View
5
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ VĂN THIỆP
PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 62.38.01.07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. LÊ MAI THANH
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các thông tin, số liệu nêu trong Luận án là trung thực.
Các luận điểm được kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết
quả nghiên cứu của Luận án chưa từng được công bố
trong công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Văn Thiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Thƣơng mại điện tử - TMĐT
2. Ủy ban nhân dân - UBND
3. Thƣơng mại điện tử -E-Commerce
(Electronic commerce)
4. Kinh doanh điện tử - E-Business
(Electronic business)
5. Tổ chức Thƣơng mại Thế giới - WTO
(World Trade Organization)
6. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD
(Organization for Economic Co-operation and Development)
7. Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng - APEC
(Asia-Pacific Economic Cooperation)
8. Cộng đồng kinh tế Asean - AEC
(ASEAN Economic Community)
9. Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật thƣơng mại quốc tế - UNCITRAL
(United Nations Commission on International Trade Law)
10. Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới - WIPO
(World Intellectual Property Organization)
11. Chính phủ với Chính phủ - G2G
(Government-To-Government)
12. Chính phủ với Doanh nghiệp - G2B
(Government-To-Business)
13. Chính phủ với Công dân - G2C
(Government-To-Consumer)
14. Doanh nghiệp với Chính phủ - B2G
(Business-To-Government)
15. Doanh nghiệp với Doanh nghiệp - B2B
(Business-To-Business)
16. Doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng - B2C
(Business-To-Consumer)
17. Ngƣời tiêu dùng với Doanh nghiệp - C2B
(Consumer-To-Business)
18. Ngƣời tiêu dùng với ngƣời tiêu dùng - C2C
(Consumer-To-Comsumer)
19. Ngƣời tiêu dùng với Chính phủ - C2G
(Consumer-To-Government)
20. Quy phạm pháp luật - QPPL
21. Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dƣơng - TPP
(Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement)
22. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN
(Association of Southeast Asian Nations)
23. Hiệp định tự do thƣơng mại - FTA
(Free Trade Agreement)
24. International Business Machines - IBM
25. Electronic Data Interchange - EDI
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ .1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN
ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. ................................................. 8
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......... ................................... 8
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU... ................................................ ..19
CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ VÀ PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ... .................................. .24
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ... ....................... .24
2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT THƢƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.... ......................................................................... .29
2.3. CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ ................................................................................................................... 45
2.4. NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUỐC TẾ VÀ
MỘT SỐ QUỐC GIA - KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM ................ 50
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN QUA.. ....................................................................................... 61
3.1. KHUNG PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM. ....... 61
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM.................... ............................... .65
3.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.... ......................................................................... .83
3.4. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ XỬ LÝ VI
PHẠM TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ................ .................................. 89
3.5. XỬ LÝ VI PHẠM BẰNG CÁC BIỆN PHÁP KHÁC............. ............... 97
CHƢƠNG 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆNPHÁP
LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ... ........................................................ .103
4.1. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
. ...................................................................................................................... 103
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ Ở VIỆT NAM............... ........................................................................ ..122
KẾT LUẬN................. ................................................................................. 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............. ..................................... .146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ..... ........................ ..157
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Hiện nay trên thế giới, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ
thuật nói chung và công nghệ thông tin nói riêng, thì thƣơng mại điện tử đang
nắm giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, chính nó đã góp
phần quan trọng thúc đẩy tăng tỷ trọng GDP của những quốc gia có nền kinh
tế phát triển. Thƣơng mại điện tử là sự phát triển của thƣơng mại truyền
thống, đƣợc cấu thành bởi nhiều thành tố, trong đó có sự áp dụng các thành
quả của khoa học - kỹ thuật phục vụ đời sống con ngƣời cũng nhƣ việc thỏa
mãn các nhu cầu khác. Đây là xu hƣớng tất yếu của sự phát triển trên mọi
phƣơng diện về kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia trong thời kỳ toàn cầu hóa.
Thực tế cũng cho thấy, các quan hệ thƣơng mại điện tử đã và đang hình thành
và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nƣớc trên thế giới và cũng đang phát triển ở
Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới vận
hành trên nền tảng của công nghệ điện tử và công nghệ viễn thông, đòi hỏi
phải có cơ chế điều chỉnh pháp luật phù hợp, tƣơng thích nhằm đảm bảo để
các quan hệ về thƣơng mại điện tử phát triển hiệu quả, khả thi, có tính định
hƣớng đúng đắn, lành mạnh và bền vững. Pháp luật về thƣơng mại điện tử ở
nhiều quốc gia tiên tiến đã và đang nắm giữ vai trò quan trọng trong việc điều
chỉnh các quan hệ thƣơng mại điện tử.
Thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao
gồm cả hoạt động cung cấp hàng hóa và dịch vụ cùng với các ứng dụng
những thành tựu về công nghệ thông tin và truyền thông vào lĩnh vực kinh
doanh thƣơng mại. Với cách hiểu cụ thể, hoạt động thƣơng mại điện tử là việc
tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thƣơng mại bằng
phƣơng tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động
hoặc các mạng mở khác.Trong những năm qua, thƣơng mại điện tử ở Việt
2
Nam đã phát triển khá nhanh, hoạt động giao dịch mua bán qua mạng rất sôi
động và đã thực sự trở thành công cụ để doanh nghiệp nâng cao sức cạnh
tranh, đặc biệt là doanh nghiệp v a và nhỏ. Mua bán hàng hóa qua các sàn
giao dịch thƣơng mại điện tử trong nƣớc hiện đang ở giai đoạn bùng nổ. Tuy
nhiên, việc kiểm soát chất lƣợng và các hành vi gian lận thƣơng mại khác khi
mua qua các gian hàng trên mạng đang bị buông lỏng. Rất nhiều vụ việc tranh
chấp thƣơng mại xuất phát t kênh phân phối qua thƣơng mại điện tử, nhƣng
vai trò điều tiết quản lý và trọng tài của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
chƣa thực sự đƣợc phát huy. Có thể nói, sự phát triển của thƣơng mại điện tử
trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và
đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải
th a nhận rằng, những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch, kinh doanh
trên mạng là hiện thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về
mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành đƣợc một cơ sở pháp lý đầy đủ.
Những kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy thƣơng mại
điện tử phát triển thì vai trò của Nhà nƣớc phải đƣợc thể hiện rõ nét trên hai
lĩnh vực: (i)Xây dựng chính sách, tạo môi trƣờng thuận lợi trong lĩnh vực
cung ứng dịch vụ điện tử; và (ii) Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ,
thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thƣơng mại điện tử. Nếu nhƣ
chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho thƣơng mại điện tử hoạt
động thì các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải
quyết các vấn đề có liên quan và các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cũng
sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát đƣợc các hoạt động kinh doanh thƣơng mại
điện tử.
Với tốc độ phát triển mạnh mẽ của thƣơng mại điện tử hiện nay, thì
việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đƣợc coi là yếu tố rất quan
trọng. Hơn thế nữa, thƣơng mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ, cho nên tạo
đƣợc niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thƣơng mại điện tử là
một việc làm có tính cấp thiết, mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra
3
đƣợc một sân chơi chung với những quy tắc đƣợc thống nhất một cách chặt
chẽ. Tuy nhiên, cho đến nay, do nhiều lý do cả về chủ quan lẫn khách quan,
quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thƣơng mại điện tử chƣa đƣợc
quan tâm đúng mức, chƣa phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Luật Giao dịch
điện tử của Việt Nam đƣợc Quốc hội khóa XI ban hành ngày 29/11/2005, có
hiệu lực thi hành t ngày 01/03/2006 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành còn
đơn giản, chƣa có những khái niệm pháp lý đầy đủ và chƣa dự liệu đƣợc
những quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử phát sinh khi áp dụng.Sau đó
Chính phủ ban hành Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 9/6/1006 về Thƣơng mại
điện tử để hƣớng dẫn các cá nhân, tổ chức khi họ thực hiện các hoạt động
thƣơng mại điện tử. Với sự phát triển nhanh chóng các hoạt động thƣơng mại
điện tử, các quy định cũ trở nên bất cập nên sau 7 năm, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 52/NĐ- CP ngày 16/5/2013 về Thƣơng mại điện tử. Cho
đến nay, khi Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
cũng có những thay đổi nhất định về hình thức hợp đồng cũng nhƣ công nhận
chứng cứ điện tử, tuy nhiên vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu giải quyết tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực này và Nghị định 52/NĐ-CP cũng chƣa đáp ứng
đƣợc các yêu cầu về tính đồng bộ, thống nhất dẫn đến các quy định không
đảm bảo tính khả thi. Pháp luật hiện hành cũng chƣa quy định rõ về giải quyết
tranh chấp phát sinh trong giao dịch thƣơng mại điện tửtheo hƣớng các quy
phạm nội dung phải phù hợp với các quy định về tố tụng hoặc các phƣơng
thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng. Thực tế cho thấy, các vấn đề liên
quan đến giải quyết tranh chấp giao dịch thƣơng mại điện tử cần phải đƣợc
quy định chặt chẽ, đầy đủ và rõ ràng bởi tính đặc thù của nó, đặc biệt là các
quy định liên quan đến việc sử dụng các văn bản điện tử hay chữ ký điện tử
với tƣ cách là chứng cứ trong các hoạt động tố tụng. Đồng thời cũng cần phải
đƣa ra các quy định về tội phạm trong thƣơng mại điện tử để tăng cƣờng đấu
tranh, phòng ng a, ngăn chặn và xử lý các loại tội phạm mới xuất hiện cùng
với quá trình phát triển của thƣơng mại điện tử. Pháp luật Việt Nam cũng
4
đang thiếu vắng những quy định mở đối với việc lựa chọn pháp luật trong các
giao dịch thƣơng mại nói chung và giao dịch thƣơng mại điện tử nói riêng,
cũng nhƣ việc bảo đảm lợi ích kinh tế và các lợi ích liên quan khác của quốc
gia, của các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng.
T những phân tích khái quát ở trên cho thấy, việc đặt vấn đề nghiên
cứu toàn diện về pháp luật thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các quan
hệ thƣơng mại điện tử ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu có
hệ thống, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật thƣơng
mại điện tử sẽ làm rõ những khái niệm pháp lý gắn với những thuật ngữ có
nội hàm kỹ thuật cao, tiên lƣợng những phát sinh có thể xảy ra trong thực tế
và trong tƣơng lai, đóng góp những tri thức đối với khoa học pháp lý nói
chung và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động thƣơng mại
điện tử nói riêng, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Đây cũng là lý do mà
nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam
hiện nay”để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, đặc điểm, nội dung và thực
tiễn thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử nhằm đề xuất hoàn thiện pháp luật
thƣơng mại điện tử và đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật
thƣơng mại điện tử ở Việt Nam
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích của đề tài, thì nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về thƣơng mại
điện tử, làm rõ các đặc trƣng cơ bản, cơ chế thực hiện của pháp luật về thƣơng
mại điện tử.
5
- Nghiên cứu đánh giá về thực trạng pháp luật và cơ chế thực hiện pháp
luật về thƣơng mại điện tử, chỉ ra các hạn chế, bất cập và nguyên nhân là cơ
sở thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
- Đƣa ra các kiến nghị về định hƣớng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện
pháp luật cũng nhƣ nâng cao hiệu quả cơ chế thực hiện pháp luật về thƣơng
mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là pháp luật thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam và thực trạng thực hiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề
lý luận, đặc điểm và nội dung cơ bản về pháp luật thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam,không dàn trải theo nền tảng của pháp luật thƣơng mại truyền thống.
Nội dung nghiên cứu liên quan đến một số nội dung cơ bản của pháp
luật thƣơng mại điện tử, cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm,
giải quyết tranh chấp. Luận án chú trọng đến giải quyết tranh chấp giữa các
chủ thể giao dịch thƣơng mại điện tử mà không đi sâu vào các biện pháp giải
quyết khác.
Việc nghiên cứu pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới chỉ mang
tính chất tham khảo, so sánh nhằm đánh giá những tiếp thupháp luật quốc tế
có phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam hay không.
Về mặt thời gian, với đặc thù của hoạt động thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật thƣơng mại điện tử t thời
điểm Luật Thƣơng mại 2005, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Luật Công
nghệ thông tin năm 2006 cùng hệ thống các văn bản hƣớng dẫn thi hành về
vấn đề này đƣợc ban hành cho đến nay.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, Luận án sử dụng các phƣơng pháp
mang tính truyền thống nhƣ phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Ngoài ra, trên cơ sở tìm ra quy luật phát triển của thƣơng mại điện tử và
6
sự phù hợp giữa phát triển thƣơng mại điện tử với chính sách, pháp luật về
thƣơng mại điện tử. Luận án nghiên cứu sử dụng các phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp, hệ thống, luật học so sánh và dự báo trên cơ sở các tài liệu thu thập
đƣợc t các công trình khoa học của các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc để
trả lời các câu hỏi nghiên cứu trong phạm vi đề tài một cách thấu đáo.
Trong t ng nội dung nghiên cứu, các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử
dụng một cách linh hoạt, cụ thể:
- Chƣơng 1: Phƣơng pháp tổng hợp, hệ thống hóa, thu thập, phân tích,
so sánh luật học nhằm đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận án.
- Chƣơng 2: Phƣơng pháp tổng hợp, thống kê, thu thập, phân tích,
nhằm làm rõ khái niệm, đặc điểm của thƣơng mại điện tử; phƣơng pháp lịch
sử, thống kê, quy nạp, phân tích, diễn giảng, chứng minh để làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận cơ bản, đặc điểm cũng nhƣ cơ chế bảo đảm thực hiện của
pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
- Chƣơng 3: Phƣơng pháp phân tích, so sánh, diễn giảng, quy nạp lịch
sử, khảo sát thực tiễn v.v...nhằm khái quát và đánh giá thực trạng pháp luật
cũng nhƣ cơ chế thực thi pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
- Chƣơng 4: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, dự báo, khái quát hoá để
xác định các yêu cầu cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Trên cơ sở phân tích một cách khoa học các vấn đề lý luận của pháp
luật về thƣơng mại điện tử; đúc rút các bài học kinh nghiệm điều chỉnh pháp
luật đối với thƣơng mại điện tử ở một số quốc gia trên thế giới, luận án đã làm
rõ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên cơ sở nghiên cứu các nguyên tắc cũng
nhƣ nội dung cơ bản của pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
- Luận án đã đánh giá tổng thể về thực trạng pháp luật và cơ chế thực
hiện pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam, làm rõ các yêu cầu cấp thiết
7
của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
thƣơng mại điện tử với những đặc thù về nội dung cũng nhƣ phƣơng thức
thực hiện ở Việt Nam hiện nay.
- T các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đƣa ra các định hƣớng
và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
Về mặt khoa học, luận án là công trình khoa học đƣợc nghiên cứu khá
chuyên sâu về các vấn đề pháp lý nhằm đảm bảo tính an toàn, hợp pháp cho
các quan hệ thƣơng mại điện tử, t đó, góp phần làm rõ đặc trƣng của pháp
luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài luận án sẽ là công trình
khoa học có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về
pháp luật thƣơng mại điện tử. Đồng thời Luận án có thể sử dụng nhƣ nguồn tƣ
liệu nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng nhƣ nâng
cao hiệu quả cơ chế thực thi pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam
trong thời gian tới.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án
đƣợc kết cấu làm 4 chƣơng (có kết luận cho t ng chƣơng) với những nội dung
cơ bản nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan
đến đề tài
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về pháp luật thƣơng mại điện tử
Chƣơng 3: Thực trạng pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam
hiện nay.
Chƣơng 4: Định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thƣơng mại
điện tử ở Việt Nam.
8
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc liên quan đến
pháp luật về thƣơng mại điện tử
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trong đó có mạng
Internet và các mạng mở khác, việc ứng dụng các thành tựu này trong hoạt
động thƣơng mại đã hình thành thƣơng mại điện tử.Trên thế giới và Việt Nam
đã có nhiều công trình nghiên cứu về thƣơng mại điện tử dƣới góc độ kinh tế
cũng nhƣ pháp lý.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học liên quan đến đề tài
luận án có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ, những công trình này là cơ sở cho việc
nghiên cứu đề tài, mặt khác còn gợi mở những vấn đề tiếp theo cần phải giải
quyết, đồng thời, đây cũng là những tài liệu tham khảo có ý nghĩa trong quá
trình triển khai nghiên cứu đề tài.
Qua nghiên cứu tổng quan, các công trình này có thể sắp xếp thành các
nhóm nhƣ sau:
a) Những nghiên cứu lý luận về pháp luật thương mại điện tử
Các quốc gia phát triển đã xuất hiện hoạt động thƣơng mại điện tử t
rất sớm và đều có quá trình nghiên cứu sâu sắc để xây dựng khung pháp luật
cho riêng mình nhằm điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội mới phát sinh
trong thƣơng mại điện tử. Để đảm bảo tính thống nhất trong ứng xử và giải
quyết các vấn đề về thƣơng mại điện tử, tại Phiên họp lần thứ 29 của Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc (tháng 12 năm 1996), Uỷ ban Liên Hợp quốc về Luật
thƣơng mại quốc tế (UNCITRAL) đã thông qua Luật mẫu về Thƣơng mại
điện tử. Tinh thần của Luật mẫu là bảo đảm những giao dịch thƣơng mại điện
tử đƣợc th a nhận giá trị pháp lý và nếu cần thiết thì sẽ có những hành động
9
thích hợp để tăng cƣờng khả năng thi hành cho những giao dịch bằng phƣơng
tiện điện tử. Tuy nhiên, cũng phải tới những năm đầu của thế kỷ XXI, một số
quốc gia mới nghiên cứu, xây dựng và ban hành pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ về thƣơng mại điện tử nhƣ: Hoa Kỳ, Đức, Áo, Hà Lan, Albania,
Australia, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mehico, Thái Lan.v.v...
Tài liệu nghiên cứu cả các Tác giả trong và ngoài nƣớc chủ yếu nghiên
cứu về thƣơng mại điện tử dƣới góc độ kinh tế nhƣng trong đó có một phần
đề cập đến khung pháp lý về thƣơng mại điện tử.
Trƣớc hết phải kể đến công trình “Thương mại điện tử” (Electronic
Commerce) Đề tài Luận án Tiến sĩcủa tác giả Mihaela-Roxanafercală –
Romani - Trƣờng Đại học Babes - Bolyai năm 2011 [52]. Tác giả đã xây dựng
khái niệm thƣơng mại điện tử, các đặc điểm và vai trò của thƣơng mại điện tử,
khái quát khung pháp lý của một số quốc gia và chủ thể quốc tế cũng nhƣ
pháp luật của Romani về TMĐT. Qua nghiên cứu thấy rằng, khái niệm cũng
nhƣ các đặc điểm cơ bản của thƣơng mại điện tử trong công trình này có
những điểm tƣơng đồng với Luật mẫu về thƣơng mại điện tử (UNCITRAL)
của Ủy ban Thƣơng mại Quốc tế khuyến nghị các quốc gia thành viên trong
việc xây dựng pháp luật về thƣơng mại điện tử của mình.
Cuốn “Cẩm nang pháp lý về hợp đồng điện tử” do GS. TS. Nguyễn
Thị Mơ chủ biên [16] đã làm rõ các vấn đề nội hàm khái niệm của hợp đồng
điện tử; những vấn đề pháp lý cần nắm bắt khi giao kết hợp đồng điện tử;
khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử trên cơ sở làm rõ các đặc điểm
của hợp đồng thƣơng mại điện tử, thời điểm phát sinh hiệu lực và giá trị pháp
lý, hậu quả pháp lý đối với việc giải quyết các tranh chấp
“Tài liệu hướng dẫn học tập thương mại điện tử” của tác giả Trần
Thanh Điện [9] Đại học Cần Thơ nghiên cứu và biên soạn năm 2013 đã phản
ánh những vấn đề cơ bản về thƣơng mại điện tử, vấn đề an toàn và bảo mật
trên mạng, các chính sách và pháp luật về thƣơng mại điện tử.
10
Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Văn Thoan về “Ký kết và
thực hiện hợp đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc
tế”[24] tại Đại học Ngoại Thƣơng năm 2010 đã nghiên cứu chủ yếu dƣới góc
độ kinh tế của hợp đồng điện tử nhƣ các loại hợp đồng điện tử, đƣa ra định
nghĩa về thƣơng mại điện tử, các chủ thể tham gia, các mô hình hợp đồng
điện tử, nghiên cứ vai trò, tác động đối với nền kinh tế, một số kiến nghị về
xây dựng khung pháp luật để điều chỉnh hợp đồng điện tử, định hƣớng các
giải pháp để thúc đẩy thƣơng mại điện tử.
Bên cạnh đó, Luận án Tiến sĩ kinh tế của Đào Anh Tuấn về “Quản lý
nhà nước về thương mại điện tử” [28] tại Trƣờng Đại học kinh tế Quốc dân
2014 đã nghiên cứu khái niệm thƣơng mại điện tử theo nghĩa rộng, với quan
điểm này thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu là việc tiến hành một khâu hoặc toàn
bộ quy trình của hoạt động kinh doanh bằng các phƣơng tiện điện tử có kết
nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.
Luận án đã nghiên cứu xây dựng và đề xuất bộ tiêu chí để đánh giá hoạt động
quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử trên cơ sở vận dụng mô hình
Outcome và phƣơng pháp luận về đánh giá chính sách của Ngân hàng thế
giới.
Dƣới góc độ pháp lý liên quan đến hình thức hợp đồng điện tử, có một
số công trình nhƣ:
Công trình nghiên cứu của TS. Luật học Trần Văn Biên về “Hợp đồng
điện tử theo pháp luật Việt Nam” [3]đã đề cập những vấn đề lý luận và thực
tiễn nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng điện tử
trong giai đoạn hiện nay. Theo nội dung của cuốn sách, tác giả đã xây dựng
khái niệm về hợp đồng điện tử, về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia
quan hệ hợp đồng điện tử, điều kiện làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng điện
tử, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng điện tử,
hậu quả pháp lý đối với hợp đồng điện tử có hiệu lực cũng nhƣ hợp đồng điện
tử vô hiệu.
11
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Hà Vũ [30] với đề tài:
“Xây dựng khung pháp lý nhằm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam” đã
đi sâu nghiên cứu những yêu cầu đối với pháp luật thƣơng mại điện tử
nhƣ:Th a nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu; quy định về giá trị
pháp lý và các nội dung cụ thể của chữ ký điện tử và vấn đề bản gốc; đảm bảo
sự thống nhất giữa các quy định pháp luật về kinh tế - thƣơng mại – dân sự và
đảm bảo sự phù hợp với pháp luật thƣơng mại quốc tế; hoàn thiện các quy
định pháp luật về thuế và thanh toán điện tử; xây dựng các quy định pháp luật
về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng phù hợp với thƣơng mại điện tử; bảo vệ
bí mật cá nhân trong môi trƣờng thƣơng mại điện tử; quy định cụ thể về bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện tử; phòng chống tội phạm và
các vi phạm hành chính trong thƣơng mại điện tử; đảm bảo giá trị chứng cứ
của thông điệp dữ liệu.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ở trên đã bƣớc đầu tiếp cận ở
những mức độ khác nhau về lý luận của pháp luật thƣơng mại điện tử nhƣng
chƣa xây dựng đƣợc các khái niệm hoàn chỉnh hay chỉ ra các đặc điểm, cơ
chế thực hiện, cơ chế giải quyết tranh chấp đặc thù của pháp luật thƣơng mại
điện tử so với pháp luật thƣơng mại truyền thống. Các tác giả chƣa nghiên
cứu các nguyên tắc, nội dung cũng nhƣ đặc điểm của pháp luật thƣơng mại
điện tử, cơ chế thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử. Các kết quả nghiên
cứu của các tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp
đồng điện tử.
b) Những nghiên cứu về thực trạng pháp luật thương mại điện tử
Các công trình nghiên cứu về thƣơng mại điện tử đều nghiên cứu về
thực trạng pháp luật thƣơng mại điện tử đặt trong mối quan hệ giữa thƣơng
mại điện tử với các quy định hiện hành và đặt ra các yêu cầu chung về hoàn
thiện hệ thống pháp luật có liên quan. Trong luận án Tiến sĩ nghiên cứu về
“Hợp đồng điện tử” của tác giả Trần Văn Biên [3] có nghiên cứu về chế định
hợp đồng của Bộ luật Dân sự, Luật Thƣơng mại, Luật Giao dịch điện tử, Luật
12
Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, Nghị định về thƣơng mại điện tử và các
văn bản pháp luật khác để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hợp đồng điện
tử trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật bảo vệ các chủ thể tham gia hợp đồng
cũng nhƣ xác định đối tƣợng của hợp đồng trong mối quan hệ giữa Luật
chung và Luật chuyên ngành. Tác giả cũng đánh giá về thực trạng giải quyết
tranh chấp hợp đồng điện tử. Tác giả đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh
hợp đồng điện tử còn thiếu, bất cập và cần hoàn thiện để đảm bảo tính thống
nhất, minh bạch, khả thi.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Lại Kiên Cƣờng [4] với đề tài“Phòng chống
tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử”. Với mục đích góp phần xây
dựng hệ thống lý luận về tội phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, luận án
nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhƣ khái niệm, đặc điểm của tội phạm trong
lĩnh vực thƣơng mại điện tử [4, tr35]. Trên cơ sở nghiên cứu, luận án đã xây
dựng có hệ thống những vấn đề lý luận về hoạt động phòng ng a tội phạm
trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử nhƣ: khái niệm, cơ sở pháp lý, nội dung,
biện pháp, mối quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế trong phòng ng a tội
phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử.
Luận án cũngđã nghiên cứu thực trạng pháp luật về các biện pháp chế
tài của pháp luật thƣơng mại điện tử, trong đó đi sâu vào nghiên cứu nguyên
nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội, chế tài hình sự, công cụ để đấu
tranh, phòng chống tội phạm liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử của
lực lƣợng cảnh sát Nhân dân, cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trong lực
lƣợng. Phòng chống tội phạm chỉ là một phƣơng diện trong tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử nhằm đảm
bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nƣớc, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử và ngăn ng a, răn đe
các hành vi tƣơng tự. Luận án đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực tiễn thực
trạng phòng ng a tội phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử của lực lƣợng
13
Cảnh sát nhân dân trên phạm vi toàn quốc t năm 2006 đến tháng 6 năm
2014.
Luận án của tác giả Nguyễn Đức Tài [23] về “Giải pháp nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam”
cũng đánh giá thực trạng hiệu lực quản lý nhà nƣớc trong vấn đề đảm bảo an
toàn trong thƣơng mại điện tử ở Việt Nam, một trong bảy nội dung cơ bản của
pháp luật TMĐT. Tác giả tập trung nghiên cứu cơ chế quản lý của các cơ
quan t trung ƣơng tới địa phƣơng cũng nhƣ đánh giá thực trạng hiệu quả
quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử.
Còn Luận án Tiến sĩ của tác giả Đào Anh Tuấn với đề tài “Quản lý nhà
nước về thương mại điện tử” [28] đã nhận định về pháp luật thƣơng mại điện
tử là chƣa điều chỉnh hết nhiều lĩnh vực mới nảy sinh trong thƣơng mại điện
tử, chƣa đảm bảo độ an toàn, tin cậy dẫn đến niềm tin của ngƣời tiêu dùng đối
với thƣơng mại điện tử còn thấp, các chính sách pháp luật về phát triển nguồn
nhân lực cho thƣơng mại điện tử còn chƣa đáp ứng đƣợc các yêu cầu thực tiễn
pháp luật quy định về hoạt động kiểm tra, thanh tra thƣơng mại điện tử chƣa
đƣợc chú trọng.
Tác giả Lê Hà Vũ [30] với đề tài “Xây dựng khung pháp lý nhằm phát
triển thương mại điện tử ở Việt Nam”khi đánh giá thực trạng pháp luật
vềthƣơng mại điện tử thì cho rằng, chƣa có quy định pháp luật điều chỉnh về
vấn đề tài sản ảo; còn thiếu các quy định về thuế, quản lý thuế điện tử và
thanh toán điện tử. Luật Sở hữu trí tuệ hiện nay cũng chƣa thật phù hợp với
việc phát triển thƣơng mại điện tử v.v…
Khi nghiên cứu thực trạng pháp luật TMĐT, các tác giả chỉ nghiên cứu
thực trạng của Hợp đồng điện tử, thực trạng và đánh giá hiệu quả quản lý nhà
nƣớc và đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực này, kết quả nghiên
cứu chƣa đƣợc toàn diện và đầy đủ về các nội dung cũng nhƣ cơ chế thực
hiện pháp luật thƣơng mại điện tử trên cơ sở các quy định của pháp luật
TMĐT, chƣa nghiên cứu thực trạng bảo đảm thực hiện các nguyên tắc, nội
14
dung cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử. Các tác giả chỉ quan tâm
nghiên cứu đến các chế tài hành chính trong quản lý nhà nƣớc và đấu tranh
phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. Việc nghiên cứu cơ
chế giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp thay thế hay trọng tài, giải quyết
bằng thủ tục tố tụng tại tòa án chƣa đƣợc nghiên cứu.
c) Về những kiến nghị hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử
Những kiến nghị, đề xuất của các tác giả trong các công trình nghiên
cứu về pháp luật thƣơng mại điện tử hoặc có liên quan đều tập trung vào việc
hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử. Tác giả
Nguyễn Đức Tài trong “Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam” đề xuất một số giải pháp
nhƣ: Cần công nhận thƣơng mại điện tử là một ngành trong hệ thống các
ngành kinh tế quốc dân; quy định rõ về trách nhiệm, quyền hạn của các bên
tham gia thƣơng mại điện tử đối với các hình thức thƣơng mại điện tử mới
nảy sinh; hoàn thiện các quy định về thƣơng mại điện tử xuyên biên giới;
công nhận giá trị pháp lý của chứng cứ điện tử; hoàn thiện các quy định về
giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử” [23]. Trong công trình về
“Hợp đồng điện tử” của tác giả Trần Văn Biên cũng đƣa ra một số giải pháp
về hoàn thiện pháp luật liên quan đến hợp đồng và hợp đồng điện tử nhƣ: Bổ
sung chế định riêng về hợp đồng điện tử trong Bộ luật Dân sự [3, 3, tr.186];
công chứng hợp đồng điện tử và công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật [3,
tr.191] và một số giải pháp khác về hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp
hợp đồng điện tử v.v…
Trên cơ sở nhận thức lý luận, khảo sát thực tiễn, Luận án của tác giả Lại
Kiên Cƣờng [4] với đề tài “Phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thương mại
điện tử” đã đƣa ra những nhận định, đánh giá, kết luận có căn cứ, chỉ ra
những hạn chế và nguyên nhân tồn tại, dự báo những yếu tố ảnh hƣởng đến
hoạt động phòng ng a tội phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. Luận án
đã đề xuất 06 nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ng a tội
15
phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả Lê Hà Vũ với đề tài “Xây dựng khung pháp lý nhằm phát triển
thương mại điện tử ở Việt Nam” [30] cũng đƣa ra ba nhóm giải pháp để hoàn
thiện khung pháp lý về thƣơng mại điện tử và đề xuất những nguyên tắc cơ
bản trong quá trình hoàn thiện nhƣ: Tiến hành song song giữa việc ban hành
các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử, Luật Thƣơng mại với
việc ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật điều chỉnh
các vấn đề cụ thể liên quan đến thƣơng mại điện tử. Kết hợp cụ thể hóa và
đồng bộ hóa để đảm bảo sự thống nhất, tƣơng thích giữa các quy định pháp
luật về thƣơng mại điện tử; hoàn thiện các quy định của pháp luật về thƣơng
mại điện tử theo chuẩn mực chung của thế giới. Hoàn thiện pháp luật về
thƣơng mại điện tử để ngăn ng a, hạn chế các rủi ro nhƣng tránh sự bó buộc,
không phát huy những ƣu thế vốn có của các giao dịch điện tử. Hoàn thiện
các quy định pháp luật về thƣơng mại điện tử cần tính đến những đặc điểm về
văn hóa, tâm lý, thói quen, sự sẵn sàng về thƣơng mại điện tử và trình độ phát
triển của công nghệ ở nƣớc ta.
Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu có liên quan đến TMĐT hay các
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Luật đều đƣa ra kiến nghị, trong đó hoàn thiện
pháp luật để thúc đẩy TMĐT phát triển là yếu tố tiên quyết. Các công trình
đều có điểm chung là đƣa ra các định hƣớng hoàn thiện pháp luật dựa trên các
tiêu chí nhƣ: Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, kinh tế và
phù hợp với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế thế giới; đảm bảo lợi ích nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử, qua đó thúc đẩy thƣơng mại điện
tử phát triển tƣơng xứng với lợi thế và tiềm năng.Tuy nhiên, các công trình
chƣa đƣa ra đƣợc phƣơng hƣớng và đề xuất tổng thể hoàn thiện pháp luật
TMĐT trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc và nội dung đặc thù của pháp luật
TMĐT cũng nhƣ cơ chế thực hiện trong đó có cơ chế giải quyết tranh chấp.
16
1.1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và các vấn đề luận án kế
thừa
Qua nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên cứu đã công bố có liên
quan đến pháp luật về thƣơng mại điện tử ở ngoài nƣớc cũng nhƣ ở trong
nƣớc thời gian qua, có thể đƣa ra các nhận xét nhƣ sau:
Thứ nhất, các tác giả trong và ngoài nƣớc khi nghiên cứu về thƣơng
mại điện tử và pháp luật về thƣơng mại điện tử đều xây dựng khái niệm
thƣơng mại điện tử, các đặc trƣng cơ bản của thƣơng mại điện tử nhằm phân
biệt với thƣơng mại truyền thống, mục đích điều chỉnh pháp luật đối với
thƣơng mại điện tử v.v. Trong nội dung nghiên cứu, các tác giả nhấn mạnh
đến những tác động của thƣơng mại điện tử đối với sự phát triển kinh tế, đặc
biệt là những vấn đề phát sinh liên quan đến thuế, chống rửa tiền, các yếu tố
bảo mật và việc bảo đảm an toàn cho các giao dịch thƣơng mại điện tử.
Thứ hai, kể t khi thƣơng mại điện tử hình thành và phát triển tại Việt
Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thƣơng mại điện tử dƣới nhiều
góc độ khác nhau, nhƣng chủ yếu là nghiên cứu góc độ kinh tế xã hội của
thƣơng mại điện tử, vị trí, vai trò của thƣơng mại điện tử đối với đời sống xã
hội cũng nhƣ xu hƣớng phát triển của thƣơng mại điện tử trong giai đoạn
trƣớc mắt cũng nhƣ về lâu dài. Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nƣớc đều tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về thƣơng mại
điện tử, đặc điểm của thƣơng mại điện tử, tính ƣu việt cũng nhƣ xu hƣớng
phát triển tất yếu của thƣơng mại điện tử trong thời kỳ toàn cầu hóa trên mọi
phƣơng diện của thế giới hiện đại. Những nghiên cứu chuyên sâu đối với t ng
yếu tố ảnh hƣởng tới hoạt động thƣơng mại điện tử, chính sách phát triển
thƣơng mại điện tử của mỗi quốc gia cũng nhƣ trên bình diện toàn cầu. Yếu tố
hợp tác quốc tế đối với những vấn đề phát sinh trong giải quyết tranh chấp
liên quan đến hoạt động thƣơng mại nói chung và thƣơng mại điện tử nói
riêng cũng đƣợc nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ và đƣợc coi nhƣ khung cơ bản
của các kiến nghị.
17
Mặc dù, các nghiên cứu về thƣơng mại điện tử không phải là dƣới góc
độ khoa học pháp lý thuần túy, nhƣng trong các kiến nghị, giải pháp đƣợc nêu
ra trong các công trình nghiên cứu trên luôn đặt vấn đề chính sách pháp luật,
khung pháp luật cũng nhƣ yêu cầu hoàn thiện pháp luật giữ vai trò quan trọng,
tiên quyết cho việc phát triển thƣơng mại điện tử, đặc biệt là trong điều kiện
Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, trên cơ sở dữ liệu của Thƣ viện Quốc gia và các công cụ tìm
kiếm trên internet, thì trong các công trình nghiên cứu đã công bố, nhu cầu
xây dựng hành lang pháp lý để đảm bảo tính an toàn cho các giao dịch điện
tử, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động công tác này cũng
đã đƣợc đề cập nhƣng chỉ mang tính khái quát, chƣa có tác giả nào nghiên
cứu một cách tổng quát, toàn diện về pháp luật thƣơng mại điện tử kể t khi
thƣơng mại điện tử và pháp luật thƣơng mại điện tử hình thành và phát triển ở
Việt Nam.
Thƣơng mại điện tử và pháp luật thƣơng mại điện tử còn mới mẻ ở Việt
Nam nhƣng đang có xu hƣớng phát triển mạnh mẽ. Để kịp thời điều chỉnh
pháp luật đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thƣơng mại điện
tử, Nhà nƣớc cần phải hoàn thiện pháp luật trên cơ sở nghiên cứu khoa học
cũng nhƣ các kết quả khảo sát, điều tra xã hội học để xây dựng cho phù hợp.
Qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả về thƣơng mại điện tử và
một số khía cạnh của pháp luật thƣơng mại điện tử, quản lý nhà nƣớc về
thƣơng mại điện tử đã công bố cho thấy, các tác giả đã phân tích và hệ thống
một cách tƣơng đối toàn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận về thƣơng mại
điện tử cũng nhƣ xây dựng, làm rõ khái niệm, đặc điểm cũng nhƣ vai trò của
thƣơng mại điện tử đối với nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam. Các nghiên
cứu về pháp luật thƣơng mại điện tử cũng đã bƣớc đầu làm rõ khái niệm, đặc
điểm và các nguyên tắc của pháp luật thƣơng mại điện tử trên phƣơng diện lý
luận, thực trạng cũng nhƣ đề xuất các kiến nghị giải pháp trong việc hoàn
thiện pháp luật thƣơng mại điện tử.
18
Thứ tư, thông qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nƣớc, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những giá trị cơ bản, thiết yếu
mang tính nền tảng của thƣơng mại điện tử, tác giả sẽ kế th a và tiếp tục phát
triển những vấn đề lý luận đã đƣợc nghiên cứu làm tƣ liệu để xây dựng và
hoàn thiện đề tài “Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” đó là
những vấn đề sau đây: (i) Khái niệm và đặc điểm của thƣơng mại điện tử;
những bộ phận hợp thành của thƣơng mại điện tử; mục tiêu điều chỉnh pháp
luật... (ii) Đặc trƣng cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử xuất phát t các
đặc điểm của phƣơng thức giao dịch TMĐT cũng nhƣ nhu cầu điều chỉnh
pháp luật; (iii) Thực trạng pháp luật về thƣơng mại điện tử tại Việt Nam hiện
nay với khung pháp luật hợp thành bởi những văn bản có liên quan cũng nhƣ
áp dụng tập quán trong thƣơng mại quốc tế và cơ chế thực hiện còn nhiều bất
cập; (iv) Những kiến nghị, giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật của
Việt Nam nhằm phát triển thƣơng mại điện tử một cách bền vững và hiệu quả
trên cơ sở của những dự báo chính xác.
1.1.3. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế th a những công trình khoa học đã đƣợc nghiên cứu, tác
giả cho rằng, thƣơng mại điện tử là xu thế tất yếu trong sự phát triển thƣơng
mại, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
chất lƣợng cuộc sống của ngƣời dân và năng cao khả năng cạnh tranh của nền
sản xuất, thƣơng mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để đƣa ra các
đề xuất, kiến nghị, giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện tử
thì cần phải nghiên cứu đầy đủ các tri thức lý luận về thƣơng mại điện tử và
pháp luật thƣơng mại điện tử. Có nhƣ vậy mới có cơ sở lý luận vững chắc, sát
với thực tiễn để đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, khả thi của các ngành
luật, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại của các cá
nhân, tổ chức đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này trên phƣơng
diện luật học không nhiều, những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra chƣa đƣợc
19
giải quyết triệt để hoặc chỉ còn mang tính lịch sử trong khi các quan hệ xã hội
đa dạng đã thay đổi mạnh mẽ. Vì vậy, đề tài cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu một
cách nghiêm túc, thỏa đáng:
Thứ nhất, trên cơ sở khái niệm về thƣơng mại điện tử, cần xây dựng
khái niệm về pháp luật thƣơng mại điện tử, chỉ ra các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật thƣơng mại điện tử, yêu cầu thực hiện pháp luật và những nội dung
chủ yếu của pháp luật thƣơng mại điện tử. Nghiên cứu cơ chế thực hiện pháp
luật và cơ chế giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử cũng nhƣ cơ chế
phối hợp giữa các chủ thể quản lý nhà nƣớc trong việc tổ chức thực hiện, thực
thi pháp luật thƣơng mại điện tử.Hệ thống hóa và làm sâu sắc thêm những vấn
đề lý luận về pháp luật thƣơng mại điện tử.
Thứ hai, kế th a kết quả nghiên cứu trƣớc đây, Luận án tiếp tục nghiên
cứu để giải quyết những vấn đề chƣa phù hợp, hạn chế; trên cơ sở lý luận và
nghiên cứu thực trạng pháp luật, thực trạng thực thi pháp luật, luận án đề xuất
quan điểm, định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện tử
bảo đảm tính khả thi và mang lại hiệu quả thực hiện pháp luật đối với các
quan hệ xã hội phát sinh trong thƣơng mại điện tử.
Thứ ba, Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, tham gia các Hiệp định Thƣơng mại tự do (FTA) và đã ký
Hiệp định TPP đã đặt ra nhiều thách thức đối với khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nƣớc. Nên việc hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy phát
triển thƣơng mại điện tử là một giải pháp vô cùng quan trọng và hiệu quả.
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.2.1. M t số l thuyết nghiên cứu đƣ c sử dụng trong luận án
- Các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng thể chế kinh tế thị
trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế với những
cam kết quốc tế về thƣơng mại, dịch vụ theo cơ chế thị trƣờng. Đặc biệt là các
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật với tầm nhìn đến năm 2020.
20
- Các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về việc đẩy mạnh ứng dụng và
phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, trong đó có yêu cầu về tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong các
lĩnh vực thƣơng mại bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững
của thị trƣờng.
- Các lý thuyết đƣợc áp dụng trong quá trình thực hiện đề tài nhƣ:Lý
thuyết về tự do kinh doanh, Lý thuyết về công bằng trong thƣơng mại, Lý
thuyết về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, Lý thuyết về Xã hội học pháp
luật; Lý thuyết về tính công khai, minh bạch;
1.2.2. Hƣớng tiếp cận nghiên cứu đề tài
Đề tài sẽ tiếp cận đến các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thƣơng mại
điện tử mà luật điều chỉnh, đồng thời tiếp cận những quy phạm pháp luật
thƣơng mại điện tử không chỉ khung pháp luật thƣơng mại mà trong các
ngành luật khác nhau nhƣng có liên quan đến thƣơng mại điện tử nhƣ công
nghệ thông tin, viễn thông, bảo mật và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ
ngƣời tiêu dùng v.v... Nghiên cứu các quy phạm pháp luật thực định, đánh giá
tiêu chí, yêu cầu chung đối với các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ TMĐT đặc thù cũng nhƣ cơ chế thực hiện. Luận án tiếp cận dựa
trên các yêu cầu mang tính chuyên ngành phù hợp với đặc điểm của thƣơng
mại điện tử và pháp luật thƣơng mại điện tử.
1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề thuộc nội dung của đề tài nghiên cứu, các câu
hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu đƣợc xây dựng và đặt ra nhƣ sau:
a. Về khía cạnh lý luận, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:
Câu hỏi nghiên cứu 1: Khái niệm, đặc điểm và của thƣơng mại điện tử
có phù hợp với thực tiễn hiện nay hay không?
Giả thuyết nghiên cứu: Thƣơng mại điện tử là lĩnh vực thƣơng mại đặc
thù, có sự khác biệt với thƣơng mại truyền thống. Các thành tố nền tảng hợp
thành thƣơng mại điện tử cũng có những đặc điểm riêng. Hiện nay khái niệm
21
về thƣơng mại điện tử đã đƣợc ghi nhận, tuy nhiên, do sự phát triển nhanh
chóng của thƣơng mại điện tử thì khái niệm về thƣơng mại điện tử có còn phù
hợp hay không? Việc xây dựng khái niệm đó có bao quát đƣợc hết các quan
hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử mà luật điều chỉnh hay
không.
Câu hỏi nghiên cứu 2: Yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với thƣơng
mại điện tử?
Giả thuyết nghiên cứu: Do thƣơng mại điện tử có nhiều các yếu tố đặc
thù, đặt ra nhu cầu có các quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình các cá nhân tổ chức mua bán hàng hóa, dịch vụ
thông qua phƣơng tiện điện tử. Sự tác động của pháp luật đối với các quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử sẽ đảm bảo tính an toàn
và hiệu quả cho các giao dịch thƣơng mại điện tử.
Câu hỏi nghiên cứu 3: Khái niệm và đặc điểm của pháp luật thƣơng
mại điện tử?
Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật về thƣơng mại điện tử là một lĩnh vực
đặc thù của pháp luật thƣơng mại truyền thống với những đặc trƣng riêng. Vì
vậy, cần nghiên cứu để nhận diện đặc trƣng của pháp luật thƣơng mại điện tử
với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu 4: Cơ chế thực hiện của pháp luật thƣơng mại điện
tử?
Giả thuyết nghiên cứu: Cơ chế thực hiện pháp luật về thƣơng mại điện
tử là cách thức mà các chủ thể áp dụng pháp luật sử dụng các quy phạm pháp
luật tác động lên các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thƣơng mại điện
tử; quy định các chủ thể và thiết chế tổ chức thực hiện pháp luật về thƣơng
mại điện tử.
Câu hỏi nghiên cứu 5: Những nội dung cơ bản của pháp luật thƣơng
mại điện tử?
22
Giả thuyết nghiên cứu: Những nội dung cơ bản của pháp luật thƣơng
mại điện tử bao gồm các vấn đề chủ yếu điều chỉnh trong quá trình thực hiện
giao dịch thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử nhằm bảo đảm tính an
toàn, hiệu quả và công bằng trong các quan hệ này.
b. Về thực trạng pháp luật câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:
Câu hỏi nghiên cứu 6: Thực trạng hệ thống các quy định pháp luật
thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện nay?
Giả thuyết nghiên cứu: Thực trạng pháp luật thƣơng mại điện tử hiện
nay đã bao quát các vấn đề liên quan đến thƣơng mại điện tử, tuy nhiên chƣa
đồng bộ, thống nhất và chƣa thật sự hiệu quả.
Câu hỏi nghiên cứu 7: Thực trạng cơ chế áp dụng pháp luật thƣơng
mại điện tử ở Việt Nam hiện nay nhƣ thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu: Do hệ thống pháp luật về thƣơng mại điện tử
chƣa toàn diện, thống nhất và hiệu quả, nên thực trạng thực thi pháp luật trong
lĩnh vực này kém hiệu quả, còn nhiều hạn chế và bất cập, năng lực của các cơ
quan thực thi và cơ chế phối hợp của các chủ thể áp dụng pháp luật thƣơng
mại điện tử còn hạn chế.
Câu hỏi nghiên cứu 8: Yêu cầu hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện
tử ở Việt Nam là gì?
Giả thuyết nghiên cứu: T các vấn đề thuộc khung lý luận về pháp luật
thƣơng mại điện t , t thực trạng pháp luật và thực trạng cơ chế thực hiện, đặt
ra các yêu cầu là phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả cơ chế thực
hiện pháp luật về thƣơng mại điện tử.
c. Về đề xuất, kiến nghị câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:
Câu hỏi nghiên cứu 9: Các quan điểm, định hƣớng hoàn thiện pháp luật
thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là gì?
Giả thuyết nghiên cứu: Các quan điểm, định hƣớng hoàn thiện pháp
luật thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện nay phải xuất phát t yêu cầu hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế
23
khu vực và thế giới, phúc đáp đƣợc yêu cầu phát triển mạnh mẽ của thƣơng
mại điện tử ở Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu 10: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật thƣơng mại
điện tử là gì?
Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam
cần đƣợc hoàn thiện nhằm đáp ứng các yêu cầu của các giao dịch TMĐT
trong bối cảnh tăng cƣờng, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
cũng nhƣ đảm bảo yêu cầu phát triển của thƣơng mại điện tử ở Việt Nam và
tăng cƣờng hiệu quả thực thi pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua một số công trình nghiên cứu về thƣơng mại điện tử và một số khía
cạnh của pháp luật thƣơng mại điện tử, quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện
tử đã công bố cho thấy, các tác giả đã phân tích và hệ thống một cách tƣơng
đối toàn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận về thƣơng mại điện tử cũng nhƣ
xây dựng, làm rõ khái niệm, đặc điểm cũng nhƣ vai trò của thƣơng mại điện
tử đối với nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam. Các nghiên cứu về pháp luật
thƣơng mại điện tử cũng đã làm rõ khái niệm, đặc điểm và các nguyên tắc của
pháp luật thƣơng mại điện tử trên phƣơng diện lý luận, thực trạng cũng nhƣ
đề xuất các kiến nghị giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật thƣơng mại
điện tử.
T việc nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu, cho phép tác giả
chỉ ra đƣợc các vấn đề về lý luận và thực tiễn cần kế th a, t đó làm rõ những
nội dung cần phải triển khai nghiên cứu trong nội dung luận án của mình.
Cũng t tổng quan tình hình nghiên cứu, trong Chƣơng 1, tác giả đã dự kiến
đƣợc cơ sở lý thuyết nghiên cứu, đặt ra các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
nhằm hình thành các luận điểm nghiên cứu chính trong nội dung luận án.
24
CHƢƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ PHÁP LUẬT
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.1.1. Khái niệm thƣơng mại điện tử
Thƣơng mại điện tử, hiểu theo nghĩa thông thƣờng nhất là giao dịch
thƣơng mại thông qua môi trƣờng điện tử. Khái niệm của International
Business Machines (IBM) - một tập đoàn công nghệ máy tính đa quốc gia
đƣa ra trong thập niên 1990 về thƣơng mại điện tử là: “Hiểu theo nghĩa rộng,
thƣơng mại điện tử bao gồm tất cả các loại giao dịch thƣơng mại mà trong đó
các đối tác giao dịch sử dụng các kỹ thuật thông tin trong khuôn khổ chào
mời, thảo thuận hay cung cấp dịch vụ”. Chiến dịch quảng cáo của IBM trong
năm 1998 dựa trên khái niệm “E-Commerce” đƣợc sử dụng t khoảng năm
1995, khái niệm mà ngày nay đƣợc xem là một lĩnh vực nằm trong kinh
doanh điện tử (E-Business). Các quy trình kinh doanh điện tử có thể đƣợc
nhìn t phƣơng diện trong nội bộ của một doanh nghiệp hay t phƣơng diện
ngoài doanh nghiệp (thị trƣờng điện tử, E-Commerce,…).
Các tổ chức quốc tế đã xây dựng khái niệm dựa vào phân tích về nghĩa
hẹp và nghĩa rộng của thƣơng mại điện tử. Hiểu theo nghĩa hẹp, thƣơng mại
điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp trong việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông
qua các phƣơng tiện điện tử, nhất là qua Internet và các mạng liên thông
khác.Theo Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), thƣơng mại điện tử bao
gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm đƣợc mua bán
và thanh toán trên mạng Internet, nhƣng đƣợc giao nhận một cách hữu hình,
cả các sản phẩm giao nhận cũng nhƣ những thông tin số hoá thông qua mạng
Internet. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), thƣơng mại
điện tử là việc làm kinh doanh thông qua mạng Internet, bán những hàng hoá
25
và dịch vụ có thể đƣợc phân phối không thông qua mạng hoặc những hàng
hoá có thể mã hoá bằng kỹ thuật số và đƣợc phân phối thông qua mạng hoặc
không thông qua mạng.Uỷ ban Thƣơng mại điện tử của Tổ chức hợp tác kinh
tế châu Á-Thái Bình Dƣơng (APEC) cũng định nghĩa, thƣơng mại điện tử là
công việc kinh doanh đƣợc tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công
nghệ tin học kỹ thuật số. Còn theo Hiệp hội Thƣơng mại điện tử (AEC),
thƣơng mại điện tử là làm kinh doanh có sử dụng các công cụ điện tử. Định
nghĩa này rộng, coi hầu hết các hoạt động kinh doanh t đơn giản nhƣ một cú
điện thoại giao dịch đến những trao đổi thông tin EDI phức tạp đều là thƣơng
mại điện tử.
Luật mẫu về thƣơng mại điện tử của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về thƣơng
mại quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: “Thƣơng mại điện tử là việc trao đổi
thông tin thƣơng mại thông qua các phƣơng tiện điện tử, không cần phải in ra
giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch [42].Thuật ngữ
thƣơng mại (commerce) cần đƣợc diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các
vấn đề phát sinh t mọi quan hệ mang tính chất thƣơng mại dù có hay không
có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thƣơng mại (commercial) bao gồm,
nhƣng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về
cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện
hoặc đại lý thƣơng mại, uỷ thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn
(leasing); xây dựng các công trình; tƣ vấn, kỹ thuật công trình (engineering);
đầu tƣ; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô nhƣợng,
liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên
chở hàng hoá hay hành khách bằng đƣờng biển, đƣờng không, đƣờng sắt hoặc
đƣờng bộ”. Theo định nghĩa này, phạm vi hoạt động của thƣơng mại điện tử
rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó, hoạt động
mua bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thƣơng mại
điện tử.
26
Theo Uỷ ban châu Âu, thƣơng mại điện tử gồm nhiều hành vi nhƣ hoạt
động mua bán hàng hoá; dịch vụ; giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên
mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá
thƣơng mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên trên mạng; mua sắm công cộng; tiếp
thị trực tiếp với ngƣời tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối với thƣơng
mại hàng hoá (nhƣ hàng tiêu dùng, thiết bị y tế chuyên dụng) và thƣơng mại
dịch vụ (nhƣ dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt
động truyền thống (nhƣ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục) và các hoạt động
mới(nhƣ siêu thị ảo) v.v... Với cách định nghĩanày, “thƣơng mại” (commerce)
trong “thƣơng mại điện tử” không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade)
theo các hiểu thông thƣờng, mà bao quát một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, do
đó việc áp dụng thƣơng mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của
hầu hết nền kinh tế. Theo ƣớc tính đến nay, thƣơng mại điện tử có tới trên
1.300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một
lĩnh vực ứng dụng.
Ở Việt Nam, khái niệm thƣơng mại điện tử cũng đƣợc các nhà nghiên
cứu đƣa ra.Theo tác giả Nguyễn Hữu Anh, thƣơng mại điện tử là hình thái sử
dụng các phƣơng tiện và phƣơng pháp điện tử để thực hiện các hoạt động
thƣơng mại không cần đến giấy tờ tại bất kỳ công đoạn nào của quá trình giao
dịch (còn đƣợc gọi là thƣơng mại không giấy tờ - paperless trade).Còn theo
tác giả Mai Anh thì thƣơng mại điện tử bao gồm mọi giao dịch đƣợc thực
hiện nhờ công nghệ số, nhất là việc dùng Internet, các mạng riêng để trao đổi
thông tin (EDI) và thẻ tín dụng [1].
Ở Việt Nam, khái niệm thƣơng mại điện tử đã đƣợc ghi nhận trong các
văn bản quy phạm pháp luật, theo đó thƣơng mại điện tử là việc tiến hành một
phần hay toàn bộ quy trình của hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện
tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông hoặc các mạng mở khác.
Nhƣ vậy, theo định nghĩa đó, thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu theo nghĩa
rộng, trên cơ sở đó khái niệm về thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu một cách
27
thống nhất là:
“Thương mại điện tử là việc thực hiện một ph n ho c toàn bộ các quy
trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử được kết nối với
mạng Internet, mạng vi n thông di động ho c các mạng mở khác”.
Việc xây dựng khái niệm thƣơng mại điện tử theo nghĩa rộng đặt ra yêu
cầu điều chỉnh pháp luật thƣơng mại điện tử tƣơng ứng.
2.1.2. Đặc điểm của thƣơng mại điện tử
So với các hoạt động thƣơng mại truyền thống, thƣơng mại điện tử có
một số đặc điểm cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất,các bên trong giao dịch thương mại điện tử không tiếp xúc
trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải có quan hệ quen biết từ trước.Trong
thƣơng mại truyền thống, các bên thƣờng gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm
phán, thỏa thuận và ký kết các hợp đồng. T khi xuất hiện mạng máy tính
toàn cầu Internet thì việc trao đổi thông tin trong các hoạt động thƣơng mại đa
dạng đã mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lƣợngngƣời
tham gia ngày càng gia tăng. Những ngƣời tham gia là cá nhân hoặc doanh
nghiệp, có thể đã biết hoặc hoàn toàn chƣa biết nhau bao giờ.
Thứ hai, thương mại điện tử được thực hiện trong một thị trường
không có biên giới hay nói cách khác, thương mại điện tử được thực hiện trên
một thị trường thống nhất trên toàn c u. Trong nền kinh tế số, thông tin đƣợc
số hóa thành các byte, lƣu trữ trong máy tính và truyền qua mạng với tốc độ
cao. Điều này tạo ra những khả năng hoàn toàn mới làm thay đổi thói quen
tiêu dùng và mua bán của con ngƣời, mà trong đó ngƣời bán và ngƣời mua
hàng có thể giao dịch với đối tác ở bất cứ đâu trên thế giới.
Nếu nhƣ trong thƣơng mại truyền thống,biên giới quốc gia có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa thì trong thƣơng mại điện tử, khái niệm biên giới quốc gia không còn ý
nghĩa quá lớn.
Thứ ba,ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch thương mại
28
truyền thông, trong giao dịch thương mại điện tử xuất hiện thêm một bên thứ
ba là các nhà cung cấp dịch vụ qua mạng, các cơ quan chứng thực và quản
lý... Đây là những ngƣời tạo môi trƣờng cho các giao dịch thƣơng mại điện tử
đƣợc thực hiện. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực, quản lý
có nhiệm vụ chuyển đi, lữu trữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch
thƣơng mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận tính xác thực của các thông
tin trong giao dịch thƣơng mại điện tử.
Thứ tư,đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là
phương tiện để trao đ i dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới
thông tin chính là thị trường. Các trang Web nổi tiếng nhƣ Yahoo! America
Online, Google hay AltaVista v.v... đóng vai trò nhƣ các website gốc đƣa
khách hàng truy cập vào nhiều trang web khác với vô số thông tin. Các trang
web này đã trở thành các “khu chợ" khổng lồ trên mạng Internet.
Thứ n m, các loại hình giao dịch trong thương mại điện tử là rất
phong ph , bao gồm:(i) Mô hình giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp (B2B - Business to Business) đƣợc xem nhƣ là một trong hai mô hình
phát triển mạnh nhất trong ngành thƣơng mại điện tử, mô hình B2B áp dụng
trong việc giao tiếp, mua bán, sử dụng dịch vụ sản phẩm giữa các doanh
nghiệp với doanh nghiêp; (ii) Mô hình giao dịch giữa doanh nghiệp với khách
hàng (B2C - Business to Consumer) là mô hình phát triển mạnh nhất, phổ
thông nhất ở Việt Nam, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều Website, phƣơng
tiện hoạt động theo mô hình này; (iii) Mô hình giao dịch giữa doanh nghiệp
với cơ quan nhà nƣớc (B2G - Business to Government) là mô hình Website
thƣơng mại trong đó các doanh nghiệp có vai trò trong việc cung cấp thông tin,
dịch vụ, sản phẩm cho Nhà nƣớc. Việc tiêu thụ các sản phẩm phục vụ cho công
việc quản lý, điều hành của Nhà nƣớc cũng đƣợc xếp trong mô hình này; (iv)
Mô hình giao dịch trực tiếp giữa các cá nhân với nhau (C2C - Consumer to
Consumer) là mô hình trong đó các cá nhân là những ngƣời mua bán hàng hóa
hoặc sử dụng dịch vụ của cá nhân khác mà không phải là tổ chức kinh doanh.
29
Thứ sáu, hoạt động thương mại điện tử có tính rủi ro cao do lệ thuộc
vào các yếu tố kỹ thuật.
Hoạt động thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện qua các phƣơng tiện điện
tử có kết nối mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở
khác, do vậy, tiềm ẩn nhiều rủi ro nhƣ: Thông tin có thể bị đánh cắp hoặc bị
tiết lộ phục vụ mục đích khác, an toàn hệ thống có thể bị ảnh hƣởng do các
nguyên nhân khách quan nhƣ trục trặc kỹ thuật, hệ thống hoạt động không ổn
định v.v...
Nhƣ vậy, có thể nói đây là đặc điểm quan trọng của thƣơng mại điện tử
so với thƣơng mại truyền thống.
2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.2.1. Khái niệm pháp luật thƣơng mại điện tử
Trong bối cảnh công nghệ phát triển với một tốc độ nhanh chóng và các
tiến bộ kỹ thuật đƣợc sử dụng trong hoạt động thƣơng mại, và thƣơng mại
điện tử đã hình thành và phát triển, làm cho các loại hình thƣơng mại trở nên
phong phú, đa dạng, đáp ứng đƣợc nhu cầu của các cá nhân, tổ chức cũng nhƣ
thúc đẩy thƣơng mại phát triển. Những quan hệ xã hội phát sinh khi các chủ
thể là các cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động thƣơng mại đƣợc thực
hiện bằng các phƣơng tiện điện tử có kết nối mạng internet, mạng viễn thông
di động và các mạng mở khác ngày càng trở nên phổ biến và có tỷ trọng đáng
kể trong hoạt động thƣơng mại bởi những ƣu điểm của thƣơng mại điện tử.
Trên thực tế, những ƣu điểm của thƣơng mại điện tử luôn ẩn chứa những rủi
ro, là môi trƣờng mà ở đó các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại luôn có
thể bị xâm hại bởi các hành vi vi phạm của các đối tƣợng khác và có thể gây
ra những tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử. Để bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
30
chức tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử, Nhà nƣớc phải xây dựng,
banhành các quy định chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử.
Do những đặc điểm của thƣơng mại điện tử rất đa dạng nên pháp luật
điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này cũng có sự
tƣơng ứng. Các vấn đề pháp lý trong thƣơng mại điện tử liên quan đến nhiều
chế định pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Trong thƣơng mại truyền
thống, các bên thƣờng gặp nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch hoặc là những
ngƣời đã quen biết nhau t trƣớc. Còn trong thƣơng mại điện tử, các chủ thể
không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau t trƣớc.
Các giao dịch thƣơng mại truyền thống đƣợc phân định rõ ràng về ranh giới
quốc gia, trong khi đó thƣơng mại điện tử lại đƣợc thực hiện trong môi trƣờng
hay thị trƣờng phi biên giới. Tuy nhiên, thƣơng mại điện tử không thể thực
hiện đƣợc nếu không có ngƣời thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Nếu
nhƣ trong thƣơng mại truyền thống mạng lƣới là phƣơng tiện để trao đổi
thông tin thì trong thƣơng mại điện tử, mạng Internet chính là một thị trƣờng,
do vậy các vấn đề pháp lý nảy sinh trong thị trƣờng ảo là hoàn toàn khác.
Trên thực tế, thƣơng mại điện tử về cơ bản là việc ứng dụng các
phƣơng tiện điện tử vào hoạt động kinh doanh, thƣơng mại. Chủ thể tham gia
hoạt động thƣơng mại điện tử bên cạnh việc tuân thủ các quy định trực tiếp về
thƣơng mại điện tử, còn phải thực hiện các quy định pháp luật liên quan khác
nhƣ đầu tƣ kinh doanh, thƣơng mại, dân sự và công nghệ thông tin v.v… Vì
vậy, với tƣ cách là nhằm đảm bảo tính an toàn về mặt pháp lý cho những hoạt
động kinh doanh, thƣơng mại trên thị trƣờng ảo là mạng Internet, pháp luật về
thƣơng mại điện tử tập trung điều chỉnh những quan hệ phát sinh chủ yếu
trong lĩnh vực này mà hệ thống pháp luật kinh doanh, thƣơng mại truyền
thống chƣa điều chỉnh hoặc không thể điều chỉnh vì những đặc thù riêng của
các quan hệ thƣơng mại trong môi trƣờng điện tử.
31
Với cách lập luận ở trên, có thể đƣa ra khái niệm về pháp luật thƣơng
mại điện tử nhƣ sau:
“Pháp luật thương mại điện tử là t ng hợp các nguyên tắc, quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình các chủ thể là các cá nhân, t chức thực hiện các hoạt động
thương mại được thực hiện một ph n hay toàn bộ quy trình thương mại bằng
các phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng vi n thông di
động hay các mạng mở khác ”.
Nhƣ vậy, với khái niệm nhƣ trên, các quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động thƣơng mại điện tử đều đƣợc pháp luật điều chỉnh và đảm bảo đƣợc
lợi ích nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt
động thƣơng mại điện tử.
2.2.2. Đặc điểm của pháp luật thƣơng mại điện tử
T đặc thù của thƣơng mại điện tử, pháp luật về thƣơng mại điện tử
bao gồm những đặc trƣng cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất,quá trình hình thành các quy phạm pháp luật thương mại
điện tử được ra đời do sự xuất hiện của công nghệ thông tin và mạng Internet
trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam
Khi công nghệ thông tin, viễn thông, trong đó có mạng Internet đƣợc
sử dụng thì việc mua bán hàng hóa đã đƣợc nâng lên một tầm cao mới và
ngày càng phát triển nhanh chóng. Khi sản phẩm máy tính cá nhân phổ cập,
hạ tầng viễn thông phát triển, việc kết nối Internet trở thành nhu cầu tất yếu
của mọi cá nhân, gia đình, tổ chức, doanh nghiệp thì hoạt động thƣơng mại
truyền thống đã có bƣớc ngoặt lớn, thúc đẩy quá trình lƣu thông hàng hóa. Sự
hình thành các quan hệ thƣơng mại điện tử luôn tiềm ẩn những rủi ro xuất
phát t những đặc thù của phƣơng thức thƣơng mại mới cần sự điều chỉnh
bằng pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia quan hệ này.Trƣớc yêu cầu đó, pháp luật TMĐT đƣợc xây dựng kịp thời
để điều chỉnh các hoạt động thƣơng mại điện tử.
32
Thứ hai,nguồnpháp luật thương mại điện tử của các quốc gia có sự
tiếp thu từ pháp luật thương mại điện tử quốc tế và có sự vận dụng để điều
chỉnh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển ở từng quốc gia
Khi tham gia vào các tổ chức thƣơng mại khu vực hay toàn cầu hoặc
các điều ƣớc quốc tế liên quan thì các quốc gia cũng phải xây dựng pháp luật
của mình trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử đảm bảo các nguyên tắc chung cơ
bản theo luật chơi của các thiết chế đó. Trên thực tế, khi xây dựng pháp luật
thƣơng mại điện tử, các quốc gia thƣờng hoàn thiện theo hƣớng tiệm cận với
các tiêu chuẩn chung của quốc tế để đảm bảo các yếu tố, điều kiện hội nhập
của mình cũng nhƣ thực hiện các cam kết quốc tế khác mà mình công nhận
hoặc tham gia. Việc tiếp thu các quy định của luật quốc tế cũng dựa trên đặc
điểm của thƣơng mại điện tử là tính chất phi biên giới của các hoạt động
thƣơng mại điện tử.
Thứ ba, đối tượng điều chỉnh của quan hệ pháp luật thương mại điện
tử là một bộ phận của quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật thương
mại truyền thống.
Tuy nhiên, quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử là những quan hệ đặc
biệt, đƣợc thực hiện một phần hoặc toàn bộ thông qua phƣơng tiện điện tử
nhƣ điện thoại, điện thoại thông minh, máy tính có kết nối mạng internet,
mạng nội bộ hoặc các mạng mở khác. Về bản chất thì thƣơng mại điện tử
cũng nhƣ thƣơng mại truyền thống, tuy nhiên một phần hay toàn bộ các hành
vi thƣơng mại thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử.
Thứ tư,các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật thương mại điện tử
được xây dựng trên cở sở khuyến cáo bởi Luậtt mẫu của ULCITRAL.
Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển thƣơng mại điện tử, năm 1996,
Uỷ ban Luật Thƣơng mại Quốc tế của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL) đã soạn
thảo Luật mẫu về thƣơng mại điện tử [42], hình thành những quy định mẫu về
th a nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu. Luật mẫu có thể đƣợc sử
dụng nhƣ một tài liệu tham khảo cho các nƣớc trong quá trình xây dựng pháp
33
luật về thƣơng mại điện tử của mình. Tinh thần của Luật mẫu là bảo đảm
những giao dịch thƣơng mại điện tử đƣợc th a nhận giá trị pháp lý và nếu cần
thiết thì sẽ có những hành động thích hợp để tăng cƣờng khả năng thi hành
cho những giao dịch bằng phƣơng tiện điện tử. Nhiều quốc gia đã thể hiện các
nguyên tắc và nội dung của Luật mẫu UNCITRAL vào hệ thống pháp luật
quốc gia của mình.
Thứ n m,quan hệ pháp luật thương mại điện tử có sự tham gia của
người thứ ba – chủ thể cung cấp dịch vụ thông tin, kỹ thuật, dịch vụ chứng
thực nội dung số, thanh toán trung gian hay các đơn vị cung cấp dịch vụ
logictis
Đặc điểm của thƣơng mại điện tử, việc thực hiện các hành vi thƣơng
mại điện tử còn có một thành tố quan trọng là bên thứ ba bảo đảm sự vận
hành liên tục của mạng Internet, máy chủ lƣu trữ dữ liệu, các đơn vị cung cấp
các dịch vụ liên quan nhƣ đăng ký tên miền, cho thuê đƣờng truyền v.v... Đặc
điểm này đặt ra yêu cầu điều chỉnh pháp luật phức tạp hơn khi xây dựng các
quy phạm pháp luật nội dung cũng nhƣ hình thức (quy phạm pháp luật tố
tụng) để xác định hiệu lực pháp luật, xác định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp
giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc liên quan khi thực thi pháp luật đảm bảo
các yêu cầu về quản lý nhà nƣớc theo chức năng nhiệm vụ của các chủ thể
này.
Thứ sáu, nội dung của pháp luật thương mại điện tử quy định ch t chẽ
về an ninh, an toàn trong hoạt động thương mại điện tử.
Do việc tiến hành một phần hay toàn bộ quy trình thƣơng mại dựa trên
mạng internet, mạng viễn thông di động hay các mạng mở bằng thiết bị điện
tử nên việc đảm bảo an toàn hệ thống thông tin, viễn thông, bảo mật thông tin
cá nhân là vấn đề đƣợc quan tâm đặc biệt khi xây dựng pháp luật điều chỉnh
các quan hệ thƣơng mại điện tử. Trong thƣơng mại điện tử, các thông tin đƣợc
chuyển thành thông điệp dữ liệu hoặc thông tin chuyển tải bằng kỹ thuật
34
tƣơng tự (Analog) nên tất cả đều tiềm ẩn các rủi ro nhƣ: Sập hệ thống, trục
trặc kỹ thuật, bị mất dữ liệu hoặc bị đánh cắp dữ liệu cho các mục đích khác
v.v... chính vì vậy để bảo vệ thông tin cá nhân, bảo đảm an toàn thông tin,
pháp luật thƣơng mại điện tử phải quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể cung cấp dịch vụ viễn thông, thông tin về việc bảo đảm an ninh, an
toàn trong thƣơng mại điện tử.
2.2.3. Các n i dung cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử
Hoạt động thƣơng mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ
quy trình của hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện tử có kết nối với
mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác, bởi vậy, nội
dung pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử ngoài các vấn đề
chung nhằm đảm bảo tính an toàn, hiệu quả và hợp pháp của một giao dịch
thƣơng mại điện tử đƣợc trình bày trong cơ chế điều chỉnh pháp luật nhƣ các
quy định của pháp luật dân sự và thƣơng mại truyền thống, các vấn đề liên
quan đến khía cạnh pháp lý của giao dịch điện tử, các yêu cầu về mặt pháp lý
liên quan tới giải quyết tranh chấp, bảo vệ ngƣời tiêu dùng, bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, phòng chống tội phạm. Các nghiên cứu về vấn đề này đã khái quát
các nội dung chủ yếu của pháp luật về thƣơng mại điện tử bao gồm các vấn đề
sau đây:
Một là: Chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử
Pháp luật thƣơng mại điện tử là một bộ phận của pháp luật thƣơng mại
và do vậy, việc quy định cụ thể các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
thƣơng mại điện tử một cách cụ thể sẽ xác lập địa vị pháp lý của chủ thể đó.
Trong pháp luật thƣơng mại điện tử, các chủ thể đƣợc quy định cụ thể gồm:
- Ngƣời sở hữu website thƣơng mại điện tử bán hàng là các thƣơng
nhân, tổ chức, cá nhân tự lập website thƣơng mại điện tử để phục vụ hoạt
động xúc tiến thƣơng mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ.
35
- Thƣơng nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thƣơng mại điện tử thiết lập
website để cung cấp môi trƣờng cho thƣơng nhân, tổ chức cá nhân khác xúc
tiến thƣơng mại, bán hoặc cung cấp dịch vụ TMĐT.
-Bên bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ thƣơng mại điện tử là các thƣơng
nhân, cá nhân, tổ chức sử dụng website của bên cung cấp dịch vụ TMĐT để
bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, xúc tiến thƣơng mại.
- Khách hàng chính là cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân mua hàng hóa
dịch vụ trên website của bên bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên
website thƣơng mại điện tử.
- Các thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân cung cấp hạ tầng kỹ thuật cho
ngƣời sở hữu website TMĐT bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ.
- Các cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân sử dụng thiết bị điện tử có kết nối
mạng để tiến hành hoạt động thƣơng mại.
Nhƣ vậy, Chủ thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật thƣơng mại điện tử
đa dạng, các quan hệ pháp luật hình thành dƣới bất kỳ hình thức nào cũng đều
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở các quy định của pháp luật
thƣơng mại điện tử.
Trong các chủ thể của quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử xuất hiện
bên cung cấp hạ tầng kỹ thuật, thiết lập môi trƣờng mạng để cung cấp cho các
chủ thể khác tiến hành một phần hay toàn bộ quy trình thƣơng mại bằng các
phƣơng tiện điện tử.
Sự khác biệt nhƣng cũng chỉ mang tính tƣơng đối nếu đặt trong mối
quan hệ của các chủ thể thƣơng mại truyền thống là họ không giao tiếp trong
các không gian của đời sống xã hội mà tƣơng tác chủ yếu trên môi trƣờng
điện tử.
Hai là:Quy định về các hình thức hoạt động thương mại điện tử
Việc pháp luật quy định các hình thức hoạt động thƣơng mại điện tử
chính là để phân loại nhằm mục đích xác lập các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử. Việc quy định các
36
hình thức khác nhau trên cơ sở phƣơng thức hoạt động của mỗi loại hình, trên
thế giớii cũng nhƣ Việt Nam, có một số hình thức hoạt động thƣơng mại điện
tử phổ biến sau:
- Website thƣơng mại điện tử bán hàng, cung cấp dịch vụ do các
thƣơng nhân, cá nhân, tổ chức thiết lập.
- Website thƣơng mại điện tử cung cấp môi trƣờng điện tử cho các cá
nhân, tổ chức, thƣơng nhân khác tiến hành các hoạt động TMĐT nhƣ: Sàn
giao dịch điện tử, Website đấu giá trực tuyến, Website cung cấp các dịch vụ
xúc tiến thƣơng mại, khuyến mãi v.v...
Ngoài ra còn có các hình thức website khác nhƣ mạng xã hội đƣợc thiết
kế dƣới dạng website mở với nhiều tính năng trong đó có chức năng quảng
cáo, xúc tiến thƣơng mại, bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ nhƣ FaceBook,
Yahoo chat v.v...
Tùy t ng điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà pháp luật có
quy định các hình thức hoạt động thƣơng mại điện tử phù hợp để quản lý
cũng nhƣ điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hình thức hoạt động thƣơng
mại điện tử.
Ba là: các nguyên tắc hoạt động của thương mại điện tử
Theo UNCITRAL, Luật thƣơng mại điện tử cần đƣợc xây dựng dựa
trên sáu nguyên tắc cơ bản [42], bao gồm:
(i) Tƣơng đƣơng thuộc tính: Tài liệu điện tử có thể đƣợc coi có giá trị
pháp lý nhƣ tài liệu ở dạng văn bản nếu thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất
định nhƣ các yếu tố: Khả năng chứa thông tin, các thông tin có thể đƣợc lƣu
giữ và tham chiếu lại khi cần thiết; đảm bảo đƣợc tính xác thực và tính toàn
vẹn của thông tin…
(ii) Tự do thoả thuận hợp đồng: Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận
trong giao dịch thƣơng mại điện tử nhằm đảm bảo các chủ thể tham gia hoạt
động thƣơng mại điện tử có quyền tự do thỏa thuận không trái với quy định
của pháp luật để xác lập quyền và nghĩa vụ của t ng bên trong giao dịch.
37
Thỏa thuận này là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá
trình giao dịch.
(iii) Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phƣơng thức truyền thông điện
tử.
Về bản chất, quan hệ thƣơng mại là tự do thỏa thuận, tự nguyện thực
hiện các hành vi thƣơng mại. Với đặc điểm của thƣơng mại điện tử là các chủ
thể tham gia hoạt động thƣơng mại phải sử dụng các thiết bị điện tử có kết nối
mạng internet, mạng viễn thông di động hay các mạng mở khác thì đƣơng
nhiên quyền đƣợc tự do lựa chọn các phƣơng thức truyền thông điện tử để
phục vụ cho yêu cầu của mình.
(iv) Tự nguyện lựa chọn sử dụng phƣơng tiện điện tử để thực hiện giao
dịch; tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện giao dịch
điện tử và không một loại công nghệ nào đƣợc xem là duy nhất trong giao
dịch điện tử.
Nếu chủ thể kinh doanh tiến hành hoạt động bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ và xúc tiến thƣơng mại trên website thƣơng mại điện tử không nêu cụ
thể giới hạn địa lý của những hoạt động này, thì các hoạt động kinh doanh đó
đƣợc coi là không giới hạn.
(v) Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử.
Nguyên tắc này sẽ đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể khi tham
gia hoạt động thƣơng mại điện tử không phân biệt thân phận pháp lý cũng
nhƣ số lƣợng, giá trị của giao dịch thƣơng mại. Trong khi tiến hành một phần
hay toàn bộ quy trình thƣơng mại đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử,
nguyên tắc an toàn phải đƣợc đặt lên hàng đầu nhằm loại tr các rủi ro trong
hoạt động thƣơng mại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia các hoạt động thƣơng mại điện tử.
(vi) Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại điện
tử với các yêu cầu:
38
- Ngƣời sở hữu website thƣơng mại điện tử bán hàng và ngƣời bán trên
website cung cấp dịch vụ thƣơng mại điện tử phải tuân thủ các quy định của
pháp luật về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ
cho khách hàng;
- Khách hàng trên website cung cấp dịch vụ thƣơng mại điện tử là
ngƣời tiêu dùng dịch vụ thƣơng mại điện tử và là ngƣời tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ do ngƣời bán trên website này cung cấp;
- Trƣờng hợp ngƣời bán trực tiếp đăng thông tin về hàng hóa, dịch vụ
của mình trên website thƣơng mại điện tử thì thƣơng nhân, tổ chức cung cấp
dịch vụ thƣơng mại điện tử và thƣơng nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng không
phải là bên thứ ba cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng.
Nhƣ vậy, việc tiếp thu các nguyên tắc cơ bản của luật mẫu về Thƣơng
mại điện tử của UNCITRAL sẽ đƣợc điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Bốn là: Các hành vi bị cấm trong thương mại điện tử.
Trong pháp luật của mỗi quốc gia, không có tự do tuyệt đối trong
thƣơng mại, và không phải mọi thứ đều trở thành hàng hóa, dịch vụ có thể
cung ứng. Mỗi quốc gia có những đặc thù riêng về văn hóa, tín ngƣỡng, điều
kiện kinh tế xã hội cũng nhƣ đƣờng lối đối ngoại nên có những quy định về
các hành vi bị cấm trong thƣơng mại phù hợp với hoàn cảnh của mình. Việc
quy định những hành vi bị cấm trong thƣơng mại điện tử nói riêng và thƣơng
mại nói chung rõ ràng là sự tiến bộ của pháp luật vì khi đã quy định rõ hành
vi bị cấm thì các cá nhân, tổ chức đƣợc làm tất cả những gì mà pháp luật
không cấm, điều này rõ ràng tích cực hơn so với việc các cá nhân, tổ chức chỉ
đƣợc làm những gì luật cho phép.
Trong thƣơng mại điện tử, việc quy định những hành vi bị cấm đƣợc
quy định rõ ràng sẽ đảm bảo tính thống nhất với các ngành luật trong hệ thống
pháp luật của mỗi quốc gia, mặt khác, nó chỉ rõ các hành vi không đƣợc làm
39
khi tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử của các cá nhân, tổ chức, giúp họ
tránh những rủi ro pháp lý cũng nhƣ có niềm tin vào thƣơng mại điện tử.
N m là: Vấn đề an ninh, an toàn trong thương mại điện tử
Trong thƣơng mại truyền thống, các chủ thể tham gia giao dịch thƣờng
có sự tiếp xúc với nhau để thƣơng lƣợng, xem xét hàng hóa, dịch vụ là đối
tƣợng của hợp đồng mua bán cho nên vấn đề an toàn, an ninh đƣợc quan tâm
ở mức độ thấp hơn so với hoạt động thƣơng mại điện tử. Đặc điểm của
thƣơng mại có những yếu tố nhƣ ngƣời mua, ngƣời bán không tiếp xúc trực
tiếp với nhau hoặc có thể trao đổi nhƣng cũng sử dụng các phƣơng tiện điện
tử, đồng thời, một phần hay toàn bộ các hành vi thƣơng mại đƣợc thực hiện
thông qua mạng internet, mạng viễn thông hay các mạng mở khác nên mức độ
an toàn của hệ thống cũng nhƣ các yếu tố bảo mật khác phải đƣợc quan tâm ở
mức độ cao hơn so với thƣơng mại truyền thống. Các quy định về an ninh
mạng để bảo mật các thông tin của khách hàng cũng nhƣ của bên bán hàng,
cung cấp dịch vụ là vấn đề tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đều coi là yếu
tố đặc biệt quan trong. Trong hoạt động thƣơng mại điện tử, bên mua hàng
hóa, dịch vụ còn thực hiện nghĩa vụ than toán bằng các loại thẻ thanh toán,
thẻ tín dụng tức là không thực hiện nghĩa vụ trả tiền hàng hóa, dịch vụ bằng
tiền mặt nên yêu cầu về bảo đảm an toàn trong thanh toán điện tử là vấn đề
quan trọng, đây là vấn đề dễ phát sinh vi phạm hoặc tội phạm .
Sáu là: Các vấn đề liên quan đến việc giao kết hợp đồng thương mại
điện tử
Theo quy định của pháp luật, hợp đồng đƣợc xác lập khi các bên đạt
đƣợc sự nhất trí về các điều khoản ghi trong hợp đồng bất kể là thoả thuận
miệng hay bằng văn bản. Vấn đề nảy sinh là xác định nơi giao kết hợp đồng
để xác định luật giải quyết khi có tranh chấp. Trong hầu hết các trƣờng hợp,
thì quốc gia nơi đặt máy chủ (Websever) không hề đƣợc quan tâm và không
phải lúc nào vị trí của máy cũng rõ ràng. Domain name cũng không phải là
căn cứ để xác định nơi giao kết hợp đồng. Nói chung, các loại hợp đồng đều
40
có thể giao kết qua mạng, tuy nhiên, cũng có một số loại hợp đồng theo quy
định của pháp luật phải thể hiện bằng văn bản, có công chứng, đăng ký. Pháp
luật của các nƣớc đều không phủ nhận giá trị pháp lý của hợp đồng ảo chỉ vì
nó là dạng dữ liệu (bản ghi điện tử).
Có nhiều loại hợp đồng trong không gian ảo, đó là hợp đồng hàng hoá,
dịch vụ và các dịch vụ số hoá.Hàng hoá khi chào bán trên mạng phải đảm bảo
chất lƣợng.phù hợp với mục đích sử dụng, an toàn và không có khuyết điểm
nhỏ. Sẽ không đƣợc coi là có khuyết điểm nhỏ nếu nhƣ ngƣời bán chỉ ra cho
ngƣời mua trƣớc khi ký kết hợp đồng. Cung cấp dịch vụ chính là cung cấp
sức lao động, kỹ năng. Việc mua một phần mềm tại cửa hàng thì phần mềm là
hàng hoá, còn hợp đồng với một công ty tin học thuê viết một phần mềm thì
đó là hợp đồng cung cấp dịch vụ. Dịch vụ số hoá là ngƣời bán có thể gửi cho
ngƣời mua các loại sản phẩm nhƣ băng video, âm nhạc, sách báo, phần mềm
v.v... qua mạng Internet.
Công ƣớc về Sử dụng chứng t điện tử trong hợp đồng quốc tế đã đƣợc
phiên họp lần thứ 60 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tại Nghị
quyết số A/RES/60/21 ngày 9/11/2005. Về nội dung chuyên môn, Công ƣớc
này do Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật thƣơng mại quốc tế (UNCITRAL) xây
dựng, nhằm đƣa ra một khung quy định chung cho những vấn đề cơ bản nhất
của giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua phƣơng tiện điện tử. Việc áp
dụng rộng rãi và đồng nhất những quy định này giữa các quốc gia sẽ góp phần
xóa bỏ trở ngại đối với việc sử dụng chứng t điện tử trong giao dịch thƣơng
mại quốc tế, nâng cao tính chắc chắn về phƣơng diện pháp lý cũng nhƣ tính
ổn định về phƣơng diện thƣơng mại của hợp đồng điện tử, giúp doanh nghiệp
tiếp cận đƣợc những phƣơng thức tiến hành thƣơng mại hiện đại, hiệu quả
nhất.
Bên cạnh Công ƣớc về Sử dụng chứng t điện tử trong hợp đồng
thƣơng mại Quốc tế, UNCITRAL cũng đã cho ra đời một loạt văn bản cốt lõi
của hệ thống luật quốc tế liên quan đến thƣơng mại điện tử nhƣ Luật mẫu về
41
Thƣơng mại điện tử năm 1996 và Luật mẫu về Chữ ký điện tử năm 2001.
Những văn bản này đã đặt nền tảng chuyên môn cho việc xây dựng pháp luật
về thƣơng mại điện tử ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Về thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp điện tử.Thời gian giao kết
hợp đồng rất quan trọng để xác định thời điểm bắt đầu nghĩa vụ của các bên.
Do các bên trong hợp đồng thƣơng mại điện tử có thể không quen biết nhau, ở
xa nhau, liên lạc với nhau qua mạng, nên xác định thời điểm giao kết thƣơng
mại là khó khăn và các bên rất dễ hiểu khác nhau về thời điểm giao dịch. Điều
đó dễ dẫn đến các tranh chấp. Ngƣời đƣợc chào hàng có thể chấp nhận lời
chào hàng và theo đó tạo ra một hợp đồng trực tiếp. Sự phản hồi của khách
hàng chấp nhận đơn chào hàng là sự trả giá. Trƣờng hợp này ngƣời mua là
ngƣời trả giá, ngƣời bán là ngƣời chấp nhận hợp đồng. Việc xác lập hợp đồng
không nhất thiết phải do con ngƣời thực hiện, mà có thể chấp nhận tự động
bằng hệ thống máy móc v.v... Khi tiến hành giao kết hợp đồng trong thƣơng
mại điện tử, ngƣời chào hàng có thể quy định thời gian gửi ý kiến chấp nhận,
khi đó thời điểm chấp nhận hợp đồng là thời điểm thông tin chấp nhận của
khách hàng nhập vào hệ thống của ngƣời chào hàng. Thời gian nhận đƣợc
thông điệp điện tử đƣợc xác định theo nguyên tắc sau: (i) Nếu ngƣời nhận chỉ
định một hệ thống thông tin để nhận thì thời gian nhận là khi thông điệp điện
tử nhập vào hệ thống thông tin đó hoặc khi nhập vào hệ thống thông tin khác
nhƣng ngƣời nhận đang làm việc để truy lục thông điệp điện tử; (ii) Nếu
ngƣời nhận không chỉ định hệ thống thông tin thì tính thời điểm nhận là thời
điểm thông điệp điện tử truy nhập vào hệ thống thông tin của ngƣời nhận.
Bảy là: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử
Với sự xuất hiện của nhiều công nghệ mới, đặc biệt là các ứng dụng
công nghệ thông tin, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng.
Phần lớn các đối tƣợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ nhƣ tác phẩm văn học –
nghệ thuật, tài liệu khoa học – kỹ thuật, chƣơng trình máy tính, cơ sở dữ liệu
có tính sáng tạo, nhãn hiệu, bí mật thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý, thiết kế kiểu
42
dáng công nghiệp v.v... đều có thể xuất hiện dƣới hình thức cho phép truyền
tải dễ dàng qua Internet và các mạng mở khác. Nhiều vấn đề mới khiến các
quy định về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trƣớc đây không còn phù
hợp.
Đối tƣợng cần đƣợc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện
tử gồm: sáng chế (văn bằng bảo hộ độc quyền patent) tạo nên các giải pháp kỹ
thuật góp phần vào hạ tầng công nghệ cho các bên thực hiện giao dịch; quyền
tác giả (copyright) đối với phần mềm và các trang web thể hiện các giao dịch
thƣơng mại giữa các bên; và nhãn hiệu (trademark), bao gồm biểu tƣợng có ý
nghĩa và t ngữ cũng nhƣ chỉ dẫn thƣơng mại khác giúp nhận diện hàng hóa,
dịch vụ cùng loại. Bằng độc quyền sáng chế cho phép chủ sở hữu có cơ sở
pháp lý để bảo vệ công trình sáng tạo của mình không bị đánh cắp hay sử
dụng trái phép. Quyền tác giả xuất hiện ngay t khi tác phẩm phần mềm hay
giao diện trang web đƣợc tạo lập nên. Nhãn hiệu, chỉ dẫn thƣơng mại giúp
cho ngƣời ta phân biệt sản phẩm hay dịch vụ của hãng này so với hãng khác.
Một nhãn hiệu càng có giá trị cao khi càng đƣợc nhiều ngƣời biết, tin tƣởng
và yêu mến. Việc đánh giá tầm quan trọng của một công ty thƣơng mại điện
tử dựa trên giá trị và số lƣợng các tài sản trí tuệ đƣợc bảo hộ. Giá trị này một
mặt tạo nên uy tín sản phẩm, công ty, mặt khác giúp định giá vốn hóa doanh
nghiệp ở mỗi thời điểm, và cuối cùng đƣợc trƣng dẫn mỗi khi xảy ra kiện
tụng.
Trên thực tế, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện tử
có ý nghĩa rất lớn. Nó có thể làm cho một doanh nghiệp phát triển nhanh
chóng hay bị lụn bại. Internet tạo nên thị trƣờng toàn cầu và sự cạnh tranh nơi
đó không kém khốc liệt.
Để có thể bảo hộ tốt trong thƣơng mại điện tử, pháp luật về sở hữu trí
tuệ cần đƣợc điều chỉnh theo hƣớng: Thứ nhất, phần mềm máy tính và cơ sở
dữ liệu nguồn đòi hỏi phải có những quy định bảo hộ chúng, cách thức bảo hộ
có thể nhƣ với đối tƣợng của quyền tác giả hay quyền sở hữu công nghiệp.
43
Thứ hai, nhiều đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ có thể đƣợc biểu hiện dƣới
dạng các ứng dụng công nghệ thông tin nhƣ tên miền, giao diện website, t
khoá sử dụng để tìm kiếm thông tin và các ứng dụng công nghệ thông tin
khác. Do pháp luật chƣa xác định chúng thuộc đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ
nào nên chƣa có cơ chế bảo hộ. Ví dụ: Website có nên coi là hình thức biểu
hiện của một tác phẩm nghệ thuật không? Tên miền của một công ty có đƣợc
hƣởng các cơ chế bảo hộ nhƣ nhãn hiệu không? v.v...
Ngoài ra, Internet và các mạng mở khác là môi trƣờng lý tƣởng cho
việc trao đổi, chia sẻ các đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ. Một tác phẩm
văn học có thể nhanh chóng bị phát tán trên Internet; các bí mật kinh doanh
đƣợc lƣu trên máy tính một công ty có thể bị tiết lộ ra bên ngoài qua kết nối
Internet; một bản nhạc mới đƣợc phát hành, nếu đƣa lên mạng thì ai cũng có
thể tải về sử dụng v.v... Môi trƣờng mới tác động đến mọi đối tƣợng quyền sở
hữu trí tuệ. Vì vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ phải hình thành các quy định thêm
về giới hạn, ngoại lệ thực hiện các quyền và nghĩa vụ cho phù hợp.
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đã có những nghiên cứu sâu
về tác động của môi trƣờng số hoá đối với các đối tƣợng của quyền sở hữu trí
tuệ. Năm 1996, WIPO đã thông qua hai hiệp định là Hiệp định về Quyền tác
giả và Hiệp định về Tín hiệu ghi âm và biểu diễnvà bắt đầu có hiệu lực trong
năm 2002. Các hiệp định này có điều chỉnh những vấn đề mới nảy sinh trong
môi trƣờng Internet. Nhiều quốc gia đã chuyển tải các quy định của WIPO
vào pháp luậtquốc gia nhƣ Mỹ, châu Âu và Canada v.v...
Tám là: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử
Tham gia vào một giao dịch thƣơng mại điện tử trên Internet hoặc các
mạng mở khác ngƣời tiêu dùng không biết rõ các thông tin về hàng hoá, dịch
vụ đƣợc cung cấp nhƣ ngƣời bán, khả năng bị thiệt hại cao hơn, vì vậy cần có
những quy định pháp luật bảo vệ họ.
44
Năm 2000, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã ban hành
Hƣớng dẫn về Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong bối cảnh thƣơng mại điện tửvới
những nguyên tắc cơ bản sau:
- Bảo vệ minh bạch và hiệu quả;
- Phù hợp với thông lệ thị trƣờng, quảng cáo và kinh doanh trung thực;
- Cung cấp các thông tin rõ ràng về doanh nghiệp, hàng hoá, dịch vụ,
chi tiết giao dịch, quy trình xác nhận;
- Cơ chế thanh toán an toàn, dễ sử dụng và phải thông tin cho khách
hàng về mức độ an toàn của cơ chế đó;
- Có các quy định về giải quyết tranh chấp và bồi thƣờng và đƣợc bảo
vệ bí mật cá nhân.
Chín là, cơ chế giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm trong thương mại
điện tử
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện
thông qua thƣơng lƣợng giữa các bên, bằng các phƣơng thức giải quyết tranh
chấp thay thế nhƣ hòa giải, trọng tài hoặc bằng thủ tục tƣ pháp thông qua Tòa
án. Tuy nhiên, do đặc thù của các quan hệ thƣơng mại điện tử, vì vậy, cơ chế
giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử cần phải thiết kế các phƣơng
thức đặc thù nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình giải quyết.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rõ về một số nguyên tắc nhƣ: (i)
Thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân sở hữu website thƣơng mại điện tử bán hàng
có trách nhiệm tiếp nhận và xử lý khiếu nại của khách hàng liên quan đến hợp
đồng đƣợc giao kết trên website thƣơng mại điện tử của mình: (ii) Tranh chấp
giữa thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ với
khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng phải đƣợc giải quyết trên cơ
sở các điều khoản của hợp đồng công bố tại website vào thời điểm giao kết
hợp đồng và quy định của pháp luật có liên quan; (iii) Thƣơng nhân, tổ chức,
cá nhân bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ không đƣợc lợi dụng các ƣu thế
45
của mình trên môi trƣờng điện tử để đơn phƣơng giải quyết những vấn đề
tranh chấp khi chƣa có sự đồng ý của khách hàng.
2.3. CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ
2.3.1.Vai trò của cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật thƣơng mại
điện tử
Các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động TMĐT không tự nó đi
vào cuộc sống mà cần có những cơ chế thực hiện bằng những hình thức phù
hợp thì các quy định mới đạt đƣợc hiệu quả thực tế.
Hoạt động TMĐT không chỉ bao gồm các cá nhân, tổ chức tham gia
mua, bán hàng hóa dịch vụ thông qua các phƣơng tiện điện tử, mà còn có bên
thứ ba là các nhà cung cấp hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin v.v...Để
các chủ thể này tuân thủ, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình
trên cơ sở quy định của pháp luật, thì rất cần sự phối hợp chặt chẽ của các chủ
thể áp dụng pháp luật khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Nếu các
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, trong quá trình áp dụng pháp luật vận dụng
sáng tạo các quy định của pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp
luật một cách đầy đủ thì sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho những đối tƣợng chịu sự
điều chỉnh của pháp luật TMĐT tuân thủ một cách tự giác, thực hiện một cách
chủ động các quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện hay tham gia các giao
dịch TMĐT.
Mặt khác, chính các chủ thể áp dụng và thực thi pháp luật mới trực tiếp
giải quyết những mối quan hệ thực tiễn, trên cơ sở đó nắm bắt đƣợc tâm tƣ,
nguyện vọng của các cá nhân, tổ chức về những bất cập, thiếu phù hợp hoặc
lạc hậu của các quy định pháp luật để có ý kiến phản hồi góp ý cho các cơ
quan xây dựng luật nhằm điều chỉnh cho phù hợp để đảm bảo tính khả thi.
Việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đúng quy định của pháp luật của các
chủ thể nhƣ: Bao gồm các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu các Website bán
hàng, gian hàng trên Sàn giao dịch điện tử hoặc kinh doanh trên các trang
46
mạng xã hội, quảng cáo trên các phƣơng tiện truyền thông nhằm mục đích
thƣơng mại, ngƣời mua hàng hóa, dịch vụ v.v... sẽ đảm bảo không chỉ quyền
lợi cho chính họ mà còn đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin cho các
cá nhân tổ chức tham gia TMĐT, thúc đẩy các giao dịch này phát triển. Mặt
khác, khi các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ này đƣợc thực hiện hiệu
quả sẽ tiết kiệm đƣợc nhiều chi phí xã hội, các vụ tranh chấp hay xử lý vi
phạm vốn gây tốn kém thời gian, tiền bạc và gây bức xúc đối với ngƣời dân
sẽ hạn chế hơn khi cơ chế thực hiện pháp luật không nhịp nhàng, hiệu quả.
2.3.2. Các chủ thể bảo đảm thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử
Ở Việt Nam, để thực hiện có hiệu quả vai trò quản lý nhà nƣớc trong
lĩnh vực thƣơng mại điện tử cũng nhƣ bảo đảm cho các quan hệ pháp luật
TMĐT vận hành đúng hƣớng, bảo đảm an toàn cho các giao dịch, đảm bảo
trật tự xã hội cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại
điện tử, các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật TMĐT bao gồm các
nhóm chủ thể sau:
Thứ nhất, nhóm các chủ thể quản lý nhà nước về thương mại điện tử:
a. Bộ Công thƣơng
i) Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin là tổ chức trực
thuộc Bộ Công thƣơng, thực hiện chức năng tham mƣu, giúp Bộ trƣởng quản
lý nhà nƣớc và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực hoạt động thƣơng
mại điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin v.v... Trong lĩnh vực thƣơng mại
điện tử, Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin có trách nhiệm xây
dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật hƣớng dẫn về hoạt động thƣơng mại điện tử;
Trong chức năng nhiệm vụ của mình, Bộ Công thƣơng có thẩm quyền
thanh tra, kiểm tra hoạt động của các chủ thể chịu sự quản lý của pháp luật
thƣơng mại điện tử, xử lý các vi phạm nếu phát hiện trong quá trình thanh tra,
kiểm tra.
ii) Hội bảo vệ ngƣời tiêu dùng
47
Là cơ quan trực thuộc Bộ Công thƣơng thực hiện việc bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng nói chung trong đó có ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện
tử.
Hội bảo vệ ngƣời tiêu dùng đƣợc có cơ cấu tổ chức t trung ƣơng đến
địa phƣơng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Hội trực tiếp tiếp
nhận các thông tin, phản hồi t ngƣời tiêu dùng về các vấn đề chất lƣợng hàng
hóa dịch vụ, quảng cáo sản phẩm, thanh toán trong các quan hệ pháp luật
thƣơng mại, phản ánh những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động
thƣơng mại điện tử nhƣ: L a dối khách hàng, xâm phạm quyền bảo hộ sở hữu
trí tuệ, mua bán hàng giả, hàng nhái tới các cơ quan có thẩm quyền để xử lý
theo quy định của pháp luật.
b. Bộ Thông tin truyền thông
Bộ Thông tin và truyền thông là cơ quan thuộc chính phủ thực hiện các
chức năng nhà nƣớc trên nhiều lĩnh vực trong đó có thƣơng mại điện tử. Theo
quy định của pháp luật, Bộ thông tin và truyền thông có chức năng quản lý
nhà nƣớc về hạ tầng viễn thông và truyền thông quốc gia, quản lý các hoạt
động quảng cáo trên mạng viễn thông cũng nhƣ các loại hình báo chí. Bộ
Thông tin và truyền thông còn có trách nhiệm hƣớng dẫn, tổ chức thực hiện
các quy định về bảo đảm an toàn, an ninh hạ tầng thông tin truyền thông và
ban hành các giải pháp bảo đảm an toàn hạ tầng thông tin và truyền thông.
Trong hoạt động thƣơng mại điện tử, Bộ Thông tin và truyền thông là
cơ quan cấp pháp đăng ký tên miền của các website phải đăng ký trong đó có
website thƣơng mại điện tử của bên bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cũng nhƣ
các tổ chức,cá nhân, thƣơng nhân sở hữu website cung cấp môi trƣờng cho
các chủ thể khác hoạt động thƣơng mại điện tử nhƣ sàn giao dịch điện tử, các
mạng xã hội có hoạt động thƣơng mại điện tử. Ngoài ra, Bộ Thông tin truyền
thông còn có chức năng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin liên quan đến các hoạt động thƣơng mại điện tử.
c. Ủy ban nhân dân các cấp
48
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ƣơng thực hiện
chức năng quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động thƣơng mại điện tử tại địa
phƣơng. Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trong việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, chấp hành các quy định pháp luật về thƣơng mại điện tử. Tại các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, quản lý nhà nƣớc về hoạt động thƣơng
mại điện tử đƣợc giao cho Sở Công thƣơng thực hiện, cơ quan này có trách
nhiệm thanh tra, kiểm tra các hoạt động thƣơng mại điện tử trên địa bàn mình
quản lý.
Thứ hai, nhóm các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử
a. Đối với ngƣời sở hữu Website thƣơng mại điện tử bán hàng: Bao
gồm các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu các Website bán hàng, gian hàng trên
Sàn giao dịch điện tử hoặc kinh doanh trên các trang mạng xã hội, quảng cáo
trên các phƣơng tiện truyền thông nhằm mục đích thƣơng mại. Để các cá nhân
tổ chức có thể vận hành đƣợc các hoạt động mua bán hàng hóa trên các
phƣơng tiện điện tử còn có các cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao
dịch thƣơng mại điện tử.
b. Ngƣời kinh doanh bán hàng qua các phƣơng tiện điện tử:
Ngƣời kinh doanh bán hàng trong thƣơng mại điện tử là những ngƣời
có hàng hóa, dịch vụ cần trao đổi, mua bán nhằm mục đích kinh doanh đƣợc
thực hiện bằng các phƣơng tiện điện tử phổ biến nhƣ: Bán hàng qua điện
thoại, quảng cáo trên các phƣơng tiện điện tử, thực hiện một phần hay toàn bộ
nghĩa vụ thánh toán bằng phƣơng tiện điện tử nhƣ: Thanh toán bằng thẻ tín
dụng, chuyển khoản qua Ngân hàng, hoặc thanh toán qua trung gian.
Các cá nhân bán hàng qua các phƣơng tiện điện tử cũng có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ phát sinh trong hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ nhƣ
các chủ thể kinh doanh thƣơng mại ở các hình thức khác
c. Đối với ngƣời mua hàng trong thƣơng mại điện tử:
Là những cá nhân, tổ chức có nhu cầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ theo
nhu cầu của mình và đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử.
49
Pháp luật cũng quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của ngƣời mua hàng
trong thƣơng mại điện tử nhƣ các chủ thể khác trong thƣơng mại truyền
thống.
Thứ ba, T chức xã hội trong hoạt động thương mại điện tử
Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam (VECOM) là một tổ chức phi
Chính phủ với hội viên là các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trực tiếp kinh
doanh bằng thƣơng mại điện tử; hoặc ứng dụng thƣơng mại điện tử phục vụ
hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoặc nghiên cứu hay cung cấp các dịch vụ về
thƣơng mại điện tử. Hiệp hội hoạt động trên cơ sở tự nguyện, phi lợi nhuận,
nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết, hợp tác, hỗ trợ, bảo vệ các hội viên để phát
triển lĩnh vực thƣơng mại điện tử ở Việt Nam. Hiệp hội Thƣơng mại điện tử
Việt Nam hoạt động trong phạm vi cả nƣớc, theo pháp luật của nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài việc tiến hành các hoạt động trao đổi chuyên môn về TMĐT,
Hội còn thực hiện các tuyên truyền phổ biến pháp luật đến các Hội viên, đồng
thời giúp các chủ thể tham gia hoạt động TMĐT giải quyết những khó khăn,
vƣớng mắc cũng nhƣ giải quyết các tranh chấp giữa các Hội viên. Với tƣ cách
là Tổ chức xã hội nghề nghiệp, Hiệp hội còn thống kê các số liệu, tiếp thu ý
kiến của các Hội viên để kịp thời kiến nghị tới các cơ quan quản lý nhà nƣớc
trong lĩnh vực TMĐT để điều chỉnh các chính sách liên quan một cách hữu
hiệu.
Nhƣ vậy, trong cơ chế thực hiện pháp luật TMĐT, các cơ quan quản lý
nhà nƣớc phải xây dựng đƣợc cơ chế phối hợp chặt chẽ, hoạt động chủ động
và sáng tạo khi vận dụng pháp luật để thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình thì mới đảm bảo hiệu quả, mới đƣa các quy định của pháp luật TMĐT
vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ tư, các cơ quan giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm
Khi các hoạt động thƣơng mại điện tử có phát sinh tranh chấp, việc giải
quyết tranh chấp của các chủ thể sẽ đƣợc giải quyết bằng hình thức khiếu nại
50
trực tiếp để giải quyết các tranh chấp trên các phƣơng tiện điện tử có kết nối
internet, mạng viễn thông di động hay các mạng mở khác. Nếu các bên không
thể giải quyết đƣợc các tranh chấp thì có thể lựa chọn các biện pháp khác
nhƣ:Trọng tài thƣơng mại,Tòa án nhân dân các cấp để giải quyết theo thủ tục
tố tụng. Tuy nhiên, thời gian để giải quyết các vụ án kinh doanh thƣơng mại
sẽ kéo dài, nhiều thủ tục phức tạp nên không đƣợc nhiều chủ thể lựa chọn.
Mặt khác, giá trị của các giao dịch thƣơng mại điện tử thƣờng không có giá trị
lớn nên các cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân thƣờng ít chọn biện pháp giải
quyết này.
Trong trƣờng hợp phải xử lý hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng
nhƣ: Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân sẽ tiến
hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, cơ chế phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực thƣơng mại điện tử chủ yếu là tố táo tội phạm của các cá nhân, tổ chức,
thƣơng nhân bị thiệt hại do các hành vi của tội phạm gửi tới cơ quan chức
năng. Việc tố giác gần nhƣ không xảy ra vì nếu không tham gia các hoạt động
thƣơng mại điện tử thì các các nhân, tổ chức không thể phát hiện. Các cơ
quan chức năng chƣa tự mình phát hiện đƣợc hầu hết các vi phạm hay tội
phạm, do vậy công tác xử lý vi phạm hay xử lý hình sự chƣa đáp ứng đƣợc
các yêu cầu của thực tiễn.
2.4. NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA - KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
VIỆT NAM
2.4.1. Pháp luật quốc tế về thƣơng mại điện tử
Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký kết một số Điều ƣớc
quốc tế nhƣ TPP, đang quan tâm để tham gia Công ƣớc về giao dịch điện tử
của Liêp hợp quốc năm (Công ƣớc 2005). Trên thực tế, khi xây dựng khung
pháp luật về TMĐT, Việt Nam đã tiếp thu các nguyên tắc, nội dung cơ bản
của Luật Mẫu về thƣơng mại điện tử cũng nhƣ Luật Mẫu về chữ ký điện tử,
51
cả hai Luật Mẫu này đều do Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thƣơng mại quốc
tế (UNCITRAL) ban hành.
a) Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement - TPP)
Với mục tiêu thiết lập một khu vực tự do mậu dịch và thắt chặt hơn mối
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia tham gia, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế cho
các quốc gia thành viên, Hiệp đinh Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (Trans –
Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - TPP) đã đƣợc các thành
viên tham gia Hiệp định ký kết vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, Niu Di-lân
gồm 12 quốc gia thành viên.Hiệp định TPP gồm 30 chƣơng, đề cập đến nhiều
lĩnh vực trong đó có thƣơng mại điện tử. Trong Hiệp định, các vấn đề pháp lý
về TMĐT đƣợc quy định tại chƣơng 14 với 18 điều ( T 14.1- 14.18), nội
dung của phần quy định về vấn đề pháp lý đối với các hoạt động TMĐT gồm:
- Ghi nhận và tôn trọng quyền tự do, tự nguyện lựa chọn phƣơng tiện
điện tử để thực hiện các hành vi thƣơng mại trên cơ sở đƣợc truy cập,
kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông, các mạng mở khác.
- Th a nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử cũng
nhƣ các quy định về chứng thực chữ ký điện tử, quy định các điều kiện
để đảm bảo giá trị của việc chứng thực chữ ký điện tử.
- Không phân biệt đối xử đối với sản phẩm số.Vấn đề thƣơng mại phi
giấy tờ.
- Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử (Khách hàng trên
mạng) và quy định về tin nhắn thƣơng mại không mong muốn (Tin
nhắn rác).
Điểm nhấn của Hiệp định TPP về pháp luật thƣơng mại điện tử đó là:
“ Mỗi bên phải duy trì khung pháp lý kiểm soát các giao dịch điện tử
sao cho phù hợp với các nguyên tắc của Luật Mẫu về thương mại điện
tử năm 1996 của UNCITRAL ho c Công ước Liên hiệp quốc về sử
52
dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế ký kết tại New York
ngày 23/11/2005“và:
“Mỗi bên phải phấn đấu tránh đ t ra những trách nhiệm pháp lý không
c n thiết đối với các giao dịch điện tử và tạo điều kiện thuận lợi cho
các cá nhân quan tâm tham gia vào việc xây dựng khung pháp lý của
mình đối với các hoạt động giao dịch điện tử”
Và một vấn đề quan trọng khác là giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
thƣơng mại điện tử đó là hợp tác và giải quyết tranh chấp cũng đƣợc quy định
trong chƣơng 14 của Hiệp định này.
b) Công ước Liên hợp quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp
đồng quốc tế
Với mục đích áp dụng một cách thống nhất và hài hòa trong các giao
dịch thƣơng mại điện tử của các quốc gia thành viên, Công ƣớc Liên hợp
quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế (Công ƣớc
TMĐT) đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 23/11/2005 tại
New York, Hoa Kỳ, Công ƣớc này mới có hiệu lực kể t ngày 1/3/2013 khi
có 3 nƣớc phê chuẩn là Dominican, Honduras và Singapore. Hiện nay Công
ƣớc này đã đƣợc 18 quốc gia tham gia ký kết và một quốc gia gia nhập.Công
ƣớc 2005 về TMĐT bao gồm 4 chƣơng và 25 điều quy định về việc sử dụng
thông tin điện tử trong hợp đồng quốc tế, công nhận giá trị pháp lý cho hợp
đồng điện tử, các yêu cầu về hình thức, thời gian và địa điểm liên quan đến
chứng t điện tử, lời đề nghị giao kết hợp đồng hay sử dụng hệ thống thông
tin tự động hay tình huống lỗi nhập thông tin.
Hiện nay Việt Nam chƣa ký kết hay gia nhập Công ƣớc Liên hiệp quốc
về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế ngày 23/11/2005
nhằm ràng buộc các trách nhiệm pháp lý trong hệ thống pháp luật củamình
trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, tuy nhiên việc gia nhập sẽ giúp Việt Nam
tiếp cận các chuẩn mực pháp lý quốc tế cũng nhƣ hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới.
53
c) Luật Mẫu về thương mại điện tử
Để hạn chế các xung đột khi các cá nhân tổ chức ở các quốc gia khác
nhau thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa dịch vụ, Ủy ban Liên hợp
quốc về Luật thƣơng mại quốc tế (UNCITRAL) đã ban hành Luật Mẫu về
thƣơng mại điện tử ngày 12/6/1996 (Sửa đổi năm 1998) với hai phần gồm 17
điều. Luật mẫu đƣợc soạn thảo dựa trên các nguyên tắc cơ bản nhƣ:
- Tƣơng đƣơng thuộc tính, hay công nhận giá trị pháp lý nhƣ văn bản.
- Tự do thoả thuận hợp đồng.
- Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phƣơng thức truyền thông điện tử.
- Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.
- Xác định thời điểm, nơi gửi và nhận thông điệp dữ liệu.
- Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ƣu việt của những quy định pháp
lý về hình thức hợp đồng: những đòi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị
pháp lý và khả năng đƣợc thi hành phải đƣợc tôn trọng.
Việc xây dựng, ban hành Luật Mẫu về thƣơng mại điên tử đƣợc nhiều
Quốc gia thành viên tiếp thu những nguyên tắc, nội dung cơ bản để xây dựng
pháp luật về thƣơng mại điện tử cho riêng mình.
d) Luật Mẫu về chữ ký điện tử
Để bảo đảm an toàn cho các giao dịch điện tử, việc xây dựng Luật Mẫu
về chữ ký điện tử đã đƣợc Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thƣơng mại quốc tế
(UNCITRAL) ban hành ngày 5 tháng 7 năm 2001 nhằm mục đích khuyến
nghị các quốc gia thành viên xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên
quan đến sử dụng chữ ký điện tử một cách thống nhất hoặc ít có khác biệt.
Luật Mẫu về chữ ký điện tử với 12 điều, với các nguyên tắc cơ bản
nhƣ: Nguyên tắc tƣơng đƣơng chức năng, nguyên tắc không phân biệt và
trung lập về công nghệ. Ngoài các nguyên tắc, Luật Mẫu về chữ ký điện tử
còn quy định một số nội dung cơ bản nhƣ sau:
- Công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử.
- Những điều kiện để chữ ký điện tử đảm bảo độ an toàn và tin cậy v.v...
54
Việc xây dựng Luật Mẫu về chữ ký điện tử đã đƣa ra các quy định về
tiêu chuẩn kỹ thuật và các điều kiện đảm bảo giá trị hiệu lực của chữ ký điện
tử. Hiện nay, nhiều quốc gia thành viên đã tiếp thu những nguyên tắc và nội
dung cơ bản của Luật Mẫu về chữ ký điện tử trong pháp luật của mình.
2.4.2.Pháp luật về thƣơng mại điện tử ở m t số quốc gia
a. Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nƣớc đi đầu trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, tháng 7 năm
1999, Hiệp hội các thanh tra viên về pháp luật các tiểu bang Hoa Kỳ đã thông
qua Luật mẫu về các giao dịch điện tử và gửi cho các cơ quan lập pháp ở t ng
bang để thông qua và ban hành dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản là: (i) Các bên
đƣợc tự do xác lập quan hệ hợp đồng với nhau khi thấy phù hợp; (ii) Các quy
định phải có tính chất trung lập về mặt công nghệ và phải có tính mở cho
tƣơng lai, có nghĩa là không đƣợc quy định về một loại công nghệ cụ thể nào
đó và không đƣợc hạn chế việc sử dụng hay phát triển của các công nghệ
tƣơng lai; (iii) Các quy định hiện hành cần đƣợc sửa đổi, bổ sung và ban hành
mới trong trƣờng hợp cần thiết để hỗ trợ cho việc sử dụng công nghệ điện tử;
(iv) Các quy định phải công bằng cho cả các doanh nghiệp đã áp dụng rộng
rãi các công nghệ mới và các doanh nghiệp còn chƣa áp dụng.
Nhằm tạo lập một khung pháp lý thống nhất cho giao dịch thƣơng mại
điện tử ở Hoa Kỳ. Ngày 30/6/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký Luật
Thƣơng mại quốc gia và quốc tế về chứ ký điện tử. E-Sign th a nhận chữ ký
điện tử có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng giá trị chữ ký truyền thống trong ký kết
hợp đồng và không thể bị phủ nhận hay t chối chỉ vì lý do đó là chữ ký điện
tử. Luật E-Sign của Hoa Kỳ ra đời đã đánh dấu một mốc quan trọng về mặt
pháp lý cho các giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng.
Riêng đối với doanh nghiệp Hoa Kỳ, E-Sign đƣợc ban hành đã tạo môi trƣờng
pháp lý cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ sử dụng chữ ký số hoá trong các giao
dịch điện tử. Luật thống nhất về Giao dịch điện tửlà một văn bản ngắn gọn,
quy định về sự công nhận giá trị pháp lý của các dữ liệu điện tử, chữ ký điện
55
tử và các văn bản điện tử khác. Văn bản này không quy định bất kỳ ƣu thế
nào cho bất kỳ một phƣơng thức hay công nghệ nào.Luật mẫu về các giao
dịch điện tử là một văn bản có tính linh hoạt cao có thể tồn tại lâu dài và là cơ
sở pháp lý phù hợp cho các giao dịch thƣơng dịch điện tử trong suốt một giai
đoạn dài.
b. Canada
Để tạo một môi trƣờng pháp lý hoàn chỉnh cho các giao dịch thƣơng
mại điện tử, Chính phủ Canada đã tiến hành rà soát, sửa đổi các văn bản hiện
hành đồng thời ban hành các văn bản mới liên quan đến thƣơng mại điện tử
nhƣ luật về chữ ký điện tử, chứng cứ điện tử v.v... Luật về Chữ ký điện tử của
Canada cho phép các cơ quan liên bang quyền quyết định các yêu cầu của
pháp luật hiện hành về hình thức giao dịch có thể đƣợc thoả mãn bằng các
phƣơng tiện điện tử nhƣ thế nào. Chữ ký điện tử có thể đƣợc sử dụng trong
các giao dịch thƣơng mại điện tử. Vấn đề đặt ra là phải xác định đƣợc mối
liên hệ giữa chữ ký điện tử với ngƣời ký tài liệu điện tử.
Hiện nay, Canada đã có các quy định pháp luật về thu thập, sử dụng và
tiết lộ thông tin về cá nhân do các cơ quan nhà nƣớc quản lý. Luật bí mật cá nhân
liên bang có hiệu lực t năm 1982, đƣợc áp dụng đối với tất cả các cơ quan nhà
nƣớc cấp liên bang và một số doanh nghiệp có quy mô liên bang [110]. Gần đây,
Canada đã ban hành Luật Bảo vệ thông tin cá nhân và tài liệu điện tử.Đây là một
bƣớc tiến mới trong việc bảo vệ thông tin cá nhân. Ngoài ra các cơ quan nhà
nƣớc còn phải tuân thủ luật về quyền riêng tƣ (the Privacy Act).
Về vấn đề thuế, hiện nay Canada đang cùng một số thành viên khác của
OECD phát triển chiến lƣợc quốc tế trong đó có các hiệp ƣớc về thuế đối với
thƣơng mại điện tử, hƣớng dẫn xử lý việc chuyển giá, về việc áp dụng thuế
tiêu thụ và về hàng rào thuế quan cửa khẩu.
c. Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, ngay t năm 1999, Chính phủ đã xây dựng “Đạo luật cơ
bản về thƣơng mại điện tử”và chuẩn bị một loạt các đạo luật liên quan đến
56
thƣơng mại điện tử, liên tục nâng cao khuôn khổ pháp lý thƣơng mại điện tử
bằng cách chỉnh sửa luật hiện hành, ban hành luật mới. Các đạo luật chính đã
đƣợc ban hành bao gồm:Luật khung về thƣơng mại điện tử đƣợc ban hành
năm 1999, sửa đổi năm 2002, 2005 đã tạo khung pháp lý trụ cột vững chắc
cho các bộ luật khác về thƣơng mại điện tử ở Hàn Quốc. Luật Bảo vệ ngƣời
tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử đƣợc ban hành năm 2002 và sửa đổi năm
2005. Luật Chữ ký điện tử đƣợc ban hành năm 1998, sửa đổi năm 2001, 2005.
Luật Phát triển ngành đào tạo điện tử đƣợc ban hành năm 2004. Luật Phát
triển ứng dụng mạng công nghệ thông tin và truyền thông và bảo vệ thông tin
đƣợc ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2002, 2004 và 2005.
Bên cạnh đó là một số đạo luật khác nhƣ: Luật Kinh doanh tài chính về
tín dụng; Luật Khuyến khích ngành nội dung số trực tuyến; Luật Sản phẩm
trò chơi, sản phẩm hình ảnh và âm thanh; Luật về các nguồn địa chỉ Internet;
Luật Bản quyền; Luật Chính phủ điện tử; Luật Bảo vệ chƣơng trình máy tính;
Luật Hóa đơn điện tử cũng đƣợc ban hành nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động
thƣơng mại điện tử.
d. Singapore
Năm 1998, Singapore cho ban hành Luật Giao dịch điện tử (Electronic
Transaction Act 1998) nhằm mục đích giải quyết vƣớng mắc, khó khăn về
mặt pháp lý khi các chủ thể tham gia vào các giao dịch trong một môi trƣờng
phi giấy tờ và không tiếp xúc trực tiếp với nhau.
Nguyên tắc cơ bản để xây dựng Luật Giao dịch điện tử là nhằm: Tuân
theo các tiêu chuẩn quốc tế và mô hình quốc tế để có thể hoà nhập với khung
pháp luật thƣơng mại điện tử toàn cầu; tránh các quy định quá chặt chẽ; linh
hoạt và trung lập về mặt công nghệ để theo kịp môi trƣờng luôn thay đổi; quy
định rõ ràng, minh bạch và có khả năng tiên liệu trƣớc. Mục tiêu của đạo luật
là thiết lập một quy tắc thực hành (Code of Conduct) chung để hỗ trợ cho các
giao dịch thƣơng mại điện tử; xây dựng cơ sở hạ tầng về công chứng; cho
phép nộp đơn, hồ sơ và cấp phép điện tử ở các cơ quan quản lý nhà nƣớc;
57
đồng thời, làm rõ trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ mạng đối với nội
dung thông tin của bên thứ ba.
Luật Giao dịch điện tử của Singapore [111] đã đƣa ra những quy tắc
thƣơng mại nhằm làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong một
giao dịch thƣơng mại điện tử. Những quy tắc nằm trong đạo luật này mang
các tính chất đặc trƣng của những quy định mẫu quốc tế, đặc biệt là các quy
định của Luật mẫu UNCITRAL về thƣơng mại điện tử. Quy tắc thực hành
chung trong Luật Giao dịch điện tử của Singapore cũng chứa đựng các điều
khoản điều chỉnh việc ký kết hợp đồng qua các phƣơng tiện điện tử thông qua
việc quy định về thời gian, địa điểm gửi và nhận thông tin điện tử.
Đạo luật này còn quy định về giá trị pháp lý của các bản ghi và chữ ký
điện tử, cùng với độ an toàn của chúng. Mặt khác, để hỗ trợ cho việc sử dụng
chữ ký điện tử, một cơ sở hạ tầng về công chứng đã đƣợc xây dựng. Theo đó,
cơ quan công chứng sẽ xác nhận một mã khoá chứng thực có mối liên hệ với
một cá nhân nhất định. Một cơ quan công chứng có thể xác minh về một cá
nhân nào đó trƣớc khi cấp một chứng thực dƣới dạng giấy chứng nhận kỹ
thuật số. Giấy chứng nhận này có thể dùng để xác minh chữ ký của cá nhân
đó. Luật Giao dịch điện tử của Singapore đã tạo một môi trƣờng pháp lý khá
phù hợp cho thƣơng mại điện tử và các giao dịch điện tử khác. Đạo luật này
đã xoá bỏ đƣợc những trở ngại trong các quy định pháp luật hiện hành và tạo
đƣợc lòng tin cho các doanh nghiệp, cá nhân khi tham gia vào thƣơng mại
điện tử.
2.4.3. Kinh nghiệm pháp luật về thƣơng mại điện tử quốc tế và m t
số quốc gia trên thế giới đối với Việt Nam
Nhìn chung, pháp luật của nhiều quốc gia đã thể hiện các nguyên tắc,
nội dung Luật mẫu về thƣơng mại điện tử của UNCITRAL vào hệ thống pháp
luật quốc gia của mình và pháp luật về thƣơng mại điện tử đều phải quan tâm
điều chỉnh các vấn đề cơ bản nhƣ sau: Th a nhận tài liệu điện tử có giá trị
pháp lý nhƣ tài liệu ở dạng văn bản nếu thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất
58
định; tôn trọng nguyên tắc tự do thoả thuận hợp đồng; tôn trọng việc sử dụng
tự nguyện phƣơng thức truyền thông điện tử; đảm bảo tính hợp pháp của hợp
đồng trong môi trƣờng số; Luật chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng, mà
không đề cập nội dung; pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng đƣợc xây dựng
trên nguyên tắc bảo vệ bên yếu thế trong hợp đồng thƣơng mại điện tử.
Qua nghiên cứu cho thấy, năm vấn đề pháp lý về thƣơng mại điện tử
đều đã đƣợcghi nhận và quy định trong pháp luật về thƣơng mại điện tử của
Việt Nam, bao gồm:
(i)Quy định rõ các vấn đề pháp lý đối với các nội dung giao dịch
thƣơng mại qua các phƣơng tiện điện tử;
(ii) Quy định kỹ thuật về chữ ký điện tử nhằm bảo đảm tính xác thực,
toàn vẹn, bảo mật của thông tin đƣợc trao đổi trong thƣơng mại điện tử;
(iii) Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện tử;
(iv) Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử;
(v)Ngăn ng a vi phạm và tội phạm trong thƣơng mại điện tử.
Ngoài ra, pháp luật về thƣơng mại điện tử cũng quan tâm đến cơ chế
giải quyết tranh chấp phát sinh trong thƣơng mại điện tử. Đối với các quy
định này, pháp luật Việt Nam cũng đã gây dựng đƣợc cơ chế giải quyết tƣơng
đối phù hợp với điều kiện của mình nhằm nhanh chóng giải quyết các tranh
chấp phát sinh.
Có thể nói, Việt Nam đã tiếp thu những khuyến cáo, quy định hợp lý
của Luật mẫu về thƣơng mại điện tử của UNCITRAL cũng nhƣ các quy định
về thƣơng mại điện tử của các quốc gia thành viên WTO để xây dựng pháp
luật thƣơng mại điện tử của mình trên phƣơng châm hội nhập quốc tế sâu
rộng trên mọi lĩnh vực.
Thƣơng mại điện tử là phƣơng thức mới trong hoạt động thƣơng mại
toàn cầu, áp dụng thƣơng mại điện tử đã và đang là sự lựa chọn tất yếu của
nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thƣơng mại
điện tử đang đặt ra nhiều thách thức trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
59
pháp lý, bảo đảm sự tin cậy cần thiết cho quá trình hội nhập và phát triển ở
nƣớc ta. Bởi vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, để thƣơng mại
điện tử của chúng ta phát triển mạnh mẽ và bền vững, cần thiết phải tham
khảo kinh nghiệm pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về vấn
đề này, t đó, đƣa ra các yêu cầu và định hƣớng hoàn thiện pháp luật về
thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về thƣơng mại điện tử đã tìm ra
những đặc điểm, khái niệm cơ bản có ý nghĩa khi nghiên cứu về pháp luật
thƣơng mại điện tử. Trên cơ sở các đặc điểm, khái niệm của thƣơng mại điện
tử sẽ xác định đƣợc đối tƣợng điều chỉnh, cơ chế điều chỉnh, khái niệm, đặc
điểm, của pháp luật thƣơng mại điện tử. Việc nghiên cứu các nguyên tắc, nội
dung của cơ chế thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử, các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử và cơ chế giải quyết tranh chấp đã xây
dựng đƣợc những luận điểm để đánh giá thực trạng pháp luật thƣơng mại điện
tử nhằm đƣa ra các kiến nghị phù hợp trong vệc hoàn thiện pháp luật thƣơng
mại điện tử. Nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của các nƣớc trên thế giới cho
thấy, để thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển, bên cạnh việc cung ứng hiệu
quả các dịch vụ điện tử, thì Nhà nƣớc phải xây dựng một hệ thống pháp luật
đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thƣơng mại điện tử.
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc xậy dựng pháp luật
thƣơng mại điện tử có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam.
Pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc ra đời do nhu cầu điều chỉnh pháp
luật đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong các quan hệ pháp luật thƣơng
mại đƣợc thực hiện bằng các phƣơng tiện điện tử có kết nối Internet, mạng
viễn thông và các mạng mở khác. Pháp luật của nhiều quốc gia về thƣơng mại
điện tử đều có sự tiếp thu t các điều ƣớc quốc tế và tài liệu tham khảo nhƣ
Luật Mẫu của tổ chức quốc tế và có sự vận dụng để điều chỉnh phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh phát triển ở t ng quốc gia. Đối tƣợng và phạm vi điều
60
chỉnh của pháp luật thƣơng mại điện tử là các quan hệ thƣơng mại trên các
phƣơng tiện điện tử, các vấn đề liên quan mà pháp luật thƣơng mại truyền
thống không đề cập, bởi vậy, cơ chế điều chỉnh và nội dung pháp luật về
thƣơng mại điện tử có những đặc trƣng riêng. Điều này thể hiện pháp luật
phải bảo đảm tính an toàn, hợp pháp và minh bạch trong hoạt động thƣơng
mại điện tử; th a nhận các thông điệp nội dung giao dịch thƣơng mại qua các
phƣơng tiện điện tử; th a nhận chữ ký điện tử nhằm bảo đảm tính xác thực,
toàn vẹn, bảo mật của thông tin đƣợc trao đổi; quy định cụ thể các vấn đề có
liên quan đến việc giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử; bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ và bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử; quy định cơ
chế giải quyết tranh chấp và việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động
thƣơng mại điện tử..
61
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
3.1. KHUNG PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM
Trƣớc năm 2000, thƣơng mại điện tử còn là thuật ngữ pháp lý mới.Hệ
thống pháp luật Việt Nam có quy định nhƣng chƣa thể hiện đƣợc bản chất và
tầm quan trọng của thƣơng mại điện tử. Luật Thƣơng mại năm 1997 nhắc tới
hình thức hợp đồng bằng phƣơng tiện điện tử nhƣ fax, telex, thƣ điện tử và
coi chúng là văn bản (Điều 49). Quy định này chỉ mang tính hình thức và
chƣa cụ thể hoá các khía cạnh kỹ thuật đủ cho việc áp dụng một cách có hiệu
quả. Trong một số vụ án kinh tế liên quan tới giá trị chứng cứ của thƣ điện tử,
bản fax trong giao dịch hợp đồng, nhƣng các quy định pháp lý chƣa đủ để giải
quyết.
Trong giai đoạn 2000 - 2003, một số văn bản pháp lý chuyên ngành đã
có những quy định khá cụ thể về giao dịch điện tử nhƣ: Bộ luật Hình sự năm
1999, Luật Hải quan năm 2001, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, những văn
bản dƣới luật trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Tuy nhiên, do nhận thức
chƣa toàn diện về thƣơng mại điện tử, các chế định pháp lý trên còn thiếu dẫn
tới việc khó áp dụng trên thực tiễn.
Nhìn chung, những văn bản đƣợc coi là quan trọng nhất nhằm hình
thành khung khổ pháp lý đầy đủ cho ứng dụng và phát triển thƣơng mại điện
tử đều đƣợc khởi động xây dựng trong năm 2004 và đƣợc ban hành trong năm
2005, tạo cơ sở hình thành các văn bản pháp lý chi tiết hơn về những vấn đề
nhƣ bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, thông tin cá nhân
trong thƣơng mại điện tử, cơ chế điều chỉnh các hình thức ứng dụng thƣơng
mại điện tử cụ thể, cơ chế xác định chứng cứ và giải quyết tranh chấp. Cho
62
đến nay, khung pháp lý cho hoạt động thƣơng mại điện tử đã đƣợc hình thành
tƣơng đối đầy đủ với hệ thống các văn bản pháp luật khá toàn diện, phúc đáp
các yêu cầu về mặt pháp lý đối với việc phát triển thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam.
Hai văn bản cốt lõi nhất điều chỉnh hoạt động thƣơng mại là Bộ luật
Dân sự và Luật Thƣơng mại đã th a nhận giá trị pháp lý của giao dịch điện tử
thông qua việc th a nhận thông điệp dữ liệu – hình thức biểu hiện cụ thể của
giao dịch điện tử. Bên cạnh Bộ luật Dân sự và Luật Thƣơng mại, ngƣời tham
gia thƣơng mại điện tử còn phải tuân thủ quy định khác liên quan tới hoạt
động kinh doanh, thƣơng mại nhƣ Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng,
Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quảng cáo, v.v... Những văn bản luật này cũng dành
một số điều cụ thể quy định về giao dịch điện tử.
Khung pháp lý cho giao dịch điện tử nói chung và thƣơng mại điện tử
nói riêng đƣợc hình thành với hai trụ cột chính là Luật Giao dịch điện tử 2005
và Luật Công nghệ thông tin 2006, tám nghị định hƣớng dẫn Luật Giao dịch
điện tử và các Luật có liên quan, cùng một loạt thông tƣ quy định chi tiết
những khía cạnh cụ thể của giao dịch điện tử trong t ng lĩnh vực ứng dụng
đặc thù. Luật Giao dịch điện tử 2005 đặt nền tảng pháp lý cơ bản cho các giao
dịch điện tử trong xã hội bằng việc th a nhận giá trị pháp lý của thông điệp
dữ liệu, đồng thời quy định khá chi tiết về chữ ký điện tử, một yếu tố đảm bảo
độ tin cậy của thông điệp dữ liệu khi tiến hành giao dịch. Nếu Luật Giao dịch
điện tử tập trung điều chỉnh các khía cạnh pháp lý của giao dịch điện tử, thì
Luật Công nghệ thông tin chủ yếu quy định về hoạt động ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin cùng những biện pháp bảo đảm về mặt chính sách
và hạ tầng cho các hoạt động này.
Trong số năm nghị định hƣớng dẫn Luật Giao dịch điện tử, có ba nghị
định tập trung điều chỉnh về thông điệp dữ liệu trong các lĩnh vực kinh tế đặc
thù là thƣơng mại, tài chính và ngân hàng. Nghị định về Thƣơng mại điện tử
tiếp tục đƣợc chi tiết hóa bằng hai thông tƣ, trong đó một thông tƣ hƣớng dẫn
63
về việc cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện
tử, một thông tƣ quy định về quản lý hoạt động của các website thƣơng mại
điện tử bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Hai nghị định hƣớng dẫn về giao
dịch điện tử trong hoạt động tài chính và ngân hàng cũng đƣợc cụ thể hóa
bằng một loạt thông tƣ để điểu chỉnh t ng nghiệp vụ đặc thù nhƣ chứng
khoán, thuế, kho bạc, hóa đơn, thanh toán điện tử liên ngân hàng v.v…
Khác với ba nghị định nói trên, Nghị định về chữ ký số số
26/2007/NĐ- CP ngày 15/2/2007 và dịch vụ chứng thực chữ ký số có tính kỹ
thuật cao hơn và bao gồm những quy phạm pháp luật khá cụ thể, đặt nền tảng
cho việc triển khai dịch vụ chứng thực chữ ký số - giải pháp công nghệ phổ
biến nhất hiện nay để đảm bảo tính pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các
giao dịch kinh tế, thƣơng mại và dân sự. Tƣơng tự, Nghị định về chống thƣ
rác số 77/2012/NĐ- CP ngày 5/10/2012 cũng điều chỉnh khá chi tiết một hoạt
động cụ thể của ứng dụng công nghệ thông tin và thƣơng mại điện tử là việc
gửi thƣ điện tử và tin nhắn với số lƣợng lớn, bao gồm cả thƣ điện tử và tin
nhắn quảng cáo. Bên cạnh các văn bản thuộc hệ thống Luật Giao dịch điện tử,
hoạt động thƣơng mại điện tử còn chịu sự điều chỉnh của Luật Công nghệ
thông tin cùng những văn bản hƣớng dẫn thi hành.
Để xử lý vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, ngày 15/11/2013
Chính phủ ban hành Nghị định số 185/2013/NNĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thƣơng mại, sản xuất,buôn bán hàng giả,
hàng cấm và bảo vệ ngƣời tiêu dùng.
Có thể nói, theo các yêu cầu bảo đảm về mặt pháp lý đối với việc phát
triển thƣơng mại điện tử, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng
mại điện tử đƣợc Nhà nƣớc ta ban hành trong những năm qua đang dần đƣợc
đáp ứng. Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận các hoạt động kinh doanh, thƣơng
mại trên các phƣơng tiện điện tử, quy định kinh doanh dịch vụ thƣơng mại
điện tử là một ngành, nghề kinh doanh;th a nhận giá trị pháp lý của chứng t
điện tử; các quy định về thuế nhƣ hƣớng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực
64
thuế, công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng về giao dịch điện tử
trong hoạt động Hải quan; quy định về vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng khi
tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử nhƣ trong giao dịch thƣơng mại truyền
thống.
Các văn bản liên quan đến vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng
mại điện tử thời gian qua chủ yếu tập trung vào 2 khía cạnh đặc thù là bảo vệ
thông tin cá nhân của ngƣời tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
trong quá trình giao kết hợp đồng trên Website thƣơng mại điện tử. Bảo vệ
thông tin cá nhân của ngƣời tiêu dùng bao gồm vấn đề quản lý và sử dụng
thông tin cá nhân trong thƣơng mại điện tử, chống thƣ rác và quản lý thƣ
quảng cáo thƣơng mại, xử lý tội phạm về thông tin cá nhân. Còn bảo vệ ngƣời
tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử
chủ yếu đƣợc giải quyết thông qua các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông
tin và quy trình giao kết hợp đồng trên môi trƣờng điện tử, nhằm thu hẹp
khoảng cách về bất bình đẳng thông tin đối với ngƣời tiêu dùng và nâng cao
tính minh bạch của môi trƣờng thƣơng mại điện tử.
Nhằm tạo lập môi trƣờng pháp lý an toàn và ổn định cho các hoạt động
thƣơng mại điện tử, Nhà nƣớc cũng đã có các quy định cụ thể về quản lý
website thƣơng mại điện tử, trong đó quy định về đăng ký, quản lý website
thƣơng mại điện tử trên cơ sở tạo lập môi trƣờng kinh doanh minh bạch, cạnh
tranh, bảo đảm an toàn thông tin trong giao dịch thƣơng mại điện tửv.v...; các
quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong thƣơng mại điện tử (trong đó có
các quy định về xử lý vi phạm hành chính và phòng chống tội phạm trong lĩnh
vực này). Ngoài ra, trong thời gian qua. Các văn bản pháp luật về sở hữu trí
tuệ phù hợp thông lệ quốc tế và tạo thuận lợi cho sự phát triển của thƣơng mại
điện tử; các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật khuyến khích các hoạt
động kinh doanh dịch vụ trực tuyến và các mô hình thanh toán trực tuyến.
65
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
3.2.1. Thực trạng thực hiện các nguyên tắc của pháp luật thƣơng
mại điện tử
Để đảm bảo sự hài hòa và thống nhất khi xây dựng pháp luật của các
quốc gia thành viên trong hoạt động thƣơng mại điện tử, Ủy ban Liên Hợp
quốc về thƣơng mại quốc tế đã ban hành Luật Mẫu về thƣơng mại điện tử
năm 1996 (Sửa đổi năm 1998) và Luật Mẫu về chữ ký điện tử năm 2001 với
các nguyên tắc và những nội dung cơ bản làm nền tảng để các thành viên
tham khảo khi xây dựng khung pháp luật điều chỉnh hoạt động TMĐT của
quốc gia mình. Với tƣ cách là thành viên của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới,
khi xây dựng pháp luật về thƣơng mại điện tử, Việt Nam đã tiếp thu gần nhƣ
đầy đủ các nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc này đƣợc thể hiện trong các đạo
luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử. Việc tiếp thu các nguyên tắc cơ
bản của Luật Mẫu về thƣơng mại điện tử đã cho thấy Việt Nam đang hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng nhƣ tiếp cận các chuẩn mực quốc tế
một cách tích cực. Việc quy định các nguyên tắc cơ bản trong các đạo luật,
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động thƣơng mại điện tử là cần thiết và quan trọng, làm nền tảng cho
việc thực hiện các nội dung cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử.
Trong Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013về thƣơng mại
điện tử (Nghị định số 52/2013/NĐ-CP) quy định một số nguyên tắc hoạt động
thƣơng mại điện tử gồm:
a) Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận
Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định về nguyên tắc tự do,
tự nguyện cam kết, thoả thuận, theo đó, “cá nhân, pháp nhân xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện
cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải
66
đƣợc chủ thể khác tôn trọng”. Điều 11 Luật Thƣơng mại cũng quy định về
nguyên tắc này nhƣ sau: “Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với
các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập
các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thƣơng mại. Nhà nƣớc tôn
trọng và bảo hộ các quyền đó. Trong hoạt động thƣơng mại, các bên hoàn
toàn tự nguyện, không bên nào đƣợc thực hiện hành vi áp đặt, cƣỡng ép, đe
dọa, ngăn cản bên nào. Khoản 1 Điều 26 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP quy
định về các nguyên tắc hoạt động thƣơng mại điện tử cũng quy định: “Các
chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử có quyền tự do thỏa thuận
không trái với quy định của pháp luật để xác lập quyền và nghĩa vụ của t ng
bên trong giao dịch. Thỏa thuận này là căn cứ để giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong quá trình giao dịch”. Nhƣ vậy, văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử đều đã quy định rõ ràng nguyên
tắc này một cách nhất quán. Trong thực tế thì khi thực hiện nguyên tắc này
đòi hỏi phải có các quy định chặt chẽ hơn về các nghĩa vụ của bên Bán hàng
trên Website bán hàng, Sàn giao dịch điện tử, Website đấu giá trực tuyến về
các yêu cầu kỹ thuật khi thiết kế các giao diện cần thiết để các chủ thể tham
gia thƣơng mại điện tử khi thực hiện các giao dịch đƣợc tự do thỏa thuận ví
dụ nhƣ: Có thiết kế các cửa sổ hay trên các giao diện để cho ngƣời tiêu dùng
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, giao kết hợp đồng hay hủy giao kết hợp
đồng, đặc biệt là xây dựng nhiều trƣờng trong giao diện hay phần mềm để
điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ phát sinh nhằm đảm bảo cho nguyên tắc
này đƣợc thực hiện triệt để, đầy đủ trên thực tế. Hiện nay số Website bán
hàng có đăng ký chỉ chiếm khoảng 4% nên việc thực hiện các quy định của
pháp luật về thƣơng mại điện tử chƣa đƣợc đáp ứng [38], hầu hết các Website
bán hàng luôn xây dựng các phần mềm, thiết kế các giao diện có lợi cho
ngƣời bán. Nhƣ vậy, khi xảy ra các tranh chấp thì ngƣời tiêu dùng thƣờng ở
thế bất lợi hơn, không những thế, việc không thanh toán qua trung gian, tức
bên thứ ba thực hiện việc giám sát quá trình giao nhận hàng trƣớc khi thực
67
hiện thay việc thanh toán hiện nay chƣa phổ biến nên chƣa thể đảm bảo
nguyên tắc tự do thỏa thuận hay nói đúng hơn tự do thỏa thuận với việc thực
hiện các thỏa thuận đó chƣa có các điều kiện để bảo đảm.
b) Nguyên tắc xác định phạm vi hoạt động kinh doanh trong thƣơng
mại điện tử
Theo khoản 2 điều 26 quy định nếu thƣơng nhân, tổ chức cá nhân tiến
hành hoạt động bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và xúc tiến thƣơng mại trên
website thƣơng mại điện tử không nêu cụ thể giới hạn địa lý thì các hoạt động
kinh doanh đó đƣợc coi là tiến hành trên phạm vi cả nƣớc. Thực chất, việc
quy định nguyên tắc này là để xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh giữa các chủ thể khi họ tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử.
Trên thực tế, nếu các bên không giải quyết đƣợc mà phải đƣa vụ việc ra tòa án
để giải quyết thì thẩm quyền của Tòa án theo pháp luật Tố tụng dân sự sẽ là
nơi cƣ trú của Bị đơn hoặc nơi thực hiện hợp đồng, trong đó nơi Bị đơn có trụ
sở hoặc cƣ trú sẽ đƣợc lựa chọn chủ yếu. Trong thời gian v a qua, các tranh
chấp xảy ra chƣa có nhiều vƣớng mắc khi xác định về phạm vi kinh doanh
của hoạt động thƣơng mại điện tử.
c) Nguyên tắc xác định nghĩa vụ bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng
mại điện tử
Ngƣời tiêu dùng là ngƣời mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích
tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.Theo quy định của Luật
Bảo vệ ngƣời tiêu dùng năm 2010, Nhà nƣớc tạo điều kiện thuận lợi để tổ
chức, cá nhân chủ động tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.
Khuyến khích tổ chức, cá nhân ứng dụng, phát triển công nghệ tiên tiến để
sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ an toàn, bảo đảm chất lƣợng. Đẩy mạnh
hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm quản lý
trong việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng. Nhƣ vậy, khi Nhà nƣớc đã quy
định trong Luật các quyền của ngƣời tiêu dùng, đồng thời khuyến khích việc
ứng dụng công nghệ khi thực hiện việc mua hàng hóa, dịch vụ bằng các
68
phƣơng tiện điện tử thì một yêu cầu đặt ra chính là đảm bảo các quyền bằng
sự thống nhất, đồng bộ trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
đến việc bảo vệ ngƣời tiêu dùng khi họ tham gia quan hệ mua bán hàng hóa
dịch vụ. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng cũng quy định
rõ, quyền lợi của ngƣời tiêu dùng đƣợc tôn trọng và bảo vệ theo quy định của
pháp luật và là trách nhiệm chung của Nhà nƣớc và toàn xã hội. Các hành vi
xâm phạm quyền lợi ngƣời tiêu dùng phải đƣợc xử lý kịp thời, công bằng,
minh bạch, đúng pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng không đƣợc xâm phạm đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân
khác (Điều 4).
Luật Quảng cáo năm 2012 cũng có rất nhiều quy định để bảo vệ ngƣời
tiêu dùng trong đó bao gồm cả hoạt động quảng cáo thực hiện qua phƣơng
tiện điện tử.
Trên thực tế hiện nay, việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng chƣa đƣợc
thực thi một cách có hiệu quả. Các hành vi xâm phạm quyền lợi ngƣời tiêu
dùng ngày càng nhiều và biến dạng dƣới nhiều hình thức nhƣ: Mua bán danh
sách số điện thoại để phát tán tin nhắn rác, gọi điện thoại quảng cáo bán hàng
hóa dịch vụ trái với ý muốn của ngƣời tiêu dùng, quảng cáo tràn lan trên các
báo điện tửv.v... gây bức xức cho ngƣời tiêu dùng và gây tâm lý xấu đối với
thƣơng mại điện tử.
Nhƣ vậy, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc
quy định rải rác trong văn bản pháp luật Việt Nam, thực tế này gây khó khăn
cho quá trình áp dụng, tuân thủ và thực hiện pháp luật. Mặt khác, trong các
bản án hay quyết định của các cơ quan có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật
đều không viện dẫn các nguyên tắc làm căn cứ áp dụng dẫn đến việc quy định
các nguyên tắc chỉ mang tính hình thức, còn tuân theo hay không thì không có
căn cứ để nhận biết.
69
d) Nguyên tắc kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh
hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện thông qua thƣơng mại điện
tử.
Thực chất, trong các quy định của pháp luật hiện hành cũng đã có
những quy định về hạn chế kinh doanh hoặc chỉ rõ những ngành nghề kinh
doanh có điều kiện, việc đƣa vấn đề này thành nguyên tắc của hoạt động
thƣơng mại điện tử nhƣ khẳng định lại hoặc có tính chất cảnh báo cụ thể hơn
mà thôi. Trong hoạt động thƣơng mại điện tử, do các thông tin trao đổi giữa
ngƣời mua, ngƣời bán đƣợc thực hiện thông qua môi trƣờng mạng và các thiết
bị điện tử thuộc sở hữu của các chủ thể tham gia nên không bị giám sát, kiểm
tra chặt chẽ, đây là kẽ hở để hoạt động mua bán hàng hóa bị cấm, bị hạn chế
kinh doanh vẫn trở thành đối tƣợng của các giao dịch thƣơng mại điện tử.
Hiện nay, khi mạng xã hội trở nên phổ biến và dễ sử dụng, những ngƣời bán
hàng hóa, dịch vụ thƣờng thiết lập các “Nhóm kín” để thực hiện những hành
vi bị cấm cũng nhƣ mua bán hàng hóa dịch vụ bị hạn chế kinh doanh, đây là
hiện tƣơng mới không thể kiểm tra, giám sát bởi các cơ quan chức năng.
Nhƣ vậy, các nguyên tắc trong hoạt động thƣơng mại điện tử đƣợc quy
định trong Nghị định 52/2013/NĐ-CP chƣa đáp ứng đƣợc các yêu cầu về bảo
đảm an toàn cho các hoạt động thƣơng mại điện tử, chƣa phù hợp với pháp
luật tố tụng khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động này. Việc
quy định nguyên tắc xác định phạm vi kinh doanh không có nhiều ý nghĩa khi
việc áp dụng luật để giải quyết tranh chấp vì áp dụng pháp luật dân sự, thƣơng
mại hay thƣơng mại điện tử đều thống nhất trên phạm vi lãnh thổ.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt
động thƣơng mại điện tử, lợi ích nhà nƣớc cũng nhƣ đáp ứng các yêu cầu hội
nhập, đảm bảo tính thống nhất đối với các ngành luật khác trong hệ thống
pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử thì cần
phải bổ sung các nguyên tắc khác nhƣ :
70
i) Nguyên tắc tƣơng đƣơng thu c tính
. Hiện nay, trong điều 9 của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP có quy định
về chứng t điện tử, qua đó quy định về tính hợp pháp, có giá trị nhƣ bản gốc
của thông điệp dữ liệu khi đƣợc khởi tạo lần đầu tiên dƣới dạng một thông
điệp dữ liệu hoàn chỉnh.Nội dung của thông điệp dữ liệu đƣợc xem là toàn
vẹn khi nội dung đó chƣa bị thay đổi, tr những thay đổi về hình thức phát
sinh trong quá trình gửi, lƣu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ liệu và có thể truy
cập, sử dụng đƣợc dƣới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.
Nhƣ vậy, công nhận tƣơng đƣơng thuộc tính đã ghi nhận các hình thức
văn bản hay thỏa thuận bằng lời nói khác chứa đựng các thông tin về các chủ
thể tham gia hợp đồng, nội dung của hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng
v.v...sẽ đƣợc phản ánh đầy đủ trong các thông điệp dữ liệu (là thông tin đƣợc
tạo ra, đƣợc gửi đi, đƣợc nhận và lƣu trữ bằng phƣơng tiện điện tử). Trên thực
tế, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động quảng cáo, thƣơng mại, thanh toán bằng các phƣơng tiện điện
tử đều đƣợc quy định cụ thể, chi tiết các điều kiện để công nhận tƣơng đƣơng
thuộc tính của văn bản điện tử cũng nhƣ thông điệp dữ liệu.
Tuy nhiên, việc không quy định nguyên tắc này phát sinh nhiều bất cập
trong giải quyết các tranh chấp liên quan trong hoạt động thƣơng mại điện tử
khi các đƣơng sự cung cấp chứng cứ điện tử nhƣ: Email, nội dung tin nhắn,
chứng t điện tử, các hợp đồng giao kết bằng phƣơng tiện điện tử đƣợc in ấn
bằng văn bản, nội dung các cuộc điện thoại v.v...Quá trình giải quyết các vụ
án kinh doanh, thƣơng mại theo quy định tại điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự
2005 (Sửa đổi bổ sung năm 2011) của Tòa án thƣờng đòi hỏi tính xác thực
của chứng cứ bằng các biện pháp nhƣ: Trƣng cầu giám định, xác minh tại các
đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông, tin học v.v...hoặc ít nhất là các hình ảnh,
chƣơng trình phần mềm đó phải còn lƣu giữ. Nhƣ vậy, để hiện thực hóa
nguyên tắc tƣơng đƣơng ở trên, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung pháp luật tố
tụng dân sự theo hƣớng quy định rõ các chứng cứ điện tử nhƣ thế nào là hợp
71
pháp, việc thu thập nhƣ thế nào cho đúng trình tự, thủ tục, đồng thời phải có
những chƣơng trình đào tạo phù hợp để nâng cao năng lực của đội ngũ nhân
lực trong cơ chế hiện giải quyết các vụ án liên quan đến thƣơng mại điện tử.
ii) Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phƣơng thức thƣơng mại điện
tử
Các phƣơng thức thƣơng mại truyền thống đã, đang và sẽ vẫn tồn tại
nhƣng quy mô sẽ thu hẹp để nhƣờng chỗ cho phƣơng thức mới ƣu việt hơn đó
là phƣơng thức thực hiện các hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện tử
nhƣ thƣơng mại, quảng cáo, thanh toán điện tử. Sự thay thế này chủ yếu tập
trung ở các vùng đô thị với nhóm các sản phẩm sản xuất hàng loạt, tất nhiên
là có một số hàng hóa dịch vụ không thể thực hiện đƣợc bằng phƣơng thức
thực hiện trên các phƣơng tiện điện tử.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 không quy định nguyên tắc này
nhƣng quy định gián tiếp trong các hành vi bị cấm tại khoản 1 và 2 Điều 9,
các hành vi cản trở việc lựa chọn sử dụng giao dịch điện tử; cản trở hoặc ngăn
chặn trái phép quá trình truyền, gửi, nhận thông điệp dữ liệu là các hành vi bị
nghiêm cấm trong giao dịch điện tử. Nghị định số 52/2013/NĐ-CP cũng
không quy định nguyên tắc này mà chỉ ghi nhận nguyên tắc tự do thỏa thuận
với nội hàm rộng hơn nhƣng khó minh định, dễ bị áp dụng tùy tiện.
Và nhƣ vậy, cần phải đƣợc bổ sung vào các nguyên tắc hoạt động
thƣơng mại điện tử để có căn cứ áp dụng cũng nhƣ thực hiện pháp luật của
các chủ thể liên quan.
iii)Tự nguyện thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực
hiện giao dịch điện tử
Trong thƣơng mại điện tử, các phƣơng tiện điện tử đƣợc sử dụng để
thực hiện hoạt động thƣơng mại rất phong phú và đa dạng, t cấp độ đơn giản
đến phức tạp nhƣ: Gọi điện thoại, tin nhắn, Email, Website bán hàng, Website
đấu giá trực tuyến, quảng cáo, thanh toán điện tử v.v... Các phƣơng tiện điện
tử này đƣợc sử dụng đơn lẻ hay toàn bộ, t ng giai đoạn hay toàn bộ quá trình
72
nên việc tự nguyện thỏa thuận về loại công nghệ đƣợc sử dụng trong các giao
dịch thƣơng mại sẽ do các chủ thể tham gia tự thỏa thuận chọn lựa.
Pháp luật thực định tôn trọng sự thỏa thuận lựa chọn các loại công nghệ
để tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử. Nguyên tắc này đƣợc quy định tại
khoản 2 Điều 5 Luật Giao dịch điện tử để công nhận giá trị pháp lý của hợp
đồng đã giao kết phù hợp về mặt hình thức và nội dung hợp đồng sẽ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ liên quan của các bên, đồng thời các quy định của
pháp luật tố tụng cũng không loại tr sự thỏa thuận này khi giải quyết các
tranh chấp liên quan.
Trên thực tế, việc tự nguyện lựa chọn phƣơng thức, lựa chọn công nghệ
khi tiến hành các giao dịch của các chủ thể hoàn toàn đƣợc ghi nhận và thực
hiện, tuy nhiên vẫn phải đƣợc quy định cụ thể trong các nguyên tắc của hoạt
động thƣơng mại điện tử để có căn cứ pháp luật khi áp dụng hay thực hiện
hoạt động thƣơng mại điện tử.
iv)Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử
Thực trạng về thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng và an toàn
trong giao dịch điện tử đã đƣợc tiếp thu và đƣợc quy định cụ thể trong các văn
bản pháp luật có liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử. Sự bình đẳng
giữa các chủ thể tham gia giao dịch là một nguyên tắc quan trọng.
Trên cơ sở các nguyên tắc chung của Bộ luật Dân sự, Luật Thƣơng mại
đã quy định: “Thƣơng nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trƣớc
pháp luật trong hoạt động thƣơng mại”, Luật Giao dịch điện tử cũng quy định
nguyên tắc này, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP không quy định nguyên tắc này
tại điều 26. Về nguyên tắc, mọi chủ thể đều đƣợc xác định có vị thế bình đẳng
trong các giao dịch cũng nhƣ khi giải quyết các tranh chấp tại các cơ quan có
thẩm quyền, tham gia tố tụng với tƣ cách là nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có
quyền và nghĩa vụ liên quan gọi chung là đƣơng sự khi vụ việc đƣợc giải
quyết tại Tòa án có thẩm quyền. Tuy nhiên việc bảo đảm an toàn trong giao
73
dịch điện tử mới là vấn đề trọng tâm và quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch, hoạt động thƣơng mại điện tử.
Trên thực tế, nguyên tắc này chƣa thực sự đƣợc thực hiện triệt để trên
thực tế bởi hiệu quả quản lý nhà nƣớc yếu kém, việc thanh tra, kiểm tra chƣa
đầy đủ dẫn đến tình trạng trốn thuế, chất lƣợng hàng hóa không đúng nhƣ
quảng cáo, chào hàng nên xuất hiện sự cạnh tranh thiếu lành mạnh đối với
hoạt động thƣơng mại truyền thống, ảnh hƣởng đến nguyên tắc bình đẳng của
các chủ thể tham gia giao dịch TMĐT.
Một ví dụ điển hình trong việc không đảm bảo nguyên tắc bình đẳng
giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh cùng cung cấp một loại dịch vụ đó là:
Các hãng Taxi hoạt động bình thƣờng t trƣớc tới nay phải tuân thủ rất nhiều
quy định nhƣ hình thức của xe, thông tin, biển hiệu để nhận diện, hiệu lệnh
kiểm tra, thanh tra v.v...là đối tƣợng chịu sự điều chỉnh của Luật Giao thông
Đƣờng bộ năm 2016 và một số văn bản pháp luật hành chính cá biệt (Ví dụ
Quyết định số 21/2013/QĐ- UBND thành phố Hà Nội) nên không thể đi vào
một số tuyến phố bị cấm hoặc bị cấm đỗ, cấm d ng, di chuyển ở một số
khung giờ nhất định. Nhƣng khi Taxi kết nối theo dịch vụ Grab hay Uber xuất
hiện (Sử dụng phƣơng tiện điện tử để kết nối khách hàng và ngƣời có xe nhàn
rỗi) bản chất không thay đổi nhƣng khi hoạt động không có dấu hiệu nhận
diện đặc định và do vậy không phải tuân thủ các quy định nhƣ với xe Taxi
truyền thống, có thể ra vào đƣờng cấm xe Taxi hay cấm đỗ, cấm d ng v.v...
Nhƣ vậy sẽ xuất hiện sự cạnh tranh thiếu lành mạnh và không thể có sự bình
đẳng giữa các chủ thể tham gia kinh doanh, cung cấp hàng hóa dịch vụ trong
hoạt động thƣơng mại v.v...
Ngoài ra, một số trƣờng hợp tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử
nhƣng không chịu sự điều chỉnh của pháp luật về kế toán, thuế, thanh tra,
kiểm tra v.v...điều này gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các hình
thức thƣơng mại khác và thể hiện sự bất bình đẳng của các chủ thể tham gia
quan hệ thƣơng mại.
74
Đây chính là những bất cập, chƣa đầy đủ của quy định về các nguyên
tắc hoạt động của thƣơng mại điện tử.
3.2.2.Thực trạng giao kết h p đồng thƣơng mại điện tử
Kể t khi thƣơng mại điện tử hình thành và phát triển mạnh ở Việt
Nam, mặc dù hạ tầng viễn thông cũng nhƣ số ngƣời sử dụng Internet và thiết
bị di động có kết nối mạng có số lƣợng rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế thƣơng
mại điện tử mới chỉ chiếm 2,5% tổng doanh số bán lẻ tại Việt Nam, chiếm
một tỷ trọng rất nhỏ so với lợi thế, tiện ích cũng nhƣ tính ƣu việt mà thƣơng
mại điện tử đem lại [38].
Thực tế ở trên cho thấy, thực trạng giao kết hợp đồng thƣơng mại điện
tử ở Việt Nam chƣa đƣợc ngƣời tiêu dùng, các doanh nghiệp quan tâm đúng
mức cũng nhƣ ngƣời tiêu dùng chƣa có đủ niềm tin để tham gia các hoạt động
thƣơng mại điện tử. Các giao dịch thƣơng mại điện tử chƣa đƣợc sử dụng phổ
biến trong cộng đồng dân cƣ để khai thác triệt để các lợi thế của TMĐT. Bên
cạnh đó, ngƣời dùng chƣa mặn mà với mua, bán trực tuyến là do họ không tin
vào chất lƣợng hàng hóa, dịch vụ khi mua bán qua mạng. Ngoài ra, họ cũng
không an tâm khi thanh toán trực tuyến. Một số ngƣời không biết cách mua
hàng trực tuyến vì chƣa sử dụng máy tính hay các thiết bị điện tử một cách
thuần thục. Thực tế đã xảy ra, ngƣời mua đặt mua hàng này nhƣng ngƣời bán
lại giao hàng khác. Một hạn chế khác nữa là tình trạng l a đảo, mạo danh để
đánh cắp thông tin và tài khoản giao dịch nên ngƣời dùng càng e dè không
dám sử dụng thanh toán trực tuyếnv.v...Trong khi họ chỉ đƣợc cam kết bởi
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và chƣa có cơ sở pháp lý để bảo vệ họ
v.v...Về mặt bản chất, hợp đồng thƣơng mại điện tử chỉ khác biệt với hợp
đồng thƣơng mại truyền thống ở phƣơng thức giao kết, các phƣơng tiện để
trao đổi thông tin giữa các bên và các thao tác bằng phƣơng tiện điện tử. T
những đặc điểm đó, pháp luật không có các quy định riêng về hợp đồng
thƣơng mại điện tử mà vẫn áp dụng các đạo luật quy định chung về hợp đồng
nhƣ Bộ luật Dân sự, Luật Thƣơng mại, Luật Giao dịch điện tử, Nghị định về
75
thƣơng mại điện tử và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để điều
chỉnh các quan hệ thƣơng mại đƣợc thực hiện một hay toàn bộ quá trình mua
bán hàng hóa dịch vụ bằng phƣơng tiện điện tử.
Trong quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử, nếu xem xét về chủ thể
của các quan hệ pháp luật thì có ba nhóm đó là: Chính phủ, doanh nghiệp và
ngƣời tiêu dùng hoặc khách hàng tùy t ng quan hệ đƣợc xác lập, các quan hệ
chủ yếu đƣợc xác lập gồm: B2B (Business to Business) là mô hình thƣơng
mại điện tử giữa các doanh nghiệp với nhau, B2C (Business to Consumer) là
mô hình thƣơng mại giữa các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng liên quan,
C2C (Consumer to Consumer) là mô hình thƣơng mại điện tử giữa các cá
nhân và ngƣời tiêu dùng với nhau đây là những mô hình có số lƣợng giao dịch
phổ biến và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện
nay. Khi các bên giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử thì xác lập nên quan
hệ pháp luật thƣơng mại điện tử làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
doanh nghiệp trên cơ sở hợp đồng đã thỏa thuận. Theo các báo cáo về thƣơng
mại điện tử những năm qua, thì đây là những mô hình thƣơng mại điện tử phổ
biến và chiếm tỷ lệ lớn nhất, chiếm tới trên 80% doanh số thƣơng mại điện tử,
có thể thấy rằng, sự nhận thức đầy đủ về các quy định của pháp luật, sự tiếp
cận dễ dàng các dịch vụ hạ tầng viễn thông – thông tin cũng nhƣ các chính
sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nƣớc nên
các doanh nghiệp có đủ những hiểu biết cần thiết, sự tin cậy khi tham gia vào
quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử và các tranh chấp trong quá trình giao
kết thực hiện hợp đồng điện tử của hình thức giao dịch này chiếm tỷ lệ rất ít.
Chỉ số thƣơng mại điện tử nêu trên cho thấy nếu việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật thì sẽ thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát
triển.Mặt khác, khi có những hiểu biết đầy đủ và tuân thủ pháp luật thì sẽ loại
tr các rủi ro trong hoạt động thƣơng mại điện tử.
Tuy nhiên, thực trạng pháp luật cho thấy các quy định về hợp đồng
thƣơng mại điện tử còn tản mát ở các văn bản pháp luật khác nhau, sử dụng
76
các thuật ngữ chuyên ngành, kỹ thuật và hàn lâm dẫn đến khó khả thi. Vì để
t bỏ hoặc thay đổi thói quen khi tham gia quan hệ thƣơng mại truyền thống,
ngƣời tiêu dùng luôn phải có đủ niềm tin cũng nhƣ có đầy đủ căn cứ pháp lý
để chứng minh cho yêu cầu của mình khi xảy ra tranh chấp. Nếu trong thƣơng
mại truyền thống, các hợp đồng đƣợc giao kết bằng lời nói thƣờng xảy ra
trong trƣờng hợp mua bán hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ, các bên trực tiếp
thƣơng lƣợng, xem xét rồi thực hiện nghĩa vụ, hoặc nhiều trƣờng hợp là ngƣời
quen biết hoặc có địa điểm kinh doanh cố định nhƣ chợ hay cửa hàng, nên
ngƣời tiêu dùng có niềm tin khi tham gia giao dịch thƣơng mại. Ở một số
hàng hóa, dịch vụ khác, thì hợp đồng đƣợc lập thành văn bản và có chữ ký
xác nhận hay con dấu của doanh nghiệp, ngƣời mua hàng có chứng cứ vật
chất dễ xác nhận và lƣu giữ để có thể sử dụng làm chứng cứ khi có tranh
chấp. Trong thƣơng mại điện tử, các thông điệp dữ liệu đƣợc lƣu giữ ở cơ
quan cung cấp dịch vụ hoặc các cơ quan cung cấp dịch vụ chứng thực, ngƣời
tiêu dùng có tâm lý lo ngại trƣớc các rủi ro tiềm ẩn, không có chứng cứ vật
chất, việc thu thập chứng cứ, tài liệu t các phƣơng tiện điện tử không ổn
định, dễ bị thay đổi hoặc sẽ rất tốn kém khi phải giám định hay lập vi bằng
v.v... nên ngƣời tiêu dùng là các cá nhân, tổ chức không muốn thực hiện giao
kết hợp đồng thƣơng mại điện tử vì lo ngại, không tin tƣởng, không đủ hiểu
biết nhất định về hợp đồng điện tử, đây là các trở ngại xuất phát t việc xây
dựng, ban hành, tuyên truyền phổ biến pháp luật và thực thi pháp luật trong
lĩnh vực thƣơng mại điện tử.
Đối với các doanh nghiệp, việc xác định chủ thể của hợp đồng phải là
ngƣời đại diện cho pháp nhân hoặc ngƣời đƣợc ủy quyền hợp lệ ký mới làm
phát sinh hiệu lực của hợp đồng điện tử, nên rất khó nhận biết chủ thể nào
tham gia ký kết nếu không có các thỏa thuận bằng hình thức đáng tin cậy nhƣ
chữ ký số hoặc cơ quan chứng thực hợp pháp. Mặt khác, dịch vụ trung gian
thanh toán cũng mới chỉ thực hiện đƣợc chức năng thanh toán, tức thực hiện
nghĩa vụ của bên mua trong hợp đồng thƣơng mại điện tử, việc giao nhận
77
hàng hóa cho bên mua không có các quy định về việc kiểm tra, đánh giá chất
lƣợng, kiểm đếm về số lƣợng nên ngƣời tiêu dùng luôn lo sợ bị thiệt hại hoặc
yếu thế khi giao kết hợp đồng điện tử. Các số liệu của Báo cáo thƣơng mại
điện tử về số website bán hàng đƣợc đăng ký còn ít dẫn đến thiếu sự kiểm tra
giám sát các hành vi thƣơng mại điện tử diễn ra nhanh chóng trên mạng. Việc
không kiểm tra, thanh tra có hiệu quả các hành vi quảng cáo trong thƣơng mại
điện tử của các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử sẽ dẫn đến tình trạng
quảng cáo hàng cấm, các văn hóa phẩm độc hại, trái với thuần phong mỹ tục,
trái đạo đức xã hội nhƣng các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thƣơng mại
điện tử vẫn thực hiện bình thƣờng. Vấn đề về thuế trong việc giao kết hợp
đồng thƣơng mại điện tử chƣa đƣợc quy định rõ ràng và cũng chƣa kiểm soát
đƣợc các giao dịch thƣơng mại điện tử do đặc điểm là các thông điệp dữ liệu
đƣợc kết nối trực tiếp giữa các bên nhƣ trong mô hình C2C chẳng hạn, ngƣời
mua và ngƣời bán tự tìm kiếm thông tin, tự thỏa thuận sau đó thực hiện việc
mua bán hàng hóa, dịch vụ dẫn đến thất thu thuế cho ngân sách. Khi nghĩa vụ
thuế không đƣợc thực hiện một cách công bằng thì rõ ràng là đã xảy ra tình
trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các Doanh nghiệp kinh doanh thƣơng
mại truyền thống. Đây cũng là vấn đề mới cần đƣợc quan tâm sâu sắc, bảo
đảm các lợi ích của nhà nƣớc.Vấn đề thanh toán điện tử là phƣơng thức thực
hiện nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng thƣơng mại điện tử hiện chƣa có
nhiều hình thức phù hợp để tạo thuận lợi cho các bên giao kết hợp đồng.Thực
tiễn tại Việt Nam hiện nay đã có phƣơng tiện thanh toán điện tử, thể hiện dƣới
hình thức thẻ ngân hàng và ví điện tử. Việc nêu rõ các phƣơng tiện thanh toán
không dùng tiền mặt nhƣ séc, lệnh chi, thẻ ngân hàng, ví điện tử sử dụng
trong thanh toán là rất quan trọng để thực hiện vai trò quản lý nhà nƣớc về các
phƣơng tiện thanh toán trong nền kinh tế. Để khắc phục tình trạng này Ngân
hàng nhà nƣớc đã ban hành Thông tƣ số 39/2014/TT-NHNN hƣớng dẫn về
dịch vụ trung gian thanh toán đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến
hoạt động cung ứng và sử dụng dịch vụ trung gian thanh toán với các loại
78
dịch vụ trung gian thanh toán.Việc pháp luật quy định về thanh toán điện tử
sẽ hỗ trợ rất lớn trong việc thực hiện hợp đồng điện tử, khai thác những tiện
ích của việc thanh toán phi tiền mặt.
Sự thiếu thống nhất trên phƣơng diện xây dựng pháp luật để điều chỉnh
quan hệ pháp luật trong giao kết hợp đồng điện tử dẫn đến tình trạng các chủ
thể tham gia giao kết hợp đồng khó tiếp cận các quy định của pháp luật, việc
sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành trong điều kiện xã hội nhƣ Việt Nam
sẽ gây khó hiểu, hiểu không đúng, không đầy đủ dẫn đến những sai phạm, vi
phạm đáng tiếc khi thực hiện giao kết hợp đồng điện tử. Giữa các quy phạm
nội dung và các quy phạm hình thức cũng nhƣ các quy định khác có liên quan
đến giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử chƣa đồng bộ, việc thiếu sự đồng
bộ sẽ gây ra những khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp bằng thủ tục
tố tụng tại Tòa án sẽ gây khó khăn cho việc chứng minh của các đƣơng sự
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh chấp phát sinh.
Thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng thƣơng mại điện tử hiện
nay còn nhiều bất cập, các nguyên tắc không đƣợc tuân thủ, quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng luôn bị đe dọa vì thiếu các cơ chế
hữu hiệu trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.
3.2.3.Thực trạng bảo h quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại
điện tử
Có thể nói rằng, thƣơng mại điện tử là hình thức dễ bị các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ nhất bởi một số đặc điểm nhƣ: Việc giao dịch chủ
yếu trên mạng thông tin nhƣ viễn thông, internet giữa các bên tham gia giao
dịch, mọi thông điệp dữ liệu đƣợc số hóa hay công nghệ tƣơng tự nên rất khó
nhận biết, việc giao dịch đƣợc bảo mật nên rất khó để các cơ quan chức năng
thanh tra, kiểm tra để xử lý.
Theo Nghị định số 52/2013NĐ- CP về thƣơng mại điện tử, các hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị nghiêm cấm cũng không đƣợc quy định cụ
thể mà chỉ quy định gián tiếp thông qua các hành vi khác. Việc không quy
79
định rõ ràng, cụ thể trong văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp các vấn đề về
thƣơng mại điện tử đã làm giảm tính răn đe cần thiết cho những ngƣời có ý
định vi phạm, giảm tính thống nhất, minh bạch, của pháp luật. Trong Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005, các quy định đƣợc thể hiện rõ ràng hơn, theo đó, việc
nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao quát hơn.
Hành vi vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng
mại điện tử hiện nay diễn ra rất phổ biến, chủ yếu là việc sử dụng các phần
mềm chạy chƣơng trình bán hàng tự động, quảng cáo sản phẩm hàng hóa,
phần mềm thanh toán tự động nhƣng không trả phí bản quyền hoặc bẻ khóa
v.v...Do đặc điểm là các thông tin về sản phẩm, dịch vụ hàng hóa trao đổi
mua bán trên mạng thông tin viễn thông, mạng internet khép kín, không cần
cửa hàng hay phòng trƣng bày sản phẩm. Các sản phẩm, dịch vụ đƣợc số hóa
hay mô tả tƣơng tự, mọi thông tin khác về chất lƣợng, tiêu chuẩn kỹ thuật,
nguồn gốc xuất xứ đều do ngƣời bán cung cấp và không có gì để chứng minh.
Thông tin về giá cả, phƣơng thức giao hàng đều bí mật giữa ngƣời mua ngƣời
bán nên cơ chế phát hiện vi phạm hiện nay chỉ mang tính hình thức, hoặc
không thể phát hiện đƣợc vì công tác quản lý nhà nƣớc còn yếu, thiếu, không
đồng bộ. Do vậy, việc pháp luật không quy định cụ thể để bắt buộc các chủ
thể bán hàng hóa dịch vụ qua mạng internet và mạng viễn thông thực hiện các
biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn, phòng chống các vi phạm về quyền sở hữu
trí tuệ trong thƣơng mại điện tử sẽ không thể bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, ảnh
hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời tiêu dùng. Mặt khác, nếu
không phát hiện kịp thời để xử lý các vi phạm thì sẽ làm giảm lòng tin của
ngƣời tiêu dùng đối với thƣơng mại điện tử. Nếu sử dụng các biện pháp kỹ
thuật bắt buộc thì sẽ nhanh chóng phát hiện các vi phạm, ngoài ra còn quy
định bắt buộc về thông tin về địa chỉ, số điện thoại của nhà sản xuất hay đơn
vị quản lý đối với hàng hóa có đăng ký chỉ dẫn địa lý v.v...để ngƣời tiêu dùng
liên hệ, kiểm tra chéo nhằm tránh mua phải hàng giả hàng nhái. Đây là những
biện pháp có thể áp dụng khi xây dựng pháp luật.
80
Mặc dù Luật sở hữu trí tuệ có quy định biện pháp hành chính xử lý vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ và quy định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ
quan nhà nƣớc liên quan nhƣ: UBND các cấp, Quản lý thị trƣờng, Hải quan,
Thuế, Cảnh sát biển, Thanh tra chuyên ngành v.v...nhƣng thực chất việc phát
hiện sẽ rất khó vì các quy định chồng chéo, không thống nhất với các Luật
khác, ví dụ việc thực hiện các chính sách về hải quan điện tử có quy định về
việc thông quan nhanh không qua kiểm soát (phân luồng hàng hóa) nên không
thể phát hiện hàng hóa vi phạm.
Về các chế tài xử lý hiện nay đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ hiện nay còn nhẹ, chƣa nghiêm khắc, có nhiều quy định còn chƣa rõ
ràng dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc hình sự hóa các quan hệ dân sự. Việc Bộ
luật Hình sự sửa đổi bổ sung đã thêm một số tội danh liên quan đến việc sử
dụng mạng Internet để đƣa, gửi nhận các thông tin trái pháp luật hoặc dùng
công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội đã kịp thời xử lý các hành vi tội
phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Do không có cơ chế phát hiện các vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ,
công tác thanh tra, kiểm tra không có hoặc không hiệu quả nên việc xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT rất phổ biến, có thể nói bán hàng giả,
hàng nhái trên mạng xã hội hay các sàn giao dịch điện tử là nhiều nhất vì tính
ít công khai trong việc trƣng bày hàng hóa, giao dịch chỉ có ngƣời bán ngƣời
mua thực hiện, việc giao nhận hàng diễn ra nhanh gọn có thể quan trung gian
vận chuyển v.v...
3.2.4.Thực trạng bảo vệ quyền l i ngƣời tiêu dùng trong thƣơng
mại điện tử
Trƣớc hết, để bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong TMĐT thì
nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử là nguyên
tắc quan trọng và tiên quyết. Việc tiếp thu nguyên tắc này t Luật mẫu về
Thƣơng mại điện tử (UNCITRAN) đã đƣợc quy định cụ thể trong các ngành
luật có liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử.
81
Luật Bảo vệ ngƣời tiêu dùng năm 2010, Luật Quảng cáo cũng nhƣ các
văn bản pháp luật liên quan, Nhà nƣớc tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá
nhân chủ động tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng. Khuyến
khích tổ chức, cá nhân ứng dụng, phát triển công nghệ tiên tiến để sản xuất
hàng hóa, cung ứng dịch vụ an toàn, bảo đảm chất lƣợng. Triển khai thƣờng
xuyên, đồng bộ các biện pháp quản lý, giám sát việc tuân thủ pháp luật của tổ
chức,cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử là nhiệm vụ
quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nƣớc do mức độ ảnh hƣởng, sự tác
độngđối với ngƣời tiêu dùng là rất lớn. Luật Bảo vệ ngƣời tiêu dùng năm
2010 đã quy định về các nguyên tắc bảo vệ ngƣời tiêu dùng nhƣng trên thực
tế các nguyên tắc này không đƣợc tôn trọng, các hành vi vi phạm diễn ra phổ
biến, đặc biệt là trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử nhƣ quấy rối ngƣời tiêu
dùng bằng tin nhắn rác để quảng cáo, tiếp thị, rồi tình trạng lấy cắp thông tin
của ngƣời tiêu dùng t các quan hệ thƣơng mại vào mục đích khác, dẫn đến
không một ai sử dụng thiết bị điện tử không là “nạn nhân” của tin nhắn rác.
Luật Thƣơng mại năm 2005 cũng quy định thƣơng nhân thực hiện hoạt động
thƣơng mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho ngƣời tiêu dùng về
hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính
chính xác của các thông tin đóv.v...Thƣơng nhân phải chịu trách nhiệm về
chất lƣợng, tính hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh. Nhƣ
vậy, Luật Bảo vệ ngƣời tiêu dùng và Luật Thƣơng mại đã có những quy định
nguyên tắc để các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử là bên bán hàng hóa,
dịch vụ phải tuân thủ khi thực hiện các hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng
tiện điện tử.
Nghị định số 52/2013/NĐ-CP cũng quy định các hành vi bị cấm trong
thƣơng mại điện tử để bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng nhƣ: Lợi dụng
thƣơng mại điện tử để kinh doanh hàng giả, hàng hóa, dịch vụ vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ; hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
82
doanh; lợi dụng danh nghĩa hoạt động kinh doanh thƣơng mại điện tử để huy
động vốn trái phép t các thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân khác; cung cấp các
dịch vụ thƣơng mại điện tử hoặc dịch vụ giám sát, đánh giá và chứng thực
trong thƣơng mại điện tử khi chƣa đăng ký, chƣa đƣợc cấp phép hoặc không
đúng với thông tin trong hồ sơ đăng ký hoặc cấp phép; có hành vi gian dối
hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thực hiện các thủ tục thông báo thiết
lập website thƣơng mại điện tử, đăng ký website cung cấp dịch vụ thƣơng mại
điện tử, đăng ký hoặc xin cấp phép các dịch vụ giám sát, đánh giá và chứng
thực trong thƣơng mại điện tử.Sử dụng các đƣờng dẫn, biểu trƣng hoặc công
nghệ khác trên website thƣơng mại điện tử để gây nhầm lẫn về mối liên hệ
với thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân khác; sử dụng đƣờng dẫn để cung cấp
những thông tin trái ngƣợc hoặc sai lệch so với thông tin đƣợc công bố tại khu
vực website có gắn đƣờng dẫn này; thực hiện các hành vi l a đảo khách hàng
trên website thƣơng mại điện tử; giả mạo thông tin của thƣơng nhân, tổ chức,
cá nhân khác để tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử v.v...
Có thể nói, việc xây dựng, ban hành các quy định pháp luật có liên
quan đến bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử đã
tƣơng đối đầy đủ, tuy nhiên, việc quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau đã làm giảm tính khả thi trong quá trình áp dụng, thực hiện
pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. Trên
thực tế, quá trình thực hiện các quy định của pháp luật cũng không hiệu quả,
không đƣợc tuân thủ đúng, công tác quản lý nhà nƣớc còn lỏng lẻo dẫn đến
quyền lợi chính đáng của ngƣời tiêu dùng bị xâm phạm nghiêm trọng v.v...
Pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử dƣờng nhƣ
chƣa quy định đầy đủ các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn, phòng ng a và
đấu tranh với các hành vi vi phạm, chƣa quy định đầy đủ cơ chế phát hiện tội
phạm, vi phạm pháp luật xâm hại đến quyền lợi chính đáng của ngƣời tiêu
dùng. Thực tiễn cho thấy, pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng có tính khả thi
83
không cao và công tác tuyên truyền pháp luật cũng chƣa đạt đƣợc hiệu quả
cần thiết để thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển.
3.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
3.3.1. Tuân thủ, sử dụng pháp luật của các chủ thể tham gia quan
hệ thƣơng mại điện tử
a) Đối với người sở hữu Website thương mại điện tử bán hàng:
Các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu và vận hành Website bán hàng phải
đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để thực hiện các hành vi kinh doanh, mua
bán hàng hóa dịch vụ qua mạng Internet theo một trình tự, thủ tục đƣợc quy
định . Trong thông tin đăng ký sẽ có đầy đủ các thông tin cần thiết để đảm
bảo sự quản lý nhà nƣớc, đồng thời bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ v.v...cũng nhƣ đáp ứng các yêu cầu về thống kê của các
cơ quan hoạch định chính sách. Ngoài ra còn các cá nhân, tổ chức thiết lập
sàn giao dịch thƣơng mại điện tử phải có trách nhiệm phải thông báo về
Website thƣơng mại điện tử bán hàng, tiến hành đăng ký với Bộ Công
Thƣơng. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin đƣợc Bộ Công
Thƣơng giao thực hiện việc xác nhận đăng ký sàn giao dịch thƣơng mại điện
tử. Bên cạnh đó, chủsở hữu còn có trách nhiệm minh bạch thông tin và thực
hiện các nghĩa vụ khác theo pháp luật về kinh doanh, thƣơng mại;
Ý thức chấp hành pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp đối với pháp
luật thƣơng mại điện tử cũng chƣa cao, đơn cử ở tỉnh Long An, Sở Công
thƣơng tỉnh này gửi 200 văn bản đề nghị các Website đang hoạt động tại tỉnh
cung cấp thông tin giúp cho việc quản lý về thƣơng mại điện tử, nhƣng chỉ
nhận đƣợc 40 phản hồi. Còn ở TP. Hồ Chí Minh, toàn thành phố có trên
144.000 tên miền website đã đăng ký, trong đó có gần 86.000 tên miền đã
hoạt động, với gần 80.000 website là website thƣơng mại, nhƣng thực tế chỉ
có khoảng 2% website thƣơng mại là đã đăng ký, một tỷ lệ rất lớn còn lại
đang hoạt động nhƣng không đăng ký quản lý [107]. Thực tế này đang gây
84
sức ép lên các cơ quan quản lý.Số lƣợng doanh nghiệp v a và nhỏ Việt Nam
khai thác thƣơng mại điện tử không ít nhƣng không tuân thủ quy định và thủ
tục. Đáng nói nhất trong đó là việc nhận thức về luật của các doanh nghiệp
v a và nhỏ còn thấp, dẫn tới nhiều vụ tranh chấp, cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử bán lẻ, nhiều doanh nghiệp còn chƣa
thực hiện đầy đủ các yêu cầu của luật khi mở website bán hàng trực tuyến.
Bên cạnh đó, việc thiếu vắng các giải pháp thanh toán đồng bộ khiến cho việc
mua hàng của ngƣời dùng chƣa thực sự tiện lợi.
b). Đối với người kinh doanh bán hàng qua các phương tiện điện tử:
Ngƣời kinh doanh bán hàng trong thƣơng mại điện tử có nghĩa vụ
thông báo về Website bán hàng, xây dựng quy chế, giám sát và quản lý môi
trƣờng giao dịch, minh bạch thông tin và các nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật về kinh doanh, thƣơng mại. Thông tƣ số 47/2014/TT- BCT ban
hành ngày 5/12/2014 và có hiệu lực kể t ngày 20/01/2015, quy định chi tiết
trình tự thủ tục đăng ký, công bố, thông báo, cơ quan tiếp nhận v.v...
Về nguyên tắc,việc thiết lập trang thông tin điện tử, việc cung cấp,
truyền đƣa, lƣu trữ, sử dụng thông tin điện tử trên Internet phải tuân thủ các
quy định của pháp luật về công nghệ thông tin, pháp luật về sở hữu trí tuệ,
pháp luật về báo chí, pháp luật về xuất bản, pháp luật về bảo vệ bí mật nhà
nƣớc, pháp luật về bản quyền, pháp luật về quảng cáo và các quy định quản lý
thông tin điện tử trên Internet. Các tổ chức, doanh nghiệp thiết lập trang thông
tin điện tử tổng hợp phải có giấy phép do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp.
Các doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử để cung cấp dịch vụ mạng
xã hội trực tuyến phải đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông. Các tổ
chức, doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử và sử dụng Internet để
cung cấp dịch vụ ứng dụng chuyên ngành trên Internet thực hiện theo các quy
định của pháp luật chuyên ngành và các quy định pháp luật về thƣơng mại
điện tử.
c) Đối với người mua hàng hóa dịch vụ trong hoạt động thương mại
85
điện tử.
Theo Báo cáo thƣơng mại điện tử của Bộ Công thƣơng năm 2014 thì
giá trị sản phẩm chọn mua nhiều nhất là mức t 1 đến 3 triệu đồng, chiếm
29%. Theo sau là mức trên 5 triệu đồng với 26% ngƣời chọn mua, và mức
đƣợc ít ngƣời chọn mua nhất là t 3 đến 5 triệu đồng với 11%. Do vậy, khi có
tranh chấp, ngƣời tiêu dùng nếu không khiếu nại thành công, họ chấp nhận t
bỏ quyền của mình nên việc giải quyết tranh chấp cũng vì thế không xảy ra
phổ biến.
Trên thực tế, ngƣời mua hàng hóa dịch vụ chính là những ngƣời phát
hiện các vi phạm nhanh nhất, biết rõ các thủ đoạn, mánh khóe của bên bán
hàng hóa dịch vụ trong hoạt động TMĐT nhƣng pháp luật không có các quy
định đối với họ về thông báo cho cơ quan có thẩm quyền. T việc thiếu quy
định của pháp luật nên dẫn đến các hành vi vi phạm không bị phát hiện để xử
lý kịp thời theo quy định của pháp luật.
d) Hiệp hội Thương mại điện tử
Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam (VECOM) là một tổ chức phi
Chính phủ, không phải là chủ thể áp dụng pháp luật nhƣng có vai trò rất quan
trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về thƣơng mại điện tử
và các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động TMĐT. Với hội viên là
các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trực tiếp kinh doanh bằng thƣơng mại
điện tử, hoặc ứng dụng thƣơng mại điện tử phục vụ hoạt động sản xuất, kinh
doanh, hay các đơn vị cung cấp các dịch vụ về thƣơng mại điện tử. Hiệp hội
hoạt động trên cơ sở tự nguyện, phi lợi nhuận, nhằm mục đích tập hợp, đoàn
kết, hợp tác, hỗ trợ, bảo vệ các hội viên để phát triển lĩnh vực thƣơng mại điện
tử ở Việt Nam. Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam hoạt động trong phạm
vi cả nƣớc, do vậy việc tiếp nhận các phản hồi t những thành viên sẽ là bức
tranh phản ánh trung thực, toàn cảnh về TMĐT ở Việt Nam và trên cơ sở đó,
có những đóng góp trong việc xây dựng, sửa đổi pháp luật nhằm đáp ứng yêu
cầu của xã hội trong lĩnh vực này.
86
Đây cũng là kênh thông tin quan trọng, hỗ trợ đắc lực cho các chủ thể
tham gia TMĐT các kiến thức pháp luật để chấp hành pháp luật cũng nhƣ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3.3.2. Thực trạng cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực thƣơng mại điện tử
Để đảm bảo vai trò quản lý nhà nƣớc trong hoạt động thƣơng mại điện
tử, với tính đặc thù và chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật nên cơ chế
thực thi pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc vận hành bởi các chủ thể chính
tham gia hoạt động này, bao gồm: Các cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động thƣơng mại điện tử; Các cơ quan giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
thƣơng mại điện tử nhƣ Trọng tài, Tòa án.
a) Bộ Công thương
Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin là tổ chức trực thuộc
Bộ Công thƣơng, thực hiện chức năng tham mƣu, giúp Bộ trƣởng quản lý nhà
nƣớc và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực hoạt động thƣơng mại điện
tử, ứng dụng công nghệ thông tin v.v...Cơ quan Quản lý thị trƣờng thuộc Bộ
Công thƣơng có trách nhiệm trong việc phát hiện, kiểm tra các vi phạm về Sở
hữu trí tuệ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, phối hợp với các cơ quan
khác nhƣ Hải quan, Thuế để xử lý hành chính hoặc các biện pháp khác để bảo
vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ v.v...
Theo quy định tại Thông tƣ số 47/2014/TT- BCT ngày 5/12/2014
(Thay thế Thông tƣ số 12/2013/TT-BCT) quy định về thủ tục thông báo, đăng
ký và công bố thông tin liên quan đến Website thƣơng mại điện tử. Theo nội
dung thông tƣ này thì pháp luật chỉ quy định đăng ký, thông báo đối với
những cá nhân, tổ chức kinh doanh sàn giao dịch điện tử và Website thƣơng
mại điện tử, ngoài ra không cấp phép thêm loại hình nào khác. Mặt khác, do
quy định còn chung chung, mơ hồ, không có định nghĩa rõ ràng thế nào là
Website thƣơng mại điện tử nên số lƣợng xin cấp phép trong thời gian qua
không lớn, không tƣơng xứng với tốc độ phát triển của hoạt động thƣơng mại
87
điện tử dẫn đến hiệu quả quản lý kém, không đáp ứng đƣợc yêu cầu quản lý
nhà nƣớc. Mặc dù pháp luật quy định rất rõ về trách nhiệm của các chủ sở
hữu website bán hàng, sàn giao dịch điện tử hay cá nhân kinh doanh phải
đăng ký với các cơ quan có thẩm quyền, cung cấp các thông tin cơ bản nhƣ:
Địa chỉ, tên tuổi của cá nhân, số giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, mã
số thuế của doanh nghiệp v.v...nhƣng trên thực tế, số lƣợng website có đăng
ký chỉ chiếm chƣa tới 4%, riêng các cá nhân tham gia bán hàng qua mạng
internet, các trang mạng xã hội nhƣ Facebook hay Yahoo, Twiter v.v...không
đăng ký theo quy định, không cung cấp các thông tin, nên rất nhiều trƣờng
hợp ngƣời có quyền và lợi ích bị xâm hại không thể liên hệ, khiếu nại hay
khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền. Thực tiễn này cho thấy nếu không có
biện pháp quản lý phù hợp sẽ dẫn đến hệ quả là thất thu thuế, không bảo vệ
đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ TMĐT.
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật
của các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử thì hoạt động thanh
tra, kiểm tra cũng nhƣ các cơ chế phát hiện vi phạm phải diễn ra thƣờng
xuyên, liên tục mới đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển lành mạnh của hoạt động
TMĐT.Trên thực tế thì với biên chế nhân sự không đủ, trang thiết bị phục vụ
cho công tác thanh kiểm tra rất hạn chế nên thực tế cho thấy công tác này gần
nhƣ chỉ quy định cho có, không khả thi và không đƣợc triển khai trên thực tế,
ngoại tr những vụ việc bị báo chí hay cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện.
Việc hủy bỏ, thu hồi giấy phép đăng ký hiện nay xảy ra rất ít vì không
có cơ chế phát hiện những vi phạm của chủ sở hữu Website nhƣ: Không cập
nhật thông tin, không đăng ký lại Website sau khi chuyển nhƣợng, kinh doanh
hàng hóa dịch vụ bị cấm v.v…
Hội bảo vệ Ngƣời tiêu dùng là các cơ quan nhà nƣớc về bảo vệ ngƣời
tiêu dùng đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật, theo đó:
Bộ Công Thƣơng là cơ quan quản lý nhà nƣớc về bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng ở trung ƣơng. Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan giúp Bộ
88
trƣởng Bộ Công Thƣơng thực hiện quản lý nhà nƣớc về bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng.
Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại điện tử cũng là
một nhiệm vụ của cơ quan này, hiện nay trên cả nƣớc mới chỉ có 50 tỉnh,
thành phố có địa chỉ liên hệ, email, số điện thoại để bảo vệ ngƣời tiêu dùng
trong khi hoạt động TMĐT đƣợc thực hiện ở mọi địa phƣơng, mọi lúc, mọi
nơi nên chƣa có cơ chế để bảo vệ họ t các cơ quan quản lý nhà nƣớc cũng
nhƣ nhận đƣợc sự giúp đỡ của cơ quan bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.
b) Ủy ban nhân dân các cấp
Trên thực tế thì UBND các cấp chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến
hỗ trợ phát triển TMĐT trên địa phƣơng mình nhƣng trong thời gian qua, vai
trò của UBND các cấp rất mờ nhạt trong việc triển khai thực hiện các quy
định của pháp luật về TMĐT. Trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật
về TMĐT cho ngƣời dân chƣa tƣơng xứng với yêu cầu của xã hội trong vấn
đề này nên Hoạt động TMĐT chƣa phát triển nhƣ kỳ vọng, quyền và lợi ích
của ngƣời tiêu dùng chƣa đƣợc bảo đảm. Sự phối hợp của các cơ quan liên
quan cấp tỉnh nhƣ Sở Công thƣơng, Sở Thông tin và truyền thông, Hải quan,
cơ quan Thuế, Công an chƣa nhịp nhàng, đồng bộ và có hiệu quả.
c) Bộ Thông tin truyền thông
Là cơ quan chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ trong việc chủ trì, phối
hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan đến hoạt động quản lý nhà
nƣớc về công nghệ thông tin, đây là yếu tố nền tảng hình thành, tồn tại và
phát triển của hoạt động thƣơng mại điện tử.
Chính sách pháp luật về Hạ tầng công nghệ thông tin, phát triển nguồn
nhân lực, Đầu tƣ cho công nghệ thông tin, chính sách về cung cấp dịch vụ
thông tin và ứng dụng Công nghệ thông tin trong thƣơng mại là nền tảng cơ
bản cho TMĐT phát triển, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Việc giao chức năng nhiệm vụ cho Bộ Thông tin truyền thông về vấn
đề xây dựng các chính sách pháp luật có liên quan đến TMĐT trong thời gian
89
qua đã có tác động tích cực đến hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện
tử.
d) Các cơ quan giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
thương mại điện tử
Các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong hoạt động thƣơng mại
điện tử gồm;
- Trong tài thƣơng mại
- Hệ thống Tòa án nhân dân các cấp
Trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử đƣợc
giải quyết tại cơ quan trọng tài chỉ phát sinh khi giá trị tranh chấp lớn, thƣờng
là các tranh chấp giữa các thƣơng nhân trong quan hệ B2B, còn những quan
hệ khác có giá trị thấp hoặc các bên không có thỏa thuận trọng tài sẽ không sử
dụng biện pháp này.
Hệ thống tòa án nhân dân là nơi giải quyết cuối cùng của các tranh
chấp thƣơng mại điện tử, giải quyết các vụ kiện hành chính giữa các cá nhân,
tổ chức, thƣơng nhân khi họ không chấp nhận các quyết định hành chính của
các cơ quan quản lý nhà nƣớc có liên quan.
Trong trƣờng hợp các vi phạm pháp luật cần phải bị xử lý hình sự thì
các cơ quan tiến hành tố tụng nhƣ: Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát nhân dân
sẽ tiến hành điều tra, truy tố và vụ án đƣợc xét xử tại Tòa án nhân dân có
thẩm quyền.
3.4. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ
XỬ LÝ VI PHẠM TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
3.4.1 Những tranh chấp phổ biến và biện pháp giải quyết tranh
chấp trong thƣơng mại điện tử thời gian vừa qua.
Một trong các tranh chấp phổ biến trong hoạt động thƣơng mại điện tử
chủ yếu phát sinh trong các quan hệ B2C - (Doanh nghiệp với ngƣời tiêu
dùng), tức phát sinh giữa ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp hay thƣơng nhân
với nội dung tranh chấp nhƣ: Bên bán có hành vi l a dối khách hàng, giao
90
hàng hóa, dịch vụ không đúng nhƣ trong nội dung quảng cáo sản phẩm. Thời
gian giao nhận hàng hóa, dịch vụ không đúng cam kết, không đổi trả hàng hóa
dịch vụ. Trên thực tế hiện nay, bên vi phạm nghĩa vụ thƣờng là Doanh nghiệp
hay thƣơng nhân sở hữu Website bán hàng hoặc tham gia bán hàng trực tuyến
trên Sàn giao dịch điện tử hay những cá nhân bán hàng trên các mạng mở
khác mà lại không phải do ngƣời tiêu dùng vi phạm nghĩa vụ. Sở dĩ có thực
trạng nêu trên là sau khi giao kết hợp đồng, ngƣời tiêu dùng hoặc phải thanh
toán trực tuyến hay thanh toán qua thẻ thanh toán hoặc qua các hình thức khác
nhƣng họ luôn là ngƣời thực hiện nghĩa vụ của mình trƣớc, đây là nguyên
nhân dẫn đến tranh chấp chủ yếu trong quan hệ thƣơng mại điện tử theo mô
hình B2C – (Doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng). Với việc sử dụng các mạng
xã hội để quảng cáo, mua bán hàng hóa thì quan hệ theo mô hình C2C cũng
xảy ra nhiều tranh chấp nhƣng thƣờng giá trị không lớn, bên bán hàng không
đăng ký vì luật không quy định, do vậy khó xác định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp. Không chỉ vi phạm nghĩa vụ khi đã giao kết hợp đồng, để quảng
cáo sản phẩm dịch vụ, các Thƣơng nhân hoặc doanh nghiệp đã cấu kết với
nhiều cá nhân tổ chức khác để sử dụng thông tin của khách hàng để gửi tin
nhắn rác nhằm quảng cáo trên các thiết bị di động hay qua điện thoại và
Email, hành vi quấy rối này lẽ ra phải bị xử lý hành chính hoặc khởi kiện ra
Tòa án để yêu cầu bồi thƣờng các thiệt hại phát sinh, tuy nhiên do các quy
định của pháp luật còn phức tạp, nhiều thủ tục tố tụng làm mất thời gian cũng
nhƣ nhiều yếu tố khác nên các tranh chấp này không phát sinh nhiều nhƣng
trong tƣơng lai gần, đây cũng là một dạng tranh chấp cần phải giải quyết.
Đối với các quan hệ thƣơng mại điện tử theo mô hình B2B – (Doanh
nghiệp với Doanh nghiệp) có giá trị tranh chấp lớn và khi có tranh chấp xảy ra
các Doanh nghiệp hay thƣơng nhân mới tiến hành giải quyết bằng trọng tài
hay khởi kiện ra tòa án có thẩm quyền.
91
Các tranh chấp nhƣ Tên miền hay quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng
mại điện tử cũng đã bắt đầu xuất hiện và có xu hƣớng tăng nhanh trong thời
gian v a qua.
Để giải quyết các tranh chấp giữa ngƣời tiêu dùng với bên bán hàng
trong thƣơng mại điện tử, pháp luật có liên quan đã quy định các trình tự thủ
tục để giải quyết các tranh chấp bằng các cách thức t đơn giản nhƣ khiếu nại
và giải quyết khiếu nại giữa khách hàng và bên bán hàng hóa dịch vụ, giữa
các bên tranh chấp có thể thƣơng lƣợng, hòa giải để giải quyết. Thực tế hiện
nay, việc giải quyết tranh chấp đƣợc giải quyết bằng những hình thức nhƣ:
Thƣơng lƣợng, hòa giải, giải quyết bằng trọng tài, giải quyết bằng biện pháp
dân sự thông qua thủ tục tố tụng tại tòa án, ngoài ra còn áp dụng biện pháp
hành chính hoặc xử lý hình sự.
3.4.2. Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp dân sự
a) Thƣơng lƣ ng, hòa giải thông qua công cụ trực tuyến
Giải quyết tranh chấp bằng hình thức thƣơng lƣợng, hòa giải bằng các
công cụ trực tuyến giữa ngƣời tiêu dùng với các Doanh nghiệp hay thƣơng
nhân sở hữu Website bán hàng hay tham gia bán hàng thông qua các Sàn giao
dịch điện tử là việc khách hàng có thể gửi các khiếu nại hay các yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ của bên bán trên các phƣơng tiện điện tử mà mình đã t ng thực
hiện việc giao kết hợp đồng hoặc thông qua hình thức trao đổi thông tin tƣơng
tác nhƣ điện thoại hay công cụ Chat để giải quyết các bất đồng hay mâu thuẫn
phát sinh t hợp đồng. Hiện nay, hầu hết các Website bán hàng hóa, dịch vụ
hay các Sàn giao dịch điện tử đều có công bố các điều khoản về giải quyết
khiếu nại của khách hàng bằng việc cung cấp các số điện thoại Hotline hay
Email. Nhƣ vậy các hình thức có thể tƣơng tác đƣợc giữa hai bên nhằm giải
quyết dứt điểm các tranh chấp, và thực tế, bên yếu thế và phải chịu thiệt thòi
luôn là khách hàng chứ không phải doanh nghiệp bán hàng hay thƣơng nhân.
Trong Nghị định về thƣơng mại điện tử và các văn bản có liên quan đến
lĩnh vực này, việc quy định không rõ ràng, không cụ thể hay định danh các
92
phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại điện tử bằng biện pháp hòa
giải, thƣơng lƣợng trên các công cụ trực tuyến nên đôi khi các Chủ Website
hay các Doanh nghiệp, Thƣơng nhân chỉ đặt ra các điều khoản mang tình
chống đối, không có thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp với ngƣời tiêu
dùng.
Thực tiễn cho thấy, nếu giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa
giải, thƣơng lƣợng thông qua các công cụ trực tuyến đƣợc quy định cụ thể,
chặt chẽ gắn với việc thanh tra kiểm tra xử lý hiệu quả thì sẽ góp phần giải
quyết dứt điểm, thỏa đáng và nhanh chóng, bảo vệ đƣợc quyền lợi ngƣời tiêu
dùng trong thƣơng mại điện tử. Nếu các hành vi thƣơng mại đƣợc giao kết
hay thực hiện một phần hay toàn bộ bằng phƣơng tiện điện tử thì cũng cần có
phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng các phƣơng tiện tƣơng ứng, coi đó
nhƣ một biện pháp cân bằng về phƣơng diện kỹ thuật nhằm tận dụng các lợi
thế của thƣơng mại điện tử không phải là nguyên nhân tiêu cực dẫn đến tranh
chấp.
b) Giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử bằng trọng tài
Việc lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài phải đƣợc các bên
tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử tự nguyện lựa chọn khi giao kết hợp
đồng hoặc khi phát sinh tranh chấp.
Hiện nay, quan hệ Thƣơng mại điện tử phát sinh chủ yếu ở một số mô
hình giao dịch là B2B - (doanh nghiệp với doanh nghiệp), B2C - (doanh
nghiệp với ngƣời tiêu dùng), C2C - (ngƣời tiêu dùng với ngƣời tiêu dùng)
thông qua các Website bán hàng trực tuyến hoặc Sàn Giao dịch điện tử và các
mạng mở khác. Thông thƣờngtrong các điều khoản của hợp đồng, trong đó có
điều khoản giải quyết tranh chấp do bên bán hàng tự đƣa ra và xây dựng hợp
đồng (Hợp đồng mẫu hay còn gọi là Hợp đồng gia nhập). Việc thỏa thuận
thực sự giữa các bên rất ít xảy ra vì các giao diện của các Website không có
các thiết kế phù hợp để các bên tự thỏa thuận trong đó có thỏa thuận về giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
93
Theo quy định tại Điều 17 Luật Trọng tài thƣơng mại về quyền lựa
chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp của ngƣời tiêu dùng thì:
“Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người
tiêu dùng, m c dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện
chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận
trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài ho c Tòa án
để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền
khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.”
Thực tiễn cho thấy, khi giải quyết tranh chấp thƣơng mại giữa các
doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân và ngƣợc lại thì cơ chế giải
quyết này có nhiều ƣu điểm vƣợt trội, nhanh chóng, dứt điểm, đảm bảo hài
hòa quyền và nghĩa vụ của các bên. Trên các trang Website bán hàng trực
tuyến hay Sàn giao dịch điện tử thì các thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài không đƣợc đề cập, và bên bán hàng lập Hợp đồng điện tử theo mẫu
với các điều khoản đơn giản, có lợi cho mình nhƣ: Khiếu nại, bảo hành, bảo
trì hay đổi hàng hóa v.v...
Theo Báo cáothƣơng mại điện tử 2014 thì các sản phẩm, hàng hóa dịch
vụ là đối tƣợng mua bán trong thƣơng mại điện tử có giá trị không lớn, mặc
dù không có giá ngạch nhƣng phí Trọng tài cũng sẽ là cản trở khi ngƣời tiêu
dùng lựa chọn phƣơng thức này tr các giao dịch B2B - (Doanh nghiệp với
Doanh nghiệp), B2C (Doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng).
Nhƣ vậy, thứ nhất, các thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
đã đƣợc bên bán hàng loại bỏ ngay t khi xây dựng các Website bán hàng
trực tuyến hoặc trên các gian hàng trên Sàn giao dịch điện tử bằng cách không
xây dựng nội dung hợp đồng về điều khoản giải quyết tranh chấp. Thứ hai,
nếu có thỏa thuận thì các tranh chấp t phía cá nhân cũng ít khi lựa chọn sử
dụng biện pháp Trọng tài. Trong các giao dịch khác thì các chủ thể tham gia
cũng chỉ quan tâm đến các nội dung nhƣ: Đối tƣợng của Hợp đồng là dịch vụ
hàng hóa, giá cả, phƣơng thức thanh toán, các nội dung khác nhƣng không có
94
nội dung hay điều khoản về giải quyết tranh chấp và mặc nhiên đƣợc hiểu
rằng mọi tranh chấp sẽ do Tòa án giải quyết nếu có tranh chấp.
c) Giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử tại Tòa án.
Do không có các thỏa thuận hoặc do ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại
điện tử không lựa chọn Trọng tài nên việc giải quyết các tranh chấp thƣơng
mại điện tử thƣờng đƣợc các bên khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền.
Trên thực tế, có rất ít các vụ án tranh chấp liên quan đến hoạt động
thƣơng mại điện tử theo mô hình B2C – (doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng)
đƣợc Tòa án Thụ lý vì một số lý do sau:
Thông thƣờng khi khởi kiện, Nguyên đơn phải thu thập và cung cấp
cho Tòa án các chứng cứ đƣợc thể hiện dƣới dạng văn bản viết đƣợc xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án mới thụ lý. Sau đó xác minh theo yêu
cầu của các Đƣơng sự nhằm chứng minh cho yêu cầu của họ. Khi chƣa thụ lý,
Tòa án hay các Đƣơng sự không thể tự mình mà thu thập chứng cứ trên
nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng dân sự đó là: “Nghĩa vụ chứng minh thuộc về
các Đương sự”.
Về mặt bản chất thì các chứng cứ điện tử có giá trị tƣơng đƣơng thuộc
tính đối với văn bản, các nguyên tắc này đƣợc quy định trong Luật Giao dịch
điện tử, Luật Thƣơng mại, Nghị định về Thƣơng mại điện tửcũng nhƣ các văn
bản có liên quan nhƣng trên thực tế thì Giá trị pháp lý và nguyên tắc tƣơng
đƣơng thuộc tính vẫn còn nhiều khó khăn khi áp dụng các chứng cứ điện tử.
Do quy định mang tính nguyên tắc, tức là có ý nghĩa trong việc áp dụng pháp
luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý nhà nƣớc cũng nhƣ áp
dụng tƣơng đƣơng thuộc tính để giải quyết tranh chấp nhƣng không có các
văn bản hƣớng dẫn của Cơ quan có thẩm quyền nhƣ Ủy ban Thƣờng vụ Quốc
Hội hay Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc
không đƣợc quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự thì sẽ không thể giải
quyết các tranh chấp thƣơng mại đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử.
95
Hiện nay luật quy định rằng “Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn
được” Nhƣng không có các quy định cụ thể về hình thức vật chất chứa đựng
chứng cứ điện tử, trình tự thu thập, xác minh chứng cứ cũng nhƣ hƣớng dẫn
các trình tự thủ tục tố tụng chuyên biệt để Thụ lý giải quyết các tranh chấp
thƣơng mại có các chứng cứ điện tử.
Tranh chấp trong thƣơng mại điện tử xảy ra với nhiều ngƣời, nhiều tổ
chức, ở nhiều địa phƣơng khác nhau nên nếu chỉ căn cứ vào giá trị tranh chấp
hay quy định cứng về thẩm quyền giải quyết thì sẽ khó giải quyết. Thông
thƣờng, để thu thập một chứng cứ quan trọng trên máy tính, ngƣời tiêu dùng
phải sử dụng dịch vụ th a phát lại để lập vi bằng xác nhận tính xác thực của
các nội dung Hợp đồng điện tử đã giao kết. Theo quy định thì giá ngạch của
một dịch vụ có mức tối thiểu nhiều triệu đồng trong khi giá trị tranh chấp chỉ
có thể bằng hoặc có khi thấp hơn thì rõ ràng bên bán hàng hóa, dịch vụ đã né
tránh trách nhiệm của mình vì không lo sợ bị khởi kiện ra Tòa án. Không
những thế, việc quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án theo
nơi cƣ trú, trụ sở đăng ký của Bị đơn sẽ gây khó khăn khi trụ sở, nơi cƣ trú
của Bị đơn có khoảng cách địa lý rất xa đối với Nguyên đơn sẽ xảy ra tình
trạng không tƣơng xứng về chi phí khi lựa chọn khởi kiện tại Tòa án trong
mối quan hệ giữa giá trị hàng hóa dịch vụ và chi phí đi lại, lƣu trú mà Nguyên
đơn phải bỏ ra.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án giải quyết tranh chấp trong thƣơng
mại điện tử theo mô hình B2B – (Doanh nghiệp với Doanh nghiệp) thì
Nguyên đơn mới khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền vì các Hợp đồng có giá
trị lớn, nhƣng các chứng cứ điện tử đƣợc xem xét mang tính hỗ trợ cho các
chứng cứ khác nếu phù hợp mà rất hiếm khi đƣợc sử dụng độc lập. Việc Tòa
án không chấp nhận các chứng cứ điện tử có tính độc lập và có giá trị pháp lý
nhƣ văn bản viết hoặc các chứng cứ khác sẽ làm ảnh hƣởng tới quyền của các
cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, đồng thời
96
nguyên tắc của Bộ luật tố tụng dân sự cũng không đƣợc tôn trọng trong thực
tiễn.
Thực tiễn cũng cho thấy, khi giải quyết bằng thủ tục khiếu nại do pháp
luật quy định chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao vì trong các giao dịch thƣơng mại
điện tử thì ngƣời mua hàng hóa, dịch vụ là bên yếu thế, họ phải thực hiện
nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng bằng thẻ thanh toán hoặc chuyển tiền vào
tài khoản của bên bán trƣớc khi nhận đƣợc hàng hóa, dịch vụ nên họ chịu
nhiều thiệt thòi vì các cơ chế để bảo đảm khi họ thắng kiện bằng quyết định,
bản án của Tòa án có thẩm quyền, thì việc thi hành án cũng sẽ mất nhiều thời
gian, chi phí, tổn hại về tinh thần cũng nhƣ nhiều vấn đề phức tạp khác nên
các chủ website bán hàng hoặc các thƣơng nhân, cá nhân bán hàng hóa dịch
vụ thƣờng nắm bắt đƣợc yếu điểm này của ngƣời tiêu dùng để giành nhiều lợi
thế về cho mình. Do đặc điểm thƣơng mại điện tử là các chủ thể tham gia hoạt
động thƣơng mại điện tử có thể ở rất xa về khoảng cách địa lý nên việc giải
quyết bằng cách thức này không hiệu quả.
Các hình thức giao dịch B2B, B2C, C2C là các giao dịch chủ yếu phát
sinh các tranh chấp và thƣờng đƣợc lựa chọn giải quyết bằng thủ tục tố tụng
tại Tòa án. Các hình thức giao dịch khác nhƣ B2G, G2B, B2E v.v... thƣờng ít
phát sinh tranh chấp, hoặc nếu có thì sẽ lựa chọn các phƣơng thức giải quyết
tranh chấp khác chứ không lựa chọn thủ tục tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền
để khởi kiện vì việc thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của ngƣời
khởi kiện rất phức tạp, tốn kém hoặc ít có giá trị pháp lý, thời gian giải quyết,
chi phí tài chính không tƣơng xứng với các giá trị của tài sản, hàng hóa, dịch
vụ là đối tƣợng của hợp đồng phát sinh tranh chấp.
Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự không có quy định riêng biệt về thẩm
quyền, trình tự, thu thập chứng cứ điện tử mà chỉ có các quy định chung để
giải quyết các vụ việc dân sự. Điều này dẫn đến việc giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử không kịp thời, nhanh chóng,
việc thu thập chứng cứ hoặc đánh giá chứng cứ không tuân thủ các nguyên tắc
97
về công nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu nên không giải quyết triệt
để, khách quan, toàn diện các vụ án liên quan đến các hợp đồng, nhiều vụ án
không thể giải quyết đƣợc phải trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ, tạm đình
chỉ giải quyết vụ án.
3.5. XỬ LÝ VI PHẠM BẰNG CÁC BIỆN PHÁP KHÁC
a) Biện pháp hành chính
Để xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử nhƣ: Có hành
vi gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thực hiện các thủ tục thông
báo thiết lập website thƣơng mại điện tử, đăng ký website cung cấp dịch vụ
thƣơng mại điện tử, đăng ký hoặc xin cấp phép các dịch vụ giám sát, đánh giá
và chứng thực trong thƣơng mại điện tử v.v... và những hành vi cụ thể khác
nếu chƣa tới mức gây nguy hiểm cho xã hội và không cần xử lý bằng biện
pháp hình sự thì đều bị xử lý vi phạm hành chính. Tùytheo tính chất, mức độ
mà chủ thể có thẩm quyền có thể ra các quyết định hành chính cá biệt để xử
phạt đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm.
Nghị định số 185/2013/ NĐ-CP ngày 15/11/2013 đã quy định các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính và mức phạt đối với các vi phạm cụ thể.
Trong Nghị định 185/2013/NĐ-CP dành một chƣơng để quy định về xử phạt
vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, tuy nhiên mức phạt còn rất thấp
so với thiệt hại mà vi phạm hành chính trong lĩnh vực này gây ra, ví dụ;
Tại khoản 2 điều 81 của Nghị định này quy định:
2.Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi vi phạm sau đây:
a) Thiết lập website thương mại điện tử bán hàng mà không thông báo với cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định;
b) Không thông báo sửa đ i, b sung khi có sự thay đ i thông tin liên quan
đến website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử đã đăng ký với cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định.
98
3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi vi phạm sau đây:
a) Thiết lập website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử khi chưa được xác
nhận đăng ký theo quy định;
b) Nhận chuyển nhượng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử mà
không làm thủ tục chuyển nhượng ho c không tiến hành đăng ký lại tên miền;
c) Triển khai cung cấp dịch vụ thương mại điện tử không đ ng với hồ sơ đăng
ký;
d) Gian dối ho c cung cấp thông tin sai sự thật khi đăng ký website cung cấp
dịch vụ thương mại điện tử;
đ) Giả mạo thông tin đăng ký trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện
tử;
e) Tiếp tục hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử sau khi chấm dứt
ho c bị hủy bỏ đăng ký.
4. Hình thức xử phạt b sung:
Đình chỉ hoạt động thương mại điện tử từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành
vi vi phạm quy định tại khoản 1, 2 và điểm a, b, c và d khoản 3 Điều này
trong trường hợp vi phạm nhiều l n ho c tái phạm.
5. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc thu hồi tên miền “.vn” của website thương mại điện tử đối với hành vi
vi phạm quy định tại điểm b, c, đ và e khoản 3 Điều này.”
Nhƣ vậy với mức độ tiếp cận thị trƣờng nhanh chóng và ít rào cản về
mặt địa lý, chỉ trong thời gian ngắn, các chủ sở hữu các Website bán hàng có
thể thu lợi bất chính rất lớn nên mức phạt cao nhất đến 30.000.000 đồng
không đủ sức răn đe. Mặt khác, trên thực tế việc bị đình chỉ hay thu hồi tên
miền .vn chỉ có tác dụng đối với tên miền của Việt Nam, còn dùng các tên
miền khác nhƣ .com, .org,.net v.v... thì không có ý nghĩa thực tế nếu các
Website có tên miền khác cũng có chức năng bán hàng hóa, dịch vụ.
99
Hay nhƣ quy định về việc xâm phạm thông tin cá nhân tại khoản 3 điều
84 của Nghị định 185/2013/NĐ-CP có mức phạt tiền t 20.000.000 đồng
đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
“a) Thu thập thông tin cá nhân của người tiêu dùng mà không được sự đồng ý
trước của chủ thể thông tin;
b) Thiết lập cơ chế m c định buộc người tiêu dùng phải đồng ý với việc thông
tin cá nhân của mình bị chia sẻ, tiết lộ ho c sử dụng cho mục đích quảng cáo
và các mục đích thương mại khác;
c) Sử dụng thông tin cá nhân của người tiêu dùng không đ ng với mục đích
và phạm vi đã thông báo.”
Hiện nay, việc mua bán các thông tin của khách hàng diễn ra phổ biến
và giá trị mua bán rất cao, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng thông tin cá nhân
của khách hàng để bán cho những đối tƣợng khác để quảng cáo dịch vụ hay
thực hiện các mục đích khác trái với ý muốn của khách hàng, gây thiệt hại và
bức xúc cho những ngƣời bị xâm phạm thông tin cá nhân.
Trên thực tế, giữa các quy định về xử phạt hành chính và thực tiễn thi
hành pháp luật còn có một khoảng cách khá xa. Do các giao dịch thƣơng mại
điện tử diễn ra thƣờng xuyên, liên tục mọi lúc, mọi nơi và không có những
biểu hiện rõ rệt ra bên ngoài nên cơ chế phát hiện vi phạm hiện nay gần nhƣ
bất lực trƣớc thực tế này. Lý do thì có nhiều, nhƣng hiện hữu nhất chính là
nguồn nhân lực có chức năng nhiệm vụ phát hiện, xử lý các vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử còn thiếu về cơ số, yếu về chuyên
môn, không đƣợc trang bị các phƣơng tiện tƣơng ứng để thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình. Mặt khác, các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại
điện tử chƣa tích cực đấu tranh với những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
này bởi lẽ chỉ họ mới là ngƣời phát hiện vi phạm một cách chính xác nhất,
nhanh chóng nhất, đây cũng là một thực tế cần đƣợc xem xét, đánh giá để xây
dựng cơ chế phát hiện vi phạm trong các hoạt động thƣơng mại điện tử trong
thời gian tới.
100
Có thể thấy, xử lý các vi phạm bằng biện pháp hành chính hiện nay
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng
mại điện tử.
b) Biện pháp hình sự
Khi các hành vi vi phạm trong hoạt động thƣơng mại điện tử xâm hại
đến trật tự quản lý hành chính hay quan hệ sở hữuv.v... với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi và xâm hại đến những quan hệ xã hội đƣợc
Luật hình sự bảo vệ thì xử lý hình sự là biện pháp phù hợp, đảm bảo tính răn
đe riêng và phòng ng a chung trong tình hình tội phạm trong lĩnh vực này
ngày càng gia tăng cả về số lƣợng cũng nhƣ mức độ tinh vi, xảo quyệt của tội
phạm. Việc xử lý hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực này là chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua những trình tự tố tụng
hình sự ngặt nghèo vì tính chất của tố tụng hình sự đụng chạm đến con ngƣời
và các quyền con ngƣời cơ bản.
Để xử lý hành vi phạm tội trong hoạt động thƣơng mại điện tử nhƣ:
Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của
ngƣời tiêu dùng, l a đảo chiếm đoạt tài sản v.v... cần phải có đội ngũ cán bộ,
công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng có chuyên môn sâu, đƣợc đào
tạo các kỹ năng chuyên biệt cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhƣng trên
thực tiễn mới chỉ có cơ quan công an có bộ phận chuyên biệt về phòng chống
tội phạm công nghệ cao, còn các cơ quan nhƣ Viện kiểm sát, Tòa án không có
các cơ quan tƣơng ứng cho nên công tác xét xử chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu
của xã hội trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động thƣơng
mại điện tử. Cơ chế phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan
quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực này chƣa có sự phối hợp ăn ý, thống nhất,
phân rõ chức năng nhiệm vụ của các bên tham gia phối hợp để giải quyết các
tranh chấp một cách hiệu quả, kịp thời, đáp ứng đƣợc yêu cầu của cá nhân, tổ
chức có yêu cầu giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. Hiện
tại, hiệu quả của việc giải quyết các tranh chấp, điểm tựa cho ngƣời tiêu dùng
101
hay các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử chƣa đáp ứng đƣợc sự
kỳ vọng của họ, do vậy làm suy giảm, hoài nghi các hoạt động thƣơng mại
bằng phƣơng tiện điện tử.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Pháp luật Việt Nam trong những năm qua đã ghi nhận các hoạt động
kinh doanh, thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử, quy định kinh doanh
dịch vụ thƣơng mại điện tử là một ngành, nghề kinh doanh; th a nhận giá trị
pháp lý của chứng t điện tử; các quy định về thuế nhƣ hƣớng dẫn giao dịch
điện tử trong lĩnh vực thuế, công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia
tăng về giao dịch điện tử trong hoạt động hải quan; quy định về vấn đề bảo vệ
ngƣời tiêu dùng khi tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử nhƣ trong giao
dịch thƣơng mại truyền thống v.v...Có thể nói, các khung pháp luật điều
chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử mà Nhà nƣớc ta đã ban hành đang dần
đáp ứng đƣợc yêu cầu bảo đảm về mặt pháp lý cho việc phát triển thƣơng mại
điện tử. Tuy nhiên, việc ban hành các quy định pháp luật tự thân nó không thể
giải quyết đƣợc mọi vấn đề. Các quy định pháp luật đƣợc xây dựng nhằm đƣa
ra những chuẩn mực chung về cách hành xử cho những chủ thể tham gia một
lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Do vậy, dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, quy
định pháp luật cũng chỉ có thể đƣợc xây dựng sau một quá trình quan sát và
đúc kết t thực tiễn đời sống xã hội.
Việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật
thƣơng mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian v a qua sẽ đánh giá sự phù
hợp của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, về thẩm quyền của các chủ
thể áp dụng pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật thƣơng mại điện tử của các
chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ, cơ chế thực hiện pháp luật và giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực này. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá sẽ tìm ra những bất
cập, những lỗ hổng pháp lý cũng nhƣ đánh giá tổng thể các tiêu chí đối với
một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam nhƣ: Tính thống nhất, tính
đồng bộ, tính khả thi, tính kinh tế, tính minh bạch v.v. Trên cơ sở đó đề xuất
102
những giải pháp mang tính định hƣớng cũng nhƣ cụ thể để hoàn thiện pháp
luật thƣơng mại điện tử nhằm đáp ứng các tiêu chí cơ bản đối với các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử.
Việc nghiên cứu, đánh giá cơ chế thực hiện pháp luật thƣơng mại điện
tử cũng nhƣ cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này dựa trên các đặc
điểm của thƣơng mại điện tử, tập quán thƣơng mại, các trình tự tố tụng và phi
tố tụng, t đó sẽ cho thấy những hạn chế đối với cơ chế thực hiện, cơ chế giải
quyết tranh chấp. Trên cơ sở nghiên cứu sẽ hình thành đƣợc những luận điểm
nhằm đề xuất, kiến nghị những giải pháp cụ thể để hoàn thiện cơ chế thực
hiện pháp luật thƣơng mại điện tử trong thời gian tới nhằm đảm bảo tính khả
thi của các văn bản quy phạm pháp luật. Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử sẽ có những tác động quan trọng trong
việc nâng cao niềm tin của ngƣời tiêu dùng đối với loại hình thƣơng mại mới
mẻ này, bảo vệ kịp thời, thỏa đáng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
tham gia quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử.
Mặc dù thƣơng mại điện tử phát triển mạnh mẽ trong thời gian v a qua
cũng nhƣ những dấu hiệu tích cực trong thời gian tới, tuy nhiên, vẫn còn
nhiều thách thức đặt ra cho quá trình điều chỉnh pháp luật đối với các hoạt
động thƣơng mại điện tử, đặc biệt là việc xây dựng ý thức pháp luật, lòng tin
của ngƣời dân và doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ khi tham gia lĩnh vực này. Vấn đề này cũng đang vƣợt khỏi phạm vi
các biện pháp chế tài và quản lý hành chính của các cơ quan nhà nƣớc, mà đòi
hỏi sự chung sức của cả Nhà nƣớc, cộng đồng doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng
và toàn xã hội.
103
CHƢƠNG 4
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
4.1. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
4.1.1. Yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với thƣơng mại điện tử
Kinh nghiệm thực tế của nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy
thƣơng mại điện tử phát triển, thì vai trò của Nhà nƣớc phải đƣợc thể hiện rõ
nét trên hai lĩnh vực: (i) Cung ứng dịch vụ điện tử và (ii) Xây dựng một hệ
thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ
thƣơng mại điện tử. Nếu nhƣ chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc
cho thƣơng mại điện tử hoạt động, thì các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng sẽ
rất lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ
quan nhà nƣớc cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát đƣợc các hoạt động kinh
doanh thƣơng mại điện tử. Hơn thế nữa, thƣơng mại điện tử là một lĩnh vực
mới mẻ, cho nên tạo đƣợc niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ
thƣơng mại điện tử là một việc làm có tính cấp thiết, mà một trong những hạt
nhân là phải tạo ra đƣợc một sân chơi chung với những quy tắc đƣợc thống
nhất một cách chặt chẽ.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực tham
gia và ủng hộ sự phát triển của thƣơng mại điện tử, lý do rất đơn giản là
thƣơng mại điện tử đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền
thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh
đó,chúng ta cũng cần th a nhận rằng sẽ có rất nhiều rủi ro trong quá trình
giao dịch, kinh doanh trên mạng, đòi hỏi phải có cơ chế điều chỉnh pháp luật
phù hợp để có thể bảo đảm an toàn cho các loại giao dịch này, đồng thời, hoà
nhập và theo kịp các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy, yêu cầu
104
điều chỉnh pháp luật đối với thƣơng mại điện tử phải xuất phát t các vấn đề
sau đây:
Một là, điều chỉnh pháp luật đối với thương mại điện tử phải xuất
phát từ quan điểm và các nguyên tắc nền tảng của pháp luật thương mại
truyền thống
Vai trò và giá trị cao nhất của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, pháp luật phải phản ánh các quy luật
và nguyên lý của thị trƣờng, lấy tự do, dân chủ và bình đẳng trong hoạt động
kinh tế làm phƣơng châmđiều chỉnh pháp luật. Để các hoạt động kinh doanh,
thƣơng mại diễn ra có trật tự, cần thiết phải thiết kế và xây dựng một hệ thống
các văn bản pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, có tính thống nhất cao.
Quan hệ thƣơng mại điện tử bắt nguồn t các quan hệ thƣơng mại
truyền thống, vì vậy, việc điều chỉnh pháp luật đối với thƣơng mại điện tử cần
xuất phát t các quan điểm, nguyên tắc nền tảng của quan hệ thƣơng mại
truyền thống. Pháp luật phải đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế bình đẳng trƣớc pháp luật trong hoạt động thƣơng mại;
đảm bảo cho các bên hoàn toàn tự nguyện, tự do thoả thuận để xác lập các
quan hệ thƣơng mại không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong
mỹ tục và đạo đức xã hội; đƣợc áp dụng thói quen đã đƣợc thiết lập giữa các
bên và tập quán trong hoạt động thƣơng mại nhƣng không đƣợc trái với quy
định của pháp luật. Trong hoạt động thƣơng mại, các thông điệp dữ liệu đáp
ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì đƣợc
th a nhận có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng văn bản v.v...Bên cạnh đó, pháp luật
cũng cần xác định rõ nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh bảo vệ quyền lợi
chính đáng của ngƣời tiêu dùng nhƣ phải chịu trách nhiệm về chất lƣợng, tính
hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh, nghĩa vụ thông tin đầy
đủ, trung thực cho ngƣời tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh
doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó.
105
Hai là,điều chỉnh pháp luật đối với thương mại điện tử phải xuất
phát từ các yếu tố đặc thù của hoạt động thương mại điện tử
Thƣơng mại điện tử là sự phát triển của thƣơng mại truyền thống, đƣợc
cấu thành bởi nhiều thành tố trong đó có sự áp dụng các thành quả của khoa
học kỹ thuật phục vụ đời sống con ngƣời cũng nhƣ việc thỏa mãn các nhu cầu
khác của xã hội. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới vận hành trên nền tảng
của công nghệ điện tử và công nghệ viễn thông, đòi hỏi phải có cơ chế điều
chỉnh pháp luật phù hợp, tƣơng thích nhằm đảm bảo để các quan hệ về thƣơng
mại điện tử phát triển hiệu quả, khả thi, có tính định hƣớng đúng đắn, lành
mạnh và bền vững.
Pháp luật về thƣơng mại điện tử cần phải đảm bảo cho một giao dịch
kinh doanh, thƣơng mại thành công, an toàn trên mạng theo các yêu cầu sau
đây:
Thứ nhất,đảm bảo tính an toàn trongthương mại điện tử
An toàn và tin cậy là các yếu tố mà ngƣời tham gia thƣơng mại điện tử
phải cân nhắc trƣớc khi quyết định tham gia. Nếu ngƣời sử dụng cảm thấy
thông tin về giao dịch của họ không đƣợc đảm bảo an toàn, có thể bị sửa đổi
họ sẽ không tham gia thƣơng mại điện tử. Bên cạnh đó, ngƣời sử dụng cũng
đặt ra các câu hỏi rằng, có gì đảm bảo để thông tin gửi đi không bị thay đổi
trong quá trình gửi?làm sao chứng minh thông điệp đã đƣợc gửi hay đã đƣợc
nhận? Vấn đề đặt ra là cần phải có các giải pháp để đảm bảo rằng thông tin
truyền tải trên mạng không đƣợc truy cập hay sao chép bởi bên thứ ba ngoài
ngƣời gửi và ngƣời nhận; xây dựng một quy trình kiểm soát thông tin và và
xác nhận thông tin đầu cuối của quá trình truyền tải thông tin trong giao dịch
thƣơng mại điện tử. Để đạt đƣợc mục tiêu này, trƣớc hết phải xây dựng đƣợc
hạ tầng viễn thông an toàn, trên đó có các phƣơng tiện để bảo vệ thông tin,
tránh khám phá, sử dụng trái phép. Bên cạnh đó, cần phải có một hành lang
pháp lý đầy đủ phân định rõ ràng trách nhiệm của các chủ thể tham gia
thƣơng mại điện tử ở tất cả các công đoạn của giao dịch thƣơng mại mà tính
106
an toàn, độ tin cậy bị đe doạ nhƣ máy trạm, máy chủ, đƣờng truyềnv.v... Đây
chính là vấn đề quan trọng, cốt yếu mà pháp luật về thƣơng mại điện tử phải
chú trọng, bởi ngoài kỹ thuật lập pháp, còn phải hiểu biết sâu sắc về các vấn
đề liên quan đến điện tử, viễn thông. Mặt khác, pháp luật cũng cần có quy
định về nhận thức của các chủ thể tham gia giao dịch phải tự bảo vệ mình
bằng các biện pháp kỹ thuật.
Thứ hai,đảm bảo tính hợp pháp trongthương mại điện tử
Trong thƣơng mại điện tử, ngƣời mua và ngƣời bán giao tiếp trong thế
giới ảo, họ không thấy mặt nhau, không biết rõ về nhau, vì vậy, làm sao để
ngƣời nhận và ngƣời gửi có thể chứng thực tƣ cách của nhau? Giải pháp là
chữ ký điện tử, thông qua phƣơng tiện điện tử, các yêu cầu về đặc trƣng của
chữ ký tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử trở
thành một thành tố quan trọng trong văn bản điện tử.
Điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực này cần phải tập trung vào việc
đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện tử, cho phép các bên không liên
quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể xác định đƣợc chính xác chữ ký điện
tử của các bên đối tác.Và để xác định đƣợc độ tin cậy của chữ ký điện tử,
pháp luật cũng cần quy định một cơ quan trung gian có thẩm quyền chứng
thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử.
Tính hợp pháp trong thƣơng mại điện tử còn đòi hỏi ở việc phải đảm
bảo tính bảo mật và tôn trọng quyền riêng tƣ. Thông tin cá nhân phải đƣợc
luật pháp tôn trọng. Cá nhân đƣợc quyền đảm bảo bí mật các thông tin về đời
tƣ. Khi thực hiện các giao dịch thƣơng mại điện tử, các chủ thể tham gia giao
dịch thƣờng đƣợc yêu cầu phải khai báo các thông tin cá nhân ví dụ nhƣ số
thẻ tín dụng, địa chỉ, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ nhà riêng, số điện thoại cá
nhân để phục vụ cho mục đích xác nhận, kiểm tra. Vì vậy, những thông tin về
khách hàng, đặc biệt là những thông tin quan trọng nhƣ thẻ tín dụng, email,
điện thoại v.v… phải đƣợc bảo mật và tôn trọng. Ngƣời bán không đƣợc tự ý
lƣu trữ, bán hay sử dụng trái phép những thông tin này.
107
Một vấn đề đặc biệt quan trọng mà pháp luật cần quan tâm là vấn đề
bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện tử.Việc sở hữu và bảo vệ
các ý tƣởng có ý nghĩa nhƣ là hàng hóa. Ý tƣởng cũng đem lại tính cạnh tranh
hơn cho ngƣời sở hữu nó trong thời đại thông tin, vì vậy, cần quy định rõ về
chế độ pháp lý bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Nếu thiếu một hệ thống pháp luật
nhƣ vậy sẽ không chỉ kìm hãm sự phát triển, mà còn ngăn cản sự thịnh vƣợng
của nền kinh tế thông tin.
Thứ ba,đảm bảo tính minh bạch trongthương mại điện tử
Trong thƣơng mại điện tử, ngƣời mua và ngƣời bán giao tiếp trong thế
giới ảo, họ không thấy mặt nhau, không biết rõ về nhau, vì vậy, pháp luật
thƣơng mại điện tử cần có các quy định để đảm bảo sự tin tƣởng và minh
bạch trong các giao dịch. Trƣớc hết, trên website của ngƣời bán phải đăng tải
mọi thông tin trung thực, rõ ràng và đƣợc cập nhật một cách thƣờng xuyên.
Bên cạnh đó, ngƣời bán cũng phải đảm bảo sử dụng công nghệ truyền tin an
toàn, đảm bảo tính tin cậy về hệ thống hoạt động, không gây ra những sai sót
nghiêm trọng, đồng thời cũng phải đảm bảo sự tin cậy trong vấn đề chứng
thực nhƣ chữ ký điện tử, hợp đồng điện tử v.v...
Ngƣời mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ cũng phải có trách nhiệm
nắm bắt kỹ càng những thông tin này trƣớc khi quyết định mua hàng hóa hoặc
sử dụng dịch vụ.
Thứ tư, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử
Do trong thƣơng mại điện tử cả ngƣời mua lẫn ngƣời bán không cần
gặp nhau, biết nhau, nên dễ xảy ra các rủi ro và ngƣời bị thiệt thƣờng là ngƣời
tiêu dùng bởi vì họ phải trả tiền trƣớc cho các sản phẩm, dịch vụ mà họ mua
qua mạng, song lại chƣa biết đƣợc chất lƣợng sản phẩm và việc giao hàng có
diễn ra đúng nhƣ ngƣời bán đã cam kết không. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền
lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm
hơn so với quan hệ thƣơng mại truyền thống.
Thứ n m, phát triển hình thức giao kếthợp đồng
108
Có nhiều loại hợp đồng trong không gian ảo, đó là hợp đồng hàng hoá,
dịch vụ và các dịch vụ số hoá. Hàng hoá khi chào bán trên mạng phải đảm
bảo chất lƣợng, phù hợp với mục đích sử dụng, an toàn và không có khuyết
điểm nhỏ. Sẽ không đƣợc coi là có khuyết điểm nhỏ nếu nhƣ ngƣời bán chỉ ra
cho ngƣời mua trƣớc khi ký kết hợp đồng. Cung cấp dịch vụ chính là cung
cấp sức lao động, kỹ năng. Dịch vụ số hoá là ngƣời bán có thể gửi cho ngƣời
mua các loại sản phẩm nhƣ băng video, âm nhạc, sách báo, phần mềmv.v...
qua mạng Internet.
Thứ sáu, quy định các yêu c u về tính xác thực và các thông tin khác
trong thương mại điện tử
Về hình thức văn bản, chữ ký, văn bản gốc. Có một số loại giao dịch
pháp luật quy định phải thực hiện bằng văn bản và các loại giao dịch này
thƣờng là giao dịch về tài sản có đăng ký. Các loại giao dịch mà pháp luật đòi
hỏi hình thức văn bản phải là văn bản trên giấy sẽ không tiến hành qua mạng.
Giống nhƣ các văn bản trên giấy, các giao dịch thƣơng mại điện tử cần
có chữ ký điện tử ràng buộc chủ thể với nội dung tài liệu. UNCITRAL đã đƣa
ra luật khung về chữ ký điện tử để các nƣớc tham chiếu khi xây dựng luật của
mình.
Đảm bảo tính nguyên vẹn (bản gốc) của tài liệu trong thƣơng mại điện
tử cũng là một yêu cầu. Đối với những tài liệu về quyền sở hữu hay giấy tờ có
giá (nhƣ vận đơn) khi quyền đi liền với việc chiếm hữu tài sản đó, thì điều cơ
bản là đảm bảo rằng, bản gốc phải ở trong tay ngƣời có quyền sở hữu tài sản
mà giấy tờ thể hiện. Trong thƣơng mại điện tử, con ngƣời có thể tạo đƣợc các
bản sao giống hệt nhƣ bản gốc một cách dễ dàng. Điều quan trọng là tập dữ
liệu do một ngƣời khởi tạo không bị thay đổi về nội dung, hay nói cách khác
là đảm bảo sự nguyên vẹn của dữ liệu [42].
Về thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp điện tử.Thời gian giao kết
rất quan trọng để xác định thời điểm bắt đầu nghĩa vụ của các bên. Do các bên
trong thƣơng mại điện tử không quen biết nhau, ở xa nhau, liên lạc với nhau
109
qua mạng nên xác định thời điểm giao kết thƣơng mại là khó khăn và các bên
rất dễ hiểu khác nhau về thời điểm giao dịch. Điều đó dễ dẫn đến các tranh
chấp.Ngƣời đƣợc chào hàng có thể chấp nhận lời chào hàng và theo đó tạo ra
một hợp đồng trực tiếp. Sự phản hồi của khách hàng chấp nhận đơn chào
hàng là sự trả giá. Trƣờng hợp này ngƣời mua là ngƣời trả giá, ngƣời bán là
ngƣời chấp nhận hợp đồng.
Việc xác lập hợp đồng không nhất thiết phải do con ngƣời thực hiện,
mà có thể chấp nhận tự động bằng hệ thống máy móc. Ví dụ, khi ngƣời chủ
đặt máy bán nƣớc giải khát tự động, đƣợc coi là chấp nhận trả giá khi khách
bỏ tiền vào máy. Khi tiến hành thƣơng mại điện tử, ngƣời chào hàng có thể
quy định thời gian gửi ý kiến chấp nhận, khi đó thời điểm chấp nhận hợp
đồng là thời điểm thông tin chấp nhận của khách hàng nhập vào hệ thống của
ngƣời chào hàng.
Thời gian nhận đƣợc thông điệp điện tử đƣợc xác định theo các nguyên
tắc sau: (i) Nếu ngƣời nhận chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thì thời
gian nhận là khi thông điệp điện tử nhập vào hệ thống thông tin đó hoặc khi
nhập vào hệ thống thông tin khác nhƣng ngƣời nhận đang làm việc để truy lục
thông điệp điện tử; (ii) Nếu ngƣời nhận không chỉ định hệ thống thông tin thì
tính thời điểm nhận là thời điểm thông điệp điện tử truy nhập vào hệ thống
thông tin của ngƣời nhận.
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật nhằm tăng cƣờng ứng dụng thƣơng
mại điện tử vào đời sống kinh tế - xã h i
Tính đến ngày 01/01/2015, Việt Nam có dân số là 90,7 triệu ngƣời,
trong đó có 39,8 triệu ngƣời sử dụng internet (tƣơng đƣơng với 44%), 28 triệu
ngƣời sở hữu tài khoản mạng xã hội (chiếm 31%), 128,3 triệu ngƣời có kết
nối mạng di động (tƣơng đƣơng với 141%) [105]. Với 99% các doanh nghiệp
thuộc các thành phần sử dụng máy tính, sử dụng điện thoại hữu tuyến, điện
thoại di động và các thiết bị điện tử phục vụ cho sản xất kinh doanh, trong số
này có tới 50% doanh nghiệp có kết nối với mạng Internet, cùng với sự đầu tƣ
110
mạnh mẽ, đồng bộ hạ tầng thông tin viễn thông, đây là điều kiện lý tƣởng cho
thƣơng mại điện tử phát triển. Do đặc điểm của thƣơng mại chính là thƣơng
mại truyền thống nhƣng đƣợc thực hiện bằng các phƣơng tiện điện tử gắn với
công nghệ thông tin – viễn thông nên có nhiều chủ thể tham gia trong việc
vận hành hoạt động thƣơng mại điện tử, những cá nhân, tổ chức tham gia hoạt
động thƣơng mại điện tử cần có trình độ nhất định khi sử dụng các thiết bị
điện tử để thực hiện các giao dịch thƣơng mại trên các phƣơng tiện hiện đại,
công nghệ cao này. Đồng thời, thƣơng mại điện tửcó những đặc điểm nhƣ
không bị giới hạn bởi địa giới hành chính hay biên giới, các thao tác càng đơn
giản, nhanh chóng bao nhiêu thì chứa đựng nhiều rủi ro, dễ gây thiệt hại có
các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử bấy nhiêu.
Tình trạng tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi
l a đảo, đánh cắp thông tin cá nhân, dùng thẻ thanh toán giả v.v... luôn coi
mạng thông tin là mảnh đất màu mỡ để thực hiện hành vi phạm tội, những đối
tƣợng tội phạm không chỉ là công dân Việt Nam, cƣ trú ở Việt Nam mà còn
có những đối tƣợng là ngƣời nƣớc ngoài, thực hiện hành vi phạm tội ở nƣớc
ngoài, chính vì điều này làm ảnh hƣởng tới niềm tin của ngƣời tiêu dùng đối
với hình thức thƣơng mại mới mẻ này.
Song song với các vấn đề nêu trên, để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử có rất nhiều các cơ quan nhà
nƣớc có chức năng nhiệm vụ quản lý lĩnh vực này trong quá trình thực thi
pháp luật. Do vậy, để hoạt động thƣơng mại điện tử phát triển lành mạnh cần
có cơ chế phối kết hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc với
nhau trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đạt đƣợc hiệu quả
cao nhất, đồng nghĩa với việc này là đáp ứng đƣợc các yêu cầu của xã hội,
bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân tổ chức tham gia hoạt
động thƣơng mại điện tử, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực này để đảm bảo tính răn đe, phòng ng a tội phạm cũng nhƣ các vi
phạm khác.
111
Chính vì các yếu tố lo ngại rủi ro trong giao dịch TMĐT, chế tài áp
dụng và cơ chế giải quyết tranh chấp thiếu khả thi nên tạo rào cản đối với các
chủ thể tham gia giao dịch điện tử.Để tăng cƣờng ứng dụng TMĐT trong đời
sống xã hội, phải tạo môi trƣờng phù hợp với sự phát triển của các giao dịch
này, loại bỏ rào cản tâm lý lo ngại các rủi ro phát sinh khi các chủ thể tham
gia giao dịch.
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học trên phƣơng diện
kinh tế và pháp luật nghiên cứu và khẳng định vai trò của thƣơng mại điện tử
đối với đời sống xã hội, đồng thời dự báo những xu hƣớng phát triển của hoạt
động này. T những nhận thức, tri thức về vai trò của loại hình thƣơng mại
này đối với việc nâng cao mức sống ngƣời dân, tiết kiệm chi phí xã hội, giảm
các rủi ro dễ xảy ra trong các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ, thanh toán
của thƣơng mại truyền thống, việc thúc đẩy phát triển thƣơng mại điện tử luôn
phát sinh nhu cầu về hoàn thiện pháp luật để đảm bảo rằng các quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích nhà nƣớc không bị xâm hại, cách
thức thực hiện và đảm bảo các quyền này chính là bằng pháp luật.
Việc hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển nói
riêng và kinh tế xã hội nói chung phải đảm bảo các nội dung cơ bản nhƣ:
(i) Các cơ quan xây dựng pháp luật có nhận thức đầy đủ những đặc
điểm, nguyên tắc cũng nhƣ tính cấp thiết của các quan hệ xã hội cần điều
chỉnh bằng pháp luật khi xây dựng luật. Nhận thức đƣợc đầy đủ, toàn diện vai
trò quan trọng của các quan hệ xã hội ấy với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội,
đảm bảo trật tự, an toàn xã hội cũng nhƣ những tác động đối với xã hội khi
xây dựng, tuyên truyền phổ biến và thực thi pháp luật. Khi xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật phải có sự khảo sát, đánh giá, thu thập đầy đủ các thông
tin, sự phản hồi đa chiều của ngƣời dân và các tổ chức xã hội có liên quan để
bảo đảm tính minh bạch, thống nhất, đồng bộ và khả thi của văn bản quy
phạm pháp luật sẽ xây dựng, ban hành và triển khai đƣa pháp luật vào cuộc
112
sống.Nhất là khi đối tƣợng điều chỉnh phụ thuộc vào tốc độ phát triển của
khoa học công nghệ.
(ii) Có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đối với t ng ngành, t ng
lĩnh vực, t ng địa phƣơng và trong t ng thời điểm cụ thể nhƣ: Ƣu đãi đầu tƣ,
chính sách thuế, chính sách hỗ trợ tài chính, hỗ trợ khác cho các cá nhân tổ
chức khi tham gia vào hoạt động thƣơng mại điện tử để thúc đẩy phát triển
thƣơng mại điện tử với tƣ cách là một thành tố quan trọng, là động lực để thúc
đẩy kinh tế xã hội phát triển.
(iii) Việc xây dựng pháp luật liên quan phải đáp ứng đƣợc các yêu cầu
về hội nhập kinh tế quốc tế, rút ngắn khoảng cách cũng nhƣ những khác biệt
trong các quy định của Việt Nam với các quốc gia, chủ thể quốc tế khác, đây
là yêu cầu rất quan trọng trong xu hƣớng toàn cầu hóa hiện nay.
Việc xây dựng pháp luật phải quy định các chế tài phù hợp để đủ sức
phòng ng a các vi phạm, xử lý đƣợc các hành vi phạm tội nhƣng cũng phải
phù hợp với các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, không gây
bức xúc, phản ứng thái quá của xã hội hay lạc hậu về nhận thức đối với các vi
phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử.
Phải có các quy định cụ thể về các mối quan hệ, cơ chế phối hợp, chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn của t ng cá nhân tổ chức liên quan để đảm bảo sự
quản lý nhà nƣớc, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức
tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử .
Các nội dung cơ bản nêu trên nếu đƣợc các chủ thể có trách nhiệm xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật áp dụng sẽ đảm bảo công tác hoàn thiện
pháp luật đạt đƣợc kết quả cao, đáp ứng đƣợc các tiêu chí về xây dựng pháp
luật nhƣ: Minh bạch, đồng bộ, thống nhất, khả thi, kinh tế v.v...
Việc hoàn thiện pháp luật về thƣơng mại điện tử sẽ giúp cho các cá
nhân, tổ chức biết rõ các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động
thƣơng mại điện tử. Việc các cá nhân, tổ chức hiểu rõ cơ chế vận hành đã
đƣợc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật sẽ giảm thiểu những
113
vƣớng mắc về thủ tục hành chính cũng nhƣ việc phát hiện các hành vi vi
phạm pháp luật sẽ nhanh chóng, kịp thời vì cơ chế phát hiện, xử lý vi phạm đã
đƣợc quy định cụ thể trong luật và các văn bản quy phạm pháp luật.
Trong quá trình thực hiện cơ chế thực thi pháp luật, các chế tài xử lý vi
phạm hay trách nhiệm của các cơ quan liên quan hiện chƣa đƣợc quy định cụ
thể nên dẫn đến tình trạng thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, làm giảm
hiệu lực quản lý nhà nƣớc. Những vấn đề nêu trên sẽ đƣợc giải quyết khi các
quy định của pháp luật phân công rõ nhiệm vụ, chức năng và các chế tài khác
áp dụng cho các chủ thể liên quan, điều này chỉ xảy ra khi pháp luật đƣợc
hoàn thiện theo đúng các yêu cầu và đáp ứng đƣợc các tiêu chí đối với việc
xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện.
Trên thực tiễn, các quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử phát sinh
nhiều tranh chấp liên quan đến sở hữu, quyền sở hữu trí tuệ và cả các hành vi
vi phạm pháp luật hình sự.Việc xây dựng các cơ chế giải quyết tranh chấp
đúng trình tự thủ tục, kịp thời, nhanh chóng sẽ giải quyết đƣợc nhiều vấn đề
nhƣ bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ đƣợc các quyền và lợi ích
hợp pháp của các cá nhân tổ chức đƣợc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chủ sở
hữu tài sản tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử cũng nhƣ tính đúng đắn,
nghiêm minh của các cơ quan quản lý nhà nƣớc.
Để giải quyết các tranh chấp, pháp luật phải quy định nhiều phƣơng
thức giải quyết tranh chấp, thời hạn giải quyết tranh chấp và cơ chế để bảo
đảm thi hành các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền. Khi hoàn thiện pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp phải
dựa trên các đặc điểm, nguyên tắc của thƣơng mại điện tử nhƣ: tƣơng đƣơng
thuộc tính, công nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu v.v... hay các đặc
điểm kỹ thuật, công nghệ khác để đảm bảo tính thống nhất giữa các quy phạm
nội dung và quy phạm hình thức (tố tụng), khi có sự thống nhất giữa các quy
định nội dung và quy phạm tố tụng thì mới có các quy định cụ thể đáp ứng
đƣợc các yêu cầu về thời hạn giải quyết các tranh chấp cũng nhƣ trình tự thủ
114
tục, giá trị pháp lý của các chứng cứ điện tử. Khi các quy định trong Luật và
các văn bản quy phạm pháp luật trở nên minh bạch sẽ đủ căn cứ để giải quyết
tranh chấp, giúp họ dễ dàng thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
của mình.
Để tăng cƣờng việc ứng dụng các công nghệ mới hay các thành quả
khoa học kỹ thuật áp dụng vào hoạt động thƣơng mại thì công tác hoàn thiện
pháp luật là điều kiện tiên quyết, đảm bảo sự tin cậy vào hệ thống pháp luật
của các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử. Khi đã có niềm tin
vào sự an toàn và đƣợc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, ngƣời
tiêu dùng và các chủ thể khác sẽ tích cực tham gia vào hoạt động này.
Có rất nhiều chính sách pháp luật có liên quan mật thiết với hoạt động
thƣơng mại điện tử nhƣ: Phát triển hạ tầng công nghệ viễn thông - thông tin,
phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị công nghệ cao, nguồn nhân lực công
nghệ thông tin, các chính sách về ƣu đãi đầu tƣ, chính sách thuế, hỗ trợ vốn
cho doanh nghiệp v.v. do vậy các chính sách nếu kịp thời, đúng thì sẽ thúc
đẩy các ngành phụ trợ cho hoạt động thƣơng mại điện tử phát triển. Đây cũng
là những vấn đề cần chú trọng để hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện tử.
Việc tăng cƣờng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào các hoạt động thƣơng
mại sẽ là động lực phát triển kinh tế xã hội rất mạnh mẽ, tạo bƣớc ngặt trong
việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội và nâng cao đời sống của ngƣời dân.
4.1.3.Hoàn thiện pháp luật để nâng cao khả năng cạnh tranh và h i
nhập của doanh nghiệp Việt Nam thông qua giao dịch điện tử
Kể t khi đổi mới kinh tế và thực hiện chính sách ngoại giao đa
phƣơng, Việt Nam đã gia nhập và trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc
tế nhƣ: Thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn
Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dƣơng (Asia-Pacific Economic
Cooperation, viết tắt là APEC) Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) v.v...Và
cho đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình
Dƣơng (TPP -Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
115
Agreement). Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết các Hiệp định thƣơng mại tự do
(FTA) với các quốc gia nhƣ Nhật Bản (đối tác kinh tế toàn diện), Chi Lê,
vùng lãnh thổ (Liên minh kinh tế Á ÂU) và khu vực nhƣ với EU, đang đàm
phán ký các Hiệp định thƣơng mại tự do khác trong thời gian tới đây. Các
thỏa thuận thƣơng mại của Việt Nam với các bên tạo ra sự tƣơng đồng về luật
chơi trên các thị trƣờng khác nhau.Việc hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện
tử của Việt Nam sẽ tạo cơ hội thúc đẩy phƣơng thức giao dịch thƣơng mại
tiên tiến, vận dụng công nghệ cao đối với giao dịch hàng hóa và dịch vụ.
Thƣơng mại điện tử là hình thức kinh doanh có nhiều ƣu điểm nhƣ:
Giảm chi phí xã hội, tiết kiệm chi phí cho các cá nhân và doanh nghiệp, tiện
lợi, tiếp cận thị trƣờng nhanh chóng, rút ngắn thời gian giao dịch hơn thƣơng
mại truyền thống, có mức độ ảnh hƣởng thị trƣờng lớn hơn, việc giao dịch
đơn giản và không đòi hỏi trình độ cao, phù hợp xu hƣớng phát triển hiện nay
v.v...Những ƣu điểm này tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp, các cá
nhân tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa ra nƣớc ngoài cũng nhƣ
sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ trong nƣớc.
Thƣơng mại điện tử phát triển sẽ giúp nhiều ngành công nghiệp khác
phát triển nhƣ sản xuất thiết bị điện tử, hạ tầng viễn thông - công nghệ thông
tin, đào tạo nguồn nhân lực v.v... Thƣơng mại điện tử phát triển sẽ kích cầu
cho xã hội và làm gia tăng giá trị sản phẩm, dịch vụ.
Vai trò của pháp luật trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các
chủ thể tham gia hoạt động kinh tế là hữu cơ và không thể tách rời.Chính sách
pháp luật thƣơng mại điện tử phù hợp sẽ thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát
triển, tạo điều kiện cho các cá nhân, doanh nghiệp tham gia hoạt động thƣơng
mại điện tử. Khi giảm đƣợc giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao
chất lƣợng dịch vụ và tiếp cận thị trƣờng nhanh chóng sẽ làm giảm chi phí sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam, loại bỏ những khó khăn, thách thức để hội nhập thành công vào nền
kinh tế thế giới. Đây là lựa chọn đúng và không khó để thực hiện trong điều
116
kiện hiện nay của Việt Nam. Trong tất cả các giải pháp để thay đổi tình trạng
kinh tế kém phát triển thì giải pháp hoàn thiện pháp luật có tác dụng nhanh,
sâu rộng, tác động lớn đến những thay đổi của nền kinh tế, đặc điểm và ƣu thế
của việc hoàn thiện pháp luật là không tốn kém nhiều về chi phí nhƣng đem
lại hiệu quả kinh tế cao.
4.1.4. Đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thƣơng mại
điện tử cũng nhƣ tính đặc thù của pháp luật thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam.
Các quan hệ đƣợc xác lập trong hoạt động thƣơng mại điện tử luôn có
khách thể hƣớng tới là lợi ích, trong đó tùy t ng quan hệ pháp luật đƣợc xác
lập để xác định là khách thể mà các chủ thể tham gia hƣớng tới là lợi ích nhà
nƣớc hay cá nhân, tổ chức mà thôi. Việc đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động
thƣơng mại điện tử là động lực để phát triển thƣơng mại điện tử nói riêng và
phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nguyên tắc các bên cùng có lợi, hài hòa
lợi ích phải là nguyên tắc cơ bản khi xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt động thƣơng mại thông
qua phƣơng tiện điện tử.
Việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động TMĐT cần đảm bảo các nguyên tắc
cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tương đương thuộc tính
Đây là nguyên tắc quan trọng vì là căn cứ để xử lý các tranh chấp hay
xử lý vi phạm.Việc xây dựng pháp luật phải chú trọng và quy định rõ, kể cả
các biện pháp để đảm bảo thực hiện trên thực tế. Việc bảo đảm nguyên tắc
này phải đƣợc quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật nội dung cũng nhƣ
tố tụng để bảo đảm tính thống nhất, khả thi.
Thứ hai, nguyên tắc tự do thỏa thuận hợp đồng
117
Do thƣơng mại điện tử là hình thức thƣơng mại mới, tuy nhiên nó là
quan hệ pháp luật phái sinh trên cơ sở của thƣơng mại truyền thống nên vẫn
chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Trong quan hệ pháp luật dân sự,
nguyên tắc tự do thỏa thuận là nguyên tắc nhất quán và quan trọng. Vì những
tính chất đó, việc đảm bảo nguyên tắc tự do thỏa thuận trong các giao dịch
thƣơng mại điện tử sẽ đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của các ngành luật
trong hệ thống pháp luật Việt Nam đang điều chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng
mại điện tử.
Thứ ba, nguyên tắc tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức
truyền thông điện tử.
Đây là những quyền cơ bản của công dân cũng nhƣ quyền của các
thƣơng nhân, tổ chức tham gia vào các giao dịch TMĐT. Nhƣ vậy, việc xây
dựng, ban hành, thực hiện pháp luật TMĐT phải tôn trọng nguyên tắc này để
bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, tổ chức cũng nhƣ thúc đẩy
TMĐT phát triển.
Thứ tư, nguyên tắc tự nguyện lựa chọn phương tiện điện tử để thực
hiện giao dịch.
Pháp luật phải tôn trọng sự tự nguyện lựa chọn một loại hay nhiều loại
phƣơng tiện điện tử để thực hiện các giao dịch thƣơng mại nhằm đáp ứng các
nhƣ cầu của các cá nhân tổ chức tham gia các hoạt động thƣơng mại điện tử.
Trong thƣơng mại điện tử, không có phƣơng tiện nào đƣợc coi là duy nhất mà
tất cả các phƣơng tiện điện tử đều có thể đƣợc các cá nhân, tổ chức lựa chọn
khi tham gia giao dịch điện tử.
Thứ n m, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn giao dịch điện tử
Để tạo thế bình đẳng về thân phận pháp lý trong các quan hệ pháp luật
thì đƣơng nhiên chỉ có thể thực hiện bằng biện pháp pháp lý. Các chủ thể
tham gia hoạt động thƣơng mại đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử rất
đa dạng, t cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp v a và nhỏ, doanh nghiệp lớn,
doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc và trong tƣơng lai gần, các cơ quan nhà nƣớc
118
cũng sẽ thực hiện mua sắm tài sản công bằng phƣơng tiện điện tử. T tính
chất đa dạng của các chủ thể nhƣ vậy, việc bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ
thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử là cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng. Nguyên tắc mọi chủ thể đều bình đẳng trƣớc pháp luật là nguyên tắc
hiến định, các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận
nguyên tắc, tuy nhiên việc áp dụng nguyên tắc này trong thực thi pháp luật
cần đƣợc cụ thể hóa, có các chế tài phù hợp, tƣơng xứng với các vi phạm
nguyên tắc về sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử.
Thực tiễn cho thấy, tuy t ng mức độ, quy mô, nguồn vốn ngân sách hay vốn
tƣ nhân, các doanh nghiệp khi tiến hành các thủ tục hành chính hay giải quyết
tranh chấp thì nguyên tắc bình đẳng mới dễ nhận thấy sự khác biệt, thƣờng
các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nƣớc chiếm ƣu thế hơn hẳn so với
các chủ thể khác.
Bình đẳng trong quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử không chỉ trên
bình diện pháp lý, mà còn phải xây dựng các nguyên tắc bảo đảm sự bình
đẳng giữa các chủ thể trong các cơ hội tiếp cận nguồn lực, hỗ trợ tài chính hay
ƣu đãi đầu tƣ, hỗ trợ trong các quan hệ pháp luật hành chính nhƣ việc thực
hiện các thủ tục hoặc sử dụng nguồn nhân lực. Khi và chỉ khi các chủ thể
tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử bình đẳng trƣớc pháp luật, bình đẳng
trên mọi phƣơng diện thì khi đó các cơ hội kinh doanh mới chia đều cho họ,
mặt khác khi sự bình đẳng đƣợc bảo đảm thì mới sự cạnh tranh trong thƣơng
mại mới là cạnh tranh lành mạnh, tích cực, thúc đẩy Thƣơng mại điện tử phát
triển tƣơng xứng với vai trò của nó đối với đời sống xã hội.
Bảo đảm an toàn trong hoạt động thƣơng mại điện tử luôn là yếu tố
hàng đầu và là điều kiện tiên quyết để các cá nhân, tổ chức tích cực tham gia
vào loại hình thƣơng mại mới mẻ này. Do các thông tin về hàng hóa, dịch vụ
là các thông điệp dữ liệu đƣợc lƣu giữ và truyền tải trên hệ thông thông tin -
viễn thông nên thƣờng xuyên là đối tƣợng để tội phạm thực hiện các hành vi
vi phạm pháp luật với nhiều mục đích khác nhau. Các thông tin cá nhân của
119
các cá nhân khi tạo các tài khoản đăng nhập hay khai báo khi tham gia các
giao dịch điện tử, thông tin hoặc các phần mềm quản lý, bí quyết kinh doanh,
bí mật công nghệ v.v...của các doanh nghiệp tham gia hoạt động thƣơng mại
điện tử có thể là đối tƣợng bị tội phạm xâm hại, ngoài ra còn nhiều vấn đề
khác rất cần đƣợc bảo đảm an toàn. Những đe dọa về an toàn thông tin mạng
và nguy cơ bị thiệt hại nhiều mặt khi tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử
của tất cả các chủ thể khiến cho niềm tin đối với thƣơng mại điện tử bị giảm
sút, trực tiếp cản trở sự phát triển của thƣơng mại điện tửở Việt Nam. Việc
bảo đảm an toàn trong thƣơng mại điện tử nguyên tắc sống còn, xuyên suốt
trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng
mại điện tử và phải đƣợc triển khai có hiệu quả trong quá trình thực hiện pháp
luật. An toàn trong các giao dịch thƣơng mại điện tử chính là bảo đảm trật tự
an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nƣớc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các cá nhân tổ chức tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử. Về trách nhiệm
đảm bảo an toàn trong thƣơng mại điện tử thì trƣớc hết phải xác định các cơ
quan quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thông tin truyền thông có vai trò quan
trọng trong việc phát triển hạ tầng thông tin viễn thông tƣơng thích với đòi
hỏi của xã hội, thực hiện các biện pháp an toàn hệ thống, đảm bảo sự hoạt
động liên tục, ổn định, là nền tảng để các chủ thể khác tham gia các hoạt động
thƣơng mại điện tử, các cơ quan khác nhƣ hệ thống các cơ quan tiến hành tố
tụng có trách nhiệm xử lý các hành vi vi phạm có dấu hiệu hình sự, các cơ
quan liên quan khác có trách nhiệm phát hiện và xử lý vi phạm. Tất cả các
chủ thể khác đều có trách nhiệm phát hiện, tố giác, thông báo hoặc khiếu nại
để xử lý các hành vi vi phạm xâm hại đến sự an toàn thông tin trên mạng
thông tin – viễn thông.
Thứ sáu, nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử.
Những rủi ro trong hoạt động thƣơng mại điện tử là rất lớn nên ngay
trong Luật Mẫu về thƣơng mại điện tử cũng khuyến nghị các quốc gia thành
120
viên về vấn đề: Pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng phải đi trƣớc, coi đây là
nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động thƣơng mại điện tử.
Không chỉ sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử, trong quá trình hoàn
thiện còn phải quan tâm đến nhƣng đặc thù của pháp luật thƣơng mại điện tử
dựa trên các đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc ra đời do sự hình thành
và phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và mạng Internet trên toàn thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật thƣơng mại điện tử của các quốc gia có sự tiếp thu
t pháp luật thƣơng mại điện tử thế giới và có sự vận dụng để điều chỉnh phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển ở t ng quốc gia.
Thứ ba, quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử là một bộ phận phái sinh
của quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật thƣơng mại truyền thống.
Thứ tư, quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử có sự tham gia của ngƣời
thứ ba – chủ thể cung cấp dịch vụ thông tin, kỹ thuật, dịch vụ chứng thực nội
dung số, thanh toán trung gian hay các đơn vị cung cấp dịch vụ logictis.
Nhƣ vậy, nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật TMĐT, các đặc trƣng cơ bản của pháp luật thƣơng mại
điện tử thực hiện tốt sẽ thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển mạnh mẽ, là
động lực để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của
ngƣời dân và các lợi ích xã hội khác.
4.1.5. Đảm bảo tính thống nhất, đồng b với pháp luật thƣơng mại
Việt Nam và tƣơng thích với các cam kết quốc tế
Do đặc điểm thƣơng mại điện tử là việc sử dụng các phƣơng tiện điện
tử để thực hiện việc mua bán hàng hóa dịch vụ, tức nó mang bản chất của
thƣơng mại truyền thống nhƣng có nhiều chủ thể, phƣơng tiện tham gia vào
chuỗi các giao dịch đó nhƣ hoạt động thƣơng mại, quảng cáo, thanh toán, dịch
vụ thông tin viễn thông, hạ tầng thông tin viễn thông, nguồn nhân lực công
121
nghệ thông tin v.v...Nhƣ vậy, các quan hệ xã hội phát sinh trong mỗi lĩnh vực
lại chịu sự điều chỉnh của một ngành luật khác nhau dẫn đến yêu cầu phải
đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các ngành luật trong hệ thống pháp
luật Việt Nam. Khi đáp ứng các tiêu chí này thì khi ban hành, thực thi pháp
luật mới khả thi và đạt hiệu quả cao, thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển
nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Nếu các ngành luật, văn bản quy phạm
pháp luật thống nhất với nhau thì khi xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan sẽ
không bị chồng chéo, khó áp dụng pháp luật làm căn cứ để ban hành các
quyết định để thực hiện mục tiêu quản lý nhà nƣớc. Ở các đối tƣợng chịu sự
điều chỉnh của pháp luật, hay nói cách khác là những chủ thể chấp hành hay
tuân thủ pháp luật không bị động, không khó lựa chọn các luật có liên quan
khi thực hiện các hành vi liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử.
Tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật thƣơng mại điện tử phải đảm
bảo cả về mặt hình thức cũng nhƣ nội dung. Thứ nhất, các quy phạm pháp
luật chứa đựng trong các ngành luật, văn bản quy phạm pháp luật hay các văn
bản hƣớng dẫn phải đảm bảo rằng nó không mâu thuẫn, không đối lập và
thuận chiều trong cách thức mà nó tác động tới các quan hệ pháp luật phát
sinh trong quá trình các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại trên các
phƣơng tiện điện tử, sự thống nhất về nội dung các quy phạm, các chế định
phải đƣợc xây dựng với kỹ thuật lập pháp cao và khoa học để dễ nhận diện và
áp dụng trong thực tiễn cuộc sống. Thứ hai, về hình thức, các đạo luật, văn
bản quy phạm pháp luật phải đƣợc kết cấu, sắp xếp hợp lý, tuân thủ các trình
tự về thời gian, hiệu lực, giá trị pháp lý và điều chỉnh các quan hệ xã hội có
tính tƣơng đồng, cụ thể. Tính thống nhất, đồng bộ phải đƣợc thể hiện tại các
văn bản quy phạm pháp luật nội dung cũng nhƣ quy phạm hình thức (tố tụng),
có nhƣ vậy mới có thể giải quyết các tranh chấp bằng trình tự tố tụng tại Tòa
án có thẩm quyền.
Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, tham gia nhiều
Hiệp định song phƣơng và song phƣơng với nhiều quốc gia, chủ thể quốc tế
122
trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực kinh tế. Điều kiện để gia
nhập chính là rút ngắn khoảng cách về sự bất đồng và làm giảm các khác biệt
trong việc ban hành, thực thi pháp luật liên quan. Nhƣ vậy, khi hội nhập kinh
tế quốc tế, tham gia các hiệp định song phƣơng và đa phƣơng, Việt Nam cần
phải xây dựng Luật và các văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo tính
tƣơng thích và áp dụng các nguyên tắc cơ bản để không cản trở việc thực hiện
điều ƣớc quốc tế. Việc bảo đảm nguyên tắc này còn đồng thời tạo vị thế bình
đẳng, hạn chế các rào cản đối với cá nhân, tổ chức tham hoạt động thƣơng
mại quốc tế bằng phƣơng tiện điện tử nhƣ quảng cáo, thƣơng mại, thanh toán
điện tử và giải quyết các tranh chấp liên quan theo thủ tục trọng tài thƣơng
mại hay tố tụng tại Tòa án.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật tƣơng thích với pháp luật quốc tế sẽ
nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trƣờng quốc tế, xây dựng hình ảnh
quốc gia văn minh, thƣợng tôn pháp luật, đó là cơ sở để thu hút đầu tƣ t
nƣớc ngoài đầu tƣ vào lĩnh vực thƣơng mại điện tử, xây dựng niềm tin để hợp
tác có hiệu quả cũng nhƣ tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của các chủ thể quốc tế
trong việc phát triển kinh tế xã hội nói chung và thƣơng mại điện tử nói
riêng. Tuy nhiên, quá trình hoàn thiện pháp luật về thƣơngmại điện tử cũng
cần phải tính đến những đặc điểm văn hóa, thói quen của ngƣời Việt Nam và
trình độ phát triển khoa học, công nghệ của nƣớc ta. Ngoài ra, việc xây dựng
và hoàn thiện khung pháp luật về thƣơng mại điện tử đòi hỏi phải có sự chỉ
đạo thống nhất, phối hợp chặt chẽ, có lộ trình hợp lý, có sự quyết liệt cần thiết
và thiết lập đƣợc sự ƣu tiên cho hoạt động lập pháp và lập quy.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
4.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về n i dung của pháp luật
thƣơng mại điện tử
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thƣơng mại điện tử, tìm động lực
mới cho phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của ngƣời
123
dân, đồng thời hƣớng tới sự phù hợp với pháp luật quốc tế và các cam kết
quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là thực hiện nhƣ khuyến cáo của Luật mẫu về
thƣơng mại điện tử (UNCITRAL) về các nguyên tắc cơ bản. Hầu hết các quốc
gia phát triển nhƣ Mỹ, Canada, Singapore v.v... đều xây dựng pháp luật
thƣơng mại điện tử dựa trên các nguyên tắc này. Để giải quyết tốt các tranh
chấp trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, trong thời gian tới, chúng ta cần rà
soát, bổ sung và hoàn thiện nội dung của pháp luật thƣơng mại điện tử, cụ thể
tại Điều 26 Nghị định số 52/2013/ND-CP về Thƣơng mại điện tử sẽ bổ sung
thêm các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, b sung thêm các hành vi bị cấm
Với những hành vi bị cấm quy định tại điều 4 của Nghị định số
52/2013/NĐ-CP thì chƣa thể dự liệu hết các hành vi có thể gây thiệt hại đến
lợi ích của nhà nƣớc cũng các cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân tham gia hoạt
động thƣơng mại điện tử. Do vậy cần phải bổ sung thêm các hành vi bị cấm
khác, cụ thể:
- Sử dụng phƣơng tiện điện tử để liên lạc trái với ý muốn hoặc không
có sự đề nghị của cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân.
- Thiết lập các website có tính năng tạo ra các nhóm kín trên mạng
internet, mạng viễn thông di động để thực hiện hoạt động thƣơng mại điện tử.
Thứ hai, b sung thêm các nguyên tắc trong hoạt động thương mại
điện tử
a)Tương đương thuộc tính, thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện
tử
Th a nhận giá trị pháp lý của chứng t điện tử, bao gồm việc th a nhận
giá trị pháp lý của hóa đơn, chứng t kế toán ở dạng điện tử khi đáp ứng các
tiêu chuẩn cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ thuế và kế
toán khi triển khai hoạt động mua, bán trực tuyến hàng hóa hoặc dịch vụ; th a
nhận giá trị pháp lý của hồ sơ, đơn, giấy xác nhận ở dạng chứng t điện tử khi
đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể để hỗ trợ thực hiện một phần hoặc toàn bộ quy
124
trình đăng ký kinh doanh, đăng ký đầu tƣ, đấu thầu mua sắm qua các phƣơng
tiện điện tử; th a nhận giá trị pháp lý của chứng t hợp đồng mua bán hàng
hóa và cung ứng dịch vụ, các loại giấy phép hay chứng nhận khác ở dạng
chứng t điện tử khi đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể để thuận lợi hóa thƣơng
mại quốc tế và triển khai thƣơng mại không giấy tờ.
Th a nhận giá trị pháp lý của các chứng t điện tử nhƣ hóa đơn thuế,
hóa đơn thanh toán và loại giấy tờ có giá đƣợc thực hiện, xuất bản bản in bằng
các thiết bị điện tử trong các giao dịch thƣơng mại chính là hiện thực hóa các
nguyên tắc tƣơng đƣơng thuộc tính và công nhận giá trị pháp lý của thông
điệp dữ liệu. Các nguyên tắc này đã đƣợc quy định trong Luật và các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại trên các phƣơng tiện
điện tử làm căn cứ cho các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
nhƣng lại không có giá trị chứng cứ khi giải quyết bằng thủ tục tố tụng dân sự
hay các thủ tục về thuế. Chứng t điện tử thỏa mãn các dấu hiệu của chứng
cứ, đó là những gì có thật, khách quan và liên quan, thế nhƣng do nhiều yếu
tố, việc công nhận giá trị pháp lý còn nhiều yêu cầu phức tạp và nhiêu khê,
tốn kém cho các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử. T thực trạng pháp luật
cho thấy, phải hoàn thiện pháp luật theo hƣớng đơn giản hóa các thủ tục tƣ
pháp hay hành chính để công nhận giá trị pháp lý, sử dụng nó vào tất cả các
mục đích hợp pháp phát sinh trong các giao dịch điện tử.
Bên cạnh đó, pháp luật cần quy định kinh doanh thƣơng mại điện tử là
một ngành, nghề kinh doanh có mã đăng ký riêng; quy định cụ thể hơn về
chính sách thuế, bao gồm các quy định ƣu đãi về thuế giá trị gia tăng và thuế
thu nhập doanh nghiệp để tạo môi trƣờng thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh
doanh thƣơng mại điện tử và khuyến khích ngƣời tiêu dùng mua bán trực
tuyến; các quy định về mã sản phẩm và trị giá tính thuế hải quan đối với xuất
khẩu, nhập khẩu các sản phẩm số hóa phù hợp với thông lệ quốc tế và các
cam kết quốc tế của Việt Nam.
b) Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức thương mại điện tử
125
Việc quy định nguyên tắc này sẽ đảm bảo quyền đƣợc tham gia vào các
hoạt động thƣơng mại, trong đó có thƣơng mại điện tử. Việc lựa chọn là
quyền tự nhiên, và do vậy phải đƣợc pháp luật ghi nhận, làm căn cứ để giải
quyết các tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử.
c)Tự nguyện thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện
giao dịch điện tử
Trong hoạt động thƣơng mại điện tử, có rất nhiều phƣơng tiện điện tử
có thể đƣợc các cá nhâ, tổ chức, thƣơng nhân sử dụng cho hoạt động thƣơng
mại điện tử, ví dụ: Máy tính có kết nối mạng internet, mạng mở, điện thoại
thông minh có kết nối mạng v.v... Nhƣ vậy, dù các cá nhân, tổ chức, thƣơng
nhân sử dụng bất kỳ thiết bị điện tử nào có kết nối mạng internet, mạng mở
khác đều có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật.Việc quy định này sẽ đảm bảo tính thống nhất giữa Bộ luật dân
sự, Luật Thƣơng mại, Luật Giao dịch điện tử.
d)Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong hoạt động thương mại điện
tử
Nguyên tắc này sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh của các cá nhân, tổ
chức, thƣơng nhân trong thƣơng mại truyền thống với các cá nhân, tổ chức,
thƣơng nhân hoạt động thƣơng mại điện tử.Nếu đƣợc thực hiện tốt, nguyên
tắc này sẽ đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
thƣơng mại truyền thống với thƣơng mại điện tử. Các cá nhân, tổ chức,
thƣơng nhân sẽ đƣợc hƣởng các quyền và lợi ích hợp pháp cũng nhƣ phải
thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Nhƣ vậy, nguyên tắc này sẽ là căn cứ pháp lý để các cơ quan quản lý
nhà nƣớc trong lĩnh vực thuế, quản lý ngành sẽ xây dựng, ban hành các quy
định phù hợp để bảo vệ lợi ích nhà nƣớc, lợi ích của các cá nhân, tổ chức
tham gia các hoạt động thƣơng mại.
Thứ ba, các quy định giao kết hợp đồng thương mại điện tử
126
Hợp đồng thƣơng mại điện tử là căn cứ pháp lý quan trọng, là công
đoạn trong một chuỗi các hành vi thƣơng mại điện tử nhƣ quảng cáo hoặc mời
giao kết hợp đồng, đề nghị giao kết hợp đồng của các chủ thể tham gia hợp
đồng. Việc ký kết các hợp đồng điện tử làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia, đồng thời có giá trị chứng cứ, là cơ sở cho sự tin cậy
giữa các bên tham gia hợp đồng. Để phát triển thƣơng mại điện tử, phải hoàn
thiện chế định hợp đồng thƣơng mại điện tử quy định trong Bộ luật Dân sự,
Nghị định về thƣơng mại điện tử để quy định đầy đủ, minh bạch hơn với hiện
nay, việc Nghị định về thƣơng mại điện tử chỉ quy định về giao kết hợp đồng
thƣơng mại điện tử hay giao kết hợp đồng đối với các website có chức năng
đặt hàng trực tuyến sẽ thu hẹp phạm vi và đối tƣợng điều chỉnh của nghị định
về thƣơng mại điện tử, mặt khác, Bộ luật Dân sự phải giải quyết đƣợc các vấn
đề pháp lý về hình thức của hợp đồng ký bằng các phƣơng tiện điện tử trên cơ
sở công nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, tƣơng đƣơng thuộc tính
của văn bản, chứng t điện tử hoặc các thông tin sử dụng công nghệ tƣơng tự.
Luật Thƣơng mại cũng phải đƣợc sửa đổi theo hƣớng đa dạng hóa hình thức
của hợp đồng và thống nhất với Bộ luật Dân sự, Luật Giao dịch điện tử và
Nghị định về thƣơng mại điện tử, có nhƣ vậy mới đủ cơ sở pháp lý để sử dụng
các chứng cứ điện tử trong tố tụng hay các biện pháp giải quyết khác.
Hiện nay trong Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bổ sung một số loại
hợp đồng thông dụng, bên cạnh những loại hợp đồng đã đƣợc quy định hiện
nay và Bộ luật Dân sự hiện hành đã quy định riêng về 13 loại hợp đồng nhƣng
không có hợp đồng thƣơng mại điện tử, do vậy, khi áp dụng các luật chuyên
ngành sẽ phức tạp, không thống nhất và khó áp dụng. Đây là nút thắt trong
các quy định về hợp đồng thƣơng mại điện tử hiện nay vì nhƣ vậy sẽ không
thúc đẩy cá nhân tổ chức tham gia một cách tích cực các hoạt động thƣơng
mại mới mẻ này, khó áp dụng, dễ bị lạm dụng vì cách hiểu tùy nghi.
Thứ tư, bảo đảm an toàn thông tin trong giao dịch thương mại điện tử
127
Bảo đảm an toàn thông tin trong giao dịch thƣơng mại điện tử bao gồm
hệ thống các quy định pháp luật về an toàn thông tin trong giao dịch thƣơng
mại điện tử; các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia áp dụng đối với các
bên tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử phù hợp với quy mô giao dịch và
chuẩn mực quốc gia và quốc tế; các quy định pháp luật về bảo vệ thông tin cá
nhân phù hợp pháp luật liên quan, đảm bảo thông tin cá nhân trong giao dịch
thƣơng mại điện tử đƣợc bảo vệ về mặt pháp luật theo chuẩn mực quốc tế và
các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Pháp luật về thƣơng mại điện tử phải sử dụng các quy định mang tính
kỹ thuật bắt buộc các chủ thể bán hàng hóa, dịch vụ bằng phƣơng tiện điện tử
phải xây dựng, thiết kế các phần mềm hay biện pháp kỹ thuật để đảm bảo an
toàn thông tin cho các giao dịch mà các chủ thể này thực hiện. Với tƣ cách là
bên thứ ba cung cấp dịch vụ thông tin – viễn thông, các cá nhân, tổ chức tham
gia cung cấp phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật ngặt nghèo để đảm bảo hệ
thống lƣu trữ, thu phát, truyền dẫn thông tin, dữ liệu điện tử vận hành ổn định,
liên tục và an toàn bằng việc xây dựng nguyên tắc cũng nhƣ các quy phạm
pháp luật cụ thể ràng buộc các chủ thể này trong đó có các biện pháp chế tài
tƣơng xứng và nghiêm khắc. Pháp luật phải quy định về trách nhiệm, cơ chế
phát hiện các hành vi xâm phạm an toàn thông tin mạng nói chung và thông
tin phục vụ cho thƣơng mại điện tử nói riêng theo hƣớng cụ thể, chặt chẽ và
minh bạch hơn.
Thứ n m, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử
Pháp luật thƣơng mại điện tử phải quy định các biện pháp bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ một minh bạch và hữu hiệu, các nguyên tắc liên quan đến bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ phải cụ thể, chi tiết, đồng thời, pháp luật cũng cần quy
định các biện pháp kỹ thuật để có cơ chế phát hiện kịp thời các vi phạm trên
môi trƣờng điện tử cũng nhƣ mạng thông tin – viễn thông. Các vi phạm đƣợc
thực hiện trên nền tảng công nghệ thông tin thì cách phát hiện dễ nhất cũng
chính bằng công cụ kỹ thuật cao để quản lý, kiểm duyệt và phát hiện. Các quy
128
phạm pháp luật phải quy định chặt chẽ các tiêu chuẩn kỹ thuật, buộc các chủ
thể liên quan phải thực hiện để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại
điện tử. Trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
luật phải có nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nguyên tắc này để khuyến
khích các cá nhân tổ chức không ng ng sáng tạo các giá trị mới cho xã hội.
Thứ sáu, bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch thương mại
điện tử theo chuẩn mực quốc tế như trong giao dịch thương mại truyền thống
Không có ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử thì thƣơng mại
điện tử không tồn tại, việc bảo vệ ngƣời tiêu dùng không chỉ đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, quan trọng hơn là bảo đảm trật tự an toàn
xã hội, tạo niềm tin của ngƣời tiêu dùng đối với hệ thống pháp luật cũng nhƣ
đối với vai trò của thƣơng mại điện tử. Hiện nay, quan hệ pháp luật thƣơng
mại điện tử đƣợc điều chỉnh bởi rất nhiều ngành luật, văn bản quy phạm pháp
luật liên quan. Do tính chất nhƣ vậy nên các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng đƣợc quy định trong rất nhiều ngành luật, nhƣng các quy
phạm nội dung điều chỉnh quan hệ thƣơng mại điện tử nhằm bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng lại đƣợc quy định chủ yếu trong Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời
tiêu dùng. Chế tài để xử lý các vi phạm pháp luật xâm hại đến lợi ích ngƣời
tiêu dùng gồm chế tài hành chính, hình sự cũng chƣa đƣợc quy định rõ ràng,
dẫn đến chƣa xử lý tốt các hành vi vi phạm và chƣa bảo vệ đƣợc quyền lợi
ngƣời tiêu dùng.
Nhƣ đã phân tích, vai trò của thƣơng mại điện tử rất quan trọng đối với
xã hội, với ngƣời tiêu dùng, do vậy, bảo vệ ngƣời tiêu dùng tức là loại bỏ các
rủi ro, khắc phục những nhƣợc điểm và tạo sự thuận lợi để ngƣời tiêu dùng
tích cực tham gia vào hình thức thƣơng mại mới với nhiều ƣu điểm, thông qua
đó thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển và nâng cao chất lƣợng cuộc sống của
ngƣời dân. Pháp luật phải quy định đầy đủ cũng nhƣ đảm bảo tính khả thi của
nguyên tắc này bắt đầu t khi xây dựng, tuyên truyền phổ biến, ban hành và
thực thi trên thực tế một cách hiệu quả. Do các đặc điểm khác với thƣơng mại
129
truyền thống, thƣơng mại điện tử hoạt động trên nền tảng của các thiết bị điện
tử, công nghệ điện tử nên khi xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật điều
chỉnh các quan hệ thƣơng mại điện tử phải xây dựng các quy phạm pháp luật
chứa đựng các yêu cầu kỹ thuật cao, có cơ chế phát hiện, xử lý vi phạm bằng
các hình thức điện tử tƣơng ứng giúp cho ngƣời tiêu dùng nhanh chóng thông
báo tới các cơ quan quản lý nhà nƣớc để các cơ quan này kịp thời xử lý vi
phạm nhằm bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.
Nhƣ vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ
chức, thƣơng nhân khi họ tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử, cần bổ sung
thêm quy định đối với các chủ thể là chủ sở hữu các website bán hàng, cung
cấp dịch vụ phải tham mua bảo hiểm để tránh những rủi ro cho khách hàng
(Ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử).
Thứ bảy, xây dựng, ban hành Luật Thương mại điện tử
Cần nghiên cứu để xây dựng, ban hành Luật Thƣơng mại điện tử trên
cơ sở tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm pháp luật trong các ngành luật cùng
điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện tử. Tổng hợp các quy phạm
pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực
thƣơng mại điện tử để phân công cụ thể các cơ quan có thẩm quyền cũng nhƣ
trách nhiệm của t ng chủ thể quản lý nhà nƣớc trong quá trình thực hiện cơ
chế phối hợp để thục thi pháp luật. Việc xây dựng, ban hành, triển khai Luật
Thƣơng mại điện tử để thay thế Nghị định về thƣơng mại điện tử sẽ đảm bảo
tính tập trung, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, hiệu quả, kinh tế và khả thi
cao hơn, tránh tình trạng chồng chéo, không rõ ràng, khó thực hiện đối với đối
tƣợng điều chỉnh cũng nhƣ không quy kết đƣợc trách nhiệm cho t ng chủ thể
quản lý nhà nƣớc trong quá trình thực thi pháp luật, t đó đảm bảo tính khả
thi của pháp luật thƣơng mại điện tử. Việc xây dựng, ban hành Luật Thƣơng
mại điện tử sẽ giúp cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thƣơng mại
điện tử sẽ tập trung, dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân có thêm
130
nhiều hiểu biết pháp luật khi tham gia các hoạt động thƣơng mại điện tử, qua
đó tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng nhƣ có những hành xử phù
hợp pháp luật. Khi tạo đƣợc sự đồng thuận, trang bị đầy đủ các kiến thức
pháp luật thƣơng mại điện tử cho ngƣời dân, các tổ chức thì điều này sẽ thúc
đẩy thƣơng mại điện tử phát triển mạnh mẽ hơn.
Việc xây dựng, ban hành Luật Thƣơng mại điện tử với tƣ cách là luật
chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi các cá nhân, tổ
chức tham gia các hoạt động thƣơng mại có sử dụng một phần hay toàn bộ
bằng phƣơng tiện điện tử. Luật Thƣơng mại điện tử không thay thế Luật Giao
dịch điện tử.
4.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật thƣơng mại
điện tử
Thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật TMĐT nói riêng, yếu tố
con ngƣời vẫn là yếu tố then chốt bởi vì dù là chủ thể áp dụng(thi hành) pháp
luật hay tuân thủ, sử dụng pháp luật đều là con ngƣời và thông qua con ngƣời
cụ thể. Do vậy khi hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử
thì phải làm tốt những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tăng cường năng lực và hiệu quả công tác của cơ quan quản
lý nhà nước về thương mại điện tử
Hiện nay, Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin là các đơn
vị trực thuộc Bộ Công thƣơng, thực hiện chức năng tham mƣu, giúp Bộ
trƣởng quản lý nhà nƣớc và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực
hoạt động thƣơng mại điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin v.v...
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử quốc gia
và công nghệ thông tin ngành Công Thƣơng, Cục Thƣơng mại điện tử và
Công nghệ thông tin cần tăng cƣờng hơn nữa nhiệm vụ hoàn thiện hạ tầng cho
thƣơng mại điện tử; phổ biến pháp luật về thƣơng mại điện tử nhằm nâng cao
nhận thức xã hội; phối hợp với các đơn vị liên quan giải quyết tranh chấp và
xử lý vi phạm trong thƣơng mại điện tử; là đầu mối kết nối với các địa
131
phƣơng, hiệp hội, ngành hàng và doanh nghiệp nhằm phát triển thƣơng
mại điện tử; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thƣơng mại điện tử; Cục Thƣơng
mại điện tử và Công nghệ thông tin phải giữ trọng trách đảm bảo hệ thống hạ
tầng thƣơng mại điện tử vững chắc; tạo bƣớc tiến phát triển nguồn nhân lực
về lĩnh vực thƣơng mại điện tửvà công nghệ thông tin cho ngành Công
Thƣơng nói riêng và của cả nƣớc nói chung.
Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc về
thƣơng mại điện tử. Hiện nay, số lƣợng website bán hàng phát triển rất nhanh
nhƣng số có đăng ký rất ít, ngoài ra trên các mạng mở khác nhƣ facebook hay
Yahoo cũng đƣợc các cá nhân, tổ chức sử dụng để thực hiện các hành vi
thƣơng mại điện tử nhƣ quảng cáo, mua bán hàng hóa dịch vụ hoặc thanh toán
điện tử, các mạng mở này thƣờng có các quan hệ thƣơng mại điện tử theo mô
hình C2C (ngƣời tiêu dùng với ngƣời tiêu dùng) nên nằm ngoài tầm kiểm soát
của cơ quan chức năng. Để hạn chế các tranh chấp trong lĩnh vực này thì công
tác quản lý, hiệu lực và hiệu quả của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền có vai
trò đặc biệt quan trọng, làm tốt công tác quản lý nhà nƣớc, công tác thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực này sẽ triệt tiêu tận gốc những tranh
chấp trong thƣơng mại điện tử bởi khi thực hiện việc đăng ký và chịu sự kiểm
tra, giám sát của các cơ quan chức năng thì các doanh nghiệp hay thƣơng
nhân có đăng ký kinh doanh sẽ thực hiện tốt hơn các nghĩa vụ của mình đối
với ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử [100].
Các cơ quan quản lý nhà nƣớc liên quan phải nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong giao dịch điện tử; phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng giao dịch điện tử để l a đảo,
xâm phạm quyền lợi của ngƣời tiêu dùng. Việc giám sát hoạt động thƣơng
mại điện tử đƣợc tiến hành trực tuyến trên môi trƣờng mạng bằng phƣơng tiện
điện tử, thiết bị số với bảy nội dung chính là: (i) Giám sát việc chấp hành
pháp luật về thƣơng mại điện tử của tổ chức, cá nhân trực tiếp tham gia hoặc
có liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử; (ii) Giám sát tình hình hoạt
132
động thƣơng mại điện tử trên môi trƣờng mạng; (iii) Giám sát hoạt động của
Website thƣơng mại điện tử; hoạt động của phần mềm, ứng dụng thƣơng mại
điện tử cài đặt trên phƣơng diện điện tử, thiết bị số; (iv) Giám sát hoạt động
kinh doanh phần mềm, ứng dụng, thông tin số, nội dung số, xuất bản phẩm
điện tử trên môi trƣờng mạng;(v) Giám sát hoạt động ứng dụng, chuyển giao
công nghệ trong thƣơng mại điện tử; (vi) Giám sát hoạt động đánh giá tín
nhiệm website thƣơng mại điện tử, hoạt động đánh giá và chứng nhận chính
sách bảo vệ thông tin cá nhân, hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử; (vii)
Giám sát an toàn thông tin trong hoạt động thƣơng mại điện tử. Ngoài ra, cần
nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động cho các tổ chức xã hội bảo vệ ngƣời
tiêu dùng trong việc hỗ trợ thông tin, hƣớng dẫn và cảnh báo ngƣời tiêu dùng
về những nguy cơ bị xâm hại quyền lợi khi giao dịch điện tử, nâng cao nhận
thức cũng nhƣ trách nhiệm cho ngƣời tiêu dùng trong việc thực thi pháp luật
bảo vệ quyền lợi của họ khi tham gia giao dịch điện tử v.v...
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ công chức
trong các cơ quan quản lý nhà nước
Để tăng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc thì điều kiện đầu tiên và
tiên quyết là yếu tố con ngƣời, vì mọi quyết định cá biệt hay chủ trƣơng,
đƣờng lối, chính sách hay triển khai áp dụng pháp luật đều bắt đầu t các cán
bộ, công chức trong các cơ quan này. Để quản lý một hoạt động mới hình
thành trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông và các thiết bị
điện tử vào hoạt động thƣơng mại với nhiều tính chất phức tạp về mặt cơ cấu
cũng nhƣ thiết chế quản lý đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực quản lý có trình
độ tƣơng ứng. Thƣơng mại điện tử càng thuận lợi, dễ dàng, nhanh chóng với
các chủ thể tham gia hoạt động thì sẽ càng phức tạp trong cấu trúc nền tảng
phục vụ cho hoạt động này. Để đáp ứng đƣợc nhu cầu điều chỉnh pháp luật
đối với hoạt động thƣơng mại điện tử trong tình hình mới, khi mà các nhu cầu
xã hội phát triển nhanh chóng cần đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu
về công nghệ thông tin viễn thông cũng nhƣ các kiến thức pháp luật cần thiết,
133
đặc biệt là pháp luật có liên quan đến thƣơng mại điện tử nhằm đáp ứng đƣợc
công tác quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử ở trung ƣơng và địa phƣơng.
Việc đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn cần đƣợc quy định chặt chẽ, đồng thời
thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, sát hạch trình độ cần đảm bảo tính đúng
đắn, nghiêm minh mới tránh đƣợc bệnh hình thức hoặc các tiêu cực trong vấn
đề đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ dẫn đến tình trạng quản lý không hiệu
quả.
Thứ ba, triển khai hoạt động thống kê về thương mại điện tử và các
hoạt động hỗ trợ thương mại điện tử
Cần có các quy định chặt chẽ về công tác thống kê trong hoạt động
thƣơng mại điện tử là trách nhiệm của mọi chủ thể tham gia hoạt động này để
tiến tới hình thành các cơ sở dữ liệu quốc gia dùng chung cho các lĩnh vực hải
quan, thuế, quản lý doanh nghiệp, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, tài chính
tín dụng, thống kê. Làm tốt công tác này sẽ xây dựng đƣợc các chỉ số định
lƣợng phục vụ cho việc hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện pháp
luật thƣơng mại điện tử.
Thứ tư, xây dựng chính sách, chương trình hỗ trợ cho cộng đồng
Phải có những chính sách phù hợp cũng nhƣ bố trí nguồn lực tài chính
hợp lý để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cá nhân hiện diện trên môi trƣờng
internet, xây dựng thƣơng hiệu trực tuyến, triển khai hoạt động tiếp thị điện
tử, mở rộng mô hình thanh toán điện tử trung gian, áp dụng chữ ký số trong
các hoạt động thƣơng mại nhằm giúp doanh nghiệp thay đổi phƣơng thức sản
xuất, kinh doanh, ứng dụng cách thức quản lý và điều hành tiên tiến.
Thứ n m, tăng cường hợp tác quốc tế về thương mại điện tử và các
lĩnh vực liên quan
Chính sách phát triển công nghệ thông tin – viễn thông của Việt Nam
đã đƣợc triển khai thực hiện t rất sớm, tuy nhiên nếu so sánh với các nƣớc
phát triển thì chúng ta còn đi sau một quãng đƣờng rất dài. T lẽ đó, đƣơng
nhiên các hoạt động thƣơng mại điện tử cũng vì thế mà phát triển muộn do
134
vậy cần có những chƣơng trình hợp tác với các tổ chức kinh tế thƣơng mại
quốc tế và khu vực, các tổ chức thƣơng mại của Liên Hợp Quốc, các đối tác
trong các Hiệp định FTA song phƣơng và đa phƣơng mà Việt Nam đã ký kết.
Nhà nƣớc cần có cơ chế khuyến khích các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các
doanh nghiệp hợp tác với các đối tác nƣớc ngoài tạo môi trƣờng phát triển
thƣơng mại điện tử quốc tế, tăng cƣờng hoạt động kinh doanh trực tuyến qua
biên giới và chuyển giao công nghệ. Tăng cƣờng trao đổi, học tập kinh
nghiệm t các quốc gia tiên tiến về thƣơng mại điện tử, đặc biệt là Hoa Kỳ và
các nƣớc tham gia TPP, liên kết hợp tác trong các chƣơng trình đào tạo nguồn
nhân lực cho cơ quan quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử, tăng cƣờng
hợp tác quốc tế về thƣơng mại điện tử.
Thứ sáu, nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của các chủ thể trong
giao dịch điện tử.
Thực tiễn cho thấy, một trong những khó khăn, bất cập ảnh hƣởng đến
việc phát triển thƣơng mại bền vững, an toàn và hiệu quả ở nƣớc ta thời gian
qua là nhận thức của các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử và ý thức pháp
luật về vấn đề này còn hạn chế. Bởi vậy, để khắc phục tình trạng trên, các
doanh nghiệp kinh doanh thƣơng mại điện tử ngoài việc thực hiện nghiêm các
quy định của pháp luật, cần phải tập trung đầu tƣ nhiều hơn nữa cho việc phát
triển hoạt động thƣơng mại điện tử; xây dựng đƣợc lòng tin đối với ngƣời tiêu
dùng, thƣờng xuyên đổi mới và nâng cao chất lƣợng dịch vụ cũng nhƣ sản
phẩm để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng; đặc biệt, cần cam kết bảo mật
thông tin, tôn trọng sự riêng tƣ, giao hàng đúng nơi, đúng hạn, trả lời và giải
quyết các khiếu nại của ngƣời tiêu dùng một cách kịp thời, thỏa đáng v.v...
Việc nâng cao nhận thức và ý thức của các cá nhân tổ chức tham gia
vào hoạt động thƣơng mại điện tử phải đƣợc tuyên truyền, phổ biến giáo dục
thƣờng xuyên, liên tục, với nhiều hình thức đa dạng và dễ hiểu thì mới đạt
đƣợc hiệu quả. Pháp luật phải có các quy định cụ thể về nhiệm vụ tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan liên quan cũng nhƣ Uỷ
135
ban nhân dân các cấp để cung cấp những kiến thức, những kỹ năng cần thiết
cho các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử để họ có thể chủ động
chấp hành, tuân thủ pháp luật một cách tự giác, thƣờng trực cũng nhƣ có thể
tự bảo vệ mình khi tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử. Khi việc tuyên
truyền phổ biến, giáo dục pháp luật đúng phƣơng pháp, các cá nhân tổ chức
còn có những phản hồi kịp thời để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm
pháp luật phù hợp và quan trọng hơn là các chủ thể này còn có ý thức tự bảo
vệ nhau bằng những cảnh báo cho mọi ngƣời kịp thời để tránh các rủi ro. Phải
có nguồn kinh phí phù hợp và chính sách đào tạo kỹ năng cho chính những
ngƣời làm công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong các cơ quan có
chức năng đảm trách nhiệm vụ này bằng các quy định pháp luật.
4.2.3. Nâng cao năng lực cơ chế giải quyết tranh chấp và sửa đổi,
bổ sung chế tài xử l vi phạm trong thƣơng mại điện tử
i) Xây dựng cơ chế phát hiện vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại
điện tử
Xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử có vai trò quan
trọng, ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, nó
còn làm lành mạnh hóa hoạt động này trên cơ sở răn đe và phòng ng a, nâng
cao ý thức của các chủ thể. Để xử lý đƣợc các vi phạm thì cơ chế phát hiện là
vấn đề quan trọng trong hoạt động thƣơng mại điện tử, trên thực tế, việc phát
hiện các vi phạm bằng thanh tra chuyên ngành còn rất hạn chế, chủ yếu tiếp
nhận thông tin vi phạm t những ngƣời tham gia mua hàng hóa dịch vụ hoặc
báo chí, do vậy cơ chế phát hiện chƣa đáp ứng đƣợc các yêu cầu về xử lý vi
phạm.
Do có sự tham gia của các phƣơng tiện điện tử nên cần thiết phải xây
dựng cơ chế phát hiện vi phạm bằng biện pháp kỹ thuật đƣợc xây dựng và
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật để các chủ thể tham gia hoạt
động TMĐT có thể thêm đƣợc các biện pháp bảo vệ mặc định, không những
136
thế, cá nhân tổ chức là bên mua hàng hóa dịch vụ có thêm các kênh thông tin
nhằm phản ánh các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TMĐT.
Để các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động TMĐT chủ động, tích cực
cung cấp thông tin về các vi phạm liên quan đến lĩnh vực cho các cơ quan có
thẩm quyền xử lý cần phải có cơ chế hữu hiệu bằng nhiều biện pháp khác
ngoài việc quy định về nghĩa vụ của họ trong các quy đinh pháp luật, các biện
pháp đó có thể gồm: Tuyên truyền phổ biến pháp luật, khen thƣởng, các hộp
thƣ trao đổi thông tin vi phạm qua cổng thông tin của các cơ quan chức năng
có thẩm quyền, đƣờng dây nóng v.v...
Nếu xây dựng đƣợc cơ chế phát hiện vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
thƣơng mại điện tử phù hợp, hiệu quả thì mới có thể thực hiện bƣớc tiếp theo
là xử lý vi phạm, qua đó đảm bảo quyền lợi ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ củng
cố niềm tin cho các cá nhân, tổ chức đã và sẽ tham gia các hoạt động thƣơng
mại điện tử.
ii) Sửa đổi, bổ sung chế tài xử l đối với các hành vi vi phạm pháp
luật về thƣơng mại điện tử
Để đảm bảo tính răn đe và phòng ng a các vi phạm pháp luật trong
hoạt động thƣơng mại điện tử, các cơ quan quản lý nhà nƣớc phải xây dựng,
ban hành hay hoàn thiện pháp luật liên quan để bảo đảm rằng, các vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực này bị phát hiện nhanh chóng. Do các vi phạm xảy ra
trong lĩnh vực có các thiết bị, phƣơng tiện điện tử nên cần có các quy định về
hàng rào kỹ thuật, biện pháp kỹ thuật để phát hiện cho tƣơng thích với công
cụ, phƣơng tiện, cách thức vi phạm mà những cá nhân tổ chức đã thực hiện.
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cần
đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, nhanh chóng, kịp thời, xây dựng lực lƣợng
thanh tra chuyên ngành t trung ƣơng tới địa phƣơng để đảm bảo tính chuyên
nghiệp với đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra có chuyên môn sâu, đúng
chuyên ngành và có đủ kiến thức cần thiết khi thực hiện công vụ vì lực lƣợng
thanh tra phải am hiểu về công nghệ thông tin nhằm truy xuất dữ liệu, tìm
137
kiếm dữ liệu, vận hành các thiết bị điện tử phục vụ cho công tác thanh tra,
kiểm tra. Phải bổ sung thanh tra chuyên ngành về thƣơng mại điện tử ở cấp
tỉnh để kịp thời phát hiện các vi phạm trong lĩnh vực này. Tăng cƣờng thẩm
quyền cũng nhƣ mở rộng đối tƣợng thanh tra kiểm tra của cơ quan thanh tra
và xây dựng cơ chế thanh tra, để kịp thời phát hiện các vi phạm pháp luật
trong hoạt động thƣơng mại điện tử. Do mức độ ảnh hƣởng tới xã hội rất lớn
nên cần sửa đổi theo hƣớng tăng nặng mức xử phạt hành chính trong lĩnh vực
thƣơng mại điện tử để ngăn ng a các vi phạm pháp luật, bảo vệ tốt quyền lợi
ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia
hoạt động thƣơng mại điện tử.
Để có căn cứ xử lý vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, việc cần
thiết là bổ sung thêm hành vi vi phạm theo khoản 1 điều 78 Nghị định số
52/2013/NĐ-CP về thƣơng mại điện tử, theo đó:
- Tại khoản 1, điều này cần bổ sung thêm hành vi vi phạm các nguyên
tắc cơ bản của hoạt động thƣơng mại điện tử.
- Bổ sung thêm hành vi; Các chủ thể có chức năng quản lý nhà nƣớc
không áp dụng các nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thƣơng
mại điện tử, không sử dụng các nguyên tắc của hoạt động thƣơng mại điện tử
làm căn cứ khi ban hành các quyết định hành chính cá biệt xử lý vi phạm
hành chính.
Để đảm bảo tính răn đe và phòng ng a vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực thƣơng mại điện tử, việc quy định phạt tiền là phù hợp, tuy nhiên mức
phạt cao nhất hiện nay theo Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013
đối với các hành vi vi phạm trong TMĐT là 50.000.000 đồng, quá thấp so với
giá trị hàng hóa dịch vụ bán ra vì các giao dịch TMĐT có mức doanh thu và
lợi nhuận rất lớn. Việc áp dụng hình phạt bổ sung ngoài thu hồi tên miền .vn
của các Website thƣơng mại điện tử sẽ đƣợc mở rộng sang các tên miền khác
đang hoạt động bằng biện pháp kỹ thuật. Đối với biện pháp thu hồi số tiền thu
lợi bất hợp pháp phải đƣợc giao cho cơ quan có thẩm quyền ra các quyết định
138
để cƣỡng chế và quy định ngay trong các văn bản pháp luật, tránh trƣờng hợp
chỉ quy định cho có mà không đƣợc bảo đảm thi hành trên thực tế. Bên cạnh
đó, nhằm đảm bảo các nguyên tắc đƣợc thực hiện, các điều cấm không bị xâm
phạm cần có các chế tài phù hợp để xử lý các vi phạm pháp luật phát sinh,
ngoài các biện pháp chế tài hành chính thì cũng cần sửa đổi, bổ sung các tội
danh mới trong Bộ luật Hình sự để đảm bảo tính răn đe, phòng chống tội
phạm liên quan đến các hoạt động thƣơng mại điện tử. Hiện nay, Bộ luật Hình
sự 2015 (Hiện bị hoãn thi hành) đã dành một mục tại chƣơng XXI t điều 285
đến điều 294 quy định các tội về công nghệ thông tin, mạng viễn thông. Tuy
nhiên, do có nhiều tranh cãi nên trong Dự thảo Bộ luật Hình sự năm 2015 đã
bỏ điều 292 vì có sự trùng lặp với các tội danh khác, chỉ khác nhau là hành vi
phạm tội xảy ra ở hai môi trƣờng khác nhau đó là mạng ảo và đời sống thực
mà thôi.Nhƣ vậy, với 9 điều luật đã đƣợc quy định trong Bộ luật Hình sự
2015 có thể đáp ứng đƣợc yêucầu của thực tiễn để bảo vệ các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tửđang phát triển hiện nay ở nƣớc
ta.
Để đảm bảo tính đúng đắn, đúng pháp luật của các cơ quan quản lý nhà
nƣớc, cần xây dựng các chế tài nghiêm khắc đối với đội ngũ cán bộ, công
chức trong các cơ quan quản lý nhà nƣớc về TMĐT không hoàn thành nhiệm
vụ, thiếu trách nhiệm hay cố ý làm trái, lạm quyền trong công tác thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động thƣơng mại điện tử để phát huy trách
nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức trong lĩnh vực này. Cần xây dựng quy
chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc mà trong đó quy định cụ thể
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng nhƣ trách nhiệm của các cơ quan này
làm căn cứ để giải quyết các vấn đề về bồi thƣờng nhà nƣớc nếu để xảy ra
thiệt hại đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử,
tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm làm mất niềm tin của ngƣời dân vào các
cơ quan nhà nƣớc và pháp luật.
139
Song song với các chế tài để xử lý vi phạm, cần có chế độ khen thƣởng
kịp thời, thỏa đáng và hợp lý đối với các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, cá
nhân trong hoạt động thƣơng mại điện tử để khuyến khích, tạo động lực cống
hiến, sáng tạo, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nƣớc cũng nhƣ các
đóng góp cho thƣơng mại điện tử.
iii) Nâng cao năng lực cơ chế giải quyết tranh chấp trong thƣơng
mại điện tử
Pháp luật cần quy định phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng các
biện pháp đơn giản, trực tiếp giữa ngƣời tiêu dùng và ngƣời bán hàng qua
mạng internet, chủ các website bán hàng bằng các công cụ trực tuyến để giải
quyết các tranh chấp phát sinh nhƣ: Quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ,
thanh toán điện tử, cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ tin học, viễn thông bằng
các quy định chặt chẽ có nội dung quy phạm dựa trên các biện pháp kỹ thuật
để các bên có tranh chấp giải quyết nhanh gọn, kịp thời nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của họ, không gây khiếu kiện kéo dài cũng nhƣ mất an
ninh trật tự an toàn xã hội. Bởi vậy, cần có những giải pháp để nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử nhƣ bổ sung các quy phạm
pháp luật quy định giá trị pháp lý của chứng cứ là các thông điệp giữ liệu,
chứng t điện tử. Pháp luật tố tụng dân sự cũng cần bổ sung thêm chế định về
thu thập, lƣu giữ, sử dụng các chứng cứ điện tử để phục vụ cho công tác xét
xử các vụ án dân sự liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử. Bên cạnh
đó, cần có các biện pháp để bảo đảm thi hành đối với các quyết định hành
chính, bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án nhƣ thẩm quyền, biện pháp
phong tỏa tài sản, kê biên, khóa tài khoản hay các biện pháp khác để đảm bảo
rằng công lý phải đƣợc thực thi, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
tham gia hoạt động thƣơng mại không bị xâm hại.
Cần xây dựng cơ chế, trình tự thủ tục đơn giản để giải quyết các tranh
chấp bằng trọng tài trong hoạt động thƣơng mại điện tử. Do các chủ thể thực
hiện hoạt động thƣơng mại điện tử bằng phƣơng tiện điện tử trực tuyến, nên
140
cần quy định các cách thức, biện pháp giải quyết tranh chấp tƣơng ứng và đa
dạng để các chủ thể có thể lựa chọn, cụ thể:
Một là, xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua các công cụ
trực tuyến trong thương mại điện tử.Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của
ngƣời tiêu dùng thì hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp là giải pháp tiết
kiệm và hiệu quả nhất. Theo đó, cần bổ sung các quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử về cơ chế giải quyết tranh chấp
trực tuyến bằng các biện pháp kỹ thuật nhƣ: Các website bán hàng hay trên
sàn giao dịch điện tử phải công bố đầy đủ các bƣớc và trình tự giải quyết để
ngƣời tiêu dùng biết các quyền và nghĩa vụ của mình; đảm bảo rằng các
website phải đƣợc thiết kế theo những giao diện tiêu chuẩn và thể hiện đầy đủ
nội dung hợp đồng với các điều khoản cụ thể về đối tƣợng, giá cả, phƣơng
thức thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên cũng nhƣ phƣơng thức giải
quyết tranh chấp. Thực tiễn cho thấy, chỉ có các biện pháp kỹ thuật mới hạn
chế các rủi ro phát sinh t các hành vi sử dụng phƣơng tiện kỹ thuật. Việc giải
quyết tranh chấp trực tuyến sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí, không gây phiền hà
cho ngƣời tiêu dùng, đồng thời sẽ làm giảm chi phí xã hội, tạo tâm lý thoải
mái, yên tâm và tin tƣởng vào các hoạt động thƣơng mại điện tử của ngƣời
tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử.
Hai là, quy định cơ chế đại diện thông qua Hội Bảo vệ người tiêu
dùng.Do tính chất của hợp đồng theo mẫu (hợp đồng gia nhập) có tính chất
giống nhau, các hàng hóa, dịch vụ là sản phẩm sản xuất hàng loạt, hàng hóa
dịch vụ đơn lẻ, đặc định rất ít khi đƣợc giao dịch trong thƣơng mại điện tử,
nên các tranh chấp gần nhƣ giống nhau về bản chất. T đặc điểm này, nên
chăng cần có cơ chế đại diện thông qua cơ quan bảo vệ ngƣời tiêu dùng ở các
địa phƣơng trên cơ sở ủy quyền của ngƣời tiêu dùng để cơ quan này đứng ra
làm đại diện khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền hay đại
diện để giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thƣơng mại để bảo vệ cho nhóm
ngƣời tiêu dùng bị xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp. Nếu áp dụng cơ chế
141
đại diện này thì sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí cho ngƣời tiêu dùng và đảm bảo
an ninh trật tự, an toàn xã hội, qua đó giảm chi phí xã hội đáng kể.
Ba là, xem xét quy định về thẩm quyền, thủ tục r t gọn để giải quyết
tranh chấp.Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án có thẩm
quyền giải quyết thƣờng là nơi cƣ trú của bị đơn, trong thƣơng mại điện tử,
nếu ngƣời bán hàng là doanh nghiệp vi phạm hợp đồng thì nơi thụ lý giải
quyết sẽ là nơi cƣ trú của bị đơn. Cũng theo quy định của pháp luật tố tụng thì
Tòa án nơi thực hiện hợp đồng cũng có thẩm quyền thụ lý giải quyết, tuy
nhiên trƣờng hợp này ít đƣợc áp dụng giải quyết. Để đảm bảo việc giải quyết
tranh chấp trong thƣơng mại điện tử đƣợc nhanh chóng, thuận lợi cần có
những hƣớng dẫn cụ thể về thẩm quyền giải quyết vụ án cũng nhƣ các thủ tục
rút gọn trong tố tụng dân sự cả về thời gian cũng nhƣ cung cấp chứng cứ, có
nhƣ vậy mới đảm bảo đƣợc các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
tham gia hoạt động này.
Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử sẽ
giúp đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia vào
hoạt động thƣơng mại điện tử, củng cố niềm tin của các cá nhân tổ chức,
khuyến khích họ tham gia vào loại hình thƣơng mại này. Bên cạnh đó, cần
chú trọng xây dựng bộ máy phù hợp để giải quyết kịp thời những tranh chấp
và vấn đề phát sinh trong thƣơng mại điện tử, nâng cao năng lực của bộ máy
thực thi pháp luật để xử lý kịp thời các tranh chấp trong thƣơng mại điện tử.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Xét cho cùng, mục đích của việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp
luật thƣơng mại điện tử, nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật thƣơng mại
điện tử cũng chính là nhằm đƣa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật
thƣơng mại điện tử nhằm thúc đẩy sự phát triển của thƣơng mại điện tử, đáp
ứng nhu cầu của xã hội cũng nhƣ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế. Bởi vậy, nhiệm vụ nghiên
cứu và đƣa ra quan điểm và định hƣớng hoàn thiện pháp luật để t đó có
142
những giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý rõ ràng, đầy đủ, tạo điều kiện
cho các cá nhân, tổ chức nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình khi
tham gia vào các hoạt động thƣơng mại điện tử có ý nghĩa quan trọng và
quyết định.
Kinh nghiệm cho thấy, những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình
giao lƣu thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử không chỉ đƣợc khắc phục
bằng công nghệ, giải pháp kỹ thuật, mà đòi hỏi cần phải có một khung pháp lý
đầy đủ. Để thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển, Nhà nƣớc phải giữ vai trò
tiên phong trên cả hai lĩnh vực: Tạo các điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp, cá nhân cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng hệ thống văn bản đầy
đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh quan hệ thƣơng mại điện tử. Nếu thiếu
các quy phạm pháp luật, các doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng phải gánh chịu
nhiều rủi ro và thiếu sự an toàn trong giao dịch, làm cho những ƣu thế rõ nét
về thời gian, chi phí của thƣơng mại điện tử không đƣợc khẳng định.
Thƣơng mại điện tử là phƣơng thức mới trong hoạt động thƣơng mại
toàn cầu, áp dụng thƣơng mại điện tử đã và đang là sự lựa chọn tất yếu của
nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thƣơng mại
điện tử đang đặt ra nhiều thách thức trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
pháp lý, bảo đảm sự tin cậy cần thiết cho quá trình hội nhập và phát triển ở
nƣớc ta.
143
KẾT LUẬN
Sau khi thực hiện nghiên cứu đề tài“Pháp luật thương mại điện tử ở
Việt Nam hiện nay”, cho phép rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây:
1. Theo Tổ chức Thƣơng mại thế giới, thƣơng mại điện tử bao gồm
việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm đƣợc thực hiện
bằng phƣơng tiện điện tử có kết nối internet, mạng viễn thông và các mạng
mở khác, nhƣng đƣợc giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao
nhận cũng nhƣ những thông tin số hoá thông qua mạng Internet. Thƣơng mại
điện tử đang là mô hình kinh doanh có mức tăng trƣởng nhanh và ngày càng
phổ biến, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại nhờ phát huy khả
năng tiện lợi, cắt giảm chi phí và tiết kiệm thời gian cho ngƣời tiêu dùng.
Việc áp dụng thƣơng mại điện tử trong hoạt động kinh doanh hiện là một xu
thế tất yếu trên thế giới và ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hƣớng phát
triển chung đó. Kinh doanh trực tuyến giờ đây không còn xa lạ với ngƣời tiêu
dùng Việt Nam. Cùng với tốc độ phát triển internet, việc ứng dụng internet để
mở rộng sản xuất, kinh doanh đang đƣợc nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan
tâm.
Pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc ra đời do sự hình thành và phát triển
mạnh mẽ của công nghệ thông tin và mạng Internet trên thế giới và ở Việt
Nam, đồng thời, pháp luật của nhiều quốc gia về thƣơng mại điện tử đều có
sự tiếp thu t pháp luật thƣơng mại điện tử thế giới và có sự vận dụng để điều
chỉnh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển ở t ng quốc gia. Đối tƣợng
và phạm vi điều chỉnh của pháp luật thƣơng mại điện tử là các quan hệ
thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử, các vấn đề liên quan mà pháp luật
thƣơng mại truyền thống không đề cập, bởi vậy, cơ chế điều chỉnh và nội
dung pháp luật về thƣơng mại điện tử có những đặc trƣng riêng. Điều này thể
hiện pháp luật phải bảo đảm tính an toàn, hợp pháp và minh bạch trong hoạt
động thƣơng mại điện tử; th a nhận các thông điệp nội dung giao dịch thƣơng
144
mại qua các phƣơng tiện điện tử; th a nhận chữ ký điện tử nhằm bảo đảm tính
xác thực, toàn vẹn, bảo mật của thông tin đƣợc trao đổi; quy định cụ thể các
vấn đề có liên quan đến việc giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử; bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử; quy
định cơ chế giải quyết tranh chấp và việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt
động thƣơng mại điện tử v.v...
2. Pháp luật Việt Nam trong những năm qua đã ghi nhận các hoạt động
kinh doanh, thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử, quy định kinh doanh
dịch vụ thƣơng mại điện tử là một ngành, nghề kinh doanh; th a nhận giá trị
pháp lý của chứng t điện tử; các quy định về thuế nhƣ hƣớng dẫn giao dịch
điện tử trong lĩnh vực thuế, công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia
tăng về giao dịch điện tử trong hoạt động hải quan; quy định về vấn đề bảo vệ
ngƣời tiêu dùng khi tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử nhƣ trong giao
dịch thƣơng mại truyền thống v.v... Có thể nói, các văn bản pháp luật điều
chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử mà Nhà nƣớc ta đã ban hành đang dần
đáp ứng đƣợc yêu cầu bảo đảm về mặt pháp lý cho việc phát triển thƣơng mại
điện tử. Tuy nhiên, để những quy định pháp luật có thể đƣợc triển khai hiệu
quả cần có sự hợp tác của cả doanh nghiệp và ngƣời dân. Doanh nghiệp cần
phải làm nhiều hơn mức chuẩn mực chung mà pháp luật quy định để xây
dựng lòng tin của ngƣời tiêu dùng vào một mô hình kinh doanh hay một đơn
vị kinh doanh cụ thể. Điều này đòi hỏi nỗ lực liên tục và lâu dài t phía doanh
nghiệp nhằm xây dựng uy tín, thƣơng hiệu. Và bản thân ngƣời tiêu dùng cũng
là một lực lƣợng đáng kể giúp xây dựng môi trƣờng giao dịch lành mạnh,
thông qua việc theo dõi, giám sát và phản hồi nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
3. Xét cho cùng, mục đích của việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về
pháp luật thƣơng mại điện tử, nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật
thƣơng mại điện tử chính cũng chính là nhằm đƣa ra các giải pháp để hoàn
thiện pháp luật thƣơng mại điện tử nhằm thúc đẩy sự phát triển của thƣơng
145
mại điện tử, đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng nhƣ nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế. Bởi
vậy, nhiệm vụ nghiên cứu và đƣa ra quan điểm và định hƣớng hoàn thiện
pháp luật để t đó có những giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý rõ ràng,
đầy đủ, tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức nhận thức đầy đủ về quyền và
nghĩa vụ của mình khi tham gia vào các hoạt động thƣơng mại điện tử có ý
nghĩa quan trọng và quyết định.
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về thƣơng mại điện tử ở
nƣớc ta cần tiếp cận và hài hòa hóa với các quy định của pháp luật các nƣớc
đồng thời cần tiếp cận với các chuẩn mực của quốc tế. Tuy nhiên, quá trình
hoàn thiện pháp luật về thƣơngmại điện tử cũng cần phải tính đến những đặc
điểm văn hóa, thói quen của ngƣời Việt Nam và trình độ phát triển khoa học,
công nghệ của nƣớc ta. Ngoài ra, việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp
luật về thƣơng mại điện tử đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất, phối hợp
chặt chẽ, có lộ trình hợp lý, có sự quyết liệt cần thiết và thiết lập đƣợc sự ƣu
tiên cho hoạt động lập pháp và lập quy.
146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. TS.Mai Anh – Thƣơng mại điện tử tƣơng lai của kinh doanh, thƣơng
mại, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 7 năm 2005.
2. TS.Lê Ngọc Anh – Thẩm quyền quản lí hoạt động quảng cáo thƣơng
mại theo pháp luật Anh, Mỹ và kinh nghiệm cho Việt Nam. (Tạp chí
Luật học số 3/2015).
3. TS.Trần Văn Biên - “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Nxb
Tƣ pháp, Hà Nội năm 2012;
4. TS.Lại Kiên Cƣờng (2014) - “Phòng ng a tội phạm trong lĩnh vực
thƣơng mại điện tử của lực lƣợng Cảnh sát nhân dân” Học viện Cảnh
sát nhân dân - Bộ Công an.
5. TS.Bùi Ngọc Cƣờng (2002) Vai trò của pháp luật kinh tế trong việc bảo
đảm quyền tự do kinh doanh.( Tạp chí KHPL số 7/2002)
6. TS.Vũ Ngọc C (2001), Thƣơng mại điện tử, Nxb Giao thông vận tải
7. TS.Nguyễn Thị Dung (Chủ biên) (2009), Pháp luật về hợp đồng trong
thƣơng mại và đầu tƣ - Những vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
8. TS.Nguyễn Trọng Đàn (1997), Hợp đồng Thƣơng mại quốc tế, Nxb
Thống kê;
9. TS.Trần Thanh Điện “Tài liệu hƣớng dẫn học tập Thƣơng mại điện tử”
Đại học Cần Thơ nghiên cứu và biên soạn năm 2013.
10. TS.Nguyễn Đăng Hậu - “Nghiên cứu cơ sở và phƣơng hƣớng phát triển
thƣơng mại điện tử ở Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học
Kinh tế quốc dân năm 2003;
11. PGS-TS.Nguyễn Vũ Hoàng – Thỏa thuận thƣơng mại khu vực và
những tác động tới thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế. (Tạp chí Luật học số
5/2015).
147
12. TS.Phạm Thị Thanh Hồng “Những vấn đề chung về thƣơng mại điện
tử, phân tích khả năng thiết lập kênh phân phối qua mạng của các
doanh nghiệp v a và nhỏ và triển vọng của thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Quốc Gia Yokohama Nhật
Bản năm 2005.
13. TS.Vũ Thị Minh Hiền “Đổi mới tổ chức quản trị các doanh nghiệp có
ứng dụng thƣơng mại điện tại Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại
Đại học Kinh tế quốc dân năm 2011
14. TS.Lê Linh Lƣơng “Nghiên cứu ứng dụng thƣơng mại điện tử trong các
doanh nghiệp Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Bách
Khoa Hà Nội năm 2003.
15. GS.TS Nguyễn Thị Mơ (2008), Bài giảng Chữ ký số, Hội thảo Thƣơng
mại điện tử, Bộ Công thƣơng;
16. GS.TS Nguyễn Thị Mơ (2005), Cẩm nang pháp lý về hợp đồng điện
tử, Nxb Lao động – Xã hội;
17. TS.Vũ Thị Hòa Nhƣ – Thẩm quyền quản lí hoạt động quảng cáo
thƣơng mại theo pháp luật Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam
Á – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. (Tạp chí Luật học số 9/2015)
18. TS.Trần Hoài Nam “Phát triển ứng dụng mô hình thƣơng mại điện tử
B2B ở Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Thƣơng Mại
năm 2013.
19. TS.Trần Đình Sang “Những tác động của sự phát triển công nghệ thông
tin đối với hiệu quả kiểm toán ở Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế
tại Đại học Sarasota, Florida, Hoa Kỳ năm 2010.
20. TS.Trần Thị Thu Phƣơng –Thỏa thuận lựa chọn Tòa án trong giải quyết
tranh chấp thƣơng mại quốc tế. (Tạp chí Luật học số 3/2015).
21. TS.Mai Hồng Quỳ - Một số vấn đề pháp lý của thƣơng mại điện tử và
việc áp dụng ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 2 năm
2000.
148
22. TS.Trần Ngọc Thái – Giáo trình Thƣơng mại điện tử, Nxb Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội năm 2005, tr.32.
23. TS.Nguyễn Đức Tài - “Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc
đảm bảo an toàn trong thƣơng mại điện tử ở Việt Nam” - Luận án Tiến
sĩ chuyên ngành thƣơng mại tại Viện Nghiên cứu Thƣơng mại – Bộ
Công Thƣơng năm 2013;
24. PGS.TS Nguyễn Văn Thoan - “Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử
trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” Luận án Tiến sĩ
kinh tế tại Đại học Ngoại Thƣơng năm 2010
25. PGS.TS Nguyễn Văn Thoan (2009), Bài giảng Thƣơng mại điện tử,
Trƣờng đại học Ngoại thƣơng;
26. TS.Nguyễn Thanh Tùng – Bất cập trong việc áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng, tạm ng ng thực hiện hợp đồng trong thƣơng mại –
Một số kiến nghị. (Tạp chí Luật học số 7/2015).
27. TS.Nguyễn Thị Anh Thƣ - “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hƣởng đến ứng
dụng thƣơng mại điện tử trong các doanh nghiệp v a và nhỏ tại Việt
Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Kinh Tế thành phố Hồ Chí
Minh năm 2006.
28. TS.Đào Anh Tuấn “Quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử “ Luận án
Tiến sĩ tại Trƣờng Đại học kinh tế Quốc dân 2014
29. TS.Lê Danh Vĩnh (2007), Các vấn đề kỹ thuật, công nghệ, chủ yếu
trong thƣơng mại điện tử: Lý thuyết và thực hành, Nxb Lao động;
30. TS.Lê Hà Vũ với “Xây dựng khung pháp lý nhằm phát triển thƣơng
mại điện tử ở Việt Nam’ Luận văn Thạc sĩ – Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội 2006.
31. Ban Tƣ tƣởng – Văn hóa Trung ƣơng (2001), Ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc, Nxb
Chính trị quốc gia;
149
32. Báo cáo Điều tra về thƣơng mại điện tử năm 2006 của Vụ Thƣơng mại
điện tử - Bộ Công thƣơng;
33. Báo cáo Thƣơng mại
34. điện tử Việt Nam năm 2007 - Bộ Công thƣơng;
35. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2008 - Bộ Công thƣơng;
36. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam 2012 - Bộ Công thƣơng;
37. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2013 - Bộ Công thƣơng
38. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2014 - Bộ Công thƣơng
39. Bài giảng về thƣơng mại điện tử của tác giả Trần Công Nghiệp –
Trƣờng Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên
40. Chính phủ (2005), Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg phê duyệt Kế
hoạch tổng thể phát triển thƣơng mại điện tử giai đoạn 2006-2010;
41. Chính phủ (2006), Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 quy
định chi tiết Luật Giao dịch điện tử về Thƣơng mại điện tử;
42. Luật Mẫu của Uỷ ban Luật Thƣơng mại Quốc tế của Liên Hợp Quốc
(UNCITRAL) về thƣơng mại điện tử
43. Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nƣớc và pháp luật, Viện Nghiên
cứu Nhà nƣớc và Pháp luật, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
1995, tr. 220.
44. Phòng Thƣơng mại và công nghiệp Việt Nam (2012), Báo cáo nghiên
cứu MEI 2012- Chỉ số hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành pháp
luật về kinh doanh của các Bộ năm 2012, Hà Nội
45. Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát
triển thƣơng mại điện tử giai đoạn 2006 - 2010;
46. Tập các bài tham luận Hội thảo về thƣơng mại điện tử quốc tế và các
chính sách cơ sở hạ tầng thông tin tổ chức vào tháng 11 năm 2002 tại
Hà Nội.
47. Thông tƣ số 09/2008/TT-BCT ngày 21/7/2008 Bộ Công thƣơng (2008)
về giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử;
150
48. Viện khoa học pháp lý,Những khía cạnh pháp lý của thương mại điện
tử ; Trần Hoài Nam,Một số vấn đề của thương mại điện tử; Đại học
Kinh tế quốc dân Hà Nội,Giáo trình thương mại điện tử, năm 2005.
49. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc
gia;
II. Tiếng Anh
50. “Customer’s behaviour in Electronic Commerce in China” author
Hong Xin Xung and Chen Yan (Savonla University Of Applied
Sciences) .
The UK's E-Commerce Regulations http://www.out-law.com/page-431
bao 08
51. E- Commerce and economic Development in Libia - Thesis
Philosophy of Author Abdalla Hamed ( Wales University, USA) 4/ 2005.
52. Electronic Commerce - DR Mihaela-Roxanafercală- Romani- Babes-
Bolyai University, 2011.
53. The Development of E-Commerce in Malaysia
Ainin Sulaiman, Rohana Jani, Shamshul Bahri
http://link.springer.com/chapter/10.1007%2F0-306-47009-8_24
54. Marc Bacchetta, Patrick Aaditya Mattoo, Ludger Schuknecht, Hannu
Wager và Madelon Wehenr – Electronic commerce and the role of the WTO
University Cambrigde Publisshing, tr.11.
55. e-Commerce & Operations Management
https://www.ida.gov.sg/programmes-partnership/sectors/eCommerce-
Operations-Management
56. New E-commerce Law in Oman - May 18, 2008
http://cldp.doc.gov/programs/cldp-in-action/details/761
57. New E-commerce Law in Oman - May 18, 20
151
III. Tài liệu trên các Website
58. Ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật đến các hoạt động thƣơng mại điện
tử tại Việt Nam - http//www. luatdongtay.com/tuvanluat/tu-van-
luat/luat...viet-nam/1006.html
59. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2014
http://www.vecita.gov.vn/tinbai/989/Bao-cao-Thuong-mai-dien-tu-
Viet-Nam-nam-2014
60. Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong giao dịch thƣơng mại điện tử và tín dụng
tiêu dùng
http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1038/Bao-ve-nguoi-tieu-dung-trong-
giao-dich-thuong-mai-dien-tu-va-tin-dung-tieu-
dung#sthash.5VabBP3b.dpuf.( 7/10/2015)
61. Ban hành quy chế quản lý và thực hiện Chƣơng trình phát triển thƣơng
mại điện tử quốc gia
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/4844/ban-hanh-quy-che-quan-ly-va-
thuc-hien-chuong-trinh-phat-trien-thuong-mai-dien-tu-quoc-gia.aspx. (
10/3/2015)
62. Báo cáo Thƣơng mại điện tử 2014
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/4770/bao-cao-thuong-mai-dien-tu-
2014.aspx
63. Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong các giao dịch thƣơng mại điện tử
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/5562/bao-ve-nguoi-tieu-dung-trong-
cac-giao-dich-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 23/7/2015)
64. Chứng cứ và bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử.
http://www.sotuphap.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/lists/posts/post.aspx
?Source=&Category=&ItemID=1907&Mode=1. ( 8/1/2011)
65. Cơ hội mở rộng hợp tác phát triển thƣơng mại điện tử
http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=7041( 12/4/2012)
66. Cơ hội khai thác thị trƣờng APEC và châu Phi
152
http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=14470. ( 12/4/2012)
67. Cần triển khai nhiều hoạt động để thúc đẩy giao dịch thƣơng mại điện
tử qua biên giới
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/258/can-trien-khai-nhieu-hoat-dong-
de-thuc-day-giao-dich-thuong-mai-dien-tu-qua-bien-gioi-.aspx. (
12/4/2012)
68. Dịch vụ hoàn tất đơn hàng: Mấu chốt để phát triển Thƣơng mại điện tử
http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1080/Dich-vu-hoan-tat-don-hang-Mau-
chot-de-phat-trien-Thuong-mai-dien-tu#sthash.HYmc3pHz.dpuf.
11/01/2015)
69. Đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/3238/day-manh-hoat-dong-quan-ly-
nha-nuoc-ve-thuong-mai-dien-tu.aspx( 2/6/2012)
70. Đào tạo Thƣơng mại điện tử - Nhìn lại một khóa thử nghiệm
http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1034/Dao-tao-Thuong-mai-dien-tu-
Nhin-lai-mot-khoa-thu-nghiem#sthash.nNvi9nbN.dpuf. (01/10/2015)
71. Đa cấp núp bóng thƣơng mại điện tử
http://congthuonghn.gov.vn/default.aspx?page=&lang=0&cat=4&conte
nt=515. ( 16/8/2011)
72. Giải pháp thanh toán trực tuyến cho thƣơng mại điện tử và dịch vụ
hành chính công
http://congthuonghn.gov.vn/default.aspx?page=&lang=0&cat=134&co
ntent=1134.( 27/11/2014)
73. Giới thiệu cơ quan, tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp bảo vệ
ngƣời tiêu dùng của Hàn Quốc ( 06-11-2014)
http://www.vca.gov.vn/NewsDetail.aspx?ID=2786&CateID=373
74. Google đánh tiếng thị trƣờng thƣơng mại điện tử bằng nút "Mua"
http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1001/Google-danh-tieng-thi-truong-
thuong-mai-dien-tu-bang-nut-Mua#sthash.foaLtmLE.dpuf.( 19/8/2015)
153
75. Hệ thống quản lý Website thƣơng mại điện tử Việt Nam - (Nguồn: Cục
TMĐT và CNTT- Bộ CT)
http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/301/-he-thong-
quan-ly-website-thuong-mai-dien-tu-viet-nam/( 1/11/2010)
76. Hệ thống quản lý Website thƣơng mại điện tử Việt Nam
http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/301/-he-thong-
quan-ly-website-thuong-mai-dien-tu-viet-nam/
77. Kinh nghiệm phát triển thƣơng mại điện tử trên di động
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/5724/kinh-nghiem-phat-trien-
thuong-mai-dien-tu-tren-di-dong.aspx. ( 14/8/2015)
78. Khuyến cáo về việc giao dịch Bitcoin trên các website thƣơng mại điện
tử
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/2956/khuyen-cao-ve-viec-giao-dich-
bitcoin-tren-cac-website-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 28/3/2014)
79. Liên minh châu Âu (EU) ủng hộ sáng kiến thúc đẩy thƣơng mại điện tử
http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=20702( 6/2/2012)
80. Nghị quyết về Chính phủ điện tử
http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1044/Nghi-quyet-ve-Chinh-phu-dien-
tu( 19/10/2015)
81. Nền tảng di động: Tiềm năng lớn cho thƣơng mại điện tử
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/4565/nen-tang-di-dong--tiem-nang-
lon-cho-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 8/1/2015)
82. Những điều cần chú ý khi mua sắm trực tuyến
http://congthuonghn.gov.vn/default.aspx?page=&lang=0&cat=150&co
ntent=1286. ( 5/8/2015)
83. Nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp nhờ Thƣơng mại điện tử
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/1943/nang-cao-tinh-canh-tranh-cua-
doanh-nghiep-nho-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 27/6/2013)
84. Những Giải Pháp Đòn Bẩy Cho Thƣơng Mại Điện Tử
154
http://socongthuong.danang.gov.vn/video/2/103/nhung-giai-phap-don-
bay-cho-thuong-mai-dien-tu-/.( 24/10/2015)
85. Mạng xã hội nào phải đăng ký nhƣ sàn giao dịch thƣơng mại điện tử? -
(Nguồn: Báo Hải quan)
http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/2380/mang-xa-hoi-
nao-phai-dang-ky-nhu-san-giao-dich-thuong-mai-dien-tu/
86.Pháp luật chƣa lƣờng kịp sự phát triển của thƣơng mại điện tử -
http://laodong.com.vn/phap-luat/phap-luat-chua-luong-kip-su-phat-
trien-cua-thuong-mai-dien-tu/77778.bld
87. Pháp luật về thƣơng mại điện tử thế giới và Việt Nam;
http://ecommerce.gov.vn/346-3161/phap-luat-ve-thuong-mai-dien-tu-
tren-the-gioi-va-viet-nam.vhtml
88. Quy định về quản lý website thƣơng mại điện tử
http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/2432/quy-dinh-ve-
quan-ly-website-thuong-mai-dien-tu/
89. Sumitomo tham gia thị trƣờng thƣơng mại điện tử Việt Nam - Tri
Phương (TTXVN)
http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=7287. ( 28/8/2013)
90. Tổng kết công tác thực thi pháp luật trong thƣơng mại điện tử
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/4742/tong-ket-cong-tac-thuc-thi-
phap-luat-trong-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 10/12/2012)
91. Thúc đẩy phát triển thƣơng mại điện tử
http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=15464.( 20/12/2010)
92. Thƣơng mại điện tử tại Việt Nam sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới
http://baocongthuong.com.vn/thuong-mai-dien-tu-tai-viet-nam-se-phat-
trien-manh-trong-thoi-gian-toi.html.( 18/9/2015)
93. Thƣơng mại điện tử là cơ hội của mọi doanh nghiệp
155
http://www.danang.gov.vn/portal/page/portal/danang/chinhquyen/tin_tu
c?p_pers_id=42058&p_folder_id=39013&p_main_news_id=38425414
&p_year_sel=
94. Tọa đàm Phát triển thanh toán trong thƣơng mại điện tử
http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/2127/toa-dam-
phat-trien-thanh-toan-trong-thuong-mai-dien-tu/
95. Thƣơng mại điện tử: cơ hội và thách thức trong thời khủng hoảng -
(P.QLTM theo báo Công Thương)
http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/319/-thuong-mai-
dien-tu-co-hoi-va-thach-thuc-trong-thoi-khung-hoang/
96. Thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu thƣơng mại
- (Theo Thời báo tài chính Việt Nam)
http://socongthuong.danang.gov.vn/tin-tuc/16/1359/thu-tuc-hai-quan-
dien-tu-doi-voi-hang-hoa-xuat-nhap-khau-thuong-mai/
97. Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế về thƣơng mại điện tử
http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=8257.( 22/7/2009)
98. Việt Nam và APEC hợp tác đào tạo về thƣơng mại điện tử
http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=8801. ( 20/8/2008)
99. Xu hƣớng phát triển thƣơng mại điện tử
http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/1205/xu-huong-phat-trien-thuong-
mai-dien-tu.aspx. ( 7/1/2013)
100. Xử phạt các website bán hàng không đăng ký
http://socongthuong.danang.gov.vn/tin-tuc/16/1518/-xu-phat-cac-
website-ban-hang-khong-dang-ky/
101. Website: www.moit.gov.vn
102. http://bvntd.vca.gov.vn/introduction/localOrg.aspx
103. http://antt.vn/triet-pha-nhieu-vu-an-toi-pham-su-dung-cong-nghe-cao-
0110894.html.( 28/7/2015)
156
104.http://sonadezi.edu.vn/dien_dan/dien_dan_khoa_quan_tri/dien_dan_khoa
_quan_tri/882471810613/file
105. http://ictnews.vn/khoi-nghiep/bao-cao-thong-ke-cac-con-so/trung-binh-
moi-nguoi-viet-nam-so-huu-1-4-thue-bao-di-dong-123053.ict
106. http://cafebiz.vn/quan-tri/lam-thuong-mai-dien-tu-o-viet-nam-phai-doi-
mat-nhung-kho-khan-gi-2014040310543638016.chn .( 3/4/2014)
107. dddn.com.vn/.../thuong-mai-dien-tu-tien-ao-hang-ao-quan-sao-
2014122.( 12/3/2016)
108. http://mutrap.org.vn/index.php/vi/explore/bao-cao-nghien-
cuu/finish/45/640( 10/2013)
109. http://tailieu.vn/doc/phat-trien-thuong-mai-dien-tu-o-viet-nam-hien-
nay-1502468.html. (20/6/2013)
110. pages.ca.inter.net/~euclid1/esiglaws.html
111. http:http://ecommerce.gov.vn/346-3161/phap-luat-ve-thuong-mai-dien-
tu-tren-the-gioi-va-viet-nam.vhtml
112. http://www.korea-law.org/
113. https://www.sba.gov/managing-business/business-law-
regulations/industry-laws-regulations/online-business-law
157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
1. Lê Văn Thiệp (2016),” Pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong
Thương mại điện tử” Tạp chí Dân chủ & Pháp luật Số tháng 2 (287) năm
2016, tr 30-34.
2. Lê Văn Thiệp (2016), “Một số vấn đề về chứng cứ điện tử trong giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án- một số kiến
nghị”.Tạp chí Kiểm sát số 5/2016 (Tháng 3/2016) tr 49-54.
3. Lê Văn Thiệp (2016)“Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong
Thương mại điện tử” . Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số tháng 3(288) năm
2016, tr 22-24.
Recommended