động như một lời
mời gọi. Bởi Lồng Tồng (hội xuống đồng) đã từng là lễ hội lớn nhất, vui nhất
của người Tày, người dân tộc thiểu số đông nhất ở tỉnh Thái Nguyên. Những
người cao niên ở đây kể lại rằng, trước đây người Tày năm nào cũng tổ chức
lễ hội ở những đám ruộng to nhất, đẹp nhất do dân bản chọn. Ngày tổ chức
do từng nơi ấn định cho phù hợp. Các địa phương ở gần nhau thì thoả thuận
chọn các ngày khác nhau để có điều kiện giao lưu. Trước ngày hội, các gia
đình đều quét dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực, thực
phẩm để đón khách. Khách đến quê nhà dù quen dù lạ đều được đồng bào
mời về nhà ăn nghỉ qua đêm chờ dự hội.
Trong ngày diễn ra lễ hội, phần lễ và phần hội đều diễn ra trang trọng,
vui vẻ. Phần lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây
cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Để chuẩn bị lễ ở ngoài đồng,
mỗi gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng, có nhiều nhà làm từ vài
chục đến một trăm món. Việc làm cỗ còn mang hàm ý phô bày một cách kín
đáo sự khéo léo của người phụ nữ trong việc nội trợ, nấu nướng các món ăn
truyền thống như bánh chưng, bánh dày, chè lam, bánh bỏng... Có những gia
đình dâng mâm cao đến 5 tầng lễ vật, ngoài các loại bánh kẹo còn có các
món ăn được chế biến công phu, trên mỗi mâm đều có một chiếc bánh hình
bông hoa nhiều màu sắc. Mỗi mâm cỗ còn có thêm hai đôi quả còn được làm
bằng vải mầu, trong nhồi cát, bông, có tua rua nhiều mầu sắc sặc sỡ.
Khi cỗ được bày xong, người được dân làng tín nhiệm tiến cử thực hiện
nghi lễ cầu cúng cầu mong đất trời, thần linh phù hộ cho bản làng. Phần cúng
lễ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn, còn dành thời gian cho phần hội.
Mở đầu là hội tung còn. Đây là trò chơi vui nhất, thu hút nhiều người
tham gia nhất. Để chuẩn bị cho trò chơi này, ở giữa đám ruộng lớn được
chọn làm địa điểm lễ hội, người ta dựng một cây mai cao từ 20 - 30cm làm
cột. Trên đỉnh cột có uốn vòng tròn đường kính 50 - 60cm dán giấy hai bên,
đề chữ Nhật - Nguyệt tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời. Trò chơi tung
còn đòi hỏi cả sức khoẻ và sự khéo léo. Nếu ở lễ hội nào không có ai tung
còn trúng vòng tròn thì dân bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có
người tung còn trúng vòng tròn làm rách giấy thì năm đó mọi việc làm ăn mới
thuận lợi, mưa thuận gió hoà. Trong trò chơi này, nam nữ thanh niên còn thi
tung còn cho nhau.
Ngoài ra còn có các hoạt động múa sư tử, múa võ, kéo co... Đặc biệt,
đêm về, nam nữ thanh niên thi hát lượn, hát, đối đáp suốt canh dài...
Cho đến bây giờ chưa rõ lễ hội Lồng Tồng có từ bao giờ, nhưng chắc
chắn rằng, khởi nguồn của lễ hội phải được sinh ra từ xã hội của người Tày
khi đã sống thành làng bản quần cư trong cộng đồng.
(Theo http:// www.e-cadao.com)
15. Hội phong Chúa, rước Vua
Nhà vua gương mặt uy nghiêm, mình khoác long bào, đầu đội mũ ngự
ngồi trên ngai vàng, xung quanh cờ lọng rợp trời, trống chiêng rộn rã, đoàn
người kéo dài cả cây số rùng rùng rước kiệu vàng vào đền làm lễ... Đó là
khung cảnh của lễ rước Vua diễn ra ở làng Thuỵ Lôi, xã Thụỵ Lâm, Đông
Anh, Hà Nội.
Tích xưa kể rằng sau nhiều lần xây thành Cổ Loa không thành, cứ ngày
xây đêm lại đổ, vua Thục Phán An Dương Vương được thần Huyền Thiên
Trấn Vũ giúp diệt trừ yêu tinh, từ đó thành xây lên mới vững chãi. Để tạc ghi
công đức của thần, nhà vua cho xây dựng đền Sái, thờ thần Trấn Vũ và hàng
năm cứ vào mùa xuân nhà vua lại đích thân về bái yết tại đền. Về sau, việc đi
lại khó khăn, tốn kém tiền bạc của nhân dân nên nhà vua ban chiếu cho làng
Thuỵ Lôi thực hành nghi lễ này. Từ đó xuất hiện lễ hội rước Vua giả, còn gọi
là lễ rước Vua sống của nhân dân làng Thuỵ Lôi.
Lễ hội rước Vua ở làng Thuỵ Lôi được tổ chức vào ngày 11 tháng giêng
âm lịch hàng năm. Để chuẩn bị cho ngày hội lớn này, ngay từ những ngày
đầu năm mới dân làng đã cho sửa sang lại đường sá. Những cụ có uy tín
trong làng tìm chỗ dựng dinh cho vua, chúa và các quan lại; dân làng làm
bánh chưng, bánh dày tiến vua cùng nhiều sản vật khác... Trước ngày diễn ra
hội chính, làng cho giết trâu, bò, lợn để khao dân tại đình làng... Sáng 11
tháng Giêng là ngày hội chính, ngoài người được chọn làm vua còn có chúa
và bốn vị quan đầu triều cùng tham gia lễ rước. Vua giả ngồi trên kiệu được
trai tráng trong làng rước ra đình cùng các quan. Trong khi rước, thỉnh thoảng
đám trai tráng khênh kiệu chúa lại hô vang rồi chạy để dẹp đường cho vua.
Sau khi vua, chúa cùng bá quan yên vị, yến tiệc bắt đầu. Tan tiệc, trống
chiêng nổi lên rộn rã. Theo nghi lễ truyền thống, chúa lên kiệu vào yết vua,
sau đó vua lên kiệu và cuộc rước bắt đầu: vua lên bái vọng đức Huyền Thiên
ở đền Sái và thực hiện nhiều nghi lễ khác ở đình, chùa...
Lễ hội này diễn ra trong không khí trang nghiêm mà náo nhiệt, chiêng
trống nổi liên hồi, ai nấy đều hồ hởi dõi theo đám rước. Hàng vạn người nối
nhau làm ngày xuân như dài mãi... Đặc biệt sau lễ rước, vua trở về dinh, ngự
trên ngai vàng, bà con làng xóm vui mừng tới dinh vua chúc mừng. Theo các
cụ cao niên trong làng, những người được phong vua phải đáp ứng nhiều yêu
cầu khắt khe về đức độ, sức khỏe, tuổi tác (trên 70 tuổi)... Vị vua được chọn
sẽ có uy tín rất lớn trong những việc nghi lễ của làng cho đến lễ rước tiếp
theo có vua mới được bầu chọn. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, lễ rước vua giả ở Thụy Lôi bị gián đoạn. Từ năm 1984 đến nay
được duy trì rất đều đặn. Xưa kia, nhà vua cắt ruộng đất cho những người
được giao chuẩn bị lợn, trâu làm lễ khi đón rước vua, nay ở Thuỵ Lôi vẫn còn
những cánh đồng mang tên dõng Vua, khu Trâu đô, Lợn đô...
Trước kia lễ hội rước vua diễn ra trong ba ngày, nay chỉ tổ chức gọn
trong một ngày cho phù hợp với đời sống văn hóa mới. Ngày 11 tháng giêng
hàng năm, du khách khắp nơi lại đổ về Thụy Lôi để dự lễ rước vua giả độc
đáo của làng và càng thêm tự hào về một nét văn hóa đặc sắc của ngàn năm
Thăng Long - Hà Nội.
(Theo http://www.hanoimoi.com.vn)
16. Hội Phủ Giầy
Hàng năm vào thượng tuần tháng 3 âm lịch (chính hội là 3 - 3), du
khách thập phương nô nức hành hương về với hội Phủ Giầy, nơi thờ đức
Thánh Mẫu Liễu Hạnh, người Mẹ linh thiêng của dân tộc Việt Nam. Tục thờ
đức Thánh Mẫu có ở khá nhiều nơi như Phố Cát (Thanh Hóa), Đền Sòng
(Nghệ An)... Nhưng có lẽ tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (nơi
Mẫu sinh) là thu hút khách thập phương hơn cả.
Điều kỳ lạ là trong các đền đài miếu mạo, người ta thường tôn thờ hoặc
là thờ nhân thần - những người có công với đất nước, hoặc là thờ thiên thần,
được coi là các bậc linh thiêng màu nhiệm chở che cho dân chúng. Nhưng ở
Phủ Giầy thờ bà Liễu Hạnh, một vị Thánh linh mang cả hai màu sắc thực và
ảo.
Bà Liễu Hạnh theo như các sách, truyện hoặc thần phả còn chép lại, bà
sinh năm Đinh Tỵ (1557), triều vua Lê Anh Tôn, tháng Thìn (tháng 3), ngày
Dần, giờ Dần con ông Lê Công Chính và bà Trần Thị Phúc, tại làng Vân Cát.
Bao trùm lên các sự thật đó, là các huyền thoại đan xen. Trước khi bà
Liễu Hạnh chào đời, Lê Công mơ thấy có thiên sứ áp dẫn ông về trời. Tại đây,
ông chứng kiến cảnh nàng Quỳnh Nương tiên chúa làm vỡ chén ngọc, bị
Ngọc Hoàng đày xuống cõi trần 21 năm. Về sau sinh con, Lê Công đặt tên là
Lê Thị Thắng, vì ứng với điềm trong mộng, Lê Công lấy hiệu cho con gái là
Giáng Tiên (tiên giáng trần).
Tới năm 18 tuổi thì nàng kết duyên cùng Đào Long ở làng Tiên Hương
kế ngay làng Vân Cát. Lấy chồng mới được ba năm thì hết hạn đầy bị gọi về
trời, do vậy nàng không bệnh mà mất để lại một con thơ. Nhưng vì nhớ chồng
con, Ngọc Hoàng lại phải cho nàng trở về hạ giới. Về sau bà lại kết duyên với
một thư sinh ở xứ Nghệ và giúp cho chồng đỗ đạt làm quan. Vừa lúc đó nàng
lại có lệnh về trời. Trái lệnh vua cha, một lần nữa nàng lại giáng sinh. Lần này
nàng không ở một nơi mà cùng hai thị nữ chu du thiên hạ. Thấy vùng Phố Cát
là nơi phong cảnh đẹp, nàng hiển linh thành cô gái bán nước ven đường để
trêu ghẹo, trừng phạt những kẻ ác, gia ân cho người hiền. Triều đình nhà
Trịnh lúc đó cho là yêu quái nên đem quân, dùng pháp thuật để trừ. Hai bên
đã dàn quân đánh nhau, đó là trận Sùng Sơn đại chiến.
Do lập mẹo quân triều đình có cơ thắng, nhưng vừa lúc đó đức Phật ra
tay, giảng hòa, cứu Liễu Hạnh. Nàng được triều đình phong thần là Nữ Hoàng
Công Chúa rồi Chế Thắng Đại Vương. Từ đó Liễu Hạnh công chúa không gây
kinh sợ cho mọi người, mà luôn luôn ban phát ân đức, được nhân dân tôn thờ
là Thánh Mẫu.
Tiếp đó là các huyền thoại hiển linh của bà. Bà giúp nhà Trịnh dẹp giặc.
Bà còn hội kiến với trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan), nhân chuyến ông đi sứ
Trung Quốc về tới địa đầu tỉnh Lạng Sơn. Và việc ông dựng tại đó ngôi Minh
Thiên tự phủ thờ bà. Rồi ở phố Cát huyện Thạch Thành, Thanh Hoá và cả ở
trong Huế cũng có đền Ngọc Trân do bà Quốc Thái dựng lên thờ bà Liễu
Hạnh. Độc đáo hơn cả là làng Tây Hồ - Hà Nội, cũng có một phủ thờ bà Liễu
Hạnh. Trong phủ còn trạm khắc cả một bài thơ do cuộc du ngoạn tao phong
giữa trạng Bùng với bà.
Chuyện kể rằng, nhân một bữa Phùng Khắc Khoan cùng hai bạn thơ
đang bơi thuyền ngắm trăng hồ Tây, bỗng gặp một cô gái đi chiếc thuyền nhỏ.
Ba người hỏi chuyện và cùng nhau làm thơ xướng hoạ. Cảm kích, 3 người
định mời cô lên bờ đàm đạo thì thuyền nhỏ lẫn vào sương mù biến mất.
Trong lúc mọi người còn đang ngơ ngác, chợt có một làn gió nhẹ làm bay tới
một tờ giấy màu hồng, nhặt lên xem thì có một bài thơ:
Vân tắc y thường phong tác xa
Triệu du đâu xuất mộ yên hà
Thế nhân dục thức ngô danh tính
Nhất đại sơn lâm Ngọc Quỳnh hoa
Dịch nghĩa:
Mây làm xiêm áo, gió làm xe
Sớm dạo cõi thanh tịnh, tối chơi yên hà
Người trần thế muốn biết họ tên ta
Một đời trên non với hoa Ngọc Quỳnh.
"Người trên non" là chữ "tiên" do hai chữ nhân (người) và chữ sơn (núi)
ghép lại. Hai chữ Ngọc và chữ Quỳnh ghép lại chữ Quỳnh, cả bốn câu có
nghĩa là: "Tiên Quỳnh Hoa".
Thật kỳ diệu thay, hiện thực và huyền thoại quấn quít bên đan xen như
một bài thơ làm đẹp thêm cho đời. Nếu tước đi phần huyền thoại, thì sự tích
bà Liễu Hạnh trần trụi quá. Hàng năm từ các vùng quê hàng chục vạn trai
thanh gái lịch lại dập dìu trẩy hội và từ đó bồi đắp thêm bao nhiêu cái đẹp cho
cuộc sống trần gian ngắn ngủi, cho ngày xuân như dài hơn.
Du khách trẩy hội Phủ Giầy vừa để dự ngày giỗ Mẹ, vừa để thỏa
nguyện tâm linh và được ngắm nhìn một quần thể kiến trúc lăng chùa truyền
thống vô cùng độc đáo. Hội Phủ Giầy thực sự hấp dẫn khách bởi sự đan xen,
hòa quyện giữa những nghi thức trang trọng cùng những hoạt động văn hóa
dân gian sôi nổi, đặc sắc.
Hoà trong không khí sinh hoạt văn hóa dân gian, du khách còn được
xem rước thỉnh kinh, rước kiệu bát cống long đình, xem múa rồng hội trên núi
Tiên Hương.... Và khi màn đêm buông xuống, du khách sẽ được đắm mình
trong những điệu chầu văn tha thiết. Về với hội Phủ Giầy, du khách như được
trở về với cội nguồn dân tộc, bởi nơi đây quy tụ rất nhiều tinh hoa văn hóa lâu
đời của dân tộc ta.
Phủ Giầy có tên cổ là kẻ Giầy, từ sau khi Liễu Hạnh được sắc phong
công chúa thì được gọi là phủ. Ở phủ Giầy có một hệ thống kiến trúc liên
quan bao gồm: phủ chính, phủ Vân Cát và lăng Chúa Liễu.
Phủ chính là một kiến trúc khá qui mô, gồm ba lớp điện thờ, mặt đều
quay về hướng Nam, trước điện là giếng tròn và cột cờ, trên sân rộng phía
trước có xây các nhà bia, nhà trống, nhà chiêng, kiến trúc kiểu bốn mái hai
lớp. Chúa Liễu và hệ thống Tứ Phủ được thờ ở tòa điện trong cùng, Mẫu
Thượng Thiên hóa thân thành Liễu Hạnh thờ ở trung tâm, bên trái là Mẫu
Thoải, bên phải là Mẫu Địa, phía trước là Mẫu Thượng Ngàn (Nhạc Phủ).
Tại làng Vân Cát, cách không xa phủ Giầy có quần thể phủ Vân Cát.
Phía trước đền có hồ bán nguyệt, nối với bờ bằng cầu đá, chạm trổ rất công
phu. Phủ Vân có ngũ môn và bốn cung, trung tâm thờ Chúa Liễu, bên trái là
chùa thờ Phật, bên phải thờ Lý Nam Đế.
Lăng Chúa Liễu nằm gần phủ chính, được dựng bằng đá, kiến trúc
công phu và rất đẹp, độc đáo. Trung tâm lăng là ngôi mộ hình bát giác, mộ ở
thế đất cao, có bốn cửa và bậc thang lên xuống. Xung quanh mộ, còn có
tường vây quanh theo kiểu lan can đá, lớp nào cũng có cửa vào ở bốn phía.
Bốn góc của lớp tường vây quanh và hai trụ cửa ra vào đều chạm đá hình nụ
sen (60 nụ sen) được sắp xếp như một hồ sen đá.
Ngoài hai phủ chính và lăng kể trên, xung quanh phủ Giầy còn có nhiều
đền miếu bao quanh, như đền Khâm Sai, đền Công Đồng, đền Thượng, đền
Quan, đền Đức Vua, đền Giếng, đền Cây Đa, đình Ông Khổng... Tất cả quần
thể kiến trúc ấy gần như tập trung trong phạm vi xã Kim Thái, xưa là xã An
Thái, thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, cách thành phố Nam Định khoảng
15km. Đó là vùng đồng bằng với những cánh đồng lúa bát ngát, có những
ngọn núi đá thấp nằm rải rác, làng mạc trù phú, có dòng sông hiền hòa uốn
khúc quanh co, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa rất nên thơ.
Dân gian có câu: "Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ". Trong tâm
thức người dân Việt Nam, Liễu Hạnh là đức Thánh Mẫu, Trần Hưng Đạo là
Cha của cả dân tộc, bởi lẽ từ xưa tới nay, người Việt đã coi cộng đồng mình
như một gia tộc, có tổ tiên, cha mẹ.
Tháng ba, vào cuối tiết xuân, những người nông dân đang buổi nông
nhàn, rủ nhau trẩy hội. Từ muôn nơi người ta đổ về phủ Giầy, nơi có phong
cảnh non nước tươi đẹp, công trình đền miếu nguy nga, nơi con người có thể
cầu mong Mẫu mang lại những điều tốt lành, may mắn, tài lộc. Trong mười
ngày hội phủ, người về dự hội lên tới hàng vạn. Đứng trên non Gôi nhìn
xuống, dòng người trẩy hội rực rỡ áo quần, từ muôn ngả đổ về, đi từ từ như
con rồng uốn khúc trên thảm lúa xanh non đang thì con gái.
Xưa kia, hội phủ kéo dài trong mười ngày bắt đầu từ 30 tháng 2 âm
lịch. Ngày đầu hội là nghi thức cúng tế, ngày cuối hội rước Thánh Mẫu, ngoài
ra còn có các trò vui chơi dân dã khác. 30 tháng 2 và mùng 1 tnáng 3 là ngày
dành cho dân làng tế kỵ, từ ngày mùng 3 trở đi là ngày tế của các quan chức
hàng tỉnh, hàng huyện. Xưa, quan tổng đốc hàng tỉnh vào làm chủ tế, rồi đến
quan tri huyện cùng với chánh, phó tổng cũng vào chủ tế hàng huyện và hàng
tổng. Nghi thức tế lễ cũng giống như nhiều cuộc khác, có các tuần dâng
hương, dâng hoa, dâng rượu...
Tiêu biểu nhất trong hội phủ Giầy là nghi lễ rước Thánh Mẫu từ phủ
Chính lên chùa Gôi vào ngày mùng 6 và hội kéo chữ vào ngày mùng 7. Kiệu
rước bát nhang Thánh Mẫu phần lớn do các bà, các cô đảm nhận, y phục rực
rỡ, xúm xít dưới kiệu vàng, võng điều, cờ quạt, tán, lọng, phướn đủ màu rực
rỡ tung bay trước gió vào tiết cuối xuân, đầu hè. Theo đoàn rước còn có đội
nhã nhạc, bát âm. Các cô gái đồng trinh của đồng quê được cử vào khiêng
long đình, rước võng, khiêng kiệu, che tán, che quạt; các bà trung niên thì
cầm phướn, vác cờ, dẹp đường. Đoàn rước tiến bước giữa những âm thanh
náo nhiệt, rừng cờ phướn tung bay trong đoàn thiện nam tín nữ đi trẩy hội.
Nghi thức rước Thánh Mẫu từ phủ thờ đến chùa còn phản ánh một
thực tế đặc sắc của văn hoá tâm linh người Việt là sự dung hoà giữa tín
ngưỡng thờ Mẫu dân gian và Phật giáo. Trong huyền thoại về Chúa Liễu, trận
Sùng Sơn thể hiện sự xung đột giữa Chúa Liễu và triều đình phong kiến, sau
đó phải cần tới sự cứu giúp và can thiệp của đức Phật. Tương truyền, chúa
Liễu sau đó đã nhận mũ áo nhà Phật, noi theo Phật, chỉ làm việc thiện bàn
phát ân đức. Hiện nay, trong nhiều ngôi chùa thờ Phật Việt Nam đều có điện
thờ Mẫu, theo kiểu tiền Phật hậu Mẫu. Sinh hoạt tín ngưỡng Mẫu trở thành
một bộ phận của sinh hoạt nhà chùa. Chính sự dung hoà độc đáo này đã
khiến cho phật giáo Việt Nam mang tinh thần nhập thế sâu sắc.
Ngày 7 tháng 3 là ngày hội kéo chữ, nét độc đáo nhất của hội phủ Giầy.
Theo lời kể của nhân dân địa phương thì sự tích hội kéo chữ như sau:
Thời hậu Lê ở thôn Đông Khê, tổng Đồng Nội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định có một người kỹ nữ tài sắc tuyệt vời, đó là Phùng Thị Ngọc Đài. Sau khi
lấy lẽ hết ông Quận Công Ngà, đến Quận Công Hiển, Ngọc Đài lại trở về ở xã
Bảo Ngũ, huyện Vụ Bản là nguyên quán của ông Quận Công Hiển. Năm 1623
vua Lê Thần Tông phong chức Thành Đông Vương cho chúa Trịnh Tráng,
chúa ra lệnh mở tiệc ăn mừng, cho tuyển nhiều ả đào đẹp ở các địa phương
tiến dẫn về Thăng Long để múa hát mua vui trong bữa tiệc.
Ngọc Đài tuy đã góa chồng, nhưng nhan sắc xinh đẹp, kiều diễm, nên
lần đó nàng cũng xin đi ứng tuyển. Trước khi lên đường, nàng đến phủ Giầy
quỳ trước bàn thờ Thánh Mẫu và cầu khẩn: "Nếu lần này đi mà được vua
yêu, chúa dùng thì không bao giờ quên Mẫu". Quả nhiên, lời cầu xin của
Ngọc Đài được ứng nghiệm. Trong bữa tiệc, biết bao ca kỹ dung nhan tuyệt
vời, giọng hát hay mà chúa Trịnh Tráng chỉ say đắm một mình Ngọc Đài. Sau
bữa tiệc, nàng được vời vào dinh, được chúa sủng ái và phong cho chức
Vương Phi.
Thời kỳ Ngọc Đài làm Vương Phi trong phủ chúa thì cuộc xung đột
Trịnh - Nguyễn đang nổ ra dữ dội, Chúa Trịnh ra lệnh bắt phu về Thăng Long
xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố, phòng chúa Nguyễn tấn công.
Trong số phu bị bắt về Thăng Long, có những người quê ở Vụ Bản. Bà
Vương Phi biết tin này đã tìm cách cứu giúp dân phu của quê hương bản
quán mình. Bà mật báo cho dân phu khi về tới Kinh chỉ mặc áo rách và ăn
cháo cám mà thôi. Một hôm chúa và cung phi cùng đi thị sát dân phu, chúa
thấy đám phu ngồi ăn cháo cám. Chúa hỏi mới biết là ngưòi Vụ Bản. Nhân lúc
đó, Vương Phi tỏ ra buồn rầu, khiến chúa Trịnh vặn hỏi. Khi được biết dân
phu đó chính là người cùng quê với Vương Phi, chúa Trịnh tức khắc ra lệnh
miễn phu cho họ, cấp lương thực, quần áo về quê quán làm ăn, sinh sống.
Hơn thế nữa, chúa còn cấp lương thực vải vóc cho toàn bộ dân làng Bảo Ngũ
- làng Vương Phi đã ở trước khi vào cung. Ghi nhớ công đức đó, nay dân
làng thờ Vương Phi là Thành Hoàng làng.
Sau khi nhận được gia ân của chúa Trịnh, Vương Phi muốn làm điều gì
đó để lại ghi nhớ sự phù trợ của Thánh Mẫu nên dặn dân làng phủ Giầy là cứ
sau ngày rước Mẫu từ phủ chính lên chùa Gôi, thì dân làng đem xẻng, cuốc,
mai, thuổng đến trước phủ Giầy vứt ngổn ngang xuống đất, tỏ ý nhờ linh ứng
của Thánh nên dân làng không phải chịu cảnh nhọc nhằn phu phen, rồi xếp
người thành hai chữ Cung tạ.
Từ đó về sau, năm nào cũng có tục kéo chữ. Trước kia, hàng năm cứ
tới ngày này mỗi tổng trong huyện Vụ Bản góp 10 phu cờ tuổi từ 20 tới 35 tới
dự hội. Cả huyện có mười tổng, gộp thành 100 phu cờ. Ngoài ra còn có một
số tổng khác, như Mỹ Lộc, Bình Lục, nhưng văn nhớ tục cũ, cũng góp thêm
người vào cuộc hội này.
Phu cờ ăn mặc đồng phục, áo cánh vàng quần trắng, đầu đội khăn đen,
có phủ dải lụa vòng ra ngoài, đi chân đất. Mỗi người còn vác một cây gậy dài
bốn, năm thước, trên đầu gậy buộc một cái ngù bằng lông gà các đốt gậy đều
dán vòng giấy mầu xanh, đỏ có tua. Chỉ huy toàn bộ những phu cờ là Tổng
cờ.
Đoàn phu cờ hẹn tập trung tại một địa điểm nào đó, rồi lần lượt theo chỉ
huy của Tổng cờ đi hàng đôi tiến vào khoảng đất rộng trước Phương Du của
phủ chính. Khoảng trưa, có lệnh Tổng cờ cho phu cờ chuẩn bị đến giờ xếp
chữ (ngả chữ). Giữa tiếng trống cái, trống con gõ liên hồi rộn rã, theo cờ lệnh
trong tay Tổng cờ, các phu cờ tiến lùi đứng lên, ngồi xuống thành hình chữ.
Khi ngồi xuống, các phu cờ vứt gậy xuống đất, như mô phỏng lại tục vứt cuốc
xẻng xưa của dân phu trước đền Thánh Mẫu. Việc xếp chữ gì do những
người tổ chức hội hàng năm qui định, nhưng thường là "Mẫu Nghi Thiên Hạ"
(Đức mẹ của muôn dân), "Thiên hạ thái bình"...
Nói tới hội phủ Giầy - ngày giỗ Thánh Mẫu không thể không nói tới hình
thức hát văn và hầu đồng. Đây là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa
tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu. Xưa, trong những dịp này, trong và
ngoài đền phủ chính, phủ Vân Cát, người ta tổ chức hát văn chầu và hầu
đồng. Đây là hình thức diễn xướng tổng hợp giữa âm nhạc, hát, thờ cúng,
nhảy múa. Ban văn chuyên tấu nhạc và hát văn chầu theo làn điệu và bài bản
riêng, sao cho phù hợp, ăn khớp với người hầu đồng. Hát văn có làn điệu
riêng, độc đáo, bên cạnh đó còn có nhiều hình thức dân ca khác, như ca trù,
trống quân, quan họ, cải lương... Người hầu đồng làm các nghi lễ trước bàn
thờ, ăn mặc, nhảy múa, phán truyền theo tư cách và địa vị của các vị thần
linh. Đó là các vị thần thuộc hàng các Thánh Mẫu, quan lớn, các ông Hoàng,
các Cô, Cậu... Có lúc, trong các ngày hội hình thức hầu đồng bị lợi dụng,
mang nặng tính mê tín, buôn Thần, bán Thánh, nên ngày nay bị chính quyền
địa phương hạn chế. Thiết nghĩ các nhà văn hoá phải có biện pháp hợp lý để
trả lại cho hầu đồng sự lành mạnh vốn có của nó, không làm mất đi một mỹ
tục của dân tộc ta.
Trong những ngày hội, nhân dân còn tổ chức nhiều hình thức vui chơi
khác như xem hát tuồng, hát chèo, trống quân, kể cả hát xẩm, ca trù, các hình
thức thi đấu mang tính thượng võ, như vật, múa võ, kéo co, đánh cờ, chọi
gà...
Ngoài các nghi thức tế, rước sách, kéo chữ, xem biểu diễn... hội phủ
Giầy còn là ngày hội chợ. Nơi đây trong ngày hội, người ta bày bán các sản
phẩm của địa phương, người đi xem thường là tiện dịp mua sắm thêm vài thứ
vật dụng trong ngày hội. Hội không chỉ là sự thể hiện đời sống tâm linh,
thưởng thức sinh hoạt văn hóa mà còn thúc đẩy hoạt động kinh tế, thương
mại.
Các mặt hàng bày bán thật đa dạng, phong phú, từ cái kim sợi chỉ,
chiếc cần câu, lưới, vó, giậm, nơm để đánh bắt cá cho đến các loại giường,
tủ, bàn, ghế sản phẩm của làng mộc La Xuyên, các loại giày, dép, các loại đồ
đan, áo tơi. Các mặt hàng sơn mài, các loại gỗ khảm trai, các bức hoành phi,
câu đối cũng được bán ngoài chợ trong ngày hội.
Nói tới đi hội không thể không thường thức các món ăn, nhất là các
món đặc sản địa phương. Ở phủ Giầy nổi tiếng nhất là món thịt bò tái, tương
gừng, rất hợp vị với tiết trời tháng 3.
Vui hội như vậy, nên người nào đã trẩy hội phủ Giầy một lần là còn
muốn đến nữa:
Còn trời còn nước còn non
Mùng năm rước Mẫu ta còn đi xem
Ai về nhắn chị cùng em
Bảo nhau dắt díu đi xem hội này.
(Theo http:// www.cinet.gov.vn)
17. Hội Nhồi với tục rước Bà Đông (Bắc Ninh)
Làng Hòa Đình xưa tên chữ là Lồi Đình, tên nôm làng Nhồi, nay thuộc
xã Võ Cường, thành phố Bắc Ninh. Từ lâu, làng Nhồi đã là nổi tiếng với hội
Nhồi vào mùng 7 tháng Giêng (âm lịch) với tục rước Bà Đống.
Làng Nhồi có quần thể di tích đình, đền, chùa cổ kính nằm ở phía Tây
làng, ngay sát quốc lộ 1A. Tương truyền, xưa kia Thành Hoàng làng Nhồi là
Bà Đống, ngự tại một gò đất ngoài đồng gọi là Đống Cả thuộc làng Đống Cao.
Mỗi khi vào hội làng, dân làng tổ chức rước Thành Hoàng về đình và chùa. Lễ
rước được tiến hành như sau:
Tối ngày mùng 6, đám con gái làng Nhồi gồm 12 cô chưa chồng, xinh
đẹp, nết na tụ tập “ngủ bọn” tại một nhà. Đến quá nửa đêm, khi chuông chùa
làng thỉnh, các cô gái lập tức cùng ông Tiên chỉ rước kiệu Bà Đống đến gò
Đống Cả làng Đống Cao, rước Thành Hoàng làng về. Sau khi ông Tiên chỉ
đốt hương khấn vái xin rước Bà Đống, các cô gái ngả kiệu kính cẩn rước Bà
Đống về làng. Kiệu rước làm bằng tre tươi, trang trí bằng lá cây tươi và các
loại hoa thơm. Đòn khiêng kiệu dán giấy ngũ sắc. Đi đầu đám rước là hai cô
gái khiêng một trống cái, một cô đi bên vừa đi vừa đánh nhịp ba. Theo sau
trống là hai cô gái khiêng chiêng đánh phối với nhịp trống. Kế đến là các cô
gái rước kiệu Thành Hoàng.
Khi chiêng trống nổi lên thì đám trai làng Đông Cao cũng 12 người chạy
ra giằng kiệu. Bên đó đã chuẩn bị sẵn một số đòn lao nhỏ, nhẹ, dán giấy ngũ
sắc. Trong khi hai bên giằng co ra vẻ quyết liệt, thì đám trai làng Đống Cao
dùng đòn lao dí vào rốn các cô gái làng Nhồi. Cuộc “giao tranh” chỉ kết thúc
khi đám con gái làng Nhồi ra khỏi địa phận làng Đống Cao. Đám rước Bà
Đống về đến làng Nhồi cũng là lúc trời tảng sáng, người ta rước Bà Đống vào
trong đình và sang chùa. Bên trong đình, chùa các chức sắc trong làng làm lễ
thờ Thành Hoàng. Bên ngoài các “bọn” quan họ cất tiếng hát ca ngợi công
đức của Thần, Phật. Khách thập phương kéo đến dự hội rất đông. Để đón
khách, các bọn quan họ của làng ra tận cổng đón bằng những câu ca quan họ
ngọt ngào, niềm nở. Bên khách tay bưng cơi trầu vào lễ Phật cũng đáp lại chủ
bằng những câu ca quan họ mượt mà, tinh tế. Các "bọn" quan họ chủ và
khách cùng nhau vào đình, chùa lễ Thần, Phật, rồi quay ra hát quan họ đối
đáp giao lưu. Các liền anh, liền chị vừa hát vừa têm trầu, mời nước, hỏi thăm
nhau... cứ như thế cuộc vui kéo dài suốt ngày hội.
Tín ngưỡng thờ Bà Đống của hội làng Nhồi có nguồn gốc từ tín ngưỡng
thờ nữ thần nông nghiệp của người Việt cổ trồng lúa nước vùng châu thổ Bắc
Bộ nói chung, của xứ Kinh Bắc nói riêng. Thần nữ nông nghiệp được người
Việt cổ tôn thờ chính là các lực lượng tự nhiên gắn với nông nghiệp: đất, đá,
gò, đống, cây cối, mây, mưa, sấm, chớp. Những yếu tố tự nhiên này được
thần thánh hóa và bảo lưu đến ngày nay trong văn hóa lễ hội, trong đó có lễ
hội làng Nhồi.
(Theo http:/ /www.lyhocdongphuong.org.vn)
18. Hội rước Kẻ Giá
Dân gian có câu “Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy”. Rước Giá là để chỉ một
trò diễn nổi tiếng của lễ hội làng Giá, được tổ chức từ ngày 10 đến 26 tháng 3
âm lịch hàng năm. Làng Giá, thuở trước có tên là Kẻ Sở, sau đó đổi là Cổ Sở
và nay là đất thuộc hai xã Đắc Sở và Yên Sở (Hoài Đức, Hà Nội)
Sáng 10 tháng 3, các giáp của Yên Sở, Đắc Sở và hai thôn Diễn Xá,
Đại Đồng, Yên Thái mang lễ vật đến đình Yên Sở để xin phép Thành Hoàng
làng cho trang trí lại ngôi đình. Nhân vật trung tâm tại lễ hội làng Giá là Thành
Hoàng làng tức tướng quân Lý Phục Man, người có công giúp vua Lý Nam
Đế dẹp giặc vào thế kỷ 14. Cỗ kiệu lớn của Thành Hoàng làng được lắp ráp
lại trong ngày hội, con ngựa bằng đồng hun được kéo vào sân. Hai làng Yên
Sở và Đắc Sở tiến hành hai đám rước khác nhau. Làng Yên Sở rước vào
ngày chẵn và người tham gia đám rước này nhất thiết phải là người làng Yên
Sở. Những người mang vác đồ tế khí mặc áo đỏ, cổ cao, ống tay dài. Ngoài
ra, còn có 48 em thiếu niên được chọn từ những gia đình không có tang, cơ
thể lành lặn để cầm cờ mà dân làng gọi là đội tổng cờ. Trang phục của đội
tổng cờ mặc áo dài thâm, khăn thâm, quần trắng, đi chân đất, ngoài áo dài có
cài một thắt lưng đỏ. Bắt đầu vào rước, các cụ già trong làng giữ vai trò quan
hầu của Thần. Mười cụ chia thành hai hàng đi trước hương án và mười cụ
khác chia thành hai hàng đi trước kiệu văn. Trang phục của các cụ bằng áo
đỏ rộng, tay chùng xuống đầu gối, ngang lưng thắt đai màu lục; quần màu
trắng và trên đầu đội mũ rơm vành rộng. Trên tay mỗi cụ cầm một chiếc roi
dài đầu sơn son thếp vàng. Chỉ huy đám rước là một cụ ông có uy tín trong
làng, cầm chiêng chỉ đạo đội tổng cờ, gọi là thủ hiệu. Mỗi khi cụ ông đánh
chiêng, đội tổng cờ đồng thanh hô lên 4 tiếng: "lai ré hè ré". Đám rước đi theo
hàng lối qui củ: dẫn đầu là người múa sư tử, tiếp đến là tuần đinh mang roi,
giáo, tù và, 20 lá cờ thần, trống cái có lọng che, dùi đồng, hương án, tàn,
phường bát âm, một cỗ kiệu, các tổng cờ và đi sau cùng là bốn lá cờ vuông.
Khi rước đến văn chỉ, chỉ có các tổng cờ, các quan hầu của Thần và cỗ kiệu
được phép vào sân, số còn lại phải đứng bên ngoài. Sau khi hoàn thành xong
các nghi thức, đoàn rước lại trật tự rước trở về con đường cũ với đội hình ban
đầu. Tại lễ hội Yên Sở có trò diễn “nghiềm quân” độc đáo. Tất cả đội hình
được sắp xếp, múa cờ theo hình xoáy trôn ốc, người đóng vai tướng cầm lá
cờ đại phá vòng vây rất tài tình. Đây là trò diễn thể hiện cuộc phá vây của vị
tướng lĩnh, cũng như sự luyện quân của người xưa.
Đám rước của làng Đắc Sở được tiến hành vào ngày lẻ. Xuất phát từ
đình, theo con đê, đi đầu là người vác giáo và người cầm tù và. Kế tiếp là 20
lá cờ vuông, cờ ngũ hành, lọng vàng. Tiếp sau có 4 người khiêng bàn, trên có
để các tế khí, lư trầm, nến, đèn, hai con hạc. Sau đội khênh bàn là 8 người
mang bộ bát bửu đi thành hai hàng. Đi cùng đám rước là kiệu văn, đèn lồng,
nhạc cụ như sáo, nhị, phủ việt, dùi đồng. Đi sau cỗ kiệu là hai cụ cao tuổi mặc
áo thụng xanh và thụng thâm, đi hia, đội mũ cánh chuồn. Tổng cờ của đám
rước làng Đắc Sở chỉ có 36 em thiếu niên ăn mặc giống như bên Yên Sở, đặt
dưới sự chỉ huy của một thủ hiệu điều hành bằng chiêng. Khi thủ hiệu đánh
chiêng, đội tổng cờ đồng thanh hô: "lai ré hè ré". Sau khi rước được văn tế,
đoàn rước quay trở lại quán và chỉ có ông thủ hiệu và các tổng cờ được
quyền vào sân tế.
Nét độc đáo của rước Giá sở dĩ trở thành một nét văn hóa khó lẫn so
với lễ hội ở các làng quê khác, chính là trò “nghiềm quân” hoành tráng. Trò
“nghiềm quân” chính là sự đan xen các lớp văn hóa tín ngưỡng trong lễ hội
thờ cúng vị Thành Hoàng của người dân Kẻ Giá, gắn với khát vọng cầu mưa
của cư dân nông nghiệp và tín ngưỡng thờ Thần Mặt trời.
(Theo http:// www.e-cadao.com)
19. Hội rước nước trên sông Hồng
Cứ vào dịp từ ngày 10 đến 12 tháng 2 âm lịch hàng năm, nhân dân các
xã Bình Minh, Mễ Sở, Dạ Trạch thuộc huyện Châu Giang (Hưng Yên) thường
tổ chức lễ hội tưởng nhớ đức Thánh Chử Đồng Tử. Cũng có năm không mở
hội lớn nhưng lễ rước nước rất đặc sắc thì năm nào cũng được tiến hành trên
một dải sông Hồng, theo truyền thuyết là nơi diễn ra cuộc hội ngộ có một
không hai giữa chàng trai nghèo Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung.
Dọc theo hai bên tả hữu sông Hồng nhiều nơi có đền thờ Chử Đồng Tử
nhưng nổi tiếng nhất là các đền Dạ Trạch (thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch), ngay
bên đầm Dạ Trạch (tương truyền là nơi Chử Đồng Tử hóa) và đền Đa Hòa
(thôn Đa Hòa, xã Bình Minh) trên bờ sông đối diện bãi Tự Nhiên là nơi xưa
kia Chử Đồng Tử và Tiên Dung lần đầu gặp gỡ. Cả hai đền này đều tổ chức
lễ rước nước với nghi thức gần giống nhau trong cùng một ngày mùng 10
tháng 2 âm lịch. Theo tục lệ, nước dùng để cúng bái trong cả năm phải là
nước được lấy ở giữa sông Hồng. Mỗi đám rước thường rất đông, có đến cả
vạn người tham dự. Những người trực tiếp tham gia vào công việc của lễ như
đội tế, đội múa sênh tiền, đội múa rồng, đội khiêng kiệu,... được gọi là các giai
đô. So về quy mô thì đám rước nước từ đền Dạ Trạch có lẽ lớn hơn vì có sự
tham gia đông đảo của các xã khác như Đông Tảo, Yên Phú, Liên Nghĩa,...
đặc biệt các xã thuộc tỉnh Hà Tây trước kia có thờ Thánh Chử Đồng Tử cũng
tham dự lễ rước nước cùng với Dạ Trạch như xã Tự Nhiên (Thường Tín), xã
Vĩnh Khang (Phú Xuyên). Còn đám rước nước từ đền Đa Hòa tuy cũng có rất
đông khách thập phương nhưng về quy mô thì chỉ có chín làng (xưa kia thuộc
tổng Mễ Sở) trực tiếp tham gia, gọi là lễ hàng tổng. Đi đầu các đám rước là
một hoặc hai con rồng vàng lộng lẫy uy nghi uốn lượn theo nhịp trống phách.
Tiếp đó đến đội tế nữ của các bà, các cô trong làng ăn mặc xiêm áo rực rỡ,
thứ đến bát bửu chấp kích, đội múa bồng vừa đi vừa đánh trống vừa múa thật
rộn rã, rồi đến kiệu thánh và kiệu rước chóe để lấy nước sông Hồng. Đám
của Dạ Trạch rước đến bảy kiệu, bao gồm: kiệu Long Đình, kiệu Thánh Chử
Đồng Tử, kiệu bà cả Tiên Dung, kiệu Hồng Vân, đặc biệt có kiệu gậy - nón và
kiệu Ông Bế, sau cùng là kiệu rước chóe. Gậy - nón và Ông Bế là những vật
thờ độc đáo của đền Dạ Trạch. Trong đền, gậy và nón (theo truyền thuyết là
những vật dụng Chử Đồng Tử dùng để hóa phép ra lâu đài, thành quách)
được thờ ở ban phía bên hữu còn Ông Bế (Bế Ngư) được thờ ở ban bên tả.
"Bế Ngư thần quan" là tượng một con cá hóa rồng bằng gỗ dài hơn 1m sơn
son thếp vàng rực rỡ, biểu hiện niềm mong mỏi chế ngự sông nước của
những ngư dân vùng đầm lầy Dạ Trạch.
Dân làng kể rằng thuở xưa trong đầm có những con cá chép lớn đến
nỗi trẻ chăn trâu bơi lội có thể cưỡi lên lưng chúng, sau 18 năm liền vỡ đê
Văn Giang không còn thấy được những con cá lớn ấy nữa. Đám rước nước
vừa đi vừa múa trong nhịp trống phách, khi ra đến bờ sông, tất cả các kiệu
được chuyển lên đoàn thuyền trang trí cờ xí đèn hoa lộng lẫy đã chờ sẵn. Cả
hai làng đều có làm một thuyền rồng lớn có một lầu ở giữa, gọi là du thuyền,
để diễn lại cảnh nàng Tiên Dung thuở nào đi du ngoạn trên sông. Chiếc du
thuyền uy nghi chèo ở giữa, các thuyền khác diễu chung quanh, sắc màu rực
rỡ, âm nhạc vang lừng. Đoàn thuyền của Đa Hòa bơi sang bãi Tự Nhiên, rồi
quây thành một vòng tròn ở giữa sông để một cụ già đức độ (được làng chỉ
định từ trước) cầm gáo dừa sơn đỏ múc từng gáo nước đổ vào chóe. Còn
đoàn thuyền của Dạ Trạch sau khi gặp với đoàn thuyền của xã Tự Nhiên bên
kia sông cùng nhau diễn cảnh Tiên Dung du ngoạn xuống đến tận Hàm Tử rồi
mới quay về lấy nước ở giữa dòng sông đoạn ngang làng Vĩnh. Chóe nước
sông Hồng đầy ắp được các đoàn rước đưa trở về đền để dùng làm nước thờ
cúng quanh năm.
Lễ rước nước là một nghi thức tâm linh rất đặc sắc biểu hiện tín
ngưỡng cầu nước của những cư dân của nền văn minh lúa nước ven sông
Hồng. Hầu như mọi thủ tục, mọi hoạt động trong lễ rước này như múa rồng,
rước cá, chèo thuyền, rước nước,... đều có liên quan đến nước - một yếu tố
rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Thông qua nghi thức này, nhân
dân muốn cầu cho mưa thuận gió hòa để cấy cày thuận lợi, mùa màng bội
thu.
(Theo http:// www.cinet.ogv.vn)
20. Hội sáo đền
Thái Bình không chỉ nổi tiếng với hội chùa Keo mà còn có một lễ hội
khá độc đáo còn tồn tại từ xa xưa đó là hội sáo đền. Hội sáo đền diễn ra từ
ngày 20 đến 27 tháng 3 hàng năm tại xã Song An, huyện Vũ Thư. Thời gian
diễn ra lễ hội là những ngày bà con địa phương cùng du khách thập phương
được sống trong niềm vui hân hoan với những điệu chèo cổ ngọt ngào nổi
tiếng.
Ngày nay sáo đền được biết đến với trò chơi thả diều độc đáo. Cũng
như mọi lễ hội khác ngoài phần lễ là phần hội. Phần hội với đủ các trò chơi
như: chọi gà, cờ người, bắn cung, bắt vịt... và trò thi diều sáo. Đã từ hàng
trăm năm nay luật chơi không hề thay đổi. Người chủ diều chọn đúng hướng
gió kéo dây. Ban tổ chức cắm hai cây sào trên đầu có buộc hai lưỡi mác rất
bén cắm hai cây sào đó hai bên dây diều, khoảng cách của hai cây sào là
50cm. Tất cả những cánh diều dự thi đều phải làm như vậy. Khi nghe hồi
trống lệnh nổi lên, các chủ diều chỉnh diều cho chuẩn kéo căng dây và để diều
hướng lên. Cánh diều nào không chuẩn đảo qua đảo lại, dây diều sẽ chạm
phải hai lưỡi mác trên hai ngọn sào là đứt dây ngay. Như vậy cánh diều đó bị
loại khỏi cuộc chơi, cứ thế diều nào đậu được đến ngày cuối cùng của hội thì
chủ diều đó đoạt giải. Cũng có năm hội diễn ra đến ngày 25 mà vẫn không có
gió, sáng 26 là chính hội gió chỉ hiu hiu. Mọi người đến với lễ hội đã biểu hiện
tâm trạng buồn vì có lẽ sẽ không được thi và xem thi thả diều. Nhưng buổi
trưa bắt đầu có từng cơn gió và sang đầu chiều gió đã đủ để tổ chức hội thi
diều. Điều kỳ diệu này khiến người trẩy hội rất đỗi ngạc nhiên. Người già
trong vùng gọi đó là "gió thần", vậy là nhờ "gió thần" hội sáo đền không năm
nào bị gián đoạn.
Diều được giải nhất ngoài việc đậu đến hết hội ở giữa hai lưỡi mác thì
sáo diều phải thật hay. Sáo hay là bộ sáo gồm 2 sáo trở lên, tiếng sáo trong
trẻo âm thanh giữa các sáo trong bộ sáo phải phối hợp cho nhau hài hoà,
ngọt ngào, du dương... Nói về sáo, các bô lão trong làng kể. Thời xưa có
người chơi diều thời đó còn buông bằng dây tre, đã làm cánh diều khung
bằng 4 cây tre nối lại. Bộ sáo của chiếc diều có 2 chiếc. Chuyện còn kể lại
rằng khi diều bổ xuống cánh đồng, chủ diều chưa kịp mang về, có người ăn
xin đã chui được lọt vào chiếc sáo to của diều đó ngủ. Câu chuyện này được
người dân nơi đây lấy làm tự hào và luôn kể cho khách thập phương về dự lễ
hội.
(Theo http:// www.cinet.gov.un)
21. Hội Gióng
Ai ơi mùng chín tháng tư
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời.
Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương là một trong bốn vị thánh bất tử
(tứ bất tử) trong tâm tưởng người Việt. Ngọc phả của đền Gióng còn ghi lại
tiểu sử của cậu bé Gióng được sinh ra do một lần người mẹ ra đồng thấy một
vết chân to lớn lạ thường, bà ướm thử chân mình vào, về nhà bà mang thai
sinh ra Gióng. Cậu bé đến ba tuổi vẫn không biết nói, cười, mãi đến khi nghe
tiếng sứ giả rao tìm người giúp nước đánh giặc Gióng mới cất tiếng nói đầu
tiên. Đó là tiếng nói xin đi đánh giặc cứu nước. Gióng yêu cầu nhà vua rèn
ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt cho mình rồi nhờ những bát cơm, nong cà của
nhân dân mà vươn vai đứng dậy, biến thành người khổng lồ, sau đó cưỡi
ngựa sắt, mặc áo giáp sắt, dùng gậy sắt giết giặc, khi gậy gãy Gióng đã lấy
bụi tre của quê hương làm vũ khí dẹp giặc. Giặc tan, Gióng cho ngựa chạy
lên núi Sóc. Tại đây Gióng cởi bỏ áo giáp rồi cả người và ngựa cùng bay lên
trời.
Câu chuyện là một bản anh hùng ca của tuổi trẻ Việt Nam: tuổi nhỏ mà
chí lớn, bình dị mà phi thường, đất nước gặp nạn sẵn sàng ra cứu nước, tan
giặc thì ra đi không cần một chút công danh lợi lộc nào.
Lễ hội Thánh Gióng được tổ chức hàng năm tại làng Gióng, một làng
Việt cổ nay thuộc địa phận của bốn làng Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên,
Đổng Xuyên của xã Phù Đổng. Đây không chỉ là lễ hội lớn nhất của Hà Nội
mà còn là một trong những lễ hội lớn nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong
hội, người ta thường tái hiện lại sự tích Thánh Gióng. Hàng năm, cứ đến ngày
9 tháng 4 âm lịch (ngày ông Gióng đánh thắng giặc Ân), dân tứ xứ từ mọi ngả
xa gần lại đổ về để xem tế lễ và dự hội làng.
Từ Hà Nội, qua Gia Lâm, theo quốc lộ 1 về hướng Bắc Ninh thẳng cầu
Đuống, qua cầu rẽ phải dọc theo đê khoảng 7km thì tới đền Gióng. Đứng trên
bờ đê là đã có thể trông thấy đền Thượng - một ngôi đền khá đồ sộ, kiến trúc
theo lối cổ, đây chính là nơi thờ Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương.
Người Kẻ Chợ có câu ngạn ngữ: "Nắng ông Từa, mưa ông Gióng",
nghĩa là cứ vào ngày hội thánh Từa (tức Từ Đạo Hạnh) mùng 7 tháng 3 âm
lịch thì thế nào cũng nắng to, còn vào hội thánh Gióng, mùng 9 tháng 4 âm
lịch thì có mưa, vì đó là lúc bắt đầu mùa mưa dông.
Vào ngày hội, xã Phù Đổng huy động tới trên 1.000 người tham gia vào
các màn lễ hội như đánh cờ, đánh trống, chiêng, dâng hương, rước kiệu.
Cùng với những màn lễ hội truyền thống, trên không gian trải dài theo triền đê
sông Đuông còn có các hội hát tuồng, hát quan họ, hội thi "thôn nữ giỏi giang
- duyên dáng", thi đấu cầu lông, vật tự do và chọi gà.
Trong những ngày này, nhiều điểm di tích trên địa bàn gắn với truyền
thuyết Phù Đổng Thiên Vương, gồm đền Thượng, đền Hạ, miếu Ban và chùa
Kiến Sơ cũng được tôn tạo, sửa sang lại.
Lễ hội làng Gióng được cử hành trên một diễn trường rộng lớn dài
khoảng 3km, gồm đền Thượng, đền Mẫu (đền thờ mẹ của Gióng) và chùa
Kiến Sơ. Nơi đây có những dấu tích khi còn thơ ấu của Thánh Gióng. Cố Viên
(tức vườn cũ) nay ở giữa đồng thôn Đổng Viên, tương truyền là vườn cà của
mẹ Gióng, nơi bà đã thấy vết chân khổng lồ của ông Đổng (tảng đá có dấu
chân thần vẫn còn ở vườn này), bà đã ướm thử chân mình vào và sau đó
mang thai Gióng. Miếu Ban, thuộc thôn Phù Dực, tên cũ là rừng Trại Nòn, là
nơi Ngài được sinh ra, hiện tại sau toà miếu còn có một ao nhỏ, giữa ao có gò
nổi, trên gò có một bể con bằng đá tượng trưng cho bồn tắm và một chiếc
liềm bằng đá là dụng cụ cắt rốn người anh hùng khi xưa. Đền Mẫu được xây
dựng ngoài đê. Chùa Kiến Sơ nằm sát đền Thượng thờ cả Tam giáo (Phật
Thích Ca - Lão Tử - Khổng Tử) là nơi khi còn nhỏ vua Lý Công Uẩn đã tu
hành. Đặc biệt, đền Thượng, thờ Phù Đổng Thiên Vương là một phức hợp
kiến trúc, nằm sát chân đê bờ bắc sông Đuông. Đền được xây dựng từ thế kỷ
thứ 11 thời Lý, bên trong còn có nhiều câu đối, hoành phi và những đồ thờ tự
có giá trị từ đời Lê để lại.
Từ mùng 1 tháng 3 đến mùng 5 tháng 4 âm lịch là thời gian chuẩn bị lễ
hội. Hội bắt đầu từ ngày mùng 6 tháng 4. Trong những ngày này, dân làng tổ
chức lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay (cơm cà - thức ăn đã nuôi
Gióng lớn) lên đền Thượng. Mùng 8 có lễ rước nước từ đền Hạ và đền
Thượng tượng trưng cho việc tôi luyện vũ khí trước khi đánh giặc.
Mùng 9 là chính hội, có múa hát thờ, hội trận và lễ khao quân. Vào
ngày này, dân tứ xứ xa gần đổ về để xem và dự hội làng. Hát thờ diễn ra
trước thuỷ đình (phía trước đền Thượng) do phường hát Ái Lao và hội Tùng
Choặc biểu diễn, chủ yếu là hát dân ca.
Hội trận mô phỏng lại cảnh Thánh Gióng đánh giặc tại cả một khu vực
cánh đồng rộng lớn (khoảng 3km) gọi là Soi Bia. 28 cô tướng do những trẻ
em từ 9 đến 12 tuổi mặc tướng phục thật đẹp, tượng trưng cho 28 đạo quân
thù. 80 phù giá lưng đeo túi dết, chân quấn xà cạp tượng trưng cho quân ta.
Đi đầu đám rước là một vài bé trai cầm roi rồng, mặc áo đỏ đi dọn đường
tượng trưng cho đạo quân mục đồng. Theo sau là ông Hổ từng giúp Thánh
phá giặc. Trong đám rước còn có cả ông Trống, ông Chiêng và 3 viên Tiểu cổ
mặc áo xanh tĩnh xướng.
Tại hội còn có tổ chức đánh cờ người. Nét đặc sắc ở hội Gióng là
người xem hội sẽ được cướp những đồ tế lễ, ngay cả bát nước thờ, manh
chiếu trải trên nền cỏ... Người ta tin rằng nếu có được một đồ tế thì coi như
đã được Thánh ban lộc và những vật dụng kia sẽ đem lại may mắn cho người
đó trong cả năm.
Đám rước đi đến tận Đổng Viên, đi đến đâu cờ quạt tưng bừng đến
đấy.
Vào ngày mùng 10, vãn hội có lễ duyệt quân tạ ơn Thánh. Ngày 11 làm
lễ rửa khí giới và ngày 12 lễ rước cờ báo tin thắng trận với trời đất. Cuối cùng
là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo.
Đến với hội Gióng, người tham dự được chứng kiến các nghi thức của
một hệ thống lễ uy nghi, mang tính nghệ thuật và biểu tượng cao. Hội còn là
sự gắn kết nhiều chiều giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa
quá khứ và hiện tại, giữa thực và ảo, giữa thiêng liêng và trần tục. Những
nghi lễ này được giữ gìn như một tài sản văn hoá để lưu truyền cho thế hệ
sau.
Hội Gióng với những màn diễn xướng độc đáo ngoài ý nghĩa tôn vinh vị
anh hùng dân tộc Thánh Gióng còn thể hiện tinh thần đoàn kết toàn dân và ý
chí quật cường của dân tộc Việt Nam ta. Hàng năm, lễ hội thu hút tới hàng
vạn khách thập phương tham dự.
Ngoài lễ hội chính tại làng Phù Đổng, còn có một số nơi khác cũng tổ
chức hội Gióng như Hội đền Sóc ở xã Xuân Đỉnh huyện Từ Liêm, hội Sóc
Sơn (huyện Sóc Sơn), hội Phù Gióng, hội Gióng Bộ Đầu...
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
22. Lễ hội Yên Tử
Giữa những cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc, núi Yên Tử
(xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí) cao 1.068m cao vút lên như một toà
tháp. Đây là trung tâm Phật giáo của Đại Việt thuở trước, là nơi phát tích của
thiền phái Trúc Lâm. Từ xa xưa cảnh Yên Tử đã nổi tiếng với cảnh quan núi
non sông nước ngoạn mục, được các triều đại vua chúa xếp là một trong
những "danh sơn" (núi đẹp) của cả nước. Gần 1000 năm trước, sử sách đã
ghi lại rằng, Yên Tử được coi là "phúc địa thứ 4 của Giao Châu", nhiều tài liệu
cũ đều thống nhất ghi nhận "Năm Tự Đức thứ 3, núi Yên Tử được liệt vào
hàng danh sơn, chép trong điển thờ".
Từ thị xã Hòn Gai, đi theo đường 18 khoảng 40km là đến thị xã Uông
Bí, du khách chuẩn bị thêm thực phẩm và nước uống rồi tiếp tục hành trình
lên Yên Tử.
Yên Tử ngày xưa được gọi là Tượng Sơn (Núi Voi) có lẽ bởi hình dáng
núi giống như một con voi khổng lồ. Sử sách cũ lại gọi Yên Tử là Bạch Vân
Sơn (núi mây trắng) do vùng núi này quanh năm mây phủ. Có tài liệu còn ghi
chép nơi này là Tổ Sơn, do đây là nơi núi cao nhất trong khu vực.
Sự linh thiêng huyền bí của Yên Tử đã thu hút nhiều tín đồ của đạo
Phật đến đây tu hành. Tương truyền rằng vào thế kỷ thứ 10, đạo sĩ An Kỳ
Sinh (Yên Kỳ Sinh) đã đến nơi này tu hành và đắc đạo. Ngày nay vẫn còn
tượng của ông trên núi Yên Tử, đó là một khối đá hình người cao 2m, nằm
cách chùa Đồng khoảng 200m. Những năm sau đó, nhiều thế hệ tăng ni phật
tử Việt Nam tiếp tục tìm đến Yên Tử tu hành, xây dựng chùa tháp và nhiều
công trình khác.
Đặc biệt, các vị vua thời Trần đã đầu tư xây dựng Yên Tử thành khu
quần thể kiến trúc chùa tháp có quy mô lớn. Khởi đầu là vua Trần cảnh (vua
Trần Thái Tông) đến Yên Tử tháng 4 năm Bính Thân (1236). Sau đó là vua
Trần Nhân Tông (Trần Khâm) vào lúc triều đại đang hưng thịnh đã nhường lại
ngôi cho con để yên tâm đến Yên Tử tu hành và nghiên cứu đạo Phật.
Năm 1299, Trần Nhân Tông đã xây dựng nên dòng thiền Trúc Lâm
bằng cả một hệ thống lý thuyết và hành động gắn đạo với đời. Ông được coi
là vị Sư Tổ thứ nhất của Phật phái Trúc Lâm mang Phật danh Điều Ngự Giác
Hoàng. Kế tục sự nghiệp của ông là Sư Tổ Pháp Loa và Huyền Quang Tôn
Giả. Cả ba vị được gọi chung là Trúc Lâm Tam Tổ. Từ đó, Yên Tử trở thành
kinh đô tư tưởng của Phật phái Trúc Lâm, đánh dấu sự phát triển triết học và
tư tưởng của dân tộc Việt Nam trong các thế kỷ 12, 13, 14. Gắn liền với lịch
sử phát triển dòng thiền Trúc Lâm tại Yên Tử là việc xây dựng và hình thành
một quần thể các công trình kiến trúc gồm 11 chùa và hàng trăm am, tháp,
mộ, bia, tượng... Tháp có niên đại "Cảnh Hưng thập cửu niên - 1758" là ngọn
tháp cổ nhất, cao ba tầng, được làm bằng đá. Quần thể kiến trúc đồ sộ này
được đặt trong một tổng thể cảnh quan hùng vĩ, thơ mộng trải dài gần 20km
tạo thành khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử mang tầm quốc gia, ngày
càng thêm quyến rũ du khách bốn phương.
Từ thế kỷ 17, 18, không rõ chính xác là vào khoảng thời gian nào, trên
đỉnh Yên Tử, ở độ cao 1.068m đã hiện diện một ngôi chùa (Thiên Trúc Tự)
hay còn gọi là chùa Đồng. Chùa được lợp ngói đồng, bên trong có 2 pho
tượng đồng, cạnh chùa là một phiến đá lớn bằng phẳng được gọi là bàn cờ
Tiên cùng với một chữ Phật lớn khắc vào vách đá... Tất cả đều nói lên sự linh
thiêng, huyền bí và sức cuốn hút kỳ diệu của Yên Tử. Hiện nay, chùa cũ đã
không còn, chỉ còn dấu tích để lại là một khám thờ nhỏ đã được làm lại bằng
đồng vào tháng 4/1994.
Cứ đến dịp xuân về, người hành hương từ khắp mọi miền đất nước lại
đổ về Yên Tử để tham dự lễ hội được tổ chức từ ngày mùng 10 tháng Giêng
âm lịch. Hội kéo dài trong suốt 3 tháng mùa xuân. Hội được mở đầu bằng
phần nghi lễ long trọng được chính quyền địa phương tổ chức ngay dưới
chân núi Yên Tử. Sau đó là bắt đầu cuộc hành hương của hàng vạn người
đến với đỉnh cao nhất của Yên Tử - chùa Đồng.
Đường lên đỉnh Yên Tử uốn lượn, phải xuyên qua những vạt rừng
thông, trúc... gian nan, gập ghềnh nhưng cũng đầy cuốn hút, hấp dẫn. Phải
mất khoảng 3 giờ đồng hồ leo núi vất vả mới có thể lên tới được đỉnh là chùa
Đồng. Với những tín đồ của đạo Phật, đây là cuộc hành hương thử thách đức
tin, kiểm chứng lòng thành với Phật. Với du khách, đây là nơi để chiêm
ngưỡng, thưởng ngoạn không khí thanh bình, thư thái trước thiên nhiên, trời
đất. Nam nữ thanh niên đến đây để khám phá, chinh phục. Người Việt xa quê
tìm về đây để được đắm mình trong truyền thống văn hoá, tinh hoa của bản
sắc dân tộc. Người nước ngoài lại đến đây để tìm hiểu Yên Tử như một biểu
tượng về du lịch, tôn giáo, văn hoá và sinh thái đặc sắc của Việt Nam...
Ngày nay đã có hệ thống cáp treo lên Yên Tử nhưng những người
hành hương vẫn muốn tự mình leo lên núi. Trải đều trên con đường quanh co
lên chùa Đồng là những cụm kiến trúc chùa, bia, am, tháp... xen lẫn giữa rừng
trúc xanh hay mờ ảo sau những đám mây trắng làm người hành hương bị
cuốn hút, say sưa quên hẳn những mệt nhọc, khó khăn vì chặng đường dài
leo núi.
Nguyễn Trãi đã từng ví đến được chùa Đồng, con người như đang
được thoát tục và được "nói cười giữa mây xanh", cảm giác mãn nguyện như
đã đến được cội nguồn của cõi Phật. Dường như nơi đây là chốn đào viên để
Tiên, Phật đánh cờ, luận đàm kinh kệ, truyền đạo cho đời. Từ đây, du khách
có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn khắp biển trời miền Đông Bắc, lòng đầy tự
hào vì mình đã vượt qua được gian nan, thử thách để làm chủ cả một vùng
thiên nhiên kỳ vĩ.
Đến dự hội Yên Tử, du khách không nên bỏ qua dịp được thưởng thức
món rau sắng - một đặc sản, được kết tinh từ hương hoa, từ khí trời, gió núi
của Yên Tử. Người ta còn gọi rau sắng là rau ngót rừng. Gọi là rau nhưng rau
sắng thuộc loài thân mộc, có cây đường kính 20 - 30cm, cao 5 - 6m. Để hái
được lá non có khi người ta phải trèo lên tận ngọn. Hoa rau sắng lấm tấm
như hoa ngâu, gọi là rồng rồng. Quả sắng có hình bầu dục, màu vàng sẫm,
ăn ngọt mà hơi rát lưỡi. Tháng năm là mùa quả chín, quả sắng từng chùm lúc
lỉu trên cây như quả sung.
Rau sắng chỉ mọc được trên núi đá vôi, không thể trồng được ở những
nơi khác. Bộ rễ cây khoẻ mạnh bám chắc vào đá, chắt gạn từng giọt nhựa
sống đưa lên cho cành lá xanh tươi. Lá rau sắng xanh sẫm, óng ả, ra hết lớp
này đến lớp khác. Rau sắng nấu với các loại thực phẩm như: thịt già, cá rô,
cá quả... đều rất ngon, mỗi kiểu có hương vị đặc sắc riêng, thơm ngon và bổ
dưỡng. Nhưng phải ăn bát canh rau sắng nấu suông, nêm chút muối, nhai kỹ
từng chiếc lá nhỏ mới có thể thưởng thức được thật sâu, thật kỹ vị ngọt, vị bùi
khó tả của nó và mới cảm nhận được phong vị đặc biệt của cây rau sắng.
Yên Tử là nơi các tín đồ đạo Phật đến tu luyện, thử thách đức tin và
hấp dẫn du khách hành hương đến cầu lộc, cầu tài, tham quan, nghiên cứu
và leo núi, cắm trại. Bất kỳ ai đến với lễ hội Yên Tử, nhất là đến được chùa
Đồng đều cảm thấy choáng ngợp bởi sự kỳ vĩ của thiên nhiên và lâng lâng
cảm giác thần tiên thoát tục. Ca dao có câu:
Trăm năm tích đức, tu hành
Chưa đi Yên Tử, chưa thành quả tu.
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
23. Lễ hội Đền Cuông
Hội đền Cuông (Công) diễn ra vào 15 tháng 2 âm lịch tại xã Diễn An,
huyện Diễn Châu, Nghệ An. Lễ hội này cũng nhằm tưởng nhớ ơn đức của An
Dương Vương. Đây là một lễ hội lớn ở Nghệ An, thu hút hàng vạn lượt người
từ khắp nơi đổ về trẩy hội. Khác với lễ hội cổ Loa gồm ba phần: lễ tế thần, lễ
rước kiệu; khách thập phương dâng hương; vui hội. Lễ hội đền Cuông chỉ có
lễ tế thần, sau đó là các sinh hoạt văn hoá như: hát tuồng, chèo, thả đèn hoa.
Mùa xuân, đến với đền Cuông không chỉ là dịp cầu phúc, cầu tài mà
còn là dịp để du khách tưởng nhớ lại đoạn kết của câu chuyện Loa Thành: An
Dương Vương đem công chúa Mỵ Châu chạy trốn kẻ thù, tới Diễn Châu thì
dừng lại. Nhận ra sự thật, vua chém con gái yêu rồi theo thần Kim Quy đi về
phía biển... Truyền thuyết và lịch sử, thực và hư, những dấu tích đã rêu
phong, đã hoen mờ cùng thời gian, chỉ còn lại một đền Cuông linh thiêng và
lòng ngưỡng vọng của nhân dân.
Đền Cuông là một di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng và cũng
là một danh thắng mà bất cứ ai đã đến sẽ khó quên bởi sự kết hợp hài hoà
giữa kiến trúc và cảnh sắc thiên nhiên như thể đã có một sự thoả thuận từ
ngàn đời trước giữa tạo hoá và bàn tay con người. Đền nằm ở lưng chừng
núi Mộ Dạ, ngay kề quốc lộ 1. Phía sau núi là biển cả mênh mông, ngày đêm
sóng vỗ rì rào. Mỗi ban mai, vầng dương từ biển nhô lên phủ một vầng hào
quang rực rỡ lên vạn vật.
Đứng từ quốc lộ 1 nhìn lên, cổng Tam quan cao vời vợi. Ba tầng lầu
như được tôn thêm vẻ cổ kính bởi lớp rêu phong và những cây si nảy mầm từ
các kẽ đá bám rễ leo lên đến tận lầu thượng. Kiến trúc bên trong đền phần
lớn đều được tu bổ lại nhưng dáng xưa vẫn còn đó trên các cây cột đồ sộ,
những chạm nổi rồng phượng tinh xảo, những câu đối viết bằng chữ Hán của
các quan lại, danh Nho thời trước muốn tỏ lòng tôn kính đối với An Dương
Vương.
Bước vào bên trong đền thờ thần An Dương Vương, du khách sẽ cảm
nhận được một không gian tĩnh mịch, trở ra ngoài lại thấy cảnh núi non, trời,
biển... Chính cái địa thế ấy đã khiến tâm hồn con người thanh thoát quên đi
hết những lo toan bộn bề của cuộc sống. Phải chăng vì lẽ đó hay vì sự linh
thiêng của ngôi đền mà người đến với chốn ấy ngày một đông? Những năm
gần đây, du khách trẩy hội đền Cuông muốn vào thắp hương trong ngày tế lễ
luôn phải vất vả vì chen chân từ dưới chân núi.
Lòng thành kính, cầu an khiến ngay chính những người tổ chức lễ hội
cũng phải ngạc nhiên, năm 1874 quan phó bảng ở Nghệ An là Phạm Huy
Lương đã viết trong bài văn bia khắc vào đá ở đền như sau: "Chốn ấy là đất
thiêng cho nên cũng tuỳ lòng tín ngưỡng của nhân dân chứ không ngăn cấm
được".
(Theo http://WWW.lyhocdongphuong.com.vn)
24. Lễ hội Cá Ông
Đất nước ta có bờ biển dài hàng nghìn ki lô mét. Cư dân ven biển hầu
hết đều thờ cúng cá Voi (cá Ông). Bởi lẽ trong tâm thức của các cư dân miền
biển, cá Voi được coi là vị thần hộ mệnh biển cả của họ. Ngư dân hễ thấy
dòng nước phun lên cao từ trán cá Voi họ đều cho rằng cá Voi đang cảnh báo
trước cho dân làng đang sắp có bão, thế nên dân gian mới có câu: "Ông lên
hiệu, liệu mà trốn". Khi trong cơn dông bão, với tấm thân dài 15 - 20m, cao
1,5 - 2,5m, cá Voi che đỡ, đương đầu với sóng to gió lớn, dìu thuyền và
người vào tận bờ. Đời vua Khải Định đã sắc phong cá Voi là Nam Hải Tự Tộc
Đại Vương Lân Tôn Thần vì đã có công "giúp nước hộ dân, luôn luôn hiển
ứng" và cho phép người dân dùng điển lễ của hoàng gia để phụng sự, thờ
cúng.
Chuyện cá Voi cứu ngươi không phải là truyền thuyết mà ngư dân trên
biển đã truyền đời kể con cháu nghe những chuyện mắt thấy, tai nghe, hay
chính từ bản than mình được "Ông" cứu giúp.
Mỗi khi cá Voi luỵ (chết) dạt vào bờ, ngư dân đầu tiên trông thấy sẽ
được coi là con trai của cá Ông và được đứng ra làm tang lễ, chôn cất Ông
cẩn thận. Mời dân làng đến tế lễ, xây lăng điện thờ cúng.
Cá Voi đã trở thành một nhân vật linh thiêng được sùng kính đối với
ngư dân ven biển nước ta. Dọc khắp các tỉnh, thành ven biển, hầu như ở
vùng nào người ta cũng gặp đền thờ cá Ông từ Quảng Ninh, Thanh Hoá đến
Cam Ranh. Tục thờ cá Ông gắn liền với tín ngưỡng của ngư dân vùng biển
với nhiều tên gọi như: nghi lễ thờ Cá Voi, lễ hội Cầu ngư, lễ hội cá Ông, lễ tế
cá Voi, lễ giỗ ông Nam Hải... Những nghi lễ và hội hè gắn với tục thờ cúng
này được tổ chức rất long trọng và được xem là lễ hội lớn nhất của cư dân
vùng biển. Lễ hội thể hiện lòng thành kính, đền ơn đáp nghĩa cũng như những
ước nguyện của cư dân vùng biển. Trước đây lễ cầu ngư thường diễn ra
trong không khí tôn nghiêm, đậm sắc thờ cúng. Những năm gần đây, những
lễ nghi truyền thống vẫn được duy trì trong ngày lễ, song phần hội được mở
rộng và mang tính cộng đồng cao hơn. Ở nhiều vùng tục giỗ cá Ông đã trở
thành ngày hội lớn như Quảng Nam, Bình Định,...
Khi tiết trời đang độ cuối xuân ấm áp, ngư dân tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng tưng bừng mở lễ hội cá Ông. Thờ phụng cá Ông ở miền đất này không
chỉ được xem là sự tôn kính thần linh mà còn gắn liền với sự hưng thịnh của
cả làng cá. Lễ hội được diễn ra trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lịch.
Trong ngày lễ bàn thờ được trang hoàng hết sức rực rỡ, trang nghiêm. Các
nhà đều đặt bàn hương án bày đồ lễ cúng. Trên mỗi tàu thuyền đều chăng
đèn kết hoa. Phần tế lễ có: tế sinh, tế đình, tế bà Thánh Mẫu Thiên Y Ana và
tế ông Nam Hải.
Lễ cầu an được tổ chức vào đêm đầu tiên tại làng cá Ông dưới sự điều
khiển của các vị chánh bái (là những vị cao niên, có uy tín lớn trong làng
chài). Vị chánh bái dâng đồ tế lễ (thường không dùng hải sản) và đọc văn tế
nói lên lòng biết ơn của dân làng đối với công đức cá Ông và cầu mong mùa
đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về làng an toàn. Ngư dân Khánh Hoà,
Bình Thuận thì mở đầu lễ hội là lễ rước sắc. Ban làm tế cúng vái Thần, đưa
sắc phong xuống các hương án và báo cáo lễ tế chính thức bắt đầu và mời
các Thần về chứng giám
Ngày lễ thứ hai, là ngày chính lễ gọi là lễ rước ông Nam Hải. Có nơi gọi
là lễ nghinh thuỷ triều và đón ông Nam Hải hay Nghinh Ông Sanh Thuỷ Lục từ
ngoài biển về chính điện thờ trong làng. Dân làng đánh trống làm lễ rước trên
biển. Đoàn rước gồm nhiều người tham gia, trong đó có đoàn lễ, đoàn nhạc
lễ, đoàn chèo bá trạo, các nhà sư... tất cả trang phục và đồ vật đều sạch đẹp,
nhiều màu tinh khôi mà chỉ trong ngày hội mới có. Đặc biệt là hàng chục chiếc
thuyền lớn được trang bị cờ quạt và đông đảo người tham gia cùng các điệu
hò chèo bá trạo diễn hàng giờ để nghinh Thần trên biển. Người xem thực sự
ấn tượng và xúc động mạnh trước không khí trang trọng trên biển.
Tất cả tàu thuyền ra khơi đến một vị trí đã định trước và vị chính tế tổ
chức lễ xin keo. Đó là lễ Cá Ông chứng dám lòng thành của ngư dân ngoài
biển. Người dân Phan Thiết ra tận ngoài cảng, chèo thuyền 2 tiếng, vừa đi
vừa trình diễn chèo bá trạo cung nghinh Thần Nam Hải từ biển khơi xa về.
Khi chủ tế cúng trong đền theo nghi thức cổ truyền thì ở ngoài sân có rạp che,
đoàn hát bá trạo bắt đầu hát mời các vị Thần vào ngự trong vạn. Hát bá trạo
có nguồn gốc từ hát bội. Trình diễn hát như một vở kịch diễn tả quang cảnh ra
khơi bắt cá và cuộc sống ngư phủ. Trên những chiếc ghe các diễn viên trong
vai ngư phủ vững tay chèo, người tát nước, người điều khiển gọi là tổng
thương, người đứng chèo đầu thuyền là tổng lái. Cùng với hát trạo là lễ
phóng sinh, lễ phóng đăng, lễ thả thuyền cúng các linh hồn đã khuất trên biển,
lễ phá cỗ trên biển.
Lễ chánh tế được tổ chức vào nửa đêm hôm đó với các nghi lễ khai
mõ, đội học trò dâng hương, dàn nhạc trình diễn, hát bội... đến khoảng 5 giờ
sáng là lễ cầu ngư, diễn trò bên bờ biển và dưới nước. Đó là các trò đua ghe
trải giữa các làng chài, diễn bủa lưới,...
Trò đua ghe trải được đông đảo thanh và trung niên tham gia. Trước
hết các trải đua phải thi tài vượt qua giai đoạn nghi lễ đầu. Sau đó phải vượt
qua gồm 4 chặng, mỗi chặng lấy một thẻ có ghi các câu chúc cho ngư dân
làm ăn thịnh vượng, mưa thuận gió hoà.
Trò diễn bủa lưới được bắt đầu sau khi người cao niên được trọng
vọng nhất làng khấn vái Thành Hoàng, Thổ Địa, Thần Sông, Thần Biển cho
dân làng làm ăn thịnh vượng, ra dấu báo hiệu. Một hồi trống lệnh vang lên,
một vị cao niên tung tiền và phẩm vật xuống sân đình. Các em bé giả làm các
loài cá, mực, tôm cùng lao vào tranh giành lượm phẩm vật dưới sân đình.
"Các em tôm cá" quá mải mê mà không biết đám chủ thuyền khiêng một chiếc
khe mành, cốt bằng tre, đan chắc chắn, phất bằng giấy, trên khe có một
người ngồi, tiến vào sân đình. Người này tung lưới vây quanh đám trẻ. Các
chủ thuyền theo ghe, đồng giữ lưới thành một vòng tròn, càng lúc càng thu
hẹp lại, vây kín đám trẻ. Lũ trẻ ôm vật phẩm tìm cách thoát khỏi lưới. Các chủ
thuyền làm động tác gọi cá, bắt cá. Họ bắt vài "con cá đẹp" lên cúng trên bàn
thờ vị khai canh. Những "con cá" khác được các bà buôn cá gánh ra chợ bán,
hoặc gánh xuống bờ phía cạnh đó rửa nước muối. Hoạt cảnh bán cá, mua cá
diễn ra nhộn nhịp. Họ cũng mặc cả ồn ào như buổi bán cá thực sự. Trong
suốt ngày hội, các tàu thuyền dù ở xa cũng tập trung về bến để tham gia lễ
hội cá Ông.
Lễ hội cầu ngư của cư dân các làng chài duyên hải miền Trung, ngoài ý
nguyện cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu... đem lại cuộc sống
ngày càng no đủ hơn cho dân làng biển, còn thể hiện ý thức "Uống nước nhớ
nguồn", tưởng nhớ công đức của các vị tiền hiền, có công lập làng, dựng
nghề.
Các nhà nghiên cứu cho rằng tập tục thờ cá Voi vốn là một tín ngưỡng
của người Chăm được người Việt tiếp thu trong quá trình giao lưu văn hoá và
trở thành tín ngưỡng dân gian quan trọng trong đời sống của ngư dân vùng
biển đảo từ Quảng Bình trở vào.
(Theo http:// www.cinet.gov.vn)
25. Lễ hội cầu ngư ở Thái Dương Hạ
Đây là lễ hội của nhân dân làng Thái Dương Hạ, thị trấn Thuận An,
huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế. Lễ hội tổ chức vào ngày 12 tháng
giêng âm lịch hàng năm, để tưởng nhớ vị Thành Hoàng của làng là Trương
Quý Công (tên hiệu của Trương Thiều), người gốc Thanh Hoá, có công dạy
cho dân nghề đánh cá và buôn bán ghe mành.
Lễ tế thần diễn ra khoảng 2 giờ sáng ngày 12. Một bài văn tế dâng lên
các vị thần linh và tiền bối của làng, cầu mong quốc thái dân an, mưa thuận
gió hoà, đánh bắt được mùa, dân làng no ấm, mọi người hạnh phúc. Khoảng
4 giờ sáng lễ chính tế kết thúc. Tiếp sau đó là phần hội cầu ngư Thuận An.
Có nhiều màn diễn diễn tả những sinh hoạt nghề biển. Trò diễn "bủa lưới" là
trò diễn trình nghề mang đậm tính chất lễ nghi. Tiếp theo trò bủa lưới bắt cá là
màn trình diễn của các ngư dân bán thuỷ hải sản cho các "bà rỗi" (người bán
cá) đang chờ sẵn. Màn mua bán kéo dài khoảng hơn một giờ.
Chương trình ngày hội được tiếp tục bằng cuộc đua trải trên phá Tam
Giang. Cuộc đua mang ý nghĩa cầu cho no ấm, vừa được mùa cá, vừa được
mùa lúa, thoả mãn ước vọng no ấm của cư dân.
Lễ hội cầu ngư là ngày hội của cả cộng đồng, tràn đầy lạc quan và hy
vọng. Lễ hội là nguồn cổ vũ cho cư dân có thêm sức mạnh để vượt qua mọi
khó khăn trong nghề sông nước.
(Theo http://hanoi.vnn.vn)
26. Lễ hội cúng máng nước đầu năm của người Xơ-Teng
Người Xơ-Teng định cư tập trung thành từng làng (plei) ỏ lưng chừng
những sườn núi hình bầu dục. Mỗi làng có khoảng vài chục hộ gia đình, được
bảo vệ bằng hàng rào lồ ô khép kín có lối ra và cổng vào. Ranh giới giữa các
làng được phân định bởi các con suối hoặc ngọn đồi cao. Họ ở nhà sàn thấp,
vừa và nhỏ hình chữ nhật, mái lợp tranh, vách bằng gỗ, sàn trên dùng để ở
và sinh hoạt, phần dưới để đồ dùng lao động. Văn hoá đồng bào Xơ-Teng hội
tụ đầy đủ những yếu tố đặc trưng của miền rừng núi, là bộ phận không thể
tách rời trong bức tranh tổng thể của văn hoá các dân tộc thiểu số trên quần
sơn Ngọc Linh nói riêng và Trường Sơn - Tây Nguyên nói chung.
Cuộc sống của người Xơ-Teng chủ yếu dựa vào các thung lũng ruộng
bậc thang và nương rẫy chung quanh làng. Cũng giống như người Mơ Nâm,
người Xơ-Teng rất nổi tiếng với nghề làm lúa nước, họ biết đắp đập làm thuỷ
lợi dẫn nước vào tưới cho ruộng.
Nguồn nước từ bao đời nay đã gắn bó trong lao động sản xuất sinh
hoạt, và các hoạt động tín ngưỡng của mỗi người dân nơi đây. Ngươi Xơ-
Teng quan niệm cộng đồng của họ phát triển hay không chính là do nguồn
nước. Tiêu chí đầu tiên để họ lập làng là phải ở gần nguồn nước. Nếu trong
làng thường xuyên xảy ra hạn hán, mất mùa, gia cầm dịch bệnh, thú dữ tấn
công, có người chết chóc... thì họ cho rằng do nguồn nước ở đó không thiêng
và hội đồng già làng tổ chức cho dân đi lập làng mới ở gần một nguồn nước
khác. Xuất phát từ vai trò quan trọng của nguồn nước trong đời sống cộng
đồng dân cư, nên hàng năm họ thường tổ chức cúng Thần Nước tại nơi có
máng dẫn nước chảy về làng (nên gọi là cúng máng nước), lễ cúng máng
nước được coi như "đại lễ", nó được xếp ngang hàng với lễ ăn mừng lúa mới,
đâm trâu huê... của cộng đồng dân cư nơi đây.
Lễ cúng máng nước được tổ chức vào dịp năm mới (họ cho rằng năm
mới trước tiên là phải cúng nưóc mói). Hội đồng già làng quyết định thời gian,
vật phẩm và phân công nhân sự phục vụ lễ. Lễ vật là một con heo đực to đủ
để cả làng ăn trong hai ngày. Lễ cúng được chuẩn bị từ mấy ngày trước đó.
Sáng sớm ngày khai lễ, khi rạng động vừa ửng hồng, tất cả dân trong làng
tập trung tại "hạ nguồn" máng nước ngay trong làng, với những ống lồ ô và
đồ đựng nước sinh hoạt. Hội đồng già làng và một số thanh niên mạnh khoẻ
nhất trong làng khiêng con heo theo lối đường mòn của làng lên đầu máng
nước. Đặt con heo trên một bệ làm sẵn, đuôi heo hướng lên rừng, đầu heo
hướng xuống máng nước đang chảy. Sau bài cúng máng nước ngắn gọn và
những lời cầu khẩn xin phép với núi rừng, thần linh. Già làng lấy ống nứa
chọc tiết, tiết heo quyện vào nước theo máng chảy về làng. Lúc này, bà con
dưới làng lấy ông lồ ô hứng những giọt nước đầu tiên có tiết heo mang đi nấu
cơm và chế biến các món ăn để dâng lên cúng Thần Nước, Mặt trời, Ông đất
(người Xơ-Teng cho rằng Mặt trời, Ông đất là hai đấng tối cao luôn theo dõi
và sống bên họ cả cuộc đời nên họ rất tôn thờ). Sau đó, cả làng già trẻ, gái
trai đều tập trung quanh máng nước để rửa mặt, gội đầu, rửa chân, rửa tay...
cuối cùng, mỗi gia đình được lấy một ống lồ ô nước tiết mang đi tưới vào các
nương rẫy, thửa ruộng mỗi nơi một ít. Theo quan niệm của người Xơ-Teng,
nước thiêng này rửa mặt thì mắt sẽ sáng hơn, da mặt sẽ hồng hào, gội đầu
tóc sẽ óng mượt hơn. Rửa chân, rửa tay thì chân tay sẽ cứng hơn để năm
mới đi lên rẫy, lên rừng không biết mỏi, con vắt, con rắn sẽ không dám cắn
vào chân. Tưới xuông rẫy, xuống ruộng thì cây ngô, cây lúa mùa này sẽ có
đầy đủ nước, tươi tốt mãi và thú rừng sẽ không dám đến phá hoại.
Lúc này, con heo đã chết hẳn, các thanh niên khiêng con heo về thẳng
nhà rông. Tại đây, heo được làm thịt (thịt được phân ra làm hai phần, một
phần để nấu cúng và một phần chia đều cho các gia đình trong làng). Phụ nữ
trong làng được phân công nấu nướng, chế biến món ăn truyền thống để
cúng. Rượu cần được các gia đình cùng nhau mang đến. Sau khi các lễ vật
cúng được chuẩn bị xong. Bếp lửa được đốt lên đỏ rực, tất cả dân làng tập
trung đông đủ là lúc già làng trịnh trọng cúng Thần Nước, Mặt trời, Ông đất...
Cúng xong, cả làng cùng nhau bên bếp lửa ăn uống, nhảy hát, kể chuyện.
Đây là dịp để già làng kể cho con cháu và lớp trẻ trong làng về tổ tiên, luật
tục, những câu chuyện truyền thuyết xa xưa của dân tộc... nhằm giúp cho thế
hệ kế cận biết, tuân thủ và giữ gìn; là dịp để các gia đình trong làng mời anh
em họ hàng, bạn bè đến nhà mình uống rượu, tâm sự, hát hò với nhau. Đặc
biệt đây là cơ hội để các cặp trai gái gặp gỡ, tỏ tình, đối đáp với nhau bằng
làn điệu "ting-ting" truyền thống. Cuộc vui cứ thế kéo dài cho đến hết ngày
hôm sau.
Lễ cúng máng nước dịp đầu năm mới là tài sản tinh thần vô giá của
người Xơ-Teng đã tồn tại với cộng đồng của họ tự bao đời nay và chắc chắn
nó sẽ trường tồn mãi mãi với núi rừng, với nương rẫy. Nó là ước nguyện của
con người với thế giới núi rừng, với thần linh, cầu xin cho nguồn nước mãi
hiền lành, êm ả chảy vào cuộc sống của họ. Cầu mong cho mưa thuận gió
hoà, mùa màng tươi tốt, mọi người trong làng được khoẻ mạnh, đoàn kết
đùm bọc lẫn nhau là ước muốn muôn thuở của cộng đồng các dân tộc ít
người sống trên dãy Trường Sơn đại ngàn.
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
27. Lễ hội bà Chiêm Sơn
Xã Duy Sơn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam là một trong những
làng xã được hình thành từ rất sớm vào thế kỷ 15 ở Quảng Nam từ khi những
cư dân Thanh - Nghệ di cư vào khai phá mở mang bờ cõi. Đến thời kỳ các
chúa Nguyễn đầu thế kỷ 16 làng Chiêm Sơn trở nên trù phú, được bồi đắp
bởi phù sa của dòng sông Thu Bồn nên nổi tiếng về nông nghiệp, trồng dâu
nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Với tiềm thức của cư dân nông nghiệp, nhân dân
đã gửi gắm niềm tin vào tín ngưỡng dân gian, mong thần linh phù trợ cho dân
làng yên lành, áo ấm cơm no, nhà nhà hưởng phúc. Vì vậy, ngay từ buổi đầu
lập làng Chiêm Sơn thuộc tổng Mậu Hoà, phủ Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam,
nhân dân trong làng đã lập miếu (dinh) để thờ một vị thần mà nhân dân trong
làng quen gọi là "Bà Chiêm Sơn". Bà Chiêm Sơn được tôn là một vị phúc thần
với khá nhiều truyền thuyết.
Chuyện kể rằng: Ngày xưa tại giữa một cồn cát trắng thuộc làng Tây
An, tổng Mậu Hoà, phủ Duy Xuyên sau một đêm mưa to gió lốn bỗng nhiên
xuất hiện một tảng đá có hình tượng giống như một người đàn bà nên mọi
người gọi là "Bà Đá" và từ đó trong làng thường xảy ra những chuyện lạ, nhất
là vào lúc giữa trưa, chập choạng tối hay đêm khuya thanh vắng ít người qua
lại, khi lũ thú hoang từ trong Cấm Nhọn về làng phá hoại mùa màng, xuống
đến Tây An đã hốt hoảng quay đầu chạy thẳng vào núi, những cánh đồng nứt
nẻ vì khô hạn đã bắt đầu xanh tươi khi có mưa về. Nhân dân cho rằng Bà Đá
là vị phúc thần từ trên trời xuống trần gian để cứu giúp dân lành. Tiếng lành
đồn xa, nhân dân khắp nơi trong vùng đều hối hả tìm đến "thỉnh" Bà về để thờ
cúng tại làng mình, mong được Bà ban phước chở che, nhưng tượng đá ngày
càng trở nên nặng nề một cách khác thường không sao nhấc lên được, do đó
không một ai có thể khiêng Bà về được. Khi nghe nói về câu chuyện kỳ bí
này, nhân một đêm rằm tháng 3 trăng sáng vằng vặc, tám mục đồng (trẻ chăn
trâu) ở làng Chiêm Sơn rủ nhau mang theo dây thừng và những cây tre chắc
dẻo tìm đến đây để thử vận may mang Bà Đá về làng mình. Và họ đã chuyển
được Bà về làng, trên đường đi, họ bàn bạc với nhau và thống nhất sẽ đưa
vào thờ trong một ngôi chùa của làng và để phía sau các vị Phật, nhưng vừa
đi được hơn nửa đường, qua khỏi ngọn đồi Chiêm Sơn (nơi có dinh thờ Bà
ngày nay) thì dây thừng bỗng nhiên bị đứt và Bà Đá đã rơi xuống, bám chặt
vào đất không sao nhích lên được nữa. Đêm đó Bà Đá đã về báo mộng cho
dân làng rằng: Bà là một vị thần, thường gọi là Bô Bô Thái Dương Phu Nhân,
Bà đã chọn ở lại nơi này, và chỉ ở một mình thôi. Để thoả nguyện ý Bà, tám
mục đồng cùng dân làng chung sức xây dựng nơi đây một ngôi miếu nhỏ,
bằng tranh tre để thờ Bà, ngôi miếu nhìn ra hướng Đông Nam - nơi mà họ đã
tìm thấy tượng đá.
Lại có chuyện kể rằng: Ngày xưa trong một khu rừng nhỏ ở làng Mậu
Hoà, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên dân làng đã phát hiện một pho tượng
đá. Họ tin rằng đó là một vị thần từ trên trời xuống trần gian để phù trợ giúp
đỡ dân lành, nhiều làng lân cận đến tìm cách chuyển về nhưng không chuyển
nổi vì pho tượng bỗng nhiên trở nên nặng lạ kỳ, trái lại, vào một đêm trăng
sáng, tám người chăn trâu ở làng Chiêm Sơn đến đem theo dây thừng, tre để
khiêng thì lại được. Theo ý các bô lão làng Chiêm Sơn thì nên lập dinh thờ Bà
cùng chung với vị thần Ca Tác trong làng. Nhưng khi họ khiêng Bà về đến địa
điểm dinh Bà hiện nay thì bỗng nhiên dây bị đứt, họ cố ý khiêng về làng
nhưng pho tượng có sức ỳ khủng khiếp tuột xuống đất không sao nhấc lên
được nữa, dân làng đã xây dựng tại đây một miếu để thờ riêng mình bà. Từ
đó, dân làng Chiêm Sơn được sống trong sự bình an, mọi tai ương hạn hán,
lũ lụt, dịch bệnh, đói rét đều có Bà chở che bao bọc.
Tương truyền trong dân gian: Có những năm khắp nơi đều hạn hán
mất mùa, côn trùng phá hoại mùa màng, dịch bệnh lan truyền nhân dân lâm
vào cảnh bần cùng khốn khó. Riêng ở làng Chiêm Sơn với tấm lòng thành
kính nhân dân đã đến cầu nguyện Bà mong Bà cứu giúp, thì ngay lập tức
mưa đã rơi xuống giữa buổi lễ tế khi hương đèn vẫn còn cháy sáng. Sự thần
bí và linh thiêng của Bà Chiêm Sơn khiến cho mọi người dân khi qua lại nơi
này đều phải dừng lại thắp một nén nhang và cầu khấn sự phù hộ của Bà.
Sự linh ứng của dinh bà Chiêm Sơn còn được lưu truyền trong dân
gian: Có một lần vua nhà Nguyễn đi kinh lý Quảng Nam, vua đến viếng lăng
mộ của Hiếu Văn hoàng hậu và Hiếu Chiêu hoàng hậu nên phải đi qua con
đường trước dinh Bà, thật bất ngờ, khi đến trước dinh, ngựa bỗng lồng lên rồi
vùng chạy, may nhờ có quan quân hộ giá nên nhà vua không bị ngã ngựa. Từ
đó vua hạ lệnh phải quay hướng dinh Bà ra phía sau như hiện nay.
Khi biết sự linh thiêng của vị thần trong ngôi miếu và những uy lực siêu
nhiên mà Bà Đá đem lại. Ngày mùng 8 tháng 6 năm thứ 5 niên hiệu Duy Tân
bà được vua ban sắc, phong tặng thần hiệu là Nhân Uyển Dực Bảo Trung
Hưng. Tiếp đến, ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) một lần
nữa bà được tôn vinh danh hiệu Trung Đẳng Thần.
Để tỏ lòng tôn kính và đền đáp "ơn cao đức trọng" của Bà, dân làng
Chiêm Sơn đã cùng nhau chung tay, góp sức xây dựng một ngôi miếu (dinh)
khang trang để thờ Bà. Lễ tế Bà được tổ chức vào đầu xuân, nhằm ngày 12
tháng giêng âm lịch, ở tại dinh Bà. Đây là lễ hội tín ngưỡng dân gian truyền
thống mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Theo truyền thống, hàng năm cứ sau tết cổ truyền, nhân dân làng
Chiêm Sơn (Chiêm Sơn Đông và Chiêm Sơn Tây) cùng nhân dân các vùng
lân cận và những người con xa quê hương, đang sinh sống trên mọi miền đất
nước, cùng nhau trở về quê hương để chuẩn bị và dự lễ hội Bà Chiêm Sơn.
Đây là lễ hội tín ngưỡng dân gian truyền thống, phổ biến theo phong tục thờ
Mẫu của nhân dân ta còn lưu lại cho đến ngày nay, đã kế thừa, tiếp biến một
cách tinh tế từ nữ thần Pô-Na-Ga đến Thiên-Y-Ana để trở thành tín ngưỡng
của làng xã Việt Nam.
Lễ hội được tổ chức ngay tại dinh Bà vào hai ngày 11 và 12 tháng
giêng âm lịch. Công việc chuẩn bị cho lễ hội được tiến hành rất chu đáo.
Trước ngày tổ chức lễ hội, các vị bô lão trong làng họp bàn nhiều vấn đề cần
thiết như: cách thức tổ chức lễ hội, huy động kinh phí, bầu trưởng ban, phó
ban và phân công trách nhiệm cho từng người dân trong làng, ai nấy đều náo
nức tham gia đóng góp sức người, sức của và tiến hành bầu chính tế, đây là
công việc cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành bại của lễ hội, bởi ông là
người thay thế cho dân làng làm cầu nối với thần linh, giữa cõi thiêng và cõi
tục.
Chính tế được chọn phải là người lớn tuổi, khoẻ mạnh, minh mẫn, tài
đức vẹn toàn, được dân làng tin yêu và kính trọng, gia đình con cái đủ gái, đủ
trai, hoà thuận, vui vẻ, hạnh phúc, làm ăn phát triển.
Ba ngày trước khi hành lễ tế Bà, chính tế phải kiêng cữ và chay tịnh
như một vị sư sãi. Trước khi cúng ông phải tự tay chuẩn bị một loại nước
thơm nấu từ các loài hoa, lá để tắm tượng.
Ban lễ tự do dân làng bầu ra gồm có 17 người, phần lớn là những
người già có uy tín trong làng (1 chủ tế, còn gọi là mạnh bái, giúp việc có 2
phó tế còn gọi là bồi bái, 2 người Đông xướng và Tây xướng, 2 nội tán, 10
chấp sự (hay học trò lễ) là những người lo việc dâng hương, dâng rượu,
chuyển chúc, đọc chúc). Ngoài ban lễ tự còn có phường bát âm và các trai
làng.
Trước khi tế lễ tế chính thức phải làm lễ cúng tiên thường (còn gọi là lễ
túc). Lễ này thường diễn ra vào lúc 16 giờ đến 18 giờ ngày 11 tháng giêng.
Lễ vật cho buổi cúng tiên thường là: một mâm cơm và hoa quả bánh trái.
Trong lễ cúng tiên thường, không đọc văn mà chỉ đọc chúc cáo, với 4 lạy
nghinh, 4 lạy tạ và 2 lạy chúc cáo.
Lễ tế chính thức, diễn ra vào lúc 0 giờ là thời khắc chuyển giao của
ngày và đêm. Kéo dài với 30 lần xướng cùng nhiều nghi thức cổ truyền, theo
trống hiệu và chiêng hiệu. Tất cả diễn ra trong không khí trang nghiêm và linh
thiêng. Trong buổi tế lễ này, những người không tinh khiết, người say rượu,
người bị bệnh tâm thần không được vào dinh.
Lễ vật tế bà ngày xưa gồm: 100 món, đều từ sản vật do dân làng chăn
nuôi, trồng trọt làm ra và chế biến với lòng thành tâm mang đến dâng cúng
Bà. Nhưng có những lễ vật không thể thiếu trong buổi tế lễ này là: 1 con cua
đồng, 1 cây tỏi còn nguyên rễ và lá, 1 cây cải xanh, 1 con cá lóc nấu om và 1
con chồn quay (con chồn này do các phường săn bắn trong làng tổ chức săn
bắn làm lễ vật dâng cúng Bà).
Lễ rước kiệu Bà là phần lễ chính, nhằm tái hiện lại dáng vẻ linh thiêng,
huyền thoại theo truyền thuyết xưa.
Đúng 7 giờ sáng, đoàn rước kiệu tập trung tại nỗng đất Thắm, đi theo
đường làng chính dẫn về dinh Bà Chiêm Sơn. Đến 8 giờ, đoàn rước kiệu bắt
đầu khởi hành, trên đoạn đường từ nỗng đất Thắm đi về hướng dinh Bà, dẫn
đầu là đoàn múa lân sư (con vật tượng trưng cho uy quyền, giàu sang thịnh
vượng) vừa đi vừa nhảy múa theo nhịp trống khua dồn, đi trước mở đường
cho đoàn người rước kiệu.
Tiếp theo là hai hàng cờ thần (cờ hội) rực rỡ sắc màu tượng trưng cho
uy lực của Thần. Tiếp bước theo sau là đoàn đại cổ (gồm chiêng lệnh và
trống lệnh) và tiểu cổ. Sau đoàn đại cổ là phương bát âm với 8 loại nhạc cụ
khác nhau như: đàn, trống, kèn, phách, choã, chiêng, mõ, sáo phát ra những
âm thanh khác nhau.
Tiếp theo là đoàn người rước kiệu, đi đầu giữa hai hàng là bức trướng
mục đồng do một thanh niên trai tráng trong làng đảm nhiệm.
Sau trướng mục đồng là hai lọng do hai thiếu nữ của làng trong trang
phục áo dài truyền thống, đội khăn vành vác lọng hầu Bà.
Theo sau lọng là kiệu Bà, do 8 mục đồng trên tay mỗi người là một
cành sơn tuế đảm nhiệm việc khiêng kiệu bà. Tiếp theo kiệu Bà là kiệu rước
sắc, do 16 thanh niên trai tráng trong làng khiêng, theo sau kiệu là người thủ
sắc và 16 binh lính hộ tống. Và tiếp bước theo đoàn là 12 phụ nữ duyên dáng
trong trang phục truyền thống với 12 mâm ngũ quả, bánh trái làm lễ vật cúng
Bà. Theo sau là 24 nữ sinh tuổi trăng tròn trong ban lục cúng với lễ vật:
hương, đèn, trầu, rượu, trà, quả.
Theo sau là các bô bão cao niên, đại diện cho các chư tộc họ trong
làng, trong trang phục truyền thống khăn đóng, áo dài, chân đi guốc mộc,
cùng với các cụ bà và dân làng trong đoàn rước. Đứng dọc hai bên đường là
dân làng và khách hành hương về dự lễ chào đón. Hoà theo bước chân của
đoàn người rước kiệu là tiếng trống, tiếng chiêng và dàn nhạc cổ của phường
bát âm.
Về đến dinh Bà, đội hình của đoàn từ từ dừng lại, nhường đường để 8
mục đồng khiêng Bà tiến thẳng vào dinh. Tiếp theo sau là người thủ sắc kính
cẩn khiêng hòm sắc vào giao cho vị chính bái. Vị chánh bái trịnh trọng nâng
hòm sắc vào đặt trên bàn thờ chính của dinh. 12 phụ nữ trong hội Bà lần lượt
mang lễ vật vào dâng cúng Bà. Theo sau là 24 em trong đội lục cúng vừa
mang lễ vật vào dinh dâng lễ vừa múa hát theo nhạc.
Kết thúc phần lễ tế là phần giáo tuồng - hát bội dâng Bà. Đây là trích
đoạn tuồng hay nhất do phường hát bội trình dâng Bà, dù rất khuya nhưng
vẫn được nhân dân trong làng chờ đón, nhất là những cụ ông, cụ bà vì họ tin
rằng có thể biết nhiều điều trong năm, qua cốt truyên và nhân vật của vở
tuồng, bởi thế đi xem tuồng trong đêm này, trong lễ tế Bà, không chỉ để
thưởng thức nghệ thuật hát bội mà còn để bói tuồng đầu năm.
Lễ hội Bà Chiêm Sơn không chỉ có phần tế lễ trang trọng và linh thiêng
mà ở cả phần hội cũng được tổ chức với nhiều hình thức phong phú và đa
dạng, phù hợp với nhiều lứa tuổi được mọi tầng lớp nhân dân trong làng nô
nức tham gia và hưởng ứng như các trò chơi: kéo co, đẩy gậy, đua thuyền,
ăn xôi tháng mười, hô hát bài chòi, hát bộ, thả hoa đăng và chương trình văn
nghệ do bà con trong làng thể hiện.
Lễ hội Bà Chiêm Sơn đáp ứng nguyện vọng về tâm linh của nhân dân
về sự hiển linh của Bà, đồng thời thúc đẩy sự tích cực trong lao động sản
xuất, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong sinh hoạt và lao động, phát huy
tính tự giác, tích cực và tính tự quản cộng đồng. Thông qua lễ hội đã khôi
phục những trò chơi dân gian đang dần bị mai một, sáng tạo ra những trò
chơi hiện đại tạo tiền đề cho việc xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh ở cơ
sở.
(Theo http://www.cinet.gov.vn)
28. Lễ hội cúng lúa mới và tục mở kho thóc ăn tết của người Xơ-Teng ở Quảng Nam
Người Xơ-Teng rất nổi tiếng với nghề làm lúa nước. Xuất phát từ đời
sống ruộng, rẫy nên hình ảnh cây lúa từ lâu đã in sâu vào tâm thức của cộng
đồng dân cư nơi đây. Chính vì vậy, hàng năm, sau mỗi mùa gieo, cấy, thu
hoạch, mở kho thóc ăn Tết thì khắp các nơi trong nóc (đơn vị tương đương
với thôn của người Kinh) rộn ràng tổ chức các lễ hội cúng lúa (Tíng ka prịa)
và tưng bừng vui chơi nhảy múa, kể chuyện, tỏ tình...
Lễ hội cúng lúa mới được bắt đầu khi những đợt gió mùa Đông Bắc bắt
đầu đuối sức nhường lại núi rừng cho thần Mặt trời. Lúc này hơi ấm cuối năm
bắt đầu gõ cửa ghé thăm những ngôi nhà sàn để tin vui cho một mùa xuân -
mùa lễ hội nữa lại về với đồng bào Xơ-Teng. Bên ngoài làng, những thửa
ruộng bậc thang, rẫy lúa đã ngả sang màu vàng óng, báo hiệu một mùa thu
hoạch sắp đến là lúc người Xơ-Teng bước vào ngày hội ăn mừng lúa mới. Lễ
hội ăn mừng lúa mới được tổ chức quy mô và đồng loạt cả làng. Thời xưa,
người Xơ-Teng ăn lúa mới khi lúa trên rẫy, dưới ruộng bắt đầu trổ bông, thậm
chí có nơi lúa còn con gái, họ nhặt bông và lá lúa về cúng mừng lúa mới.
Ngày nay, tục này không còn nữa. Lễ hội ăn mừng lúa mới diễn ra khi lúa
ngoài ruộng, trên rẫy đã chín vàng, và rải rác đó đây có những gùi lúa được
vận chuyển về làng.
Nóc trưởng quy định ngày cúng lúa mới (thóc mới) cho cả nóc. Để có
được gạo mới đem cúng, người dân phải đi đến từng rẫy, ruộng nhặt ở mỗi
thửa một mớ bông lúa chín gộp lại đem về phơi khô giã gạo, đồng thời dùng
ống lồ ô đến lấy nước ở máng nước đầu nguồn nấu cơm mới. Dịp này, nhà
nào khá giả hoặc được mùa thì mổ thịt heo to và gà, nhà nào kinh tế eo hẹp
hơn thì chỉ mổ một con gà trống tơ để cúng Mặt tròi, Ông đất, Thần lúa... Cả
nhà tụ tập ăn uống, nhảy múa, sau đó kéo nhau đi đến nhà rông và tất cả các
nhà trong nóc để thăm chơi, kể chuyện, uống rượu cần thâu đêm. Đây cũng
là cơ hội và thời điểm tốt nhất để dân làng trò chuyện, trao đổi những kinh
nghiệm trong lao động sản xuất, săn bắn, trao truyền các ngón nghề truyền
thống... của dân tộc nhằm giúp cho thế hệ kế cận biết, tuân thủ và giữ gìn
những bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Đặc biệt, theo phong tục của người
Xơ-Teng, lễ hội này là dịp để trai gái gặp gỡ, đối đáp, tỏ tình với nhau. Lễ ăn
mừng lúa mới diễn ra hai ngày, hai đêm mới chấm dứt.
Người Xơ-Teng cho rằng ăn mừng lúa mới là dịp để dân làng bày tỏ
tình cảm của mình với thần lúa, cầu mong cho lúa đang chín ngoài ruộng, trên
rẫy hạt thêm trĩu bông, không bị thú rừng, chim, chuột phá hoại, suốt lúa về
nhà đầy kho, dân làng quanh năm có lúa đủ ăn không bị đói. Nếu không may
mất mùa, lúa ít nhưng vẫn đủ ăn giáp hạt.
Sau lễ hội ăn mừng lúa mới, bà con trong nóc bắt đầu lên nương, rẫy
để tập trung thu hoạch vụ mùa. Khi những gùi lúa đã chuyển về đầy ắp những
kho lúa dự trữ ở các rẫy. Lúc này người Xơ-Teng bắt đầu tiến hành mở kho
lúa ăn Tết đồng thời lấy kho để đựng lúa mới. Tục này thường diễn ra lúc
giao thời giữa năm cũ và năm mới.
Mỗi gia đình người Xơ-Teng có một vài kho lúa (kho thóc), gia đình nào
khá giả có đến 3 hoặc 4 kho. Kho lúa của họ được để tập trung bên ngoài
hàng rào nóc. Ở mỗi kho lúa ngưòi ta để một nắm lúa cử (để nguyên bông
hoặc suốt ra). Muốn ăn lúa trong kho, đầu tiên phải cúng lúa cử. Khi làng mở
các kho lúa ăn Tết, họ mang lúa cử đem về giã lấy gạo, làm heo, gà cúng Mặt
trời, Ông đất, Thần lúa và tổ chức ăn mừng, nhảy múa tưng bừng như lễ hội
mừng lúa mới.
Tục mở kho lúa ăn Tết là dịp dân làng bày tỏ những tình cảm của mình
với núi rừng, với ruộng, rẫy đã tạo ra của cải vật chất để dân làng có cuộc
sống ấm no, đầy đủ lúa ăn quanh năm. Đây cũng là dịp để dân làng lấy kho
đựng lúa mới (theo phong tục của người Xơ-Teng, lúa mới thu hoạch và lúa
vụ mùa năm trước không được để chung với nhau). Mặt khác, đây cũng là tín
hiệu đầu tiên báo hiệu cho một mùa xuân, mùa lễ hội nữa lại về với dân làng,
và một năm lao động, sản xuất mới cũng bắt đầu từ đây.
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
29. Lễ hội Nghinh Ông ở Phan Thiết
Nhiều người lầm tưỏng, lễ hội Nghinh Ông ở Bình Thuận giống như lễ
rước Cá Ông của ngư dân ven biển. Song đây là một lễ hội của người Hoa
sinh sống tại Bình Thuận, gắn liền với tín ngưỡng và tục thờ phụng Quan
Thánh Đế Công. Lễ hội này được tổ chức hai năm một lần, sau rằm tháng 7
vào những năm chẵn, người Hoa lại tổ chức lễ hội Nghinh Ông tại các hội
quán, họ rước thỉnh Quan Công đi du hành và ban phước cho may mắn, tốt
lành, mưa thuận, gió hoà, cuộc sống bình yên...
Lễ hội Nghinh Ông, hiện nay được bổ sung thêm nhiều sắc thái mới
bên cạnh những bản sắc truyền thống được giữ gìn cẩn trọng. Lễ hội được tổ
chức công phu, hoành tráng và tôn nghiêm hơn với những nghi lễ cổ, đồng
thời vẫn tạo được sự sôi nổi, náo nhiệt lôi cuốn được đông đảo dân chúng,
tôn vinh văn hoá, quảng bá hình ảnh du lịch của địa phương. Đây là sân chơi
văn hoá lành mạnh, hữu ích trong công cuộc xây dựng và phát triển đời sống
vật chất, tinh thần với những hoạt động quảng bá văn hoá, du lịch, giúp phần
bồi đắp thêm hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần cộng đồng.
Trước ngày chính hội, hoạt động đầu tiên được tổ chức đó là đêm liên
hoan múa lân, sư tử, rồng. Họ thường tổ chức thi đấu để lựa chọn những con
rồng, lân hay sư múa đẹp nhất, nhanh nhẹn và thông minh nhất. Người tham
gia múa rồng, lân, sư tử thường là những chàng trai khoẻ mạnh, tinh thông võ
nghệ, dẻo dai và nhanh trí.
Ngoài hình thức là những hoạt động giàu hình tượng nghệ thuật, múa
rồng còn là vũ điệu cầu mưa, cầu nước, đồng thời là hình thức tôn vinh sự
học hành bởi, rồng là biểu tượng của vua chúa và sự thành đạt. Do đó múa
rồng còn là sự nhắc nhở thiếu nhi học hành chăm chỉ. Múa sư tử cũng mang
ý nghĩa sâu xa là khuấy động "sự vận động sinh khí của bầu trời làm cho mặt
đất thấm đẫm sinh lực, tạo nền cho những vụ mùa bội thu", và múa lân là
"ước vọng về trí tuệ và sự cầu phúc nhiều mặt của người xưa" vì lân tượng
trưng cho sức mạnh của bầu trời, cho trí tuệ và sự trong sáng.
Ngày đầu tiên của lễ hội Nghinh Ông cũng giống như bất kỳ một lễ hội
nào khác đó là ngày của các hoạt động nghi lễ. Nghi lễ của lễ hội Nghinh Ông
kéo dài hai ngày với hàng chục lễ nghi lớn nhỏ nối tiếp nhau. Nếu như ở
nhiều lễ hội khác, phần nghi lễ chỉ diễn ra trong một hai tiếng đồng hồ là nhiều
thì lễ nghi ở Nghinh Ông lần này là một chuỗi liên tục rất nhiều nghi lễ khác
nhau như: thỉnh Thánh Mẫu, thỉnh kinh, thỉnh nước, thỉnh chiêu ứng công hay
108 vị chư thần, khai kinh, yết quanh thánh, cáo tiền hiền, đoàn lễ hội quán
Quảng Đông ra mắt Quan Thánh, đoàn lễ hội quán Phúc Kiến ra mắt Quan
Thánh, chiêu vong linh tiền hiền, phóng đăng, phóng sanh, đoàn lễ các hội
quán ra mắt Quan Thánh, cầu quốc thái dân an, thỉnh thuyền...
Từ sáng sớm, tại Quan Đế miếu, ban nghi lễ, ban quản lý Quan Đế
miếu và ban nhạc cổ sửa soạn mâm cúng lễ, rất đơn giản gồm những lễ vật
hoa, quả, đèn, hương và đồ chay, bày đặt hương án. Họ kính cẩn dâng
hương lên án thờ Thánh Mẫu và khấn cầu. Lời khấn là sự ca ngợi công đức,
thể hiện lòng tôn kính của dân gian với Thánh Mẫu, cầu xin Thánh Mẫu phù
hộ giúp phụ nữ trong cơn vượt cạn và chăm sóc con trẻ khoẻ mạnh, tiếp nữa
thỉnh mời Thánh Mẫu sang gian thờ Quan Thánh để chứng giám và thọ
hưởng. Họ thắp một lư trầm, ba lư hương trên hương án thờ Thánh Mẫu
khấn xong, mang hương án sang gian thờ Quan Thánh, rồi lần lượt đặt các lư
trầm, hương lên các hương án thờ Quan Công, hương án thờ bà Thiên Hậu
và Phước Đức Chánh Thần. Đoàn lễ kính cẩn khấn niệm trước các hương
án, cùng lúc có nhạc lễ, chiêng trống nổi lên từng hồi vừa trang nghiêm,
huyền ảo, vừa như đón mừng Thánh Mẫu đã an vị để chứng giám các nghi lễ
tiếp theo. Nghi lễ "Thỉnh Thánh Mẫu" diễn ra giản dị, trang nghiêm và giàu ý
nghĩa. Thánh Mẫu là vị Kim Hoa nương sanh, vị thần phù trợ sinh sản.
Tiếp đó ban tổ chức rời Quan Đế miếu đến "Thỉnh kinh" tại chùa Bửu
Long. Tại đây họ chuẩn bị những mâm lễ vật như lễ vật Thỉnh Thánh Mẫu,
dâng lễ trước điện thờ Quan Âm cầu khấn, xin thỉnh kinh. Tiếp đó mời một
nhà sư người Việt giàu uy tín, thông hiểu đạo pháp, thuộc làu kinh phật về
Quan Đế miếu làm chủ lễ trong nhiều nghi thức tiếp theo. Ban tổ chức và nhà
sư tháp tùng pho kinh thỉnh về Quan Đế miếu. Sau đó nhà sư lên hương đèn
làm lễ ra mắt Quan Thánh thần tại Quan Đế miếu.
Cách Quan Đế miếu 2km về phía Nam, có một giếng nước gọi là "Hố
lở". Người Hoa cho rằng đây là nơi có dòng nước tinh khiết, đầu nguồn, nhiều
linh khí và họ chọn đây là nơi diễn ra nghi lễ thỉnh nước - thỉnh cầu nguồn tạo
sự sống được vĩnh hằng cho mọi vật được sinh sôi nảy nở.
Đoàn tổ chức đến giếng nước Hố Lở. Nhà sư bày lễ vật cạnh giếng, lên
hương đèn cầu khấn mời Long Vương, Thuỷ Thần về chứng giám, phù trợ và
ban phát nguồn nước vĩnh hằng cho sự sống của con người. Nhà sư đọc văn
tế Long Vương, Thuỷ Thần rồi hoá đi, sau đó ông trưởng ban nghi lễ của
Quan Đế miếu lấy nước giếng đổ vào ba chiếc thố sành. Trong quá trình làm
lễ, có nhạc cổ diễn xướng đi kèm. Đoàn lễ mang ba chiếc thố đựng nước về
dâng lên bàn Quan Thánh, sau đó kính cẩn dâng hương và khấn cầu trước
bàn Quan Thánh.
Tiếp đó là lễ thỉnh chiêu ứng công từ quán Hải Nam về Quan Đế miếu.
Chiêu Ưng Công là 108 vị thần được thờ phụng tại chùa Hải Nam. Đoàn tổ
chức, lúc này không có nhà sư người Việt đến hội quán Hải Nam. Từ nhiều
ngày trước đó, ban quản lý hội quán Hải Nam đã chuẩn bị dọn dẹp trang
hoàng nội ngoại thất, giăng đèn lồng, băng rôn, cờ, lọng. Khi đoàn lễ Quan Đế
miếu đến, họ đứng hai bên đón chào, bên trong hội quán chiêng trống nổi lên
liên hồi.
Sau khi dâng lễ vật và khấn cầu, ông trưởng ban nghi lễ Quan Đế miếu
xin phép ban nghi lễ hội quán Hải Nam được thỉnh Chiêu Ưng Công về miếu
thụ hưởng. Trong tiến trình lễ có nhạc cổ và chiêng trống đệm từng hồi. Sau
đó rước kiệu Chiêu Ưng Công về miếu. Đoàn lễ hội quán Hải Nam gồm hàng
trăm người mặc trang phục lễ hội cổ truyền của người Hoa, có cờ quạt,
chiêng trống, ban nhạc lễ cũng tháp tùng theo sau. Gần đến Quan Đế miếu,
họ đã nghe chiêng trống liên hồi nổi lên đón chào từ bên trong. Kiệu Chiêu
Ưng Công được thỉnh vào đặt trước hương án thờ Quan Công, đoàn bát bửu
vào xếp thành hai hàng trang nghiêm trước kiệu. Đoàn lễ khấn trước hương
án Quan Công, kiệu Chiêu Ưng Công. Sau đó kiệu được đưa sang an vị
trước hương án Phước Đức Chánh thần (bên phải hương án thờ Quan
Công). Đoàn lễ tháp tùng kiệu Chiêu Ưng Công của hội quán Hải Nam trở về
lại hội quán của mình nghỉ ngơi, chuẩn bị cho phần hội Nghinh rước kiệu
Ông.
Sau khi thỉnh mời các vị khách quan trọng xong, các nghi lễ tiếp theo
chính là nội dung chính của nghi thức tế lễ: lễ khai kinh: khấn vái trời đất và
tụng niệm do các nhà sư đảm trách, họ luân phiên tụng niệm, trước hết là
kính trình với Trời, Đất, Phật, Thánh, Thần... về công lao của Quan Thánh và
sau đó mời các đấng tối cao về thụ hương, chứng giám, xen kẽ trong các
nghi lễ, nhất là sau lễ khai kinh thì ban nghi lễ của các đình làng, dinh vạn,
chùa chiền đến cúng tế, tham dự trong phần lễ bao gồm: Lễ yết Quan Thánh,
cáo tiền hiền, tụng niệm theo Quan Thánh cưỡi hạc trắng lên trình trời. Vị sư
chủ tế và các nhà sư thắp hương đèn khấn niệm và ca ngợi công đức của
Quan Thánh, của các bậc tiền hiền đã phù trợ cho người Hoa từ sức khoẻ
đến cuộc sống làm ăn. Sau đó mời đức Quan Thánh, tiền hiền, tổ tiên về thọ
hưởng, chứng giám. Tiếp đó các nhà sư luân phiên tụng niệm. Trong các tiến
trình lễ có nhạc lễ và chiêng trống hoà âm theo.
Những nghi lễ ra mắt của các hội quán với Quan Thánh diễn ra ngay
sau các nghi lễ trên. Các đoàn lễ: Hải Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông chuẩn bị
sẵn những đồ lễ tế, vật lễ, trang phục lễ gồm hàng trăm người. Lần lượt vào
yết kiến và dâng các mâm nghi lễ trên bàn Quan Thánh, sau đó ra mắt và cầu
khấn Quan Thánh. Trong tiến trình lễ, các ban nhạc cổ xếp thành một vòng
cung và diễn xướng các bản nhạc cổ truyền và trình diễn múa lân trước miếu,
các trò võ thuật truyền thống của thanh niên hội quán sân miếu. Sau đó các
đoàn lễ của các hội quán diễu hành trên phố và trở về hội quán của mình.
Trong khi các hội quán diễu hành trên phố rước Ông thì các gia đình bày sẵn
mâm lễ đặt trước cửa nhà mình dâng Ông.
Tiếp sau là lễ chiêu vong linh tiền hiền diễn ra ở một thảo am nhỏ ngoài
trời. Các nhà sư dâng hương, lễ vật và tụng kinh cầu khấn mời các bậc tiền
nhân có công đức khai mở, dẫn dắt và xây dựng nên làng xóm về thụ hưởng
và chứng giám cho lòng thành cũng như phát triển của con cháu. Lễ phóng
đăng diễn ra trên cửa biển Phan Thiết. Các nhà sư dâng hương, lễ vật gồm
mâm cơm cúng, đèn, muối gạo, hoa quả, gạo,... cùng 36 ngọn đèn (gồm 36
ngọn nến đặt trong 36 chiếc nồi đất) đặt lên thuyền. Sau đó làm lễ tế tụng
niệm, khấn cầu, đọc văn tế mời Long vương, Thuỷ thần, 108 vị thần Biển cả
cùng những linh hồn phiêu bạt trên biển cả. Rồi lần lượt thả các ngọn đèn
cùng lễ vật xuống mặt nước.
Lễ cúng thí thực là màn nghi lễ được rất nhiều người trông đợi, nhất là
trẻ con và người già, đặc biệt là người nghèo không nơi nương tựa. Lễ diễn
ra trước sân Quan Đế miếu. Trước đó người ta đã chuẩn bị rất nhiều mâm cỗ
để các hội quán, cá nhân, doanh nghiệp, gia đình, thập phương... đến gắn
mâm lễ bánh truyền thống như bánh ít, bánh quy, bánh cấp,... cùng gạo,
muối, tiền... Mỗi cỗ đều có gắn cờ đuôi nheo ghi rõ đơn vị cúng tiến.
Các nhà sư và ban quản lý Quan Đế miếu đặt các cỗ cúng lên tiền
sảnh, làm lễ khấn trước hương án thờ Quan Thánh rồi tụng kinh có ý nghĩa
mở 12 cửa ngục mời các âm hồn về thụ hưởng. Tiếp đó nhà sư đọc văn tế
thập loại chúng sinh. Rồi phân phát lộc cho hàng ngàn người đang quây
quanh chứng kiến. Ai cũng mong muốn nhận được ít nhiều lộc cho dù là hạt
ngô, vài hạt gạo, ít bánh trái,... như những điều may mắn tốt lành sẽ đến cùng
họ. Có năm lễ cúng thí thực nhận được hàng tấn gạo cùng nhiều tiền bạc làm
từ thiện của mọi người tiến lễ. Sau ngày hội ban quản lý Quan Đế miếu mang
chia cho những người nghèo khổ.
Sau nghi lễ cầu quốc thái dân an là lễ phóng thuyền với ý nghĩa lễ tạ ơn
Thánh Thần, tiên hiền, tổ tiên đã về chứng giám thụ hưởng lễ vật.
Gần hai chục lễ nghi diễn ra liên tục trong hai ngày, mỗi nghi lễ đều có
những nét đặc trưng và ý nghĩa riêng trong không khí linh thiêng của âm nhạc
và tấm lòng thành kính của mọi ngưòi.
Sau phần nghi lễ chính thức, phần hội của lễ hội Nghinh Ông diễn ra
thực là lớn và vui nhộn tưng bừng. Thời gian này, đường phố Phan Thiết tràn
ngập màu sắc sặc sỡ của quần áo mới, cờ treo, hoa kết khắp nhà, ngoài
đường... Đây có thể được xem là lễ hội đường phố lớn nhất ở Việt Nam với
hàng chục ngàn người trên đường diễu hành: Đi đầu là các đội múa dân gian
mở đầu là múa rồng với hàng chục trai tráng to khoẻ điêu luyện liên tục thay
nhau múa lượn đảm bảo theo cuộc hành trình Nghinh Ông trên phố từ sáng
đến xế chiều. Tiếp đến là múa sân khấu, múa trò, đi cà kheo, đến dàn nhạc
bát âm, múa lân, đội chèo bá trạo, các loại cờ trung, cờ đại, cờ hội... của tất
cả các dân tộc anh em ở các khu phố, làng xóm lân cận tham gia. Đoàn
Nghinh Ông đi đến đâu là hàng ngàn bà con xếp hàng bên đường phố, trên
những ô cửa sổ, lan can tung hoa, vẫy cờ chào đón. Hàng quán bên đường
đều được đóng cửa từ trước, đường phố quang đãng và sạch sẽ. Có những
đoạn đường nhiều gia đình giàu có cho người mua cát trắng trải đường cho
kiệu Ông qua được êm ái và mọi người đi rước được sạch chân.
Tiếp đó là liên hoan văn nghệ, trình diễn trang phục dân tộc, hội chợ
ẩm thực, hội chợ văn hoá dân gian được tổ chức rất tưng bừng, đặc sắc. Du
khách tham dự lễ hội Nghinh Ông được thưởng thức những món ăn nổi tiếng
của người Hoa. Những món ngon như: mì vịt tiềm, gà ác thuốc bắc, cơm gà
Thượng Hải, sâm bổ lưỡng, trà Trân Châu, thử trà... và xem trình diễn nghệ
thuật thư pháp, đối ẩm... thu hút rất nhiều người tham dự.
Nếu như lễ hội Vía Bà thường tổ chức ở những hội quán riêng lẻ thì lễ
hội Nghinh Ông lại là một lễ hội của sự sắp xếp và liên kết nhiều hội quán
(chùa hay miếu). Chính vì vậy người ta cho rằng lễ hội Nghinh Ông cũng
chính là một lễ hội của trình tự, một trình tự được xếp về vai vế, thứ bậc trong
các hội quán, trình tự của các lễ nghi và thứ tự của phần lễ hội cũng như các
hoạt động trình diễn trên các tuyến đường phố,... tất cả đều được lựa chọn và
lên kế hoạch kỹ càng. Trình tự đó đảm bảo tính trật tự, sự phối hợp chặt chẽ
giữa các đoàn, các bộ phận và cuối cùng là đảm bảo tính tổ chức, tính cộng
đồng cao trong lễ hội, làm cho lễ hội đạt đến độ cao của sự hài hoà, cân đối,
vừa trang nghiêm vừa mang tính tâm linh. Có lẽ cũng chính sự thống nhất
này đã đặc biệt cuốn hút người tham dự. Chỉ với vài chục người tổ chức ở
các hội quán và với hơn 1000 người Hoa nhưng lần nào lễ hội được tổ chức
cũng thu hút hàng vạn người trong và ngoài nước. Bởi vậy, lễ hội diễn ra
trong nhiều ngày liên tục nhưng người xem không cảm thấy nhàm chán.
Nhiều du khách mải miết theo trình tự ngày hội và tự nhủ đã gặp một dịp may
hiếm có trong đời. Đó chính là tính độc đáo, đặc sắc của một lễ hội dân gian
trong đời sống hiện đại.
(Theo http:// www.binhthuan-tourist.com)
30. Hội vật cù ở Thanh Chương (Nghệ An)
Theo các bậc cao niên thuộc vùng trung du tỉnh Nghệ An, hội vật cù ở
đây có từ khoảng đầu thế kỷ 15. Bắt nguồn từ việc chọn những lực sĩ khỏe
mạnh, nhanh nhẹn để sung vào đội quân của tướng Phan Đàn - một võ tướng
của vua Lê Thái Tổ là người coi việc quân ở vùng này. Dần dà hội vật cù trở
thành một sinh hoạt mang tính hội lễ đậm nét dân gian, đi vào đời sống văn
hóa tinh thần của đồng bào vùng Thanh Chương, Đô Lương, Nam Đàn, và
sôi nổi, náo nhiệt hơn cả là ở những vùng dọc hai bờ sông Găng (một nhánh
của sông Lam) - Thanh Chương, nơi được xem là xuất xứ của trò chơi này.
Trước ngày vào hội, người ta đã lựa tìm những gốc chuối, đặc biệt
thích hợp là gốc chuối hột loại lớn, đào lên lấy củ. Dùng dao sắc đẽo củ chuối
thành hình tròn có đường kính cữ 30cm, trọng lượng 5 - 7kg là có quả cù đảm
bảo yêu cầu. Quả cù phải sạch nhựa và có độ dẻo cần thiết, bởi nó thường
xuyên bị giành giật, quăng ném mạnh, dễ vỡ trong khi chơi. Quả cù sau khi
đẽo xong, được luộc qua nước sôi, vớt ra phơi nắng khá kỹ. Lúc này quả cù
có màu sẫm và rất dẻo. Sân chơi cù thường là những sân cát bên bờ sông
hay trong làng, chiều dài độ 50m, ngang độ 25m. Có ba hình thức chơi cù: cù
gôn, cù đẩy và cù nước. Cả ba lối chơi này đều có chung hình thức tính điểm
và bố trí giống nhau. Hai đầu sân của mỗi bên là hai chiếc sọt đan bằng nan
tre, nứa cao l,5m, đường kính 50cm (cù gôn, cù nước), hay đào một hố sâu
rộng 50 X 50cm (cù đẩy). Bên nào giành và đưa được cù vào sọt (hay vào hố)
của đối phương được một điểm. Để đưa được quả cù vào đích cũng không
phải dễ dàng gì bởi phải giành giật, tranh cướp quyết liệt, bên nào cũng tìm
mọi cách nhằm cản phá đối phương đưa cù vào sọt (hố) của mình. Hội vật cù
vì thế rất sôi nổi, hào hứng, cuốn hút mọi người dự khán.
Ở cù gôn, khi vào cuộc hai bên dàn đội hình ngay giữa sân, quả cù đặt
dưới đất; có hiệu lệnh của người cầm trịch (trọng tài), hai bên bắt đầu vào
cuộc tranh cướp, giành giật chuyền nhau... Ở cù đẩy, quả cù được chôn sâu
dưới cát giữa sân, khi có hiệu lệnh hai bên tranh nhau đào moi lấy cù bằng
tay không. Lúc một trong hai bên đã có cù, các cầu thủ của hai đội đứng sau
đội trưởng (người cầm cù) và bắt đầu dùng sức đẩy thông qua quả cù. Bên
nào qua lần đẩy này tỏ ra mạnh hơn làm cho bên đối phương phải lùi sẽ
giành được quyền ôm cù, ngay sau đó rất nhanh và khéo léo chạy chuyền cù
cho nhau để đưa cù tới đích.
Đặc biệt vui và hào hứng là lối chơi cù nước. Sân chơi cù nước là một
bãi cát ngập nước sâu độ 30 - 40cm ven sông, quả cù được chôn sâu dưới
cát ngập nước; khai cuộc cả hai đội dầm mình trong nước tranh nhau moi quả
cù sau đó vừa chạy vừa lội với quả cù to nặng, vừa phải luồn lách qua đối
phương đang tìm mọi cách để giành giật quả cù. Ở các cuộc thi vật cù giữa
các làng xã, thời gian mỗi cuộc chơi không qui định cụ thể, số người tham gia
mỗi bên cũng không hạn chế. Có khi hội vật cù lên đến đỉnh điểm, đàn ông
trai tráng trong làng đều hăng hái vào cuộc không kể tuổi tác, lúc ấy thường là
vào dịp Tết Nguyên đán. Người tham gia vật cù đều cởi trần đóng khố. Để
phân biệt người của hai đội, ban tổ chức qui định màu sắc của khố hay dải
khăn màu vấn trên đầu. Tuy từ xưa không có một điều luật cụ thể, nhưng
trong hội vật cù không hề có lối chơi thô bạo, ác ý. Người chơi tranh giành rất
quyết liệt nhưng cũng rất trong sáng. Kết thúc cuộc chơi, đội nào có số lần
đưa cù vào đích của đối phương nhiều hơn là đội thắng. Giải thưởng chỉ
mang tính tượng trưng, danh dự. Ở hội cù, người các làng xem và cổ vũ rất
đông, hò reo, đánh trống chiêng cuồng nhiệt cổ vũ cho đội nhà và tán thưởng
những đường chạy cù ngoạn mục... Ai đã một lần được xem hội vật cù ở
Thanh Chương hẳn sẽ vô cùng thích thú.
(Theo http:// wwư.lyhocdongphuong.org.vn)
31. Lễ hội làng Sình
Lại Ân còn gọi là làng Sình, nằm bên hữu ngạn sông Hương, ở hạ lưu
ngã ba Sình, trước thuộc huyện Tư Vinh hay tổng Mậu Tài, nay là xã Phú
Mẫu huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là địa chỉ cuối cùng về
phương Nam còn lưu giữ truyền thống vật võ, một sinh hoạt văn hoá đặc
trưng của người Việt. Hàng năm sau khi ăn Tết xong, làng mở hội vật vào
ngày 10 tháng giêng với niềm mong ước: dân khoẻ, làng yên, mùa màng tươi
tốt, hạnh phúc muôn người.
Hội vật làng Sình, ngoài yếu tố tâm linh truyền thống, còn là một hoạt
động vui, khoẻ đầy tinh thần thượng võ, kích thích việc rèn luyện sức khoẻ,
lòng dũng cảm, sự tự tin, mưu trí, nhất là với lớp trai trẻ.
Võ đài là sới vật bằng đất bột, mỗi bề rộng chừng bốn năm sải tay, cao
hơn một mét được dựng trước sân đình từ ngày hôm trước, mùng 9 tháng
giêng, bốn bề có dăng dây bảo vệ. Ngôi đình làng nằm bên bờ sông, cảnh
quan thoáng đãng, sông nước hữu tình. Người xem vây quanh sới vật ngồi
san sát bên nhau trên những mô đất, những bệ cấp bằng tre già đan kết lại
trong khuôn viên đình rộng chừng 600m2. Sau nghi lễ và những điều dặn dò
về thi đấu, các đô sẵn sàng vào cuộc thi hào hứng. Điều khiển vật võ là một vị
cao niên, có uy tín trong làng, khăn đen, áo dài, ngồi cầm trống ngay trước
đình. Tiếng trống lúc nhịp nhàng, thong thả, lúc hối hả, liên tục thúc giục các
đô tích cực thi đấu. Trọng tài trên sới là một người am hiểu luật, nhanh nhạy,
kiên quyết. Các đô vật không đóng khố như ở Bắc mà mặc quần và quấn
thêm một cán ngang lưng. Người đến thi đấu không cần báo trước, chỉ đăng
ký tại chỗ theo lời mời gọi thi tài. Khi được phép, họ vào sới, làm lễ bái thần
làng và các vị cao tuổi. Trọng tài kiểm tra trang phục xong cho lệnh thi đấu.
Trống đánh một tiếng quì xuống chào nhau, trống đánh hai tiếng, đứng lên ôm
nhau vật. Trống đánh ba tiếng thì thả nhau ra, lựa thế khác, vật lại.
Luật vật dân tộc dựa trên nguyên tắc "túc bất ly địa" (chân không rời
đất). Nừu ai nhấc được hai chân của đối thủ rời khỏi mặt đất là thắng cuộc.
Từ "túc bất ly địa", luật tiến đến "lấm lưng, trắng bụng", một phần hoặc cả hai
phần lưng lấm đất, bụng ngửa lên trời, là thua cuộc. Trước đây, vật võ làng
Sình áp dụng luật "lấm lưng trắng bụng". Các đô phải đánh ngã đối thủ ở tư
thế lấm lưng và phải thắng tất cả đô trong ngày để đoạt chức vô địch. Luật
này làm nảy sinh sự tính toán để giành chức vô địch, gây mất đoàn kết và để
lại hậu quả xấu. Từ hơn 20 năm nay luật qui định: duy trì "lấm lưng trắng
bụng", nhưng phải giữ (đè) đối thủ bất động trong ba giây, phải thắng tiếp ba
người mới được vào bán kết. Tiếp tục thắng ba người nữa vào chung kết.
Sau này, tuỳ số đô lọt vào vòng hai mà qui định thể lệ, thông thường là loại
trực tiếp. Với vật võ, ngoài sức khoẻ, các đô còn có kỹ thuật, có miếng và
nhanh nhạy mới mong giành được thắng lợi. Vật có nhiều miếng đẹp mắt,
quyết liệt. Những miếng thường được các đô vật sử dụng là xốc nách, vạch
sườn, miếng bò, miếng háng (thò tay vào háng rồi lựa thế tấn công) nâng đối
thủ rồi vật ngã và nhấc bổng lên, miếng bành (xốc nách bế ngửa) miếng táng
(nâng đối thủ lên)... Một đô vật lý tưởng có tay chân cân đối, đặc biệt chân
mạnh để trụ vững, tay mạnh để vật ngã đối phương. Nhưng to chưa hẳn đã
mạnh, mạnh chưa hẳn đã thắng, cần phải nhanh, kiên trì để khai thác sơ hở
của đối phương.
Hội Sình rất chú trọng tinh thần thượng võ, cấm chơi xấu, ra đòn độc,
đòn hiểm, nguy đến tính mạng như bẻ, vặn, khoá trái khớp, tấn công bằng
đầu, bấm các huyệt, đòn đá, đòn đánh, nắm tóc, tấn công vào hạ bộ, yết hầu,
mắt.... Nếu hai đô vật giằng co nhau không thắng, trọng tài sẽ phạt và buộc
thay thế tư thế vật (vật quỳ) để kết thúc nhanh trận đấu. Hội vật chuẩn bị các
giải thưởng để động viên. Đô vật thua cũng có quà lưu niệm. Giải thưởng là
tặng phẩm do dân làng và các "mạnh thường quân" (các nhà đầu tư) đóng
góp. Giải thưởng vô địch thường trang trọng hơn (cau trầu, rượu, đầu heo....).
Các đô vật chia theo hai hạng tuổi: thiếu niên và thanh niên, tầm vóc chênh
lệch trên dưới 10kg.
Tinh thần đồng đội ở các địa phương rất quan trọng, một đô của làng
nào bị thua tức khắc có đô khác lên tiếp sức. Mỗi năm có hơn 100 đô vật
tham gia hào hứng suốt ngày. Thua một trận phải chờ đến năm sau mới
"phục hận" được. Vì vậy các đô phải rèn luyện suốt năm, tu dưỡng đạo đức
để chờ đầu xuân được dự đua tài. Các xã có phong trào đô vật mạnh là Phú
Mẫu, Phú Thanh, Phú Dương (Phú Vang) Hải Dương, Hương Phong, Hương
Vinh (Hương Trà), Thủ Lễ (Quang Điền), Hương Sơ (Huế).
Cùng với sới vật chính, đêm hôm trước và suốt ngày hội, khắp nơi
trong làng các quán hàng ăn: bún bò, bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc,
cháo lòng, bánh canh, chè....các gian trò chơi thu hút đông đảo khách chơi
xuân. Cho đến khi tắt nắng, cuộc vui mới chịu dừng. Hôm sau mọi việc trở lại
nhịp đời thường, một năm làm lụng mới lại bắt đầu.
(Theo http:// www.e-cadao.com)
32. Lễ hội Quan Thế Âm
Lễ hội Quan Thế Âm được tổ chức hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành
Sơn, thành phố Đà Nẵng. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân
ngày khánh thành tượng Bồ Tát Quan Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc
ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức
nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một
khối thạch nhũ có hình tượng phật bà Quan Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ
hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức
phật bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quan Thê
Âm mới được khôi phục trở lại. Từ đó, hàng năm, cứ đến ngày 19-2 âm lịch,
lễ hội lại được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung
ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quan Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao
gồm hai phần.
Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật giáo với các nội dung:
- Lễ rước ánh sáng: Nghi lễ rước ánh sáng thường tổ chức vào tối ngày
18, gồm rước đuốc, rước kiệu, múa lân, múa rồng để cầu mong ánh sáng soi
đường cho chúng sinh, mà trong Phật giáo ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí
tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện.
- Lễ khai kinh: Lễ được tổ chức vào sáng sớm ngày 19, đây là lễ cầu
nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh an lạc.
- Lễ trai đàn chẩn tế: Lễ này cũng được tổ chức vào sáng ngày 19 để
cầu siêu, cúng thập loại chúng sinh, thường trước đó đồng bào Phật tử gửi
danh sách những người thân của mình đã mất đến chùa để làm lễ cầu siêu.
Trong lễ này phải mời người có giới phẩm đứng ra làm lễ.
- Lễ thuyết giảng về Bồ Tát Quan Thế Âm và dân tộc: Lễ cúng được tổ
chức vào sáng ngày 19, ngợi ca lòng từ bi bác ái của đức phật Bồ Tát Quan
Thế Âm và cầu nguyện cho dân tộc an bình, thịnh vượng.
- Lễ rước tượng Quan Thế Âm: Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng
ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật bà đi
trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống
chiếc thuyền đậu trên sông cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho
thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng
bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an.
Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng Sơn, Thủy, Thổ, Thần) để cầu
quốc thái dân an. Lễ thường được tổ chức vào đêm ngày 18. Trong ngày lễ
này các bô lão của các phường Hòa Hải, Hòa Quý khăn áo chỉnh tề, tay cầm
cờ lọng, đuốc, lồng đèn, có đội nhạc cổ và chiêng trống đi theo. Sau khi làm lễ
và đọc văn tế, đoàn bô lão sẽ dẫn đầu đoàn rước xuống bờ sông Cầu Biện để
mở hội hoa đăng, rồi từ chùa Quan Thế Âm đi quanh các khu phố qua các
làng đá mỹ nghệ Non Nước, xuống khu du lịch Non Nước và trở về lại lễ đài
với lộ trình dài hơn 2km.
Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang
đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại như hội hoá trang, hát dân ca, thi
cờ, nhạc, hoạ, điêu khắc, múa tứ linh, thả đèn trên sông, hát tuồng... và các
hoạt động văn hóa như triển lãm thư pháp và tranh thủy mặc, hội thi thuyết
minh về danh thắng Ngũ Hành Sơn, hội thi nấu ăn chay...
Nhờ vào vị thế sơn thủy hữu tình, các nội dung phong phú của lễ hội đã
thu hút khá đông khách hành hương cùng khách du lịch trong và ngoài nước
đến với phía Tây thắng tích Ngũ Hành Sơn. Trên sân bãi, diễn ra trò chơi kéo
co truyền thống. Ngoài phía sông Cổ Cò, vang tiếng hò reo của khách tham
gia hội đua thuyền, hội đua thúng lắc. Khi đêm xuống, lễ hội càng lộng lẫy,
hoành tráng với nhiều thanh âm và màu sắc. Sau khi truyền thuyết Ngũ Hành
Sơn được diễn xong ở sân khấu chính, các đội hình rước đuốc, rước cộ bắt
đầu được diễu hành qua các đường phố chính của Ngũ Hành Sơn. Dưới
sông, các cư sĩ chùa Quan Thế Âm thả hoa đăng, gửi lời cầu nguyện cho ánh
sáng trí tuệ được trường tồn như dòng nước. Với nhiều hoạt động văn hóa -
thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quan Thế Âm tuy mang màu sắc tôn
giáo nhưng lại mang tinh thần nhập thế sâu sắc, góp phần phục hồi và phát
huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội Quan Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho
mưa thuận gió hòa; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí
hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn.
(Theo http://www.danang.gov.vn)
33. Lễ rước Mục Đồng
Lễ rước Mục đồng - lễ hội dành cho trẻ chăn trâu ngày xưa được tổ
chức ở làng Phong Lệ, Hòa Châu, Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Theo các
cụ bô lão của Phong Lệ, thì ngày trước, theo lệ cứ đến các năm Tý, Ngọ,
Mão, Dậu, nghĩa là cách 3 năm, làng lại tổ chức lễ rước Mục đồng một lần.
Sau dãn dần ra sáu năm, rồi cuối cùng 12 năm mới tổ chức một lần. Lần cuối
cùng được ghi nhận là vào năm Bảo Đại thứ 11 (1936).
Chuyện kể rằng, làng Phong Lệ xưa có một cồn cỏ. Ngày nọ, có người
xua đàn vịt lên cồn, chân vịt bỗng dính chặt xuống đất như có bàn tay ai đó
níu lại. Cho là có thần linh giáng hạ nên chẳng ai dám bén mảng đến cồn. Từ
đó cồn có tên là cồn Thần. Một hôm, có đàn trâu trong làng chạy lạc đến cồn,
đám trẻ chăn trâu đến tìm nhưng không hề hấn gì cả. Từ đó có tiếng đồn là
cồn Thần chỉ cho các trẻ chăn trâu đến gần mà thôi. Xóm Cồn về sau được
gọi là xóm Đồng, làm nơi tụ tập của các Mục đồng trong làng. Câu chuyện lạ
lùng ấy, sau nhiều thế hệ dần dần hình thành một lễ hội dành riêng cho các
trẻ chăn trâu, gọi là lễ rước Mục đồng.
Từ hạ tuần tháng 3 âm lịch, khi vụ mùa đã hoàn tất là lúc các công việc
sắp đặt cho lễ hội bắt đầu. Để phục vụ cho lễ rước, ngoài việc cắt cử các
chức sắc lo việc tế lễ, dân làng Phong Lệ phải chuẩn bị cho một cỗ kiệu hai
đòn khiêng có giăng hoa, kết trái tươm tất và phân công cho bốn mục đồng
khỏe mạnh khăn đóng, áo dài giữ phần khiêng kiệu. Ngoài cờ nhỏ của Mục
đồng, còn có cờ lớn của 13 tộc họ ngày đó. Cờ lớn cán bằng tre dài khoảng 5
mét, có khoan lỗ đút cây ngang qua để treo các con giống, nào là tứ kinh
(long, lân, quy, phụng), tứ nghệ (sĩ, nông, công, thương). Nhưng nhiều nhất
vẫn là các dụng cụ sản xuất nông nghiệp như cày, bừa, cuốc, xẻng, dần,
nia...
Chuẩn bị đâu vào đó, chiều 29 tháng 3 âm lịch làm lễ dạo đồng. Đây là
lúc con cháu sinh sống ở các nơi xa kéo về đông đủ. Mục đồng cầm cờ dạo
quanh các cánh đồng tỏ ý cầu cho được mùa.
Sáng ngày 30, chính thức diễn ra lễ rước. Lễ bắt đầu vào sáng tinh mơ
ngay giữa đình thần. Sau khi hương khói, khấn lễ, Trùm Mục (người cai quản
các Mục đồng) lễ phục tươm tất trịnh trọng tiến vào hậu tẩm khấn vái, cung
kính thỉnh bài vị thần nông nâng cao ngang mày rồi quỳ xuống vào đặt vào
trong kiệu. Kiệu rước được bài trí như kiệu rước thần, cỡ 80 X 100 cm, nóc
kiệu có 4 mái, rèm kiệu được giăng hoa kết đèn rực rỡ, do 4 Mục đồng
khiêng. Đoàn người cờ xí xếp hàng đâu vào đấy, chiêng trống lại gióng giả
vang lên; tất cả Mục đồng hướng vào chính điện đồng loạt chắp tay xá ba cái
rồi đám rước dài lượt thượt đi qua đường làng, hướng về cồn Thần, trong
tiếng nhạc rộn rã của phường bát âm và cờ xí rợp trời. Đến cồn Thần, kiệu
Thần hạ xuống, Trùm Mục quỳ trên chiếc chiếu hoa, ngửa mặt lên trời lầm
rầm khấn giữa 2 hàng đuốc chập chờn hư ảo. Sau một hồi lâu khấn vái, Trùm
Mục gieo 2 đồng tiền vào cái đĩa con trước mặt: một sấp, một ngửa. "Thế là
Thần đã giáng". Một hồi sênh nổi lên, tiếp đó là ba hồi chiêng trống. Rồi, trống
cơm, phường bát âm cùng tấu những âm điệu rộn rã chào mừng. Sau 3 tiếng
sênh làm hiệu, Trùm Mục dõng dạc xướng: “Chúng Mục đồng Phong Lệ tạ!
Xin cho tốt lúa, tốt gieo, vũ thuận, phong điều! Đồng reo một tiếng!...".
Đoàn Mục đồng đồng thanh reo vang trời và cầm cờ nối đuôi theo vị
Trùm Mục chạy tới, chạy lui, quanh đi, quẩn lại chung quanh tảng đá trắng
giữa cồn Thần. Một lúc sau, đám rước rồng rắn quay trở lại đình Thần trong
tâm niệm tôn kính là trên kiệu đã có vị Thần thiêng liêng của mình.
Trời vừa sáng, đám rước về đến đình làng. Sau đó là lễ đặt bài vị và lễ
dâng vật cúng của dân làng. Trong lễ, mọi người ai ai cũng giữ sự cung kính
trước đám mục đồng. Lễ vật xôi gà được bày trên chiếu hoa trải khắp ba gian
đình, ai nấy đều hoan hỉ vì tin rằng lòng thành của mình đã được thần Mục
chứng giám phù hộ cho đồng ruộng tốt tươi.
(Theo http:// www.danang.gov.vn)
34. Lễ hội Xăng Khan của người Thái
Từ rất xa xưa, các bản làng người Thái đều tổ chức lễ hội Xăng khan.
Có thể nói đây là một trong những lễ hội có quy mô và ý nghĩa lớn của đồng
bào Thái. Mục đích và ý nghĩa của nó vẫn là ngày tạ ơn các ông mo đối với
Tổ tiên và những người thầy đã dạy cách bốc thuốc chữa bệnh cứu vớt
chúng sinh.
Cứ 3 hoặc 5 năm một lần vào khoảng tháng 11 âm lịch, khi bắp ngô
trên nương đã được gùi hết về nhà, lúa ngoài đồng đã gánh hết về bản, hoặc
tháng 2, tháng 3 âm lịch của năm sau là tháng tốt, tháng lành, nhiều bản Thái
mở hội Xăng Khan để chào mùa xuân mới và cầu mong sức khỏe. Thời gian
mở hội từ 2 đến 3 ngày.
Theo các bậc cao niên ở các bản đồng bào Thái thuộc huyện Quỳ Hợp,
Quỳ Châu, Quế Phong (Nghệ An) thì lễ hội Xăng khan có từ xa xưa. Thuở đó,
“mặt đất còn như lá đa, bầu trời như nắp con ốc, rừng núi như dấu chân con
gà”, lễ hội Xăng khan đã được các thầy mo tổ chức. Vì mỗi ông mo được học
mỗi thầy khác nhau; mỗi bản, mỗi vùng có điều kiện kinh tế, sinh hoạt khác
nhau nên cách thức tổ chức lễ hội Xăng khan ở mỗi nơi cũng có sự khác
nhau. Tuy nhiên, phần cơ bản trong lễ hội Xăng khan đều được các thầy mo
thống nhất theo trình tự như sau:
Vào dịp đầu xuân mới, thầy mo chủ (mo môn) khơi vò rượu cần xin
phép tổ tiên chọn ngày lành, tháng đẹp để tổ chức lễ hội Xăng khan. Sau khi
chọn được ngày, mo chủ nhờ người nhà mang trầu, cau, rượu sang mời các
mo bạn tới dự lễ. Số lượng mo bạn được mời giới hạn từ 8 đến 24 người
(gồm cả mo ông và mo bà). Nếu mo bạn nhận lời thì gửi làm tin cho mo chủ
một cái quạt và một chiếc khăn. Ngoài mời mo bạn, mo chủ còn mời một
nhóm nam, nữ thanh niên khoẻ mạnh, có phẩm chất đạo đức tốt đến giúp mo
chuẩn bị đồ cúng tế. Trước thời điểm mở hội 3 ngày, nhóm nam nữ thanh
niên tập trung về nhà mo chủ. Ai đến trước sẽ được chọn làm người phụ
trách, được theo mo chủ đi tìm cây làm hoa và được têm trầu, mời rượu các
thầy mo bạn.
Trong lễ hội Xăng khan có một cây hoa to (xăng tan) được làm từ cây
nứa già, cao chừng 3m. Trên cây nứa có chạm trổ nhiều hình chim, hoa và
được khoan nhiều lỗ để cắm tượng trưng các loại hoa quả, muông thú. Hoa
quả, muông thú được làm từ bấc cây tang, cây sắn hoặc ruột bầu phơi khô
hay các hình vẽ trên giấy được nhuộm màu xanh, đỏ, tím, vàng...Riêng loại
hoa làm từ bấc cây tang thì được cắt thành từng mẩu dài chừng 2 - 3cm, xâu
vào sợi lạt nhỏ (đã được chẻ làm 2 - 3 nhánh). Ở phần ngọn các nhánh hoa,
người ta gắn vào một bông hoa (được cắt từ cành dâu) để giữ các bông hoa
phía trong không bị tuột khỏi cành, đồng thời để tạo ra một loại hoa khác gọi
là tang chò. Một loại hoa khác được xâu vào sợi vải dài rủ từ ngọn cây xăng
tan xuống đất gọi là xái mường (tượng trưng cho con đường Thánh Thần đi
từ Mường Trời xuống trần gian dự lễ hội). Ngoài cây xăng tan, người ta còn
dựng hai cây mía để nguyên lá và một cây xăng boọc (cây hoa thật) được
cắm vào nhiều loại hoa rừng.
Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ các vật phẩm, dân làng, họ hàng gần xa tập
trung đến nhà mo chủ dự lễ. Vào khoảng 3, 4 giờ sáng, sau lệnh của mo chủ,
mọi người xúm lại dựng cây xăng tan lên chính gian giữa, sau đó dùng sợi vải
buộc vào chum rượu. Dưới sự điều hành của mo chủ, mỗi mo bạn mở một vò
rượu nhỏ để cúng thông báo cho ông bà, tổ tiên biết buổi hành lễ này chỉ là đi
giúp, không phải việc tư. Mo chủ tay cầm quạt cúng, đầu đội khăn trắng, ngồi
trên ngựa (bằng gối đệm) hành lễ. Bên cạnh mo chủ là hai chàng trai ngồi
chúc rượu và hai người phụ trách trong trang phục váy áo truyền thống, đội
hoa tang chò để thõng xuống như hai bím tóc của thiếu nữ. Sau khi mo chủ
cúng báo cáo với tổ tiên lý do tổ chức lễ hội xong, các mo bạn bắt đầu hành
lễ. Buổi hành lễ có 54 muột, mỗi muột là một trò diễn do mo chủ hoặc các mo
bạn thể hiện gồm các tiết mục: quét nhà, chống nhà, chặt củi, làm rẫy, múa
kiếm, ngồi vào kiềng sắt nóng đỏ, hút thuốc bằng bột ớt giã nhỏ Trong mỗi lễ,
mỗi muột đều xuất hiện một nhân vật là thần linh từ Mường Trời xuống. Để
chuyển muột, người ta gõ nhẹ 3 hồi 9 tiếng, cồng theo lệnh của mo chủ và
môn (người phụ trách công việc). Xen kẽ giữa các muột, người ta tổ chức
đánh cồng, múa giã chày, múa tăng bula, hát điệu nhuôn, lăm, khắp,
xuối...Mo chủ thể hiện điệu múa Xăng khan cùng các thiếu nữ. Khi múa, mo đi
trước, các cô gái (xoã tóc, đội vòng kê - biểu tượng trinh nữ) đi theo sau che
ô và thực hiện động tác giống mo: khi nghiêng mình, khi quay trái, quay phải.
Một số thiếu nữ khác đeo lục lạc trên đôi bàn tay múa lượn vòng quanh cây
hoa.
Các bài cúng của thầy mo trong lễ hội Xăng khan là những trường ca,
sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích bằng văn vần kể về thuở khai bản lập
mường, về những người anh hùng dân tộc Thái, về cuộc sống của thần linh,
ông bà, tổ tiên trên Mường Trời.
Xăng khan là ngày vui của bản Mường, là dịp của gái trai gặp gỡ, là
ngày để dân bản trả ơn thầy mo đã chữa khỏi bệnh cho mình. Không phải chỉ
những người trong bản mà cả du khách thập phương, già có, trẻ có kéo về
dự hội. Sau lễ cúng, dân làng múa hát xung quanh cây hoa, càng về khuya
không khí hội càng nhộn nhịp với những trò diễn độc đáo hài hước đầy ắp
tiếng cười. Nhộn nhịp hơn cả là múa tập thể. Tất cả những người đến dự hội
từ già đến trẻ đều vào cuộc múa, họ múa hết mình, hoà lẫn trong âm vang
nhộn nhịp của tiếng chiêng, trống, tiếng khua luống, tiếng dập của ống nửa
(tẩng bù) tượng trưng cho sấm, mưa cho sự phồn thực với mong ước của
một mùa màng tươi tốt. Hái hoa (Kếp boóc) là phần cuối của lễ hội Xăng
khan, chủ nhà là người trực tiếp hái hoa đem tặng cho mọi ngươi. Mỗi bông
hoa là một phần thưởng tượng trưng cho bổng lộc và sự may mắn trong cuộc
sống. Cuối cùng là lời hát chia tay thắm thiết hẹn kỳ hội sau gặp lại, và lúc
này trời cũng vừa sáng, mọi người trở về tiếp tục với công việc hàng ngày
của mình.
Lễ hội Xăng khan là một lễ hội tín ngưỡng dân gian độc đáo của người
Thái, góp phần thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nhất là văn hóa tâm
linh của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và người Thái nói riêng. Tuy
nhiên những năm gần đây, nhiều bản làng Thái không còn lễ hội Xăng khan
nữa, nguyên nhân thì nhiều nhưng quan trọng nhất vẫn là con người và cách
ứng xử của con người đối với lễ hội.
(Theo http:// www.cinet.gov.vn)
35. Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên
Tháng 3 âm lịch luôn được coi là tháng đẹp nhất trong năm ở Tây
Nguyên: trời nắng dịu, đất rừng khô ráo, dọc bên các cánh rừng, khe suối,
hoa đủ các màu đua nhau khoe sắc. Và đây cũng là thời điểm diễn ra lễ hội
đua voi đặc sắc và hùng tráng. Ngày hội truyền thống, dân dã, chứa đựng
nhiều màu sắc thể thao thượng võ này phản ánh nếp sống mạnh mẽ của
người dân núi rừng Tây Nguyên.
Trước ngày lễ hội vài tháng, voi được đưa đên những cánh rừng nhiều
cây cỏ để ăn uống no nê. Ngoài ra, voi còn được bồi dưỡng thêm chuối chín,
đu đủ chín, mía cây, bắp ngô, khoai lang, cám gạo và hầu như không phải
làm việc nặng để giữ sức. Đến ngày hội, các đàn voi từ những buôn làng gần
xa nườm nượp kéo nhau về Bản Đôn, tập trung ở một số bãi hoặc cánh rừng
thưa ven sông Sêrêpốc.
Dân làng cũng kéo nhau về dự lễ hội trong những bộ quần áo rực rỡ
sắc màu. Bãi đua là một dải đất tương đối bằng phẳng (thường là khu rừng
bằng, ít cây to) bề ngang khoảng 30 - 35m, đủ để 10 con voi giăng hàng đi
một lúc. Người ta tổ chức đua voi theo từng tốp một. Một hồi tù và rúc lên,
đàn voi lần lượt tiến vào khoảng đất bằng, dàn thành hàng ngang ngay ngắn.
Nhiều con rống vang, như để báo hiệu rằng chúng sắp bước vào một cuộc thi
tài quan trọng.
Không khí trường đua lúc này lặng im, căng thẳng, mọi người hồi hộp
chờ đợi. Trên mỗi con voi cường tráng có hai chàng Mơgát (người điều khiển)
dũng mãnh, trong bộ trang phục sặc sỡ kiểu tướng lĩnh ngày xưa đang trong
tư thế sẵn sàng chờ lệnh. Một tiếng tù và rúc to báo lệnh xuất phát. Đàn voi
phóng về phía trước trong tiếng hò reo, la hét của khán giả cùng tiếng chiêng,
tiếng trông âm vang cả núi rừng.
Chàng Mơgát ngồi phía trước đầu voi điều khiển voi bằng một thanh
sắt nhọn, dài độ một mét gọi là kreo (tiếng M’nông là gậy điều khiển) dùng để
đâm mạnh vào da, thúc voi tăng tốc độ. Anh chàng Mơgát thứ hai ngồi ở phía
sau thì dùng chiếc búa gỗ kốc nện mạnh vào mông voi để thúc voi chạy
nhanh và thẳng đường.
Khi chú voi nào về đích thì tiếng reo hò của khán giả vang lên như sấm.
Tiếng trống, tiếng chiêng giục giã liên hồi. Tiếp theo là tiếng hoan hô những
người thắng cuộc. Những chú voi được giải được gắn hoa, mang đai đỏ cho
người và voi. Thông thường thì voi thắng cuộc và các chàng Mơgát được
thưởng 1 con lợn và 7 ché rượu quý. Dân làng dự hội tặng cho chú voi thắng
cuộc những cây mía hay ống đường. Sau cuộc đua, dân làng kéo nhau về
nhà rông ăn uống no say. Các chàng trai, cô gái nhảy múa trong nhịp cồng
chiêng cho tới sáng.
Hội đua voi là lễ hội đặc trưng, thể hiện tinh thần thượng võ của đồng
bào Tây Nguyên. Khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên càng tăng
chất hùng tráng của ngày hội cổ truyền này.
(Theo http://www.giaothongvantai.com.vn)
36. Lễ hội miếu Bà Chúa Xứ
Núi Sam nằm cách thị xã Châu Đốc (tỉnh An Giang) 5km, là nơi có quần
thể di tích lịch sử văn hoá với chùa cổ Tây An, miếu Bà Chúa Xứ, chùa Hang,
lăng Thoại Ngọc Hầu...
Lễ hội Bà Chúa Xứ (còn gọi là lễ Vía Bà) được tổ chức hàng năm bắt
đầu từ đêm 23 tháng 4 âm lịch đến 27 tháng 4 âm lịch. Khách hành hương
đến lễ hội có thể đi theo đường bộ từ Long Xuyên lên Châu Đốc theo tỉnh lộ
10, rẽ vào 7km là tới núi Sam; hoặc đi bằng đường thủy từ Cần Thơ, Sóc
Trăng lên hay từ Sài Gòn xuống.
Đêm 23 tháng 4 là lễ tắm và thay xiêm y cho tượng Bà. Nước tắm
tượng là nước thơm, bộ y phục cũ cũa Bà được cắt nhỏ ra phân phát cho
khách trẩy hội và được coi như lá bùa hộ mệnh giúp cho người khoẻ mạnh và
trừ ma quỷ. Tiếp theo là lễ rước bốn bài vị từ lăng Thoại Ngọc Hầu về miếu
Bà. Lễ Túc Yết được tổ chức vào lúc 24 giờ ngày 25 rạng ngày 26. Lễ được
tiến hành theo trình tự: dâng hương, chúc tửu, hiến trà, đọc văn tế. Sau đó
bài văn tế được hoá cùng với một ít giấy vàng, giấy bạc. Tiếp ngay sau lễ Túc
Yết là đến lễ Xây Chầu (hát bội) do một người sành nghi lễ và có uy tín trong
ban tế tại miếu Bà thực hiện cùng đào kép hát cầu nguyện cho quốc thái dân
an, mưa thuận gió hoà. 4 giờ sáng ngày 26/4 lễ chính tế được tiến hành (lễ
nghi được tiến hành giống lễ Túc Yết). Chiều ngày 27/4 bài vị Thoại Ngọc
Hầu được đưa về lăng. Chương trình hát bội cũng chấm dứt. Kết thúc lễ cúng
Vía Bà.
Lễ Vía Bà hằng năm thu hút rất đông khách thập phương. Đến với lễ
Vía họ vừa được tham dự lễ hội đồng thời có dịp để du ngoạn, chiêm ngưỡng
cảnh trí thiên nhiên ở An Giang.
(Theo "Đình miếu và lễ hội dân gian Việt Nam"
Sơn Nam, NXB Trẻ, năm 2006)
37. Lễ hội đua bò của người Khmer
Lễ hội đua bò kéo bừa truyền thống là nét sinh hoạt văn hoá độc đáo
của người Khmer ở 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn, nơi nuôi nhiều bò để lấy
sức kéo ở tỉnh An Giang.
Trường đua bò thường là một khu đất rộng khoảng 60m và dài khoảng
170m, được bao bởi bờ đất cao, đồng thời là nơi dành cho khán giả ngồi hay
đứng. Phía dưới là đường đua dài khoảng hơn 100m, rộng khoảng 4m, hai
đầu đặt điểm xuất phát và đích đến. Vào ngày hội, từng đôi bò được ách vào
một chiếc bừa đặc biệt, gọng bừa là bàn đạp gồm một tấm gỗ rộng 30cm, dài
90cm, bên dưới là răng bừa. Theo qui định đua theo hai đôi một: đôi trước,
đôi sau. Mỗi cặp bò khi vào cuộc đua phải kéo theo một giàn bừa đã được
cưa ngắn bớt răng. Người điều khiển đứng trên giàn bừa vung roi điều khiển
cặp bò của mình.
Cuộc đua bò phải qua hai vòng: vòng hu và vòng thả. Tại vòng đua cuối
(vòng thả), những đôi bò đều gắng sức để chiến thắng và để được bước vào
vòng chung kết. Vòng chung kết của cuộc đua bao giờ cũng hấp dẫn và náo
nhiệt nhất. Những chú bò dành được giải cao nhất trong cuộc đua này là niềm
vinh dự cho cả chủ và cả phum sóc.
Hội đua bò hàng năm được tổ chức ở An Giang trong dịp lễ Đôlta (lễ
cúng ông bà của người Khmer) thường vào khoảng tháng 8 - 9 âm lịch. Đây
là dịp để những ngươi đàn ông trong phum sóc trổ tài dũng cảm khôn khéo
của mình trước cộng đồng.
(Theo "Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam"
Sơn Nam, NXB Trẻ, năm 2006)
38. Hội xuân Núi Bà
Nếu có một lần được đặt chân lên mảnh đất Tây Ninh, hẳn bạn không
thể không tới vãn cảnh núi Bà, một ngọn núi cao và đẹp nằm giữa vùng đồng
bằng Nam Bộ - cách thị xã Tây Ninh 11km.
Núi Bà - thường được gọi là Núi Bà Đen do truyền thuyết, có một người
con gái tên là Đênh (sau gọi chệch sang là Đen) sùng Phật đạo, con một viên
quan trấn thủ người Miên. Do bị ép duyên với con quan trấn vùng Trảng
Bàng, nàng Đênh bỏ nhà trốn lên núi xuất gia cầu đạo và chết ở đó. Sau này
triều đình nhà Nguyễn đã cho đúc tượng đồng đen và sắc phong cho bà là
Linh Sơn Thánh Mẫu.
Hàng năm vào dịp xuân về, từ chiều 30 tết nguyên Đán đến suốt tháng
giêng, tháng hai âm lịch - nhất là ngày rằm tháng giêng, du khách trong tỉnh,
thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh khác ở Nam Bộ đổ về hành hương, lễ bái
và tham quan du lịch rất đông đúc.
Từ chân núi, khách trẩy hội phải đi bộ và leo núi. Đến lưng chừng núi
khách vào lễ đền Linh Sơn Thánh Mẫu rồi nghỉ ngơi. Ai khoẻ chân lại tiếp tục
đường mòn leo núi để lễ chùa. Nơi đây, nhà chùa có cơm chay đãi khách,
khách cứ việc dùng rồi cúng tiền vào chùa, có hoặc không, nhiều hoặc ít tuỳ
tâm. Thậm chí nếu khách muốn lưu lại chùa một, hai ngày vẫn được nhà
chùa thết đãi nồng hậu vì rằng ở chốn tu hành, đồng tiền không có nghĩa và
người mộ đạo ai cũng như ai. Lên cao chút nữa, gần đỉnh núi là miếu Sơn
Thần. Dừng tại đây, du khách có cảm giác nhiều đám mây còn bay dưới chân
mình, từ đây có thể ngắm toàn ảnh hồ nước Dầu Tiếng - một công trình thuỷ
lợi đẹp và lớn ở nước ta hiện nay.
Những năm gần đây mỗi mùa xuân tới, dân chúng Nam Bộ kéo tới lễ
điện Bà rất đông. Mọi người tin rằng lễ điện Bà để cầu sức khoẻ và thịnh
vượng, và đây cũng là dịp du lịch ngắm phong cảnh hùng vĩ của núi Bà.
(Theo http://www.e-cadao.com)
39. Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực
Đền Nguyễn Trung Trực ở xã Long Kiên, huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang. Nguyễn Trung Trực là thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Nam Bộ. Lễ
giỗ ông được tổ chức hàng năm vào ngày 18, 19 tháng 10 âm lịch.
Trước lễ giỗ chính thức 5 - 7 ngày hàng trăm người từ các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long đã kéo về đây để làm công quả. Họ chung tay sửa sang
đền thờ, dựng trại, đắp lò nấu cơm... thành tâm như con cháu lo cúng giỗ cho
ông bà vậy. Nhiều người còn tiếp tục nấu cơm, rửa bát đũa, dọn dẹp cho đến
hết lễ hội 3 - 5 ngày mới quay về nhà.
Trong lễ giỗ sự đóng góp là tuỳ tâm. Các bà, các chị buôn bán ở chợ thì
thường 5 - 7 người góp gạo, rau cho đủ một xe đạp, xe lôi rồi gọi một xe lớn
gửi cho đền cụ Nguyễn. Số hàng trên luôn luôn được chuyển đến nơi chu
đáo. Nhiều người đạp xe lôi còn chở hàng miễn phí đến đền cụ Nguyễn.
Trong và sau lễ giỗ 3 - 5 ngày, nhiều người tự nguyện đến nấu cơm
chay phục vụ miễn phí cho tất cả khách đến dự lễ ngay tại đền. Cơm và thức
ăn được dọn lên mâm, ai đói cứ việc ăn, ăn xong lại có người dọn dẹp. Nhà
bếp phục vụ bà con từ 3 giờ sáng đến 12 giờ đêm hàng ngày. Gạo và thức ăn
do người dân hỷ cúng, năm nào sau lễ giỗ cũng dư và trăm kg gạo. Số này
ban quản lý đem tặng người nghèo.
Khách từ xa đến nếu có nhu cầu còn được bố trí chỗ ngủ chu đáo,
miễn phí. Đó có thể là trụ sở cơ quan nhà nước hoặc nhà dân gần đền...
(Theo http:// www.e.cadao.com)
40. Lễ hội Ook om Bok
Người Khmer chủ yếu sinh sống ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
họ có đời sống văn hoá tinh thần rất phong phú với vài chục lễ nghi trong một
năm. Trong đó có ba lễ truyền thống lớn nhất của dân tộc: Lễ mừng năm mới,
mừng tuổi; lễ cúng ông bà và lễ cúng trăng (Ook om bok).
Người Khmer tin rằng, thần Mặt Trăng phù hộ và bảo vệ mùa màng của
họ, giúp cây trồng xanh tốt. Mùa màng của họ được bội thu là nhờ ơn thần
Mặt Trăng. Vì thế họ đã tổ chức những ngày lễ lớn để tưởng nhớ và tạ ơn
thần Mặt Trăng.
Lễ Ook om bok được tổ chức vào đúng ngày 15 tháng 10 âm lịch hàng
năm với nhiều hoạt động được nhân dân địa phương, khách du lịch thập
phương và khách các vùng lân cận háo hức chờ đợi và tham gia. Đặc biệt là
dân chúng chuộng đạo phật, bởi theo đạo phật, ánh trăng còn là ánh sáng
của Đức Phật Thích Ca.
Nghi lễ chính được tổ chức vào đúng đêm rằm tháng mười, trước khi
mặt trăng lên đỉnh đầu. Mọi người trong gia đình tập trung tại sân nhà hoặc
sân chùa. Họ bày những mâm lễ lớn gồm nhiều sản phẩm nông nghiệp, chủ
yếu là vật phẩm chay như bánh rây, bánh neng, khoai, dừa... những lễ vật
quan trọng nhất trong lễ hội này là om bok (cốm dẹt).
Trước ngày lễ khoảng hơn một tháng, nhà nhà trong phum đã lo chuẩn
bị sản vật này. Từ những hạt lúa còn thoảng hơi sữa trên những bông nếp
nẩy, chín tới được những người phụ nữ Khmer khéo léo cắt về đồ, giã thật
cẩn thận sao cho cốm thơm dẻo giữ màu vàng tươi như ánh trăng. Trước kia
cốm dẹt được người Khmer ăn kèm tép rang hay chuối chín, còn ngay nay
chúng được trộn lẫn với cơm dừa, đường thốt nốt hay đường kính, vừa béo,
vừa dẻo, vừa bùi, ăn rất ngon miệng và no bụng trong những ngày trẩy hội.
Khi mặt trăng lên cao và toả sáng, mọi người trong gia đình, làng xóm
ngồi quây quần, thắp nến, thắp nhang và rót trà vào các chén mời thần và
khấn vái. Sau đó một cụ già trong gia đình hoặc trong phum sóc đứng ra làm
chủ lễ, đại diện mọi người trong làng và gia đình bày tỏ lòng biết ơn đối với
thần Mặt Trăng, xin thần Mặt Trăng ban phúc lộc, sức khoẻ tốt lành, mưa
thuận gió hoà, mọi người tăng gia sản xuất được thuận lợi, mùa màng bội
thu. Sau đó, tất cả các con cháu có mặt ngồi chắp tay hướng về mặt trăng để
chủ lễ đút cốm (hoặc một số sản vật khác) vào miệng, vỗ nhẹ lưng chúng và
hỏi có mơ ước gì? Từng đứa trẻ lần lượt bày tỏ mong muốn và ước nguyện
trong năm tới cũng như tương lai của mình. Và đây cũng chính là mục tiêu,
định hướng, niềm tin và hy vọng của người lớn trong năm tới. Người già
thường xem những lời ước của trẻ như những điềm báo tương lai mùa tới.
Ngày hôm sau là những ngày hội tưng bừng. Nhộn nhịp nhất là những
khu diễn múa, nhạc cổ truyền và đua ghe ngo. Một trong những điệu múa
thường gặp nhất tại lễ hội Ook om bok là múa gà. Thường có bốn diễn viên
đóng vai và diễn như một vở kịch. Trong đó hai người ăn mặc sặc sỡ như
diễn viên đoàn hát đóng vai chủ gà. Hai diễn viên nam khoẻ mạnh đóng vai
gà. Họ hoá trang rất công phu thành một con trống một con mái. Trên đầu đội
mũ có hình gà bằng giấy bồi hoặc nan tre có vẽ đầu gà, mình mặc áo cánh
dơi sặc sỡ. Lời hát cất lên, hai con gà bắt đầu múa nhịp nhàng, quyến luyến
và quấn quýt lấy nhau rất sinh động, uyển chuyển theo tiếng nhạc khi trầm
bổng, khi rộn ràng, thôi thúc.
Trong lễ hội này, tiết mục đua ghe ngo sôi động thu hút đông đảo bà
con Khmer và bà con các dân tộc ở các vùng lân cận. Đua ghe ngo hay
umtuk, là một lễ hội có từ hàng trăm năm nay ở đồng bằng sông Cửu Long.
Truyền thuyết kể rằng, vào mùa khất thực nọ, sư sãi đi khắp ngả đường mà
không hay một trận lũ lớn đột nhiên ập tới, nước đổ về tràn ngập mênh mông.
Các con sóc gọi bầy ding ghe xuồng chở các vị sư về chùa, về sau người dân
tổ chức đua ghe ngo để nhớ lại sự việc này. Từ đó đến nay, hội đua umtuk
diễn ra hàng năm. Trên vàm sông, ghe chở sư sãi, chở lương thực, chở
người xem kéo tới chật dòng sông. Có năm lên tới hàng vạn người đổ về thị
xã Sóc Trăng, thành từng nhóm, từng hội. Họ thức từ đêm hôm trước, hát hò,
uống rượu suốt đêm, gần sáng thì kéo nhau về tấp nập bên bờ Kinh Xáng,
chen cả xuống ghe ngo. Hội đua ghe ngo ngày càng phổ biến và thu hút đông
đảo dân chúng tham gia, nó được coi như một môn văn hoá thể thao lành
mạnh và cuốn hút.
Các ghe đua tới dự thi tự bắt đôi đua thành từng cặp, từng đôi. Trước
khi mang tới hội thi, những chiếc ghe ngo được chế tạo, bảo quản trong chùa
của sóc. Chiếc ghe ngo được trang trí màu sắc sặc sỡ, dáng đầu đuôi cong
vút, oai nghiêm hình con vật trên chiếc ghe được chăm chút tinh tế mang biểu
tượng, thể hiện tinh thần và niềm tin của phum sóc làm ra nó. Vì thế những
chiếc ghe ngo thường xuất hiện với dáng dấp đầu như những con rồng vàng,
bạch tượng, bạch mã, sư tử, thân ghe như thân rồng, thân rắn, cá sấu, những
chuyên gia sông nước dài cỡ 20 - 25cm. Mỗi phum sóc thường chọn 55 - 60
con ghe ngo với những thanh niên cường tráng vừa có đức độ vừa có sức
khoẻ vào cuộc đua với quyết tâm đem thắng lợi về cho phum sóc. Xưa kia,
chỉ có đàn ông mới được tham gia những cuộc đua ghe ngo và đem vinh dự
về cho phum sóc mình, nhưng những năm gần đây với sự phát triển kinh tế
xã hội, phát triển văn hoá, phụ nữ cũng đã được tham dự vào những cuộc
đua ghe ngo sôi động mang đậm bản sắc văn hoá cộng đồng của đồng bào
Khmer Việt Nam nói chung và Đông Nam Á nói riêng.
(Theo "25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam"
Minh Anh, Hải Yên, Mai Ký
NXB Hồng Đức, năm 2008)
Phần 3. CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN
1. Thi nấu cơm
Trong dịp lễ hội, một số làng ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam có tổ
chức nấu cơm thi. Cuộc thi nấu cơm ở từng nơi có những luật lệ, nét đặc
trưng riêng như nấu cơm trên thuyền, vừa nấu cơm vừa trông trẻ, vừa đi vừa
nấu cơm... Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số cuộc thi nấu cơm đặc sắc.
Thi nấu cơm ở hội Thị Cấm (Từ Liêm - Hà Nội)
Cuộc thi nhằm diễn lại tích của Phan Tây Nhạc, vị tướng thời vua Hùng
thứ 18, đã rèn luyện cho quân sĩ thực hành nhiều cách thức tồn tại trong các
điều kiện khó khăn một cách thành thạo, trong đó có việc nấu cơm.
Thể lệ cuộc thi: Ban tổ chức cho chuẩn bị trước củi, nhưng chưa có
lửa, chưa có nước. Các đội phải xay thóc thành gạo, tạo ra lửa, đi lấy nước
về nấu cơm. Cuộc thi có ba bước: thi làm gạo, tạo lửa, lấy nước và nấu cơm.
Mỗi nhóm 10 người (cả nam và nữ) gọi là các giáp(1), họ tự xay thóc,
giã gạo, dần sàng, lấy lửa, lấy nước và nấu cơm.
Bước 1, thi làm gạo: Sau hồi trông lệnh, các đội đổ thóc vào xay, giã,
dần sàng. Giáp nào có được gạo trắng trước nhất là thắng cuộc.
Bước 2, thi tạo lửa và lấy nước: Lấy lửa từ hai thanh nứa già cọ vào
nhau (đây cũng là khâu khó nhất), áp bùi nhùi rơm khô vào cho bén lửa.
Người có nhiệm vụ lấy nước phải lấy cách đó khoảng 1km, nước chứa sẵn
vào 4 cái be bằng đồng, đợi người đến lấy mang về. Giáp nào tạo được lửa
trước và lấy nước về đích trước thì giáp đó thắng cuộc.
Bước 3, nấu cơm: Giáp nào thổi được cơm chín dẻo, ngon và xong
trước thì thắng cuộc. Cơm của giáp đó được dùng để cúng Thần.
Thi nấu cơm ở hội làng Chuông (Hà Nội)
Cuộc thi dành cho nữ giới: Người dự thi thực hiện trong một vòng tròn
đường kính l,5m. Quy ước là vừa nấu cơm vừa phải giữ một đứa trẻ chừng 7
- 8 tháng tuổi (không phải là con đẻ của người dự thi) và canh chừng một con
cóc không để nó nhảy ra khỏi vòng tròn. Lửa lấy từ bùi nhùi rơm, nhóm củi,
đặt bếp, trông đứa trẻ không được khóc và con cóc ngồi yên trong vòng tròn.
Thời gian là cháy hết một nén hương. Cơm chín trước, dẻo ngon hơn là
người thắng cuộc.
Cuộc thi dành cho nam giới: Bếp đặt sẵn bên bờ một cái ao hay bờ
đầm. Mỗi người dự thi một bếp. Sau hồi trống lệnh, các chàng trai bước
xuống một cái thuyền nan, bơi bằng tay sang bờ bên kia, áp thuyền vào bờ và
thực hiện hết thảy các việc trên thuyền trong lúc nó đang bồng bềnh. Tay ướt
vẫn phải đánh lửa, nấu nấu và giữ thuyền ổn định. Ai nấu được nồi cơm thơm
dẻo ngon, xong trước là người thắng cuộc.
Thi nấu cơm ở hội Từ Trọng (Hoàng Hóa - Thanh Hóa)
Người dự thi ngồi trên thuyền thúng tại một đầm rộng, lộng gió. Mỗi
người một thuyền, kiềng, rơm ẩm, bã mía tươi... Sau hiệu lệnh, các thí sinh
đưa thuyền rời bờ ra giữa đầm. Thuyền bồng bềnh, gió lộng, củi lửa lại khó
cháy, thậm chí có lần còn có mưa phùn gió bấc. Kết thúc cuộc thi ai có nồi
cơm hoặc chõ xôi chín dẻo, ngon là người thắng cuộc.
Thi nấu cơm ở hội Hành Thiện (Nam Định)
Mỗi nhóm hai người, xếp thành hàng ngang. Một người buộc cành tre
dài, dẻo dọc theo sống lưng ngọn cao hơn đầu, niêu đất có sẵn gạo và nước
để nấu cơm treo trên ngọn cần hướng về phía trước, người kia lo củi lửa và
đun nấu.
Sau hiệu lệnh, người nấu phải tạo lửa từ hai thanh nứa già, sau đó
châm lửa vào cây đuốc hơ dưới đáy niêu cơm. Cả hai người đều cùng phải
bước đi quanh sân đình. Hết tuần hương là lúc kết thúc cuộc thi. Nhóm nào
có cơm chín dẻo, ngon là nhóm thắng cuộc.
2. Đánh quay
Đánh quay là trò chơi dành cho nam giới, chia thành nhóm từ 2 người
trở lên, nếu đông có thể chia thành nhiều nhóm. Một người cũng có thể chơi
quay, nhưng nếu chơi nhiều người và có nhiều người ở ngoài cổ vũ thì sẽ sôi
nổi và hấp dẫn hơn nhiều.
Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt.
Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh
cho quay tít. Con quay của ai quay lâu nhất là người thắng cuộc. Có thể dùng
một con quay khác bổ vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ
của con quay đó được nhất.
3. Chơi chuyền
Trò chơi dành cho nữ giới: Số người chơi 2 - 5 người. Đồ chơi gồm có
10 que nhỏ và một quả tròn nặng (quả cà, quả bòng nhỏ...).
Cầm quả ở tay phải tung lên không trung và nhặt từng que. Lặp lại cho
đến khi quả rơi xuống đất là mất lượt. Chơi từ bàn 1 (lấy một que một lần
tung) bàn 2 (lấy hai que một lần) cho đến 10, vừa nhặt quả chuyền vừa hát
những câu thơ phù hợp với từng bàn. "Một mốt, một mai, con trai, con hến,...
Đôi tôi, đôi chị... Ba lá đa, ba lá đề..." Hết bàn mười thì chuyền bằng hai tay:
chuyền một vòng, hai vòng hoặc ba vòng... và hát: "Đầu quạ, quá giang, sang
sông, trồng cây, ăn quả, nhả hột..." khoảng 10 lần là hết một bàn chuyền, đi
liền mấy ván sau và tính điểm được thua theo ván.
Nếu người chơi không nhanh tay, nhanh mắt sẽ không bắt được quả và
que cùng một lúc sẽ bị mất lượt, lượt chơi sẽ chuyển sang người bên cạnh.
Chơi chuyền làm người ấm lên và rất vui. Thường trong suốt mùa hè
hoặc mùa thu, các cô gái nhỏ chơi chuyền ở khắp mọi nơi, dưới bóng cây hay
ở sân nhà...
4. Thả diều
Diều sáo là một trò chơi phổ biến ở Việt Nam. Hàng năm ở một số vùng
có tổ chức cuộc thi diều sáo như trong hội đền Hùng ở thôn cổ Tích, Lâm
Thao, Phú Thọ. Đây là những chiếc diều thật lớn, bề ngang có khi đến một sải
rưỡi tay và có mang một hoặc nhiều chiếc sáo.
Khung diều làm bằng cật tre, giấy phất vào diều bằng gậy. Diều thả
bằng dây mây hay dây thép nhỏ. Sáo diều có 3 loại chính phân theo tiếng
kêu: sáo cồng, tiếng kêu vang như tiếng cồng thu quân; sáo đẩu, tiếng kêu
than như tiếng than; sáo còi, tiếng kêu the thé như tiếng còi.
Thi diều sáo, ban giám khảo có thể chấm theo tiếng sáo, nhưng trước
tiên bao giờ cũng phải xem diều có lên bổng, dây diều căng hay võng, nhất là
lúc ở trên không diều có lắc lư đảo ngang, đảo dọc hay không.
5. Ô ăn quan
Vẽ một hình chữ nhật được chia đôi theo chiều dài và ngăn thành 5
hàng dọc cách khoảng đều nhau, ta có được 10 ô vuông nhỏ. Hai đầu hình
chữ nhật được vẽ thành 2 hình vòng cung, đó là 2 ô quan lớn đặc trưng cho
mỗi bên, đặt vào đó một viên sỏi lớn có hình thể và màu sắc khác nhau để dễ
phân biệt hai bên, mỗi ô vuông được đặt 5 viên sỏi nhỏ, mỗi bên có 5 ô.
Hai người hai bên, người thứ nhất đi quan với nắm sỏi trong ô vuông
nhỏ tùy vào người chơi chọn ô, sỏi được rãi đều chung quanh từng viên một
trong những ô vuông cả phần của ô quan lớn, khi đến hòn sỏi cuối cùng ta
vẫn bắt lấy ô bên cạnh và cứ thế tiếp tục đi quan (bỏ những viên sỏi nhỏ vào
từng ô liên tục). Cho đến lúc nào viên sỏi cuối cùng được dừng cách khoảng
là một ô trống, như thế là ta chặp ô trống bắt lấy phần sỏi trong ô bên cạnh để
nhặt ra ngoài. Vậy là những viên sỏi đó đã thuộc về người chơi đầu tiên, khi
đó đối phương mới được bắt đầu lượt chơi của mình.
Đến lượt đối phương đi quan cũng như người đầu tiên, cả hai thay
phiên nhau đi quan cho đến khi nào nhặt được phần ô quan lớn và lấy được
hết phần của đối phương cuộc chơi có thể phân thắng bại.
Hết quan tàn dân, thu quân kéo về. Hết ván, bày lại như cũ, ai thiếu
phải vay của bên kia. Tính thắng thua theo nợ các viên sỏi. Quan ăn 10 viên
sỏi.
Cách chơi ô ăn quan thoáng nhìn thì rất đơn giản nhưng để thắng cuộc
thì người chơi phải giỏi việc tính toán để đối phương phải thua cuộc vì không
còn quan (sỏi) bên phần mình để tiếp tục cuộc chơi...
6. Mèo đuổi chuột
Trò chơi gồm từ 7 đến 10 người. Tất cả đứng thành vòng tròn, tay nắm
tay, giơ cao lên qua đầu. Rồi bắt đầu hát.
Mèo đuổi chuột
Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Mèo chạy đằng sau
Thế rồi chú chuột lại đóng vai mèo
Co cẳng chạy theo, bác mèo hóa chuột.
Một người được chọn làm mèo và một người được chọn làm chuột. Hai
người này đứng vào giữa vòng tròn, quay lưng vào nhau. Khi mọi người hát
đến câu cuối thì chuột bắt đầu chạy, mèo phải chạy đằng sau. Tuy nhiên mèo
phải chạy đúng chỗ chuột đã chạy. Mèo thắng khi mèo bắt được chuột. Rồi
hai người đổi vai trò mèo, chuột cho nhau. Trò chơi lại được tiếp tục.
7. Rồng rắn lên mây
Một người đứng ra làm thầy thuốc, những người còn lại sắp hàng một,
tay người sau nắm vạt áo người trước hoặc đặt trên vai của người phía
trước. Sau đó tất cả bắt đầu đi lượn qua lượn lại như con rắn, vừa đi vừa hát:
Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không?
Người đóng vai thầy thuốc trả lời:
- Thấy thuốc đi chơi! (hay đi chợ, đi câu cá, đi vắng nhà... tùy ý mà chế
ra). Đoàn người lại đi và hát tiếp cho đến khi thầy thuốc trả lời:
- Có!
Và bắt đầu đối thoại như sau: Thầy thuốc hỏi:
- Rồng rắn đi đâu?
Người đứng làm đầu của rồng rắn trả lời:
- Rồng rắn đi lấy thuốc để chữa bệnh cho con.
- Con lên mấy?
- Con lên một
- Thuốc chẳng hay
- Con lên hai.
- Thuốc chẳng hay.
Cứ thế cho đến khi:
- Con lên mười.
- Thuốc hay vậy.
Kế đó, thì thầy thuổc đòi hỏi:
- Xin khúc đầu.
- Những xương cùng xẩu.
- Xin khúc giữa.
- Những máu cùng me.
- Xin khúc đuôi.
- Tha hồ mà đuổi.
Lúc đó thầy thuốc phải tìm cách làm sao mà bắt cho được người cuối
cùng trong hàng.
Người đứng đầu phải vừa dang tay vừa chạy để ngăn cản thầy thuốc
bắt được cái đuôi của mình, trong lúc đó cái đuôi phải linh hoạt và tìm cách né
tránh thầy thuốc. Nếu thầy thuốc bắt được người cuối cùng thì người đó phải
ra thay làm thầy thuốc.
Nếu đang chơi dằng co giữa chừng, mà rồng rắn bị đứt ngang thì tạm
ngừng để nối lại và tiếp tục trò chơi.
8. Ném còn
Với người Việt cổ xưa, trò chơi này thường dành cho giới nữ, con nhà
quý phái, xưa kia là các mỵ nương, con gái Lạc hầu, Lạc tướng. Đối với các
dân tộc Mường, Tày, Mông, Thái... ném còn là trò chơi mang tính tín ngưỡng
sâu sắc, và là trò hấp dẫn nhất của trai gái trong dịp hội xuân.
Quả còn hình cầu to bằng nắm tay trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi
vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông
cho sợi dệt vải). Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và có tác dụng
định hướng trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây
tre (hoặc vầu) cao, trên đỉnh có vòng còn hình tròn (khung còn), khung còn
một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu
tượng cho mặt trăng). Cả mặt giấy là biểu tượng cho sự trinh trắng của người
con gái. Người chơi đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua
vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc.
Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy mo dâng hai quả còn làm lễ
giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm.
Sau phần nghi lễ, để khai cuộc chơi ném còn năm đó, thầy mo cầm hai quả
còn đã được "ban phép" tung lên cho mọi người tranh cướp. Các quả còn
khác của các gia đình lúc này mới được tung lên như những con chim én.
Trước khi khép hội, thầy mo rạch "quả còn thiêng" (đã được ban phép)
lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày
quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã
được truyền hơi ấm của những bàn tay nam - nữ (âm - dương).
Ném còn làm cho người trong cuộc hào hứng, người đứng ngoài hò reo
cổ vũ khiến không khí cuộc chơi rất sôi nổi, hấp dẫn. Ném còn là trò chơi
không những thu hút nam nữ thanh niên mà nhiều người lớn tuổi cũng rất
thích. Trò vui này mang ý nghĩa phồn thực sâu sắc, cầu mong giao hoà âm -
dương, mùa màng tươi tốt.
9. Thi thơ
Hàng năm, ở một số vùng có tổ chức hội thi thơ như ở Hoa Lư (Ninh
Bình) và Yên Đổ (Hà Nam).
Vùng Hoa Lư, Ninh Bình, có phong cảnh nên thơ, hùng vĩ. Bởi thế hàng
năm nhân ngày hội đền vua Đinh dân làng thường mở hội thi thơ. Hội thi
nhằm giữ gìn nếp xưa và khuyến khích dân chúng nghiên cứu văn học. Hội
thi không dành riêng cho dân sở tại mà còn cho tất cả những ai văn hay chữ
tốt, muốn được tranh tài.
Đề thơ tuỳ ban tổ chức lựa chọn. Giải thưởng thường chỉ được mấy
vuông nhiễu điều, gói chè, mươi quả cau. Những người tham gia thi vì yêu
thơ văn hơn là giải thưởng. Hàng năm có 3 giải thưởng cho cuộc thi này
tương ứng với nhất - nhì - ba, vì ban giám khảo gồm các thi sỹ nổi tiếng trong
vùng. Có khi ban tổ chức mời cả những bậc đại khoa có danh chấm giải.
Ngày xưa, thường vị tuần phủ chủ tỉnh làm chủ khảo chấm thơ.
Khác với vùng Hoa Lư (Ninh Bình) làng Yên Đổ (Hà Nam) lại tổ chức
cuộc thi thơ vào 24 tháng Chạp, nhân phiên chợ Đồng..
Buổi sáng hôm đó, cuộc thi văn thơ đã được các bô lão trong làng tổ
chức tại ngôi đình cạnh chợ. Văn sĩ khắp nơi đến tụ tập ở Tưởng Đền để dự
cuộc thi thơ. Các vị khoa mục làng Yên Đổ và các làng gần đó làm giám khảo.
Thí sinh nào trúng giải thưởng sẽ được hoan hô và được ban thưởng phần
thưởng rất hậu. Thật là cuộc thi tao nhã và hào hứng với mục đích khuyến
khích thí sinh dùi mài kinh sử, tranh ngôi đoạt giáp sau này.
Sau cuộc thi, những người trúng giải được nếm rượu ở Tưởng Đền
cùng với các bô lão trong làng.
10. Thi dưa hấu
Làng Thổ Tang huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, có tục thi dưa hấu. Vào
khoảng thượng tuần tháng ba âm lịch hàng năm, hội đồng kỳ mục họp với các
bô lão để quyết định ngày hái dưa, gọi là ngày xuống đồng, thường là ngày
25 tháng ba.
Từ 5 giờ sáng ngày xuống đồng, trống mõ và tù và báo hiệu khắp làng.
Nghe tiếng báo hiệu, các gia đình mới ra ruộng hái dưa. Nếu ai tự hái trước
sẽ bị phạt rất nặng, nếu là chủ ruộng, làng phạt tiền, còn nếu là kẻ trộm, làng
sẽ cùm ngay trước sân đình. Dưa hái xong các chủ điền đích thân chọn
những quả dưa già, to đen ra trình làng. Tại đây hội đồng giám khảo sẽ xét
dưa theo các tiêu chuẩn: giống tốt, đẹp mã, già, đầy đặn, bổ ra đỏ tươi vàng
lại nhiều cát. Có hai đợt chấm thi dưa: đợt một, chọn những quả dưa đẹp,
dưa già, đầy đặn, đợt hai đưa lên cân. Dưa được xếp thành hạng nhất và
hạng hai.
Dưa hạng nhất được rửa sạch cúng thần ở đình, tên chủ dưa được
loan truyền cho dân làng rõ. Dân làng tin rằng, chủ điền nào có dưa được
chọn cúng thần, ngoài vinh dự ra, cả năm đó sẽ làm ăn phát đạt.
11. Thi thả chim
Bồ câu là loài chim có khả năng định hướng tốt, dù xa nhà cũng tìm
được về tổ ấm trừ khi gặp gió bão, chúng có tính hợp quần cao, sống theo
đàn, chung thuỷ và nghĩa tình.
Trên thế giới bồ câu được coi là biểu tượng cho hoà bình - tự do nên
thường được gọi là chim Hoà bình, ở Việt Nam, từ lâu, ông cha ta đã sáng
tạo một lối chơi dân gian tao nhã: thi thả chim bồ câu. Tương truyền, thú chơi
này xuất hiện từ thời Lý.
Hàng năm có đến hàng chục hội thi thả chim câu thường được tổ chức
vào hai mùa: mùa hạ (tháng 3 - 4 âm lịch) và mùa thu (tháng 7 - 8 âm lịch).
Khu vực trung tâm hội thi thuộc châu thổ sông Hồng kéo dài từ 2 bên bờ sông
Đuống đến một số địa phương như: Đa Phúc, Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm,
Tiên Sơn, Yên Phong. Hội thi còn diễn ra ở một số nơi phía Tây Hà Nội như
Tây Tựu, Đan Phượng, Hoài Đức.
Từ xưa các cụ đã định ra tiêu chuẩn thi thả chim câu bay rất nghiêm
ngặt, cả đàn bay chặt chẽ, cự ly đều, không tách rời đàn, vòng lượn hẹp và
tròn, bay cao, trụ hướng thẳng đứng lên. Khi mắt thường nhìn lên thấy cả đàn
chụm thành một vòng tròn nhỏ nhưng không thấy vỗ cánh rồi tìm hướng bay
về tổ. Lúc đó đàn chim được vào "trông thượng" để xét giải.
Thi thả chim là một thú chơi lành mạnh thanh nhã lúc nông nhàn, hội hè
đình đám, thể hiện khát vọng của tự do, ca ngợi đức tính của đoàn kết, chung
thuỷ của con người Việt Nam. Đã trải qua mấy trăm năm lịch sử, trò chơi này
vẫn cuốn hút nhiều người ở mọi lứa tuổi tham gia.
12. Hất phết
Tương truyền trò này có từ thời Hai Bà Trưng, đây là môn rèn luyện thể
lực cho nữ quân.
Quả phết to bằng quả bưởi, bằng gỗ đẽo tròn, có nơi sơn son để thờ ở
đình, vào hội mới đưa ra chơi. Gậy đánh phết bằng gộc tre đào cả củ, dài
khoảng 1m, gọt nhẵn hết rễ nhưng để nguyên củ tre phình ra dưới gốc.
Số người chơi chia làm hai phe bằng nhau. Sân phết vạch chia đôi,
giữa sân vẽ một vòng tròn, là nơi đặt quả phết khi vào cuộc.
Cuối hai bên sân đều đào một hố to lọt quả phết. Lối chơi gần giống
môn khúc côn cầu.
Mỗi bên dùng gậy phết hất quả phết về phía sân đối phương sao cho
lọt xuống hố là thắng. Như vậy phải vừa dẫn phết, vừa lừa đối thủ, vừa tránh
họ phang vào phết, không để họ cướp được quả phết.
Ở lang Phù Đổng, sân phết chỉ có một hố, người chơi chia làm hai phe;
một phe bảo vệ hố không cho bên kia đưa phết vào hố; một phe tìm cách lừa
đối phương đưa phết từ xa bật đến sát hố để đẩy vào. Hễ thắng là hết ván,
đổi phiên giữa hai phe đánh tiếp.
Trong lễ hội làng Đông Đồ (nay thuộc xã Nam Hồng - Đông Anh - Hà
Nội) có hất phết thành lệ từ xa xưa. Trai làng dùng gậy hất phết đưa từ sân
đình ra đến cổng cầu rồi lại hất đưa phết quay trở về. Người đưa, người dẫn,
người chặn hai bên để phết không rơi xuống ruộng.
Hội đền Linh Lang (Voi Phục) xưa cũng có trò chơi hất phết.
Triều Lý - Trần, vua, quan cũng tổ chức hất phết trong dịp đầu xuân,
mỗi đội 12 người, mặc sắc phục khác nhau, cưỡi ngựa cầm gậy hất phết lăn
vào hố bên nào là bên ấy thua. Cạnh hố có để một giá cờ. Cứ mỗi bàn thắng,
bên đội thắng được cắm một lá cờ. Trọng tài dùng trống cái làm hiệu lệnh.
Lúc đầu, phết chỉ dành cho phái nữ. Nam muốn chơi phải mặc giả nữ.
Sau ai chơi cũng được.
13. Vật cầu
Tương truyền đây là môn thể thao dân gian do tướng quân Phạm Ngũ
Lão sáng tạo ra để rèn luyện thể lực cho quân sĩ, thời nhà Trần chống quân
Nguyên Mông.
Vật cầu còn gọi vật cù. Quả cầu (cù) làm bằng gỗ sơn đen hoặc đỏ, có
nơi làm bằng quả bưởi to hoặc gọt bằng gốc chuối. Sân chơi có vạch ngang ở
giữa, hai đầu đào hai hố sâu lọt quả cầu. Số người chơi không hạn chế, chia
làm hai đội bằng nhau, mỗi bên thắt lưng một màu khác (bên đỏ, bên xanh).
Cầu đặt ở chính giữa vạch. Hai bên dàn quân. Nghe xong lệnh xướng,
xô vào cướp cầu bằng tay, tung chuyền cho đồng đội đưa về bên sân đối
phương, ném xuống hố là thắng. Trong lúc hai đội giao tranh có trống thúc
ngũ liên cổ vũ.
Có thể dùng mọi cách để tranh cướp cầu về phe mình, sau khi đã cướp
được cầu, đồng đội phải ra sức bảo vệ người đã ôm được cầu và giúp người
này di chuyển về hố đối phương hoặc tung ra ngoài vòng vây để người khác
dẫn tiếp.
Hội làng Xuân Dục (huyện Sóc Sơn, Hà Nội), Thúy Lĩnh (Thanh Trì, Hà
Nội) có trò vật cầu.
Còn ở Hội Chi Nam - thôn Sen Hồ, xã Lệ Chi, (Gia Lâm) có trò chơi
cũng giống như vật cầu. Người chơi chia hai phe, mình trần; một bên khố đỏ,
bao vàng; một bên khố xanh, bao trắng.
Hai bên "đánh quân" bằng vật và đấu gậy cho đến lúc quân địch (khố
xanh, bao trắng) bị thua. Ông đám đội từ đình ra một chiếc mâm son trên bày
quả dừa. Ông trịnh trọng đặt quả dừa lên ngọn cây tre trồng giữa sân. Ngọn
tre đã chẻ sẵn làm tư để cặp chặt lấy quả dừa. Nghe trống lệnh, trai bao vàng
xô lại rung cây tre cho quả dừa rơi xuống, rồi chen nhau để cướp lấy quả
dừa. Ai cướp được, tôn là "tông" được ngồi ăn cỗ với già làng ở chiếu nhất.
Còn quả dừa đập nát chia cho các trai dự trò chơi mỗi người một mảnh con
lấy lộc may.
14. Ném giỏ
Giỏ tre đan mắt cáo, đường kính 2 - 3 gang tay, buộc vào đầu cây tre
cao cỡ 3m, chôn chặt ở sân đình làm cột. Trồng một hoặc hai cột cùng chơi.
Quả ném bằng bưởi.
Người chơi đứng xếp hàng dọc trước cột. Từng người ném tung quả
bưởi vào giỏ. Mỗi người được ném 3 - 5 lần theo quy định. Rơi xuống đất
được nhặt ném tiếp cho đến hết số lượt. Khi quả bưởi lọt vào giỏ là thắng.
Không vào giỏ, hết lượt ra cho người đứng sau lên chơi.
Nếu chơi hai cột thì lập hai đội, số người ngang nhau. Đội nào ném
bưởi vào giỏ trước là được cuộc.
Trò chơi ném giỏ xưa tổ chức ở hội làng Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp)
huyện Gia Lâm, Hà Nội.
15. Đấu gậy bảy
Gọi gậy bảy vì độ dài của cây gậy trong trò chơi bằng tre hoặc bằng gỗ
bào tròn sơn son, đều có độ dài bảy thước ta (tương đương 2,8m). Cứ hai
người đương sức nhau thành một cặp chơi. Một người dùng gậy đánh, một
người tay không đỡ. Cả hai mặc áo võ sĩ, thắt lưng gọn ghẽ, đầu chít khăn
buộc múi phía sau. Vạch vôi một vòng tròn đường kính 5 - 6m làm sàn đấu.
Vào cuộc, võ sĩ cầm gậy bằng hai tay, nhúng 2 đầu gậy vào vôi bột, để
nếu đánh trúng đối phương còn dấu tích trên áo họ, rồi múa gậy vài lượt
giống như xe đài khi đấu vật.
Trống ngũ liên nổi lên. Võ sĩ cầm gậy lúc đánh dứ, lúc tạt ngang gậy,
tìm cách đưa đầu gậy chạm vào mình võ sĩ đỡ.
Người đỡ có thể túm lấy gậy, đẩy lùi đối phương ra ngoài vòng. Người
đánh tìm cách không để bị túm gậy, lừa đánh trúng hoặc tạt gậy làm đối
phương phải nhảy tránh bắn ra ngoài vòng.
Ai bị gậy đánh trúng người để lại vết vôi hoăc ra ngoài vòng là thua.
Trọng tài gõ một tiếng cắc vào tang trống báo hết hiệp. Cuộc chơi có thể
nhiều hiệp do từng nơi quy định. Hiệp sau đổi lại vị trí người chơi.
Đấu gậy có ở nhiều hội làng như Đại Lan (Thanh Trì), Lệ Chi (Gia Lâm,
Hà Nội).
16. Đánh roi múa mộc (khiên)
Roi bằng tre vót nhẵn, đầu vuốt nhỏ để có độ dẻo lúc ra roi, đầu roi bịt
vải đỏ để dễ nhận thấy.
Mộc đan bằng tre, sơn đỏ có thể hình tròn hoặc hình chữ nhật góc vạt
tròn.
Hai đấu thủ tay cầm roi, tay cầm mộc vừa đánh, vừa đỡ.
Phải đánh vào vai và vào sườn mới được tính điểm. Không được đánh
vào đầu, vào mặt nhau. Tương truyền con gái làng Mễ Trì (Từ Liêm) có tiếng
giỏi võ. Ca dao Hà Nội cổ còn có câu:
"Ai về Kẻ Mễ mà coi
Con gái cũng giỏi múa roi, đánh quyền".
Trong hội làng Đông Dư (Gia Lâm, Hà Nội) có trò đấu võ, đánh roi múa
mộc cũng là một mục của cuộc đấu.
17. Thi nâng
Nâng cây phan ở hội làng Ninh Giàng (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia
Lâm, Hà Nội). Cây phan được bó bằng 50 -100 cây tre đực nguyên cây, trong
đó có một cây cao nhất để buộc cờ hiệu.
Các giáp cử một số thanh niên bằng nhau, đều là trai chưa vợ khỏe
mạnh, mỗi người trang bị một gậy tre đực dài 1m.
Khi hiệu lệnh nổi lên, tất cả dùng gậy tre nâng cây phan đặt lên phản đá
rồi cùng tác động xoay cây phan quay nhiều vòng, quay càng nhanh thì cờ
hiệu càng tung bay phất phới là năm ấy làm ăn tốt, dân làng thịnh vượng, các
trai dự chơi đều được thưởng.
Nếu cây phan không quay tít, cứ xoay ì ạch, cờ hiệu không bay là điềm
năm ấy làm ăn khó khăn, đội chơi bị phạt không có thưởng.
18. Thi chạy
Một trong những trò chơi rèn thể lực ở hội ba làng Thạch Cầu, Cự Linh,
Ngô thôn (làng Ngò) nay đều thuộc xã Thạch Bàn (Gia Lâm, Hà Nội) theo tục
lệ có ba trò là:
Làng Cầu đuổi lợn
Làng Cự kéo co
Làng Ngò chạy ngựa.
"Chạy ngựa" của làng Ngò chính là cuộc thi chạy. Trò chơi chạy tổ
chức vào hai buổi sáng trong hội làng mùa xuân đầu tháng hai. Thời gian kéo
dài suốt hai giờ ta, từ giờ Tỵ đến hết giờ Ngọ (theo giờ Tây là từ 9 đến 13
giờ).
Đường chạy do làng quy định, phải từ làng Ngò qua làng Cự, làng Cầu
cho đến sát cánh đồng làng Vo (xã Hội Xá) mới quay trở lại, chạy về đích là
sân đình làng.
Phải chọn những quãng đường mấp mô, khúc khuỷu, nhiều khúc ngoặt,
có khi lội qua ao, qua hào, vượt rào để thử thách ý chí người dự thi chạy.
Đường chạy có người giám sát để không được chạy tắt, tránh qua chỗ khó
khăn.
Ai về đích trước sân đình đầu tiên được giải của làng, năm ấy có nhiều
may mắn.
19. Đánh quân - chạy cờ
Nhiều nơi có tục này như một trò chơi trong hội làng, mỗi nơi có những
chi tiết khác nhau ở hình thức hoặc tính chất, nhưng tựu trung đều là một
cách luyện quân, đánh trận giả.
Ở làng Triều Khúc (Thanh Xuân, Hà Nội) gọi là "chạy cờ". Tráng binh
chia làm hai đội, mỗi đội 20 người, mặc trang phục binh sĩ thời trước, thắt
lưng khác màu. Người cầm cờ hiệu, người cầm đao, gậy hoặc những vũ khí
khác. Nghe hiệu lệnh trống, từ sân đình, họ tỏa ra hai ngả theo đường vòng
cung và gặp nhau giao chiến, đánh trận giả ở giữa cánh đồng cho tới khi có
trống chiêng thu quân, lại quay về đình.
Hội làng Vĩnh Ninh (nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì), làng Chi
Nam (xã Lệ Chi, Gia Lâm) đều có trò giao chiến hai bên "địch, ta" đánh lẫn
nhau bằng tay chân, võ vật, có lúc cả bằng gậy gộc, ném đất vào nhau. Xong
trận, lại vui vẻ chung mâm hưởng lộc Thánh. Ở làng Đại Lan (Thanh Trì) chỉ
đấu gậy. Vùng Kẻ (Từ Liêm) có hội tập trận đánh quân của bốn làng: làng
Đống Ba, làng Hạ Trì, làng Tây Đam và làng Thượng Cát. Trò luyện quân rất
náo động có chiêng, trống, mõ, tù và truyền hiệu lệnh và đốc quân. Ngạn ngữ
vùng này còn có câu: "Chiêng thôn Đống, trống Hạ Trì, mõ Tây Đam, tù và
Thượng Cát".
20. Đấu vật
Thăng Long - Hà Nội là một vùng đất nổi tiếng về truyền thống đấu vật
từ xa xưa. Thời Hai Bà Trưng có đô Chinh làng Mai Động, sau thành tướng
giỏi luyện quân theo Hai Bà đánh giặc. Ông được coi như Thủy tổ của môn võ
này. Đô Tu ngươi Thanh Liệt sau làm tướng cho vua Lý Nam Đế xuất thân từ
lò vật Quỳnh Đô (Thanh Trì). Huyện Đông Anh cũng có nhiều lò vật nổi tiếng
như Cổ Loa, Dục Tú, Nam Hồng... huyện Từ Liêm có lò Mễ Trì, Gia Lâm có
Văn Đức, Đông Dư. Hội đấu vật lớn nhất là ở Mai Động vào mùng 4 đến
mùng 6 Tết.
Sới vật thường ở trước sân đình. Hai bên trải chiếu hoa để các đô vật
lễ Thần trước khi đấu. Quanh sân cắm cờ ngũ hành. Hai trống cái do già làng
cầm trịch, đánh ba tiếng một, điều khiển trận đấu. Lại cử ba người tuần, một
người đánh trống bưng thúc lúc đang vật, cổ vũ đua tài, hai người cầm cờ
đuôi nheo nhỏ phất hiệu vật. Các đô vật đều cởi trần, đóng khố.
Vật có nhiều giải. Giải thờ hoặc giải hàng là để mở đầu cuộc đấu, khảo
sức nhau, thăm dò, biểu diễn để phô trương thanh thế là chính. Keo vật lấy
vui, lấy đẹp, vờn nhau, không gay go, quyết liệt như khi đấu giải chính.
Lệ vật, muốn thắng phải nhấc bổng đối phương lên khỏi mặt đất, gọi là
"bốc", hoặc vật ngã ngửa "lấm lưng, trắng bụng", nếu chỉ mới ngã sấp thì
chưa thua. Bên gặp tình thế này thường nằm bò áp đất, lừa địch thủ từng
miếng không để họ bốc lên, chân rời đất hoặc lật ngửa ra.
Đấu giải thường từ giải ba lên dần đến giải nhất. Mỗi giải đều có người
đứng ra giữ. Người giữ phải thắng hơn người phá giải một keo theo quy ước
chung là: giải ba trong bốn, ngoài ba; giải nhì trong năm, ngoài bốn; giải nhất
trong sáu, ngoài năm. Người giữ giải phải thắng sáu keo mới đoạt giải nhất,
còn người phá giải chỉ cần thắng liền năm keo là được.
Vào sới vật, hai đô bao giờ cũng mở đầu bằng "xe đài", múa tay, di
chuyển chân uyển chuyển rồi mới lựa thời cơ ra miếng hạ đối thủ. Có nhiều
miếng nghề như: ngáng, đệm, cuốn chỉ, ra ràng, bắt bò, nhoài, xốc, bốc, đội...
Nhưng trong cuộc đấu nghiêm cấm đánh hiểm như móc hàm, móc nách, móc
xương quai sanh hoặc nắm tóc nhau.
Đấu vật luôn tạo ra không khí hào hứng, sôi nổi, tiếng cổ vũ reo hò âm
vang cùng tiếng trống thúc giòn giã. Các đô vật mồ hôi nhễ nhại, nổi cuồn
cuộn những bắp thịt săn chắc. Đấu vật vừa đọ sức, vừa đọ trí, không thể chỉ ỷ
lại vào thế mạnh, có khi bị đối thủ nhẹ cân hơn lừa miếng đánh phơi trắng
bụng.
21. Kéo co
Đây là trò chơi luyện sức và thể hiện ý chí đoàn kết tập thể lại dễ chơi,
thường được tổ chức trong các hội làng với nhiều hình thức. Nổi tiếng trong
vùng Thăng Long xưa là hội kéo co làng Cự (tức Cự Linh, nay là thôn Ngọc
Trì, xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội)
Dây kéo có thể dùng dây song, dây chão to (dây thừng bền chắc) bằng
tre hoặc đay, thậm chí dùng cả cây tre để kéo. Cũng có lúc không có dụng cụ
thì hai người đầu dây nắm chặt cổ tay nhau để cả dây ôm lưng nhau cùng
kéo. Người chơi chia làm hai phe đều nhau, đối mặt theo một hàng dọc, theo
lệnh hiệu cờ cùng kéo về bên mình.
Chính giữa dây kéo được buộc đánh dấu bằng túm vải đỏ, đặt trên
vạch vôi phân ranh giới giữa hai phe. Nếu bên nào lôi được túm vải đỏ dịch
sang địa phận của mình là thắng. Lúc đã chuyển nhích được một ly là có cơ
dồn lực lôi tuột dây về phía mình làm đối phương mất đà ngã chồng lên nhau.
Phe nào có người tuột tay ngã ngửa cũng bị thua. Mỗi hiệp khoảng 10 - 15
phút, không phân thắng bại, trọng tài phất cờ cho nghỉ lấy lại sức rồi đấu tiếp.
Cuộc thi kéo co ở làng Cự do 48 tráng đinh có phẩm hạnh được các
giáp cử ra làm giai kéo, chia thành hai phe gọi là "Man đường" và "Man chợ"
đấu với nhau. Giai kéo đều cởi trần đóng khố điều. Dây kéo là một sợi song to
bằng cổ tay, nhẵn nhụi dài khoảng bốn chục sải tay. Dây luồn qua lỗ một cây
cột trụ to, chôn rất chắc xuống sân đình. Trước khi đấu dây song được nêm
chặt ở lỗ cột. Sau khi làm lễ, hai phe dàn đội hình. Các giai kéo ngồi một chân
co, một chân duỗi, xen kẽ người quay mặt bên này, người quay mặt bên kia
dây, một tay nắm dây duỗi thẳng cánh, một tay nắm dây co trước ngực lại còn
cặp dây vào dưới nách. Mỗi phe có một tổng cờ, mặc áo dài đỏ, khăn đỏ,
quần trắng, cầm cờ lệnh màu đỏ. Già làng cầm trịch phát lệnh bằng trống
khẩu. Nêm được tháo, tổng cờ phất hiệu cờ, miệng hô "í a, kéo!" rồi chạy lên,
chạy xuống đốc thúc giai kéo của phe mình.
Các cô, các bà người thân của bên nào thì dùng quạt quạt, lấy khăn lau
mồ hôi, cắt cam chanh đưa vào miệng cho người phe mình. Có người còn lấy
dầm chèo khoét đất ở dưới chân cho giai kéo có chỗ tì đạp.
Người kéo đầu dây phải vừa mạnh, vừa khôn ngoan, biết ghìm dây, lúc
cương, lúc nhu để đối phó với từng phút cao điểm dồn lực của bên kia.
Keo co xuất hiện trong rất nhiều lễ hội ở Việt Nam. Bởi lẽ đây vừa là trò
chơi thể hiện tinh thần đoàn kết vừa là môn thể thao rèn luyện sức khoẻ thú vị
mang lại niềm vui cho cộng đồng.
22. Đi cầu tre đốt pháo
Thuở xưa, ở làng Bồ Đề (Gia Lâm) có trò đi cầu tre đốt pháo. Một cây
tre bương to, dài 5m, phạt hết cành, đánh sạch mấu, chôn gốc sâu vào bờ,
lèn chặt, để thân cây tre nhô ra ao, nằm trên mặt nước 1 - 2 gang tay. Gần
đầu ngọn tre cắm một cây cọc, trên buộc một quả pháo.
Người dự thi nam nữ đều được ăn mặc gọn gàng, thắt lưng buông múi,
tay cầm một nén hương cháy. Nghe trống hiệu, người dự thi từ bờ bước
xuống cầu tre đi dần ra phía ngọn ở giữa ao. Cây tre tròn, bập bềnh, càng đi
ra xa càng bị chìm xuống dưới mặt nước, thân tre tròn, trơn nước dễ ngã. Có
ngã cũng phải cố giơ cao nén hương để không bị tắt mới có thể lội vào bờ đi
lại.
Ra đến múp đầu cây tre, người đã ngập nước đến đầu gối, phải dang
tay giữ thăng bằng, một tay níu lấy chiếc cộc, một tay châm ngòi pháo. Có khi
đi được đến đích thì không sao, nhưng khi châm pháo nổ, lại giật mình ngã
xuống nước. Tuy bị ướt hết, nhưng vẫn đoạt giải, có điều nếu ai châm pháo
xong, người vẫn khô được giải cao hơn. Ngày nay, trò này không được chơi
với hình thức nguyên bản nữa mà phải thay đổi chút ít, vì Nhà nước đã có
chủ trương cấm đốt pháo để bảo vệ sự an toàn cho nhân dân.
Ở vùng Bưởi, nhiều làng giấy cũng có trò đi cầu mai cũng tương tự như
trò đi cầu tre. Cách làm cầu có khác. Đóng ba cọc tre ở giữa ao đầy nước,
một cọc ở trên bờ. Cột một cây tre bương to nối hai điểm cọc. Ngọn tre cột
chặt vào ba cọc giữa ao. Gốc tre trong bờ buộc lỏng lẻo để cây tre có thể
xoay đảo được. Đầu ba chiếc cọc giữa ao có treo các gói giải thưởng phong
kín.
Cây tre đặt cách mặt nước khoảng 1m để khi người thi ra đến giữa, cây
tre võng xuống cũng không chạm mặt nước. Chân người dự thi đi đất, tre tươi
dính bùn, trơn, lại lúc lắc một đầu rất khó đi. Mất thăng bằng là ngã xuống ao,
ướt như chuột lột. Người xem reo hò cổ vũ rất vui. Người ngã được lội vào bờ
đi lại, ngã nhiều quá, nản thì thôi.
Khi có ba người ra đến đầu ngọn tre giật được ba gói giải thì mãn cuộc.
23. Đuổi lợn
Làng Cầu (xã Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội) có tục mổ lợn tế Thần và
chia cho dân làng khi vào đám. Hàng giáp phân công mỗi xóm nuôi một lợn
cúng Thần. Chúng được nuôi vỗ béo, lại là lợn đực giống chạy rất nhanh,
khỏe. Đến ngày làm lễ, lợn được tắm rửa sạch sẽ, rồi đem bốn con thả vào
sân đình có rào tre xung quanh.
Trai làng dự trò chơi đuổi lợn, luân phiên nhau từng người một, sau khi
làm lễ Thần, mở rào vào trong sân đuổi bắt lợn trong tiếng trống cái thúc ngũ
liên và người xem reo hò quanh rào. Lợn nghe trống và tiếng reo hoảng sợ
chạy nháo nhào trong sân rộng, đuổi theo nó đã khó lại phải làm sao tóm
được thật nhanh hai chân sau để vật ngửa lợn ra mà trói lại, cho nên người
chơi phải có mưu mẹo, lừa miếng, cho đỡ tôn sức. Ai đuổi mãi không bắt
được lợn, mệt đứt hơi đành phải nhường phiên cho người khác. Cuộc thi cứ
thế kéo dài cho đến lúc có bốn trai làng bắt được đủ bốn con lợn mới thôi, vì
thế, đã có năm, đến tận đêm mới bắt hết lợn.
Bốn trai làng bắt được lợn vừa đoạt giải thưởng, vừa được vinh dự
ngồi ăn cỗ làng ở chiếu nhất.
24. Bắt chạch trong chum
Trò chơi này thường diễn ra ở các hội làng Kinh Bắc, Phú Thọ, Vĩnh
Phúc... ở Hà Nội có làng Hồ Khẩu, vùng Bưởi chơi trò này.
Đặt một hàng chum trước sân đình, đủ cho số cặp đăng ký dự chơi.
Mỗi cặp là một đôi nam nữ chưa chồng, chưa vợ. Gái áo cánh trắng hoặc hoa
đào, khăn hồng, yếm đỏ, áo tứ thân, bao xanh, cài dây sà tích bằng bạc. Trai
áo cánh lụa, quần ống sớ, thắt lưng màu bỏ đọt cạnh sườn.
Trống phát lệnh ba hồi. Từng cặp làm lễ Thành Hoàng trước ban án, lễ
xong trai đưa cánh tay trái vòng qua lưng, bàn tay xòe bóp nhẹ vào ngực bạn
gái, còn cô gái đưa cánh tay phải ôm ngang lưng bạn trai. Họ vừa đi về phía
chum chạch vừa hát những câu ca giao duyên.
Đến cạnh chum, họ vẫn đứng trong tư thế ôm nhau, một tay xoa lưng,
sờ ngực nhau, còn một tay cùng cho vào chum khoắng tìm bắt chạch. Hai
mặt phải đối diện, bốn mắt nhìn nhau.
Các bô lão cầm trịch bắt bẻ từng động tác. Tất cả đều phải cùng làm:
bắt chạch, xoa ngực, nhìn nhau, mải việc này, lơ đãng việc kia là đều bị lỗi.
Cùng với tiếng reo hò, trêu ghẹo của dân làng, tiếng chiêng trống lúc dồn dập
cổ vũ, lúc gõ từng tiếng báo phạt. Cặp nào làm đầy đủ các động tác quy định
ít phạm lỗi, bắt được chạch trước là đoạt giải.
Ở làng Hồ Khẩu, cũng bắt chạch như thế, nhưng một vài động tác đã
được biến đổi. Chàng trai đưa tay trái cầm lấy cổ tay phải của cô gái. Trong
lúc bắt chạch, cô gái tìm cách rút tay ra, chàng trai phải cố nắm giữ lấy,
nhưng nhẹ nhàng, không làm đỏ cổ tay cô gái thì mới đạt yêu cầu. Cặp nào
bắt được chạch trước mà cổ tay cô gái đỏ hằn vết tay nắm cũng không được.
Trò chơi này thể hiện tín ngưỡng phồn thực sâu sắc. Ngày nay trò bắt
chạch trong chum không được chơi với hình thức nguyên bản của nó mà phải
biến đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.
25. Chọi gà
Chọi gà là trò chơi phổ biến trong ngày hội làng xưa. Trò chơi này có từ
lâu và đã từng làm lắm người đam mê, nên thành ngữ có câu: "Đông như
đám chọi gà". Cũng vì vậy, trong "Hịch tướng sĩ" của Hưng Đạo Vương từng
khuyên răn binh sĩ, nhắc nhở đừng mê gà chọi mà lãng quên luyện rèn quân
sự vì "cựa gà sắc không đâm thủng áo giáp giặc"...
Ở Hà Nội có nhiều vùng nuôi gà chọi nổi tiếng như Yên Phụ, Quảng Bá,
Nghi Tàm, An Phú, Nghĩa Đô, Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến)... Tây
Tựu có giống gà Tông còi, nhỏ, nhẹ nhưng nhanh nhẹn gan dạ, đánh thắng
cả loại gà lớn hơn, nặng hơn. Các hội làng có chọi gà nổi tiếng như Đông Dư,
Linh Quang.
Gà chọi phải chọn giống gà nòi, có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng đặc
biệt, rồi mới tập cho gà tập đá, rèn luyện sức dẻo dai. Mỗi con thường có
miếng hiểm, đòn riêng của mình. Đánh, đỡ, tiến, lui đều có tên gọi.
Chọi phải từng đôi tương đương với nhau về chiều cao và cân nặng.
Nếu chênh lệch quá, con mạnh hơn phải dùng vải bọc cựa để giảm sức đánh.
Cho gà chọi ở sân đất hoặc trên bãi cỏ phẳng, có đất chung quanh rộng
cho người xem quây vòng tròn. Mỗi giải đấu gồm 7 đến 10 hồ (tương đương
với ván đấu) mỗi hồ có các hiệp, mỗi hiệp đấu từ 15 đến 20 phút, giữa hai
hiệp có khuya hồ là nghỉ giữa hiệp khoảng từ 3 đến 5 phút. Còn đấu giao hữu,
gọi là "lèo" chỉ cần 5 hồ. Lại có thể giao ước đấu đến "kỳ tẩu, kỳ tử" nghĩa là
tới khi một con bỏ chạy hoặc chết ngay tại trận.
Nếu chủ gà thấy gà mình núng thế, muốn gà đỡ bị hại có thể xin dừng
cuộc đấu, tức là chấp nhận mình thua.
26. Chọi chim
Thường là chim họa mi, loại hùng điểu, vương điểu, có ý chí chiến đấu
cao. Chim nuôi từng cặp trống mái. Người chủ phải vỗ béo dạy chim chọi
cách vỗ móng tập luyện như nuôi gà chọi.
Chỉ có chim trống chọi với nhau. Trận đấu có bốn lồng nhốt hai cặp
chim, đặt đối diện, cửa lồng hai chim trống áp sát nhau, ngăn bằng mảnh gỗ
mỏng che cho chim không thấy đối thủ. Phát lệnh đấu, trọng tài rút miếng gỗ
ra, mở đầu cuộc chiến. Con nào nhảy xuống cầu trước 3 lần mà đối thủ
không xuống là thắng. Con thua bị loại ngay, đưa cặp khác vào đấu tiếp. Hai
con mái làm nhiệm vụ "xùy" cho bạn tình xông lên chúng cổ vũ bằng giọng
hót, lại có lúc cầm trịch cho con trống tạm lùi, nghỉ ngơi. Con mái góp phần
quyết định vào mỗi trận đấu. Hội làng Đồng Lầm (Kim Liên) thường có chọi
chim.
Chọi gà, chọi chim giải thưởng không to, nhưng vinh dự của người chủ
nuôi chiến thắng là niềm tự hào rất lớn.
27. Chọi dế
Tháng năm, lúa chiêm chín vàng, châu chấu ra nhiều là đến mùa chơi
chọi dế. Trò này thường được đám trai choai choai ưa thích.
Dế chọi chọn loại mình thuôn, cánh hoa, tiếng gáy to, tính hung hăng,
gặp nhau là húc đầu chọi, có tên gọi là dế mèn. Phải lùa sợi lạt giang khua
khoắng hoặc đổ nước vào hang cho dế ra là chộp lấy. Nuôi dế trong hộp cho
ăn sương đêm, cỏ non, miếng khoai lang, thỉnh thoảng cho nếm chút rượu để
gây máu hiếu chiến. Chỉ lấy con dế đực để chọi. Phải cho nó đấu thử để làm
quen vài ba trận.
Chiếc mâm cát đặt trên bàn, đưa hai con dế vào sân đấu. Nó nhìn nhau
giữ miếng, khe khẽ gáy rồi tiến lại gần nhau. Bất ngờ chống càng, ghé miệng
cắn, ghì chặt nhau, lừa miếng tung càng đá hậu. Lúc đã mệt, lùi ra nhưng vẫn
gáy khiêu khích. Con nào thấy yếu hơn, có vẻ mệt mỏi, chủ dế lấy tóc buộc
vào càng nó xoay tít làm nó say. Thả xuống là nó hung hăng xông vào chọi
cho đến được thua ngã ngũ mới thôi.
Con dễ đã bị thua một lần được gọi là dế vỡ để khỏi lẫn với các con
chưa thi đấu lần nào.
28. Đánh đu
Từ lâu đời, các làng Dương Xá, Kim Sơn, Ninh Hiệp, Yên Thường,
Đông Dư... hai bên bờ sông Đuống đều có trò chơi đánh đu trong ngày hội
làng, ngày Tết. Ở huyện Đông Anh có Cổ Loa, Dục Tú, Liên Hà, Nam Hồng...
Thanh Trì có Thanh Liệt, Tứ Hiệp, Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh... Từ Liêm có Tây
Tựu, Dịch Vọng, Mễ Trì... cũng hay chơi trò này trong các hội làng.
Đánh đu được trai gái thuở xưa rất yêu thích, dân gian xưa có câu:
"Khen ai khéo dựng đu này
Để cho trai gái chơi ngày chơi đêm".
Đánh đu phải từng cặp nam nữ, người nhún kẻ dừng, thay nhau đưa
dần cho cần đu dần lên bổng, tới lúc ngang cần, áo khăn quấn quít vào nhau,
mới chịu ôm cần đu để cho đu hạ dần, tới lúc chậm lại đã có người bắt đu
dừng hẳn cho đôi khác lên thay.
Cây đu trồng bằng 6 hoặc 8 cây tre theo thế chân kiềng, chụm đầu vào
nhau, cần kết bằng xà đu. Từ xà đu có hai cái gông nối với tay đu hoặc cần
đu để tạo khớp cần thiết cho đu chỉ lên tới mức độ nào đó, không cao quá gây
nguy hiểm. Tay đu phải chọn tre đực, bánh tẻ, vừa tầm tay nắm, không có đốt
kiến, đảm bảo an toàn cho người lên đu. Trồng cây đu xong, phải được già
làng có kinh nghiệm kiểm tra cẩn thận, làm lễ, rồi lên khai đu, nổi trống gọi
người xem hội tụ.
Nơi trồng cây đu phải thoáng đãng, rộng, không gần cây cối, có chỗ
đứng xa cho nhiều người xem.
Giải thưởng thi đu được gói buộc vào đầu cành tre nhỏ như cần câu
dài, đặt ngang tầm với đỉnh cột đu. Khi người nhún đu đưa cần ngang với
đỉnh cột thì đưa một tay giật giải. Nếu để giải rơi xuống đất là mất.
Đánh đu vừa là trò chơi vừa là môn thể thao, nó không chỉ đòi hỏi sức
khỏe dẻo dai, mà còn phải có thần kinh vững vàng để khi chơi không chóng
mặt, hoa mắt, nôn mửa lúc đu đã lên cao.
Cây đu còn mang ý nghĩa văn hoá sâu sắc, nó được coi như nơi hò
hẹn của lứa đôi khi vào hội xuân.
29. Đánh cờ tướng
Thú chơi cờ tướng khá phổ biến trong dân gian, từ bình dân đến quan
lại, được coi là cuộc đấu tài, đấu trí, tao nhã, thanh cao. Có nhiều cách chơi:
ở trong gia đình, hoặc những phạm vi nhỏ thì thường chơi từng ván cờ, chơi
cờ tàn, cờ thế mỗi bên chỉ còn vài quân trên bàn cờ. Còn trong lễ hội thường
chơi dưới hình thức cờ người hoặc cờ bỏi.
Cờ người
Trò này tổ chức ở nhiều hội làng vùng Hà Nội như Kim Lũ, Thanh Liệt,
Xuân Phương, Đông Ngạc, Thụy Phương, Vĩnh Quỳnh, Thượng Cát, Minh
Khai, Hải Bối, Quảng Bá, Tàm Xá... nhưng lớn nhất, vui nhất là ở hội chùa
Vua (làng Thịnh Yên), nơi thờ Thần cờ Đế Thích. Hội Chùa Vua gần như là
điểm hội tụ các bậc kỳ thủ đủ các miền.
Cờ người đánh như cờ tướng, chỉ có hình thức khác: bàn cờ là cả
chiếc sân rộng, quân cờ là người đóng, nam đứng quân đỏ, nữ đứng quân
đen. Mỗi bên 16 quân, tên quân viết chữ nho ở ngực áo hoặc lưng áo. Riêng
tướng chọn người đẹp người, đẹp nết đóng, có lọng che, có ghế ngồi. Người
đánh xướng nước đi (theo nguyên tắc mã lệch, tượng điều, xe liền, pháo
lệch...) người đóng quân chuyển vị trí theo. Quân nào bị ăn thì bị loại ra khỏi
sân. Cho đến khi một bên chiếu tướng đối phương hết nước đi là thua. Có nơi
quân cờ là người cầm biển đề tên.
Cờ bỏi
Cũng đánh ở sân rộng, kẻ ô làm bàn cờ, chỉ không có người mà quân
cờ là các biển sơn son và sơn đen, chạm khắc đẹp, đề tên quân. Tại các giao
điểm trên bàn cờ có chôn ống tre để làm lỗ cắm biển khi chuyển quân cờ.
Đánh cờ người hay cờ bỏi đều có ông hiệu cầm cờ phất chỉ nước đi.
Trọng tài dùng trống cái để điều khiển, thúc đi nhanh không để nghĩ lâu, tạo
không khí hào hứng cho người xem.
Đánh cờ phải tính từng nước chặt chẽ, dự đoán được thế đi nước sau
và cách đánh đỡ của đối phương thì mới mong thắng.
Ca dao từng có câu:
"Quân cờ Đồng Cổ ra đi
Làm nên chiến thắng bất kỳ nơi đâu".
Đồng Cổ là Thành Hoàng làng Nguyên Xá (xã Minh Khai, Từ Liêm) nơi
giỏi cờ có tiếng. Còn những cao thủ làng cờ chơi với người thường, thường
chấp một vài nước nên mới có câu: ”Cờ cao Đế Thích chấp đôi xe"... là thế.
30. Tổ tôm điếm
Tổ tôm cũng là một thú chơi đấu trí như đánh cờ, rất phổ biến ở đất
kinh thành. Trong ngày hội, thường tổ chức tổ tôm điếm cho đông đảo khách
xem hội cùng dự.
Tổ tôm gồm 5 người chơi với bộ bài 120 quân. Trên sân rộng, hoặc bãi
đất, cất lên năm cái điếm, 4 cái bốn phương và một cái ở giữa gọi là điếm
trung. Mỗi điếm có thang để đấu thủ lên xuống tầng sàn, nom như cái chòi tre
lá.
Bài là những miếng gỗ mỏng đề tên quân, có mảnh nắp đậy lại để tránh
nhòm ngó, gian lận. Người chạy bài phải rao những con bài do các điếm đánh
ra để các điếm khác muốn phỗng hay ăn. Rao bằng cách ví von có vần điệu:
Vác đèn đi dưới trăng thu
Đầu bài cửu sách, ai ù được chăng?
Trống lệnh điều khiển cuộc đấu cho thêm vui nhộn, ù chi chi nảy, ngày
xưa được thưởng bánh pháo, đốt ngay tại chỗ, khói mịt mù, trống và pháo
chen nhau, hội tổ tôm điếm càng nào nức.
Một số nơi thay tổ tôm điếm bằng tam cúc điếm, chơi đơn giản hơn,
phổ thông hơn. Chỉ có bốn điếm, cũng phải có người rao bài, gọi quân, lấy
trống làm hiệu lệnh.
31. Chơi đèn cù
Sách "Đại Việt sử lược" chép: Rằm tháng Giêng năm Hội Tường đại
khách nguyên niên (1110) đời Lý Nhân Tông, lần đầu nhà vua cho tổ chức ở
Thăng Long hội đèn Quảng Chiếu. Sự kiện này được tạc vào văn bia chùa
Long Đọi năm 1121.
Đèn Quảng Chiếu là thứ đèn cù còn gọi đèn kéo quân - loại thật lớn.
Sau được thu nhỏ lại thành trò vui chơi trong dân gian vào dịp trung thu.
Khung đèn bẻ bằng tre nối vào các cột nứa tạo thành hình vuông, lục
lăng hoặc bát giác, dán kín các mặt bằng giấy bản mỏng thật trắng lại dai.
Chung quanh trang trí như một tòa lâu đài, có các họa tiết trổ hoa lá bằng giấy
màu, giấy trang kim tô điểm.
Bên trong là một trục có cầu, đeo ba hoặc bốn vòng nan tre cách nhau
10 phân, có các sợi dây cố định khoảng cách. Vòng tre được dán các hình cắt
những đoàn quân, ngựa, xe... hoặc các tích cổ Đinh Tiên Hoàng cờ lau tập
trận, Thạch Sanh đánh chằn tinh cứu công chúa, Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Lê
Lợi trả gươm thần, Lã Vọng câu cá... Các vòng quân treo trên cần trục được
đặt chính giữa đèn, cân đối, các sợi dây khi đèn quay không rối, trục để lên
đĩa dầu cho trơn. Thắp bằng đèn bấc hoặc đốt nến, sức nóng tỏa ra đẩy các
vòng quân chạy theo một chiều, in bóng các hình cắt to lên trên mặt các ô
đèn, di động chung quanh. Ở vùng làm giấy Bưởi có tục thi đèn kéo quân. Có
chiếc to bằng cái nia phải quạt lò than hoa mới chạy nổi quân.
32. Đáo cọc
Có nhiều hình thức chơi:
Hình thức 1:
Chôn hai chiếc cọc tre to bằng cổ tay, nhô lên mặt đất khoảng 2 - 3
gang. Chọn lấy 12 hòn đá cuội có dáng bẹt, hai người chơi một lần, mỗi
người nhận 6 hòn cuội. Vạch đứng ném cách xa cọc 5 - 7 bước. Từng người
ném vào cọc của mình, ai ném lia hòn đá đúng cọc nhiều hơn, là thắng.
Người thua bị loại cho người khác vào thay. Hết lượt, người nào có số lần
ném trúng cọc nhiều là đoạt giải nhất, nhì, ba.
Hỉnh thức 2:
Một cách chơi khác chỉ trồng một cọc tre cao ngang ngực, người chơi
đứng xa khoảng 10m, cứ một tốp chơi hai ba người, mỗi người có một hòn
cái bằng đá bẹt tung vào chân cọc, ai ở sát chân cọc nhất là được vào chung
khảo, đấu lần sau với người nhất của các nhóm khác. Cái khó là thả khéo, để
đá cái không va vào cọc văng ra xa.
Hình thức 3:
Đáo cọc còn gọi là đáo chặt ở vùng Cổ Loa lại khác. Cọc được quấn
chặt bằng vải hoặc nhồi chặt bông, cắm vào chiếc bình gốm loe miệng, để thò
đầu cọc lên chừng gang tay. Trên đầu cọc vải đặt một đồng tiền đồng hoặc
kẽm. Người chơi dùng thanh tre dài hai gang vót bẹt như chiếc đũa cả chặt
vào đầu cọc, làm sao cho đồng tiền rơi vào trong bình là được. Cọc vải khác
cọc tre, độ rung mỗi lần chặt một khác. Chặt nhẹ thì đồng tiền không rơi, chặt
mạnh lại văng ra ngoài miệng bình.
33. Đáo mẹt - đáo đĩa
Đặt vài ba chiếc mẹt tre đan, cạp tròn, đường kính khoảng 2 gang,
thẳng hàng nhau. Mỗi mẹt giữa để một đĩa gốm to 1 gang. Vạch gốc cho
người chơi đứng thả hòn cái vào đĩa, xa hay gần tùy theo tuổi và độ cao của
người chơi mà quyết định.
Hòn cái làm bằng tiền xu đồng, mảnh gốm, mảnh chum vại hoặc mảnh
ngói ta vỡ, ghè mài có hình tròn to bằng miệng chén.
Người chơi đồng loạt theo trống mõ làm lệnh, tung, ném, thả lia hòn cái
làm sao nằm trong đĩa càng nhiều là thắng. Mỗi keo chơi định lệ 5 hay 10 hòn
cái.
Nếu hòn cái văng ra mẹt là thua. Còn nếu bắn ra ngoài mẹt thì phải
phạt.
Đáo mẹt, có người gọi đáo đĩa, được tổ chức trong lễ hội Cổ Loa (Đông
Anh).
34. Thi nặn con giống
Cuộc thi dành cho cả làng, mỗi nhà là một đơn vị thi do người cao tuổi
nhất đứng đầu, bàn định xem tạo hình con giống gì, cây cảnh hay loài vật.
Vùng Bưởi có trò chơi nặn con giống bằng sáp. Sáp ong nấu chảy nhuộm với
các màu thiên nhiên như lá diễn, lá sấu, nghệ, hoa hiên... Đổ sáp màu ra
khuôn để nguội. Lúc nặn hơ sáp lên than hoa lấy vừa độ dẻo. Sản phẩm này
kết tinh trí tuệ và tài hoa của cả gia đình. Phải giữ bí mật con giống dự thi cho
đến khi đưa ra bày chấm giải.
Sân đình được kê các dãy bàn dài. Nghe trống gióng lên, các nhà đưa
sản vật ra thi. Nào chậu quất trĩu quả vàng ươm, nào cây mai cổ thụ gốc sù sì
hoa nở trắng muốt, nào sư tử vờn cầu, đại bàng độc lập, công múa xòe đuôi
đủ màu sắc, lợn đàn, gà mẹ, gà con..., lại có cả Tề thiên đại thánh, Thạch
Sanh... Nặn con giống là cuộc thi mỹ thuật quần chúng vừa tao nhã lại vừa
mang tính trí tuệ.
35. Hát ống
Cũng là hát giao duyên nhưng không trình diễn trước công chúng mà
hát cho nhau nghe thông qua hai chiếc ống tre bịt mặt bằng bong bóng lợn,
nối với nhau bằng sợi chỉ tơ để truyền âm sang cho người nghe ngồi ở gian
đình bên cạnh. Nam nữ chia làm hai phe. Bên hát, bên nghe rồi đối đáp lại
nhau. Gặp những câu hát vui họ lại rộ lên tiếng cười.
Hội làng Hải Bối (Đông Anh) có trò hát ống vào mùng 4 Tết.
Tùy số người chơi, ít người ngồi thành hàng ngang, nhiều người ngồi
quanh vòng tròn, duỗi dài hai chân. Tất cả cùng đọc bài đồng dao, một người
ngồi giữa cầm trịch lấy tay đập vào mỗi chân ứng với một từ, đến câu cuối
cùng của bài có từ "rụt" người có chân ấy phải co nhanh chân vào, nếu để
đập tay vào là bị phạt, phải ra nhảy lò cò một vòng quanh đám chơi. Người
cuối cùng còn cả hai chân là thắng cuộc.
Bài hát như sau:
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Cái ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi Phật khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Cá bống cá mè
Tè he cống rụt!
Bài khác:
Nu na nu nống
Thằng cống, cái cạc
Chân vàng, chân bạc
Đá xỉa, đá xoi
Đá đầu con voi
Đá lên đá xuống
Đá ruộng bồ câu
Đá râu ông già
Đá ra đường cái
Gặp gái đi đường
Có phường trống quân
Có chân thì rụt!
Bài khác:
Chồng muống, chồng cà
Mày xòa hoa khế
Khế ngâm, khế chua
Cột đình, cột chùa
Nhà vua mới làm
Cây cam, cây quít
Cây mít, cây hồng
Cành thông, lá nhãn
Ai có chân thì rụt!
Đứng hoặc ngồi, quây thành vòng tròn, số người không hạn chế. Một
người làm cái ở giữa đọc đồng dao, cả tốp đọc cùng, mỗi từ ứng với một đầu
người. Đến cuối bài, ai trúng từ "chịu", phải rời chỗ, chạy một vòng trở về làm
cái, thay cho người làm cái trước để người ấy ngồi vào chỗ của mình.
Bài hát:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo bồng như nước
Đổ mắm, đổ muối
Đổ chuối hạt tiêu
Đổ niêu cứt gà
Đổ phải nhà nào
Nhà ấy phải chịu
Bài khác:
Nam mô bồ tát
Chẻ lạt đứt tay
Đi cày trâu húc
Đi xúc phải cọc
Đi học thày đánh
Đi gánh đau vai
Nằm dài nhịn đói.
Nếu đọc bài dưới, trò chơi thêm một nắm ngô rang hoặc ít lạc luộc, quả
táo. Ai trúng từ đói thì không được chia quà, ngồi nhìn các bạn ăn.
SÁCH THAM KHẢO
1. Địa chí tôn giáo lễ hội Việt Nam, Mai Thanh Hải, NXB Văn hoá thông
tin, 2008
2. Lễ hội Việt Nam, PGS Lê Trung Vũ, NXB Văn hoá thông tin, năm
2005
3. Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, Sơn Nam, NXB Trẻ, năm
2006
4. Cơ sở văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, NXB Giáo Dục, năm
2000
5. 25 lễ hội đặc sắc ở Việt Nam, Minh Anh, Hải Yến, Mai Ký, NXB Hồng
Đức, năm 2008.
MỤC LỤCPhần 1. LỄ HỘI DÂN GIAN VIỆT NAM
I. Sự hình thành và ý nghĩa của lễ hội dân gian
II. Những đặc trưng của lễ hội dân gian
III. Quy trình của lễ hội dân gian
Phần 2. NHỮNG LỄ HỘI DÂN GIAN TIÊU BIỂU
1. Lễ hội Bạch Hạc
2. Lễ hội chọi trâu
3. Lễ hội chùa Hương
4. Lễ hội chùa Keo
5. Lễ hội chùa Thầy
6. Lễ hội Cổ Loa
7. Lễ hội đền Cửa Ông
8. Lễ hội đền Đô
9. Lễ hội Đền Hùng
10. Lễ hội gò Đống Đa
11. Lễ hội cờ lau Hoa Lư
12. Lễ hội mùa xuân và hội hát quan họ
13. Hội Lim
14. Hội Lồng Tồng
15. Hội phong Chúa, rước Vua
16. Hội Phủ Giầy
17. Hội Nhồi với tục rước Bà Đống (Bắc Ninh)
18. Hội rước Kẻ Giá
19. Hội rước nước trên sông Hồng
20. Hội sáo đền
21. Hội Gióng
22. Lễ hội Yên Tử
23. Lễ hội đền Cuông
24. Lễ hội Cá Ông
25. Lễ hội cầu ngư ở Thái Dương Hạ
26. Lễ hội cúng máng nước đầu năm của người Xơ-Teng
27. Lễ hội bà Chiêm Sơn
28. Lễ hội cúng lúa mới và tục mở kho thóc ăn tết của người Xơ-Teng
ở Quảng Nam
29. Lễ hội Nghinh Ông ở Phan Thiết
30. Hội vật cù ở Thanh Chương (Nghệ An)
31. Lễ hội làng Sình
32. Lễ hội Quan Thế Âm
33. Lễ rước Mục đồng
34. Lễ hội Xăng khan của người Thái
35. Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên
36. Lễ hội miếu Bà Chúa Xứ
37. Lễ hội đua bò của người Khmer
38. Hội xuân Núi Bà
39. Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực
40. Lễ hội Ook om bok
Phần 3. CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN
1. Thi nấu cơm
2. Đánh quay
3. Chơi chuyền
4. Thả diều
5. Ô ăn quan
6. Mèo đuổi chuột
7. Rồng rắn lên mây
8. Ném còn
9. Thi thơ
10. Thi dưa hấu
11. Thi thả chim
12. Hất phết
13. Vật cầu
14. Ném giỏ
15. Đấu gậy bảy
16. Đánh roi múa mộc (khiên)
17. Thi nâng
18. Thi chạy
19. Đánh quân - chạy cờ
20. Đấu vật
21. Kéo co
22. Đi cầu tre đốt pháo
23. Đuổi lợn
24. Bắt chạch trong chum
25. Chọi gà
26. Chọi chim
27. Chọi dế
28. Đánh đu
29. Đánh cờ tướng
30. Tổ tôm điếm
31. Chơi đèn cù
32. Đáo cọc
33. Đáo mẹt - đáo đĩa
34. Thi nặn con giống
35. Hát ống
SÁCH THAM KHẢO
---//---
DÂN GIAN VIỆT NAM
Vương Tuyển (sưu tầm và tuyển chọn)
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ DÂN TỘC
19 Nguyễn Bỉnh Khiêm - Hà Nội
Điện thoại: 04.38263070 - 04.39434239 | Fax: 04.39434237
Email: nxbvanhoadantoc@yahoo.com.vn
Chi nhánh: số 7 Nguyễn Thị Minh Khai - Q1 - TP. Hồ Chí Minh
ĐT: (08)38222895
Chịu trách nhiệm xuất bản: LƯU XUÂN LÝ
Biên tập: TRẦN PHƯỢNG TRINH
Vẽ bìa: HUYHOANGBOOK
Sửa bản in: VÂN HẠNH
LIÊN KẾT XUẤT BẢN, GIỮ BẢN QUYỀN, PHÁT HÀNH
CÔNG TY VĂN HOÁ PHƯƠNG BẮC
Nhà sách Huy Hoàng
110D Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội
Tel/Fax: (04) 3736.5859 - 3736.6075
Nhà sách Thành Vinh
59 Đường Trần Phú, TP. Vinh, Nghệ An
Tel/Fax: (038) 3591.167
www.huyhoangbook.com.vn
In tại Doanh nghiệp tư nhân In Hà Phát. Số lượng: 1.500 cuốn. Khuôn khổ:
13,5 x 20,5cm. Đăng ký KHXB số: 705-2009/CXB/2-142/VHDT. Quyết định
XB số: 181-09/QĐ-VHDT, ngày 03/9/2009. In xong và nộp lưu chiểu tháng
Quý IV/2009.
Recommended