View
290
Download
35
Category
Preview:
Citation preview
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠITHƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ
TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Tác giả: HÀ MINH ĐỨC
LỜI VIẾTNHÂN DỊP SÁCH ĐƯỢC TÁI BẢN
Đã hơn hai mươi năm trôi qua kể từ khi cuốn Thơ và mấy vấn đề trong
thơ Việt Nam hiện đại được xuất bản (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974).
Đến nay NXB Giáo dục cho in lại cuốn sách này nhằm phục vụ nhu cầu
nghiên cứu, học tập của học sinh, sinh viên và giáo viên các trường đại học,
cao đẳng và phổ thông. Thơ ca trong những năm gần đây đã có nhiều đổi
thay, nhiều sáng tạo mới. Tuy nhiên, điểm xuất phát về lí luận thơ và những
chuẩn mực có tính nguyên tắc về thể loại thơ trữ tình vẫn được giữ vững.
Trong lần tái bản này trừ việc tước bỏ một số câu chữ về cơ bản tôi vẫn giữ
nguyên như lần in đầu để đảm bảo tính nhất quán và không khí của thời điểm
lịch sử đã qua.
Hà Nội, 10–12–1996
HÀ MINH ĐỨC
LỜI NÓI ĐẦU
Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại là một công trình
nghiêng về lí luận thơ. Tìm hiểu lí luận về thơ, cái khó khăn đến ngay từ bước
đầu khi cần xác định một định nghĩa vì thơ. Thơ là gì? Thật khó để tìm được
một cách giải thích đầy đủ vì thơ tuy xưa nay người ta đã bàn luận khá nhiều.
Trong thực tế có hàng trăm định nghĩa về thơ nhưng chưa có ý kiến nào thực
sự thống nhất với nhau. Sở dĩ thế vì phẩm chất của thơ giàu có, hình tượng
thơ đa dạng, luôn biến hóa, và phức tạp hơn là các nhà thơ và lí luận về thơ
luôn đứng ở những góc độ khác nhau về quan điểm giai cấp, thị hiếu thẩm
mĩ, bản sắc dân tộc và nội dung thời dại, để bàn luận về thơ. Tuy nhiên giải
thích được đúng đắn sự khác nhau chính là giường mối đầu tiên để tìm ra sự
gặp gỡ. Quan điểm lí luận văn nghệ của chủ nghĩa Mac – Lênin, đường lối
văn nghệ của Đảng, quan điểm cách mạng về thơ của Bác Hồ và một số các
đồng chí lãnh đạo là những cơ sở và tiêu chuẩn vững chắc soi sáng và giúp
đỡ cho chúng tôi đi vào tìm hiểu về thơ. Sự phát triển rất phong phú và lâu
đời của truyền thống thơ ca dân tộc, bước phát triển mới tốt đẹp và nhiều
thành tựu của thơ ca cách mạng thời kì hiện đại là những thực tế sinh động
và giàu ý nghĩa đã thôi thúc và động viên chúng tôi suy nghĩ về mặt lí luận.
Với thơ có biết bao nhiêu vấn đề cần được đặt ra về lí luận. Có những vấn đề
đã được đề cập đến từ lâu và tưởng như rất quen thuộc nhưng lại luôn đòi
hỏi phải giải quyết với yêu cầu và nhận thức mới như các mối quan hệ giữa
hiện thực đời sống và thơ, thơ và văn xuôi, truyền thống và sáng tạo, nội
dung và hình thức trong thơ. Có những vấn đề lí luận khó và phức tạp, nhưng
mang ý nghĩa thời sự trực tiếp như chất suy tưởng và trí tuệ trong thơ, tính
hiện đại của thơ. Đà phát triển của các vần thơ cách mạng lại đặt ra yêu cầu
đi sâu vào lí luận tân tiến và cách mạng trong thơ. Trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi bị lôi cuốn vào những văn đề lí luận hấp dẫn, mới mẻ nhưng
cũng rất khó khăn, nên trong cuốn sách này chúng tôi tự hạn chế phạm vi
nghiên cứu trong khuôn khổ thơ trữ tình. Chúng tôi chưa có điều kiện để phát
biểu lí luận và nhận định về thơ châm biếm, thơ tự sự, thơ miền núi, thơ thiếu
nhi. Các đề tài trên đòi hỏi những công trình nghiên cứu riêng.
Trong tiến trình lịch sử, nền thơ cách mạng có rất nhiều thành tựu lại
luôn vượt lên, khởi sắc, qua từng chặng đường cách mạng.
Chỉ nhìn vào cấu tạo của các lực lượng sáng tác cũng thấy đội ngũ
thực là đông vui, sung sức. Lớp trước với các anh, chị: Tố Hữu, Chế Lan
Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Anh Thơ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân
Sanh, Yến Lan…
Lớp cách mạng và kháng chiến với các anh: Hoàng Trung Thông,
Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Trần Hữu
Thung, Xuân Hoàng, Trinh Đường, Phạm Hổ, Bàng Sĩ Nguyên, Hoàng Tố
Nguyên, Hoàng Minh Châu, Nguyễn Viết Lãm, Minh Huệ.
Lớp chống Mĩ với các anh, các chị: Giang Nam, Thanh Hải, Thu Bồn,
Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Nguyễn Khoa
Điềm, Xuân Quỳnh, Vương Trung, Nguyễn Đức Mậu, Vũ Quần Phương, Ngô
Văn Phú, Nguyễn Duy, Phan Thị Thanh Nhàn…
Thực tế phát triển phong phú của thơ ca thời kì hiện đại cũng như
truyền thống lâu đời của thơ ca Việt Nam là cơ sở chủ về lí để chúng tôi suy
nghĩ và đề xuất những vấn đề lí luận về thơ. Chúng tôi cũng kết hợp bước
đầu phát triển một số ý kiến về thơ ca Việt Nam thời kì hiện đại. Chắc chắn
chưa phải là những ý kiến được phát biểu một cách hệ thống theo gốc độ
nghiên cứu văn học sử mà chủ yếu là trên tinh thần vận dụng kết hợp giữa lí
luận và thực tiễn sáng tác. Chỉ với mức độ và giới hạn ấy công việc cũng
nhiều lần vượt trên khả năng của bản thân. Điều may mắn là chúng tôi luôn
được sự giúp đỡ và động viên nhiệt tình của các nhà thơ, nhà nghiên cứu mà
hôm nay khi đặt bút viết những dòng cuối cùng của tập sách, chúng tôi xin gửi
đến các anh Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Huy Cận, Xuân Diệu, Hoàng
Trinh, Tế Hanh những lời cám ơn chân thành. Những ý kiến của các anh đã
cổ vũ và biến lòng yêu thơ của tôi thành những nỗ lực thường xuyên, tự vượt
lên mình, đặc biệt với anh Chế Lan Viên, người đã viết những lời nhận xét
chân tình cho tập sách.
Mùa hè 1973
HÀ MINH ĐỨC
TỰA
Rồi sẽ có những quyển sách sâu sắc và sáng tạo độc đáo nữa xuất
hiện. Những quyển ấy sẽ có thêm ưu điểm này và đức tính nọ. Chúng sẽ…
Nhưng thôi, đầu tiên hãy có ngay cho chúng ta những tác phẩm như thế này.
Có gì đâu? Chỉ vì, mới hôm qua thôi, những quyển như thế còn ít lắm, ngỡ
như không có nữa.
Nghĩ có buồn không? Ở đất nước hàng nghìn năm thơ, hàng trăm thi
sĩ, thơ không những là hình thức phổ biến mà còn như là chủ yếu để thổ lộ
tâm tình, thế mà sao sách vở bàn luận về thơ ít ỏi làm vậy! Ít cho đến nỗi ai
nói gì về thơ thì ta cũng mặc, hay ừ ào cho nó xong chuyện rồi thôi.
Thơ… lơ… mơ. Cũng có lí do, là tuy làm thơ nhiều, nhưng ta không
trọng nó bao nhiêu. Chúng ta vẫn xem thơ là loại… như thế ấy, như thế ấy.
Nhưng lại cũng có một lí do ngược lại là lắm lúc ta lại thiêng liêng hóa nó,
thần bí hóa nó, thơ là… bất khả luận, bởi chưng là… bắt khả tri. Tôi có một
anh bạn thân, nhà thơ chân chính nữa, nhưng cứ nghe ai bàn gì về thơ là anh
giãy nảy lên rồi. Anh bảo:
“Thơ là lòng, là hồn, chứ có phải nghề ngỗng kĩ thuật gì mà cứ phải lí
luận, bàn cãi”. Anh thừa nhận có nghề họa, nghề kịch, nghề viết tiểu thuyết,
nghề đàn, nhưng nhất định không chấp nhận có nghề thơ.
Dù nghề hay hồn, thì xưa nay thơ vẫn là một địa hạt gây nhiều trở ngại
nhất cho sự thám hiểm của các nhà lí luận. Ở phương Tây, người ta đẩy thơ
qua phạm trù của bóng tối, cơn điên, tiềm thức, tôn giáo, dục tình… Thậm chí
lặng câm, câm mới là thơ thực. Thơ–có -thơ đã là như vậy. Đến như thơ–
phản–thơ, thơ–phi–thơ, theo các khẩu hiệu cuối cùng, thì còn rắc rối biết
ngần nào.
Nhưng chả phải đơn giản, dễ dàng gì hơn cho các nhà lí luận về thơ xã
hội chủ nghĩa. Chúng ta lại có cái khó khác của chúng ta. Từ xưa đến nay
chúng ta quen đồng nhất thơ với mộng với mơ, thế thì bây giờ sẽ thế nào
đây, khi cách mạng là thực tiễn, là hiện thực rõ ràng nhất? Xưa nay thơ là
say, là mê, nhưng cách mạng lại là tỉnh thức, tỉnh đến trong tiềm thức của
mình. Một bên thơ là chủ thể chủ quan, một bên cách mạng chính là khách
quan, là lịch sử. Một bên thơ là tiếng ru, tiếng hát, có khi là tiếng hát thầm
trong phòng the, mà nay cách mạng lại cần những lời hiệu triệu, những tiếng
thét nữa, tiếng thét to trước mặt quân thù hay ở giữa quảng trường. Làm thế
nào đây? Mà vá víu, gò gẫm, cưỡng ép, thì đâu có phải là lí luận. Nào có phải
là cứ cộng năm mươi phần trăm chất thơ và năm mươi phần trăm chất cách
mạng thì ta sẽ có thơ cách mạng một trăm phần trăm. Trong một lí luận thơ
cách mạng chân chính, thì không phải các yếu tố cách mạng hay thơ mỗi thứ
đều nghèo đi một nửa, mà chính ở đấy, thơ cũng giàu lên và cách mạng cũng
giàu lên.
Phải nói là khi anh Hà Minh Đức, mấy năm trước đây, bắt tay vào công
trình khá công phu, khá đồ sộ này, thì anh đã thừa hưởng được một sự hỗ trợ
lớn. Đó là thực tiễn thơ, thực tiễn cách mạng vô cùng phong phú trên đất
nước ta gần ba mươi năm lại đây. Cuộc cách mạng ở ta có nhiều đặc điểm,
mà một đặc điểm khá quan trọng là nó đã tiến triển qua một thời gian rất đỗi
dài. Tính từ 1945 không thôi, thì đã hơn một phần tư thế kỉ. Chừng ấy thì giờ
đủ để xáo động tất cả các vấn đề, gốc hay là ngọn. Chừng ấy thì giờ đủ để
cho những vấn đề ta gạt đi lần trước thì nó lại xuất đầu lộ diện lần sau.
Chừng ấy thì giờ đủ chỗ cho nhiều vấn đề ta chưa bao giờ nghĩ đến hôm qua,
thì ngày mai bỗng phải đặt ra ráo riết, mỗi chặng đường lại có một cái mới
phát sinh. Có đủ thời cho tất cả.Có thời cho những nhà thơ cũ trước cách
mạng vứt đi cái cũ của mình. Rồi có thời cho chính những thi sĩ ấy trở thành
không chỉ là gạch mới, ngói mới, mà cả là cột mới nữa của ngôi nhà thơ cách
mạng. Cái thời cho những cây bút trẻ xuất hiện, rồi có thời cho những cây bút
trẻ ấy già giặn lên, thành chủ lực quân, trong khi một số khác chưa già mà đã
rụng với những cơn gió độc. Nhân văn – Giai phẩm. Có thời ta phải vờ quên
sự thầm thì nhí nhắt của cái riêng cố hữu để khẳng định tiếng nói mới của cái
chung cần khẳng định. Rồi lại có thời muốn cho cái chung được phong phú,
ta phải quay ra giải quyết ổn thỏa riêng chung, một người với mọi người. Có
thời nói đến hình thức là làm hại nội dung. Nhưng có thời song song với rượu,
là phải bàn đến cả vấn đề thay bình nữa đấy, không thì hỏng rượu. Miễn cho
tôi liệt kê các thời ấy ở đây. Nhưng ta hãy thử lật ngược vấn đề. Nếu tập lí
luận này viết vào thời chưa có vấn đề chống Mĩ nó sẽ thế nào? Liệu nó có thể
viết được về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thơ một cách hùng hồn, vì
có cơ sở, như ở đây hay không? Nếu nó được viết vào thời chưa xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thì nó lấy tài liệu đâu để khẳng định cho lí luận thơ viết về
hiện thực và cái mới. Nếu nó được viết vào lúc trên thi đàn lui tới chỉ có một
số tên tuổi trước cách mạng, cộng thêm những tên trước thời kháng chiến, thì
lí luận về lực lượng của nó có lúc rào rào những cây bút trẻ đang lên như bây
giờ?
Trong tham luận của mình tại Hội nghị chuyên đề về thơ Á–Phi họp ở
Êrêvan năm ngoái, tôi có ví thơ với một con sông đang chảy qua nhiều phong
cảnh khác nhau của lịch sử, và mỗi thời điểm mà nó đi qua đã cho con sông
thơ ấy một sắc thái riêng. Nó có thể là mặt hồ yên tĩnh nơi này mà lại là gềnh
thác nơi kia, là tiếng ru vỗ về nơi này mà lại là gào thét nơi khác. Tùy theo địa
hình. Tùy theo lịch sử. Nếu là sông, thì con sông Thơ Việt Nam (sông Hương
là nó mà sông Mã sông Hồng cũng là nó, nó là cửu Long chín dòng cuộn
sóng mà cũng là sông Thương nước chảy đôi dòng) – vâng, con sông Thơ
Việt Nam đã chảy qua quá dài thời gian, qua bao địa hình khác lạ. Điều ấy
giúp rất nhiều cho các nhà lí luận. Vẽ bản đồ con sông nọ không dễ đơn giản
xuôi chiều.
Quá trình cách mạng dài đẻ ra các vấn đề, nó như một thú lí luận vô
hình, bên cạnh các lí luận thành văn, lí luận hữu hình, và đồng thời nó đẻ ra
các tác giả, các tác phẩm, cái thực tiễn thơ, nó là một thứ lí luận sống. Hãy
nói đến thứ lí luận sống ấy truớc. Chúng ta ngày nay không những có tác
phẩm, tác giả, mà có tác giả thế hệ này đến thế hệ kia, tác phẩm tiêu biểu cho
đặc điểm này hay đặc điểm khác. Mỗi tác giả chúng ta lại có thể điểm từng
thời kì với khuynh hướng riêng trong giai đoạn ấy. Và nói đến một tác phẩm ta
có thể so sánh nó cùng bao tác phẩm khác tương tự, đối lập, hay bổ sung.
Chúng ta có một nền văn học, một nền thơ. Có đủ và có dư cho các nhà lí
luận làm nên lí luận. Đọc lên một câu thơ, nhắc đến một tên tác giả, ta biết
ngay nó chứng tỏ cho một luận điểm nào. Ngược lại, muốn dẫn một tác giả,
một tác phẩm để chứng minh cho một luận điểm nào, nhà lí luận không đến
nỗi trắng tay khi làm việc ấy. Cũng nhờ thế mà ai có khả năng thì khi làm lí
luận thơ Việt Nam, vô hình trung đã có thể làm văn học sử Việt Nam. Riêng
tập sách này. Phải nhận, ít nhiều nó cũng có dạng ấy đấy.
Nhưng ngoài thực tiễn các tác phẩm, các tác giả từ đó toát ra lí luận,
hay từ đó ta rút ra lí luận, thì anh Hà Minh Đức còn thừa hưởng một thực tiễn
khác khá quan trọng: ấy là những lời phát biểu, tuyên bố, lập luận về thơ,
phần lớn đã thành văn. Ngày nay ai quên được câu “Nay ở trong thơ nên có
thép” – cái câu đã thay đổi đời thơ (và cả đời người nữa chứ) của cả một thế
hệ thi sĩ. Và nếu ta yêu mến nhà thơ lớn Tố Hữu, thì ta phải đánh giá cao
những suy nghĩ lớn về thơ của anh, người đã nói thơ là tiếng nói đồng chí
đồng tình. Anh là người đầu tiên tìm ra chữ “dân–tộc–hiện–đại” không chia
cắt, không phải là do hai từ cộng lại. Và chúng ta không quên công lao của
Hoài Thanh, của Xuân Diệu kiên trì trong địa hạt lí luận thơ này từ kháng
chiến đến nay, từ những ngày Việt Bắc rừng nứa bờ tre, các anh đã chăm
chút từng câu thơ công nhân, từng câu thơ bộ đội.
Nhưng sự đóng góp quan trọng nhất cho lí luận thơ Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay, phải nói là bài Tựa tập thơ của Sóng Hồng (tác giả tự đề
tựa). Hình như chúng ta chưa đánh giá hết điều ấy. Ngoài cái giá trị nội tại lớn
lao của nó, bài tựa ấy còn mang thêm một giá trị khác là nó đến đúng lúc,
đúng thời. Đúng vào cái lúc chúng ta đang tranh cãi với nhau (hay tự thầm cãi
với mình) về nhiều vấn đề mà lại dè dặt, bảo thủ nữa trong cách giải quyết.
Cái tựa ấy đã đến và lên tiếng giúp ta trả lời. Không phải chỉ trả lời trên các
vấn đề đường hướng, chiến luợc, cơ bản, mà còn cả trong những vấn đề cụ
thể, chi tiết nữa kia (thơ là quả hay là hoa, là trí hay là tình, là thực hay là mơ,
có hùng ca nhưng có thể hay là không có tình ca, thơ có vần hay không vần,
tự do hay thể cũ là chủ thể). Tất cả chưa đầy bảy trang giấy nhỏ: “Thơ là một
vũ khí đấu tranh giai cấp kì diệu”, “Thơ tức là sự thể hiện con người và thời
đại một cách cao đẹp”, “Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh
phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân”, “Thơ
là một viên ngọc kim cương long lanh dưới ánh sáng mặt trời”, “… thơ là nghệ
thuật kì diệu bậc nhất của trí tửởng tượng”. Những định nghĩa liên tiếp như
thế về thơ đã trả lại cho thơ cái giá trị lớn lao của nó, cổ vũ những người làm
thơ tiến lên, vì đã tin thêm ở hiệu lực vũ khí của mình. Họ nguyện sẽ vì cách
mạng, vì nhân dân, vì văn học, trau đổi và giữ gìn vũ khí ấy.
Từ đây trở lên trên, tôi đã kể qua những cái gì quý báu mà anh Hà Minh
Đức đã thừa hưởng để viết nên tập sách. Công của anh không phải chỉ có
thừa hưởng. Nhưng giá chỉ có thừa hưởng, biết cách thừa hưởng, thì cũng
quý lắm rồi! Vì có khi có tất cả đấy rồi, mà người ta có chịu thừa hưởng cho
đâu. Ví như đã có một hiện thực thơ Việt Nam phong phú, thế mà đến nay
vẫn có những bài lí luận nằm lại phía bên này đường ranh giới của sự trừu
tượng. Gọi những bài viết của họ vang động bởi các danh từ to lớn kia là xã
hội học dung tục hay cao sang, thuần túy hay pha loãng gì đó thì cũng cho
sinh chuyện, nhưng quả là các bài ấy viết cho thơ cũng được, viết cho tiểu
thuyết cũng xong mà viết cho một chỗ không thơ không tiểu thuyết nào thì
cũng đúng cả. Tác giả các bài ấy thích đi về trên các đại lộ quen thuộc, các
quảng trường nhẵn vết chân người – ở đó không có họ ta cũng biết lối đi. Còn
họ bỏ mặc ta ở những chỗ gai góc, khó khăn, ngõ hẻm hang cùng, khi ta cần
đến họ hỏi đường thì họ vắng mặt, à quên, thì họ… trừu tượng. Anh Hà Minh
Đức, tuy chưa thực mạnh dạn, chưa thực bao quát, nhưng cũng đã dám xông
vào các vấn đề hóc búa ấy: các vấn đề đặc trưng, hình thức, trực năng, phi lí,
ngữ ngôn. Xông vào và ra được.
Tôi cũng nhớ đến một loại lí luận khác, đã về trần, xuống tục rồi mà vẫn
muốn làm tiên, không hệ lụy, không dám cho áo mình trong vườn hoa thơ kia,
lại có thể rách vì một cành hoa và một chiếc gai nào! Tôi muốn nói đến các
nhà phê bình lí luận hay tránh né. Gọi họ là thẩm mĩ học từ xa hay gián cách,
thẩm mĩ học chiến lược hay đại cương gì đó thì cũng được đi, nhưng quả là
họ chung chung thật. Người ta chung chung ở lí luận, còn họ chung chung ở
một phía khác. Họ bàn về thơ hẳn hoi, tinh tế là đằng khác, có tâm hồn lắm,
nhưng cứ động đến một tên sách, tên người nào là họ chùn lại rồi. Họ tránh
các tác phẩm cụ thể, tác giả cụ thể như những tảng đá có thể đắm thuyền
mình. Cần phải dẫn chứng thì họ nhắc thơ nhân dân, thơ miền Nam, thơ em
Khoa cho xong chuyện.
Vì thế, tuy có thiếu sót chỗ này chỗ khác, có những điểm ta có thể
không đồng tình, nhưng nói chung Hà Minh Đức đã dám (!) đánh giá cao cái
thực tế thơ, thực tế văn học nước mình. Anh đọc khá nhiều sách nước ngoài
đấy nhưng không phải vì thế mà trở nên choáng mắt đi, và lúc về nhìn lại cụ
thể ở nhà, thì chỉ thấy một vùng lóa lóa.
Mùa lúa đã có. Cái công anh là biết bó lại, mang về. Bó những cái cần
bó và vứt những cái phải vứt. Anh đã vứt đi nhiều quan điểm không phải là ít
phổ biến lâu nay trong làng lí luận. Hoặc là những quan điểm giản đơn, bảo
thủ, khép chặt cửa lại – lệch phía bên này. Hoặc là những quan điểm tiên
phong, rối rắm, mở toang hoang các cửa – lệch phía bên kia. Anh có đấu
tranh. Anh vận dụng sinh động quan điểm của Đảng và do đó hướng được
mình về phía tương lai, về cái mới.
Chính nhờ biết dựa vào quan điểm của Đảng và có đấu tranh, nên anh
không bị lạc trong cái bát trận đồ sách vở, mắc kẹt trong cái loa thành chữ
nghĩa nước ngoài. Người ta nói tám vạn ngàn tư về thơ trên thế giới. Anh dẫn
sách có lúc hơi thiếu, có lúc hơi thừa, nhưng nói chung là có ích và gây được
thú vị. Dẫn sách ở đây không phải chỉ để thỏa mãn tò mò chúng ta, những
người ham con chữ, anh dẫn sách là để nối liền ta cùng với người xưa, cùng
với người xa. Thơ Việt Nam không biệt phái, không cô độc. Thơ ta cùng
chung quy luật với thơ nhân loại. Ta không đi vào ngõ tắt. Ta ở trên con
đường lớn mà thơ nhân loại đang đi, và cái gì ta được ở đây, chính cũng là
cái mà ở xa nhân loại đang tìm, và cái tìm được của người khác cũng cổ vũ
cho ta trong sáng tạo.
Có thể gọi tập sách của anh Hà Minh Đức đã đưa ra một lí luận ta chấp
nhận được, có thực tiễn, có đấu tranh, đứng vững trong quan điểm mình mà
không gò bó hẹp hòi, bao quát ra xa mà không rối rắm. Không chơi chữ,
nhưng tôi có thể nói rằng anh đã trình bày lí luận ấy không như một nhà phê
bình, mà như một nhà… phê bình văn học. Bởi lẽ anh đã trình bày khá văn
học – bằng lời văn, nhưng trước hết bằng năng lực cảm thụ thơ, cảm thụ văn
học – những lí luận trên. Đọc xong tập sách, ta càng tin ở khả năng của Thơ
hơn, giữa lúc có nhiều nơi muốn báo tử nó. Chúng ta cũng càng tin thêm ở
những gì chúng ta làm được về thơ trong ba chục năm nay! Ba mươi năm
thơ.
Đề tựa một tập sách không có nghĩa là tán thành tất cả những điều viết
ra trong sách. Nếu quả như thế thì chả ai dám đề tựa nữa! Nhất là đối với các
quyển sách dày. Có nhiều điểm trong sách này khác xa ý kiến của tôi. Nhưng
tôi phải biết tôn trọng tác giả. Vả chăng, cái điều quan trọng là đường hướng
chung tập sách đã phù hợp với sự suy nghĩ của mình.
Cách đây mấy năm, kết thúc bài tựa cho tập Thơ chống Mĩ cứu nước,
tôi có mơ ước: “Một nền thơ Việt Nam mang lí tưởng xã hội chủ nghĩa mà lại
rất dân tộc, thừa hưởng truyền thống cũ của cha ông nhưng táo bạo đi tìm cái
mới hiện đại ngày nay, mang hoài bão chung của một nước một thời nhưng
bao dung trân trọng phong cách của trăm nhà, chiến đấu trên những đỉnh cao,
nhưng không coi thường cuộc sống thường tình, kết hợp tính đảng và tính
nhân dân, Việt Nam và nhân loại, hiện thực mà rất đỗi trữ tình, đi tìm cái thiện
cái chân nhưng phải biểu hiện ra bằng hình thức đẹp”.
Tác phẩm của anh Hà Minh Đức cũng mang mơ ước ấy. Nó ra xong,
người ta sẽ tiếp thu chỗ này, đính chính chỗ nọ, khen ngợi phần này, uốn nắn
phần kia, như đối với tất cả mọi quyển sách. Nhưng đầu tiên những tác phẩm
như thế này thật cần biết bao nhiêu. Chỉ vì, mới hôm qua đây, những quyển
như thế không thấy có mấy, gán như là không có.
Đây là những lí do khiến tôi trân trọng giới thiệu tập sách này.
Hà Nội, 1974
CHẾ LAN VIÊN
Chương 1. XÁC ĐỊNH MỘT QUAN NIỆM ĐÚNG ĐẮN VỀ THƠ
I. XUNG QUANH MỘT ĐỊNH NGHĨA VỀ THƠTrong lời đề tựa tập thơ của mình, Sóng Hồng viết: “Thơ là sự thể hiện
con người và thời đại một cách cao đẹp. Thơ không chỉ nói lên tình cảm riêng
của nhà thơ mà nhiều khi thông qua tình cảm đó nói lên niềm hi vọng của cả
một dân tộc, những ước mơ của nhân dân vẽ lên những nhịp đập của trái tim
quần chúng và xu thế chung của lịch sử loài người… Thơ là một hình thái
nghệ thuật cao quý tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện
sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách
nhuần nhuyễn và có nghệ thuật”.
Một quan niệm như thế về thơ không những đã nói lên được tầm quan
trọng của thơ, một hoạt động tinh thần hết sức phong phú và tinh tế của đời
sống tâm hồn con người mà còn có tác dụng phê phán trên nhiều mặt những
quan điểm thần bí và dung tục hóa thơ ca. Thơ là thể loại văn học nảy sinh
sớm. Khi con người bắt đầu cảm thấy những mối liên hệ giữa mình và thực
tại, và sâu sắc hơn khi có những nhu cầu tự biểu hiện, thì thơ ca xuất hiện.
Đã hàng ngàn năm lịch sử trôi qua, tiếng thơ vẫn là tiếng nói tươi trẻ nhất của
đời sống, vẫn luôn thiết tha khơi động đến chiều sâu của tình cảm, gắn bó với
những ước mơ hoài bão, mềm mại trong nỗi niềm tâm sự an ủi, và hào hùng
trong tiếng nói ngợi ca chiến đấu. Từ thời kì cổ đại với thơ của Penđar,
Saphô, Têôcrit đến những tiếng thơ gần gũi hơn của Gơt, Sinlơ, Hainơ,
Huygô, Pêtôphi, Puskin, Lecmôntôp… và thơ hiện đại với P.Êluya, Blôc,
Maiakôpxki, Pablô Nêruđa, Garxia Lorka…
Thơ ca Đông phương trầm lắng, nên thơ rất độc đáo trong cảm hứng
sáng tạo. Ấn Độ với Tagor; Trung Quốc với Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lí Bạch,
Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên, v.v… Thơ Việt Nam từ Nguyễn Trãi đến
Nguyễn Du, từ Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu đến Tố Hữu, Chế
Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu…, nhiều thế kỉ đã trôi qua; mỗi phong cách thơ
đều có một sắc thái, một âm hưởng riêng. Có thể nào từ những cái riêng biệt
độc đáo đó tìm về được một đặc điểm chung của thơ?
Xác định được một quan niệm chung, một định nghĩa về thơ là một vấn
đề cần thiết. Người ta đã bàn nhiều về thơ nhưng thực ra ý kiến vẫn có nhiều
điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau và thật sự vẫn chưa có được một định
nghĩa hoàn chỉnh về thơ. Phần vì khác nhau về lập trường quan điểm, phần vì
hình tượng thơ biến hóa và ít xác định, phẩm chất thơ ca đa dạng, phong
phú, tác động của thơ đụng đến nhiều mặt trong đời sống tinh thần của con
người…, nên từ nhiều góc độ cảm thụ khác nhau,người ta tìm đến và nói về
thơ.
Thơ là tiếng nóị của tâm hồn, của niềm mơ ước. Thơ bộc lộ khác vọng
vươn tới một lí tưởng đẹp đẽ và cao thượng. Sự có mặt của thơ ca chân
chính trong đời sống góp phần chứng minh sự tồn tại của những gì tích cực
của con người đang luôn tha thiết tìm đến và đấu tranh cho một lẽ sống và
chân lí tốt đẹp. Nhiều quan niệm về thơ được xác định qua phẩm chất này
của thơ.
“Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng
Hồng). Phần cao đẹp của con người bộc lộ trong đời sống hằng ngày mà thơ
ca có nhiệm vụ miêu tả và biểu hiện trực tiếp, nhưng rất quan trọng là sự cao
đẹp của lí tưởng và những khát vọng chân chính mà con người đang đấu
tranh để thực hiện một cách hiệu quả. Thơ phải khơi dậy được những hoài
bão cao đẹp và rộng lớn của con người. Thơ không chỉ biểu hiện cuộc sống
như nó vốn có. Thơ có nhiều thuận lợi hơn các thể loại khác để biểu hiện
cuộc sống trong phần sẽ có và cần phải có. Đấy cũng chính là thể hiện cuộc
sống một cách cao đẹp. Huy Cận cũng cho rằng: “Cái chỗ đến cuối cùng của
thơ là phải đem đến một cái gì nâng sự sống lên”. Hay nói theo những cách
nói khác: “Thơ, đó là sự cố gắng không ngừng của con người để tự vượt lên
mình”, “Thơ ca đáp ứng một nhu cầu mơ ước”, “Thơ là một động lực kì thú để
nâng cuộc sống lên tầm vóc cao hơn đồng thời nâng tầm vóc chúng ta cao
bằng cuộc sống”
Những quan niệm trên đều trực tiếp và gián tiếp bộc lộ ý thức trách
nhiệm và lòng tin của nhà thơ vào cuộc sống cũng như đối với chính mình.
Chức năng xã hội và lí tưởng của thơ ca được xác định khá rõ rệt. Cũng một
khuynh hướng nhấn mạnh trong bản chất của thơ phần mơ ước và khát vọng
vươn tới, nhưng những ý kiến sau đây lại xác lập chủ yếu trên một quan niệm
có tính chất thoát li xã hội về bản chất của thơ ca. Các nhà thơ lãng mạn
thường đem đối lập một cách sai lầm thơ với đời sống hiện thực, nên có
khuynh hướng lí tưởng hóa thơ một cách cực đoan, xem “thơ là sự hiện thân
cho những gì thầm kín nhất của con tim và thiêng liêng nhất của tâm hồn con
người, và cho những hình ảnh tươi đẹp nhất, âm thanh huyền diệu nhất trong
thiên nhiên”, hay cho rằng “thơ ca là một giấc mơ qua đấy người ta mơ ước
về một cuộc đời tốt đẹp hơn hoặc cực đoan và siêu hình khi quan niệm thi ca
là cái đích hoàn hảo nhất để không, bao giờ vươn tới được: “Thơ sẽ còn lại
mãi mãi để nhắc nhở cho thời đại, cho lịch sử, cho những người đang sống
và những người kế tiếp rằng hành động của họ chưa đạt tới cái đích của thi
ca phóng ra”
Nói đến thơ cũng chính là nói đến một phuơng diện của tinh hoa con
người và tạo vật. Thơ không ăn nhập, dung hòa với những cái gì thô thiển,
tầm thường, cũng như phần bề bộn, xô bồ của cuộc sống. Thơ được khai
thác từ trong đời sống cũng như những vỉa quặng được lấy ra từ trong lòng
đất, và cao hơn nữa đó là chất kim được chắt lọc ra từ những đống quặng bề
bộn. Thơ đòi hỏi đến sự điển hình cao độ – điển hình của tâm trạng, hình ảnh,
nhịp điệu… Quá trình chọn lọc này thực chất là một quá trình sáng tạo rất
công phu, tinh tế, vừa đòi hỏi sự nhập thân, gắn bó, lại biết tách ra để tỉnh táo
chọn lọc, vừa dung nạp tinh thần phóng túng, tài hoa, lại đòi hỏi hết sức mức
độ, chặt chẽ. Quá trình chọn lọc sáng tạo cũng không diễn ra như người gạn
lấy tinh chất theo cách nấu gạo lấy rượu hoặc cất nước hoa, ở đấy vẫn còn
và rất cần đến dấu vết và bùn đất của đời sống nhưng không tự nhiên, thô sơ.
Thông qua sự chọn lọc này, chất liệu của đời sống không bị khô héo, hoặc bị
cắt xén đi mà vẫn bồi hồi và nhịp nhàng sự sống.
Nhiều nhà thơ đã tìm nghĩa cho thơ qua phẩm chất này. Tố Hữu quan
niệm “thơ biểu hiện tinh chất của cuộc sống”, “thơ là cái nhụy của cuộc sống”.
Xuân Diệu cũng cho rằng: “Thơ là lọc lấy tinh chất, là sự vật được phản ánh
vào trong tâm tình”. Lưu Trọng Lư cũng lưu ý đến đặc điểm trên của thơ:
“Thơ là sự sống tập trung cao độ, là cái lõi của cuộc sống”. Thanh Tịnh cũng
nghĩ: “Thơ là tinh hoa, là thể chất cô đọng của trí tuệ và tình cảm”. Một quan
niệm cũng khá phổ biến về thơ ca gắn liền với năng lực đồng cảm nhanh
chóng và lạ kì của thể loại này. Thơ ca là những sợi dây tình cảm thương
mến ràng buộc mọi người. Thơ ca đi bằng con đường ngắn nhất đến với trái
tim và cũng để lại ở đây những dấu vết không phai nhạt được. Năng lực đồng
cảm của thơ không tràn lan vô nguyên tắc mà bao giờ cũng có hướng định
theo một lí tưởng xã hội, một quan niệm yêu thương chi phối. Tố Hữu đã
nhiều lần xác định quan niệm về thơ qua đặc điểm này. “Thơ là một điệu hồn
đi tìm những hồn đồng điệu”. “Thơ là chuyện đồng điệu”. “Thơ là tiếng nói tri
âm”. Tiếng thơ tuy nhẹ nhàng, thầm kín nhưng có một năng lực tập hợp
nhanh chóng trên một lí tưởng xã hội chung, những tâm trạng gần gũi quen
thuộc. Tiếng nói thiết tha này nhiều khi như một bằng chứng rõ rệt xác minh
những mối liên hệ đồng cảm giữa những trận tuyến tình cảm, yêu thương,
căm giận của con người. Trên ý nghĩa đó, tiếng thơ là một lời kêu gọi sự
hưởng ứng, đồng tình; tiếng thơ là một lời tâm sự thầm kín được mở rộng
như một tiếng nói bạn bè thân thương; tiếng thơ là một âm vang dội đi dội lại,
ngày càng lắng sâu trong đời sống tâm hồn con người, tiếng thơ là nơi giao
cảm và hội ngộ của những tâm tình, tiếng thơ là sự giao hòa giữa thế giới
riêng tư của cá nhân và xã hội. “Thơ là một hành động giao cảm, một hành
động tín nhiệm”, hay nói thêm một khía cạnh khác: “Thơ phải là một cố gắng
hòa hợp tình cảm của cá nhân với hiện thực của thế giới chúng ta”.
Nói đến vấn đề đồng cảm trong thơ là trên cơ sở xác định rõ rệt ranh
giới về giai cấp. Nói như nhà thơ Tố Hữu: “Thơ là tiếng nói đồng ý đồng tình,
tiếng nói đồng chí. Thơ tư sản thì tìm tới lỗ tai, cái bụng tư sản. Thơ của nhân
dân lao động thì tìm tới trái tim của người lao động”.
Nhiều định nghĩa về thơ gắn liền bản chất của thi ca với sự sáng tạo.
Nghệ thuật là sáng tạo, bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Với thi ca, sự
sáng tạo phải trở thành mục đích, yêu cầu và nội dung của hoạt động này. Thi
ca dễ lặp lại mình, dễ đi lại những nẻo đường đã có sẵn và trì trệ. Nhiều nhà
thơ đã xác định bản chất của thơ ca trên đặc điểm này. Biêlinxki đã từng xác
định “tính nghệ thuật là sự sáng tạo”; và cũng có thể nói như một nhà thơ,
“thơ ca là sự sáng tạo của sáng tạo”. Luôn đi về phía trước, đối lập với mọi sự
im lặng, bảo thủ và tăm tối, thơ ca là ánh sáng, là sự phát hiện, là tương lai.
Trong bản thân thơ ca chứa đựng một cái gì của tương lai hay ít hơn là phải
dự kiến một cái gì cho tương lai. Năng lực tìm tòi, phát hiện ấy là sự sáng tạo.
Apôline cũng khẳng định “thơ ca và sáng tạo chỉ là một”. Nêkraxôp xem “thơ
ca là vinh dự của sự sáng tạo có thể có được của con người”. Maiakôpxki,
người mở đầu của nền thơ ca Xô viết, đã bộc lộ sức sáng tạo lớn lao, mạnh
dạn trong toàn bộ hoạt động sáng tác của mình. Maiakôpxki quan niệm “chính
người sáng tạo ra những quy tắc thi ca mới là thi sĩ”. Trên tinh thần đề cao sự
sáng tạo trong thơ cũng có nhiều cách nói với những màu sắc khác nhau,
như xem “thơ là mở ra được một cái gì mà trước khi có câu thơ đó, trước khi
có nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín”, “thơ là biểu hiện của lòng tin vào
những công trình sáng tạo của con người”. Biết bao tiếng nói thơ ca đã mất đi
vì nó không đem lại một cái gì mới cho con người. Những sáng tạo trong thơ
ca chưa phải là những dự kiến quy mô về tương lai, những sự phác họa tỉ mỉ
về những công trình cụ thể của đời sống con người mà chủ yếu là sự sáng
tạo trong đời sống tâm hồn. Luôn có một cái nhìn phát hiện, đem đến cho con
người những rung cảm và cách suy nghĩ, cách giải thích mới, từ đấy góp
phần nâng cao cuộc sống con người với những giá trị tinh thần cao đẹp của
nó. Một nhận định, một sự giải thích đúng đắn cũng có giá trị củng cố cho
những ước mơ, và những ước mơ lại chuẩn bị cho những năng lực mới, cho
sức sáng tạo mới. Sáng tạo là đi về phía tương lai, về phía chân lí; từ trong
những tìm tòi, nghĩ suy, từ trong đấu tranh để khẳng định cái mới.
Thơ là sáng tạo. Một nhận định và cũng là một yêu cầu, một ước mong
tích cực. Xác định bản chất của thơ ca là hành động giao cảm, là một ước mơ
hay một sáng tạo đều đúng với bản chất của thơ, nhưng thường không đủ và
nhiều định nghĩa có thể cực đoan và lệch về một phía. Tuy nhiên những định
nghĩa, những quan niệm trên đều tích cực, gắn bản chất thơ ca với những cái
gì tốt đẹp và đẩy cho thơ ca đi về phía trước.
Bên cạnh những quan niệm tích cực trên, tồn tại biết bao nhiêu những
quan niệm, những định nghĩa sai lầm về thơ. Một xu hướng khá phổ biến là
tách thơ khỏi đời sống hiện thực, xem thơ là một cái gì thanh khiết, cao đẹp.
tinh tế, không gắn bó gì với cuộc sống lao động cực nhọc. Thơ không tìm chỗ
đứng ở những sự việc, những cái hằng ngày có tính chất thực dụng, tầm
thường. Và đẩy thơ ca đi xa hơn, xa hơn, ra khỏi địa hạt và phạm vi của thế
giới con người, nhiều quan niệm gắn bản chất của thơ ca với thế giới linh
thiêng huyền bí của thần thánh, và hoạt động thơ ca trở nên một hoạt động kì
lạ, “nhiệm mầu”. Quan niệm này tồn tại đã từ rất lâu trong đời sống của con
người. Trong hình thái cổ sơ, thơ ca tồn tại dưới dạng của những bài hát lễ
nghi, những lời phù chú và được sử dụng trong các hội hè văn nghệ và tôn
giáo. Lời hát còn diễn ra kết hợp với nhạc và nhảy múa. Những bài phù chú
của các thầy phù thủy diễn hành tế tự được xem như những bài thơ đầu tiên.
Ở đây tôn giáo thâm nhập vào thơ ca, nhân tố thần linh chi phối đến cảm
hứng sáng tạo, đến những tình cảm và hình ảnh trong bài. Nhưng thực chất
của những niềm ước mong, của những lời cầu nguyện lại mang một nội dung
xã hội, một yêu cầu cụ thể trong lao động. Những bài ca nghi lễ gắn liền với
lao động như những bài ca khấn nguyện của người Mường (Mãn Đức, Lạc
Sơn, Hòa Bình) gồm những bài nói về chu trình làm ruộng, cũng như những
bài dân ca tế thần như hát Ải lao, hát Xoan, hát Dậm Hà Nam, hát Hội Dô, tuy
đều mang màu sắc tôn giáo nhưng nội dung lại chứa đựng nhiều nhân tố tích
cực. Chúng ta hãy nghe một khúc hát Hội Dô:
… Đây là Liệp Hạ đóng đám Khánh Xuân
Bạn nàng tôi vào hát thờ thần
Đề chữ vui vè
Già thì sức khỏe
Trẻ thì bình yên
Ở giữa ăn tiền
Kính thờ thượng đẳng
hoặc một điệu khúc có tính chất cầu nguyện qua mấy câu sấm cổ của người
Irlăng: “Tin vui mừng, biển nhiều cá, bờ sóng cuộn sạch bong, rừng cây tươi
tốt. Niệm chú xong, vườn cây dâng hoa, đồng lúa chín vàng, ong bay rộn rã.
Một thế giới vui tươi, thanh bình, giàu có, một mùa hè kì thú”.
Ở đâu là phần huyền bí của tôn giáo và ở đâu là phần ước mong lành
mạnh? Yếu tố thần linh nhiều khi chỉ tồn tại như một biện pháp, một giới hạn
chung của thời đại. Không thể xem thơ ca là pháp thuật, là chuyện phù phép.
Trong thời kì cổ đại, Platông đã xem linh cảm như bản chất của thi ca
bộc lộ ra từ trong quá trình sáng tác cũng như thưởng thức. Linh cảm là một
sự giao cảm mầu nhiệm giữa thế giới thần thánh đến thế giới của con người
mà nhà thơ là người trung gian, là kẻ truyền đạt. Trong đối thoại Iông giữa
Iông và Xôcrat, Platông đã khẳng định luận điểm trên thông qua phép biện
luận có tính chất loại suy. Thơ ca không phải là một kiến thức về kĩ thuật. Đọc
Hôme không phải để học cách chỉ huy quân đội, cách chèo thuyền và đánh xe
ngựa tuy rằng trong đó có những đoạn tả hay về những vấn đề trên. Khi linh
cảm nhập vào thơ, ấy là thời điểm quan trọng của sự sáng tạo, sự say mê
tràn vào lấn át lí trí, phút linh thiêng chiếm ngự tâm hồn. Platông xem các nhà
thơ trữ tình khi làm những câu thơ hay cũng giống như những thầy tế tự
Côrybăng được thần thánh nhập vào khi nhảy múa. Họ nhập mê, mất lí trí và
sự tỉnh táo bình thường, cảm hứng sáng tạo của họ hoàn toàn bị thần linh chi
phối. Sau này một số nhà thơ như Nôvalix, Pôn Clôđen, Seli, Hăngri
Brêmông… cũng thường giải thích và gắn hoạt động sáng tạo thơ ca với bản
chất linh thiêng huyền bí của tôn giáo.
Xuân thu nhã tập cũng nêu lên một định nghĩa về thơ mô phỏng theo
quan điểm của Platông và pha trộn với một số quan niệm có tính chất thần bí
của triết học duy tâm cổ Trung Quốc. L.Hippiuyt xem thơ là một hình thức cầu
nguyện trong tâm hồn. Và khi xem trong bản chất thi ca như một hình thức
nguyện cầu, cũng có nhiều quan niệm khác nhau, Vũ Hoàng Chương cho
rằng thơ ca là sự nguyện cầu để trở về. Có người nghĩ: “Trước kia làm thơ là
cầu nguyện với Thượng đế, với thiên nhiên. Bây giờ thơ là một bản kinh,
người thơ tự cầu nguyện với chính mình”. Hàn Mặc Tử quan niệm “tất cả thi
sĩ ở trong đời phải quy tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời”, và có
người gọi Hàn Mặc Tử là thi sĩ của đạo quân Thánh giá. Thần linh có khi chỉ
là một cớ, một chiêu bài, lấy sự thiêng liêng để che đậy những dạng ý chính
trị về thi ca. Một số quan niệm về thơ ca ở Sài Gòn hiện nay nằm trong
trường hợp này.
Những quan niệm trên nhằm dụng ý từ bỏ chức năng xã hội của thơ ca
và đẩy thơ ca vào một địa hạt huyền bí. Thơ không còn là tiếng nói cảm
thông, là tiếng hát của tâm hồn, mà chỉ còn là lời nguyện cầu của con người
đang ở trong cảnh khổ đau, hoặc là sự chấp nhận, một cách thụ động những
gì được xem là linh thiêng và được đưa về từ một thế giới khác. Thơ đi vào
hướng bế tắc. Nhà thơ không còn là người công dân tích cực, người chiến sĩ
đóng góp với xã hội một tiếng nói của chân lí, của những ước mơ và khát
vọng chân chính. Tôn giáo trong bản chất của nó là mâu thuẫn và trái địch với
thơ ca.
Một khuynh hướng cần phê phán khi đem những yếu tố hình thức trong
thơ để lí giải bản chất và xác định định nghĩa về thơ. Một số người thường
nhắc lại câu nói của Valêri: “Thơ ca là sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và
ý nghĩa” và xác định như tính chất nước đôi (ambiguité) là cơ sở và gốc rễ
của thơ. Đi quá hơn về phía hình thức, một số quan niệm xem thơ như là phù
phép về ngôn ngữ và vận dụng hình ảnh. Ăngđrê Jiđơ quan niệm “một nhà
thơ chân chính là một nhà pháp thuật”. Ở trong quan niệm này của Jiđơ, tính
chất thần linh, tôn giáo không phải là chủ yếu, mà căn bản Jiđơ quan niệm
thơ ca như một thứ ma thuật về ngôn từ. Trong tuyển tập thơ ca Pháp, Jiđơ
đặc biệt chú ý đến định nghĩa về thơ của Têôđo Băngvin: “Cái trò ảo thuật này
nhằm lay động những cảm xúc nhờ sự phối hợp của những âm thanh… nhờ
thứ bùa phép này mà những ý tưởng được tất yếu truyền đạt giữa chúng ta
một cách chắc chắn bằng những từ mà tự chúng không hẳn nói ra điều ấy”
Banmôn, nhà thơ suy đồi và tượng trưng Nga, cũng đề xướng một quan niệm
tương tự. Những người chạy theo khuynh hướng trên thường xem ngôn ngữ
như là mục đích tự thân của sự sáng tạo, hoặc tách rời âm thanh và ý nghĩa
của từ hoặc giải thích một cách huyền bí sự tổ hợp của các từ trong quá trình
sáng tác.
Khuynh hướng hình thức chủ nghĩa còn lí giải bản chất của thơ ở kĩ
thuật xây dựng hình ảnh và tổ chức kết cấu của tác phẩm. Hình ảnh, một yếu
tố thiên về nội dung của thơ, đã biến thành những trò ảo thuật hình thức. Pôn
Clôđen lại nhấn mạnh đến kết cấu như yếu tố cơ bản nhất của thơ: “Thơ ca là
kết cấu và nhờ có kết cấu mà nó mang lại cho lỗ tai và trái tim của người
nghe niềm vui và thích thú riêng”.
Ngoài những quan niệm về thơ theo những khuynh hướng khác nhau
trên, còn có những định nghĩa cầu kì, lập dị về thơ theo một cách cảm, cách
nói có tính chất phiến diện, do một liên tưởng ngẫu nhiên, hoặc lấy cái thứ
yếu làm bản chất, lấy một biểu hiện thoáng qua nhất thời làm quy luật phổ
biến.
Tìm hiểu và xác định bản chất của thơ không thể không đề cập đến một
vấn đề quan trọng mà từ trước đến nay đã được bàn luận và lí giải, đó là sự
phân biệt giữa thơ và văn xuôi.
II. THƠ VÀ VĂN XUÔINgười ta dễ thấy sự khác nhau giữa thơ và văn xuôi trong cấu tạo hình
thức của hai thể loại này. Văn xuôi và thơ đều có nhịp điệu, nhưng nhịp điệu
của văn xuôi không rõ nét, không có âm hưởng rõ rệt, và buông thả có tính
chất tự nhiên, mơ hồ. Cho nên nếu nói cho xác định đúng với bản chất của
nhịp điệu thì chỉ thơ mới có nhịp điệu. Một số công trình nghiên cứu về thơ
cũng thống nhất quan niệm khi xác định tính nhịp điệu trong văn xuôi và trong
thơ. Cấu trúc nhịp điệu trong văn xuôi không rõ ràng: “Nhịp điệu trong văn
xuôi không phải là cái gì khác mà chỉ là một phác họa của nhịp điệu”. Nhịp
điệu trong văn xuôi “trôi chảy, không bền vững, nó thay đổi và chuyển chỗ
không ngừng; phần lớn là không thể quy nó về những quy luật rõ ràng nào,
không thể miêu tả tổ chức của nó. Nhịp điệu của thơ, trái lại, rõ ràng”. “Văn
xuôi, cái thể lỏng đáng nguyền rủa nhất định không chịu nhận một hình thức
xác định”. Nhịp điệu trong thơ là nhịp điệu có tổ chức trên cơ sở của những
đặc điểm về ngôn ngữ của một dân tộc nhất định. Nhịp điệu của thơ ca Việt
Nam khác với nhịp điệu của thơ ca Pháp, thơ Nga, v.v… Trong cấu tạo nhịp
điệu, yếu tố dễ thấy nhất về mặt hình thức để phân biệt với văn xuôi là những
câu thơ có vần và dạng cấu tạo của nó. Nhìn chung, những câu thơ được cấu
tạo thành những dòng đều đặn (thơ cách luật) thành những khổ thơ, và có bắt
vần. Trong thơ tự do, đặc điểm trên tuy có khác đi, nhưng vẫn có thể dễ nhận
thấy một cách bao quát dạng của một bài thơ khác với tính chất kéo dài và
nối tiếp của những câu văn xuôi. Nhưng sự khác nhau giữa thơ và văn xuôi
chắc chắn không phải chỉ ở những yếu tố thuộc về hình thức. Trong đời sống,
chúng ta thường bắt gặp những câu có vần có nhịp làm theo các thể thơ
nhưng không thể xem là thơ được. Trong sinh hoạt văn học người ta cũng
thường gọi một cách châm biếm những nhà thơ tồi, những người thiên về kĩ
thuật hình thức là nhà thơ ghép vần. Hiện tượng ghép vần luôn có mặt bên
cạnh sự tồn tại của thơ ca chân chính. Như thế là đặc điểm bản chất của thơ
không phải là ở những câu văn vần. Từ lâu đã có sự phân biệt này. Trong
Nghệ thuật thơ ca, Arixtôt đã xác định rõ rệt: “Chỗ khác nhau giữa nhà sử học
và nhà thơ không phải là một người thì dùng văn xuôi, một người thì dùng
văn vần. Những quyển sử của Hêrôđôt có thể đổi thành văn vần vẫn là sử dù
có vần luật hay không cũng vậy”. Arixtôt xem nội dung sáng tác là cơ sở để
phân biệt cái gì là thơ và không phải là thơ. Trong tác phẩm Mĩ học, Hêghen
cũng cho rằng “văn xuôi viết thành câu thơ vẫn chưa phải là thơ”. Victo Huygô
trong bức thư gửi cho Aden Phuse, đã đề cập đến vấn đề này: “Những câu có
vần nhịp tự nó chưa phải là thơ. (Thơ là từ trong những ý tưởng và những ý
tưởng lại đến từ trong tâm hồn. Những câu thơ chỉ là bộ quần áo đẹp trên cơ
thể đẹp. Thơ có thể biểu hiện bằng văn xuôi nhưng nó chỉ thực sự thật hoàn
mĩ qua về đẹp duyên dáng và lộng lẫy của những câu thơ”.
Đi vào thực tế sáng tác có những câu mà hình thức là những câu thơ,
nhưng thực chất lại là câu văn xuôi.
Và ngược lại, người ta cũng thấy có nhiều bài văn xuôi có tính chất thơ.
Ở đây chúng ta có thể tiến hành một sự so sánh thú vị giữa hai trích đoạn thơ
và văn xuôi của Xuân Diệu cùng viết về một chủ đề:
“Ôi đất nước! Sau mười năm xây dựng trong hòa bình mắt say với ánh
điện do những tay người lao động làm ra bây giờ ta lại có dịp trong mười
đêm, hai mươi đêm, ba mươi đêm liền nhìn người trong bóng tối, ta nhìn
người, đất nước ơi, trong lúc chân đạp xe đi tôi nhìn người. Tổ Quốc ơi, trong
những đêm lấy làm ngày như thế! Như hai mặt của một trang giấy dính chặt
nhau, tôi lật những trang ngày rạng rỡ ánh sáng mặt trời, tôi lật những trang
đêm nở đỏ… Như đứa trẻ mắt đã no nhìn mặt mẹ thương yêu, nó nhắm mắt
đưa hai bàn tay lên sờ mặt mẹ, nó càng thêm thương yêu mẹ vô ngần; dưới
bóng sao, dưới bóng trăng, dưới cả bóng mây đen kịt, phần lớn thấy lờ mờ,
có khi thấy khá rõ, nhiều khi như đi trong biển mưa, tôi có cảm giác như chủ
yếu là hai tay tôi đã được sờ lên những nét mặt của Tổ Quốc thương yêu, trái
tim bây giờ nhạy bén lắm, không nhìn, tôi cũng biết là mẹ… Đã mấy khi tôi
thức trọn với núi sông như những lúc hành quân đêm”.
Những câu văn xuôi trên mang nhiều chất thơ, ý thơ, Xuân Diệu cũng
đã rút cái chất thơ đó thể hiện vào trong bài thơ Những đêm hành quân:
Tôi đã đi hàng chục đêm sao
Một chiếc xe – đạp vào băng bóng tối
Cũng có lúc mây trời đen kịt lưới
Cũng có tuần trăng mới ánh trăng trong.
Đã mấy khi tôi thức với non sông
Trọn những đêm ròng mắt chong chân bước
Đêm hành quân thả tâm hồn đi trước
Yêu với căm hai đợt sóng ào ào
Vỗ bên lòng, dội mãi tới trăng sao.
Giữa đêm tối, gần xa là biển mực
Chính là lúc trái tim càng sáng rực
Khi mắt không nhìn được bốn thước xa
Chính là khi nghe cả núi sông nhà
Tôi như đứa trẻ con đôi mắt khép
Sờ mặt mẹ trên ngón tay tha thiết
Tôi hiểu đêm nay thôn xóm nghỉ gì
Đằng chân trời ấp ủ những điều chi.
Sự khác nhau chủ yếu giữa hai trích đoạn trên là ở hình thức biểu hiện.
Một bên chất thơ biểu hiện trong những câu văn xuôi và một bên qua những
câu thơ. Sự lẫn lộn hoặc kết hợp qua lại giữa thơ và văn xuôi bộc lộ qua
nhiểu hiện tượng văn học. Người ta thường nhắc tới loại văn xuôi có nhiều
chất thơ của Victo Huygô trong văn học Pháp và của Tuôcghênhep trong văn
học Nga. Trong văn học Việt Nam cũng có nhiều thể loại thơ ca cổ dường
như đứng giữa văn xuôi và thơ như thể phú, các loại biền văn. Và ngay trong
nhiều sang tác văn xuôi cũng chứa đựng nhiều chất thơ. Một số bài kí của
Nguyễn Trung Thành, một vài chương trong Miền Tây của Tô Hoài và Hòn
Đất của Anh Đức thường được xem là giàu chất thơ. Do đó ranh giới giữa thơ
và văn xuôi không phải bao giờ cũng dứt khoát, cũng dễ phân định bằng một
vài tiêu chuẩn xác định nào. Hêghen cũng có căn cứ khi nói lên một thực tế là
không phải lúc nào cũng dễ vạch ra một cách chính xác sự khác nhau giữa
thơ và văn xuôi. L.Tônxtôi cũng có lúc cho rằng: “Tôi không bao giờ biết đâu
là ranh giới giữa văn xuôi và thơ ca”. Phải chăng “vấn đề là một vần, một điệu
thơ, một cách sang hàng khác thường, một cách nói không như lệ thường,
một tiếng kêu, một cơn giận, một niềm ân ái yêu thương… Nhưng rồi lại có
những sự hôn phối, những kết hợp, những sự lai tạp. Có những bài văn xuôi
có tính chất thơ và những bài thơ bằng văn xuôi. Có những cuốn tiểu thuyết
thơ và nhiều cuốn tiểu thuyết khác thì lại không thế. Con đường phân ranh
giới không phải lúc nào cũng rành mạch liên tục.
Nhiều nhà thơ đã dùng những cách nói, những hình ảnh khác nhau để
nêu lên sự khác biệt giữa văn xuôi và thơ. Puskin cho rằng thơ và văn xuôi
cũng như lửa và băng, Pôn Valêri xem con đường đi từ văn xuôi đến thơ có
một cái gì gần với bước phát triển từ lời nói đến tiếng hát, từ bước đi đến điệu
nhảy. Có nhà thơ xem thơ là nỗi khổ đau có một cái gì đấy huyền bí và linh
thiêng, còn văn xuôi là một niềm vui dễ hiểu (Nagruzzi). Có người phân biệt
nhịp điệu trong thơ và văn xuôi như tốc độ của một chuyến tàu tốc hành và
một con tàu thường. Thực ra những cách so sánh trên vẫn chưa nói lên được
gì nhiều lắm về sự khác nhau giữa thơ và văn xuôi. Phân biệt thơ và văn xuôi
không hoàn toàn chỉ là một việc làm có tính chất học thuật thuần túy mà nhiều
khi bộc lộ trực tiếp những vấn đề về quan điểm. Một loại khuynh hướng khá
phổ biến là đối lập thơ và văn xuôi, chất thơ và chất văn xuôi, để qua đấy xem
thơ là cái gì cao quý, thanh khiết, thoát li khỏi đời sống hiện thực tầm thường,
nhỏ nhặt, thô thiển vốn là nội dung chủ yếu của văn xuôi. Hêghen xem văn
xuôi như một cái gì nhạt tẻ và hằng ngày đối lập với thơ giàu tưởng tượng
đắm say và bay bổng hơn. Nitsơ cho rằng viết văn xuôi hay “là nhằm nghĩ
đến thơ bởi vì văn xuôi là một cuộc chiến tranh độc đáo không ngừng với thơ,
không ngừng tách ra khỏi thơ và đối lập với thơ”, P. Valêri cũng đối lập một
cách cực đoan giữa thơ và văn xuôi. Valêri xem việc viết thành văn xuôi một
bài thơ là một hành động tà giáo (acte dhérésie). Valêri phê phán quan niệm
của Đalămbe về mối quan hệ nhất trí giữa thơ và văn xuôi, Valêri cho rằng
Đalămbe tưởng mình nói về thi ca nhưng thực ra dưới các danh từ đó ông ta
lúc đó đang nghĩ đến những điều hoàn toàn khác thế.
Thực ra thì Đalămbe đã có lí (nếu không phải là ông ta đồng nhất) khi
nêu lên sự thống nhất giữa thơ và văn xuôi như một nguyên tắc cần chấp
nhận. “Theo tôi thì đây là quy luật nghiêm ngặt nhưng đúng mà thế kỉ của
chúng ta đã đề ra buộc các nhà thơ phải chấp nhận: nó chỉ thừa nhận là tốt
bằng thơ những gì mà nó sẽ thấy được rất tốt nếu viết ra dưới thể văn xuôi”.
Văn xuôi là tiếng nói trực tiếp của đời sống hằng ngày mà chúng ta
thường bắt gặp trong tiểu thuyết, các thể kí, các vở kịch. Về dung lượng nó
thường rộng lớn hơn, phong phú và cũng bề bộn hơn nhiều lần cái mà thơ có
khả năng chứa đựng. Về tính chất, văn xuôi đi sát với cuộc sống, nó có khả
năng đề cập và mang trong nội dung những phẩm chất đa dạng của đời sống
qua sự chọn lọc, tuyển lựa theo quy luật điển hình hóa của nghệ thuật. Về
hình thái biểu hiện thì văn xuôi là tiếng nói đi sát và gần như trùng với tiếng
nói hằng ngày. Đó là tiếng nói tự nhiên giàu chất liệu và sức sống, đó là tiếng
nói gọn gàng, khúc chiết của tư duy vừa được nghệ thuật hóa, lại vừa giữ
được sự dễ hiểu, rõ ràng, giản dị của hoạt động giao tế hằng ngày. Puskin
cũng nhận xét: “Sự chính xác và gọn gàng là những phẩm chất đầu tiên của
văn xuôi. Văn xuôi đòi hỏi tư tưởng và tư tưởng. Thiếu tư tưởng thì những
cách biểu hiện rực rỡ cũng chẳng dẫn tới đâu”.
Những đặc điểm của văn xuôi xác định một nguyên tắc thực tế không
thể đối lập thơ với văn xuôi nếu nghĩ rằng thơ cũng từ cuộc sống mà ra; sự
thêm bớt những nhân tố nào đó trong văn xuôi và đặt nó trong không khí và
một văn cảnh thích hợp thì có thể chuyển hóa thành thơ và ngược lại. Từ thơ
trở về với văn xuôi cũng có những nẻo đường cụ thể. Gơt đã có những nhận
xét thật đúng đắn khi tác giả xác định rằng “bài thơ chỉ nên vượt khỏi văn xuôi
một chút thôi”. Trong nghệ thuật thơ, cái ranh giới ấy cần phải được phát hiện
và xác định một cách tinh tế. Với bất kì tác phẩm văn xuôi chân chính nào đều
có cái thi vị của thơ và phần thi vị của riêng nó. Và trong những sáng tác thơ
có giá trị cũng cần và có thể có cái khỏe khoắn, vững chãi và giản dị chân
chất của văn xuôi. Tách rời hoặc đối lập thơ ca và văn xuôi là không đúng và
không phù hợp với thực tế sáng tác và thực tế đời sống. Văn xuôi đối lập với
thơ, loại trừ mọi chất thơ sẽ rơi vào lí trí khô khan và thô sơ nghèo nàn. Về
phần thơ, nếu tách rời hoặc vượt quá xa văn xuôi sẽ thiếu chất sống trực tiếp,
dễ ngọt ngào một cách chung chung và lơ lửng trong không khí.
Nhiều sáng tác thơ ca thời kì trước cách mạng có xu hướng đối lập với
văn xuôi. Về nội dung, phần lớn những bài thơ có tính chất thoát li chứa đựng
những cảm nghĩ viển vông, xa thực tế. Khi nhà thơ viết:
Trăng vừa đủ sáng để gây mơ
Gió nhịp theo đêm không vội vàng
Khí trời quanh tôi làm bằng tơ
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ
thì bản thân những câu thơ trên tuy cũng “hấp dẫn” nhưng xa lạ với âm
hưởng của một cuộc sống thực. Chất liệu để tạo nên câu thơ thuần túy là
chất liệu của “tâm hồn” – một tâm hồn ủy mị thoát li – đã nhân lên nhiều lần
nữa khoảng cách giữa nó và cuộc sống, và loại trừ tất cả những chất liệu hiện
thực, những yếu tố mà văn xuôi trực tiếp sử dụng. Một phương diện khác, do
chịu ảnh hưởng nhiều của quan điểm duy mĩ, hình thức, chạy theo sự gọt
giũa về vần điệu, hình ảnh, nên những câu thơ khác đi nhiều với lời nói thông
thường. Những câu thơ trên nếu không mang dấu vết của văn xuôi – có thể
gọi đó là một ưu điểm? – thì cũng nặng nề và tác hại bởi nó đã thoát li thực
tế, ru người đọc vào một thế giới mơ hồ, xa lạ.
Sau Cách mạng, thơ trở về gần với đời sống. Chất liệu phong phú của
đời sống hiện thực thâm nhập vào trong thơ. Các sáng tác thơ đều trực tiếp
đề cập đến những vấn đề nóng hổi của thực tế chiến đấu và sản suất. Những
bức tranh, những hình ảnh nhiều màu sắc của đời sống, những cảm xúc, tâm
trạng và liên tưởng giàu sức sống là nội dung chủ yếu của sáng tác thơ.
Nhiều lúc cái phong phú của nội dung đã làm rạn nứt khuôn khổ gò bó của
câu thơ cách luật. Thơ tự do xuất hiện và phát triển dần trở thành chủ thể đáp
ứng được yêu cầu phản ánh cuộc sống muôn hình muôn vẻ. Nhiều nhà thơ
có ý thức tránh và khắc phục khuynh hướng viết về cuộc sống quá ngọt ngào,
trữ tình và thơ mộng. Cần có một hướng đi sát với thực tế hơn, một cách nói
giản dị chân chất. Họ tìm về lối viết mộc, khỏe, nhiều khi trần trụi để nói cho
được chiều sâu cũng như cái đa dạng của cuộc sống. Xuân Diệu, Tế Hanh,
Huy Cận, Hoàng Trung Thông…, ở những mức độ khác nhau, đều bộc lộ rõ
xu hướng đưa cuộc sống trực tiếp vào trong thơ. Trong lớp thơ trẻ, Phạm
Tiến Duật là một trường hợp tiêu biểu.
Về mặt hình thức biểu hiện, theo hướng đi về với cuộc sống và trong
thể tự do, câu thơ có khuynh hướng từ tiếng hát, lời ca, lời nói khúc điệu trở
về gần với lời nói thông thường. Trong lời thơ cách luật, thường mỗi câu thơ
bộc lộ rõ một cấu trúc hoàn chỉnh, nhịp nhàng của nhịp điệu do luật hòa hợp
hoặc đối xứng về âm thanh và ý nghĩa tạo nên. Câu thơ bảy chữ trong thể thơ
thất ngôn bát cú, câu thơ lục bát, câu thơ ngũ ngôn… đều mang rõ nét đặc
điểm trên. Câu thơ tự do nhiều khi tồn tại dưới dạng của một câu văn xuôi,
gần với lời nói. Trong nhiều bài thơ hiện nay có thể lấy ra nhiều câu thơ mà tự
nó rất khó để phân biệt với câu văn xuôi. Qua những bài thơ được giải của
Phạm Tiến Duật, đặc điểm này bộc lộ khá rõ. Bài thơ Nhớ là một bàị thơ tứ
tuyệt, và cấu trúc của thể thơ tứ tuyệt thường là cấu trúc vững chắc, cân đối,
có sự hài hòa về nhịp điệu. Nhưng thực ra trong bài thơ vẫn có sự co giãn về
câu chữ và có một câu văn xuôi.
Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
“Cái vết thương xoàng mà đưa viện”. Câu thơ trên gần với lời nói thông
thường. Tuy nhiên nó không làm giảm đi thi vị của bài thơ mà lại là cần thiết
để nói lên một tâm trạng thật của người lái xe. Một sự trách móc nhỏ, một
chút phàn nàn, xuất phát từ nỗi lo lắng về trách nhiệm của mình đang thực
hiện. Bài thơ do đó thực và tự nhiên hơn. Cũng có thể nghĩ như thế về người
lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, những con người dũng cảm,
yêu đời, bình thản trước mọi gian khổ, hiểm nguy. Phạm Tiến Duật đã giữ lại
cách nghĩ cách nói “văn xuôi” mộc mạc, nhưng lại chân thực, sinh động và sát
đúng với đối tượng miêu tả. “Không có kính không phải vì xe không có kính.
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn
trời nhìn thẳng”, hoặc: “Không có kính ừ thì ướt áo. Mưa tuôn mưa xối như
ngoài trời. Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa. Mưa ngừng gió lùa khô mau
thôi”. Ở những trường hợp trên, câu thơ văn xuôi tỏ ra tích cực, góp phần
trực tiếp tạo nên chất hiện thực sinh động của bài thơ. Vấn đề hết sức quan
trọng là tinh thần, mức độ và ý thức nhạy bén trong việc sử dụng cũng như
phân biệt ranh giới giữa thơ và văn xuôi. Chúng ta có thể chấp nhận và cần
đến những câu thơ “là là văn xuôi” và thậm chí cả những câu văn xuôi, nhưng
phải chú ý tới chốt thơ nội tại của những câu văn xuôi và giữ đúng liều lượng
cần thiết và hạn chế của chất văn xuôi trong âm hưởng chung bao trùm của
chất thơ trong toàn bài.
Trong tập thơ Ánh sáng và Phù sa, Chế Lan Viên giới thiệu một chùm
thơ Văn xuôi về một vùng thơ. Cái tiêu đề ấy nói lên một điều có ý nghĩa: sự
thâm nhập của văn xuôi, của một cuộc sống bề bộn, nhiều màu sắc vào trong
thơ. Về một phương diện khác mà xét, thơ mở rộng giới hạn và khuôn khổ
cách luật chật hẹp để đón lấy sự sống bồi hồi và phong phú về nhiều mặt.
Văn xuôi về một vùng thơ là một bức phác thảo giàu chất sống và âm hưởng
của đời sống và cũng là bức tranh nên thơ.
Tuy nhiên bên cạnh một hướng phát triển rất cần khuyến khích lại nảy
sinh những nhược điểm quan trọng cần khắc phục: nhiều bài thơ rơi vào địa
hạt của văn xuôi. Trong thơ ca những năm gần đây. có những trường hợp
chất văn xuôi lấn át chất thơ. Khuynh hướng này bộc lộ ở nhiều khía cạnh.
Phổ biến hơn cả là sự lạm dụng yếu tố tự sự để cho bài thơ rơi vào kể lể,
chất liệu đời sống thâm nhập một cách thiếu chọn lọc vào trong thơ. Yếu tố
cảm xúc bị giảm sút. Hình tượng thơ chủ yếu được cấu tạo bằng một số bức
tranh miêu tả hoặc một vài sự kiện. Xuân Diệu là người đấu tranh tích cực để
đưa sự sống vào trong thơ, nhưng trong nhiều trường hợp anh rơi vào văn
xuôi. Phạm Tiến Duật cũng bộc lộ khá rõ nhược điểm này qua một số bài
trong tập thơ Vầng trăng–Quầng lửa. Chất văn xuôi lấn át chất thơ, khuynh
hướng buông thả cảm hứng và xem nhẹ cấu trúc hình thức của câu thơ và
nhất là những liên tưởng có phần ngẫu nhiên và tùy tiện đã làm cho chất thơ
giảm sút.
Một số nhà thơ đã không chú ý đúng mức đến đặc điểm trong tư duy
của thơ ca. Cần tránh lối suy luận có tính chất triết lí tư biện, lối phân tích
khoa học, lối giáo huấn lộ liễu bằng lí thuyết và sự kể lể dài dòng. Trí tưởng
tượng đã bị thay thế bằng những nhận xét và phán đoán vừa đơn giản vừa
quá cụ thể. Bài thơ dừng lại ở những ghi chép tư liệu và suy luận thông
thường, không cất cánh bay lên được. Tất nhiên là trong thơ cần tránh sự cầu
kì khó hiểu và lối nói quanh co không cần thiết, nhưng một mặt cũng cần
tránh một cái gì quá rõ ràng đến thật thà đơn giản. Cái điều mà Lê Quý Đôn
nhác đến khi nói về phẩm chất của thơ là “ý kị thẳng, mạch kị lộ” cũng là
muốn tránh cho thơ khả năng rơi vào văn xuôi. Ở trong một ý tưởng cũng như
cấu trúc của câu văn xuôi thường tính chất lôgic thâm nhập vào rõ rệt có tác
dụng làm nội dung bộc lộ trực tiếp. Mối quan hệ giữa những thành phần trong
một câu theo một trình tự cấu tạo thông thường về cú pháp, tính chất chính
xác và minh bạch của sự phô diễn, mối liên hệ nhân quả giữa các suy nghĩ và
cảm xúc, tính xác định và xác thực của những biểu tượng và hình ảnh thường
là đặc điểm phổ biến của lời nói hàng ngày cũng như của phần lớn những
câu văn xuôi. Thơ ca là tiếng nói hàm xúc và diễn cảm. Trên một hướng định
tư tưởng rõ rệt, một mục tiêu xác định, những cảm xúc và tâm trạng trong thơ
đi về, khi bộc lộ, khi ẩn kín, khi hiện lên trên những dòng chữ, khi đằm xuống
và ẩn vào bên trong và có khi chỉ nhầm gợi lên một điều gì chặng đường suy
nghĩ.
III. NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN CHẤT THƠ TRONG ĐỜI SỐNG VÀ VĂN HỌC
Người ta thường nói đến chất thơ trong tác phẩm văn học và trong đời
sống. Khi nói đến chất thơ là nói tới nhân tố thuộc nội dung. Chất thơ có thể
nằm đây đó trong cuộc sống ở những mặt kết tinh tiêu biểu, hoặc ở trong văn
xuôi. Nhưng nói như Huygô, chất thơ bộc lộ một cách diễn cảm, màu sắc qua
cấu trúc của ngôn ngữ thi ca.
Trong đời sống hằng ngày, khi nói đến chất thơ, thường có thói quen
nghĩ đến cái gì đẹp, thơ mộng, lí tưởng và bay bổng như một phong cảnh nên
thơ, một tâm hồn đầy thơ mộng. Người ta ít nghĩ hơn đến chất thơ trong
những cảnh đời lam lũ, mệt nhọc, hay những cảnh tượng bề bộn, tăm tối.
Quan niệm ấy dường như đã trở thành một thói quen trong cảm nghĩ của
nhiều người, tuy có phần đúng nhưng thật là không đủ và có tính chất hẹp
hòi. Quan niệm trên sẽ gây tổn hại nếu chi phối đến hoạt động nhận thức và
sáng tác thi ca. Dĩ nhiên trong cuộc sống không phải mọi đối tượng, mọi cảnh
ngộ và sự việc đều nên thơ như nhau. Nhưng cũng không thể xác định rằng
có đối tượng nên thơ và đối tượng không nên thơ. Vấn đề là ở mức độ và
phân lượng khác nhau. Và quan trọng chính là sự phát hiện. Biết phát hiện ở
đối tượng khách quan phần nên thơ của nó, cung cấp cho nó một hình dáng,
một cách giải thích, một lí tưởng đẹp. Đó chính là nhiệm vụ chung của nghệ
thuật và trực tiếp của thi ca. Thi ca không loại trừ một đề tài nào, một đối
tượng nào. Thi ca có mặt ở khắp mọi nơi. Nói như Tsecnưsepxki: “Ở đâu có
sự sống là ở đấy có thơ ca”. Thật vậy, ở đâu có cuộc sống là ở đấy có những
mối quan hệ xã hội được thiết lập, có những vấn đề đặt ra chung cho con
người, có quá khứ, có hiện tại và có phần dự kiến đang được thực hiện cho
tương lai. Ở đâu có cuộc sống là ở đấy có hoạt động sống tạo của con người.
Trong những cảnh ngộ riêng của nó, con người đang vượt qua những khó
khăn của đời sống khách quan và những thử thách của chính mình nữa. Con
người cùng đang hồ hởi trong niềm vui sáng tạo nhận lấy những thành quả
do mình tạo nên, những giá trị về vật chất và tinh thần. Phạm vi nào của đồi
sống, cũng như bất kì một khâu nào trong quá trình sáng tạo, một vị trí nào
trong cả dây chuyền chung, một trách nhiệm xã hội nào… cũng đều có thể là
đối tượng của hoạt động sáng tạo thi ca. Thơ ca của chủ nghĩa lãng mạn, thơ
ca hiện thực và tượng trưng, thực sự đã đem cuộc sống với toàn bộ sự
phong phú và đa dạng của nó vào làm giàu cho thơ. Dường như bất kì một đề
tài nào cũng có thể làm thơ, đều có thể khai thác để tạo nên chất thơ. Hồ Chí
Minh, qua tập thơ Nhật kí trong tù, đã chỉ ra những bài học cụ thể về phương
diện này. Trong tập thơ có những giấc mộng đẹp, những đêm trăng đầy thi vị,
nhưng cũng có biết bao nhiêu hình ảnh của đời sống đi vào trong thơ. Cho
đến một chiếc gậy, một mụn ghẻ, một chiếc răng rụng… cũng là đề tài của
thơ. Ở những đối tượng này, cái nên thơ không bộc lộ ra ở bên ngoài. Dĩ
nhiên nếu miêu tả những đối tượng trên theo cách sao chép và mô phỏng tự
nhiên thì khó để tạo nên chất thơ. Nhưng nếu phát hiện được, một nét chủ
yếu nào đó ẩn sâu trong bản của đối tượng và cung cấp cho nó một liên
tưởng đẹp, một sự giải thích và tô điểm giàu ý nghĩa thẩm mĩ và ý nghĩa xã
hội thì chất thơ sẽ xuất hiện và bao trùm lấy hình tượng. Bài thơ đánh mất
gậy của Hồ Chí Minh là một ví dụ tiêu biểu mẫu mực:
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương
Giận kẻ bất lương gây cách biệt
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.
Những đặc tính vật lí của cây gậy (thẳng, cứng rắn) và khả năng ứng
dụng của nó được chuyển hóa sang thành những phẩm chất đạo đức giàu
chất thẩm mĩ (ngay thẳng, kiên cường, chung thủy…). Chất thơ xuất hiện
ngay từ câu đầu và được triển khai trên nhiều bình diện. Bản thân đối tượng
miêu tả được ca ngợi, nhưng điều quan trọng hơn chính là lí tưởng thẩm mĩ
tiến bộ và phẩm chất đạo đức cao cả của nhà thơ đã soi rọi vào hình tượng,
phát hiện ở đối tượng mặt bản chất thích hợp để từ đó nâng cho hình tượng
thơ bay lên bằng những phẩm chất thẩm mĩ mới, tích cực.
Khác với chất thơ trong đời sống thường được quan niệm như một cái
gì đẹp, thơ mộng, tồn tại khách quan, chất thơ trong nghệ thuật bao gồm sự
thống nhất giữa những phẩm chất của đối tượng khách quan với cảm hứng
sáng tạo chủ quan của nhà thơ. Thực tế khách quan được chọn lọc ở những
mặt kết tinh tiêu biểu, ở những chi tiết và hình ảnh chân thực, là tiền đề trực
tiếp nhất để tạo nên chất thơ. Bản thân những chất liệu hiện thực phong phú
đó có tác dụng gây cảm xúc và góp phần biểu hiện cảm xúc. Những nhân tố
đặc biệt quan trọng để tạo nên chất thơ là phần cảm xúc và suy nghĩ chủ
quan của nhà thơ. Những hình tượng thơ ca chân chính đều chứa đựng một
lí tưởng đẹp, một sức tưởng tượng phong phú và những xúc cảm lắng đọng
sâu sắc.
Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều nhân tố.
Những nhân tố này cũng có thể có trong nội dung cấu tạo của các thể loại
khác, nhưng ở thơ biểu hiện tập trung hơn, và được hòa hợp, liên kết một
cách vững chắc để tạo nên những phẩm chất mới. Ví dụ như tình cảm và
tưởng tượng là những nhân tố có chung cho các thể loại văn học, nhưng với
thơ lại biểu hiện tập trung hơn, rõ nét hơn.
Xác định chất thơ tất nhiên là một vấn đề khó, rất khó. Đúng như nhà
văn Nguyễn Tuân nhận xét: “Định nghĩa về chất thơ cho thật chính xác và
toàn thập, tôi thấy nó cũng khó như định nghĩa cho chất uymua (humour)”.
Nhưng khi chúng ta đã quan niệm thơ không phải là một cái gì thần bí siêu
việt, thơ gắn liền với cuộc sống, với tâm hồn con người và năng lực sáng tạo
qua người nghệ sĩ thì việc tìm hiểu chất thơ lại là cần thiết và có thể tiến hành
được trên những nét lớn dễ chấp nhận.
1. Chất thơ trước hết gắn liền với sự rung động và cảm xúc trực tiếp
Yếu tố cảm xúc, nhất là cảm xúc ở dạng trực tiếp của chủ thể, là một
nhân tố rất cơ bản để tạo nên chất thơ. Khi cảm xúc mất dần trong cảm hứng
sáng tạo thi ca, tư duy của nhà thơ nặng về mặt phán đoán suy tưởng thi chất
thơ cũng bị hạn chế, hình tượng thơ yếu hẳn về mặt gợi cảm.
Nếu xem bản chất giàu cảm xúc là một năng lực tinh thần thuộc về bản
chất của người nghệ sĩ thì điều đó trước hết phải có ở người thi sĩ. “Người
làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng”. Cảm
xúc là nhân tố trọng yếu cấu tạo nên hình tượng thơ. Khi cảm xúc thâm nhập
nhiều vào câu văn xuôi, kết cấu lôgic của câu văn xuôi không được xác định
rõ nét nữa thì câu văn xuôi đã có xu hướng chuyển thành câu thơ. Tố Hữu
viết:
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi.
Câu thơ trên có thể chuyển dịch thành câu văn xuôi đồng nghĩa nếu
giảm đi tán thán từ ơi và không dùng đảo ngữ để nhấn mạnh cảm xúc và suy
nghĩ:
Tổ quốc ta đẹp vô cùng
Tuy đồng nghĩa nhưng câu trên là thơ, là lời xúc động của cõi tim, là
tiếng nói của tình cảm và lòng thiết tha quý yêu đất nước. Câu dưới là văn
xuôi, là một nhận định, một suy nghĩ. Yếu tố cảm xúc đã góp phần quyết định
cái gì là thơ và không phải là thơ. Đấy cũng là trường hợp những câu như:
Đau đớn thay phận đàn bà
(NGUYỄN DU)
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
(CHẾ LAN VIÊN)
Tất nhiên có nhiều cách để tạo nên cảm xúc hoặc qua miêu tả hình
ảnh, hoặc qua liên tưởng, so sánh hoặc qua nghệ thuật. Sử dụng ngôn ngữ.
Sử dụng tán thán từ để gây cảm xúc tuy không phổ biến nhưng cũng là hình
thức dễ thấy nhất. Trong phạm vi những hình thức sử dụng ngôn ngữ, có thể
tìm thấy nhiều phương thức khác như đảo ngữ, điệp ngữ, đối ngữ, chỗ
ngừng, chỗ ngắt, v.v… để làm tăng cường yếu tố gợi cảm của câu thơ. Về
mặt nội dung có thể ý nghĩa của câu không khác đi, nhưng chính ngữ điệu
của câu đã mang tính chất diễn cảm theo trật tự mới. Ngôn ngữ lôgic trở
thành ngôn ngữ diễn cảm với sắc thái tu từ và ngữ điệu mới nên thực sự yêu
cầu truyền đạt của nội dung cũng khác đi.
Tất nhiên có thể sử dụng những biện pháp đổi thay cấu tạo của câu thơ
về mặt kết cấu cú pháp, và sử dụng ngôn từ để gia tăng cảm xúc. Nhưng đó
chỉ là biện pháp thứ yếu, có tính chất thuần túy kĩ thuật. Quan trọng và có ý
nghĩa quyết định chính là ở tấm lòng. “Thơ là tiếng lòng”. “Thơ từ trái tim đi và
trở về với trái tim”. “Thơ là nhiệt tình kết tinh lại”. “Hãy đập vào trái tim anh,
thiên tài là ở đấy”. Bản chất giàu cảm xúc của người nghệ sĩ sẽ quyết định
tính chất phong phú về cảm xúc của bình tượng thơ. Nhiều nhà lí luận đã xem
cảm xúc là nhân tố chủ yếu cấu tạo nên hình tượng thơ. “Hình tượng thơ là
hình tượng của cảm xúc”. Và do đặc điểm đó nên các bài thơ trữ tình thường
được viết ra trong thời điểm mà tâm hồn nhà thơ xao xuyến rung động hoặc ở
trạng thái khá căng thẳng của cảm xúc. Tố Hữu cũng nói về trạng thái của
nhà thơ khi sáng tạo: “Mỗi khi có cái gì nghĩ ngợi chất chứa trong lòng không
nói ra không chịu được thì lại thấy cần làm thơ”. Nêkraxôp tâm sự: “Nếu
những nỗi đau khổ đã từ lâu bị kiềm chế nay sôi sục và dâng lên trong lòng
thì tôi viết…” Lecmôntôp cũng thừa nhận sự thực đó: “Có những đêm rất khổ,
không ngủ được, mắt rực cháy và thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung… khi
đó tôi viết”. Đó cũng là tâm trạng của Gơt, của Sinlơ. Những cảm xúc rạo rực
đã tạo nên một trạng thái đặc biệt trong quá trình sáng tác thơ: trạng thái rung
động thực sự; những hình ảnh, những cảm nghĩ bay lượn, đi về sự dồn ép và
bùng cháy của cảm xúc và ý tưởng. Cảm xúc là gốc của hồn thơ. “Thơ không
chấp nhận trạng thái bàng quan” (Garxia Lorka). Không thể chỉ làm thơ bằng
óc, thuần túy bằng sự tỉnh táo của lí trí phán đoán và phân tích. “Sự truyền
đạt lại một trạng thái thơ đòi hỏi phải đưa vào đấy toàn bộ con người cảm xúc
là điều khác với sự truyền đạt lại một ý tưởng” (P.Valêri). Thơ phải “làm cho
người ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người” (Tố Hữu).
2. Thơ là ở tấm lòng, nhưng thơ cũng chính là cuộc sống
Trong thơ có nhiều câu được cấu tạo nên chủ yếu bằng cảm xúc, bằng
thuần túy chất liệu của tâm hồn. Những câu thơ đó là sự bộc lộ trực tiếp cảm
xúc và suy nghĩ của nhà thơ:
Nếu tâm sự cùng ta bạn hỏi
Tiếng nào trong muôn ngàn tiếng nói
Như nỗi niềm nhức nhối tim gan?
Trong lòng ta, hai tiếng: Miền Nam!
(TỐ HỮU)
Tuy nhiên những cảm nghĩ của nhà thơ phải lấy điểm tựa ở phần hiện
thực được chọn lọc. Biểu hiện bao giờ cũng phải gắn liền với miêu tả. Hay nói
như Xuân Diệu là trong thơ ngoài cái tâm hồn của sự vật còn phải có cái thân
thể của sự vật: “Chẳng lẽ chỉ nói trong thơ: “Tôi thích lắm, tôi yêu lắm, ồ cảm
tưởng đẹp lắm”. Nên đề phòng chỉ chuyên lấy tinh chất, chỉ chú về cảm xúc,
đến nỗi bài thơ như con chim không có chỗ đậu nữa, thế là bay đi mất tăm”.
Khi Tú Xương bộc lộ những cảm nghĩ của mình về sự đổi thay của thời cuộc,
đã miêu tả phần hiện thực của đời sống:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
và trên cơ sở đó là hiện thực tâm trạng:
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Tương quan và sự hòa hợp giữa hiện thực đời sống và hiện thực tâm
trạng không được xác định, gò bó theo một tỉ lệ và phân lượng nhất định nào
mà tùy thuộc vào đối tượng miêu tả, vào sự phong phú và bản sắc riêng của
tâm hồn nhà thơ. Thơ ca chủ nghĩa lãng mạn thường loại trừ hoặc xem nhẹ
phần miêu tả hiện thực, hoặc chỉ sử dụng miêu tả như một phương tiện để
biểu hiện. Thơ ca của chủ nghĩa hiện thực chú ý nhiều đến những bức tranh
của đời sống hiện thực và nhiều khi phần biểu hiện lại lui về bình diện thứ hai
hoặc bộc lộ kín đáo qua miêu tả. Không có miêu tả, những cảm xúc và suy
nghĩ sẽ trở nên chơi vơi, thiếu điểm tựa và nhiều khi rơi vào chủ quan, tư
biện. Những bài thơ hay, những câu thơ hay thường kết hợp được sóng đôi
hai mặt này.
Miêu tả để hỗ trợ cho biểu hiện, nhưng mặt khác miêu tả cũng có giá trị
độc lập của nó. Trong thơ rất cần đến những bức tranh về đời sống hiện thực.
Thơ trữ tình không có khả năng chấp nhận sự có mặt của đời sống ở dạng
thức một câu chuyện hoặc một sự kiện được miêu tả hoàn chỉnh. Đó là nhiệm
vụ và phần việc của tiểu thuyết, của truyện thơ. Hiện thực của đời sống đi vào
trong thơ không theo diện mà theo điểm. Những hình ảnh tiêu biểu nhất được
chọn lọc để miêu tả và sẽ được liên kết trong nhận thức, và liên tưởng của
người đọc thành những bức tranh giàu sức sống, sinh động và chân thực. Đó
là phần tiêu biểu của hiện thực, cái tính chất được chọn lựa chắt lọc ra từ đời
sống và sẽ trực tiếp tạo thành chất thơ. Trong thực tế có những bài thơ kể lể
rất nhiều, hoặc miêu tả một cách tham lam, sử dụng nhiều chi tiết, nhiều hình
ảnh nhưng vẫn thiếu chất thơ. Chất liệu và hình ảnh của đời sống hiện thực
chỉ có giá trị thơ khi nó có tính chất tiêu biểu, điển hình và có khả năng gây
xúc cảm. Đó là một quy, luật chi phối rõ rệt đến việc sáng tạo hình ảnh trong
thơ. Có thể chỉ một hình ảnh vẫn có sức gợi cảm mạnh mẽ khi nó kết tinh
được nhiều sự sống. Nguyễn Du trong bài thơ Chiêu hồn đã dựng lên những
hình ảnh hết sức điển hình cho từng loại có hồn mà cũng là những loại người
trong đời sống. Chỉ một hình ảnh:
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
đã gợi lên biết bao nổi cực nhọc của loại người buôn bán gánh gồng, đi
ngược về xuôi. Tác giả tuy không bộc lộ trực tiếp tình cảm, nhưng tự bên
trong hình ảnh vẫn phảng phất một mối thương cảm thầm kín.
Khi một hình ảnh ở trong thơ kết tinh được những mặt tiêu biểu và điển
hình của cuộc sống thì tự nó lớn hơn rất nhiều lần phạm vi xác định của nó.
Nguyễn Huy Lượng trong bài phú Tụng Tây hồ đã sử dụng nhiều hình ảnh rất
đẹp và tiêu biểu để nói lên không khí thanh bình của đất nước.
Vẻ hoa lẫn dấu cờ năm thức
Mặt nước in bóng giáo ba ngù
Không thể khác được, đây là dấu hiệu, là biểu tượng của một chính
quyền đang thịnh trị trong một đất nước không có giặc giã, chiến tranh. Mở
rộng hơn hệ thống hình ảnh trong sáng tác, Nguyễn Huy Lượng đã dựng lên
những bức tranh đẹp phản ánh bộ mặt đất nước đang sống trong cảnh thanh
bình, trong nếp lao động quen thuộc sớm hôm:
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt
gấm
Sen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò
Cầm ve gẩy lầu thư ảnh ói
Mõ cuốc khua án kệ rì rù
Một thời đại, một khung cảnh xã hội có thể được miêu tả đầy đủ, nhiều
mặt trong tiểu thuyết, cũng có thể bộc lộ ra ở một số hình ảnh điển hình trong
thơ. Những tài năng lớn trong thi ca có khả năng nắm bắt được những mặt
kết tinh tiêu biểu này. Trong một số câu thơ Đỗ Phủ đã tả được cả một thời
loạn li vì những cuộc chiến tranh phong kiến:
Xe rầm rập
Ngựa hí vang
Người đi cung tên đeo bên lưng
Cha mẹ vợ con chạy theo tiễn
Bụi mù che lấp cầu Hàm Dương
Níu áo giậm chân, cản đường đi, cùng nhau khóc…
Tiếng khóc vọng lên tận mây xanh.
(Binh xa hành)
Tú Xương cũng thâu tóm được cái lố lăng và đau long của thời cuộc khi
chế độ thực dân đã đè nặng lên đầu dân ta:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Cuộc sống được nói lên bằng hình ảnh, và tâm trạng cũng bộc lộ kín
đáo đằng sau những hình ảnh được miêu tả như có vẻ khách quan.
Hiện thực ở những nét tính chất đều có tác dụng gây cảm xúc mạnh và
có khả năng nói lên nhiều mặt tiêu biểu cửa đời sống. Chính đó là tiền đề của
chất thơ và nhiều khi bản thân nó là chất thơ cô đọng. Chính Hữu đã gợi tả
không khí lên đường của cả nước trong những năm chống Mĩ với niềm vui
dạt dào, hổ hởi:
Có những buổi vui sao, cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
Xóm dưới làng trên con trai con gái
Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau
Súng nhỏ súng to chiến trường chật chội
Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu.
Cái cụ thể của từng hình ảnh, từng chi tiết đều có sức gợi góp phần tạo
nên một bức tranh nhiều màu sắc, một không khí vui tươi, đằm thắm và trong
chiều sâu của hiện thực như đang trỗi dậy cả sức sống của dân tộc. Đấy
chính là chất thơ nguyên vẹn, khỏe khoắn. Đúng như nhận xét của nhà văn
Nguyễn Tuân khi phân biệt cái cụ thể và hữu hình trong thơ và văn xuôi:
“Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình.
Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đống tài liệu thực
tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la, từ một
cái điểm nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian, thời gian,
trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp”.
3. Thơ gắn nhiều với trí tưởng tượng
Trí tưởng tượng là một năng lực của tư duy góp phần rất tích cực vào
hoạt động nhận thức của con người, đặc biệt là nhận thức nghệ thuật. Trí
tưởng tượng là một đường dây nối liền những hiện tượng tưởng như riêng rẽ,
cách biệt nhau thành một nguồn mạch thống nhất. Trí tưởng tượng chắp cánh
cho tâm hồn bay lên vượt khỏi những giới hạn xác định của một địa điểm và
thời điểm cụ thể mà trở về với quá khứ, sống trong ước mơ với tương lai. Trí
tưởng tượng là một động lực tinh thần quyết định giờ phút nhổ neo cho con
thuyền tìm về những mảnh đất xa xôi và những bến bờ xa lạ, ở đấy một giấc
mơ có khả năng trở thành một sự thực. Tưởng tượng cũng chính là thêm vào
cái có thật phần nên có và sẽ có, là sự chuẩn bị tích cực cho một hành động
sáng tạo và bản thân nó là một sự sáng tạo.
Nói đến thơ là nói đến sức tưởng tượng. Nhà thơ Sóng Hồng đã chỉ ra
đặc điểm quan trọng này của thơ: “Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí
tưởng tượng” Trong thơ cho dù chỉ là một hình ảnh giản dị, một sự so sánh
liên tưởng nào đó cũng đòi hỏi phải có sự tưởng tượng. Khi Tố Hữu viết:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
thì trong những câu thơ đẹp và chân tình ấy đã chứa biết bao nhiêu sức
tưởng tượng. Ánh sang của cách mạng, của chân lí, nỗi xúc động và niềm vui
lớn lao của tâm hồn đã trở nên kì diệu, trong vẻ đẹp đầy hương sắc và rộn
âm thanh qua sự liên tưởng, so sánh của trí tưởng tượng.
Trong thơ Huy Cận, hình ảnh một con cá song đã được tạo nên bằng
nhiều tưởng tượng đẹp:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Sao thở đêm lùa nước Hạ Long
Chế Lan Viên lại tiếp nối sức tưởng tượng ấy và đưa nó về gần với
cuộc sống của con người:
Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về
Ngọn đuốc ấy, hồn thơ ấy đều lấy điểm tựa từ trong trí tưởng tượng. Chỉ một
vầng trăng thôi, một vầng trăng như vẫn có tự muôn đời; vầng trăng đã chứng
kiến biết bao lời hò hẹn và bao cảnh chia li, vầng trăng đã có mặt và tỏa ánh
sáng chia vui trong những đêm hội hè, vầng trăng của nhiều lứa tuổi và nhiều
tâm sự; vầng trăng đã đi vào trong thơ khác với hình bóng ấy ở trong văn xuôi
biết bao nhiêu. Trí tưởng tượng trong thơ đã đưa vầng trăng nhập vào bao
cảnh ngộ. Vầng trăng của nỗi nhớ thương, của sự xa cách trong thơ Nguyễn
Du:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
Ánh trăng của nỗi nhớ thương và của sự xa cách thường tỏa ra từ một vầng
trăng khuyết, một mảnh trăng non:
“Nửa vầng trăng khuyết ba sao giữa trời…”
“… Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau”.
Nhiều khi hình ảnh của trăng lại được miêu tả để tạo nên những liên tưởng về
không gian, về thời gian. Về thời gian, vầng trăng là một biểu tượng cụ thể
biết bao của sự đổi thay. Trăng tròn rồi trăng lại khuyết, một đơn vị về thời
gian, nhưng ý nghĩa bao quát hơn là sự trôi qua đi nhanh chóng của cuộc đời,
của tuổi thanh xuân. Tố Hữu đã để cho người kĩ nữ qua đó liên tưởng đến
thân phận mình:
Trăng lên, trăng đứng, trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng.
Bằng Việt cũng qua hình ảnh của trăng mà nói về thời gian:
Bao đêm ngoài biển động
Pháo sáng xanh vườn sau,
Trăng mài mòn guốc võng
Giặc rít ngang trên đầu.
Trăng cũng gợi lên ý niệm về không gian. Tùy theo cái tư thế của con
người có làm chủ mình và làm chủ thiên nhiên hay không mà không gian
mênh mông tràn ngập ánh sáng ấy là thân thuộc hay xạ lạ. Trong thơ Xuân
Diệu thời kì trưốc Cách mạng, ánh trăng thường gợi lên một không gian quá
rộng đến choáng ngợp, đối lập với nỗi cô đơn, nhỏ bé của con người. “Trăng
sáng, trăng xa, trăng rộng quá. Đấy cũng là một ánh trăng mờ ảo, tạo nên một
khung cảnh hư hư thực thực cùng những giấc mơ và những trạng thái buồn,
không rõ rệt. “Trăng vừa đủ sáng để gây mơ”. Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử
có một cái gì ma quái hơn. Khi thì ánh trăng trắng bạch đến rợn ngợp, đến ớn
lạnh. Khi thì ánh trăng được nhân cách hóa theo trí tưởng tượng:
– Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.
– Trăng nằm sóng soài bên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.
– Bỗng đêm nay trước của bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống cúi mình theo dáng liễu.
Ánh trăng đi vào trong thơ cách mạng với một vẻ đẹp nên thơ và gần
gũi. Ánh trăng của ngày mùa gặt hái, ánh trăng của trời biển quê hương,
trăng du kích trong đêm công đồn, trăng của tình yêu hò hẹn. Chính Hữu đã
sáng tạo được một hình ảnh đẹp về trăng. Người chiến sĩ trong đêm phục
kích chờ giặc tới, luôn đứng vững trên vị trí chiến đấu của mình, mặc cho gió
lạnh phong sương.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đầu súng trăng treo.
“Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh đẹp, vừa khỏe, vừa nên thơ. Trí
tưởng tượng đã tạo nên trong thơ một bức tranh có giá trị tạo hình mà giàu
sức liên tưởng. Hai đối tượng vốn xa cách trong không gian đã trở về nằm
chung trong một bình diện: cây súng và vầng trăng. Một biểu tượng của cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, của tình cảm yêu nước căm thù giặc và một biểu
tượng của cái đẹp và cuộc sống thanh bình. Nhưng không phải chỉ có thể nếu
nghĩ đến thời điểm đặc biệt của khung cảnh ấy. Người lính vẫn đứng gác suốt
đêm khuya trong đêm sương sa gió lạnh. Trăng về sáng thấp dần xuống phía
chân trời và ở một vị trí nào đó nếu nhìn từ xa thì vầng trăng như treo lơ lửng
trên đầu mũi súng. Vốn từ xưa ánh trăng vẫn được miêu tả như một hình ảnh
tương phản với chiến tranh với khói lửa và nhiều khi có sức gợi cảm rất
mạnh.
Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt.
Phạm Tiến Duật cũng gợi lên một liên tưởng vầng trăng và quầng lửa. Đó là
một khung cảnh thực:
Và vầng trăng, vầng trăng Đất nước
Vượt qua quầng lửa mọc lên cao.
Nhưng đổng thời câu thơ cũng là một biểu tượng đẹp về một đất nước thanh
bình nhưng vô cùng dũng cảm đang vượt qua cơn thử thách của chiến tranh.
Trăng trong khung cảnh đất nước xây dựng hòa bình thật bát ngát mà
nên thơ. Tế Hanh viết:
Nông trường ta rộng mênh mông
Trăng lên trăng lặn vẫn không ra ngoài.
Tác giả đã tạo nên không khí ấm cúng làm chủ thiên nhiên. Cái bát ngát trong
đêm trăng không làm choáng ngợp con người mà sức người đã tạo nên một
không gian rộng lớn hơn, mênh mông hơn.
Hàng nghìn năm qua, trăng đã đi vào thơ ca và để lại nhiều hình ảnh,
nhiều cảm xúc thật đẹp. Thật cũng khó kể hết được. Nhưng chúng ta chỉ
muốn qua hình ảnh một vầng trăng để tìm hiểu sức tưởng tượng trong thơ.
Những câu thơ trên có thể chưa phải thật là những câu thơ tiêu biểu nhất khi
nói về trăng, nhưng đó là ánh trăng trong thơ, ánh trăng của trí tưởng bay
bổng, của sức liên tưởng diệu kì, khác với trăng trong văn xuôi hay đúng hơn
là khác với cách nói về trăng trong văn xuôi.
Mỗi câu thơ, và thậm chí cho đến một hình ảnh nhỏ trong thơ cũng có
nhiều tưởng tượng. Văn xuôi cũng cần đến tưởng tượng, nhưng rõ ràng, với
một phân lượng ít hơn và không bộc lộ trực tiếp trong câu văn. Sự gần gũi và
giống với thật của cảnh vật và con người, tính chất logic và xác định của cảm
xúc, suy nghĩ và hình ảnh trong văn xuôi đã hạn chế phần tưởng tượng trong
văn xuôi. Sự hạn chế ấy là cần thiết để đảm bảo những đặc trưng và năng lực
biểu hiện riêng của văn xuôi.
Với thơ, có thể nói được rằng nếu không có sức tưởng tượng thì chỉ
tạo nên được một cái gì rất ít giống với thơ. Apôline đã có lí khi nhận xét: ”Cái
lĩnh vực phong phú, ít được biết đến nhất, cái lĩnh vực có một chiều rộng
không bờ là tưởng tượng, vì vậy không có gì lạ nếu người ta đã dành danh
hiệu nhà thơ chủ yếu là cho những người đi tìm những niềm vui mới rải rác
trên những không gian đồ sộ của sự tưởng tượng”.
4. Chất thơ cũng gắn liền với cái đẹp
Thơ không phải chỉ nói đến cái đẹp của cuộc sống, mà nói về cuộc
sống với một lí tưởng đẹp. Nếu nói ý thức và thiên hướng của mọi hoạt động
sáng tạo của con người theo quy luật của cái đẹp như Mac nói thì với thơ, ý
thức và cảm hứng sáng tạo biểu hiện rõ rệt đặc tính này. Nhiều nhà thơ luôn
nghĩ đến cái đẹp trong mục đích sáng tạo của mình. Tế Hanh tâm sự: “Ngày
xưa tôi làm thơ để ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên, đất trời, hoa lá, cỏ cây,
trăng sao và cái đẹp tưởng tượng mà cuộc đời thực tại không cho tôi. Ngày
nay tôi làm thơ cũng để ca ngợi cái đẹp. Nhưng cái đẹp bây giờ rộng hơn, lớn
hơn, không những của đất trời hoa lá mà của đất nước Việt Nam. Cái đẹp
của con người Việt Nam, cái đẹp của chế độ chúng ta”. Etga Pô cho rằng:
“Cái đẹp là địa hạt hợp pháp của thơ ca”. Bôđơle xem thơ là “ước mong của
con người vươn tới một cái đẹp cao thượng”… Chúng ta còn có thể kể thêm
nhiều quan niệm khác và cách nói nhiều khi thiếu mức độ và quá đi như quan
niệm của Seli. Seli nhấn mạnh đến cái đẹp và năng lực tạo nên cái đẹp ở
trong thơ: “Thơ ca biến mọi vật thành đẹp, nó làm tăng vẻ đẹp của những cái
gì đẹp nhất, nó đem lại vẻ đẹp cho những cái gì xấu xí nhất”.
Cái đẹp là phẩm chất và cũng là quy luật chung của sự nhận thức và
sáng tạo trcng nghệ thuật. Với thơ, đặc điểm trên biểu hiện khá rõ rệt. Từ
trước tới nay trong văn học, thơ thiên về khai khác và miêu tả cái đẹp trong
thiên nhiên và đời sống. Nhất là với khuynh hướng thi ca thoát li, dường như
người ta chỉ bắt gặp trong thơ những giấc mộng đẹp, những kỉ niệm, những
mối tình nhiều rung cảm, và một thiên nhiên trữ tình thơ mộng của trăng gió
và muôn hoa. Hồ Chí Minh đã nói lên cảm tưởng đó khi đọc Thiên gia thi:
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông…
Đó cũng là đề tài và nội dung của nhiều sáng tác thơ ca Việt Nam ở những
thế kỉ trước. Nặng về ngâm vịnh nhàn tản, nhà thơ hay bắt vào những đối
tượng mà vẻ đẹp bộc lộ trực tiếp ra bên ngoài như vịnh mĩ nhân, vịnh nguyệt,
vịnh thu. Các nhà thơ ít biết đến và ít phát hiện được những vẻ đẹp khác từ
trong cuộc sống lao động cần cù của quần chúng.
Điều quan trọng và cũng dường như một quy luật trong thơ là các nhà
thơ thường nhấn mạnh mặt đẹp của đối tượng miêu tả trên cơ sở những
phẩm chất tích cực vốn có ở đối tượng. Nhà thơ làm nổi rõ một mơ ước, nếu
đối tượng hứa hẹn một điều gì cho tương lai, nhà thơ soi rọi một ánh sáng
đẹp tiếp thêm sức sáng cho một ngọn lửa rực cháy từ bên trong, nhà thơ cất
cao lời nói ngợi ca khi phát hiện ở đối tượng những phẩm chất đáng ca ngợi,
nhà thơ biết nâng cao kích thước và tầm vóc của con người và cuộc sống
theo một cách nhìn đẹp, một lí tưởng đẹp. Tố Hữu đã soi rọi một vòng hào
quang đẹp vào cuộc đời người con gái Việt Nam dũng cảm, kiên cường:
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông
Thịt da em hay là sắt là đồng?
Trên mình đầy thương tích, những vết thương còn rỉ máu, nhưng không đau
thương, rên rỉ, mà bất khuất anh hùng:
Từ cõi chết em trở về chói lọi.
Và ngày mai, ngày mai, lại tiếp tục con đường chiến đấu:
Em sẽ đi trên đường ấy thênh thang
Như những ngày xưa rực rỡ sao vàng.
Cả bài thơ có nhiều màu sắc đẹp và nhiều ánh sáng gợi lên một khung cảnh
rực rỡ và diệu kì rất thích hợp cho sự ca ngợi, phẩm chất của nhân vật. Trong
bài thơ Mẹ Suốt, âm hưởng của bài thơ lại khác hẳn. Một bà mẹ anh hùng
tâm sự và một nhà thơ chăm chú lắng nghe, một lời tâm tinh, một câu chuyện
kể giản dị, nhưng hình tượng mẹ Suốt vẫn cứ lớn lên, đẹp lên trong câu
chuyện và ở phần người lắng nghe:
Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung trắng bờ.
Tố Hữu đã chú ý khai thác rất nhiều đến cái đẹp của con người và cảnh
vật trong những bài thơ xuân. Hình ảnh những cô gái làng vừa sản xuất vừa
đánh giặc đã được miêu tả với những nét rất đẹp và duyên dáng:
Ôi những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đò ngang.
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy,
Súng khoác trên lưng, chẳng ngỡ ngàng.
Mùa xuân đến trên đất nước đang chiến đấu, đang sản xuất. Cuộc sống tuy
còn nhiều khó khăn gian khổ, cái gian khổ của một cuộc chiến đấu hết sức
quyết liệt, nhưng ở nơi nào cuộc sống cũng đẹp, một cái đẹp tự bên trong,
không cần tô điểm.
Xuân mới, đơn sơ, đằm thắm vậy
Căng đầy sức dậy, dáng non tơ.
Không phải và cũng không nhất thiết bài thơ nào, câu thơ nào cũng đi theo
hướng khai thác cái đẹp. Như thế thơ sẽ dễ rơi vào khuynh hướng thi vị hóa
cuộc sống. Nhưng ít nhất trong khi miêu tả một cái gì cho đù là đau thương
quyết liệt hay có phần tăm tối bi lụy cũng phải làm nổi lên sự thắng thế của
một lí tưởng tiến bộ. Ngọn đèn thơ phải thắp sáng lên niềm tin và mơ ước.
Nhà thơ phải xuất phát từ một lẽ sống đẹp đẽ để nhìn và cảm xúc về cuộc
sống. Cái nhìn của nhà thơ về cuộc đời phải là một cái nhìn ngọt ngào, nhân
hậu, giàu lòng tin vào con người. Thơ không chấp nhận một cách nhìn đời
phũ phàng lạnh nhạt, hoặc buông xuôi chán nản. Nhà thơ luôn phải đấu tranh
để bảo vệ lẽ sống tiến bộ và phẩm chất cao đẹp của con người. Huy Cận đã
tìm thấy trong công việc của người thợ gốm, người khắc mộ chí một cái đẹp
kín đáo và có tính chất sáng tạo. Ở công việc làm của người khắc mộ chí, một
công việc cần cù vất vả và có thể nói là buồn nữa, sẽ có một cái gì dành cho
thơ? Phải chàng là những liên tưởng đến những cái chết ảm đạm, đến những
cái tên còn lại của những cuộc đời đã ra đi. Huy Cận đã tìm thấy ở người thợ
cần cù những ý nghĩ đáng quý:
Trong gang tay đá hẹp
Đời còn lại mấy dòng
Anh cố khắc cho đẹp
Cho người chết vui lòng.
Những ý nghĩ ấy là của nhân vật hay là của nhà thơ? Điều ấy không
quan trọng mà cái đáng chú ý hơn là những suy nghĩ đẹp và nhân đạo được
khai thác phù hợp với đặc điểm của đối tượng.
Chế Lan Viên cũng đã tìm thấy trong động tác nhịp nhàng, yểu điệu của
cô gái xeo giấy một vẻ đẹp nên thơ. Từ những động tác lao động trực tiếp
đến những liên tưởng gián tiếp, từ nguyên nhân đến kết quả, hôm nay và
ngày mai, phần thực của cuộc đời và hương hoa đem tới của nghệ thuật, nhà
thơ đã đem tới cho hình tượng nhân vật một vẻ đẹp kì diệu:
Anh yêu bàn tay
Đong đưa như suối
Anh yêu bàn chân.
Em dồn nhịp cối
Hỡi em xeo giấy
Em là thi nhân
Ngày mai dao ngà
Bổ đôi trang sách
Giấy ngời trinh bạch
Thơ vờn hương hoa
Là nhờ đêm nay
Từ trong đất bùn
Từ trong hôi thối
Tay em vẫy gọi
Từng tờ thơ tới
Từng hoa sen lại
Từng mùa xuân qua
Hình ảnh cô gái xeo giấy thật thi vị nhưng không rơi vào thi vị hóa, vì toàn bộ
những liên tưởng đều có phần căn cứ ở những phẩm chất riêng của đối
tượng. Trong đời sống thực tế, có những đối tượng dễ gợi cảm và nên thơ
như “thiếu nữ và hoa hồng”, “đêm trăng và mùa xuân”. Ở những đối tượng
này nhà thơ cũng dễ xúc động để bắt lấy vẻ đẹp vào trong thơ. Một loạt đối
tượng khác phong phú và rộng lớn hơn, đó là toàn bộ cuộc sống trong sự tồn
tại một cách đa dạng của nó. Ở phạm vi này cái đẹp nhiều khi không bộc lộ
trực tiếp, không phô bày mà nằm trong chiều sâu của cấu tạo nội dung. Đó là
nguồn mạch phong phú nhất để tạo nên nội dung của những sáng tác thơ ca.
Thực tế chiến đấu và sản xuất với tất cả tính chất gian khổ, phức tạp của một
cuộc đấu tranh lâu dài chứa đựng rất nhiều chất thơ. Nhiều sự kiện, nhiều
cảnh ngộ trong sản xuất và hoạt động kinh tế tưởng như khô khan, trần trụi,
không có cơ sở cho thơ ca phát triển, nhưng nếu biết khai thác trong chiều
sâu và ở những mối liên hệ xã hội phong phú của nó và biết bù đắp vào phần
tưởng tượng và cảm xúc chủ quan thì chắc chắn thơ ca chân chính sẽ xuất
hiện. Bêsơ đã có lí khi tác giả cho rằng: “Hiển nhiên một đêm trăng là nên
thơ, nhưng việc lộn xộn xảy ra trong căn phòng của một viên chức nào đó thì
không nên thơ bằng. Những tính chất nên thơ của đêm trăng chứa đựng ở nó
cái nguy hiểm của sự lặp lại, điều này dẫn tới chỗ một đối tượng vốn nên thơ
nhưng vì nói mãi, khai thác mãi mà trở thành không thể chịu nổi, trái lại việc
lộn xộn trong phòng một viên chức hoàn toàn có thể có giá trị nghệ thuật nếu
như nhà thơ biết rút ra được những yếu tố nên thơ ở đấy và nói chung ta có
thể tìm thấy những yếu tố như vậy ở mọi nơi”.
Xuân Diệu cũng là một nhà thơ có ý thức đưa sự sống và những chất
liệu thực tế vào trong thơ. Anh hiểu rất rõ những khó khăn của công việc này:
“Nói rộng hơn, đưa thực tế vào thơ, gặp phải một sự cưỡng lại rất mạnh của
chất liệu, dẫu sao đưa hoa, đưa tình cảm vào thơ cũng nhẹ nhàng hơn”.
Nhưng điều đáng quý là anh dám đi thẳng vào thực tế phong phú, quyết liệt
của công cuộc chiến đấu và sản xuất mà miêu tả cái đẹp nên thơ và hùng
tráng của thời đại.
Trong thơ ca hiện đại người ta chú trọng nhiều đến vẻ đẹp của chất trí
tuệ trong thơ. Chất trí tuệ trong thơ không phải chỉ quy tụ lại ở vẻ đẹp của
những suy tưởng mà bộc lộ cả ở cảm xúc và hình ảnh của thơ.
Đọc mấy câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Núi ấp ôm mây, mây áp núi
Lòng sông gương sáng bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa.
chúng ta không nghĩ rằng đó chỉ là những câu thơ miêu tả thiên nhiên và bộc
lộ cảm xúc mà trong chiều sâu của hình tượng thơ lấp lánh vẻ đẹp của trí tuệ.
Hình ảnh “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” chập chờn trong giấc ngủ là
một hình ảnh đẹp, vừa có chất thép tư tưởng lại vừa ánh lên vẻ đẹp trí tuệ.
Chất trí tuệ trong thơ biểu hiện tập trung hơn cả ở sức mạnh, tính chất đa
dạng và phong phú của tư duy. Những suy nghĩ sắc sảo có sức phát hiện và
đặt vấn đề, những liên tưởng độc đáo và sáng tạo, những giá trị tinh thần làm
bừng sáng lên nội dung tư tưởng của bài thơ. Tất cả những yếu tố đó thuộc
về vẻ đẹp của trí tuệ ở trong thơ…
Toàn bộ những phẩm chất trên hợp thành chất thơ trong sáng tạo của
nghệ thuật thơ ca. Chất thơ ở mỗi nhà thơ được hình thành với những đặc
điểm riêng do trình độ và năng lực tinh thần, do hoàn cảnh cụ thể của từng
người quy định. Có thể thông qua thành phần cấu tạo của chất thơ mà tìm
hiểu những mặt nhất định của phong cách thơ của từng tác giả. Chất thơ
trong thơ Tố Hữu nói chung là tạo được sự hài hòa giữa các nhân tố. Thơ Tố
Hữu giàu cảm xúc, tưởng tượng và có những bài giàu chất sống thực tế. Tố
Hữu cũng có ý thức phản ánh cuộc sống “một cách cao đẹp”. Trong chất thơ
của Tế Hanh nổi bật lên hai yếu tố: cảm xúc và cái đẹp. Thơ của Tế Hanh non
yếu về chất sống thực tế. Chất thơ của Hoàng Trung Thông mạnh về mặt
chất sống thực tế và có phần yếu về năng lực tưởng tượng. Chế Lan Viên có
những bài thơ hay tạo được sự hài hòa giữa các mặt. Với tập thơ Hoa ngày
thường, Chim báo bão, vẻ đẹp của trí tuệ phát triển vượt lên các yếu tố khác
nhưng chất sống thực tế và cảm xúc lại trở nên non yếu. Trong từng thời kì
phát triển của thơ, nhà thơ có ý thức bồi đắp và đẩy thơ phát triển theo một
hướng nào đó và chất thơ có thể được tăng cường về mặt ấy. Như trường
hợp Tế Hanh, bên cạnh những ưu điểm đã có, anh đang cố tạo cho thơ mình
chất sống thực tế và sự suy tưởng. Đó là phương hướng cố gắng rất đáng
hoan nghênh. Mỗi nhà thơ ít nhất phải tạo được một mặt thật mạnh trong chất
thơ và biết khắc phục những chỗ hạn chế và non yếu. Yêu cầu lí tưởng là có
được sự hài hòa giữa các mặt của chất thơ. Chất thơ là đặc trưng quan trọng
của thơ. Thiếu chất thơ, ranh giới về thể loại sẽ trở nên mờ nhạt, bài thơ sẽ
mất đi cái mà được gọi là thơ và dễ có xu hướng hòa tan trong cái mênh
mông không có giới hạn của văn xuôi.
Chất thơ là phẩm chất tổng hợp xác định đặc trưng về mặt thể loại của
thơ. Chất thơ luôn gắn bó và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của quan điểm tư
tưởng. Mỗi nhân tố hợp thành chất thơ đều có cốt lõi về tư tưởng, đều không
tự tồn tại riêng rẽ, thuần túy. Khi nói đến một tâm hồn thơ giàu cảm xúc, nhân
tố quan trọng để cho sáng tác đậm đà chất thơ, thì trước hết và trên hết là
vấn đề nội dung tư tưởng của cảm xúc. Cảm xúc được khơi dậy và đi theo
hướng định nào. Một tiếng nói thơ ca mềm yếu, ủy mị bắt từ trong nguồn
mạch của một tâm hồn đa cảm, yếu đuối chắc chắn là khác về bản chất với
những cảm xúc phong phú, sôi nổi đang thiết tha đấu tranh cho lẽ sống và
những mơ ước lớn. Có được một quan điểm đúng đắn tiến bộ nhưng nếu hồn
thơ nghèo nàn về cảm xúc thì sáng tác ít năng lực truyền cảm. Song nếu tâm
hồn “lai láng cảm xúc” nhưng thiếu cốt lõi về tư tưởng, thiếu một hướng định
vững chắc, thì cảm xúc lại dễ gây tác hại; và trong thực chất của vấn đề thì
cảm xúc trong thơ cũng chính là một dạng thức biểu hiện của tư tưởng.
Cái đẹp trong thơ là sự thống nhất thẩm mĩ giữa những phẩm chất của
thực tại khách quan với cái đẹp trong tâm hồn nhà thơ. Không có cái đẹp
thuần túy vĩnh cửu tách rời khỏi quan điểm của người sáng tác. Cái đẹp được
khai thác trong thơ ca từ sau Cách mạng mang nhiều phẩm chất, nhiều màu
vẻ mới phong phú hơn, tích cực hơn cái đẹp trong thơ ca thời kì trước Cách
mạng. Nhà thơ không chỉ giới hạn trong vẻ đẹp mềm mại của tự nhiên và tâm
hồn con người mà chú ý khai thác cái đẹp trong đấu tranh và lao động sáng
tạo của con người. Sự nhạy cảm và trân trọng với cái đẹp vẫn luôn là một
năng lực, một phẩm chất cần thiết của nhà thơ. Năng lực và phẩm chất, ấy
chính là một bộ phận hợp thành thế giới quan của nhà thơ.
Chúng ta cũng có thể phân tích như thế khi xét đến các nhân tố khác
tạo thành chất thơ. Chất thơ góp phần xác định về mặt thể loại ranh giới giữa
thơ và văn xuôi, giữa thơ và những cái gì chưa phải là thơ. Song để tìm hiểu
và đánh giá cho đúng một tiếng nói thi ca thì phải thấy được từ bên trong chất
thơ tầm vóc về tư tưởng của mỗi tác giả. Tầm vóc tư tưởng chỉ ra độ sâu và
chiều cao của hồn thơ. Tầm cao về tư tưởng nâng chất thơ lên và đem lại cho
nó một phẩm chất mới. Chất thơ trong thơ Tố Hữu thể hiện một sự hài hòa về
nhiều mặt giữa các yếu tố tạo thành chất thơ. Nhưng điều quan trọng là tầm
cao về tư tưởng luôn như một yếu tố đột xuất, rất năng động và linh hoạt làm
cho chất thơ biến hóa và giữ được cái tươi mới sắc sảo qua những giai đoạn
phát triển khác nhau.
Những nhân tố cấu tạo nên chất thơ cũng là những nhân tố góp phần
xác định đặc điểm của hình tượng thơ. Tuy cũng mang một số đặc tính chung
của hình tượng văn học, hình tượng thơ cũng có một số mặt tạo thành đặc
biệt. Nếu xem hình tượng thơ chỉ là hình tượng của cảm xúc thì chưa đủ vì rõ
ràng trong cấu tạo của hình tượng thơ còn có nhiều yếu tố quan trọng khác.
Hình tượng thơ không chỉ được tạo thành từ những nhân tố chủ quan, mà
phải thể hiện sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan tuy nhân tố chủ
quan là chủ yếu.
“Với trí tưởng tượng phong phú và những rung động sâu xa của tâm
hồn, nhà thơ phản ánh hiện thực xã hội và tâm trạng con người thông qua hệ
thống những cảm nghĩ và những hình ảnh tiêu biểu cho đời sống trên cơ sở
của ngôn ngữ gợi cảm chọn lọc và giàu nhịp điệu”.
Đó là đặc điểm sáng tạo và cũng là cơ sở hợp thành của nội dung hình
tượng thơ. Đứng về cấu tạo nội tại, hình tượng thơ thể hiện sự thống nhất
biện chứng giữa yếu tố chủ quan và khách quan. Tương ứng với hai thành
phần đó, tư duy của nhà thơ vận động theo hai hướng hỗ trợ và chuyển hóa
qua lại. Về phía chủ quan, trung tâm hoạt động tư duy của nhà thơ là ở hệ
thống cảm xúc, một hình thức biểu thị nội tâm của nhà thơ trong dạng xúc
động trực tiếp. Cảm xúc và rung động trực tiếp kích thích trí tưởng tượng và
trí tưởng tượng đến lượt nó lại làm cho cảm xúc thêm phong phú. Cảm xúc và
trí tưởng tượng là hai mặt hoạt động hỗ trợ gần gũi của tư duy thi ca để tạo
nên phần máu thịt chủ yếu của hình tượng thơ. Khi Tố Hữu viết về quá khứ:
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều
thì hình tượng thơ chủ yếu được tạo thành bằng chất cảm xúc và tưởng
tượng. Nhận thức về quá khứ đã được chuyển thành cảm xúc. Trong thơ,
nhận thức luôn có xu hướng chuyển thành cảm xúc cũng như trong hoạt động
tư duy của nhà thơ cảm xúc được khơi động cùng một nhịp độ và thời điểm
khi tiếp cận những hiện tượng trong đời sống khách quan. Quá trình chuyển
hóa nhận thức thành cảm xúc là quy luật phổ biến của thơ song không phải
toàn bộ nhận thức trong thơ đều chuyển hóa trọn vẹn qua dạng của cảm xúc
và trạng thái cảm xúc cũng có thể mang nhiều mức độ. Khi nhận thức lí trí
không được quan tâm triển khai, nhà thơ lại phát huy về năng lực cảm thụ
trực tiếp qua các giác quan, hình tượng thơ sẽ mang nhiều cảm xúc trực
năng. Những cảm xúc trực năng cũng là nhân tố cần thiết bồi đắp cho thơ
chất bùn đất phù sa, để làm hiện hình lên màu sắc cụ thể của hình tượng.
Nhưng chạy theo cảm xúc trực năng, thơ sẽ hạn chế về chiều sâu cảm nghĩ
và giá trị nhận thức. Trạng thái tư duy thơ ca của các em nhỏ làm thơ thường
ở vào trường hợp trên.
Thiên hướng phổ biến trong cấu tạo của hình tượng thơ là cảm xúc có
thể chuyển hóa rất năng động và đi về phía trí tuệ với những ý nghĩ, những
suy tưởng. Nhìn chung thì trong thành phần cấu tạo của hình tượng thơ do
chủ quan bồi đắp nên bao gồm hệ thống cảm xúc và suy nghĩ liên kết hữu cơ
với nhau và chủ yếu là cảm xúc. Suy nghĩ, nhận thức phải chuyển thành cảm
xúc, nhưng trong nhiều bài thơ có giá trị đều có những cảm xúc giàu chất suy
nghĩ và có cả những câu thơ đúc kết suy nghĩ tồn tại dưới dạng thuần lí. Thực
tế này là một tiền đề, một khả năng tạo nên nhiều dạng biến hóa của hình
tượng thơ. Có thể ở vào một trường hợp nào đấy, tư duy của nhà thơ
nghiêng về mặt suy tưởng, cảm xúc bị thay thế bằng suy nghĩ, năng lực
tưởng tượng và rung động trực tiếp hạn chế, phần tươi mới, xao động của
hình tượng thơ giảm sút để dồn vào chiều sâu của suy nghĩ. Trong trường
hợp này hình tượng thơ chủ yếu được cấu tạo bằng một hệ thống những suy
tưởng. Tuy không phổ biến và phù hợp với bản chất cấu tạo quen thuộc của
hình tượng thơ, nhưng có thể đó là một hướng vận động và phát triển của
hình tượng thơ. Lại có thể ở vào một trường hợp khác, nhà thơ trực tiếp phát
biểu công khai những quan điểm chính trị, xã hội… của mình trước những sự
kiện trong đời sống. Nhà thơ chủ động khằng định sự có mặt và tham gia
hành động trực tiếp bằng tiếng nói thơ ca. Những chính kiến, quan niệm,
những phân tích và phán đoán chính luận, sẽ tạo thành mặt chủ yếu của hình
tượng thơ để cùng với một số cảm xúc, hình ảnh liên kết thống nhất lại.
Những bài thơ chính trị mang rõ rệt những đặc điểm này.
Về phía khách quan, hiện thực đời sống đi vào trong thơ bằng nhiều
hình thức và tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Tư duy của nhà thơ trước
cuộc sống khách quan phong phú luôn có xu hướng muốn tiếp nhận, chuyển
hóa hiện thực vào trong thơ. Trong thơ ca trước kia nhiều nhà thơ tiếp nhận
cuộc sống ở trạng thái thụ động. Những cái lắng nghe, những điều trông thấy
qua môi trường sinh sống tác động theo quy luật tự nhiên đến họ, khiến họ từ
đó bộc lộ một số tâm trạng, một thái độ phản ứng; tuy phản ứng có lúc mạnh
mẽ nhưng vẫn là bất lực và bi quan, chua chát. Với thơ ca cách mạng, nhà
thơ chủ động đi vào đời sống để tìm hiểu, phát hiện, tự bồi đắp, nên hiện thực
ùa vào trong thơ với một nhịp độ mạnh và khối lượng lớn. Hình tượng thơ do
đó thể hiện một tương quan mới trong phân lượng cấu tạo giữa nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan. Trước hết hiện thực khách quan là nguyên nhân
tác động, là cơ sở để hình thành những cảm xúc chân thực, điển hình trong
thơ. Và cấu tạo nội dung hình tượng, thì hiện thực đời sống có thể vào thơ
với những câu chuyện, những sự kiện, những hình ảnh và chi tiết, những bức
tranh về đời sống con người và thiên nhiên. Nếu hiện thực khách quan đi vào
trong thơ dưới hình thức của câu chuyện đầy đủ, có cốt truyện, có hệ thống
sự kiện, hành động… thì ta có truyện thơ, một hình thức thơ tự sự. Thơ trữ
tình ít chấp nhận những câu chuyện kể hoàn chỉnh, mạch lạc, chi tiết, tuy có
sử dụng đến mức độ nào đó những yếu tố tự sự, và có thể cả sườn cốt
truyện giảm lược. Phổ biến hơn là việc miêu tả những bức tranh về cuộc sống
và thiên nhiên thâu tóm lại ở những hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu. Thơ trữ tình
cũng có sự kiện, hành động, nhưng chủ yếu là hình ảnh. Chất liệu hiện thực
khách quan của đời sống vào thơ và biến hóa linh hoạt theo khả năng liên kết
của các hình ảnh và phẩm chất riêng của từng hình ảnh. Một sự liên kết thuận
chiều những hình ảnh có thực.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đăm bông.
Những liên kết của hai hình ảnh có thực với một ẩn ý tượng trưng: đầu súng
– trăng treo, ngọn đèn – đứng gác, vầng trăng - quầng lửa… cho đến những
liên kết phức tạp hơn của những cái không có thực để nói lên một sự thực
trong ý nghĩa tượng trưng sâu xa của nó.
… Ta xé vải chôn ta để may cờ chiến thắng
… Ta nấu xích xiềng ta làm súng đạn.
Thơ cần đến những hình ảnh trực tiếp của đời sống, giàu chất sống thực tế
và cũng chấp nhận một “ảnh ảo tượng trưng” được tạo nên từ cuộc sống thực
qua sức tái tạo của nhà thơ. Do đó trong cấu tạo nội tại của hình tượng thơ,
hiện thực phải tồn lại dưới dạng của chất liệu trực tiếp và cũng có thể ở vào
trường hợp nào đó là chất liệu gián tiếp. Đó là tiền đề để nảy sinh và tạo nên
nhiều dạng biến hóa của hiện thực trong thơ. Chất liệu hiện thực có thể triển
khai qua những sự kiện và hàng loạt hình ảnh phản ánh hiện thực đời sống
như nó vốn có trong lối thơ hiện thục; hoặc nhà thơ có thể đặc biệt quan tâm
đến việc xây dựng, miêu tả hình ảnh trong thơ và xem đó như yếu tố thứ nhất
của thơ qua khuynh hướng thơ nên họa. Cũng có người viết không chú ý
đúng mức đến khả năng và giới hạn của thơ trữ tình trong việc phản ánh hiện
thực nên đã đưa dồn dập chất liệu hiện thực vào thơ, buộc thơ phải ôm quá
nhiều sự việc. Thơ có khả năng mở rộng biên độ của nó để giao hòa với các
thể loại khác nhằm phản ánh hiện thực trong bối cảnh xã hội rộng rãi như
truyện thơ, thơ bút kí, thơ sân khấu… Ở đây với các loại thể này, hình tượng
thơ đã biến chất theo đặc điểm mới của loại thể này. Trong dạng thức trữ tình
nguyên chất, hiện thực trong thơ có thể biến hóa và tồn tại dưới nhiều hình
thức nhưng không lấn át chủ quan, biến thơ thành hình thức mô phỏng sao
chép và kể lể dài dòng về đời sống.
Ở vào trường hợp khác có thể nảy sinh khuynh hướng nhấn mạnh yếu
tố chủ quan như một quyền lực sáng tạo. Hiện thực đời sống với những
nguyên mẫu phong phú chỉ được xem là tiền đề, là chất liệu để từ đó nhà thơ
hoán cải, tái tạo. Những biểu tượng, tượng trưng, ước lệ sẽ được vận dụng
rộng rãi. Chất liệu hiện thực ở một lúc nào đó vốn bao trùm hình tượng, lại bị
đẩy lùi, thu hẹp giới hạn theo một tương quan mới trong cấu tạo nội tại của
hình tượng. Những hình thức vận động và triển khai của các nhân tố chủ
quan và khách quan trong hình tượng thơ từ cực này sang cực khác, từ một
nhân tố trở thành bao trùm toàn bộ đều là hiện tượng thực tế trong sự phát
triển của các khuynh hướng thơ ca. Vấn đề cơ bản là phải tạo được sự cân
đối, hài hòa giữa các thành phần. Thơ ca cách mạng với lí tưởng và hoàn
cảnh sáng tạo mới đã khẳng định những tiêu chuẩn thẩm mĩ mới trên cơ sở
thống nhất lí tưởng và hiện thực, cái chung và cái riêng, truyền thống và sáng
tạo, nội dung và hình thức… Hình tượng thơ do đó sẽ có vẻ đẹp mới của
những sáng tác vừa hiện thực lại vừa trữ tình, vừa giàu chất sống thực tế vừa
có dấu ấn của tâm hồn, vừa có tầm tư tưởng cao và sức tiến công mạnh, lại
vừa dồi dào cảm xúc… Các nhân tố cấu tạo hình tượng không đối lập và đẩy
nhau mà thống nhất và liên kết tự bên trong. Thực sự đó là một bước phát
triển mới so với hình tượng thơ của các trào lưu thơ ca trước kia.
Chương 2. NHÀ THƠ, CÁI TÔI VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG THƠ
I. QUAN HỆ GIỮA NHÀ THƠ VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠSáng tác thơ ca là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc tự bên
trong nhiều khi mãnh liệt, dồn dập do sự tác động của đời sống gây nên.
Trong thơ, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.Vị trí của cái tôi trữ tình trong thơ, giới hạn của nó, mối liên hệ giữa
khách thể và chủ thể luôn đặt ra trong thơ qua những thời đại khác nhau
những câu hỏi cần được giải quyết.
Trong tác phẩm Mĩ học của Hêgen, khi đề cập đến nội dung của thơ trữ
tình, tác giả cho rằng: “Nguồn gốc và điểm tựa của nó là ở chủ thể, và chủ thể
là người duy nhất, độc nhất mang nội dung. Chính vì vậy cho nên cá nhân
phải có được một bản tính thi sĩ, phải có một trí tưởng tượng phong phú, phải
có một cảm xúc dồi dào, và có thể lĩnh hội được những ý niệm sâu sắc và đồ
sộ”.
Nhận xét ấy của Hêgen sau này được Biêlinxki và một số các nhà lí
luận khác phát triển thêm, ở thể loại này dấu ấn chủ qian của tác giả trên hình
tượng thơ biểu hiện rõ nét hơn, trực tiếp và toàn vẹn hơn các lĩnh vực khác.
Những cung bậc tình cảm của nhà thơ dù là một niềm vui hồ hởi hay một nỗi
buồn sâu lắng thiết tha, dù kéo dài triền miên trĩu nặng tâm hồn hay thoáng
qua trong giây lát đều gắn liền với một cái gì của đời sống bên ngoài, nhưng
sâu xa hơn là tiếng nói thầm kín của trái tim và tâm hồn người nghệ sĩ.
Có nhiều cuộc đời thi sĩ gắn liền với đời thơ như hình với bóng. Nhà
thơ là nhân vật chính, là hình bóng trung tâm, là cái tôi bao quát trong toàn bộ
sáng tác. Nhưng sự kiện, hành động và tâm tình trong cuộc đời riêng cũng in
lại đậm nét trong thơ. Dường như mỗi phong cách sống đều có một dáng dấp
riêng trong thơ và ngược lại, Nói như Hàn Mặc Tử:
Người thơ phong vận như thơ ấy.
Thơ trữ tình của Gơt, Puskin, Lecmôntôp cũng chính là những nỗi niềm
tâm sự riêng của tác giả. Thơ Pêtôphi sôi sục lòng khao khát yêu tự do và sự
phẫn nộ với ngai vàng thống trị cũng chính là hình ảnh của người thanh niên
Pêtôphi giàu nhiệt huyết cách mạng. Những năm tháng cô đơn hiu hắt vì một
mối tình thất vọng của Đickenxơn cũng là ngọn nguồn của mọi tâm trạng
trong thơ của tác giả. Thơ là tấm phiên bản trung thành và sáng tạo của bản
thân nhà thơ. Thậm chí có khi đến một chi tiết trong cuộc đời về kỉ niệm một
mối tình được chia sẻ, một chuyến đi xa, một tình bạn thời thơ ấu đều được
ghi lại trong thơ.
Gơt đã từng tâm sự: “Những gì khiến cho tôi vui mừng đau khổ hay nói
chung thu hút tôi thì tôi cố biến ra thành hình tuợng, thành thơ… Tôi cố gắng
thoát ra khỏi những gì đang giày vò tôi bằng một bài ca, một bài phúng thi,
một câu thơ nho nhỏ nào đấy”.
Garxia Lorka cũng nói một cách cảm động về mối quan hệ giữa nhà thơ
và đời thơ: “Mỗi bài thơ mà hôm nay tôi trao vào tay bạn đọc thân mến là nảy
sinh cùng với mầm mống trên cái cây xao động của cuộc đời đang nở hoa.
Coi thường quyển sách này sẽ là tàn nhẫn bởi vì nó gắn liền khăng khít với
bản thân cuộc đời của tôi. Ở ngay sự yếu đuối của nó, sự nghèo nàn mà tôi
thừa nhận vẫn có một sức mạnh của nó trong số những sức mạnh khác mà
chỉ có tôi mới phát hiện được”.
Viên Mai cũng cho rằng “tất cả mọi người làm thơ đều có thân phận của
mình”. Khi bình thơ, Viên Mai đã chỉ ra hiện tượng là lời thơ mà thường có ý
kiêu ngạo thì người làm thơ ấy chắc không phải là người tốt”.
Trách nhiệm cũng như mối liên hệ chặt chẽ giữa cuộc đời người nghệ
sĩ và hoạt động sáng tạo nghệ thuật là vấn đề chung đặt ra cho các thể loại
nhưng trước hết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thơ. Khuynh hướng
đối lập hoặc tách rời nhà thơ và người công dân là sai lầm. Con người đang
tham gia vào mọi hoạt động xã hội kia, với những hành động, tâm trạng, sở
thích, thói quen cũng là con người sáng tạo thơ ca. Không thể đối lập một
cách giả tạo và cực đoan giữa con người thực tế của nhà thơ và con người
trong sáng tạo thơ như Bênêđettô Grôxê trong công trình bàn luận về thơ.
Cũng không thể nêu lên tình trạng phân đôi, chia sẻ con người tự bên
trong. “Con người đôi” như một số nhà lí luận phương Tây thường nói và xem
như là một kiểu người phổ biến của thời đại hiện nay phản ánh tình trạng
sống đối phó, bị chia sẻ của một số trí thức và tầng lớp trung gian trong xã hội
tư sản. Thiếu một lí tưởng dắt dẫn, thiếu một bản lĩnh và nghị lực trong hành
động, tính cách bị phân tán và chia cắt thành những mặt đối lập phức tạp, mà
nét đối lập chủ yếu là giữa cá nhân và xã hội. Tình trạng đó dẫn tới con người
thiếu thống nhất; ở một mức độ nhất định những người nghệ sĩ trong xã hội
tư sản cũng chịu ảnh hưởng đó. Tuy nhiên không thể phân đôi thành hai mặt
giữa con người công dân và con người nghệ sĩ. Nếu có tình trạng mâu thuẫn
trong tư tưởng và tâm hồn nghệ sĩ tất sẽ dẫn đến những mâu thuẫn trong quá
trình sáng tác. Không thể có hiện tượng đối lập giữa con người và tác phẩm
trong ý nghĩa cực đoan. Như trường hợp Xanh Jôn Pecxơ, ở đây phải chăng
có sự đối lập, hoặc không có liên hệ gỉ giữa nhà ngoại giao Alêxi Lêjê và nhà
thơ Xanh Jôn Pecxơ như tác giả thường nói: “Xin mọi người miễn đừng liên
hệ gì đến cuộc đời ngoại giao của tôi cả. Không phải là không có lí do mà tôi
dùng biệt hiệu, để viết văn và luôn luôn tách con người tôi ra làm hai. Thực ra
bất cứ một sự liên hệ nào giữa Xanh Jôn Pecxơ vả Alêxi Lêjê sẽ dẫn đến chỗ
đánh lạc hướng nhận xét của bạn đọc khiến cho người đọc hiểu thơ một cách
sai lệch về cơ bản”.
Thực ra toàn bộ cuộc đời của Xanh Jôn Pecxơ khi trực tiếp khi gián tiếp
đã gắn liền với thơ của tác giả. Từ những kỉ niệm thời thơ ấu, những chuyến
đi, những sự từng trải qua năm tháng, công việc, đã đem đến cho Xanh Jôn
Pecxơ chất liệu và những suy tưởng phù hợp với cốt cách của cá nhân và
kinh lịch của tác giả.
Sự thống nhất giữa cuộc đời nhà thơ và cái tôi trữ tình trong sáng tác là
một hiện tượng khá phổ biến với thơ. Thơ trữ tình từ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, đến Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Tú Xương, Phan Bội Châu,
Tố Hữu, v.v… đều biểu hiện rất rõ nét sự thống nhất trên. Thái độ bất bình với
những xấu xa và lố lăng của xã hội, nụ cười mỉa mai và trào lộng đều có
những liên hệ khá trực tiếp với cuộc đời riêng của Tú Xương, nhà nho yêu
nước long đong trong chuyện thi cử, và cái nghèo năm tháng quẩn quanh.
Những lời thơ tâm huyết sắt son của Phan Bội Châu gắn liền với cuộc đời
người chí sĩ cách mạng thiết tha yêu nước. Tố Hữu nhà thơ, người chiến sĩ
cộng sản, đời thơ, đời cách mạng chỉ là một.
Tuy nhiên một vấn đề quan trọng cần quan tâm là không thể đồng nhất
cái tôi của nhà thơ trong đời sống với cái tôi trữ tình trong tác phẩm. Nếu máy
móc tìm kiếm, gán ghép tất cả những hành động, sự việc, tâm tình của cái tôi
trữ tình cho tác giả hoặc ngược lại lấy cuộc đời và con người riêng tư của nhà
thơ mà đối chiếu với cái tôi trữ tình trong sáng tác một cách rập khuôn thì
tránh sao khỏi khiên cưỡng. Có những sự khác biệt dường như rất lạ lùng
giữa nhà thơ – con người của cuộc sống thực – với cái thế giới nội tâm thơ
mộng, màu sắc mà nhà thơ sáng tạo nên. Fet người chủ trại ấp, cảnh sát
trưởng nông thôn đã tự khác đi biết bao nhiêu với nhà thơ Fet trữ tình đằm
thắm và nên thơ. Veclen, con người lang thang trong các quán rượu đắm
chìm trong những mộng tưởng xa lạ, với Veclen, nhà thơ có những vần thơ
tỉnh táo ca ngợi Ba–lê công xã có thể là một hay không? Trong di sản thơ ca
để lại của nhiều nhà thơ có hiện tượng mâu thuẫn, khác biệt và đối lập nhau
về tư tưởng và tình cảm trong sáng tác. Do thực tế đó nên cũng có nhiều ý
kiến phản đối khuynh hướng xem thơ trữ tình là một hình thức tự biểu hiện.
Tsecnưsepxki cho rằng:
“1. Cái tôi của thơ trữ tình không phải bao giờ cũng là cái tôi của tác giả
đã viết ra bài thơ.
“2. Trong khi gán cho bản thân nhà thơ những hành vi, những tình thế
và những cảm giác của cái tôi xuất hiện trong thơ trữ tình phải hết sức thận
trọng và không bằng cách nào khác hơn là đối chiếu những hành vi và cảm
giác của cái tôi trữ tình với những sự kiện lịch sử văn học xác thực”.
Những ý kiến của Tsecnưsepxki không phải là không có căn cứ trên
thực tế của những sáng tác thơ trữ tình và phần bình luận giải thích.
Tsecnưsepxki nhấn mạnh đến cái tôi được nghệ thuật hóa, với những phẩm
chất thẩm mĩ mới khác đi nhiều với cái tôi vốn có của nhà thơ. Tsecnưsepxki
chưa thấy hết được những mối liên hệ tinh vi và phức tạp giữa nhà thơ và đời
thơ, vừa tương đồng lại vừa khác biệt.
Với một thái độ phản ứng mạnh mẽ hơn về sự đồng nhất cái tôi trữ tình
với cái tôi nhà thơ. Briuxôp lại rơi vào một cực đoan khác. Tác giả cho rằng:
“Các nhà phê bình thích xác định cá tính của nhà thơ trữ tình qua thơ
của họ. Nếu nhà thơ nói “tôi” thì các nhà phê bình gán những điều nói trong
thơ cho bản thân nhà thơ. Những mâu thuẫn không sao hòa giải được, mà về
phương diện này các nhà thơ rơi vào, ít làm cho nhà phê bình băn khoăn. Họ
cố giải thích những mâu thuẫn đó bằng những cái ngẫu nhiên trong tâm trạng.
Nhưng trong một bài thơ trữ tình nhà thơ chân chính đều có một cái tôi khác.
Trong các tác phẩm của mình nhà thơ trữ tình nói bằng những tiếng nói khác
nhau dường như nhân danh những con người khác nhau. Trữ tình cũng gần
như kịch nếu gắn những cảm xúc của Macbet cho Sêcxpia là sai thì kết luận
về những thiện cảm và những quan điểm của Banmông căn cứ trên một bài
thơ nào đó của ông cũng sai không kém. Cá tính của nhà thơ có thể tìm gặp
trong những biện pháp sáng tác của họ, trong những hình tượng ưa thích của
họ, trong những lời ẩn dụ của họ, nhưng không thể trực tiếp rút ra từ những
cảm xúc và ý nghĩ mà nhà thơ biểu hiện trong các tác phẩm của mình”
Thực ra thì không thể đồng nhất vì đồng nhất là sai lầm, là phủ nhận
những đặc trưng của quy luật điển hình hóa nghệ thuật. Cái tôi nhà thơ khác
với cái tôi được nghệ thuật hóa. Tuy nhiên trong thơ trữ tình hai phạm vi trên
hoàn toàn thống nhất. Đi vào nghệ thuật, cái tôi được nâng cao hơn, được
trình bày với những màu sắc phong phú hơn, nhưng căn bản vẫn là tâm hồn
và con người ấy; nếu có những khác biệt ở mức độ này hay khác giữa cái tôi
nhà thơ và cái tôi trữ tình trong sáng tác thì điều đó không có nghĩa là nhà thơ
đã giả dối với chính mình và với người đọc. Cần chú ý giải thích, tìm hiểu
nhiều nguyên nhân.
– Một là, có những nhà thơ mà quá trình sáng tác trải qua nhiều giai
đoạn nên mang những đặc điểm dường như hết sức khác nhau. Những sự
kiện lịch sử trọng đại đã tác động và làm đổi thay thế giới quan như trường
hợp Maiakôpxki, Blôc với cách mạng tháng Mười Nga, trường hợp Xuân Diệu
Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh với Cách mạng tháng Tám. Êluya, Aragông
từ khuynh hướng tượng trưng, siêu thực, đã phấn đấu để tìm đến một
phương pháp sáng tác tiến bộ nên trong sáng tác thơ ca của các tác giả này
in rõ dấu vết của sự chuyển biến đó.
Những biến cố lớn trong đời sống chính trị, những đổi thay trong cuộc
sống riêng tư đều gây nên nhiều phản ứng và tâm trạng. Những sự kiện
khách quan và những tâm trạng chủ quan ngày càng bồi đắp cho cái tôi trữ
tình thêm đa dạng, thêm phức tạp. Sự chỉ đạo và tác động của nhiều hệ tư
tưởng khác nhau đối với quá trình sáng tác làm cho những mô–típ trữ tình hết
sức phức tạp và thiếu nhất quán.
Mac đã có một nhận xét và giả định khá thú vị về quá trình sáng tác của
Bairơn và Seli. Mác cho rằng cái chết đến quá sớm với Seli, đó là một điều
tổn thất, nhưng với Bairơn thì nếu năm tháng kéo dài thêm lại là một điều bất
hạnh. Mác nhận xét: “Sự khác nhau thực sự giữa Bairơn và Seli là điều này:
những người nào hiểu và yêu họ thì cho việc Bairơn chết năm 36 tuổi là điều
hạnh phúc vì ông sẽ trở thành nhà tư sản phản động nhất nếu ông sống lâu
thêm, ngược lại người ta tiếc khi Seli chết năm 29 tuổi vì ông là nhà cách
mạng chân chính và luôn luôn thuộc về đội tiền phong của chủ nghĩa xã hội.
Mac đã thấy những mầm mống tiêu cực ở thời kì Bairơn sắp qua đời.
Những mầm mống đó có xu hướng phát triển và có thể trở thành mặt bản
chất khuynh loát những nhân tố tiến bộ nếu giả định Bairơn còn tiếp tục kéo
dài cuộc sống của mình. Trong thời kì công tác ở tờ báo Sông Ranh, Mac đã
chứng kiến những mâu thuẫn và phức tạp của quá trình sáng tác của một số
nhà thơ bộc lộ trực tiếp ngay trong một thời gian ngắn như Hainơ,
Phơrâyligrat, Hecvegơ, v.v… Phơrâyligrat đã đi từ quan niệm “nhà thơ là
người đứng trên ngọn tháp cao hơn cả những lỗ châu mai của Đảng” phát
biểu vào năm (1841) đến quan niệm “tôi đã bỏ chiếc tháp của tôi để xuống
đứng sau lỗ châu mai của Đảng” phát biểu bốn năm sau. Và cũng chính
Phơrâyligrat mười lăm năm sau lại trở thành một cây bút phản động. Tất cả
những sự đổi thay đó trong thơ và quan điểm về thơ phản ánh rất trung thành
những thay đổi của bản thân cuộc đời và thức của tác giả qua những thời kì
khác nhau.
– Hai là bản chất giàu cảm xúc nói chung là đặc điểm rất quan trọng
song hoạt động sáng tác của người nghệ sĩ và riêng với thơ ca thì đó lại càng
là bản chất chủ yếu. Nếu trong hình tượng thơ, cảm xúc là đơn vị hợp thành
cơ bản thì nhà thơ phải vô cùng giàu có trong năng lực tạo thành cảm xúc.
Sự giàu có này bộc lộ trong khả năng đồng cảm với mọi người, trong sự chia
sẻ niềm vui nỗi buồn với đồng loại, trong sự phân thân thành những đối
tượng bên ngoài mình, khác với chính mình. Nhà thơ phải có một trái tim lớn,
một tình cảm lớn. Nhiều cảnh ngộ, nhiều trạng thái tình cảm của đồng loại,
của người thân thương làm xúc động đến những tình cảm sâu kín nhất khiến
cho nhà thơ tham dự vào đó như chính cảnh ngộ của bản thân mình. Khi
Nguyễn Du hai lần thốt lên với một niềm xúc động sâu sắc:
Đau đớn thay phận đàn bà
thì chính nhà thơ không phải chỉ nói lên một nhận xét, một cảm xúc bình
thường mà như một trạng thái “phân thân”, vượt khỏi giới hạn của cảnh ngộ,
của giới tính và là tiếng nói của chính thân phận mình. Cũng tiếng nói ấy, thật
dễ hiểu hơn với Hồ Xuân Hương khi cuộc đời tác giả phải chịu đựng những
đắng cay cùng loại của người phụ nữ. Song ở Hồ Xuân Hương, về một
phương diện khác, cũng có một điều đáng chú ý. Nhà thơ nữ giới này luôn có
một cái gì tinh nghịch, đôi lúc như cứng đầu, “ngỗ ngược”, nắm trúng những
nhược điểm của nam giới mà công kích. Hồ Xuân Hương đã thấy rõ trong cái
bọc đàn ông mà tác giả có dịp gặp gỡ đã thiếu hẳn bản lĩnh cần có của nam
giới. Cho nên cũng không phải là nói ngoa khi dám
Thân này ví đổi làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.
Trong thơ ca hiện đại, sự nhập thân trong cảm xúc cũng bộc lộ ở nhiều
trường hợp ngay cả khi nhà thơ khác nhau về cảnh ngộ, nghề nghiệp, xứ sở
với đối tượng mình nói đến. Tố Hữu với tiếng nói của Môrixơn trong bài Êmily
con. Huy Cận với thế giới của các em nhỏ trong Những bàn tay em. Phạm
Tiến Duật với hình ảnh và tâm trạng người lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe
không kính và Nhớ. Cảnh ngộ của các tác giả trên không nằm trong cảnh ngộ
nhân vật trữ tình nhưng sự cảm thông lại có từ bên trong. Tố Hữu đã lắng
nghe, hòa mình, nhập thân vào hoàn cảnh của Môrixơn để nói lên một cách
xúc động, vang sâu tiếng nói của chân lí:
Ê-mi-ly con ôi
Trời sắp tối rồi
Cha không bế con về được nữa!
… Oa–sinh–tơn
Buổi hoàng hôn
Ôi những linh hồn
Còn mất?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất
Ta đốt thân ta
Cho ngọn lửa chói lòa
Sự thật.
Thật cũng khó phân biệt đâu là tiếng nói của nhà thơ và đâu là tiếng nói
của nhân vật.
Mỗi nhà thơ phải có một trái tim, một niềm cảm thông lớn. Trái tim của
Nazim Hitmet luôn bị giày vò, đau đớn vì nỗi nhớ như điên dại đất nước và vợ
con thân yêu. Nhưng thật xúc động và đẹp đẽ biết bao khi nhà thơ viết:
Mỗi buổi sáng trái tim tôi lại bị đem xử bắn
Với những chiến sĩ yêu nước Hi Lạp.
Blaga Đimitơrôva nhìn những hố bom ở Văn Linh, những hố bom của
căm thù và tội ác đang được nhân dân lấp lại để cho cuộc sống hồi sinh mà
nghĩ thật tha thiết, chân tình: “Tôi đến từ rất xa, tôi không mang theo tôi được
một hòn đá của núi Bancăng…”
Tôi có mang với mình có một trái tim
Tôi xin ném nó vào miệng vết thương
Nếu nó có thể lấp được vết thương này một chút
Và có thể ngày mai nảy lên một nhành cỏ biếc.
Trái tim đó chính là tấm lòng, là tâm hồn giàu yêu thương, biết gắn bó
và chia sẻ với niềm vui và nỗi buồn của một đất nước anh hùng đang chiến
đấu.
Cái khó khăn nhất với một nhà thơ là khả năng đồng cảm, nhập thân
với một đối tượng cao hẳn hơn mình. Không phải là sự nhìn ngắm ngợi ca
hoặc kể lể tự bên ngoài, mà biết nâng mình lên để phân thân vào con người
và cảnh ngộ. Tố Hữu đã biết rõ điều đó và tác giả đã thành công khi viết về
Bác. Khi nhà thơ viết:
Ôi! Phải chi lòng được thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời.
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người
thì chính nhà thơ đã nâng mình lên để trở thành một mảnh nhỏ trong trái tim
giàu yêu thương của Bác.
– Ba là, sự khác biệt giữa cái tôi trữ tình và cái tôi của tác giả còn có
thể giải thích bằng những đặc điểm của quy luật điển hình hóa trong nghệ
thuật. Tình cảm đi vào cửa ngõ nghệ thuật thường mang ánh sáng mới, lấp
lánh vẻ đẹp của niềm tin và mơ ước. Khát vọng vươn tới một lí tưởng cao
đẹp, sự gạn lọc trong chiều sâu của cảm xúc phần tinh anh, thanh khiết sự
buông thả. cho tâm hồn trôi đi trong ước mơ và hi vọng, cũng như sự phẫn nộ
với cái xấu xa trong đời sống vẫn là mạch tình cảm chủ yếu của thơ ca chân
chính. Chế Lan Viên đã nói một cách sâu sắc chân tình cái chân lí đó của sự
sáng tạo nghệ thuật đặc biệt của thơ ca.
Tôi đâu dám tủi buồn quên nhiệm vụ
Mỗi câu thơ đều phải vượt lên mình.
Phần tự vượt lên mình ghi nhận thắng lợi của mỗi đấu tranh trong tâm
trạng, cho dù là một thắng lợi nhỏ, vẫn nói lên một điều gì xứng đáng với cuộc
sống cũng như lương tâm nhà thơ. Câu thơ trên như một phương châm được
nói lên từ một âm hồn chưa vui, chưa vui hẳn, nhưng các bóng dáng, cái tojg
qua của một nỗi buồn trong tâm trạng cá nhân được gạn lọc và gạt bỏ đi trong
thơ với tinh thần ích nhiệm.
Thơ không chấp nhận một ước mong không chân tình. Nhưng nếu chỉ
có phần chân tình của một nổi lòng bộc lộ ra như một tâm trạng tự nhiên, có
thực thì cũng chưa đủ. Cái chân tình của một cảm xúc, một tâm trạng được
nói ra dưới dạng của một mơ ước trong cái thế của một sự vươn tới, một đấu
tranh để khắc phục vượt lên mình. Không phải không có những kẻ luôn tìm
đến với nghệ thuật để phá phách cuộc sống và cũng là sự phá hoại đời mình.
Những tiếng rên rỉ kêu than của những tâm hồn hèn yếu trong thơ ca lãng
mạn tuyệt vọng, những sự tự thú nhận một cách thiếu liêm sỉ của một số cây
bút bệnh hoạn trong thơ ca của chủ nghĩa hiện đại là những dấu vết hèn yếu
trong tâm hồn nhân loại. Thơ ca chân chính luôn là tiếng nói yêu thương, là
lời ca chiến đấu, giàu ước mơ và khát vọng. Thơ gắn liền với phần lí tưởng
bay bổng, phần cao đẹp của tâm hồn. Nhất là khi đã nhấn mạnh đến ý thức
của nhà thơ về mục đích và nhiệm vụ của thi ca, nhằm đáp ứng lại những yêu
cầu chân chính của xã hội thì thơ càng phải có ích, phải vượt ra khỏi những
giới hạn và những ràng buộc của một cá nhân. Và tất nhiên khi đó thơ sẽ
được kết tinh từ những cảm xúc trong sáng những suy nghĩ cao đẹp và tích
cực nhất của nhà thơ. Tế Hanh cũng tự nêu lên cho mình phương châm sáng
tạo đó qua suy nghĩ:
Câu thơ đẹp là câu thơ có ích.
Uống tự nguồn những suối ban mai.
Đi vào phán đoán một cách hình thức theo từng mặt của một con
người, đôi khi người ta cảm thấy dường như trong hai phạm vi thơ và nhà thơ
thì thường thế vẫn đẹp hơn chủ nhân sáng tạo ra nó. Nhà thơ, con người
đang sống trong một môi trường xã hội nhất định, con người cũng cần có tất
cả những nhu cầu cần thiết để đảm bảo đời sống. Những cái cụ thể hằng
ngày những nhu cầu thực tiễn dễ gây ấn tượng đối lập với tính chất trữ tình
thơ mộng với phần tinh tế và sâu thẳm của tâm hồn, mà phẩm chất này
thường chỉ bộc lộ rõ nét nhất trong hoạt động sáng tạo về tinh thần đặc biệt là
trong thơ ca. Trong thơ cũng có trường hợp nhà thơ xuất phát từ một mục
đích phê phán nào đó và dùng lối nói châm biếm, ngoa dụ làm cho cái tôi trữ
tình trong thơ xấu hơn, tiêu cực hơn cái tôi của nhà thơ ngoài cuộc đời. Tú
Xương là một hiện tượng tiêu biểu.
Con người phong nhã
Ở chốn thị thành
Râu rậm bằng chổi
Đầu to tầy giành
Cũng lắm phen đi đây đi đó.
Thất điên bát đảo
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh tứ đốm tam khoanh
Nhà lính tính quan, ăn rặt những thịt quay lạp xưởng, mặc rặt
những quần vân áo xuyến.
(Phú thầy đồ dạy học)
Trong trường hợp này cần tránh khuynh hướng đồng nhất cái tôi trữ
tình và cái tôi nhà thơ mà cần phải lưu ý tới đặc điểm của sự châm biếm và
mục đích của bài thơ.
Qua những luận điểm và trường hợp đã nêu trên, chúng ta có thể
khẳng định rằng nhà thơ không đồng nhất với cái tôi trữ tình, nhưng hoàn
toàn thống nhất. Con người ấy, tâm hồn ấy sẽ là cơ sở trực tiếp nhất sáng tạo
nên thi ca. Không có những phút ngẫu nhiên may mắn, những bí ẩn lạ kì tham
dự vào quá trình sáng tạo để biến một con người thơ tầm thường nghèo nàn
thành chủ nhân của những sáng tác có giá trị. Cũng không thể nói như
Platông là thần thánh đã nhập vào nhà thơ khi sáng tác nên mới có hiện
tượng Tynnischos de Chalcis, một nhà thơ tồi tại viết được một bài thơ hay,
và suốt đời ông từ chỉ viết được một bài ca tả thần đó.
Có thể có hiện tượng Platông nêu lên, những cách giải thích của
Platông là duy tâm. Một nhà thơ trung bình nhưng có thể vào một lúc nào đó
sung sức nhất của đời mình lại bắt gặp một đề tài tâm đắc mà tình cảm hằng
nung nấu, ấp ủ nên viết được một bài thơ hay, thậm chí thật hay. Giá trị của
bài thơ như vượt khỏi tầm vóc vốn có của nhà thơ và khác hẳn với cách đánh
giá suy nghĩ quen thuộc của độc giả đối với tác giả này. Nhưng sau đó và có
thể suốt đời đó là một thành công duy nhất.
II. NHỮNG HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
Cái tôi trữ tình bộc lộ trong thơ với nhiều dạng thức. Có khi dưới dạng
trực tiếp của một tình cảm riêng tư, một câu chuyện, một cảnh ngộ, một sự
việc gắn với cuộc đời riêng của người viết. Thường trong những trường hợp
ấy cái tôi trữ tình rất gần hoặc cũng chính là cái tôi của tác giả và nhà thơ
thường sử dụng một cách bộc lộ trực tiếp qua chữ “tôi”:
… Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ.
… Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
(Tố Hữu)
hoặc chữ “ta”:
Huế ơi, quê của ta ơi!
(Tố Hữu)
Nhưng phổ biến thì chữ “ta” rộng hơn bản thân cái tôi của người viết.
Có khi là anh em ta, đồng chí ta, bạn bè ta…
… Đời vui đó tiếng ca Đoàn kết
Ta nằm nay nhau xây lại đời ta.
(Tố Hữu)
Thường thì cái tôi trữ tình trong thơ dễ bộc lộ trực tiếp trong trường hợp
viết về chính bản thân mình và trong những quan hệ riêng tư. Với những loại
đề tài này cái tôi trữ tình trong thơ thường phổ biến là cái tôi của tác giả.
Trường hợp thứ hai là cảnh ngộ, sự việc trong thơ không phải là cảnh
ngộ riêng của tác giả. Nhà thơ nói lên cảm nghĩ về những sự kiện mà mình có
dịp trải qua hoặc chứng kiến như một kỉ niệm, một quan sát. Tố Hữu với Ta đi
tới, Chiến thắng Điện Biên, Huy Cận với Các vị La Hán chùa Tây Phương,
Giờ trưa, Chân lí, Nguyễn Đình Thi với Đất nước, Hoàng Trung Thông với Bài
ca vỡ đất, Ngày mùa v.v… đều nằm trong trường hợp này. Cái tôi trữ tình là
nhân vật trữ tình chủ yếu của sáng tác.
Trường hợp thứ ba là những bài thơ. trữ tình viết về một loại nhân vật
nào đó như Bà mẹ Việt Bắc của Tố Hữu, Anh chủ nhiệm của Hoàng Trung
không. Những nhân vật này có khi là những điển hình có thực ngoài đời như
Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Môrixơn, v.v… Đó là nhân vật trữ tình
của sáng tác tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình của nhà thơ (trong trường hợp
này cái tôi trữ tình là một loại nhân vật ít xác định cụ thể hơn).
Trong những trường hợp trên tuy cái tôi của nhà thơ không bộc lộ trực
tiếp, nhưng qua sáng tác vẫn nổi lên rõ cái tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình là cái tôi
của tác giả được nghệ thuật hóa. Đó là nhân vật trữ tình quan trọng trong thơ.
Có thể cái tôi của nhà thơ với những cảnh ngộ và sự việc cụ thể không lược
sử dụng miêu tả trong thơ, nhưng cái tôi trữ tình vẫn có mặt và có mặt khắp
nơi. Huygô cho rằng nhà thơ chân chính luôn có mặt cùng một lúc trong tác
phẩm. Sự hiện diện này lộ ở cốt cách và bản sắc của một lối cảm nghĩ, sâu
xa hơn chính là nội dung của tiếng hát tâm hồn. Từ cảm hứng chủ đạo đến
giọng điệu thi ca: nhà thơ luôn cần phải hiện diện. Chính cái khác nhau của
những cái tôi trữ tình góp phần quyết định tạo nên những tiếng nói thơ ca
khác nhau. Cái tôi trữ tình của Tố Hữu rất khác với Chế Lan Viên; Hoàng
Trung Thông khác với Huy Cận; Xuân Diệu khác với Nguyễn Đình Thi. Cái tôi
trữ tình của Tố Hữu bao giờ cũng chân thực, đằm thắm nhiều khi cả với
những cái non tơ của cuộc đời:
Tiếng ai cười vậy trong lành
A con chim hót rung cành dâu tơ
cho đến những tình cảm lớn của dân tộc:
Ôi miền Nam, vì sao mỗi lúc
Mây chiều xa bay giục cánh chim
Đêm khuya một tiếng bầu tiếng trúc
Một câu hò… cũng động trong tim
Anh lắng nghe tiếng nói thiết tha của cha ông trong quá khứ, một đời Kiều
chìm nổi, một tâm trạng nhiều ưu tư day dứt qua hồn thơ Nguyễn Trãi. Anh
bắt được cảm hứng vào bước đi của thời đại trong hiện tại và trong cái hối hả
với tương lai. Tâm hồn thơ của anh giàu cảm xúc, yêu thương. Anh hiểu tấm
lòng của những bà mẹ, những người chị, những đứa em trong những cảnh
đời nghèo khó trước kia và trong niềm vui của cuộc đời hiện tại. Tố Hữu nói
đến anh bộ đội với tình cảm yêu quý thiết tha nhất, người Vệ quốc quân ở
lưng đèo Nhe, người chiến sĩ pháo binh chân đồng vai sắt, anh chiến sĩ Giải
phóng quân vành mũ tai bèo… Cái tôi trữ tình của Tố Hữu luôn bộc lộ như
một tiếng nói đồng tình, đồng chí. Trước cái tươi đẹp của cuộc sống mới và
niềm vui của cách mạng thắng lợi, một niềm vui hội hè, nhà thơ muốn chia
vui, thăm hỏi, chào mừng. Cái tôi trữ tình như đối thoại, như dặn dò, như kêu
gọi. Xung quanh nhà thơ dường như bao giờ cũng có những người bạn, đồng
chí để chia vui, thông cảm…
… Này các chị các anh đi trên đường có thấy
Nước non mình đâu cũng đẹp như tranh.
… Đời vui thế. Bởi vì sao bạn hỡi.
Ngay khi cái tôi trữ tình đó nhập vào một con người khác, một nhân vật
trữ tình khác, ta và thấy rõ một Tố Hữu:
Ta qua sông qua núi
Ta qua núi qua đèo
Lòng ta vui như hội
Như cờ bay gió reo.
Ơi này anh xung phong
Ơi này o du kích
Có nghe thấy gì không
Chuyện chi mà rúc rích!
Niềm vui của anh lái xe, hay chính là niềm vui và cách nói quen thuộc của Tố
Hữu? Cái phút reo vui của tâm hồn đó cánh là lúc nhà thơ như say đắm.
Trong cái tôi trữ tình cửa Tố Hữu có chất say, say đời, say người. Chất say
đó bắt đầu từ niềm vui tháng Tám. “Tá hát huyên thuyên ta chạy khắp nhà. Ai
cấm ta say, say thần thánh”. Tố Hữu say trong những ca khúc với chú voi
thép: “Voi cong chân đẹp, voi nghểnh voi cười”, với chuyến xe đêm: “Ơi chiếc
xe đồng chí, cùng ta lăn sớm chiều”, với tình người đằm thắm: “Có gì đẹp trên
đời hơn thế. Người yêu người sống để yêu nhau”. Anh say trong một phút
nào đó bâng khuâng giã từ năm cũ và lâng lâng niềm vui đón xuân mới:
Ngẩn ngơ nghe tiếng ai chào
Chị hàng hoa rẽ lối vào Đồng Xuân.
Cái tôi trữ tình của Tố Hữu khi tha thiết trong tiếng nói yêu thương, khi
hào hùng qua lời thơ đanh thép khi tỉnh táo trong chiều sâu của suy nghĩ, mê
say trong cảm hứng trữ tình. Tố Hữu bộc lộ rất rõ mình qua thơ. Có người
cho rằng Tố Hữu rất ít viết về cuộc đời riêng tư của mình. Ta chỉ bắt gặp một
lần qua cái phút “Anh nắm tay em sôi nổi vụng về”, và nỗi lo “Sợ tiếng gà gáy
sớm hết đêm nay” và mới chỉ thế thôi. Tố Hữu rất ít về thơ tình yêu. Điều
quan trọng không phải là ở chỗ bộc lộ phần riêng tư của nhà thơ qua thơ mà
chủ yếu là sự phong phú và đậm nét của cái tôi trữ tình.
Trong thơ trữ tình, cái tôi trữ tình nhiều khi mang tính chất trung gian
như hình tượng người kể chuyện trong tiểu thuyết. Người kể chuyện luôn có
xu hướng khách quan hóa. Còn cái tôi trữ tình lại luôn có khuynh hướng chủ
quan hóa, đóng dấu ấn chủ thể vào trong mọi hiện tượng.
Quá trình sáng tác thơ trữ tình về một phương diện nào đó có thể xem
là quá trình chủ quan hóa, qua một sự chọn lựa, một cách nhìn, một nội dung
cảm nghĩ. Khả năng biến cái chung thành cái riêng càng lớn thì tiếng nói thơ
ca càng phong phú.
Đứng về phía người thưởng thức thì lại là quá trình khách quan hóa.
Người đọc tìm trong sáng tác những tâm trạng khái quát, điển hình, phù hợp
với cảm xúc riêng của mình.
Những tâm hồn thơ lạc lõng, không có khả năng nói lên cái phong phú
của sự sống qua tiếng nói riêng của mình và sáng tác cũng không có được
giá trị thông cảm với một người.
Trong xã hội cũ, đặc biệt là dưới chế độ tư bản, chủ nghĩa cá nhân luôn
tìm cách ẩn náu và xác lập vị trí hợp pháp của mình trong thơ ca. Dường như
người ta dễ dàng công nhận rằng nói đến thơ là nói tới những tâm sự thầm
kín, những suy tưởng và cảm xúc độc đáo mang bộ mặt riêng của tác giả. Từ
đấy cái tôi một “hình thức bộc lộ câm xúc trực tiếp trong thơ”, một “nhịp cầu
trung gian của sự nhận thức trong nghệ thuật đã biến thành một mục đích tự
thân, một cứu cánh nội tại. Chủ nghĩa cá nhân tư sản, sản phẩm của tình
trạng chiếm hữu cá nhân về quyền lợi kinh tế, tình trạng cạnh tranh và chạy
đuổi theo lợi nhuận, sản phẩm của lối sống quay lưng lại nhau và sẵn sàng
loại trừ nhau, đã thâm nhập vào nếp sống và suy nghĩ của nhiều tầng lớp xã
hội. Trí thức ở tầng lớp trên và trung gian, kẻ phát ngôn trực tiếp và gián tiếp
cho hệ ý thức tư sản đã tìm mọi cách biện chính tô vẽ cho chủ nghĩa cá nhân.
Say đắm hay tự vuốt ve với cái tôi cá nhân, hoặc bị đày vào cái ốc đảo của sự
cô đơn, mất đi những mối liên hệ đồng cảm với cuộc sống bên ngoài, xã hội
tư bản đã tạo nên một vực thẳm không thể vượt qua được giữa cá nhân và
xã hội. Chừng mực nào so với chế độ phong kiến, ý thức về cá nhân, ý thức
về chủ thể đã được phát triển phong phú hơn, nhưng một mặt khác một tình
trạng sống ích kỉ, cá nhân đối phó của chủ chĩa cá nhân tư sản đã gây tai hại
trong đời sống tinh thần và đạo đức của con người. Khi cái tôi mới thoát khỏi
sự gò bó của tính quy phạm của hệ tư tưởng phong kiến vẫn còn mang
những nhân tố tích cực, sinh động, như trong văn học từ thời kì Phục hưng và
thế kỉ Ánh sáng. Đến thời kì sau, nhất là thế kỉ XIX, cái tôi đã rơi vào mâu
thuẫn, đi vào bế tắc. Vấn đề cái tôi (problème du moi) được đặt ra dưới nhiều
dạng thức. Gơt với Những nỗi đau khổ của chàng Vetơ, Bairơn với hình ảnh
những Manphrêt, và Saiđơ Hêrôn Lamartin với tâm sự cô đơn trong Cô đơn
và Hồ. Cái tôi trong văn học lãng mạn bế tắc trong sự đối lập với thực tại và
cả trên hướng giải thoát. Thậm chí lấy cả sự cô đơn và nỗi buồn tuyệt vọng
làm nguồn an ủi Đơ Noayơ tâm sự:
Tôi viết ra trong nỗi khổ đau
Trong niềm say mê buồn thảm
Những bài thơ tuyệt vọng
Là niềm an ủi của riêng tôi.
Lamartin đặt câu hỏi: “Tại sao tâm hồn tôi lại trĩu buồn?”. Trái đất, cuộc sống,
danh vọng, tình yêu, tất cả, tất cả cuối cùng chỉ là chuyện phù hoa vô nghĩa.
Và cách giải quyết của tác giả cũng xuất phát từ cái tôi riêng tư cá nhân:
Hãy yêu đi, hãy yêu đi, năm tháng vội vàng
Nhanh lên chứ, vui chơi đi
Đời người không chốn đợi, thời gian không bến bờ
Đang trôi nhanh và chúng ta sẽ qua đi.
Seli là một nhà thơ có nhiều nhân tố tiến bộ trong sáng tác. Tuy nhiên một
quan niệm nhiều hạn chế về thơ ca của thời đại đã chi phối cách suy nghĩ của
tác giả. Nhà thơ là một con chim họa mi bằng những âm thanh dịu dàng đang
hót trong âm thầm bóng tối để làm dịu nỗi cô đơn riêng lẻ”.
Dù sao thì với chủ nghĩa lãng mạn cái tôi chỉ ở dạng cô đơn, thu về
trong vỏ cá nhân với nỗi buồn ủy mị chán chường. Đến cái trào lưu suy đồi
của chủ nghĩa hiện đại, cái tôi đi và bế tắc cực độ với nhiều dạng biểu hiện
phá phách, hỗn loạn, vô luân.
Phong trào Thơ mới những năm 30 bộc lộ rõ ràng những đặc điểm của
trào lưu thơ ca lãng mạn. Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên… những cái tôi
khác nhau mỗi người tự xây dựng cho mình một thế giới riêng biệt, một hòn
đảo chơi vơi. Trở về với cuộc sống để ca ngợi những cái tầm thường ư?
Không, họ không muốn thế, và dường như họ cảm thấy mình trong sạch hơn.
Đi vào quần chúng lao khổ tìm lại lẽ sống và sự tiếp sức của một sức sống
âm thầm, mãnh liệt ư? Những giới hạn của quan điểm giai cấp giữ họ lại
trong mảnh đất chật hẹp. Hiện thực tăm tối và đáng phẫn nộ của xã hội phơi
bày ra ngay trước mắt họ nhưng dường như đối với họ lại quá xa xôi ngoài
tầm nhìn và tầm với của mọi người. Quẩn quanh trong cái tôi bế tắc, có lúc họ
cảm thụ mình khác biệt với tất cả cho dù với đối tượng dễ chan hòa nhất:
Em là em mà anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn lí trường thành
hoặc hơn tất cà:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta.
(XUÂN DIỆU – Hi Mã Lạp Sơn)
Nhưng rồi cái thế đứng ấy cũng chơi vơi, dễ rợn ngợp và không đúng với
cảnh ngộ thực tế mà họ đang phải chịu đựng. Hình ảnh một con nai lạc đàn
tự ngơ ngác đang bị lưới chiều bủa vây có lẽ thích hợp và đúng hơn với cảnh
ngộ của họ.
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối.
(XUÂN DIỆU–Khi chiều buông lưới)
Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu chi phối và biến tất cả mọi đối tượng
khách quan thành chủ quan. Không có nhân vật trữ tình trong sự tồn tại khách
quan với những phẩm chất riêng biệt của nó. Mọi nhân vật trữ tình thực chất
chỉ là cái tôi trữ tình. Hình ảnh một chú lái khờ muốn ban phát của cải cho đời
mà cuộc đời vẫn phụ bạc, hình ảnh một người kĩ nữ muốn đem tình thương
níu lấy áo mọi người nhưng khách làng chơi vẫn lạnh nhạt ra đi, hình ảnh một
con chim nhỏ rỉ rả hót để mua vui cho đến lúc tắt hơi, rũ xuống, tất cả đều là
hình ảnh của nhà thơ. Và cuối cùng sự cô đơn lại ập tới vây bủa và đè nặng
lên nhà thơ. Điều đáng sợ nhất vẫn là cảnh sống cô đơn, hiu hắt, không có
tình thương mến. Trạng thái tự phủ định của cái tôi bộc lộ ra trong một tâm
trạng sâu sắc của người kĩ nữ:
Lòng kỉ nữ cũng sầu như biển lớn
Chớ để riêng em lại gặp lòng em.
Không phải là cuộc đời phụ bạc với nhà thơ, mà chủ yếu là nhà thơ tự ràng
buộc và ngăn cách mình với mọi người. Cái tôi của nhà thơ là cái tôi chủ
quan. Mọi sợi dây tình cảm, mọi liên hệ với những vấn đề trung tâm của cuộc
sống đều bị cắt đứt. Đó là tình cảnh và tâm trạng chung của nhiều nhà thơ
trong phong trào Thơ mới:
Đường về thu trước xa lăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi.
(CHẾ LAN VIÊN)
Giơ tay ta vẫy ngoài vô tận.
Chẳng biết xa lòng có những ai.
(PHẠM HẦU)
Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển
Suốt một đời như núi đứng riêng tây.
(HUY CẬN)
Thực ra khi đã có tấm lòng yêu thương gắn bó với đồng loại, với quần chúng
lao khổ, thì ánh sáng của chân lí sẽ đến với thơ ca. Tố Hữu khi nói: “Từ ấy
trong tôi bừng nắng hạ, Mặt trời chân lí chói qua tim” cũng là lúc tác giả thấy
ràng buộc với mọi người bằng tình cảm giai cấp, tình cảm đấu tranh: “Tôi
buộc lòng tôi với mọi người. Để tình trang trải với muôn nơi”. Trong xã hội cũ,
những nhà thơ tiến bộ đều có lúc thức tỉnh cái chân lí về mối quan hệ gắn bó
giữa cá nhân và đồng loại. Không có cá nhân cô độc trong ý nghĩa cực đoan.
Huygô chẳng đã từng nói: “Khi tôi nói với anh về tôi, chính là tôi nói về bản
thân anh. Chà mới ngốc làm sao nếu ai nghĩ rằng tôi không phải là anh”. Gơt
cũng nêu lên hết sức sâu sắc phần hạn chế của cái tôi của nhà thơ trong ý
nghĩa chủ quan và tách biệt với cuộc sống xung quanh. Tính chủ quan vẫn là
dấu hiệu của những thời đại không còn phát triển và đang suy đồi, tính chủ
quan cũng là dấu hiệu tiêu cực, nghèo nàn của một tiếng nói thơ ca mềm yếu.
“Trong chừng mực anh ta chỉ mới thể hiện một vài cảm nghĩ chủ quan
thì anh ta vẫn chưa là cái gì hết, nhưng khi anh ta biết chiếm hữu thế giới và
thể hiện thế giới thì anh ta là một nhà thơ. Và lúc đó anh ta là vô tận và có thể
bao giờ cũng mới mẻ. Cái bản tính chủ quan trái lại chẳng bao lâu sẽ bộc lộ
tất cả bản chất nhỏ bé của nó và rơi vào sự kiểu cách. Tất cả các thời đại thụt
lùi và bị lôi cuốn bởi sự tan rã đều có tính chất chủ quan, tất cả các thời đại
phát triển đều có một xu hướng khách quan”.
Biêlinxki cũng đã nói lên bản chất của một tiếng nói thơ ca chân chính.
Nếu cái tôi của nhà thơ không nói lên được những vấn đề gì có ích chung cho
cuộc sống mà chỉ bộc lộ những cảm xúc yếu hèn, tuyệt vọng có tính chất
riêng tư thì nhà thơ trở 1 nên xa lạ và hoàn toàn mất chỗ đứng. Thực tế ấy đã
là một kinh nghiệm thấm thía xót xa. Nhiều nhà thơ từ đấy ra đi sau nhiều
năm mệt mỏi, chán chường, để tìm đến một lẽ sống mới cho cuộc đời và
nghệ thuật. “Từ chân trời một người đến chân trời tất cả”, như cách nói của
Pôn Eluya, là con đường phải trải qua với nhiều gian khổ của nhiều nhà thơ.
Nhà thơ thường bắt đầu cuộc hành hình ấy khi tiếp nhận được ánh sáng của
chân lí cách mạng. Con đường ấy có thể dài ngắn tùy theo sức đi và phần
nặng nề mang trên vai của một người. Trước hết có thể nói tới cái thời điểm
bắt đầu cuộc hành trình ở vào lúc nào của cuộc đời thơ. Thật là may mắn cho
những ai giác ngộ được chân lí đó ngay từ thời điểm bắt đầu cuộc đời sáng
tạo. Món nợ cũ sẽ được trang trải nhanh chóng hơn, quá khứ không trở về
làm cho day dứt nặng nề trong mỗi bước đi. Còn với những trường hợp tiếng
nói thơ ca đã một lần chín trong trong thế giới riêng tư, cuộc đời thơ đã trải
qua một mùa gặt với nhiều ấn tượng và nhiều kỉ niệm cho dù có xót xa, buồn
tủi, thì vấn đề trở nên phức tạp hơn nhiều. Aragông, Êluya, Maiacôpxki ở vào
trường hợp ấy. Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên cũng vậy. Sự đổi thay của
một cách nhìn và cách cảm trong sáng tạo nghệ thuật là một quá trình nhiều
trăn trở, đấu tranh. Sự tiếp sức lớn lao nhất, mạnh mẽ nhất không chỉ ở lí
thuyết cách mạng mà chủ yếu thông qua thực tế đấu tranh cách mạng.
Những sôi sục của phong trào quần chúng, những cuộc đời mới đang dần
thay da đổi thịt, những tấm gương, những hành động, tâm trạng mà nhà thơ
bắt gặp trong hiện thực vừa tươi mới, vừa quyết liệt sẽ dần dà làm chín lại
cảm hứng sáng tạo. Đó cũng chính là điều may mắn cho những nhà thơ được
trực tiếp thử thách trong phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng.
Cách mạng sẽ tạo nên một sự đổi thay diệu kì với một sức mạnh tái tạo hồi
sinh. Vừa là một cơn bão táp có sức quật đổ cái cũ bảo thủ, vừa là mảnh đất
màu mỡ làm nảy nở những hạt giống mới một cách nhiệm mầu. Cách mạng
sẽ xóa bỏ vĩnh viễn cái vực thẳm ngăn cách và đối lập giữa cá nhân và xã
hội, cái riêng tìm được ý nghĩa trong tiếng nói chung, cái tôi và cái ta có cơ sở
để thống nhất, quyện hòa làm một. Trong sáng tạo thơ ca của mình, nhà thơ
không chỉ nhân danh mình để nói lên một điều gì, mà chính là nhân danh xã
hội, nhân danh đất nước, nhân danh giai cấp, nhân danh bạn bè đồng chí mà
nói lên những vấn đề có ý nghĩa chung như một tình cảm và câu chuyện riêng
tư thấm thía khi cánh cửa của căn phòng 1 mỗi cá nhân đã mở rộng để đón
lấy ngọn gió thời đại thổi tới, “mỗi người không còn là một cái buồng kính như
Pie Rêvecđi quan niệm thì đây chính là lúc thuận lợi nhất để cái tôi nhà thơ đi
vào phản ánh những vấn đề của thời đại. Hay nói như Jôhan Bêsơ, nếu
“trong thơ trữ tình tất cả lệ thuộc vào chỗ nhà thơ có khả năng thể hiện qua
bản thân mình một thời đại nhất định” thì cách mạng tạo điều kiện để nhà thơ
thực hiện được đầy đủ khả năng đó. Vấn đề cơ bản rất là ý thức tự phấn đấu
để xóa bỏ khoảng cách giữa cá nhân và xã hội, giữa cái tôi và cái ta cái riêng
và cái chung. Lí tưởng và cuộc sống mới có một sức hấp dẫn vô cùng lớn lao,
không chỉ qua nhận thức mà cả. ở những rung động sâu xa và những tình
cảm cao đẹp ở những hình ảnh hiện thực lung linh nhiều màu sắc. Một thời
đại “lộng hương rộng sắc” sẽ chắp cánh cho những mơ ước của tâm hồn
nghệ sĩ. Nhưng một mặt khác, gạt bỏ phần tiêu cực của cái tôi xưa cũ cũng là
một vấn đề khó khăn. Cái tôi xưa cũ đã trở thành một thói quen, một cảm
hứng, một vật sở hữu riêng tư; nó vẫn thường xuyên trỗi dậy rất tự nhiên, rất
bất ngờ để ve vuốt, để an ủi phần yếu đuối của tâm hồn. Gạt bỏ cái tôi xưa cũ
đôi lúc gây cho nhà thơ một ấn tượng dường như bị mất mát, trống rỗng,
luyến tiếc một điều gì. Biết chịu đựng, thử thách và vượt qua được trạng thái
tình cảm đó sẽ tiếp cận và gặp gỡ được với niềm vui rộng rãi, bao la, rất ấm
áp và nồng hậu của tập thể. Tế Hanh đã nói lên cảnh phân li với con người cũ
thật nặng nề, day dứt:
Sang bờ tư tưởng ta lìa ta
Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà.
Bước chuyển biến ấy bất đầu diễn ra vào những năm đầu và kéo dài suốt thời
kì kháng chiến chống Pháp. Phải làm sao để có sự ăn nhập với cuộc sống
mới, tâm tình của nhà thơ phù hợp với tâm tình chung của quần chúng cách
mạng. Chế Lan Viên cũng đã nói lên chân thực những băn khoăn đó của
những nhà thơ lớp trước khi đi theo cách mạng. “Nhớ những ngày mới cách
mạng rồi trải qua những năm đầu kháng chiến nữa, gần như có một sự
chuệch choạc, một khoảng cách gần không ra gần, xa chẳng ra xa giữa bạn
đọc với tâm hồn tác giả và ngay trong tâm hồn tác giả giữa cái phần này với
cái phần khác của mình. Anh nói thực tế khách quan ư? Hình như lúc ấy anh
phải tạm quên rất lắm tâm tình. Anh nói tâm tình ư? Chưa nói cái tâm tình
riêng của anh mà anh là người chán ngấy đầu tiên, chứ không phải là độc giả,
ngay khi anh nói tâm tình chung vẫn gượng gạo thế nào” (phê bình văn học,
tr. 123 – 124).
Trong những năm kháng chiến, Chế Lan Viên viết Gửi các anh, tập thơ
viết trực tiếp về cuộc kháng chiến với những sáng tác rất thời sự. Cái tôi trữ
tình dường như vắng bóng trong tập thơ và được rút về bình diện thứ hai.
Vấn đề riêng chung cũng đã bắt đầu được giải quyết song chưa triệt để. Với
Ánh sáng và Phù sa, vấn đề riêng chung được đặt ra một cách trực diện. Cái
tôi trữ tình bộc lộ khá rõ nét qua những lời thơ tâm tình, chứa chất biết bao
nhiêu suy nghĩ và cảm xúc tự bên trong. Chế Lan Viên đã thấy được rất rõ
những gian khổ của một quá trình đấu tranh để tự vượt lên mình:
Muốn đến được nắng vàng đất mật
Phải trên lòng bao trận gió mưa qua.
Anh đã tìm đến được chân lí. Với quá khứ, anh nhìn lại và phân tích một cách
sâu sắc bằng cái nhìn sáng tỏ, triệt để. Ngoảnh lại mười lăm năm là những
tâm sự chân thành biểu hiện ý thức tự phê phán đúng mức. Với hiện tại, anh
luôn xác định nhiệm vụ nặng nề và rất vinh dự của thơ ca:
Mỗi câu thơ che một trận tuyến tâm tình
và ý thức vươn lên phía trước của nhà thơ:
Tôi đâu dám tủi buồn quên nhiệm vụ
Mỗi câu thơ đều phải vượt lên mình.
Tuy nhiên “cái tôi trong Ánh sáng và Phù sa vẫn còn có những khía cạnh
chưa hòa điệu hoàn toàn với cuộc sống khách quan. Có khi anh thấy mình
quá cao, như một trung tâm của cuộc sống:
Tôi trong đau vẫn làm viên muối bể
Để mặn lòng những kẻ muốn nô tư.
Ngược lại có lúc lại không khỏi xa lạ:
Quỳ xuống bên dường
Tôi hôn cuộc sống
Lượng đời rộng mở
Nên đời còn thương.
Điều đáng chú ý ở Chế Lan Viên trên chặng đường thơ này là anh đã đặt vấn
đề “ta vì ai?” một cách nghiêm chỉnh với nhiều cảm hứng phấn khởi. Trong
những năm chống Mĩ cứu nước, anh đã đưa thơ ca về với cánh đồng vui của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đó chính là chân trời bát ngát của đời sống
cách mạng và của nghệ thuật.
Xuân Diệu cũng phải trải qua nhiều chặng đường thơ để giải quyết vấn
đề riêng chung. Cái tên Riêng chung của một tập thơ đã nói lên khá rõ ý thức
của nhà thơ nhằm giải quyết mối quan hệ này với quan điểm cách mạng. Cái
tôi của Xuân Diệu nhiều khi bộc bạch thật chân tình. Anh không giấu giếm,
che đậy những ý nghĩ và cảm xúc. Trong mối quan hệ giữa cái tôi của nhà
thơ và cuộc đời, Xuân Diệu vẫn có nhiều quan niệm khác nhau. Có lúc nhà
thơ cảm thấy mình cô đơn, bị cuộc đời phụ bạc, song nhà thơ vẫn muốn ở thế
bên, trên cái thế của kẻ được hi sinh và ban phát một cái gì đó cho mọi người
với tinh thần tử vì đạo, với hình ảnh một con Pêlicăng của Anphrêt đơ Muyxê:
Cho tôi đau và bớt khổ loài người
Tôi nguyện chết ở trên cây thánh giá!
Sau Cách mạng, trong niềm vui hội hè của ngày hội quần chúng, Xuân
Diệu muốn hòa mình với mọi người, anh Mê quần chúng:
Trong lúc tằm lên nhân loại mới
Lòng tôi như một chiếc nong xanh.
Quan niệm trên, hình ảnh trên cũng đã nói lên nỗi lòng hồ hởi của anh đón
chào cuộc sống mới, tuy nhiên ở đây vẫn có phương diện chưa ổn về mặt tư
tưởng. Xuân Diệu chưa có được quan niệm đúng đắn mình vì mọi người với
sự tự nhìn nhận cái tôi một cách khiêm tốn, đúng mực. Anh vẫn xem mình là
một kẻ giàu có muốn hi sinh và ban phát cho đời. Tất nhiên cuộc đời không
dễ tiếp nhận cách nói và suy nghĩ đó. Sau này Xuân Diệu đã ngày càng gắn
bó và hòa mình với quần chúng nhân dân trong sự đùm bọc chân tình với tư
cách một thành viên tận tụy:
Tôi cùng xương cùng thịt với nhân dân của tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.
Con đường đi đến với cách mạng của các nhà thơ lớp trước khá vất vả.
Không phải là một vài năm mà hàng chục năm. Không phải chỉ là sự giác ngộ
về lí trí mà quan trọng là ở sự rung động thực sự về tình cảm. Cái tôi trữ tình
của nhà thơ bấy giờ có khả năng đồng cảm, phân thân và biểu hiện trong
nhiều nhân vật khác nhau. Hình ảnh những con người mới trong xã hội đã đi
vào trong thơ với vẻ đẹp khách quan. Cái tôi trữ tình là một nhân vật trữ tình
chủ yếu ẩn đằng sau các nhân vật trữ tình khác. Trước cách mạng, hình ảnh
một chú lái khờ, một người kỉ nữ trong thơ Xuân Diệu thực chất cũng là hình
ảnh của tác giả. Hôm nay đã khác đi khi Xuân Diệu nói đến Nguyễn Văn Trỗi,
đến Phan Hành Sơn, đến thầy giáo Phụng là anh nói đến những con người
thật có cuộc sống riêng. Nhà thơ phải tôn trọng tính khách quan của nhân vật
khi miêu tả. Phải làm sao để cái tôi trữ tình rõ nét và các nhân vật trữ tình lại
được nổi bật. Sự xuất hiện của hàng loạt những nhân vật trữ tình, hình ảnh
trực tiếp của những con người trong quần chúng cách mạng là đặc điểm quan
trọng của thơ ca trữ tình sau Cách mạng. Cái tôi của nhà thơ không còn là
trung tâm duy nhất chi phối toàn bộ cảm hứng và nội dung của sáng tác. Thơ
trữ tình không phải lúc nào cũng mang hình thức tự biểu hiện mà nhiều khi
dành việc miêu tả cho những con người và sự kiện tiêu biểu của thời đại.
Hình ảnh chị Trần Thị Lý, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Môrixơn…
đến trong thơ ca của nhiều tác giả và mang những nét khách quan thống nhất
do sự tôn trọng tính khách quan và xác thực của nhân vật. Nhiều bức tranh
hiện thực của đời sống được chọn lọc và đem vào trong thơ với những nét
tiêu biểu. Trong những bài thơ xuân của Tố Hữu như Bài ca mùa xuân 1961,
Trên đường thiên lí, Chào xuân 67, v.v… ngoài cảm xúc và suy nghĩ của tác
giả là những bức tranh hiện thực rất đẹp và nên thơ được cấu tạo nên do
chính bằng những chất liệu khách quan. Trong nhiều bài thơ dường như cái
tôi của tác giả bị đẩy lùi vào bình diện thứ hai. Sự kiện, hình ảnh, con người
có thực trong đời sống là nội dung chủ yếu của tác phẩm. Nhân vật trữ tình
trong sáng tác không đồng nhất với cái tôi trữ tình của nhà thơ. Cái tôi trữ tình
của tác giả là một nhân vật quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Nguyên
lí tự biểu hiện tuy vẫn là đặc điểm quan trọng trong thơ trữ tình, nhưng chỉ
mình nó không đủ đáp ứng yêu cầu nhận thức và phản ánh cuộc sống trong
thơ, cuộc sống trong những năm tháng đầy ắp những sự kiện lớn lao.
Hai mặt miêu tả và biểu hiện phải được kết hợp trên những bước đi
sóng đôi. Biểu hiện phải lấy miêu tả làm điểm tựa cụ thể, trực tiếp. Miêu tả ở
đây là sự phản ánh, nắm bắt phần tinh chất của cuộc sống trong những bức
tranh thiên nhiên và xã hội phong phú, nhất là với những tính cách nhân vật.
Sự giàu có qua những chất sống khách quan sẽ tạo điều kiện để cái tôi trữ
tình đa dạng hơn; cảm xúc của người viết không chơi vơi, và những suy nghĩ
không rơi vào chủ quan, tư biện. Những tập thơ non yếu về tính hiện thực
thường tâm tình một cách thuần túy và tất nhiên những tâm tình này cũng
không thật gắn bó với đời sống hiện thực. Những nhân vật trữ tình do đó
cũng mất tính chân thực khách quan mà chỉ còn là hình thức để bộc lộ cái tôi
trữ tình của nhà thơ. Trong trường hợp này, hình ảnh một anh bộ đội, một
người nông dân, một người công nhân trong thơ sẽ trở nên giống nhau vì
cùng giống với tác giả. Tất nhiên đó là một biểu hiện tiêu cực trong thơ.
Khi nhấn mạnh đến yêu cầu phản ánh cuộc sống trong thơ trữ tình
cách mạng, không nên quên rằng dù sao cuộc sống khách quan vẫn đi vào
trong thơ qua cửa ngõ của tâm tình và cảm nghĩ của cá nhân nhà thơ. Vấn đề
tự biểu hiện không phải là một mục đích có ý nghĩa tự thân nhưng vẫn là đặc
trưng chủ yếu của thể loại này. Xu hướng khách quan hóa càng được tăng
cường nhưng không làm giảm sút tính chất chủ quan hóa của thơ. Một căn
bệnh khá phổ biến trong thơ ca hiện nay là sự non yếu, nghèo nàn của cái tôi
trữ tình trong thơ. Nhược điểm trên có thể là do một cách nhìn nhận cực đoan
có tính chất tả khuynh về bản chất thơ trữ tình cách mạng. Quan niệm trên
phủ nhận cái tôi trong sáng tạo thơ ca, xem cái tôi như một hiện tượng có tính
chất cá nhân riêng tư. Maiakôpxki đã từng công kích quan niệm này của
nhóm Prôlêkun trong những năm đầu cách mạng.
Nguyên nhân phổ biến hơn gây nên nhược điểm trên là sự chạy đuổi
theo việc sao chép và miêu tả những đối tượng khách quan. Với những đề tài
thời sự, những điển hình về người thật việc thật, người viết thường bị lệ thuộc
vào khuôn khổ xác định và quá trình diễn biến của đối tượng nên có khuynh
hướng tái hiện trực tiếp khi miêu tả. Do đó dễ gây nên sự lạm dụng yếu tố tự
sự thiên về miêu tả, kể lể, mà nhẹ về mặt biểu hiện. Một số nhà thơ khi bắt
đầu tạm biệt thế giới riêng tư để thâm nhập vào thực tế đấu tranh cách mạng,
thường có tình trạng choáng ngợp hoặc say mê trước hiện thực mới. Dường
như sự việc và con người nào cũng hấp dẫn, cũng đáng nói; khuynh hướng
kể lể về cuộc sống khách quan lấn át lối tâm tình chủ quan. Huy Cận ở vào
trường hợp này với các tập Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa. Thực tế
phong phú, nhiều màu sắc của đất nước đã gây nhiều cảm hứng làm chín lại
tâm hồn thơ. Tuy nhiên, bên cạnh những bài thơ trữ tình giàu cảm xúc, Huy
Cận rơi vào kể lể…
Mối quan hệ cũng như phân lượng giữa yếu tố chủ quan và khách
quan trong những bài thơ trữ tình viết về người thật việc thật, về những đề tài
thời sự thường khó phân định. Nhà thơ vay mượn một số tình huống hoặc kết
cấu vốn có của đối tượng. Trên phương diện đó người viết phải lệ thuộc vào
đối tượng khách quan. Song về căn bản cái tôi trữ tình vẫn hoàn toàn tự do
và chủ động trong cách chọn lọc và miêu tả, trong sự bình giá và nhấn mạnh
yếu tố nào trong cả quá trình phát triển của sự việc. Và quan trọng hơn là
những cảm xúc, suy nghĩ, những luồng tư tưởng đi về được tạo nên do chính
cuộc sống khách quan gợi ý và tác động.
Hêghen trước kia cũng đã nhiều lần nhận định về những bài thơ thời sự
của Gơt. Tuy chưa nhận thức được đầy đủ những đặc điểm về nội dung của
loại thơ này, nhưng sơ bộ Hêghen cũng đã thấy được sự thâm nhập, lấn át
của nhân tố tự sự đối với nhân tố trữ tình. Xuất phát từ nguyên lí tự biểu hiện
của thơ trữ tình, Hêghen vẫn lưu ý chủ yếu đến những cảm nghĩ và xem như
nội dung chính của sáng tác.
“Các bài thơ ứng phó (thời sự) có thể vay mượn tài liệu và tính chất của
nó cũng như vay mượn dàn bài và kết cấu bên trong ở tính thực tại của các
biến cố đã cấp cho nó cơ hội làm thơ cũng như đã cấp đề tài cho nó… Song
mặc dầu nhà thơ có thể rút ra từ hoàn cảnh điều có lợi như vậy, anh ta vẫn
giữ tất cả quyền tự do của mình bởi vì anh ta không phải tìm thấy cái nội dung
thực sự mà anh ta cần đến ở trong cái hoàn cảnh ấy, trái lại anh ta tìm thấy
nó ở trong bản thân mình và anh ta căn cứ vào những ý kiến cá nhân của
mình, vào những biệt tài về thi ca của mình để quyết định xem anh ta sẽ giới
thiệu những mặt nào của đề tài và cấp cho nó cái hình thức như thế nào.
Người ta không tài nào nói được một cách chính xác trong hai yếu tố – cơ hội
khách quan và trạng thái chủ quan của nhà thơ – yếu tố nào phải thắng cái
kia trong chừng mực nào và trong chừng mực nào hai yếu tố cần phải liên kết
với nhau” (Mĩ học).
Trạng thái chủ quan của nhà thơ – bản sắc và sự phong phú của cái tôi
trữ tình vẫn là yếu tố quyết định nội dung của những sáng tác thơ ca viết về
một đối tượng xác định, hoặc về một đề tài thời sự. Về phương diện này, Tố
Hữu đã có những đóng góp mẫu mực. Tính xác định của những điển hình về
người thật việc thật như Trần Thị Lý, Nguyễn Văn Trỗi, Mẹ Suốt, Môrixơn
không hề ràng buộc và hạn chế phần sáng tạo chủ quan của tác giả. Một cái
tôi trữ tình rất nổi bật, rất phong phú vẫn ẩn hiện đằng sau các nhân vật trữ
tình. Các nhân vật trữ tình vừa giữ được phẩm chất khách quan của hình
tượng, vừa chan hòa với cái tôi của nhà thơ. Nhà thơ (nhân vật trữ tình bao
quát) là người anh, người đồng chí đang nâng niu, chăm sóc người em gái –
người con gái Việt Nam kiên cường từ trong chiến đấu trở về trên mình đầy
thương tích. Nhà thơ là người con đang lắng nghe tâm sự của Mẹ Suốt,
người mẹ anh hùng. Nhà thơ là người bạn trên cùng một trận tuyến đấu
tranh, nhập thân vào Môrixơn, hình ảnh tượng trưng cho sự phẫn nộ và lòng
thiết tha yêu chân lí, v.v… Nhân tố khách quan không lấn át mà kết hợp
nhuần nhuyễn làm điểm tựa những cảm xúc chủ quan. Những cảm xúc và
suy nghĩ của tác giả bồi đắp cho hình tượng thơ nổi lên, và mài sắc những
mũi nhọn tư tưởng. Cái tôi trữ tình của các nhà thơ khi cùng viết về một đối
tượng xác định đã tạo nên những nhân vật trữ tình không giống nhau nhưng
có thể lại giống với nguyên mẫu. Hình ảnh của Nguyễn Văn Trỗi trong thơ Tố
Hữu không giống với Nguyễn Văn Trỗi trong thơ Chế Lan Viên, Xuân Diệu,
v.v… nhưng có thể tất cả đều giống với Nguyễn Văn Trỗi trong đời sống. Có
thể lấy một trường hợp khác làm ví dụ: Gabrien Pêri, Pôn Êluya, Aragông,
Nazim Hitmet đã nói và viết về Pêri theo những cách rất khác nhau. Gabrien
Pêri, người chiến sĩ cộng sản ấy chỉ là một nhưng anh đã đi vào trong thơ
bằng những dáng vẻ khác nhau. Nazim Hitmet nhắc nhiều đến cuộc đời của
Pêri qua những giai đoạn với những sự việc cụ thể. Từ quê hương Pêri ở
Tulông, một thành phố cửa biển sực nức hương thơm của mùi cá rán, gỗ
thông và hoa nhài đến những khâu chính trong cuộc đời Pêri khi gia nhập
Đảng, khi làm báo, khi bị bắt… Yếu tố tự sự được phát triển theo những bước
đi của cuộc đời Pêri và trong từng khâu vẫn quyện hòa với những cảm xúc
dạt dào. Pôn Êluya lại dường như không sử dụng đến những chất liệu khách
quan trực tiếp của cuộc đời Pêri. Tác giả không kể, không nói về cuộc đời về
những chiến thắng mà anh đạt được, về những gian khổ mà anh phải vượt
qua. Êluya chỉ bày tỏ chân thành những suy nghĩ, cảm xúc của mình về cuộc
đời người chiến sĩ cộng sản, người anh hùng Pêri. Êluya tìm cách gieo vào
người đọc một tên gọi với nhiều yêu thương, kính mến, vì đằng sau tên gọi đó
là một cuộc đời đầy dũng cảm, hi sinh. Đúng là hai tiếng Pê ri đã đến với
chúng ta rất thân thiết trong một âm hưởng trữ tình nồng thắm. Cái tôi trữ tình
của nhà thơ ở đây thật độc đáo mà vẫn chân tình.
Trong thơ trữ tình cách mạng thường dễ có xu hướng không chú ý
đúng mức đến cái tôi trữ tình về cái tôi trữ tình thường bị hòa tan trong một
tiếng nói chung, không có điểm xuất phát cụ thể, không có dấu ấn của một
cách cảm nghĩ, cách nói… do đó tình cảm trong thơ thiếu điểm tựa để có thể
đi vào những nguồn mạch sâu lắng và tinh tế. Đúng như Chế Lan Viên đã
nhận xét: “Hãy bỏ cái tư thế đứng từ bản thân mình, từ kinh nghiệm của đời
sống riêng mình, cái tư thế lấy mình ra chịu trách nhiệm mà nói. Tức thì bài
thơ hiện thực dường như không thực nữa và sẽ mất đi rất nhiều sức chấn
động, ngân vang. Khác nào ta nghe một tiếng nối giữa trời mà không biết
tiếng của ai cả”.
Thơ ca phải thực sự dựa vào sự giàu có của tâm hồn, bản lĩnh cá
nhân. Một cách nhìn cuộc sống đúng hướng và tin yêu lạc quan, một tâm hồn
giàu cảm xúc, dễ đồng cảm, một trí tưởng tượng phong phú luôn mới mẻ:
luôn sáng tạo là những nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với một tâm hồn
thơ. Khi những năng lực tinh thần ấy lại gắn bó với một cuộc đời thực có
nhiều mối liên hệ xã hội phong phú, luôn được bồi đắp từ cuộc sống xung
quanh – đấy là điều kiện để làm xuất hiện một tài năng thơ. Dường như đối
với một nhà thơ, tài năng đôi lúc biểu hiện như một vốn tự nhiên phú bẩm và
đến rất sớm trong cuộc đời thơ. Pêtôphi, Kitxơ, Lecmôntôp, Puskin, Hainơ,
Veclen, Valêri, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận… đều
đã có thơ hay từ trong tuổi đời rất non trẻ.
Nếu người viết tiểu thuyết ưu tiên cho việc miêu tả những người
những người khác, những cái bên ngoài thì nhà thơ ưu tiên cho việc nói với
mình và biểu hiện thế giới bên trong. Do đó, tâm hồn thơ dễ rung động trong
tuổi thiếu niên đã có thể sử dụng để viết được ngay về phạm vi sống gần gũi
nhất của mình. Tình cảm với gia đình, bạn bè, thầy giáo, những nhận xét,
những xúc động về thiên nhiên, về những con vật gần gũi… thường là đề tài
quen thuộc của các bài thơ. Trần Đăng Khoa đã chú ý đến đám ma một chú
giun, con chó vàng, con mèo mướp, cơn mưa, tiếng võng, đến tình cảm với
mẹ cha, bè bạn. Ngoài xã hội, em nói thắm thiết đến Bác Hồ và các anh bộ
đội. Ngoài phạm vi đó ra, đi sâu vào những đề tài xã hội tất nhiên ở lứa tuổi
đó khó để có được những suy nghĩ và phân tích sâu sắc. Một số nhà thơ, tài
năng đã bắt đầu chín.khí bước vào tuổi thanh niên. Thơ của họ như một
mạch nguồn dạt dào sức sống. Đó là tiếng nói của khát vọng yêu tự do, chân
lí và căm giận với những ngang trái bất công trong đời sống như trường hợp
của Hainơ, Mickiêvich, Pêtôphi, Tố Hữu, v.v…
Có khi những bít thơ được viết chủ yếu bằng tình cảm sôi nổi và đằm
thắm của tuổi trẻ trong tình yêu, tình bạn và kỉ niệm về cuộc sống.
Phần nhiều những cây bút trẻ ở vào trường hợp thứ hai. Những bài thơ
này được viết ra nhẹ nhàng, thanh thoát. Ở mỗi người đều có sức sống dạt
dào của tuổi trẻ được biểu hiện như một năng lực vốn có tự nhiên. Những xúc
cảm tươi mới và tha thiết này đánh dấu một giai đoạn phát triển của tâm hồn
thơ trẻ đang bùng cháy trong ước mơ và khát vọng. Nhưng rồi giai đoạn đó
sẽ nhanh chóng qua đi. Nguồn mạch tình cảm và vốn sống tự nhiên sẽ vơi
cạn dần. Đến đây nhà thơ sẽ đứng trước một chỗ rẽ về nhiều nẻo đường. Đi
về hướng nào để tiếp tục chặng đường thơ? Làm sao để có thể nuôi dưỡng
được nguồn cảm hứng và sức sáng tạo phát triển tiếp sang một giai đoạn
mới? Đi về hướng suy nghĩ, trí tuệ chăng? Đó là một điểm cao mà thơ phải
vươn tới, nhưng mọi việc phải bắt đầu từ cái gốc của đời sống. Đi từ phía
ngọn, những suy nghĩ và sức khái quát sẽ non yếu, mong manh và thiếu cơ
sở thực tế. Đi về hướng thuần túy tình cảm, bản năng chăng? Sợ rằng nguồn
mạch tự nhiên của tỉnh cảm sẽ khô cạn dần chỉ còn để lại dấu vết nghèo nàn
và thiếu chân thực trong thơ. Đi vào học tập và khai thác cái hay, cái đẹp của
thơ ca ngoài nước? Nhiệm vụ này rất cần thiết và cấp bách, nhưng chỉ mình
nó, thơ ca sẽ rơi vào chủ nghĩa hình thức hoặc sự mô phỏng tầm thường.
Phương hướng chân chính và lâu dài nhất là đi vào đời sống. Ở giai đoạn này
nhà thơ sẽ viết chủ yếu bằng những nhận thức và tình cảm xã hội. Cái khả
năng chiếm hữu thực tại sẽ là thước đo quyết định sự phong phú của một cá
nhân. Tự mỗi cá nhân cho dù là có tài năng chỉ thật sự giàu có về bản lĩnh và
tâm hồn khi biết hút nhụy luật từ trong bồn hoa vô tận của đời sống xã. hội.
Sự phong phú của một cá nhân, nói như Mac, chính là sự phong phú của
những quan hệ hiện thực mà cá nhân ấy trực tiếp và chiếm hữu được. “Sự
giàu có thực sự về mặt tinh thần của cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào sự
giàu có của quan hệ hiện thực của họ”. Luận điểm của Mac có ý nghĩa vô
cùng hệ trọng đối với tác giả thơ trữ tình. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là ở
chỗ biết bồi đắp cho mình từ trong đấu tranh xã hội để cho cái tôi trữ tình
ngày càng đa dạng, phong phú.
Những nhà thơ lớn đều có một cái tôi trữ tình giàu có. Nguyễn Du rất
trữ tình và cũng rất hiện thực, vừa giàu tiếng nói yêu thương, vừa nhiều sức
tố cáo, vừa từng trải hiểu đời lại vẫn trẻ trung tươi mới. Một cái tôi trữ tình
phong phú là một hòn đá nam châm nhạy bén luôn biết hút về phía mình sự
giàu có của cuộc đời, là một viên kim cương nhiều mặt, mỗi mặt đều ánh lên
màu sắc. Một cái tôi trữ tình phong phú cũng là một cái tôi luôn biết hồi sinh,
chín lại trên mỗi chặng đường. Quá trình phát triển của đời sống và thơ ca
luôn có hiện tượng tắt đi và hồi sinh của nhiều tiếng nói thơ ca… Có những
tiếng thơ mất đi từ giữa quá trình sáng tác và không bao giờ hồi sinh lại. Đấy
là khi nguồn mạch bên trong đã khô cạn hẳn. Có những tiếng thơ ngỡ ngàng,
lúng túng trước những đổi thay của cuộc sống, nhưng sức sống bên trong
của tâm hồn thơ vẫn còn âm ỉ, và đến một lúc nào đó với sức tác động mạnh
mẽ của bên ngoài tâm hồn thơ lại hồi sinh, chín lại trong thực thế mới. Huy
Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế Hanh ở vào trường hợp này với chặng
đường thơ sau Cách mạng. Luôn có ý thức rèn luyện mình, nâng cao phẩm
chất đạo đức và sự trong sáng của tâm hồn, luôn hòa mình trong thực tế đấu
tranh cách mạng, lấy sự phong phú của đời sống làm nguồn tiếp sức và động
viên thường xuyên. Đó là những nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá
trình sáng tác thơ ca. Nhà thơ, đời thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình là một
khối thống nhất chi phối và hỗ trợ cho nhau phát triển.
Chương 3. TÍNH KHUYNH HƯỚNG CỦA THƠ CANay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Quan niệm cách mạng và có tính chiến đấu đó của thơ ca đã thể hiện
một cách tập trung và xuyên suốt toàn bộ sáng tác thơ ca của Hồ Chí Minh.
Với Người, ngay những cảm hứng thơ ca đến trong những lúc tâm hồn thanh
thản và tưởng như vô tư nhất, vẫn thấm đượm sâu sắc tự bên trong chất thép
tư tưởng.
Đã lâu không làm bài thơ nào
Nay lại thử làm xem ra sao
Lục khắp giấy tờ vẫn chửa thấy
Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao.
Một bộ phận quan trọng trong thơ Hồ Chí Minh là thuộc về thơ chính trị,
những sáng tác lấy cảm hứng sáng tạo trực tiếp từ trong những sự kiện chính
trị và lại trở lại phục vụ cho những nhiệm vụ động viên và tuyên truyền chính
trị. Hai phẩm chất quan trọng đó không tách rời nhau. Những nhiệm vụ và sự
kiện chính trị trong thơ Hồ Chí Minh không tồn tại dưới dạng khô khan lí trí mà
bừng lên khí sắc có sức lôi cuốn động viên, gây được cảm hứng và lòng tin.
Cảm hứng thơ ca thực sự đã có mặt trong những bài thơ chính trị tiếng thơ
và lời động viên chính đã quyện hòa làm một.
Với Aragông khuynh hướng chính trị trong thơ tác giả là tình cảm với
đất nước, lòng tin vào con người đang tồn tại và đấu tranh cho lẽ sống cao
đẹp. Trong thực tế, thơ không mâu thuẫn với chính trị, đố kị và loại trừ chính
trị mà thực chất của vấn đề là ở chỗ sáng tác thơ mang khuynh hướng chính
trị nào. Maiakôpxki cho rằng thơ bắt đầu từ chỗ có khuynh hướng. Khi nhà
thơ nhận thức được lí tưởng tiến bộ và nhiệt tình đấu tranh cho chân lí thì
thực sự mới có thơ ca chân chính. Khuynh hướng là sự phân minh về ranh
giới giai cấp, là ý thức và nhiệt tình đấu tranh – đó cũng. là phẩm chất quan
trọng của thơ ca. Với Maiakôpxki, tư tưởng chính trị đã quyện hòa với nhịp
đập của trái tim, với nhịp điệu và lời thơ. Nhà thơ, người tuyên truyền chính
trị, con chim họa mi, chủ nghĩa cộng sản… tất cả chỉ là một. Lần đầu tiên
trong thơ ca, vấn đề khuynh hướng chính trị được đề ra một cách nghiêm
chỉnh nhất, bảo vệ một cách kiên quyết nhất. Nhà thơ ý thức rõ rệt “lời thơ là
ngọn cờ và bom đạn”, thơ ca phải tắm mình vào dòng sự kiện của lịch sử.
Trong lịch sử phát triển của thơ ca, những nền thơ lớn, những nhà thơ
lớn đều thực sự mang rõ rệt khuynh hướng chính trị. Bốn thế hệ trong nền
thơ Tây Ban Nha hiện đại từ thế hệ 1898 với Antôniô Machađô, thế hệ 1927
với Garxia Lorka, R.Anbecti, thế hệ 1936 với Gabrich Xêlaya, Victorianô
Crême và “thế hệ 1947” đều sục sôi trong bão lửa đấu tranh chính trị chống
áp bức, giành tự do. Bộ mặt riêng biệt, phong cách độc đáo điểm mạnh và trội
nhất của nền thơ Tây Ban Nha là ở cường độ rất mãnh liệt của nhiệt tình
trong thơ và thực chất là nhiệt tình đấu tranh cách mạng, là tấm lòng thiết tha
yêu quý đất nước Tây Ban Nha. Lời thơ vừa là tâm huyết vừa là phương
châm hành động, là vũ khí chiến đấu, là mũi nhọn sắc bén về tư tưởng, luôn
ở thế tiến công.
Thơ ca Ba–lê công xã ánh lên sắc đẹp của màu cờ đỏ, của bông hoa
cẩm chướng, của mang tia mất sáng cháy ngọn lửa đấu tranh và niềm tin
thắng lợi. E. Pôchiê kêu gọi: “Hãy là sắt là đồng, là chiến lũy”. Hình ảnh một
Luizơ Misen tiêu biểu cho sự thống nhất tự bên trong nhà thơ và con người
chiến sĩ. Bàn tay đẹp góp phần sáng tạo nên những vần thơ trau chuốt lại
càng đẹp hơn khi đặt trên khẩu súng máy còn hoe lửa đạn nhằm thắng về
phía quân thù. Lí tưởng cao đẹp và những tư tưởng chính trị đúng đắn đã làm
thức tỉnh và bừng lên chất thơ trong nhiều tâm hồn chiến sĩ. Nó cũng gây
được sự rung động và thiết tha đồng cảm ở Victo Huygo và ngay cả với
Rimbô, Veclen, những nhà thơ lãng mạn tiêu cực, mà nhân sinh quan thấm
đầy chất bi quan, hư vô chủ nghĩa. Tìm đến và ngợi ca phong trào Ba-lê công
xã, Rim bô và Veclen đã ghi lại trong cuộc đời thơ của mình một dấu vết tích
cực nhất, một kỉ niệm đẹp đẽ nhất.
Thơ ca Việt Nam những năm chống Mĩ cứu nước mang theo những
phẩm chất cao quý và vẻ đẹp lạ lùng. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng được
kết tinh và biểu hiện rực rỡ trong cuộc chiến đấu dũng cảm và hi sinh dân tộc
lớn nhất trong lịch sử loài người. Những giá trị tinh thần tốt đẹp nhất của con
người thời đại đang được biểu hiện tập trung trong con người Việt Nam chiến
đấu. Thực tế chiến đấu vĩ đại ấy, sự nghiệp lớn lao và con người cao đẹp ấy
là mảnh đất quý nuôi dưỡng vô tận mọi nguồn cảm hứng thi ca. Dương
Hương Ly đã nói lên cảm nghĩ của một tâm hồn thơ trẻ chứa chan hạnh phúc
được sống, và viết trên thực tế chiến đấu nóng bỏng của miền Nam anh
hùng.
Rất trữ tình là nhỡ bước hành quân
Vần thơ xung phong là vần thơ chân chất
Thời đánh Mĩ là thời tươi đẹp nhất
Tỏa nắng cho thơ là triệu ánh mắt anh hùng.
Thơ ca chống Mĩ cứu nước ở cả hai miền mang một tầm tư tưởng khá
cao của một nền thơ giàu chất thép, chất chiến đấu. Nếu ở nơi nào kia tiếng
thơ còn là tiếng nói yếu đuối của tâm hồn hoài nghi tuyệt vọng hoặc còn là
một làn sương mù phảng phất, một dải lụa phù hoa, thì ở Việt Nam tiếng thơ
thực sự là một ca khúc chiến đấu. Chất lí tưởng, chất chính trị tiến bộ đã thấm
sâu và đem lại cho thơ những phẩm chất cao đẹp. Đúng như nhận xét của
nhà thơ Sóng Hồng:
“Thơ là một vũ khí đấu tranh giai cấp kì diệu. Làm sao có thể quan niệm
thơ không có tính đảng và tính giai cấp được. Thơ và cách mạng không thể
tách rời. Đương nhiên không phải thơ nào cũng đều cách mạng cả nhưng có
cách mạng thì có thơ. Toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và của
nhân dân ta chẳng phải là một thiên anh hùng ca của thời đại đó sao?”. Tư
tưởng chính trị và tính chất chiến đấu trong thơ bộc lộ trước hết ở chỗ đứng,
ở sự xác lập rõ rệt ranh giới giai cấp, ở thái độ bảo vệ và phê phán với cảm
hứng thi ca sâu sắc những vấn đề đặt ra trực tiếp trong nấu tranh xã hội.
Trong địa hạt này không thể chấp nhận được một sự mơ hồ lẫn lộn nào. Ở
đây xung quanh chúng ta là đội ngũ đông đảo đồng chí bạn bè, trong tay
chúng ta là những vần thơ tiến công mạnh mẽ, “những vần thơ bom đạn phá
cường quyền”, “những dòng thơ lửa cháy”, và trước mắt chúng ta là kẻ thù
xảo quyệt đang ẩn hiện.Tư tưởng chính trị ấy bộc lộ trong cái náo nức quyết
liệt của những dòng thơ trẻ:
Đêm nay chúng tôi ngồi đốt lửa
Thắp sớm những mặt trời.
Giành giật thời gian cho cuộc đời trước mặt
Sáng may chúng tôi xuống đường với mặt trời Việt Nam không
bao giờ tắt
Trong những ánh mắt căm thù thức suốt đêm nay.
(NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
Và kết lại như một phương châm giàu sức suy nghĩ khái quát:
Thời đại lớn cho ta đôi cánh
“Không gì hơn Độc lập, Tự do”
Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ.
(Tố Hữu)
Một tấm lòng sôi nổi thiết tha yêu thương, căm giận khi bộc lộ cảm xúc,
suy nghĩ; những luận điểm sắc bén trong khi bảo vệ và phê phán, một ý thức
tính táo phân minh trên những vấn đề ranh giới là những phẩm chất quan
trọng đảm bảo cho tiếng nói thơ ca vững vàng về chính trị và giàu tính chất
chiến đấu. Cũng không thể nói mơ hồ và lầm lẫn như Việt Phương:
Ta có thể nói với quân thù những lời bình tĩnh
Tất cả những gì xấu xa của tao là thuộc về mày
Tất cả những gì tốt đẹp của mày là thuộc về tao.
Có thể nào nói đến cái tốt đẹp của kẻ thù và đồng nhất “cái gọi là tốt
đẹp” ấy với bản chất tốt đẹp của chúng ta. Có thể nào lại nghĩ được rằng bất
kì những nhược điểm và hạn chế nào của chúng ta cũng mang bản chất thù
địch, cũng thuộc về kẻ thù. Từ nội dung ý tưởng đến cách xưng hô có một cái
gì đó cào bằng, lẫn lộn về. nguyên tắc.
Trong thơ, cho đến một đề tài một chất liệu tưởng như không trực tiếp
mang quan điểm tư tưởng, vẫn bộc lộ một thái độ chính trị nhất định. Cứ nhìn
vào một giai đoạn sáng tác, một tập thơ cũng thấy rõ nhà thơ quan tâm đến
những vấn đề gì, những đề tài nào của cuộc sống. Nếu quá thiên về cái vụn
vặt, tỉ mỉ, phụ thuộc thì làm sao có thể nói lên được phần bản chất của cuộc
sống với tầm vóc lớn lao của nó. Có trường hợp một bài thơ, một tập thơ,
chưa cần nói đến nội dung tư tưởng, chỉ nói lên cái tên của nó và những đề
tài được khai thác cũng đã thấy nó biểu hiện một cái gì đó khác thường, kì
quái. Bài thơ trên ghế đá của Lê Đạt thuộc loại đó. Một cảnh gia đình vì
những khó khăn trong đời sống vật chất mà không có hạnh phúc, một người
vợ trẻ chán chồng, người thợ cầu già không có vợ, cái chết ảm đạm của
người thợ may gù suốt đời gửi ham muốn của mình qua những tà áo đẹp…
rồi sắt thép, ghế đá cũng nổi dục vọng lên khi thấy cảnh trai gái âu yếm
nhau… Lê Đạt đã miêu tả những số phận và cảnh đời ngang trái bộc lộ tâm
trạng cá nhân có phần bệnh hoạn qua những bài thơ trên.
Cũng như các loại hình văn học và nghệ thuật khác, quan điểm chính trị
ở trong thơ cần được bộc lộ qua hình tượng. Những tâm trạng, những hình
ảnh sẽ phát huy sức mạnh cụ thể khi đã quyện hòa và thâm nhập trong nội
dung tư tưởng tiến bộ. Cần tránh lối thuyết lí từ ngoài vào, từ bên trên vọng
xuống theo lối thơ giáo huấn. Nhiều khi tư tưởng chính trị biểu hiện kín đáo
qua một biểu tượng, một hình ảnh, một liên tưởng gián tiếp và cả đến một
giọng điệu thi ca. Hồ Chủ tịch đã qua câu chuyện đi đường mà nói về con
đường đấu tranh cách mạng:
Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Bài thơ chứa đựng một tư tưởng lớn, một triết lí sâu sắc. Ở nơi gay go
nhất với những thử thách quyết liệt của cuộc đấu tranh cách mạng cũng chính
là nơi tiếp cận với cao điểm để từ đó nhận biết và thâu tóm được những chân
lí của đời sống.
Quan điểm chính trị trong thơ cũng bộc lộ kín đáo qua những sáng tác
thuần túy về đề tài thiên nhiên, những sáng tác mà một số luận điểm của giai
cấp tư sản thường lợi dụng để đề xướng quan điểm tính người trong văn học.
Doãn Hành qua tập thơ Vân biều tuy chỉ nói về cỏ cây loài vật nhưng vẫn làm
toát lên từ trong nội dung một thái độ chính trị nhất đinh. Tác giả phê phán
thái độ thúc thủ hoặc buông xuôi nản chí của một số người mất chí tiến thủ
quay lưng lại với thời thế qua bài viết về cây rêu và con đom đóm. Thái độ
chính trị bộc lộ kín đáo, từ cuộc sống cỏ cây mà liên tưởng đến đời sống xã
hội. Đó cũng là một hiện tượng khá phổ biến trong nhiều sáng tác thơ ca từ
xưa tới nay nhất là trong thơ ca Đông phương. Bạch Cư Dị đã nhận xét đúng
đắn về cách khai thác và miêu tả phong hoa tuyết nguyệt trong Kinh Thi. Chất
liệu thơ ca này đã được sử dụng với những dụng ý kín đáo để bày tỏ một thái
độ xã hội: “Phong hoa tuyết nguyệt không phải là trong Kinh Thi không có.
Nhưng xem cách họ dùng phong hoa tuyết nguyệt như thế nào. Thí dụ bài
Gió bấc căm căm là mượn cảnh gió bấc rét mướt mà phê phán bọn bạo
ngược, bài Mưa tuyết bay bay tả cảnh mưa tuyết nhưng chính là tả đời sống
gian khổ của binh lính nơi biên phòng, bài Hoa Đường lệ mượn cành hoa
Đường lệ kết tựa vào nhau mà khuyên anh em đoàn kết một lòng, Hái rau
phù dĩ miêu tả niềm vui sướng của người phụ nữ sinh con đẻ cái tuy lại khen
trực tiếp cây rau phù dĩ. Những bài thơ đó đều không phải là đơn thuần tả
phong hoa tuyết nguyệt mà là phản ánh sâu sắc đời sống xã hội”.
Nhận xét trên góp phần phê phán quan niệm phủ nhận tính khuynh
hướng và quan điểm chính trị trong những sáng tác về thiên nhiên, một mặt
cũng xác nhận tính chất đa dạng và biến hóa linh hoạt của quan điểm chính trị
được biểu hiện trong thơ. Trong thơ ca cũng có khi xảy ra tình trạng không
phù hợp giữa ý định của người viết và việc thưởng thức ở người đọc. Khi
hình tượng thơ ẩn kín với dụng ý “thi tại ngôn ngoại” thì việc thưởng thức thơ
dễ xây ra hai trường hợp: một là người đọc bỏ lướt qua và không thấy dụng ý
của nhà thơ, hai là câu thơ bị hiểu theo một cách suy diễn máy móc. Xuân
Diệu có lần đã nói lên cảm hứng phấn khởi của mình trong những năm tháng
đất nước đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội:
Hồn tôi cánh rộng mở
Đôi bên gió thổi vào
Nghĩ những điều hớn hở
Như trời cao cao cao.
Có ý kiến nhận xét rằng ý thơ trên đã rơi vào sai lầm về quan điểm
chính trị. Ngọn gió từ đôi bên thổi vào là gió gì? Phải chăng là thứ gió cơ hội
chủ nghĩa?
Xuân Diệu trong một bài viết đã trình bày lại rõ hơn cách lập ý và dùng
hình ảnh của mình. Khi đã nói là “hồn tôi cánh rộng mở” thì tự nhiên hình ảnh
đôi cánh sẽ gợi đến ngọn gió thổi vào từ hai bên để nâng cao cặp cánh rộng
mở của tâm hồn.
Nếu vận dụng một cách suy diễn máy móc, nặng nề thì rồi cũng tìm
được ra một số câu thơ gọi là “sơ hở về chính trị”. Có thể vì cách nói của thơ
ca quá hàm súc kín đáo. Có thể vì những tượng trưng ước lệ, cách điệu hóa
làm cho tính xác định của ý tưởng và ngôn từ không thật rõ rệt. Có thể vì
những liên tưởng và giải thích khác nhau của người đọc theo những thị hiếu
và những năng lực chủ quan của mình. Với thực tế đó nên có nhà thơ cho
rằng thơ ca là một thể loại ít có khả năng tự bảo vệ mình. Nhận xét trên có
phần đúng nhưng hàm ý tiêu cực về phía bản thân thơ cũng như với thái độ
của những người xung quanh đối với thơ. Tính chất đa dạng và biến hóa
trong cách biểu hiện quan điểm chính trị trong thơ đòi hỏi người viết phải chặt
chẽ, chính xác khi xây dựng hình tượng thơ, phải tránh mọi hiểu lầm có thể
dẫn đến trong liên tưởng của người đọc. Mặt khác, với người đọc cần tránh
lối suy diễn máy móc, nhưng đồng thời cẩn nhạy bén, nghiêm khắc để vạch
ra kịp thời những dụng ý chính trị xấu được ngụy trang qua lối viết bóng gió.
Nhóm Nhân văn – giai phẩm chẳng đã từng dùng biểu tượng hai mặt trong
thơ để chống Đảng và nói xấu chế độ đó sao? Nhưng thủ đoạn của chúng đã
bị nhân dân ta vạch trần.
Thơ cũng là một hình thức cảm xúc và tư duy trực tiếp. Tư tưởng chính
trị có thể vào trong thơ qua môi giới của hình tượng thơ nhưng cũng có thể
bộc lộ như một lời kêu gọi, một khẩu lệnh chiến đấu:
Đấu tranh này là trận cuối cùng
Kết đoàn lại, để ngày mai.
L’ internationale
Sẽ là xã hội tương lai.
(ƠGIEN PÔCHIÊ)
hay bằng một cách nói trực tiếp:
Thế ta đứng tên đầu lũ giặc
Thế bốn ngàn năm dồn lại hôm nay
Thế mùa xuân xã hội chủ nghĩa nở hoa đầy
Thế cách mạng sục sôi trên bốn biển.
(HOÀNG TRUNG THÔNG)
Quan điểm chính trị bộc lộ công khai và trực tiếp trong thơ tạo nên chất
thép, chất chiến đấu của thơ ca. Quy luật khá phổ biến ở trong thơ là thường
trong những thời kì đấu tranh xã hội càng quyết liệt thì thơ ca càng có xu
hướng chính trị rõ rệt. Các nhà thơ với vị trí chiến đấu của người công dân
giác ngộ lí tưởng luôn có dụng ý lấy thơ ca làm vũ khí tuyên truyền trực tiếp
những tư tưởng chính trị nhằm động viên cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần
chúng. Thơ ca Đông Kinh nghĩa thục,thơ Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, Tố
Hữu… đều mang rất rõ đặc điểm trên. Quan điểm chính trị được biểu hiện
qua đặc trưng về nội dung cũng như và nhịp điệu và ngôn ngữ của thơ, nên
dễ đi vào quần chúng gây được sức lay động, đồng cảm. Một mặt khác, khi
quần chúng tham gia vào những phong trào cách mạng rộng lớn với khí chế
muôn người xốc tới, với niềm vui sôi nối nhiệt tình thì cũng dễ tạo ra một
phong trào thơ ca của quần chúng cách mạng. Thơ ca Công xã Pari và thơ ca
Xô – viết Nghệ – Tĩnh Là những phong trào tiêu biểu. Thực chất của những
phong trào thơ ca quần chúng này là tiếng nói hờn căm chế độ xã hội cũ, là
ca khúc chiến đấu và chiến thắng. Nó ít quan tâm hơn đến sự trau chuốt về
nghệ thuật mà chủ yếu là nhằm tuyên truyền, cổ vũ cho những mục tiêu và
hành động chính trị. Khi tư tưởng chính trị bộc lộ dưới dạng của những quan
điểm trực tiếp, chất chính luận nổi lên so với các yếu tố khác và có xu hướng
triển khai trong toàn bài thì ta có thơ chính trị. Như nhà thơ Sóng Hồng nhận
xét: “Thơ chính trị là thơ trăm phần trăm như các thơ khác. Đó chính là loại
thơ có thép như Hồ Chủ tịch đã nói, chứ không phải những bài xã luận bắt
thành vần”.
Trong những năm chống Mĩ cứu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng
biểu hiện sâu sắc trong thơ dưới nhiều dạng thức và một trong những hình
thức phổ biến là dạng thức chính luận. Thơ không chỉ nói lên thế giới nội tâm
của nhà thơ mà chủ yếu phải nói lên khúc ca chiến đấu của dân tộc và thời
đại Thơ không phải chỉ là sự bộc lộ cảm xúc và tâm trạng mà phải khẳng định
hoặc phê phán thông qua phân tích, suy luận, trình bày, thuyết phục, chứng
minh… Nhiều bài thơ chính trị xuất hiện trên cơ sở luận bàn về dân tộc và
thời đại anh hùng:
Các chiến sĩ Việt nam hừng hực lửa căm thù
Chắc tay súng đang lao mình về phía trước
Quyết giành lại quyền thiêng liêng dân tộc
Bảo vệ phe ta giữ vững hòa bình
Đi trước thời gian đánh thức buổi bình minh
Thúc thời đại tiến nhanh hơn chút nữa
Ta ở trung tâm của phong trào chống Mĩ
Nhìn bốn phương vẫy gọi cả loại người.
(SÓNG HỒNG)
Thơ chính trị rất có hiệu quả để phê phán và vạch mặt đế quốc Mĩ, kẻ thù độc
ác và nguy hiểm của ngài người tiến bộ. Chế Lan Viên có nhiều thành công
qua chủ đề này. Anh vạch mặt kẻ thù vừa nghiêm khắc, tỉnh táo, vừa châm
biếm lạnh lùng:
Đế quốc Mĩ tụt sâu vào cái đường hầm tuyệt lộ mịt mùng không
có lối ra
Cái đa số thầm lặng những xác chết Huê Kì ngày một khuếch
trương dần các bãi tha ma
Đế quốc Mĩ hộc ra máu, hộc ra vàng từng trận lớn
Từ Bến Hải đến chót Cà Mau, từ Cánh đồng Chum đến chân đền
tháp Ăng–ko, những binh đoàn giặc đang hóa thành phân bón
Trong cơn lạm phát máu và suy thoái tinh thần chúng còn lên
tiếng dọa đe ta.
(Phác thảo cho một trận đánh, một bài
thơ diệt Mĩ)
Nâng cao tư tưởng chính trị trong thơ là một vấn đề khó, nhưng làm
những bài thơ chính trị lại càng khó. Nếu không có một quan điểm chính trị
sắc bén, một thái độ chủ động trong khả năng dự đoán và phân tích tình hình,
một bản lỉnh và một năng lực suy tưởng vững vàng thì rất dễ rơi vào tình
trạng non yếu và ngây thơ về chính trị hoặc minh họa lại một cách sơ lược
những luận điểm chính trị mà báo chí đã bàn luận nhiều lần. Một nhân tố rất
quan trọng nữa là phải làm sao cho nội dung chính trị của bài thơ nhập vào
một âm hưởng thi ca nào đấy. Dấu ấn chủ quan của nhà thơ trong nhận thức,
suy luận và cách trình bày, diễn giải phải rõ nét, có bài sắc riêng độc đáo.
Quan điểm chính trị không bộc lộ dưới dạng nguyên thể của một luận điểm
chính trị khô khan, mà mang theo nó cảm hứng, nhiệt tình, cũng như cách
bình luận, đánh giá của người tiếp nhận. Phẩm chất này không thể tạo ra
được chỉ bằng những kĩ xảo về nghệ thuật mà chủ yếu thuộc về thế giới quan
và năng lực suy tưởng của nhà thơ.
Một bài thơ chính trị cũng có một sức chiếm lĩnh rất mạnh, chủ yếu
không phải ở sự lôi cuốn của dòng cảm xúc, ở màu sắc đa dạng của những
hình ảnh và bức tranh về đời sống, mà ở chất thép của tư tưởng, ở sự sắc
sảo của những luận điểm và ở khí thế vững mạnh, bao trùm. Điều quan trọng
là phải tạo được khí thế của bài thơ. Khí thế chính là sức mạnh tỏa ra từ cái
lõi bền vững của tư tưởng. Khí thế chứng minh sức sống của tư tưởng chính
trị trong hình tượng thơ. Khí thế ấy có sức chiếm lĩnh mạnh mẽ, có năng lực
tập hợp và nhiều khi như thôi thúc, động viên, như giục giã hành động.
Những bài thơ chúc Tết của Bác Hồ đều có một khí thế hùng tráng, tạo nên
một sức mạnh, một âm hưởng lôi cuốn đặc biệt. Đằng sau mỗi dòng chữ là
một cách nhìn sáng tỏ, một lời động viên khích lệ một mệnh lệnh chiến đấu:
Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió.
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông
Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập nhất định thành công.
(Chúc năm mới – 1947)
Tạo được cảm hứng chính trị, như thế là bài thơ đã đi vào thế giới nghệ
thuật. Tư tưởng chính trị đã hòa điệu và ăn nhập với âm hưởng thi ca. Những
bài thơ chính trị mà không tạo được khí thế chính trị thường vì bị rơi vào sự
minh họa và tường thuật chính trị một cách đơn giản, hoặc rơi vào lối giáo
huấn lộ liễu.
Nhược điểm trên bộc lộ khá rõ rệt trong một số bài thơ viết theo đề tài
thời sự. Người viết thiếu một tầm bao quát và sắc bén về chính trị nên thường
không nhận thức được đầy đủ, sâu sắc bản chất của những sự kiện chính trị
mới nảy sinh trong đời sống và mối quan hệ nhiều mặt của sự kiện chính tả
đó với các hiện tượng xã hội khác. Lại thêm nữa, cảm hứng và nhiệt tình
cách mạng thiếu một sự sôi nổi và hưng phấn thường xuyên để có thể xem
mỗi sự kiện chính trị xã hội tiêu biểu là một dịp cho người viết thể hiện những
suy nghĩ và tâm trạng như đã được chuẩn bị trước của mình. Đó là nguyên
nhân khiến cho nhiều bài thơ thời sự thiếu một nội dung sâu sắc. Trong lịch
sử phát triển của thơ trữ tình, có nhiều nhà thơ viết nhiều và viết một cách
hứng thú về những đề tài thời sự. Các bài thơ tụng của Penđar thường được
soạn ra nhân dịp những cuộc vui chơi và ca ngợi các trận thắng do các đô
vật, các dũng sĩ giành được. Thơ của Horax cũng gắn nhiều với thời sự. Gơt
đã từng phát biểu: “Bài thơ nào của tôi cũng là thơ thời sự”. Tác giả có ý thức
gắn liền thơ ca với những vấn đề của đời sống hiện thực; và Hêgen đã nhận
xét: “Thực vậy, đối với ông ta thì một sự kiện của cuộc đời là một dịp để sáng
tác thơ”. Hainơ, Pêtôphi, Maiakôpxki… đều là những nhà thơ thời sự. Quan
tâm và hứng thú với những vấn đề thời sự là sự biểu thị một phương diện của
ý thức chính trị của nhà thơ. Không thể nào quan niệm được một nhã thơ cố
quan điểm chính trị tiến bộ lại thoát li hoặc lẩn tránh những vấn đề thời sự.
Nhưng từ chỗ có ý thức viết về đề tài thời sự đến mức độ viết hay, viết có
nghệ thuật về những vấn đề thời sự lại là một khoảng cách khá xa. Nếu chỉ
miêu tả lại những sự kiện chính trị một cách khách quan mà thiếu những rung
động sâu xa từ bên trong, thiếu một cách phân tích, bình giá sắc sảo thì bài
thơ dễ rơi vào một thông tin nghệ thuật. Phần lớn thơ của ta từ sau Cách
mạng đều là thơ thời sự. Có những đề tài thời sự thu hút được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà thơ như chiến thắng Điện Biên Phủ, vụ thảm sát Phú
Lợi, thành tựu Liên Xô chinh phục vũ trụ, những điển hình về các nhân vật
anh hùng: Trần Thị Lý, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Môrixơn… Có
trường hợp hàng mấy chục bài thơ cùng viết về một đề tài, nhưng điều đáng
tiếc là số lượng bài hay còn quá ít. Đa số còn hời hợt, nông nhẹ về cảm xúc,
chạy theo thời sự một cách vất vả. Còn thiếu một sự chủ động để nhận thức
và cảm thụ vấn đề, thiếu một bản lĩnh vững vàng để phán đoán, đề xuất, thiếu
một am tường rộng rãi để dễ suy nghĩ liên tưởng. Tố Hữu là trường hợp điển
hình nhất cho những thành công về đề tài thời sự trong thơ. Chiến thắng Điện
Biên, Ta đi tới, Người con gái Việt Nam, Thù muôn đời muôn kiếp không tan,
Hãy nhớ lấy lời tôi, Mẹ Suốt, Êmily con, Những ngọn đèn… đều là những bài
thơ thời sự và là những bài thơ hay của tác giả. Hiện tượng đó không phải là
ngẫu nhiên, mà có từ trong cội nguồn tầm tư tưởng và tình cảm cách mạng
của nhà thơ, đúng như Xuân Diệu nhận xét: “Tính cách thời sự trong thơ Tố
Hữu quyết không phải là một bộ máy tốt để bắt vần mà là một sự sáng tạo
tươi mới luôn bằng tinh lực của tâm trí. Hoa trái ngày nay thơm tốt nhưng rễ
thì đã mọc sâu từ hai mươi năm. Rễ nuôi bằng tư tưởng, lập trường của
chiến sĩ, rễ sống bằng tơ lòng, mạch huyết của thi nhân”.
Chính Tố Hữu đã có lần tâm sự về quá trình sáng tác một số bài thơ
viết về đề tài thời sự của mình: “Có anh em hỏi tôi làm bài Người con gái Việt
Nam trong trường hợp nào. Tôi xin báo cáo với các đồng chí vắn tắt như sau:
sự thật chuyện chị Lý chỉ là một cơ hội để nói thôi. Cũng như các đồng chí, tôi
luôn nghĩ đến những đau đớn và những gương anh dũng của đồng bào ta ở
miền Nam và tôi muốn nói to cái ý nghĩ: dù kẻ địch hung ác đến mấy dân tộc
ta không chết, đồng bào miền Nam ta vẫn sống, vẫn là người chiến thắng.
Những ý đó người khác ai ai cũng có thôi, không có gì mới mẻ cả, nhưng đến
lúc gặp chuyện chị Lý gì đó là một hình tượng cụ thể để cho những cái kia trở
thành có da thịt. Nếu có một ý mới nào thêm vào là ở chỗ này: gặp chị Lý
người nữ thanh niên dũng cảm ấy tôi thấy cần nói thêm cái đẹp của tuổi trẻ
của tâm hồn ấy”.
Thơ là thể loại có năng lực để diễn tả những đề tài thời sự. Và thực sự
tính chất nóng hổi, tươi mới của những sự kiện chính trị, xã hội nảy sinh luôn
có năng lực gây xúc động, khơi dậy nguồn cảm xúc và suy tưởng ở mỗi nhà
thơ. Và hơn thế nữa trên tinh thần trách nhiệm của người chiến đấu bằng
ngòi bút thì mỗi bài thơ viết ra cũng như ý thức đi sát dòng thời sự để sáng
tác là sự biểu thị bằng hành động, ý thức và nhiệt tình cách mạng của nhà
thơ. Đó chính là lúc nhà thơ đi vào mũi nhọn của đời sống. “tắm giữa dòng sự
kiện” hay nói như một số người là nhà thơ đã rời bỏ chiếc tháp cô đơn đi vào
giữa phố phường, hát những bài ca sôi nổi và náo động của quần chúng thợ
thuyền, hay ngồi trên toa tàu hạng ba, bắt tay trò chuyện với những người
bạn nghèo khổ của mình.
Quan điểm chính trị là hạt nhân của cơ sở tư tưởng trong một bài thơ.
Phấn đấu để nâng cao hơn nữa tính đảng trong thơ là nhiệm vụ hàng đầu của
bất kì một nền thơ ca vô sản nào. Tính đảng trong sáng tác thơ ca bộc lộ rõ
rệt ở nhiệt tình bảo vệ bằng trí tuệ, tư tưởng và tình cảm cho đường lối chính
trị của giai cấp vô sản, cho nhân sinh quan cách mạng, ở sự phê phán kiên
quyết và triệt để với tất cả khuynh hướng tư tưởng và tình cảm lạc hậu, phản
động. Maiakôpxki, nhà thơ vô sản đầu tiên của chính quyền Xô viết, đã nêu
một tấm gương về ý thức phấn đấu cho tính đảng trong sáng tạo thơ ca.
Những vần thơ tha thiết yêu thương và cháy bỏng căm thù được viết ra trong
những năm chính quyền cách mạng còn trong trứng nước, bốn phía bị vây
bọc và tấn công bởi những kẻ thù trong và ngoài nước:
Chúng ta
trên đảo
Mạc–tư khoa trơ trọi
Chúng ta nghèo
xác xơ
khát đói.
Lênin trong đầu
và súng sáu cầm tay.
Nghi lực vững vàng và tư thế chiến đấu ấy cho phép ta tin tưởng ở thắng lợi
ngày mai. Và càng tha thiết hơn là tấm lòng sâu nặng với đất nước trong
những lúc khó khăn nhất:
… Đất nước này
ta yêu quý
Có thể quên
những nơi và những lúc
Sống no nê
phệ bụng
căng diều
Nhưng đất nước
đã cùng nhau đói lả
Đất nước này
vạn thuở
không quên.
Đó cũng là trường hợp của Pablô Nêruđa với những bài thơ, khúc hát ngợi ca
Tố quốc và cách mạng Chilê. Thơ của Nêruđa không đến từ một chân trời
nào xa lạ mà lớn lên trên đất nước Chilê, đất nước của khổ đau, nghèo đói,
dây thép gai…, đất nước của những người nghèo khổ đang dũng cảm giành
lấy tương lai. “Tôi là nhà thơ, con của những người nghèo khổ”, Nêruđa đã
xác định cho mình chỗ đứng vững chắc và đem thơ đến giữa nôi ấm của cuộc
đời. Với Nêruđa, nàng thơ không phải là nữ thần huyền ảo. Nàng thơ là cô
em gái đang đến với những người nghèo khổ ở xưởng thợ, hầm mỏ, với vầng
trán nhọ than hoặc “phủ đầy mùn cưa thơm mát”. Sức mạnh của thơ Nêruđa
bắt nguồn từ trong mồ hôi muối mặn của những cuộc đời lao khổ và từ trong
tiếng hát đấu tranh của quần chúng đang tuần hành lên đường phố. Nêruđa
đem đến khúc hát cho mọi người. Khúc hát phơi phới bay lên ngợi ca cách
mạng Cuba cách mạng Chilê. Và mãnh liệt hơn ở Nêruđa là những lời thơ
phẫn nộ ném vào mặt Bầy quỷ sa–tăng. “Lịch sử đã chứng minh cái sức giật
đổ của thơ và tôi tự đón cho mình cái năng lực ấy một cách không ngần ngại.
Nêruđa nói và hành động. Lời thúc giục tiêu diệt Nich-xơn và khúc hát ngợi ca
cách mạng Chilê có sức mạnh của “giàn đại bác thơ”. Đó là hành động chính
trị biểu thị cao nhất trách nhiệm của thơ và đem đến “sự vinh dự của những
nhà thơ”.
Tư tưởng chính trị và tính chất chiến đấu của thơ ca không phải là sản
phẩm tự nhiên hoặc có tính chất ngẫu nhiên trong sáng tác mà chủ yếu là do
vai trò quyết định của thế giới quan. Không thể có những bài thơ tiến bộ được
viết ra từ một tâm hồn thơ bi quan tiêu cực. Thế giới quan, nhân sinh quan
như thế nào thì tư tưởng và tình cảm trong thơ sẽ nảy nở theo chiều hướng
ấy. Tụng Tây hồ phú của Nguyễn Huy Lượng và Chiến tụng Tây hồ phú của
Phạm Thái thể hiện sự trái ngược nhau về quan điểm đối với thời cuộc. Từ đó
những suy nghĩ, những cách cảm thụ về con người và thiên nhiên cũng trở
nên khác hẳn nhau. Cùng viết về đề tài người kĩ nữ trong xã hội cũ nhưng với
thế giới quan khác nhau mà tầm vóc tư tưởng và cách giải quyết vấn đề trong
các sáng tác cũng khác hẳn nhau. Xuân Diệu không thi vị hóa mà cảm thông
với cách sống chán chường và nỗi cô đơn của người kĩ nữ:
Lòng kĩ nữ cũng sầu như biển lớn
Chớ để riêng em lại gặp lòng em.
Nỗi xót xa và lo lắng nhất của người con gái là tình trạng sống cô đơn. Họ
muốn tìm một lối thoát, một điểm tựa tinh thần, một sự chia sẻ chân thực của
tình người, nhưng cái kết thúc bài thơ chỉ là một đôi mắt run mờ và những
giọt nước mắt “vỡ” ra vì đau khổ, tuyệt vọng. Trong thơ Thái Can ta cũng bắt
gặp hình ảnh một người kĩ nữ đau khổ, có lần tâm sự với tác giả: “Em chỉ nói
rằng đời em buồn. Rồi em nức nở lệ sầu tuôn”. Người kĩ nữ cũng tìm thấy ở
tác giả một lời khuyên, nhưng không phải là một hướng giải thoát, một niềm
tin vào mai sau:
Đứng dậy em ơi giữa cõi đời
Đời dù bạc bẽo đến mười mươi
Em nên điểm phấn tô son lại
Ngạo với nhân gian một nụ cười.
Cái cách “trả thù” cuộc đời theo lối cá nhân tiểu tư sản ấy có một cái gì hơi
khôi hài và cuối cùng những chuỗi ngày bi kịch lại tiếp tục đè nặng lên số
phận người con gái xấu số.
Trong cảnh ngộ chung ấy với thế giới quan cách mạng, Tố Hữu đã
mạnh dạn, cả quyết đem lại niềm tin, một lời giải đáp, chiêu tuyết cho cuộc
đời nhiều sương gió của người kĩ nữ:
Răng không, cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương nhụy hoa nhài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng.
Nguồn suối trong lành ấy của cuộc đời ngày mai đã có từ hôm nay trong tâm
hồn nhà thơ cách mạng trẻ tuổi.
Người ta cũng thường nhắc tới những giọt mưa buồn, những giọt mưa
vụt trong thơ Huy Cận ở hai thời kì trước và sau Cách mạng:
Mưa xưa rời rạc tần ngần
Mưa nay ríu rít nhân quần tiếng vang.
Giọt mưa cũ ố vàng thơ phú
Chiều mưa nay đoàn tụ lúa xanh
Cũng là thức giữa năm canh
Mưa xưa lạnh lẽo, mát lành mưa nay.
Cái “rời rạc tần ngần” ấy là do nhịp điệu bên ngoài của tiếng mưa rơi
hay chính là do cái hiu hắt bên trong của một tâm hồn chi phối đến một cách
lắng nghe:
Ta nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
Niềm vui và nỗi buồn là vốn tự lòng người đâu phải là do một hiện tượng
thiên nhiên chi phối. Nhưng nếu đem so sánh thì một tia nắng dễ đem lại niềm
vui hơn âm thanh của những giọt mưa, cái âm thanh ấy dễ bắt nhạy với phần
yếu điểm của tâm trạng. Trong thơ, người xưa đã từng nói đến những giọt
mưa làm bối rối trong lòng: “Ngoài thềm vài giọt mưa tí tách. Trong lòng có
việc chẳng phân minh”, những giọt mưa trớ trêu làm cho không ngủ được:
“Biết rõ là liên quan đến việc gì trong lòng ta. Chỉ biết rằng trêu ngươi không
sao ngủ được”. Nỗi buồn của tâm trạng và cách lắng nghe ấy thuộc về một
thời kì đã qua. Tiếng mưa trong thơ hôm nay được miêu tả từ những tâm hồn
lạc quan, ấm áp. Trong bài Mưa xuân trên biển Huy Cận đã có thể viết những
câu thơ đẹp mang theo một cách nhìn, một cách cảm thụ mới:
… Lưa thưa mưa biển ấm chân trời
… Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm...
Và rồi trong thơ Giang Nam, thơ Lê Anh Xuân, mưa cũng gợi nhiều kỉ
niệm đẹp của tuổi thơ vui đùa, tắm táp… Trong những chi tiết tưởng như bình
thường nhỏ nhặt ấy đều có vai trò quan trọng của thế giới quan.
Trong thế giới quan của nhà thơ, có một nhân tố hết sức quan trọng chỉ
đạo trực tiếp đến tác phẩm: quan điểm về thơ. Trong lịch sử phát triển của
thơ ca, dường như mỗi nhà thơ đều có một quan điểm thơ ca của mình, phát
biểu trực tiếp hoặc gián tiếp, có hệ thống hoặc từng mặt. Quan điểm thi ca chỉ
đạo rất sát, rất chặt chẽ quá trình sáng tác. Điều đáng chú ý là mỗi loại quan
điểm tuy có nội dung và sắc thái riêng độc đáo, nhưng nhìn chung lại thì chỉ
bao gồm hai quan điểm, hai thái độ chủ yếu đối với cuộc đời. Một là, thơ phải
là vũ khí tư tưởng, phải đấu tranh cho lí tưởng tiến bộ, phải gắn liền với cuộc
sống hiện thực và góp phần cải tạo hiện thực. Quan điểm của Hồ Chí Minh về
thơ là một trong những quan điểm tiêu biểu nhất, phát biểu một cách súc tích
có hình ảnh, tính chất chiến đấu của thơ ca:
Nay ở trong thơ nên có thép.
Nhà thơ cũng phảz biết xung phong.
Loại quan điểm thứ hai về thơ nhằm tách rời thơ ra khỏi đời sống xã
hội, xem thơ là một cái gì linh thiêng, huyền bí, hoặc xem thơ là một vẻ đẹp
diệu kì, vô tư và thuần khiết, có cứu cánh nội tại.
Trong nhiều thế kỉ, toàn bộ những quan điểm sáng tác thơ ca tiến bộ
đều đấu tranh cho sự giải phóng con người, đấu tranh để bảo vệ những giá trị
tinh thần cao đẹp nhất. Nêkraxôp, Puskin, Hainơ, Pêtôphi cho đến Tagor,
Êxuya đều thiết tha lấy đấu tranh cho Tự do làm một lẽ sống của thơ ca, và
thật sự phẫn nộ với sự chà đạp tàn bạo nhân phẩm con người.
Trong quan điểm sáng tác thơ ca thường có những sự gặp gỡ như một
sự đồng điệu về tâm hồn giữa các khuynh hướng gần gũi nhau. Quan điểm
về thơ của Puskin, Biêhnxki, Nêkraxôp có nhiều điểm tương đồng. Jôhan
Bêsơ đã phát triển những quan điểm về thơ của mình chủ yếu dựa trên
những luận điểm về thơ của Gơt. Cũng có những quan điểm thơ ca mang rất
rõ tính chất cách tân sáng tạo. Maiakôpxki với Tôi làm thơ như thế nào thực
sự đã phát biểu một tuyên ngôn về thơ ca có giai cấp vô sản với những đặc
điểm mới, sáng tạo.
Tư tưởng chính trị và cảm hứng sáng tạo là hạt nhân và nội dung chủ
yếu của lí tưởng thơ ca. Lí tưởng tiến bộ sẽ chắp cánh cho hồn thơ bay cao
và đốt cháy lên trong thơ ngọn lửa đấu tranh và niềm tin vào thắng lợi ngày
mai.
Nâng cao tư tưởng chính trị và tính chất cao đẹp của lí tưởng trong thơ
là vấn đề quan trọng bậc nhất với hoạt động sáng tạo thơ ca. Đối với mỗi nhà
thơ, nhiệm vụ trên không chỉ thu hẹp lại ở sự nâng cao mặt nhận thức lí luận
mà trước hết là ở hành động cách mạng. Lao mình vào sự nghiệp đấu tranh
của dân tộc ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu, hết lòng tận tụy thiết tha với mỗi
trách nhiệm được giao phó, luôn có ý thức vun trồng sự sống qua từng việc
làm cụ thể… đó là cơ sở chủ yếu bồi đắp cho thơ chất lí tưởng. Chất thép
trong thơ chỉ có thể có được từ chất thép trong tâm hồn và cuộc đời nhà thơ.
Ngọn lửa trong thơ tránh sao khỏi leo lét, mờ ảo khi tâm hồn nhà thơ đang tắt
đi dần ánh sáng của niềm tin và mơ ước. Tiếng nói thơ ca tránh sao khỏi hiu
hắt cô đơn khi giữa cái riêng và cái chung thiếu một sự hòa điệu gắn bó tự
bên trong!
Sự nghiệp lớn lao của dân tộc, tầm vóc vĩ đại của thời đại mới yêu cầu
mọi nhà thơ phải là một chiến sĩ tâm hồn của người nghệ sĩ phải “lộng gió,
lộng màu sắc, lộng hương vị của sự nghiệp ta”.
Nhiều nhà thơ đã bắt gặp và yêu thơ trên con đường đấu tranh cho lí
tưởng vì đúng như Sóng Hồng nhận xét: “Có cách mạng là có thơ”. Tố Hữu
cũng đã nói lên sự thực đó qua trường hợp riêng của mình: “Chính vì lí tưởng
cộng sản, vì sự nghiệp vĩ đại của Đảng mà tôi yêu thơ”.
Câu nói trên khẳng định thơ là một bộ phận trong sự nghiệp chung của
Đảng, thơ bộc lộ cái đẹp, cái chân lí ngời sáng của Đảng và chỉ ra sự thống
nhất làm một từ trong ngọn nguồn giữa lí tưởng của Đảng và hoạt động sáng
tạo thơ ca. Từ khi có Đảng lãnh đạo, con đường đi đến với thơ ca theo hướng
trên là con đường mới mẻ. Có nhà thơ từ tấm lòng yêu thơ trong sáng thiết
tha mà tìm đến với lí tưởng. Đó cũng là điều đáng quý. Song cái cần phải đề
phòng như một nguy cơ đe dọa là khi người viết, do sự sa sút của tâm hồn
mình, bắt đầu cảm thấy có một cái gì gò bó giữa tấm lòng yêu thơ và yêu lí
tưởng hoặc ít nhiều có sự hạn chế lẫn nhau giữa hai hoạt động này.
Niềm vui sướng và tự do của những nhà thơ cách mạng là luôn tìm
thấy sự thống nhất, gắn bó từ bên trong giữa hoạt động thơ ca và lí tưởng
cao đẹp của Đảng. Mối quan hệ đã được Tố Hữu nói đến với tinh thần thiết
tha đằm thắm:
Rằng: Thơ với Đảng nặng duyên tơ
Thuyền bơi có lái qua mưa gió
Không lái thuyền trôi lạc bến bờ...
Sự lãnh đạo của Đảng, ánh sáng của lí tưởng là nguồn sáng chung của
mọi nhà. Mỗi nhà thơ sẽ tiếp nhận lí tưởng đó từ sự thôi thúc mãnh liệt của
tình cảm cách mạng, từ những thử thách trên mỗi chặng đường đấu tranh, từ
bản lĩnh và phong cách sáng tạo ở mỗi người.
Sự nghiệp chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta hiện nay đang ở trên
đỉnh cao và tuyến đầu của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân toàn thế
giới. Vị trí chiến đấu ấy là trách nhiệm nặng nề, là nguồn động viên chính trị
hết sức lớn lao đối với mỗi người cầm bút.
Nhìn chung bộ mặt của nền thơ Việt Nam thời kì hiện đại có phẩm chất
chính trị khá cao, đáp ứng được một phần yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
Tuy nhiên vấn đề quan điểm chính trị và lí tưởng sáng tạo trong thơ vẫn là
nhiệm vụ có ý nghĩa hàng đầu đặt ra với các nhà thơ. Và ngay với những thế
hệ khác nhau của lực lượng sáng tác cũng có những vấn đề riêng cần đặt ra
giải quyết trong lĩnh vực này. Thế hệ những nhà thơ thời kì trước Cách mạng
chín lại với thực tế mới đã trải qua nhiều thử thách, nhiều kinh nghiệm trong
công tác cách mạng cũng như cuộc sống riêng nên thường có chiều sâu ở
sức suy nghĩ, và có nhiều ân nghĩa, gắn bó với cách mạng. Chỗ hạn chế của
các nhà thơ này là phần nào thiếu sự tươi trẻ hồn nhiên và non yếu về chất
sống thực tế, những yếu tố làm điểm tựa trực tiếp cho lí tưởng và nhận thức
chính trị.
Với lực lượng thơ trẻ thì dễ dạt dào và bay bổng trong cảm hứng về
cuộc sống và con người mới. Họ nói được một cách tự nhiên, đằm thắm lí
tưởng mới, nhất là với những thà thơ trẻ đang trực tiếp có mặt trên mũi nhọn
của các trận tuyến chiến đấu. Tuy nhiên chỗ yếu là chất lí tưởng trong thơ
chưa thử thách và phần nào thiếu từng trải nên dễ bồng bột, đơn giản và chủ
quan.
Vấn đề bồi đắp quan điểm chính trị và chất lí tưởng trong thơ là vấn đề
cấp bách và lâu dài, quyết định bước phát triển của cả một đời thơ vì ý nghĩa
của một đời thơ là ở chỗ đem toàn bộ sức sáng tạo của mình phục vụ hết
lòng và có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và nhân dân.
Chương 4. CẢM XÚC VÀ SUY NGHĨ TRONG THƠ
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VÀ DẠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA CẢM XÚC TRONG THƠ
1. Cảm xúc trong thơ phải chân thực
Hình tượng thơ trữ tình là hình tượng cảm nghĩ. Cảm xúc và suy nghĩ
bộc lộ ở dạng trực tiếp, gắn liền với chủ thể nên cường độ cảm xúc thường
tha thiết và mạnh mẽ. Nhà thơ ít kể lại cảm xúc một cách gián tiếp cho dù là
cảm xúc gắn liền với nhân vật trữ tình hay với cái tôi trữ tình. Dạng biểu hiện
trực tiếp của cảm xúc đòi hỏi cảm xúc trong thơ phải chân thực. Tính chân
thực là phẩm chất đầu tiên cần có của mọi trạng thái cảm xúc. Tiếng thơ phải
được nói lên từ một tấm lòng, từ những rung động sâu xa của trái tim đang
xúc động. Những thương mến, căm giận về những nỗi niềm khác nhau bộc lộ
trong hình tượng thơ đều phải: chân thành, tự nhiên, như một lời tâm sự, một
tình cảm không nén lại được. Những áng thơ hay trong văn học từ xưa tới
nay đều lắng đọng những tình cảm sâu sắc, chân tình. Tinh thần yêu nước
thiết tha và lòng sôi giận căm thù kẻ địch trong Hịch tướng sĩ văn của Trần
Hưng Đạo và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi vẫn còn làm rung động
mạnh mẽ trái tim chúng ta hôm nay. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá
Nhạ, Tú Xương, v..v.. đều là tấm lòng chân thực làm cái gốc của hồn thơ và
sự sáng tạo. Có thể vừa châm biếm vừa trào lộng cuộc đời hay giãi bày tâm
sự ở khía cạnh nào của ngòi bút cũng là cuộc đời, là tấm lòng thành thực.
Tình cảm chân thực đi vào trái tim người đọc bằng con đường ngắn nhất.
Tình cảm chân thực là nền móng của bài thơ. Thiếu nó toàn bộ bài thơ với
phần thượng tầng sẽ đổ sụp cho dù có kiến trúc, tô vẽ một cách công phu. Tố
Hữu đã chỉ ra một cách đúng đắn tầm quan trọng của phẩm chất này trong
thơ: “Tôi hay nghĩ về chữ tài và chữ thật. Nên chúng rói chữ tài ít hơn mô nói
nhiêu hơn đến chữ thật. “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Tâm ấy là lòng
trong trắng, chân tình, chung thủy. Tôi cho người làm thơ trước hết phải chân
thật với mình, với đồng chí mình, với Đảng mình, với nhân dân mình, với thời
đại mình”.
Sự chân thật với mình và với mọi người vẫn là một yêu cầu đặc biệt
quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Nhưng với thơ, yêu cầu đó phải biểu
hiện một cách nghiêm chỉnh, thường xuyên, vì thơ là một tấm phiên bản trung
thành nhất của nhà thơ. Sự chân thật trong thơ không chỉ là một phẩm chất
của thơ mà qua đấy nói lên phẩm chất và lòng trung thực của con người sáng
tạo ra nó. Đem đến cho cuộc đời một tiếng nói chân tình, sâu sắc, bằng
những rung động thực và sâu xa của mình, đó vừa là yêu cầu đối với thơ ca,
mà trước tiên là yêu cầu về một thái độ sống. Nhiều bài thơ của những tác giả
không chuyên nhưng lại gây sức rung động và ấn tượng sâu sắc vì nó được
nói lên từ những cảnh ngộ chân thực và tình câm chân thành...lỗi hoàn. cảnh,
mỗi trạng thái cảm xúc đều có cung bậc tình cảm của nó. Nhà thơ, phải biết
rung động và đẩy cảm xúc đến tốc độ cao nhất. Có thể lời thơ còn mộc mạc,
nhưng nếu tha thiết chân tình thì bài thơ vẫn lắng đọng.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhiều câu thơ hay về tình
quân dân, tình đồng đội chủ yếu được nói lên bằng những cảm xúc rất thật,
rất chân thành. Tình quân dân cá nước thật dễ chan hòa đồng cảm: “Một
thoáng lặng nhìn nhau. Đã âm thầm thương mến”.
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế.
(Cá nước)
Tình yêu ở đây bộc lộ tự nhiên tha thiết vì xuất phát từ lòng thương mến và
thông cảm với tất cả những gian khổ mà người chiến sĩ phải chịu đựng trong
nhiệm vụ cao cả của mình. Cũng với một cảnh ngộ và tâm trạng tương tự,
Thôi Hữu rất chân tình:
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà.
(Lên Cấm Sơn)
Tình cảm quân dân, đồng đội cũng được nói lên sâu sắc và cảm động qua
những bài như Đồng chí của Chính Hữu, Viếng bạn của Hoàng Lộc, Nhớ của
Hồng Nguyên, v.v… Hoàng Lộc trong bài Viếng bạn đã nói lên thật xúc động
và đau đớn tình cảm của người chiến sĩ trước cái chết của đồng đội. Một lời
kể tự nhiên, một tiếng nói đớn đau, căm giận kẻ thù gây tội ác, một nỗi xót
thương khôn cùng đang nén lại, một lời nguyện hứa trước anh linh người đã
khuất:
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành..
Đắp cho người dưới mộ.
Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhằm trúng anh
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh…
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chưa thành lời
Mà hàm răng dính chặt…
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung.
Hơi thơ thuần cảm xúc, rất chân chất và tự nhiên. Tình cảm tha thiết chân
thực, được đẩy lên cao điểm. Trạng thái và cường độ của cảm xúc phù hợp
với cách diễn đạt. Trong quá trình sáng tác thơ ca, có thể có hiện tượng
người viết xúc cảm và rung động mạnh nhưng hình tượng thơ lại ít gây được
cảm xúc. Sở dĩ thế vì người viết không chọn lọc được những khả năng và
phương tiện biểu hiện phù hợp. Một trường hợp khác cũng có thể xảy ra là
lấy sự thành thục trong việc vận dụng những phương tiện biểu hiện thay thế
cho cảm xúc nghèo nàn. Trong một chừng mực nào đó, cách viết này cũng
gây được ít nhiều sự lầm lẫn và tạo được một sức hấp dẫn nhất định. Song
tính chân thực của cảm xúc là một phẩm chất không thể thay thế hoặc tạo
nên được bằng những yếu tố khác. Điều cần tránh trong thơ là đừng để cho
tình cảm được nói lên bằng sự khôn khéo và lạnh lùng của lí trí. Nhiều cây
bút thông minh hiểu rõ rằng ở vào cảnh ngộ nào đó thì tâm tình phải nên như
thế nào và họ đã tạo nên những cảm xúc cần thiết. Người viết chú trọng tạo
nên những trạng thái tình cảm như nó cần phải có hơn là bộc lộ những cảm
xúc chân tình của mình. Sự hiểu biết và trí thông minh không đủ tạo nên phần
ấm nóng và sự chân tình của cảm xúc khi thực sự cảm xúc đã trở nên nguội
lạnh. Những trường hợp trên dễ tạo nên trong thơ những khoảng cách –
khoảng cách giữa cảm xúc thực và phần biểu hiện cảm xúc, khoảng cách
giữa lí trí và tình cảm, v.v... Tình cảm được nói ra khác đi nhiều với cơ sở có
thật của cảm xúc sẽ dễ gây ấn tượng về sự thiếu chân thực trong thơ, thậm
chí là sự giả tạo. Một nỗi đau giả, một niềm vui giả cho dù có được biểu hiện
bằng những kĩ xảo thành thục đến mấy vẫn không thể lừa dối được người
đọc. Nếu một tình cảm chân thực và sâu sắc nhói mạnh vào người đọc những
gì gần gũi và tha thiết thì sự giả tạo cũng gây phản ứng nhanh chóng. “Lòng
như nhật nguyệt thì thơ cũng như ánh sáng của nhật nguyệt. Cứ theo nơi ánh
sáng đến thì thấy được mặt trăng mặt trời, cho nên lấy người mà thấy thơ, lại
lấy thơ mà thấy người. Nếu như con người, tấm lòng, không phải như vậy mà
cứ miễn cưỡng làm ra những lời lừa người, dối đời thì chỉ lừa được một
người, một thời, quyết không thể lừa dối thiên hạ đời sau mãi được”.
Sự chân thực của cảm xúc bắt đầu từ một tấm lòng. Một tấm lòng giàu
yêu thương, biết chia sẻ những nỗi niềm tâm sự, biết rung động chân thành
trong tiếng nói bè bạn, đồng chí. Và chính cơ sở đó sẽ tạo nên sắc thái riêng
của một tâm hồn thơ. Sự chân thực trong cảm xúc có thể được biểu hiện qua
tiếng nói tràn đầy, sôi nổi hoặc kín đáo, lắng đọng. Dù cho hồn thơ là “nồng”
hay “đạm” thì cũng phải giữ được tình cảm thiết tha, đằm thắm từ bên trong.
Trước kia Viên Mai có nhận xét: “Thơ nên đạm không nên nồng nhưng phải là
cái đạm sau khi có nồng”. Đó là một ý hay song cũng có nói thêm: cái gốc của
nồng hay đạm đều phải ở tình cảm chân thực. Thơ có thể và nên nồng, không
phải là cái nồng ồn ào và hời hợt mà xuất phát tấm lòng sôi nổi yêu thương,
nồng mà chân và đạm.
2. Từ cơ sở chân thực ra cảm xúc thơ phải nói lên được những tâm trạng điển hình
Sự chọn lọc nghiêm túc những giá trị tinh thần theo quy luật của điển
hình hóa nghệ thuật sẽ giữ lại trong thơ những cảm xúc và tâm trạng mang ý
nghĩa điển hình. Không phải bất cứ một trạng thái xúc cảm, hoặc nội dung
tình cảm nào cũng phù hợp với thi ca. Thơ đòi hỏi phải biết phát hiện những
tâm trạng điển hình của một hoàn cảnh, một lớp người, một thời đại và từ đấy
nâng cảm xúc lên cao hơn, hướng về một mục đích và lí tưởng đẹp. Cái tâm
lí của một lớp người, một thời đại có khi bộc lộ ra sôi nổi thiết tha trong những
hoài bão và khát vọng lớn, có khi lắng xuống trong những tâm sự ấp ủ thầm
kín. Tố Hữu qua Từ ấy đã nói lên tâm trạng của cả một lớp thanh niên tiến bộ,
giác ngộ lí tưởng cách mạng đang say sưa đấu tranh cho chân lí. Tâm trạng
những bà bầm, bà bủ, những cô gái trong Việt Bắc cũng là tâm trạng của
những người mẹ, người chị, người em đang tham gia kháng chiến chống
Pháp. Tố Hữu qua những chặng đường thơ của mình luôn nắm bắt và thể
hiện được những tâm trạng điển hình của thời đại. Và gần đây nhất, những
vần thơ về Hồ Chí Minh là tấm lòng và lời hứa hẹn của nhà thơ và cũng là
tấm lòng của hàng triệu quần chúng khóc Bác, nghĩ về Bác lúc Bác vĩnh biệt
cuộc đời. Ai trong mỗi chúng ta chẳng thấy tâm hồn mình xúc động quyện hòa
trong những câu thơ:
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
…Bác tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Chế Lan Viên trong một cách nói có phần riêng tư cũng đã nêu được tấm lòng
chung của nhân dân ta yêu nước thiết tha trong những năm chống Mĩ cứu
nước:
… Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng.
Ôi Tố quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi căn nhà ngọn núi con sông.
… Ôi cái buổi lòng ta yêu Tổ quốc
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên.
Không chỉ ở những tình cảm lớn như tình yêu Tổ quốc, tình cảm kính yêu
lãnh tụ mới mang ý nghĩa chung sâu sắc mà ngay cả ở những tình cảm bình
thường khác, nhà thơ cũng cần phát hiện những tâm trạng tiêu biểu nhất. Huy
Cận, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Phạm Hổ trong những bài thơ viết cho con
cũng bộc lộ tâm trạng phổ biến của bậc mẹ cha yêu thương con cái.
Cảm xúc và tâm trạng điển hình phải là cảm xúc và tâm trạng được
miêu tả theo quy luật điển hình hóa nghệ thuật. Cảm xúc đó không chỉ ở dạng
bộc lộ một cách tự nhiên, tùy tiện mà được nghệ thuật hóa. Nó không xuất
hiện một cách thô thiển, trần trụi mà được liên kết với nhiều yếu tố khác trong
quá trình sáng tạo. âm thanh, hình ảnh, nhịp điệu đồng thời cũng tham gia và
hòa hợp với sự rung động về cảm xúc để cho cảm xúc hiện lên sinh động, có
màu sắc. Xuân Diệu đã nói khá rõ rệt về trạng thái nghệ thuật hóa cảm xúc
của nhà thơ: “Và khi tôi nói xúc cảm, tôi không chỉ nói rung động về tình cảm
mà thôi, bởi vì người ta có thể rung động rất nhiều, thiết tha chân thành đến
ứa lệ, nhưng ra nước mắt chưa hẳn đã ra thơ, khi tôi nói xúc cảm là tôi nói
rung động về tình cảm cộng với đồng thời một cơn rung động về vần điệu,
hình tượng, âm thanh, một hứng thú sáng tạo vậy. Hứng thú sáng tạo ấy, cơn
rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh ấy chính là cơ sở trực tiếp, là
ngọn lửa làm bùng cháy lên ánh sáng của nghệ thuật trong hình tượng thể
làm cho cảm xúc mang màu sắc mới, gợi cảm, thi vị, với những dáng vẻ cụ
thể. Xuân Diệu đã phân biệt rõ sự rung cảm thuần túy nặng về cảm xúc và
suy nghĩ thường thấy phổ biến ở nhiều người khi bắt gặp một hiện tượng nào
đó gây xúc động. Và một phương diện khác là sự rung cảm có tính nghệ
thuật, có sự tham gia của nhiều nhân tố thuộc nội dung và phương tiện biểu
hiện để biến sự rung cảm thuần túy thành một “hình tượng của cảm xúc”, một
“thực thể khách quan”, có tác dụng tạo nên sức rung cảm ở người khác. Cho
nên quy luật và xu hướng chung của quá trình sáng tạo thơ ca là chuyển hóa
sự rung động và cảm xúc thành một thực thể hữu hình, một dạng cảm xúc có
tính chất cảm tính cụ thể. Một trong những hình thức phổ biến nhất mà các
nhà thơ thường vận dụng là sự chọn lọc những hình ảnh cụ thể để nói lên
cảm xúc. Hình ảnh ở đây vừa là một đơn vị của một nội dung có ý nghĩa thẩm
mĩ khách quan, vừa là một nhân tố để biểu hiện cảm xúc. Nhịp cầu quen
thuộc để tiếp nối giữa một cảm xúc (có phần trừu tượng và ít xác định) với
một hình ảnh (xác định và cụ thể) thường là các hình thức so sánh và ẩn dụ.
Trương Cửu Linh đã cụ thể hóa một nỗi nhớ bằng một sự so sánh với một
hình ảnh qua đấy nỗi nhớ mang một dáng hình cụ thể:
Nhớ chàng như mảnh trăng gầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm.
Chế Lan Viên cũng cụ thể hóa một nỗi nhớ, một tình thương bằng những so
sánh từ trừu tượng dẫn đến cụ thể:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Những so sánh trên đã làm cho trạng thái của cảm xúc trở nên có sức gợi
cảm cụ thể hơn. Nói như Maiakôpxki, so sánh là hình thức đơn giản nhất để
tạo ra hình ảnh. Bên cạnh sự so sánh, phổ biến hơn là việc sử dụng những
ẩn dụ để tạo nên những hình ảnh và những sắc thái cụ thể của đời sống. Tố
Hữu viết:
Cỏ trong vườn mát dưới chân anh
Đời vẫn tươi màu lá rau xanh.
Câu thơ tưởng như bình thường ấy đã tạo nên nột âm hưởng riêng trong bài
thơ. Cái xanh tươi của cuộc đời bình dị, trong sáng, đã có mặt giữa nơi ngột
ngạt tù đày này qua hình ảnh những ngọn cỏ dưới mát và cái phất phới của
những lá rau xanh. Một sự bắt gặp, một cảm xúc giao hòa giữa lòng yêu đời
tha thiết của người chiến sĩ hằng ấp ủ trong một nhiệm vụ đấu tranh với
những hình ảnh thân thuộc của cuộc đời. Tất cả những cảm xúc và hình ảnh
ấy đối lập và khác rất xa, rất xa với bộ mặt đầy tội ác và không khí khủng
khiếp man rợ của nhà tù.
So sánh, ẩn dụ, hoán dụ… luôn có mặt trong những câu thơ để tạo
hình ảnh, cụ thể hóa cảm xúc và rồi ngữ điệu, nhịp điệu của câu thơ cũng
hiện ra như hơi thở, như nhạc điệu của tâm hồn. Toàn bộ những nhân tổ trên
đã nâng cảm xúc trong thơ ở dạng thức bình thường thành cảm xúc nghệ
thuật hóa mang tính chất tập trung và phổ biến hơn, điển hình hơn.
3. Liên tưởng, mộ quy luật của sự nhận thức trong thơ
Một quy luật lớn của sự phát triển cảm xúc trong thơ là sự liên tưởng.
Nhờ sức liên tưởng mà cảm xúc được mở rộng và đi vào chiều sâu. Sự liên
tưởng làm cho cảm xúc phong phú, đa dạng. Tự mỗi dạng cảm xúc nếu chỉ
vận động và phát triển trong một hình thái duy nhất nào đó thì dễ trở nên đơn
điệu. Những liên tưởng hỗ trợ, dựa vào nhau tạo điều kiện cho cảm xúc phát
triển. Liên tưởng là quy luật của nhận thức và cũng là quy luật của cảm xúc.
Người làm thơ phải biết sử dụng những liên tưởng gần gũi và hợp lí nhưng
đồng thời lại có ý nghĩa sâu xa. Khả năng liên tưởng trong thơ rất rộng rãi mở
ra từ nhiều phía. Từ một sự vật cụ thể liên tưởng đến một cái gì khái quát
tượng trưng. Từ một suy nghĩ và cảm xúc chung liên tưởng đến những cái cụ
thể. Những liên tưởng gián tiếp, trực tiếp làm cho cảm xúc trong thơ thêm đa
dạng. Khi đọc những câu thơ:
Sắc xuân khôn lấy then cài
Một cành hồng hạnh trĩu ngoài tường hoa
thì không ai nghĩ đơn giản rằng đó chỉ là một câu thơ tả cảnh thiên nhiên. Sức
sống vẫn vươn lên khỏe khoắn, vượt khỏi mọi ngăn cách và rạng rỡ trong vẻ
đẹp tự nhiên ở chính nơi mà tưởng như mọi vật bị gò bó và phong bế trong
bốn bức tường. Không có gì có thể giam hãm được sức sống tươi trẻ của tuổi
thanh xuân.
Những liên tưởng thường được xác lập qua nhiều dạng, nhưng những
dạng phổ biến là những liên tưởng đối lập và liên tưởng tương đồng, liên
tưởng trực tiếp và liên tưởng gián tiếp. Một tâm lí phổ biến là ở trong một
cảnh ngộ nhất định hoặc một trạng thái cảm xúc nào đó người ta hay liên
tưởng tới những tình cảnh đối lập và do đó cảm xúc lại được khơi sâu và lắng
đọng hơn. Nhân vật ông quán trong cục Vân Tiên cũng đã từng nói lên dạng
liên tưởng điển hình về cảm xúc:
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.
Cái thương, cái ghét, hai biểu hiện nhưng cùng nói lên một thái độ một cảm
xúc. Nỗi cô đơn trong tâm trạng của Trần Tử Ngang được xác lập không chỉ
với hiện tại mà cảm xúc nổi lên và gây ấn tượng sâu sắc trong liên tưởng với
quá khứ và tương lai.
Trước không thấy người xưa
Sau không thấy kẻ đến
Nghi trời đất mênh mông
Lòng bùi ngùi ứa lệ.
Tố Hữu cũng có những liên tưởng phổ biến mang sắc thái đối lập:
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm.
Trong Bài ca mùa xuân 1961, hiện tại được liên tưởng với quá khứ, hiện tại
được liên tưởng với tương lai, miền Bắc được liên tưởng đến miền Nam.
Trong sự liên tưởng về những tâm trạng và cảnh ngộ đối lập, cần tránh sự
khiên cưỡng. Làm sao cho hình ảnh và tâm trạng đến một cách tự nhiên,
chân tình mà sâu sắc. Trong thơ Lê Anh Xuân, miền Bắc, miền Nam luôn
được liên tưởng đi về trong rất nhiều cảnh ngộ và do đó cảm xúc được khai
thác sâu hơn, da diết hơn. Nhìn ánh điện sáng của miền Bắc, tác giả chạnh
lòng nghĩ miền Nam, miền Nam còn nghèo khổ, tăm tối trong ánh lửa củi
tràm, củi đước…
Quê hương ta chúng đã lên đèn
Ánh lửa trên sông bồng bềnh mặt nước
Nhìn điện sáng thương củi tràm củi đước
Tám năm trời rực đỏ tấm lòng son.
Từ ánh lửa củi tràm củi đước, tác giả lại liên tưởng đến những tấm lòng son,
đến ngọn lửa rực hồng không bao giờ tắt, không bao giờ lụi tàn đi trước
những thử thách của thời gian và cuộc đời sóng gió. Chế Lan Viên đã sử
dụng những liên tưởng khá độc đáo vừa đối lập vừa liên kết và tựa vào nhau
trong một khổ thơ để khẳng định một hình tượng. Nhà thơ Hitmet con người
đã phải chịu đựng những năm tháng tù tội ấy, con người phải lưu vong xa Tổ
quốc thân yêu, con người mà trái tim đau nỗi đau chung và riêng, con người
đang thốt lên lời căm giận những bất công và tội ác, con người ấy đang đóng
góp, đang nói điều gì với cuộc sống?
Một người tù làm ta phá cửa các nhà giam
Một kẻ lưu vong gắn lòng ta vào đất nước
Một trái tim đau chia phần cho hạnh phúc
Một tiếng thét căm thù làm ta muốn yêu thương.
Huy Cận qua tiếng gà gáy liên tưởng đến “tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp”.
Nhưng sáng tạo và xúc động hơn là liên tưởng đến hình ảnh người cha
nghèo khó đã khuất. Tiếng gà gáy, mấy lưng cơm tương nhút, một điếu thuốc
khói mù bay mở đầu cho một ngày làm vất vả. Niềm vui ấm áp hôm nay càng
thấm thía sâu sắc biết bao khi liên tưởng đến nỗi niềm quá khứ.
Gà gáy ơi! tiếng gà gáy ơi!
Nghe sao rạo rực buổi mai đời
Thương cha lủi thủi không còn nữa
Chẳng sống bây giờ thôn xóm vui…
Những liên tưởng đối lập này là những trạng thái tương phản của cảm xúc,
của hình ảnh, và suy tưởng đã góp phần trực tiếp nâng cao cảm hứng sáng
tạo. Mỗi hình thức liên tưởng phổ biến được xác lập trên những đối tượng
gần gũi, cùng loại. Tính chất tương đồng của sự liên tưởng này có tác dụng
mở rộng cảm xúc cho đa dạng và phong phú hơn. Khi tiếp nhận ánh sáng của
chân lí cách mạng, Tố Hữu đã liên tưởng tâm hồn mình với một thiên nhiên
đầy hương sắc và ríu rít âm thanh:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Có những liên tưởng như một so sánh trực tiếp hai hiện tượng gần gũi. Với
Em ơi… Ba Lan, tác giả liên tưởng “Hồng quân cứu Va–ven xinh đẹp. Như
Thạch Sanh đánh ó cứu nàng tiên”. Bằng Việt nhìn những ngọn khói phương
xa mà liên tưởng đến một bếp lửa, một tình thương bà cháu “Một bếp lửa ấp
yêu nồng đượm. Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Mối liên tưởng cho dù
là trực tiếp hay gián tiếp, đều có cơ sở hợp lí của nó. Cũng không phải ngẫu
nhiên mà những buổi bình minh thường báo hiệu cho một cái gì thiên về niềm
hi vọng và tương lai. Một ngày mới vẫn hứa hẹn một điều gì… Một buổi chiều,
một bến sông vắng thường được liên tưởng đến trong nỗi buồn chia li xa
cách:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
Nỗi buồn khói sóng và buổi hoàng hôn trong thơ Thôi Hiệu lại phảng phất đến
với Huy Cận trong hơi thở phóng đạt nhưng vẫn thấm thía một nỗi buồn man
mác:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhớ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trong một ngày có lẽ cái thời điểm dễ gây thương nhớ nhất là vào lúc hoàng
hôn. Đó là những xế chiều dội lên nỗi đau thương nhớ Bác.
Ôi Bác Hồ ơi những xế chiều
Ngàn thu nhớ Bác biết bao nhiêu.
Một ngày sắp qua đi, niềm hi vọng và sự gặp gỡ lại phải chờ đợi sang một
ngày mới. Không khí, cảnh vật của buổi chiểu dần vào đêm dễ gợi lên nhiều
xao xuyến mến thương; một ngày hoạt động, sôi nổi, thu hút trí lực đang
chuyển sang những giây phút của cuộc sống riêng tư, đang thu vào thế giới
bên trong của nội tâm thầm kín. Nỗi khắc khoải chờ mong, thương nhớ của
Thúy Kiều cũng vào những buổi hoàng hôn.
Nay hoàng hôn lại đến mai hôn hoàng.
Trong thơ ca cổ, hình ảnh một dòng sông, một con đò thường gợi lên nỗi chia
li xa cách. “Đừng làm mặt trăng và con thuyền trên sông. Trăng chiếu cảnh
biệt li, và con thuyền tiễn người li biệt(l). Dòng sông trong thơ Đường. là dòng
sông của những nhớ thương, xa cách. Dù cho dòng sông ấy lấp lánh những
đốm lửa chài trong đêm hay phủ đầy sương sớm, cũng gợi lên những nỗi
buồn man mác. Một buổi chiều, một dòng sông trở thành một liên tưởng quen
thuộc khi nghĩ đến nỗi buồn, đến sự xa cách. Đến nỗi có những sự tiễn đưa ở
vào một địa điểm không có dòng sông thực thì vẫn có một dòng sông tưởng
tượng vỗ sóng, ánh nắng chiều có thể vẫn tươi trong nhưng con mắt của
người li biệt thì đầy hoàng hôn bao phủ.
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong,
(THÂM TÂM – Tống biệt hành)
Có những liên tưởng phổ biến, mang tính chất điển hình được xác lập trên
những mối quan hệ, những hiện tượng tiêu biểu trong đời sống. Tuy nhiên
người viết vẫn phải có những suy nghĩ sáng tạo, phải xuất phát từ những xúc
cảm thực để tránh tình trạng rơi vào ước lệ mòn sáo. Đằng sau mỗi liên
tưởng phải thật sự có nhịp đập của trái tim và phần suy nghĩ riêng của người
viết. Những liên tưởng đa dạng sẽ mở rộng cho cảm xúc trở nên phong phú
hơn. Ngược lại, chiều sâu và tính chân thực của cảm xúc cũng tạo điều kiện
để mở rộng khả năng liên tưởng.và làm cho những liên tưởng trở nên hợp lí,
vững vàng tự bên trong. Tố Hữu viết:
Miền Nam ơi, vì sao mỗi lúc
Mây chiều xa bay giục cánh chim
Đêm khuya một tiếng bầu tiếng trúc
Một câu hò cũng động trong tim?
Những câu thơ trên nói lên một cách sâu sắc tình cảm tha thiết của miền Bắc
đối với miền Nam. Khi sợi dây tình cảm đã căng, rất căng thì dường như một
va chạm nhỏ, rất nhỏ cũng làm rung lên bao nỗi nhớ thương. Tình cảm đối
với miền Nam chính là sợi dây đàn thiêng liêng và kì diệu đó. Nó thu hút về
đấy biết bao âm thanh và cũng tỏa ra nhiều âm thanh huyền diệu. Mối quan
hệ giữa cảm xúc và liên tưởng cũng mang những đặc điểm trên. Có thể có
những liên tưởng rất xa, dường như không trực tiếp quan hệ với tâm trạng
chủ yếu của nhà thơ, nhưng nếu phân tích kĩ tự bên trong thì vẫn thấy những
sợi dây vô hình ràng buộc nó với tâm điểm của bài thơ. Khi Nguyễn Đình Thi
viết:
Ôi những cánh đồng quê chạy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu…
thì những dòng thơ trên nhằm nói lên sâu sắc ý thức căm thù giặc qua những
hình ảnh như sôi giận và đốt cháy tâm tư. Nhưng câu thứ tư, để đóng lại một
khổ thơ thoạt nghe như xa lạ không hòa điệu vào tình cảm trên:
(Những đêm dài hành quân nung nấu)
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Thực ra, nếu nhìn trong cấu tứ chung của toàn bài thì liên tưởng trên, hay nói
cho đúng hơn, là tình cảm làm cơ sở cho sự liên tưởng trên lại hợp lí. Tình
yêu đất nước từ cái chung bao quát đến những tiếng nói và hình ảnh cụ thể:
một cánh đồng, một dòng sông, một khuôn mặt quê hương, một đôi mắt
thương nhớ của người yêu.. Tất cả những cái đó khi gần khi xa, khi là tiếng
kêu thúc giục chiến đấu, khi là tiếng nói thầm thì của quá khứ vọng về, đều
nhất quán trong một âm hưởng chung hào hùng, đẹp đẽ.
Trong một số bài thơ chữ Hán của mình, Nguyễn Du cũng có những
liên tưởng đẹp, vừa có ý nghĩa tích cực vừa mang tính chất sáng tạo đột xuất.
Trong tình cảnh đau ốm: “Buổi sáng lạnh soi gương thấy mình gầy và già đi”,
“Đêm thanh vắng cửa tre đóng kín nằm rên rỉ”, “Bệnh cũ mười năm không ai
thăm hỏi”, “Tìm đâu ra thuốc tiên luyện chín lần?”, lẽ ra tâm trạng phải chán
chường và nghĩ đến sự tuyệt vọng, đến cái chết chờ đợi. Nhưng không, một ý
nghĩ, một ước mong tích cực được liên tưởng rất tự nhiên:
Ước gì vầng trăng sáng xuất hiện ngay trước cửa
Ánh sáng rọi xuống xua đuổi mọi bóng tối.
Và ở một lần khác, khi nói đến một cảnh tượng có phần khô cằn thiếu hẳn cái
tươi mát của thiên nhiên:
Một túp nhà khói lửa đầy bụi bặm
Tiếc thay những khóm cỏ ở sân bị đẫy sạch
Nguyễn Du đã tìm đến một liên tưởng bất ngờ và độc đáo, làm tươi tắn hơn
cảnh tượng thiên nhiên:
Mai kia gió xuân biết về chỗ nào?
Tú Xương cũng rất sáng tạo từ một âm thanh “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai”
mà liên tưởng đến một cảnh ngộ:
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
4. Sự vận động của cảm xúc là cơ sở cho sự phát triển của hình tượng thơ
Cảm xúc trong thơ vận động và là cơ sở chuyển động của hình tượng
thơ. Một cuốn tiểu thuyết, một vở kịch thường vận động và phát triển trên cơ
sở của những xung đột trong tác phẩm và trên cái nền của một cốt truyện.
Bản thân sự cấu tạo và thành phần trong một cốt truyện cũng thể hiện những
dấu vết và những bước phát triển của sự vận động. Thơ trữ tình thường
không có cốt truyện, nhưng vẫn có sự vận động và phát triển của nội dung.
Trong một bài thơ thường chứa đựng nhiều cảm xúc, nhiều tâm trạng. Những
cảm xúc, tâm trạng này không trùng lặp nhau, không liên kết một cách thuần
nhất đơn giản. Những sắc thái tình cảm, những liên tưởng đa dạng tạo nên
những cung bậc và cường độ tình cảm khác nhau trong bài thơ làm cơ sở
cho sự vận động của cảm xúc. Cảm xúc như chất điện, như dòng nước, khi
có sự chênh nhau về liều lượng cao thấp là có sự vận động. Sự vận động của
cảm xúc và suy nghĩ làm cho nội dung trữ tình thêm sinh động, phong phú. Và
sự vận động của cảm xúc trong một bài thơ không biểu hiện một cách. tự
nhiên, tùy tiện, mà nhằm thực hiện một yêu cầu về chủ đề và tư tưởng. Từ
một chủ định, một tư tưởng bao quát biến thành cảm hứng chủ đạo (pathos)
và biểu hiện cụ thể trong hệ thống cảm xúc và tâm trạng. Quá trình mà chủ đề
và tư tưởng thâm nhập vào trong những tâm trạng và hình ảnh cũng là quá
trình vận động của hình tượng thơ. Nhìn chung, hình tượng thơ đều chuyển
động. Sự chuyển động của hình tượng thơ là phù hợp với dạng thức vận
động và phát triển của tâm hồn. Hơn nữa, cảm xúc và tâm trạng trong thơ
không bộc lộ dưới dạng của một tư liệu chết, khô khan hoặc một trạng thái
tình cảm gián tiếp mà là một tâm trạng đang xúc động, đang suy tưởng – một
sinh mệnh phập phồng hơi thở của sự sống. Ta hãy lấy một trường hợp: bài
thơ Con hỏi kha của Chế Lan Viên.
Con hỏi cha: “Bom có giết chết mèo?”
“Có khi xuống hầm con hãy nhớ mang theo”.
Con lại hỏi: ”Bom có giết thỏ cao-su và ngựa gỗ?”
Ôi đồ chơi trẻ bao lần hoen máu đỏ.
Con hỏi cha: “Bom có giết mẹ không?”
“Không” và cha ôm con nước mắt lưng tròng.
Con lại hỏi: “Bom có thể giết chết con không đấy”?
Đừng có hỏi, con ơi đừng có hỏi
Để ngày mai cha ra trận cho con.
Những câu hỏi vừa ngây thơ vừa lo lắng của em bé và tâm trạng của người
cha đều đổi thay dần, càng da diết hơn với nhịp độ tăng cường của cảm xúc.
Từ những câu hỏi xa xôi đến vấn đề sống chết của những người thân yêu
nhất đã tạo nên thột bước ngoặt trong tình cảm của người cha – tình cảm
chuyển thành hành động. Sự vận động của cảm xúc tạo cho cảm xúc những
màu sắc đa dạng, những cung bậc tình cảm phong phú.
Giang Nam trong bài thơ quê hương cũng bộc lộ nhiều trạng thái cảm
xúc khác nhau: tình yêu quê hương, tình cảm yêu thương với những con
người cụ thể. Cảm xúc vận động tùy theo đặc điểm của mối quan hệ qua các
lứa tuổi của đôi nam nữ thanh niên. Kỉ niệm ấu thơ có chim, có bướm, có
tiếng cười khúc khích của trẻ thơ đùa nghịch. Những năm kháng chiến xa
nhà, một phút giây gặp gỡ khi bộ đội hành quân qua làng, một cái nhìn yêu
thương đằm thắm, ấm mãi lòng người ra đi. Phần cuối bài thơ, cảm xúc thắt
lại trong nỗi đau xót xa:
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi
Đau xé lòng anh chết nửa con người.
Những câu kết của bài thơ như thâu tóm được toàn bộ những trạng thái cảm
xúc tiêu biểu của toàn bài.
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi…
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi…
Thực ra thì tình yêu quê hương không chỉ thâu lại trong hình ảnh con người,
cho dù đó là người thân yêu nhất. Những kỉ niệm, những hình ảnh riêng tư ở
đây vẫn là một nhịp cầu nối tiếp đến một cái gì thiêng liêng và rộng lớn hơn.
Tình cảm trong thơ là động lực chủ yếu của sự chuyển động của hình
tượng thơ. Nhìn chung thì bài thơ nào cũng có sự chuyển động của hình
tượng. Tuy nhiên mức độ và dạng thức của sự vận động thường mang những
đặc điểm khác biệt nhau. Trong nhiều sáng tác thơ ca cổ, hình tượng thơ
ngưng đọng hơn. Khi yếu tố cảm xúc lùi lại về phía sau, người viết chú trọng
đến “thơ nên họa”, đến việc sáng tạo những hệ thống hình ảnh kế tiếp nhau
làm nền cho hình tượng thì bài thơ lúc đó như một bức tranh nhiều màu sắc.
Cái đẹp của thi ca phô bày ra bên ngoài, tính chất thẳm sâu và chuyển động
của nghệ thuật thời gian chuyển hóa sang tính chất tạo hình trực tiếp và tĩnh
hóa chất nghệ thuật không gian. Trước kia Horax cũng đã từng nói: Hội họa
cũng là thi ca. Ximônit xem “hội họa là thơ ca im lặng và thơ ca là hội họa nói
thành lời”. Quan điểm này có mặt đúng nhưng không đủ. Thơ tự hạn chế
mình nếu chỉ đảm nhận chức năng miêu tả ngoại cảnh ở trạng thái tĩnh như
hội họa. Letxinh cũng đã từng phê phán thơ ca Đức nửa đầu thế kỉ XVIII chạy
theo lối miêu tả ngoại cảnh. Thơ bị hạn chế về chiều sâu và tính vận động.
Hình tượng thơ bị tĩnh hóa. Thơ ca cổ Việc Nam và Trung Quốc chú ý nhiều
đến miêu tả ngoại cảnh và sử dụng ngoại cảnh để nói lên nội tâm. Khuynh
hướng này cũng có mặt mạnh của nó, nhưng hình tượng thơ ít biến hóa, vận
động. Một số bài vịnh và loại thơ tức cảnh thường ở dạng thức này. Ví dụ thơ
vịnh năm canh trong Hồng Đức quốc âm thi tập:
Canh một:
Tấp tểnh trời vừa mọc đẩu tinh
Ban khi trống một mới thu canh
Đầu nhà khói tỏa lòng sương bạc
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh
Tuần điếm kìa ai khua mõ cá
Dâng hương nọ kẻ nện chày kình
Nhà nam nhà bắc đều no mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
Bài thơ chủ yếu giới thiệu những việc, những cảnh và không khí chung của
thôn xóm trong khoảng thời gian của canh một. Cảm xúc ít vận động, hình
tượng thơ như dừng lắng lại, nội dung sáng tác chủ yếu mang tính chất miêu
tả, trình bày. Tiếp theo canh một là canh hai, canh ba, canh tư và canh năm:
Canh chầy đèn hạnh lâm dâm
Xao xác lầu canh trống điểm năm
Nguyệt đầu non treo chênh chếch
Sương mặt đất ướt đầm đầm
Rừng kia bố cốc còn khuya dóng
Làng nọ nông phu đã thức nằm
Bóng ác đông trời đã rạng
Tiếng gà thôi, trổi tiếng hàn châm.
Nhìn chung trong thơ ca cổ nhất là với hình thức thất ngôn bát cú thì hình
tượng thơ ít vận động. Kết cấu của bài thơ định rõ chức năng, vị trí của từng
câu. Vấn đề chủ yếu không phải là ở những luồng cảm xúc đi về tự nhiên sôi
nổi, tung phá hệ thống cách luật nghiêm ngặt mà người viết phải biết nén cảm
xúc, dồn chặt hệ thống cảm xúc lại và chọn lọc những trạng thái tiêu biểu bộc
lộ ra ở những hình ảnh tương ứng trong thế hài hòa, cân đối giữa các thành
phần của nội dung và giữa nội dung với hình thức.
Thơ ca hiện đại chú trọng nhiều đến sự vận động tự nhiên của cảm
xúc, đến những diễn biến và đổi thay của các trạng thái cảm nghĩ. Nhất là với
hình thức thơ tự do thì người sáng tác có ý thức thể hiện một cách chân thực
những cảm nghĩ tự nhiên nhất trong một hình thức không gò bó. Do đó hình
tượng thơ vận động dưới nhiều dạng thức phong phú, có khi vận động một
cách tuần tự bình thường, có khi vận động một cách đột biến, có khi vận động
theo dạng thức quy nạp, có khi vận động theo dạng thức diễn dịch, vận động
đối xứng, vận động song song, vận động nhất tuyến, vận động đa tuyến…
Trong bài thơ Cái giếng đầu làng Tế Hanh đã dẫn mạch thơ phát triển
tuần tự, mô rộng dần cảnh xúc qua từng hình ảnh từng kỉ niệm gần gũi, thân
thương. Cái giếng đầu làng, nơi đi về thân thuộc, nơi chuyện trò gặp mặt của
bà con xóm thôn, nơi ghi lại một mối tình, một kỉ niệm gái trai đằm thắm.
Cái giếng đầu làng của em
Dưới khóm dừa xanh tỏa bóng êm
Em đi gánh nước đôi vai mịn
Đòn gánh cong cong uốn dẻo mềm.
Cái giếng đầu làng của anh
Một buổi trưa hè trời trong xanh
Em múc trao anh gầu nước mát
Mặt nước hòa đôi bóng chúng mình.
Cảm xúc và tứ thơ phát triển tiếp tục với “Cái giếng đầu làng của bà con”,
“Cái giếng đầu làng của người bốn phương” và bỗng nhiên cảm xúc dâng
cao, thắt lại trong sự vận động đột biến qua kết thúc rất độc đáo và sáng tạo:
Cái giếng đầu làng; cái giếng đầu làng
Êm như kỉ niệm, trong như ngọc
Một mảnh lòng tôi ở miền Nam
– Bọn giặc Mĩ rải đầy thuốc độc.
Cũng có những bài thơ nà cảm xúc vận động tuần tự, hình tượng thơ như
phù sa được bồi đắp dần cho đến khi thật màu mỡ, phong phú. Bài thơ Đêm
nay Bác không ngủ của Minh Huệ thuộc dạng này. Hình ảnh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh ngày càng được tô đậm, in rất sâu, rất đẹp trong tâm trí của người
đội viên. Quá trình vận động của hình tượng thơ qua nhiều bước phát triển,
hình tượng thơ được nâng dần, nâng dần đến mức cao đẹp lộng lẫy mà vẫn
giản dị gần gũi:
Đêm nay Bác ngồi đó
Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh.
Anh đội viên tự giải đáp được nỗi băn khoăn thắc mắc và lòng tràn
ngập niềm kính mến, thương yêu.
Sự vận động của cảm xúc trong thơ có thể theo nhiều dạng biểu hiện
khác nhau, nhưng vấn đề cơ bản và rất quyết định là phải thể hiện được sự
phát triển biện chứng của tâm hồn. Có thể trong bài thơ có những liên kết tự
do, những liên tưởng bất ngờ, những vận động tăng cường đột xuất hoặc
những sự dừng lắng của cảm xúc, nhưng mạch thơ phải phát triển phù hợp
với quy luật bên trong của cảm xúc và suy nghĩ và phù hợp với diễn biến
khách quan của một cảnh ngộ, một sự việc nhất định. Trạng thái tâm hồn
được biểu hiện trong thi ca ở dạng vận động, nhưng là vận động biện chứng.
Đặc điểm trên không phải lúc nào cũng bộc lộ rõ nét trong thơ. Trong thơ ca
Nga, giới nghiên cứu thường xem sự phát triển biện chứng của tâm hồn thể
hiện ra rõ rệt từ thơ ca của Puskin, Lecmôntôp. Khi thơ ca còn nặng về thực
hiện chức năng miêu tả theo hình tượng thị giác, nhân tố hội họa và tạo hình
còn chiếm vị trí chủ yếu, thì tự nhiên sự vận động trong thơ không bộc lộ rõ.
Ví như thơ của nhóm Văn Tinh (Pléiade) tuy phong phú về cảm xúc nhưng
vẫn nặng về mặt tạo hình. Lẽ ra cảm xúc thơ vận động ở bên trong theo cấu
tạo nội tại của hình tượng thơ thì lại có xu hướng chạy ra bên ngoài để trình
bày, phô diễn. Lẽ ra cảm xúc phát triển một cách liên tục nhưng lại bị những
nhân tố tạo hình và hội họa chi phối, làm cho hình tượng thơ ngưng đọng,
tĩnh hóa. Xu hướng chung của thơ ca mấy thế kỉ gần đây và thơ ca hiện đại
chú trọng đặc biệt đến sự vận động của cảm xúc tâm trạng vì đó chính là
trạng thái biểu hiện đúng đắn và thuần chất của trữ tình, vì đó cũng là dấu
hiệu và điều kiện thiết để biểu hiện đúng trạng thái của cảm nghĩ. Có người
cho rằng cảm xúc và tâm trạng ở dạng bất an, thay đổi vận động là cảm xúc
đẹp. Ý kiến trên cũng chỉ đúng ở một khía cạnh nào đó vì căn bản là vấn đề
nội dung của cảm nghĩ chứ không phải là trạng thái cảm nghĩ.
Sự vận động của cảm xúc trong thơ nhiều khi chuyển hóa thành sự vận
động của những suy nghĩ. Ranh giới giữa cảm xúc và suy nghĩ trong thơ
không phải là một ranh giới xác định không thể vượt qua. Một suy tưởng trừu
tượng tất nhiên là khác rất xa với một cảm xúc sôi nổi tự nhiên. Nhưng nếu về
phía cảm xúc được gia tăng thêm chiều sâu lắng đọng, gia tăng thêm những
liên tưởng thì cảm xúc sẽ đi về hướng suy tưởng. Và ngược lại, nếu những
suy tưởng trừu tượng được thấm sâu vào những hình ảnh và tâm trạng cụ
thể, hòa tan trong máu thịt của hình tượng thơ thì suy tưởng cũng sẽ đi về
hướng của cảm xúc. Sự vận động của cảm xúc thành suy tưởng và từ suy
tưởng thành cảm xúc là một sự vận động ngang rất cần thiết trong hình tượng
thơ. Dường như mỗi câu thơ, mỗi khổ thơ đều có sự vận động này. Chế Lan
Viên viết:
Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.
Hình tượng thơ trong đoạn trên đã vận động từ cảm xúc đến suy
tưởng. Từ những tình cảm nhớ thương mảnh đất, con người, tác giả đã nâng
cảm xúc lên thành một suy nghĩ. Ranh giới giữa cảm xúc và suy nghĩ đã bị
vượt qua nhẹ nhàng làm cho câu thơ vừa rung động về cảm xúc vừa lắng sâu
súc suy nghĩ. Có khi từ một suy nghĩ khái quát trừu tượng tỏa vào cảm xúc cụ
thể làm cho suy nghĩ trở nên tươi tắn, truyền cảm hơn. Nói về tình yêu Tổ
quốc, Xuân Diệu định nghĩa:
Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Những lúc tột cùng là dòng huyết chảy.
Một khái niệm, một tình cảm thiêng liêng nhưng còn trừu tượng đã
được lí giải cụ thể và gây được xúc động. Chính Hữu cũng đã chuyển hóa
khái niệm chung về đồng đội thành những cảm xúc và hình ảnh cụ thể:
Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
Đồng đội ta
là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẫu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
Có những bài thơ nghiêng về suy tưởng, và sự vận động trong hình tượng là
sự vận động của những suy nghĩ. Những mũi nhọn suy nghĩ luôn được phát
triển, hỗ trợ cho nhau, tiếp nối nhau, quy tụ lại hoặc lan tỏa ra theo những
hướng định cụ thể của bài thơ.
5. Cảm xúc và cấu tứ trong thơ
Sự vận động của hình tượng thơ thường phải có những điểm tựa cụ
thể và xác định. Trong tiểu thuyết và kịch, hình tượng của các thể loại này vận
động trong khuôn khổ của những sự kiện và tình huống được xác lập thành
một cốt truyện và phân định thành những thành phần, những nấc phát triển rõ
rệt. Từ thắt nút đến thời điểm cao trào của một vở kịch đều được định trước
một cách cụ thể trong sườn cốt truyện, trong dàn ý của tác giả; không gian,
thời gian, nhân vật và sự kiện xác định là cơ sở và điểm tựa cụ thể của sự
vận động. Với thơ, mọi cái đều ít xác định. Hệ thống cảm xúc và suy nghĩ
trong thơ sẽ vận động theo phương hướng nào? Bắt đầu từ đâu và kết thúc ở
đầu? Đi qua những chặng đường nào? Cái vô cùng quan trọng ở đây là vấn
đề cấu tứ. Thật khó để định nghĩa cho hoàn chỉnh khái niệm tứ trong một bài
thơ. Thơ phải có tình. Tình cảm là đơn vị cấu tạo chủ yếu của hình tượng thơ.
Nhưng nếu không có tứ thì tình cảm không được tổ chức lại một cách chặt
chế và không phục vụ được cho chủ đề chung của bài thơ, tình cảm sẽ bị
phân tán, những ý tưởng cũng không được liên kết lại trong một cấu tạo
chung và phát triển một cách hợp lí. Tứ chính là ý tưởng bao quát của toàn
bài biểu hiện trong sự liên kết những cảm xúc, suy nghĩ. và hình ảnh, biểu
hiện trong dạng cấu tạo và phát triển của hình tượng thơ. Tứ không phải là
một ý tưởng hoàn toàn trừu tượng mà đã có sắc thái cụ thể của đời sống qua
một hình ảnh, một tâm trạng, một suy nghĩ được chọn lọc làm điểm tựa cho
sự vận động của cảm xúc. Có những tứ thơ được xác lập nột cách công phu
phức tạp, có tứ thơ giản dị. Ở dạng nào tứ thơ cũng phải có sắc thái và dáng
dấp cụ thể. Bài thơ Mặt quê hương của Tế Hanh được cấu tứ một cách nhẹ
nhàng, giản dị. “Tôi cấu tứ mặt người yêu và mặt quê hương phản ánh lẫn
nhau, nhập vào nhau làm một”. Tứ quyết định một phần giá trị của bài thơ.
Nhiều bài thơ đứng được nhờ ở cái tứ, tứ tạo nên chiều sâu của sáng tác thi
ca; tuy nhiên từ cái tứ chung đến bài thơ là một chặng đường dài. Người viết
phải cụ thể cái tứ chung ra thành những ý, những cảm xúc và những hình ảnh
cụ thể. Hay nói một cách khác người viết phải hướng sự vận động của cảm
xúc, suy nghĩ và hình ảnh phù hợp với tứ thơ. Tế Hanh tâm sự rằng: “Cái tứ
mặt người yêu và mặt quê hương đến với tôi tương đối nhanh. Nhưng khi
phát triển tứ ấy ra hình ảnh thì tôi phải suy nghĩ nhiều… Đoạn đầu tôi mở tứ
ấy. Những đoạn sau tôi phát triển tứ ấy, lập ý bằng hình ảnh; đôi mắt giống
dòng sông, vầng trán là khoảng trời, cái miệng gợi đến một mảnh vườn hơi
thở làm nhớ đến không khí”. Và đây là kết quả sáng tạo của toàn bài:
Mặt em như tấm gương
Anh nhìn thấy quê hương
Kìa đôi mắt đôi mắt
Dòng sông yêu trong vắt
Kìa vầng trán thanh thanh
Khoảng trơi xưa trong lành
Miệng em cười tươi thắm
Như vườn xanh nắng ấm
Hơi thở em chan hòa
Như không khí quê ta
Hôm qua ai thù giặc
Mà môi em mím chặt?
Hôm nay ai xót thương
Mà mi em mờ sương?
Ôi miền Nam yêu dấu
Trên mặt em yêu dấu
Ôi chín năm nhớ thương
Mặt em là quê hương
Rõ ràng là từ cái tứ ban đầu đến việc lập ý, phát triển cảm xúc xây
dựng hình ảnh cụ thể là một quá trình dài khá phức tạp.
Tuy nhiên có được một tứ hay là điều đặc biệt quan trọng. Cấu tứ là
một vấn đề thuộc về suy tưởng và xúc động của tâm hồn thơ. Sáng tạo được
những tứ thơ hay đó là một phương diện của tài năng thi ca. Tứ chỉ đạo trực
tiếp hướng vận động và phát triển của cảm xúc, suy nghĩ và xây dựng hình
ảnh. Trong bài thơ Xuân Diệu lấy hạt lệ như một biểu tượng làm tứ chính của
loài thơ. Hạt lệ xót xa, ngậm ngùi trong xã hội cũ của biết bao cảnh ngộ bi
kịch đang diễn ra. Xã hội cũ được khái quát trong một hình ảnh tượng trưng
mà đầm đìa nước mắt:
Trăm ngàn kiếp lệ cuốn theo sông
Biển cuốn long lanh sóng vạn trùng
Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung.
Những giọt lệ đau thương của đời cũ đã chấm dứt. Con người sống với
nhau thân ái chân tình trong cuộc sống mới. Biết bao nhiêu điều tốt đẹp, xúc
động đến rơi lệ, những giọt lệ chứa chan tình người.
Xưa lệ sa ta oán hận đất trời
Nay lệ hòa, ta lại thấy đời tươi.
Dọc theo tứ thơ là những cảnh ngộ đau thương của xã hội và những
hình ảnh xúc động, vui tươi của xã hội mới. Trong bài thơ Duyệt binh, Chính
Hữu không miêu tả trực tiếp cuộc duyệt binh mà anh xây dựng tứ thơ qua
hình ảnh và suy nghĩ của một đồng chí thương binh đứng nhìn cuộc duyệt
binh. Tứ thơ ấy gợi lên được. nhiều suy nghĩ và xúc động ở người đọc. Anh
thương binh không chỉ quan sát cuộc duyệt binh đẹp đẽ và hùng vĩ như mọi
người mà anh cảm thấy trong tiếng nhạc, trong nhịp chân đều bước của đoàn
quân chiến thắng hôm nay có tiếng bước chân mình, bàn chân đã mất sau
những năm dài hành quân chiến đấu.
Có gặp lại những con người.
Đã để lại một phần thân thể
gửi làm hoa lá cỏ cây
trên mảnh đất này
mới hiểu được tâm hồn tiếng trống hôm nay
mới hiểu được
vì sao những lá cờ bay
theo nhịp bước
Vì sao những chân đi làm rơi nước mắt
Với những anh hùng hôm qua chân đất
Cả nước hành quân theo xe đại bác
Đồng chí thương binh
tưởng nghe có bước chân mình
bước của bàn chân đã mất.
Khi nắm được tứ của một bài thơ ta sẽ hiểu được hướng phát triển của
bài thơ. Cấu tứ là một phương diện của tư duy hình tượng vừa thể hiện rất
trực tiếp tài năng sáng tạo thi ca, vừa thể hiện trực tiếp quan điểm chính trị,
triết học của tác giả. Tứ thơ cũng nói lên tầm suy nghĩ khái quát của nhà thơ.
Tứ thơ là ý tưởng của bài thơ trong vóc dáng cụ thể của nó.
Tứ thơ được hình thành một phần do gợi ý của bản thân đối tượng, và
phần chủ yếu do sức sáng tạo của người viết. Cũng một vấn đề thời sự
chống bom nguyên tử nhưng Nazim Hitmet đã xây dựng được một tứ thơ thật
độc đáo, thật sáng tạo. Một em bé nhỏ bị chết bom ở Hirôsnia đi gõ cửa mọi
nhà để xin chữ kí, để cho trẻ thơ không còn bị chết nữa, để các em được ăn
kẹo. Có thể ở những trường hợp khác vấn đề trên được khai thác trực diện
trên hướng phê phán quyết liệt. Nazim Hitmet đã đưa vấn đề chính tả đó qua
cửa ngõ của tình cảm và đánh trúng vào sợi dây trìu mến tha thiết nhất: tình
yêu thương các em; hãy bảo vệ lấy cuộc sống của các em, hãy chống lại
bóng đen của tội ác.
Tứ thơ tuy là một ý tưởng khái quát nhưng thường bao giờ cũng có một
dáng dấp cụ thể, qua cái cụ thể của một hình ảnh, một tâm trạng. Thơ ca là
phương diện nay có xu hướng đi sâu vào sự trừu tượng, bí hiểm. Một số nhà
thơ gạn bỏ phần cụ thể của hình ảnh và xúc cảm, và chú ý đến việc xây dựng
tứ. Tuy nhiên cái tứ trong thơ ca đó đã mất đi phần sinh động, tươi mát của
đời sống mà chỉ còn lại phần trừu tượng của một suy tưởng triết học) cái bí
hiểm của một câu đố, cái bất ngờ của một lối kết cấu có tính chất tư biện và
hình thức chủ nghĩa..
Tứ thơ có một vị trí quan trọng, tuy nhiên có bài thơ có tứ hay nhưng lại
chưa phải là một sáng tác hay. Sở dĩ thế vì tứ thơ không được bồi đắp cụ thể
bằng cảm xúc hình ảnh và một ngôn ngữ chọn lọc. Xuân Diệu trong một số
bài ở các tập Hai đợt sóng và Tôi giàu đôi mắt, có những tứ thơ hay nhưng
chưa tạo thành được những sáng tác hay. Cái tứ thơ Sự sống chẳng bao giờ
chán nản là một tứ thơ hay xuất phát từ một quan điểm triết học và nhân sinh
tiến bộ, mang nội dung tư tưởng chính trị cách mạng. Sự sống là ở về phía
chúng ta, chúng ta bảo vệ sự sống, trân trọng và nâng niu nó ngay cả những
lúc nó mỏng manh nhất. Tuy nhiên những hình ảnh và cảm xúc cũng như
ngôn ngữ của bài thơ chưa thật nổi và tương xứng với tứ thơ.
Cũng có nhưng trường hợp tứ thơ được tạo thành gần gũi nhau nhưng
hai bài thơ vẫn mang những sắc thái và bộ mặt riêng biệt. Như trường hợp
các bài thơ Núi đôi của Vũ Cao và Quê hương của Giang Nam rất gần gũi về
tứ thơ nhưng ở mỗi bài tứ thơ lại phát triển và tạo nên giá trị riêng. Vương Bột
với bài Đằng Vương các và Thôi Hiệu với Hoàng Hạc lâu ở vào trường hợp
đó. Trong thơ, tứ phải đi đôi với tình. Nếu chỉ có tình mà không có tứ hay thì
tình cảm dễ bị tản mạn, pha loãng thiếu sức liên kết tự bên trong và không
được nâng cao. Nếu chỉ có tứ mà không có tình, thơ dễ rơi vào lí trí, vào
những suy tưởng khô khan.
II. VẤN ĐỀ SUY NGHĨ TRONG THƠ1. Vai trò của lí trí trong nhận thức và sáng tạo thi ca
Hình tượng thơ là hình tượng cảm xúc, nhưng nói cho bao quát hơn là
hình tượng của cảm xúc và suy nghĩ. Giữa cảm xúc và suy tưởng trong thơ
luôn có khả năng chuyển hóa qua lại như một dòng của tư duy, một nguồn
mạch đi về không có sự cách ngăn. Chất suy nghĩ trong một bài thơ bộc lộ ở
cách đặt vấn đề của tác giả, ở một cấu tứ chung, ở những lập ý và suy tưởng,
ở những liên tưởng và ở cả những cảm xúc và hình ảnh cụ thể. Nói đến chất
suy nghĩ chính là muốn nói đến sức mạnh của lí trí trong nhận thức của nghệ
thuật thi ca, đến năng lực khái quát hóa, đến tầm cao và chiều sâu của tư
tưởng, đến ý nghĩa triết học của vấn đề. Thơ ca vốn được xem là nghệ thuật
của cái đẹp, của sự rung cảm, của sự cảm thụ và chiêm ngưỡng cụ thể nên
có nhiều khuynh hướng muốn loại trừ vai trò của lí trí, của tư tưởng ra khỏi
thơ ca. Người ta không muốn chấp nhận sự chỉ đạo của lí trí, của sức suy
nghĩ trong quá trình cảm thụ cũng như sáng tạo thi ca vì xem đấy là nguyên
nhân của mọi sự khô khan, trừu tượng thuyết lí trong thơ.
Tagor vốn được xem là một nhà tư tưởng, một nhà thơ triết lí nhưng có
lúc chính Tagor cũng không thừa nhận chủ đề và ý định của người viết trong
một bài thơ.
Thực ra thì đấy chỉ là những cách nói ở vào một lúc nhất định của nhà
thợ. Tagor đã có ý chức sâu sắc và rõ rệt với toàn bộ hoạt động thơ ca của
mình khi đem vào thơ ca tiếng nói phẫn nộ, cảm thương trước cảnh đau khổ
bất công của xã hội, và tìm trong thơ một hướng giải thoát. Vấn đề là ở chỗ
nhà thơ không muốn một thiên kiến. Một quan niệm xác định nào đó gò bó
quá trình sáng tác mà yêu cầu cảm hứng thi ca phải thanh thoát, và được tạo
nên từ trạng thái rất tự nhiên, đắm say của tâm hồn. Tất nhiên là những ý kiến
trên khác về bản chất với những quan niệm đề cao yếu tố ngẫu nhiên và trực
giác trong thơ của các nhóm đađa, vị lai, hoặc lối viết tự động (dictée
automatique) của nhóm siêu thực. Với những đặc trưng riêng biệt của hình
tượng thơ, nên đặc điểm sáng tạo trong thơ không giống hẳn với việc sáng
tạo của các thể loại khác. Nhà thơ vừa ở vào trạng thái tỉnh táo của nhận thức
lí trí vừa ở trong tình trạng say mê của một cơn rung động thạnh mẽ về cảm
xúc, hình ảnh, âm thanh. Cảm hứng đi về tạo nên nhưng liên tưởng những
sáng tạo đột xuất mà người viết khó xác định trước một cách rõ rệt. Tuy nhiên
không thể từ thực tế trên để xác nhận rằng trong thơ có một cái gì huyền bí
vượt ra ngoài sự kiểm soát của lí trí và tính chất thông thường. của. quá trình
sáng tạo nghệ thuật. Thực ra cái mà gọi là cảm hứng đặc biệt chính là giây
phút chín nhất của tâm hồn, thời điểm mà sức sống bên trong đã tích tụ, ấp ủ,
lên men sáng tạo, thời điểm mà ngọn lửa kì diệu của nghệ thuật làm bùng
cháy lên toàn bộ chất liệu. Seli đã chỉ ra rõ rệt trạng thái trên trong sáng tác thi
ca, nhưng tác giả không lí giải được một cách đúng đắn.
“Thi ca không phải là biện luận, là một tính năng chỉ tác động tùy theo
sự quy định của ý chí. Một người nào đó không thể nói “ta làm thơ đi”. Dù cho
nhà thơ lớn nhất cũng không thể nói như vậy được vì tinh thần trong hành
động sáng tạo này cũng giống như một hòn than đã lụi tàn, trên đấy một ảnh
hưởng vô tình nào đó như một ngọn gió không định trước làm bừng lên một
ánh sáng nhất thời; cái ảnh hưởng đó từ bên trong mà ra cũng như màu sắc
của bông hoa đổi thay và tàn úa ngay khi nó phát triển và những bộ phận có ý
thức nhất của bản chất, chúng ta không thể tiên đoán được khi nó tới gần hay
khi nó đi xa. Giả sử cái ảnh hưởng đó có thể kéo dài với sự thuần khiết và
sức mạnh ban đầu của nó cũng sẽ không thể nào nói trước được cái lớn lao
của những kết quả mà nó đem lại; nhưng khi quá trình sáng tác bắt đầu thì
cảm hứng đã ở trên đường suy tàn và thứ thi ca chói lọi nhất đã từng để
được truyền bá cho thế giới có lẽ chỉ là một cái bóng yếu ớt cửa những quan
điểm ban đầu của nhà thơ. Tôi xin thỉnh cầu sự chứng giám của những nhà
thơ lớn nhất của hiện tại rằng chẳng phải là sai lầm đó sao nếu cho rằng
những tác phẩm thi ca đẹp nhất là kết quả của lao động và nghiên cứu”
Đối lặp với loại quan điểm của Seli, Etga Pô đã quan niệm sáng tác thơ
ca không phải là một hoạt động thần bí, hoặc có tính may rủi ngẫu nhiên mà
chịu sự chỉ đạo chặt chẽ của lí trí. Etga Pô cho rằng các nhà thơ thích để cho
người ta tưởng rằng mình sáng tác trong một tâm trạng đặc biệt của một cơn
mê sảng của trực giác được mài sắc lên. Họ muốn thần bí hóa công việc ở
phía hậu trường của sân khấu, nơi mà “những ý đồ thật mãi đến phút cuối
cùng tác giả mới hiểu ra, những tia ý tứ nhiều vô số rốt cuộc không đạt được
đến sự trưởng thành trong ánh sáng trọn vẹn, những sự tưởng tượng hoàn
toàn chín mùi nhưng vẫn bị gạt bỏ đi vì tác giả tuyệt vọng không thể nào vận
dụng nó được vào trong tác phẩm". Etga Pô muốn chứng minh một cách sáng
tỏ quá trình sáng tác một bài thơ, nêu lên những lí do, những cách giải thích
về cấu tạo nội dung cũng như hình thức của tác phẩm dưới sự chỉ đạo của
một ý tưởng bao quát. “Tôi chắc sẽ không có ai buộc tôi là làm một việc
không lịch sự nếu tôi trình bày cái modus operandi (cách làm) mà tôi đã dùng
để xây dựng một trong các tác phẩm của tôi. Tôi chọn bài Con quạ là bài mà
công chúng biết đến nhiều nhất. Tôi có ý định chứng minh thật rõ rằng không
có một chi tiết nào trong cách bố cục bài này lại có thể cắt nghĩa bằng sự tình
cờ, hay bằng trực giác, rằng tác phẩm đã phát triển từng bước một cho đến
sự hoàn thành với tính chất chính xác và nghiêm nhặt lôgic của một bài toán”.
Etga Pô đã thiếu chính xác khi quan em rằng giọng điệu hay nhất trong
thơ là giọng điệu buồn và cái chết của người con gái đẹp là một cái chết thi vị
nhất… Tuy nhiên, việc trình bày cách làm bài thơ con qụa một cách sáng tỏ
nói chung là tích cực.
Mặc dù đây là trường hợp riêng biệt của một sáng tác, bài thơ cũng nói
lên được một cái gì chung cho hoạt động sáng tạo thi ca.
Thơ ca là một hình thức của tư duy hình tượng. Thông qua nội dung
của thơ mà người đọc tiếp nhận một cách đánh giá, một cách suy nghĩ về
cuộc sống. Thơ ca có khả năng là một hình thức tư duy trực tiếp. Những cảm
xúc và suy nghĩ của người viết có thể bộc lộ rất trực tiếp không cần qua môi
giới trung gian nào. Tố Hữu khái quát về sự sống và cái chết qua cuộc đời
của anh Trỗi:
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hoá thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con người như chân lí sinh ra.
Những câu thơ trên có tính chất đúc kết về mặt tư tưởng một số chân lí
của cuộc sống. Những suy nghĩ của tác giả không bộc lộ qua hình ảnh tâm
trạng, cảm xúc mà chuyển dịch thẳng vào một cấu trúc ngôn ngữ có tính chất
lôgic. Đấy là một khả năng bộc lộ suy nghĩ trong thơ. Người viết có thể từ
cuộc sống mà khái quát lên những suy nghĩ dưới dạng lôgic, nhưng đồng thời
người viết cũng có thể xuất phát từ khái niệm, từ những suy luận có tính chất
lí luận thuần túy mà triển khai thành những suy nghĩ và nhập nó vào trong một
âm hưởng thơ nào đó.
Thơ có thể chấp nhận cả những suy tưởng ở dạng thuần lí. Cần tránh
sự trừu tượng hóa nặng nề và xu hướng minh họa đơn thuần cho những
quan điểm chính trị, triết học. Những suy nghĩ trong thơ phải mang sâu sắc
dấu ấn và cảm hứng chủ quan của tác giả. Tính chất chủ quan hóa của
những suy tưởng qua sự nhận thức của nhà thơ, cũng như qua một cách
nghĩ và cách nói nào đó, mang lại bên cạnh cái chung của những chân lí vốn
được thừa nhận một cái gì riêng. Những câu thơ sau đây của Chế Lan Viên
không có gì mới về nội dung nhưng có một cái gì đáng chú ý của một cách
cảm, cách nói.
– Đảng dạy ta không thể đưa lòng đi theo Đảng
Lại xa những gì dân tộc thương yêu.
– Hình thức cũng là vũ khí
Sự đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lý
Những câu thơ lên mang tính chất suy tưởng. Cảm xúc chiếm một phân
lượng rất nhỏ. Hình tượng thơ chủ yếu được cấu tạo bằng những suy nghĩ và
nếu hướng suy tưởng phát triển trong toàn bài thì bài. thơ có khuynh hướng.
trở thành thơ triết lí, thơ suy tưởng. Trong nền thơ của một dân tộc ở những
giai đoạn khác nhau cũng thường xuất hiện một vài nhà thơ triết lí, tư tưởng.
Ở Nga thế kỉ XIX, thơ triết lí tiêu biểu với Bachiukôp, Baratưnxki, sau này có
Blôc, Chiuchep, Dabôlôxki. Trong những năm gần đây, người ta nhắc tới
Antôkônxki, Rưnxki, Axêep vôi sự xuất hiện của khái niệm thơ trữ tình triết
học. Thơ suy tưởng ở Đức nổi bật với Bectôn Bretsơ và trước đấy là thơ của
Sinlơ.
Trong thơ ca Pháp, Anphrêt đơ Vinhi vẫn được xem là nhà thơ triết lí
trong khuynh hướng thi ca lãng mạn thế kỉ XIX. Trong một số bài thơ như
Moise, Cái chết của con sói… Anphrêt đơ Vinhi muốn nói lên nỗi cô đơn và
đau khổ của con người, trong thế giới lặng im và xa lạ này. Sau này với
khuynh hướng tượng trưng, tính chất giãi bày, kể lể về cảm xúc kiểu
Lamartin, Anphrêt đơ Muyxê… được thay thế bằng sự biểu hiện có tính chất
biểu tượng, tượng trưng với Bôđơle, và đặc biệt với Valêri. Khuynh hướng
thơ ca này cũng chú ý khai thác những suy tưởng khi trực tiếp, khi thông qua
những biểu tượng gián tiếp.
Trong thơ ca hiện đại Pháp, khuynh hướng suy tưởng khá phát triển,
chất triết lí nhiều khi bao trùm hình tượng thơ. Pôn Clôđen, Xanh Jôn Perxơ…
đều lấy suy tưởng làm chính trong sáng tạo. Những suy nghĩ trong thơ họ có
khi là sự diễn dịch trực tiếp những quan điểm triết học phổ biến trong xã hội,
có khi là từ những sự vật, những hiện tượng cụ thể họ quay về để rút ra
những ý tưởng triết học, những nhận xét khái quát những suy lí trừu tượng.
Bên cạnh những sáng tác thi ca mà những suy nghĩ còn nằm trong khuôn khổ
bình thường của sự nhận thức, thơ ca Tây phương đang đi nhanh về phía
suy nghĩ trừu tượng, bí hiểm. Tính chất bí hiểm không chỉ biểu hiện trong
những suy tưởng mà còn bộc lộ rõ trong cấu tạo hình thức, trong tổ chức kết
cấu và xây dựng bài thơ. Thậm chí đến mức độ cái quái đản, cái phi lí thâm
nhập vào hình tượng thơ. Mô phỏng và bắt chước những khuynh hướng suy
đồi, bệnh hoạn thơ ca Tây phương, một số cây bút miền Nam, nhất là trường
hợp của Thanh Tâm Tuyền, cũng rơi vào những căn bệnh đó. Một số bài thơ
của họ là một sự kết hợp xô bồ giữa những ý tưởng kì quặc với những thị
hiếu và khoái cảm bệnh tật.
Chúng ta phê phán những khuynh hướng suy tưởng lệch lạc, bệnh
hoạn trong thơ, nhưng không loại trừ hình thức thơ suy tưởng, thơ trữ tình
triết học. Trong quá trình phát triển lâu đời, thơ ca Việt Nam thiên về khuynh
hướng trữ tình. Tuy nhiên, chúng ta cũng có những bài thơ thuộc loại thơ suy
tưởng, thơ triết lí. Một số sáng tác thơ ca của các nhà sư đời Lí như Mãn
Giác thiền sư, Vạn Hạnh thiền sư đều lấy quan điểm và giáo lí của đạo Phật
làm gốc cho sự suy tưởng… Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là nhà thơ triết lí
tiêu biểu. Không phải toàn bộ thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là thơ triết lí. Nguyễn
Bỉnh Khiêm có nhiều bài thơ trữ tình nói về cảm xúc với thiên nhiên và cuộc
sống hằng ngày. Những bài thơ triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không
thuần nhất. Có những sáng tác thuộc hẳn loại thơ suy tưởng, hướng vào việc
bàn luận những tư tưởng triết học như tư tưởng của nhà Phật (Đọc Kinh Phật
sinh cảm tưởng) và phổ biến hơn là bàn luận về lẽ doanh hư, lẽ thừa trừ
trong Kinh Dịch (Đọc sách Chu Dịch sinh cảm hứng)… Những bài thơ này
thường trừu tượng, nhiều điển tích, hình tượng thơ phát triển bằng suy luận
triết lí, ít năng lực truyền cảm. Cũng có khi qua một sự vật nào đó tuy bình
thường nhỏ bé như quả trứng gà, chiếc gậy trúc… mà nói lên tư tưởng triết lí
của mình. Hình tượng thơ do đó có màu sắc cụ thể hơn, làm cơ sở cho sự
suy tưởng. Ví như trong bài Quả trứng gà:
Cũng chẳng tròn mà cũng chẳng vuông
Khéo đem trời đât đóng vào khuôn
Ngoài lồng thái tố hai lần trắng
Trong chứa đan biêm một điểm vàng
Thái cực chưa chia còn hỗn độn
Lưỡng nghi hợp lại mới khai trương
Mọc ra lông cánh liền bay bổng
Biến hóa gà vàng giúp thái dương.
Một phương diện khác trong thơ triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm là triết lí
về thói đời được rút ra từ quan điểm một nhà nho ẩn dật, không muốn nhập
thân vào cuộc thế bon chen danh lợi. Những sự khái quát của tác giả có một
đúng, nhưng cũng không tránh khỏi một cái gì tiêu cực trong thái độ xử thế:
Được thời thân thích chen nhau đến
Thất thế hương lư ngảnh mặt đi
Thớt có tanh tao ruồi đỗ đến
Gang không mật mỡ kiến bò chi.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được chứng kiến những đổi thay của các triều đại, lại
chịu ảnh hưởng của Kinh Dịch, nên ông nói nhiều đến lẽ biến dịch, đến sự
thăng trầm của thế sự:
Thề gian biến cải vững nên đồi.
Từ những cách nhận thức như thế về cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao
chữ “nhàn” và quan điểm xuất thế.
Trong những sáng tác văn cổ, Cung oán ngâm khúc là tác phẩm mang
nlều suy tưởng khái quát về hạnh phúc và những đau khổ mà con người phải
chịu đựng. trong định luật nhân quả và thừa trừ của tạo hóa, khái quát về sự
đổi thay của thời gian và vận mệnh con người. Những quan điểm về số phận,
về hạnh phúc, bất hạnh, về sự biến hóa của tạo vật và cuộc đời tuy có những
điểm hạn chế và luẩn quẩn trong quỹ đạo của tư tưởng triết học duy tâm,
nhưng một phần cũng có tác dụng phê phán chế độ phong kiến:
Câu thệ thủy nằm trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.
Thơ ca từ sau Cách mạng ngày càng được mở rộng về mặt phản ánh
hiện thực và đi sâu vào hướng suy nghĩ. Nhà thơ không thể chỉ dừng lại ở
tình cảm, trình bày những cảm xúc và tâm trạng của mình mà phải suy nghĩ,
phát hiện và lí giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống Nói như Guyzơvich:
“Nhà thơ ngày càng ít hát “như thể chim ra hát”. Giờ đây anh ta ngày càng trở
nên là kẻ ném vào thế giới một cái nhìn nào đấy và truyền đạt bằng lời nói kết
quả của sự đối chứng đó”. Hay nói như Chế Lan Viên:
Xưa thơ chỉ hay than mà ít hỏi
Đảng dạy ta: thơ phải trả lời.
Từ cuộc sống đặt ra những câu hỏi, phát hiện những vấn đề và tìm những lời
giải đáp. Nhiệm vụ ấy rất lớn đối với nhà thơ, và thơ không thể nào từ chối,
thoái thác được. Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, v.v… đều là
những nhà thơ cổ nhiều suy nghĩ, tuy những cách suy nghĩ có thể khác nhau.
Ngay với lớp thơ trẻ hiện nay, không phải thơ của họ chỉ mạnh về mặt tươi
mát của cảm xúc và đằm thắm của tâm hồn, mà cũng có nhiều ưu điểm trong
suy nghĩ.
Thơ suy tưởng (triết lí) loại thơ mà cảm hứng chủ đạo và cái nền cấu
tạo là những suy nghĩ, cũng như sự vận động của hình tượng thơ là sự vân
động của những ý nghĩ. Có được những bài thơ suy tưởng và triết lí khái quát
được những vấn đề lớn của đời sống một cách sắc sảo, giàu tính chất trí tuệ
là một điều đáng quý. Những sáng tác loại đó không nhiều trong các nền thơ
ca của nhiều dân tộc từ trước tới nay. Và trong thực tế thì những nhà thơ triết
lí, suy tưởng cũng như những loại thơ trữ tình triết lí không phải là phổ biến,
là khuynh hướng chủ đạo trong thơ trữ tình. Sở dĩ thế vì nhiều lí do; cái khó
khăn lớn đòi hỏi phải vượt qua của loại thơ suy tưởng triết lí là người viết phải
có năng lực suy nghĩ dồi dào, có tầm tư tưởng của một nhà triết học, một nhà
hoạt động chính trị trong bản lĩnh và cốt cách sáng tạo của một nhà thơ.
Những suy nghĩ phải có đóng góp và phát hiện, phải góp phần nâng cao nhận
thức, xoáy sâu vào tâm hồn người đọc những vấn đề, những chân lí. Thực tế
thì người viết không phải dễ dàng để có những đóng góp, những phát hiện có
ý nghĩa triết học hoặc có tầm khái quát lớn thông qua những suy nghĩ của
mình. Cho nên phần đông khi đi vào những suy tưởng có tính chất trừu
tượng, tư biện, họ dễ rơi vào sự minh họa, mô phỏng, diễn giải những quan
điểm tư tưởng và triết học vốn có, hoặc đến một lúc nào đó họ tự lặp lại mình
một cách nghèo nàn. Khuynh hướng đáng phê phán hơn là đi vào lối suy
tưởng cầu kì, giả tạo đem một sắc thái chủ quan bệnh hoạn nhập vào những
suy nghĩ vốn tự nó có thể là sáng sủa, giản đơn. Một khó khăn nữa vừa thuộc
về nội dung vừa thuộc về hình thức biểu hiện mà loại thơ này phải vượt qua
để làm sao kết hợp được thỏa đáng tư duy trừu tượng của triết học và tư duy
hình tượng của thơ ca. Làm sao có thể đưa một suy nghĩ khái quát, có ý
nghĩa triết học, cấu tạo bằng những suy luận lôgic chặt chẽ vào trong khuôn
khổ chọn lọc, hàm súc của lôgic thi ca. Suy luận, triết học bằng thơ là một vấn
đề khó tuy thơ gần với triết lí và có thể từ thơ rút ra những vấn đề triết lí. Tách
khỏi hình tượng, để cho những suy tưởng trong thơ rơi vào lối biện luận triết
học là một khó khăn cả về hình thức biểu hiện. Đảm bảo được tính chất chính
xác, sâu sắc của những suy tưởng có tính chất từ học, thơ sẽ dài dòng và
khô khan. Dồn những suy tưởng trừu tượng vào trong cấu trúc của ngôn ngữ
và lôgic thi ca, tưởng thơ sẽ dễ tối và khó hiểu gây nên những cách giải thích
thiếu thống nhất.
Về phía người đọc tác dụng của loại thơ tư tưởng thơ triết lí nghiêng về
mặt lí trí. Hình tượng thơ tuy sắc sảo nhưng được cấu tạo lệch, vút lên từ một
phía, thiếu sự hài hòa tự bên trong nên hạn chế về mặt truyền cảm, thiếu sức
rung động, vang sâu, lắng đọng. Tiếng thơ không đi vào người đọc qua cửa
ngõ của tình cảm, không chiếm lĩnh được ngay những rung động ban đầu,
không có sức lôi cuốn mãnh liệt và thiết tha của dòng cảm xúc. Trận địa của
thơ trữ tình triết học là trận địa của lí trí và tư tưởng. Sức hấp dẫn của loại thơ
này thu vào bên trong, thấm thía qua sự suy nghĩ phân tích. Tuy nhiên các
nhà thơ suy tưởng đều có ý thức kết hợp những suy nghĩ với hình tượng thi
ca, tránh cho thơ khỏi rơi vào lối suy nghĩ có tính chất tư biện. So với các thể
loại văn học khác, thơ ca dễ mắc phải khuynh hướng tư biện vì thơ nằm trong
dòng suy nghĩ trực tiếp của tác giả và có nhiều khi cảm nghĩ tồn tại dưới dạng
thuần lí. Tính chất tư biện trong thơ thể hiện ở chỗ tác giả lấy xuất phát điểm
của sự suy nghĩ ở những khái niệm trừu tượng và từ đó phát triển dòng suy
nghĩ. Quá trình phát triển của sự suy nghĩ không liên hệ gắn bó với cuộc
sống, mà những khái niệm, những suy nghĩ tựa vào nhau để phát triển, vận
động, theo cách triển khai có tính chất chủ quan. Tiêu biểu nhất cho lối suy
tưởng tư biện trong triết học là Hê ghen. Mác, ăng ghen trong nhiều tác phẩm
của mình đã phê phán triệt để tính chất tư biện trong suy tưởng và kết cấu
của triết học Hêghen.
Trong thơ, lối suy tưởng tư biện dẫn ý thơ ngày càng đi xa cuộc sống.
Cho dù những suy tưởng có sắc sảo thì tác dụng của thơ cũng bị hạn chế.
Chế Lan Viên cũng rơi vào lối suy tưởng tư biện trong một số bài thơ. Ngọn
lửa Môrixơn là một trường hợp cụ thể:
Tột cùng đau thương nhưng lửa đốt người anh
không phải lửa đau thương
Anh không phải cùng đường nên kết liễu đời
anh đâu! Anh là kẻ mở đường
Ánh sáng của anh không để lại một tí tro than
nào siêu hình tiêu cực
Bao lòng tro hồng lại lửa, nhờ Anh.
… Ai ai nhìn vào lòng nình từ nay đều thấy lửa
Và lửa tự nhìn mình biết đấy là chân lí
Ôi tôi tin ở cái bề thẳm, bề cao nhân loại
Tin ở cái một con người có thể
Tôi càng tin ở bề rộng, bề nhiều, bề đông thế giới
Ở cái hàng triệu con người như sóng bể
Lượn sóng nào cũng có Mô–ri xơn.
Qua đoạn thơ trên, dường như tác giả xuất phát từ những khái niệm lửa,
chân, lí, con người, đau thương để phát triển mọi suy tưởng. Những suy nghĩ
được triển khai trên cơ sở tạo ra những mặt đối lập của các khái niệm:
Tột cùng đau thương / nhưng lửa đốt người anh không phải lửa
đau thương
Anh không phải cùng đường nên kết liễu đời anh đời anh đâu /
Anh là kẻ mở đường
hoặc được triển khai qua những mệnh đề lập lại và tiếp nối:
Ai ai nhìn vào lòng mình từ nay đều thấy lửa
Và lửa tự nhìn mình biết đấy là chân lí…
Những suy nghĩ trên ít gắn bó và dựa vào chất liệu thực của cuộc sống. Cũng
có những trường hợp lối suy nghĩ trừu tượng trong thơ rơi vào cầu kì, giả tạo.
Việt Phương trong tập Cửa mở đã mắc phải căn bệnh này. Lối suy nghĩ tư
biện của Việt Phương rơi vào tối nghĩa, bí hiểm, thiếu chân thực.
Chưa người con trai nào biết được thực chất người con gái
Cái thực chất đang còn phải sáng tạo ra cùng thời đại
Cho đến nay người con gái chỉ là thần tượng đẹp não nùng của
kẻ bị trị đầu tiên.
Thần tượng dần dần được bôi nước hoa, choàng lụa mỏng và bắt
buộc phải làm duyên
Sự chuyên chính độc ác trên trái tim đàn ông là biểu hiện oái ăm
lộn ngược của quỵ lụy
Những người tự xưng là phái khỏe đặt bày ra cái gọi là nữ tính
giàu xúc cảm hay đổi thay, yếu mềm, ủy mị
Sau hai triệu năm người sóng đại dương còn thủ thỉ mỗi ban mai
Người con gái, em là ai?
Người con trai, người con gái như tác giả cho biết đều không ở phía chúng ta,
mà thuộc về thế giới bên kia. Nhưng rồi họ như thế nào? Biểu hiện về tâm
trạng, hình ảnh của họ trong những cảnh ngộ cụ thể đều không rõ. Người con
trai, người con gái, người đàn ông, người đàn bà như hai phạm trù tư biện
được đem ra lí giải và bàn luận trên cơ sở tạo lập với nhau những quan hệ
theo suy tưởng chủ quan.
Vì tất cả những nguyên nhân trên lên các nhà thơ thường hạn chế sự
suy nghĩ một cách trừu tượng. Họ đều muốn từ đời sống khái quát lên những
vấn đề, những suy tưởng. Họ muốn kết hợp một cách nhuần nhuyễn màu thịt
cảm xúc với suy nghĩ. Chất suy nghĩ như cái lõi bền vững, hay đến mức lí
tưởng hơn thì như chất nhựa âm thầm nuôi dưỡng nguồn sống vô tận của
cây đời xanh tươi. Fôntan thật có lí biết bao khi yêu cầu:
Ôi hãy học suy nghĩ bằng trái tim
Và hãy học cảm xúc bằng lí trí.
Cảm xúc và suy nghĩ trong thơ là sự chuyển hóa, biến hóa của một dòng
năng lượng và dòng năng lượng đó bắt nguồn từ cảm xúc để dần nâng lên
sức suy nghĩ. Gorki cũng đã từng khắng định: “Thơ ca chân chính bao giờ
cũng là thơ ca của trái tim, cũng là tiếng hát của tâm hồn, nó rất ít triết lí và rất
tránh suy luận.
Sự suy nghĩ trong thơ cũng phải đi qua nhịp đập của trái tim và óc
tưởng tượng phong phú của tâm hồn. Hêghen cũng chú ý đến khía cạnh này
trong đặc điểm của tư duy thơ ca.
“Trong thơ phải tránh những sự chia cắt rạch ròi và các liên hệ lí tính đã
thiết lập, tránh các phạm trù của tư duy khi chúng bị tước mất mọi tính chất cụ
thể, các hình thức của các luật đoán và các suy diễn, v.v… tóm lại thơ phải
tránh tất cả những gì mang chúng ta từ lĩnh vực tưởng tượng sang một lĩnh
vực khác”.
Hướng suy nghĩ trong thơ là phải gắn chặt với cảm xúc và xuất phát từ
sự thực của đời sống. Yêu.cầu đó không nhằm hạ thấp tầm suy nghĩ, làm cho
nông cạn đi các phong phú của sức suy tưởng. Yêu cầu đó làm cho sự suy
nghĩ trong thơ trở thành vô tận, luôn mới mẻ; luôn sáng tạo và có sức hấp
dẫn lôi cuốn của nguồn mạch cảm xúc. Tố Hữu đã có những nhận xét sâu
sắc nói lên những liên hệ bên trong giữa cảm xúc và suy nghĩ khi đánh giá về
thơ ca của Nazim Hitmet và Bectôn Bretsơ. Đốt cháy trái tim đến cùng nó
thành trí tuệ đó là Nazim Hitmet. Đốt cháy trí tuệ đến cùng nó thành trái tim, là
Bectôn Bretsơ đấy rồi”.
Huy Cận cũng khẳng định phương hướng đó của sự suy nghĩ trong
thơ: “Cảm xúc thơ bao gồm cả cảm và nghĩ. Cố nhiên sự suy nghĩ mà chúng
ta nói ở đây là suy nghĩ thật sự bắt nguồn từ cuộc sống sinh động dạt dào và
suy nghĩ bằng cảm xúc bằng hình tượng, suy nghĩ ở đây như hoa thắm lá
tươi, nở ra từ dòng nhựa sống, khác hẳn với lối suy nghĩ trên sách, tách rời
cuộc sống Và trong thực tế sáng tác, Huy Cận cũng viết được nhiều bài thơ
giàu sức suy nghĩ như Các vị La Hán chùa Tây Phương, Trò chuyện với Kim
tự tháp, Chân lí, Những dòng sông…
Nguyễn Đình Thi cũng chú ý đến vấn đề suy nghĩ trong thơ. Anh muốn
cho những suy nghĩ này lên một cách tự nhiên từ trong cuộc sống và trong
nghệ thuật. Những hình ảnh, những vấn đề mà anh nêu ra tự nó nhiều khi
bình thường, nhưng luôn buộc người đọc phải có thái độ suy nghĩ. “Trong
lòng có nhiều hình cảm nhưng ít suy nghĩ thì thường tình cảm ấy cũng chưa
sâu sắc. Muốn suy nghĩ nhưng sống và lòng ít tình cảm thì thường mới là có
vẻ suy nghĩ chưa có được suy nghĩ thực”.
Xuân Diệu một mặt phấn đấu cho hướng thơ đi vào cuộc sống và thực
tế đời sống vào trong thơ, một mặt cứ quan tâm đến việc nâng cao sức suy
nghĩ trong thơ. Xuân Diệu quan niệm: người đọc đòi hỏi nhà thơ phải có triết
lí và lại đòi hỏi triết lí ấy phải thể hiện trong hình tượng, trong máu thịt của bài
thơ”. “Cho nên tư tưởng ở trong thơ chỉ nên để một phần dưới dạng “châm
ngôn” nói trực tiếp bằng ý, còn phần lớn của tư tưởng trong thơ phải đổi ra
thành máu thịt của cuộc đời”.
Chế Lan Viên là nhà thơ giàu suy nghĩ nhưng đồng thời anh cũng luôn
đề cao cảm xúc và vốn sống làm nền cho sự suy nghĩ. “Sau câu thơ hồi hộp
những tâm tình. Những vui buồn đời kí thác cho anh”.
Những quan niệm chung về sự suy nghĩ trong thơ cũng dễ đi đến thống
nhất vì các nhà thơ đều thấy hướng suy nghĩ trừu tượng trong thơ là không
thích hợp, là tự hạn chế mình. Suy nghĩ phải kết hợp với cảm xúc, suy nghĩ
phải gắn bó trực tiếp với những vấn đề của cuộc sống. Do đó vấn đề suy nghĩ
trong thơ không đơn giản. Nhà thơ không dễ dàng để có thể thành công trong
suy nghĩ trên nhiều lĩnh vực và đề tài khác nhau. Trong người viết chỉ suy
nghĩ sắc sảo, thành công trên thực tế đời sống mà mình am tường nhất và
gửi gắm vào đây nhiều tâm huyết nhất. Nhìn vào quá trình sáng tác của từng
nhà thơ lớn, dường như mỗi tâm hồn thơ thường bộc lộ một số suy nghĩ
xuyên suốt các chặng đường thơ. Nỗi băn khoăn và những suy nghĩ giày vò
Êluya là vấn đề “từ chân trời một người đến chân trời tất cả”. Nazim Hitmet
nghĩ về tổ quốc và nỗi đau của sự xa cách. Maiakôpxki suy nghĩ về cái mới
mẻ, lớn lao và sức sáng tạo vĩ đại của cách mạng. Nguyễn Du suy nghĩ nhiều
về thân phận con người trong xã hội cũ, trước những biến thiên của xã hội,
đổi thay của thời gian. Đặc biệt ông nghĩ nhiều đến số phận người phụ nữ
trong xã hội cũ, một suy nghĩ và cũng là một câu hỏi treo lên và không được
trả lời:
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu
Trong thơ ca hiện đại Tố Hữu suy nghĩ tập trung vào chủ đề cách mạng. Một
trong những bài thơ đầu tiên của anh: Từ ấy, là bài thơ suy nghĩ về cách
mạng. Cách mạng là chân lí, là nhân đạo, là hạnh phúc. Nhưng trước hết
cách mạng là đấu tranh, là sự phấn đấu gian khổ, là biết quên mình. Tố Hữu
qua chủ đề về cách mạng, đặt vấn đề sống chết, “một vấn đề thường được
xem là vĩnh cửu” trong thơ và tác giả giải quyết một cách triệt để theo quan
điểm cách mạng:
Sống đã vì cách mạng anh em ta
Chết cũng vì cách mạng chẳng phiền hà.
Tố Hữu khai triển suy nghĩ trên qua những cuộc đời, những tấm gương khác
nhau đã quên mình vì dân tộc: một bà má Hậu Giang, một em Lượm, một
Nguyễn Văn Trỗi… Họ là “những người không chết hay nói đúng hơn là cái
chết đã “hóa thành bất tử”.
Tố Hữu chú ý tới những tấm gương sáng trong những cuộc đời bình
thường, những hi sinh thầm lặng.:
Ôi bóng người xưa đã khuất rồi
Tròn đôi nấm đất trắng chân đồi
Sống trong cát, chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời.
Câu thơ của Tố Hữu không hằn lên nếp suy nghĩ, mà những suy nghĩ hòa
vào bên trong hình tượng, thắt lại nỗi xót xa về những cuộc đời lam lũ trong
cát bụi. Cái chết âm thầm và sự lãng quên. Thân cát bụi lại trở về với cát bụi
trong cái vòng đổi thay vô tận? Nhưng không, mỗi cuộc đời cao đẹp là một
tấm gương, là hòn ngọc sáng ngời: Chính tấm lòng sắt son vì cách mạng đã
làm rạng rỡ phẩm chất tốt đẹp ở mỗi người: Quy luật tự nhiên của cuộc sống
là ai cũng phải chết, nhưng đúng như Văn Thiên Tường đã đúc kết nên suy
nghĩ:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thử đan tâm chiếu hãn thanh.
(Đời người sau trước ai không chết
Cốt để lòng son rạng sử xanh).
Cái tiếng thơm để lại mai sau không phải là kết quả của một hành động mang
động cơ cá nhân mà vì lợi ích chung. Sự sống và cái chết là những vấn đề
mang ý nghĩa triết học của cuộc đời bộc lộ rõ rệt một cách nhìn, một thái độ
nhân sinh và nó thường xuyên đặt ra với tất cả các thời đại. Tố Hữu không
bắt vào suy nghĩ về vấn đề sống chết như một phạm trù trừu tượng, anh xuất
phát từ những cuộc đời và con người cụ thể mà giải quyết. Đỉnh cao của Tố
Hữu khi nói đến vấn đề này bộc lộ trong những bài thơ viết về Bác khi Bác
qua đời. Bác Hồ không chết, sự nghiệp và con người của Bác sống mãi trong
lòng đất nước và mỗi chúng ta. Bác đi vào cõi bất tử, vào cõi trường sinh. Sự
sống và cái chết ở đây không phân lập thành những đối kháng cực đoan mà
trong sự chia cách của hai cõi vô cùng vẫn có sự tiếp nối, phát triển. Bác Hồ
mất đi nhưng Bác Hồ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc.
Tố Hữu cũng có những vần thơ suy nghĩ về chủ đề dân tộc, về Tổ quốc
Việt Nam. Tình yêu đất nước và con người Việt Nam thắm thiết trong thơ anh.
Huy Cận có một số bài thơ suy nghĩ về truyền thống của dân tộc và quá
khứ của cha ông. Anh luôn tự hào về truyền thống của dân tộc ta trong hàng
ngàn năm lịch sử, một dân tộc bất khuất kiên cường và có một nền văn hoá
lâu đời.
Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa.
Huy Cận cũng luôn xót xa ngậm ngùi về quá khứ tủi cực của cha ông
và chính trên khía cạnh này anh có một số suy nghĩ sâu sắc. Bài thơ Các vị
La Hán Chùa Tây Phương là một bài thơ giàu suy tưởng. Chất suy nghĩ
quyện hòa với cảm xúc và phần sinh động cụ thể của hình ảnh. Trong cuộc
đời quá khứ, mỗi số phận con người là một câu hỏi, và cả xã hội cũ in một
tấm bi kịch, một câu hỏi lớn không tìm được lời giải đáp Những giới hạn của
thời đại nhiều khi như những bức tường ngăn cách không thể vượt qua được.
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen…
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Thực ra thì vấn đề truyền thống quá khứ của dân tộc là vấn đề lớn đòi hỏi
nhiều sức suy nghĩ. Huy Cận đã góp phần nhỏ những suy nghĩ của mình chủ
yếu là thông qua sự hiểu biết của anh về những giá trị văn hóa của dân tộc.
Về nhiều phương diện khác như truyền thống chiến đấu, lao động, xây dựng
đời sống, v.v…, Huy Cận vẫn chưa có tiếng nói của mình. Chất suy tưởng
trong thơ Huy Cận không nổi lên thành những mũi nhọn tư tưởng sắc sảo
nhưng có chiều sâu triết học và lắng về phía bên trong của hình tượng thơ.
Qua bài Trò chuyện với Kim tự tháp, anh suy nghĩ trực tiếp về sự sống và cái
chết. Các vua chúa Ai Cập mưu chống lại sức tàn phá của thời gian đã tìm
mọi cách để bảo vệ lấy cái chết, bảo vệ lấy giấc ngủ ngàn thu trong mộ đá kín
bưng. “Suốt đời vua lo chỗ ngủ cuối cùng. Ôm cái chết mong thắng dần cái
chết”. Huy Cận đã chứng minh rằng chỉ có sự sống mới thắng nổi cái chết. Và
sự sống vẫn như đang muốn trỗi dậy từ trong cát bỏng khô cằn:
Thấy cái chết muốn trở thành sự sống
Cát kêu lên nỗi hoài vọng lớn lao
Là cái chết khô cát muốn hóa tế bào
Của tươi mát: thịt da, hoa lá…
Cũng đề cập đến vấn đề sống chết, Xuân Diệu có những suy nghĩ và
đóng góp ông. Từ sau Cách mạng tháng Tám, thơ ca Xuân Diệu ngày càng
được bồi đắp thêm về chất sống. Cái hướng của Xuân Diệu là đưa thơ về với
cuộc sống, đem cuộc sống sôi nổi, phong phú vào trong thơ. Xuân Diệu đã
bắt được hơi và nhịp đập của cuộc sống mới nên trong thơ ảnh cũng phập
phồng sức sống ấy.Tuy chất hiện thực trong thơ anh chưa được chọn lọc
nhuần nhuyễn, nhưng trên cơ sở đó anh đã biết khái quát, rút ra những suy
nghĩ về sự sống. Thơ Xuân Diệu không thuộc loại thể suy tưởng. Anh cũng ít
triết lí và suy nghĩ trong thơ. Sức mạnh của thơ anh là ở những mặt khác. Tuy
nhiên những bài thơ suy nghĩ về sự sống của Xuân Diệu cũng được chú ý.
Những suy tưởng trong Sự sống chẳng bao giờ chán nản và Quả sấu non
trên cao vừa mang ý nghĩa triết học sâu sắc vừa có nội dung chính trị trực
tiếp và cũng là kết quả suy tưởng trên một hướng đi vững chắc của thơ anh:
Đã là sự sống thì chẳng bao giờ chán nản
Những gian nhà Văn – Điển dù cho bom phá nát tan.
Khi mẹ trở lại thăm nhà, mẹ vẫn cứ mang trái tim vĩ đại
Dọn bếp hốt tro, nhặt những chân ghế bàn còn lại
Mẹ nhìn phân biệt bằng mắt yêu thương
Cái chum đang còn đựng được, miếng gương có thể soi gương
Không thể tiện tay vứt thanh gỗ làm thành mảnh củi…
Sức mạnh của sự sống ở đây đặt ra trong cảnh huống hết sức quyết liệt của
cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, kẻ thù tàn bạo đem cái chết đến tàn
phá, hủy diệt sự sống. Cái chết ỡ đây không phải là một cái chết chung chung
mà là cái chết đem lại từ phía kẻ thù, như một bóng đen của tội ác, cái chết
tìm mọi cách để hủy hoại cuộc sống, gây chán nản, hoài nghi, khiến cho con
người buông xuôi, tiêu cực. Sức mạnh của sự sống ở đây là sức mạnh của lí
tưởng, của tinh thần đấu tranh cách mạng của lòng tin và ý thức trách nhiệm
với cuộc sống. Phải thiết tha tin yêu và bảo vệ lấy sự sống, không thể có thái
độ chán nản ngay trong cảnh ngộ mà sự sống tưởng như mong manh nhất. Ý
thức bảo vệ vun trồng cho cuộc sống thể hiện từ trong những cử chỉ, những
hành động tưởng như nhỏ nhặt bình thường – “Không thể tiện tay vứt thanh
gỗ làm thành mảnh củi”. Một việc làm bình thường, nhưng vẫn có một ranh
giới phân chia giữa một bên là thái độ xây dựng, trách nhiệm và một bên là
chuyện buông xuôi, tùy tiện.
Mở rộng những suy nghĩ trên ra trong phạm vi đời sống của tự nhiên
Xuân Diệu đã ca ngợi cái kì diệu của sự sống trong vũ trụ. Quá trình nảy sinh
phát triển của sự sống thật biến hóa, thật tài tình, từ không đến có, từ hư đến
thật là một sự phát triển biện chứng rất tự nhiên, rất mạnh mẽ. Nhiều hiện
tượng trong tự nhiên, tuy nhỏ bé, mong manh trước thiên nhiên rộng lớn,
nhưng thực ra nó vẫn chứa đựng ở bên trong một sức mạnh đáng kể để tự
bảo vệ, để đề kháng với những hoàn cảnh không thích hợp. Sức mạnh ấy
chính là sự sống và quy luật của nó là sự không ngừng sinh sôi nảy nở và
phát triển. Xuân Diệu muốn qua mấy quả sấu non trên cành mà phát biểu về
triết lí trên:
Mấy hôm trước còn hoa
Mới thơm đây ngào ngạt
Thoáng như một nghi ngờ
Trái đã liền có thật.
Ôi từ không đến có
Xảy ra như thế nào
Nay mà hây hây gió
Trên lá xanh rào rào.
Một ngày một lớn hơn
Lấn từng vòng nhựa một
Một sắc nhựa chua giòn
Ôm đọng tròn quanh hột
Trái non như thách thức.
Trăm thứ giặc thứ sâu
Thách kẻ thù sự sống
Phá đời không dễ đâu...
Quả sấu non trên cây là một bài thơ triết lí hay. Những suy nghĩ nhuần
nhuyễn trong hình tượng, không gò bó.
Chế Lan Viên là nhà thơ khái quát được nhiều suy nghĩ sâu sắc về
nhiều vấn đề trong đời sống. Chất suy nghĩ trong thơ anh giàu tính chất trí tuệ
và có bản sắc riêng. Tập Ánh sáng và Phù sa nổi lên những suy nghĩ về con
đường đi từ “Chân trời một người đến chân trời tất cả”. Anh suy nghĩ nhiều về
cái mới mẻ, tốt đẹp, cao thượng do chế độ mang lại khi con người đã vượt ra
khỏi vòng vây của chủ nghĩa cá nhân. Quá trình ấy không diễn ra một cách
nhẹ nhàng. Có khi phải day dứt, chờ đợi:
Đừng đuổi thơ tôi vì một chút chiều tà ngả bóng
Hãy kiên lòng sẽ thấy nắng mai lên.
Anh không tiêu cực chờ đợi, mà luôn có ý thức tự vượt lên mình. Trong thơ
anh giai đoạn này thấm thía một nỗi đau, nỗi đau của một sự đổi thay. Anh
hiểu rất rõ sự đổi thay chậm chạp của mình có lí do từ trong quá lịm khứ “Đi
xa về hóa chậm. Biết bao là nhiêu khê”. Nghĩ đến quá khứ, anh luôn xót xa,
tủi giận những năm tháng bế tắc:
Ta là ai? như ngọn gió siêu hình
Cầu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt.
Anh tự đánh giá lại nghiêm khắc chặng đường đã qua: “Tôi đi giữa siêu hình.
Như đất này lợm mửa. Trời xanh màu cứu khổ. Tôi lao vào trời xanh”.
Cách mạng đã đem anh trở về con đường thơ cách mạng. Quá khứ như một
lá cờ đen đã gục xuống. Phía trước là một mặt trời cách mạng:
Khi cuộc đời rõ hướng
Nếp rêu con cũng chói lòa ánh sáng
Khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu.
Ánh sáng và Phù sa tập trung vào suy nghĩ vấn đề riêng chung. Những suy
nghĩ của anh xuất phát từ những chiêm nghiệm của bản thân trước cuộc đời
chung rộng lớn nên giàu tính chân thực và có chiều sâu. Từ thung lũng đau
thương trở về với cánh đồng vui, cuộc chuyển quân này thật sôi nổi trong thơ
anh. Trên chiến trường mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khi tư tưởng
đã dứt khoát, vững vàng, Chế Lan Viên lại đạt được nhiều suy nghĩ sắc sảo.
Sao chiến thắng; ở đâu, ở đâu, ở đất anh hùng; Tổ quốc bao giờ đẹp thế này
chăng? đều xoáy sâu sự suy nghĩ vào phẩm chất anh hùng cách mạng của
nhân dân ta, của thời đại ta. Anh xác định vị trí về thế đứng của nhà thơ trong
cuộc chiến đấu:
Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mĩ
Vóc nhờ thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.
Anh gắng khẳng định lẽ sống cao nhất: “Diệt Mĩ là cao cả của Tình yêu”. Lẽ
sống ấy là tấm lòng thiết tha yêu Tổ quốc của hàng triệu con người:
Ôi! Tổ quốc ta yêu như máu thịt…
Ôi! Tổ quốc nếu cần, ta chết…
Ôi! Ta trăm lần yêu Tổ quốc Việt Nam ta.
Lẽ sống ấy là nguồn sức mạnh to lớn tạo nên những điều kì diệu nhất trong
cuộc chiến đấu. Từ xiềng xích nô lệ ta đứng lên giành lấy tự do, từ cái chết tối
tăm vây hãm, ta chiến đấu tìm đến một lẽ sống:
Ở đâu? Ở đâu? Có sự diệu kì
Ta xé vải chôn ta để may cờ chiến thắng
Những vết thương đỏ chói sắc quân kì
Ta nấu xích xiềng ta làm súng đạn.
Chế Lan Viên suy nghĩ và ca ngợi cái lớn lao của dân tộc, của thời đại đang
bốc cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thời đại của quần chúng lao khổ đã
đứng lên làm cho vận mệnh mình, “Thần chiến thắng là những người áo vải”,
thời đại mà mỗi con người đều bay lên trong những ước mơ và hoài bão rộng
lớn, thời đại của Bác Hồ:
… Buổi đất nước Hùng Vương có Đảng
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ
… Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng
Mỗi chú bé đều năm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng.
Chế Lan Viên đã thể hiện được chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thơ
bằng những suy nghĩ lắng đọng sâu sắc.
Chế Lan Viên cũng dành một phần suy nghĩ để vạch mặt kẻ thù. Bộ
mặt nham hiểm, độc ác, luôn ngụy trang của kẻ thù cần phải được chỉ ra,
phơi bày ra trước ánh sáng của công lí để chịu đựng sự trừng phạt. Trong lịch
sử của dân tộc ta, đúng như Chế Lan Viên nhận xét, chưa có kẻ thù nào tàn
nhẫn, man rợ, xảo quyệt bằng giặc Mĩ. Con thú vật độc ác nhất của thế kỉ này
lại mang mặt người, “Mặt kẻ thù ta là gương mặt hay cười”. Đừng lầm lẫn,
chính nó, chúng là kẻ giết người. Nhưng còn tệ hại hơn, “Nó nâng chiến tranh
lên thành trăng mật tình yêu Biến giết chóc thành tình nhân và ngủ với nó.
Chúng tự tình với bom thề nguyền với súng… Chúng nâng việc giết người lên
thành văn hóa văn hoa”. Chế Lan Viên đánh địch một cách kiên quyết, sảng
khoái với hư thế của người chiến thắng…
Trong lớp các nhà thơ trẻ, Bằng Việt là một tâm hồn thơ lắng đọng
nhiều suy nghĩ. Trong tiếng nhạc âm vang của quá khứ, anh nghĩ đến một
thái độ sống với hiện tại, trong những tháng năm quyết liệt của cuộc chiến
đấu, anh muốn bình tĩnh để nhìn nhận ra tất cả vẻ đẹp của con người. Cái
vững vàng của một tư thế chiến đấu nhằm thẳng vào kẻ thù, một thái độ ung
dung trầm lắng của một người làm chủ mình, một phong thái đẹp, hào hoa
của một cuộc sống luôn được tô điểm bằng niềm tin và mơ ước. Khuôn mặt
đẹp ấy là của chung, nhưng anh muốn nghĩ nhiều hơn đến Hà Nội:
Hà Nội mang tầm vóc hôm nay
Cộng với tầm cao quá khứ
Tôi đi dọc những lối vào lịch sử
Nghe suốt năm châu bè bạn nối gần
Tôi đi ngang những cuộc đời thường
Biết ở đó chia nỗi lo nhân loại.
Thơ Bằng Việt giàu liên tưởng. Anh luôn trăn trở nghĩ suy. Tuy không rơi vào
những suy tưởng thuần lí, nhưng cũng chưa tập trung vào những vấn đề băn
khoăn da diết nhất. Ta bắt gặp trong thơ anh những cảm nghĩ về cuộc sống.
Ở đâu những suy nghĩ cũng tươi tắn trong những rung động của tâm hồn thơ
trẻ. Anh biết giữ một thái độ trầm tư trong suy nghĩ, những liên tưởng đi về
trên những mặt tâm tư kín đáo. Ở khía cạnh nào của cuộc sống anh đã trải
qua, tuổi thơ, những kỉ niệm quá khứ, những gặp gỡ của hiện tại, anh đều có
những suy nghĩ, những dự cảm, ước đoán; nhưng những suy nghĩ thường
chưa có chiều sâu, thiếu vóc dáng của một tầm suy tưởng, thiếu cái da diết,
xoáy sâu vào những vấn đề cố lõi của cuộc sống mà bản thân đã nếm trải, đã
từng băn khoăn. Điều đó cũng là một thực tế vì cuộc sống phong phú, quyết
liệt vẫn chưa thực sự đi vào thơ anh. Anh mới dự cảm thấy nó với một tâm
hồn dễ cảm xúc và thông minh. Những suy nghĩ của một nhà thơ chỉ gây ấn
tượng sâu sắc và thành công khi đó là kết quả của một quá trình suy tưởng
về một vấn đề mà người viết hằng băn khoăn ấp ủ và rút ra được từ thực tế
đấu tranh. Hướng suy nghĩ trong thơ những năm gần đây phát triển về chiều
sâu và nhuần nhuyễn hơn với cảm xúc và hình ảnh. Tuy nhiên, trên hướng đi
về phía suy tưởng vẫn chưa có nhiều bài thơ thành công. Đa số các bài thơ
thường rơi vào lối suy tưởng thuần lí, thiếu hẳn cái nền của vốn sống thực tế,
thiếu phần quyện hòa thiết tha với cảm xúc, thiếu bản sắc riêng của một cách
cảm nghĩ. Những cây bút trẻ bắt đầu cuộc đời sáng tác của mình bằng lối thơ
suy tưởng dễ bị cạn vốn. Và dồn vào tình trạng bế tắc nếu không biết trở về
gắn bó với thực tế phong phú của đời sống cách mạng.
Trong lịch sử phát triển của thơ ca có một số chủ đề mà nhiều thời đại
cùng đề cập đến như vấn đề sống và chết, thời gian, chân lí hạnh phúc, riêng
chung, cách mạng… Người ta thường gọi đó là những chủ đề vĩnh cửa vì
dường như nó đặt ra cho tất cả mọi con người và mọi thời đại khác nhau.
Những quan điểm tiêu cực trong thơ ca thường đem vào lĩnh vực này thứ tính
người lỗi thời, xem đây là những tình cảm, những vấn đề muôn thuở, không
mang tính giai cấp. Bản thân những chủ đề này là những là vấn đề triết học
của đời sống, đồng thời cũng mang ý nghĩa triết học phổ biến. Những sáng
tác thơ ca xuất phát và đi vào biện luận xoay quanh những vấn đề trên theo
hướng diễn dịch thường dễ mang tính chất suy tưởng thuần túy. Thực ra thì
mỗi thời đại, mỗi giai cấp đều nhận thức và giải quyết những vấn đề trên theo
quan điểm riêng của mình. Và mỗi nhà thơ cũng thường xuất phát từ những
đối tượng, những môi trường khác nhau mà khái quát lên những loại vấn đề
đó. Ví dụ như vấn đề sống, chết được đặt ra qua thơ Tố Hữu, Huy Cận, Xuân
Diệu… như trên đã dẫn, là không giống nhau. Xuân Diệu có thể qua mấy quai
sấu non mà nói về sự sống. Huy Cận lại có khi qua hình ảnh của các em nhỏ
mà nói về ý nghĩa của cuộc sống. Tố Hữu nhấn mạnh đến một quan niệm
cách mạng về cuộc sống, sống là đấu tranh… Thường các nhà thơ theo
hướng quy nạp để rút về những vấn đề trên nên rất ít trường hợp có sự trùng
lặp nhau, về nội dung và cái được gọi là vĩnh cửu thực ra chỉ mang tính chất
vĩnh cửu về mặt hình thức. Thời gian là một vấn đề được thơ ca của nhiều
thời đại đề cập tới. Ý thức về thời gian cũng như bản chất của thời gian được
lí giải theo nhiều quan điểm khác nhau. Phần lớn các nhà thơ đều nhấn mạnh
và nhận thức được rõ rệt sự biến dịch của thời gian. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
khái quát nên triết lí:
Thế gian biến cải vũng nên đồi
Qua nhận thức về sự đổi thay của thời cuộc, thăng trầm trong vận
mệnh của nhiều người, nhà thơ thấy rõ tính chất phù du của cuộc sống.
Nguyễn Du cũng xúc động đau đớn vì những đổi thay của thời cuộc:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Nguyễn Gia Thiền cũng thâu tóm lại những cái được, mất, trong
khoảng thột trăm năm, đơn vị thời gian với “độ dài lí tưởng” của một đời
người:
Trăm năm có có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.
Lí Bạch, qua bài Tương tiến tửu, đã nói lên sâu sắc những biến đổi của
năm tháng trong cuộc sống con người, trong tạo vật. Thời gian đổi thay và
con người không có khả năng chống lại được sự tàn phá của thời gian, một
sự hủy hoại thầm lặng, dần dà từ bên trong nhưng đồng thời cũng diễn ra với
một nhịp điệu hết sức nhanh chóng:
Anh chẳng thấy Hoàng Hà nước nọ
Tự trên đời chảy đổ ra khơi
Ra khơi thôi thế là thôi
Về nguồn trở lại có đời nào đâu
Anh chẳng thấy nhà cao gương sáng
Những buồn tênh vì mái tóc thưa
Sớm còn xanh mượt như tơ
Tối đà như tuyết bạc phơ đời đời…
Đỗ Phủ rên xiết đến đau đớn cực độ khi thấy thời gian đi qua quá
nhanh, kiếp người ngắn ngủi, sống chết tấc gang:
Người đời khó được gặp nhau
Khác nào sao Hôm và sao Mai
Đêm nay là đêm gì?
Chúng ta lại được chung bóng dưới ánh đèn
Trẻ trung nào được mấy độ.
Bây giờ đầu tóc đã đốm bạc cả
Thăm hỏi những chỗ cố cựu, một nửa đã ra ma rồi
Kinh hãi la lên lòng như lửa đốt.
Trong thơ ca Pháp, một số nhà thơ trong nhóm Văn tinh như Rôngsa
hay thuộc khuynh hướng lãng mạn như Lamartin đều hốt hoảng với những
đổi thay nhanh chóng về thời gian. Đối phó với tình trạng đó, họ nêu tên biết lí
sống gấp, tranh thủ thời gian tận hưởng hạnh phúc và những thú vui trên đời.
Rôngsa trong bài thơ Gửi Hêlen để tưởng tượng đến những năm tháng mà
tuổi già sẽ đến. Sao không nghĩ đến lúc ấy mà biết cách sống bây giờ, tác giả
khuyên Hêlen, và biết đâu chẳng là lời tự răn mình:
Tôi sẽ nằm ở dưới đất và là bóng ma không xương
Dưới những bóng cây thần bí tôi nằm yên nghỉ
Và cô sẽ là một bà cụ già run bên bếp lửa
Tiếc cho tình của tôi và tính kiêu kì của cô
Hay sống đi, nếu cô tin tôi đừng đợi chờ ngày mai nữa
Hãy hái lấy những bông hồng cuộc đời ngay từ hôm nay.
Trong phong trào Thơ mới, vấn đề thời gian và không gian cũng được
đặt ra trong nhiều bài thơ. Nói đến không gian, họ cảm thấy cô đơn, choáng
ngợp trước không gian: “Không gian ơi xin hẹp bớt mênh mông”. Nói đến thời
gian, người lo vội vã “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ”, người lại âu sầu
“Rồi ngày lại ngày, sắc màu: phai, lá cành: rụng”. Nhìn chung, đa số các nhà
thơ trong quá khứ thường chưa nhận thức được bản chất của thời gian. Bản
chất của thời gian không phải chỉ phụ thuộc vào ý thức về thời gian của từng
cá nhân hay từng giai cấp. Bản chất của thời gian là một thực tế khách quan.
Thời gian vận động theo những quy luật nhất định. Nếu thời gian có mặt nào
đó làm cho cuộc sống già cỗi và lụi tàn đi theo quy luật phát triển tất yếu của
vạn vật thì thời gian, mặt khác, cũng làm cho cuộc sống mau đơm hoa kết
quả. Có những giai cấp những tầng lớp xã hội đã bị lịch sử lên án, họ run sợ
trước thời gian, thời gian sẽ làm cho mâu thuẫn càng rạn nứt, làm bộc lộ bộ
mặt thực xấu xa. Thời gian chính là kẻ thù của họ. Với những giai cấp đang
lên, nắm được chân lí và tương lai, thì chính thời gian lại là người bạn tâm
đắc, thời gian ủng hộ trong mỗi công việc làm. Nói như Tế Hanh, thời gian với
chúng nó là chết khóc, là thất bại, là sợ hãi; thời gian với chúng ta là niềm tin,
là thắng lợi:
Ôm sự sống vào lòng ta nuốn nói:
– Thời gian về ta, mãi mãi thời gian ơi!
Chủ động và chiếm lĩnh được thời gian, đó là cách nhìn và cũng là hành động
tích cực của những người làm chủ cuộc sống, biết đem thời gian phục vụ cho
lí tưởng chân chính. Khi đã đem toàn bộ cuộc đời của mình gắn bó thiết tha
với nhiệm vụ đấu tranh cách mạng dù trong mỗi phút giây, thì tự nhiên không
bao giờ con người có cảm giác bị “đánh mất thời gian”. Không bao giờ người
ta phải ân hận với quá khứ của mình. Cái triết lí mà Paven Corsaghin nói về
sự sống “Đời một người chỉ sống có một lần…” cũng chính là triết lí về thời
gian. Khi cuộc sống có ý nghĩa thì thời gian cũng có ý nghĩa. Trong cuộc đời
mỗi người đều không tránh khỏi bệnh tật, già nua, tuổi tác, v.v… Đó là quy
luật tất yếu của sự sống. Không bi quan, buồn nản, mà dám nhìn thẳng vào
sự thật, khắc phục nó bằng sự lao động sáng tạo. Lưu Trọng Lư đã gợi hình
ảnh “em” thời gian và nói lên lòng mong ước của mình:
Hỡi người em nhỏ
Cho anh thêm một ngày
Cho thêm nghìn ngày nữa
Cho trọn cùng cả thế kỉ 20
Anh: người thợ nhỏ của ngày mai
Em trông! cái thước cái bay
Còn vụng về biết mấy.
Muốn kéo dài tuổi thọ để có thể đóng góp nhiều và phục vụ cho cuộc sống
một cách tốt đẹp hơn, Lưu Trọng Lư đã chọn được một lí do dễ chấp nhận.
Vấn đề thời gian còn có thể được đặt ra trong tương quan với nhiều
vấn đề khác như thời gian và chân lí, thời gian và sự bất tử. Thời gian về phía
chủ quan góp phần ấp ủ những suy nghĩ, sáng tạo của con người để phát
hiện ra chân lí. Về phía khách quan, thời gian là chất men, chất nhựa mạnh
thôi thúc cho chín lại một quá trình, làm sáng tỏ những sự việc còn lẫn lộn, bề
bộn khẳng định hoặc phủ định những dự kiến, những tiền đề, thời gian góp
phần tạo nên và khẳng định chân lí. Huy Cận trong bài thơ Chân lí cũng đặt
vấn đề chân lí là thời gian, tương lai là chân lí và không thể nóng vội với kết
quả. Phải biết đợi chờ, không phải là phải chờ đợi tiêu cực mà là đấu tranh,
thử thách, sáng tạo, góp phần cao nhất vào việc khắng định chân lí của cuộc
sống:
Em ơi ong một ngày không làm xong đõ mật
Trái một ngày chưa làm xong nhân hạt…
Men một ngày chưa thành chai rượu cất
Đời một ngày chưa làm xong sự thật
Đời một ngày ta đánh giặt chưa xong
Thời gian, nguyên nhân và cũng là biện pháp mầu nhiệm để hoàn thành mọi
quá trình ấp ủ, sáng tạo:
Nhưng em ơi rồi ong đầy đõ vật
Trời sẽ tròn trăng, trái rồi chín hạt
Men đủ độ sẽ thành chai rượu cất
Đủ năm tháng đời làm xong sự thật
Đủ tháng năm ta sẽ đánh giặc xong
Trái chín cây đâu phải chín nóng lòng.
Bản chất của thời gian là tích cực, là sáng tạo. Đó là một chân lí tưởng như
đơn giản, nhưng đòi hỏi nhiều phát hiện suy nghĩ và điều quan trọng là ý thức
về thời gian. Ý thức về thời gian và bản chất của thời gian là hai mặt khách
quan và chủ quan rất hệ trọng để nhận thức được thời gian. Bản chất của
thời gian là phong phú, là khách quan, nhưng phát hiện cho được bản chất
phong phú đó lại đòi hỏi một quan điểm triết học tiến bộ, một thái độ nhân
sinh đúng đắn. Có thể nói rằng chỉ với quan điểm của chủ nghĩa Mac, con
người ta mới lí giải được phạm trù thời gian một cách khoa học với tinh thần
cách mạng. Thời gian không phải là một phạm trù chủ quan, sự phát sinh, vận
động và tác động của nó đến đời sống đều có những quy luật khách quan,
không thể lí giải, nhận thức một cách tùy tiện chủ quan với cái nhìn tiêu cực
bệnh hoạn, hoặc với xu hướng hưởng thụ cá nhân. Phải có một quan điểm
cách mạng và nhiệt tình tham gia vào cuộc đấu tranh cho lí tưởng tiến bộ,
phải thấm nhuần chủ nghĩa lạc quan cách mạng và có ý thức đúng đắn về
truyền thống lịch sử, mới có khả năng nhận thức được đầy đủ phạm trù thời
gian vận động trong đời sống xã hội. Thơ ca ta trong những năm chống Mĩ
cứu nước đã nhận thức và thể hiện vấn đề thời gian với quan điểm biện
chứng và cách mạng. Các nhà thơ đều có ý thức rất rõ với thời điểm có một
không hai trong lịch sử. Huy Cận nhấn mạnh đến “Những năm sáu mươi”,
Chế Lan Viên ca ngợi “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Từng năm,
từng năm, cái đơn vị thời gian ấy so với lịch sử thật là ngắn ngủi, nhưng tự nó
đã mang nhiều ý nghĩa. Những năm tháng chất chồng bao sự kiện, những
tháng năm bốc cháy tâm tư, những năm tháng ấp ủ bao nhiêu mơ ước và dự
kiến tương lai. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta có những mùa xuân 61,
mùa xuân 67, mùa xuân 68, 71 trong thơ Tố Hữu; suy nghĩ 1966, suy nghĩ
1967… bình luận thời sự hè 72 trong thơ Chế Lan Viên. Những cột mốc của
thời gian đánh dấu những đổi thay và sức mạnh kì diệu của một dân tộc. Hiện
tại không đối lập hoặc gạt bỏ quá khứ. ý thức về truyền thống lịch sử, truyền
thống dựng nước của cha ông thấm nhuần trong lời thơ ca ngợi và tự hào.
Quá khứ giúp cho ta suy nghĩ và hiểu được tầm vóc của hiện tại, và cũng
chính truyền thống tốt đẹp của quá khứ đã góp phần tạo nên tầm vóc đó.
Không phải bao giờ trong lịch sử thơ ca chúng ta cũng có thể viết được:
– Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận
(TỐ HỮU)
Chúng ta sống với bốn ngàn năm lịch sử
Biết đời ta không phải của riêng ta.
(TẾ HANH)
Những thế hệ hôm nay đánh Mĩ
Tuổi anh hùng đã bốn ngàn năm
(LÊ ANH XUÂN)
Cũng hơn lúc nào hết chúng ta giàu lòng tin vào tương lai. Cái tương lai
được khẳng định trong lời thơ chúc tết rất hào hùng và đanh thép của Bác
Hồ:
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta
trong lời Di chúc thiêng liêng và tha thiết:
Còn non còn nước còn người
Thắng giặc Mĩ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay.
Trong thơ Tố Hữu, cấu tứ của nhiều bài được xác lập trên một quá
trình xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Tầm bao quát của nhận
thức được kết hợp với những rung động chân thực khi liên tưởng đến quá
khứ và ước đoán tương lai là một điểm mạnh trong thơ Tố Hữu. Thời điểm
của mùa xuân 1961, mùa xuân xây dựng chủ nghĩa xã hội; được tác giả liên
tưởng đến “tiếng của cha ông thuở trước”, “tiếng thơ kêu xé lòng” của Nguyễn
Trãi, và đến những xót xa của một đời Kiều tủi cực. Và cũng ở thời điểm hiện
tại đã nghe cái náo nức và hối hả của tương lai. Chúng ta cũng bắt gặp âm
hưởng chung đó trong cuộc sống của một dân tộc: Em ơi… Ba Lan, Việt Bắc,
Ta đi tới... và trong những cuộc đời riêng: Mẹ Tôm, Mẹ Suốt, Người con gái
Việt Nam v.v… Huy Cận, Chế Lan Viên cũng nói nhiều đến truyền thống bất
khuất của dân tộc và quá khứ xót xa tủi cực của cha ông. Nhưng cái lớn của
thơ ca ta hiện nay là ở chỗ nói được hiện tại. Không hiếm những thời kì thơ
ca quay lưng lại hiện tại, đắm chìm trong mộng tưởng quá khứ và lo lắng,
hoảng hốt với tương lai. Trên cái nền của thời gian đang vận động, những
suy nghĩ lại được xác lập thêm ở một vấn đề, mới có tính chất phổ biến: suy
nghĩ về thời đại.
Những suy nghĩ trong thơ thường gắn liền và được triền khai từ những
vấn đề có ý nghĩa triết học trong đời sống như sự sống, cái chết, thời gian,
không gian, vấn đề riêng chung, hạnh phúc, chân lí niềm tin, cách mạng, Tổ
quốc... Và cứ như thế những suy nghĩ có thể triển khai trên nhiều đối tượng
và phạm vi khác. Không phải chỉ ở những đề tài có tính chất “vĩnh cửu” mới
có thể nâng thơ lên mức suy tưởng (ở loại đề tài này dễ có khuynh hướng đi
vào suy tưởng nhưng cũng dễ rơi vào lối suy nghĩ tư biện, thuần lí…) và thực
ra với bất kì đối tượng nào cũng có để rút ra những suy nghĩ. Thực chất của
sự suy nghĩ trong thơ là biết đi sâu vào bản chất của đối tượng, phát hiện và
rút ra ý nghĩa khái quát nhất, xác lập những liên tưởng sâu xa giữa đối tượng
và những hiện tượng khác. Thường những suy nghĩ tồn tại dưới dạng thuần lí
thì dễ nhận thấy hơn là những nghĩ hòa tan vào hình tượng. Những câu thơ
rất tươi tắn, giàu sức gợi cảm sau đây, mới đọc qua dường như chỉ thấy sự
phong phú về hình ảnh và cảm xúc, nhưng càng đọc càng thấy sự lắng đọng
sâu xa và thấm thía của những suy nghĩ:
Đất nước mình nghèo lắm, hỡi em yêu
Cho đến giọt lệ cha ông cũng còn có ích
với ta nhiều.
(CHẾ LAN VIÊN)
Sự đời nước mắt soi gương
Càng yêu mến lắm càng thương nhớ nhiều.
(ca dao)
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều
Nghe hồn Nguyên Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng.
Có những câu thơ tưởng như là một nhận xét thoáng qua, tự nhiên, nhưng lại
chứa đựng những suy nghĩ và phần nào cái chân lí của đời sống.
Cỏ non theo mắt con nhìn lại xanh.
(CHẾ LAN VIÊN)
Thế đấy giữa chiến trường
Nghe tiếng bom rất nhỏ.
(PHẠM TIẾN DUẬT)
Suy nghĩ trong một bài thơ bộc lộ ra ở nhiều nhân tố cấu tạo nên nội
dung trực tiếp của sáng tác. Rõ rệt nhất là cấu tứ của bài thơ. Cấu tứ là ý
tưởng bao quát của toàn bài thơ biểu hiện trong sự liên kết những suy nghĩ,
cảm xúc và hình ảnh, trong dạng cấu tạo và phát triển của hình tượng thơ.
Chiều sâu của sự suy nghĩ, tính chất sáng tạo của bài thơ bộc lộ một phần
quan trọng ở cấu tứ. Tố Hữu với các bài thơ Tiếng chổi tre, Êmily con; Chế
Lan Viên với các bài Người đi tìm hình của nước, Kết nạp Đảng trên quê
hương mẹ, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng; Xuân Diệu với Lệ, Sự sống
chẳng bao giờ chán nản; Huy Cận với Các vị La Hán chùa Tây Phương, trò
chuyện với Kim tự tháp; Bằng Việt với Bêtôven và âm vang hai thế kỉ, Trở lại
trái tim mình…
Nói chung, cấu tứ của các bài thơ trên đều có nhiều suy nghĩ và phát
hiện mới. Hãy lấy ví dụ như tứ thơ bài Người đi tìm hình của nước của Chế
Lan Viên. Hình ảnh của đất nước và của Bác Hồ luôn gắn bó quyện hòa vào
nhau. Từ ngày Bác ra đi trong tình cảnh nước mất nhà tan, hình ảnh của đất
nước luôn hiện lên trong tâm trí Bác. Những ngày lênh đênh nơi đất khách
quê người, chịu đựng biết bao cảnh gian truân, Bác Hồ đã vượt qua tất cả.
Tiếng gọi của Tổ quốc thật thiết tha, nhưng rồi đi theo con đường nào, hình
ảnh của đất nước mai này ra sao, tất cả vẫn côn mông lung, chưa định hình.
Và khi Bác Hồ gặp Luận cương của Lê nin, đó là giờ phút quyết định và
thiêng liêng nhất. Con đường đi của dân tộc, tương lai của đất nước, tất cả đã
hiện hình lên, Người đã tìm thấy hình đất nước:
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bộ thấy đã đến rồi
Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong máu hồng, hình đất nước phôi thai.
Cả bài thơ vận động theo tứ thơ trên. Bản thân tứ thơ chứa đựng nhiều
suy tưởng có giá trị. Ngoài tứ thơ, chất suy nghĩ trong một bài thơ phải bộc lộ
cụ thể trong từng ý, từng lời. Nếu chỉ có những câu thơ có suy nghĩ mà không
được liên kết thành một tứ chung, một suy tưởng bao quát thì tác dụng của
bài thơ hạn chế. Nhưng nếu chỉ có một tứ thơ giàu suy nghĩ mà chất suy nghĩ
không thấm vào từng ý, từng lời thì những suy tưởng không có sức mạnh
trực tiếp, cụ thể. Trong bài thơ Người đi tìm hình của nước có nhiều câu thơ
giàu chất suy nghĩ. Khi anh viết:
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba–lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa đông băng giá.
Chế Lan Viên không chỉ muốn nói lên một viên gạch có thực để bên
bếp lửa mà Bác dùng hằng ngày cho thêm ấm nóng. Anh muốn nói lên một
suy nghĩ sâu xa hơn về sự chống chọi lại của một con người, một trái tim yêu
nước với cả thế lực phản động đang bao vây trùng điệp lúc bấy giờ như một
mùa đông băng giá. Từng câu thơ, từng đoạn thơ trong một bài thơ nhiều khi
gói trọn lại một suy nghĩ. Có những câu thơ rất đanh, rất chắc như một
phương châm, một triết lí.
Thâm thúy biết mấy hai câu thơ của Tống Giang vịnh mộ Nhạc Phi:
Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt
Bạch thiết vô cô chú nịnh thần.
(Núi xanh có hân hạnh được chôn xương trung thần
Đá trong chẳng có tội tình gì bị (dùng) tạc kẻ nịnh).
Văn Thiên Tường đúc kết sâu sắc ý nghĩa cao cả của sự sống:
Đời người sau trước ai không chết
Cốt để lòng son rạng sử xanh.
Lỗ Tấn nói lên cái triết lí sống vừa kiên cường bất khuất vừa nhân đạo
yêu thương của một tâm hồn chiến sĩ:
Quắc mắt xem khinh nghìn lực sĩ
Cúi đầu làm ngựa bé nhi đồng.
Tố Hữu đã phê phán thái độ chơi vơi, không xác định, trong sự lựa
chọn:
Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi.
Hoàng Trung Thông khái quát nên chân lí về sức mạnh của con người
trong lao động với tinh thần khai phá, tiến công:
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Chế Lan Viên khẳng định chân lí về nhân phẩm con người trong những
năm chống Mĩ:
Diệt Mĩ là cao cả của tình yêu.
Anh cũng viết nhiều câu thơ có ý nghĩa đúc kết như một phương châm, một
triết lí về các quan hệ Cái lớn lao và tình yêu vô tận của lòng mẹ:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.
Và hạnh phúc bao trùm của tình yêu với Tổ quốc ở mỗi con người của dân
tộc:
Ôi cái buổi lòng ta yêu Tổ quốc
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên.
Những câu thơ trên dễ nhớ, dễ khắc sâu, xâm chiếm lòng ta bằng tiếng nói
của một chân lí trong âm hưởng mềm mại, lôi cuốn của thơ ca. Nó giống như
những cái mắt của sự suy nghĩ. Trong một bài thơ, càng có được nhiều câu
hay như trên là điều đáng quý nhưng cũng có thể có những bài thơ không có
những câu thơ đúc kết sự suy nghĩ, song bài thơ vẫn giàu chất suy nghĩ.
Những suy tưởng từ một mối thu về và tỏa ra trong toàn bài.
Chất suy nghĩ là một phẩm chất quan trọng của thơ nhưng không phải
là duy nhất. Sức mạnh của thi ca tác động và lôi cuốn, hấp dẫn đến nhiều mặt
trong đời sống tâm hồn của con người. Có nhà thơ tạo được sức hấp dẫn ở
sự lôi cuốn của dòng tình cảm, có nhà thơ mạnh về mặt suy nghĩ, có nhà thơ
nổi lên ở khả năng sáng tạo, hình ảnh…
2. Cái “phi lí tính” trong thơ
Ngay đến những yếu tố tưởng như đối lập với lí trí và chất suy nghĩ
trong thơ, tưởng như cần loại trừ khỏi phạm vi sáng tạo của thơ cũng có tác
dụng nhất định của nó. Nhiều nhà thơ trong khi khẳng định vai trò chủ đạo
của lí tính trong thơ cũng chấp nhận sự có mặt đến một mức độ nào đó của
những nhân tố phi lí tính và những cảm xúc trực năng. Trong thơ ca người ta
thường bắt gặp những trường hợp khó giải thích, hay gọi là “bất khả giải” như
cách nói của một số nhà thơ đời Tống. Viên Mai cũng cho rằng thơ cần phải
khuất khúc mới hay. Cấu trúc của hình tượng thơ thường đa dạng, bao gồm
nhiều tầng, có phần phô ra gợi cảm, có phần tỏa vào bên trong kín đáo, có
mạch nổi lên, có mạch chảy ngầm. Thơ đòi hỏi phải cô đọng, hàm súc, “thi tại
ngôn ngoại”, nói ít gợi nhiều, khi trực tiếp khi gián tiếp, khi bộc lộ nghĩa đen,
khi hàm nghĩa bóng. Trong lĩnh vực của tình cảm, phải đảm bảo được sự kết
hợp giữa chiều sâu lắng đọng và sức chan hòa gợi cảm, giữa tính chất bộc
trực chân chất với nét tinh tế, duyên dáng. Chúng ta phê phán lối thơ bí hiểm,
trừu tượng, nhưng cũng thấy rõ sự hạn chế của những tứ thơ, ý thơ quá cụ
thể, quá rõ ràng. Lê Quý Đôn đã nêu lên một số điều cấm kị trong thơ, trong
đó có “nói kị thẳng, ý kị rộng, mạch kị lộ”. Nhiều bài thơ cấu tứ quá đơn giản,
lập ý thật thà, mạch thơ “thẳng như ruột ngựa” đã hạn chế rất nhiều sức gợi
cảm. Hình tượng thơ vừa đứng vững chắc trên mảnh đất thực tại, lại vừa cất
cánh bay lên, vừa sáng tỏ trong những suy tưởng, lại rất say trông cảm hứng
sáng tạo. Hơn nữa, nhà thơ lại giàu sức tưởng tượng, vận dụng nhiều biện
pháp ước lệ, tượng trưng cách điệu hóa nên sự cảm thụ trong thơ vừa có
phần chung vừa có những nét đặc trưng nhất định. Người ta thường nói đến
lôgic thi ca, cái lôgic của cuộc sống được biểu hiện trong tính loại biệt của đặc
trưng thể loại. Trong văn xuôi, tính xác định, cụ thể, rõ rệt của các tình huống,
và những mối quan hệ của các nhân vật được xác lập trên mảnh đất của đời
sống thực tại tưởng như có thể kiểm tra và nắm bắt được. Thơ có thể thông
qua một thoáng ấn tượng để nói về một cái gì cụ thể, một thoáng siêu thực để
nói lên một khía cạnh của hiện thực, một hình ảnh tượng trưng đề biểu hiện
cái khái quát. Tố Hữu nói về niềm vui tháng năm dâng lên như trào sôi:
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi
Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ.
Gió, gió ơi! hãy làm giông làm tố
Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi
Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi.
Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác
Ôi thiên đường! Tai miên man lắng nhạc
Từ muôn phương theo gót nện rầm rầm
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm!
Âm hưởng chung của cả đoạn thơ trên là khỏe khoắn, cuồn cuộn sức sống và
niềm vui trong không khí cách mạng thắng lợi. Xét trong từng ý nhỏ, từng
hình ảnh có chỗ như phi lí. Cái phi lí ấy không phải là bản chất làm cho hình
tượng thơ bị lệch lạc mà chỉ là những phương tiện biểu hiện để nói lên mục
đích chung, phục vụ cho lí tính bao quát của toàn bài.
Nazim Hitmet đã tạo cho mình một vị trí đặc biệt: nằm duỗi dài dưới đáy
Đại Tây Dương để quan sát những chiếc tàu qua lại trên đại dương và miêu
tả sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Một tên Hăng Mulê bắn ra từ một con tàu
chìm nghỉm, tên phát xít man rợ với tất cả cái lí lịch đáng buồn chán và khôi
hài, một cái xác chết với cái mũi nhọn cong. Nếu hiểu theo lôgic bình thường
là vô lí, nhưng nếu xuất phát từ mục đích phê phán, đả kích tụi phát xít hung
hãn lại là một sáng tạo. Valêri cũng cho rằng trong thơ có những điều như vô
lí, nhưng lại tạo nên một âm hưởng đẹp. Valêri nhắc đến một câu thơ của
Victo Huygô:
Một mặt trời đen khủng khiếp tỏa khắp đêm dày
Hình ảnh mặt trời thường tiêu biểu cho thắng lợi, cho niềm tin và chân lí: “mặt
trời cách mạng”, “mặt trời chân lí”... Nhưng nếu bên trong tâm hồn có một
màn tối nào đó bao phủ, hoặc con người ở vào trong một cảnh ngộ nào đó
với những tâm trạng đặc biệt, tạo nên những cách nhìn đặc biệt thì mặt trời
trong cuộc đời cũng có thể biến sắc đi để phục vụ cho yếu cầu của nội dung
thi ca. Nguyễn Du trong bài Sở kiến hạnh khi nói đến tình cảnh đau xót đói
khổ của những người nghèo lang thang đói rét bên đường, đã vẽ nên một
mặt trời vàng úa rất thích hợp với bức tranh xã hội. Tế Hanh cũng miêu tả
hình ảnh mặt trời đen trên con đường đầy thương tích do địch tàn phá:
Bên đường cây gãy ngang
Góc đường nhà sập đổ
Đầu đường mặt trời đen
Cuối đường mặt trăng tỏ.
Maiakôpxki viết về hình ảnh một mặt trời trong những tháng năm khó khăn
nhất của Cách mạng tháng Mười, những tháng năm của chiến tranh, đói rét,
tật bệnh:
Tảng đá
thủ đô
trụi trơ
trắng xoá
Rừng nép vào
tảng đá
giơ xương
Và trông kìa
từ phía sau rừng
Con rận
mặt trời
bò
lên khăn trời rộng.
Trong cơn sốt thương hàn chấy rận
bình minh
tháng chạp
rũ rượi
muộn màng.
Hình ảnh “con rận mặt trời” tuy xa lạ, nhưng trong khung cảnh trên lại có thể
chấp nhận được.
Trong thơ, người ta thường bắt gặp nhiều câu tưởng như là vô nghĩa lí,
nhưng thực ra nó vẫn hợp lí nếu xét đến ý nghĩa bên trong, đến mục đích sâu
xa của câu thơ.
Huy Cận viết về ngày mưa trên biển:
Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm
về tiếng hót hay của con chim chiền chiện:
Bay cao cao vút
Chim biến mất rồi
Chỉ còn tiếng hót
Làm xanh da trời...
về cái quẫy của con cá song:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.
Nguyên Hồng viết về một dòng sông “Mê Kông quặn đẻ. Chín nhánh
sông vàng”, về cảnh rừng Lào Miên “Ngẫm nghĩ voi đi. Thác Khôn cười trắng
xóa”. Tất cả những hình ảnh, những câu thơ trên đều có vẻ vô lí nếu xét theo
ý nghĩa bình thường đơn giản nào đó. Nhưng thực chất lại là những câu thơ
hay, những hình ảnh đẹp và sáng tạo. Trong ca dao trước kia người ta đã
từng viết một cách kín đáo, bóng gió…
– Đôi ta cách một dòng sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.
– Ước gì sông hẹp một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.
– Ba đồng một chục đàn ông
Em bỏ vào lồng em xách đi chơi…
Có khi tính chất tượng trưng, ẩn ý chi phối đến cảm hứng sáng tạo của toàn
bài.
Ta hãy lấy một ví ở dụ: bài thơ Con cò của Chế Lan Viên. Con cò là
một bài thơ hay. Thông qua một cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời ru, câu
hát Chế Lan Viên muốn nói lên tấm lòng yêu thương và những mong ước của
người mẹ với đứa con. Tác giả cũng muốn nói lên tấm lòng biết ơn chế độ xã
hội mới như cái nôi đùm bọc, nuôi dưỡng tâm hồn thơ trẻ những giấc mơ
đẹp. Quá khứ buồn tủi, hiu hắt thấm vào lời ru hôm qua vẫn còn vọng lại đâu
đây, nhắc nhở chúng ta.
Qua bài thơ, thật khó để xác định cho chính xác tính chất tượng trưng
của hình ảnh con cò. Có một cái gì thiếu thống nhất, luôn biến hoá trong tiếng
hát lời ru về con cò, trong cánh cò dập dìu bay lượn. Con cò tượng trưng cho
một tấm lòng trong trắng? cho nỗi khổ ngày qua? cho niềm vui và ước mơ
hiện nay? cho tình thương yêu rộng lớn của lòng mẹ? cho cái bé bỏng côi cút
của đứa con thơ? Dường như ở trường hợp nào cũng đúng cả, nhưng không
phải chỉ đúng duy nhất với một trường hợp nào. Hình tượng thơ ở đây được
tạo ra từ một hình ảnh tượng trưng bồi đắp bằng trí tưởng tượng và cảm xúc.
Bài thơ có nhiều liên tưởng, gợi ru nhiều khả năng khác nhau trong cảm thụ.
Một sự phân tích đơn giản máy móc dễ làm mất mát màu sắc sinh động của
hình tượng thơ. Nội dung sáng tác phải được cảm thụ theo lôgic thi ca. Bài
thơ dường như có một số yếu tố phi lí thâm nhập, nếu hiểu theo lôgic hình
thức thì dễ thấy như mâu thuẫn, như vô lí. Nhưng thực ra trên tứ thơ bao quát
toàn bài, tất cả đều chặt chẽ, đều phục vụ cho chủ đề chung. Một số trường
hợp khó giải thích, bình luận, thậm chí không hợp lí trong một số bài không
phải là hiện tượng tiêu cực trong thơ mà nhiều khi lại là cần thiết. Tất nhiên
nó chỉ chiếm một phân lượng nhỏ và chịu sự chỉ đạo chặt chẽ của một tư
tưởng bao quát. Những nhân tố đó chính là phần tiền ý thức, là một cuộn chỉ
đang được gỡ ra. Gơt trước kia và gần đây là Bêsơ đã nói đã thuyết phục về
hiện tượng này.
“Ngày xưa Gơt cho rằng bài thơ nói chung hợp lí nhưng lại phải hơi phi
lí một chút ở chỗ nào đó. Cái không hợp lí ít ỏi này ở giữa cái hợp lí to lớn và
sâu sắc cấp cho bài thơ một sức hấp dẫn đặc biệt – đã bao lần chúng ta bắt
gặp cái mâu thuẫn kì quặc ấy. Cái không hợp lí thực ra là cái gì? Cái không
hợp lý này nói lên rằng đối với tất cả cái được giải thích và tất cả cái được
biểu hiện vẫn có một phần không được giải thích và không được biểu hiện, và
cái trí tuệ cao cả nhất không phải là trí tuệ tuyệt đối và bao giờ cũng vẫn có
một phần không hợp lí không bao giờ cắt nghĩa được hoàn toàn, không có
nghĩa là chúng tôi muốn trở thành những người ca ngợi cái không hợp lí, trái
lại thế. Lí trí nổi bật ở chỗ nó biết những giới hạn của nó, sự khôn ngoan cao
cả nhất chứa đựng ở nó một phần không hợp lí nào đó ở giữa cái tính chất
hợp lí chung của nó. Bài thơ bao giờ cũng thành công khi nó xuất phát từ đối
tượng và khi đối tượng của nó được quy định cụ thể, nhưng xen lẫn vào cái
đối tượng được quy định cụ thể này còn có một cái gì khác nữa. Còn có một
cái bí ẩn chưa khám phá ra được được sang tạo lần đầu tiên lôi cuốn người
ta. Bài thơ cần có cái đối tượng được quy định cụ thể còn là để cho chúng ta
có thể nhận thức được biên giới của cái vẫn còn chưa phỏng đoán được. Cái
không hợp lí chỉ lôi cuốn ta ở trong cái trật tự hợp lí, nó phải phù hợp với cái
chung về toàn bộ một cách hợp lí. Điều mong muốn sâu sắc chung của chúng
ta là thế. Nhưng đôi khi chúng ta sẵn sàng cho phép cái không hợp lí đánh
lừa chúng ta bởi vì cái không hợp lí này chính là cái hợp lí mà lí trí chưa nhận
thức được. Bài thơ trong đó thiếu cái hợp lí ở trong tính chất bị quy định cụ
thể của đối tượng thì tự thân nó cũng mất luôn cái vẻ đẹp hấp dẫn của cái
không hợp lí mà cơ sở hiệu lực của nó là một cơ sở hợp lí”.
Cái mà chúng ta tạm gọi là không hợp lí này thực ra đó là những nhân
tố mà lí tính có thể nhận thức và giải thích được theo những liên tưởng và
những quan hệ bên trong của đối tượng. Phần không hợp lí chỉ là yếu tố hình
thức, là phương tiện biểu hiện bên ngoài, là lí do, và cái cớ để nhà thơ từ đó
thực hiện những mục tiêu thi ca khác. Không thể lầm lẫn với cái phi lí tính mà
một số nhà thơ suy đồi phương Tây cố ý gán ghép cho thơ. Trong thơ cũng
không có chuyện bí mật như Hăgri Brêmông nói và cho rằng đó là những
nhân tố không thể giải thích được, người ta chỉ có thể vận dụng linh cảm để
cảm thụ nó. Cũng không thể như Seli quá đề cao tính chất linh thiêng, thần bí
của sự tác động thi ca có vượt ra khỏi vai trò của lí trí. Những liên tưởng và
kết hợp có phần như vô lí trong một số câu thơ đã dẫn khác về bản chất với
những liên tưởng và kết hợp phi lí mà chủ nghĩa siêu thực đề xướng hồi đầu
thế kỉ. Ăngđrê Brơtông trong bài thơ Kết hợp tự do đã phủ nhận những mối
liên hệ khách quan và bản chất của sự vật, tùy tiện xác lập những mối quan
hệ giữa các sự vật một cách phi lí. Cái gọi là hiện thực của chủ nghĩa siêu
thực này phá hoại những chân lí và lôgic của đời sống và cũng là chân lí và
cơ sở của sự nhận thức nghệ thuật. Trong tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu
thực, Ăngđrê Brơtông đã đề cao những liên tưởng xa lạ, khác biệt với hiện
thực của đời sống và xem một trong những nhiệm vụ quan trọng của thi ca là
phát hiện cho được những liên hệ ẩn kín của các sự vật vốn không bộc lộ
trong cuộc sống. Cơ sở ấy sẽ tạo nên một hiện thực mới cao hơn, đúng đắn
hơn hiện thực tầm thường trong cuộc sống hằng ngày. Và thực chất họ đã
tán dương và đem cái phi lí, phi hiện thực vào trong thơ. Chủ nghĩa siêu thực
đề cao cái vô thức, và đẩy thi ca vào những địa hạt hết sức xa lạ với cuộc
sống quen thuộc hằng ngày. Ăngđrê Brơtông, Rôbe Đênôt, Benjamanh Pêrê,
Antônin Actô… trong sáng tác của mình đều bộc lộ rõ cái quái đản, phi lí.
Sáng tác của họ là một sự phá phách, hỗn loạn trong thơ.
Đề cao vai trò của tư duy của lí trí trong thơ nhưng đồng thời chúng ta
cũng chú ý đúng mức tới cảm giác, cơ sở để tạo nên những cảm xúc và cảm
thụ trực năng trong thơ. Thơ ca ông như một loại hình nghệ thuật khác là một
hình thái nhận thức và đồng hóa thực tại. Khả năng chiếm lĩnh thực tại của
mỗi loại hình nghệ thuật phụ thuộc vào chất liệu ngôn ngữ và những năng lực
nắm bắt cuộc sống của từng loại hình. Thơ trữ tình rất cần đến những cảm
thụ, những quan sát, lắng nghe trực tiếp hương vị, màu sắc, âm thanh của
cuộc sống. Cảm giác góp phần rất lớn để tạo nên những phẩm chất đó của
thơ. Chính những giác quan tinh tế là những khâu tiếp xúc trực tiếp nhất với
đời sống hiện thực. Mac đã từng nói: “Con người tự khẳng định mình trong
thế giới đối tượng không phải chỉ trong tư duy mà bằng tất cả các cảm giác”.
“Con người chiếm hữu bản chất của mình một cách toàn diện nghĩa là như
một con người hoàn toàn. Mối quan hệ có tính chất người của con người đối
với thế giới, thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ, tư duy, trực quan cảm giác mong
muốn, hoạt động, yêu, nói tóm lại tất cả những khí quan của cá tính của nó,
cũng như những khí quan xét về hình thức tồn tại một cách trực tiếp như
những khí quan xã hội trong quan hệ đối tượng của nó hoặc trong quan hệ
của nó với đối tượng là sự chiếm hữu đối tượng, là sự chiếm hữu tính hiện
thực của con người. Quan hệ của chúng đối với đối tượng là sự thực hiện
tính hiện thực của con người”.
Nghệ thuật thi ca chính là một hình thức chiếm hữu và đồng hóa thực
tại. Thơ cần đến chất phù sa, bùn đất để bồi đắp cho hình tượng thơ có tính
chất cảm tính cụ thể. Thơ đòi hỏi sự phát hiện và cảm thụ tinh tế của các giác
quan để đem vào trong thơ vẻ đẹp giàu có của cuộc sống và thiên nhiên đầy
hương vị, âm thanh, màu sắc. Những cảm thụ trực năng làm cho cảm xúc
trong thơ không trôi đi mà thêm sức bấu víu và gợi cảm ở người đọc. Mùi khói
trong thơ Bằng Việt đã làm cho nỗi nhớ tuổi thơ, nỗi nhớ bà cháu thêm cụ thể,
thêm da diết và tuy thời gian đã trôi qua đi nhưng cái cảm giác ấy vẫn cứ kích
thích mãi như một kỉ niệm của chính da thịt mình:
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Nỗi nhớ thường, hay gắn bó với một cái gì của hương vị. Hương vị nói lên
không khí cụ thể của cảnh ngộ, một cái gì riêng tư của đối tượng. Nỗi tương
tư của chàng Kim cũng bắt đầu từ một hương vị, “hương gây mùi nhớ trà
khan giọng tình”. Hương vị ấy không nhất thiết lúc nào cũng phải thơm tho
ngào ngạt. Đối với người vợ xa chồng, có lẽ cái hương vị nhiều ý nghĩa và
gây thương nhớ nhất là mùi áo của người chồng. Chẳng thế mà cổ nhân
muốn giữ lại kỉ niệm của người thân yêu đã mất qua việc “xếp tàn y lại để
dành hơi”. Giang Nam nói chạnh đi nỗi nhớ chồng của người phụ nữ miền
Nam qua nỗi nhớ của đứa con và muốn mượn đấy để nói lên ý định kín đáo
của mình:
Con nhớ anh nhiều đêm biếng ngủ
Nó khóc làm em cũng khóc theo
Anh gửi về em manh áo cũ
Đắp cho con đỡ nhớ anh nhiều.
Tế Hanh nhớ đến vùng biển quê hương và những người chài lưới, nhưng
trong cái bối cảnh chung đó có một hương vị không thể quên được:
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.
Chế Lan Viên đã nói lên cụ thể hơn trạng thái tình cảm và cảm giác này khi
anh nhắc tới Phan Thiết, thành phố của những kỉ niệm tuổi thơ:
Ôi thương nhớ có lắm điều kỳ quặc
Cả Phan Thiết với cái mùi mắm gắt
Cũng thành hương của tuổi trẻ nồng hương
Gọi lòng ta về nơi nhớ nơi thương.
Nhà thơ phải biết lắng nghe được, quan sát được những đổi thay rất
nhỏ, rất tinh tế của cuộc sống và của thiên nhiên đầy gợi cảm. Xuân Diệu
trước kia đã bắt được những xao xuyến thu về qua cái “rét mướt luồn trong
gió”, qua cái rùng mình chớm lạnh của một cánh chim:
Cành biếc run run chân ý nhị
và cả đến cây cỏ nữa:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Và tất nhiên những cảm thụ ấy tinh tế nhưng vẫn mang dấu vết của một
tâm hồn mềm yếu, đa cảm. Sau này thiên nhiên đến trong thơ ca tươi đẹp,
khỏe khoắn hơn. Cũng một cành táo mùa xuân, Tố Hữu đã chỉ ra cái sức
sống tự bên trong và phần xao động bên ngoài:
Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh.
Nguyễn Đình Thi lắng nghe được tiếng thầm của cỏ hoa khi xuân đến
giữa chiến trường Điện Biên dữ dội:
Hoa nghệ xôn xao nở tím hồng.
Trong thơ ca hiện đại có nhiều nhà thơ chưa chú ý đúng mức đến
những cảm xúc trực năng nên hình tượng thơ thường khô khan lí trí. Khi nói
đến những cảm xúc trực năng, chúng ta không đối lập hoặc tách rời loại cảm
xúc này với lí trí. Những cảm xúc này chỉ phát huy được tác dụng và hướng
phát triển đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một tư tưởng chung bao quát. Và
trong một bài thơ, những nhân tố trên chỉ chiếm một phân lượng nào đó,
không thể xem là bản chất của hình tượng khuynh loát các nhân tố chủ yếu
khác.
Trong phong trào Thơ mới, nhiều nhà thơ muốn lấy cảm giác làm cái
gốc của sự cảm thụ. Này âm thanh, này sắc điệu, này hương vị của cuộc đời,
thơ ca hãy biết thâu góp lại trong những lắng nghe tinh tế, trong những cái
nhìn thẳm sâu. Hãy nhập vào tạo vật đang lên sắc lên hương, bằng tất cả
cảm giác của mình để tìm lấy cái đẹp của một sự hòa hợp. Lí trí hãy lui về
phía sau, ở đây cái đẹp của tạo vật cchỉ dành cho một sự cảm thụ vô tư nhất,
trực tiếp nhất. Con đường thơm trong thơ Huy Cận là con đường đẹp của một
thế giới đầy âm thanh màu sắc hương vị:
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho
Gió hương đưa mùi dìu dịu phất phơ
Đất thêu nắng bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu
Lên bề cao hai đi xuống bê sâu
Không biết nữa, có chút chi làm ngợp
Trong không khí hương với màu hòa hợp.
Cái không gian ấy là ở đâu, dường như không cần biết, lí trí cũng
không cần phải mách bảo. Và rồi cả thời gian cũng không quan trọng nữa. Lí
trí cũng không cần phải xác định cái ngày nắng đẹp như thêu hoa, như dải lụa
ấy là ở vào thời nào, miễn là nó đẹp tình tự và gợi cảm:
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy có bướm vàng nữa chứ…
Huy Cận đã để cho cảm giác mở hết sức sống bên trong của mình ra
để đón nhận, thu lấy cái đẹp của tạo vật. Lí trí hãy đừng phát huy tác dụng
không cần thiết của mình ở đây:
Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng
Trí vô tư cho da thở hương tình.
Điều thú vị là cái đẹp ở đây là cái đẹp trong sáng của một cảnh vật ở
nông thôn: “Đường trong làng hoa dại với mùi rơm”, cái đẹp của bóng tre,
bóng phượng, của cu gáy, bướm vàng, nên cảm giác cũng thu lượm được
một cái gì đáng quý, và tự bên trong những câu thơ cũng bộc lộ một tấm lòng
thiết tha yêu thiên nhiên, yêu vẻ đẹp thanh khiết hồn hậu. Nhiều nhà thơ trong
phong trào Thơ mới đã hướng cảm giác đi vế phía đắm say nhục thể, thay thế
sự rung động của một tấm lòng bằng những rung động say mê của cảm giác
được vuốt ve, được kích thích. Vũ Hoàng Chương, Bích Khê… đã làm nhiễm
độc những cảm giác bằng thú vui của rượu mạnh, của thuốc phiện, của gái
đẹp. Những câu thơ có tính chất bản năng nhục cảm ấy xa lạ với một tiếng
nói thơ ca lành mạnh chân chính. Những khuynh hướng đề cao bản năng,
trực giác và phủ nhận vai trò của lí trí trong thơ khá phổ biến trong những trào
lưu suy đời của thơ ca Tây phương từ đầu thế kỉ XX cho đến thời kì hiện đại.
Thơ ca miền Nam vùng địch tạm chiếm cũng sa lầy trong vũng bùn của nhục
cảm, khơi động những yếu tố bản năng.
Chương 5. VẤN ĐỀ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC TRONG THƠ
I. HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG NGUỒN SÁNG TẠO DỒI DÀO VÀ VÔ TẬN CỦA THƠ CA
H. Hainơ đã so sánh hình tượng nhà thơ với cuộc sống như thần Ăngtê
với đất Mẹ. “Thần Ăngtê trở nên vô địch khi đặt hai chân trên đất Mẹ và mất
hoàn toàn sức lực khi bị Hecquyn nhấc bổng lên. Nhà thơ cũng thế, nhà thơ
chỉ thực sự cường tráng và dũng mãnh khi gắn liền với mảnh đất của đời
sống hiện thực và trở nên bất lực khi tách rời cuộc sống và lơ lửng trên
không”.
Quan niệm tích cực ấy của Hainơ cũng là quan niệm chung của các
nhà thơ tiến bộ về nội dung và sứ mệnh xã hội của thơ ca, một thể loại vốn
được xem là dễ thoát li đời sống, có khả năng nuôi dưỡng và tồn tại bằng
chất liệu tự thân và cứu cánh nội tại.
Mối quan hệ giữa thơ ca và đời sống xã hội là một vấn đề đã đặt ra từ
lâu đời trong lịch sử phát triển của thơ ca và vẫn có ý nghĩa trực tiếp với thơ
ca hiện đại. Đó là vấn đề chủ yếu làm bộc lộ trực tiếp thái độ thẩm mĩ của nhà
thơ, xác lập vị trí của nhà thơ trong cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng thơ
tiến bộ với các trào lưu thơ ca thoát li, suy đồi. Những khuynh hướng thơ ca
tiến bộ bao giờ cũng tìm cảm hứng sáng tạo, xây dựng nội dung của sáng tác
từ trong thực tế đấu tranh của đời sống và nhằm mục đích cải tạo xã hội. Đó
là loại thơ ca mang tính chất khách quan, khác hẳn với xu hướng chủ quan
lấy cá nhân nhà thơ làm trung tâm và mục đích của sự sáng tạo, khác hẳn với
xu hướng duy tâm thần bí hướng cảm hứng vào một thế giới xa xôi thần bí.
Từ tiếng hát lời thơ hồn nhiên với chất liệu mộc mạc và nền thơ của thơ ca
dân gian mà giá trị hiện thực đã được xác nhận chắc chắn, đến những
khuynh hướng thơ ca của thời kì lịch sử sau này, bộ mặt xã hội thực sự đã in
đậm hình bóng trong thơ ca. Đó là hàng ngàn bài thơ của Đỗ Phủ phản ánh
sự nghèo khổ, bất công của một xã hội kéo dài trong binh lửa chiến tranh
phong kiến. Đó là Victo Huygô với phong cách sáng tạo đa dạng, biến hóa,
mang theo cả hình bóng của một thời kì lịch sử. Hainơ, Mickiêvich, Pêtôphi
phản ứng với thực tại trên tinh thần tiến công cách mạng. Maiakôpxki mở ra
một giai đoạn lịch sử mới mà những trang thơ “là ngọn cờ, là bom đạn” đang
còn mang theo khói lửa và tinh thần sục sôi của bão táp Cách mạng tháng
Mười. Nêruđa, Ghilen, những ngọn cờ của nền thơ hiện thực và cách mạng
của châu Mĩ La tinh. Nền thơ Tây Ban Nha và đất nước Tây Ban Nha qua
mấy thế hệ nhà thơ tiến bộ. Thơ Việt Nam hiện đại với ba mươi năm cách
mạng và thực tế vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ xâm
lược…
Thực tế phát triển của lịch sử thơ ca đã chứng minh một cách hùng hồn
là sức sống của một nền thơ chính là ở chỗ nói lên được khát vọng và bộ mặt
xã hội của một thời kì lịch sử nhất định. Thực tế đời sống, nói như Gơt, là
nguyên nhân, là điểm xuất phát và cũng là nội dung chủ yếu của thơ ca. Khi
tiếng nói thơ ca gắn bó với những yêu cầu của cuộc đấu tranh xã hội thì điều
đó không làm giảm đi ý nghĩa cao đẹp của thơ ca, ngược lại thơ ca lại càng
cao đẹp hơn trong sứ mệnh thiêng liêng là phục vụ cho mục đích chân chính
nhất của con người. Gắn bó với cuộc đấu tranh xã hội, nguồn cảm hứng thơ
ca trở thành vô tận vì chất thơ phong phú, đa dạng, nhất là chất thơ của đời
sống.
Khi nhà thơ nhận rõ vị trí của mình đối với cuộc sống một thành viên
luôn có sự mẫn cảm về sinh hoạt chính trị và năng lực tinh thần luôn được
mài sắc qua nghề nghiệp, thì họ không thể tự cho phép mình thoái thác trách
nhiệm đối với xã hội nhất là khi cuộc sống xã hội đang đặt ra những vấn đề
hết sức cấp bách. “Còn gì trầm trọng hơn là không làm gì cả, không làm gì cả
chống lại sự bất công xã hội, chống lại sự lầm than khổ cực, chống lại chiến
tranh”. Cho nên thơ trước hết là biểu hiện một thái độ, một hành động về
chính trị, về đạo đức. Trong xã hội mà sự tàn bạo đã nắm được trong tay
quyền lực, những bất công đã trở thành cái hằng ngày chà đạp lên tình
thương yêu và nhân cách của con người, thì nói như một tác giả, nhà thơ
phải “viết ra những câu thơ theo mô hình của những tiếng kêu”. Thơ ca là
tiếng kêu cứu, là tiếng nói phẫn nộ, là lời tố cáo, là hành động cấp bách.
Khẳng định nội dung và sứ mệnh xã hội của thơ cũng là đồng thời phải
đấu tranh không khoan nhượng với hàng loạt những quan điểm duy tâm thần
bí, thoát li đời sống xã hội của thơ từ Platông đến Hêgen, từ Becxông đến
Frơt, những quan điểm triết học trực tiếp chi phối thơ ca. Chịu ảnh hưởng
quan điểm của E. Kăng, Têôphin Gôchiê cho rằng “tất cả những cái có ích
đều xấu và chỉ thực sự đẹp những cái gì không dùng được vào một việc nào
cả”. Têôphin Gôchiê đặc biệt khen ngợi Những bông hoa của tội ác của
Bôđơle và suy tôn cái đẹp tuyệt đối trong thơ ca. Têôphin Gôchiê cho rằng
cuốn sách không phải là món cháo thịt và cuốn tiểu thuyết không phải là đôi
giày ống nhẵn nhụi. Không nên tìm ở đấy một ý nghĩa xã hội cụ thể. Flôbe
cũng phát biểu: “Một câu thơ không có nghĩa gì mà đẹp, còn hơn câu thơ
mang một ý nghĩa nào đó nhưng lại không đẹp bằng”. Tất nhiên quan niệm về
cái đẹp của Flôbe ở đây là thiên về hình thức, vì làm sao lại có thể có một câu
thơ đẹp mà vô nghĩa?
Trong thơ ca Nga đầu thế kỉ XX, các thứ chủ nghĩa vị lai, lập thể đã
chống đối lại khuynh hướng hiện thực tiến bộ trong thơ. Briuxôp nhấn mạnh
những huyễn tưởng chủ quan của nhà thơ:
Tôi sáng tạo trong tâm tư thầm kín
Thế giới của thiên nhiên lí tưởng
Cái gìi trước kia chỉ là cát bụi
Bây giờ là những cánh đồng,
sông nước và núi non.
Bannlông ca ngợi những nhà thơ lập thể bởi vì họ đoạn tuyệt với cuộc sống,
họ sáng tác với tất cả sự phóng túng và nhìn cuộc đời qua cánh cửa riêng
của mình. Cho đến những khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa thì quan điểm
đối với hiện thực lại càng sai lầm, cực đoan.
“Tiếp xúc với hiện thực, thơ tan biến đi như một bóng ma gặp ánh sáng
ban ngày”. “Hiện thực có mặt ở đâu là giết chết thơ ở đấy, nó vắng mặt ở đâu
là sinh ra nguồn thơ ở đấy. Thơ là cái lấp lỗ trống cho sự thiếu mặt của hiện
thực được mong muốn”.
Thơ ca cổ Trung Quốc, Việt Nam cũng có những khuynh hướng thoát li
hiện thực theo lối tập trung vào những đề tài nhàn tản thơ mộng, vào cái đẹp
thuần túy của thiên nhiên, thậm chí có khi cảm hứng thơ cackhông bắt vào
một đề tài cụ thể nào.
Hoa nhi hữu tử phi chân sắc
Thi đáo vô đề thị hóa công
(Hoa mà kết quả không phải là chân sắc
Thơ mà đến không có đầu đề là hóa công vậy).
Câu thơ cổ trên đã nói lên thực tế một quan niệm có tính chất thoát li trong
thơ. Và ngay cả ở những đề tài nhiều khi cụ thể nữa vẫn có những cách thoát
li riêng của nó. Hướng thơ ca vào những miền xa xôi của gió trăng mây nước
và phong cảnh thiên nhiên, thơ ca ít quan tâm phản ánh những bức tranh xã
hội, nhất là cuộc sống của quần chúng lao động. Nếu có chú ý chăng đến
công việc làm của những con người đang làm ra sự sống thì cũng trên
phương diện thưởng ngoạn, chiêm ngưỡng họ trong một bức tranh chung với
cảnh vật theo công thức “ngư, tiều, canh, mục”. Ý thức thẩm mĩ phong kiến
cũng đã hạn chế giá trị hiện thực của những sáng tác về đề tài thiên nhiên.
Ngay trong các loài cây, loài hoa, loài chim cũng có phân biệt về đẳng cấp;
loài hoa nào, cây nào hợp với người “quân tử” là đề tài phổ biến của những
sáng tác thi ca. Hình ảnh cây lúa, cây ngô dường như không được nhắc đến
trong thơ ca bác học. Nhiều khi ngâm vịnh một loài hoa, một loài cây quen
thuộc nào đấy, nhưng chưa hẳn là của quê hương, của dân tộc. Bông sen
trong Hồng Đức quốc âm thi tập không phải là bông sen ở đồng quê mà là
bông sen của Dương Quý Phi tắm gội.
Phong trào Thơ mới thời kì 1930 – 1945 đã bộc lộ rõ rệt tính chất thoát
li trong thơ từ quan niệm của Thế Lữ về cây đàn muôn điệu đến cái định
nghĩa nên thơ và cũng rất thoát li của Xuân Diệu về thơ. Với Nàng thơ, người
nghệ sĩ có cây đàn muôn điệu, cây bút muôn màu. Thế Lữ có nhắc đến “Cảnh
vĩ đại sóng nghiêng trời thác đổ. Cảnh cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy”...
nhưng thực chất quan niệm của người nghệ sĩ vẫn là: “Tôi chỉ là một khách
tình si. Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn vẻ”. Xuân Diệu gửi hồn thơ của mình
trong gió trong mây, trong thế giới bồng bềnh của nhưng ảo mộng. Thêm vào
nữa, quan niệm của nhóm nghệ thuật vị nghệ thuật kéo dài trong nhiều năm
với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, v.v… chủ yếu đã lấy thơ ca để
biện hộ cho quan điểm của mình. Nhưng thực chất quan điểm nghệ thuật vị
nghệ thuật đã bị đánh bại và phong trào thơ mới đã đi vào bế tắc tuyệt vọng.
Cách mạng tháng Tám mở ra một hướng lớn cho thơ ca đi vào phản
ánh đời sống cách mạng Nhưng trong buổi đầu cảm xúc và tư tưởng vẫn
chưa bắt được vào cái cụ thể và chân thực của cuộc sống. Hội nghị non
sông, Ngọn quốc kì… dào dạt cảm xúc cách mạng, nhưng vẫn nặng về
những hình ảnh ước lệ tượng trưng mà thiếu hẳn dấu vết cụ thể với những
hình ảnh trực tiếp của đời sống. Chưa nói đến những sáng tác thơ ca khác có
tư tưởng mới nhưng thực chất lại mang theo nhiều chất liệu, nhiều phương
tiện biểu hiện cũ.
Bước vào những năm đầu kháng chiến, thơ ca mới thật sự có tính chất
hiện thực và mang theo âm hưởng cụ thể của cuộc sống mới. Cá nước, Phá
đường của Tố Hữu, Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông, Nhớ của Hồng
Nguyên… là những bài thơ giàu hình ảnh và chi tiết hiện thực. Tình quân dân
cá nước được miêu tả qua một địa điểm gặp gỡ quen thuộc, cụ thể:
Gặp nhau lưng đèo Nhe
Bóng tre trùm mát rượi.
hình ảnh người Vệ quốc quân gần gũi, chân thực:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế
và xiết bao thắm thiết trong câu chuyện kể “Ta đánh giặc chạy re. Hai đứa
cười ha hả” rồi say sưa trong vài phút “Chia nhau điếu thuốc lào. Nào anh hút
tôi hút”. Qua bài thơ, người Vệ quốc quân không còn là một con người trừu
tượng, mà là một con người sinh động với những nét thân thuộc, gần gũi. Cái
hằng ngày của đời sống cách mạng đã bắt đầu thâm nhập vào thơ Tố Hữu.
Phá đường là một bài thơ tiêu biểu. Công việc phá đường để kháng chiến là
một công việc của toàn dân, của cả những chị phụ nữ nặng gánh gia đình.
Cái lớn lao của cuộc chiến đấu được biểu hiện không phải chỉ ở những chiến
công kì vĩ mà cả ở những cố gắng bình thường vượt lên những khó khăn của
cảnh ngộ riêng tư.
Nhà em phơi lúa chưa khô
Khoai chửa vào bồ sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chồng đi phá đường quan.
Lần đầu tiên âm hưởng lao động vào trong thơ với dáng dấp, âm thanh cụ
thể. Cái “lục cục, lào cào, đá lở, đất nhào” nghe như có một cái gì thô thiển,
nặng trịch, nhưng thật sự lại rất gần gũi, đó là dấu hiệu thực tế nói lên thơ đã
trở về gần với đời sống của quần chúng lao động. Nó rất khác với tiếng bay lơ
lửng của một tiếng tơ trúc đồng, tiếng sáo. Thiên thai dìu dặt, tiếng chim ríu rít
và cả tiếng lòng xa xôi nữa… những âm thanh rất mơ hồ, ước lệ được sử
dụng phổ biến trong phong trào thơ mới.
Hiện thực đời sống thâm nhập vào thơ rõ rệt nhất sau những chuyến đi
lâu dài vào thực tế cách mạng. Chuyến đi vào thực tế chiến đấu của vùng
Khu Năm và bước huyển biến quan trọng trong thơ Tế Hanh. Chuyến đi vào
vùng mỏ của Huy Cận trong những năm đầu hòa bình và những thành công
đáng kể của anh qua mảng thơ về chủ đề lao động. Những chuyến đi của
Xuân Diệu trên nhiều miền của đất nước, cái thấy cái nghe của anh đã tạo
được nhiều chất sống trực tiếp trong thơ. Hoàng Trung Thông có những
chùm thơ hay in rõ dấu vết của những chuyến đi. Thơ Xuân Hoàng trong
những năm chống Mĩ có một khởi sắc và bước phát triển mới hơn trên thực tế
chiến đấu rất quyết liệt của vùng lửa Quảng Bình. Thơ Nông Quốc Chấn, Bàn
Tài Đoàn luôn được nuôi dưỡng bằng những chất liệu sống riêng biệt của
vùng núi nên luôn có cái tươi tắn và sinh động riêng. Phạm Tiến Duật đã đem
được một tiếng nói mới vào trong thơ, rất khỏe, rất động chính là nhờ có sự
ăn chịu, lăn lộn nơi chiến trường trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Thơ ca cách mạng miền Nam, một tiếng nói thơ ca cất lên từ thực tế
chiến đấu, vừa dạt dào cảm xúc cách mạng, vừa phản ánh được âm hưởng
hết sức vang dội của hiện thực. Giang Nam, Thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh
Xuân, Hồng Chinh Hiền, Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương Ly… mỗi người
có thể có những phong cách sáng tạo riêng, nhưng tất cả đều có một cái
chung, đó là cuộc chiến đấu của dân tộc; nó là cái nện đã tạo nên cảm xúc và
là cái nguồn của những chất liệu chính để dựng nên bài thơ.
Đem tiếng nói thơ ca phục vụ cho cuộc đấu tranh cách mạng không
phải chỉ là thực hiện trách nhiệm công dân ở người nghệ sĩ, mà hơn thế nữa
đó là việc đem thơ ca trở về với ngọn nguồn vô tận của sức sáng tạo. Hiện
thực đấu tranh cách mạng đã tạo nên những cảm hứng lớn trong thơ từ ngót
ba mươi năm nay. Chất tư tưởng, chất thép của cách mạng đã mở đường,
tạo điều kiện cho hiện thực tràn vào trong thơ với một quy mô chưa từng
thấy, vừa có chiều sâu quy luật, vừa ồ ạt sôi nổi, rất đa dạng, phong phú, mà
vẫn giữ được cái tinh tế nên thơ. Cái kho vàng mười của cuộc sống ánh lên
cái đẹp rực rỡ trong thơ. Hình ảnh tiểu đội xe không kính trong thơ Phạm Tiến
Duật vừa sôi nổi yêu đời, vừa ung dung thanh thản. Những hình ảnh, những
chi tiết “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”, “Bụi phun tóc trắng như người già”,
rồi cái “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”, nét vui nhộn “Nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha” chỉ có thể tìm thấy và bắt được từ trong những cảnh ngộ cụ thể
của đời sống. Cô gái thanh niên xung phong tinh nghịch, yêu đời với những
nét vui vui “Em ở Thạch Kim sao dối anh nói là Thạch Nhọn” và cái quy cũ
của một cuộc sống tập thể “Khăn xanh khăn xanh phơi đầy lán sớm”, “Giấy
trắng nở tung trắng cả rừng chiều” không thể là sản phẩm của một sự tưởng
tượng chủ quan được.
Chỉ nói riêng về cách nói năng giàu hình ảnh và chất sống thực tế của
quần chúng cũng là những chất liệu rất đáng quý đối với sáng tạo thơ ca. Chế
Lan Viên đã từng tâm sự về bài học thực tế này: “Năm 1965 ở bến phà Vinh
một đồng chí công nhân nói: “Chiều nay ở hai đầu bến phà, thằng Giôn-xơn
cắt bom vuốt mặt không kịp” Câu ấy sau lại thành câu: “Bến phà Vinh bom cắt
ở hai đầu”, nhưng cái ý “vuốt mặt không kịp” thì tôi còn dành đó”.
“Năm 1963 trong một bữa ăn ở Khu gang thép Thái Nguyên, một đồng
chí già bảo tôi: “Ở đây mình ăn ngô, ăn ngô thiếu mà làm nên sự nghiệp anh
hùng”. Câu nói ấy sau thành câu thơ của tôi: “Năm miền Bắc ăn ngô đẻ ra
nhà máy thép”.”
Xuân Diệu cũng nói đến cái may mắn của người làm thơ nhiều khi bắt
gặp những câu thơ hay, trọn vẹn từ trong cửa miệng của quần chúng: “Lại
một lần nữa tôi về thăm một bến phà Thia trên sông Đà đường Hòa Bình đi
Phú Thọ; đây là lần về thăm thứ hai; lần về trước Thu đông, nước yên trong
vắt lần này mùa nước lũ lớn, chảy xiết đục ngầu. Anh thủy thủ thanh niên
mừng quá chào tôi một cách đột ngột: “Anh lên lần trước thì nước sông xanh,
anh lên lần này thì nấu cơm nước đỏ”. Thật ra tôi đã có cái tính nghề nghiệp
chộp lấy những câu thơ khi nó xuất sinh nên vừa mừng rỡ anh thủy thủ, tôi
vừa nhẩm ngay lấy hai câu thơ của anh, tôi chỉ cần bỏ hai chữ “thì” thêm vào
một chữ “uống”:
Anh lên lần trước uống nước sông xanh
Anh lên lần này nấu cơm nước đỏ.
Đây là hai câu thơ khá hơn cả gợi không khí hơn cả trong bài thơ Trên bến
phà Thia của tôi”. Xuân Diệu cũng viết nhiều câu thơ trong hoàn cảnh tương
tự qua bài Mã Pí Lèng và những câu thơ về thủy lợi chống hạn hán.
Thực tế trên góp phần chứng minh rằng thơ ca có mặt ở mọi nơi trong
cuộc sống. Ở đâu có sự sống thì ở đấy có chất liệu thi ca. Nhà thơ phải biết
phát hiện, thu thập và nâng cao qua sức sáng tạo của mình.
Đối với thơ, việc xác định giá trị hiện thực của tác phẩm phải dựa vào
nhiều nhân tố tổng hợp trong cấu tạo nội dung như cấu tứ, hệ thống cảm xúc
hình ảnh, v.v… Qua sáng tác, nhà thơ đề cập đến chủ đề gì, có gắn bó trực
tiếp với những yêu cầu của thời đại hay không, có góp phần giải đáp một vấn
đề nào đó đang đặt ra trong cuộc sống hay không? Tiếng thơ là tiếng nói bên
trong của tâm hồn, là sự thôi thúc thầm kín nhưng vô cùng mãnh liệt của nội
tâm. Nhưng đúng ra tiếng thơ chính là sự thôi thúc của yêu cầu thời đại. Phải
từ sự lắng nghe, quan sát, xúc động để bắt lấy tiếng nói sâu xa của cuộc
sống, để khơi dậy hoài bão và niềm tin tốt đẹp vào con người.
Trên phương hướng đó, đề tài không phải là mục đích nhưng là một
khởi điểm có tầm quan trọng đáng kể. Không phải là ngẫu nhiên mà chúng ta
bắt gặp trong thơ Tố Hữu hình ảnh một lão đày tớ già, em bé nhỏ bơ vơ,
người vú nuôi, người kĩ nữ – những con người khổ cực bị đày đọa trong xã
hội cũ. Nhà thơ đã tìm nguồn cảm hứng của mình từ trong những lớp người
nghèo khổ. Xuất phát điểm của mọi cấu tứ và cảm xúc thi ca là hiện thực
phong phú của cuộc đấu tranh xã hội. Trong khi đó nhiều nhà thơ mới chủ
yếu lấy cái tôi làm xuất phát điểm và dẫn cảm xúc thơ đến những nẻo đường
xa lạ. Tình yêu, sự sống, cái chết, niềm và nỗi buồn, tình cảm nhớ thương,
long mơ ước, v.v… những trạng thái tình cảm và những vấn đề có tính chất
phổ biến chỉ thực sự có ý nghĩa gợi cảm khi nó được khơi dậy từ trong lòng
cuộc sống, với một nội dung xã hội cụ thể. Không thể xem là thơ hiện thực
những vần thơ vốn là sản phẩm của những quan niệm duy tâm, thần bí, siêu
thoát. Không thể xem là thơ hiện thực những sáng tác viễn vông chạy bên
ngoài cuộc sống, ve vuốt tình cảm nông nhẹ và thị hiếu bệnh tật của con
người.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, khi thơ ca đã hướng vào phục vụ
những vấn đề trọng tâm của cuộc đấu tranh cách mạng, đề tài trong thơ
không còn chỉ là những chuyện riêng tư, vụn vặt, mà mang ý nghĩa xã hội
rộng lớn, mang tầm của thời đại. Đề tài đã góp phần nâng tầm vóc của bài
thơ, nâng cao tâm hồn của người viết. Nhiều nhà thơ đang bế tắc, loay hoay
trong vòng vây của cái tôi cá nhân chủ nghĩa với những chuyện yêu đương,
sầu muộn quẩn quanh, đã được lí tưởng cách mạng giải thoát và trở nên
phóng khoáng, bay bổng biết bao. Viết về những đề tài trung tâm của cuộc
đấu tranh cách mạng, các nhà thơ thực tế đã phải nâng mình lên rất nhiều để
xóa bỏ khoảng cách giữa cái tôi và cái ta, để tạo nên một sự hòa hợp giữa
nhà thơ và hiện thực đời sống.
Nếu chỉ quan tâm đến đề tài thì rõ ràng trong gần ba mươi năm qua
những sự kiện lịch sử lớn đã có mặt ở trong thơ từ Cách mạng tháng Tám
đến thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp, từ những thành quả
xây dựng chủ nghĩa xã hội đến công cuộc chống Mĩ, cứu nước. Hiện thực của
đời sống đã đi vào thơ qua những sự kiện lịch sử to lớn. Đồng thời một mặt
khác, thơ ca cũng đi vào miêu tả những mặt bình thường trong cuộc sống:
hình ảnh một ngày gặt mùa ở nông thôn hợp tác, một buổi tiễn con lên đường
tòng quân, một em nhỏ ra đời.
Những nét bình thường trong cuộc sống chính là những biểu hiện cụ
thể, đa dạng của một phong trào hoặc một sự kiện lịch sử rộng lớn. Những
cái bình thường đi vào trong thơ làm cho tiếng thơ thêm gần gũi, thêm sinh
động và mang nhiều dấu vết cụ thể của sự sống. Giá trị của một bài thơ tất
nhiên là không phụ thuộc vào quy mô của một đề tài, nhưng người viết bao
giờ cũng phải có ý thức từ những đề tài khác nhau của cuộc sống góp phần
nói lên được những vấn đề trung tâm của thời đại. Có ý thức ưu tiên và tập
trung miêu tả những đề tài lớn của cuộc đấu tranh cách mạng, nhưng cũng
không nên bỏ quên những đề tài bình thường trong cuộc sống. Một mặt đi
vào miêu tả cái bình thường, cái hằng ngày, thậm chí cái riêng tư nhưng cũng
phải qua đó làm nổi lên bóng dáng và cái nền của thời đại. Thơ ca khi đã đi
vào phản ánh những vấn đề đặt ra trong cuộc sống hiện thực, thường mang
nhiều yếu tố xác định cụ thể về đề tài, hoàn cảnh, tính cách nhân vật, cấu tứ,
hệ thống cảm xúc và hình ảnh. Ta bắt gặp gặp trong Việt Bắc của Tố Hữu cái
cụ thể và xác định của cảnh phá đường những năm đầu kháng chiến của núi
rừng Việt Bắc quê hương cách mạng, của chiến thắng Điện Biên, của khung
cảnh “Ta đi tới” trên chặng đường mới của cách mạng. Ta cũng bắt gặp
những tên đất, tên người, những nơi đã đi qua trên một chặng đường hành
quân, những nơi còn chưa tới và khát khao như một niềm mong đợi. Cái cụ
thể đã đi vào lịch sử:
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào
Cái cụ thể đang bừng lên sự sống:
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát.
Cái cụ thể trong hẹn ước với tương lai.
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.
Trong thơ cái cụ thể bao giờ cũng là một nhân tố trọng yếu làm cho hình
tượng thơ có màu sắc sinh động. Cái cụ thể không phải là những chuyện đây
đó vụn vặt, ít ý nghĩa, và cũng không phải là mục đích đi tới của sáng tác thơ
ca và tồn tại một cách tự than. Cái cụ thể trong thơ góp phần tạo nên máu thịt
của hình tượng thơ, làm cho tư tưởng của bài thơ có sức mạnh trực tiếp, cấu
tứ của bài thơ có vóc dáng và tượng hình cụ thể. Khi hình tượng thơ ngày
càng trở nên trừu tượng, khái niệm hóa không gây được sức truyền cảm và
nhận thức trực tiếp, thơ càng mất đi sức mạnh của mình. Thiếu đi cái cụ thể
và xác định của đời sống hiện thực, thơ dễ rơi vào xu hướng lãng mạn, thi vị
hóa, chơi vơi trong cảm xúc. Phong trào Thơ mới, một trào lưu thơ ca lãng
mạn thoát li đời sống hiện thực đã gạt bỏ đi trong thơ những yếu tố xác định
cụ thể của đời sống. Ta bắt gặp một tên đất, tên người cụ thể. Với Thế Lữ thì
đó là thế giới của Bồng Lai, của Thiên Thai, Lạc Bồ với những Kim đồng,
Ngọc nữ, nàng Ly Tao; với Xuân Diệu, ta bắt gặp xứ sở của Trăng, Mộng,
Thơ; Chế Lan Viên trở về với quá khứ điêu tàn của nước non Chăm xa xôi.
Vũ Hoàng Chương bị kích thích bởi thuốc phiện, rượu mạnh, đi mây về gió
trong thế giới tưởng tượng của những xứ Mộng, bến Hoang sơ, trời Quên…
Những xứ sở và con người ấy tưởng như xa lạ lắm nhưng thực ra chỉ là sản
phẩm bệnh hoạn của sự tưởng tượng chủ quan của những tâm hôn mê đắm,
lãng mạn.
Cái cụ thể và xác định trong thơ không có gì khác mà chính đó là cái cụ
thể và xác định của những chất liệu trực tiếp của đời sống hiện thực. Một
cảnh ngộ, một tâm trạng, một hình ảnh, một con người cụ thể v.v… tất cả đều
từ cuộc sống mà ra. Nhà thơ không thể khai sinh, cho dù có khả năng mầu
nhiệm đến đâu, mà chỉ làm nhiệm vụ tái tạo; trong thơ có những hình ảnh,
những chi tiết hiện thực mà người viết không dễ tưởng tượng mà tạo nên
được. Cái cảnh nắng như thiêu đốt đồng điền qua con mắt một em nhỏ:
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
(TRẦN ĐĂNG KHOA)
qua một câu thơ quá khứ:
Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè.
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
và trong câu thơ Xuân Diệu:
Con đĩa vắt qua mô đất chết
Và người ngửa mặt ngóng trời cao.
Những hình ảnh trên tuy giản dị, chân chất nhưng lại khó sáng tạo nếu không
có sự tiếp xúc trực tiếp với cuộc sống – vì chính đó là những chi tiết sống,
những hình ảnh chân thực của đời sống. Dấu vết của sự sống, chất bùn đất
của cuộc đời như còn làm cho câu thơ lấm láp nhưng lại cần thiết, lại chân
thực, gợi cảm biết bao.
Cái cụ thể trong câu thơ có khi bộc lộ ở tính xác định của một cách nói
chân thật mộc mạc với những nó chi tiết rành mạch, rõ rệt về thời gian, không
gian, trạng thái...
Tôi là Tài Lạc. Tôi đã chết rồi
Tôi chết ngày tháng chạp, chiều hai mươi
Ngực thủng năm lần xuyên đạn.
Gió rét lùa vào lỗ bắn.
(HUY CẬN)
Câu thơ thật cụ thể. Cái chết của anh Tài Lạc hiện hình lên trước mắt và nỗi
đau đớn tưởng như có thể cảm thấy một cách nhục thể.
Cái cụ thể có khi bộc lộ ở sự gợi tỏa nhiều mặt của câu thơ, nào hình
ảnh, nào màu sắc, nào hương vị, nào dáng dấp, nào âm thanh
Mê Công chảy.
Cây lao đá đổ
Lan hoang dứa mật, thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xóa.
Nguyên Hồng đã gợi tả được khung cảnh núi rừng hoang dại, giàu có, chưa
có bàn tay người khai phá. Một phong cảnh đẹp, một bức tranh động về một
thiên nhiên hùng vĩ, đất rừng phì nhiêu, cây cối tỏa hương với những hình
ảnh là độc đáo và sáng tạo. Cái cụ thể có khi nổi lên ở sự liên kết tựa vào
nhau của một vài hình ảnh đặc biệt.
Nghe gà gáy tìm đường lẩn tránh
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh
Thế giới ma quái hiện hình ấy không có gì kì quái đặc biệt của một cách
tưởng tượng chủ quan mà chỉ là hình bóng rất thực của những người nghèo
khổ hành khất, dắt díu, bồng bế nhau, lang thang trên những nẻo đường của
xã hội cũ.
II. TỪ CỤ THỂ ĐẾN KHÁI QUÁT HÓA VÀ TỪ SUY TƯỞNG KHÁI QUÁT ĐẾN CỤ THỂ
Thành phần cái xác định cụ thể trong thơ là rất quan trọng nhưng
không mang ý nghĩa đơn độc, tự thân mà luôn được liên kết, gắn bó với lí
tưởng chung, với nội dung khái quát và ý nghĩa xã hội của bài thơ. Khuynh
hướng tái hiện tự nhiên chủ nghĩa, lối khắc họa chạm trổ cần cù một đối
tượng cụ thể nào đó đều không thích hợp với tinh thần sáng tạo của thơ. Thơ
chống lại sự chụp ảnh máy móc, chống lại việc chạy theo cái cụ thể mà không
nâng cho hình tượng thơ lên khái quát bay bổng. Từ cái cụ thể đến cái khái
quát và từ cái khái quát đến cái cụ thể là hai hình thức phát triển phổ biến của
hình tượng thơ là hai quá trình vận động của tư duy vừa mang tính chất quy
nạp lại vừa mang tính chất diễn dịch.
Khuynh hướng phổ biến trong thơ là thường đi từ cái cụ thể đến khái
quát. Gơt cũng nhiều lần nhấn mạnh đến cái riêng biệt, cái cụ thể như xuất
phát điểm trực tiếp của sự sáng tạo trong thơ. “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái
riêng biệt, và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính, nhà thơ sẽ biểu hiện cái
khái quát”.
Ngay với những cá tính tiêu biểu, những đối tượng phong phú nhất nhà
thơ vẫn phải từ cái cụ thể tìm đến những liên tưởng khái quát, gắn cái riêng
vào nguồn mạch chung của lí tưởng và cảm xúc. Ta bắt gặp trong bài thơ
Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân một con người chiến sĩ trên một chiến
trường cụ thể. Anh chiến sĩ Giải phóng quân chiến đấu và hi sinh dũng cảm
trên sân bay Tân Sơn Nhất, anh chết từ trong tư thế tấn công kẻ thù. Hình
tượng thơ sinh động có tính chất khắc họa, tạo hình:
Anh ngã xuống đường băng em Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng
trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Những nét miêu tả độc đáo đã gây xúc động mạnh mẽ ở người đọc Nhưng
tác giả không chỉ dừng lại ở sự miêu tả cái chết dũng cảm của người chiến sĩ.
Anh khai triển vào chiều sâu của hình tượng thơ và nâng hình tượng thơ lên
mức khái quát, điển hình:
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ
Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.
Từ cái chết trong tư thế đứng tiến công liên tưởng đến Dáng đứng Việt Nam,
hình tượng thơ đã từ cái cụ thể khai triển, hướng về phía khái quát. Cái cụ
thể chính là mảnh đất làm nền, là cái bệ phóng để tứ thơ bay lên đi về phía
khái quát. Nếu cái nền, cái bệ phóng thiếu vững chắc thì dễ rơi vào những
khái quát non và khiên cưỡng. Nhưng nếu chỉ quẩn quanh trên mảnh đất của
cái cụ thể thì hình tượng thơ dễ bằng phẳng, đơn điệu. Tố Hữu đã từ hình
ảnh một chị Trần Thị Lý, người con gái dũng cảm kiên cường khái quát lên
hình ảnh người con gái Việt Nam, từ cái chết của Nguyễn Văn Trỗi, người
anh hùng, người thợ, để suy nghĩ về chân lí và cái bất tử. Cho đến tiếng chổi
tre, một âm thanh bình thường hơn trong cuộc sống hằng ngày, cũng được
nhà thơ lien tưởng đến ý thức xây dựng cuộc sống chung như một lẽ sống
của những con người thực sự đã làm chủ vận mệnh mình. Từ tiếng chổi tre
đến hình ảnh chị lao công như sắt như đồng, đến những bó hoa Ngọc Hà
thơm ngát đường ta, đến lời nhắn nhủ “Giữ sạch lề - Đẹp lối - Em nghe!”, hình
tượng thơ đã mở rộng hơn, phát triển và giàu lên bao ý nghĩ. Sẽ tự hạn chế
biết bao nếu chỉ dừng lại ở cái cụ thể lấy nó làm mục đích của sự miêu tả. Ta
cũng bắt gặp trong bài thơ Anh chủ nhiệm của Hoàng Trung Thông cái cụ thể
của những công việc, những khó khăn của người chủ nhiệm hợp tác xã.
Mạch thơ khỏe, nhịp ngắt sát với yêu cầu của nội dung. Những hình ảnh
những chi tiết rất chân thực kế tiếp nhau như những khó khăn chồng chất lên
nhau, và những khó khăn lại lần lượt được giải quyết. Sự việc bồi đắp và trôi
đi cho hình tượng nhân vật đứng lại, lớn lên:
Có mùa mạ cháy đồng khô cạn
Mười bậc nước leo lên ruộng hạn
Có mùa lúa chín lụt tràn qua
Lại phải nghiêng đồng hắt nước ra
Người nhiều, ruộng ít, bò trâu ít.
Chạy ngược, chạy xuôi, lo rối rít
Ngoài ba mươi tuổi máu đang sôi
Không chịu khoanh tay đứng ngó trời
Xoay mùa chuyển vụ, tăng năng suất
Thiếu đất, lên rừng, tay vỡ đất
Còn nhiều nếp cũ thói riêng tây
Trăm miệng, trăm người, trăm cái gay
Hõm mắt thâu đêm lo việc xã
Gió rét đường trơn, chân bấm đá.
Hết làng, đến ruộng, thoi đi về
Miệng nói, tay làm, tai lắng nghe…
Qua hình ảnh một người lại là hình ảnh, công việc của một loại người. Trong
cuộc sống hằng này, do sự tiếp xúc, tham gia vào thực tế đấu tranh xã hội,
cái cụ thể không ngừng được tích lũy trong tâm trí người viết qua từng hình
ảnh, từng sự việc, từng cảm nghĩ khác nhau. Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng là quá trình phát triển phổ biến của tư duy trong đó có tư duy
thi ca. Chỗ khác nhau cơ bản là những chất liệu sáng tạo thơ ca luôn giữ
vững tính chất cảm tính cụ thể và trực quan sinh động. Nhà thơ vận dụng
những suy tưởng khái quát nhưng không bao giờ được tách rời cái cụ thể
cảm tính. Và có thể quá trình sáng tác lấy xuất phát điểm từ những suy tưởng
khái quát nhưng rồi cái cụ thể phải được bồi đắp cho những suy tưởng khái
quát để những tứ thơ chung có máu thịt. Quá trình đi từ khái quát đến cụ thể
là một hướng sáng tạo quen thuộc trong thơ. Ở các loại hình văn học khác,
xu hướng này ít được chấp nhận hơn vì dễ rơi vào lối gò ép và thuyết lí chủ
quan theo một quan niệm và định kiến có sẵn. Với thơ, vấn đề có thuận lợi
hơn. Nhà thơ có thể xuất phát từ một ý tưởng chung, một suy nghĩ khái quát
và tìm về với những hình ảnh và cảm xúc cụ thể làm điểm tựa cho hình tượng
thơ hiện hình lên. Điều quan trọng là những suy tưởng đó không phải là
những suy tưởng chủ quan tư biện mà được khái quát lên từ trong cuộc sống
và nhưng chất liệu cụ thể sẽ bồi đắp cho hình tượng thơ có vóc dáng và sinh
lực cụ thể. Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Đình Thi trong bài thơ Đất nước
vừa mang tính chất khái quát của cảm hứng lịch sử về truyền thống của dân
tộc nhưng chủ yếu được nhấn mạnh và khai triển trong những ngày đất nước
đang chiến đấu. Cảm hứng chung về đất nước, hình tượng Tổ quốc Việt Nam
hiện lên sinh động qua những chất liệu và hình ảnh cụ thể. Từ một thiên nhiên
tươi đẹp:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
cho đến những hình ảnh đau thương quật khởi của những năm tháng chiến
đấu với kẻ thù tàn bạo:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Cảm hứng về đất nước được mở rộng, liên tưởng với nhiều hình ảnh trong
quá khứ, trong hiện tại và vụt đứng dậy, rắn rỏi, ngời sáng với kết thúc: “Nước
Việt Nam từ máu lửa. Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”… Thơ ca những năm
chống Mĩ, cứu nước xuất hiện nhiều bài thơ dưới dạng suy tưởng tổng hợp.
Những cảm hứng làm nền cho bài thơ thường là cảm hứng lớn về dân tộc, về
thời đại, về những sự kiện lịch sử trọng đại và những năm tháng có ý nghĩa
nhất. Cảm hứng chủ đạo đó lồng lộng trong bài thơ lúc thì với những suy
tưởng sâu sắc có tầm cao về triết học, lúc thì chặt chẽ, đanh thép trong nhận
thức chính luận, lúc thì cuồn cuộn hoặc lắng sâu trong dòng cảm xúc. Tố Hữu
và Chế Lan Viên là những tác giả viết nhiều và thành công về loại thơ này. Tố
Hữu với những bài thơ xuân mà ở mỗi bài dường như thâu góp lại, vừa bao
quát, vừa cụ thể những nét lớn của đời sống dân tộc cũng như cái tơ non của
sự thay da đổi thịt của đất nước mỗi năm qua. Bài ca mùa xuân 1961 là một
thành công nổi bật của Tố Hữu và cũng là một trong những bài thơ thành
công về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những suy tưởng khái quát và cảm hứng
chung của bài thơ nổi lên nhờ ở sự bồi đắp của những cái cụ thể. Bài thơ còn
gì là thơ nếu bị tước mất đi cái cụ thể! Mùa xuân chính là ở cái cành xuân xao
động:
Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh
và ở niềm vui quyến luyến trở dậy trong lòng nhà thơ:
Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy
Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy
Như buổi đầu hò hẹn say mê
Anh nắm tay em sôi nổi vụng về…
Cảm hứng xây dựng chủ nghĩa xã hội thật cụ thể biết bao với những hình ảnh
bình dị, gần gũi:
Đời vui đó tiếng ca đoàn kết
Từ nắm tay nhau xây lại đời ta
Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà
Chuồng lợn, bầy gà, đàn trâu, ao cá
Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẫu sắt, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ.
Cảm xúc với miền Nam cũng thêm tha thiết nhớ thương với tiếng con tàu dọc
đường Nam Bộ, tiếng con tim đang xúc động, và rạo rực từ nơi xa tiếng mõ,
tiếng súng, tiếng hò reo náo động…
Chế Lan Viên trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? đã làm
nổi lên được những suy nghĩ về tầm vóc của thời đại với cảm hứng lịch sử
sâu sắc. Chưa bao giờ đất nước ta, dân tộc ta lại rạng rỡ tươi đẹp như hôm
nay, kể cả những vẻ vang nhất của lịch sử trong quá khứ và những hứa hẹn
của cuộc đời sung sướng đầy đủ nhất của mai sau. Những suy tưởng khái
quát trên lấy điểm tựa cảm hứng ở những sự kiện, những cảm xúc và hình
ảnh cụ thể trong thời đại:
Buổi đất nước Hùng Vương có Đảng
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ.
Đó là những năm tháng chiến đấu và chiến thắng:
… Dưới chân ta đến đầu hàng Đờ Cát
Rồng năm móng vua quan thành bụi đất.
và:
… Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.
Đấy cũng là những năm tháng mà đất nước đang dựng xây với mẻ
gang thép đầu tiên, với những cánh đồng hợp tác lộng hương thơm, với “Cây
xanh ngát đất bạc màu Vĩnh Phúc”, với “Ong bay nhà tỉnh ủy Hưng Yên, Mật
đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em”.
Những hình ảnh và cảm xúc cụ thể đã tạo nên một sự hài hòa với ý
tưởng khái quát làm cho hình tượng thơ cân đối, nhiều màu sắc, không rơi
vào xu hướng duy lí và tư biện.
III. MIÊU TẢ VÀ BIỂU HIỆN TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNHBàn đến vấn đề phản ánh hiện thực trong thơ không thể không đề cập
đến mối quan hệ giữa biểu hiện và miêu tả, hai phương thức biểu hiện, hai
thành phần vô cùng quan trọng trong thơ. Bản thân phương thức trữ tình là
biểu hiện, là sự bộc lộ cảm nghĩ của nhà thơ trước những hiện tượng của đời
sống. Hình tượng thơ trữ tình vốn được xem là hình tượng cảm nghĩ, do đó
chất liệu chính để xây dựng nên bài thơ là chất liệu của tâm hồn. Đặc điểm ấy
của thơ không chấp nhận sự kể lể ở trong thơ và thơ trữ tình cũng không có
khả năng bảo lĩnh thành phần tự sự trong thơ với một dung lượng vượt quá
mức độ. Một mặt khác cũng dễ có xu hướng loại trừ toàn bộ những chất liệu
trực tiếp của đời sống trong thơ, và bài thơ thuần túy rơi vào tâm tình chủ
quan. Nhiều bài thơ thuộc khuynh hướng này dường như một đám mây xốp
bồng bềnh trôi nổi. Nó không có điểm xuất phát, cũng không hướng tới một
đích cụ thể nào. Tuy có dạng hình nhưng lại dễ tan biến do cái chất liệu quá
nhẹ, quá mơ hồ của nó. Thật cũng giống như tâm trạng của một buổi chiều
buôn đầy thương nhớ của thơ lãng mạn:
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng thương sao cả hiu hiu sẽ buồn.
(XUÂN DIỆU – Chiều)
Thơ ca lãng mạn đã lùi sâu vào quá khứ như một tiếng thở dài não
nuột. Nó khác rất xa ngay từ buổi đầu với tiếng nói thơ ca cách mạng. Là ca
khúc chiến đấu là tiếng nói đằm thắm tin yêu những tâm hồn lành mạnh đang
lớn lên với cuộc sống mới thơ ca cách mạng là vũ khí chiến đấu, là nguồn
sức mạnh tinh thần cổ vũ động viên quần chúng cách mạng.
Chế độ mới xoá bỏ sự đối lập giữa cái nhân và xã hội, giữa nhà thơ và
thực tại, tạo điều kiện để tiếng thơ có được một âm hưởng hài hòa giữa cái
riêng và chung, giữa phần tâm tình chủ quan và hiện thực khách quan của
đời sống. Đó là điều kiện có ý nghĩa quyết đinh để cảm xúc trong thơ mang
tính chất hiện thực. Giá trị hiện thực của một bài thơ chủ yếu là do tính chất
hiện thực của hệ thống cảm xúc và tâm trạng quy định. Chúng ta có thể xác
định rằng một cảm xúc và tâm trạng hiện thực trước hết phải gắn liền với một
đối tượng cụ thể, một mục đích xã hội rõ rệt. Và quan trọng hơn, cảm xúc và
tâm trạng mang ý nghĩa khái quát, tiêu biểu cho tâm trạng chung của nhiều
người mà vẫn giữ sắc thái riêng cụ thể. Nói chung, những cảm xúc và tâm
trạng trong thơ ca từ sau Cách mạng đều có tính chất hiện thực: Trong thời kì
kháng chiến, chúng ta nhớ tới Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông, Nhớ
của Hồng Nguyên, Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ, Thăm lúa của
Trần Hữu Thung, Từ đêm 19 của Khương Hữu Dụng, Đất nước của Nguyễn
Đình Thi... đó đều là những bài thơ có giá trị hiện thực. Tiêu biểu hơn cả là
tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Giá trị hiện thực chủ yếu của Việt Bắc là ở chỗ
tác giả đã nói lên được những cảm xúc và tâm trạng điển hình của thời đại.
Chủ nghĩa yêu nước anh hùng của nhân dân ta thể hiện sâu sắc qua tấm lòng
và hành động của những người dân kháng chiến, từ chị phụ nữ trong Phá
đường, bà mẹ kháng chiến, em Lượm liên lạc, người cán bộ công tác, anh
chiến sĩ pháo binh, v.v… đến những tình cảm lớn của nhân dân như tình
quân dân cá nước, lòng kính yêu lãnh tụ, tình cảm với bạn bè đồng chí bốn
phương. Nhóm Nhân văn– Giai phẩm trước kia với dụng ý chính trị xấu đã hạ
thấp và phủ nhận giá trị hiện thực của tập thơ Việt Bắc qua khâu phủ nhận giá
trị hiện thực của tập thơ. Luận điểm của họ cho rằng Việt Bắc thiếu chất sống
và hình ảnh cụ thể mà nặng về tâm tình và cảm xúc, nặng về nhớ thuơng.
Trong Việt Bắc không khỏi có những bài mà sự phát triển của cảm xúc còn
thiếu điểm tựa ở những hình ảnh và chi tiết sống điển hình, nhưng nhìn chung
cảm xúc và tâm trạng trong Việt Bắc đều phù hợp và được khai triển từ
những chất liệu hiện thực khá điển hình. Không thể đòi hỏi ở trong thơ sự có
mặt của những sự kiện, những chất liệu hiện thực phong phú đến bề bộn,
hoặc mang tính chất quy mô của tiểu thuyết. Cũng không thể đòi hỏi ở thơ
tính xác định chặt chẽ về không gian, thời gian, về hoàn cảnh, tính cách. Làm
sao có thể có được trong thơ trữ tình nỗi lênh đênh của một đời Kiều chìm
nổi, hoặc một tính cách gồ ghề khắc họa kiểu Grăngđê, Vôtơranh, những
nhân vật của tiểu thuyết Banzăc!
Ngay đối với những nhà thơ sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực và loại
trừ tất cả mọi biện pháp biểu hiện tượng trưng, ướt lệ, cách điệu hóa trong
thơ thì tác phẩm thơ ca vẫn khác xa một cuốn tiểu thuyết hiện thực không
phải chỉ ở dung lượng mà còn ở đặc trưng phản ánh hiện thực. Ý kiến của
Ăngghen về chủ nghĩa hiện thực tuy bao quát cho các loại hình nghệ thuật về
nguyên tắc khái quát hóa hiện thực chủ nghĩa, về mối liên hệ biện chứng giữa
tính cách và hoàn cảnh, giữa cái chung và cái riêng, về việc sử dụng những
chi tiết chân thực và chính xác, song chủ yếu là phù hợp với các loại văn tự
sự và kịch mà ở đấy tính xác định về hoàn cảnh và tính cách khá rõ rệt. Thơ
trữ tình với những đặc điểm riêng trong việc phản ánh hiện thực lại cần áp
dụng ý kiến trên một cách linh hoạt và nhuận nhị hơn. Thực ra trong thơ chủ
yếu là những tâm trạng và hình ảnh điển hình trong những hoàn cảnh điển
hình. Và cũng không thể đòi hỏi tính quy mô của môi trường những đường
dây xã hội rõ rệt, những cứ điểm xác định về không gian, thời gian, sự kiện và
tính cách như trong hoàn cảnh của tác phẩm kịch và tiểu thuyết.
Xem nhẹ vai trò của biểu hiện, thơ dễ rơi vào khuynh hướng miêu tả cái
bên ngoài, mà nhược điểm nhất là chạy theo việc miêu tả cảnh vật. Cảnh vật
trong thơ là rất cần thiết vừa góp phần bộc lộ nội tâm, trực tiếp tạo nên không
khí và hoàn cảnh của bài thơ. Nhưng lấy việc miêu tả cảnh vật làm mục đích
tự thân, dồn sức vào việc tìm tòi màu sắc đường nét và phần tươi đẹp của
cảnh vật thì tuy bài thơ có nhất thời gây được sức rung cảm, lôi cuốn, nhưng
không để lại trong lòng người đọc những xúc động và suy nghĩ sâu sắc. Có
những cây bút rất tinh tế và mẫn cảm với cái đẹp của thiên nhiên, cảnh vật,
nhưng lại tỏ ra non yếu nghèo nàn khi đi vào biểu hiện nội tâm. Những hình
ảnh ở trong thơ đường chỉ thật sự có sức mạnh khi bản thân hình ảnh hiện
thực đó có năng lực gây cảm xúc, hoặc là điểm tựa để bộc lộ cảm xúc và suy
nghĩ. Bất kì một hình ảnh nào cũng có khả năng đáp ứng nhu cầu cảm thụ về
thị giác ở một thức độ nào đó. Ta đọc những câu thơ của Hoàng Trung Thông
viết về Cửa Tùng:
Sóng biết kêu mà sao chẳng nói
Gió biết bay mà không thể bay cùng
Hai bờ cát trắng cây như khói
Biển rộng buồm giăng nơi mung lung.
Trời hôm nay vừa mưa vừa nắng
Mây hôm nay vừa trắng vừa đen
Nước hôm nay vừa trong vừa đục
Biển hôm nay vừa động vừa yên.
Những hình ảnh trong đoạn thơ trên có sức gợi về mặt thị giác nhưng không
phải là hình tượng của thị giác mà là hình tượng của cảm xúc, trực tiếp gây
cảm xúc. Tính chất nên họa của thơ là một nhân tố hỗ trợ chứ không thể
khuynh loát và trở thành nhân tố chủ yếu. Và hơn nữa, hình tượng thị giác
trong thơ cũng khác đi nhiều với hình tượng thị giác trong hội họa. Gơt đã có
lí khi ông tỏ ra bực mình vì một số họa sĩ đã chọn bài thơ trữ tình Người đánh
cá của ông làm đề tài vẽ tranh. Theo Gơt, hình ảnh và tính chất của nước ở
trong bài thơ của ông không chịu được sự thể hiện bằng màu sắc của hội
họa.
Khuynh hướng chạy theo hình tượng thị giác hay thính giác ở trong thơ
đều và hạn chế, tuy trong thơ co nhiều màu sắc và âm thanh hấp dẫn; thơ có
khả năng đáp ứng nhu cầu cảm thụ những như trên ở những nhân trên ở một
mức độ nào đó.
Chạy theo hình tượng thính giác, nhà thơ sẽ chú trọng nhiều đến việc
tổ chức âm thanh nhịp điệu của câu thơ và dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức.
Chạy theo hình tượng thị giác, câu thơ có thể mang vẻ đẹp bên ngoài mà
thiếu đi phần sâu kín thiết tha bên trong của cảm xúc.
Nhấn mạnh vai trò của biểu hiện, của nội dung cảm nghĩ trong thơ là
đúng, nhưng cần đánh xu hướng để cho bài thơ chỉ còn lại thuần túy cảm
xúc, mất hết dấu vết cụ thể của đời sống. Nói như Xuân Diệu:
Không nền sao dựng lầu thơ
Không thân thể chỉ bâng quơ cái hồn.
Mất đi những dấu vết cụ thể của những chất liệu trực tiếp của đời sống, cảm
xúc tự mình nó cũng rơi vào chung chung và những suy nghĩ tự mình nó cũng
phát triển theo lối diễn dịch có tính chất tư biện. Bài thơ không thể nào thật
hay, thật gợi cảm nếu được viết ra với thuần túy chất liệu của tấm hồn. Có cái
thấy cái nghe thì cái cảm mới sâu sắc. Thậm chí có bài thơ mà người viết
muốn lùi lại một chút về phía sau để cho những hình ảnh của cuộc sống tự nó
nói lên thắm thiết.
Trong những năm kháng chiến, Huy Cận nói về mưa với sự đổi mới về
thế giới quan: “Mưa xưa rời rạc tần ngần. Mưa nay ríu rít nhân quần tiếng
vang”. Thật khác đi rất xa với những năm tháng sầu muộn trước Cách mạng
với tiếng mưa ngậm ngùi, đơn lẻ: “Mưa rơi dìu dịu, rơi rơi. Như muôn giọt lệ
nối lời vu vơ”. Nhưng đến bài thơ Mưa xuân trên biển thì dường như niềm vui
lại thuyết phục hơn, kín đáo mà âm vang sâu sắc hơn:
Mưa xuân trên biển thuyền yên chỗ
Tôm cá chắc đầy phiên chợ mai
Sắm tết thuyền về dăm khóm đỗ
Đảo xa thâm thẫm vệt mưa dài.
Thuyền đậu thuyền đi hạ kín mui
Lúc thưa thưa biển ấm chân trời
Chiếc tàu chở đá về bến cảng
Khói lẫn màu mây tướng đảo khơi.
Em bé thuyền ai ra dồn nước.
Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm
Đất bằng không có dòng xuôi ngược
Cơm giữa ngày mùa gạo trắng thơm.
Toàn bộ bài thơ là một bức tranh trải rộng có cảnh vật và con người, có phần
tĩnh, tương đối tĩnh của cảnh vật và phần hoạt động của con người. Cuộc
sống ở đây không có gì thật ồn ào náo nhiệt, cái náo nhiệt nhất thời mà, tất cả
đã đi vào nề nếp của đời sống hằng ngày. Trong vẻ yên lặng bên ngoài của
một chiều mưa biển là một cái gì rất ấm áp, nọ đủ, yên vui tự bên trong của
những khóm thuyền chài lưới đầy tôm cá chờ đến phiên chợ mai, và của
những cảnh sum họp gia đình. Và cũng kín đáo như niềm vui và hạnh phúc.
của con người, tấm lòng nhà thơ cũng trải rộng, chia vui, vỗ về tự bên trong
làm cho hình tượng thơ càng thêm ấm áp, gợi cảm.
Bức tranh bao quát hình tượng toàn bài thơ được liên kết lại từ nhiều
hình ảnh nhỏ. Mỗi hình ảnh đều góp phần khẳng định niềm vui của cuộc sống
mới như một chân lí đã ăn sâu, tỏa rộng và trở thành cái hằng ngày trong sinh
hoạt quen thuộc của mọi người.
Mới thoạt đọc ta cảm thấy như Huy Cận đang trên cái nét thoáng xa
của đường chân trời và của màn mưa nhẹ, trên cái mặt bằng của làn nước
biển khơi, anh sử dụng những nét vẽ chấm phá. Cận cảnh là những khóm
thuyền nằm im bến, một em nhỏ nghịch nước và xa hơn là làn khói của con
tàu chở đá và xa nữa là đảo khơi… Nhưng bài thơ không rơi vào tả cảnh bên
ngoài.
Vấn đề miêu tả những bức tranh về đời sống thông qua những hình
ảnh, chi tiết, sự kiện chân thực và điển hình có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong những bài thơ hiện thực. Đó không phải là sự. minh họa cho cảm
xúc hoặc thuần túy là phương tiện biểu hiện cảm nghĩ của nhà thơ. Xây dựng
hình ảnh chân thực và điển hình chính là sự tái hiện hiện thực theo quy luật
điển hình hóa hiện thực chủ nghĩa, là sự miêu tả hiện thực như nó vốn có và
đang tồn tại, là sự chọn lọc được những nét bản chất của một tình huống, một
hoàn cảnh xã hội theo một lí tưởng thẩm mĩ tiến bộ. Trong thơ không có
những bức tranh rộng rãi và quy mô về cuộc sống, cũng như không có sự
phát triển của tính cách qua một quá trình, nên hình ảnh và chi tiết chân thực
là nhân tố trực tiếp nhất tạo cho bài thơ mang tính chất hiện thực. Hình ảnh
và chi tiết hiện thực là những nhân tố xác định dễ gây ấn tượng cụ thể, dễ tạo
nên tính khắc họa trực tiếp. Trong cuốn Huygô – nhà thơ hiện thực Aragông
có viện dẫn bài thơ Ký niệm đêm mùng 4 nói đến một em bé bị quân
Napôlêông bắn chết trong tuổi đang vui chơi học hành:
Trong túi em có một con quay bằng gỗ
Hai tay gơ như kiếm chỗ tựa nhờ.
Aragông cho rằng cái chết của em bé với một con quay bằng gỗ trong túi là
một chi tiết hiện thực tiêu biểu.
Trong lịch sử phát triển của thơ ca, những nhà thơ và bài thơ được xưa
là hiện thực thường bao giờ cũng mang sứ mệnh và nội dung xã hội rõ rệt
nhằm góp phần đấu tranh và cải tạo hiện thực đời sống. Nội dung các sáng
tác mang những cảm xúc hiện thực và đặc biệt là những hình ảnh và chi tiết
hiện thực. Đỗ Phủ, nhà thơ hiện thực nổi tiếng của Trung Quốc, đã phản ánh
được nhiều bức tranh chân thực của một thời đại với tất cả sắc thái cụ thể và
sinh động. Đó là cảnh một đất nước trong chiến tranh:
Xe rầm rập
Ngựa hí vang
Người đi, lưng đeo cung tên
Cha mẹ, vợ con, chạy theo tiễn
Bụi mù che lấp cầu Hàm Dương
Níu áo, giậm chân, cản đường đi, cùng nhau khóc…
Tiếng khóc vọng lên tận mây xanh
và cảnh một con người bị hãm trong vận hạn.
Ngườ khách, người khách tên là Tử Mĩ
Đần bạc tóc rối, rủ quá tai
Quanh năm theo người nuôi khỉ đi nhặt hạt dẻ.
Trời rét chiều tà ở trong hang núi
Miền xuôi thư tín bặt, khôn tính đường về
Chân tay bị cóng buốt răn reo, thịt da như chết
Than ôi! hát lên một bài chứ! Tiếng hát bi ai
Gió buồn, vì ta từ trên trời thổi xuống.
Thơ Đỗ Phủ có nhiều hình ảnh và chi tiết chân thực mang sức sống trực tiếp,
vừa có tính chất khắc họa cụ thể đối tượng như nó vốn có trong cuộc sống,
lại vừa mang ý nghĩa khái quát và điển hình cho hình bóng chung của một
thời đại lịch sử. Trong thơ ca Việt Nam thế kỉ XVIII, thời kì đấu tranh xã hội
quyết liệt cũng nổi lên nhiều nhà thơ hiện thực như Nguyễn Du, Phạm
Nguyễn Du.
Trong văn học cổ Việt Nam, Nguyễn Du là một phong cách thơ hiện
thực xuất sắc. Ý thức phẫn nộ xót xa trước những bất công ngang trái của xã
hội và lòng cảm thương sâu sắc nhưng cảnh đời nghèo khổ đã tạo nên trong
thơ Nguyễn Du nhiều bức tranh chân thực: “Những điều trông thấy thà đau
đớn long”. Cái cảm hứng thi ca chủ đạo ấy bộc lộ sâu sắc trong Kiều, trong
Văn Chiêu hồn cũng như trong toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Những
điều tai nghe mắt thấy trong những năm gió bụi, rồi những năm xa đất nước,
ở một xứ sở mây trời xa lạ nhưng lại có dịp suy nghĩ, so sánh để hiểu thêm
đất nước mình. Sở kiến hành, tên riêng của một bài thơ hiện thực xuất sắc
của Nguyễn Du cũng là nét chủ đạo trong phong cách thơ hiện thực của
Nguyễn Du. Nhưng không phải chỉ là những điều trông thấy đây đó mà bên
trong là một tấm lòng. Sự kết hợp sâu sắc ấy đã tạo nên ở Nguyễn Du nhiều
bài thơ, nhiều câu thơ hiện thực với ý nghĩa sâu sắc nhất của khái niệm này.
Cái cảnh thương tâm của một mẹ nghèo khổ dắt ba con đi ăn xin, “nước mắt
thấm áo đầm đìa”, trong giỏ đựng “rau cỏ lẫn tấm cám”. Hôm nay còn không
đủ no, ngày mai ra sao? “Cảnh chết lăn nơi ngòi rãnh trông thấy trước rồi”,
“Lòng đau xót vô cùng. Trông lên, mặt trời vàng úa”. Bức tranh hiện thực ấy
như càng tăng thêm ý nghĩa tố cáo khi được đặt bên cạnh, tương phản với
một cảnh đời sung sướng khác: bữa ăn nào là gân hươu, vây cá, thịt lợn, thịt
dê. “Các quan lớn không chạm đũa. Người tùy tùng chỉ nếm qua. Chó hàng
xóm cũng chán thức ngon”. Bên ngoài là những cảnh đời chân thực, bên
trong câu thơ như nấc lên trong nghẹn ngào:
Ai vẽ bức tranh này
Đem dâng lên nhà vua!
Bài ca người gảy đàn đất Long Thành là tấm lòng trắc ẩn cảm thương
của nhà thơ về một con người, một cuộc đời tài hoa của người ca kĩ bị dập
vùi với thời gian, xác xơ trong tủi cực. Năm xưa, trong đêm dạ yến, đàn sáo
du dương “Ánh hồng ánh lên khuôn mặt hoa đào. Má đỏ vì rượu, vẻ ngây thơ,
rất dễ thương”, và hôm nay “Nét mặt võ vàng, thần sắc khô khan, thân hình
hơi bé nhỏ”, ”Đôi mày phờ phạc không điểm tô”. Cái bi kịch của một cuộc đời
cũng như sự tiêu vong của một cơ nghiệp, qua ngòi bút của Nguyễn Du, đâu
phải chỉ là do sự đổi thay của năm tháng! Hình ảnh của người hát rong ở Thái
Bình cũng là tấm phiên bản trung thực của một cảnh đời nghèo khổ cơ cực.
Đó là “người mù mặc áo vải to”, do “một em bé dắt đi theo bờ sông”, sau buổi
hát “miệng sùi bọt, tay mỏi rời” nhưng chỉ được năm sáu đồng tiền. Thật đau
xót biết bao khiên cạnh đó là nhưng cảnh ngộ tương phản: “Thuyền nọ,
thuyền kia đều đầy gạo thịt. Mọi người ăn uống thỏa thuê còn thì bỏ. Cơm
thừa canh nguội, đổ cả xuống sông”.
Nguyễn Du vừa chú ý những chi tiết và hình ảnh chân thực, vừa chú
trọng đến sự liên tưởng khái quát hóa về một số phận, một cảnh đời. Không
phải chỉ là những cảm xúc, những hình ảnh mà thực sự tác giả đã tạo được
những cảnh ngộ và không khí hiện thực của những bức tranh xã hội vừa rộng
lớn vừa kĩ càng. Đó chính là một đặc điểm rất quan trọng của chủ nghĩa hiện
thực nói chung và riêng cả với thơ ca. Bài thơ Trở binh hành là một trong
những trường hợp tiêu biểu. Hiểu biết sâu sắc đời sống xã hội trong quy luật
bản chất của nó cũng như trong những nét cụ thể, Nguyễn Du rất giỏi tạo
không khí hiện thực qua những bức tranh miêu tả. Thật sinh động và chân
thực biết bao khung cảnh chiến tranh lan đến một vùng.
Nào là:
Tiếng vàng, tiếng sắc loảng xoảng
Xe ngựa chạy rộn rịp, gà kêu chó sủa
Nhà nghèo không đóng cửa, nhà giàu đóng
Đỡ già dắt trẻ dời vào thành
Nào là:
Hịch lông gà phát đi cấp tốc như sao bay
Cát bụi bay cuồn cuộn che lấp mặt trời
Quân bộ quân kị, chạy ngang chạy dọc
Quân kị đeo cung sừng cong
Ông đựng đầy mũi tên dài có lông trắng
Quân bộ vác giáo ngắn
Gươm dao mới mài buộc dây đỏ
Lại có binh khí của những tráng binh mới bắt đi theo
Chặt tre làm giáo vỏ còn xanh…
Trong bút pháp hiện thực của mình, Nguyễn Du rất giàu có về chi tiết chân
thực, những hình ảnh và chi tiết rất tài năng. Đó là cảnh thảm thương:
Mắt thấy người chết đói giữa đường
Hột táo trog túi lăn ra cạnh người.
Đó là cảnh gấp rút chuẩn bị chiến tranh:
Quan châu nghe giặc đến
Khêu đèn suốt đêm lập sổ đinh
Quan võ nghe giặc đến
Mài gươm giáo tiếng xoàn xoạt
và vũ khí của những tráng đinh:
Chặt tre làm giáo vỏ còn xanh
Toàn bộ thơ của Nguyễn Du không phải đều được viết theo lối hiện
thực, nhưng miêu tả hiện thực là một trong những nét chủ đạo trong thơ
Nguyễn Du. Sự biểu hiện được những tâm trạng khá điển hình với những
hình ảnh, những bức tranh xã hội chân thực, sâu sắc đã góp phần phơi bày
bộ mặt thực của xã hội đương thời, lên án nó một cách cụ thể và thấm thía.
Thơ của Đỗ Phủ, Nguyễn Du… gợi cho ta suy nghĩ đến đặc điểm của khuynh
hướng hiện thực chủ nghĩa trong thơ và sức mạnh cũng như hiệu quả đặc
biệt của nó so với các khuynh hướng thơ ca khác trong nhiệm vụ phản ánh và
tố cáo xã hội cũ.
Phạm Nguyễn Du qua một số bài thơ cũng bộc lộ rõ bút pháp hiện
thực. Nỗi lòng trắc ẩn xót thương của nhà thơ với đám dân nghèo, những
hình ảnh của dân cư tan tác vì loạn lạc đói nghèo trong thơ Phạm Nguyễn Du
hiện lên khá chân thực. Đó là những cảnh nhà cửa tiêu điều xơ xác, gió bụi
đầy đường, cỏ lẫn với xương khô, mặt người hiện lên sắc đói, bữa ăn nửa
rau nửa cháo. Về qua đất Ô Châu, cuộc sống của dân nghèo khổ ở đãy đã
nhói vào lòng nhà thơ bao xúc động đau xót:
Làng cũ lờ mờ chỉ còn những cỏ xanh
Lều túp xen lẫn nhau kề bãi cát trắng
Đường cũ gió lộng, thấy ít người mặc áo lành
Nơi đình hoang xế chiều nghe tiếng khóc
Vẽ cảnh đất Ô Châu thì nhằm vào ai
Nếu bỏ đám dân đói ra không vẽ đến họ
Những câu kết thúc có ý nghĩa quan trọng với hướng miêu tả của thơ ca hiện
thực. Một quan niệm ấy một cách quan sát và ghi chép ấy đã tạo cho bài thơ
một phong cách riêng khác với lối thưởng ngoạn của thơ ca ngâm vịnh hoặc
lối tâm tình thuần túy.
Những hình ảnh và chi tiết sống trực tiếp giữ một vị trí quan trọng trong
thành phần miêu tả của thơ trữ tình. Cũng ở thành phần miêu tả này, sự kiện,
sự việc là những nhân tố để tạo cho thơ nội dung hiện thực. Những sự kiện
và sự việc này thường mang tính xác định cụ thể về không gian, về thời gian.
Những sự kiện chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa… những công việc cụ thể
của một ngành, một nghề (như khai thác than, dệt vải, đánh cá) đều cần thiết
đưa vào trong thơ trữ tình để làm cái nền hiện thực cho cảm xúc. Khi thơ ca
ngày càng đi sâu vào đời sống hiện thực phản ánh sinh hoạt tâm tình cũng
như lao động cụ thể của một con người một ngành nghề, một phong trào thì
thành phần tự sự càng chiếm một phân lượng đáng kể.
Trong thơ ca cổ, việc sử dụng chất tự sự trong thơ trữ tình nói chung là
hạn chế. Thơ ít gắn với những vấn đề thời sự trực tiếp, những sự kiện trong
đời sống chính trị, kinh tế; thơ ít nói đến công việc và cách làm ăn của những
ngành nghề cụ thể. Ít có những sáng tác thơ ca thuộc dạng bài Ghi việc giữa
mùa xuân, vâng lệnh giám đốc việc đắp đê ở trấn Sơn Nam của Phan Huy
ích. Điều đáng chú ý của bài thơ này là ở tính chính xác và cụ thể của những
sự việc được ghi chép lại như trong một thiên kí sự, một trang sử. Từ vị trí và
đặc điểm của công trình đến số tiền thu chi đều được quan tâm phản ánh vào
trong thơ:
Chính sách nông nghiệp của nhà nước quan trọng nhất là việc
phòng lụt
Tôi vâng lệnh đôn đốc công trình đắp đê ở xứ Sơn Nam
Có hơn hai chục dạ đê cần đắp và sửa lại
Số tiền thu về diện tích ruộng có tới năm vạn quan
San sẻ ơn trên chia đều cho dân để nhân dân chịu khó làm
nhanh
Đê đắp vững chắc thì lợi ruộng đất sẽ dài lâu
Nhiều lần đi tuần hành các nơi để truyền đạt kế hoạch to lớn ấy
Quyết cố gắng làm tốt để các nơi đều ca hát bài thơ Cam Đường.
Chúng ta không nghĩ rằng bài thơ trên là một sáng tác hay, nhưng nó
có ý nghĩa là trong tình hình thơ ca hoặc thoát li đời sống hiện thực, hoặc
thiên về phía tâm tình thuần túy chủ quan thì việc chú ý phản ánh những công
việc có ích và quan trọng trong đời sống vào trong thơ là cần thiết. Và chính
đó là những nhân tố trực tiếp xác định tính chất hiện thực của thơ ca.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, thơ đi vào phản ánh cuộc đấu tranh của
dân tộc và là một vũ khí chiến đấu có hiệu lực. Từ những sự kiện lịch sử rộng
lớn cho đến những hoạt động cụ thể của phong trào, ở nhà máy, đồng ruộng,
v.v… đều có mặt trong thơ. Ý thức bám sát những vấn đề thời sự của các
nhà thơ đã tạo điều kiện cho thơ phát triển nội dung hiện thực. Tố Hữu, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Hoàng Trung Thông, Tế Hanh, Chính Hữu,
Nông Quốc Chấn, … đều hướng thơ ca đi sâu phản ánh những vấn đề trung
tâm, những sự kiện nóng hổi của thời đại. Cái hướng chung của toàn bộ nên
thơ cách mạng là ngày càng được tăng cường về chất liệu hiện thực, càng đi
sát với thực tế đấu tranh cách mạng của dân tộc. Từ Việt Bắc đến Gió lộng,
từ Ra trận đến Nước non ngàn dặm, Tố Hữu rất chín trong cảm hứng sáng
tạo với những vấn đề lớn của đời sống dân tộc. Chế Lan Viên thể hiện sâu
sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua thơ chống Mĩ, cứu nước. Xuân Diệu,
Huy Cận, Hoàng Trung Thông, mỗi giai đoạn thơ, mỗi tập thơ đều gắn bó với
một giai đoạn của cuộc đấu tranh cách mạng. Có thể nói rằng thơ ca cách
mạng là dòng thơ hiện thực, bắt nguồn từ hiện thực, nuôi dưỡng bằng chất
liệu hiện thực và góp phần cải tạo hiện thực. Trong phong cách sáng tạo của
mỗi nhà thơ, tuy có những mặt phát triển khác nhau, nhưng đều có một
phương hướng chung, một cốt lõi chung – đó là cái nền hiện thực mới của xã
hội.
Song thơ ca cách mạng không thể tự làm tròn trách nhiệm nếu chỉ mô
phỏng theo lối phản ánh của thơ hiện thực. Khuynh hướng tái hiện cuộc sống
thông qua việc miêu tả những bức tranh chân thực, có tính khắc họa, có góc
cạnh là quan trọng và cần thiết, nhưng tự mình nó không đủ để phản ánh
bước phát triển mới của thời đại. Một thời đại mới mà cách mạng đang ở thế
tiến công, nhân dân làm chủ vận mệnh mình, đang thực hiện những điều kỳ
diệu nhất; một thời đại đang bay lên với những mơ ước và hoài bão lớn lao.
Thơ ca cách mạng là nền thơ xã hội chủ nghĩa phải thể hiện chân thực và
sinh động cuộc sống theo sự vận động cách mạng. Nhà thơ phải lựa chọn
được phương pháp sáng tác tích cực nhất tạo điều kiện để thơ thể hiện được
sức sống và âm hưởng anh hùng của thời đại. Tính chất tiến bộ của lí tưởng
và sự hài hòa giữa lí tưởng và hiện thực, giữa nhà thơ và thực tại là một đặc
điểm vô cùng trọng yếu của nền thơ xã hội chủ nghĩa. Nhà thơ không phải là
người khát khao đi tìm lí tưởng ở một nơi xa xôi nào ngoài thực tại, mà lí
tưởng đang thể hiện trong hành động hăng say và có hiệu quả của hàng triệu
con người dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lòng tin yêu sâu sắc vào cuộc sống
hiện tại, mơ ước và khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của ngày mai,
tính cân đối và thống nhất trong cấu tạo của hình tượng thơ về lí tưởng và
hiện thực, biểu hiện và miêu tả, nội dung và hình thức, cái riêng và cái
chung…, tất cả những nhân tố đó chỉ có thể có được khi có sự hài hòa và
thống nhất giữa nhà thơ và thực tại. Trong quá khứ, nhiều nhà mĩ học đã dự
cảm và nhận thức được sự đối lập giữa nhà thơ và thực tại, lí tưởng và hiện
thực như một nguyên nhân sâu xa nhất hạn chế sự phát triển của thơ ca.
Những nhà mĩ học cổ điển Đức như Kăng, Sinlơ, Hêghen… đều ca
ngợi thế giới cổ đại như một thời kì lịch sử có sự thống nhất hài hòa giữa cá
nhân xã hội. Không có tình trạng áp bức tàn bạo về quyền lực, không có sự
thâm nhập một cách tệ hại của đồng tiền vào mọi quan hệ đạo đức và phong
tục như xã hội tư sản. Thế giới cổ đại xây dựng mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội trên cơ sở của lòng tin và ý thức tự nguyện. Trật tự tư sản đã phá vỡ
tất cả những quan hệ tốt đẹp đó, đẩy con người vào tình trạng đối lập với xã
hội, tha hóa với chính bản thân mình. Sinlơ trong luận văn Bàn về thơ ca chất
phác và thơ ca tình cảm cho rằng thơ ca thời kì cổ đại có tính chất nguyên
vẹn chất phác thể hiện sự hài hòa trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Còn
thơ ca tình cảm là ở giai đoạn phát triển sau này, một giai đoạn phát miền
mới, tiến bộ về một lịch sử song lại là sự biểu hiện trực tiếp mâu thuẫn giữa lí
tưởng và thực tại, giữa những ước mơ và khát vọng chủ quan với quy luật
khách quan. Thơ ca có khuynh hướng phát triển theo chiều hướng của chủ
nghĩa chủ quan, hoặc rơi vào sự trừu tượng khô khan, hoặc đi theo hướng
diễm tình thơ mộng, hoặc mang những yếu tố châm biếm sâu cay ai oán. So
với thơ ca của thế giới cổ đại, thơ ca trong xã hội tư sản yếu hơn về mặt
vươn tới lí tưởng, về tính chất chất phác và nguyên vẹn của tình cảm về sự
hài hòa và đầy đặn của hình tượng. Nhưng một mặt khác mối quan hệ giữa
nhà thơ và thực tại sẽ trở nên phức tạp hơn; sự phát triển của cá tính có thể
làm cho những cảm xúc và tâm trạng được mài sắc về từng phía. Xã hội tư
sản đã đào hố sâu giữa cá nhân và xã hội tạo nên những ngăn cách không
thuận lợi cho cảm hứng sáng tạo thơ ca như luận điểm của Mac về sự đối
địch giữa chế độ tư sản và sáng tạo thơ ca. Những tài năng thơ ca xuất hiện
trong quá khứ chủ yếu là trên tinh thần chống đối lại thực tại bất công và sôi
sục khát vọng tự do như Pêtôphi, Kitxơ, Mickiêvich, Puskin, Nêkraxôp… Cũng
có những thời kì thơ trữ tình hưng thịnh lên theo một chiều hướng khác.
Chúng ta nhớ đến Pôn Veclen, Actuya Rimbô, Xtêphan Malarmê, Sarlơ
Bôđơle, Anphrêt đơ Muyxê….với thế kỉ XIX của thơ ca Pháp hay ở một mức
độ hạn hẹp hơn với phong trào Thơ mới ở Việt Nam.
“Thơ trữ tình trong những sự tìm tòi của nó được tăng cường chủ yếu
là vào những thời kì cao trào dân tộc và cao trào xã hội. Còn trong những thời
đại mà do những đều kiện nhất định, sự phát triển tự do của cá nhân đặc biệt
bị kìm hãm, trấn áp thì thơ trữ tình tuy lại hưng thịnh lên thường hay có tính
chất của một hiện tượng cầu kì bệnh tật của tinh thần con người đang hấp
hối, của một tư duy mệt mỏi như đã mất hết máu tuy vẫn rất sắc sảo theo kiểu
của nó”.
Sự hưng thịnh của nền thơ ca xã hội chủ nghĩa không thể là một hiện
tượng sắc sảo riêng lẻ của một vài phong cách cá nhân phát triển lệch về một
phía mà là một bước phát triển mới có ý nghĩa cách mạng của thơ ca. Thơ trữ
tình cách mạng sẽ là một ca khúc chiến đấu, ca khúc anh hùng của thời đại.
Qua những đặc điểm riêng của phong cách sáng tạo cá nhân, nhà thơ phải
thể hiện đến mức sâu sắc nhất những vấn đề chung của thời đại. Thơ trữ tình
cách mạng phải kết hợp được tính hiện thực và tính lãng mạn cách mạng,
vừa thang theo sức sống và chất liệu trực tiếp của đời sống hiện thực mà bay
lên với những ước mơ và hoài bão cao đẹp dưới sự chỉ đạo sáng tỏ của lí
tưởng tiến bộ. Thơ trữ tình cách mạng cũng phải kết hợp được giữa biểu hiện
và miêu tả, cảm xúc sâu sắc bên trong phải phù hợp, tương ứng với cái nền
hiện thực vững chắc, tạo nên một sự hỗ trợ liên hoàn giữa khách quan và chủ
quan.
IV. TỪ HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG ĐẾN CÁC HÌNH THỨC LÍ TƯỞNG VÀ CÁCH ĐIỆU HÓA TRONG MIÊU TẢ THƠ
Từ cái nền của đời sống hiện thực, thơ ca có thể phát triển hình tượng
theo nhiều chiều hướng khác nhau. Có khi người viết giữ lại những hình ảnh
chân thực như nó vốn tồn tại trong độc sống. Có khi trên chất liệu phong phú
của thực tế nhà thơ khái quát hóa thông qua những hình ảnh và biện pháp
tượng trưng, ước lệ. Thuận lợi hơn các thể loại khác, thơ không chịu sự ràng
buộc trực tiếp của đời sống hiện thực. Hình tượng thơ đi về một cách linh
hoạt giữa hiện thực và lí tưởng, giữa cái xác định và không xác định. Nói như
người xưa: “Có thơ từ trong để tả ra, có thơ từ ngoài để đưa vào. Có thơ từ
hư mà tả thực, từ thực mà tả hư. Có thơ từ đây tả đó, từ đó tả đây; có thơ từ
trước để thướt tha mà tới, từ sau đề rong ruổi mà đi, như gió mây biến hóa,
không một hình dáng nhất định”.
Thơ là nghệ thuật kì diệu của trí tưởng tượng”, thơ lại là nghệ thuật
biểu hiện, nên con đường phát triển của cảm xúc và suy tưởng trở nên linh
hoạt sắc bén khi trực tiếp với cuộc sống hiện thực, khi gián tiếp trong thế giới
của lí tưởng khái tái hiện, khi tái tạo, khi xác định và khi không xác định. Vấn
đề quan trọng là ở sự hiểu biết sâu sắc hiện thực, ở vốn sống trực tiếp và trên
cơ sở đó nhà thơ có thể vận dụng những hình thức sáng tạo khác nhau. Ta
bắt gặp trong bài thơ Điện Biên Phủ của Nguyễn Đình Thi những hình ảnh, cụ
thể của cuộc chiến đấu ác liệt ở chiến trường lịch sử này..
Mưa rơi bùn lõng bõng
Bùn chảy lẫn máu tươi
Mặt anh đen khói dạn
Bỗng nhoẻn ra nụ cười.
Nguyễn Đình Thi cũng sử dụng những chất liệu trực tiếp của thực tế
chiến đấu ở Điện Biên Phủ, nơi đêm ngày súng đạn gầm thét, chiến trường
sau những cơn mưa đầu hạ ngập bùn lầy, chiến sĩ ta với khuôn mặt rất tươi,
đôi mắt rất sáng vẫn vượt lên giành lấy chiến thắng, để viết những câu kết
của bài thơ Đất nước:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Những câu thơ trên mang âm hưởng rất trực tiếp của một thực tế chiến
đấu dữ dội; nhưng nhà thơ không khai thác và miêu tả hình ảnh hiện thực
như nó vốn có, như nó đang tồn tại trong những đối tượng cụ thể mà chuyển
hóa sang một hình ảnh tượng trưng có sức khái quát hơn, nâng lên một tầm
nhận thức cao hơn. Từ “Mưa rơi bùn lõng bõng. Bùn chảy lẫn máu tươi. Mặt
anh đen khói đạn. Bỗng nhoẻn ra nụ cười” đến “Nước Việt Nam từ máu lửa.
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” là một quá trình chuyển hóa chất liệu hiện thực
sang hai dạng biểu hiện – một dạng trực tiếp và cụ thể, một dạng có tính chất
tượng trưng. Có khi trong cùng một câu thơ, sự có mặt của hai dạng biểu
hiện đó làm cho năng lực phản ánh hiện trực thêm sâu sắc câu thơ vừa mang
hơi thở trực tiếp của sự sống lại vừa bắc cầu sang những liên tưởng khái
quát, vừa bộc lộ cụ thể, vừa tiềm tàng kín đáo. Cũng trong bài thơ Đất nước,
sự liên kết sóng đôi ấy được vận dụng trong nhiều khổ thơ. Cái cụ thể của
những câu:
Khói nhà máy cuộn trong sương sớm
Kêu gọi quân văng vẳng cánh đồng
và tượng trưng, khái quát:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Cái cụ thể của những câu thơ:
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
và tượng trưng, khái quát:
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Cái cụ thể của những câu:
Nhĩng cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
và tượng trưng, khái quát:
Để đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Cảm hứng thơ đi về linh hoạt, nhẹ nhàng giữa lí tưởng và hiện thực,
giữa cái chân và cái ảo, cái xác định cụ thể và phần tưởng tượng ước mơ. Sự
kết hợp giữa các thành phần trên thường được nhiều quan điểm sáng tác về
thơ xem là những năng lực, những biện pháp miêu tả hiện thực có hiệu quả
nhất.
Trong những trường hợp nào đó, tính chất tượng trưng của hình ảnh có
khả năng diễn đạt sắc sảo những vấn đề của đời sống hiện thực. Nói về sự
chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, còn có thể có hình ảnh nào khỏe,
chân thực, hào hứng bằng:
Hỡi miền Bắc đó nặng đôi vai
Gánh cả non sông vượt dặm dài
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Cũng có khi cảm hứng đi về phía lãng mạn thơ mộng, nhưng không thoát li,
xa lạ, mà ăn nhập và rất hòa điệu với hiện thực. Huy Cận trong bài Đoàn
thuyền đánh cá đã miêu tả khung cảnh lao động với một cái nhìn khỏe khoắn,
lạc quan và chứa chan cảm hứng lãng mạn cách mạng. Giữa con người và
thiên nhiên luôn có sự chan hòa qua lại. Sức lao động sáng tạo đã làm nên
biết bao điều kì diệu, tâm hồn ta thêm bay bổng, đôi mắt ta thêm giàu có, tin
yêu.
Hình ảnh trong đêm của một con thuyền ra khơi:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
và một đàn cá tung tăng trong hội xòe bơi lượn:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.
Chế Lan Viên trong Văn xuôi về một vùng thơ đã để cho cảm hứng thơ
đi về trên phần thực của cuộc đời và phần ảo của sự thơ mộng lí tưởng hóa.
Từ đây mỗi một cái nhìn, mỗi sự lắng nghe, mỗi xúc động đều lượt đi trên
chặng đường đó. Khi tác giả viết:
Thuyền đánh cá, thuyền thơ hay cánh bướm
câu thơ đã mất dần đi phần thực tại mà bay lên trong tưởng tượng thơ mộng.
Đến đây thơ ca đã vượt khỏi ranh giới của hiện thực mà tràn sang một phạm
khác. Ý nghĩa và cái hay, cái đẹp của hình tượng thơ được sáng tạo cũng
như cảm thụ thông qua tính quy ước của nghệ thuật (caractàre
conventionnel). Tính nghệ thuật trong quá trình nhận thức và phản ánh hiện
thực. Trong bất kì một nghệ thuật nào, dù là hội họa, điêu khắc, sân khấu hay
văn học, đều mang tính quy ước trong sáng tác cũng như trong thưởng thức.
Bản thân nghệ thuật không phải chính là cuộc đời thực mà là một sáng tạo
giống như cuộc đời thực. Việc trình diễn một vở kịch trên sân khấu cũng như
việc thừa nhận quyền tối đa của người kể chuyện trong tiểu thuyết đều là
những quy ước. Mỗi thể loại văn học cũng có tính quy ước riêng của nó.
Fêđin đã có lí khi nói đến tính quy ước của nghệ thuật:
“Nếu tước mất tính quy ước của nghệ thuật, thì nghệ thuật sẽ mất đi
bản chất của nó. Ngay bản thân ý niệm đem cuộc sống trình bày trên những
trang sách đã là không hiện thực rồi. Tính không phải thực trong nghệ thuật là
chuyện không tránh khỏi và nhà tiểu thuyết càng trở thành nghệ sĩ chân chính
nếu càng tạo nên được ảo tưởng giống thật…”.
Nhà thơ Tvarđôpxki cũng cho rằng: “Tính quy ước có địa vị chính đáng
trong việc miêu tả hiện thực bằng các phương tiện nghệ thuật”.
Chúng ta thừa nhận sự quy ước trong nghệ thuật và xem đây như tính
đặc trưng của nghệ thuật nhằm tạo điều kiện để phản ánh hiện thực một cách
tập trung, đa dạng và nhiều màu sắc. Tính quy ước do đó bao giờ cũng phải
mang tính khách quan, có tiền đề và cơ sở ở hiện thực khách quan - và đó
cũng chính là điều kiện quyết định để tạo nên sự đồng cảm, cộng hưởng ở
người thưởng thức. Khi đã tách rời khỏi đời sống hiện thực, lấy những suy
tưởng và bịa đặt chủ quan làm cơ sở thì quy ước trở thành một hố ngăn cách
nghệ thuật và cuộc sống, người nghệ sĩ và độc giả. Tính quy ước của phái
suy đồi trong nghệ thuật hoàn toàn là những sản phẩm kì quái, bệnh hoạn
của chủ quan người nghệ sĩ, phá vỡ lôgic của cuộc sống, đưa cái phi lí vào
trong nghệ thuật. Chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực, vị lai và trừu tượng hiện
đại v.v… tuy những lập luận có khác nhau, vẫn giống nhau ở chỗ loại trừ và
đối lập tính hiện thực và tính khách quan của cuộc sống, đề cao những quy
ước chủ quan, bí hiểm, quái dị và phi lí trong nghệ thuật. Dù với một hình
thức biểu hiện nào thì những quy ước trong nghệ thuật vẫn phải gắn bó với
cuộc sống, mang tính quy luật khách quan, tính chất lôgic chặt chẽ và tính
chất cảm tính cụ thể. Năng lực miêu tả hiện thực đời sống là thước đo giá trị
cụ thể của những quy ước trong nghệ thuật. Và cũng do đó những quy ước
không phải là những khuôn mẫu ổn định vững bền và thích hợp cho mọi hoàn
cảnh, mọi thời đại. Sử dụng những quy ước xưa cũ để biểu hiện hiện thực
mới, nghệ thuật sẽ rơi vào ước lệ, sáo mòn.
Những quy ước trong nghệ thuật thơ ca rất phong phú và đa dạng từ
hình thức gần với đời sống đến những hình thúc cách điệu, lí tưởng hóa. Có
thể quy vào mấy loại chính:
– Quy ước phóng đại thường được sử dụng phổ biến trong loại thơ
châm biến. Maiakôpxki với bài thơ Những người loạn họp, Những kẻ nịnh hót
đã xây dựng hình tượng trên tính quy ước phóng đại. Tác giả phản ánh được
những tệ nạn phổ biến trong đời sống xã hội đương thời, và đã phóng đại quy
cách và khuôn khổ của hình tượng nhân vật theo yêu cầu phê phán, châm
biếm. Hình tượng Từ Hải trong Kiều cũng được thể hiện theo quy ước phóng
đại. Từ Hải vượt lên kích thước bình thường nhưng vẫn nằm trong dụng ý và
khuôn khổ có thể chấp nhận được. Sắc đẹp của Thúy Kiều, Thúy Vân với cái
vẻ “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”, cũng như sắc đẹp của người
cung nữ trong Cung Oán ngâm khúc lộng lẫy đến mức “Chìm đáy nước cá lờ
đờ lặn. Bỗng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa” đều được miêu tả theo quy ước
phóng đại.
Sử dụng tính quy ước phóng đại, các nhà thơ muốn nhấn mạnh sự
phát triển cao, rất cao của cảm xúc hoặc của hình tượng nhân vật nào đó. Đó
là nỗi khát khao của “chim trong lồng” vượt được ra bầu trời tự do, thỏa chí
khát vọng:
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán
Phá vòng vây bạn với kim ô
Giang sơn khách diệc chi hồ?
(QUẬN HE)
Đó là niềm vui lớn lôi cuốn, lay động tới phần sâu thẳm nhất của tâm hồn:
Ngực lép bốn ngàn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên tim bỗng hóa mặt trời.
(TỐ HỮU)
Đó là ý chí vững bền như sắt đá của người chiến sĩ quyết tâm tiêu diệt kẻ thù.
Đất đá tung lên mưa đạn cuồng điên
Bộc phá hết. Lồng ngực tôi trở thành bộc phá
Lồng ngực tôi trở thành núi đá
Cản đường tên mũi đạn của quân thù
Dù ngã xuống bên đồi đất mẹ nở cười vui
Là Bộc phá viên ôm chìa khóa lửa
Kèn thổi lên rồi! Mở cửa màn đêm.
(THU BỒN)
Cái khó khăn khi vận dụng quy ước phóng đại là ở chỗ phải phục vụ sát
đúng yêu cầu của nội dung chủ đề, phải có tinh thần mức độ. Vượt qua khỏi
giới hạn cần thiết sẽ rơi vào lối cường điệu chủ quan, ồn ào, hình thức. Nhóm
Nhân văn – Giai phẩm đã lạm dụng những hình tượng có tính chất phóng đại
để biểu hiện những tư tưởng phá phách vô nguyên tắc.
– Quy ước biểu tượng, tượng trưng là một hình thức được sử dụng khá
phổ biến trong thơ ca với tính chất là những yếu tố, những phương tiện biểu
hiện nhằm phục vụ cho một yêu cầu tư tưởng nào đó. Việc vận dụng những
hình ảnh tượng trưng, những biểu tượng trong thơ để phản ánh hiện thực và
biểu hiện chiều sâu cảm xúc của thơ tất nhiên là rất khác, khác về nguyên tắc
với chủ nghĩa tượng trưng trong thơ. Chủ nghĩa tượng trưng là một khuynh
hướng nghệ thuật tư sản dựa trên cơ sở triết học duy tâm chủ quan, từ chối
việc nhận thức và phản ánh hiện thực. Chủ nghĩa tượng trưng xem hình
tượng thơ như một dấu hiệu riêng để phản ánh một thế giới bên kia nào đó.
Những dấu hiệu trừu tượng và chủ quan này không phải ai cũng hiểu và
nhằm để cho ai cũng hiểu. Nhiều hình ảnh và ý tưởng trong thơ trừu tượng và
thiếu xác định khiến người đọc có thể liên tưởng đến nhiều nội dung khác
nhau. Malarmê, Valêri, những nhà thơ tượng trưng tiêu biểu, đã dẫn thơ đến
chỗ cầu kì khó hiểu, hình thức chủ nghĩa. Chúng ta phê phán chủ nghĩa
tượng trưng trong thơ, nhưng việc vận dụng những biểu tượng, những nhân
tố tượng trưng trong thơ lại là cần thiết để phản ánh hiện thực. Vấn đề quan
trọng là ở chỗ những quy ước tượng trưng ấy có khả năng nói lên được sâu
sắc khái quát những vấn đề của đời sống hay không? Có gây được sức rung
cảm ở nhiều người hay không? Thơ ca cổ của phương Đông đã sử dụng rất
nhiều lối tượng trưng và ước lệ và từ đó tạo nên một mẫu mực, một phong
cách sáng tạo riêng. Tagor vốn được xem như một nhà thơ phương Đông
mang nhiều yếu tố tượng trưng trong nội dung cũng như hình thức biểu hiện.
Những bài thơ của Tagor đều mang một phong cách riêng.
Trong thơ Đường ta thường bắt gặp một sự kết hợp giữa phần xác định
và không xác định, giữa yếu tố cụ thể trực tiếp và tính chất gián tiếp tượng
trưng. Đặc điểm này đã giúp cho thơ Đường khắc phục được những hạn chế
của một cấu trúc thơ tĩnh và thiên về hình tượng thị giác. Một tiếng quạ kêu
sương, tiếng chim oanh hót, tiếng tù và thổi, ngọn khói, vầng trăng, bãi sông,
con đò, v.v… đều vừa cụ thể lại vừa có ý nghĩa tượng trưng. Ngọn gió xuân
trong thơ Lí Bạch, Thôi Hộ, Cao Thích… đều tượng trưng cho niềm vui, hạnh
phúc, sự hội ngộ nhưng các nhà thơ khung dùng một cách ướt lệ mòn sáo,
mà có những sắc thái riêng trong từng cảnh ngộ. Ngọn gió xuân lọt vào màn
the của người thiếu phụ nhớ chồng, ngọn gió xuân thổi đến trong buổi chia li,
gió xuân đã trở về với bông hoa đào mà sao người xưa không trở lại?
Thơ ca cổ Việt Nam cũng sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng. Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những bài thơ vịnh cây tùng để nói lên cái chí,
cái đức của người quân tử. Tính chất tượng trưng có khi biểu hiện ở một
phúng dụ, ở sự hàm nghĩa bóng, nghĩa đen, ở chỗ hình ảnh trong câu thơ
không mang ý nghĩa tự thân và trực tiếp, mà ẩn dụ, gián tiếp như những bài
thơ vịnh của Lê Thánh Tông về cái quạt, cái chổi, thằng mõ… của Hồ Xuân
Hương về quả mít, bánh trôi. Những bài thơ của Doãn Hành trong tập Vân
biều đều mang tính chất ngụ ý, tượng trưng. Qua một con đom đóm, một đám
cỏ rêu, Doãn Hành vừa kết hợp miêu tả được những nét độc đáo của sự vật,
lại vừa nói được những vấn đề xã hội khá sinh động.
Trong một số bài thơ, tính chất tượng trưng không phải chỉ là một dấu
hiệu tự bên ngoài, mà gắn bó sâu sắc với cảm xúc làm cho hình tượng thơ có
sức hấp dẫn về nhiều mặt. Bài thơ vịnh con chim đỗ quyên của Nguyễn Hành
là một ví dụ tiêu biểu:
Ngân lên là tiếng đỗ quyên
Khạc ra là máu đỗ quyên
Máu ấy vốn tự nó sinh ra
Tiếng ấy rốt cục vẫn không ngớt
Con chim oán hận của ta do trời sai khiến
Vì thế đến thời tiết thì phải kêu
Không thể bắt chước như chim hoàng oanh
Bay lượn tung tăng chỉ cốt làm cho người ta ưa thích.
Cũng có khi tính chất tượng trưng lại bộc lộ dưới dạng ngụ ý gián tiếp mà hết
sức thâm thúy, sâu sắc. Những lời nói của vàng chuyện trò với nhau trong
đêm trong bài thơ Lời nói của vàng đã chứng minh vai trò bá chủ của đồng
tiền trong xã hội cũng như những thói đời phi nghĩa, đổi trắng thay đen do
đồng tiền gây nên. Hình tượng thơ ẩn kín, thầm thì như một câu chuyện trao
đổi riêng tư bình thường, mà lại chứa đựng những mũi nhọn châm biếm, đả
kích sắc sảo:
Nhà kia tích vàng mấy vạn lạng
Đêm đêm nghe thấy vàng nói chuyện với nhau
Chúng mình nguyên không phải do điều nghĩa mà vào chốn này
Rồi đây chắc cũng không do điều nghĩa nhà ra đi
Khi nào người ta lạy mà dâng cho chủ
Đến khi ra chủ lại lạy mà dâng cho người khác.
Chuốc được nhiều cái lạy của người đời
Mà không hao tốn nửa phân.
Tuy nhiên, do đặc điểm của thơ cổ nhấn mạnh đến tính chất nên họa,
nên hình tượng thơ thường được phô bày về hình ảnh như một bức tranh tĩnh
của hình tượng thị giác. Do đó tính chất lượng trưng trong thơ ca cổ thường
được khai thác chủ yếu là thông qua hình ảnh. Tượng trưng về hình ảnh
thường có một cơ sở cụ thể cho sự liên tưởng và nhận thức nên hình tượng
thơ dễ hiểu, không trừu tượng, không bí hiểm, nhưng cũng nhiều khi bị hạn
chế về tính đa dạng. Tính chất tượng trưng của hình tượng thơ có thể được
khai thác từ nhiều nhân tố: màu sắc, âm thanh, hình ảnh, cảm xúc, suy
tưởng, kết cấu ngôn ngữ, v.v…
Trong thơ trữ tình hiện đại, tính chất quy ước tượng trưng không phải
chỉ được biểu hiện ở hình ảnh, màu sắc mà còn ở chiều sâu của cảm xúc và
những suy tưởng. Chế Lan Viên là nhà thơ sử dụng khá thành công tính chất
tượng trưng ước lệ để xây dựng hình tượng. Ngay cái tứ thơ Người đi tìm
hình của nước đã mang trong nội dung ý tưởng tính chất tượng trưng rồi.
Những bài thơ Chim vít vịt, Con cò đều là những sáng tác mà tính chất tượng
trưng chi phối đến cấu tạo toàn bài. Nhiều hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên
được liên kết theo từng nhóm khăng khít giữa cái cụ thể và tượng trưng hoặc
dưới dạng liên kết tương phản:
Ở đâu? ở đâu? có sự diệu ki
Ta xé vải chôn ta để may cờ chiến thắng
Những vết thương đỏ chói sắc quân kì
Ta nấu xích xiềng ta làm súng đạn
hoặc dưới dạng liên kết hỗ trợ:
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thuỷ triều vẫy gọi những vầng trăng
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm
Một chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Một con sông đều muốn hóa Bạch Đằng …
Cái cụ thể và xác định trong thơ Chế Lan Viên ít khi tồn tại riêng rẽ mà chỉ là
một nhân tố được tổ chức trong cấu tạo chung của hình tượng thơ.
Tượng trưng chính là một hình thức khái quá hoá hiện thực thông qua
những dấu hiệu chọn lọc về mặt hình ảnh, cảm xúc, âm thanh, nhịp điệu…
Nếu sự chọn lọc chính xác và tinh tế, những dấu hiệu phù hợp với hiện thực
của đời sống, thì nhiều khi câu thơ có năng lực diễn tả hiệu lực. Tố Hữu viết:
Găngđi quay lại chiếc xa xưa
Dệt tấm lòng nhân đựng gió mưa.
Câu thơ mềm mại đó lại mang một sự khái quát về mặt lịch sử, một sự đánh
giá về chính trị. Cách dùng những hình ảnh tượng trưng ở đây thích hợp và
có giá trị biểu hiện cao.
– Quy ước cách điệu, lí tưởng hóa. Do đặc trưng của thứ miêu tả cuộc
sống “một cách cao đẹp”, nên một mặt sự việc và con người ở trong thơ vừa
giữ được tính xác thực của những hiện tượng trong đời sống, một mặt lại
được cách điệu hóa theo hướng cái đẹp, hướng lí tưởng. Không phải toàn bộ
sự việc và con người đều được miêu tả theo hướng đó, song thơ chấp nhận
đó là một hướng tích cực. lối miêu tả tên thường được vận dụng khi bắt gặp
những đối tượng đẹp và các nhà thơ dễ nảy sinh khuynh hướng lí tưởng và
cách điệu hóa. Hình ảnh Nguyễn Văn Trỗi trong thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu,
Hoàng Trung Thông… nói chung đều được miêu tả theo hướng lí tưởng và
cách điệu hóa. Lê Anh Xuân đã ghi lại giờ phút lịch sử khi Nguyễn Văn Trỗi
dũng cảm và thanh thản đi vào cái chết:
Anh đi chân đất đầu trần
Mặt mùa xuân, áo thiên thần trắng tươi
và khi anh đã hi sinh:
Ôm anh đất nở đầy hoa
Ru anh có tiếng chim ca trên cành
Cọc tre nơi giặt hành hình
Trổ đài kỉ niệm bóng in ngang trời.
Như Anh đứng đấy trẻ tươi
Tạc hình thế kỉ muôn đời không tan.
Trong phong cách sáng tạo của mình, Lê Anh Xuân lấy cảm xúc chân tình
làm điểm tựa chủ yếu cho hình tượng thơ. Anh giàu cảm xúc và dễ xúc động,
thiết tha trước cái đẹp, cái anh hùng trong cuộc chiến đấu của nhân dân miền
Nam. Lê Anh Xuân trong nhiều trường hợp có thiên hướng ngợi ca và lí
tưởng hóa: Hình ảnh cô gái miền Nam trong thơ anh thật đẹp, thật lí tưởng:
Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như em
Em ơi! sao tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lất lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên
Em là du kích, em là giao liên.
Em chính là quê hương ta đó.
Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương.
Chúng ta cũng hay bắt gặp trong thơ ca miền núi những liên tưởng
mang tính chất cách điệu hóa. Khi so sánh giữa con người với thiên nhiên
dường như cả thiên nhiên và con người đều được tô điểm vẻ đẹp mới. Trong
con mắt của người yêu, cô gái Tây Nguyên xinh đẹp càng trở nên lộng lẫy
hơn. Và cả khung cảnh chung của núi rừng cũng bị cuốn hút vào không khí
tưng bừng, náo nhiệt:
Tiếng cồng
Tiếng chiêng
Mừng em ta suối
Tiếng đàn
Tiếng sáo
Mừng em ra nương
Em leo núi thấp
Em trèo rừng cao
Như trăng mới lên
Mặt em đằng trước
Như trăng mới lên
Ngực em đằng trước
Như mặt trời mới mọc.
Chính nhà thơ đã tô điểm thêm màu sắc, dáng điệu và yêu thương cho hình
ảnh của nhân vật thêm truyền cảm. Người thợ nặn đồ gốm, người thợ khắc
mộ chí, cô gái đẩy xe goòng trong thơ Huy Cận, cô gái xeo giấy trong thơ Chế
Lan Viên, v.v… đều được miêu tả theo hướng cách điệu hóa, mĩ hóa. Huy
Cận cố giữ lại hình thái lao động với tất cả dáng vẻ chân thực tự nhiên nhất,
nhưng đồng thời cũng biết thêm vào đó cái đẹp, cái nên thơ mà tác giả phát
hiện thấy tự bên trong công việc lao động nhọc nhằn mà đáng quý. Này đây là
người thợ gốm:
Nắng lên hồng ban mai
Anh thợ gốm ngồi xoay
Đất mịn nhào với nắng
Hình đẹp nở trong tay…
…Xoay, xoay bàn gỗ ơi,
Nước mát nhào đất tơi
Anh làm thêm cái đẹp
Chưa có ở trong đời...
Huy Cận có một cái nhìn trân trọng đối với lao động. Trong thơ anh,
sức lao động của con người thực sự đang làm cho cuộc sống thêm no ấm,
tươi vui. Một chú lợn no tròn xoe khoáy, một mệ gà đông con, màu xanh ngát
của cây lúa, tiếng xe than ríu rít điểm mùa, tất cả đang tạo nên một nhịp sống
tươi vui cho cuộc sống hôm nay và cũng nổi lên biết bao mơ ước, hứa hẹn
của ngày mai. Huy Cận đã đưa vào hiện thực phần lãng mạn, bay bổng. Chỉ
một cuộc thi nghé và cái cười của chú nghé “Nó cười - theo kiểu nghé” cũng
đã mang tính chất cách điệu rồi.
V. KHẮC PHỤC NHỮNG KHUYNH HƯỚNG LỆCH LẠC NÂNG CAO TÍNH HIỆN THỰC TRONG THƠ
Nâng cao tính hiện thực trong thơ là một trong những nhiệm vụ hàng
đầu của thơ trữ tình cách mạng. Nghèo nàn về nội dung hiện thực, dù đi về
hướng nào thơ trữ tình cũng thiếu sức thuyết phục và truyền cảm. Đi về phía
suy tưởng, những suy nghĩ khái quát dễ rơi vào lối sách vở tư biện, và thiếu
hẳn điểm tựa từ bên trong. Đi về phía thuần cảm xúc, những cảm xúc cũng
trở nên nông nhẹ, ngọt ngào một cách chung chung. Đi vào sáng tạo và chọn
lọc hình ảnh, nhà thơ cũng dễ rơi vào lối miêu tả và sao chép bên ngoài. Cả
nền thơ cách mạng của ta đang đi vào hướng lớn của đời sống thực tế. Nội
dung hiện thực của các sáng tác ngày một được nâng cao ở sự khám phá và
phát hiện ra những giá trị nhận thức thức trong đời sống cách mạng. Tuy
nhiên trong thơ còn bộc lộ một số nhược điểm về mặt phản ánh hiện thực,
làm hạn chế trực tiếp đến giá trị của các sáng tác.
Căn bệnh khá phổ biến là khuynh hướng thi vị hóa ngọt ngào của thơ
hiện nay. Nhiều bài thơ trong khi miêu tả đời sống chỉ chú ý đến những phạm
vi nên thơ, đến những đối tượng vốn dễ lay động cảm hứng và có sức gợi
ngay tự bên ngoài. Có những phạm vi của cuộc sống ở đấy bộc lộ những đấu
tranh gay gắt của cái mới và cái cũ, có những phạm vi hiện thực tưởng như
khô khan, trần trụi nhưng ấp ủ biết bao sinh lực tự bên trong. Thơ còn dừng
lại, chưa tấn công vào tất cả các trận tuyến. Nhiều lĩnh vực hoạt động chưa
có mặt trong thơ, nhất là những hoạt động về kinh tế, đấu tranh chính trị.
Thực ra thì không có một lĩnh vực nào dành riêng cho thơ hoặc bị gạt bỏ ra
ngoài phạm vi của thơ. Cần phải đi vào miêu tả toàn diện hiện thực của đời
sống, cần phải đi vào những lĩnh vực mới, những trận địa mới. Một số khuynh
hướng thơ ca trước kia đã từng lẩn tránh nó. Nền thơ xã hội chủ nghĩa không
thể từ chối việc phản ánh những hoạt động phong phú đó được. Jôhan Bêsơ
nêu lên ví dụ về những vấn đề sản xuất, kinh tế, giá thành, tiền lãi, kinh doanh
của xí nghiệp và cho rằng cần phải bắt tay vào phát hiện những lĩnh vực đặc
biệt khó khăn này đối với sự thể hiện của nghệ thuật cũng như thi ca. Hiện
nay chúng ta chưa có nhiều thơ hay về hoạt động sản xuất của những công
nhân nơi xưởng máy, nông dân nơi đồng ruộng. Đồng ruộng tám tấn, mười
tấn mới đi vào thơ ở vẻ đẹp bên ngoài mà chưa đi vào thơ với tất cả khó khăn
và sức sáng tạo tự bên trong. Một số hoạt động sản xuất công nghiệp có
dáng vẻ khô khan, trần trụi chưa có mặt trong thơ. Thực ra tất cả cần phải có
mặt ở trong thơ. “Thơ thu hút tất cả về bản thân nó trong khi cố gắng làm chủ
tất cả, bởi vì đối với nó, không có con người không nên thơ, không có đối
tượng không nên thơ, mặc dù nó tự hạn chế mình một cách khôn ngoan và
không phải tất cả đều thể hiện nên thơ một cách như nhau” (Jôhan Bêsơ).
Pôn Êluya cùng nhiều là vấn mạnh là thi ca ở trong cuộc sống. Cái tạo
nên bài thơ không phải là sự lắp ghép ít nhiều tinh vi, ít nhiều ổn thỏa của
những nguyên âm, phụ âm, những âm tiết, những từ, mà chính thơ là sự tổ
chức, sự hài hòa của những chất liệu phong phú đến xô bồ của tất cả những
hiện tượng có trong cuộc sống. Pôn Êluya tỏ ra chán ghét khuynh hướng thi
vị hóa trong thơ và xem chất mộc trần trụi là cần thiết với thơ.
Không có gì kinh khủng hơn là thứ ngôn ngữ thi vị hóa, là những từ
ngữ quá xinh đẹp kết lại một cách duyên dáng với các hạt ngọc khác. Thơ ca
chân chính bằng lòng với những chất mộc trần trụi, những tấm ván không
phải là ván cứu tinh, những giọt nước mắt không óng ánh ngũ sắc. Nó biết
rằng có những cảnh sa mạc bằng cát, những cảnh sa mạc bằng bùn, những
cái sàn nhà đánh xi, những bộ tóc rối, những bàn tay sần sùi, những nạn
nhân hôi hám, những anh hùng thảm hại, những thằng ngốc tuyệt vời, đủ các
thứ chó, những cái chổi, những bong hoa trong đám cỏ, những bông hoa trên
những nấm mồ. Bởi vì thi ca ở trong cuộc sống”.
Khuynh hướng thi vị hóa, thơ mộng hóa, đẩy hình tượng và câu thơ
đến chỗ êm ru ngọt ngào trên dòng từ ngữ trôi chảy cũng là hiện tượng khá
phổ biến trong thơ ta. Những nhà thơ lớp trước có kinh nghiệm thuần thục về
nghề cũng không tránh khỏi nhược điểm này. Chế Lan Viên trong bài Đi ra
ngoại ô đã nhìn cuộc sống một cách say sưa, chân tình. Anh phát hiện và
miêu tả được nhiều hình ảnh nên thơ nhưng không tránh khỏi nhiều chỗ thi vị
hoá theo những suy tưởng chủ quan. Một dải sông Hồng đẹp một cách hiền
hòa duyên dáng:
Ôi con sông Hồng
Em là song mật
Hay là sông hương?
Xuôi chảy ái tình
Nuôi làng nuôi xóm
Ngô tít tắp vàng
Bông mân mê trắng
Lúa rờn thương thương
Đến đây tưởng như ý thơ đã có thể khép lại cho mạch thơ kết thúc,
nhưng tác giả lại tiếp tục đẩy cái cảm hứng đó quá xa làm cho cảm xúc trở
nên quá nhẹ và không thực:
Sông không là rượu
Sao bờ say men
Phù sa óng ả
Đôi bờ đỏ má
Uống nhiều rượu quá
Đôi bờ say ngả
Đôi bờ say nghiêng
Yến Lan trong tập Lẵng hoa hồng cũng có một số nhược điểm tương
tự. Chính sự thuần thục trong kĩ thuật một lúc nào đó lại trở nên là một mối
nguy hiểm làm cho câu thơ trôi chảy, ngọt ngào ngay khi cảm xúc cũng như
nội dung hiện thực của câu thơ non yếu. Tác giả miêu tả nắng sông Đà:
Bỗng đâu trong giấc mơ màng.
Trở tay nghiêng, nắng đến choàng bên hông
Nửa như ríu rít vô lòng
Nửa như bế bế bồng bồng chơi
Nghe làn tóc gội se hơi
Nghe con chim sẻ sân phơi nhặt mùa.
Trong lớp thơ trẻ có hiện tượng bắt nhiều vào những kỉ niệm đẹp của
quá khứ. Đành rằng kỉ niệm là một chất liệu quý trong thơ, nhưng không thể
nói một cách cực đoan như một nhà thơ nào đó xem thơ mình chỉ nuôi dưỡng
bằng cái nuối tiếc của những ngày qua và mơ ước của những ngày chưa tới.
Thực ra khi trở về với những kỉ niệm là nhằm liên tưởng, phục vụ cho cái hiện
tại. Khi đã tỏ ra gửi lòng mình quyến luyến với quá khứ, không gỡ mình ra
khỏi những kỉ niệm thì dầu sao vẫn là một thái độ tiêu cực cho dù những kỉ
niệm đó có tươi đẹp đến chừng nào. Cái mà nhà thơ phải đem lòng gắn bó
nhất, đó chính là cuộc sống hiện tại, những ngày hiện tại. Xuân Quỳnh, Văn
Thảo Nguyên, Bằng Việt… đều có nhiều bài thơ viết về kỉ niệm. Hiện thực của
đời sống thấp thoáng hiện ra sau bức màn của những kỉ niệm. Hình tượng
thơ chủ yếu được cấu tạo trên những cảm xúc mềm mại, rung lên nhè nhẹ và
đậu lại trong tâm tư người đọc. Thơ không nói được cái mới của cuộc sống
và chỉ đi về trên những kỉ niệm, nên tránh sao khỏi đến một lúc nào đó tự lập
lại mình. Cũng phải nói rằng có nhiều cây bút trẻ có những cách nói riêng khá
hấp dẫn và tinh tế về từng kỉ niệm, tuy nhiên bài thơ vẫn không sao bù đắp
được về mặt phản ánh hiện thực. Cái ngọt ngào, đằm thắm của những kỉ
niệm vẫn bị trôi đi mà không lắng sâu, kích động mạnh mẽ đến người đọc. Bài
thơ Kỉ niệm màu xanh của Quang Huy là một dẫn chứng khá tiêu biểu cho
loại thơ này.
Phấn đấu để thơ đi vào cuộc sống và đem chất sống thực tế vào trong
thơ là một hướng được nhiều nhà thơ quan tâm thực hiện. Một trong những
tác giả tiêu biểu là Xuân Diệu. Xuân Diệu về mặt lí luận cũng như trong thực
tiễn sáng tác đã luôn phấn đấu cho hướng đi đúng đắn đó. Thơ Xuân Diệu
giàu có chất sống; đề tài thơ bao quát khá nhiều lĩnh vực của đời sống. Anh đi
nhiều nơi, viết nhiều về đề tài khác nhau, nào chân rừng mặt biển, vùng đồng
trung du, quả sấu non trên cành, con gà cục tác, quả ổi Hồ Tây, cốc bia
vàng…
Điều đáng quý ở Xuân Diệu là sự mở rộng phạm vi miêu tả của thơ
sang nhiều lĩnh vực, kể cả những lĩnh vực có phần khô khan, hẻo lánh. Xuân
Diệu mang đến cho cuộc sống ở từng nơi chất sôi nổi, nhiệt tình và, về phía
nhà thơ, anh cũng thu hoạch được những mùa gặt đáng quý. Về với cuộc
sống để quan sát, tìm hiểu, ghi chép và ở một mức độ sâu sắc hơn là tham
gia vào cuộc đấu tranh như một thành viên tích cực, nhà thơ sẽ thu lượm
được những chất liệu quý và tự nó đã là thơ hoặc chỉ cần tô điểm lại phần
nào để tạo nên chất thơ.
Chúng ta hoàn toàn tán thành với tác giả về hướng đi đúng đắn vào đời
sống hiện thực để tăng cường chất sống thực tế cho thơ, nhưng Xuân Diệu
chưa trình bày được thật rõ rệt khái niệm hiện thực ở thơ. Trong thực tế sáng
tác, Xuân Diệu lại tỏ ra thiếu thuyết phục với những câu thơ dễ dãi, thiếu
nhuần nhuyễn, bề bộn sự việc và chi tiết chưa được chọn lọc. Anh muốn đưa
tất cả những điều “mắt thấy tai nghe” vào trong thơ vào trong thực tế mà anh
không làm nổi. Nói về bài thơ Hồ Suối Hai, Xuân Diệu tâm sự rằng tả vẻ đẹp
của công trình đã hoàn thành thì không khó khăn gì. Cái khó là tả được quá
trình lao động. Khó nhất là khi đồng chí chỉ huy công trường báo cáo: “Các
anh thấy cái đập đổ hai nghìn thước khối bê-tông này đã xây xong, nếu cứ để
tự nhiên mà tháo nước vào thành hồ thì nước sẽ thấm dưới chân đập, dần dà
xuyên dưới chân đập mà thấm qua bờ bên kia, cuối cùng nước sẽ phá tung
cả cái đập này chắc. Nên chúng tôi phải gỡ đất thường dưới đáy hồ thay vào
bằng đất sét luyện rồi xây lát đá lên trên, cuối cùng mới tháo nước vào thành
hồ”. Xuân Diệu đã cố gắng đem toàn bộ những kiến thức chuyên môn đó vào
trong thơ và theo tác giả thì đây là một công việc vất vả hơn nhiều lần làm
những câu thơ thưởng ngoạn ngọt ngào.
“Tôi nặn óc loay hoay tìm bao nhiêu cách nói ướm thử vần “inh”:
Muốn ngăn đạp nước phá công trình
Văn xuôi quá, không được ướm sang vần “ong”:
Tường nghiêng thoai thoải phía bên trong.
Rồi sao nữa? Bí. Tôi chuyển sang vần “ên”:
Bên trong chân đập muốn cho bền.
Cũng lại văn xuôi quá như vần “inh”. Cuối cùng giữ vần “ên”, “uyên” và tạm
ngừng ở dạng thái bốn câu thơ:
Bên trong thoai thoải mặt tường nghiêng
Chân đập cần ngăn nước thấm xuyên
Phải gỡ đất mềm thay đất cứng
Rồi xây lát đá nước trùm lên”
Qua dẫn chứng trên, Xuân Diệu đã bộc lộ ý thức đúng đắn của nhà thơ
đối với hoạt động lao động sáng tạo của quần chúng. Tác giả muốn thể hiện
cho được cái vĩ đại qua không khí vất vả và quá trình phức tạp trong lao
động.
Ý kiến này dễ được thực hiện và phù hợp với khả năng miêu tả của văn
xuôi (như tiểu thuyết, kí…). Một bài kí về công trình xây dựng Hồ Suối Hai có
thể trình bày tỉ mỉ lại quá trình làm việc từ khi đặt viên gạch đầu tiên đến lúc
hoàn thành. Người viết cũng có thể sử dụng hình thức thơ tự sự như trường
ca, truyện thơ. Một trường ca về công trình lao động của Hồ Suối Hai sẽ có
khả năng phản ánh được đầy đủ quá trình lao động. Với thơ trữ tình, phải đi
vào tính chất của sự vật bắt được những sự việc và hình ảnh điển hình, để từ
cái cụ thể, cái riêng đột xuất nói đến cái chung bao quát theo đặc trưng riêng
của thể loại. Thơ không thể nào “ôm” quá nhiều, và chẳng phải có lúc Xuân
Diệu tự bộc lộ “tôi không ôm nổi voi” đó sao? Với dung lượng có hạn của thơ
trữ tình, với đặc trưng kết hợp giữa phản ánh và biểu hiện giữa sự việc trong
đời sống khách quan và cảm nghĩ chủ quan, thơ không thể chạy theo việc ghi
chép sự việc, cũng không thể trình bày là có hệ thống và tỉ mỉ một quá trình
phát triển của sự việc mà không mất đi tính đặc trưng về thể loại.
Vấn đề quan trọng đối với giá trị hiện thực của một bài thơ không phải
chỉ ở cái thấy, cái nghe. Đành rằng cái thấy, cái nghe là hai hình thức cảm thụ
chủ yếu dựng trên hai giác quan chính của con người, nhưng từ cái thấy cái
nghe phải nói lên được cảm nghĩ của nhà thơ, nói lên được những cảm thụ,
liên tưởng, đánh giá và qua đấy cái thấy, cái nghe mới có một ý nghĩa sâu
sắc. Trong thơ, Xuân Diệu chú trọng nhiều đến sự phản ánh hiện thực qua cái
thật, cái nghe. Anh chưa chú trọng đúng mức đến những hình thức khái quát
hiện thực theo nhiều hướng điển hình hóa nên không tránh khỏi nhiều lúc câu
thơ chỉ là sự ghi chép lại những cái đã có trong đời sống hiện thực và tất
nhiên là tác dụng truyền cảm bí hạn chế và làm chúng ta liên tưởng đến câu
hỏi của Garxia Lorka: “Có gì có thể vụng về hơn là viết một bài thơ về một
bông hồng với một bông hồng thực ở trong tay. Có cái gì thừa ra, hoặc là
bông hồng hoặc là bài thơ”.
Chương 6. TRUYỀN THỐNG VÀ SÁNG TẠO TRONG THƠ
I. MẤY SUY NGHĨ VỀ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG THƠ VIỆT NAM
Nói đến tính chất dân tộc trong thơ chính là đề cập đến những yếu tố
bền vững, tích cực trong truyền thống của thơ ca dân tộc về nội dung cũng
như hình thức và phần tiếp thu, sáng tạo, nâng cao truyền thống cho phù hợp
với yêu cầu của cuộc sống hiện tại.
Những đặc điểm dân tộc trong thơ không phải là những phẩm chất nhất
thành bất biến mà thường xuyên được phát triển và bồi đắp thêm qua từng
thời kì lịch sử và trong giai đoạn hiện tại được thể hiện trong tính dân tộc hiện
đại. Tính dân tộc hiện đại đã bao gồm trong phẩm chất nội tại của nó những
yếu tố truyền thống được cải biến, đổi thay. Hai mặt truyền thống và sáng tạo
là hai mặt thống nhất để xác đinh tính chất dân tộc trong thơ.
Thơ ca là tiếng hát của tâm hồn, là những tâm trạng và cảm xúc điển
hình của một dân tộc bộc lộ trong đấu tranh và sản xuất. Thơ ca thể hiện rất
rõ tâm lí dân tộc. Từ nội dung cho đến cách cảm nghĩ: từ khuynh hướng yêu
thích, ngợi ca đến sự phê phán, phủ định, đều in dấu vết rõ rệt trong thơ. Tính
chất dân tộc trong thơ bộc lộ ở những phẩm chất nội dung và những phương
tiện biểu hiện, nhưng chủ yếu là ở nội dung.
Nên thơ của bất kì dân tộc nào cũng có những đặc điểm truyền thống
do những điều kiện về thiên nhiên đất nước, và chủ yếu là điều kiện đấu tranh
xã hội tạo nên trong trường kì phát triển của lịch sử dân tộc. Có những dân
tộc mà nền thơ đã phát triển từ hàng ngàn năm lịch sử như Trung Quốc, Việt
Nam, Ấn Độ, Hi Lạp v.v… hoặc ngắn ngủi trong một vài thế kỉ như Mĩ. Có dân
tộc mà thơ ca bộc lộ rõ truyền thống đấu tranh chống áp bức, bảo vệ tự do
dân chủ như thơ ca Nga (từ Rađisep, Lômônôxôp, Puskin Nêkraxôp đến
Maiakôpxki). Ngược lại cũng có những nền thơ trong nhiều thời kì bị tư tưởng
của giáo hội thống trị. Có những nền thơ sôi sục tinh thần dân tộc dân chủ
như thơ Việt Nam, Tây Ban Nha. Có dân tộc thơ thiên về phía suy tưởng lí trí,
có dân tộc thơ thiên về phía cảm xúc trữ tình.
Do thực tiễn đấu tranh cụ thể của từng dân tộc ở từng thời kì mà thơ có
những đặc điểm về nội dung và hình thức biểu hiện và những đặc điểm trên
xuất hiện thường xuyên thì tạo thành truyền thống bền vững. Những yếu tố
truyền thống trong thơ ca Việt Nam là những phẩm chất được tạo thành do
hiện thực đấu tranh của dân tộc quyết định. Dân tộc Việt Nam đã có trên bốn
ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Ý thức dân tộc và dân chủ phát
triển sớm và tạo thành một truyền thống sâu sắc, bền vững trong đời sống
tinh thần của dân tộc. Phẩm chất trên đã tạo nên những truyền thống về nội
dung ở trong thơ: đó là chủ nghĩa yêu nước anh hùng và tinh thần nhân đạo
yêu thương với hai âm điệu chủ yếu là hùng tráng và trữ tình đằm thắm.
Truyền thống dân tộc, dân chủ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
vốn rất yêu văn học sáng tạo được một nền thơ ca dân gian phong phú luôn
tác động và đem lại cho thơ ca bác học sức sống lành mạnh và tính chất
trong sáng giản dị.
Về hình thức biểu hiện, ngôn ngữ Việt Nam với những đặc điểm riêng
rất phong phú đã tạo nên một tiếng thơ giàu âm hưởng và nhạc điệu, những
thể thơ có năng lực biểu hiện, rất linh hoạt trong kể chuyện và trữ tình như lục
bát, song thất lục bát, hát nói, hát giặm v.v…
Những yếu tố truyền thống về nội dung và hình thức trong thơ là cơ sở
để các nhà thơ hiện nay khai thác, xây dựng tính chất dân tộc hiện đại.
1. Truyền thống bất khuất của dân tộc và chủ nghĩa yêu nước anh hùng trong thơ
Dân tộc nào trong quá trình dựng nước cũng đều bộc lộ rõ tình cảm
yêu thương đất nước trong sáng tác thơ ca. Có khi là những bài thơ ngợi ca
một thiên nhiên đẹp và giàu có, có khi là sự ca ngợi những con người thông
minh cần cù lao động. Tuy nhiên tình yêu Tổ quốc bộc lộ sâu sắc nhất, mạnh
mẽ nhất trong những lúc mà vận mệnh sống còn của dân tộc đặt ra một cách
cấp bách nhất. Nói như Xuân Diệu:
Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông,
Những lúc tột cùng là dòng huyết chảy.
Hàng ngàn năm lịch sử dân tộc ta đã đem dòng máu quật cường của mình ra
để bảo vệ lấy non sông đất nước luôn bị đe dọa bởi giặc giã ngoại xâm. Nét
xoáy sâu mãnh liệt nhất, tha thiết nhất trong tâm hồn Việt Nam qua các thế kỉ
là tinh thần yêu nước nồng cháy, dám xả thân vì đất nước. Vấn đề tồn tại và
sức sống của một dân tộc, lí tưởng tự do và tinh thần làm cho, cái vinh, cái
nhục của dân tộc luôn được đặt ra ở thức độ gay gắt. Thơ ca Việt Nam chưa
nói lên được đầy đủ cái lớn lao của những suy nghĩ và tình cảm yêu nước,
tuy nhiên những vần thơ có được cũng là những vần thơ đẹp và sảng khoái
nhất trong kho tàng thơ ca của dân tộc.
Những vần thơ của Lí Thường Kiệt không chỉ là một lời cảnh cáo rất
đanh thếp, mạnh mẽ với kẻ thù mà còn biểu hiện tự bên trong một ý chí thống
nhất, một quyết tâm chung của toàn dân bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cái chân lí
thiêng liêng bất di bất dịch, chân lí ấy không phải là chuyện của một thời đại
mà là chuyện muôn đời. “Nước Nam là của người Nam, đó là chuyện trời đã
định sẵn rồi, kẻ nào dám đến xâm phạm ắt phải chịu sự thất bại”. Cái tư
tưởng ấy là lí tưởng và mục đích chiến đấu cao cả của mỗi người dân đối với
Tổ quốc. Cho dù một tấc đất bị giặc xâm chiếm cũng là vết nhục với lương
tâm mỗi người, là nỗi đau trăm vạn lần hơn một nỗi đau riêng tư và phải biến
tất cả tình cảm thành căm thù, llành quật khởi. Tâm trạng của Trần Quốc
Tuấn trong hịch kêu gọi tướng sĩ cũng là tâm trạng của hàng triệu người: “Ta
thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho
trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng
cam lòng”.
Thật là thiết tha, nghĩa khí và hào hùng. Phạm Ngũ Lão cũng nói lên cái
thế của ba quân với sức mạnh nuốt trôi trâu và những tháng năm múa giáo
tung hoành cho trọn nghĩa với núi sông. Và sung sướng nhất là khi đuổi xong
quân giặc, nhìn lại non sông một dải đẹp như gấm vóc vẫn vẹn toàn, vẫn ở
cái thế ngàn năm vững vàng.
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông ngàn thuở vững âu vàng.
Trong những áng văn thơ yêu nước cổ, thì Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
có một vị trí đặc biệt. Có thể nói đây là một bản tuyên ngôn về quyền làm chủ
vận mệnh dân tộc của nhân dân ta, là tiếng nói tự hào về truyền thống dựng
nước và giữ nước của cha ông. Thật là căm giận và đau xót khi nói về nỗi khổ
của nhân dân và tội ác của kẻ thù, và cũng thật là sảng khoái, hào hùng trong
niềm vui của kẻ thắng trận, giành lại được Tổ quốc non sông. Tư tưởng vì
dân vì nước thấm sâu trong lời cáo. Tác phẩm ít bị hạn chế do tư tưởng
phong kiến và ý thức về đẳng cấp xã hội chi phối. Bình Ngô đại cáo không chi
là sự đúc kết lịch sự về một giai đoạn chiến đấu và chiến thắng mà đã tạo
được không khí rất trực tiếp, rất thời sự, dạt dào khí thế anh hùng ca. Bài cáo
cũng bộc lộ sâu sắc truyền thống văn hiến và nhân đạo của dân tộc ta. Có thể
nói đây là một trong những áng văn sâu sắc nhất về tinh thần dân tộc trong
văn học cổ.
Chiến thắng của Trần Hưng Đạo diệt quân Nguyên và khởi nghĩa của
Lê Lợi chống quân Minh thắng lợi mãi mãi là những đề tài hấp dẫn giàu sức
cổ vũ động viên, góp phần tạo nên sinh khí và niềm tự hào cho nhiều áng văn
đương thời và những thời kì sau. Trương Hán Siêu nhìn ngắm dòng sông
Bạch Đằng tự hào về truyền thống của cha ông “từ có vũ trụ, đã có giang
sơn”. Thời gian có thể trôi qua, dòng sông mãi mãi trôi về xuôi nhưng cái còn
lại là tiếng thơm muôn thuở của những người anh hùng và về phía kẻ thù thì
đó là nỗi nhục không rửa được
Đến nay nước sông tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa sạch.
Lí Tử Tấn viết Xương Giang phú, Vũ Mộng Nguyên viết Phú núi Chí Linh ca
ngợi những chiến công hiển hách của người xưa, nhưng hơi văn vẫn dạt dào,
thắm đượm khí thế anh hùng cách mạng...
Truyền thống yêu nước của nhân dân ta là khí chất mạnh mẽ nhất tạo
thành sức sống, phần tinh anh, khỏe khoắn trong nhiều sáng tác văn học.
Chính chủ nghĩa yêu nước là sức sống tinh thần của thơ văn ta suốt hàng
ngàn năm lịch sử. Có lúc như triều xô, sóng dậy, có lúc cuộn chảy bên trong
âm thầm, tha thiết nhưng lúc nào cũng có khí sáng của sao băng, thế vững
của bàn thạch.
Khi thực dân Pháp kéo vào xâm chiếm nước ta, thơ ca yêu nước lại là
vũ khí hiệu lực góp phần cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân. Lòng căm
thù giặc sôi sục trên những vần thơ, bài hịch, văn tế… Những người nông
dân nghèo khổ đã bộc lộ sâu sắc tinh thần yêu nước trong cuộc chiến đấu
chống giặc khác hẳn với bộ mặt thảm hại của triều đình Huế hèn nhát, đầu
hàng. Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã nói lên rất thiết
tha, rất ngưỡng mộ những người nông dân mong manh áo vải, gậy tầm vông
xốc tới, những con người “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn
quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó…”. Nhưng
khi đã lao vào cuộc chiến đấu giữ nước giữ nhà thì họ là dũng sĩ:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai
nọ
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới,
coi giặc cũng như không
Nào sợ thằng Tây bắn đạn to đạn nhỏ, xô cửa xông vào liều
mình như chẳng có
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn
kinh
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc,tàu đồng súng nổ.
Thật là một đoạn văn xuất sắc miêu tả được tấm lòng yêu nước và hành động
vô cùng dũng cảm của quần chúng lao động nghèo khổ, những con người đã
làm nên sự nghiệp giữ nước và dựng nước ngày hôm qua và họ sẽ là chủ lực
quân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ của thời kì hiện tại.
Những nhà thơ yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Xuân Ôn,
Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích vừa là những nhà thơ yêu nước vừa là
những chiến sĩ với tấm lòng sắt đá kiên trung một lòng giữ nước, diệt thù:
Vinh nhục thân này đâu dám kể
Lòng son giết giặc chết không phai.
(NGUYỄN XUÂN ÔN)
Đó cũng là tấm lòng của Nguyễn Quang Bích với đất nước non sông:
Gập ghềnh nào sợ bước gian nan
Cứu nước thân già dạ sắt son.
Thơ của Phan Bội Châu vừa là những lời tâm huyết của một nhà thơ
yêu nước vừa là những bài ca động viên kịp thời tinh thần yêu nước thù giặc.
Tính chất tâm sự trữ tình và tuyên truyền chính luận luôn kết hợp sóng đôi:
Nay ta hát một thiên cứu quốc
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta
Trang nghiêm bốn mặt sơn hà
Ông cha ta để cho ta lọ vàng
Trải mấy lớp tiền vương dựng mở
Bốn ngàn năm dãi gió dầm mưa
Biết bao công của người xưa
Gang sông tấc núi, dạ dưa ruột tằm
(Ái quốc ca)
Bước sang thời kì cách mạng vô sản, chủ nghĩa yêu nước trong văn
học mang một nội dung mới. Sôi sục khí thế cách mạng, quần chúng lao khổ
đã đem vào lời thơ ý chí sắt thép, gan dạ của một cuộc đấu tranh sinh tử
giành chính quyền cách mạng: “Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng”. Văn thơ
Xô viết Nghệ Tĩnh góp phần đặt nền móng cho văn học cách mạng của giai
cấp vô sản. Tiếp theo là Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, Từ ấy của Tố Hữu
những bông hoa tươi thắm nhất của vườn thơ cách mạng. Lí tưởng yêu
nước, yêu tự do và tinh thần tố cáo tội ác của giai cấp thống trị là nội dung
chủ yếu của những sáng tác này. Nhật kí trong tù kết tinh một cách đẹp đẽ
nhất khát vọng tự do ý chí sắt thép và tâm hồn cao thượng như tấm gương
trong của người chiến sĩ cộng sản trong hoàn cảnh tối tăm ngột ngạt của lao
tù xiềng xích. Văn thơ yêu nước của thời kì này đã thấm sâu quan điểm giai
cấp vô sản bộc lộ rõ rệt nhất ở tinh thần tập thể cách mạng và lòng tin vào
thắng lợi ngày mai. Chủ nghĩa yêu nước đã không bị giới hạn trong phạm vi ý
thức cá nhân của những tấm gương yêu nước mà mang nội dung tập thể
cũng như đã khắc phục được những nhân tố bi kịch chi phối đến cảm hứng
yêu nước anh hùng.
Khác với dòng thơ ca yêu nước cách mạng, những khuynh hướng thơ
ca lãng mạn đương thời không gắn sáng tác với những vấn đề sống còn của
dân tộc và vận mệnh của quần chúng lao khổ nên những trang viết thường
hạn chế về nội dung xã hội và nhiệt tình đấu tranh cách mạng. Những sáng
tác trên tuy nằm trong nguồn mạch của thơ ca dân tộc nhưng không kế thừa
được nhiều truyền thống tích cực của cha ông. Trong phong trào thơ mới
cũng có thể nhắc đến những biểu hiện của tình cảm yêu nước qua hình ảnh
con hổ nhớ rừng và người khách chinh phu của Thế Lữ, con voi già của Huy
Thông, qua những hận sầu vong quốc của nước Chàm xưa trong thơ Chế
Lan Viên, qua những nỗi niềm thương cảm với quê hương, sông nước của
Huy Cận…, nhưng bao trùm vẫn là cảm hứng thi ca thoát li. Bị giam hãm
trong vòng vây của chủ nghĩa cá nhân, thu hút đề tài vào chuyện tình yêu
nồng cháy và tuyệt vọng, vào thiên nhiên thơ mộng diễm tình, vào những bi
kịch cá nhân riêng tư, nên thơ mới không tránh khỏi trở thành tiếng nói còn xa
lạ với quần chúng nhân dân và chưa phong phú về tính chất dân tộc. Sự phát
triển của lịch sử dân tộc và thi ca đã xác minh một chân lí thực tế là ở giai
đoạn nào thi ca xem nhẹ hoặc từ bỏ sứ mệnh đấu tranh xã hội và rơi vào lối
thưởng ngoạn, hình thức, thì trở nên sút kém hoặc mất hẳn nội dung tính
nhân dân và dân tộc.
Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một giai đoạn mới trong sự
phát triển của thơ ca. Tổ quốc độc lập, tự do. Một sức mạnh, một niềm vui lớn
nhất đã ùa vào trong thơ. Tố Hữu như bay lên với niềm vui tháng Tám:
Ngực lép bốn nghìn năm trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời.
Chủ nghĩa yêu nước là nội dung chủ yếu tạo nên sinh khí cho thơ ca trong
những năm đầu cách mạng và suốt trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.
Xuân Diệu sôi nổi qua hai thiên trường ca Ngọn quốc kì và Hội nghị non sông.
Trần Mai Ninh đã nhìn thấy một khía cạnh mới trong tình yêu Tổ quốc, Tổ
quốc giàu đẹp trong lao động sáng tạo của hàng triệu cánh tay của quần
chúng cần lao:
Dân tộc rớt mồ hôi thấm đất
Bắp căng như đồng
Tay ghì cán cuốc
Tay ghì tay xe
Nhìn quanh là cả bốn bề cần lao.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, khí thế của quần chúng đã
trở thành sức mạnh hùng tráng trong thế trận trùng điệp bao vây kẻ thù. Hồ
Chủ tịch đã chỉ ra trong lời thơ đầy khích lệ:
Chống gậy lên non xem trận địa
Van trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu, Đẩu.
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.
Tố Hữu cũng nói lên sâu sắc chủ nghĩa yêu nước anh hùng của nhân dân ta
trong những năm chống Pháp qua tập thơ Việt Bắc. Sau ba ngàn ngày chiến
trận gian lao, ba ngàn ngày không nghỉ, đất nước sau khói lửa lại hiện lên đẹp
đẽ hơn bao giờ hết:
Hôm ấy ngày đẹp lắm
Mây của ta trời thắm của ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
(TỐ HỮU)
Dân tộc ta, nhân dân ta qua cuộc trường kì kháng chiến đã vụt lớn lên với một
tầm vóc mới:
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.
(TỐ HỮU)
Hình ảnh của Tổ quốc rực rỡ với tấm huân chương trên ngực không chỉ đánh
dấu một kì tích với hiện tại mà còn là nguồn ánh sáng vô tận soi tiếp bước
đường ta đi tới.
Trong những năm chống Mĩ cứu nước trên cơ sở của những đặc điểm
truyền thống và đáp ứng những yêu cầu mới của cuộc đấu tranh cách mạng,
trên lập trường của giai cấp vô sản, các nhà thơ đã nhận thức vấn đề dân tộc
một cách sâu sắc và đã giải quyết được tốt những mối quan hệ giữa truyền
thống dân tộc và tính dân tộc hiện đại, giữa tính dân tộc với tính thời đại, giữa
cuộc chiến đấu của dân tộc với phong trào cộng sản quốc tế.
Chủ nghĩa yêu nước anh hùng là một đặc điểm trong truyền thống của
thơ ca dân tộc, một phẩm chất quan trọng của nội dung tính dân tộc trong thơ
ca Việt Nam. Chúng ta khẳng định nhận xét trên không nhằm dẫn đến một
quan niệm dân tộc hẹp hòi đề cao dân tộc mình mà không thấy tình yêu đất
nước cũng là biểu hiện tình cảm lớn trong thơ ca của nhiều nước khác và
cũng không nhằm nói lên màn đặc điểm vốn phổ biến và tự nhiên ở mọi nơi,
mọi lúc như không phải là một đặc điểm. Thực ra thì nhân dân của bất kì một
dân tộc nào cũng yêu tha thiết đất nước và Tổ quốc mình. Tình cảm thiêng
liêng ấy có trong mỗi người như một vốn quý tự nhiên, một khả năng. Nhưng
trên thực tế lịch sử đấu tranh và tồn tại của mỗi dân tộc, tinh thần dân tộc
cũng bộc lộ không giống nhau do những hoàn cảnh riêng đặt ra trong lịch sử
phát triển của từng dân tộc. Có những dân tộc mà hàng ngàn năm lịch sử
sống trong không khí hòa bình êm ả, không có giặc giã ngoại xâm và trong
điều kiện của một thiên nhiên ưu đãi. Có dân tộc mới hình thành, thời gian
chưa đủ tạo ở đấy những truyền thống nổi bật. Tự nhiên là tình cảm dân tộc ở
những dân tộc như thế cũng khác đi nhiều với một đất nước mà lịch sử dân
tộc cũng là lịch sử chống ngoại xâm. Đồng chí Lê Duẩn đã chỉ ra hết sức sâu
sắc đặc điểm này của dân tộc ta và cũng là đặc điểm của văn học của ta:
“Văn học và lịch sử không tách rời nhau, mà lịch sử ta có những đặc điểm nổi
bật hơn nhiều nước trên thế giới: đó là tinh thần dân tộc và ý thức dân chủ”.
Văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng có một vinh dự rất lớn
được là tiếng nói tinh thần của dân tộc anh hùng.
Suốt hàng chục thế kỉ, chủ đề yêu nước là một cảm hứng lớn trong thơ
và trong thực tế thơ văn yêu nước là một dòng phát triển liên tục qua các thời
đại. Trên chủ đề này, chúng ta bắt gặp qua những vần thơ tâm huyết một tấm
long tự hào, một ý chí sắt son, một cốt cách dân tộc trong suy nghĩ, một tình
cảm chan hòa gần gũi. Chủ đề yêu nước trong thơ tạo nên một sinh khí mạnh
mẽ trong thơ ca. Nếu so với sự nghiệp anh hùng của lịch sử dân tộc thì thơ
văn chưa nói được nhiều cái lớn lao của dân tộc, của nhân dân. Nhưng với
phần có được từ Lí Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Trần Hưng Đạo, Trương
Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Vũ Mộng Nguyên, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Nguyễn
Đình Chiểu, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Bội Châu, cho đến
thơ văn Xô viết Nghệ Tĩnh, thơ Hồ Chí Minh, thơ Tố Hữu, v.v… cũng đủ cho
chúng ta rất tự hào về truyền thống yêu nước bất khuất của cha ông và xem
nội dung tinh thần yêu nước như một phẩm chất quan trọng của tính chất dân
tộc trong thơ. Tự nhiên ở đây cũng cần phân biệt với những mức độ khác
nhau. Có những lúc tinh thần yêu nước trong thơ biểu hiện trong khí chất anh
hùng với cái thế rất trực tiếp và rất quyết liệt của cuộc chiến đấu. Có lúc
những cảm xúc yêu nước biểu hiện qua tâm trạng, qua sự hoài cảm về một
tấm gương nghĩa liệt, một trang lịch sử anh hùng. Và ngay cả trên đề tài về
gió trăng mây nước cũng cần phân biệt giữa những sáng tác mang tinh thần
dân tộc và những sáng tác thuần túy rơi vào thưởng ngoạn. Ở đây một bên ta
bắt gặp một tấm lòng gắn bó yêu thương Tổ quốc đằng sau những cảnh mây
gió trăng hoa, và một bên là sự thưởng thức thuần túy, ngâm vịnh nhàn tản.
Trong thơ ca cổ Việt Nam có khá nhiều bài thơ vịnh hoa, vịnh nguyệt, vịnh
mây gió, nhưng cũng có nhiều bài viết về thiên nhiên với tình cảm yêu nước
thầm kín và cảm xúc khỏe khoắn. Dòng sông Bạch Đằng trong phú của
Trương Hán Siêu, trong thơ của Trần Minh Tông, cửa biển Thần Đầu trong
thơ Nguyễn Trung Ngạn và cửa biển Tư Dung trong thơ của Thánh Tông, cửa
biển Bạch Đằng và cửa biển Thần Phù trong thơ Nguyễn Trãi… đều hiện ra
trong vẻ đẹp nên thơ và hùng tráng, toát lên một hào khí tự muôn đời. Sông
núi trong thơ cổ cũng có cốt cách của một dân tộc anh hùng. Đó là cảnh:
Núi biếc cao vút, tua tủa như gươm giáo kéo lấy tầng mây
Thuồng luồng nuốt thủy triều cuộn làn sóng bạc…
Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối
Lầm tưởng rằng máu người chết trận vẫn chưa khô.
(TRẦN MINH TÔNG)
Đó là cảnh:
Ải Chi Lăng hiểm bằng lên trời
Thúc ngựa lướt gió lên cao ngoảnh đầu lại
Trông về kinh đô thấy bóng mây nghi ngút phương tây.
(PHẠM SƯ MẠNH)
Đó là cảnh:
Tiếng sóng dồn dập như chiêng trống đổ hồi
Bóng tre nghiêng ngả như cờ quạt tung bay
Vương dạo làm cho mùa xuân trở lại cây cối xanh tươi
Quân Hồ ôm hận như còn ấm ức, lục sục trong làn sóng lạnh.
(TRẦN LÂU)
Đó là cảnh:
Tiếng nước ào ào như hàng nghìn con trâu rống
Đá mọc như măng lởm chởm tựa hồ hàng vạn binh khí đâm lên
Bờ nước uốn khúc như thế trận rắn bò
Ngọn núi trập trùng như đoàn quân gấu dữ ẩn hiện.
(NGUYỄN QUANG BÍCH)
2. Truyền thống dân chủ và tiếng nói yêu thương nhân đạo trong thơ
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong hàng ngàn năm lịch sử chống
giặc ngoại xâm và chống lại một thiên nhiên hung dữ khắc nghiệt đã tạo cho
cười dân Việt Nam những phẩm chất vô cùng quý giá như đức tính bền bỉ,
kiên trì, tinh thần sáng tạo và khả năng chịu đựng. Những đức tính đó làm
nên cốt cách của nhiều nhân vật trong văn học. Ví dụ như những nhân vật
phụ nữ trong các truyện nôm khuyết danh là những tính cách nhân vật đậm
đà tính chất dân tộc. Nhưng nét bao quát và thâm nhập phổ biến hơn trong
nhiều sáng tác thơ ca tự sự cũng như trữ tình là tình cảm yêu thương trân
trọng con người tạo nên bởi truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm,
chống những thế lực tàn bạo của, xã hội và hung dữ của thiên nhiên. Nền dân
chủ của chúng ta được thiết lập trong Cách mạng tháng Tám, nhưng truyền
thống dân chủ của dân tộc ta đã hình thành rất sớm như một nguyên tắc
sống, một lương tâm phán xét, một tập quán đẹp tự lâu đời. Nói truyền thống
dân chủ là nói về sự khái quát chính trị, còn trong đời sống, trong thơ ca thì
đó chính là sự đùm bọc, yêu thương và trân trọng quyền sống của con người.
Câu ca tự ngàn xưa như một lời nhắn nhủ nhưng chính là một nguyên tắc
sống, nguyên tắc đảm bảo sự tồn tại của dân tộc:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Tình cảm yêu thương này là cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo rất sâu sắc,
rất độ lượng ân tình của nhân dân ta. Đó không phải là thứ nhân đạo chung
chung, mang màu sắc nhân tính, mà ở đây trận tuyến giai cấp được phân rõ,
nội dung yêu ghét cũng được xác định về nguyên tắc và ranh giới. Đây chính
là tình yêu thương. của những người dân lao động đùm bọc lấy nhau trong
cuộc sống và mở rộng ra hơn là tình cảm của những người bị áp bức, gặp
những vận hạn không may, những bất hạnh trong xã hội cũ. Thơ ca dân gian
bộc lộ sâu sắc tình cảm này. Những người lao động trong xã hội cũ luôn biết
liên kết thành một trận tuyến không có sự phân biệt, đố kị, thù ghét lẫn nhau.
Cho đến những con người dưới đáy xã hội bị bọn giàu có khinh miệt, nhưng
cũng được người bình dân giải thích một cách biện chứng sự hình thành của
loại người đó và đáng quý hơn là tấm lòng trắc ẩn tự bên trong:
Ăn mày là ai?
Ăn mày là ta?
Đói cơm rách áo thì ra ăn mày.
Tình cảm yêu thương trân trọng con người trước hết thể hiện ở tình
cảm với những người lao động nghèo khổ, những con người mà xã hội cũ
luôn tìm cách vùi dập, chà đạp. Ngoài xã hội, họ là những người mà quyền
sống chân chính bị tước đoạt; trong thơ văn thì quan điểm thẩm mĩ của giai
cấp phong kiến không thừa nhận họ với tư cách là đối tượng phản ánh và
thưởng thức của văn nghệ. Nhưng những nguyên tắc gò bó đó lại bị một thực
tế mãnh liệt hơn chống đối lại, đấy là sức sống và tinh thần đấu tranh bất
khuất của quần chúng nhân dân biểu hiện rất cao đẹp trong các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm, đấy là cuộc sống cần cù lao động, sáng tạo của nhân
dân từ đời này qua đời khác, và thấm thía đau xót hơn là cuộc đời nghèo khổ
truyền kiếp với những nỗi bất công mà họ phải chịu đựng. Tất cả thực tế trên
đã tác động đến những nhà thơ, giúp cho họ có một cách nhìn công bằng và
đúng đắn hơn với cuộc sống, và đem lại trong thơ ca họ một tiếng nói yêu
thương nhân đạo. Tình cảm đối với nhân dân cũng như hình ảnh những
người lao động trong thơ ca được biểu hiện với nhiều mức độ khác nhau.
Trong nhiều bài thơ, hình ảnh nhân dân chỉ xuất hiện với những khái niệm
chung chung như “yên dân”, “lương dân” hay cụ thể hơn là những lớp người
đã được phân loại. Nói đến dân lao động thì có người đi cày, ông ngư, ông
tiều, mục đồng… Và hình ảnh của họ thường hiện ra trong một bức tranh
miêu tả thiên nhiên nào đó như một chấm điểm xuyết. Thơ Hồng Đức bộc lộ
rõ đặc điểm trên. Thời kì này nhà nước phong kiến thịnh trị và đất nước thanh
bình nên bóng dáng của người dân đi vào trong thơ với tính chất thưởng
ngoạn an dân của vua chúa và sĩ phu phong kiến. Phổ biến là một cách nói có
tính chất ước lệ theo công thức “ngư–tiều–canh–mục”:
Tấc đất tấc vàng yêu bấy tá
Mồ hôi dồn dõi thuở đầu mom.
(Canh – bài 52. Phong cảnh môn)
Tuần điểm kìa ai khua mõ cá
Dâng hương nọ kẻ nện chày kình.
(Vịnh năm canh)
Ta cũng bắt gặp những hình ảnh tương tự qua thơ Bà huyện Thanh Quan:
– Lom khom dưới núi tiều chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
– Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Về một phương diện khác, khi nói đến không khí lao động thì thường
rất ít thấy những hoạt động và hình ảnh cụ thể. Được sử dụng phổ biến
thường là tiếng mõ trâu, tiếng đập vải, và có khi tiếng đập vải này lại không
đến từ cuộc đời mà đến từ câu thơ nào đó của Lí, Đỗ:
Hàn y xứ xứ thôi đạo xích
Bạch đế thành cao cấp mộ châm.
(ĐỖ PHỦ)
Ở một mức độ sâu sắc hơn, các nhà thơ đã nói đến nhân dân lao động
với tình cảm yêu thương, trìu mến. Trần Nguyên Đán nhìn cảnh đồng điền
hạn hán, lụt lội, mùa mất, dân đói khổ, mà xúc động tự liên hệ đến mình, kẻ
đọc hàng vạn pho sách nhưng đành khoanh tay, bất lực:
Đống sách hóa ra thành giấy nát
Bạc đầu luống những phụ lòng dân.
Lí Uẩn thông cảm với nhà nông vất vả mà không đủ ăn và đủ nạp thuế,
trong khi bọn cường hào thì đi lại nghênh ngang. Nguyễn Du đã nói đến nỗi
khổ của quần chúng lao động trong nhiều sáng tác với tấm lòng thương cảm
xót xa.
Hình ảnh nhân dân đi vào trong thơ không phải chỉ với những khái
niệm, những loại người có tính ước lệ, mà dần dà được miêu tả qua những
bức tranh sinh động giàu tính chất hiện thực. Đặc biệt với thế kỉ XVIII, thời kì
lịch sử mà những mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến thống trị và quần chúng
nhân dân diễn ra hết sức sâu sắc, những cuộc nông dân khởi nghĩa nổi dậy
khắp nơi, tình trạng đói khổ của nhân dân phơi bày ra một cách rõ rệt. Đó là
thời kì mà hàng loạt các truyện thơ Nôm giàu tính hiện thực và tính nhân đạo
xuất hiện. Những tác phẩm có giá trị văn học lớn như Truyện Kiều, Chinh phụ
ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, v.v… đều ra đời trong
khoảng thời gian này. Hình ảnh những người dân bình thường đã đi vào thơ
văn với những nét miêu tả chân thực, gợi cảm. Người gẩy đàn ở thành Thăng
Long, kẻ hành khất lang thang đã gây thương cảm sâu sắc qua thơ Nguyễn
Du. Văn tế thập loại chúng sinh là một bức tranh hiện thực có ý nghĩa đúc kết
những đổi thay và những đau khổ trong số phận con người. Những loại chúng
sinh thảm thương nhất, ai oán nhất vẫn là những người nghèo khổ, mà cuộc
đời đầy những bất hạnh, oan trái. Bài văn phản ánh bộ mặt của một thời kì
lịch sử mà những cuộc đao binh chém giết nhau, những cảnh dâu biển, vật
đổi sao dời, những thăng trầm của thế sự, những kiếp người oan trái, khổ
đau, như mây trôi, như bèo dạt, hợp hợp, tan tan, sống chết, mất còn, tất cả
đã diễn ra trong cơn xoáy lốc vô cùng dữ dội của thời đại. Kể cả những bậc
khanh tướng, những kẻ giàu có tuy có thể ở một cái thế vững vàng vào một
thời kì lịch sử nào khác, nhưng trong giai đoạn này cũng không thoát khỏi quy
luật đó, họ cũng là những hồn ma bơ vơ được chiêu dụ về. Qua Truyện Kiều,
ngoài phần xác định của một câu chuyện kể và những cảnh đời được khắc
họa sâu sắc là một trái tim yêu thương lớn, một tâm hồn nhân đạo vô cùng
sâu sắc. Hồ Xuân Hương thiết tha đấu tranh cho quyền sống của người phụ
nữ, những con người chịu đựng số phận đau đớn nhất như Nguyễn Du đã
từng cảm thương, “Đau đớn thay phận đàn bà”, Chinh phụ ngâm, Cung oán
ngâm khúc, hai khúc ngâm, hai nỗi lòng, những tiếng kêu tha thiết đớn đau
của quyền sống, của hạnh phúc người phụ nữ bị chà đạp, vò xé trong cảnh
cô đơn do chế độ phong kiến gây nên.
Truyền thống nhân đạo trong thơ ca ta bắt nguồn từ sức sống của một
dân tộc vững mạmh, kiên cường, luôn đoàn kết yêu thương nhau, cưu mang,
đùm bọc lấy nhau. Trong thơ ca đó là tiếng nói yêu thương tha thiết, đằm
thắm. Nó chống lại tính chất khổ hạnh, gò bó, hà khắc của đạo đức phong
kiến, của lễ giáo Khổng Mạnh. Lịch sử thơ ca ta nói riêng và văn học nói
chung đã từng xác minh một cuộc đấu tranh rất quyết liệt rất bền bỉ giữa một
bên là triết lí Khổng Mạnh, kìm hãm, gò bó quyền sống chân chính của con
người, và một bên là triết lí của sự sống, của tình yêu thương, của đạo lí làm
người theo quan niệm của quần chúng nhân dân. Ở Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ…, triết lí phong kiến đã thực sự bị
đánh bại, bị phá vỡ từng mảng lớn hoặc hoàn toàn sụp đổ trước cái chân lí
của cuộc sống và tình yêu thương chân chính của con người. Cái thành lũy tư
tưởng phong kiến ấy trở thành vô đạo trong thơ của Nguyễn Du, Cao Bá
Quát, và trở thành hài hước, giả tạo trong thơ Hồ Xuân Hương, Tú Xương.
Chúng ta có thể nói thêm, kể thêm những đặc điểm khác nằm trong
truyền thống của nội dung thơ ca dân tộc… nhưng phải nhận rằng hai phẩm
chất lớn nhất, bao quát nhất là chủ nghĩa yêu nước anh hùng và tình yêu
thương nhân đạo. Đó là lẽ sống lớn lao và cũng là gần gũi nhất ở mỗi con
người Việt Nam trong quá khứ và cả trong hiện tại như đồng chí Lê Duẩn đã
nhận xét: “Lẽ sống của con người là đấu tranh và tình thương”. Đấu tranh để
bảo vệ tự do hạnh phúc và tình thương yêu cao đẹp của con người, và một
tình thương yêu chân chính nhất sẽ nảy nở trong đấu tranh và là cơ sở tình
cảm thiết yếu để thúc đẩy đấu tranh. Hai đặc điểm lớn ấy tạo ra trong thơ hai
âm hưởng chủ đạo như mạch cảm nghĩ và rung động rất quen thuộc và gần
gũi của tâm hồn dân tộc - đó là âm hưởng hùng tráng và âm hưởng trữ tình
trong thơ. Âm hưởng của một tiếng nói thơ ca hùng tráng chắc chắn không
thể được tạo nên từ một tiếng thơ mềm yếu, ủy mị, mà chủ yếu là do nội dung
chiến đấu và cách mạng của thơ. Những chiến công oanh liệt của dân tộc
chống ngoại xâm, khí thế muôn người như một xốc tới như vũ bão trong
chiến đấu, ý chí sắt son vì nước vì dân và lòng sôi sục căm giận tội ác của kẻ
thù… là những nhân tố chủ yếu tạo nên chất hào hung trong thơ Hịch tướng
của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, các bài phú kể về
các chiến công, những diễn ca về lịch sử anh hùng của dân tộc, những vần
thơ giàu nhiệt huyết cách mạng của những tâm hồn chiến sĩ từ Lí Thường
Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, đến Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,
Phan Bội Châu, v..v… đều toát lên tính chất hào hùng.
Tính chất hùng tráng có khi bộc lộ ở cái thế vô địch của người chiến
thắng như trong hơi văn của Bình Ngô đại cáo:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn.
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay…
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Có khi tính chất hùng tráng bộc lộ trong tâm sự của một con người cụ thể qua
một tấm lòng yêu nước sắt son:
Quốc thù vị báo đầu thiên thạch
Kỉ đố long tuyền đái nguyệt ma.
(Thù nước chưa trả mà mái tóc đã sớm bạc
Bao phen mang gươm báu ra mài dưới ánh trăng).
(ĐẶNG DUNG – Cảm hoài)
hoặc một khao khát tự do:
Nhất lung thiên địa tàng thân tiểu
Vạn lí phong vân ải mục tần
và cánh chim đại bàng đó khi đã gặp gió mây thì tha hồ tung cánh:
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán
Phá vòng vây bạn với kim ô
Giang sơn khánh diệc tri hồ.
(Chim trong lồng)
Ngay trong những cảnh ngộ bi thương, lòng thiết tha yêu nước cũng
làm cho câu thơ có một cái gì hào hùng sâu lắng ở bên trong:
Hồn cố quốc vẩn vơ, vơ vẩn
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn
Mây tuôn khí uất, sóng tràn trận đau.
(PHAN BỘI CHÂU – Hải ngoại huyết thư)
Âm hưởng anh hùng và giọng điệu hào hùng trong thơ ca cổ vừa bộc lộ trong
thể loại thơ trữ tình vừa bộc lộ trong các thể thơ tự sự. Thiên Nam ngữ lục và
Đại Nam quốc sử diễn ca là những diễn ca lịch sử có nhiều đoạn mang tính
chất hùng tráng khi ghi chép về những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của
dân tộc.
Trong phong cách sáng tạo của nhiều nhà thơ bộc lộ khá rõ rệt hai âm
hưởng đó như hai phẩm chất, hai năng lực cảm thụ và biểu hiện. Nguyễn Trãi
rất hào hùng với Bình Ngô đại cáo, với Quân trung từ mệnh, nhưng lại rất
mềm mại trữ tình với Quốc âm thi tập. Và ngay với trường hợp Nguyễn Du,
một nhà thơ trữ tình lớn nhưng cũng rất hào hùng trong những trường hợp
cần thiết. Tuy nhiên trong thơ ca, giọng điệu hào hùng không phải là giọng
điệu quán xuyến toàn bộ nền thơ. Có những tiếng nói ủy mị, nhớ thương, có
những cảm xúc thơ mộng nhàn tản, có những nỗi lo lắng giày vò…
Từ sau Cách mạng tháng Tám, âm hưởng anh hùng và giọng điệu hào
hùng quán xuyến và bao trùm toàn bộ nền thơ. Chủ nghĩa anh hùng mới, tinh
thần lạc quan cách mạng, chất thép tư tưởng đã tạo cho thơ điều kiện thực
hiện vị trí xung kích trong văn học và đời sống. Nổi bật hơn cả cho tiếng nói
hào hùng trong thơ là Tố Hữu. Tố Hữu đã tiếp thu cảm hứng anh hùng và trữ
tình trong truyền thống thơ dân tộc và nâng lên phục vụ cho yêu cầu mới.
Khởi điểm của một điệu thơ là một điệu tâm hồn khỏe khoắn, lạc quan, cách
mạng. Từ ấy là một khúc hát chiến đấu cho lí tưởng, sôi giận căm thù và khao
khát tự do của một thanh niên cách mạng, một chiến sĩ cộng sản. Đi vào cuộc
kháng chiến của dân tộc chống thực dân tháp, Tố Hữu đã biểu hiện sâu sắc
chủ nghĩa yêu nước anh hùng của nhân dân ta trong khí thế của những người
chiến thắng. Không khí rung chuyển đất trời của cuộc chiến tranh nhân dân
được tác giả dựng lên rất hào hùng và cô đúc trong những vần thơ giàu hình
ảnh và nhạc điệu:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân núi đá muôn tàu lửa bay
Nghìn năm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Trong những năm chống Mĩ cứu nước, cảm hứng anh hùng là cảm hứng chủ
đạo và tha thiết trong hàng loạt bài thơ của Tố Hữu. Tố Hữu đã dồn được vào
những câu thơ chắt lọc, đượm chất anh hùng ca cái thế chiến đấu ở hai miền
của dân tộc ta:
Máu đọng chưa khô, máu lại đầy
Hỡi miền Nam trăm đắng ngàn cay
Hai lăm năm chẳng rời tay súng
Đi trước về sau dã dạn dày.
Hỡi miền Bắc đó, nặng đôi vai
Gánh cả non sông vượt dặm dài
Xẻ dọc Trường Sơn để cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Khúc điệu hùng tráng trong thơ ta có khi bộc lộ dưới dạng trực tiếp, rất
mạnh mẽ, rất sôi nổi, cũng có khi quyện hòa vào âm hưởng trữ tình. Trong
tâm hồn con người Việt Nam và cũng là trong thơ ca, ta bắt gặp một khí
phách anh hùng và một tấm lòng giàu xúc động yêu thương, một nghị lực
vững vàng như sắt thép và tình cảm thiết tha đằm thắm, một tấm lòng tự hào,
tự tin và đức tính khiêm nhường lặng lẽ, một tầm vóc lớn trong một cốt cách
giản dị bình thường, một tinh thần khẩn trương thúc bách trong ý thức bình
tĩnh chủ động và dáng vẻ ung dung, một sự kết hợp đúng đắn giữa lí và tình,
tính nguyên tắc và tính sinh động, chung và riêng, truyền thống và ân nghĩa
của quá khứ với phần đóng góp cách tân của hiện tại, giữa cái phong phú của
đấu tranh xã hội và phần tươi đẹp của thiên nhiên.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhắc đến những đức tính tốt đẹp của con
người việt Nam làm cho bạn bè cảm phục, đó là “phẩm chất anh dũng tuyệt
vời đồng thời cũng rất hồn nhiên giản dị”. Trong Bài ca Hắc Hải khi ngợi ca
đất nước và nhân dân Việt Nam, Nguyễn Đình Thi cũng lưu ý đến những
phẩm chất trên:
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chứa trong máu chảy lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.
Những nét tưởng như đối lập, loại trừ nhau lại vẫn có thể tìm đến bên nhau
như những mặt bù đắp, hỗ trợ, tạo nên một sự phong phú, sâu sắc, trọn vẹn
của tâm hồn dân tộc. Những đặc điểm trên chi phối và quán xuyến toàn bộ
tâm hồn và cảm hứng thơ ca. Thơ Bác Hồ biểu hiện rất sâu sắc những phẩm
chất trên. Tập thơ Nhật ký trong tù bộc lộ tinh thần yêu nước thiết tha và dũng
khí của người chiến sự cộng sản trước kẻ thù. Chất thép, chất chiến đấu tỏa
vào từng ý thơ, lời thơ. Nhưng thơ Bác cũng đượm tình, đượm cảnh. Nói như
Hoàng Trung Thông:
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.
Qua những ưu tư, trằn trọc trong giấc ngủ ta bắt gặp một giấc mơ đẹp:
“Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”. Qua một sự việc nhỏ, bình thường
như đánh mất gậy nói lên cách suy nghĩ của một tâm hồn lớn. Cái vĩ đại, phi
thường hiểu hiện trong cốt cách và dáng vẻ giản dị, đúng như hình tượng rất
đẹp mà Tố Hữu đã viết về Bác: “Mong manh áo vải hồn muôn trượng”. Thiên
nhiên trong thơ Bác đẹp trong cách nhìn ngắm của một tâm hồn thơ giàu cảm
xúc và tâm hồn chiến sĩ. Lên núi cao nhìn thẳng vào một mặt trời đỏ rực
nhưng không quên một nhành mai bên suối:
Ngẩng dầu: mặt trời đỏ
Bên suối, một nhành mai.
Có những ai kia chỉ thấy và quẩn quanh với một nhành mai, thật là một điều
đáng phê phán. Nhưng cũng đáng trách nếu không thấy cái mong manh bé
nhỏ của một nhành mai đẹp cũng góp phần cho cuộc sống thêm duyên dáng.
Trong khi luận bàn việc nước, việc quân, Bác là vị thủ lĩnh, vị tướng
soái quyết định vận mệnh cả nước. Nhưng khi công việc đã xong, Bác lại ung
dung trong phong thái của một nhà thơ:
Việc quân việc nước bàn xong
Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm
hoặc trong vẻ bình dị đáng quý của một ông già chăm làm và thương cháu
thương con:
Việc quân việc nước đã bàn
Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau.
Tiếng thơ chính là tiếng nói của tâm hồn. Tính chất hào hùng trong tâm
hồn dân tộc Việt Nam rất sâu sắc, rất bền vững, rất mãnh liệt, nhưng không
biểu hiện một cách ồn ào, lên gân, hoặc trang sức bằng những hình ảnh,
những từ ngữ kêu và rỗng ở bên ngoài. Chất hùng tráng trong thơ không thể
tạo nên bằng sự khôn khéo, bằng kĩ thuật điêu luyện. Ở đây chính là vấn đề
của lí tưởng, của cảm xúc. Thiếu đi cái cao đẹp của lí tưởng và phần thiết tha
mạnh mẽ của cảm xúc thì không thể tạo được âm hưởng hùng tráng. Đây
cũng là sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan. Nếu có được cái hùng
tráng của đời sống song tâm hồn thiếu sức vang vọng, hòa hợp tương đồng
thì chỉ còn lại chuyện kể lể về một chiến công, một trận đánh. Thơ ca của ta
trong những năm chống Mĩ cứu nước đang bốc cao chủ nghĩa anh hùng cách
mạng. Chất hùng tráng thấm sâu trong cảm hứng của nhiều tâm hồn thơ.
Nhưng nhìn chung vẫn chưa đều trong bộ mặt chung của nền thơ và trong
phong cách riêng của các nhà thơ. Thật sự ta mới gặp một hơi thơ hùng tráng
trong thơ của Hồ Chí Minh, Tố Hữu và một số bài thơ của Chế Lan Viên, Huy
Cận. Xuân Diệu viết được nhiều bài thơ chống Mĩ khỏe khoắn, nhưng còn rơi
vào kể lể sự việc và mang nhiều chất liệu văn xuôi. Tế Hanh với Khúc ca mới
và Đi suốt bài ca đã cố gắng đem chất hung tráng vào trong thơ thay cho điệu
thơ buồn của nỗi đau chia cắt trong những năm đầu của thời kì xây dựng hòa
bình; tuy nhiên anh vẫn chưa có được những bài thật hay trong loại này.
Hoàng Trung Thông khá thuần nhất trong một hơi thơ khỏe, giọng thơ anh có
lúc đanh thép, hùng tráng nhưng thiếu sức lôi cuốn mạnh mẽ bên trong của
dòng tình cảm. Những bài thơ chống Mĩ của Chính Hữu cố gắng phản ánh khí
thế cả nước lên đường. Yến Lan viết nhiều về những chiến công, nhưng cũng
chưa tạo được chất hùng tráng tự bên trong.
Những cây bút trẻ tươi tắn trong mạch tình cảm, đằm thắm với từng kỉ
niệm, giàu tình yêu và mơ ước, ngọn lửa trong thơ tỏa sáng, giọng thơ thiết
tha hùng tráng. Một số bài thơ như Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không
kính…. của Phạm Tiến Duật, Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Con
chim thời gian và Đất ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm, Bài thơ hạnh phúc của
Dương Hương Ly, Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc của Nguyễn Đức Mậu,
Sư đoàn của Phạm Ngọc Cảnh, âm thanh im lặng của Vũ Quần Phương, Vào
đêm và Sau tiếng bom nổ của Thái Giang, Về hỏa tuyến thăm con, Trở lại trái
tim mình của Bằng Việt, Phố cửa biển của Thanh Tùng, v.v… đều khỏe và
hào hùng. Cần có thêm nhiều những bài thơ loại ấy trong toàn bộ dòng thơ
trẻ.
Âm điệu trữ tình là một đặc điểm, một truyền thống quen thuộc của thơ ca ta.
Nhiều nhà thơ, nhà lí luận đã nêu lên nhận xét này. Có người xem đó là
một ưu điểm của thơ ta. “... Cái khỏe ở Việt Nam có một cách nói rất mềm. Ở
trong thơ, có khi cái anh hùng lại không mượn thể anh hùng ca mà lại trữ tình
thẫm mĩ…”. Có người lại thấy ở đặc điểm truyền thống này mặt hạn chế, hẹp
hòi: “…Trong thực tế của sự thẩm mĩ, của cái gu, thì cái dạ dày thơ của ta
vẫn thiên về sự khảnh ăn và thích ăn quen một vài lối nấu. Theo tôi nghĩ, cái
thích “trữ tình nguyên chất là chính đáng nhưng hẹp hòi”.
Thực ra thơ trữ tình nào cũng lặng về cảm xúc và dường như đó là một
dấu hiệu tất nhiên hơn là một đặc điểm. Tuy nhiên ở đây vẫn có những vấn
đề đáng nói. Truyền thống của thơ ca trữ tình Việt Nam thường thuần về cảm
xúc và yếu tố tự sự dường như được dành riêng cho một số thể loại như
truyện thơ, phú, hành… Chúng ta có một truyền thống về thơ tự sự qua các
loại diễn ca, trường ca, truyện thơ. Chúng ta cũng có nhiều bài phú có giá trị
mở rộng diện phản ánh cuộc sống, ôm được nhiều sự việc, nhiều tâm tình,
nhiều hình ảnh như Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, Chí Linh
sơn phú của Vũ Mộng Nguyên, Tịch cư ninh thể phú của Nguyễn Hàng, Tụng
Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng, Hàn nho phong vị phú của Nguyễn
Công Trứ…
Tuy nhiên, ngoài truyện thơ, trường ca, phú… ra, chất tự sự ít được
phản ánh trong các thể thơ trữ tình. Nhất là trong các thể thơ Đường luật do
sự hạn chế của khuôn khổ cách luật nên chất tự sự càng ít được quan tâm
phản ánh. Trong các tập thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Hồng
Đức… đều thuần hơi cảm xúc. Đến thế kỉ XVIII, tuy chất tự sự có được gia
tăng thêm trong thơ trữ tình do yêu cầu miêu tả cuộc đấu tranh xã hội khá gay
gắt, nhưng căn bản cảm xúc trữ tình vẫn là yếu tố có tính chất quán xuyến.
Trong một số khúc ngâm như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Tự tình
khúc đường dây sự kiện được sử dụng làm điểm tựa cho cảm xúc phát triển
và phần quyết định giá trị của khúc ngâm là ở nội dung của cảm xúc. Ngay ở
một số truyện thơ, phần cảm xúc thơ cũng chiếm vị trí quan trọng.
Thơ ca cổ cũng ít thiên về suy luận, phân tích và suy nghĩ trực tiếp. Tuy
có nhiều bài thơ có cấu tứ hay, cảm xúc sâu lắng, nhưng không thuộc dạng
thơ suy tưởng. Thơ ca của ta ít đi về phía lí trí, tính chất trí tuệ của thơ không
bộc lộ ở dạng thuần lí, mà tỏa vào mạch cảm xúc và hệ thống hình ảnh.
Người ta thường nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Cao Bá
Quát, v.v… với những bài thơ giàu chất suy nghĩ. Thực ra thì dấu ấn của sự
suy nghĩ có rõ nét hơn, song vẫn chưa hẳn lại một phong cách thơ suy tưởng.
Nhìn chung trong thơ ca cổ không có những bài thơ triết lí một cách tư biện
hoặc rơi vào suy tưởng trừu tượng. Chúng ta cũng ít thấy có những bài thơ
mà cảm hứng của thơ ca bị đẩy lùi, nhường chỗ cho sự phân tích, suy luận
của lí trí và bài thơ rơi vào sự khô khan. Phần lớn các bài thơ đều giàu cảm
xúc, lấy cảm xúc làm gốc của sự sáng tạo. Dòng cảm xúc khá thuần chất, ít bị
pha tạp bởi các nhân tố khác. Thực tế trên đã mang lại cho thơ ca nhiều ưu
điểm.
Một là những, sáng tác thơ mang rõ nét những đặc trưng của thơ ca.
Chất thơ phong phú, yếu tố cảm xúc dồi dào đã tạo cho thơ sức lôi cuốn, đắm
say.
Hai là trên hướng đi về giữa hình ảnh và cảm xúc như hướng chủ đạo
của cấu tứ và lập ý, hình tượng thơ có tính chất gợi cảm cụ thể, ít rơi vào trừu
tượng, như loại thơ suy tưởng hoặc khô khan như thơ kể sự việc.
Về hình thức, dòng thơ thuần cảm xúc thường có nhịp điệu trôi chảy,
dễ hòa hợp và ngân vang, để thích hợp với các thể thơ cách luật ngay cả với
các hình thức cách luật gò bó.
Tuy nhiên, trong những giai đoạn mà cuộc đấu tranh xã hội diễn ra
quyết liệt, loại thơ thuần chất trữ tình không đủ thỏa mãn nhu cầu của quần
chúng. Thơ phải mở rộng diện phản ánh thu hút về phía mình tất cả sự phong
phú của đời sống. Chất liệu trực tiếp của cuộc sống, sự việc, hình ảnh phải đi
vào trong thơ. Những yếu tố đó sẽ tạo nên cái gồ ghề và chất xù xì trong thơ
bên cạnh phần dịu dàng của cảm xúc. Mặt khác, thơ cũng cần đi về hướng
suy tưởng khái quát để góp phần đặt và giải quyết những vấn đề của đời
sống. Chất suy nghĩ trực tiếp và gián tiếp cần được gia tăng để thêm sức
mạnh cho thơ. Ngoài phần cảm xúc trong thơ, cũng cần có phân tích, bàn
luận, suy tưởng. Tương ứng với nội dung đó, hình thức của thơ cũng giãn ra,
mở rộng; cấu trúc của thơ có thể có câu gần với câu triết lí, với câu văn nuôi,
có câu ngắt theo nhịp ngắn một từ, hai từ, có câu dài treo dòng suy tưởng.
Khi nói âm điệu trữ tình là một trong những âm điệu chính của thơ ca
ta, chúng ta không chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu về thành phần cấu tạo của
thơ. Quan trọng hơn, chúng ta muốn nói đến đặc điểm đó như tiếng nói của
tâm hồn dân tộc. Tâm hồn của dân tộc qua hàng ngàn năm lịch sử đã bộc lộ
trong hồn thơ tiếng nói nhân đạo và yêu đương. Các nhà thơ lớn như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Tú
Xương, Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu, v.v… đều là những tâm hồn giàu
yêu thương, những trái tim lớn luôn cảm thông, chia sẻ niềm vui cũng như nỗi
đau của quần chúng nhân dân. Các nhà thơ lớn trong quá khứ đã “suy nghĩ
bằng trái tim”.luôn lấy nhịp đập và phần ấm nóng của trái tim làm thước đo,
đánh giá và tìm hiểu cuộc đời. Và trong cây đàn yêu thương đó thì sợi dây
thiết tha nhất là tình yêu đất nước và tình yêu thương những người bị áp bức,
đau khổ. Tố Hữu đã nói lên hết sức sâu sắc một mặt trong bản chất của quá
khứ qua hồn thơ của Nguyễn Du và Nguyễn Trãi:
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình.
Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều.
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua tiếng thơ kêu xé lòng.
“Nỗi đau nhân tình” ấy tạo nên chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong thơ của
Nguyễn Trãi và Nguyễn Du. “Tiếng thơ kêu xé lòng” ấy là tiếng kêu cữu của
một lương tâm đang bị giày vò, xúc động trước cuộc đời nhiều bất công. Âm
điệu trữ tình trong thơ còn được tạo nên ở sự giao cảm với một thiên nhiên
nhiều màu sắc. Hàng ngàn năm dân tộc Việt Nam sống chan hòa với thiên
nhiên. Núi non, ruộng đồng, cây cỏ ôm ấp vây quanh cuộc sống con người và
đi vào văn học với nhiều màu vẻ sinh động. Một đất nước nông nghiệp lâu
đời, một sắc lúa mênh mông, một cánh cò bay lả, một vầng trăng bầu bạn,
dường như đều in bóng trong tâm hồn của mỗi người. Tình cảm với thiên
nhiên không chỉ ở mặt thưởng ngoạn mà luôn có sự chia sẻ, kí gửi thật đằm
thắm, sâu xa. Không có một thời kì hoặc một khuynh hướng văn học nào loại
trừ thiên nhiên khỏi đối tượng miêu tả trong văn học. Bản chất của cảm xúc
với thiên nhiên là trữ tình. Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, giao cảm
với tạo vật trong những sắc thái rung động tinh vi nhất, tìm thấy ở thiên nhiên
những hòa điệu về tâm hồn, thơ ca càng đượm thêm sắc thái trữ tình.
Tìm đến thiên nhiên, các nhà thơ cũng có nhiều tâm sự khác nhau. Có
người tìm thấy thiên nhiên như một người bầu bạn vô tư, chung thủy, luôn gợi
lên trong lòng những cảm xúc thuần khiết khác xa với thói đời bôn tẩu trong
danh lợi, như Nguyễn Trãi với thế giới của suối đàn, thông reo, của phong
cảnh Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm với am mây vách khói và cảnh trúc biếc,
non xanh:
Giang sơn tám bức là tranh vẽ
Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu.
Thiên nhiên trở nên tình tứ với cái cảnh “Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu. Phất
phơ phấn bướm dồi mai” trong thơ của Phạm Thái. Và thiên nhiên trở nên
tinh nghịch, ngang ngược trong thơ Hồ Xuân Hương. Nếu không:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
thì cũng ngụ ý bông đùa, giễu cợt:
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Điểm giống nhau là thiên nhiên trong thơ ca cổ không phải chỉ là bức tranh vẽ
để thưởng ngoạn là chủ yếu là những hình ảnh để cho cảm xúc giao hòa.
Hình tượng thiên nhiên trong thơ không phải chỉ mang những đặc điểm của
hình tượng thị giác mà chủ yếu là phục vụ cho hình tượng cảm xúc, do đó
tính chất trữ tình càng đằm thắm thiết tha. Có khi các nhà thơ khai thác nhiều
bức tranh và hình ảnh trong thiên nhiên hơn là trong đời sống để nói lên cảm
xúc của mình. Hoặc để nói lên tình cảm yêu nước, tấm lòng băng tuyết của
mình, hoặc để bày tỏ tâm sự những nỗi niềm riêng tư thầm kín. Thiên nhiên
trong thơ Nguyễn Du bao giờ cũng là phiên ảnh của tâm trạng, gắn bó với nội
tâm theo cách nói:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Chỉ một cảnh vật trữ tình trong mối tình đầu của Kim – Kiều cũng nhiêu sắc
thái. Khi thì đằm thắm non tơ:
Dưới dòng nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
và khi cần châm biếm vui đùa thì con chim cũng thóc mách, tinh nghịch:
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành mỉa mai
và cây cỏ vô tư cũng tham gia vào cảnh ngộ:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu.
Ngay đến những phong cảnh của thiên nhiên qua tháng năm thay mùa đổi vụ
tuy được miêu tả khách quan, song thực ra vẫn gắn bó với một cái gì sâu xa
của tâm trạng. Thiên nhiên trong thơ của Bà huyện Thanh Quan nhuốm sắc
buồn của tâm trạng hoài cảm với quá khứ:
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Thiên nhiên in đậm nét trong thơ cổ đến mức độ đã trở thành những biểu
tượng quen thuộc để tưởng tượng hoặc ám chỉ cho những tính cách và cảnh
ngộ trong đời sống xã hội. Thuộc tính xã hội thâm nhập vào đời sống thiên
nhiên, con người nhân hóa thiên nhiên theo cách nói của Mac, nhưng không
phải ở khía cạnh cải tạo trực tiếp mà ở mặt thẩm mĩ, thưởng ngoạn. Từ sau
Cách mạng, thơ hướng chủ yếu vào nhiệm vụ đấu tranh xã hội, nhưng thiên
nhiên trong thơ vẫn có một vị trí quan trọng. Trong thơ Hồ Chí Minh, tình cảm
với thiên nhiên bộc lộ rõ tình yêu đất nước, yêu tự do và cái đẹp. Từ ngọn núi
cao, tiếng suối xa đến bông hoa núi, ánh trăng trong đều chứa chan thi vị.
Cảm hứng với thiên nhiên bao giờ cũng lạc quan và thể hiện rõ định thần làm
chủ. Thiên nhiên trong thơ Tố Hữu rất đẹp, đặc biệt với Việt Bắc và Nước non
ngàn dặm. Huy Cận, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi,
Phạm Tiến Duật… đều có thơ hay về vùng biển, làng quê và thiên nhiên ở
chiến trường.
Xu hướng trữ tình trong thơ phát triển vì nó phù hợp với mạch thiết tha
và kín đáo của nhiều trạng thái tình cảm và tâm hồn dân tộc. Từ cái tôi trữ
tình đến các nhân vật trữ tình trong thơ thường hiện ra với những tính cách
kín đáo, khiêm nhường, không ồn ào, sôi nổi trên văn mạch bên ngoài mà kín
nhiệm thiết tha với tiếng nói bên trong.
Tất nhiên đó không phải là đặc điểm quán xuyến chung của nền thơ.
Trong thơ ta vẫn bắt gặp những tiếng nói sôi nổi, phóng túng kiểu Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ… nhưng nhiều hơn vẫn là những cái
tôi trữ tình đầm ấm thiết tha. Và ngay ở những nhà thơ như Xuân Hương, Tú
Xương, chất trữ tình vẫn là một nhân tố hết sức quan trọng làm cái nền và
chiều sâu cho chất châm biếm, trào lộng.
Bản chất của trữ tình hòa hợp với sự kín đáo của nội tâm. Đó là một
hương thơm còn phong nhụy, một vẻ đẹp duyên dáng gợi cảm tỏa vào bên
trong và một sức sống rất mãnh liệt sâu sắc mà không phô bày. Ta bắt gặp
phẩm chất trên qua tấm lòng yêu thương của một người mẹ Việt Nam: Không
phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu lại tìm một nét so sánh Tổ quốc với một “Bà mẹ
sớm chiều gánh nặng. Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng”. Một bà mẹ có bao
giờ kể công với những người thân yêu khi từng việc làm cụ thể đều từ tấm
lòng yêu thương bao la mà ra. Ta cũng bắt gặp nét kín đáo và tế nhị của tâm
hồn qua tình cảm của những người con gái Việt Nam giàu yêu thương chung
thủy. Từ hình ảnh người phụ nữ vất vả, chịu thương chịu khó như những
“dáng cò lặn lội” trong ca dao, đến những nhân vật phụ nữ giàu đức hạnh
trong các truyện Nôm khuyết danh, tất cả đều có một tâm hồn và bộ mặt riêng
dịu hiền độc đáo. Những ngườu phụ nữ đều giàu lòng yêu thương và đức hi
sinh, họ luôn quan tâm đến hạnh phúc của những người thân yêu nhiều hơn
là của bản thân mình. Rất trân trọng với hạnh phúc riêng tư, nhưng lại biểu
hiện theo một cách riêng kín đáo. Cũng không phải ngẫu nhiên mà những sự
bắt gặp, những thương nhớ những sự gửi gắm tâm tình của trai gái trong thơ
ca ta lại nhẹ nhàng, kín đáo đến thế. Cũng có người cho rằng đạo lí của
Khổng Mạnh, lễ giáo phong kiến đã chi phối đã cách biểu hiện trên. Những
quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”, “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô”,
“tam tòng tứ đức”, đã đẩy người phụ nữ vào thế bị động, phụ thuộc, ít dám
bộc lộ tình cảm một cách tự nhiên. Chúng ta không phủ nhận đạo đức và lễ
giáo phong kiến đã ảnh hưởng đến nếp sống tình cảm của người phụ nữ
trong xã hội cũ ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên lễ giáo gò bó, hà khắc, đè
nén quyền sống tự nhiên của con người chỉ có thể tạo nên tính chất phụ
thuộc, nô lệ, thiếu tự tin, khô héo ở người phụ nữ, chứ không thể tạo nên một
sức sống lành mạnh, một tâm hồn giàu xúc cảm, yêu thương với những cách
biểu hiện tế nhị, kín đáo, thông minh. Và ngay ở những phạm vi mà lễ giáo
phong kiến ít có ảnh hưởng nhất như trong thơ ca dân gian, ta vẫn bắt gặp ở
đây nét duyên dáng, kín đáo của tình cảm nam nữ. Tình yêu của người bình
dân chân thành, thẳng thắn, bộc trực nhưng không bản năng thô bạo.
Trong thơ ca hiện đại, tuy tình cảm nam nữ đã đổi thay đi nhiều với
bước phát triển mới của xã hội, nhưng hình ảnh của một người con gái chung
thủy duyên dáng, kín đáo vẫn có một sức hấp dẫn đặc biệt. Qua văn xuôi, đó
là hình ảnh của cô Quế (Khói), của chị Sứ (Hòn Đất), chị X và Y. (sống như
Anh)… những người phụ nữ gan dạ, bất khuất trước kẻ thù, nhưng với anh
em đồng chí thì chan hòa cởi mở, và trong tình yêu lại dễ xúc động, yêu
thương. Trong bài thơ Quê hương của Giang Nam, ta chỉ bắt gặp những biểu
hiện của tình yêu qua một đôi mắt đen tròn, một nụ cười khúc khích, và cao
hơn cả là phút cầm tay hẹn hò giao ước, nhưng đằng sau đó là cả một tấm
lòng yêu thương thiết tha chung thủy. Tố Hữu đã nói đến những ngọn đèn
đứng gác trong những năm chiến tranh và liên tưởng tới những cô em gái
gan dạ, người bảo vệ trực tiếp ánh lửa linh thiêng đó. Hai hình ảnh bắt gặp
trong một liên tưởng không phải là ngẫu nhiên mà có những liên hệ sâu xa ở
bên trong.
Không gì thương bằng đôi mắt đen
Của người yêu nhìn ta đăm đắm
Không gì thân bằng những ngọn đèn
Trên đường đêm canh trời thăm thảm.
Ánh sáng thân yêu từ một đôi mắt đen vẫn là một hình ảnh đẹp mà các nhà
thơ quen dùng để nói đến phần cao đẹp của tâm hồn giàu yêu thương, chung
thủy của những cô gái Việt Nam, Nguyễn Đình Thi ca ngợi đất nước Việt Nam
cũng nhắc đến một hình ảnh tiêu biểu:
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thủy chung
Trong tình yêu, đôi mắt đen đã tự nó nói lên nhiều, nhưng khi cần bộc
lộ tình tình cảm thì thường hay gián tiếp mượn thiền nhiên mà nói:
Riêng em thì em nhớ
Chuối đầu vườn đã lổ
Cam đầu ngõ đã vàng
Em nhớ ruộng nhớ vườn
Không nhớ anh răng được…
(TRẦN HỮU THUNG - Thăm lúa)
hoặc xa xôi, gián tiếp mà thật yêu thương, gần gũi:
Con nhớ anh thường đêm biếng ngủ
Nó khóc làm em cũng khóc theo
Anh gởi về em manh áo cũ
Đắp cho con đỡ nhớ anh nhiều.
(GIANG NAM)
Trong Bài ca mùa xuân 1961 khi tác giả tâm sự chân tình:
… trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để em yêu…
thì người yêu dễ đồng tình ngay vì có thể nào đặt tình yêu đi trước lí tưởng.
Tuy nhiên với linh cảm sâu xa, người phụ nữ hiểu rằng qua sự “phân chia”
này mình vẫn luôn có được một tình yêu nguyên vẹn. Nhưng thật dịu dàng và
có một cái gì duyên dáng đằm thắm, của tâm hồn phụ nữ Việt Nam qua lời
đáp:
Em xấu hổ: “Thế cũng nhiều anh nhỉ!”
3. Một đặc điểm quan trọng tạo nên một truyền thống bền vững, sâu sắc trong nền thơ Việt Nam: đó là sự tồn tại và phát triển lâu đời của thơ ca dân gian qua các thời kì lịch sử và ảnh hưởng tích cực của nó đến những nhà thơ ưu tú của tất cả các thời dại
Dân tộc ta có một nền văn học dân gian phong phú và có truyền thống
lâu đời, thể hiện sức sống và kinh nghiệm đấu tranh xã hội và tự nhiên, thể
hiện trí tuệ thông minh và những xử lí tốt đẹp của nhân dân lao động qua
hàng ngàn năm lịch sử. Nền văn học dân gian của ta phát triển về nhiều mặt:
từ các loại hình phong phú về thơ ca dân gian, những kho tàng giàu có về
truyện cổ, những hình thức độc đáo của ca kịch dân tộc. Riêng về thơ ca,
chúng ta có những trường ca đượm khí thế anh hùng ca như Đam San, hoặc
trữ tình đằm thắm thiết tha như Xống chụ xon xao, những truyện thơ giàu tính
chất nhân đạo xuất hiện trong nhiều thế kỉ, những bài vè vừa mang tính chất
thời sự, vừa có tính nghệ thuật. Chúng ta lại có một kho tàng ca dao, tục ngữ
đậm đà phong vị trữ tình kết tinh những tình cảm cao quý của nhân dân,
những kinh nghiệm lao động và đấu tranh. Ca dao, tục ngữ phản ánh rất trực
tiếp tâm hồn dân tộc. Ca dao, tục ngữ là một kho báu, một nguồn nuôi dưỡng
vô tận cho thơ ca ở đây ta bắt gặp một sự đúc kết thường xuyên kinh nghiệm
sống, một nếp cảm nghĩ và lối nói năng quen thuộc hằng ngày của nhân dân.
Ca dao, tục ngữ là sự trựuc tiếp của dân tộc được phản ánh vào văn học. Nó
không bao giờ cũ, khô héo hoặc nghèo nàn đi mà luôn tươi mới, sinh động,
giàu có. Có nhiều câu ca dao vẫn giữ được sức sống là nguyên vẹn như khi
nó mới nảy sinh. Ta hãy đọc những câu:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Không biết những câu ca ấy đã sinh ra từ thời kì nào nhưng chỉ có một
điều rõ rệt là nó không bị cũ đi từ nội dung cảm nghĩ đến hệ thống từ biểu
hiện. Có những hình ảnh trong ca dao rất sinh động mà thơ ca ở những giai
đoạn phát triển sau này vẫn tiếp tục sử dụng với ý nghĩa ban đầu của nó mà
không gò bó, khiên cưỡng. Hình ảnh con cò trong thơ ca dân gian thật là đẹp
và nhiều màu sắc. Nó tiêu biểu cho nỗi vất vả và tính chịu thương chịu khó
của người.phụ nữ trong xã hội cũ. “Con cò lặn lội bờ sông. Gánh gạo đưa
chồng tiếng khóc nỉ non”. Con cò cũng tiêu biểu cho tình yêu thương của
người mẹ với con cái và tượng trưng cho tấm lòng trong trắng, thà chết không
chịu vẩn đục: “Con cò mà đi ăn đêm.... Có xáo thì xán nước trong. Đừng xáo
nước đục đau lòng cò con”. Hình ảnh một đàn cò trắng cũng gợi lên niềm vui
hội hè: “Một đàn cò trắng bay tung…” Và êm dịu hơn, một cánh cò đã nhẹ
nhàng đi vào câu hát lời ru của mẹ, của em ta tự thuở nào khiến cho cánh cò
cũng gợi lên hình ảnh của tuổi thơ.
Ca dao, tục ngữ không những chỉ thể hiện sức sống của tâm hồn dân
tộc qua nội dung, mà còn qua cách cảm nghĩ, qua những so sánh, liên tưởng,
châm biếm vừa giàu hình ảnh sinh động, vừa thông minh ý nhị. Thủ tướng
Phạm Văn Đồng cho biết rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất thích dùng
ca dao tục ngữ trong sinh hoạt hằng ngày cũng như trong thơ văn và chính đó
là một khía cạnh góp phần tạo nên ở Người một cốt cách, phong độ thuần túy
Việt Nam. “Hồ Chủ tịch là người Việt Nam, Việt Nam hơn người Việt Nam nào
hết. Ngót ba mươi năm bôn tẩu bốn phương trời. Người vẫn giữ thuần túy
phong độ, ngôn ngữ, tính tình của một người Việt Nam. Ngôn ngữ của Người
phong phú, ý vị như ngôn ngữ của người dân quê Việt Nam. Người khéo
dùng tục nữ, hay nói ví, thường có lối châm biếm kín đáo và thú vị. Làm thơ,
Người thích lối ca dao, vì ca dao là Việt Nam cũng như núi Trường Sơn, hồ
Hoàn Kiếm hay Đồng Tháp Mười vậy…”. Hồ Chí Minh chú trọng tới ca dao,
tục ngữ vì Người hiểu rằng đó là sức sống và tinh hoa của dân tộc. Lời ca
dao mộc mạc nhưng thấm thía và sâu sắc mang theo cả những nỗi niềm tâm
sự, những ước mơ thầm kín, những tiếng hát ngợi ca chân tình. Và trong
cuộc sống hôm nay, những cái gì đẹp nhất cao quý và tinh anh của đất nước
cũng trở thành lời ca tiếng hát trong tâm hồn dân tộc. Nguyên Hồng trong bài
thơ Cửu Long giang ta ơi đã kết thúc một cách sáng tạo bài thơ bằng những
lien tưởng độc đáo nhằm nói lên vẻ đẹp của đất nước hôm nay trong những
hình ảnh cụ thể và cả trong sức sống dân gian vô hình thấm rất sâu trong
nhịp sống của dân tộc.
Đêm nay
Cửu long giang vẫn âm vang sóng cát
Sao khuya lấp lánh
Lửa chài thức sáng nhịp hát hò ơ
Đồng Tháp xa đưa những tiếng mẹ ru
Hồ Chí Minh thành ca dao bát ngát.
(NGUYÊN HỒNG)
Những nhà thơ lớn ở các thời đại và các dân tộc đều tìm thấy ở thơ ca
dân gian một nguồn mạch trong sáng, tươi mát, dồi dào sức sống. Xanđo
Pêtôphi (1823 – 1849) được xem là một nhà lớn của nền thơ Hunggary, một
nhà thơ mang sâu sắc tính chất dân tộc. Pêtôphi là người đầu tiên đưa vào
thơ ca hình ảnh những người lao động bình thường, cũng như thơ của
Pêtôphi mang theo hơi thở và tiếng hát đẹp đẽ của dân ca Hung. Puskin là
nhà thơ lớn của thơ ca Nga, chính Puskin đã tiếp thu được truyền thống ưu tú
của thơ ca dân gian Nga và nâng cao cho phù hợp với yêu cầu của thời đại
mới. Các nhà thơ lớn của Trung Quốc như Khuất Nguyên, Lí Bạch, Đỗ Phủ,
Bạch Cư Dị đều ca ngợi Kinh Thi như một mẫu mực trong sáng và tuyệt đẹp
của thơ ca dân gian.
Có những dân tộc mà nền thơ ca dân gian có truyền thống lâu đời và
phát triển khá phong phú như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Đức,
Hung… Sự phát triển trên phụ thuộc vào những điều kiện nhất định về mặt
lịch sử, xã hội và giao lưu văn hóa của từng dân tộc. Với bốn ngàn năm lịch
sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam có một nền văn hiến lâu đời. Ý
thức dân tộc và dân chủ phát triển sớm tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự phát
triển của nghệ thuật và thơ ca. Thơ ca dân gian trở thành một nhu cầu tinh
thần và một vũ khí đấu tranh giai cấp không thể thiếu được trong đời sống.
Sáng tác thơ ca dân gian ảnh hưởng đến dòng thơ ca bác học. Những cuộc
đấu tranh bảo vệ dân tộc và đấu tranh giai cấp đã tác động đến các nhà thơ,
đem lại cho họ những nhận thức mới đúng đắn hơn về vai trò quần chúng và
những giá trị tinh thần do họ sáng tạo nên. Sự phát triển của văn học Việt
Nam trên nhiều thế kỉ đã chứng minh rất đầy đủ cho nhận xét là Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Nguyễn Khuyến,
v.v… đều chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của thơ ca dân gian. Chiếc
nôi ấm của thơ ca dân gian đã góp phần làm cho tiếng thơ của Nguyễn Du
thêm mềm mại trữ tình, đem vào một cốt truyện vay mượn cái hồn của dân
tộc khiến cho con người và cảnh vật đều chứa chan phong vị của đất nước,
quê hương. Hồ Xuân Hương đã thâu tóm được trong khiếu trào lộng của
mình nụ cười châm biếm, hóm hỉnh của dân gian. Lối ngụ ý và bóng gió dè
chừng của câu đố là đi vào thơ Xuân Hương một cách tự nhiên.
Chỉ một bài thơ Lấy lẽ cũng đã mang theo bao nhiêu chữ nghĩa, khẩu
ngữ của dân gian. Thơ Nguyễn Công Trứ cũng đậm đà phong vị dân tộc. Tác
giả sử dụng thành thục thể hát nói và đem lại cho nó một giá trị biểu hiện cao.
Hàn nho phong vị phú rất giàu hình ảnh và chất liệu dân gian. Tú Xương
Nguyễn Khuyến rồi Nguyễn Đình Chiểu đều chịu ảnh hưởng của thơ ca dân
gian. Nguyễn Khuyến nhà thơ của ruộng đồng và làng bản Việt Nam đã đem
vào trong thơ phong vị dân gian khi thì ở cảm hứng lành mạnh và thi vị của
phong cảnh làng quê, khi thì ở chất liệu ca dao tục ngữ được ăn nhập nhuần
nhuyễn. Chỉ riêng một câu thơ khóc vợ cũng đã chứa đực nhiều hình ảnh và
cách nói năng quen thuộc, từ bà lão “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn
váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu” đến ông lão “vất vơ vất vưởng,
búi tóc củ hành, buông quần lá tọa”. Phan Bội Châu cũng vận dụng nhiều thể
loại như hát giặm, hát nói, hát phường vải… phục vụ cho việc tuyên truyền tư
tưởng yêu nước. Phong trào Đông kinh nghĩa thục cũng có ý thức khai thác
những giá trị tích cực của thơ ca dân gian. Tản Đà, Trần Tuấn Khải đã hạn
chế được một phần tính chất khuôn sáo, tiêu cực trong thơ nhờ ở khuynh
hướng trở về với những hình thức thơ ca cổ truyền của dân tộc.
Ảnh hưởng của thơ ca dân gian đến các nhà thơ có nhiều mức độ khác
nhau và tùy thuộc vào quan điểm của các tác giả. Có người học tập được
trong thơ ca dân gian chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần lạc quan cách mạng, ý
thức đúng đắn về vai trò của quần chúng lao động… Có người ở mức độ hạn
chế hơn thiên về việc khai thác các thể loại của thơ ca dân gian và những
phương tiện biểu hiện.
4. Một vài đặc điểm truyền thống qua hình thức biểu hiện của thơ
Truyền thống dân tộc trong thơ vừa bộc lộ sâu sắc qua những phẩm
chất nội dung vừa biểu hiện rõ rệt qua những nhân tố về hình thức. Hơn mọi
thể loại nào hết, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong thơ gắn bó,
thâm nhập và chuyển hóa với những nét hết sức tinh tế. Cảm hứng thơ ca kết
hợp sự rung động về nội dung với những rung động về nhịp điệu, hình ảnh,
ngôn từ. Thơ ca Việt Nam cũng có những truyền thống quan trọng về mặt
hình thức biểu hiện, những yếu tố trực tiếp tạo nên hình thức dân tộc trong
thơ. Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài ý nhỏ về vấn đề ngôn ngữ và thể
loại.
Ngôn ngữ không phải là nhân tố quyết định số một tính chất dân tộc
trong thơ, nhưng rõ ràng là một nhân tố hết sức quan trọng. Tùy theo đặc
điểm cấu tạo của ngôn ngữ một dân tộc mà hệ thống nhịp điệu trong thơ
những sắc thái tu từ, những cách vận dụng ngôn ngữ cũng có những điểm
khác nhau.
Nhịp điệu, thanh điệu của thơ ca Việt Nam chủ yếu dựa vào sự hài hòa,
đối lập về thanh điệu bằng trắc của các từ và các đoạn tiết tấu. Các thể thơ
cách luật đều có những nguyên tắc quy định về sự hoá thanh và đối thanh
giữa bằng và trắc, và đó là một cơ sở quan trọng của thi pháp. Ngay đến các
thể thơ tự do tuy không có sự quy định cụ thể về nguyên tắc tổ chức câu thơ,
bài thơ, về hiệp vần, nhưng vẫn phải tuân theo những luật hài hòa về bằng
trắc để tạo nên nhịp điệu, tránh trúc trắc, rời rạc. Có những nền thơ mà nền
tảng của nhịp trong ngôn ngữ là sự lặp lại các âm tiết có trọng âm. Độ dài
ngắn của các âm tiết không đáng kể mà chủ yếu là âm tiết có trọng âm tạo
nên âm hưởng, sắc thái của nhịp điệu trong thơ Nga, Anh, Đức.
Có những nền thơ mà nhịp điệu được tạo nên bằng cách lắp lại một số
lượng âm tiết bằng nhau trong câu thơ. Trọng âm không đóng vai trò quan
trọng gì trong việc tạo nhịp như trong thơ Ba Lan, thơ Pháp. Câu thơ 12 âm
tiết kiểu Alêchxanđranh (6 + 6) thuộc loại này.
Có những hệ thống ngôn ngữ mà độ dài của các nguyên âm không
giống nhau. Sự luân phiên của các nguyên âm dài, ngắn theo những quy tắc
quy định tạo thành nhịp điệu của thơ như trong thơ ca cổ Hi Lạp, Arập, v.v…
Những vần thơ tổ hợp theo các kiểu khôrê (dài + ngắn) iămbơ (ngắn + dài),
đactin (dài + ngắn + ngắn), anapextơ (ngắn + ngắn + dài)… là cơ sở để tổ
chức các luật thơ.
Nhịp điệu trong thơ Việt Nam không chú ý phân biệt đến độ dài ngắn
của các âm tiết, mà chủ yếu là sắc độ cao thấp, thanh điệu trầm bổng, nhọn
sắc hoặc ngân vang của các từ và các nhóm từ. Ngôn ngữ thi ca Việt Nam
giàu nhạc điệu, dễ hiệp vần. Ngay trong các thành ngữ, tục ngữ cũng đã có
nhiều hình thức hiệp vần, hoặc theo vần chân hoặc theo vần lưng, hoặc nhiều
vần trong một câu, hoặc nhiều câu hiệp theo một vần. Nguyên tắc đối thanh
theo luật bằng trắc của các từ, các đoạn tiết tấu trên nền của thanh bằng tạo
điều kiện rất thuận lợi cho nhịp điệu của thơ trôi chảy nhiều màu sắc. Chế Lan
Viên có nhận xét về ngôn ngữ Việt Nam, “một thứ tiếng đơn âm, nhưng đa
thanh, làm cho câu thơ vừa ngắn gọn vừa có nhiều tính chất âm nhạc”. Tiếng
nói trầm bổng nhiều màu sắc, ngân vang của thơ đã tạo cho thơ nhiều khả
năng biểu hiện cảm xúc, làm cho ngôn ngữ thơ giàu tính chất diễn cảm.
Khai thác được tất cả năng lực biểu hiện và vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ
ca dân tộc để biểu hiện hiện thực phong phú của đời sống, đó là cơ sở chủ
yếu để tạo thành tính chất dân tộc trong ngôn ngữ thơ. Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nhiều lần nhấn mạnh cái giàu và đẹp của ngôn ngữ Việt Nam và đề
ra những nhiệm vụ quan trọng: “Điều quan trọng nhất ở đây là chúng ta phải
có ý thức sâu sắc về sự giàu đẹp của tiếng ta, về những khả năng vô hạn của
nó, phải rất nhạy cảm trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng ta, một vốn
quý của dân tộc Việt Nam ta, một công cụ rất có hiệu lực trong cuộc cách
mạng tư tưởng và văn hóa”. Thật vậy, từ cái đa dạng của một tí đến sự phong
phú của một nền ngôn ngữ thơ ca dân tộc ván còn là một điều bí mật, một
kho tàng ẩn kín cần nhiều tìm tòi suy nghĩ, phát hiện. Valêri có lí khi tác giả
cho rằng không ai có thể hiểu được một từ cho thật sâu sắc thấu đáo. Có
những từ ở chỗ này có vẻ đẹp nghiêm chỉnh như người lính trong hàng quân,
ở chỗ khác trong một vị trí, một văn cảnh khác lại trở nên nghịch ngợm, bóng
gió. Hồ Xuân Hương, Tú Xương... khéo khai thác ý nghĩa bóng gió, trào lộng,
châm chọc của các từ làm cho các từ trở nên sinh động, biết cựa quậy như
những sinh mệnh sống. Ở Hồ Xuân Hương mỗi từ không chỉ là một chữ, một
nghĩa mà còn tạo ra một sắc thái, một âm hưởng, một sự tác động về nhiều
mặt. Tú Xương cũng rất tài giỏi trong việc sử dụng ngôn ngừ cho ca. Cái nôm
na, tự nhiên, sinh động của ngôn ngữ trong đời sống vẫn được giữ lại trong
câu để thực hiện những chức năng thi ca đặc biệt:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng.
Cách sử dụng chữ nghĩa như thế không hiếm trong thơ Tú Xương.
Trước khi nói đến cái hay và cái đẹp, ngôn ngữ thơ ca cần phải được
sử dụng phù hợp với nếp suy nghĩ và cách nói năng quen thuộc của nhân
dân, với hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ dân tộc.
Ví dụ về cú pháp thi ca, cấu trúc của câu thơ có thể đổi thay để mở
rộng khả năng biểu hiện cuộc sống và tâm trạng của nhà thơ theo nhiều
hướng hoặc giãn ra như câu văn xuôi, hoặc theo lối bắc cầu, hoặc theo lối leo
thang… Chúng ta không hẹp hòi và có thể chấp nhận tất cả các hình thức
trên, nhưng đòi câu thơ bao giờ cũng phù hợp với ngữ pháp và lối nói năng
của dân tộc, tránh lối biểu hiện có tính chất lai căng xa lạ.
Những câu thơ bí hiểm kiểu Phạm Văn Hạnh và Nguyễn Xuân Sanh:
Mở gợi mùa xưa ngực giữa thu
Ngàn mày tràng giang buồn muôn đời
đều không vào được quần chúng, và kể cả những câu thơ ảnh hưởng thơ
Pháp của Xuân Diệu:
– Hơn một loài hoa đã rụng cành
– Non xa khởi sự nhạt sương mờ
– Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút ấy sang tôi phút này.
Huy Thông trong nhiều trường hợp cũng chịu sự chi phối cửa lối cấu trúc câu
thơ nước ngoài. Thật là khó để xem rằng những vần thơ sau là phù hợp với
lối diễn đạt của dân tộc:
Ghen anh bấy lâu dương chiến đấu tiền phương
Treo, dân dân soi gương cách mạng kiên cường
Ghen chiến sĩ trường chinh mức tháng ngày chưa hạn định
Núi hi sinh sẵn sàng lên tận đỉnh
Đường gian lao đi dẫu tới trục biên cương
Ghen những anh với anh, những năm này sôi nổi
Đứng lên xô rào cao đạp khám tối
Giành cơm cho bữa, tên cho nước, vị cho dời.
(Đón người an hem Việt Nam)
Chế Lan Viên có nhiều đóng góp vào việc mở rộng và tổ chức cho câu thơ có
cấu trúc mới mẻ hơn, nhưng anh cũng rơi vào xa lạ với những câu:
Cả cuộc đời mỗi lúc gọi ta lên
Như đêm hè mỗi lúc mọc sao thêm
Như ngày hè mỗi lúc mỗi bay chim
Anh đã biến đau thương thành sức mạnh.
Biến cái cúi đầu thành trận đánh
Nôi lặng im thành sóng vỗ thuôn trùng
Biến cái rụng rơi thành sự vun trồng,
(Giữa tết trồng cây)
Rõ ràng là trong vấn đề cú pháp thi ca cũng thể hiện một khía cạnh của tính
chất dân tộc trong thơ. Ngôn ngữ trong thơ phải vừa mang được những yếu
tố tích cực của truyền thống lại phải luôn đổi mới, sáng tạo. Những nhà thơ
lớn của mỗi dân tộc đều có những kinh nghiệm cụ thể trong việc tiếp thu tinh
hoa ngôn ngữ dân tộc và sáng tạo cái mới. Trên phương diện này cũng có hai
mặt cần khắc phục. Một là cần tránh lối sử dụng ngôn từ xưa cũ, và quan
niệm rằng như thế là dân tộc. Nhược điểm này xảy ra phổ biến trong thơ thời
kì Cách mạng tháng Tám và những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Thơ
ca lúc này cũng còn sử dụng nhiều phương tiện biểu hiện cũ, nhất là những
nhà thơ thời kì trước Cách mạng. Vũ Hoàng Chương rất cổ và sáo khi ta
người nữ du kích:
Lòng gái rung theo nhịp lữ đoàn
Lâu rồi chinh chiến lạnh dung nhan
Chiêu dương bừng ửng đôi gò má
Gợn ánh hồng pha mây hợp tan.
Trong thơ ca hiện nay, nhược điểm trên chỉ bộc lộ trong một vài trường
hợp riêng lẻ. Lưu Trọng Lư trong bài thơ dài Trăng xoan viết về chủ đề mới
nhưng lại sử dụng những từ ngữ và một âm điệu ngôn ngữ có phần xưa cũ
làm cho những cảnh tiễn đưa lên đường chiến đấu trong những nắm chống
Mĩ có một vẻ chinh phu chinh phụ ngày xưa. Tập thơ Người con gái sông
Gianh của anh cũng lộ rõ nhược điểm này.
Hai là khuynh hướng lấy danh nghĩa là tìm tòi, sáng tạo, là chống bảo
thủ, nhưng thực chất về nội dung là những tư tưởng phức tạp, và về hình sức
biểu hiện là những câu thơ viết ẩu chủ nghĩa sử dụng tùy tiện. Nhiều cây bút
thơ trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm đều cùng có một lối viết này:
Dĩ vãng tua trăm ngàn chân rết
Móc xuống đầu người
Nếp cũ muôn đời
Sừng sững như con ngáo ộp.
Những con người dám cả gan đánh bốc
Với nhưng già nua cũ kĩ với cuộc đời.
(LÊ ĐẠT – Động long mạch)
Sự phong phú của ngôn ngữ thơ ca Việt Nam về mặt ngữ điệu, nhạc
điệu đã tạo cơ sở để hình thành nhiều thể loại thơ ca giàu năng lực biểu hiện.
Phần lớn những thể thơ cổ truyền đều rất uyển chuyển về nhịp điệu giàu nhạc
điệu, dễ biến hóa. Trên nền của thanh bằng, cách gieo vần, đối thanh, ngắt
nhịp dễ hài hòa và tạo nên một âm hưởng trữ tình mềm mại, ngân vang. Khi
lấy âm trắc làm chủ vận, câu thơ khỏe, đằm, sâu và chắc. Các hình thức thơ
ca cổ truyền cũng như các thể thơ cách luật của dân tộc thường lấy thanh
bằng làm chủ vận, và làm nền của nhịp điệu. Câu thơ Việt Nam cổ truyền giàu
nhạc tính, trôi chảy lôi cuốn. Phần lớn các thể thơ cổ truyền của dân tộc đều
có thể ca hát được. Thơ rất gần với ca. Thể thơ bốn từ cũng được sử dụng
nhiều trong các điệu hát, hoặc giữ nguyên thể nhưng phổ biến hơn là phối
hợp với thể khác như thể tứ bát trong quan họ Bắc Ninh… Thể thơ năm từ
phổ biến trong thể hát giặm Nghệ Tĩnh. Thể thơ bảy từ được dùng trong lối
hát sử, thể thơ lục bát được dùng phổ biến trong các loại dân ca như xoan
Phú Thọ, quan họ Bắc Ninh, cò lả, sa mạc, trống quân, hò Trị Thiên, bài chòi
Khu Năm, v.v… Chính đây là một đặc điểm trong các thể thơ cổ truyền của
dân tộc phù hợp với đặc điểm của ngôn ngữ Việt Nam, phù hợp với tiếng nói
yêu thương nhân đạo, với tâm hồn giàu tính chất trữ tình của người Việt nam.
Câu thơ cổ truyền Việt Nam có thể xướng ngâm theo những làn điệu thích
hợp. Làn điệu ngâm thơ tuy không phải là nhạc điệu bên trong của từng bài
thơ cụ thể, song cũng gần gũi vì nó phù hợp với từng thể loại thơ nhất định (ví
dụ ngâm thơ lục bát, lục bát gián thất v.v…). Có hệ thống nhịp điệu thơ ca
thuận lợi cho việc ngân và hát, nhưng cũng có nhịp điệu thơ ca chỉ có thể đọc
được. Maiakôpxki tổ chức nhịp điệu câu thơ dựa chủ yếu vào một số trọng
âm mà không chú ý đến các âm tiết, các chân thơ kiểu iămbơ hay khôrê nên
thơ của Maiakôpxki không ngâm mà chủ yếu là đọc. Nhiều dân tộc chỉ đọc
thơ mà không ngâm thơ. Điều đó có lý do ở đặc điểm của hệ thống nhịp điệu
thơ ca củu từng dân tộc. Trong các thể thơ ca cổ truyền thì thể thơ lục giác có
một vị trí quan trọng. Cấu tạo và nhịp điệu của câu thơ lục bát mang tính chất
độc đáo Việt Nam. Trên nền của thanh bằng, câu thơ lục bát có âm hưởng trữ
tình rất ngân vang khi dìu dặt tha thiết, khi trong sáng tươi vui. Câu thơ lục bát
gìau nhạc tính. Từ nhịp điệu câu thơ lục bát có thể cất lên lời ca điệu hò một
cách tự nhiên ít phải đổi thay. Phần lớn các loại dân ca đều dựa vào nhịp điệu
và cấu tạo của thể lục bát, nhất là dân ca đồng bằng Bắc Bộ. Trong số 285
bài quan họ trong Dân ca quan họ Bắc Ninh có tới 237 bài thơ thể lục bát.
Thể lục bát có ưu điểm lớn để diễn tả nội dung trữ tình thuần chất, rất thích
hợp khi nói lên một tình thương nỗi nhớ:
Yêu em yêu cả khoảng trời
Sương giăng buổi sớm, nắng dài chiều hôm
Tháng tư giông chuyển bồn chồn
Hạt mưa vây ấm, nỗi buồn cách xa…
Phía em phía của quê nhà
Trắng là tóc mẹ, xanh tà áo em
Anh đi kháng chiến trăm miền
Hướng dương thương nhớ vẫn nghiêng phía này.
(NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
hoặc diễn tả một bức tranh sinh hoạt ấm cúng và thân thuộc gần gũi:
Tiếng chim đã biệt núi rừng
Nhà ta lặn xuống mấy từng đất son
Vẫn vang tiếng mẹ ru con
Vẫn nghe dế hát ven đường hầm sâu
Cây vươn lá mọc trên đầu
Sống trong hầm chật mà giàu yêu thương
(PHẠM HỔ)
hoặc cả một trạng thái tĩnh của tâm hồn, cảnh vật:
Trước lầu lưng Bích khóa xuân
Mảnh non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
(NGUYỄN DU)
hoặc một lối kể chuyện tự nhiên:
Gan chi gan rứa mẹ nờ
Mẹ rằng cứu nước mình chờ chi ai?
Chẳng bằng con gái con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thi tôi cứ việc nắng mưa đưa đò…
(Tố Hữu)
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm, thể lục bát có những hạn chế
trong việc biểu hiện cái quyết liệt và sôi nổi của hiện thực khách quan. Cuộc
sống với tất cả những sự kiện bề bộn, những chất liệu phong phú, và sắc thái
đa dạng nhất cũng gặp khó khăn khi đưa vào thơ lục bát. Ta hãy đọc cái kết
thúc rất khỏe chứa chất sức nặng căm thù và thể hiện một quyết tâm hành
động trong bài Thù muôn đời muôn kiếp không tan của Tố Hữu:
Đã giết ta, sẽ giết lại loài bay
Bão ngày mai là gió nổi hôm nay
Trời chớp giật, ta đến ngày sét đánh.
Ta hãy đọc một khổ thơ tự do mà âm hưởng rất lay động, sức sống cuồn
cuộn như muôn phá ra, tung ra tên mạch thơ:
Ơ cái gió Tuy Hòa
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng
Gió đi ngang đi dọc
Gió trẻ lại – lưng chừng
Gió nghĩ
Gió cười
Gió reo lên lồng lộng
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
– Còn mấy bước tới Nha Trang
– A gần lắm
Ta gần máu...
Ta gần người..
Ta gần quyết liệt.
(TRẦN MAI NINH)
Câu thơ lục bát ít có điều kiện thuận lợi và khả năng để bảo lĩnh cảm hứng và
chất liệu thi ca trên.
Thể lục bát cũng thích hợp để diễn tả cảm xúc trữ tình thuần chất hơn
là chất suy nghĩ, tự sự, chính luận. Trong thơ ca hiện nay sự thâm nhập của
các chất suy nghĩ, chính luận, tự sự vào thơ ngày càng rõ rệt. Do đó vị trí của
thể lục bát trong thực tế bị hạn chế hơn. Qua tuyển tập thơ Việt Nam 1945 –
1960, tỉ lệ bài thơ làm theo thể lục bát so với tổng số phận thơ miền xuôi là
15/126, một tỉ lệ thấp hơn so với thơ tự do, một thể thơ mới phát triển. Qua
tuyển tập Thơ chống Mĩ cứu nước, tỉ lệ thơ lục bát là 11/159, một tỉ lệ thấp
nhiều lần hơn thơ tự do. Chúng ta không qua thực tế đó mà nghĩ rằng thể lục
bát đã trở nên xưa cũ. Thể lục bát vẫn tỏ ra duyên dáng, trữ tình trong những
đề tài và cảm hứng thi ca thích hợp. Vấn đề đặt ra là người viết phải tìm tòi,
sáng tạo để đem lại năng lực biểu hiện mới của thể loại qua những đề tài
mới. Tố Hữu với Việt Bắc và nhất là Nước non ngàn dặm rất sáng tạo và
nâng cao năng lực biểu hiện của câu thơ lục bát.
Tính chất phong phú về nhạc điệu có ngôn ngữ cũng như nhịp điệu của
các thể thơ truyền thống của dân tộc yêu cầu các nhà thơ hiện đại phải chú
trọng đúng mức tới vai trò của nhạc điệu trong thơ. Đó là nhạc điệu bên ngoài
được tạo nên do những biện pháp kĩ thuật và chủ yếu hơn là nhạc điệu bên
trong của câu thơ, một phẩm chất của sự hài hòa giữa nội dung và hình thức.
Có thể bài thơ không có sự hiệp vần, hoặc ít được hiệp vần, và viết theo thể
tự do nhưng vẫn giữ được tính cân đối, hòa điệu trong nội dung cũng như
trong hệ thống ngôn từ để tạo nên một nhạc điệu riêng hấp dẫn, độc đáo.
Trên thiên hướng thơ tự do ngày càng phát triển và trở thành chủ thể, nhiều
nhà thơ khi viết thơ theo thể tự do đã ít lưu ý đến nhịp điệu của từng câu thơ,
sự hòa hợp về nhạc điệu trong một khổ thơ, một bài thơ. Do đó tác dụng
truyền cảm của thơ bị hạn chế. Tố Hữu là nhà thơ luôn chú ý đúng mức tới
vai trò của nhạc điệu trong thơ. Nhiều câu thơ chủ yếu nhắc đến tên các địa
phương, nhưng khi đã nhập vào một âm hưởng thơ do một nhịp điệu riêng lôi
cuốn thì tên của mỗi địa phương không còn thuần túy là một danh từ riêng mà
đã có sức sống và có hồn từ bên trong.
Ai đi Nam Bộ
Tiền Giang, Hậu Giang
Ai vô thành phố
Hồ Chí Minh
Rực rỡ tên vàng
Ai về thăm bưng biền Đồng tháp
Việt Bắc, miền Nam, mồ ma giặc Pháp
Nơi chon nhau cắt rốn của ta
Ai đi Nam Ngãi, Bình Phú, Khánh Hòa
Ai vô Phan Rang, Phan Thiết
Ai lên Tây Nguyên, Công tum, Đắc Lắc
Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung…
Trong các bài thơ theo thể tự do như Với Leenin, Êmily con, Bài ca mùa xuân
1961, Chào xuân 67 v.v… Tố Hữu đều có ý thức giữ cho câu thơ có nhạc
điệu riêng để tăng thêm sức gợi cảm của nội dung. Quan tâm thích đáng tới
nhạc điệu của bài thơ vừa phù hợp với đặc trưng của cơ, vừa phù hợp với
tính chất giàu nhạc điệu của truyền thống ngôn ngữ và thơ ca dân tộc. Nhà
thơ Sóng Hồng đã quan niệm rất đúng vai trò nhạc điệu trong thơ khi viết:
Vần hay không tôi vẫn cho là thứ yếu
Nhưng vắng âm thanh réo rắt đố thành thơ.
Những yếu tố truyền thống trong có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với sự phát của thơ ca hiện đại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhiều lần nhấn
mạnh đến vai trò của truyền thống, sức nặng của truyền thống đối với hiện tại.
Truyền thống là những nhân tố tích cực, bền vững được hình thành và bồi
đắp trong quá trình phát triển của dân tộc. Truyền thống trong thơ Việt Nam,
một nền thơ có truyền thống lâu đời lại càng có giá trị. Hơn nữa, những yếu tố
truyền thống trong nội dung cũng như trong hình thức của thơ cho đến nay
vẫn mang ý nghĩa gần gũi và trực tiếp với những vấn đề đang đặt ra cho cuộc
sống hiện tại. Nhiều nhà thơ chưa có ý thức học tập truyền thống một cách
đầy đủ. Những giá trị của truyền thống luôn đòi hỏi ý thức tìm tòi, phát hiện
nghiêm chỉnh, công phu. Đó là những viên ngọc quý rải rác khắp nơi có chỗ
nổi lên lấp lánh, có chỗ bị phủ đi bởi những lớp bụi thời gian. Nhiệm vụ của
chúng ta phải tìm tòi, chọn lọc và quan trọng hơn cả là biết cải biến, nâng cao
cho phù hợp với yêu cầu hiện tại. Không có một yếu tố truyền thống nào trong
thơ ca dân tộc dù cho là toàn bích đến đâu lại có thể “bê nguyên xi” vào trong
thơ hiện đại. Vấn đề ở chỗ là phải sáng tạo – sáng tạo trên cơ sở phong phú
của truyền thống thơ ca dân tộc. Đó là một trong những hướng đi đúng nhất
của thơ ca hiện nay. Chúng ta rất cần học tập tinh hoa của thơ ca nước ngoài
với tinh thần sáng tạo và ý tứ dân tộc đầy đủ. Cần phê phán khuynh hướng
xem nhẹ hoặc quay lưng lại với truyền thống và chạy đuổi một cách mù
quáng theo những khuynh hướng ngoại lai và xem đó như là những tiêu
chuẩn mẫu mực của thơ ca hiện đại.
II. VẤN ĐỀ SÁNG TẠO TRONG THƠ CA“Văn học nghệ thuật là một mặt hoạt động của con người nhầm hiểu
biết khám phá, và sáng tạo thực tại xã hội”. Vấn đề sáng tạo vừa là mục đích
vừa phải là bản chất của nhận thức nghệ thuật. Riêng đối với thơ ca, yêu cầu
sáng tạo có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sáng tạo là phát hiện và khẳng
định cái mới trong nội dung cũng như trong hình thức mà cơ sở của nó là cái
mới nảy sinh trong đời sống xã hội. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng chỉ ra
rằng “cái mới là cái đẹp”, “cái mới là đối tượng, là nội dung, là mục đích của
người nghệ sĩ”. Khi bất kì một hoạt động nghệ thuật nào trở lại nhiều lần trên
nẻo đường mòn quen thuộc, không mở được hướng đi về phía trước, dự cảm
và nắm bắt được tương lai thì chính đó là dấu hiệu rõ rệt của sự bế tắc.
Thơ ca luôn giữ được phẩm chất đẹp và sức sống thanh xuân của
mình nhờ ở sự sáng tạo. Sự sáng tạo đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của thơ, một thể loại văn học dễ có khả năng lặp lại mình một thể loại mà sức
ì, tính ước lệ, cảm xúc mòn luôn thâm nhập vào trong thơ. Các nhà thơ, các
nhà lí luận qua nhiều thế kỉ đều thấy rõ ở thơ nhược điểm này. Thơ trữ tình
chủ yếu là tiếng nói của nội tâm, là sự dội vang vào bên trong những âm
hưởng của đời sống. Nếu so với các thể loại khác, nó ít được sự tiếp sức, ít
vay mượn trực tiếp hơn cái mới mẻ của cuộc sống. Bản thân cuộc sống
không tự lặp lại mình. Người viết tiểu thuyết, kí, kịch nương nhờ rất nhiều vào
cái mới của cuộc sống. Nhưng cái mới trong đời sống muốn trở thành cái mới
trong thơ ca lại phải được tái tạo qua phần mới mẻ nhất của tâm hồn và cảm
xúc. Các trạng thái cảm xúc trong thơ rất phong phú, biến hóa tuy có một số
vẫn tuần hoàn trong một số dạng chung, nhất là những cảm xúc về những
chủ đề quen thuộc đặt ra cho tất cả mọi thời đại. Tự nhiên là mỗi chủ đề phải
được nhận thức và giải quyết khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử, song
nếu thiếu một quan điểm giai cấp nhạy bén, nếu thiếu sự mẫn cảm về những
đặc trưng cụ thể nhất của một thời kì lịch sử với những sắc thái và âm vang
riêng của nó thì bài thơ lại dễ rơi vào tình trạng chung chung, lặp lại một điều
gì đã nói. Ví dụ khi nói về niềm vui của một tình yêu được chia sẻ và nỗi buồn
của một mối tình tuyệt vọng. Người viết dễ bị lặp lại ở mặt này hay mặt khác
với những sáng tác cùng đề tài trong giai đoạn trước. Nên có người cho rằng:
“Chướng ngại chính đối với ảnh hưởng của trữ tình chân chính là ở chỗ nó
hình như bao giờ cũng mô tả cái cũ, cái quen thuộc, cái đã biết từ lâu”. “Các
đề tài và mô–típ tổ ra không những là có một tính cố định lạ lùng qua các
thiên niên kỉ mà nhiều khi còn có tính chất ngưng trệ nhất định, một xu hướng
dừng lại trong công thức rập khuôn”.
Cũng có người nói đến nhược điểm trên một cách cực đoan với tinh
thần châm biếm.
Với xu thế có phần trì trệ và dễ đi vào những nẻo đường mòn nên các
nhà thơ trữ tình luôn yêu cầu ở thơ trữ tình sức sáng tạo như là một phẩm
chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của thơ. Viên Mai cũng nhấn mạnh:
“Làm thơ quý nhất là lật đổ cái án cũ mới hay”. Oant Uytman cho rằng nhà
thơ cần phải đi tìm những lĩnh vực mới của cuộc sống. Apôline vẫn được xem
là một nhà thơ giàu óc tưởng tưởng luôn có ý thức tìm tòi “cái mới”. Apôline
đã có lí khi quan niệm về chức năng của các nhà thơ: “Chúng ta là những kẻ
luôn luôn chiến đấu ở biên giới của cái vô hạn và tương lai”. Tuy nhiên khi ca
ngợi vai trò của sức tưởng tượng sáng tạo trong thơ không khỏi có lúc tác giả
rơi vào cực đoan.
Một số nhà thơ lại nhấn mạnh đến cái giới hạn ràng buộc, đóng khung
lại cuộc sống của con người, nhất là trong suy nghĩ và cảm xúc. Thơ ca có
nhiệm vụ nói như Guyzơvich, là luôn kiểm tra lại những xúc cảm của con
người và đẩy xa hơn những giới hạn ràng buộc nó “Làm giàu con người với
những cảm giác mới mẻ, những tình cảm mới mẻ, những tư tưởng mới mẻ,
tóm lại những cách cảm thụ mới”. Qua đấy con người trở nên phong phú, làm
chủ được mình một cách đầy đủ hơn.
Cái mới mẻ cũng luôn đặt ra một cách khẩn trương, cấp bách với
phong cách sáng tạo riêng của từng nhà thơ. Phải làm sao để mình vẫn là
mình, nhưng luôn không tự lặp lại mình. Nhà thơ Tố Hữu có lần cũng đã nói
lên mong muốn khỏi lặp lại mình, một ước mong giản dị nhưng cũng rất lí
tưởng.
Tìm tòi cái mới, phát huy sức sáng tạo trong thơ là một nhiệm vụ, một
yêu cầu cơ bản và cấp bách luôn đặt ra cho nền thơ của các dân tộc, nhưng
điều khó khăn nhất là ở chỗ xác định thế nào là cái mới trong thơ. Cái mới
trong những thể loại văn xuôi phản ánh trực từ cuộc sống hằng ngày luôn
thuận lợi là có được sự kiểm tra, đối chiếu với những sự kiện, những con
người có thật trong đời sống. Với thơ có khó khăn hơn; cái mới trong thơ có
thể được tìm tòi từ nhiều nẻo đường khoác những bộ áo mới lộng lẫy khác
nhau nhưng cũng rất dễ lẫn lộn giữa cái thật và cái giả cái có giá trị lâu dài và
cái trôi qua nhất thời. Có những cái được mệnh danh là mới nhưng thực chất
là lỗi thời. Nói như Bêsơ, “có khi cái lỗi thời trong nghệ thuật mang mặt nạ là
cái cách mạng và khoác những hình thức mới”. Như thế là cái mới phải được
thử thách và được thừa nhận trong dư luận của công chúng. Cái mới cũng
đòi hỏi sự khám phá, sáng tạo với tinh thần chủ động tích cực nhưng không
thể là sản phẩm bệnh hoạn của những bộ óc chủ quan.
Cái mới trong thơ được tạo nên từ trong những nhân tố mới xuất hiện
trong cuộc sống cộng với phần sáng tạo của tâm hồn thơ. Cái mới được hình
thành và khẳng định trên sự thống nhất hữu cơ giữa cơ sở khách quan và vai
trò sáng tạo chủ quan của nhà thơ.
1. Cơ sở khách quan và vai trò chủ quan để hình thành và sáng tạo cái mới trong thơ
Trước hết nói về cơ sở khách quan. Mĩ học duy tâm chủ quan phủ nhận
cơ sở khách quan để tạo nên cái mới trong nghệ thuật. Họ xem cái mới trong
nghệ thuật là do sự sáng tạo chủ quan của mỗi nhà thơ góp phần quyết định.
Thực ra cái mới trong nghệ thuật trước hết do cái mới của cuộc sống tạo nên.
Như một dòng sông bồi đắp cho cuộc đời những bãi tân bồi, màu mỡ phù sa,
cuộc sống không ngừng phát triển và đổi mới. Như một cây đời xanh tươi có
gốc rễ cắm sâu trong lòng đất luôn đơm hoa kết quả theo quy luật sinh hóa tự
nhiên, cuộc sống không bao giờ khô héo. Cái mới trong cuộc sống là cơ sở
cho hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ. Cho dù với một trí tưởng tượng
phong phú đến đâu chăng nữa, nhà thơ vẫn bị những giới hạn hết sức chặt
chẽ của đời sống chi phối mà trên nhiều phương diện không vượt qua được.
Như trong thơ ca Việt Nam, và rộng hơn là trog thơ ca thế giới, hình tượng
đêm luôn bị bao trùm trong những cảm xúc sợ hãi, lo lắng. Nhà thơ biết tìm ra
vẻ đẹp của đêm trăng thơ mộng, nhưng hình ảnh đêm đen lại luôn gợi ra
những bí ẩn của lực lượng thiên nhiên đang rập rình đe dọa khi con người
chưa làm chủ được vận mệnh mình, và luôn phải sống trmg tình trạng cô
đơn, lo âu, sợ hãi. Nguyễn Du đã khái quát bức tranh xã hội khủng khiếp qua
hình tượng đêm dài tăm tối:
Đêm trường dạ tối tăm trời đất
Bóng đêm chụp lấy cuộc sống của con người. Trong màn đêm dày đặc ấy
đang diễn ra biết bao đau khổ vì đói rách, cô đơn, trộm cướp và nổi lo sợ
những yêu ma quỷ quái. Các nhà thơ Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Từ Diễn
Đồng… đều viết những bài thơ về đêm với cảm hứng lo lắng, xót xa. Thật là
bồn chồn, hốt hoảng và cô đơn biết bao tâm trạng của Tú Xương trong đêm
dài:
Đêm sao đêm mãi tối mò mò
Đêm đến bao giờ mới sáng cho
Đàn trẻ u ơ chừng muốn dậy
Ông già thúng thắng vẫn đang ho
Ngọn đèn rình trộm khêu còn bé
Tiếng chó kinh người cắn vẫn to
Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa
Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho.
Cho dù trong bóng đêm ấy có ánh sáng của ngọn lửa đèn, nhưng hình ảnh
một ngọn đèn dầu trong thơ, cũng như trong ca dao xưa vốn thật hắt hiu, leo
lét. Nó không đủ át đi bóng đêm mà chỉ càng làm cho đêm tối thêm chập chờn
ẩn hiện. Trong chừng mực mà con người chưa làm chủ được vận mệnh
mình, cuộc sống vẫn còn nhiều tai họa bất ngờ ập đến do bất công và tội ác
gây nên thì hình tượng đêm đen vẫn không tạo được cảm xúc đẹp ở người
nghệ sĩ. Khi nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc chiến
tranh thần kì lấy đêm làm đã tạo nên ở nhiều nhà thơ những cảm hứng mới.
Hình tượng đêm xuất hiện với những nét mới và sáng tạo qua thơ Tố Hữu:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thêm thăm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Trong những năm chống Mĩ, cứu nước, đêm đen là một hình tượng được các
nhà thơ khai thác và miêu tả với nhiều tìm tòi nhiều sắc thái mới. Màn đêm
bưng lấy mắt kẻ thù tàn bạo, nhưng màn đêm lại là người bạn đắc lực của
cuộc chiến tranh nhân dân đầy sáng tạo. Những đêm hành quân cả nước lên
đường, những đêm xung kích lao vào trận đánh, những đêm đất nước hồi
sinh lại sức sống, cỏ cây ruộng đồng bị đốt cháy chảy lại dòng nhựa sống,
bầu không khí ngột ngạt nồng khét bom đạn lại trong lành. Đó là đêm của
miền Nam trong chiến đấu:
Đêm Quảng trị dắt ta vào trận đánh
Thủ pháo rung rung đầu kíp nụ xòe
Đêm kì diệu quen nhuộm màu đen nhánh
Đêm nghìn đời đất thánh vẫn trùm che.
(VŨ NGÀN CHI)
hay trăn trở hơn trong những cảm xúc ngọt ngào, sâu lắng của tình yêu đất
nước quê hương:
Ôi yêu sao đêm đồng bằng gian khổ
Đêm thấm sâu mang nặng tình châu thổ
Đêm ngọt ngào hương gió quyện phù sa
Đêm bao la trong ánh lửa sóng lòa
Đênh trăn trở một bình nguyên giải phóng
Đêm gợi dậy một bình minh sức sống.
(DIỆP MINH)
Sức sống của dân tộc lao vào cuộc chiến đấu đã cho Xuân Diệu sức mạnh để
anh vượt trong bóng đêm của những chuyến đi thực tế và tìm được sự giao
cảm với con người và tạo vật:
Đêm hành quân thả tâm hồn đi trước
Yêu với căm hai đợt sóng ào ào
Vỗ bên lòng dội mãi tới trăng sao.
Nơi có bong đêm trùm che cũng chính là nơi mà nhịp sống căng thẳng sôi nổi
nhất. Không phải là sự lặng im bao trùm trong giấc ngủ, mà nói như Phạm
Tiến Duật:
…Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích
Kéo pháo lên trận địa đồng cao
…Nơi tắt lửa là nơi dài tiếng hát
Đoàm thanh niên xung phong phá đá sửa đường.
Đimitơrôva, một nhà thơ nước ngoài đến Việt Nam đã bắt được vẻ đẹp và
nhịp điệu sống của những đêm chiến đấu. Thật là sáng tạo khi so sánh đêm
đen như lửa chưa được tìm ra:
Chung quanh chúng tôi trời đêm và tối đen như mực
Như là lửa chưa được tìm ra.
Một cặp mắt từ ngoài nhìn vào một khoảng tối dày đặc, chị nghĩ đến ánh lửa
chưa tìm ra. Đó là ánh lửa thực ngoài cuộc đời và cũng là ánh lửa trong tâm
hồn, trong một cách nhìn mà phải tìm cho được. Trong bóng đêm vẫn có tiếng
người cười nói, tiếng nói của sự sống và tình yêu bên cạnh hố bom và cảnh
tượng đổ nát:
Và thế là tất cả đều đầy khả năng
Thế gian đổ nát hóa thành trẻ trung sinh khí
Và tất cả lại bắt đầu
Họ đã tìm ra lửa
Ôi họ là một đôi.
Đêm đen như lửa chưa được tìm ra, cách suy nghĩ tích cực ấy sẽ dẫn đến
chỗ tìm được ra ánh lửa vì thực tế trong những đêm chiến đấu ấy luôn có ánh
sáng soi đường, luôn rực cháy niềm tin vào thắng lợi ngày mai, vào một bình
minh đang hiển hiện. Cái mới trong cuộc sống và trong sáng tạo của nhà thơ
kết lại trong một hình ảnh ấy. Ở một bài thơ khác, Đimitơrôva như mở rộng
tâm hồn và các giác quan, im lặng, rất im lặng đi vào trong đêm tối để quan
sát, lắng nghe, hít thở sự phì nhiêu tràn đầy trong đêm tối của một đất nước
giàu sức sống và sáng tạo trong con người có thứ mong từng mạch đất
luống. Ôi biết bao nhiêu điều huyền ảo, tiếng rì rầm thân mật của những mái
tranh, nhịp đất thở từng hơi bồi hồi sự sống, tiếng ve sâu xa đưa lại râm ran,
cây cỏ lên hương ngào ngạt Đimitơrôva thấy tất cả hòa hợp lại trong một bản
nhạc hấp dẫn làm cho tác giả bồi hồi xúc động “muốn uống thêm từng ngụm”,
muốn “nhận nghe đất thở từng hơi” trong bóng đêm thật kì diệu:
Bóng đêm càng sâu càng dày
Hơi hương bốc tỏa càng ngào ngạt
Âm thanh rót càng mượt như nhung
Tôi lắng rình có tiếng nổ nào không
Đến ghê tởm phá điệu hòa nhạc ấy.
Hình tượng đêm còn được nói tới với nhiều màu sắc nữa trong nhiều
bài thơ chống Mĩ, nhưng chỉ chừng ấy cũng đủ khẳng định rằng cái mới trong
cuộc sống là cơ sở sáng tạo cái mới trong thơ ca. Với cảnh đời xưa cũ, với
cách nhìn cuộc sống của những tác giả trong quá khứ, không thể có được
cảm hứng và sự miêu tả phong phú về hình tượng đêm như trong thơ hiện
nay.
Thực tế của đời sống đem lại cho thơ những phẩm chất hoàn toàn mới
mẻ. Cứ lấy cuộc sống ở những năm tháng sôi sục đấu tranh, xã hội có những
biến động và những đổi thay lớn làm căn cứ đối chiếu, ta sẽ bắt gặp trong thơ
những âm vang mạnh mẽ của thời đại và những hình ảnh tiêu biểu của hiện
thực. Tất nhiên dấu vết của cuộc sống không có mặt đồng đều trong thơ của
một tác giả. Cái mới của đời sống sẽ bộc lộ rõ nét nhất trên những trang thơ
mà tấm lòng của nhà thơ cùng đập một nhịp với bước đi của thời đại, không
quay lưng lại với cuộc sống. Cách Mạng tháng Mười Nga đã đem lại biết bao
nhiêu điều mới mẻ cho sức sáng tạo của thơ ca. Maiakôpxki với toàn bộ sự
nghiệp thi ca của tác giả là con đẻ của cách mạng, là sản phẩm của thời đại
bão táp, thắng lợi của nền chu en chính vô sản. Chất sắt thép của nghị lực,
lòng tin và tinh thần tiến công cách nạng, những đợt sóng trào dâng của sức
mạnh quần chúng đang vùng lên quật khởi, làm chủ vận mệnh mình, kẻ thù
tuyệt vọng, điên dại giành lại quyền lợi đã mất, những khó khăn của đất nước,
trong những năm tháng gian khổ thiếu lương thực, ánh sáng, chất đốt… Tất
cả chất liệu vô cùng phong phú và mới mẻ ấy đã góp phần quyết định làm
nên cái mới trong thơ Maiakôpxki.
Cách mạng tháng Tám đã mở ra một chặng đường mới trong thơ ca
Việt Nam hiện đại. Một thế giới mới đã đi vào trong thơ tuy giản dị, chân chất
như bản thân cuộc sống lao động sáng tạo hằng ngày nhưng cũng xiết bao
rực rỡ, mới lạ với vẻ đẹp chưa từng có trong thơ ca thời kì trước Cách mạng.
Rồi công cuộc kháng chiến chống Pháp, thời kì xây dựng hòa bình, những
tháng năm tiến hành sự nghiệp chống Mĩ cứu nước, mỗi chặng đường cách
mạng thơ ca lại luôn khởi sắc lên với cái đẹp cái mới của đời sống, dù đó là
tiếng nói của một nhà thơ hay là bộ mặt chung của cả nền thơ của dân tộc.
Khi thơ ca đã hướng mục đích của mình vào nhiệm vụ đấu tranh xã hội, thì
chính đó là điều kiện quyết định nhất để thơ ca luôn bắt lấy được cái mới nảy
sinh trong đời sống, bồi đắp cho tiếng thơ luôn có sức sống, luôn mới mẻ và
rạo rực hồi sinh. Dấu hiệu đang lên và trưởng thành của một nền thơ là ở chỗ
nó mang tính chất khách quan, lấy chân lí của thực tế khách quan làm chân lí
của sự sáng tạo nghệ thuật. Đó là quy luật chung không riêng cho thơ ca mà
nói chung cho tất cả mọi ngành nghệ thuật.
Một phương diện quan trọng và có ý nghĩa nhiều khi quyết định đối với
hoạt động sáng tạo trong thơ là thuộc về vai trò chủ quan của nhà thơ. Tất cả
cái phong phú và mới mẻ của đời sống khách quan chỉ là những chất liệu,
những tiền đề của sự sáng tạo. Phải cần có một ngọn lửa rực sáng làm bùng
cháy và biến hóa toàn bộ chất liệu khách quan thành máu thịt của hình tượng
thơ. Ngọn lửa ấy là sức sáng tạo của nhà thơ. Cũng như quy luật chung của
sáng tác nghệ thuật, hình tượng thơ mang ý nghĩa của sự tái tạo. Nhà thơ
thêm vào cuộc sống cái sẽ có và nên có, như cách nói của Arixtôt. Và mấu
chốt của vấn đề là ở một sự đánh giá, một cách cảm nghĩ, một lối giải thích
mang nội dung tích cực, nâng cao ý nghĩa của đời sống bồi đắp thêm lòng tin
yêu và sự gắn bó thiết tha với con người mà biểu hiện cao nhất là ý thức đấu
thanh, bảo vệ phần tốt đẹp nhất của đời sống. Trong phạm vi của phần sáng
tạo chủ quan của nhà thơ, nhiệm vụ chính “không phải là ở chỗ lấy việc tự
biểu hiện làm mục đích. Garxia Lorka đã có lí khi tác giả quan niệm nhà thơ
không sáng tạo hình tượng của mình ở trong tự nhiên mà đem những sự vật,
đối tượng hay hành động vào chốn sâu thẳm của tâm hồn, và từ đó các sự
vật bước ra bị hoán cải, bước nhảy vọt vào một thế giới khác và hòa lẫn vào
thế giới ấy. Dấu ấn của sự sáng tạo chủ quan thể hiện trước hết ở sự phát
hiện và nhấn mạnh trong đối tượng khách quan yếu tố nào là quan trọng và
phù hợp nhất với trạng thái tâm hồn và năng lực diễn tả của mình. Mỗi nhà
thơ thường có sở trường và năng lực tinh thần riêng của mình. Trong phạm vi
đó nhà thơ bắt rất nhạy, nói lên rất sâu sắc một phạm vi nào đó của đời sống
khách quan. Trong phạm vi đó biểu hiện rõ rệt nhất sức sáng tạo của nhà thơ.
Có người rất tinh rất giỏi trong năng lực cảm thụ, trong sự lắng nghe và quan
sát cuộc sống và thiên nhiên nhiều âm thanh và màu sắc. Trong thơ của họ
luôn có chất xanh tươi, phần tơ non và những ríu rít âm thanh của cuộc sống.
Có nhà thơ lại thiên về tiếng nói thuần cảm xúc. Tâm hồn thơ như sợi dây đàn
rất căng, dễ lay động với những đổi thay, những tác động từ bên ngoài. Dòng
thơ cảm xúc, lôi cuốn, đắm say. Có nhà thơ lại mạnh về mặt suy tưởng. Từ
những hiện tượng trong đời sống khách quan, họ đặt những vấn đề, phát hiện
ra những mối liên hệ bản chất, cung cấp cho nó một ý nghĩa, một cách giải
thích và hướng tới một mục tiêu đấu tranh cụ thể. Hình tượng thơ như những
mũi nhọn về tư tưởng có sức nặng của tâm tư và ánh sáng của trí tuệ.
Đặc điểm nên góp phần xác định bản lĩnh và phong cách của từng nhà
thơ. Và thật sự ở trong phạm vi sở trường luôn thể hiện thống nhất chặt chẽ
giữa cái phong phú của đời sống khách quan và năng lực sáng tạo chủ quan.
Bên cạnh mặt mạnh đó không tránh khỏi những hạn chế và nhiều khi những
hạn chế bộc lộ ngay bên mặt mạnh. Viên Mai, nhà thơ Trung Quốc đời
Thanh, đã có lí khi nhận xét rằng: “Nhà thơ rất nhiều, ta không nên khăng
khăng tin vào lời nói của một cụ đồ nào, cho đó là chân lí mà khinh bạc các
nhà thơ trước ta. Nên biết rằng thơ Vương Xương Linh và Mạnh Hạo Nhiên là
nhàn thanh nhã, nhưng hai nhà thơ đó có làm được thơ biên tái không? Đỗ
Phủ và Hàn Dũ thì hùng tráng nhưng khó đưa vào âm nhạc. Thẩm Thuyên
Kỳ, Tống Chi Vấn thì trang trọng nhưng nói đến núi rừng đồng nội lại thô. Lô
Đồng thì hiểm quái nhưng nói đến thành thị thì lại quê; Vi Ứng Vật, Liễu Tông
Nguyên thì thanh thoát nhưng không sành về trường thiên; thương hoa xót
nguyệt không phải Ôn Đình Quân, Lý Đông Lang thì không thành. Sánh việc
dựng lời không phải Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị thì không thạo. Người xưa
mỗi người nổi tiếng một môn, truyền mãi đến nay. Người sau không thể
không học thông nhiều lối theo từng đề tài mà sáng tác”.
Có thể nói trong mỗi nhà thơ có một thế giới tinh thần riêng của mình
với những đề tài, những chủ đề, những cách cấu tứ, những mô–típ trữ tình
quen thuộc. Thế giới tinh thần ấy luôn được mở rộng mỗi ngày mỗi giàu có
hơn do sự đồng hóa, chiếm hữu thực tại của mỗi nhà thơ. Và ngay trên một
đề tài nhất định nhà thơ cũng phải luôn đem lại một cái gì mới. Chúng ta nói
đến Tố Hữu với một chủ đề rất quen thuộc trong thơ anh: Tổ quốc Việt Nam.
Tiếng nói thơ ca đầu tiên của Tố Hữu là tấm lòng thiết tha yêu đất nước, yêu
tự do, là điều tâm niệm suốt đời gắn bó với quần chúng lao khổ. Cái tình của
anh đậm đà sâu kín, thiết tha trong nỗi đau của người dân mất nước, trong
ước mong và khát vọng tự do, trong tiếng nói căm giận tố cáo chế độ, thống
trị. Cách mạng tráng Tám thành công, thơ anh reo lên niềm vui bất tuyệt. Đất
nước nghèo khổ của những con người bất khuất lại lao vào một trận đánh
không cân sức suốt “ba ngàn ngày không nghĩa để giành lấy một thắng lợi
quyết định. Tổ quốc trong cơ anh trong những năm tháng này là những ngày
rất đẹp: “Mây của ta trời thắm của ta. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, là
những đêm rực sáng ánh lửa của chiến công: “Đêm lịch sử Điện Biên sáng
rực. Trên đất nước như huân chương trên ngực”, là một dải non sông gấm
vóc quen thuộc nhưng có một vẻ đẹp lạ kì như vừa mới khám phá ra.
Đẹp vô cùng tổ quốc ra ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca.
Tình cảm yêu thương và lòng tự hào về đất nước là nét chủ yếu ở thơ
Tố Hữu trong giai đoạn này. Chủ đề về Tồ quốc Việt Nam lại mang nhiều cái
mới với một tầm vóc tư tưởng, một sức suy nghĩ mới trong thơ anh những
năm chống Mĩ cứu nước. Chưa bao giờ ta lại bắt gặp một tiếng nói xúc động
và tự hào về Tổ Quốc đến thế trong thơ anh. Dường như Tố Hữu không nén
lại được tình cảm mà anh muốn nói thật to, nói với mình nói với mọi người,
hỏi mình, hỏi mọi người với một tình cảm xô dậy mãnh liệt. Chưa bao giờ anh
lại dùng nhiều những câu hỏi tu từ, những từ tán thán đến thế.
… Việt Nam ơi, Tổ quốc thương yêu
… Ôi Việt Nam! Xứ sở lạ lùng
… Ôi Tổ quốc đơn sơ mà lộng lẫy
… Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ
… Ở đâu mỗi ngọn núi dòng sông
… Ở đâu? Mỗi mũi chông, mỗi ngọn tầm vông
… Và ở đâu? Trên trái đất này…
Nhưng không chỉ là xúc cảm. Cái mới trong thơ anh là Tổ quốc trong
chiều sâu của sự suy nghĩ. Anh muốn hiểu, muốn khám phá, muốn nói lên
được cái tầm vóc của Tổ quốc Việt Nam ở thời điểm lịch sử vẻ vang nhất. Tổ
quốc Việt Nam là một hình tượng trong thơ anh – hình tượng Việt Nam. Anh
suy nghĩ về Việt Nam trên hai chiều rộng và sâu, của thời đại và của truyền
thông lịch sử. Việt Nam được nhận thức trong tương quan với thời đại trong
sự tiếp nối của truyền thống bất khuất của cha ông. Việt Nam là một vấn đề
của thời đại. Suy nghĩ về Tổ quốc Việt Nam, Tố Hữu nghĩ đến hình ảnh một
bà mẹ giàu đức hi sinh, một người lính xung kích, một ánh lửa rực sáng trong
đêm, anh nghĩ đến hạt giống cho mùa sau, đến điểm tựa của lịch sử:
Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa.
Chúng ta có thể nghĩ được như thế vì chúng ta đang chiến đấu để giải
phóng dân tộc và cho cả loài người tiến bộ: “Ta vì ta ba chục triệu người. Lại
vì ba ngàn triệu trên đời”. Suốt mấy chục năm qua, Tố Hữu luôn có một tiếng
nói mới mẻ giàu sức sáng tạo về chủ đề Tổ quốc. Tố Hữu luôn bắt kịp và
nhận thức được cái mới của dân tộc trên từng chặng đường lịch sử và biểu
hiện một cách sâu sắc.
Chúng ta đề cập đến một khía cạnh khác của sức sáng tạo trong thơ
Tố Hữu: cảnh vật mùa xuân trong thơ Tố Hữu, một đề tài thiên nhiên rất dễ
lặp lại mình. Tố Hữu viết nhiều bài thơ xuân và cảm hứng chung của anh về
những bài thơ xuân thường lạc quan, tươi tắn, luôn biết quyện hòa cái đẹp
của thiên nhiên với một mùa xuân đang dậy sức sống của con người. Tuy
nhiên từ trong mỗi bài thơ, vẻ đẹp của mùa xuân lại được miêu tả với những
màu sắc khác nhau, gắn bó với từng yêu cầu riêng của từng chủ đề, với
không khí của những năm tháng cụ thể.
Trước Cách mạng, với cách nhìn cuộc sống của một tâm hồn thơ trẻ,
giàu nhiệt tình cách mạng. Tố Hữu đã bất lấy vẻ đẹp non tơ của thiên nhiên
để đem thêm lòng tin vào cho cuộc sống:
Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới
Bạn đời ơi vui chút với trời hồng…
Trong những năm tháng miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội, một cao trào, một sức sống mới dâng lên trong khí thế cách mạng và sức
lao động sáng tạo của toàn dân: thiên nhiên lúc này cũng này nở sinh sôi,
giàu có. Tố Hữu đã viết những câu thơ xuân đẹp trong Bài ca mùa xuân 1961:
Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh
Rét nhiều nên ấm nắng hanh
Đắng cay lắm mới ngọt lành đó chăng?
Giá từ năm cũ bâng khuâng
Đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường…
Vẻ đẹp của mùa xuân trong bài thơ Trên đường thiên lí lại được miêu
tả ít nhiều với một cảm hứng lịch sử. Những hình ảnh, những sắc điệu, âm
thanh có một cái gì như tiếp nối, như đổi thay giữa quá khứ và hiện tại. Câu
thơ như được thêu dệt với vẻ đẹp có phần xa xưa, nhưng không rơi vào ước
lệ, xưa cũ mà vẫn mang nội dung hiện tại, mới mẻ:
Đồng lúa làng tre nắng vàng rắc phấn
Sương lung linh núi gắm mây tơ
Như trong mơ không biết tự bao giờ
Nghìn năm cũ đang hồi xuân thắm lại.
Có khi Tố Hữu tìm biên giới của thời gian và đứng ở nơi tiếp giáp hai
mùa, từ phía mùa đông lạnh lẽo, khô cằn mà nói về mùa xuân đang nảy lộc
sinh sôi:
Lá bàng đang đỏ ngọn cây
Sếu giang mang lạnh đang bay ngang trời
Mùa đông còn hết em ơi
Mà con én đã gọi người sang xuân.
Hay anh xê xích một chút vượt khỏi giao điểm của hai mùa để chớm bước
vào không khí mùa xuân với những nét đơn sơ mà đằm thấm, với dáng non
tơ mà căng đầy sức sống:
Xuân đến năm nay sớm lạ thường
Trời đang rét ngọt sáng nhiều sương
Ong kêu ong dậy đường hoa vải
Rực lúa chiêm trăng bướm bướm vàng…
(Xuân sớm)
Có khi nhỏ bé hơn nhiều lần một đề tài, các nhà thơ quen sử dụng một
mô–típ trữ tình nào đó và khai triển nó với nhiều ý nghĩa sáng tạo. Đăng tơ
trong Thần khúc đã dùng mô–típ ánh sáng một cách tài tình để miêu tả cảnh
sống nơi địa ngục tăm tối, tĩnh thổ, và đặc biệt là cảnh sống ở thiên đường…
Với một câu chuyện tưởng tượng mang nhiều màu sắc thần thoại hoang
đường, Đăng tơ không khỏi khó khăn khi sử dụng những chất liệu để tạo nên
những thế giới tăm tối và thần kì. Cảnh đen tối của tội ác và sự trừng phạt nơi
địa ngục dù sao cũng có thể vay mượn được từ những chất liệu trực tiếp
trong cuộc sống ảm đạm, đầy bất công và tội lỗi của thực tế xã hội. Với tĩnh
thổ và thiên đường, nhất là thiên đường, Đăng tơ phải sử dụng nhiều đến ánh
sáng để tạo nên không khí của môi trường. Ánh sáng và bóng tối là hai mô–
típ quan trọng của Thần khúc. Ánh sáng luôn biến hóa, đổi thay với nhiều
màu sắc, của cảnh ngộ khi thì lộng lẫy, rực rỡ đến chói chang, khi thì mờ mờ,
huyền ảo như dắt con người vào thế giới nửa thực nửa hư, khi thì những
mảng tối mảng sáng chen lẫn nhau như một điều ăn năn, hối hận v.v…
Lugôpxkôi, một nhà thơ Nga sau Cách mạng, rất yêu thích hình tượng
gió và sử dụng trong nhiều bài thơ như một mô–típ chủ đề để nói lên cái sục
sôi, luôn chuyển động và băng lên phía trước của cách mạng. Gió trong thơ
của Lugôpxkôi mang một âm hưởng khỏe, dạt dào và hùng tráng: “Gió, người
anh em thân thiết của đời tôi. Cần cù đêm đêm tuần tra mải miết”. Với những
nhà thơ khác thì gió có thể lại tiêu biểu cho một cái gì khác. Lí Bạch nói nhiều
đến ánh trăng và thanh kiếm. Trong nhiều bài thơ chữ Hán, Nguyễn Du hay
sử dụng hình ảnh “gió bụi”, “cát bụi” để nói về cuộc đời nhiều đổi thay, gian
truân, cực nhọc.
Tản Đà hay dùng hình ảnh non nước trong thơ với nhiều ý nghĩa khác
nhau. Khi thì để nói lên sự gắn bó thề bồi của tình yêu trai gái, khi để nói lên
tấm lòng với non sông Tổ quốc… Hai tiếng non nước trong thơ ca đương thời
bị lạm dụng và rơi vào ước lệ, mòn sáo.
Lưu Trọng Lư tạo được nhiều thi vị qua hình tượng con nai. Chế Lan
Viên trong thơ thường sử dụng hình ảnh trời xanh. Hình ảnh trời xanh được
nói đến nhiều trong thơ của Malarmê, và nhất là Bôđơle. Chế Lan Viên khai
thác mô-típ trời xanh với nhiều ý nghĩa: trời xanh tượng trưng cho một cái gì
bát ngát, cứu khổ, giúp cho con người ta một hướng thoát:
Tôi đã giữa siêu hình
Như đất này lợm mửa
Trời xanh màu cứu khổ
Tôi xao vào trời xanh.
Trời xanh tượng trưng cho niềm vui, vẻ đẹp: “Giặc nước đuổi xong rồi. Trời
xanh thành tiếng hát”. “Thơ ta áo nắng mặc màu trời xanh”. Có khi trời xanh
trở nên thột hình ảnh gần gũi thân thiết: “Hỡi em trời xanh, mang đôi mắt
biếc”. Trong những năm chống Mĩ cứu nước, hình ảnh trời xanh lại nói lên
cuộc sống cũng như lí tưởng độc lập và tự do. Hình ảnh trời xanh không tự
lặp lại về nội dung mà mang ý nghĩa mới qua từng trường hợp nhất định. Phải
chăng đó cũng là một khía cạnh của sự sáng tạo?
Tính chất sáng tạo riêng của các nhà thơ bộc lộ rõ nhất khi tìm hiểu các
bài thơ cùng viết về một phạm vi thực tế và một đề tài giống nhau. Trong thời
gian đầu của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ, hình
ảnh những ngọn đèn trên các nẻo đường đi vào tuyến lửa đã để lại một hình
ảnh đẹp trong thơ. Từ một ngọn đèn ngoài đời đến những ngọn đèn thắp
sáng trong thơ, sự chuyển dịch ấy đã có thêm phần sáng tạo của các nhà
thơ. Tố Hữu đã nói lên ý nghĩa tượng trưng qua một ngọn đèn cụ thể:
Ngọn đèn như mắt của ai trông
Ngọn đèn như trái tim thương nước
Soi bước ta đi rực lửa nồng.
Nhưng cảm hứng chủ đạo của bài thơ không đi về hướng khai thác đó nó chủ
yếu là gây những cảm xúc trực tiếp qua liên tưởng với hình ảnh người đồng
chí, người em gái rất gan dạ đang vượt qua gom đạn, không ngạc ngùng
trước cảnh “cảnh khuya thân gái dặm trường” để đảm bảo cho ánh lửa không
bao giờ tắt. Hình tượng thơ của Tố Hữu ở đây thiết tha, nồng ấm, với những
liên tưởng kín đáo bên trong. Tiếng thơ anh ở đây là tiếng nói của tình
thương, anh lấy trái tim với những rung động sâu kín làm cơ sở dựng hình
tượng:
Ôi biết bao tình bạn nhớ không?
Ngọn đèn đồng chí giữa cơn dông
Tôi không rõ mặt người em ấy
Chỉ thấy trong đêm một bóng hồng.
Chính Hữu với Ngọn đèn đứng gác lại cấu tứ theo một hướng khác.
Anh xoáy chủ yếu vào ý nghĩa tượng trưng, xem ngọn đèn như một biểu
tượng rất đẹp của lòng yêu nước, của lương tâm thức tỉnh, của tâm hồn giàu
xúc cảm yêu thương. Ngọn đèn là dấu hiệu của niềm tin, của thắng lợi. Tính
chất tượng trưng của hình ảnh cứ được nối tiếp, nhân lên theo một nhịp điệu
rất nhanh, làm cơ sở cho hình tượng thơ chuyển động dọc và cũng gây ấn
tượng đặc biệt cho người đọc. Do đó Chính Hữu sử dụng một loạt những so
sánh, so sánh hình ảnh một ngọn đèn cụ thể với những nhân tố trừu tượng
như lòng yêu nước, lương tâm, tình cảm Bắc Nam, nên anh đã đem lại cho
ánh lửa đó một cái gì linh thiêng…
Trên đường ta đi đánh giặc
Ta về Nam hay ta lên Bắc
Ở đâu
Cũng gặp
Những ngọn đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu
Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt
Như miền Nam
Hai mươi năm
Không đêm nào ngủ dược
Như cả nước
Với miền Nam
Đêm nào cũng thức.
Bài thơ khép lại trong âm hưởng thúc giục, hình tượng thơ tỏa sáng với trăm
ngàn ánh lửa, dồn dập trong khúc điệu hành quân khẳng định niềm tin vào
thắng lợi:
Đi nhanh, đi nhanh
Chiến trường đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
Cho thẳng lợi nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước.
Phạm Tiến Duật qua bài thơ Lửa đèn đã xây dựng cảm hứng chủ đạo xoay
quanh ánh lửa linh thiêng của sự sống, ánh lửa từ ngàn năm vẫn sáng soi và
sưởi ấm cho đất nước và con người, ánh lửa đang bị kẻ thù tàn bạo tìm cách
dập tắt:
Ôi ngọn lửa đèn
Có nửa cuộc đời ta trong ấy.
Giặc muốn cướp di
Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy.
Nhưng rồi kẻ thù không thể nào cướp được ánh lửa. Ngay chính ở nơi bóng
tối, cuộc chiến đấu vẫn được chuẩn bị một cách khẩn trương. Và rồi những
ngọn đèn vẫn được thắp lên đảm bảo cho cuộc sống vui tươi phát triển bình
thường:
Nơi đêm ngày giặc điên cuồng bắn phá
Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên
Chiếc đèn chui vào ống nứa
Cho em thơ đi học ban đêm
Chiếc đèn chui vào lòng trái núi
Cho xưởng máy thay ca vời vợi
Chiếc đèn chui vào chiến vào chăn
Cho những tốp tra làng đọc lá thư thăm.
Phạm Tiến Duật đã có nhiều sáng tạo trong cấu tứ, phát hiện được những nét
điển hình, những hình ảnh tiêu biểu trong thực tế chiến đấu chống Mĩ của
nhân dân ta và đem vào trong hình tượng thơ cảm hứng anh hùng ca.
Sự kết hợp giữa cái mới của đời sống khách quan với sức sáng tạo dồi
dào của chủ quan người viết là cơ sở để tạo nên cái mới trong văn học. Thiên
về mặt khách quan của cuộc sống, xem nhẹ vai trò chủ quan, thơ dễ có xu
hướng chạy theo thời sự, chạy theo việc ghi chép kể lể. Thiên về phía sáng
tạo chủ quan, không chú ý đúng mức đến việc phản ánh cái mới của thực tế
khách quan, thơ dễ rơi vào lối suy tưởng chủ quan hoặc chạy theo những tìm
tòi hình thức. Một yêu cầu hết sức quan trọng nữa là vấn đề sáng tạo cái mới
trong thơ luôn phải được xác định và phát triển trên cơ sở những phẩm chất
tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Cái mới không đoạn tuyệt với truyền thống
mà tiếp tối và nâng cao. Tính dân tộc hiện đại là yêu cầu và phẩm chất tích
cực của sáng tác văn nghệ được hình thành trên cơ sở miêu tả chân thực và
sinh động những cái mới nảy sinh trong thực tại cách mạng và biết vận dụng
một cách sáng tạo và có hiệu quả truyền thống tốt đẹp của dân tộc về văn
hóa, văn nghệ. Nhà thơ phải có ý thức học tập, khai thác truyền thống một
cách nghiêm chỉnh với lòng tự hào chính đáng và cảm hứng lịch sử sâu sắc
để từ đó luôn hướng về phía trước, mạnh dạn sáng tạo, giành lấy những
thành tựu mới mẻ nhất.
Thơ ca những năm chống Mĩ cứu nước đã đạt được những giá trị sáng
tạo mới. Chủ nghĩa yêu nước anh hùng vốn được xem là phẩm chất truyền
thống của thơ ca dân tộc được khai thác và nâng lên bước phát triển mới. Cái
mới trong thơ ca được tạo thành từ trong những sự kiện hết sức lớn lao của
cuộc chiến đấu của dân tộc. Đất nước hôm nay lại bước vào cuộc chiến đấu
mới với tư tế của người lính xung kích. Chúng ta lại tiếp tục cuộc chiến đấu
với một kẻ thù hung bạo nhất của thời đại với tiềm lực lớn về kinh tế quân sự.
Mảnh đất Việt Nam chưa từng bao giờ phải chịu đựng những tổn thất và tên
cơ thể lại bầm tím những thương tích do cuộc chiến tranh hủy diệt tàn bạo
nhất gây ra, nhưng cũng chưa bao giờ trong lịch sử vóc dáng của Tổ quốc
lồng lộng cao đẹp, chưa bao giờ bộ mặt của con người Việt Nam lại có được
vẻ đẹp cao thượng như trong hiện tại. “Chúng ta đang sống những ngày vĩ
đại nhất của lịch sử. Đúng là chúng ta đang sống dồn, dồn thời gian, dồn
không gian” (Phạm Văn Đồng).
Một dân tộc bé nhỏ, nghèo nàn về kinh tế đã dám đánh và đánh thắng
một kẻ thù giàu có nhất sẵn sàng lấy sức mạnh của sắt thép, của tiền tài đè
bẹp đối phương. Thực tế ấy đã làm tiêu tan đi uy thế giả tạo của kẻ địch và
tâm lí sợ Mĩ của nhiều người. Thực tế lớn lao ấy là một điều cần suy nghĩ để
rút ra những bài học cụ thể. Việt Nam là một câu hỏi của thời đại. Chúng ta ở
vào trung tâm của những mâu thuẫn, những phong trào lớn của thời đại. Một
ngọn lửa có độ nóng cao nhất và độ sáng rực rỡ nhất lại bùng cháy trên một
chấm nhỏ của bản đồ thế giới. Ở đây là nơi quy tụ đi về của nhiều đường
dây, nhiều mối liên hệ; cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành tiêu điểm đọ
sức quốc tế giữa các phong trào giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc
xâm lược, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa các thế lực dân
chủ tiến bộ và phản động, hòa bình và gây chiến tranh. Việt Nam không chỉ là
vấn đề của dân tộc mà lớn hơn còn là vấn đề của thời đại, không chỉ là vấn
đề của hiện tại mà còn là vấn đề của tương lai. Vấn đề Việt Nam đã tập hợp
được rộng rãi và tạo được sự thống nhất ý kiến của nhiều lực lượng và
khuynh hướng khác nhau. “Nhiều người chính kiến rất khác nhau nhưng tất
cả đều nói: ở đất nước Việt Nam này đang diễn ra cuộc chiến đấu vĩ đại, đẹp
đẽ, cuộc chiến đấu bảo vệ những cái thiêng liêng nhất, những cái đáng giá
nhất của đời sống của con người, của loài người. Họ coi cuộc chiến đấu này
là tuyến đầu, là đỉnh cao, là trung tâm của cuộc đấu tranh cách mệnh của
nhân dân thế giới” (Phạm Văn Đồng).
Chúng ta hãy lắng nghe, trân trọng tiếng nói bạn bè về sự đánh giá và
ngợi ca cuộc chiến đấu của dân tộc ta và thắng lợi mà nhân dân ca giành
được qua hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam.
“Một dân tộc nhỏ bé đã có thể đương đầu với cường quốc mạnh nhất
thế giới. Liệu còn tấm gương sáng ngời nào hơn sự bất tử của tinh thần con
người hay không?”. “Việt Nam viết những trang chói lọi trong lịch sử loài
người”. “Thắng lợi của nhân dân Việt Nam mang lại niềm tin và giá trị tinh
thần chưa từng thấy cho loài người”. “Thắng lợi này là một cống hiến kì diệu
và vĩ đại cho sự tiến lên của lịch sử và có ý nghĩa quốc tế cực kì to lớn”. “Đó
là những con người tuyệt vời. Họ đã tiến hành cuộc chiến tranh không phải
chỉ vì độc lập và tự do của Tổ quốc mình mà còn để bảo vệ chân lí và vẻ đẹp
của hành tinh chúng ta. Họ đã bảo vệ cả làng xóm thân yêu và ngôi nhà của
tôi nữa”. “Toàn thế giới chịu ơn lớn đối với nhân dân Việt Nam. Các lực lượng
tiến bộ và hòa bình khắp năm châu đều chịu ơn đó. Qua tấm gương và sự
đấu tranh của các đồng chí, họ đã nhận được một bài học về nhân phẩm, về
lòng dũng cảm, về sự thống nhất lí tưởng và sáng suốt về chính trị, đó là một
sự đóng góp lớn lao vào việc đào tạo cả một thế hệ được vinh dự cao cả gọi
là “thế hệ Việt Nam”. Các đồng chí là nhân tố thống nhất của cuộc đấu tranh
chung đang diễn ra ở khắp các nước trên phạm vi thế giới”… “Chúng ta chào
mừng nhân dân Việt Nam anh hùng. Toàn thế giới sẽ mãi mãi mang nợ nhân
dân Việt Nam”…
Còn biết bao nhiêu lời nói chân tình và đẹp đẽ nữa về cuộc chiến đấu
của Việt Nam. Thắng lợi của cuộc chiến đấu mang tầm vóc lịch sử và thời đại.
Suy nghĩ về Tổ quốc, các nhà thơ Việt Nam muốn tìm một hình tượng
đẹp nhất, đúng nhất, tượng trưng cho sức mạnh thần thánh của nhân dân ta
đang tiến hành một cuộc chiến tranh chính nghĩa lớn nhất trong lịch sử dân
tộc, một cuộc chiến đấu cho sự tồn tại của bản thân dân tộc ta và cả cho loài
người tiến bộ. Hình tượng Việt Nam hiện hình lên qua cuộc đời vất vả và đức
hi sinh của người mẹ, một sự hi sinh thầm lặng nhưng rất có ý thức, rất cao
cả cho mục đích chiến đấu. Tố Hữu đã miêu tả hình tượng đó với cách nhìn
bên trong của người trong cuộc đang chiến đấu:
Việt Nam ôi Tố quốc thương yêu!
Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng…
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời
Gì quý hơn giá trị con người?
Ta hiểu vì sao ta chiến dấu
Ta hiểu vì ai ta hiến thân.
(TỐ HỮU)
Việt Nam hiện hình lên theo hình tượng lịch sử đấu tranh của dân tộc, một
cuộc chiến đấu kiên cường với kẻ thù xâm lược, với thiên nhiên hà khắc qua
hàng ngàn năm lịch sử. Việt Nam không phải chỉ là hình tượng đẹp của một
đất nước thanh bình, êm ả không chiến tranh, không giặc giã. Ở đây, Tổ quốc
được tạo lập nên bằng. máu và mồ hôi, bằng những chiến đấu hi sinh và
những thắng lợi huy hoàng:
Ở đây không đổ máu không còn Tổ quốc
Định nghĩa Việt Nam là phải cầm vũ khí diệt thù
Cấu tạo chất đất ở đây là như vậy,
Tấc đất, tấc mồ hôi, tấc đất, tấc phù sa, tấc máu
Những tầng tầng lớp lớp nghĩ suy, mồ hôi
xương máu của cha ông
Giành đi giật lại cho bao đời tồn tại…
Ôi, Việt Nam, đất nước không gì,
không ai tiêu diệt nổi
Sau nghìn năm lửa đạn lại Hùng Vương.
(CHẾ LAN VIÊN)
Việt Nay hiện hành lên qua hình tượng đẹp của một dũng sĩ với một thanh
gươm giàu chiến công và một văn nhân với cây bút nhiều sáng tạo. Đó là
biểu tượng của sự kết hợp rất đẹp, rất hài hòa giữa phẩm chất kiên cường và
tinh thần nhân ái của dân tộc. Những phẩm chất đó là cốt cách vững mạnh
của dân tộc suốt trường kì lịch sử:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa.
(HUY CẬN)
Việt Nam hiện hình lên qua hình tượng rất đẹp của một Đankô chói lọi ngọn
lửa anh hùng, của một con chim báo bão đưa ngực đón lấy phóng ba bão táp
để vượt lên giành lấy bầu trời tự do. Người anh hùng của những nỗi lao khổ,
của niềm tin và chân lí xuất hiện với dáng vẻ hào hùng:
Trên mặt địa cầu
Việt Nam lại gạt máu bước lên
Ngực áo tả tơi đỏ rói trái tim
Ngọn tầm vông vươn tay lao thẳng
Biển nghiêng núi chuyển
Chân thủng gai đạp các súng gươm
bạo tàn gãy vụn
Trong vòng tay ôm giữ chói lọi bó hào quang
Của sự sống
Tự do
Chính nghĩa
Quang vinh
(NGUYÊN HỒNG)
Và kì diệu hơn cả là trước tội ác diệt chủng và sắt thép vô cùng tàn bạo của
kẻ thù muốn thiêu đốt, hủy diệt sức sống của chúng ta mà cao điểm là mười
hai ngày tập kích không quân chiến lược, chúng ta đã thắng rất vẻ vang.
Cuộc chiến đấu của chúng ta có những điều thật lạ lùng, mầu nhiệm, thần
thánh như vượt trên sức tưởng tượng của con người. Một người mẹ giàu đức
hi sinh, hạt giống của mùa sau, điểm tựa của lịch sử, ngọn lửa trong đêm tối,
tất cả đều đúng đối với Việt Nam và dân tộc ta như còn mang trong mình
những phẩm chất thiêng liêng, biến hoá của một thiên thần. Trước những thử
thách tột cùng ác liệt và trên cao điểm của thắng lợi lịch sử, Tố Hữu đã viết
những dòng thơ xúc động:
Chúng nuốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm…
… Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu
Người vươn lên như một thiên thần.
Chúng ta chưa có nhiều những vần thơ xứng đáng với tầm vóc của dân tộc;
nhưng với phần có được, các nhà thơ đã biểu hiện sâu sắc chủ nghĩa yêu
nước anh hùng ở bước phát triển mới. Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
Phạm Tiến Duật… đã cố gắng đem vào trong thơ cái mới của thời đại, kết
hợp được tính dân tộc với tính hiện đại… Thơ chống Mĩ có nhiều cái mới, cái
mới của tư tưởng, khí thế, sức suy nghĩ, tầm khái quát… Chỉ mấy vần thơ:
Ta xẻ mình ra ngang dọc chiến hào
Cho Tổ quốc liền sông núi vạn đời sau
Việt Nam chịu vạn ngày lửa đạn
Cho nghìn năm nhân loại ngẩng cao đầu
(CHẾ LAN VIÊN)
cũng đã mang bao nhiêu mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại, tương lai, và dân
tộc với thời đại. Đặc biệt các nhà thơ đã chú ý biểu hiện cái mới trên cơ sở
phát triển và kết hợp với truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, và đó
cũng là truyền thống tốt đẹp nhất của thơ ca trong quá khứ. Chưa bao giờ
trong thơ Tố Hữu lại có một cảnh hứng lịch sử sâu sắc đến thế. Nhà thơ chỉ
ra điểm giao kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống bất khuất của
cha ông và sức vươn lên của dân tộc trên đỉnh cao của thời đại:
Trường Sơn cao hay địa đạo âm thầm
Cũng linh hồn ta tự bốn ngàn năm
Ta xây đắp để ngang tầm thế kỉ.
Nhiều câu thơ nói lên được tấm lòng tác giả như đang được tiếp sức
trực tiếp từ trong quá khứ rất oanh liệt của dân tộc:
Ôi sáng xuân nay như lưỡi gươm trần sáng quắc
Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung
Và Tố Hữu rất sáng tạo mới mẻ biết bao nhiêu trong sự chấp nhận và
đá giá truyền thống của dân tộc khi xem quá khứ cũng là chiến sĩ hôm nay,
cũng xung trận.
Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận.
Điều đáng chú ý là trong mạch cảm nghĩ của nhiều nhà thơ luôn phảng phất
hình bóng của cha ông, luôn có những đường dây đi về giữa truyền thống
quá khứ và hiện tại, luôn ấp ủ, nâng niu những tình cảm, hình ảnh quen thuộc
của dân tộc. Trong khi biểu hiện những vấn đề mới mẻ và hiện đại nhất trong
cuộc chiến đấu hôm nay, nhà thơ vẫn có thể tìm thấy một cái gì gần gũi, trùng
hợp trong câu chuyện “Chàng Sơn Tinh thắng giặc Thủy Tinh”, trong hình ảnh
một bà mẹ già nhẫn nại, một ngọn lửa thử vàng, một bông sen ngát hương.
Trong nhiệm vụ khai thác truyền thống để sáng tạo cái mới trong thơ thì
việc sử dụng những giá trị phong phú về nội dung cũng như hình thức của
truyền thống thơ ca dân gian là một hướng quan trọng. Thơ ca dân gian Việt
Nam có một truyền thống lâu đời, nhiêu nguồn mạch, nhiều năng lượng,
nhiều màu sắc phong phú về giá trị hiện thực, thẩm mĩ và thực sự là một kho
tàng vô tận để tìm hiểu đời sống tinh thần của dân tộc. Những giá trị tinh thần
đó tuy đã lùi sâu vào quá khứ nhưng vẫn có một sức sống âm thầm mạnh mẽ
và có thể xóa đi những ngăn cách về thời gian để lại hồi sinh, tươi thắm,
mang một bộ mặt mới mẻ hiện đại nếu được trân trọng khai thác đúng hướng
để biểu hiện cái mới.
Trong thơ ca hiện đại, Tố Hữu là nhà thơ có ý thức rõ rệt trong việc tiếp
thu truyền thống tích cực của thơ ca dân gian. Ta bắt gặp trong Phá đường,
Mẹ Suốt một lối kể chuyện mộc mạc của vè dân gian được nâng cao. Trong
nhiều bài thơ của Tố Hữu như Voi, Bài ca người lái xe và một số bài thơ
xuân, ta cũng bất gặp tiếng hát vui tươi, hồn hậu, vừa in đậm nét đặc điểm
của cá nhân vừa mang “âm hưởng đồng ca” của những tiếng hát đang quyện
hòa vào nhau, một đặc điểm vốn có của những bài ca của quần chúng. Tố
Hữu bắt được âm điệu thơ dân gian của từng địa phương để tạo nên không
khí và màu sắc cho cảm xúc thơ, từ cái mình – ta đối đáp trữ tình trong Việt
Khắc, tiếng hò nhịp, tiếng ru hời qua những bài thơ về xứ Huế, đến giọng kể
chuyện dân gian Quảng Bình ở Mẹ Suốt. Tố Hữu đã sử dụng thành thục các
thể thơ ca dân gian và nâng cao để biểu hiện những chủ đề mới. Lượm, Bà
mẹ Việt Bắc, Cá nước và kết hợp cách nói lối của thể thơ bốn chữ truyền
thống với những cách tân của thơ hiện đại. Việt Bắc là một mẫu mực của thể
lục bát; thanh điệu ngân nga, dìu dặt, thích hợp với tiếng nói tha thiết ân tình.
Và cụ thể hơn đi vào những hình thức sử dụng ngôn ngữ, những biện pháp tu
từ, những cách cấu trúc về câu thơ, Tố Hữu đã khéo khai thác mặt tích cực
của truyền thống thơ ca dân gian. Xuân Diệu có ý thức học tập ở thơ ca dân
gian. Tác giả cho rằng “ca dao của một dân tộc nào cũng là những kho tàng
diễm lệ về hình ảnh và ngôn ngữ, cũng là một kho nhân văn có mồ hôi nước
mắt và nụ cười của bao nhiêu thế hệ”. Qua ca dao, Xuân Diệu tìm thấy một
khía cạnh của nét mặt và tâm hồn Việt Nam. Chế Lan Viên cũng đặc biệt ngợi
ca tiếng thơ của dân gian: “Mẹ ru con bên nôi, trai gái tự tình bên cối gạo,
những người chống đò hát với đêm trăng, họ đã truyền từ đời này qua đời
khác các câu thơ tuyệt vời của họ. Biết bao thế hệ qua đi, thời gian tàn phá
hết, nhưng những câu hát ấy không ai phá vỡ nổi, vị ngôn ngữ nó quả thật
trong veo như ngọc và trong khối ngọc ấy đã hiện lên cái bóng dáng của
người Việt Nam”.
Ảnh hưởng của thơ ca dân gian đến các nhà thơ hiện đại có nhiều mức
độ và hình thức khác nhau. Có những nhà thơ tìm đến một số hình ảnh quen
thuộc của thơ ca dân gian như: cánh cò, ngọn lửa đèn, v.v… để khai thác và
phục vụ cho những tứ thơ và chủ đề hiện đại. Ngọn lửa đèn trong ca dao dân
ca cũng đã gợi ý cho Chính Hữu trong tứ thơ Ngọn đèn đứng gác, và Phạm
Tiến Duật trong Lửa đèn. Hình ảnh con cò được nói đến trong nhiều bài thơ.
Hoặc gợi lại những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ.
- Rợp cánh cò bay trắng cả tuổi thơ.
- … Đất hiền như tuổi thơ
Cánh cò bay trong sắc trời lá mạ.
(LÊ ANH XUÂN)
Khi ta bé dòng sông nào cũng rộng
Chiếc thuyền giấy gửi tuổi thơ theo sóng
Một cánh cò vỗ lả xuống lòng ta.
(BẾ KIẾN QUỐC)
Cánh cò được sử dụng phổ biến hơn để nói lên vẻ đẹp của đất nước. trong
tiếng hát dân gian: “Con cò bay lả, bay la…”, ta hình dung thấy những dáng
cò vỗ cánh trên những cánh đồng xanh bát ngát nối tiếp đến chân trời. Tố
Hữu nói về vẻ đẹp của đất nước vào xuân qua một hình ảnh gần gũi:
Đôi cánh cò trắng vẫy mênh mông
Ôi Tổ quốc! Đơn sơ mà lộng lẫy.
Nguyễn Đình Thi trong Bài ca Hắc Hải, khi nhắc đến Tổ quốc Việt Nam, quê
hương người lính thủy dũng cảm, anh cũng trở về với những hình ảnh tiêu
biểu:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
Những hình ảnh trên thật quen thuộc nhưng vẫn luôn có vẻ đẹp và sức hấp
dẫn mới mẻ. Nói như Bằng Việt:
Cò vỗ cánh bay vào ráng đỏ
Chiều có gì đâu cũng lạ lùng.
Chế Lan Viên trong bài cơ cò đã sử dụng hình ảnh con cò để nói về nhiều
khía cạnh khác nhau của chủ đề. Các nhà thơ hiện nay chủ yếu đã khai thác
hình ảnh con cò với những ý nghĩa vốn có từ trong thơ ca dân gian nên hình
tượng thơ khỏe, đậm đà màu sắc dân tộc. Con cò là một sinh vật mà vẻ đẹp
cũng như cách sinh hoạt của nó có thể khai thác với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Do một cách nhìn hạn chế nên hình ảnh con cò trong một số bài thơ của
phong trào Thơ mới lại được sử dụng để nói lên nỗi bâng khuâng của một
tâm trạng:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
(XUÂN DIỆU)
Hoặc đôi lúc cái cô đơn tiêu cực nhập vào một cảm hứng thơ ca: “Thi tứ viển
vông: Thần tưởng tượng. Như đàn cò đói lượn. Đồng không” (Nam Trân).
Có những nhà thơ sử dụng trực tiếp nhiều khẩu ngữ và ca dao tục ngữ
vào trong thơ như Trần Hữu Thung với tập thơ Đồng tháng tám. Với chủ đề
về phát động quần chúng nông dân trong đấu tranh, Trần Hữu Thung dễ khai
thác và chuyển hóa chất liệu trực tiếp của thơ ca dân gian vào sáng tác của
mình. Xuân Diệu có khi đưa trực tiếp những thành ngữ, tục ngữ, những cách
nói năng của dân gian vào thơ. Nhân dân vùng đồng chiêm đắp đường nói
phải có bốn hòn đất xuống nước mới được một hòn thành đường đi. Xuân
Diệu viết:
Phải bốn hòn đất chìm
Mới một hòn đất nổi
Một con đường đồng chiêm
Bằng bảy đường đồng bãi.
Nhân dân nói “giàu hai con mắt”, anh cấu tứ mà viết:
Giàu đôi con mắt, đôi tay
Tay siêng làm lụng, mắt hay kiếm tìm
Hai con mắt mở ta nhìn
Cho sâu cho sáng mà tin cuộc đời…
Có khi anh bắt lấy cái tươi tắn trữ tình rất lạc quan, mềm mại của những khúc
ca tình yêu của dân gian mà nói về tình yêu:
Sáo vi vu thổi trong veo
Lên non là gió qua đèo là mây
Ngả bên dòng suối là cây
Vương trong ánh mắt là dây tơ hồng.
Huy Cận qua những bài thơ về Nghệ An, Hà Tĩnh cũng mang được
phong vị đậm đà và duyên dáng của quê hương với nhịp điệu khỏe của làn
điệu thơ ca dân gian địa phương. Trong tập Cô gái Mèo, Huy Cận cũng chú ý
sử dụng ca dao, dân ca và khẩu ngữ trong dân gian để bồi đắp và tô điểm
thêm cho nội dung và màu sắc câu chuyện. Ở Huy Cận có những câu thơ
được viết ra từ gợi ý ban đầu của ca dao:
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trắng phơi đầu bãi nước dồn mênh mông
Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ.
Những dòng thơ trên có ngọn nguồn từ câu ca dao tả con nước:
Đêm khuya thanh vắng một mình
Có ông ngư phủ biết tình mà thôi.
Trong lớp các nhà thơ trẻ, Phạm Tiến Duật, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn
Duy là những cây bút chú ý đến việc tìm hiểu và học tập ở thơ ca dân gian.
Các bài thơ trong giải thưởng báo Văn nghệ của Phạm Tiến Duật và Phan Thị
Thanh Nhàn như Lửa đèn, Em là cô thanh niên xung phong, Xóm đê, Hương
thầm, v.v… đều có ít nhiều âm hưởng và làn điệu dân gian. Từ cái điệp khúc
trữ tình lặp lại qua từng khổ thơ:
Em cùng anh sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
đến những liên tưởng duyên đáng:
Bóng tối – trời đất rộng quá
Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi
Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói
Bông hoa làm duyên phải lụy hương bay
bài thơ thấm đượm một phong vị dân gian tô điểm cho không khí quê hương
thêm màu sắc.
Trừ một số trường hợp nào đó, còn nhìn chung thì các nhà thơ hiện
nay trong nhiệm vụ tìm tòi và sáng tạo cái mới chưa chú ý đúng mức đến việc
khai thác và tiếp thu truyền thống của thơ ca dân tộc, nhất là thơ ca dân gian.
Thường thì việc học tập và khai thác ở thơ ca dân gian mới chỉ hạn chế trong
việc vận dụng một số thể loại thơ ca dân gian hoặc đưa một số ca dao, tục
ngữ vào trong thơ. Các nhà thơ chú ý đến thơ ca dân gian khi họ viết những
đề tài nói về đất nước, phong tục truyền thống, hoặc miêu tả những nhân vật
gần gũi với cuộc sống lao động nơi thôn quê. Nguyễn Đình Thi trong Bài ca
Hắc Hải đã sử dụng thể lục bát khi viết về đất nước quê hương, cũng như
anh dùng lục bát để viết truyện thơ Mẹ con đồng chí Chanh. Tố Hữu thường
dùng các thể thơ dân tộc và chất liệu dân gian khi miêu tả các bà mẹ như bà
má Hậu Giang, bà bầm, bà bủ, bà mẹ Việt Bắc, mẹ Tơm, mẹ Suốt v.v… Các
nhà thơ chưa vận dụng được truyền thống tích cực của thơ ca dân gian để
biểu hiện những đề tài về cuộc sống hiện đại (đề tài công nghiệp, khoa học và
quan hệ quốc tế, v.v…). Ở những lĩnh vực này, đòi hỏi bên cạnh mặt tiếp thu
truyền thống phải có phần cách tân sáng tạo và nâng cao cho phù hợp với
yêu cầu mới của chủ đề…
Vấn đề sáng tạo trong thơ mang nhiều mức độ và nội dung khác nhau.
Thậm chí có thể cả những vấn đề đã được nói đến, hoặc gián tiếp vay mượn
trong quá khứ hoặc trong tiếng nói thơ ca quen thuộc nào đó, nhưng nếu
được vận dụng với một yêu cầu, một cảm hứng sáng tạo mới thì. vẫn mang ý
nghĩa đóng góp. Đặng Trần Côn trong phần mở đầu Chinh phụ ngâm, khi nói
về tình cảnh đất nước có chiến tranh, đã viết:
Cổ bể thanh động Tràng thành nguyệt
Phong hỏa ánh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân.
Đoàn Thị Điểm dịch là:
Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín lần gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Ý thơ trên mượn của Lí Bạch trong bài Tái hạ khúc:
Phong hỏa động sa mạc
Liên chiếu Cam Tuyền vân
Hán hoàng án kiếm khởi
Hoàn triệu Lí tướng quân
Binh khí thiên thượng hợp
Cổ thanh lũng đề văn.
(Ánh lửa báo động làm rung rinh sa mạc
và soi đến tầng mây Cam Tuyền.
Vua nhà Hán chống kiếm đứng dậy triệu
tướng quân Lí Quang.
Khí quân tụ cả ở trên trời.
Tiếng trống vang dậy ngoài cõi).
Phần nào là ý vay mượn, nhưng phần sáng tạo là đáng kể. Nhiều câu
thơ trong Kiều cũng được viết ra do sự gợi ý của các tác giả khác. Thôi Hộ đề
thơ ở phía nam Trường An:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
(Mặt người không biết đã đi đâu
Hoa đào vẫn cười trước gió đông như xưa)
Nguyễn Du mượn vào cảnh Kim Trọng trở lại vườn Thúy:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Trong phần thơ chữ Hán, những bài thơ hiện thực xuất sắc của Nguyễn Du
như Sở kiến hành, Trở binh hành, Thái bình mại ca giả đều có những hình
ảnh, những ý nhỏ chịu ảnh hưởng của Đỗ Phủ như cảnh miêu tả chiến tranh
và những bức xanh tương phản giữa người nghèo khó không có ăn và kẻ
giàu có chán chường rượu thịt. Tuy nhiên câu thơ hiện thực của Đỗ Phủ chỉ
có tác dụng gợi ý và Nguyễn Du trong phong cách riêng của mình đã có
những sáng tạo lớn. Từ Kinh Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân đến
Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du là một dẫn chứng tiêu biểu cho sức
sáng tạo về nội dung cũng như hình thức ở trong thơ.
Bùi Dương Lịch viết bài Đại linh giang nói về tình cảnh chia cắt đời
Trịnh – Nguyễn bên này bên kia dòng sông Gianh:
Nam Bắc tổng giai ngô vũ trụ
Sơn Xuyên hề bạch thử gia bang.
(Nam Bắc đều là trời đất của ta
Núi sông sao nỡ chia nước này nước nọ).
Tế Hanh từ ý đó viết về con sông Hiền Lương với một chủ đề tương tự:
Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị
Tận chân trời mây núi có chia đâu.
Huy Cận trong bài Tràng giang cũng viết nhiều câu thơ qua sự gợi ý và vay
mượn một số hình ảnh và cách nói trong thơ ca cổ. Trong khổ thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ đầu chịu ảnh hưởng câu thơ dịch Đỗ Phủ “Mạch đất mây đùn
cửa ải xa” và câu thơ kết vay mượn ý thơ Thôi Hiệu qua cách nói ngược lại
câu thơ kết trong bài Hoàng Hạc lâu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
Hình ảnh cũng như âm hưởng câu thơ Chinh phụ ngâm:
Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi địa hiu mấy gò
cũng giúp vào việc hình thành câu thơ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu.
… Tất cả những sự vay mượn trên đã chuyển hóa, biến dạng và trở
thành những nhân tố liên kết chặt chẽ trong cấu tạo chung và góp Phần vào
cảm hứng đầy sáng tạo của bài thơ. Êluya có ý thơ “Le visage đe la paix”
(Khuôn mặt hòa bình). Tế Hanh mượn ý để cấu tứ bài Mặt quê hương. Êluya
nói: “L’ennemi a figure d’homme” (Kề thù mang mặt người). Chế Lan Viên qua
gợi ý đó viết: “Kẻ thù ta có gương mặt hay cười Nazim Hitmet trong bài thơ
Trong mồ hôi và máu viết về việc xây dựng những ngôi nhà ở Mạc Tư Khoa:
Cao, cao nữa, cao lên mãi
Ngôi nhà vút lên cao như chiếm bầu trời.
Sáng tác trên cũng gợi ý cho Xuân Diệu viết bài thơ Lên cao… Hình ảnh “Tổ
quốc tôi như một con tàu” trong Mũi Cà Mau của Xuân Diệu cũng mượn từ ý
thơ của Aragông viết về đất nước trong những năm chiến tranh: “Tổ quốc tôi
như một con thuyền mà người chèo bỏ đi”.
Những dẫn chứng trên đều nói lên phần sáng tạo của người viết ngay
cả ở những trường hợp có vay mượn. Tuy nhiên cái thực sự sáng tạo trong
thơ là cái mới do bản thân nhà thơ nhận thức, khám phá và sáng tạo nên.
Vấn đề là ở chỗ người viết đóng góp một tiếng nói mới, một cách cảm nghĩ
mới. Mức độ biểu hiện có thể trong từng phạm vi khác nhau, có khi là ở một
cấu tứ một cảm xúc, có khi là một hình ảnh, một cách dùng từ. Cùng viết về
Đảng, một chủ đề khó trong thơ, một chủ đề mà nhà thơ luôn phải tự nâng
mình lên để suy nghĩ, cảm xúc sao cho vừa chân tình trong cảm xúc, lại có
chiều sâu của sự suy nghĩ, phát hiện. Maiakôpxki có những ý sáng tạo khi nói
về Đảng và mối quan hệ giữa Đảng và lãnh tụ. Ý thơ: “Tôi nói Lênin là nói
Đảng; Tôi nói Đảng là nói Lênin” vừa mới mẻ, vừa đúc lại như một phương
châm. Aragông cũng chân tình và sáng tạo với ý thơ “Đảng đã cho tôi sáng
mắt sáng lòng”. Tố hữu qua bài thơ dài Ba mươi năm đời ta có Đảng, đã có
những ý thơ sắc sảo và sáng tạo khi nói về Đảng. Từ hình ảnh ngày còn
trứng nước khi Đảng vừa thành lập:
Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
Không quê hương, sương gió tơi bời
Đảng ta sinh ở trên dời
Một hòn máu do nên người hôm nay
cho đến khi sức mạnh của Đảng đã ở hàng triệu tấm lòng, hàng triệu cánh tay
có sức dời non lấp biển. Đảng đã đem lại cho ta cuộc sống tự do và niềm vui
hạnh phúc:
Đảng ta Mác, Lênin vĩ đại
Lại hồi sinh trả lại cho ta
Trời cao đất rộng bao la
Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người.
Chế Lan Viên sáng tạo trong tứ thơ Kết nạp Đảng trên quê hương mẹ. Hình
ảnh của quê hương nghèo khổ bị vua quan áp bức, hình ảnh người mẹ tần
tảo nuôi dạy con khôn lớn đã quyện hòa làm một với hình ảnh của Đảng trong
phút giây thiêng liêng nhất của đời người khi được vinh dự đứng tuyên thệ
dưới cờ Đảng. Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, Tế Hanh, Phạm Hổ, Anh
Thơ… cũng có nhiều xúc động chân tình khi viết về Đảng, nhưng những ý thơ
mới mẻ lại chưa rõ rệt. Các nhà thơ phải luôn có ý thức sáng tạo khi viết về
Đảng song cần tránh xu hướng tìm tòi một cách sai lạc. Đối với lập trường
tính đảng, một lập trường kiên định, triệt để, vững vàng, dứt khoát giữa ta và
địch, bạn và thù, không thể nói một cách lẫn lộn, mơ hồ:
Đảng là ranh giới có lúc tưởng chừng
mỏng manh như sợi tóc
Giữa ngay thẳng và gian tà,
giữa trung thành và phản phúc
hoặc nói một cách thiếu nghiêm túc:
Đảng của ta khi lịm đi không sống nữa
Sẽ để lại cuộc đời chỉ còn rực rỡ có tình yêu.
Vấn đề sáng tạo trong thơ còn bộc lộ ở nhiều nhân tố, cho đến cả một hình
ảnh, một cách sử dụng ngôn ngữ.
Những hình ảnh đẹp trong thiên nhiên và cuộc sống có nhiều từ vẻ đẹp
mùa xuân trong thơ Tố Hữu, vẻ đẹp mùa thu trong thơ Tế Hanh, vùng biển
Hạ Long trong thơ Chế Lan Viên, dòng Cửu Long trong thơ Nguyên Hồng,
rặng dừa miền Nam trong thơ Lê Anh Xuân, vùng mỏ trong thơ Huy Cận,
nông thôn trong thơ Hoàng Trung Thông và hình ảnh chiến trường trong thơ
Phạm Tiến Duật. Ngay ở những hình ảnh cụ thể, các nhà thơ cũng có cách
khai thác riêng của mình. Nguyên Hồng viết về rừng Lào:
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xóa.
Chế Lan Viên viết về Hạ Long:
Những đêm trăng đá suy nghĩ như người.
Cả hai đều hợp lí và có vẻ riêng độc đáo.
Cây buồm trong chiều mưa xuân của Huy Cận:
Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm.
Và cũng từ hình ảnh một cánh buồm trên vùng quê hương sông nước Tế
Hanh, liên tưởng để so sánh:
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Huy Cận quan sát và bắt được vẻ đẹp riêng độc đáo của cá nước vùng Hạ
Long:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Chế Lan Viên tiếp ý một cách sáng tạo:
Con cá sông cầm đuốc dẫn thơ về.
… Và cứ thế, cứ thế, mỗi hình ảnh sẽ có một vẻ riêng sáng tạo…
2. Về tính hiện đại trong thơ
Tìm hiểu cái mới trong thơ, người ta thường bắt gặp và liên tưởng đến
khái niệm tính hiện đại trong thơ. Chính ở khái niệm này dễ nảy sinh những
lầm lẫn những sự ngộ nhận khác nhau về hướng đi của thơ trong thời kì hiện
tại. Một bên là ý thức tìm tòi và sáng tạo cái mới nhằm nói lên được đầy đủ
những phẩm chất mới của đời sống hiện cực trong quá trình phát triển. Một
bên là những khuynh hướng bệnh hoạn trong thơ ca núp dưới chiêu bài của
sáng tạo để đề xướng ra những lí thuyết kì quái, những sáng tác xa lạ với thị
hiếu thẩm mỹ lành mạnh quen thuộc. Trong thơ dường như mỗi nhà thơ đều
sẵn sàng có một quan niệm, một tuyên ngôn về thơ ca của mình. Huygô trong
tựa vở kịch Crôm-oen đã đề xướng những tiêu chuẩn thẩm mĩ mới về thơ ca
lãng mạn chống lại quan điểm sáng tác gò bó của chủ nghĩa cổ điển. Một thời
gian sau chúng ta lại bắt gặp những quan điểm mới về thơ với các nhà thơ
tượng trưng như Bôđơle, Valêri, Malarmê… Ăngđrê Brơtông năm 1924 đề
xướng tuyên ngôn của nhóm siêu thực tập hợp một số nhà thơ như Brơtông,
Pêrê… Trixtăng Tzara cũng phát biểu quan niệm về thơ của nhóm đađa.
Trong thơ ca Nga khoảng đầu thế kỉ XX cũng nổi lên nhiều khuynh hướng kì
lạ trong thơ: nào biểu tượng, nào vị lai,... Mỗi nhà thơ đều tự xem mình là
mới, là sáng tạo. Thực ra tính chất hiện đại trong thơ khác về bản chất với
chủ nghĩa hiện đại trong thơ, khuynh hướng suy đồi trong thơ ca của giai cấp
tư sản. Sự xuất hiện những khuynh hướng này thường gây ồn ào như một
hiện tượng sáng tạo tân kì, độc đáo, nhưng thực chất chỉ là những khuynh
hướng tìm tòi mang tính chất hình thức chủ nghĩa hoặc thiên lệch cực đoan.
Với những hình thức tìm tòi lập dị, quái đản, nó đã gây nên trong một lúc nào
đó những hỗn loạn trong nghệ thuật rất xa lạ với cái đẹp chân chính. Lênin đã
từng phê phán khuynh hướng này: “Cần phải bảo vệ cái đẹp, lấy nó làm mẫu
mực, xuất phát từ nó ngay dù cho nó là cũ đi nữa. Tại sao chúng ta lại phải
lảng tránh cái đẹp chân thật, từ bỏ nó không dùng nó làm điểm xuất phát để
tiếp tục tiến lên chỉ vì một lẽ là nó đã cũ? Tại sao lại phải sùng bái cái mới
như sùng bái chúa Trời, tại sao phải sùng bái nó chỉ vì nó là mới? Tôi không
thể nào coi những tác phẩm của chủ nghĩa biểu tượng, chủ nghĩa vị lai, chủ
nghĩa tập thể và những chủ nghĩa khác là những biểu hiện cao nhất của thiên
tài nghệ thuật. Tôi không hiểu những tác phẩm ấy; tôi không hề cảm thấy
thích thú với những tác phẩm ấy” (Klara Zetkin: Hồi kí về Lênin).
Cho đến nay trong thơ ca Tây phương vẫn tiếp tục xuất hiện những
quan niệm, những khuynh hướng thơ ca được xem là “hiện đại”, là “sáng
tạo”, nhưng thực chất là những nẻo đường lầm lạc của thơ ca. Một xu hướng
khá phổi biến là xu hướng “phi vật chất hóa” trong thơ. Đây không phải là một
hiện tượng gì mới lạ, mà những khuynh hướng phản hiện thực trong thơ đã
đề xướng lí thuyết này dưới hình thức này hay khác. Hăngri Brêmông trong
cuốn Thơ ca thuần túy đòi hỏi phải gạt bỏ tất những chất liệu cụ thể ra khỏi
thơ, nào đó là những hình ảnh, những chi tiết miêu tả về đời sống, những tình
cảm xã hội trực tiếp gây cảm xúc, những suy nghĩ, những biện luận của nhà
thơ. Đối với thơ, vấn đề không phải là ở những điều được nói ra mạch lạc, cụ
thể, những chuyện có ý nghĩa của đời sống mà người đọc cảm thụ được ở
bài thơ. Tất cả những thứ ấy là thuộc về văn xuôi, thuộc về một cái gì rất khác
với thơ. Xu hướng của Brêmông gạt bỏ lí trí một cách cực đoan và thiên về
một loại cảm hứng có tính chất thần bí, phi xã hội và phi vật chất.
Cũng một phản ứng tương tự với chất liệu của đời sống hiện thực,
Hâyđêgơ đề cao thơ của Hônđeclin và Rinke, đặc biệt là Hônđeclin. Hâyđêgơ
xem Hônđeclin là người nắm được tính chất của thơ ca, Hônđeclin là nhà thơ
của nhà thơ. Hâyđêgơ xem cái chất thơ của Hônđeclin là tinh túy, là thuần
khiết, là chắt lọc. Nó không bị kiềm tỏa bởi lí trí, bởi những cái cụ thể. Chất
thơ ấy được chọn lọc và phát hiện ra ở những khoảnh khắc đặc biệt của sự
sáng tạo, thời điểm mà năng lực tinh thần có những giao cảm kì lạ, nó hoàn
toàn vô tư và có sức mạnh mầu nhiệm để tạo nên qua ngôn từ một thế giới
riêng.
Xu hướng trên cũng có người xem là một hình thức lọc lấy tinh chất
(cristallisation). Xanh Jôn Perxơ, một nhà thơ hiện đại của Pháp được dư
luận chú ý, lại phản đối quan niệm xem thơ vì một sự tinh chất hóa. Với Xanh
Jôn Perxơ, thơ trước hết là một sự chuyển động, là quá trình chuyển động từ
nảy sinh, vận động phát triển cho đến khi kết thúc. Xanh Jôn Perxơ thường
dùng biển làm môi trường chủ yếu, và mô-tip đặc biệt quan trọng để xây đựng
hình tượng thơ. Biển không phải là đối tượng miêu tả trực tiếp, mà là biểu
tượng, là nguồn chất liệu của Xanh Jôn Perxơ.
Xanh Jôn Perxơ thường sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng, những
biểu tượng lấy từ trong đời sống tự nhiên với kích thước lớn lao và thường
trong dạng chuyển động như biển cả, dòng sông, con thuyền, cánh buồm,
ngọn gió, cánh đồng, mặt trời… Thơ của Xanh Jôn Perxơ đầy rẫy ngôn ngữ
kiểu những lời sấm truyền. Cố tạo nên một sự trang trọng, huy hoàng trong
từng hình ảnh, từ ngữ. Do đó về mặt hình thức mà nói, thơ của Xanh Jôn
Perxơ cũng tạo được một sức hấp dẫn nhất định. Tuy nhiên không thể ngộ
nhận và suy tôn Xanh Jôn Perxơ như kiểu một mẫu mực của thơ ca hiện đại,
một tiếng nói thơ ca lớn lao của thời đại như kiểu nhận xét của Rôjê Garôđi.
Cái con người đôi ở Xanh Jôn Perxơ bộc lộ một mặt là ở thái độ nhập thế, ở
sự gắn bó với chính quyền nhà nước với tư cách là nhà ngoại giao Alêxi Lêjê
và một mặt khác là một tâm hồn muốn giải thoát - theo một cách giải thoát
khác với những hình thức quay lưng lại thực tại của một số văn nghệ sĩ khác.
Thơ của Xanh Jôn Perxơ có thể là một lời mời mọc lên đường, là sự thúc đẩy
một ước mong giải thoát nhưng rồi sự giải thoát ấy nhằm vào ai? và đi tới
đâu? Quá trình chuyển động trong thơ của Xanh Jôn Perxơ có quá khứ, hiện
tại và cả tương lai, nhưng cả quá khứ, hiện tại và tương lai với sự vận động
liên tục đó như diễn ra thuần túy trong suy tưởng chủ quan của nhà thơ, tách
khỏi cuộc sống thực. Không phải ngẫu nhiên mà Rôjê Garôđi khi ca ngợi tính
chất tư biện của phương pháp Hêgen đã nghĩ đến Xanh Jôn Perxơ. “Trong
thơ Xanh Jôn Perxơ, tôi tìm thấv hình ảnh lật ngược lại của bản anh hùng ca
con người theo kiểu Hêghen”.Thực chất của sự chuyển động trong thơ Xanh
Jôn Perxơ cũng mang sắc thái tư biện chủ quan. Khởi điểm của nó trong quá
khứ là thiếu xác định cụ thể, và tương lai cũng vô định.
Về mặt nội dung tự tưởng, Xanh Jôn Perxơ ra vào quan niệm về một
con người nói chung, con Người viết hoa. Và trong thực tế sáng tác của tác
giả, tất cả những trạng thái cảm nghĩ về con người đều chung chung, trừu
tượng, không có dấu vết cụ thể của đời sống, không có bản sắc về tầng lớp
giai cấp, không có những mối liên hệ xã hội cụ thể. Hơn nữa, tác giả lại vận
dụng một cách nói gián tiếp với những biểu tượng, những hình ảnh tượng
trưng, những lập ý mập mờ tối nghĩa. Con Người trong thơ Xanh Jôn Perxơ là
một bản chất người chung chung, bị gò lại trong một thời hạn xác định và có
nhu cầu giải thoát. Đó là một con người của nhiều xứ sở, nhiều nền văn hóa
của quá khứ, hiện tại, tương lai, và đúng hơn là của bản thân tác giả. Chủ
nghĩa nhân đạo của sáng tác do đó mơ hồ, thiếu nội dung và nguyên tắc cụ
thể.
Xu hướng phổ biến trong thơ ca Tây phương hiện đại là ngày càng
trượt sâu vào chủ nghĩa chủ quan. Mỗi nhà thơ là một cuộc sống riêng tư,
quan niệm ấy được biểu hiện một cách cực đoan nhất. Một con người là một
thế giới riêng biệt, và “cả thế giới trong một con người” như cách nói của Max
Jacôp và xem đó là nhà thơ hiện đại. Sự đối lập giữa chủ quan và thế giới
khách quan đường như không vượt qua được. Không phải là cái tôi riêng tư,
mơ mộng, buồn chán của thơ ca lãng mạn. Với cái tôi yếu đuối này, nếu
không tạo được một sự giao cảm thì người đọc vẫn có thể thấy được, hiểu
được bản chất của hiện tượng đó. Với các nhà thơ hiện đại chủ nghĩa, mỗi
nhà thơ là một căn phòng tối kín mít mà chủ nhân nó đã giấu đi chiếc chìa
khóa. Max Jacôp biện hộ rằng: “Thơ ca hiện đại vượt lên mọi sự giải thích”. Ít
nhất thì Max Jacôp cũng phải thấy rằng mọi người nhận thấy ở loại thơ ca
này một cái gì rối rắm, thiếu nhất quán (incohérence) mà Jacôp cho rằng đó là
nhận xét của những kẻ thù địch. Nhược điểm ấy lại được giải thích một cách
ngụy biện về sự nhất quán của cảm xúc và thị hiếu thẩm mĩ của nhà thơ. Nếu
lấy chủ quan làm thước đo duy nhất trong sáng tạo và thưởng thức nghệ
thuật bất chấp đến những quy luật và hiệu quả khách quan của tác phẩm tức
là tự mình đã cắt đứt những mối liên hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống xã hội.
Xu hướng hiện đại chủ nghĩa trong thi ca đi vào ngõ tối của chủ nghĩa chủ
quản sẽ tạo nên nhiều lí thuyết ngụy biện trong thơ. Thơ ca không tuân chủ
theo một quy tắc, một mối liên hệ nào hết. Nguyên tác quan trọng duy nhất
đối với thơ chính là những quy luật của chính bản thân nó. Max Jacôp đã
từng nêu lên luận điểm này: “Thơ ca hiện đại là một chứng minh rằng trong
chất liệu thi ca vì bản thân thơ ca là quan trọng duy nhất”. Tất nhiên cái quan
niệm về chất liệu thi ca đây chỉ là cái cớ để che đậy những dụng ý chủ quan
lệch lạc, bệnh hoạn. Và cái chất thơ của Max Jacôp cũng khác về bản chất
với chất thơ theo quan niệm của chúng ta. Chủ nghĩa chủ quan trong thơ còn
tô vẽ và thổi phồng lên cái gọi là năng lực tưởng tượng sáng tạo của nhà thơ.
Nhà thơ là vị pháp sư, là đấng tạo hóa con có quyền lực vô hạn trong quá
trình sáng tác như cách nói của Xôlugup, nhà thơ suy đồi Nga đầu thế kỉ XX:
“Tôi nhặt một mẩu đời nghèo nàn và thô thiển và với nó tôi sáng tạo nên một
câu chuyện thần kì, bởi vì tôi là một nhà thơ”.
Đặt ở hai đầu quá trình sáng tác một bên là một mẩu đời xấu xí nghèo
nàn và một bên là cả một thế giới lộng lẫy không phải là một hành động tín
nhiệm và đề cao người nghệ sĩ mà chính là sự bộc lộ phần giả dối, bịa đặt
của người viết. Cuộc sống đi vào trong thơ tuy mang những phẩm chất mới
của sức sáng tạo nhưng không thể đối lập, khác đi về bản chất với hiện thực
ngoài đời. Tính chân thực vẫn là phẩm chất trọng yếu của toàn bộ sáng tác
văn học nghệ thuật.
Nghệ thuật thơ ca là một nơhệ thuật giàu sức sáng tạo và có dụng
công hết sức tinh tế. Ở mỗi bài thơ hay là một công trình trọn vẹn hoàn chỉnh,
nhất quán giữa nội dung và hình thức, giữa tư tưởng và nghệ thuật. Phần
đóng góp tái tạo của nhà thơ là quyết định. Nhưng cũng không thể thổi phồng
đến mức cho rằng cả thế giới thu về trong một tâm hồn, cũng như trên một
mũi kim nhà thơ có thể dựng một toà lâu đài rộng lẫy. Tính chất tập trung và
điển hình ở trong thơ rất cao. Có lúc như điểm căng nhất của một sợi dây
đàn, quy tụ về nhiều âm thanh, nhiều rung động của tâm hồn, nhiều vang
động của đời sống. Phút giây cao điểm ấy là nơi quy tụ và điển hình của sự
sống. Nó rất khác với việc biến nghệ thuật thơ thành một điều kì ảo, mài sắc
tài năng trên vực thẳm của sự giả dối - lừa dối người đọc và cũng là tự lừa
dối mình. Nó cũng rất khác với việc dụng công đẻo gọt, trau chuốt khiến cho
nghệ thuật thơ trở thành một kĩ xảo, một kĩ thuật.
Trong thơ ca từ đầu thế kỉ XX ở nhiều nước Tây phương thường có
một hiện tượng khá phổ biến là trong từng thời kì lại xuất hiện một nhóm nhà
thơ, phần lớn là những cây bút trẻ, họ được chú ý với một số sáng tác nào
đó; trong tiếng nói thơ ca của họ cũng có một cái gì mới mẻ. Họ liên kết lại với
nhau, tự thổi phồng tài năng và xem mình như một thế hệ mới đối lập với
những nhà thơ trước mà họ xem là đã xưa cũ, thuộc thế hệ lỗi thời. Và có thể
một mức cao hơn là hình thành trường phái, phát biểu tuyên ngôn… Nhưng
chỉ có một điều đáng tiếc là nếu ở một lúc nào đó họ có những dấu hiệu của
tài năng, thì tài năng ấy cũng mau chóng bị hủy hoại khi đã nhập vào một
hướng đi sai lạc, khi đã tự huyễn hoặc mình bằng những trò chơi ảo thuật.
Trong sáng tác thơ ca, lớp trẻ thường hay đem đến một tiếng nói mới
mẻ. Đó là quy luật vì chính họ là con người của thời đại, vì là kẻ bắt đầu, luôn
hăm hở nhiệt tình lên đường. Thái độ của chúng ta là phải ủng hộ, hoan
nghênh và cũng phải chờ đợi qua thử thách vì có những cây bút trẻ sau một
thời gian xuất hiện rất ngắn đã tự lặp lại mình và cũng có những nhà thơ lâu
năm luôn tự hồi sinh, luôn trẻ lại trong từng giai đoạn để tạo được sức hấp
dẫn lâu dài. Huygô, N. Ghilen, P. Nêruđa, Tố Hữu, Chế Lan Viên… đều nằm
trong trường hợp ấy. Vấn đề quyết định là ở chỗ luôn tỉnh táo và nhiệt tình
đem tiếng nói thơ ca phục vụ cho cuộc đấu tranh của dân tộc, của giai cấp,
luôn nhạy bén, mẫn cảm với cái mới nảy sinh trong cuộc sống, không chủ
quan, tự huyễn hoặc hoặc gò mình lại trong khuôn sáo. Trên phương hướng
ấy, thơ ca luôn có điều kiện để mới mẻ, hiện đại. Tính hiện đại trong thơ
không phải là một phẩm chất chung trừu tượng của các nền thơ, các phong
cách thơ mà mang những đặc điểm và sắc thái cụ thể của tiếng nói thơ ca
của một con người, một dân tộc, một thời đại với một lí tưởng xã hội cụ thể.
Tính hiện đại trong thơ bộc lộ trong nội dung cũng như trong hình thức biểu
hiện của thơ.
Sự phong phú và mở rộng về đề tài và chủ đề gắn là với những vấn đề
trung tâm của hiện thực của dân tộc và của thời đại là thột dấu hiệu khách
quan dầu tiên đem đến tính hiện đại trong thơ. Đi vào những đề tài vụn vặt
thứ yếu của đời sống và khai thác với một tầm nhìn chật hẹp, một cách xử lí
nông cạn chính là tạo nên khoảng cách giữa thơ và thời đại. Thơ phải nói lên
được cuộc sống của dân tộc mình, thời đại mình, thông qua cái cụ thể của
những con người, những cuộc đời, những sự kiện hằng ngày xảy ra trong đời
sống. Trong quá khứ, cái khó khăn đối với nhiều nhà thơ là luôn bị những
điều kiện hạn chế của lịch sử giới hạn tầm nhìn trong khuôn khổ của một
quốc gia, một địa phương nhất định. Gơt đã đề cập đến khái niệm văn học
thế giới (Weltliteratur) song hoàn cảnh đương thời của nhà thơ chưa cho
phép người viết có một tầm nhìn thời đại vượt khỏi ranh giới quốc gia. Ngày
nay cuộc đấu tranh ở mỗi dân tộc đều là một mắt xích, một khâu trong trận
tuyến chung. Góc độ và chỗ đứng của mỗi nhà thơ ở mỗi dân tộc là cửa ngõ
để từ đó nhìn vào cuộc đấu tranh chung của thời đại. Mỗi một sự kiện trong
đời sống chính trị, kinh tế, quân sự văn hóa, v.v… đều mang dấu ấn, đều nằm
trong một đường dây chung dẫn đến một sự nhận thức và khái quát rộng lớn.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định là sự ăn nhập, sự gắn bó của nhà thơ và
dòng thác biến cố của lịch sử và góp phần thúc đẩy nó với một quan điểm tiến
bộ bằng tiếng nói thơ ca. Thơ ca hiện đại đòi hỏi sự có mặt của nhà thơ với tư
cách người chiến sĩ trên tuyến đầu của cuộc đấu tranh. Không phải chỉ là cảm
xúc của nhà thơ với những sự kiện của đời sống, mà còn là sự phát hiện và
giải quyết vấn đề, là sức suy nghĩ, là tinh thần cổ vũ, đấu tranh, là hành động.
Không thể có một phong cách thơ nào được xem là hiện đại nếu thoát li khỏi
thời đại, thoát li khỏi cuộc đấu tranh và những vấn đề sống còn, cốt yếu của
một dân tộc. Không thể có một tiếng nói thơ ca nào được xem là hiện đại nếu
chỉ hướng thơ ca vào những đề tài thứ yếu vụn vặt, khơi dậy những cảm xúc
bình thường của con người tuy rằng cảm xúc có thể ở trạng thái da diết nhất,
hình tượng thơ được mài sắc lên từng phía. Tuy nhiên vấn đề không phải chỉ
là ở chỗ chạy theo những đề tài thời sự nhất. Chúng ta hoan nghênh những
nhà thơ bám sát những vấn đề nóng hổi nhất của thực tế đấu tranh, đem hơi
lửa thời sự vào trong thơ. Cũng có những nhà thơ viết về nhiều đề tài thời sự,
gắng đem cái mới nhất của đời sống vào trong thơ, song thơ vẫn không mang
tính hiện đại. Lưu Trọng Lư cũng viết về nhiều đề tài thời sự, nhưng với một
cảm xúc và cách nói có phần xưa cũ. Cái điệu thơ của anh chưa ăn nhập với
chủ đề mới. Yến Lan, qua tập Lẵng hoa hồng, cũng viết nhiều về đề tài thời
sự và những tin chiến thắng nhưng anh mới nặng về chất liệu bên ngoài mà
thiếu sự hòa hợp từ bên trong. Còn thiếu sự hiện diện của có tôi trữ tình.
Điều quan trọng đặc biệt là ý thức chủ động của người viết, sáng suốt,
tỉnh táo với một bản lĩnh vững vàng nhận thức bước phát triển mới của đời
sống và thể hiện vào trong tác phẩm thơ ca. Nhà thơ không thể bị động để
cho những sự kiện ồ ạt lôi cuốn đi mà thiếu một sự phân tích và cách nhìn
sáng tỏ từ bên trong. Không thể biến thành người sao chép cuộc sống, kể lể
dài dòng ở trong thơ. Nhà thơ cũng không thể bị những cái cục bộ, địa
phương chi phối. Phải có một chỗ đứng cao để có được một tầm nhìn bao
quát, cái tầm của thời đại, của dân tộc. Tính chất chủ động tham gia vào cuộc
đấu tranh bằng tâm hồn và ngòi bút dĩ nhiên là khác rất xa với chủ nghĩa chủ
quan của khuynh hướng lãng mạn và các trào lưu suy đồi khác trong thơ ca.
Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là nhà thơ thể hiện được cái
tầm của thời đại, của dân tộc trong mỗi bước phát triển của lịch sử. Ta đi tới,
Việt Bắc là những bài thơ có ý nghĩa đúc kết cho một giai đoạn lịch sử và mở
ra một chặng đường mới sau những năm dài kháng chiến chống Pháp thắng
lợi. Bài ca mùa xuân 1961 bộc lộ một chỗ đứng, một tầm nhìn bao quát lịch
sử trong những tháng năm nhân dân ta đang nô nức xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Chào xuân 67… chỉ ra được những mối liên hệ giữa cuộc chiến đấu của
dân tộc ta và bước phát triển chung của thời đại.
Tố Hữu luôn có một cái nhìn chủ động và chín trong cảm hứng với
những đề tài thời sự, những hiện tượng nảy sinh mới mẻ nhất trong cuộc
chiến đấu. Đây không hải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà đó là một chứng
minh rất cụ thể sự ăn nhập sâu sắc của nhà thơ với dân tộc và thời đại. Vấn
đề khoảng cách trong thơ và một dấu hiệu cụ thể để xác định sự gắn bó giữa
nhà thơ và thời đại. Nếu cái khoảng cách đó càng lớn lên với một độ dài thực
tế đáng lo sợ, nếu tiếng nói thơ ca càng ngày càng trở nên xạ lạ với đời sống
tinh thần của quần chúng thì rõ ràng đó là một biểu hiện của một cái gì xưa cũ
đang bị loại trừ.
Luôn đấu tranh để tự vượt lên mình, gạt bỏ khoảng cách trong thơ và
có được sự ăn nhập sâu sắc với đời sống trong bước phát triển cách mạng
của nó phải là một nhiệm vụ, một nỗ lực thường xuyên của các nhà thơ.
Mỗi thời đại, mỗi dân tộc trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có
những nhà thơ tiêu biểu nhất của mình. Đó là những tiếng nói thơ ca đáp ứng
được hiệu quả nhất, đầy đủ nhất những yêu cầu của thời đại với một cách nói
và những phương tiện biểu hiện mới. Có những nhà thơ mà tiếng nói thơ ca
bao quát cả một giai đoạn của lịch sử một dân tộc hay rộng ra hơn là của thời
đại. Huygô với thơ ca thế kỉ XIX của Pháp, Maiakôpxki với thơ ca Xô Viết đầu
thế kỉ XX, Pablô Nêruđa và N. Ghilen với nền thơ hiện đại của châu Mĩ La
tinh. Ngày nay chúng ta đang ở vào trung tâm của một thời đại mới, một thời
đại mà những mối liên hệ xã hội trở nên hết sức phong phú và phức tạp do
cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến mức gay gắt nhất, trên bề rộng cũng
như bế sâu, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học nguyên tử, chất dẻo,
thông tin, v.v… và lớn hơn tất cả là thời đại trỗi dậy làm chủ quyền sống của
mình của quần chúng cách mạng trên toàn thế giới. Trong bước phát triển
chung của thời đại, mỗi dân tộc đều có phần đóng góp và có tiếng nói riêng
của dân tộc mình. Dân tộc nào ở vào trung tâm cơn xoáy lốc, chịu trách
nhiệm lịch sử nặng nề và vẻ vang nhất đóng góp tích cực vào bước phát triển
chung của phong trào tiến bộ của loài người thì đồng thời cũng mang những
đặc điểm, những phẩm chất tiêu biểu cho thời đại. Trong những năm gần đây,
cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước của nhân dân Việt Nam là một cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc lớn nhất trong thời đại hiện nay, đồng thời cũng là
một trận tuyến hết sức quyết liệt của những lực lượng tiến bộ trên thế tiến
công áp đảo kẻ thù hung bạo nhất của thời đại. Việt Nam là một vấn đề dân
tộc nhưng cũng là một vấn đề của thời đại. Việt Nam là một vấn đề chính trị
quân sự nhưng cũng là một vấn đề của văn hóa và văn minh của con người.
Việt Nam là một vấn đề của hiện tại nhưng đồng thời cũng là vấn đề của
tương lai. Nhận thức và thể hiện được những vấn đề của dân tộc, của thời
đại đòi hỏi thơ phải biết đi vào bề sâu của cuộc sống để phát hiện và giải
quyết vấn đề, thơ phải giàu cảm xúc và suy nghĩ, thơ phải hành động. Một
phương hướng chính trị đúng đắn, một bản lĩnh và cốt cách vững vàng bộc lộ
trong cảm xúc và suy nghĩ, một lời kêu gọi hành động là những phẩm chất
không thể thiếu được của thơ ca hiện đại. Nhà thơ sẽ tự hạn chế mình nếu
chỉ là người chiêm ngưỡng vẻ đẹp bên ngoài của đời sống với một cái nhìn
tĩnh, hoặc chỉ biết bộc lộ một cách thụ động những cảm xúc của mình do cuộc
sống tác động gây nên. Nhà thơ phải chủ động nhận thức và góp phần cải tạo
đời sống, thể hiện trong cường độ mãnh liệt của cảm xúc, trong sức suy nghĩ
và khuynh hướng biện luận tranh luận để khẳng định chân lí.
Để phục vụ cho yêu cầu biểu hiện nội dung đó, thơ trữ tình hiện đại vừa
có xu hướng mở rộng thành phần cấu tạo, vừa có xu hướng trở về với dòng
trữ tình nguyên chất. Trong thơ trữ tình hiện đại, những thành phần chính
luận, suy tưởng, tự sự được gia tăng thêm cho gần gũi và sát đúng hơn với
đối tượng miêu tả và trạng thái cảm nghĩ của nhà thơ. Về phía đối tượng
miêu tả khách quan, nếu đó là một cảnh ngộ, một con người cụ thể thì người
viết phải nắm bắt được những hình ảnh, những chi tiết chân thực, điển hình
để cho đối tượng xuất hiện một cách sinh động, có không khí, có dáng dấp và
màu sắc cụ thể, không rơi vào lối miêu tả ước lệ, chung chung. Thơ ca cổ sử
dụng nhiều đến những mô–típ ước lệ để biểu hiện những đối tượng khác
nhau làm cho tính riêng chân thực của đối tượng bị hạn chế rõ rệt. Cao Bá
Quát, trong bài thơ Người đàn bà Phương Tây, đã tránh được những nhược
điểm trong cách biểu hiện của lối thơ quen thuộc đương thời và tạo được cho
bài thơ một màu sắc và văn cảnh mới. Đó là sự quan sát trực tiếp và tỉ mỉ đối
tượng, nắm bắt được những hình ảnh sinh động, những sắc thái riêng của đối
tượng đang diễn biến. Đó là cách vận dụng phương tiện biểu hiện cụ thể, sát
đúng, không chung chung ước lệ. Những “đèn le lói”, kéo áo rì rầm”, “hững
hờ cốc sữa”, “uốn éo đòi chồng” đều mang một sắc thái tu từ hiện đại.
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói
Kéo áo rì rầm nói với nhau
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay
Gió bể đêm sương thổi lạnh thay
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy
Biết đâu đến khách biệt li này.
Chế Lan Viên đã có lí khi nhận xét bài thơ: “Từ đề tài đến phong cách có cái
gì thực là mô–đéc, thực là hiện đại khác hẳn với cái hơi thơ lúc bấy giờ”.
Sự có mặt và thâm nhập của chất tự sự vào trong thơ trữ tình là một
hiện tượng bình thường đã thấy từ xưa và mãi mãi vẫn tồn tại ở trong thơ.
Tránh được lối kể lể có tính chất tự nhiên chủ nghĩa, lối miêu tả sáo mòn ước
lệ, nắm bắt được những nét điển hình của hiện thực và thể hiện với những
sắc thái sinh động nhất là một yêu cầu quan trọng đảm bảo cho tiếng nói thơ
ca luôn mới mẻ, giàu sức sống.
Một phương diện khác thuộc về vai trò chủ quan của người viết. Trong
thơ ca hiện đại, tư duy của nhà thơ phải được bồi đắp từ nhiều phía để thật
sự có nhiều năng lực. Vừa nhạy bén về chính trị, sắc sảo trong phân tích bình
luận, lại vừa giàu cảm xúc và suy tưởng. Những năng lực đó của tư duy có
thể được vận dụng từng mặt hoặc tổng hợp để miêu tả đối tượng. Một hơi thơ
thuần cảm xúc nhiều khi bị hạn chế để ứng phố với nhiều yêu cầu để miêu tả
những đề tài hiện đại. Những sáng tác như Chào xuân 67, Êmily con, Theo
chân Bác của Tố Hữu, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? Cách mạng của
Chế Lan Viên… mang nhiều phẩm chất tổng hợp của những sáng tác thi ca
hiện đại. Ngoài phần cảm xúc vốn được xem như cái nền của một bài thơ,
chất trí tuệ bộc lộ qua suy tưởng được xem trọng và nhiều khi có khuynh
hướng vượt lên hàng đầu trong một số sáng tác làm cơ sở cho cấu tứ và lập
ý.
Mặc dù có sự thâm nhập hoặc gia tăng của những nhân tố khác, thơ ca
hiện đại vẫn có xu hướng trở về với mạch trữ tình nguyên chất mà nội dung
của nó là những cảm xúc và suy nghĩ quyện hòa phát triển. Và một nhân tố
hết sức quan trọng là sự vận động biện chứng của cảm nghĩ. Nhà thơ phải
nhận thức cuộc sống với một cái nhìn động, rất động theo chiều hướng phát
triển cách mạng. Sự vận động cách mạng là cơ sở và phương hướng phát
triển của cảm xúc và suy tưởng. Tất nhiên cần tránh một cái gì khiên cưỡng
hoặc lên gân một cách giả tạo, mà là sự vận động biện chứng của nội tâm.
Trong bài thơ Theo chân Bác, sự vận động biện chứng của tâm hồn được
thực hiện trên đường dây phát triển của lịch sử và trong tình cảm yêu thương
kính mến lãnh tụ, một tình cảm cách mạng rất sâu sắc và cao thượng.
Từ một chủ đề bao quát cho đến một cảm xúc cụ thể, người viết phải
tránh được đơn điệu, cái đơn điệu của một sự nghèo nàn về cảm xúc và suy
nghĩ, của sự lặp lại những ý tưởng vốn đã quen biết. Cảm xúc và suy nghĩ
như dòng nước luôn cuộn chảy, rất năng động trong liên tưởng, từ một ý
tưởng chung tỏa ra nhiều nguồn mạch, và lại từ nhiều mạch nguồn thu về một
mối. Nazim Hitmet từ trong nhà tù lắng nghe người vợ thân yêu những tiếng
nói thiết tha từ trong kí ức, nơi đáy sâu của tình cảm, những tiếng nói của nỗi
nhớ thương, của lời nhắn gửi. Cái tiếng nói vô hình ấy hiện trong nhiều tiếng
nói có âm thanh, có màu sắc, có sức vang vọng thiết tha của nội tâm kết hợp
với những liên tưởng phong phú:
Trong cái đêm thu này
Lòng anh đầy những tiếng của em
Tiếng vĩnh cửu như thời gian vật chất
Tiếng nặng chắc như bàn tay
Tiếng long anh như sao sáng
Từ trái time em, từ đầu óc em, từ máu thịt em
Những tiếng của em xuyên đến
Những tiếng của em chứa đầy em yêu mến
Những tiếng của em người làm mẹ
Những tiếng của em người làm vợ
Những tiếng của em người bạn chí tình
Tiếng em buồn bã đắng cay
Tiếng em vui vẻ chứa đầy ướt ao
Tiếng em hùng dũng tự hào
Tiếng em gửi đến khác nao những người.
Ta cũng bắt gặp một cảm hứng tương tự về tiếng của thời gian qua
những vần thơ giàu sức liên tưởng.
… Ta lắng nghe
Tiếng nhặt khoan nhịp xênh tiền mẹ hát
Tiếng âm ấm giọt tranh vừa nặng hạt
Tiếng phồng căng con gà đất đầu xuân
Tiếng chìm sâu buổi phóng cọc Bạch Đằng
Tiếng đục vào đất đêm
Tiếng khoan tường xuyên phố
Tềng đất cày lật dưới chân cha vỡ
Tiếng bào thai mẹ đạp ngốt hầm sâu
Và tiếng em rơi rơi…
Như những mảnh lá đêm mùa chia tay Hà Nội…
(NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
Giữa hai âm thanh, hai tiếng nói, hai hình ảnh tưởng như không gắn bó với
nhau vẫn có một đường dây chạy dọc từ bên trong theo bước đi của thời gian
qua lịch sử đất nước và những kỉ niệm riêng tư thân thiết của một cuộc đời.
Quá trình phát triển của cảm xúc và suy nghĩ trong thơ là biến hóa, đổi
thay, nhiều màu sắc nói lên được đúng thực chất và chiều sâu của nội tâm.
Khuynh hướng gò cảm xúc suy nghĩ vào trong những lối mòn ước lệ, hoặc rơi
vào lối cảm nghĩ đơn giản, khô khan, tước đi mất tất cả những cái gì sinh
động, tươi tắn, tinh vi của đời sống tâm hồn biến thơ thành nghèo nàn, xưa
cũ. Tự nhiên chúng ta cũng không tán thành khuynh hướng phức tạp hóa, cố
tình đưa vào trong thơ những ý nghĩa cầu kì lập dị những suy tưởng gán
ghép từ ngoài vào làm cho hình tượng thơ trở nên nặng nề, phức tạp, khó
hiểu và mệnh danh là thơ hiện đại. Tính hiện đại trong thơ cũng bộc lộ rõ nét
ở những phương tiện biểu hiện. Không thể xem là hiện đại khi một nội dung
mới lại biểu hiện bằng hình thức cũ. Hơn một thể loại văn học nào, mối quan
hệ giữa nội dung và hình thức trong thơ có những mối liên hệ rất hữu cơ tác
động qua lại chặt chẽ chuyển hóa rất tinh tế. Cái mới trong nội dung phải tìm
được cái mới trong hình thức. Trong những năm đầu Cách mạng, những ý
tưởng và nội dung mới trong thơ thường phải bộc lộ qua những phương tiện
biểu hiện cũ, nào là một hệ thống từ sáo rỗng ước lệ hoặc tượng trưng trừu
tượng, nào là những hình ảnh còn ồn ào xưa cũ, ít chất sống trực tiếp… Thể
thơ tự do, thơ không vần rất ít được sử dụng và còn xa lạ trong sáng tác cũng
như tâm lí thưởng thức của người đọc. Trong tình hình đó, bài thơ Nhớ máu
của Trần Mai Ninh mang một dáng vẻ hiện đại trong nội dung cũng như hình
thức biểu hiện. Hình thức của Nhớ máu bám sát nội dung tư tưởng của bài
thơ, thể hiện được chất khỏe khoắn, sức căng đầy và tinh thần tiến công cách
mạng. Hình thức thơ không bị gò bó trong một công thức biểu hiện nào vốn
có về mặt thể loại cũng như hình ảnh, ngôn từ. Mạch thơ động, chuyển vận
gấp rút theo nhịp điệu phóng khoáng, tăng cường. Chỉ hình tượng gió mở đầu
cho bài thơ cũng đã mang những đặc điểm trên:
Ơi cái gió Tuy Hòa
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng
Gió đi ngang đi dọc
Gió trẻ lại – lưng chừng
Gió nghĩ
Gió cười
Gió reo lên lồng lộng…
Biết phát hiện và sử dụng những phương tiện biểu hiện mới cho phù
hợp với yêu cầu của nội dung mới, thấy rõ những hạn chế của một hệ thống
thi pháp cũ trong bước chuvển biến quan trọng cũng là sự sáng tạo chân
chính. Maiakôpxki người đã có những cách tân quan trọng trong thơ ca Nga
về hình thức biểu hiện, có những ý kiến đáng chú ý trong tuyên ngôn về thơ:
“Tôi xin nói thật thà. Tôi chẳng biết iămbơ, chẳng biết khôrê là gì cả, tôi
chưa bao giờ phân biệt được hai điều này, mà sẽ không bao giờ phân biệt,
không phải vì đây là một việc khó mà vì trong công việc làm thơ của tôi, tôi
chưa bao giờ đụng vào những trò ấy.
Tôi không đưa ra một quy tắc nào cả giúp mọi người trở thành thi sĩ và
làm được thơ. Nói chung, không có những quy tắc như vậy. Người gọi là thi
sĩ chính là người sáng tạo ra bản thân những quy tắc thi ca ấy…”.
Quan niệm của Maiakôpxki chính là điều mà tác giả đã thực hiện. Hệ
thống thi pháp của thơ ca Nga từ Tơrêđiakôpxki đến Puskin đến Maiakôpxki
luôn có những cách tân quan trọng vừa góp phần nâng cao vừa mở ra những
quy tắc mới góp phần giải quyết những yêu cầu về nội dung.
Sự thống nhất chặt chẽ và hòa điệu một cách nhuần nhị giữa nội dung
và hình thức là một tiêu chuẩn hết sức quan trọng đảm bảo sức mạnh và sức
lôi cuốn của thi ca. Hình thức trong thơ cũng luôn phát triển, nên cũng khó
xác định một hình thức mẫu mực. Cái mới trong hình thức ở giai đoạn này lại
có thể trở thành những phương tiện biểu hiện lạc hậu, cũ kĩ ở giai đoạn sau.
Trong thơ ca, hình thức thơ so với các thể loại khác lại mang tính xác định rõ
nét hơn và hình thành một hệ thống thi pháp bền vững được xem như những
tiêu chuẩn mang ý nghĩa thẩm mĩ trong sáng tạo. Do đó việc đổi mới những
hình thức cách luật không phải là một chuyện bao giờ cũng thuận lợi, mà thực
sự là một cuộc đấu tranh cho những tiêu chuẩn thẩm mĩ mới được khẳng
định. Phong trào thơ mới ra đời cũng gặp sức phản công quyết của thơ cũ,
thơ tự do xuất hiện cũng không được thừa nhận ngay tự buổi đầu. Trong quá
trình phát biển của thơ thì hình thức thơ tự do, câu thơ tự do là hình thức cuối
cùng của một hệ thống thủ pháp đi từ gò bó, chặt chẽ, đến hoàn toàn cởi mở,
linh hoạt thích hợp với quá trình phát triển tự nhiên của tư duy nghệ thuật.
Trong thơ tự do bao gồm nhiều hình thức hơn là một hình thức duy nhất vì
đây là một thể thơ sẵn sàng biến hóa để đáp ứng với yêu cầu nội dung và nó
luôn được tổ chức thành những dạng mới mẻ sát đúng với đối tượng miêu tả,
sát đúng nhất với trạng thái rung động và cảm nghĩ của nhà thơ.
Trong hình thức thơ tự do thì câu thơ tự do cũng là hình thức câu thơ
linh hoạt phóng khoáng nhất. Từ câu thơ của các thể thơ cổ Hi Lạp, cấu trúc
theo kiểu khôrê, đactin, anapextơ, đến câu thơ Alêcxanđranh của Pháp, câu
thơ Đường kiểu thất ngôn, bát cú, đến câu thơ tự do là quá trình tước bỏ dần
những quy chế, những gò bó, những định lệ để cho câu thơ có khả năng biến
hóa ứng phó với tất cả mọi trường hợp. Câu thơ tự do có thể là một lời nói
thông thường, một cấu trúc ngôn ngữ cô đọng đúc lại như châm ngôn, là một
lời ru mềm mại là một tiếng kêu ai oán, một tiếng thét căm thù… Câu thơ tự
do không bị gò lại trong những tiền đề, những khuôn khổ có sẵn làm cho nội
dung bị hạn chế hoặc mất đi sức sống và bộ mặt riêng của nó. Hình thức
trong câu thơ hiện đại là hình thức của nó, của riêng nó trong tương quan với
một nội dung nhất định. Mỗi bài thơ phải có một hình thức riêng, một vẻ đẹp,
một dáng dấp riêng về hình thức. Các thể thơ cách luật vốn là những hình
thức, những vẻ đẹp có tính chất quy ước và có sẵn nên có thể không hoàn
toàn phù hợp với tất cả các nội dung và đối tượng miêu tả khác nhau Thể thơ
tự do tạo điều kiện để cho bài thơ có một hình thức hiện đại từ tổ chức kết
cấu toàn bài đến kết cấu riêng trong từng câu, từ nhịp điệu đến ngôn từ.
Không phải tất cả các bài thơ viết theo thể tự do đều hiện đại về hình thức vì
bản thân thể thơ tự do chưa phải là một hình thức hoàn chỉnh xác định mà chỉ
là điều kiện, là tiền đề để các nhà thơ tạo hình thức riêng của mình. Do đó
cũng có tình trạng là nhiều nhà thơ vận dụng thể thơ tự một cách tùy tiện, đơn
giản đến mức độ bài thơ không có vẻ đẹp riêng về hình thức hay nói một cách
cực đoan hơn là không có tình thức riêng - bởi lẽ nhà thơ không dụng công
sáng tạo về hình thức hoặc sai lầm khi xem thơ tự do là thể cho không đòi hỏi
gì về công phu sáng tạo hình thức. Trở về với hình thức và câu thơ phóng
khoáng tự do, thơ dễ có xu hướng bị trôi đi mất về mặt hình thức tuy đó là
một thể loại thuận lợi nhất để tạo nên những sáng tạo riêng trong hình thức.
Trong các thể thơ cách luật tuy có những hạn chế ở sự gò bó của quy tắc
cách luật và người viết không thể hoàn toàn thoải mái tự do trong sáng tạo,
song lại vẫn có một khía cạnh tích cực là luôn bó buộc, nhắc nhở người viết
phải cố gắng để khỏi vi phạm vào nguyên tắc cách luật. Qua một bài thơ thất
ngôn bát cú, nếu người viết tuân thủ đúng niêm luật, kết cấu thơ chặt chẽ, các
vế đối cân xứng và chững chạc thì bài thơ đã có được một hình thức nhất
định, và nếu sự cố gắng cao hơn thì sáng tác đã mang vẻ đẹp về hình thức.
Song đối với một bài thơ tự do thì dường như người viết không lo lắng vi
phạm vào một nguyên tắc nào hết và đôi khi chỉ chú tâm bộc lộ nội dung một
cách dễ dãi, ồ ạt, nên bài thơ tự nó không phân biệt được với văn xuôi, không
mang vẻ đẹp của hình thức thơ.
Về mặt hình thức thơ hiện nay, thể thơ tự do thực sự đã trở thành một
chủ thể. Đa số các bài thơ đều được viết theo thể tự do. Đó là một yêu cầu
của thời đại. Thể thơ tự do tạo điều kiện để miêu tả thực tế khách quan một
cách sinh động và cũng tạo thuận lợi để biểu hiện những rung động và cảm
nghĩ của nhà thơ. Tuy nhiên nhược điểm khá phổ biến là nhiều bài thơ tự do
được viết ra một cách quá dễ dãi và dường như không có vẻ đẹp về hình
thức. Vẻ đẹp hình thức trong thơ tự do chủ yếu đạt được do sự hài hòa tuyệt
đẹp giữa nội dung và hình thức đến mức độ người ta cảm thấy rằng hình thức
ấy là của nội dung ấy và không thể khác được. Hình thức câu thơ hiện đại
không phải là hình thức buông thả tùy tiện trong thể loại tự do, mà luôn có vẻ
đẹp xác định về hình thức. Đó là tính cân đối và cấu tạo chặt chẽ của tổ chức
kết cấu, tính hàm xúc chọn lọc và màu sắc của ngôn ngữ thi ca, sự hài hòa
đến mức cao giữa những nhân tố của hình thức với nội dung.
Từ cái bao quát của một thể thơ, đi vào những nhân tố cụ thể như kết
cấu, ngôn ngữ, v.v… cũng cần xác định một quan niệm đúng đắn. Tổ chức
kết cấu đẹp nhất của một bài thơ là hình thức kết cấu đi sát đúng nhất với đối
tượng miêu tả và nội dung của sáng tác, thể hiện được tốt nhất chủ đề, tư
tưởng của tác phẩm. Một số khuynh hướng trong thơ ca hiện đại chạy theo
chủ nghĩa hình thức, lấy kết cấu làm điểm tựa chủ yếu của sáng tạo và dẫn
đến chỗ xây dựng bài thơ theo lối hình họa. Nội dung sáng tác, cấu trúc hoàn
chỉnh của câu thơ bị gò vào khuôn khổ của một hình cụ thể như tam giác, chữ
nhật, quả trám, hoặc theo hình dáng của món vật thể nào đó như bông hoa,
cánh chim bay… Điều chắc chắn là những bài thơ trên ít đảm bảo được giá trị
về nội dung vì ngay từ mục đích và quan điểm sáng tác đã không nhằm phục
vụ cho nội dung; về mặt hình thức cũng không mang lại một điều gì mới mẻ
ngoài sự cầu kì, giả tạo. Thậm chí họ thường xuyên hi sinh ý nghĩa của nội
dung; bài thơ để phục vụ cho sự tổ chức các biểu đồ, các hình vẽ. Từ ngữ
không còn đóng chức năng biểu hiện nội dung của thi ca mà bị mất đi cả phần
ngữ nghĩa lẫn phần ngữ âm, hai thành phần chính của từ và được sử dụng
thành chất liệu của hội họa, một năng lực mà từ rất hạn chế, hay nói đúng
hơn là không có. Khuynh hướng thi ca cụ thể càng đi sâu vào ngõ cụt này và
càng bế tắc, càng ngày càng sản sinh ra những sản phẩm kì quái mà thực
chất không thể gọi được là tác phẩm thơ ca.
Vấn đề sử dụng ngôn ngữ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để đảm bảo
cho bài thơ có hình thức mới mẻ, hiện đại. Ngay ở khía cạnh lựa chọn từ ngữ
cũng biểu hiện rõ rệt dấu vết của một thời đại. Hơn lĩnh vực nào hết, trong thơ
luôn bộc lộ rõ rệt cái mới xuất hiện và phần cũ đi của từ ngữ. Hai mươi lăm
năm trước Tố Hữu có thể viết về niềm vui bất tuyệt:
Mặt trời đó huyền kì mọc lên, ôi náo nức
Nhạc nhân gian cuốn cuồn bốc hồng trần.
Cách viết ấy và hệ thống những từ ngữ ấy hiện nay lại không thích hợp và trở
thành xưa cũ. Nhược điểm trên thể hiện phổ biến hơn trong một số sáng tác
đương thời như Ngọn quốc kì, Hội nghị non sông.
Vàng huy hoàng sinh giữa thắm hây hây
Thắm lộng lẫy nở quanh vàng rực rỡ
Tất cả vẫn là một cười thắm đỏ
Tất cả cờ là một tiệc triệu dương.
Đi vào cuộc kháng chiến của dân tộc, thơ ca bắt lấy được những hình ảnh, vẻ
đẹp và tiếng nói của đời sống giàu có mà chân chất, giản dị, nên trong thời kì
đầu tuy còn vướng vào một số rơi rớt, song nói chung những bài thành công
trong thơ ca kháng chiến chống Pháp ít rơi vào xưa cũ. Những bài thơ như
Nhớ của Hồng Nguyên, Viếng bạn của Hoàng Lộc, Bài ca vỡ đất của Hoàng
Trung Thông, Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ, Phá đường, Cá nước,
Ta đi tới của Tố Hữu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, v.v… nói chung vẫn
giữ được tính chất gần gũi, mới mẻ trong hệ thống từ biểu hiện. Kinh nghiệm
thực tế chỉ ra là khi ngôn ngữ thơ ca càng cố sức sống về nội dung, càng gần
với tiếng nói của đời sống, tránh được lối viết cầu kì, hình thức thì thơ sẽ giữ
được lâu dài tính chất mới mẻ hiện đại. Khuynh hướng ước lệ và cách điệu
hóa tuy có mặt mạnh và được sử dụng phổ biến trong thơ nhưng cũng có mặt
hạn chế là dễ mang nặng sắc thái chủ quan trong việc liên tưởng, xây dựng
hình ảnh, sử dụng từ… và do đó dễ bị cũ đi nhanh chóng hơn là xu hướng
miêu tả cuộc sống một cách chân thực khách quan. Lưu Trọng Lư nói về việc
con người bay vào vũ trụ qua hình ảnh cách điệu Anh thợ gặt sao:
Tay búa tay liềm
Anh đi hái
Những vì sao
Và giăng đóng giữa trời cao
Những biển vàng Xô Viết.
Những liên tưởng và hình ảnh trên chung chung và ít sức biểu hiện và so với
những hình thức sử dụng trong thơ ca những năm gần đây thì những câu thơ
trên đã xưa cũ. Có những trường hợp câu ị cũ về ngôn từ, nhưng bị mòn về
hình ảnh, về cách biểu hiện và cũng dẫn đến tình trạng ước lệ chung chung.
Bài thơ tháng Bảy của Tế Hanh là một sáng tác tốt, nhưng anh vẫn không
tránh khỏi xưa cũ, chung chung ở một vài đoạn, khi không tìm được một cách
nói mới về những vấn đề quen thuộc:
Nửa đất nước thân yêu theo bánh chuyển
Tới tương lai trong nhip hát công trường
Ngày lao động ngon lành như trái chín
Trĩu cây đời quấn quýt những cành thương.
Vành đai trắng đã xanh rờn ruộng lúa
Tổ đổi công vui tiếng học i tờ
Vươn nhịp mới cầu nối bờ thương nhớ
Than mấy tầng đen nhánh ánh thi đua…
Tuy có tạo được một ấn tượng nào đó về không khí lao động và thi đua
xây dựng của miền Bắc nhưng vẫn hết sức chung chung và mòn sáo. Cái cũ
trong hình thức của thơ bắt đầu từ chỗ không có được một cách nói mới.
Tính hiện đại trong thơ là một phẩm chất bộc lộ cả trong nội dung và
hình thức, trong một hòa điệu gắn bó giữa các nhân tố về tư tưởng và nghệ
thuật. Một thiếu sót, hạn chế về bất kì mặt nào đều làm giảm sút ý nghĩa và
sức truyền cảm của hình tượng thơ.
Chương 7. HÌNH THỨC CỦA THƠ
I. MỐI QUAN HỆ GIỮA NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC TRONG THƠMối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong thơ cũng thể hiện một
cách đầy đủ những đặc điểm và quy luật về mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức trong văn học. Giá trị của một bài thơ trước hết là ở nội dung, ở hệ
thống cảm xúc, suy nghĩ và hình ảnh, cơ sở trực tiếp biểu hiện chủ đề tư
tưởng của sáng tác. Cái lớn lao của một nhà thơ chính là ở tầm cao về tư
tưởng, chiều sâu của cảm xúc, ở sự rộng lớn và bay bổng của hồn thơ. Một
nhà thơ với sức sáng tạo phong phú của một tâm hồn nghệ sĩ dĩ nhiên là
khác về bản chất với một người thợ thơ chỉ thiên về sử dụng công gọt giũa về
mặt hình thức. Xem nhẹ vai trò của nội dung, chạy theo sự tô vẽ hình thức,
thơ ca sẽ rơi vào lối viết phô trương, kĩ xảo, những dấu hiệu của sự thoái hóa
và bế tắc. Ngay với một số nhà mĩ học duy tâm trước kia, cũng có người trên
cơ sở của thực tế sáng tác thơ ca, đã thấy được tính chất nghèo nàn của
những khuynh hướng hình thức chủ nghĩa trong thơ.
“Nhưng một khi đã bước vào con đường ấy, trong việc đi tìm cách biểu
đạt như thế, thơ có thể đi đến chỗ lấy cách biểu đạt làm mục đích chính của
mình, đi đến chỗ không chú ý đến cái chân thực bên trong bằng chú ý với cái
hình thức đẹp, tới cái bóng bẩy và lúc lôi cuốn của ngôn ngữ. Lúc này chính
là lúc từ chương và lối hô hào mà tôi đã nói ở trên đột nhập vào phá phách
cuộc sống của thơ và tác phẩm nghệ thuật do sự suy suy nghĩ sáng suốt tạo
ra bỗng trở thành một tác phẩm đi ngược lại những ý đồ và dự định của
mình”. (Hêghen: Mĩ học).
Vấn đề phê phán chủ nghĩa hình thức trong thơ bao giờ cũng cần đặt
ra một cách thường xuyên và nghiêm khác vì trong thực tế chủ nghĩ hình thức
luôn làm cho thơ nghèo nàn. Tuy nhiên, so với các thể loại, vai trò của hình
thức trong thơ có một vị trí qian trọng; hình thức trong thơ luôn có tính năng
động, và trong một số trường hợp có xu hướng tách khỏi nội dung hoặc lấn át
nội dung. Ví dụ như trong tương quan giữa nhạc và ý của bài thơ thì ý giữ vai
trò chủ đạo và là nội dung chủ yếu của sáng tác. Nhạc toát ra từ nội dung ý
tưởng, phù hợp và hỗ trợ cho sự cảm thụ nội dung. Nhưng nếu chỉ cần có
dụng ý chăm chút nhạc điệu theo một yêu cầu riêng nào đó thì chất nhạc sẽ
triển khai nhanh chóng thể hiện trong cách chọn từ, gieo vần, ngắt nhịp… và
dễ có khuynh hướng thoát li khỏi nội dung ý tưởng. Sương rơi của Nguyễn Vĩ
là một bài thơ độc đáo, nhưng tác giả lại quá chú ý nhấn mạnh đến âm hưởng
riêng của bài thơ theo thể hai từ: sao cho những từ gieo xuống như hạt
sương, hạt lệ rơi, sao cho lối hiệp vần gây một ấn tượng xa cách nhớ thương.
Dụng ý ấy lấn át và có lúc tách khỏi nội dung, người viết dường như chỉ chú
trọng đến âm thanh của từ, đến nhịp điệu để tạo nên tiếng sương rơi hơn là
chú ý đến nội dung, và bài thơ đã rơi vào hình thức chủ nghĩa. Vũ Hoàng
Chương cũng quá chú trọng đến cách gieo vần, hiệp vần và tổ chức nhịp điệu
trong thơ. Say đi em của Vũ Hoàng Chương là một vài thơ hay nhưng tác giả
đã mô phỏng âm nhạc và động tác khiêu vũ làm nền cho nhịp điệu và hình
ảnh thơ nên chủ nghĩa hình thức đã thâm nhập vào sáng tác, từ cảm hứng
chung đến những nhân tố cụ thể của bài thơ.
Hình thức trong thơ không phát huy vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nó
nhằm mục đích tự thân. Và nội dung của thơ cũng bị hạn chế và mất mát đi
rất nhiều nếu không tìm được những phương tiện biểu hiện tương xứng và có
hiệu lực nhất. Tất cả nội dung sâu xa của thi tứ, của hệ thống cảm xúc và
hình ảnh trog thơ được biểu hiện qua một đơn vị từ rất nhỏ bé và có phần
mỏng manh. Một sự thừa thãi, hoặc thiếu hụt, một sự không ăn khớp nào đấy
giữa các nhân tố cấu tạo bài thơ sẽ làm cho toàn bộ cấu trúc xộc xệch, hiệu
quả giảm sút. Trong thơ trữ tình ít có sự lôi cuốn của một cốt truyện hấp dẫn,
của những sự kiện mới lạ, những tình huống và chi tiết kì thú. Với truyện kí,
tiểu thuyết, người đọc vẫn có thể tiếp nhận được cái mới lạ và hấp dẫn của
một cốt truyện và sự kiện nếu cách biểu hiện nó chưa phải thật là hoàn hảo
và ngôn ngữ miêu tả chưa phải là sắc bảo, chọn lọc. Nhưng với thơ thì một
suy nghĩ, một cảm xúc sẽ bị hiểu lệch đi xa hoặc mất đi tính chất tinh tế gợi
cảm nếu không tìm được một cách nói đúng nhất, chọn được những từ thích
hợp nhất. Trong thơ trữ tình ta luôn bất gặp những dụng ý rất tinh tế của một
ý châm biếm, một cách hiểu ngầm, một lời bóng gió xa xôi, hoặc những liên
tưởng gián tiếp. Tất cả những dụng ý đó đòi hỏi đặc biệt đến tính chất nhạy
bén, sắc sảo, linh hoạt của những phương tiện biểu hiện. Cho nên, hơn một
lĩnh vực nào hết, trong thơ, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức được
biểu hiện với nhiều dạng thức uyển chuyển linh hoạt và vấn đề đặc biệt quan
trọng của thơ là sự hài hoà giữa nội dung và hình thức. Nhà thơ phải chọn lọc
được những hình thức biểu hiện thích hợp để tạo được sự hài hòa cao nhất
với nội dung. Sự hòa điệu nhịp nhàng giữa nội dung và hình thức trong thơ là
biểu hiện quan trọng của tính nghệ thuật và xét cho cùng cũng là một phẩm
chất thuộc về nội dung. Một cảm xúc, suy nghĩ bao giờ cũng có nhiều hình
thức, nhiều cách để phô diễn và thường có một cách nói tốt nhất với hiệu quả
cao hơn cả. Sự chọn lọc này không phải được tiến hành một cách nhẹ nhàng,
đơn giản mà là một quá trình suy nghĩ, trăn trở, sáng tạo. Để có được một
Tràng giang hoàn chỉnh, Huy Cận đã trải qua mười bảy bản thảo. Tư tưởng
bao quát của bài thơ đã được biểu hiện trong cấu tứ ban đầu, nhưng rồi cảm
hứng thi ca vẫn lên xuống, đi về chưa ổn định, lập ý còn thiếu cụ thể, hình
ảnh chọn lọc chưa thật phù hợp, ngôn ngữ chưa sinh động. Nội dung chưa
hình thành trọn vẹn vì thiếu hình thức tương xứng để biểu hiện, và hình thức
luôn được chọn lọc mài giũa thêm vì nội dung ý tưởng từng lúc lại được xác
định rõ rệt và sinh động hơn. Cũng có câu thơ được viết ra hoàn chỉnh và trọn
ý ngay từ đầu. Nhưng cũng có những câu thơ phải trải qua rất nhiều đổi thay
mới có được một dạng chọn lọc ổn định thể hiện sự phù hợp nhất giữa nội
dung ý tưởng và hình thức biểu hiện. Câu thơ cuối trong khổ thơ đầu là một
trong những câu thơ ở vào trường hợp ấy:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước cũng sầu trăm ngả
Củi một cánh khô lạc mấy dòng.
Để nói lên cái trôi giạt, cô đơn giữa mênh mông cuộc đời sóng gió Huy
Cận đã thể nghiệm ý thơ qua nhiều hình ảnh, nhiều câu thơ:
- Một cánh bèo trôi đã lạc dòng
- Một cánh bèo đơn lạnh giữa dòng
- Một chút bèo đơn lạnh giữa dòng
- Một cánh bèo đơn lạc mấy dòng
- Một góc bèo xanh lạc mấy dòng
- Gỗ lạc rừng xa cuộn xiết dòng
- Củi một cành khô lạc mấy dòng
và dừng lại câu thơ:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Hình ảnh Củi một cành khô trên sóng nước, mới mẻ và đỡ ước lệ hơn
một cánh bèo. Hơn nữa từ một cành cây xanh tươi trên núi rừng đầu nguồn
đến một cành củi khô bập bềnh trôi nổi, thân phận của cỏ cây đã mấy lần
thương đau khô héo, mấy lần trôi giạt đổi thay. Do đó sức diễn tả gợi cảm và
thấm thía hơn. Ngay với các thể thơ (một hình thức biểu hiện vốn được xem
như trung lập với nội dung tư tưởng của sáng tác) cũng phải thấy rõ năng lực
biểu hiện và khả năng thích ứng với nội dung sáng tác trong từng trường hợp
cụ thể. Nhà thơ có thể thử thách một nội dung thơ quá nhiều thể thơ, nhưng
chắc chắn sẽ có một hình thức thích hợp hơn cả. Chế Lan Viên trong chùm
thơ anh Trỗi, khi nói về hình ảnh chiếc nhẫn, anh đã ướm thử nội dung qua
các thể lục bát:
Nhân yêu ở chả bao ngày
Dấu hằn hạnh thúc trên tay vẫn còn
Hôm qua nhẫn chạm môi hôn
Mà nay một dấu trống trơn lạnh người
Nhẫn kia nay ở đâu rồi
Tay không anh Trỗi về nơi pháp trường
Hàng muôn chiếc nhẫn muôn phương
Bỗng mơ cuộc sống phi thường từ đây
thể thất ngôn:
Hạnh phúc nào đâu có mấy ngày
Nhấn đeo chưa để dấu hằn tay
Muôn nghìn chiếc nhẫn trong thiên hạ
Thôi chẳng bình yên tự phút giây
Từ khi anh Trỗi ra trường bắn
Chiếc nhẫn nào yên cuộc sống thường
Chiếc nhẫn nào không thèm sống khác
Đem mình đổi lấy một dây bom
và cuối cùng là qua thể thơ tự do:
Chiếc nhẫn trên tay anh Trỗi
Không sống đời bình yên chiếc nhẫn thường
Không ở cùng anh để in một dấu hằn
Mộ ngấn hạnh phúc trên tay dù ngắn vội
Ra đi đổi lấy một dây bom ở dưới chân cầu
Chiếc nhẫn bây giờ đâu, bây giờ đâu
Chưa ai tìm lại được
Như sau đó, từ nay trên cả nước
Không có một chiếc nhẫn nào
Lại yên tâm sống cuộc đời như trước.
(chùm thơ anh Trỗi)
Chế Lan Viên cuối cùng đã chọn thể thơ tự do vì nó nói lên sát đúng
nhất nội dung của ý thơ.
Trong quá trình phát triển lịch sử của thơ ca, những thể thơ tiêu biểu và
có một cấu trúc hài hòa và vững chắc thường là những thể thơ tạo được
nhiều điều kiện nhất để biểu hiện nội dung xã hội trong một thời kì nhất định.
Khi hoàn cảnh xã hội đổi thay, tâm lí thời đại khác đi với những yêu cầu mới
của lịch sử thì cho dù một thể thơ giàu năng lực biểu hiện đến đâu chăng nữa
cũng không tránh khỏi hạn chế trong nhiệm vụ phản ánh nội dung hiện thực
của xã hội. Chúng ta có thể khảo sát qua hai hình thức cấu trúc nổi tiếng: thể
xonnê và thể thất ngôn bát cú Đường luật. Thể xonnê xuất hiện ở châu âu từ
thời kì Pêtơracơ và thịnh hành trong nhiều thế kỉ ở nhiều nước như Pháp, Ý,
Anh, v.v… Trong khuôn khổ mười bốn câu thơ gồm hai khổ 4 (quatrain) và
hai khổ 3 (tercet), xonnê không cứng nhắc, gò bó mà rất biến hóa, có khả
năng ứng phó để phản ánh được nhiều cảnh ngộ, nhiều trạng thái tình cảm
phức tạp Hình thức của xonnê chứa đựng được một quá trình vận động của
mâu thuẫn, tạo điều kiện cho tứ thơ phát triển và cảm hứng đi về một cách
thuận lợi. Dung lượng của xonnê không quá rộng để cho nội dung bị dàn trải
và pha loãng mà luôn đòi hỏi người viết ý thức về sự tiết kiệm và cô đọng,
dồn năng lượng thơ đến mức tối đa trong khuôn khổ của một đơn vị ngôn
ngữ vừa phải. Dung lượng của xonnê cũng không chật hẹp, gò bó làm cho trì
trệ hoặc mất đi mọi quá trình vận động. Khuôn khổ thơ không bị thu hẹp lại
đến mức chỉ thích hợp với một vài đối tượng nhất định. Nhiều nhà thơ đã ca
ngợi xonnê như một thể thơ có cấu trúc hoàn mĩ nhất. Jôhan Bêsơ trong bài
triết lí về xonnê đã xem xonnê là hình thức của mọi hình thức thơ ca, xonnê
tập trung sức mạnh và năng lượng thơ lớn nhất trong khuôn khổ nhỏ, và
xonnê với chính đề (khổ 4 đầu), phản đề (khổ 4 sau) và hợp đề (hai khổ 3) đã
chứa đựng được mọi quy luật vận động của sự sống một cách biện chứng và
giàu tính kịch. Trong khuôn khổ trên, xonnê vô cùng biến hoá và thực sự lại ít
giống nhau về hình thức.
Quan niệm của Bêsơ có phần cực đoan khi xem xonnê như một thể thơ
hoàn hảo tuyệt vời. Xonnê có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên thể thơ này cũng có
nhiều giới hạn. Khuôn khổ của xonnê trở nên chật hẹp trước sự phong phú và
đa dạng của cuộc sống đòi hỏi được phản ánh vào trong thơ. Làm sao có thể
đưa vào trọn vẹn trong phạm vi của xonnê nhưng cảm xúc triền miên, đắm
say, tuyệt vọng của Lamartin trong Hồ và Cô đơn của Rimbô với Con tàu say
và của Anphrêt đơ Vinhi với Moise… Xonnê chỉ là một hình thức thơ tiêu biểu
nhưng vẫn bị giới hạn từ nhiều mặt nhất là khi biểu hiện những vận động
phức tạp của nhiều trạng thái cảm nghĩ trong thơ ca thời kì hiện đại.
Thể thất ngôn bát cú Đường luật cũng là một cấu trúc thơ có nhiều ưu
điểm đáng quý. Do sự chú ý đặc biệt đến hệ thống âm luật, đến sự đối lập và
hài hòa trong việc tổ chức thanh điệu của bài thơ nên có thể xem đây là một
cấu trúc âm nhạc. Nhạc điệu của bài thơ cân đối ngân vang và tạo được sự
hài hòa từ bên trong. Thể thất ngôn bát cú cũng có một về đẹp riêng ở tính
chất cân đối vững vàng của các ý thơ, các vế thơ đối đáp và hỗ trợ nhau. Quy
luật về sự tiết kiệm từ đến mức tối đa, lối sử dụng tượng trưng các hình ảnh
và trạng thái tình cảm đã đem lại cho nhiều sáng tác tính chất hàm súc, cô
đọng và chiều sâu của lí tưởng. Hình thức thơ Đường phù hợp với trạng thái
tư duy nghệ thuật ổn định, ít xáo động, biến đổi, phản ảnh cơ chế xã hội
phong kiến ở thời kì thịnh vượng mà trật tự xã hội được tổ chức một cách cân
đối vững vàng. Cơ sở xã hội ấy, trạng thái tâm lí ấy quy định những tiêu
chuẩn thẩm mĩ quen thuộc và hình thức thơ Đường là một tiêu chuẩn thẩm mĩ
phù hợp. Tuy nhiên thể thơ Đường thiên về cấu trúc tĩnh, ít va chạm và vận
động, thích hợp nhiều hơn với loại hình tượng thị giác. Trong thực tế sáng
tác, thơ Đường có nhiều hình ảnh đẹp, nhiều trạng thái tâm lí tiêu biểu nhưng
ít vận động. Khuynh hướng phổ biến của thơ Đường là sự kết hợp giữa việc
miêu tả hình ảnh cô đọng, tượng trưng, giàu sức biểu hiện với những tâm
trạng phù hợp ít có những bài thể hiện sự chuyển động theo quá trình vận
động và phát triển nội tại của đối tượng. Trạng thái cảm nghĩ như bị gò lại
trong khuôn khổ chật hẹp, ít sức vươn tỏa, phóng túng và càng khó để thể
hiện sự vận động biện chứng của tâm hồn trong những trạng thái phát triển
phức tạp với nhiều day dứt mâu thuẫn. Trong thời kì hiện đại, những ưu điểm
của thể thơ này ít có điều kiện phát huy đầy đủ trong khi đó những yêu cầu
mới của xã hội lại làm bộc lộ ở thể thơ này nhiều hạn chế trong năng lực
nhận thức, phản ánh.
Vấn đề luôn đặt ra một cách nghiêm chỉnh và thường xuyên cho các
nhà thơ là làm sao thể hiện được sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
trong thơ. Người sáng tác phải luôn có một quan niệm động về sự phát triển
của các nhân tố này. Nội dung luôn thay đổi và do đó hình thức cũng phải vận
động, đổi thay cho phù hợp. Nhược điểm khá phổ biến của nền thơ sau cách
mạng là tình trạng nội dung có lúc đi chậm hơn so với cuộc sống – và bên
cạnh đó là tình trạng hình thức biểu hiện ít nhiều đi chậm hơn so với nội
dung. Nói thơ ca có lúc đi chậm hơn đời sống, nhận xét đó không hề phủ
nhận giá trị động viên tích cực của những sáng tác thơ ca cách mạng luôn ở
trí hàng đầu của cuộc chiến đấu. Tuy nhiên nếu so với hiện thực vô cùng
phong phú của sự nghiệp cách mạng và những yêu cầu lớn lao đặt ra cho
những sáng tác thơ ca thì rõ ràng thơ ca chưa thực hiện được thật đầy đủ
nhiệm vụ nặng nề và vinh quang của mình. Một trong những nguyên nhân
của sự chậm trễ là thuộc về hình thức biểu hiện. Hình thức thường đi chậm
hơn so với nội dung. Trong thơ, những tìm tòi về hình thức luôn được các nhà
thơ quan tâm đến, song hình thức mới được chấp nhận thông qua thử thách
lại không nhiều. Bên cạnh đó thói quen vận dụng các phương tiện biểu hiện
cũ trở thành một hiện tượng có sức ám ảnh lớn và tạo nên sự trì trệ trong sự
phát triển cửa hình thức thơ ca. Thậm chí thói quen tiêu cực ấy nhiều khi biến
những nhân tố về nội dung trở thành những nhân tố về hình thức. Một số nhà
nghiên cứu về thơ cho rằng trong thơ trữ tình, cái tính quy luật nội bộ khái
quát nhất là sự chuyển biến liên tục của nội dung thành hình thức. Nhận xét
trên dựa vào sự phát triển của nhiều nền thơ, đặc biệt là nên thơ Arập và Ba
Tư trong thời kì Tiền Ixlam, một thời kì diễn ra quá trình hình thức hóa nội
dung rất mạnh. Nguyên là một số nguyên tắc và mô–típ trong thơ trữ tình phát
triển trong một thời kì dài và được xem như là ổn định và bất biến. Đến thời kì
lịch sử sau, khi yêu cầu xã hội đã đổi khác, người ta vẫn sử dụng những nhân
tố trên trong thơ hoặc do ước lệ hoặc do quan niệm lệ thuộc có tính truyền
thống. Do đó những nhân tố nội dung trên trở thành một cái gì bên ngoài, phụ
thuộc và có tính chất hình thức.
Trong thơ trữ tình trung thế kỉ ở châu Âu cũng có những hiện tượng
tương tự với thể paxturen. Trong loại paxturen thường diễn ra một sự miêu tả
quen thuộc, có tính chất công thức cảnh gặp gỡ ở bên một dòng suối, một
cánh đồng, hoặc một sườn núi của một cô gái thôn dã xinh đẹp với một chàng
thanh niên. Bên nam tìm cách tấn công và bên nữ phòng ngự, và câu chuyện
thường kết thúc tốt đẹp. Toàn bộ những sự miêu tả ấy đều trở thành một ước
lệ, một kiểu trang trí bên ngoài.
Chúng ta không khẳng định rằng quy luật nội bộ khái quát nhất trong
thơ là sự chuyển biến liên tục của nội dung thành hình thức nhưng xác nhận
một hiện tượng khá phổ biến là nhiều nhân tố về nội dung trong thơ bị những
công thức ước lệ biến thành hình thức. Một hiện tượng khá tiêu biểu là việc
sử dụng điển tích. Điển tích tự nó vốn là một câu chuyện, một sự tích mang
tính chất của một nhân tố thuộc nội dung. Nhưng khi đem sử dụng để diễn đạt
một nội dung khác trong những cảnh ngộ và tình huống hoàn toàn khác biệt
thì lại dần trở thành một phương tiện biểu hiện, hoặc một nhân tố có tính chất
tượng trưng, hình thức, nhất là khi ít có sự gắn bó với nội dung mới. Ví dụ:
điển tích ả Chức, chàng Ngâu để nói lên sự chia li hoặc nỗi buồn xa cách,
được sử dụng phổ biến và đến mức mòn sáo, ước lệ trong thơ ca công khai
Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Trong nội dung của sáng tác thơ thì hình ảnh là một nhân tố dễ có khả
năng trùng lặp mòn sáo nhất. Hình ảnh trong thơ là một yếu tố được sử dụng
để thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Hình ảnh có khi là những nhân tố
trực tiếp của nội dung, là những bức tranh nhỏ trong cuộc sống. Khi Nguyễn
Du viết:
Rừng thu từng biếc xen hồng
thì chính đây là một sự miêu tả trực tiếp khung cảnh thiên nhiên và hình
ảnh trên là một nội dung cụ thể. Nhưng cũng có khi hình ảnh trong thơ được
vận dụng như một nhân tố tương ứng với nội dung nào đấy thông qua một so
sánh, một ẩn dụ. Maiakôpxki cho rằng có vô số phương thức để tạo nên hình
ảnh, và một trong những phương thức tao hình ảnh đơn giản nhất là so sánh.
Hình ảnh được tạo nên qua so sánh tương ứng với đối tượng và tạo
điều kiện để nhận thức đối tượng một cách cụ thể và sinh động hơn:
Quả đất màu xanh như một quả cảm
(ÊLUYA)
Quầng nắng trong rừng như những gót chân son.
(PHẠM TIẾN DUẬT)
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng.
(CHẾ LAN VIÊN)
Những hình ảnh trên là nội dung của sáng tác thơ ca, nhưng nếu hình
ảnh được sử dụng một cách mòn sáo, trùng lặp, không nói lên được bản chất
và tương ứng với nội dung của đối tượng thì hình ảnh dễ sở thành một
phương tiện biểu hiện, một nhân tố có tính chất hình thức.
Qua những ý kiến trên, chúng ta thấy có một thực tế là xu hướng hình
thức chủ nghĩa vẫn có khả năng gây tác hại trong nền thơ cách mạng một
phần do sự thâm nhập từ bên ngoài vào những quan điểm và sáng tác thi ca
lạc hậu, một phần vì những nguyên nhân từ bên trong mà biểu hiện rõ rệt
nhất là do sự không hiểu biết sâu chắc nội dung xã hội, do năng lực cảm thụ
và tư duy nghệ thuật có phần trì trệ, bảo thủ, không theo kịp bước phát triển
nhanh chóng của xã hội. Hình thức của thơ bao gồm nhiều mặt, chúng ta lần
lượt tìm hiểu một vài nhân tố tiêu biểu như ngôn ngữ, nhịp điệu và kết cấu
của thơ.
II. NGÔN NGỮ THƠ CANgôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ ca. Đó vừa là
tiếng nói chân thực, giàu có của đời sống hiện thực, vừa là tiếng nói bay bổng
của trí tưởng tượng diệu kì, lại vừa là tiếng nói tình cảm của con tim đang xúc
động. Chiều sâu của sức suy nghĩ, tính chất mẫn cảm và tinh tế của sức sáng
tạo những trạng thái rung động của tâm hồn... tất cả, tất cả chỉ có thể đến
được với người đọc thông qua vai trò của ngôn ngữ. Sự tổ chức ngôn ngữ
trên cơ sở của hệ thống nhịp điệu, tính chất tối đa về nghĩa trên một đơn vị
diện tích ngôn ngữ hẹp nhất, sắc thái chủ quan của người viết trong mức độ
cần thiết đã tạo cho ngôn ngữ thơ ca những phẩm chất đặc biệt. Hơn một
phạm vi nào hết, quy luật về mối quan hệ gắn bó giữa nội dung và hình thức
được thể hiện ở đây một cách tinh tế nhất thông qua những hình thái thâm
nhập và chuyển hóa.
Ngôn ngữ thơ ca là sự biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc, mĩ lệ,
phong phú của ngôn ngữ. Nói như Maiaôpxki, quá trình sáng tạo ngôn ngữ
thơ ca cũng giống như người lọc quặng rađium, lọc lấy tinh chất, tìm ra trong
cái bề bộn của những tấn quặng những từ đẹp, ánh sắc kim cương. Có người
cho rằng “thi ca là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, cái ánh ngời phi thường của
nó, chỗ rách cảm động nhất của nó”, “thơ là một nghệ thuật tự biểu hiện bằng
ngôn ngữ” hay nói theo một cách khác, “thơ là phương tiện hoàn thiện nhất
để sử dụng tiếng nói của con người”. Thơ và ngôn ngữ thơ phải cô đọng, giàu
sức biểu hiện và “đúc lại như huân chương”. Trong những cách nói có thể có
phần quá đi, song điều chúng ta muốn khẳng định là chức năng, là tầm quan
trọng của nó. Trong một câu thơ, một bài thơ, chỉ cần một cách nói chưa thật
sát đúng, một chữ dùng tùy tiện đã làm giảm đi nhiều cảm xúc thẩm mĩ đối
với bài thơ. Một sự tìm tòi công phu, cân nhắc kĩ lưỡng, chọn lọc có sáng tạo
vẫn là nhiệm vụ thường xuyên có ý thức của nhà thơ với phương tiện biểu
hiện phong phú và rất biến hóa này. Ta bắt gặp trong Nguyễn Du, bậc thầy
của ngôn ngữ thơ ca, những sáng tạo kì diệu chỉ trong một câu thơ ngắn:
Trong trường dạ tối tăm trời đất
đã chứa đựng biết bao nhiêu điều muốn nói về cái đêm thăm thẳm mịt
mùng của trời đất hay của chính cái xã hội không tìm thấy lối ra. Một đảo ngữ
nhỏ, từ một trời đất tối tăm đến tối tăm trời đất đã có sức tạo không khí lạ
lùng. Nguyễn Du có năng lực rất lớn trong việc sử dụng ngôn ngữ để tạo
không khí. Chỉ một vài từ, một vài hình ảnh ngôn ngữ đột nhiên là đã thâm
nhập vào một không khí lạ, một cảnh ngộ khác thường khiến cho không thể
dửng dưng lạnh lùng. Trong cái phơi phới, tươi tắn của bộ mặt ngày xuân, tác
giả chợt đưa ta về một khung cảnh mà tinh thần của cảnh vật tụ lại ở cái sè
sè của nấm đất và dầu dầu của ngọn cỏ (“Sè sè nấm đất bên đường. Dầu
dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”). Mà đầu bài thơ Chiêu hồn, Nguyễn Du đã
tạo được không khí của cõi âm bằng những hình ảnh và cách sử dụng ngôn
ngữ tài tình:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Một chữ toát, một chữ não, một chữ nhuốm ở đây đã góp phần tạo ra
một không khí, hương khói rùng rợn, một trạng thái tình cảm buồn chán, ủ ê.
Thế giới vui tươi, hoạt động, đầy sinh khí của con người, của sự sống bắt đầu
ngưng đọng lại để nhập vào không khí lạnh lẽo, ảm đạm, chết chóc của cõi
âm. Nguyễn Du có những câu thơ mà ngôn ngữ và hình ảnh đẹp, trong như
ánh sáng:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
hoặc trữ tình nên thơ:
Dưới cầu nước chảy trong veo.
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Có những câu thơ mang một âm hưởng rất lạ, tả ngoại cảnh, thiên
nhiên mà như đau thương, như lo lắng trước cảnh phũ phàng của cuộc đời
gió bụi:
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
hoặc xót xa trong cảnh chia li:
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm
Hồ Xuân Hương lại có một thế giới ngôn ngữ riêng phù hợp với phong
cách sáng tạo của mình. Nếu nói như Huygô, ngôn ngữ là một sinh vật, một
số từ, là tiếng thở dài, một số khác là cái nhìn thì chính hệ thống ngôn ngữ
của Hồ Xuân Hương cũng bao gồm những sinh vật sống đó. Những từ trong
thơ Hồ Xuân Hương không cứng đờ, bất động, đơn nghĩa nhà luôn cựa quậy
sinh sôi, co giãn, bộc lộ nghĩa từ nhiều diện. Hồ Xuân Hương sử dụng nhiều
định ngữ chỉ trạng thái một cách mạnh dạn, không vuốt ve mơn trớn không
ước lệ chung chung. Đã vắng thì vắng teo, đã trưa thì trưa trật, đã sáng thì
sáng banh, đã tối thì tối om, đã xanh thì xanh rì, đã đỏ thì đỏ loét, đã già thì
già tom. Thêm vào đấy là một hệ thống từ lấp láy giàu sức khơi trêu, gợi tả
như những toen hoẻn phập phòm, mõm mòm, chèo leo, hắt heo, thiên thẹo,
tùm hùm, lún phún... Hồ Xuân Hương không chơi chữ theo kiểu hình thức mà
sử dụng những từ giàu sức biểu hiện để chỉ đúng trạng thái sự vật, chốt vào
những chỗ hiểm yếu của câu thơ. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tú Xương
đều là những bậc thầy sáng tạo, những người thợ dụng công điêu luyện trong
nghệ thuật dùng từ. Nhiều khi trong một ý thơ, một câu thơ, sự đổi thay một
từ làm cho câu từ chỗ non lép trở nên đầy đặn ý nghĩa hơn. Tản Đà có lần
tâm sự về câu thơ:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn dòng lệ chờ thong tháng ngày,
Trong câu thơ trên chữ tuôn dùng chưa thật đắt vì trong tình cảnh nước
xa non mà dòng suối vẫn tuôn nước chảy là không thích hợp Tản Đà sau sửa
lại là:
Non cao những ngóng cùng trông.
Suối khó dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Chữ khô vừa phù hợp về mặt lôgic lại vừa có khả năng biểu hiện cảm
xúc hơn.
Xuân Diệu qua các tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió cũng thể hiện
một sự dụng công tìm tòi và cân nhắc câu chữ. Trong bài Thơ duyên, tác giả
từ câu thơ:
Cánh hồng lả tả gió xiêu xiêu
Con én về đâu nắng trở chiều
đã sửa lại là:
Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Hai câu thơ sau cân đối và hài hoà hơn về nhịp điệu. Từ con đường
đến ngọn gió, đến cành hoang, cảnh vật đổi thay mà vẫn tập trung, nương
tựa vào nhau trong một bức tranh gợi cảm. Các chữ nho nhỏ, xiêu xiêu, lả lả,
lấp lánh âm thanh và rất hòa hợp....
Trong bài Nguyệt cầm, câu thơ:
Trăng thương trăng rợn hỡi trăng ngần.
được chữa là:
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Chữ thương ít đi với chữ rợn vì là hai trạng thái cảm xúc khác biệt. Đổi
thay một chữ, làm cho tình ý thích hợp hơn.
Trong bài Thu, câu thơ:
Gió ngàn mây nhẹ dáng thu xa
được chữa lại là:
Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa.
Câu thơ sau có sức gợi tả hơn; bên cạnh vẻ đẹp cửa thiên nhiên là tấm
lòng, là tâm trạng của nhà thơ:
Huy Cận cũng chú ý nhiều đến sự chọn lọc và tìm tòi chữ nghĩa trong
thơ. Trong bài Nhạc Sầu câu thơ:
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế
Chiều đìu hiu, đời rét mướt ngoài đường.
được chữa lại là chiều hắt hiu… và rồi:
Chiều mà côi đời rét mướt ngoài đường.
Mấy chữ chiều mồ côi hắt hiu và ảm đạm; qua một định ngữ mang màu
sắc nhân cách hóa, nỗi buồn thảm thiết hơn mà lại phù hợp với không khí
trực tiếp của cái chết.
Trong bài Chiều xưa, câu thơ:
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trở thành son nhạt chiều mê mải sầu
được chữa lại:
Trên thành son nhạt chiều tê tái sầu.
Sau đó do góp ý của Xuân Diệu, câu thơ được viết lại là:
Trên thành son nhạt chiều tê cúi đầu.
Chiều tê cúi đầu chứa đựng được một chiều tê tái sầu, nhưng tượng
hình và kín đáo hơn. Câu thơ nói được nỗi buồn và thời gian. Hình ảnh thơ
mới lạ, vừa choáng rộng không gian lại kết tụ phần ngưng đọng và trĩu nặng
của thời gian qua tháng năm lịch sử.
Qua những dẫn chứng trên, rõ ràng câu thơ được chữa lại có sự phù
hợp hơn giữa nội dung và hình thức; sự đổi thay một số từ không phải chỉ làm
cho câu thơ đẹp và uyển chuyển hơn mà có ý nghĩa đóng góp cụ thể vào việc
nâng cao nội dung của câu thơ. Tính chất chính xác và tinh tế trong việc sử
dụng từ bộc lộ rõ rệt hơn.
Tố Hữu trong Bài ca mùa xuân 1961 đã viết về cảm xúc yêu thương
trong ngày xuân đẹp:
Anh nắm tay em sôi nổi vụng về
Mà nói vậy trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để em yêu.
Những từ dành, để, cho tuy được viết ra tự nhiên, nhưng thực ra đều
có sự chắc trách hợp với từng đối tượng và từng trạng thái tình cảm. Ngôn
ngữ thơ ca đòi hỏi sự chọn lọc chính xác, tinh tế và có sáng tạo. Thông qua
sự chọn lọc này, nhà thơ vừa phải tuân thủ một cách đầy đủ những quy tắc
của ngôn ngữ đời sống lại vừa thể hiện tính chất chủ động trong sáng tạo. Chỉ
nổi đến màu xanh và cách sử dụng định ngữ đó trong cũng đa dạng và tinh
tế. Từ một mùa xuân trong thơ Nguyễn Du:
Cỏ non xanh rợn chân trời
cho đến màu xanh của ngày thu trong thơ Tố Hữu:
Tháng tám mùa thu xanh thẳm
và rất nhiều những sắc thái khác nhau:
Ngàn lau san sát cỏ xanh xanh
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
Leo lẻo doành xanh con mắt mèo.
(NGUYỄN BỈNH KHIÊM)
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn
(NGUYỄN BÍNH)
Nhớ từ sóng Hạ Long xanh biếc
(CHẾ LAN VIÊN)
Đứng trông làn nước vẩn xanh ngầu
(TÚ MỠ)
Ruộng bát ngát lúa xanh màu cốm
(HUY CẬN)
Chúng ta không thể kể hết được những câu thơ như loại trên. Tú Mỡ
nói làn nước vẩn xanh ngầu trong bài phú Hồ Gươm. Đó không phải là một
cách viết tự nhiên mà xuất phát từ tình cảnh và tâm trạng của người dân mất
nước. Những câu thơ trên dù sao cũng nằm trong khuôn khổ của sự chọn lọc.
Người viết có thể từ đấy tìm tòi để có những đóng góp mới, những định ngữ
nghệ thuật giàu tính chất sáng tạo. Tế Hanh nhìn khoảng trời xanh một màu
bát ngát của bầu trời nơi giới tuyến mà nhức nhối trong nỗi chia cắt. Từ đấy
anh viết những câu thơ hay:
Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị
Tận chân trời mây núi có chia đâu.
Màu xanh Quảng Trị, cái màu xanh vô hình và trừu tượng ấy lại được
chấp nhận trong liên tưởng với tất cả sắc thái cụ thể của nó. Đó cũng là
trường hợp của Chế Lan Viên khi anh viết:
Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên.
Màu xanh kì lạ này như vừa thực lại vừa hư, chập chờn đưa ta từ
khung cảnh ngày xuân sắc biếc vào cõi mộng mơ mà ở đây tất cả đều mơ hồ
và có một chút gì linh thiêng, huyền bí…
Những câu thơ, những cách sử dụng như trên đều có những đóng góp
đáng quý và thực sự tính chất sáng tạo cũng bắt đầu từ đấy.
Từ thế giới của ánh sáng liên tưởng đến thế giới của âm thanh, một sự
trùng hợp gợi ý từ hình tượng âm thanh sang hình tượng thị giác và nhà thơ
có thể lấy cái này để nói cái kia. Đó là cơ sở và lí do để Huy Cận có thể viết:
Anh nhìn em ngủ hồn hiu nhẹ
Như bóng vườn trưa xanh tiếng ve
cũng như Khuông Hữu Dụng đã từng viết:
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng.
Những cách sử dụng ngôn ngữ có chọn lọc và sáng tạo trên đã đem lại
cho ngôn ngữ thơ ca nhiều phẩm chất đáng quý. Hàm súc và giàu sức biểu
hiện, ngôn ngữ thơ ca cô đúc, chặt chẽ, với số từ rất hạn định nhưng năng
lực biểu hiện lại lớn. Vấn đề đặt ra đối với mỗi nhà thơ là phải chọn một cách
nói tốt nhất đến mức độ người ta cảm thấy không thể khác được. Tương
truyền về giai thoại của hai câu thơ Vương Bột nói lên một thực tế là có
những câu thơ tưởng như hoàn chỉnh chặt chẽ nhưng vẫn có thể bổ sung
được. Trong số 14 chữ của hai câu thơ:
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
có thể giảm bớt hai từ mà nội dung không bị giảm sút:
Lạc hà cô lộ tề phủ
Thu thủy trường thiên nhất sách.
Đó cũng là trường hợp của những sáng tác của nhiều tác giả khác
trong đó mỗi một từ đều rất năng động, rất biến hóa và nhiều khi ý nghĩa của
nó vượt khỏi quy ước thông thường trong văn xuôi. Ví dụ từ em trong văn
xuôi chủ yếu được vận dụng trong xưng hô nhân vật, với thơ phạm vi sử
dụng của nó rộng rãi hơn, có tính chất cách điệu và phóng túng hơn. Nhà thơ
có thể gọi em với một dòng sông (“Ôi con sông Hồng. Em là sông mật, hay là
sông hương”), với bầu trời xanh (“Hỡi em trời xanh. Mang đôi mắt biếc”), với
một người con gái (“Em là ai? Cô gái hay nàng tiên”), thậm chí với cả một con
cá (“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng. Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”),
một củ sắn (“Vỏ ngoài em trút áo nâu. Vỏ trong em trút áo màu hồng sen”).
Tuy nhiên vẫn có giới hạn xác định. Chữ em có thể dùng để chỉ một đối tượng
gần gũi, thân thuộc hoặc gắn bó những tình cảm yêu thương, hoặc có một vẻ
đẹp dịu dàng mềm mại... Người ta không thể dùng để chỉ một cái gỉ thô thiển,
cứng cáp (có người gọi lưỡi dao và cày 51 là em ở trong thơ) hoặc để nói về
một đối tượng có tính chất linh thiêng rộng lớn như Xuân Diệu, Lê Anh Xuân
nói về miền Nam:
Dáng em Nam mềm mại chiếc chân giò.
(XUÂN DIỆU)
Ta yêu em, yêu em biết mấy
Ôi miền Nam tên của em ta đấy.
(LÊ ANH XUÂN)
Hoài Thanh đã có lí khi nhận xét rằng cách xưng hô như trên có phần
lộn xộn. Tế Hanh cũng vướng vào nhược điểm trên khi nói về miền Nam.
Ta yêu em nhưng ta không hiểu hết
Em lớn mạnh lên rồi trong những ngày quyết liệt.
Thơ ca chấp nhận nhiều sắc thái của ngôn ngữ với tinh thần đó là tiếng
nói thẳm sâu và sinh động của cuộc sống. Ngôn ngữ chân chất, mộc mạc
nhưng vô cùng trong sáng của thơ ca dân gian kết tụ lại ở những câu ca chứa
chan thi vị và rất giàu sức biểu hiện:
Sự đời nước mắt soi gương
Càng yêu mến lắm càng thương nhớ nhiều.
Câu thơ như đức kết lại những kinh nghiệm, những tình cảm thường
tình mà cũng rất éo le trong xã hội cũ. Gặp gỡ rồi chia li yêu thương rồi mong
nhớ, những trạng thái như tương phản ấy không phải chỉ là một nhận xét mà
hiển hiện lên bằng chính cảnh ngộ gần gũi nhất thấm thía như ở mỗi người
bằng chính nỗi đau của ngay bản thân. Hai chữ “nước mắt soi gương” giản dị
mà vô cùng sâu sắc đó là nỗi đau tự mình cảm thấy, đó là kinh nghiệm tự
mình rút ra được. “Nước mắt soi gương” là một ẩn dụ mà những thành phần
cấu tạo nên nó vốn là những từ bình thường nhưng đã mang thêm nội nội
dung biểu hiện mới khi tham gia vào những liên kết của những hình thức sử
dụng ngôn ngữ. Điều này nói lên một thực tế là mỗi từ đều có năng lực biểu
hiện rất lớn, cho dù đó là những từ tưởng như nghèo nàn, giản dị. Không nên
tạo ra sự phân biệt giữa những lớp từ trong ngôn ngữ thi ca, và cho rằng chỉ
những từ có tính chất mĩ lệ, thanh cao mới thuộc về thơ, còn những từ trần
trụi, khô khan, bình dị lại thuộc về lĩnh vực biểu hiện khác. Victo Huygô đã trả
lời cho một sự buộc tội về việc không dùng những chữ văn hoa, quý phái
trong thơ:
Tôi đội một chiếc mũ đỏ cho những
cuốn từ điển cũ
không còn (phân biệt) chữ nào là chữ
nghị sĩ, chữ nào là quê mùa.
Vấn đề không phải ở chỗ xét từ một cách độc lập với ý nghĩa của nội
dung mà chủ yếu là xem khả năng biểu hiện nội dung của từ như thế nào?
Ngôn ngữ thơ ca phải phù hợp với trạng thái của tình cảm và tính chất của
đối tượng. Và bao quát hơn cả, đó chính là tiếng nói của đời sống trong cách
cảm thụ và khai thác riêng của thể loại này. Hệ thống từ ngữ trong thơ ca
Việc Nam từ đầu thế kỉ XX đã trải qua nhiều thời kì đổi thay cơ bản với những
giai đoạn phát triển của xã hội, với những bước tiến mới của sáng tác thơ ca.
Thơ ca công khai đầu thế kỉ XX sử dụng phố biến một hệ thống từ đã mất hẳn
sinh lực biểu hiện và mang tính chất mòn sáo, ước lệ như: “phong sương, li
hợp, mệnh bạc, lòng son, kiếp phù sinh, phong trần, tri âm, não nùng, băng
tuyết, cung cầm, bụi hồng, chiếc bách giữa dòng, bể hoạn, trần ai, tái sinh, nỗi
niềm, chị Hằng, gương Nga, lệ châu…”. Những từ mòn sáo đó không nằm
trong tiếng nói sinh động và phổ biến của quần chúng và ngày càng trở nên
xưa cũ, xa lạ. Phong trào Thơ mới ra đời đã khai thác và sử dụng một thống
từ ngữ mới mẻ và giàu sức gợi cảm hơn, có khả năng thể hiện những sắc
thái riêng và cụ thể của những cảm xúc lãng mạn của các nhà thơ. Phù hợp
với những đề tài phổ biến trong thơ mới như vẻ đẹp dịu dàng trong thiên
nhiên, tình yêu đợi chờ và tuyệt vọng, những ve vuốt của cảm xúc tâm trạng
cô đơn và chán chường của cá nhân…, hệ thống từ trong phong trào thơ mới
thường nhẹ nhàng, gợi cảm mơn trớn như: “bâng khuâng, mong manh, nhè
nhẹ, im lìm, dìu dịu, vu vơ, lả lơi, đường trăng, hiu quạnh, dậy vang, du
dương, tha thiết, dìu dặt, bơ vơ, đượm buồn, dãi dầu, thương nhớ, yêu, cảm,
ru, mơ, ngân, vang, mong, xiết…”
Ngôn ngữ thơ ca trong phong trào Thơ mới chưa phải là tiếng nói khỏe
khoắn, sinh động của quần chúng mà chỉ là tiếng nói chải chuốt thơ mộng,
văn hoa, nghèo nàn về ý nghĩa xã hội của các nhà thơ lãng mạn xa rời đời
sống hiện thực. Phải chờ đến Cách mạng tháng Tám, khi thơ ca thực sự là
tiếng nói và vũ khí tinh thần của quần chúng cách mạng, gắn bó chặt chẽ với
hiện thực đấu tranh của xã hội thì ngôn ngữ thơ ca mới giàu sinh lực biểu
hiện và mang đầy đủ chất khỏe khoắn và giàu có của tiếng nói đời sống.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, những bài thơ được quần chúng
ưa thích như Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông, Viếng bạn của Hoàng
Lộc, Nhớ của Hồng Nguyên đều được biểu hiện bằng một ngôn ngữ giản dị,
khỏe khoắn, giàu chất sống. Tiếng nói thơ ca ở đây không ước lệ và cách
điệu hóa, không gò bó trong một khuôn khổ định sản nào mà rất gần với cách
nói trong đời sống. Tuy nhiên vẫn luôn có một ranh giới xác định giữa một
bên là tiếng nói chọn lọc, sáng tạo của thơ ca và một bên là tiếng nói tự nhiên
hằng ngày của quần chúng.
Vấn đề ngôn ngữ trong thơ ca của từng tác giả rõ ràng lại phụ thuộc
vào phong cách sáng tạo và bút pháp độc đáo riêng của từng nhà thơ. Chúng
ta phê phán ngôn ngữ xưa cũ, ước lệ hoặc cầu kì, lai căng, hoặc thô thiển tự
nhiên, nhưng một mặt khác lại chấp nhận những khả năng sáng tạo phong
phú, những hình thức đa dạng, độc đáo của ngôn ngữ thơ ca của nhiều tác
giả. Tố Hữu có một ngôn ngữ thơ tinh tế, diễn cảm, đậm đà màu sắc dân tộc.
Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sắc sảo độc đáo trong cách vận dụng, nhiều liên
tưởng đột xuất sáng tạo Hoàng Trung Thông có một tiếng nói thơ ca khỏe,
giàu chất sống thực, kết hợp được tính chất giản dị với tính chọn lọc sáng
tạo. Nông Quốc Chấn mộc mạc, hồn nhiên nhưng luôn ấm áp, chân tình…
Phong cách sáng tạo của từng nhà thơ như thế nào thì ngôn ngữ thơ
ca cũng thể hiện đầy đủ những mặt mạnh và hạn chế một cách tương ứng.
Chế Lan Viên nặng về suy tưởng và phát biểu chính luận nên ngôn ngữ thơ
cũng đó lúc khô khan, lí trí. Xuân Diệu có ý thức đưa nhiều chất sống thực tế
vào thơ nhưng lại thiếu chọn lọc nên ngôn ngữ trong thơ anh không tránh
khỏi ít nhiều thô sơ tự nhiên và có tính chất văn xuôi. Ngôn ngữ trong thơ Tế
Hanh đẹp và gợi cảm nhưng lại nông nhẹ và có phần nghèo nàn… Ngôn ngữ
trong thơ Khương Hữu Dụng chắt lọc kĩ càng nhưng lại không tránh khỏi tính
chất gò bó và gọt giũa theo lối kĩ xảo. Có được một ngôn ngữ thơ ca đẹp là
một vấn đề không thuần túy thuộc về sự rèn luyện hình thức mà trước hết là
một vấn đề thuở để nội dung cảm nghĩ. Boalô đã có lí khi quan niệm tư duy
của nhà thơ sáng tỏ, rõ ràng thì từ ngữ cũng đến một cách dễ dàng. Huygô
cho rằng “người nào giải phóng từ thì giải phóng ý” cũng nhằm nêu lên mối
quan hệ gắn bó giữa tư tưởng và từ ngữ. Không thể nói đến một hệ thống từ
ngữ ở trong thơ với ý nghĩa tách biệt khỏi yêu cầu của nội dung. Thừa nhận
ngôn ngữ trong thơ có mục đích tự thân, có cứu cánh thẫm mĩ nội tại, đó là
quan niệm phổ biến của nhiều khuynh hướng hình thức chủ nghĩa trong thơ.
Họ thấy ở trong hình thức của thơ, ngôn ngữ là nhân tố năng động biến hóa
và nhiều màu sắc nhất. Trong thơ, ngôn ngữ dễ có điều kiện bộc lộ đầy đủ
năng lực biểu hiện và vẻ đẹp hơn so với ngôn ngữ được vận dụng trong các
lĩnh vực khác, nên họ đã thổi phồng vai trò của ngôn ngữ ở trong thơ nhằm
phục vụ cho những dụng ý chính trị và quan niệm nghệ thuật phức tạp, sai
lầm.
Các khuynh hướng hình thức chủ nghĩa trong thơ thường là quan niệm
từ ngữ trong thơ là một thực thể hữu hình, tự nó nói lên một cái gì, biểu
tượng cho một cái gì có thể bên ngoài ý nghĩa mà trong người viết định cung
cấp cho nó. Hai khía cạnh phổ biết nhất mà người ta chú ý nhiều là đặc tính
về âm thanh của từ và sự kết hợp đặc biệt của từ ở trong thơ – những phẩm
chất mà ngôn ngữ văn xuôi ít quan tâm tới. Theo Rô man Jakơpxơn thì ngôn
ngữ thơ ca không nhằm một chức năng thông báo, truyền đạt thuần túy mà tự
lấy mình làm cứu cánh nội tại. Ngôn ngữ thơ ca không phải chủ yếu là công
cụ mà bạn thân nó là mục đích. Tôma Paven cũng quan niệm trong thơ ca vỏ
âm thanh trở thành mục đích. Nó không những có nghĩa mà còn tồn tại,
Jakơpxơn cũng xem âm thanh là một nhân tố quan trọng đã tạo nên vẻ đẹp
tự thân của từ. Rồi mở rộng ra một cách phi nguyên tắc, từ âm thanh liên
tưởng đến màu sắc, nhiều nhà thơ đã gán ghép một cách chủ quan cho từ
những đặc tính về âm thanh và màu sắc. Malarmê, một nhà thơ sử dụng
nhiều tính chất tượng trưng về âm nhạc đã băn khoăn không biết tại sao trong
tiếng Pháp người ta lại dùng chữ “nuit” để chỉ ”tối” và “jour” để chỉ “ngày” vì
theo quan niệm của một số người thì các âm “i – u – ê” gợi sáng và các âm “u
– o – ô” gợi tối. Rimbô được chú ý qua bài thơ Những nguyên âm với những
liên tưởng và “tìm tòi” khá kì quặc:
A đen, E trắng, I đỏ, O tím, U xanh
Hỡi các nguyên âm một ngày kia ta sẽ nói
Những điều huyền bí khiến các ngươi ra đời.
Bôđơle tìm đến sự hòa hợp giữa âm thanh, màu sắc và hương vị và
chính Bôđơle đã viết những câu: “Có những mùi hương tươi mát như da thịt
con trẻ, dịu dàng như tiếng kèn và xanh thắm như nội cỏ”. Chính trong những
liên tưởng đó mà những từ qua vỏ âm thanh của mình đã bị gán ghép cho
những màu sắc và hương vị. Cái lối suy luận chủ quan và thiếu chính xác đó
sau này vẫn có người tìm cách khai thác mô phỏng. Việt Phương trong tập
thơ Cửa mở có lúc chạy theo lối viết cầu kì:
Đường phố như chiếc ống vạn hoa giàu đột biến
Từng phút vụt đổi thay những cảnh huy hoàng
Ô hôm nay ra bỗng nhìn thấy màu của tiếng
Trẻ nhỏ tiếng màu xanh, xe điện tiếng màu vàng
Nhịp guốc đi đỏ màu mận chín
Còi ô–tô đen nhánh màu than.
(Ta chờ mình, chính mình ta chờ đấy)
Chủ nghĩa hình thức trong thơ còn phá phách một cách cực đoan hơn
đến mức độ phủ nhận hoàn toàn vai trò của nội dung ý nghĩa trong thơ. Chủ
nghĩa đađa đã tiến hành trong sáng tác của họ những lối ghép chữ vô nghĩa.
Đối với họ, cuộc sống là trống rỗng và vô nghĩa; họ phản ứng lại một cách
cực đoan và vô chính phủ. Có kẻ trong bọn họ đã từng nói: “Đẹp là cái gì, xấu
là cái gì, mạnh là cái gì, yếu là cái gì? To lớn là cái gì? – Car – pentier,
Renan, Foch là gì? Cóc biết. Tôi là cái gì? Cóc biết, Cóc biết, Cóc biết”.
Trixtăng Tzara, người tiêu biểu của nhóm “đađa” đã viết nhiều bài thơ theo
khuynh hướng trên.
Những khuynh hướng thơ ca trên dù có mang những tên là “hiện đại”,
là “siêu thực”, “siêu dân tộc”, những tên gọi rất kêu, tưởng hứa hẹn một sự
cách tân và khám phá mới, nhưng thực chất lại biểu liện một cái gì kì quặc
điên loạn, phá hoại nghệ thuật cả mong nội dung lẫn hình thức.
III. NHỊP ĐIỆU TRONG THƠNói về nhịp điệu Maiakôpxki cho rằng “nhịp điệu là sức mạnh cơ bản,
năng lực cơ bản của câu thơ. Không giải thích được, nó đâu chỉ có thể nói về
nhịp như nói về từ lực hoặc điện. Từ lực và điện, đó là những dạng của năng
lượng”.
Quan niệm của Maiakôpxki xem nhịp điệu như một yếu tố của năng
lượng thơ là nhằm nhấn mạnh đến tính cộng hưởng (résonance) của nhịp
điệu bài thơ đến người đọc, nhấn mạnh đến những yếu tố bên trong tham gia
vào việc hình thành và tổ chức nhịp điệu. Nhịp điệu không thuần túy là những
ngân vang bên ngoài đi kèm theo ý thơ và có lúc như thoát ra khỏi ý thơ.
Maiakôpxki xem nhịp điệu như giọng điệu, sắc thái và cường độ của cảm xúc
thơ quyện hòa và tồn tại ngay trong chính dòng âm nhạc của thi ca và tạo
thành năng lượng cơ bản của câu thơ.
Quan niệm của Maiakôpxki về nhịp điệu mang những yếu tố mới so với
những quan niệm truyền thống. Cách giải thích về nhịp điệu trong thơ đã có
từ lâu trong văn học. Ở khái niệm này vừa có một cái gì xác định cụ thể, lại
vừa như mơ hồ, xa xôi. Nó vừa là những âm thanh điểm nhịp đều dặn như
tiếng chuông quả lắc đồng hồ lại vừa là nhịp vọng âm thầm trong trái tim mỗi
người. Nên hiểu nhịp điệu, định nghĩa và giải thích về nó với những quan
niệm rộng hẹp khác nhau. Quan niệm một cách đơn giản thì nhịp điệu là kết
quả của một sự chuyển động nhịp nhàng, sự lặp lại đều đặn những âm thanh
nào đó ở trong thơ. Arixtôt trong Nghệ thuật thơ ca quan niệm: “Nếu sự vận
động mà chúng ta cảm thấy bằng tình cảm của chúng ta rơi vào một trật tự
nhất định nào đó, vào những phần nhỏ hơn thì cái đó gọi là nhiệp điệu”
Và ngay trong quan niệm của Maiakôpxki nói về cảm giác của mình khi
bắt vào một nhịp điệu nào đó trong đời sống, tác giả cũng nhấn mạnh tính lặp
lại có quy luật của hiện tượng theo một trình tự, một cách tổ chức nhất định:
“Cái nhịp xốn xang này từ đâu đến không rõ. Đối với tôi, đó là một sự lặp lại ở
trong tôi một âm, một tiếng động, một sự lắc lư hoặc nói chung đó là sự lặp lại
của mỗi hiện tượng mà tôi diễn ra được bằng âm thanh. Cái gợi nên nhịp điệu
lại có thể là tiếng rì rào của biển, tiếng người vú già cứ mỗi buổi sáng đóng
sập cửa và lặp đi lặp lại bước lệt xệt trong ý thức của tôi”.
Với một loại quan niệm tương tự, người ta có thể nghĩ đến nhịp điệu
theo nhịp mái chèo buông, theo tiếng xe lửa chạy trên đường sắt, tiếng quả
lắc đồng hồ, tiếng nhịp đập của quả tim. Và rộng ra hơn nếu liên tưởng đến
màu sắc, đường nét như nhịp điệu đều đặn của một dải trang trí hoa văn,
nhịp sóng gợn trên mặt hồ.
Vấn đề đặt ra ở đây là tìm hiểu nhịp điệu của âm thanh. Quan niệm
nhịp điệu là sự lặp lại đều đặn và có quy luật của những âm thanh nào đó trở
nên quá rộng và chưa xác định được đặc trưng của nhịp điệu trong tính đặc
thù của nhận thức nghệ thuật. Trong đời sống hằng ngày có biết bao nhiêu
thứ nhịp điệu nhưng thường là do sự vận động có tính chất cơ học tạo nên,
nó không gây ấn tượng gì đặc biệt ở người nghe, thậm chí là sự ồn ào khó
chịu. Vấn đề quan trọng là ở chỗ nhịp điệu ấy có tạo được một sự cộng
hưởng hay không với nhịp điệu bên trong của tâm hồn. Có những nhịp điệu
ngoài đời sống dễ tạo được sự cộng hưởng ở bên trong như tiếng nước chảy
xa xa:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
(HỒ CHÍ MINH)
như tiếng sóng biển rạo rực bồi hồi:
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta, ngân nga tiếng hát
(TỐ HỮU)
như tiếng mưa dồn, gió thoảng…
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
(Kiều)
Nhịp điệu ngoài đời sống tạo được sự cộng hưởng với phần bên trong
của tâm hồn chính vì tự bên trong của tâm hồn đã có sự vỗ nhịp, chuyển
động tạo nên được sự hòa điệu giữa những nhân tố khách quan và chủ quan.
Khi cảm thấy xúc động trước một nhịp điệu thường nhà thơ có xu hướng tái
hiện nhịp điệu theo một cách nào đó (chuyển động cơ thể, đánh nhịp, mô
phỏng âm thanh…). Nhịp điệu bên ngoài đời sống là cơ sở để tạo nên nhịp
điệu bên trong của tâm hồn, nhưng đối với thơ trữ tình thì chắc chắn vấn đề
không phải chỉ là sự mô phỏng, ghi chép lại nhịp điệu của đời sống nếu không
có sự cộng hưởng chặt chẽ và đằm thắm tự bên trong của xúc động nội tâm.
Và quan trọng chính là nhịp điệu bên trong của tình cảm tìm đến một nhịp
điệu tương đồng của đời sống.
Khi Nguyễn Đình Thi viết về bông hoa nghệ nở giữa chiến trường Điện
Biên khói lửa:
Hoa nghệ xôn xao nở tím hồng
thì cũng rất khó để phân định đâu là phần xôn xao của hoa lá và đâu là
phần xao xuyến, xúc động của tâm hồn người chiến sĩ trước cái nên thơ, tươi
đẹp của tự nhiên. Có những bài thơ nhịp điệu xô về phía bên ngoài dồn dập,
sôi nổi, nói lên được cái khí thế chung của cuộc sống. Hoàng Trung Thông
qua bài thơ Tiếng còi tàu đã tạo được một nhịp điệu khỏe, nhọn, lao nhanh về
phía trước rất phù hợp với nội dung:
Một tiếng còi
Thét lên
Trong đêm
Nóng hổi
Một tiếng còi dữ dội
Lay chuyển núi rừng
Xé vỡ đồng xanh.
Một đoàn tàu vun vút lao nhanh
Không đèn không lửa
Phía kia đạn nổ
Phía này bom rơi…
Một số bài thơ chống Mĩ của Chính Hữu có một nhịp điệu khẩn trương
như khúc điệu hành quân, như lời mời mọc lên đường:
Có những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
Xóm dưới làng trên, con trai con gái
Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau
Sống nhớ súng to chiến trường chật chội
Tiếng cười hăm hở đầy sông, đầy cầu.
Tố Hữu qua bài ca Bài ca lái xe đêm đã thể hiện được cái sôi nổi, tươi
vui của nhịp điệu ca khúc và sức chuyển động của nhịp thơ như cuồn cuộn,
như băng băng lao về phía trước theo chuyến xe đi và hòa với niềm reo vui
của tâm hồn:
Khi mặt trời xuống núi
Anh em ơi lên đường
Ta băng qua cát bụi
Ta xông ra chiến trường.
…Ta qua sông qua suối
Ta qua núi qua đèo
Lòng ta vui như hội
Như cờ bay gió reo.
Có những bài thơ nhịp điệu như ẩn vào âm hưởng bên trong lắng sâu,
dào dạt của bài thơ. Huế, Quê mẹ có một nhịp điệu riêng thật độc đáo vừa
đằm thắm yêu thương, vừa thiết tha khơi dậy những kỉ niệm qua một ngọn
núi dòng sông, qua một điệu hò thân thuộc:
Huế ơi quê mẹ của ta ơi
Nhớ tự ngày xưa tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển nắng xa khơi
Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương
Mái nhì man mác nước sông Hương
Hò ơi riêng mẹ ru nhè nhẹ
Cây đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường.
Qua một câu hát, điệu hò gợi nhịp, ta bắt gặp tự bên trong sâu thẳm
của tâm hồn đang trở dậy một nỗi nhớ thiết tha, một tình yêu thương trìu mến
như nhịp sóng âm thầm dìu dặt.
Cùng một âm hưởng tương tự, Vàm Cỏ Đông của Hoài Vũ có một nhịp
điệu riêng của nỗi nhớ, của kỉ niệm sông nước quê hương rất tha thiết và
quyến rũ lạ thường:
Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ Đông.
Nhịp điệu của những bài thơ trên có một sức chiếm lĩnh và lôi cuốn rất
mạnh. Đó là nhịp điệu của đời sống trong tiếng nói sâu xa nhất của tâm hồn.
Maiakôpxki cũng nhấn mạnh đến nhịp điệu bên trong của tâm hồn. “Tôi không
biết là nhịp điệu tồn tại ở bên ngoài tôi hay chỉ có ở trong tôi, đúng hơn là ở
trong tôi… Nhưng để thức tỉnh nó cần có sự va chạm”.
Nhịp điệu là mỗi bài thơ trong điệu cảm xúc, cường độ và sắc thái riêng
của nó đều có một nhịp điệu với một vẻ đẹp riêng. Nhịp điệu có tính chất ổn
định do các thể loại văn học tạo nên đều được chọn lọc và tiêu chuẩn hóa về
mặt thẩm mĩ. Nhịp điệu hài hòa, chặt chẽ trong thể thơ thất ngôn bát cú, nhịp
điệu trôi chảy và luôn bắt vào một ý nối tiếp của thể nói lối, nhịp điệu mềm
mại, thanh thoát của thể thơ lục bát đều có vẻ đẹp riêng. Tuy nhiên, có khi
đấy chỉ là nhịp điệu riêng bên ngoài như một cái vỏ bọc chung cho tất cả mọi
trường hợp. Điều quan trọng là phải tìm được nhịp điệu của từng bài thơ. Thể
thơ tự do tạo điều kiện nhiều nhất để thơ có được một vẻ riêng về nhịp điệu
mà mỗi bài thơ phải phấn đấu để có được.
Nhịp điệu có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với thơ như một sức
mạh hỗ trợ và về một khía cạnh nhỏ nào đó, như một sức mạn tự thân. Nó
tạo điều kiện để nâng cao tính chất diễn cảm, đầy cảm xúc vào dòng chuyển
động, tạo nên một từ trường lôi cuốn đắm say. Trong thơ Tố Hữu, nhịp điệu
giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Nó luôn có tác dụng nâng đỡ cảm xúc, lúc
thì như một sức mạnh vô hình ở bên trong, lúc thì dào dạt, lay động. Nhịp
điệu khỏe khoắn hùng tráng trong Ta đi tới, cũng như nét đằm thắm thiết tha
trong Việt Bắc và những ngân nga say đắm trong Em ơi… Ba Lan. Trong
nhiều dáng vẻ của mình, nhịp điệu bao giờ cũng có sức lôi cuốn rất thầm kín
mà, da diết, lay động. Nhịp điệu của tiếng ru chẳng đã nói lên tấm lòng yêu
thương của người mẹ trong tiếng nói của âm thanh qua một làn điệu vuốt ve,
ấp ủ để đưa đứa bé vào một thế giới chập chờn mộng đẹp; và mãi mãi sau
này khi đã trưởng thành trong lòng vẫn giữ mãi tiếng ru ngọt ngào ấy như một
kỉ niệm không phai nhạt.
Có người cho rằng mục đích của nhịp điệu là để kéo dài thời khắc trầm
tư, đưa chúng ta vào một trạng thái như nửa mê, nửa tỉnh, vừa đắm đuối
trong một sức lôi cuốn từ bên trong và cả ở bên ngoài, lại vừa ý thức được
một cách sáng tạo cái phong phú của nội dung ý tưởng. Khoảnh khấc ấy như
kích thích thêm trí tưởng tượng và làm cho những biểu tượng cũng bừng nở.
Âm thanh chính là vỏ vật chất của từ. Trong văn xuôi, ngôn ngữ không
được tổ chức thành nhịp điệu. Vai trò của ngữ nghĩa lấn át, bao trùm. Nhịp
điệu câu văn xuôi buông thả tự nhiên không có gợi ý gợi cảm nào đặc biệt.
Với thơ, nhịp điệu lại giữ một vị trí quan trọng. Sự tổ chức âm thanh vào một
hệ thống nhịp điệu nào đó không phải chỉ là sự sắp xếp một cách tự nhiên
theo những liên kết có tính chất máy móc, tùy tiện. Ở đây có vai trò quan
trọng của cảm xúc, của cảm hứng sáng tạo. Nói thư Xuân Diệu, cái cơn rung
động về vần điệu, hình tượng âm thanh của nhà thơ cũng nằm chung trong
sức rung động mạnh mẽ của cảm hứng sáng tạo. Và thực sự trong sáng tạo
nhà thơ bị cuốn hút mạnh mẽ và nhiều khi như chìm ngập trong thế giới của
âm thanh. Không đến mức như âm nhạc nhưng cũng không bình thản, phẳng
lặng như trong văn xuôi. Theo Puskin thì trong lúc sáng tác, đầu óc nhà thơ
tràn đầy âm thanh trong trạng thái hưng phấn. Sinlơ cũng đòi hỏi mỗi bài thơ
phải gây một ấn tượng về âm nhạc. Nhà thơ phải tạo được sự thống nhất từ
bên trong giữa kết cấu lôgic của ý tưởng và kết cấu của âm nhạc. Quá trình
sáng tác một bài thơ thường bao giờ cũng bắt đầu từ một sự gợi ý nào đấy
của những hiện tượng trong đời sống và yêu cầu cuối cùng là sáng tác phải
hướng đến một mục đích và chứa đựng một nội dung xã hội. Cũng có khi sự
gợi ý ban đầu ấy là một ấn tượng về âm nhạc. Sinlơ có lúc đã nói lên thực tế
đó trong kinh nghiệm sáng tác của mình: trước hết tâm hồn tôi tràn ngập bởi
một ý hướng âm nhạc nào đấy và tư tưởng thi ca tìm đến tiếp theo. Khi tôi
ngồi để làm một bài thơ, cái mà tôi thường thấy xuất hiện trước mắt tôi là yếu
tố âm nhạc của bài thơ chứ không phải là quan niệm rõ rệt về chủ đề”.
Tế Hanh cũng tâm sự về sự gợi ý ban đầu của một yếu tố âm nhạc khi
viết bài Một quê hương: “Trước hết là do nhạc điệu. Tôi thấy mấy tiếng có vần
ương như gương, quê hương, mặt người thương, ít nhiều nó gợi cho mình
một cảm xúc. Nghĩ đến người yêu, mình thấy ngay cái mặt là chỗ đẹp nhất.
Và khi nghĩ đến người yêu thì mình nhớ đến quê hương, cũng như khi mình
nghĩ đến quê hương thì mình nhớ đến người yêu. Do đó đoạn đầu tôi mở là:
Mặt em như tấm gương
Anh nhìn thấy quê hương
rồi đoạn chót tôi gói lại:
Ôi chín năm nhớ thương
Mặt em là quê hương”.
Trường họp một nhà thơ và một bài thơ trên không nói lên một cái gì
thuộc về quy luật phổ biến và cũng không nhằm khẳng định vai trò quyết định
của âm nhạc đối với sáng tác thơ ca. Trong thơ, những gợi ý ban đầu tưởng
chừng thuộc về một cảm xúc, một hình ảnh, một ý tưởng vào đó bắt gặp từ
trong cuộc sống, từ đấy triển khai thành một dàn ý, một cấu tứ. Sự gợi ý qua
một ấn tượng âm nhạc thường không phải là một quy luật phổ biến và nhân
tố âm nhạc cũng không phải là mục đích của sự sáng tạo thơ ca.
Trong nhiều thời kì, thơ ca Tây phương suy tôn lên hàng đầu vai trò
của âm nhạc. Pôn Veclen trong bài Nghệ thuật thơ ca nhấn mạnh:
Phải có âm nhạc, đó là điều trước tiên
Và muốn thế phải chọn số lẻ…
Phải có âm nhạc nữa, âm như mãi.
Khuynh hướng thơ ca lãng mạn trong văn học thường đặc biệt đề cao
vai trò âm nhạc. Nôvalix và Tik xem trọng âm nhạc hơn tư tưởng. Nhiều nhà
thơ lãng mạn Anh và Đức đòi hỏi sự tối đa về âm thanh và tối thiểu về ý
nghĩa. Trong thơ ca Nga, Blôc và Fet có thời kì rơi vào khuynh hướng âm
nhạc thuần túy Blôc cho rằng nhà thơ là người có quyền lực để tạo nên sự
hài hòa về âm thanh và từ ở trong thơ: “Nhà thơ đó là người đại diện cho nhịp
điệu”. Briuxôp cũng rơi vào khuynh hướng cực đoan trên. Chạy theo âm
thanh, nhịp điệu thơ ca sẽ bị nghèo nàn về nội dung và sa vào chủ nghĩa hình
thức. Cũng không thể quan niệm như Valêri: “Thơ là sự phân vân kéo dài
giữa âm thanh và ý nghĩa”. Xem việc tổ chức vẻ đẹp và hình thức của âm
thanh là chủ đạo hoặc san bằng, giữa âm thanh và ý nghĩa, đều không chính
xác. Chế Lan Viên quan niệm vấn đề theo tinh thần: “Thơ là đi giữa Nhạc và
Ý. Rơi vào vực Ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào vực Nhạc thì
thơ dễ làm đắm say lòng người nhưng cũng dễ nông cạn”.
Nói là thơ đi giữa Nhạc và Ý và không rơi vào vực nào là ý muốn tránh
khuynh hướng cực đoan ở cả về hai phía, song tinh thần là thơ ca vẫn phải
nằm trong qũy đạo chủ yếu của vực Ý chứ không để nằm trong tình trạng
nước đôi theo quan niệm của một số nhà thơ phương Tây khi luận bàn về
bản chất của thơ.
Sự hình thành và biểu hiện cụ thể của nhịp điệu trong thơ tùy thuộc vào
đặc điểm của hệ thống ngôn ngữ của từng dân tộc. Nhịp điệu trong thơ Việt
Nam chủ yếu dựa vào sự tổ chức thanh điệu bằng trắc trong phạm vi câu thơ,
hệ thống tiết tấu trong câu thơ và đến cả thanh điệu của mỗi từ. Sự tổ chức
luật bằng trắc này được tiêu chuẩn hóa một cách chặt chẽ theo những định lệ
vững chắc trong thể chất ngôn bát cú. Ở các thơ khác như song thất lục bát,
lục bát v.v…cũng có những quy luật đối thanh và hòa thanh riêng của nó.
Trong thể thơ tự do, sự phối âm để tạo nên hài hòa trong thanh điệu là cần
thiết và quan trọng. Tuy ở đây không đề lên thành nguyên tắc tiêu chuẩn hóa
nhưng vẫn có những quy luật ở bên trong rất tự nhiên mà người viết phải
tuân thủ.
Trong cách hiểu thông thường lâu nay về nhịp thường chủ yếu dựa trên
cách tổ chức và phân chia thành đoạn tiết tấu trong phạm vi ít câu thơ để định
đặc điểm của nhịp. Ví dụ đọc câu thơ Xuân Diệu:
Đi mau! trốn nét, trốn màu
Trốn hơi, trốn tiếng, trốn nhau, trốn mình
chúng ta dễ thấy sự phân chia thành những đoạn tiết tấu đều đặn mà
một đoạn gồm hai âm tiết và được gọi là ngắt theo nhịp 2. Thực ra nhịp điệu
trong một bài thơ, một câu thơ không phải chỉ bộc lộ ở cách ngắt thành những
đoạn tiết tấu mà do nhiều nhân tố tạo thành. Thanh điệu của từ, thanh điệu
của đoạn tiết tấu, vần thơ… đều tham gia vào việc tổ chức nhịp điệu. Nó toát
lên từ nội dung, gắn chặt với nội dung cũng giống như nhịp thở của con tim,
nhịp rung động của tâm hồn.
Có ý thức về nhịp điệu là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với người
sáng tác cũng như thưởng thức thơ ca. Nhà thơ phải nắm bắt được nhịp điệu
của đời sống với tất cả sắc thái phong phú nhất của nó. Nhịp điệu nhiều lúc
xô dậy tạo thành không khí, giọng điệu và âm hưởng hùng tráng của bài
thơ.Nhịp điệu Bài ca du kích của Hồ Chí Minh cuồn cuộn như cơn lốc mạnh,
như nhưng đợt sóng tiếp nối nhau vượt lên phía trước để tiến công và truy
kích kẻ địch:
Ào, ào, ào…
Ào, ào, ào
Già nào
Trẻ nào
Lính nào
Dân nào
Đàn ông nào
Đàn bà nào
Kẻ có súng dùng súng
Ké có dao dùng dao.
Kẻ có cuốc dùng cuốc
Người có cào dùng cào
Thấy Tây cứ chém phứa
Thấy Nhật cứ chặt nhào…
Nhịp điệu đặc biệt của bài thơ trên được tạo thành không phải chỉ do
cách ngắt nhịp quen thuộc và ổn định của một thể loại thơ cách luật nào. Ở
đây sự trùng điệp về âm thanh của các từ của những ý thơ theo nhịp điệu
tăng cường lôi cuốn và mở rộng vươn dần lên cao điểm. Khởi điểm của bài
thơ là một nhịp điệu lay động, lôi cuốn như bão nổi, gió lên. “Ào, ào, ào – Ào,
ào, ào”. Đó chính là súc mạnh của chính nghĩa, của quần chúng đang được
thức tỉnh. Nhip điệu chuyển động và láy âm: “Già nào, trẻ nào…” như kêu gọi
tập hợp, như mời chào để sôi nổi gia nhập đội ngũ lên đường. Nhịp điệu
mạnh dần, khẩn trương hơn, thúc bách hơn, phục vụ cho sự phát triển của ý
thơ khi từ ý tưởng đã chuyển sang hành động quyết liệt: “Thấy Tây cứ chém
phứa. Thấy Nhật cứ chặt nhào”. Nhịp điệu của bài thơ như một cơn gió lốc
thổi mạnh nói lên sức mạnh đoàn kết và vùng lên chiến đấu của quần chúng
cách mạng. Nhịp điệu đã hoàn toàn phù hợp và phục vụ đắc lực cho việc biểu
hiện nội dung. Thường người viết đều có dụng ý sử dụng thơ ca để tạo nên
âm hưởng hài hòa với nội dung thơ ca. Tản Đà trong hai câu thơ:
Tài cao, phận thấp, chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương
đã sử dụng một nhịp điệu đặc biệt trên cơ sở tương phản về thanh điệu
như hai vế đối lập. Câu trên là một tình thế tấn công, một cảnh ngộ uất ức.
Câu thơ bị dồn chặt, đóng chặt bởi những từ ngắn mang thanh trắc giống như
nỗi uất ức bị nén lại. Câu thơ sau là một hướng giải quyết tiêu cực và buông
xuôi. Toàn bộ câu thơ trôi đi trên thanh bằng như một sự buông tỏa, giải
thoát, không có phương hướng, không có gì níu giữ lại. Hai câu thơ hai nhịp
điệu sát đúng với nội dung. Đọc câu thơ của Xuân Diệu:
Trăng từ viễn xứ
Đi khoan tự lên ngự đỉnh trời tròn.
làm chúng ta liên tưởng đến một câu nói của một nhà thơ: “Nếu như tôi
đọc chữ mặt trời thì phải làm thế nào cho ở trong tôi mặt trời cũng đang từ từ
mọc lên”.
Nhịp điệu thơ có thể được tạo nên từ sự tổ chức bên ngoài của nội
dung câu thơ. Do đó có những khuynh hướng chạy theo nhịp điệu một cách
hình thức, ít gắn bó với nội dung, tuy việc làm đòi hỏi đến sự dụng công
nhưng hiệu quả lại kém sút. Thơ ca thời kì trước Cách mạng có nhiều sáng
tác viết theo lối này như trường hợp nhịp điệu của một số bài thơ của Bích
Khê, Yến Lan.
IV. KẾT CẤU TRONG THƠ TRỮ TÌNHTrong văn học có hai hình thức kết cấu phổ biến: kết cấu của những
sáng tác có cốt truyện và kết cấu của những sáng tác không có cốt truyện.
Trong dạng kết cấu của những sáng tác không có cốt truyện, kết cấu của thơ
trữ tình mang ý nghĩa tiêu biểu nhất.
Kết cấu trong thơ đảm nhiệm việc liên kết, tổ chức hệ thống cảm nghĩ
và hình ảnh trong một cấu trúc hoàn chỉnh làm nổi rõ lên chủ đề và ý tưởng
bao quát của bài thơ, đảm bảo đến mức tối đa hiệu quả và sức truyền cảm
của bài thơ.
Trong kịch và tiểu thuyết, kết cấu của tác phẩm gắn bó chặt chẽ với sự
phát triển của một cốt truyện tức là sự phát triển một hệ thống sự kiện và
hành động tiếp nối một cách chặt chẽ theo quá trình vận động của một xung
đột xã hội. Với thơ, kết cấu không có những điểm tựa xác định cụ thể như
nhân vật, sự kiện, môi trường mà chủ yếu là sự tổ chức hệ thống cảm nghĩ
theo những dạng thức vận động nhất định phù hợp với chủ định và cấu tứ
của nhà thơ. Không thể hiểu được kết cấu của một bài thơ nếu không nắm
được sự vận động bên trong của hệ thống cảm nghĩ. Với những bài thơ mà
hình tượng ngưng đọng và hình ảnh chủ yếu gợi cảm về mặt thị giác, kết cấu
của bài thơ có những nét gần gũi với kết cấu của một tác phẩm hội họa.
Nhiều bài thơ có vẻ đẹp của một bức tranh. Loại thơ viết thuần túy về đề tài
thiên nhiên thường nằm trong dạng cấu tạo này. Tuy nhiên tuyệt đại đa số thơ
trữ tình đều theo lối kết cấu bên trong thông qua sự vận động của cảm xúc và
hình ảnh.
Một bài thơ, chưa ai nêu rõ nguyên tắc và định nghĩa về nó. Người ta
có nhắc đến bài văn bia mà cũng là bài thơ ngắn nhất của Karamzin dưới
dạng của một câu thơ Alêcxanđranh:
Bạn hãy yên nghỉ cho đến trước khi trời sáng
và một bài thơ một dòng của Briuxôp:
Hãy phủ đôi chân nhợt nhạt của mình lại.
Thực ra đấy là một cách nói, một cách quan niệm, không ai bác bỏ
nhưng cũng không có cơ sở gì để xác nhận. Hình thức tồn tại phổ biến hơn
của bài thơ vời tính chất một đơn vị nhỏ nhất thường bao gồm hai câu. Tuy
với dung lượng bé nhỏ ấy nhưng đã có khả năng tạo nên một sự chuyển
động về cảm nghĩ, một dạng cấu tạo cân đối giữa các vế, với sự hỗ trợ của
những ý thơ và hình ảnh trong thơ. Xuân Diệu viết một bài thơ hai câu:
Mưa dầm – thu dưới nguyệt
Máng chảy – suối trên nhà.
Cũng có thể xem đây là một bài thơ, dưới dạng của một câu đối. Và
nếu quan niệm như thế thì cũng có nhiều câu đối được xem như những bài
thơ. Tuy nhiên hình thức phổ biến của bài thơ thường tồn tại ít nhất là dưới
dạng một khổ thơ bốn câu. Cấu trúc của một bài thơ trong khuôn khổ bốn câu
tạo điều kiện cần thiết để nói gọn một cảm nghĩ nào đó và ở đây kết cấu bắt
đầu bộc lộ một cách rõ rệt vai trò tổ chức và tính sáng tạo.
Với một đơn vị ngữ ngôn rất hạn chế và tiết kiệm, bài thơ Phạm Hồng
Thái của Tố Hữu được cấu tạo chặt chẽ, trong phạm vi hai mươi chữ đã có
thể nói lên điểm rực sáng của một cuộc đời, một tấm gương anh hùng:
Sống, chết, được như anh
Thù giặc, thương nước mình
Sống, làm quả bom nổ
Chết, như dòng nước xanh.
Tấm lòng yêu nước và căm thù giặc, quan niệm sống chết vì cách
mạng, hành động quả cảm của người liệt sĩ và cái chết rất đẹp của Phạm
Hồng Thái, tất cả những ý lớn đó được thâu tóm lại ở những nét tiêu biểu,
tinh chất, dồn chặt lại trong một khổ thơ xinh xắn, ngắn gọn. Kết cấu đã đóng
một vai trò quan trọng trong việc tổ chức hệ thống cảm xúc và suy nghĩ đó.
Kết cấu trong thơ chủ yếu là sự tổ chức bên trong, gắn chặt với vấn đề
cấu tứ của bài thơ. Kết cấu thường theo rất sát những đặc điểm và dạng thức
vận động của tứ thơ. Chủ đề tư tưởng trong một bài thơ bộc lộ trên những ý
tưởng khái quát và được triển khai trong tứ thơ. Sự triển khai của chủ đề và
tư tưởng mang những sắc thái tương đối cụ thể qua tứ thơ. Người đọc có thể
tiếp nhận và cảm thụ một phần cái hay của bài thơ, cũng như có thể tóm tắt
được nội dung của bài thơ qua cấu tứ, tuy trong thơ không có cốt truyện. Tứ
thơ được xác lập và triển khai đến đâu thì kết cấu cũng vươn theo đến đấy.
Tứ thơ là một nhân tố của nội dung gắn bó rất chặt chẽ với kết cấu. Sự vận
động và hình thành trọn vẹn của kết cấu phụ thuộc vào kết quả của sự triển
khai của tứ thơ và nội dung bài thơ. Tứ thơ của bài Mặt quê hương của Tế
Hanh chủ yếu dựa trên sự so sánh của mặt quê hương và khuôn mặt của
người thân yêu, nên Tế Hanh đã sử dụng chủ yếu là lối kết cấu so sánh qua
từng cặp câu giữa hai đối tượng miêu tả. Tứ thơ của bài Kết nạp Đảng trên
quê hương Mẹ của Chế Lan Viên được tạo thành trên cơ sở những mối quan
hệ sâu xa giữa Đảng với hình ảnh người mẹ hiền và quê hương. Do đó kết
cấu của bài thơ là sự thống nhất và liên kết lại giữa các trạng thái cảm xúc
trên. Tứ thơ trong Việt Bắc của Tố Hữu có ý nghĩa tượng trưng. Đó là lời ân
cần dặn dò lòng sắt son chung thủy trong phút chia tay của người cán bộ xuôi
về thành thị, với núi rừng Việt Bắc, quê hương cách mạng. Phục vụ cho tứ
thơ đó, kết cấu của bài thơ mang tính chất đối đáp qua lại giữa hai nhân vật.
Sự vận động và triển khai của tứ thơ trong thơ trữ tình thường không có
những điểm tựa xác định và cụ thể về không gian và thời gian như trong tiểu
thuyết, kịch. Mâu thuẫn và sự khác biệt của những cảm nghĩ là động lực bên
trong đẩy cho tứ thơ phát triển, do đó tứ thơ thường vận động qua những
trạng thái đối lập trong không gian cũng như thời gian. Về không gian, cảm
xúc vận động giữa cái xác định và không xác định, hữu hạn và vô hạn, chân
và ảo, hiện thực và lãng mạn. Hiện thực đời sống là cơ sở để tạo nên những
đối tượng xác định, cụ thể, chân thực. Và phần ảo, phần không xác định của
tứ thơ và cảm xúc thơ thường thuộc về sự tưởng tượng, bay bổng và mơ
ước của người viết. Cứ thế cảm xúc thơ tuần hoàn qua những trạng thái và
tự bồi đắp cho mình những phẩm chất mới đa dạng và linh hoạt hơn.
Tố Hữu trong bài thơ Thù muôn đời muôn kiếp không tan chủ yếu đã
triển khai ý thơ với tinh thần căm thù trào sôi và lên án mạnh mẽ kẻ thù độc
ác qua những sự việc và hình ảnh có thực và cụ thể:
Trong một ngày mồng một tháng mười hai
Nào ai ngờ không sống nữa ngày mai
Chúng tôi chết, chết quay lăn lốc
Đứt ruột đứt gan nắm cơm thuốc độc.
Chết mà chưa giết được lũ đê hèn
Trái tim hồng chết uất máu bầm đen.
Nhưng rồi Tố Hữu lại từ cái thực của đời sống chuyển hình tượng thơ
sang phạm vi tưởng tượng để cho bài thơ thêm da diết trong tình cảm yêu
nước thiết tha của những người đã khuất và càng tăng thêm lòng uất ức căm
thù kè địch:
Chúng đã giết nhưng làm sao giết được
Hồn chúng tôi quẩn quanh cùng đất nước
Như bóng dừa ôm những xóm làng yêu
Như bóng cò bay sớm sớm chiều chiều
Như sông lạch vẫn tắm đồng xanh mát
Như sóng biển vẫn dập dìu ca hát.
Chế Lan Viên cũng cái mênh mông bát ngát của một thiên nhiên thơ
mộng đầy sức quyến rũ đưa hình tượng thơ trở về với những tình cảm và
hình ảnh thiết thiết của cuộc đời cần lao:
Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc
Nơi bốn mùa đã hóa thành thu
Nơi đáy bể những rừng san hô vờ thức ngủ
Những rừng rong tóc xõa lược trăng cài
Nơi những đàn mây trắng xoá cá bay đi
Cá vào hội xoè hoa mang áo đẹp
Cá nụ cá chuồn cá chim không phải chim đâu
cá hồng hồng sắc vẫy
Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về
Nơi nghìn thứ cá nức lòng sinh sôi vì thợ mỏ
Cho bát canh rau từ nay thêm chất ngọt
Những cánh tay người thêm chất máu
Cho mùa than như suối lớn
Từ đèo cao chảy mạnh những dòng than…
Kết cấu của bài thơ phải bao quát và thâu tóm được quá trình vận động
của cảm nghĩ để tổ chức nội dung trong một hình thức thích hợp và một cấu
trúc vững chắc nhất.
Về mặt thời gian, tứ thơ thường vận động qua các khâu hiện tại, quá
khứ và tương lai. Quá khứ thường được hồi tưởng qua những cảm xúc và ấn
tượng đau xót về chế độ xã hội cũ (thơ Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên…)
hoặc được liên tưởng với những kỉ niệm êm đềm của tuổi thơ (thơ của nhiều
tác giả trẻ). Tương lai được xác lập trong hiện tại qua những liên tưởng và
những mơ ước tốt đẹp về mai sau. Những mốc thời gian và không gian trên
không phải bao giờ cũng có mặt đầy đủ trong thơ của các tác giả. Vấn đề còn
tùy thuộc vào bản chất của đối tượng miêu tả và phong cách riêng của từng
nhà thơ. Phải làm sao thể hiện được sát đúng nội dung và đặc điểm của đối
tượng cũng như phải thể hiện được quá trình phát triển biện chứng của tư
duy khi cảm thụ và nắm bắt đối tượng. Kết cấu phụ thuộc và phục vụ trực tiếp
cho hai yêu cầu trên.
Sự phát triển của nội dung bài thơ trải qua nhiều chặng đường từ mở
đầu cho đến kết thúc. Tuy không có những nấc phát triển cụ thể như trong
tiểu thuyết và kịch qua các thành phần của cốt truyện lên, nhưng rõ ràng các
khâu mở đầu, tâm điểm và kết thúc của bài thơ có ý nghĩa quan trọng đối với
việc tổ chức và kết cấu của sáng tác đặc biệt là tâm điểm và khâu kết thúc.
Trong thơ trữ tình, sự vận động của cảm xúc và suy nghĩ bao giờ cũng
được triển khai xoay quanh một tâm điểm, điểm sáng từ đấy soi rọi cho toàn
bài, và cũng từ đấy tiếp nhận vơ quy tụ mọi cảm xúc và suy tưởng. Luận điểm
về điểm sáng trong thơ đó được Gơt đề cập đến và sau này nhiều nhà thơ,
nhà lí luận tiếp tục phát triển đặc biệt là Johan Bêsơ. Phát hiện và phân tích
về tâm điểm hay điểm sáng trong bài thơ là thích hợp với đặc điểm của chủng
loại trữ tình vì thực chất trong mỗi sáng tác trữ tình đều có một trọng điểm về
tư tưởng và cảm xúc, từ đấy quy định mọi sự vận động của thơ. Nắm được
tâm điểm của bài thơ, người đọc có thể hiểu rõ cấu tạo của bài thơ có vững
chắc, cân đối, và phát triển hợp lí không. Có thể có những lúc cảm xúc và suy
nghĩ vươn đi rất xa dường như thoát ra khỏi quỹ đạo của nội dung cảm xúc,
nhưng thực ra từ bên trong vẫn có những đường dây sâu xa nối với tâm
điểm, và vụt chốc trong một lúc nào đó lại trở về với điểm quy tụ một cách
nhanh chóng, sắc sảo. Sáng tác một bài thơ, một mặt người viết luôn phải có
ý thức và năng lực triển khai, mở rộng tâm điểm đi rất xa theo xu hướng li
tâm, theo quy tắc diễn dịch, nhưng một mặt lại phải luôn có ý thức hướng tâm
theo nguyên tắc quy nạp. Một số bài thơ kết cấu theo kiểu vòng tròn xoay
quanh một tâm điểm bộc lộ rất rõ đặc điểm này. Nhiều sáng tác thơ ca rơi vào
tình trạng dài dòng, tản mạng, thiếu cân đối chính vì người viết thiếu một ý
thức thường xuyên nắm bắt tâm điểm của bài thơ. Tâm điểm của bài thơ có
khi nằm ở trung tâm của sáng tác, có khi nằm ở phần kết thúc, nhưng đúng
hơn là nó có mặt ở tất cả các thành phần trong một bài thơ. Đọc một khổ thơ
trong một bài bao giờ người đọc cũng phải thấy được những cảm xúc và hình
ảnh trong một bộ phận gắn bó và phục vụ cho cái toàn thể như thế nào.
Một khâu quan trọng trong kết cấu thơ trữ tình và kết thúc của bài thơ.
Tiểu thuyết thường kết thúc ở chỗ hết chuyện. Kịch kết thúc sau khi xung đột
vươn lên cao trào. Những chỗ kết thúc ấy có một vị trí tương đối xác định. Vị
trí và chỗ kết thúc của một bài thơ không phải bao giờ cũng rõ rệt, nên không
khỏi có tình trạng tứ thơ đã ngừng vận động, bài thơ thực sự đã kết thúc,
nhưng người viết vẫn kéo dài bài thơ một cách chủ quan. Tất nhiên là phần
thêm vào sau kết thúc là không cần thiết. Cũng có những trường hợp bài thơ
kết thúc ở chỗ chưa kết thúc. Cảm xúc và suy nghĩ dường như vẫn có xu
hướng phát triển và người viết muốn người đọc tự mình tìm lấy một kết thúc
nào thỏa đáng nhấ.t Chỗ kết thúc thực sự có một vị trí quan trọng. Đó là sự
thâu tóm mọi vận động của cảm xúc, nơi kết tụ lại cho một tứ thơ ngưng
đọng, là lời giải đáp cho mỗi câu mới được đặt ra, là sự nâng cao cho bài thơ
có được một tầm vóc. Chỗ kết thúc trong một bàn thơ phải được suy nghĩ,
chuẩn bị từ trong cấu tứ, phải được ưu tiên hơn trong sự nghiền ngẫm và
chọn lọc so với những ý thơ khác. Nói về kết thúc của bài thơ, Maiakôpxki cho
rằng: “Kết thúc là một trong những yếu tố hệ trọng của bài thơ, nhất là bài thơ
có khuynh hướng, có tính khoa trương rõ rệt. Những câu thơ đạt nhất của bài
thơ thường được đặt ở phần kết thúc này. Đôi khi phải làm lại toàn bộ bài thơ
để biện bạch cho việc đặt câu kết thúc”.
Một kết thúc hay sẽ có tác dụng gợi ý tổng hợp và gây ấn tượng mạnh
mẽ về bài thơ: Trong thơ ca cổ, vị trí của câu kết có khi rơi vào một định lệ gò
bó, nhưng cũng nhiều khi đột xuất một cách sáng tạo. Trong thể thơ thất ngôn
tứ tuyệt, tầm quan trọng của câu kết được nhân lên nhiều lần để dồn cho ý
thơ thành một mũi nhọn sắc sảo, gói trọn một cảm xúc lắng đọng, gây bất
ngờ trong liên tưởng. Hồ Chủ tịch làm thơ tứ tuyệt rất giỏi và đặc biệt câu kết
trong thơ tứ tuyệt của Bác vừa có sức nóng về tư tưởng, vừa mang ý nghĩa
độc đáo về mặt nghệ thuật.
Với các thể thơ tự do, câu kết thúc không có một vị trí xác định và cũng
không bị ràng buộc theo một quy tắc gò bó nào. Người viết có thể rộng rãi để
suy nghĩ, sáng tạo qua phần kết thúc. Bài thơ Cái giếng đầu làng của Tế
Hanh kết thúc một cách độc đáo, bất ngờ, thâu tóm toàn bộ cảm xúc lại, dồn
vào nơi sâu thẳm của lòng căm thù. Tâm điểm của bài thơ cũng nằm chính
ngay ở phần kết thúc. Có kết thúc đúc lại như một phương châm hành động
đanh thép, quyết liệt:
Gió hôm nay là bão nổi ngày mai
Trời chớp giật tất đến ngày sét đánh.
Có những kết thúc tưởng như đơn giản, nhưng thực ra, tuy với một vài
từ giản dị, đã khái quát cả nội dung của bài thơ. Tố Hữu trong các bài Hãy
nhớ lấy lời tôi và Êmily con đều kết thúc theo cách đó. Mở đầu bài thơ Hãy
nhớ lấy lời tôi, Tố Hữu đã từ cuộc đời Nguyễn Văn Trỗi đúc kết thành những
suy tưởng khái quát:
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con người như chân lí sinh ra.
Cuộc đời ấy và con người ấy đã làm xúc động trái tim hàng triệu người.
Đối mặt với kẻ thù, người anh hùng đó ở cái thế rất cao. Bên cạnh hình ảnh
của một con người phi thường là một con người thân quen trong vẻ đẹp bình
dị. Anh đã đi vào lịch sử, vào đời sống tâm hồn của dân tộc như những dòng
thơ mở đầu khẳng định. Và cũng giản dị như chân lí lời anh nhắn gọi:
…Vì Tổ quốc hi sinh
Như đời Anh, người thợ.
Cái kết thúc mộc mạc nhưng rất khỏe và sâu sắc, tương ứng với phần
mở đầu. Con người đang làm nên lịch sử chính là người anh hùng của quần
chúng, người con của giai cấp công nhân.
Thơ có nhiều cách mở đầu và cũng có nhiều cách kết thúc. Cái kết thúc
hay là kết thúc có phần bất ngờ nhưng rất đúng lúc và ở vào một vị trí không
thể khác được của bài thơ, có tác dụng đóng lại một quá trình và mở ra trong
người đọc những suy tưởng, những liên hệ mới.
Những ý kiến trên chủ yếu đè cập đến nhiệm vụ của kết cấu trong việc
tổ chức nội dung thi ca. Nhà thơ đồng thời cũng sử dụng nhiều biện pháp kết
cấu hỗ trợ để làm nổi lên chủ đề tư tưởng tác phẩm. Một vài dạng phổ biến và
dễ xác định về cấu tạo hình thức như lối kết cấu trùng điệp, kết cấu vòng tròn,
kết cấu song song, kết cấu đối đáp, kết cấu tượng trưng, kết cấu theo đường
dây sự kiện, v.v…
KẾT LUẬNNhững năm qua, một thời đại mới đã đến với thi ca; lí tưởng và sức
sáng tạo mới đã đem lại cho nền thơ cách mạng trẻ tuổi những phẩm chất
hoàn toàn mới mẻ. Thơ ca cách mạng được nuôi dưỡng từ những nguồn
mạch phong phú của đời sống, từ trong cuộc đấu tranh của hàng triệu quần
chúng lao động để thực hiện lí tưởng cao đẹp của chế độ xã hội mới nên luôn
giàu tính chất chiến đấu, giàu hoài bão và ước mơ. Trải qua những chặng
đường phát triển, vượt qua những thử thách, sức sống của nền thơ càng tỏ
ra dồi dào, vững mạnh và trên hướng đi lên không ngừng. Thơ ca những năm
đầu cách mạng, thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp, thơ ca đấu tranh
thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thơ ca những năm chống
Mĩ cứu nước, thơ ca cách mạng miền Nam, những chặng đường thơ, những
chặng đường cách mạng. Sự gắn bó chặt chẽ giữa thơ ca và nhiệm vụ đấu
tranh cách mạng đã nói lên trách nhiệm và vinh dự lớn lao của thơ ca khi thực
sự đã trở thành một nhu cầu tinh thần, một vũ khí chiến đấu của quần chúng
cách mạng. Ở mỗi chặng đường thơ, thành tựu có thể ở những mức độ khác
nhau, nhưng tất cả đều được soi rạng từ một lí tưởng, bồi đắp từ những chất
liệu phong phú của hiện thực cách mạng và được sáng tác theo những
nguyên tắc và tiêu chuẩn thẩm mĩ gần gũi thống nhất. Quá trình phát triển của
ba mươi năm thơ cách mạng cũng là quá trình hình thành và lớn mạnh của
nền thơ xã hội chủ nghĩa trên một thực tế cách mạng vĩ đại và với một truyền
thống phong phú của hàng ngàn năm thi ca của dân tộc.
I. Phẩm chất cũng như sức sống của một nền thơ trước hết và chủ yếu
là ở lí tưởng mà nó phụng sự như một mục đích, một cứu cánh. Lí tưởng ấy
không phải chỉ là một sức mạnh lay động, thúc giục ở bên ngoài mà thôi thúc
tự bên trong quá trình sáng tạo như một sức mạnh thiêng liêng và cao quý. Lí
tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là lẽ sống và mơ
ước cao nhất mà tự hàng ngàn năm những nhà thơ lớn của nhiều thế kỉ, vì bị
những giới hạn lịch sử không nhận thức được; nhưng tất cả những câu hỏi
chất chứa đau thương, những mơ ước “xa xôi” của quá khứ đều có thể tìm
thấy lời giải đáp trọng hiện tại. Đỗ Phủ đã từng mong ước có tòa nhà rộng lớn
hàng trăm gian để chia sẻ niềm vui và ấm cúng cho nhiều gia đình. Bạch Cư
Dị cũng mơ ước có áo rộng hàng muôn dặm đem ủ ấp cho cả bốn phương để
không một ai phải chịu cảnh rét mướt. Những bất hạnh của người phụ nữ
trong xã hội cứ luôn giày vò đến đớn đau tấm lòng Nguyễn Du, nhưng tác giả
không tìm thấy lời giải đáp “Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”. Những lời
nguyền rủa kẻ thống trị giàu có mà những người thợ dệt Xilêzi, trong thơ
Hainơ, đang dệt vào tấm khăn liệm đất nước cũng là lời nguyền rủa, tố cáo
của muôn người nghèo khổ, đối với chế độ xã hội cũ. Một câu hỏi, một lời
nguyền rủa, một ước mong... tất cả chỉ được giải đáp và thực hiện trong,
quan hệ xã hội mới. Lí tưởng xã hội chủ nghĩa là chất thép, là cái lõi bền vững
tạo nên cốt cách của thơ ca xã hội chủ nghĩa. Lí tưởng xã hội chủ nghĩa trước
hết là lẽ sống của nhà thơ, lẽ sống thiêng liêng mà khi cần thiết phải được
bảo vệ bằng xương máu, bằng cuộc đời riêng của mỗi người. Lí tưởng đó
cũng là lẽ sống, là hiện thân sinh động của những gì đẹp nhất mà thơ ca đang
ước mong, đang thực hiện. Lí tưởng đó là tính đảng, nguyên tắc của sáng
tạo.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định là ở chỗ trong nền thơ xã hội chủ nghĩa
các nhà thơ có ý thức rất sáng tỏ, rất thiết tha đem thơ ca phục vụ cho lí
tưởng mới. Lập trường tính đảng là ở chỗ đứng, là điểm xuất phát và cũng là
mục đích hướng tới của mọi hoạt động sáng tạo. Nhưng bài thơ không chỉ
được viết ra do xúc động của những tình cảm riêng tư hoặc do những phản
ứng tự nhiên trước những sự kiện của đời sống. Một bản lĩnh sáng tạo vững
vàng, quan điểm nhận thức đúng đắn, sáng suốt là những phẩm chất không
thể thiếu được của những nhà thơ cách mạng. Do đó, một điều dễ xác nhận
là những nền thơ xã hội chủ nghĩa thường có tính khuynh hướng rõ rệt bộc lộ
ở nhiệt tình đấu tranh cho những mục đích chính trị cao đẹp, ở tầm cao về tư
tưởng, ở sự nhất quán, rất nhất quán trong nội dung. Phẩm chất trên chi phối
đến cảm hứng sáng tạo cũng như nhiều mặt trong nội dung sáng tác thi ca. Lí
tưởng ấy không phải chỉ là sự phản ánh lại thực tại để hướng tìm một giải
thoát chủ quan nào đấy như một số khuynh hướng thơ ca lãng mạn. Thơ ca
xã hội chủ nghĩa cũng không dừng lại và tự xem là đủ trong việc miêu tả tái
hiện với tinh thần châm biếm, phê phán một số hình ảnh ngang trái, đen tối
trong đời sống như thơ ca hiện thực tố cáo. Phải nói lên được ước mơ và
khát vọng, phải nói lên được sự nhận thức và hướng vận động mang tính quy
luật phát triển cách mạng. Thơ ca xã hội chủ nghĩa thể hiện khá rõ rệt sự kết
hợp giữa hai mặt lí tưởng và hiện thực, một phẩm chất mà nhiều nền thơ
trong quá khứ chưa vươn tới được. Tuy không miêu tả đời sống theo lối tự sự
thơ trữ tình phải nắm bắt được những hình ảnh và chất liệu trực tiếp của đời
sống hiện thực mang ý nghĩa điển hình làm cơ sở cho sáng tác. Hơn thế nữa,
mỗi trạng thái cảm xúc suy tưởng đều bộc lộ bên trong những căn cứ cụ thể
của hiện thực đời sống, vốn là lí do, là cơ sở cho cảm xúc suy tưởng. Chính
đó là những phẩm chất quan trọng phù hợp với yêu cầu miêu tả “chân thực”,
“lịch sử cụ thể” hiện thực trong sự vận động cách mạng. Cần phải xác định rõ
khả năng và giới hạn, cái chung và cái riêng của thơ với tinh thần mẫn cảm,
tinh tế để nắm vững đặc điểm của thơ xã hội chủ nghĩa trong tính đặc trưng
về thể loại.
Sự hài hòa giữa lí tưởng và hiện thực trên cảm hứng sáng tạo luôn
vượt lên phía trước cùng với năng lực nhận thức và đoán định tương lai một
cách sáng suốt, phải là phẩm chất của nền thơ cách mạng. Thơ ca xã hội chủ
nghĩa luôn có cảm hứng nồng nàn về tương lai với chủ nghĩa lạc quan cách
mạng sâu sắc. Một thời đại đi xuống, một tình trạng xã hội ngột ngạt bế tắc
nhưng không có dự kiến về tương lai cho dù một tương lai có phần mỏng
manh. Phong trào thơ mới nói nhiều đến quá khứ với cảm hứng lãng mạn khi
tha thiết đắm say, khi ngậm ngùi luyến tiếc. Họ thoát li hiện tại và đồng thời
cũng không thấy rõ tương lai. Ngược lại trong cảnh sống ngột ngạt tù đày
nhiều nhà thơ cách mạng được vũ trang bằng “đôi mắt thần chủ nghĩa” lại dự
cảm về tương lai và niềm tin lạc quan và đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng.
Nhật kí trong tù của Hồ Chủ tịch, Từ ấy của Tố Hữu là những sáng tác tiêu
biểu cho những phẩm chất tốt đẹp đó. Trong thơ Bác có nhiều cách nói đến
tương lai mà một trong những biểu tượng rực rỡ nhất là mặt trời hồng, là
những buổi bình minh đang hiển hiện ngay trong đêm dày mù mịt. Tố Hữu chỉ
ra tương lai trong sáng tươi đẹp cho ngay những cuộc đời nhiều sương gió tủi
cực của người kĩ nữ trong xã hội cũ. Nhà thơ vẽ ra trong tâm trí người già khổ
cực hình ảnh một xã hội công bằng tốt đẹp mai sau…
Một tương lai tốt đẹp được nói đến trong thơ xã hội chủ nghĩa như một
cảm hứng quen thuộc nhưng vẫn luôn mới mẻ vì đó không phải là một ước lệ,
một trang sức cho thi ca mà là quy luật vận động của thực tế đấu tranh cách
mạng được nhận thức trong thơ ca. Thơ ca phải phản ánh được niềm tin và
lòng quyết tâm vươn lên giành lấy tương lai. Tương lai không xuất hiện trong
thơ như một bức tranh toàn cảnh, một dự kiến quy mô, một quy hoạch hoàn
chỉnh mà chủ yếu là ở sức lôi cuốn của những suy nghĩ, luận bàn, sức hấp
dẫn của niềm tin và mơ ước, và phần tươi sáng đẹp đẽ của hình ảnh ngày
mai được tô điểm trên cái nền chất liệu của đời sống hiện tại Làm sao phải
thể hiện được sự vận động biện chứng của tâm hồn phù hợp với sự vận động
biện chứng của quy luật phát triển cách mạng đang từng ngày giành được
thắng lợi. Lí tưởng xã hội chủ nghĩa bộc lộ rõ rệt trong thơ ở nhiệt tình khẳng
định xã hội mới. Nền thơ xã hội chủ nghĩa là khúc ca mới ngợi ca chế độ xã
hội mới kiến lập, nhân dân làm chủ vận mệnh mình, đang từng ngày sáng tạo
ra những kì công mới từ trong những sự kiện long trời lở đất và có từ trong
những công việc ngỡ như bình thường, quen thuộc. Người anh hùng mới
không phải kiểu những nhân vật phi thường, xa lạ đến với cuộc đời từ một
giấc mơ, một huyền thoại mà lớn lên từ dòng sữa ngọt của quần chúng lao
động và thử thách trong những nhiệm vụ đấu tranh thiêng liêng của đất nước.
Những nhân vật anh hùng, những tập thể anh hùng… lí tưởng và tầm vóc của
thời đại đem đến sức mạnh cho cả một lớp người đông đảo… con người bình
thường quen thuộc trở thành lớn lao, vĩ đại. Nhiều nhà thơ đã cùng nói đến
một ý thơ: “Ôm đất nước, những người áo vải. Đã lớn lên thành những anh
hùng” (Nguyễn Đình Thi), “Thần chiến thắng là những người áo vải” (Chế Lan
Viên). Cái vĩ đại đã trở thành một hiện tượng quần chúng, một hiện tượng
phổ biến. Ngay đến lãnh tụ quần chúng cũng không phải là nhân vật siêu
quần, cao xa mà vẫn mang cốt cách và dáng vẻ gần gũi giản dị của quần
chúng lao động. Bác Hồ là một hình ảnh tiêu biểu nhất cho sự kết hợp đó.
Một mặt khác, lí tưởng cao đẹp của cuộc sống đã soi rọi Vào trong
những công việc nhỏ nhặt bình thường một ánh sáng và một cách đánh giá
mới khiến cho ý nghĩa của sự việc bao giờ cũng lớn lao hơn bản thân sự việc.
Khi nói đến một mục đích cao đẹp, một động cơ phục vụ trong sáng thì bất kì
công việc nào cần thiết cho xã hội cũng là vinh quang. Hình ảnh người quét
rác, người chăn bò đã vào trong thơ với vẻ đẹp và tư thế mới. Công việc xây
dựng xã hội mới bao gồm cả những công việc “Dọn tí phân rơi, nhặt từng
ngọn lá… Mỗi hòn than, mẩu sắt cân ngô. Ta nâng niu gom góp dựng cơ
đồ!...”. Mỗi sự việc bình thường là một phân số để tạo nên cái vĩ đại, và bản
thân nó cũng chứa đựng tự bên trong ý nghĩa phục vụ cho một lẽ sống lớn.
2. Sự xuất hiện của hàng loạt những chủ đề lớn với cảm hứng lịch sử
sâu sắc với nhiệt tình công dân nồng nàn ở người viết là một dấu hiệu không
thể thiếu được của nền thơ cách mạng. Khác với những tiếng nói thơ ca yếu
đuối phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn chán của một thiểu số người, khác với
các tác giả chỉ quẩn quanh với những chủ để gọi là “vĩnh cửu” mà thực chất là
trốn tránh nhiệm vụ đấu tranh xã hội và ngày càng mòn mỏi trong một số cảm
xúc chung chung ước lệ. Nền thơ xã hội chủ nghĩa đi trên con đường lớn của
cách mạng, lấy cảm hứng từ trong những sự kiện lịch sử và chính trị, từ trong
những chủ đề lớn về nhiệm vụ công dân, về Tổ quốc, Đảng, lãnh tụ, về lao
động sáng tạo, chiến tranh cách mạng, quan hệ quốc tế. Cảm hứng sáng tạo
chủ quan được nói lên với tinh thần tự hào, với nhiệt tình công dân sâu sắc
với ý thức giai cấp trong vị trí chiến đấu của một người: “Tôi là người thợ lò”,
“Tôi là người chiến sĩ”, “Tôi là bộc phá viên…”. Chỗ đứng khác nhau ấy là
điểm tựa cụ thể để cho những cảm hứng thêm chân thực, sâu sắc Tùy theo
từng giai đoạn cách mạng với những nhiệm vụ lịch sử khác nhau mà những
chủ đề trong thơ cũng khác đi, nhưng bao trùm lên tất cả là hai chủ đề lớn:
chủ đề Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Các nhà thơ phải tạo được những cảm
xúc lớn, nồng nàn và tha thiết về chủ đề Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Ngay
từ năm đầu Cách mạng, Ngọn quốc kì và Hội nghị non sông là những sáng
tác đầu tiên mang cảm hứng và nhiệt tình công dân sôi nổi về chủ đề Tổ
quốc. Nhưng rõ ràng ở thời kì này và ngay cả những năm kháng chiến chống
Pháp, nhiều sáng tác thơ ca chưa gắn được hai chủ đề này làm một trong
một cảm hứng chung về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề là ở chỗ phải viết
về Tổ quốc với ý thức và nhiệt tình cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng như
phải viết về chủ nghĩa xã hội trên mành đất yêu thương tha thiết của tình cảm
dân tộc.
Những chủ đề lớn trong thơ luôn được triển khai, mở rộng, nâng cao.
Trên hai trận tuyến lớn, nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên suốt ba
mươi năm qua đã tạo nên cảm hứng anh hùng ca, chiều cao của suy tưởng
và bề sâu cảm xúc của hàng loạt những sáng tác thơ ở cả hai miền. Nhiệm
vụ sản xuất được khai thác tập trung trên chủ đề lao động. Khi con người luôn
có ý thức làm chủ vận mệnh mình và thực sự đã được giải phóng khỏi những
áp bức về tinh thần và những lao dịch tối tăm cực nhọc thì cảm hứng về lao
động vừa mang ý nghĩa tốt đẹp cao cả nhằm xây dựng đất nước vừa mang
tính chất thôi thúc, hấp dẫn một hoạt động sáng tạo. Bước vào những năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ đề lao động trong thơ được đặc biệt chú ý với
nhiều sáng tác có giá trị.
Những chủ đề lớn trong thơ tạo nên cái cảm xúc tiêu biểu, vừa mang ý
nghĩa điển hình rộng rãi vừa thắm đượm tình cảm cá nhân riêng tư. Tình cảm
của người công dân với Tổ quốc, tình cảm kính yêu Đảng, lãnh tụ, tình đồng
chí, tình đồng bào… Những trạng thái cảm xúc này là những sợi dây ràng
buộc thắm thiết quan hệ giữa người và người trong xã hội mới với tình cảm
yêu thương thông cảm. Những chủ đề lớn và vững trạng thái cảm xuac phổ
biến trong thơ nhiều khi được biểu hiện trên điểm tựa rất vững chắc và thuyết
phục của hình ảnh những con người mới. Tuy không xuất hiện trên nhiều mặt
như kiểu tính cách nhân vật trong tiểu thuyết, nhân vật trữ tình trong thơ
mang những sắc thái riêng vừa bộc lộ rõ nét những đặc điểm khách quan của
nhân vật, vừa được bồi đắp và tô điểm bằng những cảm xúc chủ quan của
nhà thơ. Nhân vật trữ tình trong nền thơ xã hội chủ nghĩa mang nhiều tính
chất khách quan hoặc đó là những kiểu nhân vật tiêu biểu cho một loại người
như anh bộ đội trong thơ Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi những năm kháng chiến
chống Pháp, anh Giải phóng quân trong thơ Giang Nam, Lê Anh Xuân, Thu
Bồn, hoặc đó là những điển hình người thật như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn
Viết Xuân, Út Tịch, Lê Thị Hồng Gấm, Thái Văn A… Chủ đề mới, cảm xúc
mới, nhân vật mới… thực sự đã đem lại cái mới trong thơ.
3. Nền thơ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải giải quyết vấn đề riêng chung.
Khác với tiểu thuyết cũng như các thể loại khác, xu hướng chủ quan hóa
trong thơ trữ tình, cái tôi trữ tình luôn có thiên hướng kéo cảm xúc trong thơ
về địa hạt cái riêng, cái cá biệt. Hơn thế nữa khi nhà thơ lại luôn có những
hứng thú với thế giới riêng tư, với những chiêm nghiệm chủ quan được tô vẽ
bằng nhiều tưởng tượng không thực tế thì khoảng cách giữa nhà thơ và cuộc
sống càng trở nên rõ rệt. Chính đó là một trở ngại làm cho thơ mất đi năng
lực truyền cảm. Thực ra thì vấn đề riêng chung không phải đến nền thơ ca xã
hội chủ nghĩa mới được đặt ra. Trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội, các
nhà thơ trước kia luôn đụng chạm đến một vấn đề phức tạp phải trả lời: chấp
nhận hay phủ nhận đến mức độ nào mối quan hệ với cái chung, với đồng loại,
hay cụ thể hơn là với độc giả. Những nhà thơ tiến bộ đều có sự gắn bó,
thương cảm với những người nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội cũ và tỏ thái
độ bất bình với chế độ thống trị. Vấn đề riêng chung từ trong thơ ca xã hội
chủ nghĩa mang những đặc điểm hoàn toàn mới. Thơ ca của chủ nghĩa xã hội
không chấp nhận cái riêng cá nhân chủ nghĩa, cái riêng lạc lõng, tăm tối, bí
ẩn, trong cảm xúc và suy nghĩ. Và khi những giới hạn về năng lực chủ quan
làm cho một tiếng nói thơ ca dần trở nên lạc điệu thì cái riêng của tâm hồn
thơ cho dù có nhiều ước mong, nhiều thiện chí cũng trở nên xa lạ, không có
ích, không được chấp nhận. Tìm đến với một tiếng nói thơ ca chính là tìm đến
một điệu phong phú của tâm hồn, một sắc thái của tình cảm và tư duy có giá
trị động viên và bồi đắp về tinh thần. Không đáp ứng được yêu cầu đó, thơ ca
không có lí do để tồn tại. Trong thơ ca hiện nay ít có tình trạng trong thơ bộc
lộ sai lầm về một cách nhìn, một cách cảm như một thế giới riêng tư đối lập
với cái chung. Phổ biến hơn là sự không phù hợp, không ăn khớp giữa một
số tác giả tuy vẫn giàu nhiệt tình chủ quan nhưng thực sự tâm hồn thơ đã trở
nên nghèo nàn, lạc điệu. Tuy sáng tác của họ không rơi vào sai lầm về nội
dung tư tưởng, thậm chí bao giờ cũng đúng, nhưng không có gì mới mẻ và
bổ ích.
Bồi đắp cho cái riêng trong thơ là một nhiệm vụ quan trọng. Trước hết
là sự bồi đắp để mỗi nhà thơ có một cái tôi trữ tình phong phú, giàu bản sắc,
bộc lộ ở một tầm suy nghĩ và năng lực cảm xúc, ở tính đa dạng của phong
cách sáng tạo. Sự tham gia tích cực của nhà thơ với tinh thần chiến sĩ ở mũi
nhọn của cuộc sống cũng như những phẩm chất bộc lộ trong đời sống hằng
ngày của cá nhân là những nhân tố có tác dụng trực tiếp đến cái tôi trữ tình
trong thơ, làm cho cái riêng trong thơ thêm giàu có, sinh động.
Buổi đầu khi tham gia nhiệt tình vào nhiệm vụ đấu tranh cách mạng, đôi
lúc người ta cũng dễ có khuynh hướng cực đoan. Tố Hữu cũng đã có lần tâm
sự về điều này. “Cũng có khi đem đối lập “khối đời to” với những tình cảm
riêng chính đáng làm như người cộng sản không cần đến những tình cảm ấy.
Gạt phăng hết những tình riêng nhỏ nhặt
Để tay ghì riết chặt khối đời to.
Trong đấu tranh cách mạng, người cộng sản nhận rõ rằng lợi ích riêng
phải phục tùng lợi ích chung và, nếu cầu, phải tự giác hi sinh cái riêng cho cái
chung. Hiểu và làm như vậy là đúng, song nhưcvậy hoàn toàn không có nghĩa
là người cộng sản vô tình lạnh nhạt với những tình cảm riêng bình thường
của con người; sao lại gạt phăng và sao lại nhỏ nhặt”.
Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung trong thơ cách mạng cũng có
những mặt phù hợp và trùng hợp với cái riêng và cái chung trong đời sống.
Sự phong phú của cái riêng chỉ được bồi đắp và xác lập đầy đủ nhất trong
phạm vi cái chung. Tầm vóc lớn lao của thời đại của dân tộc sẽ đem lại cho
mỗi cá nhân một sức mạnh mới khi mỗi cá nhân thực sự là một là một thành
viên gắn bó tận tụy trong tập thể rộng lớn.
Cái riêng có thể tìm được sự bồi đắp ở cái chung nhưng không thể chỉ
biết tiếp nhận với thái độ thụ động. Con đường từ chân trời một người đến
chân trời tất cả làm sao có thể thực hiện được nếu không có thái độ chủ
động, tích cực tham gia đấu tranh của mỗi cá nhân.
4. Nền thơ ca đòi hỏi xã hội chủ nghĩa phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa truyền thống và sáng tạo.
Vấn đề truyền thống và sáng tạo là một chủ đề lớn luôn được đề cập và
bàn luận đến trong nhiều hội nghị chuyên đề hoặc những cuộc họp mặt về
thơ. Trên những vấn đề này luôn bộc lộ những quan điểm, những cách xử lí
khác nhau của nhiều khuynh hướng thơ ca. Có quan niệm quá nhấn mạnh
trong thơ chiều hướng đi gần và sự thâm nhập qua lại của nhiều nền thơ trên
thế giới để vươn lên trình độ “hiện đại”. Khuynh hướng này xem nhẹ và làm
tiêu vong dần bản sắc của từng nền thơ ca dân tộc. Thơ ca là tiếng nói thầm
kín, thiết tha, là tiếng hát, niềm vui của tâm hồn một dân tộc.
Vẻ đẹp của trí tuệ, của tình cảm cũng như của cả truyền thống nhân
văn lâu đời của một dân tộc ánh lên sắc đẹp trong thơ qua từng vẻ riêng độc
đáo. Hiểu rõ giá trị tinh thần quý báu của dân tộc mà thực chất là do nhân dân
lao động sáng tạo nên, giai cấp vô sản trân trọng phát huy bản sắc dân tộc
trong sáng tạo nghệ thuật cũng như trong thơ ca. Từ sau Cách mạng tháng
Tám, chúng ta luôn trân trọng và tạo điều kiện cho sự phát triển của các thể
loại thơ ca dân tộc. Thơ miền xuôi, thơ miền núi, thơ của các địa phương đều
phát triển. Trong lớp nhà thơ lớn lên với Cách mạng tháng Tám bên cạnh
Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông ta có Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn.
Bên cạnh một Chính Hữu mới mẻ, chắt lọc, ta có Trần Hữu Thung dân gian
thuần phác. Tố Hữu luôn có ý thức tìm tòi học hỏi truyền thống thơ ca dân tộc
và anh là người nhạy bén và mẫn cảm hơn cả với mạch cảm nghĩ và rung
động của tâm hồn dân tộc. Tuy nhiên vấn đề truyền thống dân tộc trong thơ
cho được đặt ra đúng mức trong nhiệm vụ nghiên cứu cũng như hoạt động
sáng tạo. So với các lĩnh vực khác của nghệ thuật dân tộc, thơ ca làm được ít
hơn. Tính dân tộc bộc lộ trong thơ có mặt roc rệt (như vần điệu) nhưng lại
nhiều mặt kín đáo, ít xác định, do đó cũng khó khăn khi tìm hiểu vận dụng.
Một mặt khác, khuynh hướng phát triển của thơ là luôn vượt lên phía trước
với sự đổi mới không ngừng. Đâu là phần thừa kế, đâu là phần sáng tạo… cái
mới cái cũ luôn đặt ra trong thơ như một sự ám ảnh, một thôi thúc. Nhiều khi
chỉ một năm trôi qua, thời gian chưa đủ để ngưng đọng thì một tiếng nói thơ
ca đã trở nên xưa cũ. Nếu cái mới đến trong thơ có phần náo nhiệt với sức
chinh phục của nó, và sự cổ vũ ở mọi người, thì cái cũ đến trong thơ lặng im
đến không ngờ tới. Thực ra thì cái cũ luôn có khả năng hiện diện trong thơ
như một sức ì, một thói quen tiêu cực. Cái mới không đến thì cái cũ cũng
đồng thời xuất hiện; đó là khi ta bắt gặp đến hai lần một khuôn mặt, một cách
nói năng quen thuộc trong thơ. Trong thơ ca Việt Nam những năm gần đây,
vấn đề trên được đặt ra một cách khá bức thiết. Lớp trẻ có một ưu thế là phần
lớn tiếng nói thơ ca của họ đều gần gũi với mạch suy nghĩ và rung động của
thời đại, với cách nói năng trong đời sống. Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa
Điềm… đã đem lại tiếng nói mới mẻ trong thơ ca. Cái mới và cách nói mới
được biểu hiện tự nhiên như chính sức sống của tâm hồn và giọng điệu quen
thuộc của họ. Nhược điểm của lớp trẻ là tiếng nói thơ ca chưa ổn định. Họ
luôn nhạy cảm và có khả năng nói đến cái mới nhưng nội dung thường lại
chưa sâu sắc, chưa bền vững, chưa ổn định.
5. Những phẩm chất tốt đẹp, những đặc điểm mới của thơ ca xã hội
chủ nghĩa đã bắt đầu bộc lộ trong thơ ca Việt Nam hiện đại từ sau những năm
30 khi phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tác
động trực tiếp đến thơ ca. Dòng thơ cách mạng của giai cấp vô sản mở đầu là
thơ ca Xô viết Nghệ – Tĩnh, một phong vào thơ ca quần chúng sôi nổi đã
đánh dấu một bước phát triển mới của thơ ca khi được lí tưởng xã hội tiến bộ
chỉ đạo và cổ võ. Nhà tù, môi trường rèn luyện và đấu tranh cũng là nơi cất
lên những tiếng nói thơ ca giàu ý chí chiến đấu và sức sáng tạo. Tố Hữu có
thể được xem là nhà thơ xã hội chủ nghĩa đầu tiên khi sáng tác đầu tay của
anh hướng vào ca ngợi và khẳng định lí tưởng xã hội mới trên tinh thần căm
giận xót xa và phê phán quyết liệt chế độ xã hội cũ, khi cái riêng của đời anh,
thơ anh có gì khác đâu là một tấm lòng đinh ninh gắn bó, một cảnh đời chung
chăn chung gối với bạn tù nghèo khổ, khi thơ anh từ phần sâu thẳm và bao
quát của đời sống hiện thực chỉ ra một hướng đi, đem lại một lòng tin và cổ võ
ý chí chiến đấu cho thắng lợi ngày mai, khi anh luôn tỏ ra trong sáng tác của
mình trân trọng truyền thống tốt đẹp của dân tộc và có ý thức tìm tòi cái mới,
đảm bảo được thống nhất giữa nội dung và hình thức, giữa tư tưởng và nghệ
thuật.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim…
Cái thời điểm thật có ý nghĩa đó đánh dấu sự bừng sáng của một tâm
hồn và sự gắn bó rất thiết tha tự bên trong của nhà thơ, đời thơ với một lẽ
sống lớn: lí tưởng của Đảng, chân lí của thời đại… Và cũng từ ấy, những
phẩm chất, những đặc điểm mới đã đến với nền thơ mà trước đó chưa thể
có, cho dù những tài năng, thi bá đã vươn lên những đỉnh cao của nghệ thuật
thơ, nhưng vẫn là đỉnh cao của một giai đoạn đã bị vượt qua.
Một hiện tượng rất đáng quý đóng góp vào nền thơ cách mạng là tập
thơ Nhật kí trong tù của Bác Hồ. Tập thơ được viết bằng chữ Hán, thiên về cổ
thi… nhưng thơ Bác không phải là tự nối tiếp giữa quá khứ và hiện tại. Chất
thép tư tưởng trong thơ được tôi luyện từ cuộc đời người chiến sĩ cách mạng
vô sản lão thành, tầm suy nghĩ rộng lớn và sáng suốt luôn bộc lộ trong từng
cấu tứ và hình ảnh thơ, tấm lòng yêu thương nhân đạo thấm đượm và nhuần
nhị, lòng tin sắt đá và cảm hứng nồng nàn về tương lai, sự kết hợp giữa một
mặt trời hồng và một nhành mai thanh khiết, cái vắng lặng của một đêm
khuya và một vầng trăng bầu bạn, nỗi trói buộc của cảnh tù và nìững giấc mơ
giải thoát, tất cả… tất cả hướng về Đảng, về Tổ quốc, về đồng chí thân yêu
với một cảm hứng thi ca sâu sắc.
Nhật kí trong tù và Từ ấy là những viên gạch đầu tiên xây dựng nền
móng cho nền thơ ca cách mạng.
Cách mạng tháng Tám, công cuộc trường kì kháng chiến chống Pháp,
những năm tháng mà đất nước lớn lên như sức trai Phù Đổng, lập những kì
công vang dội cũng là những năm tháng thơ ca vươn lên những đỉnh cao của
chủ nghĩa yêu nước. Tuy nhiên phải nhận rằng nhiều vấn đề trong nền thơ xã
hội chủ nghĩa chỉ được giải quyết tập trung và triệt để nhất ở thời kì miền Bắc
bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gió lộng của Tố Hữu là một thành tựu lớn
của thơ ca xây dựng chủ nghĩa xã hội. Huy Cận đã thành công trên chủ đề
lao động với những sáng tác dạt dào cảm hứng sáng tạo. Trời mỗi ngày lại
sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời đánh dấu một sự chín lại và nở rộ, hồi
sinh và tái tạo của một phong cách thơ giàu có. Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế
Hanh đã giải quyết triệt để vấn đề riêng chung với ý thức mạnh dạn tự phê
phán và những suy nghĩ sâu sắc chân tình. Ánh sáng và Phù sa, Riêng
chung, Tiếng sóng… là những tấm lòng chân thành của người nghệ sĩ đến
với Đảng, là sự ghi nhận giờ phút đoạn tuyệt với cái tôi cá nhân chủ nghĩa
luôn tìm cách ẩn nấp tinh vi trong thơ. Các nhà thơ lớn lên với Cách mạng
tháng Tám cũng tỏ ra sung sức trong những năm xây dựng chủ nghĩa đã hội
như Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Nông Quốc Chấn… trong sáng
tác của mỗi người đã lộ rõ một bản sắc riêng, một phong cách, sáng tạo. Sư
mở rộng và phát triển phong phú của nhiều đề tài quan trọng, cảm hứng lớn
và phấn chấn về Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội đặc biệt trên chủ đề lao động,
những dự kiến to lớn và cảm hứng nồng nàn về tương lai, sự nở rộ của nhiều
phong cách đánh dấu độ chín sáng tạo của mỗi nhà thơ kể từ sau Cách mạng
tháng Tám. Tất cả… là những dấu hiệu, những đặc điểm của thơ ca xây dựng
xã hội chủ nghĩa.
Những năm chống Mĩ cứu nước lại là những năm tráng mà thực tế rất
lớn lao, rất kì vĩ của cuộc chiến đấu của dân tộc đã bồi đắp cho thơ từ nhiều
mặt nhưng cũng là thời kì thử thách nhiều nhất với sáng tác thơ ca. Cả nền
thơ hướng vào sứ mệnh thiêng liêng trong thời điểm có một không hai của
lịch sử. Mỗi nhà thơ đều thử lượng lại sức mình trên chặng đường mới của
cách mạng.
Làm sao có thể biểu hiện được sâu sắc cuộc chiến đấu của dân tộc,
một cuộc chiến đấu được cả loài người tiến bộ ca ngợi, cổ võ và nhiệt tình
ủng hộ. Các lãnh tụ và nhà hoạt động chính trị, các chính khách, nhà báo, văn
nghệ sĩ đã xem cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam là “thước đo cao nhất
của chủ nghĩa quốc tế vô sản, của chủ nghĩa Mac – Lê nin”. Việt Nam là
“tượng trưng cho các dân tộc đang đấu tranh cho tự do”, là “tấm gương cao
nhất về tiềm lực cách mạng”, là “trái tim của thế giới”, là “lương tâm của thời
đại”, là “nhân phẩm và giá trị cao đẹp nhất của con người”. Cuộc chiến đấu
của nhân dân Việt Nam đang tỏa hào quang khắp thế giới. Chúng ta không
thể kể hết những lời nói tốt đẹp và thân thiết của bạn bè, đồng chí. Vấn đề đặt
ra như một câu hỏi, một trách nhiệm nặng nề là thơ ca phải nói lên được tầm
vóc của dân tộc, đặc điểm của thời đại. Một tiếng nói thơ ca thuần cảm xúc
trữ tình cũng sẽ tự hạn chế về nhiều mặt để nói lên cái lớn lao của thực tế
đấu tranh cách mạng. Những năm tháng cả đất nước như một công trường
khổng lồ không ngừng từng giây phút sản sinh ra những điều kì diệu nhất,
những năm tháng đầy ắp sự kiện lịch sử vẻ vang; thơ ca không thể chỉ là
tiếng vọng thiết tha sôi nổi của đời sống bên ngoài. Hiện thực khách quan
phải được phản ánh vào trong thơ trên nhiều mặt sinh động, qua nhiều sự
kiện, hình ảnh tiêu biểu. Thơ trữ tình phải được mở rộng để tiếp nhận chào
đón cuộc sống ào ạt đi vào cửa ngõ nghệ thuật vốn chật hẹp về dung lượng
này.
Cái hướng lớn đi vào đời sống hiện thực đã được mở ra từ sau Cách
mạng tháng Tám lại càng trở nên có hiệu lực và hấp dẫn biết bao qua những
thành tựu của nhiều tác giả đi vào đời sống thực tế như Lê Anh Xuân, Thu
Bồn, Dương Hương Ly, Nguyễn Khoa Điềm… và ở miền Bắc với Phạm Tiến
Duật, Xuân Diệu, Huy Cận, Hoàng Trung Thông, Xuân Hoàng…
Trong ba mươi năm qua, chúng ta có ít nhiều kinh nghiệm đưa chất tự
sự, chất sống trực tiếp vào trong thơ; tuy nhiên đấy vẫn là một vấn đề khó
khăn, một vấn đề dễ thống nhất trên phương hướng nhưng lại có nhiều ý kiến
cần bàn bạc qua thực tiễn sáng tác.
Thực tế đấu tranh cách mạng với những mặt đối lập phức tạp, những
mối liên hệ đa dạng luôn đòi hỏi sự hiện diện của nhà thơ với một thái độ chủ
động để phân tích, lí giải, chứng minh, thuyết phục. Phải nhiệt tình tranh luận
để bảo vệ chân lí sẵn sàng bác bỏ những luận điệu nguy hại của kẻ thù. Thơ
không thể chỉ là bộc lộ cảm xúc, bày tỏ tâm trạng mà cao hơn, nặng nề hơn,
nhà thơ phải có trách nhiệm góp phần giải quyết những vấn đề của đời sống
với sức suy nghĩ và năng lực phán đoán sâu sắc.
Chiều hướng trong thơ những năm gần đây ngày càng được gia tăng,
hơn về chất suy tưởng và thành phần chính luận. Với những tiếng nói thơ ca
nặng về cảm xúc yêu thương như Tố Hữu, Tế Hanh… cũng được tăng cường
nhiều hơn chất suy tưởng và thành phần chính luận. Chế Lan Viên đã viết
nhiều sáng tác mà hình tượng thơ chủ yếu được liên kết, tổ chức lại bằng
những suy tưởng sắc sảo, những lời bình luận trực tiếp gắn với những sự
kiện nóng hổi của thời sự. Phác thảo cho một trận đánh, Một bài thơ diệt Mĩ,
Thời sự hè 72, Bình luận là những sáng tác tiêu biểu mang những đặc điểm
rõ rệt của những năm tháng bốc lửa, cả dân tộc lao vào trận đánh lịch sử rất
quyết liệt, rất vẻ vang. Miêu tả được “cho chân thật, cho hùng hồn” thực tế lớn
lao có những năm chống Mĩ cứu nước đòi hỏi thơ phải giàu cảm xúc, hình
ảnh, phải có những bình luận và suy tưởng sắc sảo. Đối với các nhà thơ khi
bắt vào thể hiện những chủ đề bao quát dân tộc về thời đại hoặc những đối
tượng phong phú sinh động đòi hỏi phải có năng lực tổng hợp, để có khả
năng đáp ứng được yêu cầu miêu tả nhiều mặt của hình tượng thơ.
Mỗi nhà thơ thường sở trường về từng mặt hoặc thiên miêu tả chất
sống trực tiếp, hoặc thiên về cảm xúc trữ tình hoặc thiên về suy tưởng triết lí
hoặc thiên về bình luận chính trị. Do đó cũng có quan niệm cho rằng có
những khuynh hướng trong thơ; như khuynh hướng suy tưởng triết lí mà Chế
Lan Viên là người có nhiều đóng góp, khuynh hướng tăng cường chất sống
trực tiếp mà Xuân Diệu là người nhiều lần đề xướng, v.v…
Thực ra thì không có sự khác nhau về khuynh hướng; có thể có sự
khác nhau về sở trường, năng lực, cách cảm thụ và đi vào đời sống, do đó
hình tượng thơ được khai thác cũng khác nhau về mặt này, mặt khác.
Vấn đề chủ yếu đối với mỗi nhà thơ là nâng mình lên ngang với tầm
thời đại, biết đánh giá lại một cách nghiêm túc mặt mạnh và mặt yếu của mình
trước yêu cầu mới của cuộc đấu tranh cách mạng. Một mặt ra sức bồi đắp,
rèn luyện để cho tiếng nói thơ ca có thêm phẩm chất và năng lực mới phong
phú hơn tiếng nói quen thuộc của mình, một mặt phải đi sâu hơn về phía sở
trường để thêm tinh tế, mẫn cảm, từ đó có thể có những đóng góp riêng.
Thơ ca những năm chống Mĩ cứu nước có tầm cao về lí tưởng, tràn
đầy khí thế cách mạng và tính chiến đấu, thấm đượm không khí anh hùng ca.
Đề tài được triển khai và mở rộng theo nhiều trận tuyến sản xuất và chiến đấu
khác nhau nhưng lại khá tập trung trên những chủ đề và cảm hứng lớn. Nhiều
phong cách sáng tạo và phát triển và nâng cao với tầm vóc với như Tố Hữu,
Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Chính
Hữu… Nhiều tác giả trẻ mới mẻ và độc đáo như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt,
Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm. Đội ngũ những cây bút nữ từ Anh Thơ,
Hằng Phương đến Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý
Nhi… ngày một đông đảo hơn và thống nhất trong tiếng nói mềm mại nhiều
màu sắc.
Những năm chống Mĩ cứu nước cũng là thời gian ấp ủ và đề xuất nhiều
vấn đề lớn về thơ. Mỗi người cầm bút đều suy nghĩ, trăn trở đề tìm cho mình
một hướng phát triển qua việc đi vào đời sống thực tế, học hỏi truyền thống
thơ ca dân tộc, tìm hiểu thơ ca nước ngoài… Vấn đề hiện thực và lí tưởng,
truyền thống và sáng tạo, chung và riêng, nội dung và hình thức, phương
pháp và phong cách dường như đều đang được đặt ra và giải quyết cả về
mặt lí luận lẫn thực tiễn sáng tác.
Thời đại đang chắp cho thơ đôi cánh lớn. Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng và tầm vóc dân tộc đem lại cho thơ tầm cao và hướng bay xa. Hàng
ngàn năm truyền thống thơ ca yêu nước, tiến bộ khiến cho ta có thể tự hào về
quá khứ. Thành tựu ba mươi năm của nền thơ cách mạng trẻ tuổi và sung
sức là một đảm bảo vững chắc và phấn khởi về bước đi của hiện tại. Một
tương lai đi tới đầy hứa hẹn với thơ. Thời gian đang ấp ủ sức sáng tạo và lâm
chín muồi những dự kiến về tương lai.
1996
SÁCH THAM KHẢO- Về văn học thuật (Mac – Engen)
- Về văn học nghệ thuật (Lê nin)
- Về văn hóa văn nghệ
- Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ (Phạm Văn
Đồng)
- Vân đài loại ngữ (Lê Quý Đôn)
- Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn)
– Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập II,III,IV,V.VI)
- Tuyển tập thơ Việt Nam (1945 – 1960)
– Thơ chống Mĩ cứu nước (1965 – 1967)
– Thơ chống Mĩ cứu nước (1965 – 1967)
– Thơ chọn lọc miền Nam (1960 – 1971)
- Hồng Đức quốc âm thi tập
– Thơ quốc âm Nguyễn Trãi
– Thơ chữ Hán Nguyễn Du
- Thơ Hồ Xuân Hương
– Thơ chữ Hán Cao Bá Quát
– Thơ Trần Tế Xương
- Thơ Hồ Chí Minh
- Thơ Sóng Hồng
- Thơ Tố Hữu
– Các tập thơ của các tác giả: Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế
Hanh, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Nông Quốc Chân,
Bàn Tài Đòan, Anh Thơ, Nguyễn Xuân Sanh, Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh
Xuân, Phạm Hổ, Vĩnh Mai, Xuân Hoàng, Minh Huệ, Trần Hữu Thung, Bàng Sĩ
Nguyên, Dương Hương Ly, Phạm Tiến Duật, Thái Giang, Xuân Quỳnh, Bằng
Việt, Ngô Văn Phú, Nguyễn Khoa Điềm.
– Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, với thời
đại ta (Tố Hữu)
- Trên đường học tập và nghiên cứu (I, II) (Đặng Thai Mai)
- Phê bình (Chế Lan Viên)
- Dao có mài mới sắc (Xuân Diệu)
- Đi trên đường lớn (Xuân Diệu)
- Phê bình và tiểu luận (I và II) (Hoài Thanh)
- Đường vào thơ (Lê Đình Ký)
- Thơ ca Việt Nam (hình thức và thể loại) (Bùi Văn Nguyên, Hà Minh
Đức)
- Tục ngữ và dân ca Vệt Nam (Vũ Ngọc Phan)
- Gori bàn về văn học
- Pages choisies (Henri Heine)
- Adam Mickiewicz peflerin de I’avenir
- Bàn về văn học nghê thuật (Bêkhe)
- L’art poétique (Jaques Charpier et Seghers)
- La poésie (Benedetto Croce)
- Réflexious et propositions sur le vers francais (Paul Claudel)
- La poésie pure (Henri Bremond).
- Dun réalime s8ns nvag (Rog aarâud)j
- La préface de Cromwell (Vietor Hugo)
- Hugo poète réaliste (Aragon)
- La poésie lyrique des origines à nos jours (Léon Levrault)
- La réalité, la poésie (Europe 3 – 1966)
- Lí luận văn học, Trữ tình (tập II) (Kơvôzơnhikôp)
- Mĩ học (Hegel)
- Kịch học Hămbua (Lessing)
- Nghệ thuật thơ ca (Aristote)
- Nghệ thuậl thơ ca (Boilau)
- Lao động nhà văn (Xaylin)
- Sơ thảo nguyên lí và lịch sử thơ Nga (Timôphiep)
- Về câu thơ (Kharlap)
- Tâm lí sáng tác văn học (Mikhain Acnauđôp)
- Iông (Platon – Oeuvres colmplètes)
- Valéry (Oeuvres complètes)
- Mélanges sur Nguyễn Du
- Tùy viên thi ngoại
- Văn tâm điêu long
- Thơ Tống
- Thơ Đường
- Thơ Đỗ Phủ
- Les poètes américains (Charles Cestre)
- Textes choisis (Beiêlinxki)
- Entretiens sur I’art d’ écrice (Arsène Soreil)
- Lénine et les problèmes de la littérature susse (Boris Milakh)
- Lịch sử văn học nước ngoài thế kỉ XIX (Elizarôva Kalexnicôp)
- Mac, Ăngghen và những vấn đề văn học (Phrilende)
- Hình tượng nghệ thuật (Đrêmôp)
- Trung Quốc lịch đại văn tuyển (Quánh Thiệu Ngư)
- Nghệ thuật từ ngữ (N. K. Gây)
- Dictionnaire des oeuwes contemporaines
- Dictiounaire de littérature contemporaine.
MỤC LỤCChương 1. Xác định một quan niệm đúng đắn về thơ
I. Xung quanh một định nghĩa về thơ
II. Thơ và văn xuôi
III. Những yếu tố tạo nên chất thơ trong đời sống và văn học
Chương 2. Nhà thơ, cái tôi và nhân vật trữ tình trong thơ
I. Quan hệ giữa nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ
II. Những hình thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ.
Chương 3. Tính khuynh hướng của thơ ca
Chương 4. Cảm xúc và suy nghĩ trong thơ
I. Những đặc điểm và dạng thức biểu hiện của cảm xúc trong thơ
II. Vấn đề suy nghĩ trong thơ
Chương 5. Vấn đề phản ánh hiện thực ở trong thơ
I. Hiện thực đời sống, nguồn sáng tạo dồi dào và vô tận của thơ ca
II. từ cụ thể đến khái quát hóa và từ suy tưởng khái quát đến cụ thể
III. Miêu tả và biểu hiện – tự sự và trữ tình
IV. Từ hiện thực đời sống đến các hình thức lí tưởng và cách điều hòa
trong miêu tả của thơ
V. Khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Nâng cao tính hiện thực
trong thơ.
Chương 6. Truyền thống và sáng tạo trong thơ. –
I. Mấy suy nghĩ về truyền thống dân tộc trong thơ Việt Nam
II. Vấn đề sáng tạo trong thơ
Chương 7. Hình thức của thơ
I. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong thơ
II. Ngôn ngữ thơ ca
III. Nhịp điệu trong thơ.
IV. Kết cấu trong thơ trữ tình
KẾT LUẬN
---//---
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Tác giả: HÀ MINH ĐỨC
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc PHẠM VĂN AN
Tổng biên tập: NGUYỄN NHƯ Ý
Biên tập: KIM ANH
Trình bày bìa: LƯƠNG XUÂN ĐOÀN
Sửa bản in: PHẠM VĂN CẨN
In 1.500 cuốn tại Xí nghiệp in Ba Đình - Thanh Hóa. Giấy phép xuất bản số:
52/143–97 do Cục xuất bản cấp ngày 8 tháng 1 năm 1997. In xong và nộp lưu
chiểu 6/1997.
Recommended