Upload
pham-long
View
63
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bác Hồ với thơ Đƣờng luật
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ DÂN TỘC VIỆT NAM
HỘI THƠ ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
HÀ NỘI - 2016
LỜI THƯA
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Văn hoá cũng là
một mặt trận”. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình Ngƣời đã sử dụng khá nhiều
bài viết bằng các thể loại thơ để hƣớng dẫn, chỉ bảo và
động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết đấu
tranh trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nƣớc, trong đó có nhiều bài đƣợc viết bằng thể thơ
Đƣờng luật.
Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Ngƣời;
Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy Văn hoá
dân tộc Việt Nam, phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí
Minh và Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam tổ chức thành
công Hội thảo khoa học “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật
Việt Nam”.
Với trên 50 bản tham luận công phu và nghiêm túc,
các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà thơ đã cùng
nhau tìm hiểu mối quan hệ giữa Bác Hồ với thơ Đƣờng
luật. Không chỉ nhằm tôn vinh tài thơ lớn, tƣ tƣởng
tình cảm cao đẹp của Bác Hồ mà qua đó còn thấy đƣợc
cách mà Ngƣời đã Việt Nam hoá thành công một di sản
6 | Lời thƣa
văn hoá nổi tiếng của nhân loại thành di sản văn hoá
mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam; một thứ
vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ nƣớc và
dựng nƣớc của nhân dân ta.
Trong một hội nghị khoa học có thể có những ý
kiến khác nhau hay những luận điểm trùng nhau. Tuy
vậy, Ban tuyển chọn đã tiếp nhận đƣợc rất nhiều thông
tin thú vị, rất có ý nghĩa về cuộc đời cũng nhƣ thơ Bác;
Là tài sản quý giá cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung
và cho những ngƣời yêu thơ Đƣờng luật nói riêng có
điều kiện chiêm nghiệm, suy ngẫm và học tập.
Vì điều kiện khuân khổ cuốn sách có hạn, Ban
tuyển chọn xin phép chỉ giới thiệu một số bài viết
làm ví dụ, có lẽ còn phải tiếp tục nghiên cứu và trao
đổi thêm.
Để có đƣợc những tài liệu quý giá mang tính học
thuật và giàu chất nhân văn trong công cuộc Nghiên
cứu bảo tồn và Phát huy văn hoá dân tộc. Hội thơ
Đƣờng luật Việt Nam sẽ tiếp tục tổ chức các cuộc Hội
thảo khoa học về các danh nhân văn hoá dân tộc sẽ trân
trọng kính mời các nhà nghiên cứu, các vị học giả cùng
tham gia.
Trân trọng.
BAN TUYỂN CHỌN
Đề dẫn:
HỘI THÂO BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
GS Hoàng Chƣơng
Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn & Phát huy Văn hóaDân tộc Việt Nam
Trong tác phẩm Văn hóa và đổi mới, cố Thủ tƣớng Phạm Văn
Đồng từng nhận xét: Một trong những tính trội của văn hóa Việt
Nam là khả năng tiếp nhận những cái hay, cái đẹp của các nền văn
hóa khác, không kể đến bất cứ từ đâu, để làm giàu cho mình. Thơ
Đƣờng luật Việt Nam là một bằng chứng hùng hồn cho nhận xét
minh triết đó.
Từ một thể thơ cổ của dân tộc láng giềng Trung Hoa, qua quá
trình tiếp biến văn hóa, dân ta đã biến Thơ Đƣờng luật trở thành một
công cụ hữu hiệu phản ánh trí tuệ Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, một
thứ vũ khí sắc bén chống lại dã tâm xâm lƣợc cũng nhƣ đồng hóa của
những kẻ bá quyền trong cái dân tộc đã sản sinh ra nó. Và một trong
những con ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất góp phần biến Thơ Đƣờng
luật thành một thể thơ truyền thống Việt Nam là Bác Hồ vĩ đại của
chúng ta.
Hôm nay chúng ta hội tụ về Bảo tàng Hồ Chí Minh lịch sử thực
hiện Hội thảo mang tên “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật Việt Nam” do
Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam
phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh và Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam
tổ chức. Thay mặt Ban tổ chức, tôi nhiệt liệt chào mừng các vị đại
biểu, chào mừng các nhà khoa học, nhà thơ, hội viên Hội thơ Đƣờng
8 | GS Hoàng Chƣơng
luật Việt Nam đã gửi đến Hội thảo hơn 50 bản tham luận công phu,
nghiêm túc.
Mặc dù đã có hàng trăm bài viết về tập thơ “Nhật ký trong tù” và
nhiều bài thơ viết bằng thơ Đƣờng luật theo thể thơ tiêu biểu là thất
ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt
của Bác Hồ trên nhiều quyển sách, tờ báo trong nhiều thập kỷ qua,
nhƣng dƣờng nhƣ chƣa có một Hội thảo khoa học chuyên đề về nội
dung: “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật”. Đây cúng là một trong những
hoạt động thiết thực kỷ niệm 125 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, đồng
thời nhằm thiết thực hƣởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh. Tìm hiểu mối quan hệ giữa Bác Hồ
với thơ Đƣờng luật, không chỉ nhằm tôn vinh tài thơ lớn, tƣ tƣởng tình
cảm cao đẹp của Bác Hồ mà qua đó chúng ta còn tìm hiểu đƣợc cách
mà Ngƣời Việt Nam hóa thành công một di sản nổi tiếng của dân tộc
Trung Hoa, biến nó thành một di sản văn hóa đậm bản sắc văn hóa
Việt Nam, một thứ vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ nƣớc và
dựng nƣớc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử.
Nói đến đề tài “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật”, trƣớc hết là chúng ta
nghĩ ngay đến tập thơ “Nhật ký trong tù”. Đây là tập thơ nổi tiếng của
Bác với 133 bài thơ Đƣờng luật viết hoàn toàn bằng chữ Hán đƣợc
chính ngƣời Trung Quốc đánh giá đã đạt đến tầm cao và chiều sâu của
một thứ thơ Đƣờng luật chính hiệu. Bởi thế “Nhật ký trong tù” không
những đƣợc ngƣời Việt Nam, ngƣời Trung Quốc ƣa thích mà độc giả
nhiều nƣớc khác trên thế giới cũng ƣa thích.
Theo tôi đƣợc biết đã có gần 10 nƣớc dịch và phát hành tập thơ
“Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch. Tôi có may mắn đƣợc trực tiếp
tham gia tổ chức và chủ trì Hội thảo Nhật ký trong tù tại Rumani vào
giữa tháng 8 năm 2005. Dịch giả tập thơ này ra tiếng Rumani là nhà
văn Constantin Lupeanu đã từng là Đại sứ tại Việt Nam và Phó đại sứ
tại Trung Quốc, ông đã dịch trực tiếp tập thơ của Bác Hồ từ nguyên
bản chữ Hán ra chữ Rumani. Một điều rất đỗi ngạc nhiên là các nhà
văn Rumani đã cảm nhận đƣợc hình thức thơ Đƣờng và nội dung sâu
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 9
sắc trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chủ Tịch. Có lẽ những ngƣời
Châu Âu khác và những ngƣời Châu Mỹ la tinh cũng tiếp nhận Nhật
ký trong tù của Bác Hồ nhƣ vậy. Chủ tịch Hội nhà văn Rumani nói:
Hồ Chí Minh nhƣ hoa sen từ bùn đất vƣơn lên.
Xin trích đọc hai bài ngắn trong Nhật ký trong tù đã dịch sang
tiếng Rumani:
Bài Nghe tiếng giã gạo
Sunetul Decorticaru/0rezului
Cindedecorticat, orezul
Dar/dupa acea/bobul e ca bumbacul de/alb
Asa e si omul in lumea asta mare
Necazul il pefae jad de valoare
Dịch: Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công
Bài: Nửa đêm:
Ngủ thì ai cũng nhƣ lƣơng thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền
Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
Dịch: Miez de noapte
Sunt toti bawrrbati curati Sibuni in somn
Cint se trezessc, se-mpart in răi si buni
Ei nu prin nastere sunt răi si buni
Totul, tine de educatia pentru om
Không những tại Rumani, tại Liên Xô và các nƣớc Đông Âu cũ
cũng nhƣ tại Tây Âu, Châu phi, Cu Ba và Châu mỹ la tinh, tập Nhật
ký trong tù cũng đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích. Dù đƣợc viết bằng chữ
10 | GS Hoàng Chƣơng
Hán, trong hình thức một thể thơ vốn của dân tộc Trung Hoa, nhƣng
không ai nghĩ nó là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, mà là sản
phẩm đặc sắc của văn hóa Việt Nam, của một trong những con ngƣời
Việt Nam tiêu biểu nhất, một trong những nhân cách Việt Nam đẹp
và hấp dẫn nhất.
Đó là tập Nhật ký trong tù với bạn đọc thế giới, còn đối với ngƣời
Việt Nam chúng ta, Nhật ký trong tù là một trong những tác phẩm văn
học đƣợc quan tâm nhiều nhất, đƣợc tìm đọc rộng rãi nhất, mặc dù
phần lớn ngƣời đọc phải thƣởng thức tác phẩm qua các bản dịch.
“Nhật ký trong tù” còn đƣợc nhà soạn chèo Trần Đình Ngôn
chuyển lên sân khấu chèo với tên gọi “Những vần thơ thép” và Nhà
hát chèo Việt Nam đã diễn rất thành công. Vở chèo đã đƣợc nhiều vị
lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc và nhân ta rất yêu thích.
Rõ ràng “Nhật ký trong tù” đã trở thành một hiện tƣợng văn học
thú vị, thậm chí bí ẩn, khó giải thích nổi vì sao khi một lãnh tụ cách
mạng Việt Nam nhƣ Hồ Chủ Tịch lại rất thành công trong thể thơ
Đƣờng luật, một thể loại văn học bác học có niêm luật rất chặt chẽ, rất
khắt khe và ngôn từ cực kỳ chau chuốt của ngƣời Trung Hoa. nhà thơ,
nhà soạn kịch Quách Mạt Nhƣợc, một nhà văn hóa lớn của Trung
Quốc cho rằng tập thơ “Nhật ký trong tù” là một đỉnh cao của Đƣờng
thi hiện đại, trong đó có một số bài thơ rất hay, nếu nhƣ đặt lẫn vào
trong tập thơ của những thi nhân cự phách đời Đƣờng, đời Tống thì
cũng khó phân biệt đƣợc.
Để giải thích điều này, chúng ta cần nhìn lại về quá khứ để thấy
đƣợc nền tảng văn hóa tinh thần của Bác Hồ. Khi còn là cậu bé
Nguyễn Sinh Cung, Bác đã đƣợc cha là nhà Hán học Nguyễn Sinh Sắc
trau dồi cho nhiều kiến thức về văn hóa Trung Hoa và Đƣờng thi cùng
với kiến thức và tình yêu văn hóa Việt Nam và thi ca Việt Nam.
Bác lại đƣợc nhà thơ lớn, nhà soạn tuồng lớn của dân tộc là Đào
Tấn yêu mến và dìu dắt. Vốn Hán học và vốn văn hóa dân tộc hòa
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 11
nhuyễn trong tâm hồn Bác Hồ từ thời thơ ấu và tuổi thanh niên là nền
tảng văn hóa, là hành trang văn hóa trên con đƣờng Cách mạng của
Bác, giúp Bác dù có tiếp xúc, có chịu ảnh hƣởng văn hóa Âu, Mỹ,
nhƣng văn hóa dân tộc, trong đó có vốn Đƣờng thi vẫn hiện hữu và đã
tỏa sáng trong thơ ca của Bác.
Cũng nhƣ Nguyễn Du, Đào Tấn… đã Việt Nam hóa hoàn toàn
văn học cổ của Trung Hoa, thơ Đƣờng luật của Hồ Chủ Tịch đƣợc thể
hiện theo nhịp điệu và màu sắc Việt Nam, mang tƣ tƣởng, tâm hồn
Việt Nam, dù là các bài thơ nổi tiếng trong “Nhật ký trong tù” hay các
bài thơ đƣợc làm sau này, tiêu biểu nhƣ bài thơ tứ tuyệt Nguyên tiêu
viết bằng chữ Hán đã đƣợc dùng làm đề từ cho đêm thơ Nguyên tiêu
độc đáo trên toàn cõi Việt Nam thống nhất:
Kim dạ Nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Hoặc bài ngũ ngôn tứ tuyệt nhƣ lời ứng khẩu bằng tiếng Việt, kêu
gọi thế hệ trẻ vững chí bền lòng trong lao động sáng tạo vì đất nƣớc:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và nấp biển
Quyết chí cũng làm nên
Hồ Chủ Tịch đúng là nhà thơ lỗi lạc trong lĩnh vực Đƣờng thi ở
Việt Nam đƣợc cả thế giới biết đến và tôn vinh. Mới đây nhất, tháng
10 năm 2015, nƣớc Anbani lại công bố bản dịch tập “Nhật ký trong
tù” và có lẽ tập thơ này sẽ còn tiếp tục đƣợc dịch ở những nƣớc khác.
Trên đây chúng tôi điểm vài nét sơ lƣợc về thơ Đƣờng luật của
Bác Hồ, coi nhƣ gợi mở để các nhà nghiên cứu tiếp tục bàn sâu hơn:
12 | GS Hoàng Chƣơng
chúng ta sẽ đi sâu phân tích việc Bác Hồ học tập, tiếp thu thơ Đƣờng
luật, sử dụng nó nhƣ một thứ vũ khí trong hoạt động Cách mạng của
ngƣời, kết nối nó với tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam, để biến
nó trở hành một thứ di sản đậm bản sắc Việt Nam.
Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào nói rằng, với Bác, thơ Đƣờng
luật đã Việt hóa thành công, đã trở thành một di sản văn hóa của dân
tộc Việt Nam.
Ban tổ chức Hội thảo rất vui mừng khi thấy nhiều tham luận rất
hay, rất sâu sắc của quý vị đã in trong tập tƣ liệu Hội thảo.
Xin cảm ơn quý vị đã nhiệt tình tham gia Hội thảo. Chúc Hội
thảo thành công.
Hà Nội, 23/10/2015
THƠ ĐƯỜNG LUẬT CÛA HỒ CHÍ MINH
TRONG “NHẬT KÝ TRONG TÙ”
GS – AHLĐ - Vũ Khiêu
Tôi hoan nghênh sáng kiến của Giáo sƣ Hoàng Chƣơng qua việc
tổ chức cuộc Hội thảo về Bác Hồ với thơ Đƣờng luật. Trong thời
gian ở trong nƣớc, Bác Hồ đã làm nhiều bài thơ giản dị để chúc nhân
dân ta trong dịp Tết Nguyên đán và nhiều câu thơ, bài thơ động viên
nhân dân ta lao động và chiến đấu. Những bài thơ đó ít nói về bản
thân Bác. Muốn hiểu đƣợc những cảm xúc sâu sắc và những suy tƣ
thầm lặng của Bác thì phải tìm tới những bài thơ mà Bác đã ghi lại
nhƣ những mẩu nhật ký của bản thân mình. Chúng ta đã không đƣợc
thấy rõ, nếu nhƣ các đồng chí lãnh đạo ở bên cạnh Ngƣời không tha
thiết yêu cầu Bác cho phổ biến tập Nhật ký trong tù.
Trong cuộc Hội thảo hôm nay, tôi xin phép đƣợc phát biểu đôi
điều cảm nghĩ của bản thân tôi sau khi đọc những bài thơ Đƣờng luật
của Bác.
Bác khiêm tốn chỉ cho mình là ngƣời ghi nhật ký chứ chẳng phải
làm thơ nhƣng nhật ký ấy lại viết theo một thể loại khó nhất là thơ
Đƣờng. Theo Quách Mạt Nhƣợc, nhiều bài trong đó có thể xếp ngang
những bài thơ Đƣờng hay nhất.
Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh đƣợc dịch ra tiếng Việt. Các bản
dịch dù chƣa thể hay bằng nguyên tác, nhƣng đã ngọt ngào nhƣ tiếng
hát dân gian, thanh cao nhƣ cốt cách dân tộc.
14 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu
Thành công ấy là sản phẩm của bao công phu bền bỉ trong nhận
thức cuộc sống và trau dồi nghệ thuật. Nó bắt nguồn từ những bài
giặm Nghệ Tĩnh, những bài hát dân ca hay nhất, đã sớm cùng với lời
ru và sữa mẹ rót vào tâm hồn ấu thơ của Hồ Chí Minh.
Không phải Hồ Chí Minh ở trong tù mới biết đến thơ Đƣờng qua
tập Thiên gia thi. Ngay từ những ngày còn nhỏ, sống bên cha, Ngƣời
đã nghe cha và bè bạn của cha hàng ngày đọc thơ và làm thơ. Ngƣời
đã thuộc lòng không ít những bài thơ của Trung Quốc và Việt Nam.
Không chỉ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Thức mà còn Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm… đã để lại trong tâm hồn
Ngƣời những cảm hứng thi ca đẹp nhất.
Từ ngày ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc (1911), Hồ Chí Minh đi vào
thế giới bao la của văn học thế giới, nhất là văn học phƣơng Tây. Qua
đó, Ngƣời tiếp thu đƣợc sự uyên bác về kiến thức, sự trong sáng trong
hành văn, sự tinh tế trong thể hiện. Không có quá trình công phu tích
lũy và rèn luyện ấy, thì không dễ dàng có đƣợc một tập thơ cao cả về
tƣ tƣởng và trau chuốt về nghệ thuật nhƣ Nhật ký trong tù.
1. Xiềng xích và tự do
Nhà tù đã đặt Hồ Chí Minh trƣớc một hoàn cảnh chiến đấu mới.
Một trận cuồng phong đã “cản ngƣợc cánh chim bằng” và con ngƣời
tự do đã sa vào xiềng xích.
Trong cái nhà tù man rợ này, mọi xiềng xích đã đƣa ra để trói
buộc một con ngƣời, nhất đây lại là con ngƣời đã suốt đời lấy tự do
làm lẽ sống, suốt đời chiến đấu nhằm đập tan mọi xiềng xích cho cả
nhân loại và cho mỗi con ngƣời.
Sự vật lộn giữa tự do và xiềng xích lại diễn ra trong một hoàn
cảnh đầy những điều ngang trái và từ đó nó đã tạo nên những nét
tƣơng phản tô đậm thêm sự cao cả của tự do và sự tàn bạo của xiềng
xích. Hồ Chí Minh - con ngƣời đã thống nhất ở bản thân những tinh
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 15
hoa của cả nhà thơ và nhà cách mạng - đến nay lại tự phân đôi thành
thân thể và tinh thần.
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao …
Thân thể này, chúng có thể hành hạ nhƣng tinh thần này thì không
gì khuất phục nổi:
Nghĩ mình trong lúc gian truân,
Tai ƣơng rèn luyện tinh thần thêm hăng.
Với tinh thần ấy, Hồ Chí Minh biến tai ƣơng thành môi trƣờng
rèn luyện. Cƣờng bạo của nhà tù càng nén xuống thì khí phách của
anh hùng càng vùng lên. Xiềng xích càng muốn trói buộc con ngƣời
và dập tắt mọi thi hứng thì tinh anh của con ngƣời tự do càng phát
tiết ra ngoài và kết lại trong thơ.
Nhật ký trong tù đã phản ánh sâu sắc và sinh động những sự kiện
từ ngày Hồ Chí Minh bị bắt ở Túc Vinh và trải qua 14 tháng giam
cầm, qua gần 30 nhà tù của 13 huyện.
Trong tù thì ngày mang gông, đêm cùm chân. Giải đi thì tay bị
trói, cổ mang vòng xích, dầm mƣa, dãi nắng, trèo núi qua truông…
Sống trong tù thì thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu không khí. Ban đêm thì
“ngồi trên hố xí để chờ sáng”. Buổi sáng thì đi đổ thùng và quét nhà
giam. Đã thế còn bị hành hạ bởi muỗi, bởi rệp, bởi ghẻ lở.
Thơ của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở việc mô tả những hiện
tƣợng của hoàn cảnh một ngày trong tù bằng nghìn thu ở ngoài xã hội.
Giá trị hiện thực của nó còn ở chỗ mỗi hiện tƣợng nêu lên là một tâm
trạng. Đối với con ngƣời phong phú về tâm hồn và đa dạng về tình
cảm nhƣ Hồ Chí Minh những ngày trong tù là những ngày có oán, có
thƣơng, có đau xót, có uất hận, có u sầu.
Nghĩ đến nhiệm vụ dở dang của mình, lòng chiến sĩ bừng lên
nhƣ lửa cháy:
16 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu
Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh,
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận.
Cái u sầu tiếp theo niềm uất giận, giống nhƣ bóng đen của cây
đa ngoài cửa ngục, cứ đêm ngày trùm lên nhà lao, trùm lên thân
phận con ngƣời:
Bóng đa đè nặng nhà lao,
Đêm sao lặng ngắt, ngày sao tối sầm!
Ƣu sầu và uất giận còn nặng nề hơn nữa trong lúc ốm đau:
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn.
Không khóc mà hát. Tiếng hát đó đã biến cái bất hạnh thành niềm
tin. Với sự sáng suốt và chủ động của con ngƣời, cái bi đát (le
tragique) trở thành cái hài hƣớc (le comique). Cái trữ tình trong thơ
chứa đựng thêm một nội dung mỉa mai châm biếm và từ đó lại vang
lên một tiếng cƣời kiêu hãnh và khinh bỉ của một ngƣời đứng trên cao
nhìn xuống.
Không khóc mà hát. Đêm tàn rồi hửng sáng, đông qua rồi xuân
sang, khổ hết thì vui đến… Với tinh thần ấy, tác giả nhìn mọi khổ cực
của mình và mọi hành vi của kẻ địch với một cái nhìn kiên nghị và lạc
quan. Bọn cai ngục dùng dây thừng để trói thì Ngƣời coi nó giống nhƣ
“Tua đai quan võ bằng kim tuyến”. Khi chúng thay dây thừng bằng
xích sắt thì Ngƣời lại thấy “Mỗi bƣớc leng keng tiếng ngọc rung”.
Không khóc mà hát. Tiếng hát đó trở thành những bài thơ hào
hứng và thiết tha hƣớng về Tự do, ngƣời tự do, cảnh tự do, quyền tự
do, bầu trời tự do… mƣời ba lần Ngƣời nhắc đến tự do. Đã là ngƣời tự
do thì “Mặc dù bị trói chân tay” vẫn vui đƣợc với cảnh “Chim ca rộn
núi, hƣơng bay ngát rừng”. Đêm không ngủ đƣợc, mỗi lúc viết xong
một bài thơ cũng chính là lúc nhà thơ “Nhòm qua khe cửa ngắm trời
tự do”.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 17
Mặc dù bị gông cùm trong ngục, nhƣng khi vừa chợp mắt, con
ngƣời tự do đã thấy “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” hoặc “Mơ
thấy cƣỡi rồng lên thƣợng giới”.
2. Cá nhân và cộng đồng
Trong “Nhật ký trong tù”, khát vọng lớn nhất là khát vọng tự do,
đau khổ lớn nhất là đau khổ của nhân loại. Ở đây cả đến cái vui sâu xa
và cái buồn thầm lặng cũng man mác tình ngƣời.
Đêm đông lạnh, Ngƣời nhìn những bạn tù “Gối quắp, lƣng còng
ngủ chẳng an”. Có ngƣời đã lấy những trang sách bồi lại thành mảnh
chăn bằng giấy để đắp tạm, còn hơn “không đệm không chăn”.
Hồ Chí Minh viết về những con ngƣời chịu đói mà chết, những
ngƣời đau đớn bởi gông cùm còn khốn khổ về tật bệnh. Có ngƣời đêm
qua còn nằm ngủ bên cạnh mình mà sáng nay đã chết. Có ngƣời khổ
quá đâm nhào xuống xe, chạy trốn lại bị cảnh sát bắt lôi về. Có ngƣời
vợ vì chồng trốn lính đã bị bắt giam. Có em bé vừa nửa tuổi đã khóc
oa oa trong tù. Có ngƣời vợ đến nhà giam thăm chồng mà chẳng nói
đƣợc gì với chồng:
Anh ở trong song sắt,
Em ở ngoài song sắt,
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà biển trời cách vực.
Bỗng nhớ đến câu thơ thời xƣa:
Anh ở đầu sông Tƣơng,
Em ở cuối sông Tƣơng.
Dòng sông Tƣơng thăm thẳm giữa hai đầu gợi lên sự chia ly xót
xa và tình yêu thƣơng bát ngát của một cặp tình nhân. Còn ở đây, giữa
bên trong và bên ngoài song sắt là sự cay đắng nghẹn ngào của hai vợ
chồng cùng nhìn nhau mà chẳng nói nên lời. Hai đoạn thơ nói về hai
cảnh ngộ khác nhau nhƣng lại cùng đẹp nhƣ nhau cả lời lẫn ý.
18 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu
Trong những lần bị giải từ nhà ngục này sang nhà ngục khác, Hồ
Chí Minh chứng kiến nhiều cảnh sinh hoạt của nhân dân và ghi lại
những cảm xúc của mình.
Có buổi chiều “Gió sắc tựa gƣơm mài đá núi - Rét nhƣ dùi nhọn
chích cành cây”, Ngƣời phác ra những nét sinh động của một bức
tranh quê thắm đƣợm nhân tình:
Chùa xa chuông giục ngƣời nhanh bƣớc,
Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay…
Sống trên đất của nƣớc đang giam cầm mình, Hồ Chí Minh vẫn
đầy lòng thƣơng mến với nhân dân nƣớc ấy và lo lắng cho đời sống
của họ, khi thấy: “đất khô cằn” và “trời đại hạn”.
Có lúc đi thuyền, hai chân bị trói và treo lên nhƣng khi thấy làng
xóm bên sông đông đúc thì lòng Ngƣời lại thấy “nhẹ thênh thênh”
giống nhƣ “chiếc thuyền chài đang lƣớt sóng giữa dòng sông”. Tình
cảm của Ngƣời phản ánh hoàn cảnh khốn khổ của nhân dân lao động
mà Ngƣời đã từng thấy ở quê hƣơng và ở mọi nơi trên thế giới. Tình
cảm ấy ngày một mãnh liệt, thôi thúc. Ngƣời học tập, suy nghĩ và sáng
tạo, hình thành nên những phẩm chất đặc biệt của một nhân cách. Tình
cảm riêng tƣ ấy vẫn gắn với cuộc chiến đấu mãnh liệt nhằm đem lại
độc lập cho các dân tộc, tự do cho mỗi con ngƣời và văn minh cho cả
nhân loại.
Chính vì lẽ trên mà trong thơ Hồ Chí Minh đã nổi bật lên cả tính
độc đáo của cá nhân và tính phổ quát của cộng đồng khiến Ngƣời
xuất hiện nhƣ một hình tƣợng tuyệt vời, hấp dẫn, sự ngƣỡng mộ và
khâm phục của đông đảo độc giả.
3. Thiên nhiên và nghệ thuật
Nói về thơ thiên nhiên, Hồ Chí Minh từng viết:
Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 19
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Qua lời thơ này tƣởng nhƣ Ngƣời không làm thơ về thiên nhiên.
Không ngờ thiên nhiên lại tràn ngập trong nhiều bài thơ của Ngƣời.
Chỉ có điều là Ngƣời yêu thiên nhiên, nhƣng không dừng lại mô tả
“cái đẹp” của thiên nhiên tách khỏi đời sống xã hội. Trong thơ của
Ngƣời, nếu nhƣ bông hoa cƣời, con chim hót, nắng xuyên vào ngục,
mây trôi trên tầng không… thì đó không chỉ là đối tƣợng xã hội của
nhà thơ mà còn là những cảnh ngộ, những tâm trạng, những phƣơng
tiện tự thể hiện của con ngƣời.
Những lúc cảnh vắng canh khuya, nhà tù đã quạnh hiu, còn quạnh
hiu hơn nữa. Đó là những lúc tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên và
Ngƣời đã viết những bài thơ hay nhất. “Một canh, hai canh lại ba
canh” nằm chẳng ngủ, Ngƣời nhìn ra bên ngoài:
Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,
Nhòm song Bắc đẩu đã nằm ngang.
Lúc này, Ngƣời càng cảm thấy yêu mến và gần gũi với trăng sao
và trăng sao đã đƣợc nhân hóa để nói chuyện với Ngƣời.
Hồ Chí Minh không chỉ viết một bài về trăng. Trong thiên nhiên
có lẽ trăng là hình tƣợng gắn bó nhất với tâm hồn con ngƣời. Trăng là
ngƣời bạn thanh cao và gần gũi:
Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Trong nhà tù, đêm trung thu không đƣợc thƣởng trăng, nhà thơ
cảm thấy lòng buồn vời vợi:
Trung thu vành vạnh mảnh gƣơng thu,
Sáng khắp nhân gian bạc một màu…
Chẳng đƣợc tự do mà thƣởng nguyệt,
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.
20 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu
Ngay cả khi ra khỏi ngục tù, trong khi chỉ đạo cuộc kháng chiến ở
chiến khu, Ngƣời vẫn yêu trăng và gần gũi với trăng. Trăng đòi sự có
mặt trong thơ của Ngƣời:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.1
Thơ trăng có thể là loại thơ cao nhất trong thơ thiên nhiên. Nó
lắng đọng và kết tinh những tình cảm đẹp nhất của con ngƣời. Nó là
sự gặp gỡ của những tâm hồn thanh cao trong thế giới huyền diệu và
tinh tế của thiên nhiên và nghệ thuật.
Qua Nhật ký trong tù, chúng ta thấy nổi lên những quan hệ đẹp
nhất giữa con ngƣời với xã hội và con ngƣời với thiên nhiên. Hồ Chí
Minh, con ngƣời gắn bó mật thiết với nhân dân lao động lại là ngƣời
thích sống với thiên nhiên, làm bạn với thiên nhiên. Giữa Thủ đô nhộn
nhịp của Việt Nam, bên cạnh tòa nhà nguy nga của Phủ Chủ tịch,
Ngƣời sống trong một ngôi nhà sàn nhỏ bé, bên cạnh ao cá vƣờn cây,
giữa hoa thơm và bóng mát.
Cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày sinh của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt
Nam với muôn vàn kính yêu lại hƣớng về con ngƣời đẹp nhất. Con
ngƣời ấy luôn luôn hạ mình xuống, coi mình là đầy tớ của nhân dân,
nhƣng nhân dân lại nâng Ngƣời lên coi nhƣ vị cha già của dân tộc.
Trong cuộc Hội thảo về thơ Đƣờng luật của Bác Hồ hôm nay,
chúng ta lại cùng nhau thấy rõ thêm những phẩm chất đặc sắc của một
con ngƣời bất diệt. Bất diệt về sự nghiệp anh hùng, bất diệt về tinh
hoa văn hóa và bất diệt về nhân cách cao cả trong sự nghiệp của dân
tộc và nhân loại.
VK
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.544.
BÚT PHÁP CÛA BÁC HỒ
TRONG SÁNG TÁC THƠ ĐƯỜNG LUẬT
TS. Phạm Thị Xuân Châu
Chi hội Thơ Đƣờng luật tỉnh Điện Biên
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ viết khá
nhiều thơ Đƣờng luật. Nhật ký trong tù: 133 bài. Thơ chữ Hán ngoài
Nhật ký trong tù: 35 bài. Thơ Đƣờng luật quốc ngữ: 35 bài. Nhƣ vậy,
thơ Đƣờng luật của Bác tổng cộng trên 200 bài.Trong đó có 178 bài tứ
tuyệt, 20 bài bát cú, 5 bài trƣờng thiên. Bên cạnh những bài viết theo
đúng tinh thần của thơ cổ, Bác đã dùng Đƣờng luật cải biên thành
nhiều thể loại phong phú để cùng biểu đạt những tƣ tƣởng lớn, những
tình cảm sâu sắc tinh tế.
1. Về Tổ quốc và Nhân dân
Đọc thơ Đƣờng luật của Bác, dù là nhật ký viết trong tù hay
những bài thơ sau này trƣớc và sau cách mạng, trong kháng chiến,
ta luôn thấy hiển hiện lên một tấm lòng yêu nƣớc thiết tha, một ý
chí báo quốc sắt đá, một tấm lòng thủy chung, kiên định, sắt son
hƣớng về Tổ quốc, nhân dân, đồng chí, đồng bào, nhƣ tấm lòng của
Nguyễn Trãi khi xƣa trong Quốc âm thi tập:
Bui một tấm lòng ƣu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nƣớc triều đông.
Bác Hồ của chúng ta cũng vậy, nỗi nƣớc nhà trằn trọc trong
giấc ngủ:
22 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
Một canh... hai canh... lại ba canh...
Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Thụy bất trƣớc - Không ngủ đƣợc)
Ngày nay đọc lại Nhật ký trong tù, chúng ta không khỏi xúc động,
và càng thêm hiểu, thêm thƣơng, thêm cảm phục tấm lòng của Bác đối
với Tổ quốc, nhân dân dẫu Ngƣời đang trong cảnh đọa đày.
Có nỗi đau khổ, đắng cay trong cảnh ốm đau nơi tù ngục, lại
là nơi đất khách quê ngƣời, nhƣng vẫn trăn trở không nguôi niềm
cố quốc:
Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh
Nội thƣơng đất Việt cảnh lầm than/
Trong tù mắc bệnh càng đau khổ
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn.
(Bệnh trọng - Ốm nặng)
Có nỗi nhớ nƣớc, thƣơng nhà suốt bao tháng ngày khắc khoải, hóa
thành lệ rơi trên những dòng thơ:
Nghìn dặm bâng khuâng hồn nƣớc cũ
Muôn tơ vƣơng vấn mộng sầu nay
Ở tù năm trọn thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nỗi này
(Thu dạ - Đêm thu)
Khi Bác mới ra khỏi nhà tù, thân hình tiều tụy “chân yếu mắt
mờ, tóc bạc”, chỉ duy nhất một điều không thay đổi là tấm lòng
chung thủy, sắt son: “Giang tâm nhƣ kính tịnh vô trần”, là nỗi niềm
thiết tha hƣớng về tổ quốc, quê hƣơng, đồng chí, đồng bào:
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân
(Tân xuất ngục, học đăng sơn - Mới ra tù, tập leo núi)
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 23
Ở những bài thơ này, Bác giữ nguyên đặc điểm cổ kính của thơ
tứ tuyệt luật Đƣờng, ngõ hầu diễn tả trọn vẹn chiều sâu của những
nỗi niềm: cựu sơn hà, hoài cố quốc, ức cố nhân, nhất là trong hoàn
cảnh Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng/ Tin tức bên nhà bữa bữa
trông (Tức cảnh).
Chất trữ tình trong thơ có sự quyện hòa của cả chất tình và chất
thép. Màu sắc trữ tình thể hiện qua chính hiện thực tâm trạng của Bác,
cho ngƣời đọc thêm hiểu, thêm thƣơng nỗi niềm của Bác trong mƣời
bốn trăng tê tái gông cùm, từ đó càng thêm cảm phục ý chí kiên
cƣờng của Ngƣời trong gian khổ và tấm lòng thủy chung vô hạn của
Ngƣời với Tổ quốc, nhân dân, nhƣ tấm lòng của Ức Trai xƣa trong bài
Thuật hứng:
Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
2. Về cách mạng
Thơ Đƣờng luật của Bác giống nhƣ dòng nhật ký hàm súc, trữ
tình, ghi lại suy nghĩ, tâm hồn, lý tƣởng của Bác trên bƣớc đƣờng hoạt
động. Chiến khu Việt Bắc, chiếc nôi cách mạng buổi ban đầu luôn
hiện lên trong thơ Bác, còn in dấu ấn những tháng năm xƣa Bác đã ở
nơi đây nhóm lên ngọn lửa cách mạng sáng đến mai sau:
Non xa xa, nƣớc xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà.
(Pác Bó hùng vĩ)
Câu đầu bài thơ chỉ có sáu tiếng. Bác đã sáng tạo bài tứ tuyệt với
các câu thất ngôn chen lục ngôn. Sự phá cách này khiến lời thơ trở nên
trữ tình, mềm mại, tự nhiên, không còn thấy dấu ấn của thủ pháp miêu
tả, mà dƣờng nhƣ chỉ là Bác đang ghi lại hình ảnh núi rừng Pác Bó
đầy chất thơ đang trải rộng ra trƣớc mắt mình:
24 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
Non xa xa, nƣớc xa xa
Sự biến thể của thơ tứ tuyệt cho thấy sự linh hoạt của Bác trong
bút pháp thi ca. Câu thơ đi ra ngoài công thức gợi ra cái nên thơ, trữ
tình của cảnh vật và sự khoáng đạt, bao la, dung dị của hồn ngƣời. Bác
chan hòa, gắn bó với thiên nhiên với tình yêu rộng lớn bao la của
ngƣời chiến sĩ cách mạng, đang bƣớc theo chân lý ngời sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, với niềm tin tƣởng sắt son vào tiền đồ ngày mai
tƣơi sáng của dân tộc, để hôm nay luôn một lòng vững vàng, kiên định
sự nghiệp lớn:
Hai tay xây dựng một sơn hà
Bác không chỉ vận dụng thơ Đƣờng luật để nói những tƣ tƣởng
lớn của mình về Tổ quốc và nhân dân, mà thông qua thể thơ này, Bác
còn đặt ra những vấn đề quan trọng của đấu tranh cách mạng.
Bác đã vận dụng tính hàm súc, ngắn gọn của thơ luật Đƣờng để
đúc kết quan điểm cách mạng của mình, nhƣ ở bài thơ chữ Hán Học
dịch kỳ (Học đánh cờ). Bên ngoài là chuyện chơi cờ (Nhàn rỗi đem cờ
học đánh chơi/ Thiên binh, vạn mã đuổi nhau hoài) nhƣng bên trong
lại là vấn đề tƣ duy cách mạng, chiến lƣợc đấu tranh cách mạng: luôn
chủ động, sáng tạo và quyết đoán (Tấn công, thoái thủ nên thần tốc/
Chân lẹ, tài cao ắt thắng ngƣời). Bên ngoài là tƣ duy đánh cờ, nhƣng
bên trong lại là tƣ duy chiến lƣợc, là tƣ tƣởng tiến công cách mạng
một cách khoa học và kiên quyết, giành thế chủ động trong đấu tranh
(Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ/ Kiên quyết không ngừng thế tiến
công). Ý chí và trí tuệ của một nhà chiến lƣợc cách mạng, với chiến
thuật cách mạng biết thời, biết thế, đón thời, tạo thế đƣợc diễn tả hết
sức rõ ràng, sinh động, dễ hiểu trong nội hàm ẩn dụ của thể thơ tứ
tuyệt luật Đƣờng:
Lỡ nƣớc hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công.
Bài học nắm bắt thời cơ của Cách mạng Tháng Tám là minh
chứng cho chiến thuật cách mạng sắc sảo, đầy trí tuệ của Bác.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 25
Từ việc chơi cờ Bác đặt ra vấn đề tƣơng quan giữa thế và lực, tấn
công và phòng thủ, để đi đến kết luận về thế trận cách mạng trên bàn
cờ đấu tranh:
Vốn trƣớc hai bên ngang thế lực
Mà sau thắng lợi một bên giành
Tấn công phòng thủ không sơ hở
Đại tƣớng anh hùng mới xứng danh.
Một thể thơ, vốn mang đậm tính khuôn mẫu, cổ điển, nhƣng
trong tay Bác, lại trở thành phƣơng tiện ngôn ngữ linh hoạt, đúc
kết sắc bén triết lý đấu tranh cách mạng, mang tính thời đại, tính
chính trị sâu sắc.
Ngày 11/11, kỷ niệm kết thúc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất
(1914 - 1918), Bác viết bài Song thập nhất (Ngày 11/11), nêu lên nhận
định của mình về vai trò của các nƣớc châu Á trong công cuộc kháng
chiến chống chủ nghĩa phát xít:
Kháng Nhật cờ bay khắp Á châu
Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau
Cờ to ắt hẳn là nên có
Cờ nhỏ dù sao, thiếu đƣợc đâu.
Bài thơ không triển khai theo mạch khai, thừa, chuyển, hợp
thƣờng gặp ở thơ tứ tuyệt mà phát triển theo hình tƣợng lá cờ (tinh
kỳ), biểu tƣợng của phong trào kháng Nhật ở mỗi nƣớc. Hai chữ “tinh
kỳ” lặp đi lặp lại bốn lần trong suốt cả 4 dòng thơ, gợi không khí
kháng Nhật sục sôi khắp châu Á.
Bác dùng hình ảnh lá cờ để khái quát cao trào chống Nhật đồng
thời nêu lên một quan điểm đầy tự chủ và sắc sảo không chỉ tình hình
Việt Nam mà cả tình hình thế giới, không chỉ vai trò của các nƣớc lớn,
mà còn vai trò của nƣớc nhỏ (kể cả nhƣợc tiểu), để khẳng định vai trò
không thể thiếu của mỗi quốc gia trong sự nghiệp chung:
26 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
Nƣớc lớn có vai trò của nƣớc lớn: Cờ to ắt hẳn là nên có. Nhƣng
nƣớc nhỏ cũng có vai trò của nƣớc nhỏ: Cờ nhỏ dù sao, thiếu đƣợc
đâu. Không thể bỏ qua, xem nhẹ, coi thƣờng. Bác đã khẳng định chủ
quyền của mọi dân tộc, dù là dân tộc nhỏ, cũng chính là phê phán chủ
nghĩa sô-vanh (nƣớc lớn), hòng áp đặt bá quyền đối với những nƣớc
vẫn bị coi là nhƣợc tiểu. Quan điểm dân tộc của Bác mang tính quốc
tế rộng lớn, đòi hỏi trên toàn thế giới là phải có sự tôn trọng lẫn nhau
và có sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Tƣ duy cách mạng rộng lớn của Bác chứa đựng trong một bài thơ
rất nhỏ. Bác dùng bài tứ tuyệt luật Đƣờng cải biên để khẳng định sự
thật và chân lý chính trị một cách ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu, mang
tính thời đại.
Trong thơ Bác không chỉ có trí tuệ cách mạng, mà còn có những
tình cảm cách mạng giữa những ngƣời đồng chí, đồng đội. Đáng nhớ
nhất là những bài thơ Bác viết về các bậc nhân sĩ yêu nƣớc, những con
ngƣời đạo cao đức trọng đã vì chính nghĩa dân tộc mà tự nguyện từ bỏ
tất cả, lên chiến khu tham gia kháng chiến, phục vụ đất nƣớc, phục vụ
nhân dân, nhƣ bài nhƣ Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Tặng
Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn). Cụ Bùi Bằng Đoàn nguyên là
Thƣợng thƣ của triều đình cũ. Cụ nổi tiếng liêm khiết, Bác Hồ vô
cùng quý trọng. Bài thơ tứ tuyệt chữ Hán của Bác viết tặng cụ tỏa ra
một tình tri kỷ đằm thắm sáng trong. Cụ Võ Liêm Sơn từng đỗ đạt,
làm quan dƣới triều Nguyễn một thời, rồi cáo quan bỏ về để phản đối
thực dân Pháp xâm lƣợc, phản đối thái độ nhu nhƣợc của triều đình.
Bài thơ Bác Hồ viết tặng cụ Võ chan chứa tình đồng cảm tri âm. Bài
thơ chữ Hán, viết đúng luật thi, diễn tả thật đằm thắm, sâu sắc tình
cảm của những con ngƣời cùng chung lý tƣởng thờ dân, thờ nƣớc, tận
hiếu, tận trung, với một niềm tin sắt đá: Kháng chiến ắt thành công.
Còn có một bài thơ đặc biệt cảm động là bài Điếu Huỳnh Bộ
trƣởng thi (Thơ viếng Huỳnh Bộ trƣởng), đề ngày 21/ 4/1947, ngày tạ
thế của cụ chí sĩ yêu nƣớc Huỳnh Thúc Kháng. Bài thơ tiếng Việt, viết
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 27
theo thể ngũ ngôn bát cú Đƣờng luật có những chỗ phá cách, mở đầu
lại tiếng than thống thiết:
Than ôi!
Bể Đà Nẵng triều thảm Trông vào Bộ Nội vụ
Đèo Hải vân mây sầu Tài đức tiếc thƣơng nhau
Tháng tƣ tin buồn đến Đồng bào ba chục triệu
Huỳnh Bộ trƣởng đi đâu? Đau đớn lệ rơi châu.
Đầu năm 1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng trên hai cƣơng vị Bộ
trƣởng Bộ Nội vụ và Hội trƣởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
(Liên Việt) đi kinh lý các tỉnh miền Trung. Tháng 4 năm 1947 khi cụ
đang thị sát tình hình tại Quảng Ngãi thì đột ngột lâm bệnh nặng.
Biết mình khó qua khỏi, ngày 14/4/1947 cụ viết bức thƣ tâm huyết
gửi Bác Hồ:
“Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mƣơi năm ôm ấp độc
lập và dân chủ, nay nƣớc nhà đã đƣợc độc lập, dân chủ đã đƣợc
thực hiện. Thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc là không đƣợc gặp lại Cụ lần
cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân trên đƣờng vinh
quang hạnh phúc. Chào quyết thắng!”
Cụ Huỳnh ra đi để lại trong Bác xiết bao trống vắng và buồn
thƣơng, nhớ tiếc. Bác viết bài thơ ngũ ngôn bát cú luật Đƣờng, nhƣng
lại có tính chất một tế văn. Điều chƣa từng gặp trong thơ cổ chí kim.
Hai tiếng “Than ôi!” đầy thống thiết mở ra cảm xúc đớn đau.
Hai câu thơ đầu cũng không có tính chất khai đề, thừa đề của thơ
luật mà đi ngay vào hình ảnh buồn thƣơng của đất trời xứ Quảng:
Than ôi! Bể Đà Nẵng triều thảm/ Đèo Hải Vân mây sầu.
Thơ luật ít khi đối ở hai câu đề, nhƣng trong trƣờng hợp này, Bác
đã đặt lên trƣớc hai hình ảnh đối nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau để
nói cho hết nỗi buồn thƣơng của đất trời non nƣớc quê hƣơng trƣớc sự
28 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
ra đi đột ngột của cụ Huỳnh, ngƣời con ƣu tú của mảnh đất nhân kiệt,
địa linh. Những câu tiếp theo cũng không triển khai theo luật mà đều
tập trung nói nỗi buồn mất mát:
Nỗi ngơ ngác, hẫng hụt:
Tháng tƣ tin buồn đến
Huỳnh Bộ trƣởng đi đâu?
Nỗi đau buồn của Bác:
Trông vào Bộ Nội vụ
Tài đức tiếc thƣơng nhau.
Nỗi đau đớn của đồng bào:
Đồng bào ba chục triệu
Đau đớn lệ rơi châu.
Về ngôn từ, viết về sự ra đi của một bậc chí sĩ yêu nƣớc, hết lòng
vì nƣớc vì dân, nên Bác dùng nhiều từ Hán Việt trang trọng xen các từ
thuần Việt giàu sắc thái biểu cảm: than ôi, sầu, thảm, buồn, đau đớn,
lệ, châu... tạo thành dòng cảm xúc trữ tình lâm ly, thống thiết. Bút
pháp mà không phải bút pháp, thể loại mà lại “phi” thể loại, vì sự thật,
chính cái gốc tình cảm mới là yếu tố quyết định hình thức và kết cấu
của bài thơ.
Bài thơ rất gọn, câu thơ rất ngắn mà nói đƣợc đầy đủ cái tình hết
mực thâm trọng của Bác, của nhân dân đối với cụ Huỳnh, đồng thời
qua đó ngƣời đọc thấy đƣợc tài cao, đức trọng và uy tín lớn của cụ
Huỳnh đối với nhân dân.
Ngày 29/4/1947, hơn một tuần sau khi cụ Huỳnh tạ thế, Bác Hồ
viết thƣ gửi đồng bào cả nƣớc: “Cụ Huỳnh là ngƣời học hành rất
rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nƣớc mà trƣớc đây
cụ bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn Đảo mƣời mấy năm trƣờng,
gian nan cực khổ nhƣng lòng son dạ sắt, yêu nƣớc thƣơng nòi của cụ
Huỳnh, chẳng những không sờn, lại thêm kiên quyết. Cụ Huỳnh là
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 29
ngƣời giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí,
oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không
thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh phấn đấu cho nhân dân đƣợc tự do,
nƣớc độc lập”.
Bài thơ và bức thƣ của Bác là minh chứng cho tình đồng tâm,
tri kỷ sâu nặng của Bác đối với cụ Huỳnh Thúc Kháng, và cũng là
tình cảm cách mạng cao đẹp mà Bác hƣớng tới những bậc chí sĩ của
dân tộc.
3. Về con ngƣời
Thơ Bác nói chung, Nhật ký trong tù nói riêng, chan chứa một tinh
thần nhân đạo cao cả. Đọc Nhật ký trong tù, ta luôn bắt gặp một tình
thƣơng bao la hƣớng về những kiếp ngƣời đau khổ mà Bác đã gặp
trong nhà tù Trung Quốc hay trên đƣờng bị chuyển lao. Bác thƣơng từ
em nhỏ chƣa đầy một tuổi đã phải theo mẹ đến ở nhà tù, thƣơng đến
ngƣời phu làm đƣờng dãi gió dầm mƣa; Bác ngậm ngùi xót xa cho
ngƣời bạn tù khổ đau vừa mới chết; Bác chạnh lòng thƣơng cho cảnh
ngộ của vợ chồng ngƣời bạn tù trong cảnh “gần nhau trong tấc gang,
mà biển trời cách mặt”; Bác hiểu lòng ngƣời trong tiếng sáo ly hƣơng
và thƣơng ngƣời cô phụ phƣơng xa mòn mỏi ngóng trông chồng.
Có thể nói, trái tim nhân ái bao la của Ngƣời nhƣ vầng dƣơng ấm
áp bao dung chiếu tới mọi cảnh đời. Vậy nên, Bác vui khi ngƣời nông
dân đƣợc mùa cƣời tƣơi hớn hở (Dã cảnh), Bác xót xa khi trên đƣờng
đi nhìn cảnh hạn hán, ngƣời nông dân rơi vào cảnh cơ khổ mất mùa:
Nghe nói xuân nay trời đại hạn/ Mƣời phân thu hoạch chỉ vài phân
(Long An - Đồng Chính), Bác quên đi nỗi mệt nhọc, cô đơn trên
đƣờng lƣu đày để đồng cảm với cuộc sống bình dị, đơn sơ của ngƣời
lao động: Cô em xóm núi xay ngô tối/ Xay hết lò than đã rực hồng)
(Mộ - Chiều tối).
Không hề có một khoảng cách hay sự phân biệt nào trong tình
cảm của Bác đối với nhân dân Trung Quốc. Bác xót thƣơng đồng bào
30 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
của mình trong cảnh lầm than, và Bác cũng thƣơng xót nhân dân
Trung Hoa trong cảnh đời đau khổ. Cho dù chính cái chính quyền của
Tƣởng Giới Thạch khi ấy đang bắt giam Ngƣời một cách vô lý và đầy
đọa Ngƣời qua bao nỗi đắng cay.
Đọc thơ Đƣờng luật của Bác, ta nhận thấy sự cải biên để tạo ra
những biến thể, phá cách chẳng qua cũng chỉ là để diễn tả một chiều
sâu tƣ tƣởng, một ý nghĩa nhân sinh cao đẹp trong trái tim rộng lớn
của Ngƣời. Chẳng hạn bài Tân Dƣơng ngục trung hài (Cháu bé trong
nhà lao Tân Dƣơng), một bài thơ tứ tuyệt luật Đƣờng nhƣng lại mở
đầu bằng một câu thơ phi Đƣờng luật:
Oa...! Oa...! Oa...!
Cha trốn không đi lính nƣớc nhà
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
Câu thơ mở đầu chỉ có 3 tiếng “Oa...! Oa...! Oa, là âm thanh
tiếng khóc của cháu bé trong nhà lao. Chính câu thơ “tam ngôn” với
ba chữ tƣợng thanh “Oa...! Oa...! Oa...!” hoàn toàn thuần Việt đã
gây ra ấn tƣợng mạnh mẽ về tiếng khóc của cháu bé sơ sinh vang lên
trong tù ngục, vọng vào trái tim ta niềm xót xa, thƣơng cảm, gieo nỗi
bất bình, phẫn nộ về chính sách vô nhân đạo và hết sức vô lý của nhà
cầm quyền Tƣởng Giới Thạch lúc đƣơng thời.
Yêu thƣơng những con ngƣời khổ đau bất hạnh bao nhiêu, Bác
cũng kịch liệt phê phán những kẻ vô lƣơng, bất chính bấy nhiêu. Ngòi
bút của Bác lúc thì trữ tình đằm thắm, khi lại trào lộng sâu cay, nhƣ
trƣờng hợp bài thơ Lai Tân (來賓), bài thơ số 96 của Nhật ký trong tù.
Xuất phát từ yêu cầu biểu đạt nội dung, Bác đã sử dụng một kết
cấu độc đáo, không theo trình tự, lớp lang kiểu khai, thừa, chuyển,
hợp của tứ tuyệt luật Đƣờng. Ở đây, Bác dùng cả ba câu đầu vào một
nhiệm vụ, nhƣ ba mũi xung kích cùng giáp công một tiền đồn:
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 31
Câu 1: Ban trƣởng nhà lao chuyên đánh bạc
Câu 2: Giải ngƣời cảnh trƣởng kiếm ăn quanh
Câu 3: Chong đèn huyện trƣởng làm công chuyện
Câu 4, bất ngờ hạ xuống, kết thúc nhẹ bẫng:
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
Bằng kết cấu “lệch chuẩn” đặc biệt này, Bác đã lôi ra giữa thanh
thiên bạch nhật những chân dung nhem nhuốc của các vị chức sắc, từ
ban trƣởng nhà lao đến cảnh trƣởng, huyện trƣởng, mỗi ngƣời một vẻ,
nhƣng đều giống nhau ở chỗ cùng đại diện cho bộ mặt đen tối, thối nát
của chính quyền (Tƣởng Giới Thạch). Họ đều là “trƣởng” (ngƣời
đứng đầu) nhƣng ngày ngày chỉ cặm cụi và mẫn cán với những tệ
đoan: cờ bạc, ăn chặn, chơi bời, hút xách, nhận hối lộ..., trong khi đó,
thật mai mỉa và khôi hài thay:
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
(Lai Tân y cựu thái bình thiên).
Kết cấu 3/1, với vai trò bình đẳng, ngang hàng của câu 1, 2, 3 và
sự kết thúc đột ngột, bất ngờ ở câu 4 đã tạo ra một nét nhấn “chết
ngƣời”, cho ngƣời đọc thấy rõ tấm màn giả tạo “nghìn thu thái bình”
không che đƣợc hiện thực thối nát. Với bút pháp thâm thúy, với thủ
pháp nghệ thuật đối lập, kiểu câu lặp cú pháp mà chủ ngữ là những
ban trƣởng, cảnh trƣởng, huyện trƣởng cùng với những việc làm dơ
dáy của họ, bài thơ Đƣờng luật phá cách này giống nhƣ một cuộn
phim tƣ liệu cực ngắn, cực sắc lƣu lại vĩnh viễn bức tranh hiện thực
đen tối của xã hội Trung Quốc dƣới thời Tƣởng Giới Thạch. Giúp ta
nhìn đƣợc sâu hơn vào số phận khổ đau của nhân dân Trung Quốc
cũng nhƣ tình cảnh khốn cùng của những phạm nhân chẳng may trót
sa chân vào chốn ngục tù.
Cũng đứng trên lập trƣờng nhân văn sâu sắc, Bác có một cái nhìn
rất riêng, khác nhiều ngƣời về công trình Vạn lý Trƣờng Thành:
Nghe nói Trƣờng Thành vạn dặm trƣờng
Chạy từ Đông Hải tới Tây cƣơng.
32 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
Hàng bao nhiêu triệu ngƣời lao động
Xây đắp thành này trấn một phƣơng.
(Vịnh Vạn lý Trƣờng Thành)
Vạn lý Trƣờng Thành là một công trình kiến trúc thành lũy lớn
nhất trong lịch sử văn minh nhân loại, đƣợc UNESSCO xếp loại là
một trong bảy kỳ quan của thế giới. Năm 1955, Bác sang thăm Trung
Quốc. Đứng trƣớc Vạn lý Trƣờng Thành đồ sộ, nhƣng Bác không
choáng ngợp vì sự vĩ đại của nó mà xúc động nghĩ tới nhân dân,
những con ngƣời bình thƣờng nhất, bé nhỏ nhất, chịu nhiều khổ đau
và thiệt thòi nhất, hàng trăm vạn ngƣời, đã đắp nên thành này để “trấn
giữ một phƣơng”. Máu, mồ hôi, và nƣớc mắt của nhân dân lao động từ
bao nhiêu thế kỷ đã chảy xuống để dựng nên cho ai một Vạn lý
Trƣờng Thành?
Có thể thấy, tầm cao tƣ tƣởng, chiều sâu nhân văn, chính là nhân
cách văn hóa lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Ngƣời đứng trƣớc
công trình này, và đã viết nên bài thơ chỉ có bốn câu, hoàn toàn theo
đúng luật Đƣờng để nói quan điểm riêng của Bác về nhân dân, về Vạn
lý Trƣờng Thành.
Đến Khúc Phụ, Sơn Đông thăm miếu Khổng Tử, Bác cũng có
những cảm nghĩ sâu sắc để ngày nay chúng ta đƣợc học tập:
五月十九訪曲父 Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ,
古松古廟两依稀 Cổ tùng cổ miếu lƣỡng y hi.
孔家世力今何在 Khổng gia thế lực kim hà tại?
只剩斜陽照古碑 Chỉ thặng tà dƣơng chiếu cổ bi.
Dịch nghĩa:
Ngày 19 tháng 5 tới thăm Khúc Phụ,
Cây tùng cổ, ngôi miếu cổ, cùng chìm trong hoang vắng.
Thế lực họ Khổng ngày nay ở nơi nào?
Chỉ còn sót lại chút nắng chiều tà chiếu trên tấm bia cổ.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 33
Bài thơ chữ Hán, viết theo đúng đặc trƣng thể tứ tuyệt luật Đƣờng.
Câu 1: nói thời gian đến thăm Khúc Phụ, quê hƣơng của Khổng
Phu Tử.
Câu 2: nói không gian cảnh thực ngày nay: cây tùng nghìn tuổi,
ngôi miếu nghìn năm, cùng nhƣ chìm trong hoang vắng.
Từ cảnh thực ở câu 2, Bác mới đi tới câu thứ 3, nói những ý nghĩ
sâu xa của mình về Khổng giáo, mà Bác thấy là một thế lực đã lỗi thời
(dù Bác thấu hiểu Khổng Tử đã từng có một vị trí nhất định trong lịch
sử tƣ tƣởng phƣơng Đông):
Khổng gia thế lực kim hà tại?
Hai chữ “thế lực” nguyên để chỉ một sức mạnh đè nén, áp chế tƣ
tƣởng và số phận con ngƣời. Vậy nên, bốn chữ “Khổng gia thế lực”
mà Bác dùng mang nội hàm ý nghĩa phê phán rất sâu xa:
1) Đó là cái thế lực đã đèn nén con ngƣời công dân, không cho
con ngƣời có quyền tự do sống, giam con ngƣời trong vòng “tam
cƣơng” của Nho giáo, thống trị tƣ tƣởng con ngƣời bằng lí thuyết
quân thần/ vua và bề tôi, trói chặt con ngƣời trong vòng kiềm tỏa
của kẻ thống trị (Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung/ Vua bảo
bề tôi chết, mà không chịu chết là bất trung).
2) Đó là cái thế lực đã đè nén ngƣời phụ nữ dƣới chế độ nam
quyền bất bình đẳng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, khinh miệt
nữ giới: “Nữ nhân nan hóa”, và đặt ra thuyết “tam tòng” hà khắc trói
buộc ngƣời phụ nữ suốt cả cuộc đời “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử”.
Bác phê phán Khổng giáo, nhƣng không phải là phê phán nội
dung đạo đức của đạo Khổng, mà là phê phán cái quyền uy, cái thế
lực đã hàng nghìn năm đè nén, áp chế con ngƣời bằng học thuyết
Khổng giáo.
Chính vì không công nhận tƣ tƣởng thống trị của Khổng giáo, cho
đó là một học thuyết đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại cách
34 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
mạng ngày nay, nên Bác đã nêu một câu hỏi đầy thâm thúy: Khổng
gia thế lực kim hà tại? Hỏi nhƣng chính là để khẳng định: Thế lực
hàng nghìn năm của họ Khổng nay đã đâu còn!
Cho nên, dƣới cái nhìn đầy chất nhân văn của Bác thì ngày nay
học thuyết Khổng giáo chỉ nhƣ ánh chiều tà còn rớt lại, cũng nhƣ
những gì đã đƣợc chạm khắc vào trong tấm bia cổ kia giờ đây cũng
nhạt mờ theo thời gian và đang chìm vào trong bóng tà dƣơng của
lịch sử:
Chỉ thặng tà dƣơng chiếu cổ bi.
KẾT LUẬN
1) Di sản của Bác để lại cho chúng ta trong mấy trăm bài thơ
Đƣờng luật Bác đã viết bằng chữ Hán và chữ Việt đã cho ta bài học
lớn về việc dùng nghệ thuật cổ điển, có những sáng tạo, để diễn đạt
những ý tƣởng hiện đại. Ta cũng thấy trong thơ của Bác có “trăm
lời trăm ý đẹp”, là những “vần thơ thép” mà vẫn “mênh mông bát
ngát tình”.
2) Dù khi phá cách, cải biến, hay khi giữ nguyên luật lệ của thơ
Đƣờng, thì thơ Bác vẫn thể hiện đúng con ngƣời Bác: không thụ động,
không sao chép, máy móc, mà luôn cơ động, linh hoạt, độc lập trong
tƣ duy và tự chủ trong sáng tạo. Chính điều đó làm nên phong cách
thơ Đƣờng luật của Bác: cổ điển mà hiện đại, truyền thống mà cách
mạng, làm đẹp thêm cho di sản thơ Đƣờng luật của dân tộc.
3) Giá trị thơ của Bác không phải chỉ đƣợc phát huy trong phạm
vi nƣớc ta mà còn đƣợc thế giới tìm hiểu và ngƣỡng mộ. Ông giám
đốc nhà xuất bản Pháp Pierre Seghers, khi xin in thơ Bác có phát
biểu rằng:
“Ngƣời đọc thơ Hồ Chí Minh nếu không nâng tâm trí mình lên
đúng mức thì rất khó để hiểu cho hết đƣợc cái tinh túy của thơ”.
PTXC
CHẤT CHÂN THỰC VÀ LẠC QUAN
TRONG THƠ CHÛ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Nhà thơ Hoài Yên
Nguyên Chủ tịch CLB UNESCO Thơ Đƣờng Việt Nam
ĐT: 09 888 95 738
Nghe nói học giả ngƣời Trung Hoa, ông Quách Mạt Nhƣợc, khi
đọc Ngục trung nhật ký của chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khen hay và ví
với thơ của các danh sĩ đời Đƣờng. Điều đó có khía cạnh đúng, nhƣng
cũng có khía cạnh chƣa chính xác.
Khía cạnh đúng là ở tính chân thực trong biểu cảm thơ của họ
giống nhau, khiến những bài thơ đều hay và dễ đi vào lòng ngƣời đọc.
Ở khía cạnh khác, thơ chủ tịch Hồ Chí Minh thì lạc quan yêu đời, đầy
tự tin, còn thơ của các danh sĩ đời Đƣờng thì ngập chìm trong “nỗi
sầu vạn cổ”.
Chúng ta hãy phân tích 2 bài thơ làm ví dụ dƣới đây để chứng
minh luận điểm này:
Bài “Giải đi sớm” của chủ tịch Hồ Chí Minh:
I-
“Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao đƣa nguyệt vƣợt lên ngàn
Ngƣời đi cất bƣớc trên đƣờng thẳm
Rát mặt đêm thu trận gió hàn.”
II-
“Hƣớng đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn quét sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Ngƣời đi thi hứng bỗng thêm nồng.”
Nam Trân (Dịch)
36 | Hoài Yên
Bài “Lúc chiều hôm” của danh sĩ thi thánh Đỗ Phủ (Đời Đƣờng):
“Nƣớc sông còn chảy mãi nơi này
Núi vắng mây chiều lơ lửng bay
Hoa lạnh nép mình trong cỏ rối
Chim buồn chọn chỗ giữa cây dày
Ngày nào nƣớc cũ về thăm nhỉ?
Thu muộn lòng riêng chịu khổ đây!
Tuổi trẻ đời ngƣời không trở lại
Bạc phau mái tóc tựa tơ gầy.”
Đinh Vũ Ngọc (Dịch)
Cách chọn bối cảnh thiên nhiên ở cả 2 bài đều có dụng ý. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chọn buổi sáng, bắt đầu tử nửa đêm về sáng, trời còn
đang tối tăm mù mịt với những cơn gió rét mùa thu rát mặt. Nhƣng
sau đó, trời sáng hồng, hơi ấm tràn ngập, khiến ngƣời thơ dâng trào
cảm hứng. Tinh thần lạc quan của bài thơ bao trùm.
Trong khi đó, thi thánh Đỗ Phủ chọn khung cảnh buổi chiều của
một ngày sắp tàn. Ở thời của ông phổ biến một quan điểm là “Thi dĩ
bi vi mỹ” (Thơ có buồn mới hay), ngƣời thơ bơi trong “nỗi sầu vạn
cổ”, thƣơng cho thân phận chịu “riêng nỗi khổ đây, tiếc cho thời trai
trẻ không trở lại và ngán cho mái tóc bạc tựa tơ gầy! Cái khung cảnh
của một chiều thu muộn, mây bay lơ lửng, hoa lạnh chim buồn giúp
cho tác giả dễ gửi gắm lòng mình đang nhớ về quê hƣơng, những
mong giải tỏa nỗi buồn, nhƣng hình nhƣ lại càng buồn thêm! Nói nhƣ
thi tiên Lý Bạch “Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu”.
Cả hai bài thơ đều hay, đều dễ đi vào lòng ngƣời, bởi vì cả hai
tác giả đều giãi tỏ lòng mình một cách chân thực, thánh thiện (Có
chân, có thiện ắt có mỹ). Nhƣng họ khác nhau ở tinh thần và quan
điểm sống, nên những gì họ gửi gắm qua bài thơ thì hoàn toàn khác
nhau. Cái hay của thơ Đỗ Phủ, hàng nghìn năm nay đã đƣợc khẳng
định, nhƣng quan điểm “Dĩ bi vi mỹ” thì hiện thời không còn phù
hợp nữa. Thơ nói chung, đâu chỉ có buồn mới hay!?
HY
BÁC HỒ VẬN DỤNG TUYỆT CÚ ĐƯỜNG THI
PGS-TS Hồ Sĩ Hiệp
Đại học Sƣ phạm Tp. Hồ Chí Minh
Bác Hồ là ngƣời tinh thông Hán ngữ, yêu thích văn học cổ Trung
Quốc. Từ nội dung các truyện cổ dân gian “Ngu Công dời núi” và
“Chim Tinh Vệ lấp biển” Bác đã sáng tác ra mấy câu thơ giản đơn
nhƣng ý nghĩa sâu sắc trong những năm khó khăn gian khổ, có tính
chất châm ngôn nhằm giáo dục thanh niên:
“Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.”
“Lƣơng Sơn bá – Chúc Anh Đài” cũng là một truyện dân gian
quen thuộc của nhân dân Trung Quốc. Những năm sau hòa bình lập lại
(1954) sau khi xem đoàn Cải lƣơng Khu 4 diễn vở “Lƣơng Sơn Bá –
Chúc Anh Đài” Bác đã cảm hứng đọc mấy câu thơ sau đây nói lên
cảm nghĩ của mình về xã hội thời xa xƣa: Đánh cho phong kiến tan
tành, Cho bao nhiêu Anh Đài, Sơn Bá đƣợc thành lứa đôi …”
Ngoài văn học dân gian trong văn học Trung Quốc, Bác yêu thích
thơ Đƣờng, thơ Tống. Trong đời sống hàng ngày nhất là trong các bài
nói, bài viết Ngƣời thƣờng dẫn chứng nhiều thi từ, thi liệu của thơ ca
cổ điển Trung Hoa. Trong “Nhật ký trong tù”, ở trên đất nƣớc Trung
Quốc mặc dù tự nhận là “ngâm thơ ta vốn không ham” nhƣng vì
“trong ngục biết làm gì đây” nên Bác đành “vừa ngâm vừa đợi đến
ngày tự do”. Trong hơn một năm ngồi tù với cảnh “Quảng Tây giải
khắp mƣời ba huyện” để “vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”, Bác đã
38 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
đọc một tuyển tập thơ ca cổ điển Trung Quốc, sau đó Bác có làm thơ
nói lên cảm tƣởng của mình khi đọc tập thơ này – đó là bài “Cảm
tƣởng đọc Thiên gia thi” (Khán Thiên gia thi hữu cảm). “Thiên gia
thi” là một tập thơ mỏng, tuyển chọn các bài thơ tả cảnh thiên nhiên
phổ biến của thời Đƣờng – Tống thời xƣa dùng làm sách học cho trẻ
con ở nhà trƣờng. Tập này lƣu truyền khá phổ biến ở vùng Liễu Châu,
tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian thực tập Hán ngữ ở trƣờng Đại học
Sƣ phạm Quảng Tây tại Quế Lâm chúng tôi nhiều lần đến Liễu Châu.
Đi qua những nơi mà Bác Hồ đã từng đến và bị “giải khắp mƣời ba
huyện” của tỉnh Quảng Tây, chúng tôi đều cảm nhận thêm về tên đất,
tên ngƣời và sự việc mà Bác miêu tả trong “Nhật ký trong tù”. Trong
các hiệu sách lớn nhỏ của tỉnh Quảng Tây ngày nay, tập “Thiên gia
thi” đƣợc bày bán rất nhiều. Điều này gợi cho chúng tôi sự ƣớc đoán
là những thập kỷ đầu của thế kỷ này, “Thiên gia thi” là tác phẩm đƣợc
lƣu truyền rộng rãi ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc, nhất là ở Quảng
Tây và Quảng Đông.
Ở Trung Quốc hiện nay, có nhiều tập “Thiên gia thi”, nhƣ: “Thiên
gia thi” do Tạ Phƣơng Đắc chủ biên (Bắc Kinh, Đại Trung ấn loát),
“Thiên gia thi” do Lƣu Hậu Thôn biên soạn từ đời Tống. Theo chúng
tôi, bản “Thiên gia thi” mà Bác đọc trong thời gian ở nhà tù Liễu Châu
là bản của Lƣu Hậu Thôn, ngƣời đời Tống biên soạn.
“Thiên gia thi” dày hơn 200 trang, tuyển chọn 228 bài thơ của hơn
một trăm tác giả nổi tiếng (cũng có một số bài vô danh) của các đời
Đƣờng – Tống. Trong số các tác giả có thơ tuyển chọn vào thi tập và
có nhiều nhà thơ lớn nhƣ: Vƣơng Bột, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ,
Bạch Cƣ Dị (Đƣờng), Tô Thức, Lục Du (Tống), v.v… Thơ đƣợc
tuyển chọn đều thuộc loại thơ cận thể: ngũ tuyệt (39 bài), ngũ luật (47
bài), thất tuyệt (94 bài). Các bài thơ này đều là những bài thơ ngắn,
thanh luật đơn giản, lời thơ trau chuốt, ít điển cố, điển tích, dễ đọc, dễ
thuộc. Ngoài phần tuyển thơ sau mỗi bài đều có lời giới thiệu tác giả,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 39
chú giải và giải nghĩa rất cô đọng, dễ hiểu. Nhiều bài thơ hay đƣợc
truyền tụng trong thơ Đƣờng – Tống đều đƣợc tuyển chọn nhƣ bài
“Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Tĩnh dạ tƣ” của Lý Bạch, “Khúc
giang” của Đỗ Phủ, “Phong Kiều dạ bạc” của Trƣơng Kế, “Thanh
minh” của Đỗ Mục,“Thu tứ” của Lục Du, v.v…
Đề tài khá phổ biến trong “Thiên gia thi” là thiên nhiên. Chính vì
vậy, cảm tƣởng đầu tiên của Bác khi đọc thi tập này là: “Cổ thi thiên
ái thiên nhiên mỹ” (Thơ xƣa nghiêng về yêu vẻ đẹp của thiên nhiên).
“Cổ thi” mà Bác nói ở đây là “Cổ thi” trong “Thiên gia thi”, tức là
thơ Đƣờng, thơ Tống thời xƣa. Vì là sách dạy học ở trong nhà trƣờng
phong kiến Trung Quốc với mục đích làm cho ngƣời dạy, ngƣời học
dễ thuộc, dễ nhớ ít liên quan đến xã hội, chính trị nên thơ tuyển chọn
trong “Thiên gia thi” phần lớn là thơ miêu tả về cảnh đẹp thiên nhiên
với cảnh núi sông, cỏ cây, hoa lá, hoa tuyết, gió mây mà Bác khái
quát là: “Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong” (Mây, gió, trăng, hoa,
tuyết, núi, sông) mà ít chú ý đến phản ảnh hiện thực đời sống xã hội.
Không có nhà thơ đời Đƣờng – Tống nào là không có những bài
thơ miêu tả thiên nhiên tuyệt hay. Cảnh “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết,
núi, sông” mà Bác nói chính là những đề tài phổ biến trong thơ của
các nhà thơ nổi tiếng đời Đƣờng nhƣ: Lý Bạch, Vƣơng Duy, Mạnh
Hạo Nhiên, Cao Thích, Sầm Tham, Trƣơng Nhƣợc Nhƣ. Thái độ của
Bác sau khi đọc “Thiên gia thi” là nói lên cảm tƣởng của mình chứ
không phải phê bình nhƣ trƣớc đây nhiều ngƣời đã nhận định theo
câu thơ dịch “Thơ xƣa yêu cảnh thiên nhiên đẹp”. Theo ý ấy của Bác
có thể hiểu là: sau khi đọc “Thiên gia thi” ngoài các đề tài xã hội và
nhân sinh thì phần lớn các thi phẩm này “nghiêng về miêu tả cảnh
đẹp thiên nhiên” (thiên ái thiên nhiên mỹ). Từ cảm tƣởng đến đề tài
xã hội, nhân sinh, thơ ca phải là vũ khí, có tính chiến đấu cao, nhà
thơ phải là ngƣời chiến sĩ, hăng hái xung phong trên mặt trận văn
hoá tƣ tƣởng: “Nay ở trong thơ nên có thép; nhà thơ cũng phải biết
40 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
xung phong” (Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết, thi gia dã yếu hội
xung phong).
Trong thơ ca cổ điển Trung Hoa, Bác chịu ảnh hƣởng của thơ
Đƣờng khá sâu sắc về các mặt: thể loại, ngôn từ, thi tứ, tiêu đề, bút
pháp, v.v… Tuyệt đại thơ chữ Hán của Bác Hồ là thơ tứ tuyệt, tiêu đề
các bài thơ nhƣ: Thu dạ, Đối nguyệt, Đăng sơn, Thế lộ nan, Vọng
nguyệt, Trung thu, Dạ cảnh, Hoàng hôn trong thơ Bác đều rất phổ
biến trong thơ Đƣờng – Tống. Những lối thơ nhƣ vịnh, phỏng, tƣ,
tặng, vô đề mà Bác sử dụng đều quen thuộc trong thơ Đƣờng.
Thơ Đƣờng (618 - 907) là đỉnh cao chói lọi của thơ cổ Trung
Quốc và phƣơng Đông. Thời xƣa và ngay cả thời nay các nƣớc “đồng
văn” nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều chịu ảnh hƣởng sâu
sắc của thơ Đƣờng. Sự ảnh hƣởng đó kết hợp với sự vận dụng, sáng
tạo để sáng tác những thi phẩm mang phong cách, thể luật và ngôn từ
hàm súc, tinh luyện của Đƣờng thi. Có thể nói ở các nƣớc phƣơng
Đông không có quốc gia nào chịu ảnh hƣởng và vận dụng sáng tạo thơ
Đƣờng nhƣ ở Việt Nam. Từ ngàn xƣa ở Việt Nam đã có các khái
niệm quen thuộc nhƣ “thơ Đƣờng”, “thơ Đƣờng luật”. “Thơ Đƣờng”
là để chỉ thơ Trung Quốc xuất hiện ở đời Đƣờng và “thơ Đƣờng” luật
là để chỉ thơ cổ Việt Nam mà ngƣời Việt Nam sáng tác theo thể thơ
Luật thi – thất ngôn bát cú của đời Đƣờng. Thơ Đƣờng luật gồm 8
câu, mỗi câu 7 chữ tuy đã là ngắn, gọn so với những kiệt tác trƣờng
thi kiệt tác trong thơ Đƣờng nhƣ “Trƣờng hận ca” và “Tỳ bà hành”
của Bạch Cƣ Dị nhƣng để rút gọn hơn, ngắn hơn, đơn giản và dễ
hiểu hơn, các nhà thơ đời Đƣờng đã có “sáng kiến” là “cắt” bài Luật
thi (8 câu) ra thành hai bài gọi là “tuyệt cú”. Chữ “tuyệt” trong “tuyệt
cú” vốn gọi là “tiệt cú” (tiệt là cắt – thơ 8 câu cắt ra), cắt từ một bài 8
câu của Luật thi thành ra hai bài 4 câu của thơ tuyệt cú. Tƣởng rằng
thơ Luật thi 8 câu hoàn chỉnh hay nhƣng thơ tuyệt cú 4 câu cũng rất
tuyệt diệu về ngôn từ và ý tứ nên đƣơng thời không gọi là thơ “tiệt
cú” (thơ câu cắt) mà gọi là thơ “tuyệt cú” (thơ câu hay). Ở Trung
Quốc xƣa nay thƣờng gọi thể thơ độc đáo này của thơ Đƣờng là tuyệt
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 41
cú còn ở Việt Nam hay gọi là thơ “tứ tuyệt”. Luật thi và tuyệt cú là
hai thể loại đặc sắc và rất phổ biến trong thơ Đƣờng. Hai bài “tuyệt
cú” là “Phong Kiều dạ bạc” của Trƣơng Kế và “Thanh minh” của
Đỗ Mục rất đƣợc yêu thích và lƣu truyền ở Việt Nam xƣa nay. Các
nhà thơ lớn của dân tộc ta nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hƣơng đều chịu ảnh hƣởng sâu sắc và sáng tạo đối với thơ tuyệt cú
đời Đƣờng. Các nhà thơ Việt Nam nổi tiếng nhƣ Tản Đà, Xuân Diệu,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Tế Hanh đều yêu thích, chịu ảnh
hƣởng và vận dụng thể thơ rất đặc biệt này của thơ Đƣờng.
Bác Hồ là nhà chính trị đồng thời cũng là nhà văn hóa, nhà thơ.
Trong cuộc đời cách mạng, về văn, Ngƣời chịu ảnh hƣởng của văn
phƣơng Tây và Nga. Về thơ, Ngƣời am tƣờng, yêu thích và hay vận
dụng thơ Đƣờng để tuyên truyền, vận động và giáo dục quần chúng.
Ngƣời nói: “Ngâm thơ ta vốn không ham, nhƣng vì trong ngục biết
làm chi đây. Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, vừa ngâm vừa đợi đến
ngày tự do” (Nhật ký trong tù). Bài “Khán Thiên gia thi hữu cảm”
(Cảm tƣởng đọc Thiên gia thi) có thể coi là một bài cảm nhận và phê
bình thơ đơn giản, dễ hiểu của Bác. Bác nói đến hai chữ “cổ thi” (thơ
cổ) để chỉ thơ cổ Trung Hoa chủ yếu là thơ Đƣờng. Đề tài phổ biến
trong thơ Đƣờng là “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Đó là thực
thể, là vẻ đẹp của tự nhiên. Hai câu cuối thể hiện cảm nghĩ và cũng có
thể nói là quan niệm của Bác đối với thơ ca hiện đại phải là có “chất
thép” và nhà thơ chẳng phải để “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
mà phải biết “xung phong” mạnh mẽ trên mặt trận văn hóa.
Nói đến sự vận dụng thơ tuyệt cú đời Đƣờng của Bác trong cuộc
sống và hoạt động của Bác là phải nói đến một thi tập mà ở trong nhà
tù Tƣởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Trung Quốc mà Bác có đọc và
sau đó có làm một bài thơ phát biểu cảm tƣởng – đó là tập thơ “Thiên
gia thi” (Thơ nghìn nhà) của nhà thơ cũng là nhà biên soạn đời Tống
là Lƣu Hậu Thôn. Thời gian ở trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch Bác
đã đọc “Thiên gia thi” và họa theo một số bài với mục đích nói lên
cảm nghĩ, hoàn cảnh của bản thân và hiện thực ở chốn lao tù thời bấy
42 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
giờ. Ngày nay, sau hơn 75 năm, đọc lại “Nhật ký trong tù” (1941) và
thơ kháng chiến làm trong kháng chiến ở Việt Bắc của Bác, mọi
ngƣời đều dễ nhận thấy Bác đã khéo vận dụng ý tứ, vần điệu, đề tài
của thơ tứ tuyệt đời Đƣờng trong cuộc sống và hoạt động cách mạng
của mình.
Qua “Nhật ký trong tù” và thơ chữ Hán của Bác, chúng ta có thể
thấy Bác vận dụng thơ Đƣờng – Tống rất nhiều. Câu thơ “xuân giang
xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân nƣớc lẫn, màu trời thêm xuân)
trong bài “Nguyên tiêu” của Bác không phải là không có duyên nợ
với câu thơ “Thu thủy cộng trƣờng thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với
trời xa một màu) trong bài “Đằng Vƣơng Các tự” của thi sĩ Vƣơng
Bột. Đọc bài thơ “Vọng nguyệt” (Ngắm trăng) của Bác ngƣời đọc liên
tƣởng đến bài thơ “Tĩnh dạ thƣ” (Suy nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của
Lý Bạch. Trong bài “Đi đƣờng” của Bác có hai câu: “Trùng sơn đăng
đáo cao phong hậu. Vạn lý dƣ đƣa cố miện gian” (Núi cao lên đến tận
cùng. Thu vào tầm mắt muôn trùng nƣớc non) thì cũng có tứ thơ giống
câu thơ “Dục cùng thiên lý mục. Cánh thƣớng nhất tầng lâu” trong bài
“Đăng Quán Tƣớc lâu” của Vƣơng Chi Hoán. Bài “Giữa đƣờng đáp
thuyền đi huyện Ung Ninh” của Bác có hai câu cuối: “Lƣỡng ngạn
hƣơng thôn trù mật thậm. Giang tâm ngƣ phủ điếu thuyền khinh” (Làng
xóm ven sông đông đúc thế. Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh) rất
gần với hai câu: “Lƣỡng ngạn viên thanh đề bất tận. Khinh chu dĩ quá
vạn trùng san” (Hai bên bờ sông tiếng vƣợn kêu không ngớt. Thuyền
nhẹ tênh tênh đã vƣợt núi muôn trùng) trong bài “Tảo phát Bạch Đế
Thành” của Lý Bạch. Bài “Trung thu II” của Bác có tứ thơ “Tâm tùy
thu nguyệt cộng du du” (Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu) là bắt
nguồn từ tứ thơ “Tâm tùy hồ thủy cộng du du” (Lòng ta cứ man mác
theo nƣớc hồ mênh mông) trong bài “Tống Lƣơng Lục” của Trƣơng
Duyệt, thi sĩ thời Khai–Nguyên, Thiên–Bảo, Thịnh–Đƣờng. Nếu trong
bài “Tống Lƣơng Lục” Trƣơng Duyệt tỏ ra bất lực trƣớc sự ƣớc mong
của mình (Vân đạo thần tiên bất khả tiếp) thì trong bài “Trung thu II”
của Bác, mặc dù “Chẳng đƣợc tự do mà thƣởng nguyệt” nhƣng Ngƣời
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 43
vẫn đạt đƣợc mong ƣớc theo cách riêng đầy lạc quan, yêu đời của mình
là “lòng theo vời vợi mảnh trăng thu”…
Trong các nhà thơ đời Đƣờng, Bác Hồ yêu mến và kính phục nhất
là Đỗ Phủ. Trong “Di chúc”, Bác đã nhắc đến Đỗ Phủ: Ông Đỗ Phủ là
ngƣời làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời nhà Đƣờng có câu:
“Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (đời ngƣời sống 70 xƣa nay hiếm). Câu
thơ mà Bác trích là từ bài “Khúc giang” của Đỗ Phủ. Bài “Khúc
giang” của Đỗ Phủ có hai câu là: “Tửu trái tầm thƣờng hành xứ hữu,
Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (Nợ rƣợu thƣờng thƣờng đi đến đâu
cũng mắc phải, đời ngƣời sống 70 xƣa nay hiếm). Bác Hồ không trích
câu trên mà chỉ trích câu thơ sau của Đỗ Phủ để nói lên quy luật của
cuộc đời. Trong bài “Thất tửu” Bác lại có câu phảng phất giọng thơ
của Đỗ Phủ trong bài “Khúc giang”. Câu thơ của Bác là: “Nhân vị
ngũ tuần thƣờng thán lão” (Ngƣời đời thƣờng chƣa đến năm mƣơi đã
than già). Từ những dẫn chứng này có thể thấy Bác là ngƣời tâm đắc
và yêu mến thơ Đỗ Phủ nhƣ thế nào!
Đối với thơ ca cổ điển Trung Hoa thái độ của Bác là tiếp thu về
mặt hình thức và sáng tạo về mặt nội dung hay nói một cách khác, Bác
vận dụng từ ngữ, ý tứ, thi liệu trong thơ Đƣờng – Tống, từ đó thay đổi,
cải biến để diễn tả nội dung mới phù hợp với cách cảm, cách nghĩ độc
đáo của Bác. Ai cũng biết bài “Đăng Quán Tƣớc lâu” của Vƣơng Chi
Hoán là một bài thơ rất nổi tiếng hay cả về ý và lời. Câu thơ “Dục
cùng thiên lý mục. Cảnh thƣớng nhất tằng lâu” (Muốn tầm mắt nhìn
thấu nghìn dặm, hãy lên cao một tầng lầu) của Vƣơng Chi Hoán là tả
chiều cao và chiều rộng của không gian nhƣng chƣa nói đƣợc cái tình
ngƣời. Trong bài “Nạn hữu xuy địch” (Nghe bạn tù thổi sáo) dựa theo
tứ thơ của Vƣơng Chi Hoán nhƣng Bác diễn tả theo cách riêng của
mình. Cách riêng ấy là tình cảm, lòng thƣơng ngƣời vô hạn của Bác
trong chốn lao lung tù ngục: “Thiên lý quan hà khôn xiết nỗi, Lên lầu
ai đó ngóng trông nhau”. Rõ ràng hai câu thơ của Bác rất sâu sắc về ý
và lời. Câu thơ dàn trải về không gian, thời gian nhƣng nặng trĩu, sâu
44 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
lắng về nỗi đau của lòng ngƣời. Sự so sánh, liên tƣởng của Bác trong
hai câu thơ này là đúng và hay.
Một nhà thơ đời Đƣờng mà Bác cũng có nhiều thiện cảm, đó là
Đỗ Mục (803 - 853). Ông tự Mục Chi, ngƣời Kinh Triệu, tỉnh Thiểm
Tây, năm 26 tuổi đậu tiến sĩ, có ra làm quan. Ông giỏi về thơ thất
ngôn, tuyệt cú, ý hàm súc, lời điêu luyện. Cùng với “Bạc Tần Hoài”,
“Thanh minh” là một bài thơ nổi tiếng của ông đƣợc ngƣời đời sau
truyền tụng. “Thanh minh” miêu tả tâm trạng u buồn, chán ngán và
lạnh lẽo của kẻ hành nhân lữ thứ trong cảnh thời tiết của ngày thanh
minh có mƣa phùn, rét buốt. Dựa vào tiêu đề của Đỗ Mục trong “Nhật
ký trong tù” Bác cũng sáng tác một bài thơ chữ Hán tên là “Thanh
minh”. Câu đầu của bài thơ Bác vẫn giữ nguyên câu thơ của Đỗ Mục
(Thanh minh thời tiết vũ phân phân) nhƣng đến câu thơ thứ 2, 3 và 4
thì Bác thay đổi từ ngữ để diễn tả nội dung hoàn toàn mới (Lung lý –
Tù nhân – Tự do – Vệ binh – Biện công môn). Ở đây không còn là
hình ảnh của một ngƣời lữ thứ trong ngày thanh minh trời lạnh, giá rét,
trời mƣa, cô đơn, u buồn chỉ biết tìm đến một quán rƣợu để giải sầu mà
là hình ảnh của một ngƣời tù nhân ở chốn lao lung, khát khao cuộc sống
tự do, có nhu cầu về quyền sống, quyền làm ngƣời. Đúng nhƣ nhận xét
của Phan Nhuận, ngƣời dịch “Nhật ký trong tù” ra tiếng Pháp, tuy Bác
thay đổi có 11 chữ nhƣng đã “thay đổi linh hồn của một bài thơ”. Có
nghĩa là từ bút pháp hoàn toàn hiện thực của Đỗ Mục, Bác đã chuyển
sang bút pháp lãng mạn cách mạng với nội dung hoàn toàn mới, mang
tính thời sự và thời đại sâu sắc.
Nói đến việc vận dụng sáng tạo và linh hoạt của Bác đối với thơ
tuyệt cú Đƣờng luật phải nói đến trƣờng hợp Bác sử dụng tứ thơ độc
đáo trong bài “Phong Kiều dạ bạc” của thi sĩ Trƣơng Kế (sống trƣớc
sau năm 756), ngƣời thời Thịnh Đƣờng. Ông là ngƣời Tƣờng Châu,
tỉnh Hồ Bắc, đậu tiến sĩ và có ra làm quan. Thơ của Trƣơng Kế chủ
yếu là thơ tả cảnh. Bài “Phong Kiều dạ bạc” (Đêm đậu thuyền ở bến
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 45
Phong Kiều) là thi phẩm tuyệt vời, không có thi tập và thi thoại nào là
không nhắc đến. Tƣơng truyền rằng thi phẩm này của Trƣơng Kế, có
đƣợc là do có cảm xúc dạt dào, bột phát của tác giả khi nghe tiếng
chuông chùa Hàn San trong đêm khuya thanh vắng vọng đến thuyền
khách đang đậu ở bến Phong Kiều. Trƣớc cảnh đẹp thiên nhiên vào
rằm tháng giêng ở Việt Bắc, Bác đã sáng tác bài thơ “Nguyên tiêu”.
Bài thơ của Bác mang “phong vị” của thơ Đƣờng rất rõ nét. Điều đáng
nói ở đây là tƣ thế của hai thi nhân ở hai hoàn cảnh khác nhau. Cùng
là ban đêm nhƣng thi sĩ Trƣơng Kế thì buồn sầu, thả hồn theo giấc ngủ
trên chiếc thuyền con bé nhỏ trƣớc cảnh đèn chài lẻ loi và hàng cây
phong lặng lẽ, trong khi đó đêm “Nguyên tiêu” Bác đang “giữa dòng
bàn bạc việc quân”, bàn về việc quốc gia đại sự giữa đêm khuya trong
núi rừng Việt Bắc. Tính chất thơ ca phƣơng Đông cổ kính, trang
nghiêm, với sự cách tân hiện đại đƣợc Bác thể hiện trong thi phẩm
tuyệt vời này. Cũng là cảnh ban đêm nhƣng cảnh trong bài “Phong
Kiều dạ bạc” là “trăng tà, tiếng quạ kêu sƣơng”, là “lửa chài, cây bến
sầu vƣơng giấc hồ”, là “thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng
chuông chùa Hàn San” còn cảnh trong bài “Nguyên tiêu” của Bác là
cảnh “Rằm xuân lồng lộng trăng soi”, là “Sông xuân nƣớc lẫn màu
trời thêm xuân”, là “Giữa dòng bàn bạc việc quân, khuya về bát ngát
trăng ngân đầy thuyền” ở núi rừng Việt Bắc trong những năm kháng
chiến gian khổ. Bài “Tặng Trần Canh đồng chí” (Tặng đồng chí Trần
Canh) của Bác là “họa” lại bài thơ “Lƣơng châu từ” của thi sĩ Vƣơng
Hàn đời Đƣờng. Bài thơ này của Bác là làm tặng tƣớng Trần Canh
thời kháng chiến ở Việt Bắc.
Ông Quách Mạt Nhƣợc là một nhà văn, nhà thơ lớn của Trung
Quốc. Khi ông sang thăm Việt Nam, vào thăm nơi ở và làm việc tại
ngôi nhà sàn trong Phủ Chủ tịch Bác đã mời ông Quách Mạt Nhƣợc
ngồi xuống sàn và cùng nói chuyện thơ văn. Bác nói với ông Quách
Mạt Nhƣợc về ấn tƣợng sâu sắc của Bác với thơ văn Đƣờng – Tống.
46 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
Sau buổi tiếp, Bác đã tặng ông Quách Mạt Nhƣợc tập thơ “Nhật ký
trong tù” vừa xuất bản. Bác đề nghị ông Quách Mạt Nhƣợc đọc và
viết nhận xét. Sau khi về nƣớc, đọc đi đọc lại tập thơ viết bằng chữ
Hán vô giá của Bác làm trên đất Trung Quốc năm xƣa ông Quách Mạt
Nhƣợc đã viết bài đăng trên báo chí Trung Quốc và nhận xét: “Nhật ký
trong tù “không phân biệt đâu là thơ Bác, đâu là thơ Đƣờng – Tống”
và nhà thơ Viên Ƣng không hết lời ca ngợi Bác là “bậc đại trí, đại
nhân và đại dũng”.
HSH
“VĂN DĨ TÂI ĐẠO”
TRONG CÁC TÁC PHẨM ĐƯỜNG THI CÛA HỒ CHÍ MINH
Ths. Đào Tuấn Anh
Bảo tàng Hồ Chí Minh
Khi đề cập đến giá trị của những tác phẩm thi ca Hồ Chí Minh
mang khuynh hƣớng Đƣờng thi đƣợc thể hiện trong tập thơ Nhật ký
trong tù, nhà văn, nhà thơ, Quách Mạt Nhƣợc của Trung Quốc đã
nhận xét: “Nội dung là thổ lộ trực tiếp nỗi niềm tâm sự hoặc phản
ánh những điều thấy trƣớc mắt, hầu hết đều không màu mè, tô vẽ,
mà rõ ràng nhƣ lời nói. Có một số bài rất hay, nếu nhƣ đặt lẫn vào
trong tập thơ của những thi nhân thời Đƣờng đời Tống, thì cũng
khó mà phân biệt đƣợc”1. Giá trị về mặt văn học nghệ thuật là nhƣ
vậy, nhƣng cũng chính những tác phẩm này còn thể hiện một khía
cạnh khác, đó chính là tôn chỉ, mục đích viết và sáng tác “văn dĩ tải
đạo” của Hồ Chí Minh.
Sinh thời mục đích viết trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đƣợc
Ngƣời xác định đó là viết cho ai, viết làm gì, viết cái gì và viết nhƣ thế
nào. Vì vậy, trong những tác phẩm báo, thơ, những bài văn chính luận,
Ngƣời đều viết rất ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức
của đa số ngƣời dân Việt Nam, đa phần những tác phẩm thể hiện mục
đích tuyên truyền cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều “muốn
nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có ngƣời sẽ chê rằng văn
1Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,
2012, tập 3, tr. 327.
48 | ThS. Đào Tuấn Anh
chƣơng cụt quằn. Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau
mắn, chắc chắn nhƣ 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả”2,
Với Hồ Chí Minh, Ngƣời nhận thấy:
Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông.
Nhƣng, ở trong thời kỳ mà cả đất nƣớc đều chịu dƣới ách áp
bức của chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì nhà thơ cũng phải đứng lên
chiến đấu, phải dùng ngòi bút của mình để đánh địch trên mặt trận
văn hóa, tƣ tƣởng, vậy nên:
“Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”
Bởi Ngƣời hiểu rằng “Hơn sáu mƣơi năm nay, đế quốc chủ nghĩa
Pháp đạp trên đầu; hơn hai mƣơi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử
địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu rảnh mà
vẽ vời trau chuốt!...”3 Thực hiện tôn chỉ, mục đích đó nên đa phần thơ,
văn, báo chí của Ngƣời đều đi vào lòng quần chúng nhân dân nhƣ
những câu ca dao, hò vè, truyền khẩu ngắn gọn, thích ứng với những
đối tƣợng tuyên truyền cụ thể thì có những tác phẩm cụ thể nhƣ: Hòn
đá, Ca sợi chỉ, Con cáo và tổ ong, Ca binh lính,…
Khi trò chuyện với M. Tkát Sốp, dịch giả Liên Xô về mối quan hệ
giữa thơ và chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chia sẻ:
“Tôi vẫn nghĩ thơ và chính trị không thể tách rời - Ngƣời ngừng một
chút rồi thêm - Còn, có phải thơ chính trị không “cao quý”? Và đó
không phải là loại mà ngƣời làm thơ có thể viết hay? Có phải nhà thơ
không cần làm những bài thơ liên quan đến việc đấu tranh với những
cái xấu? Không, không thể thế đƣợc. Tôi cho rằng, không nghi ngờ gì
cả, cũng nhƣ các ngành nghệ thuật khác, thơ phải gắn bó với sự
nghiệp cách mạng; đó là điều khẳng định. Và những gì đặt ra chung
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.283.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.283.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 49
quanh việc này có quan hệ đến nhân cách nhà thơ”4. Rõ ràng, với Hồ
Chí Minh, thơ và chính trị có một sự gắn kết đặc biệt, thơ ca không
thể xa rời cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, thi nhân không thể
không thể hiện trách nhiệm trƣớc vận mệnh của nhân dân và của chính
bản thân mình.
Mục đích, tôn chỉ là nhƣ vậy, và trong các sáng tác của mình ,
Hồ Chí Minh cũng nghiêm túc thực hiện tinh thần thẳng thắn, ngắn
gọn, cô đọng, súc tích, dễ xem, dễ hiểu, dễ thực hành. Tuy nhiên
trong di sản thơ văn đồ sộ của Hồ Chí Minh không thể không đề
cập tới một hệ thống các tác phẩm mang khuynh hƣớng Đƣờng thi,
vừa có giá trị văn học, nghệ thuật cao, thể hiện trí tuệ, trình độ thơ
văn đạt đến độ mẫu mực của Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là sự
giãi bày những tâm tƣ, tình cảm, quan điểm sáng tác “văn dĩ tải
đạo” của Ngƣời, dùng thơ văn làm phƣơng tiện truyền tải tƣ tƣởng,
suy nghĩ của mình trƣớc thời cuộc.
Sinh ra và lớn lên trên một vùng đất có mạch nguồn văn hóa nổi
bật, lại đƣợc đào tạo những giá trị Hán học ngay từ thủa thiếu thời, vì
vậy những ảnh hƣởng của thi ca Trung Quốc đã sớm thấm đẫm trong
con ngƣời Hồ Chí Minh. Theo GS. TSKH, nhà phê bình lý luận văn
học Phƣơng Lựu: “Có thể nói Bác là một vạch nối vĩ đại giữa chúng
ta, những thế hệ con cháu của Ngƣời, với tất cả những cái gì tốt đẹp:
chân, thiện, mỹ trong cuộc đời và trong lịch sử. Đồng chí Phạm Văn
Đồng có nói, Bác đã Việt Nam hoá cho chúng ta tất cả những cái gì là
tinh hoa của thế giới. Cũng có thể học tập cách nói ấy và thêm rằng
Bác đã hiện đại hóa cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp trong
quá khứ dân tộc. Ở một mức độ nhất định, thơ Đƣờng là giao tiếp của
hai mặt đó. Vì thơ Đƣờng là sản phẩm văn hoá của nƣớc láng giềng,
nhƣng đã vốn gắn bó với di sản của ta. Ngƣời ta thƣờng nói đến cái
cốt cách Á Đông, cái phong thái cổ điển ở Bác. Thơ Đƣờng đƣợc sử
4Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,
2012, tập 3, tr. 402.
50 | ThS. Đào Tuấn Anh
dụng và đổi mới trong thơ Bác - chủ yếu là ở trong thơ chữ Hán - mặc
dù ở một góc rất nhỏ, cũng góp phần nói lên cái cốt cách đó, cái phong
thái đó”5. Tuy vậy, cái chất thơ Đƣờng đó xét cho đến cùng cốt cũng
chỉ để nói lên tinh thần và khí phách con ngƣời cách mạng Hồ Chí
Minh, nói lên nỗi tâm tƣ và khát vọng của một ngƣời muốn đổi thay,
cách mạng để xây dựng nên một thế giới, một đất nƣớc tốt đẹp hơn, vì
vậy, ở khía cạnh nào đó, “nói thơ chữ Hán của Bác chịu ảnh hƣởng của
Đƣờng thi, không bằng nói có sự gặp gỡ giữa phong cách Đƣờng thi
với phong thái của Bác: ung dung, thanh thản, nhƣng kỳ vĩ sâu lắng”6.
Hồ Chí Minh cũng đồng thời thể hiện rõ là một thi nhân kiệt xuất,
am tƣờng những giá trị văn hóa cổ kim của cả phƣơng Đông và
phƣơng Tây, sự tài tình của Ngƣời là đã lồng ghép những giá trị tinh
tế của văn hóa phƣơng Tây vào các tác phẩm Đƣờng thi phƣơng
Đông. Dịch giả Phan Nhuận, ngƣời đã dịch tác phẩm Nhật ký trong tù
ra tiếng Pháp đã nhận xét khá tinh tế về nội dung hình tƣợng trong hai
bài Cấm hút thuốc lá và Tiết thanh minh nhƣ sau: “Trƣớc một tấm
bảng đề cấm hút thuốc, một tên cai ngục tịch thu thuốc lá của tù nhân.
Để bắt ngƣời ta tôn trọng pháp luật chăng? Không phải, để nhét cho
đầy cái túi thuốc lá của nó. Đây là lối châm biếm Pháp: đòi hỏi, bƣớng
bỉnh. Một tù nhân trƣớc cảnh mƣa phùn không ngớt, giam hãm tâm
hồn trong hàng triệu sợi dây của một mối thất vọng ảo não. Vậy không
nơi nào có lối thoát ƣ? Ngƣời cai ngục chỉ ra lối công đƣờng ở xa. Đó
là nụ cƣời Anh”7.
Làm đƣợc điều đó, bởi Hồ Chí Minh đã là sự tích hợp các giá trị
văn hóa không chỉ của phƣơng Đông mà còn cả các giá trị văn hóa
phƣơng Tây, bởi khi nghiên cứu và tìm hiểu về các tác phẩm văn học
của nhân loại, Ngƣời “thích đọc Sếch–pia (Shakespeare) và Đích–ken
5Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005,
tr. 479. 6Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 482.
7Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 480.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 51
(Dickens) bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa và Huy Gô
(Hugo), Dôla (Zola) bằng tiếng Pháp”. Ngôn ngữ, đó chính là con
đƣờng tốt nhất mà Hồ Chí Minh đã dùng để mở và đi vào khu vƣờn
văn hóa của các quốc gia, học hỏi và làm giàu cho vốn hiểu biết của
mình, đồng thời từ đó cũng xây dựng và định hình nên một khả năng
độc lập trên cơ sở kế thừa tinh hoa của dân tộc và nhân loại trong
những sáng tác của Ngƣời. Ngƣời có thể làm thơ mang phong cách
Đƣờng thi bởi Ngƣời đã hiểu và làm chủ Đƣờng thi, hiểu và nắm vững
văn hóa Trung Hoa, để từ đó, Ngƣời đã có thể sáng tạo trên cơ sở từ
chính Đƣờng thi.
Ngƣời thực sự trở thành một tác gia lớn của nền văn thơ hiện đại
nƣớc nhà, trong những giá trị thi ca to lớn Hồ Chí Minh để lại, những
tác phẩm Đƣờng thi của Ngƣời thực sự là mẫu mực về thơ văn. Những
thi phẩm của Hồ Chí Minh mặc dù thi liệu vẫn mang tính truyền
thống, nội dung có thể vẫn là những cảnh lƣu luyến khi chia tay, nỗi
niềm xúc động trƣớc phong cảnh đẹp, hay nỗi nhớ bạn hữu, quê
hƣơng của ngƣời thi sĩ đang phải chịu cảnh tha hƣơng,…
“Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng;
Nay gặt đã xong, cày đã khắp,
Quê ngƣời, tôi vẫn chốn lao lung.”
Hay:
“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gƣơng sáng, bụi không mờ;
Bồi hồi dạo bƣớc Tây Phong lĩnh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xƣa.”
Nhƣng hồn trong đó lại thể hiện chí khí của ngƣời cách mạng
hiện đại, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi trƣớc những đe dọa từ
thực tế đang phải chịu đựng, và niềm tin sắt đá không gì lay chuyển
nổi của Ngƣời.
52 | ThS. Đào Tuấn Anh
“Trời xanh cố ý hãm anh hùng
Tám tháng hao mòn với xích gông
Tấc bóng nghìn vàng đà đáng tiếc
Ngày nào thoát khỏi chốn lao lung”
Trong thơ Hồ Chí Minh, hình ảnh Tổ quốc đau thƣơng luôn hiện
lên, nhắc Ngƣời không bao giờ đƣợc quên trách nhiệm của mình với
việc giải phóng nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ.
“Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh,
“Nội thƣơng” đất Việt cảnh lầm than;
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!”
Vƣợt lên trên những đè nén, khó khăn gặp phải trên hành trình
vạn dặm tìm lại vị thế cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã không ngừng tu
dƣỡng, rèn luyện mình trong những bƣớc gian truân; Trong bài Bốn
tháng rồi, Ngƣời viết:
“Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài”,
Lời nói ngƣời xƣa đâu có sai;
Sống khác loài ngƣời vừa bốn tháng,
Tiều tuỵ còn hơn mƣời năm trời.”
Bởi vì:
“Bốn tháng cơm không no,
Bốn tháng đêm thiếu ngủ,
Bốn tháng áo không thay,
Bốn tháng không giặt giũ.”
Cho nên:
“Răng rụng mất một chiếc,
Tóc bạc thêm mấy phần,
Gầy đen nhƣ quỷ đói,
Ghẻ lở mọc đầy thân.”
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 53
May mà:
“Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần.”
Trong bài Nghe tiếng giã gạo, Ngƣời đã thể hiện rõ quyết tâm rèn
luyện sắt đá:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công”
Ý chí của những câu thơ này theo nhiều nhà nghiên cứu “đã đẩy
lùi thơ Đƣờng vào dĩ vãng khá xa”. Bởi, “trong thơ cổ nếu có những
bài thơ tự khuyến thì cũng chỉ là trên một vài phƣơng diện của tƣ đức,
còn nếu có đặt vấn đề ở tầm cao hơn, thì phần nhiều cũng là những lời
tuyên bố, chứ chƣa phải là sự thực đƣợc đúc kết. Con ngƣời trong thơ
Đƣờng có chan hòa đƣợc trong thiên nhiên, thì lại bị đè bẹp bởi hoàn
cảnh xã hội”8.
Từ chỗ thấm những giá trị Đƣờng thi trong những tác phẩm của
mình, Hồ Chí Minh còn bổ sung và làm giàu cho Đƣờng thi những nội
dung mới, tƣ tƣởng mới, canh tân, cách mạng, thực hiện đúng tôn chỉ
dùng thơ làm chính trị của Ngƣời. Sự đổi mới này thậm chí đƣợc đánh
giá có những chỗ vƣợt lên bởi đã quy tụ đƣợc về hai điểm: dân tộc và
cách mạng. “Nội dung mới này gây ra sự phá vỡ, đổi mới theo nhiều
mức độ trong hình thức thơ Đƣờng. Trƣớc hết là về tứ thơ. Tứ thơ gắn
liền với tƣ tƣởng, nhƣng thƣờng đƣợc gói ghém trong một vài hình
tƣợng tƣơng đối rõ nét… Cái nghệ thuật chuyển dùng rất tinh vi này
cũng rất đúng với việc đổi mới những thi tứ Đƣờng thi trong thơ Bác.
Tài năng nghệ sĩ của Bác là ở chỗ vẫn sử dụng một đôi chút chất liệu
8Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 487
54 | ThS. Đào Tuấn Anh
trong thơ Đƣờng, nhƣng thay đổi lại hoặc đƣa thêm vào một ít chất
liệu mới làm cho nó biểu hiện một nội dung mới theo những hƣớng
nói trên”9. Sự đổi mới đó còn đƣợc thể hiện qua ngôn ngữ, thể loại,
phong cách,… rất đa dạng và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đặc biệt
nhiều ngôn từ của phƣơng Tây và của Việt Nam cũng đã đƣợc Hồ Chí
Minh sử dụng nhuần nhuyễn trong các bài thơ mang chất Đƣờng thi
của mình.
Sáng tác thơ của Hồ Chí Minh cũng nhƣ Ngƣời làm cách mạng
thực sự với tinh thần sáng tạo, vƣợt gộp10
và truyền tải đúng đắn, hiệu
quả trách nhiệm của ngƣời chiến sĩ cách mạng, ngƣời thi sĩ trƣớc thời
cuộc, vận mệnh của quốc gia dân tộc, cốt đem những giá trị học thuật ra
giúp đời, dấn thân vào cuộc cách mạng cũng chính là tƣ tƣởng nhập thế
mà Hồ Chí Minh đã thổi hồn vào những tác phẩm Đƣờng thi của mình.
Có thể nói không quá rằng, trên lĩnh vực nào ngƣời ta cũng thấy
những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ngƣời đƣợc coi là
nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo,… nhƣng Ngƣời chƣa bao giờ
chính thức nhận cho mình một danh hiệu nào cả. Khi trao đổi với một
nhà báo Liên Xô, Ruf Bersatxki, Ngƣời tâm sự: “Tôi là cây bút tiểu
phẩm, nhà chính luận. Gọi là nhà tuyên truyền tôi cũng không tranh
cãi, nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất”11
. Với thơ ca, Ngƣời
cũng tự nhận xét:
“Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhƣng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây”,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”
9 Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 489.
10 Theo PGS Phan Ngọc: “Vƣợt gộp” là tiếp thu cái mới nhƣng đổi mới nó trên cơ sở cái cũ
đã đƣợc đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh mới; nghĩa là bảo vệ đƣợc cả cái cũ lẫn cái
mới sao cho thích hợp với sự đổi mới cần phải tiến hành. “Vƣợt gộp” không phải là nhắm
mắt chạy theo cái mới, vứt bỏ cái cũ, không phải là khƣ khƣ giữ lấy cái cũ, từ bỏ cái mới.
11 Ruf Bersatxki (Liên Xô): Một lần gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo Văn Nghệ 1980.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 55
Khiêm tốn, giản dị không bao giờ tự nhận mình là một thi nhân,
nhƣng dƣới cái nhìn của những nhà văn, nhà thơ thế giới, Hồ Chí
Minh đích thực “là một trong những nhà thơ lớn nhất ngày nay, một
trong những đại biểu cuối cùng của một nền văn học đánh dấu bằng
cả ngàn năm bị đô hộ và áp bức”12
. Trong những sáng tác của Ngƣời,
những tác phẩm mang khuynh hƣớng Đƣờng thi thực sự giữ một vị
trí trang trọng, “Ngƣời đã có một cống hiến lớn về văn học bằng
ngôn ngữ nƣớc ngoài. Vƣợt lên khuôn khổ nghiêm ngặt của luật thơ
Đƣờng, Ngƣời viết nên những vần thơ của tiếng khóc, tiếng cƣời.
Chính sự trào lộng, niềm yêu đời, những tiếng tự đáy lòng… làm cho
thơ Ngƣời càng phong phú và có giá trị hiện thực lớn. Tóm lại, nội
dung cách mạng mới, những cảm xúc mới đã đƣợc thể hiện bằng luật
thơ “cổ điển”13
.
ĐTA
12
Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3, tr. 105.
13 Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3, tr. 402.
56 | ThS. Đào Tuấn Anh
KHÂO SÁT HIỆN TƯỢNG PHÁ CÁCH TRONG THƠ
ĐƯỜNG LUẬT HỒ CHÍ MINH
Lê Đình Sơn
Khoa Ngữ văn Đại học Vinh
1. Lịch sử thơ Đƣờng Trung Quốc, có một số bài thơ của các nhà
thơ nổi tiếng cố tình phạm thi luật. Ngƣời ta cho những lỗi đó là
“dụng ý nghệ thuật” của tác giả. Phải chăng những dụng ý ấy làm cho
bài thơ của họ càng có ấn tƣợng lâu bền trong lòng bạn đọc qua bao
thời đại. Xin nêu hai trƣờng hợp điển hình. Nhà thơ Lý Bạch trong câu
đầu bài thơ “Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng
Lăng” vẫn giữ từ “nhân”(cố nhân) mà không thay từ khác có thanh
trắc để hợp luật.
“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu”
Bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu cũng phạm luật “Nhị tứ
lục phân minh” ngay từ câu đầu tiên.
“Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ”
Lẽ ra từ thứ tƣ “thừa” và chữ thứ sáu “Hạc” phải mang thanh trắc
và thanh bằng. Tác giả Thôi Hiệu nhận ra điều này nhƣng ông vẫn
không sửa. Ở Việt Nam, Hồ Xuân Hƣơng trong bài thơ “Đèo ba dội”
cũng thể hiện một dụng ý nghệ thuật khi sai luật bằng trắc ở từ thứ hai
của câu thơ.
“Một đèo, một đèo, lại một đèo”
Từ “đèo” chữ thứ hai của câu thơ trên lẽ ra phải mang thanh trắc,
nhƣng ở đây tác giả vẫn dùng thanh bằng để nhấn mạnh ý nghĩa ba lần
58 | Lê Đình Sơn
điệp từ “đèo”. Cùng với điệp ba lần từ “một”, câu thơ “Một đèo, một
đèo, lại một đèo”, tạo cho ta một cảm giác sâu sắc về núi non trùng
điệp hùng vỹ của một vùng đất Tam Điệp Ninh Bình xƣa và nay.
Bác Hồ trong quá trình sáng tác đã để lại một số bài thơ tiêu biểu
thể hiện sự phá cách thơ tứ tuyệt ở nhiều hình thức khác nhau. Có bài
thơ Bác phá luật bằng trắc, phá luật thơ nhƣ “Vãn cảnh”, “Báo tiệp”.
Ở những bài thơ tứ tuyệt gieo vần trắc – mà nhiều nhà thi pháp học
xếp vào thơ cổ phong – nhƣ Thiên Giang ngục hay bài thơ tứ tuyệt ở
đầu tập “Ngục trung nhật ký”, ta cũng thấy sự mạnh dạn, sáng tạo của
Bác trong việc sử dụng các vần điệu.
Sau đây chúng tôi xin bàn đến sự phá cách trong bài thơ “Vãn cảnh”
“Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ
Hoa khai hoa tạ lƣỡng vô tình
Hoa hƣơng thấu nhập lung môn lý
Hƣớng tại lung nhân tố bất bình”
Thơ dịch:
“Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình
Hƣơng hoa bay thấu vào trong ngục,
Kể với tù nhân nỗi bất bình”
Tìm hiểu lỗi phá cách bằng trắc ở ba bài thơ trên của Lý Bạch,
Thôi Hiệu, Hồ Xuân Hƣơng ta thấy rằng những từ phạm luật thơ đều
là danh từ nhƣ “cố nhân”, “Hoàng Hạc”, “đèo” ở bài “Vãn cảnh”, từ
“Mai khôi” cũng thuộc danh từ.
Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ.
Bài thơ “Vãn cảnh” đƣợc Bác làm theo luật trắc của thơ tứ tuyệt.
Nhƣ vậy chữ thứ hai của câu đầu phải mang thanh trắc. Nhƣng chữ
thứ hai ở đây lại mang thanh bằng (Khôi). Thông thƣờng chữ thứ hai
và chữ thứ sáu trong câu thơ phải cùng thanh. Chữ thứ sáu của câu
thơ: “Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ” là thanh trắc (Hữu). “Mai khôi”
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 59
là một danh từ vì vậy Bác chấp nhận nhƣ một dụng ý nghệ thuật mà
không thay từ khác. Phải chăng những “lỗi” bằng trắc thuộc về danh
từ nhƣ đã nói ở trên là sự trùng hợp ngẫu nhiên của các nhà thơ lớn!.
“Vãn cảnh” đƣợc Bác Hồ làm theo thể tứ tuyệt trốn vận cùng với
điểm nhấn phá cách bằng trắc, câu thơ thứ nhất gây cho ngƣời đọc
một ấn tƣợng, một suy cảm đáng trân trọng về loài hoa hồng mà Bác
thể hiện quan điểm nhân văn tốt đẹp trong suốt bài thơ. Bài thơ còn là
một quan điểm thẩm mỹ, đúng đắn, lành mạnh khi hình tƣợng hoa
hồng đƣợc Bác sử dụng phép nhân hóa.
Bắt nguồn từ một hiện tƣợng thiên nhiên - cảnh nở tàn của hoa
hồng trong khoảng lắng suy tƣ; buổi chiều, nhà thơ đã gửi vào đó
những chiêm nghiệm về cuộc đời, những nỗi niềm xúc cảm của mình.
Trong vô vàn những hiện thực hiển diện quanh mình, tác giả chọn hoa
hồng - loài hoa tƣợng trung cho vẻ đẹp đáng trân trọng nâng niu. Tạo
hóa đã sinh ra hoa hồng, phú cho nó vẻ đẹp hƣơng sắc thế mà không
cho nó hƣởng ngoại lệ, cái đẹp ấy giờ đây đang tàn phai.
Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ.
Câu thơ với năm thanh bằng và hai thanh trắc nhƣ gợi dậy một
cách cụ thể sự lan tỏa của hƣơng hoa và thực tại những cánh hoa đẹp
đang dần rụng khơi dậy trong lòng ngƣời đọc một cảm giác nao lòng.
Nao lòng trƣớc quy luật của tạo hóa. Quy luật cào bằng mọi số phận,
quy luật áp đặt luật lệ không trừ ai.
Hoa khai hoa tạ lƣỡng vô tình.
Cái đẹp ở đây cũng phải chịu chung số phận khắc nghiệt. Đến đây
chúng ta có thể nói rằng tạo hóa đã vô tình khi tạo ra cái đẹp để rồi
đánh đồng số phận nó với tất cả.
Khái quát đƣợc thực tế chứng tỏ Bác không hề vô cảm mà trong
Ngƣời đậm chất nghệ sỹ và trái tim nhân ái vô bờ. Trái tim ấy giúp
Ngƣời cảm nhận đƣợc sức sống của cái đẹp: Mặc dù hoa nở rồi tàn,
hoa không tránh đƣợc quy luật của tạo hóa, song hoa tàn nhƣng linh
60 | Lê Đình Sơn
hồn hoa không tắt, bằng chứng là hƣơng hoa bay đi tìm đến với hồn
đồng điệu.
“Hƣơng hoa thấu nhập lung môn lý,
Hƣớng tại lung nhân tố bất bình”
Đến hai câu thơ này hình tƣợng thơ có sự vận động, hoa hồng từ
chỗ là một ý niệm trìu tƣợng, một cái bóng thì đây trở thành một linh
hồn cụ thể với tâm sự nỗi niềm muốn chia sẻ với tù nhân. Hoa tìm đến
Bác bởi Bác là ngƣời mang trong mình phẩm chất một nghệ sỹ nên
hơn ai hết có thể cảm thông, sẽ chia với số phận mong manh của cái
đẹp. Tỏ bày nỗi bất bình hƣơng hoa đã khẳng định đƣợc sức sống của
mình, hoa không cam chịu sự bất công của tạo hóa mà bay đi đòi
quyền sống. Tƣ tƣởng nhân văn cao cả của Bác chính là ở sự phát hiện
mới mẻ ấy.
Ở trên nói vô tình, ở dƣới nói bất bình. Hoa là nhân vật nhập thân
do nỗi niềm của hoa chính là nỗi niềm ấm ức với sự bất công - bất
bình cho hoa, phải chăng cũng là nỗi bất bình của Bác trƣớc cảnh
giam hãm, tù đày.
Đồng cảm đƣợc với số phận của một loài hoa Bác khẳng định
đƣợc bản thân mình và sự bất khả chiến bại của cái đẹp trong mọi
hoàn cảnh.
Có lẽ “Vô đề” dƣới đây đƣợc xem là thơ đề từ cho tập “Ngục
trung nhật ký”. Chúng ta biết thơ đề từ thƣờng định hƣớng tƣ tƣởng
chủ đề, quan điểm tƣ tƣởng và nghệ thuật của tác giả qua tập thơ. Bài
thơ “Vô đề” của Bác Hồ đem đến cho chúng ta những bài học giáo
dục sâu sắc. Đó là lẽ sống đúng đắn, khát vọng và mục đích, hành
động phấn đấu cho một sự nghiệp lớn, lý tƣởng cao đẹp. Muốn đạt
đƣợc những điều ấy, con ngƣời phải rèn luyện tinh thần, bản lĩnh phải
cao. Bài “Vô đề” thể hiện sự kế thừa và cách tân thể thơ tứ tuyệt mạnh
mẽ của Bác Hồ.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 61
Bài thơ “Vô đề” thuộc tập “Ngục trung nhật ký” Bác Hồ có dụng
ý phá cách thơ tứ tuyệt:
“Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại”
Thơ dịch:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
Có thể nói bài thơ Bác viết bằng chữ Hán ngũ ngôn tứ tuyệt không
có đề tựa trên đây là một hiện tƣợng độc đáo bất ngờ. Cách hiệp vần
của bài thơ không theo quy luật bắt vần thông thƣờng của thơ tứ tuyệt.
Nếu là vần bằng ở cuối câu thứ nhất “trung” thì chữ cuối của câu thứ
hai Bác lại dùng từ mang thanh trắc (ngoại). Chữ cuối của câu thứ ba
và câu thứ tƣ cũng đều thanh trắc (nghiệp, đại). Nhƣ vậy xét cách hiệp
vần của bài thơ này, Bác không theo mô hình gieo vần bằng của tứ
tuyệt Đƣờng luật. Nghiên cứu kỹ đặc điểm hợp vần của bài thơ, chúng
tôi thấy Bác vận dụng một cách sáng tạo luật gieo vần trắc của thơ ngũ
ngôn tứ tuyệt. Hai vần trắc ở câu thứ hai (ngoại) và câu thứ tƣ (đại)
chính là vần của bài thơ “Không đề”. Gieo vần trắc trong thơ Đƣờng
luật rất ít xảy ra. Bài thơ trên Bác vẫn mạnh dạn cách tân, bung phá
tạo nên một hiện tƣợng “lạ” trong thơ Đƣờng luật Việt Nam. Nếu xem
bài thơ này đƣợc Bác viết theo kiểu vần trắc thì chữ cuối của câu thứ
ba phải mang thanh bằng, nhƣng ở đây Bác lại dùng thanh trắc
(nghiệp). Thành ra bài thơ không chỉ độc đáo về cách hiệp vần mà còn
đổi mới phá cách trong việc dùng thanh bằng trắc ở cuối câu thứ nhất
và thứ ba.
62 | Lê Đình Sơn
Những dụng ý “nghệ thuật” đƣợc Bác dùng trong bài thơ càng làm
nổi bật ý nghĩa tƣơng phản, đối lập giữa “thân thể” và “tinh thần” của
chủ thể trữ tình bài thơ:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao”
Ta càng cảm phục hình tƣợng ngƣời tù cộng sản trong lao ngục.
Kẻ thù có thể giam hãm, cùm trói thể xác của Bác Hồ. Chúng không
bao giờ trói buộc đƣợc tinh thần, tƣ tƣởng, trí óc của ngƣời cộng sản.
Ta bắt gặp ý tƣởng đẹp đẽ này trong câu thơ của Xuân Thủy tƣơng
đồng với ý thơ của Bác.
“Đế quốc tù ta, ta chẳng tù”
Cấu trúc đặc biệt của vần thơ cách dùng nhấn mạnh những từ “đại
sự nghiệp”, “cánh yếu đại” ở hai câu cuối bài thơ có giá trị nhƣ một
khích lệ, một quy luật tất yếu của sức mạnh tinh thần trƣớc bất kỳ một
hoàn cảnh gian nan, khó khăn nào.
“Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
Mới đọc thoáng qua, một số ngƣời băn khoăn, khó xác định bài
thơ trên thuộc thể loại thơ bốn câu năm chữ hay thơ ngũ ngôn tứ
tuyệt? Chúng tôi cho rằng Bác làm bài thơ này theo thể tứ tuyệt vần
trắc trốn vận. Chữ cuối của câu thứ nhất lẽ ra phải mang thanh trắc và
hợp với hai vần (ngoại, đại) nhƣng Bác đã tĩnh lƣợc vần trắc thứ nhất.
Căn cứ vào bản dịch thơ, tác giả Nam Trân cũng dịch bài thơ “Vô
đề” trên đây theo thể vần bằng ngũ ngôn tứ tuyệt.
2. Thơ tứ tuyệt Hồ Chí Minh còn khá nhiều bài mang “dụng ý
nghệ thuật” của Bác. Chúng ta khảo sát một số bài thơ dƣới đây:
Bài “Thiên Giang ngục”
“Lung ngoại lục thập cửu nhân áng,
Lung trung đích áng bất tri số
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 63
Giam phòng khƣớc tƣợng bào dƣợc đƣờng
Hựu tƣợng nhai thƣợng mại áng phố”
Thơ dịch:
“Ngoại lao sáu chín chiếc ang ngƣời
Chồng chất trong lao biết mấy mƣơi
Nhà ngục mà nhƣ nhà chế thuốc
Gọi là hàng chĩnh cũng không sai”
Ngay cuối câu đầu bài thơ, Bác không chịu tuân thủ luật gieo vần
mà vẫn dùng chữ áng không thể hiệp vần với hai chữ số và phố ở
dƣới. Chữ thứ hai, thứ tƣ, câu thơ đầu đều là trắc (ngoại, thập). Phải
chăng khi dùng số từ 69 Bác muốn giữ nguyên cách gọi số lƣợng từ
tiếng Hán mà không cần sửa cho êm tai. Đây là một đặc điểm thƣờng
bắt gặp trong lối viết của Bác.
Cách gieo vần của bài tứ tuyệt này cũng rất đặc biệt. Các từ
“áng”, “số”, “phố” ở cuối câu thứ nhất, thứ hai, thứ tƣ đều mang
thanh trắc, ba từ này hợp vần với nhau. Bài tứ tuyệt “Thiên Giang
ngục” Bác gieo vần trắc tạo cho ngƣời đọc một cảm giác vừa ghê sợ
vừa hài hƣớc. Nhà ngục Thiên Giang ở Quảng Tây là nơi giam ngƣời
mà ngoài ngục cũng nhƣ trong ngục là hình ảnh những chiếc ang chôn
ngƣời đáng sợ. Bác còn dùng lối nói khôi hài, tƣơng phản giữa cái
chết và cái nhà thuốc cứu ngƣời.
“Nhà ngục mà nhƣ nhà chế thuốc
Gọi là hàng chĩnh cũng không sai”.
Bài thơ vần trắc, cùng với sự phá cách tạo trái khoáy trong ta về
sự vật, hình ảnh đƣợc miêu tả. Nếu bài “Thiên Giang ngục” mang
tính đối lập thì bài “Cƣớp áp” (Cái cùm) Bác lại nêu một nghịch lý.
Ấy là miệng cái cùm trông nhƣ miệng loài ác thú. Thế mà cứ tối tối
mọi tù nhân phải tranh nhau đƣa chân vào miệng cùm để mong có
giấc ngủ yên dằm. Nếu không, giấc ngủ của họ sẽ bị đe dọa. Đó cũng
chính là cái mâu thuẫn giữa hành vi và suy nghĩ của tù nhân trong
64 | Lê Đình Sơn
hoàn cảnh bị giam cầm. Cái nghịch lý trong hành động không cần làm
mà cứ phải thực hiện trong chính mỗi con ngƣời.
“Tranh ninh ngã khẩu tự hung thần
Vãn vãn trƣơng khai bã cƣớc thôn
Các nhân bị thôn liễu hữu cƣớc
Chỉ thặng tả cƣớc năng khuất thân”
“Thế gian cánh hữu ly kỳ sự
Nhân mẫn tranh tiên thƣợng cƣớc kiểm
Nhân vị hữu kiểm tài đắc thụy,
Vô kiểm một xứ khả an niên”
Thơ dịch:
I
“Dữ tựa hung thần miệng chực nhai
Đêm đêm há hốc nuốt chân ngƣời
Mọi ngƣời bị nuốt chân bên phải
Co duỗi còn chân bên trái thôi”
II
“Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật
Cùm chân sau trƣớc cũng tranh nhau
Đƣợc cùm chân mới yên bề ngủ
Không đƣợc cùm chân biết ngủ đâu”
Sự bung phá cao độ về luật bằng trắc, luật thơ ở đây dƣờng nhƣ
nhấn mạnh ý nghĩa tính chất phi lý mà Bác nêu trong bài thơ. Có lẽ cái
phi lý tính đó đƣợc Bác thể hiện nhƣ một đột phá so với thơ tứ tuyệt
cổ điển. Bác muốn bung rời chất dính kết nghiệt ngã giữa các câu thơ
trong bài thơ này. Câu hai, ba ở bài một, câu ba, bốn ở bài hai là một
chứng minh hùng hồn. Cùng với tính chất trào lộng thâm thúy, bài thơ
có giá trị hiện thực tố cáo sâu sắc chế độ nhà tù Tƣởng Giới Thạch
thời bấy giờ.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 65
Khảo sát bài thơ “Kha tƣởng đào” Bác lại có lối phá luật rất
linh hoạt.
“Nhất tâm chỉ tƣởng tự do cảnh
Biểu mệnh khiêu xa tha tẩu khai,
Khả tích tha bào bán lý hữu
Hựu bị cảnh binh tróc hồi lai!”
Thơ dịch:
“Tự do anh ấy hằng mong mỏi
Liều mạng đâm nhào nhảy xuống xe
Rủi quá chạy đâu chừng nửa dặm
Bị ngay cảnh sát bắt lôi về.”
Câu một và câu bốn hợp thành một cặp câu thơ của bài tứ tuyệt.
Nhƣng câu bốn không trùng khớp với luật “nhị tứ lục phân minh” ở
câu một thành ra dụng ý nghệ thuật của Bác ở đây có tác dụng nhấn
mạnh lòng khát khao muốn sống cuộc đời tự do của ngƣời tù. Ý tƣởng
tự do đó khiến hành động của ngƣời tù trở nên táo bạo. Hành động
nhảy xe đào thoát của ngƣời tù bất thành, nên câu thơ thứ tƣ Bác tỏ
nỗi niềm thƣơng cảm và sẵn sàng để câu thơ chảy theo mạch cảm xúc
mà không cần chú trọng quy ƣớc về luật thơ:
“Khả tích tha bào bán lý hữu
Hựu bị cảnh binh tróc hồi lai!”
Bài “Báo tiệp”:
“Nguyệt thôi song vấn thi thành vị?
Quân vụ nhƣng mang vị tố thi,
Sơn lâu chung hƣởng kinh thu mộng
Chính thị liên khu báo tiệp thì”
Thơ dịch:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
66 | Lê Đình Sơn
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về”
Xét phƣơng diện tổ chức dính kết thơ tứ tuyệt, bài “Báo tiệp” đã
phá luật thơ. Thông thƣờng thơ tứ tuyệt có hai cặp câu thơ kết dính
với nhau. Mỗi cặp câu thơ đều có sự tƣơng ứng về thanh âm giữa các
chữ hai, bốn, sáu trong từng cặp câu thơ. Khảo sát bài “Báo tiệp” ta
thấy Bác có ý đảo ngƣợc sự tƣơng ứng âm thanh của các cặp câu. Cặp
câu một gồm câu một và bốn.
Nguyệt thôi song vấn thi thành vị?
B T B
Chính thị liên khu báo tiệp thì
T B T
Cặp câu hai gồm câu hai và ba
Quân vụ nhƣng mang vị tố thi,
T B T
Sơn lâu chung hƣởng kinh thu mộng
B T B
Hiện tƣợng ngƣợc nhau về bằng trắc (B-T) trong bảng thống kê
trên chứng tỏ bài thơ phá luật thơ. Phân tích bài thơ này chúng ta ít
chú ý đặc điểm phá luật thơ của Bác. Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh khi
phân tích kết cấu bài “Báo tiệp” có nói một cách tế nhị dƣờng nhƣ
câu 1,2 và câu 3,4 là hai phần của hai bài thơ khác nhau hợp lại,
nhƣng có tác dụng hỗ trợ nhau làm sáng tỏ chủ đề bài thơ.
Dụng ý nghệ thuật phá luật thơ của Bác trong bài thơ này có giá
trị nhƣ sự xuất thần của ngọn bút trong đêm thu khi âm hƣởng tiếng
kèn chiến thắng chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947-1948 báo về hòa
hợp với ý tƣởng câu kết bài thơ.
Chính thị liên khu báo tiệp thì
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 67
Sự tƣơng khắc về âm thanh giữa hai cặp câu thơ trong bài “Báo
tiệp” càng chứng tỏ bản lĩnh của một tâm hồn chiến sỹ và nghệ sỹ Hồ
Chí Minh.
Trong di sản thơ Đƣờng của Bác còn có một trƣờng hợp rất hi hữu
nhƣng lại trở thành một bài thơ nổi tiếng đƣợc giới nghiên cứu và bạn
đọc quan tâm đặc biệt.
Bài “Không đề”
“Đã lâu không làm bài thơ nào
Nay lại thử làm xem ra sao
Lục khắp giấy tờ vần chửa thấy
Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao”
Đây là bài thơ tứ tuyệt vừa phá luật bằng trắc vừa phá chất dính
kết. Đặc biệt hai câu 1 và 2 hầu nhƣ Bác dùng thanh bằng là chính.
“Đã lâu không làm bài thơ nào
Nay lại thử làm xem ra sao”
Luật “nhị tứ lục phân minh” bị bung phá mạnh mẽ ở hai câu thơ
trên có lẽ xuất phát từ cách nói dân dã, khẩu khí đời thƣờng của Bác
tạo nên phong cách độc đáo của bài thơ. Hai câu 3,4 Bác trở lại tính
ổn định của luật tứ tuyệt Đƣờng thi:
“Lục khắp giấy tờ vần chửa thấy
Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao”
Có lẽ không khí đánh Mỹ bùng lên của xuân Mậu Thân 68 khắp
chiến trƣờng Miền Nam, hậu phƣơng lớn, tiền tuyến lớn đánh mạnh
thắng to đã khơi dậy cảm hứng sáng tác của Bác làm nên phút thăng
hoa nghệ thuật để có đƣợc câu kết thần tình:
Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao.
Cái vần “thắng” ở đây cho phép tác giả lãng quên một cách có ý
thức khi vận dụng sáng tạo luật thơ Đƣờng.
68 | Lê Đình Sơn
Khảo sát các bài thơ Đƣờng trên đây, chúng ta đi đến một nhận
xét tổng quát. Hiện tƣợng phá luật trong thơ tứ tuyệt Bác Hồ theo thời
gian tiệm tiến từ “Ngục trung nhật ký” trở đi ngày càng có sự bung
phá đa dạng, táo bạo hơn. Phải chăng hiện tƣợng phá luật này nhằm
đáp ứng nhu cầu cá tính sáng tạo của Bác Hồ, nhu cầu tiếp thu truyền
thống và cách tân văn học. Phá luật trong thơ Đƣờng là một hiện
tƣợng độc đáo, thƣờng xảy ra ở các nhà thơ lớn. Hiện tƣợng này có ý
nghĩa nhƣ một nút nhấn tạo cái bất ngờ lý thú, tạo sự đồng cảm sâu
sắc đối với ngƣời đọc trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng.
Nhƣ vậy qua khảo nghiệm hiện tƣợng phá luật nhƣ những dụng ý
nghệ thuật của tác giả Hồ Chí Minh chứng tỏ rằng thơ tứ tuyệt của
Bác tiếp thu một cách sáng tạo di sản thơ Đƣờng Trung Quốc ngày
càng mang tính dân tộc cao hơn và phong phú hơn. Đây là một trong
những biểu hiện sinh động của quá trình dân tộc hóa thơ Đƣờng luật
Việt Nam.
LĐS
HỒ CHÍ MINH VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
ThS. Võ Quang Huy
Trung tâm GDTX huyện Vũ Quang, Hà Tĩnh
Giáo sƣ Phong Lê - ngƣời có nhiều năm nghiên cứu về sự nghiệp
văn chƣơng của Bác Hồ, trong cuộc trò chuyện sau nhân kỷ niệm 114
năm Ngày sinh của Bác đã từng nói:
“Đọc văn thơ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tôi luôn luôn đặt
cho mình các câu hỏi về những bí ẩn chƣa biết hết đƣợc. Nghiên cứu
về Bác và văn thơ Bác, đối với tôi, là đứng trƣớc những bí ẩn ấy”
Đã biết bao nhiêu bài viết, công trình có giá trị trong nƣớc và trên
thế giới nghiên cứu về Bác và đã phần nào làm nỗi bật đƣợc vai trò
của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam, một bậc đại nhân, đại trí,
đại dũng, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Đúng vậy,
những bí ẩn chƣa biết hết đƣợc về Bác còn rất nhiều nhƣng không thể
không kể đến di sản thơ Đƣờng mà ngƣời để lại.
Sinh thời Bác Hồ từng nói “Ngâm thơ ta vốn không ham”, Bác
làm thơ, viết văn không phải mong muốn mình trở thành nhà văn
nhƣng thực tế hoạt động cách mạng Ngƣời nhận thức đƣợc tầm quan
trọng của văn nghệ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, là vũ
khí đấu tranh đắc lực trên mặt trận văn hóa tƣ tƣởng và cũng là nơi để
Bác bày tỏ tâm hồn đa cảm, tinh tế của mình. Trong di sản văn học
Bác để lại có truyện và kí, văn chính luận và thơ. Trong giới hạn của
một bài tham luận tôi xin nêu một số suy nghĩ của mình về thơ Đƣờng
luật của Bác.
Vốn xuất xứ từ thời Đƣờng ở Trung Quốc và đƣợc truyền bá vào
Việt Nam trong thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc, thơ Đƣờng luật đã trở
70 | ThS. Võ Quang Huy
thành một thể thơ đặc biệt đƣợc các nhà thơ trung đại và cả một số nhà
thơ hiện đại của nƣớc ta yêu thích và tạo đƣợc một vị trí vững chắc
trong lịch sử thơ ca nƣớc ta. Sáng tác thơ Đƣờng đúng luật đã khó
chƣa nói đến việc có những bài thơ hay vì đây vốn là thể thơ rất chặt
chẽ về niêm, luật, vận, đối, ngắt nhịp, hài thanh.... Vì quá chặt chẽ về
niêm luật nên không ít những nhà thơ nỗi tiếng của nƣớc ta nhƣ
Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến hay Hồ Chí Minh đã Việt hóa thơ
đƣờng, phá luật, cách luật để thuận lợi hơn trong việc bộc lộ tâm tƣ
tình cảm của mình.
Thơ Đƣờng luật của Bác đƣợc sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ
quốc ngữ trong đó nỗi bật nhất là tập thơ “Nhật ký trong tù”, những
bài thơ sáng tác khi hoạt động cách mạng ở Việt Bắc và các bài thơ
chúc tết.... Để làm đƣợc thơ Đƣờng bằng chữ Hán đòi hỏi ngƣời sáng
tác phải tinh thông Hán học. Chúng ta đều biết, Bác Hồ xuất thân
trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ đã đƣợc học chữ Hán một
cách cơ bản. Trình độ Hán ngữ của Bác chắc chắn đã đƣợc bổ sung và
nâng cao khi Ngƣời quen biết một số nhà hoạt động cách mạng Trung
Quốc ở Pari và trên hết là những nổ lực tự học không biết mệt mõi của
bản thân. Sự tinh thông Hán ngữ của Bác thể hiện ở những bài thơ Bác
làm bằng chữ Hán mà chúng ta đều biết qua tập “Nhật ký trong tù” với
133 bài và những bài thơ chúc tết khác. Những bài thơ làm theo thể
Đƣờng luật của Bác hay đến mức mà Quách Mạt Nhƣợc - nhà vǎn hoá
lớn của Trung Quốc phải thốt lên nếu để lẫn thơ chữ Hán của Hồ Chí
Minh với thơ Đƣờng khó có thể phân biệt đƣợc.
Tập thơ “Nhật ký trong tù” gồm 133 bài thơ tứ tuyệt và thất ngôn
bát cú đƣợc viết bằng chữ Hán thể hiện sự am hiểu tuyệt vời về Hán tự
cũng nhƣ thể thơ Đƣờng luật của Bác. Đọc Nhật kí trong tù, ta nhận ra
sự ảnh hƣởng đậm đặc của chất Đƣờng thi, bút pháp cổ điển trong
phong cách thơ của Ngƣời. Nghệ thuật đối, bút pháp ẩn dụ, điệp từ đã
đƣợc Bác sử dụng rất tài tình và khéo léo.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 71
Một đặc điểm nghệ thuật luôn bao trùm trong thơ Đƣờng luật của
Bác là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, là
sự hòa quyện giữa chất thơ và chất thép, giữa hình tƣợng ngƣời chiến
sỹ và thi sỹ. Do vậy mà thơ Bác dù mang phong vị thơ Đƣờng, Tống
nhƣng không u buồn, cổ kính nhƣ thơ Đỗ Phủ, Lí Bạch mà hình ảnh
thơ luôn mới mẻ, hiện đại, phóng khoáng, tứ thơ luôn hƣớng về ánh
sáng, tƣơng lai. Thơ Đƣờng của Bác không thiếu mây, gió, trăng, hoa,
tuyết, núi, sông nhƣ thơ cổ nhƣng điểm đọng lại ấn tƣợng nhất sau khi
đọc vẫn là hình ảnh con ngƣời cách mạng, con ngƣời lao động với tinh
thần lạc quan, ý chí phi thƣờng, tin tƣởng vào ngày mai tƣơi sáng.
Trong bài “Khán “Thiên gia thi” hữu cảm” (Cảm tƣởng đọc “Thiên
gia thi”) Bác viết:
“Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,
Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong;
Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết,
Thi gia dã yếu hội xung phong”.
Nam Trân dịch:
“Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”
Thiên nhiên trong thơ Đƣờng của Bác gắn bó với cuộc sống, với
con ngƣời, với tình yêu, với thơ. Truyền thống của thơ ca phƣơng
Đông càng đặc biệt chú ý đến vai trò của thiên nhiên. Bác Hồ sáng tác
“Nhật kí trong tù” trong điều kiện lao tù khắc nghiệt, vậy mà bài thơ
vẫn tràn ngập hình ảnh của thiên nhiên. Nhà nghiên cứu Đặng Thai
Mai có nhận xét: “Trong Nhật kí trong tù thiên nhiên chiếm một địa vị
danh dự”. Mây, gió, trăng, hoa, trong thơ xƣa cũng hiện diện trong
thơ Bác, tất nhiên là với màu sắc mới. Hình ảnh của núi sông cũng cao
đẹp, hùng vĩ và thơ mộng và chứa chất tình ngƣời mà ta bắt gặp trong
bài “Mới ra tù tập leo núi”
72 | ThS. Võ Quang Huy
“Núi ấp ôm mây mây ấp núi
Lòng sông gƣơng sáng bụi không mờ.”
Hay là câu thơ “Chòm sao nâng nguyệt vƣợt lên ngàn” trong bài
thơ “Giải đi sớm”.
Sỡ dĩ thiên nhiên chiếm vị trí danh dự trong tập thơ còn vì đó là
cảm hứng sáng tạo bất tận, là bạn tri âm tri kỹ của Bác, là biểu tƣợng
cho vẻ đẹp tâm hồn và khát vọng tự do cháy bỏng... mà hình ảnh ánh
trăng la một ví dụ:
“Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Điều làm nên nét hiện đại trong thơ Đƣờng của Bác chính là chất
“thép”, là tinh thần “xung phong” của thi nhân. Nhà lao Tƣởng Giới
Thạch không thể giam cầm đƣợc tâm hồn của Bác, đó là một tâm hồn
phong phú, cao đẹp của ngƣời tù vĩ đại lúc nào cũng nóng lòng, đau
đáu hƣớng về Tổ quốc. Ngay cả trong lúc ngủ niềm thủy chung với
cách mạng của Ngƣời luôn thƣờng trực, trƣớc sau nhƣ một. Đó còn là
tinh thần, ý chí, khát vọng tự do cháy bỏng, mãnh liệt luôn cháy trong
tâm thức ngƣời chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù đang phải chịu cảnh
lao tù, xiềng xích.
“Một canh, hai canh lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.”
Ánh sáng, niềm tin vào tƣơng lai, hình ảnh con ngƣời lao động
khỏe khoắn, yêu đời... là những điều xuất hiện thƣờng xuyên trong các
bài thơ Bác viết dù đƣợc sáng trong trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Tóm lại thơ Đƣờng của Bác thể hiện những nội dung tƣ tƣởng vô
cùng lớn lao của Ngƣời. Đó là sự hòa quyện giữa giá trị hiện thực và
nhân đạo, giữa chất thép và tình cảm; đó là sự đau thƣơng, cực nhọc
nhƣng lại xen lẫn ở đó những tiếng cƣời trào phúng; đó là sự đau khổ
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 73
buồn bã nhƣng cao hơn cả là niềm tin, khát vọng, là sự lạc quan chƣa
bao giờ dập tắt trong tâm hồn một chiến sỹ cộng sản. Phải chăng vì
thế mà nhà thơ Hoàng Trung Thông khi đọc thơ Bác từng viết:
“Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
Bên cạnh các bài thơ Đƣờng trong tập “Nhật ký trong tù” thì
những bài thơ Đƣờng viết về mùa xuân hay chúc tết cũng rất đáng lƣu
ý. Qua những vần thơ viết về mùa xuân, chúng ta thấy ở Bác luôn có
một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của một thi nhân cùng với một cốt
cách, phong thái ung dung, tự tại của ngƣời chiến sĩ cách mạng kiên
trung. Xuân khơi nguồn cảm hứng thơ. Thơ lấy xuân làm nguyên cớ.
Xuân tự đất trời và xuân tự lòng ngƣời hòa quyện, tâm hồn thi sĩ và
tinh thần chiến sĩ kết tụ, Bác để lại cho đời những vần thơ vừa rung
động, tràn ngập sắc xuân, vừa toát lên tinh thần lạc quan, khoẻ khoắn
của một ý chí lớn: ý chí cách mạng.
Theo thơ chúc tết của Bác, chúng ta nhƣ đƣợc dịp ôn lại lịch sử
của dân tộc, đƣợc dịp nhìn lại những năm tháng kháng chiến của toàn
dân vừa trƣờng kỳ gian khổ vừa thắng lợi vẻ vang.
Xin đƣợc cô đọng vấn đề ở hai bài thơ Đƣờng của Bác mà bản
thân tôi rất yêu thích, đó là “Cảnh khuya”:
“Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
Cảnh khuya nhƣ vẽ, ngƣời chƣa ngủ
Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà”
(1947)
Và bài “Nguyên tiêu”:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.
74 | ThS. Võ Quang Huy
Xuân Thủy dịch:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nƣớc lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Hiếm có những câu thơ tả cảnh đẹp thiên nhiên nào hay hơn hai
câu đầu của hai bài thơ vừa trích. Đó không chỉ là cảnh đẹp đơn thuần,
riêng lẽ mà là vẻ đẹp đƣợc tạo ra từ sự hòa quyện của nhiều yếu tố và
trên hết đó là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm hồn thi sỹ Hồ Chí
Minh. Hai câu sau của hai bài thơ lại là hình ảnh của một chiến sỹ
cách mạng không vì ngắm cảnh mà quên đi nhiệm vụ với tổ quốc khi
dân tình đang chìm đắm trong đói khổ, nô lệ, lầm than.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí
Minh” đã và đang đƣợc triển khai sâu rộng trên cả nƣớc và thu đƣợc
nhiều thành quả đáng ghi nhận. Từ những bài thơ Đƣờng mà Bác để
lại các thế hệ hôm nay và mai sau sẽ học tập đƣợc rất nhiều về phong
cách và tâm hồn Hồ Chí Minh. Đó là cuộc sống lạc quan tin tƣởng,
luôn hƣớng về ánh sáng tƣơng lai, đó là sự tiếp thu có chọn lọc tinh
hoa văn hóa nhân loại và cải biến cho phù hợp với văn hóa nƣớc nhà,
đó còn là một tấm lòng vì dân, vì nƣớc, nhân đạo, nhân văn.
Thơ hay nhiều khi không nằm ở hệ thống luật lệ phức tạp, gò bó,
kỹ xão ngôn ngữ... mà cốt ở tấm lòng ngƣời làm thơ. Nhân dân Việt
Nam và nhân dân thế giới đều nhìn thấy trong thơ chữ Hán của Bác một
bức chân dung tự họa của Ngƣời: vừa thanh cao vừa giản dị, vừa vĩ đại
vừa nhạy cảm tinh tế, vừa mang dáng dấp cổ điển của các bậc tao nhân
mặc khách vừa mang dáng dấp một anh hùng dân tộc của thế kỷ XX.
“Yêu Bác lòng ta tƣơi sáng hơn”, thích thơ Bác nói chung và thơ
Đƣờng của Bác nói riêng chính là cơ sở để mỗi ngƣời Việt Nam có ý
thức bảo lƣu, giữ gìn, truyền bá, nâng cao giá trị của thơ Bác làm cho
di sản văn hóa đó mãi đƣợc trƣờng tồn đến thế hệ sau./.
VQH
VẺ ĐẸP CỔ ĐIỂN VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG BÀI THƠ “CHIỀU TỐI” CÛA HỒ CHÍ MINH
Th.s. Nguyễn Thị Thiện
Trƣờng THPT Thạch Thất – Hà Nội
Tuy văn chƣơng không phải là sự nghiệp chính của cuộc đời
nhƣng với di sản thơ ca phong phú để lại cho đƣơng thời và hậu thế,
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa
lớn không chỉ của Việt Nam mà của toàn nhân loại. Rất nhiều bài thơ
đƣợc sáng tác theo thể thất ngôn Đƣờng luật, trong đó sự kết hợp hài
hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt
của thơ Ngƣời. Điều đó thể hiện rõ nét qua nhiều bài thơ, tiêu biểu là
bài “Mộ” - “Chiều tối” rút từ tập “Nhật ký trong tù”, tập thơ sáng tác
trong hoàn cảnh tác giả bị giam cầm tại nhà lao của chính quyền
Tƣởng Giới Thạch từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943.
Nói đến màu sắc cổ điển trong thơ là nói đến những yếu tố về nội
dung và thi pháp có sự ảnh hƣởng rõ nét của thơ phƣơng Đông – chủ
yếu là thơ Đƣờng Trung Quốc, vốn đƣợc coi là mẫu mực về đề tài, thể
loại, bút pháp, thi liệu. Do đâu thơ Hồ Chí Minh lại đậm đà chất cổ
điển? Bác vốn xuất thân từ một gia đình Nho học. Ông ngoại và phụ
thân của Bác vốn là những bậc túc nho nổi tiếng đƣơng thời nên ngƣời
con ƣu tú của gia đình, con ngƣời Việt Nam đẹp nhất ấy đã tiếp thu,
kết tinh đƣợc vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa cổ phƣơng Đông.
Với tâm hồn phong phú, trí tuệ anh minh, lại giỏi chữ Hán và am hiểu
sâu sắc thơ Đƣờng, thơ Ngƣời vì thế đậm đà chất cổ điển. Điều đó
đƣợc thể hiện: giàu cảm hứng với thiên nhiên, bút pháp chấm phá nhƣ
ghi lấy linh hồn của tạo vật, ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc ý tại ngôn
76 | ThS. Nguyễn Thị Thiện
ngoại. Bên cạnh đó, đã sống và làm việc, tiếp xúc với văn minh
phƣơng Tây, hồn thơ ấy rất sáng tạo và hiện đại, biểu hiện ở: tính chất
dân chủ của đề tài, hình tƣợng thơ luôn vận động khỏe khoắn hƣớng
về ánh sáng và tƣơng lai, chủ thể trữ tình hòa hợp với thiên nhiên
nhƣng không là ẩn sỹ mà là chiến sỹ. Điều đáng nói là chất cổ điển và
hiện đại luôn hài hòa trong thơ của Hồ Chí Minh mà bài thơ Chiều tối
là một sáng tác tiêu biểu.
Trong bài, mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động kết hợp nhuần
nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Hình ảnh tuy
mang dáng dấp của thi liệu thơ cổ nhƣng ý thơ, cảm hứng thơ và nhân
vật trữ tình lại hoàn toàn hƣớng về ánh sáng, hƣớng tới thiên nhiên và
cuộc sống con ngƣời. Hai câu thơ đầu mở ra không gian cảnh núi rừng
khi chiều tối:
“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)”
Cảnh đƣợc gợi lên qua bút pháp ƣớc lệ quen thuộc của thơ cổ
đồng thời nói lên thật đúng hoàn cảnh của Bác và mang những nét
mới. Ngƣời đọc có thể hình dung cảnh ngƣời tù đang bị áp giải ngẩng
mặt lên trời quan sát cảnh vật, nhận ra cánh chim bay và chòm mây
trôi ngang qua bầu trời. Cảnh đó phảng phất một nỗi buồn hiu quạnh.
Nửa đầu bài tứ tuyệt này, ngƣời đọc đƣợc chiêm ngƣỡng một bức
tranh thiên nhiên có đƣờng nét cánh chim bay tìm về tổ, có hình ảnh
chòm mây trôi lững lờ. Những hình ảnh này xuất hiện thật tự nhiên,
vừa song hành vừa đăng đối. Không có một chữ nào chỉ thời gian
nhƣng ngƣời đọc cảm nhận ngay đƣợc thời gian lúc này là chiều
muộn. Chỉ bằng mấy nét chấm phá, tả rất ít nhƣng lại gợi nhiều, tác
giả tái hiện đƣợc cả linh hồn của cảnh vật: Cánh chim bay về rừng tìm
chốn ngủ với dáng điệu mỏi mệt và đám mây lẻ loi trôi chầm chậm
giữa lƣng trời. Nghệ thuật đối ngẫu, một nét đặc trƣng của thơ cổ,
càng làm nổi bật dáng chim nhỏ nhoi và vũ trụ rộng lớn lúc hoàng
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 77
hôn. Cánh chim ấy dƣờng nhƣ mang bóng tối đang phủ dần lên cảnh
vật. Câu thơ mang đậm phong vị cổ thi. Bởi khi tả cảnh chiều tối, các
thi nhân xƣa vẫn thƣờng dùng hình ảnh cánh chim. Nguyễn Du, ngôi
sao sáng chói trong bầu trời thơ ca Việt Nam thời Trung đại, trong kiệt
tác Truyện Kiều đã viết: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Và Bà Huyện
Thanh Quan, bậc nữ lƣu tài danh của dân tộc sống ở thế kỷ XIX, trong
thi phẩm “Chiều hôm nhớ nhà” cũng viết: “Ngàn mai gió cuốn chim
bay mỏi”. Những áng cổ thi ấy đều dùng cánh chim tả cảnh chiều tà
buồn vắng, hiu quạnh. Lý Bạch, bậc Tiên thi đời Đƣờng ở Trung Quốc
khi tả không gian trong bài Độc tọa Kính Đình sơn đã viết: “Chúng
điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn” nghĩa là: Các loài chim bay
cao hết/ Đám mây cô đơn nhàn hạ trôi. Cánh chim của Lý Bạch xƣa
dƣờng nhƣ bay vút vào không gian, nhƣ tan biến vào cõi vĩnh hằng.
Còn cánh chim trong thơ Bác không bay đi hết, nó chỉ chuyển trạng
thái từ bay sang ngơi nghỉ để rồi lại tiếp tục chu trình tuần hoàn của sự
sống. Còn hình ảnh chòm mây trôi nhẹ, lời thơ Nam Trân dịch đã
uyển chuyển linh hoạt nhƣng vẫn chƣa lột tả đƣợc chữ “cô vân” – đám
mây lẻ loi và chƣa thể hiện đƣợc ý nghĩa của từ láy “mạn mạn” trong
nguyên tác. Điều đó chứng tỏ ngôn ngữ thơ Hồ Chí Minh vô cùng
hàm súc. Ở đây, cánh chim bay mỏi và chòm mây cô đơn dƣờng nhƣ
mang theo cả nỗi lòng của tác giả, một ngƣời tù đang bị đày ải “giải
tới giải lui” khắp mƣời ba huyện ở tỉnh Quảng Tây, nơi đất khách quê
ngƣời lạ lẫm - có hôm tới 53 cây số một ngày – phía trƣớc lại là một
nhà tù khác đang chờ đón. Thế nhƣng tác giả không san sẻ cho cảnh
vật nỗi niềm buồn đau của cảnh ngộ mình đang phải từng trải. Trái lại,
Ngƣời đã quên mình để sẻ chia, đồng cảm, hòa hợp với thiên nhiên tạo
vật xung quanh. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là một phong thái
ung dung của một con ngƣời đang khao khát tự do, tuy bị mất tự do
nhƣng vẫn làm chủ mình, làm chủ hoàn cảnh ở mọi tình huống. Cũng
chính điều này còn cho thấy vẻ đẹp hiện đại của thơ Hồ Chí Minh ẩn
chứa và hòa hợp ngay trong những thi liệu thơ đậm chất cổ điển.
Phần sau của bài thơ đã tiếp nối mạch thơ ở phần trên thật tự
nhiên, tái hiện bức tranh lao động và sinh hoạt thƣờng nhật của con
ngƣời nơi xóm núi.
78 | ThS. Nguyễn Thị Thiện
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)”
Nếu bức tranh thiên nhiên phần đầu bài thơ có phần ảm đạm, buồn
vắng quạnh thì phần thơ cuối này hoàn toàn ngƣợc lại: Cô gái xóm núi
xay ngô bên bếp lửa đã toát lên một vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung và
ấm áp. Điều thú vị là tác giả đã dùng nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy
ánh sáng của lò than để nói về bóng tối của không gian vùng sơn cƣớc
lúc màn đêm buông xuống. Trời không tối, làm sao thấy đƣợc hình
ảnh “lô dĩ hồng”. Hình ảnh thơ này thật bình dị và cũng rất sáng tạo,
thể hiện nét mới, chất hiện đại của bài thơ. Hơn nữa trong bài, hình
tƣợng thơ không tĩnh tại nhƣ thƣờng gặp trong thơ cổ mà có sự vận
động hƣớng về ánh sáng, về tƣơng lai. Bài thơ rất phong phú về sự
vận động: vận động của cánh chim, vận động của chòm mây, vận
động của con ngƣời đang làm việc hăng say. Và ngay cả thời gian
trong bài cũng vận động từ chiều muộn cho đến tối hẳn. Tâm trạng
nhân vật trữ tình cũng có sự vận động: từ mỏi mệt, lẻ loi, lạnh lẽo sang
vui tƣơi, ấm nồng cùng cảnh vật và con ngƣời. Cách miêu tả và quan
sát trong bài của tác giả từ hƣớng ngoại sang hƣớng nội, từ cao đến
thấp, từ xa đến gần. Trong thi phẩm, chữ “hồng” chính là nhãn tự, là
điểm sáng của cả bài thơ có sức lan tỏa lớn. Lô dĩ hồng đã diễn tả
đƣợc thời gian vận động rất tự nhiên của cảnh vật. Sắc hồng của lò
than đang đƣợm đã xua đi bóng đêm và sự lạnh lẽo của núi rừng lúc
chiều tối, lan tỏa hơi ấm ra xung quanh, nhân lên niềm vui, niềm lạc
quan của con ngƣời, nó củng cố và mài sắc thêm ý chí của ngƣời
chiến sỹ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã nơi xa xứ.
Nghệ thuật ở hai câu cuối bài còn có một nét đặc sắc khác rất đáng lƣu
ý. Giữa câu thơ thứ ba và câu bốn có những cụm từ lặp lại theo hình
thức liên hoàn: “ma bao túc” và “bao túc ma hoàn”. Hình thức này đã
tạo nên kết cấu vòng tròn giữa hai câu thơ, gợi lên sự cảm nhận về
vòng quay đều đều của chiếc cối xay ngô và từ vòng quay ấy gợi lên
sự luân chuyển của thời gian tuần tự.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 79
Trƣớc cảnh vật và cuộc sống con ngƣời nơi xóm núi, trong lòng
tác giả dânglên dạt dào cảm xúc. Qua đó, ngƣời đọc thấy đƣợc vẻ đẹp
tâm hồn Hồ Chí Minh: tha thiết yêu thiên nhiên, cuộc sống, con ngƣời.
Hai câu thơ sau khiến ngƣời đọc vô cùng cảm động bởi đã ghi lại cảnh
sinh hoạt quen thuộc, bình dị của một gia đình nơi xóm núi. Điều đó
chứng tỏ trong hành trình hoạt động cách mạng, toàn tâm toàn trí vì sự
nghiệp cứu nƣớc, cứu dân, nhƣng trong trái tim Bác Hồ vẫn có một
khoảng dành cho tình cảm gia đình. Về tấm lòng yêu đời của Ngƣời ở
hai câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt đẹp về
cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu.
Những hình ảnh nhƣ thế không thiếu gì chung quanh ta nhƣng thƣờng
nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể
nào ghi lại đƣợc”.
Chiều tối chỉ vẻn vẹn bốn câu thơ thất ngôn song đã cho thấy tâm
hồn vô cùng cao đẹp và tài năng văn chƣơng của Bác. Sự kết hợp hài
hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại đã mang đến cho bài thơ một vẻ
đẹp vừa truyền thống vừa mới mẻ. Đây cũng chính là một trong những
yếu tố làm nên đặc sắc nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Hồ Chí Minh -
con ngƣời của tƣơng lai ấy - luôn hƣớng về thiên nhiên, cuộc sống,
con ngƣời với sự đồng cảm và trân trọng “Nâng niu tất cả chỉ quên
mình” (Tố Hữu)./.
NTT
80 | ThS. Nguyễn Thị Thiện
THƠ BÁC HỒ - MÓN ĂN TINH THẦN
CÛA DÂN TỘC VIỆT NAM
Đinh Mỹ Hạnh
Chi hội thơ Đƣờng luật Tân Yên – Bắc Giang
Chủ Tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đồng thời là
nhà thơ lớn của dân tộc ta. Thơ của Ngƣời là những tác phẩm văn học
vô giá, góp vào kho tàng văn học Việt Nam và thế giới. Trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã sáng tác khá nhiều thơ.
Khoảng trên 300 bài, gồm có 133 bài thơ trong Nhật ký trong tù, 35
bài thơ chữ Hán, 22 bài thơ chúc tết và trên một trăm bài thơ tiếng
Việt khác. Tuy số lƣợng không phải là lớn, nhƣng về mặt chất lƣơng,
thơ Bác có nội dung phong phú, phong cách nghệ thuật độc đáo, kết
hợp tài tình giữa tinh hoa cổ thi và tính hiện đại của thơ ca cách mạng.
Đã làm rung động trái tim của các thế hệ ngƣời Việt Nam và bè bạn
khắp năm châu.
Trong thơ Bác có tới quá nửa là thơ Đƣờng Luật. Bởi Bác xuất
thân là con của một vị Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc vốn nổi danh là
ngƣời giỏi thơ hay chữ. Tuổi học trò đầu đời của Bác, Bác học chữ
Hán, mà thời đó nói đến thơ thì chủ yếu là thơ Đƣờng Luật. Hơn nữa
trong số trên 300 sáng tác của Bác, đã có 168 bài viết bằng chữ Hán.
Bài thơ khởi đầu cho sự nghiệp thơ ca cách mạng của Ngƣời là một
bài thơ Đƣờng Luật gửi cụ Phan Châu Trinh (năm 1913):
“Chọc trời khuấy nƣớc tiếng đùng đùng,
Phải có kiên cƣờng mới anh hùng.
Ba hột đạn - thầm ba tấc lƣỡi,
Sao cho ích giống mấy cam lòng”.
82 | Đinh Mỹ Hạnh
Và bài thơ cuối cùng trong sự nghiệp thơ ca của Ngƣời (1968)
cũng là một bài thơ Đƣờng Luật. Bài Vô đề:
“Bảy mƣơi tám tuổi chƣa già lắm,
Vẫn vững hai vai việc nƣớc nhà.
Kháng chiến dân ta đang thắng lớn,
Vững bƣớc ta cùng con em ta”.
Sinh thời Bác nói “Ngâm thơ ta vốn không ham…” (Lão phu
nguyên bất ái ngâm thi) bởi Bác là nhà cách mạng chuyên nghiệp chứ
không phải là nhà thơ chuyên nghiệp. Bác nói “Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nƣớc tôi đƣợc hoàn toàn độc
lập, dân tôi đƣợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng đƣợc học hành…”. Bác làm thơ cũng là để phục vụ cho
sự nghiệp cách mạng, cho nên thơ Bác nói chung và thơ Đƣờng Luật
của Bác nói riêng, trƣớc hết đều có tính mục đích rõ ràng: vì nhân dân,
vì dân tộc, vì cách mạng, vì con ngƣời. Chúng ta hãy nghe bài Cảm
tƣởng đọc thiên gia thi:
“Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông.
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Bài thơ ra đời năm 1943 khi chiến tranh thế giới lần thứ hai đã
bùng nổ, tạo thời cơ cho các nƣớc thuộc địa giành độc lập. Sự nghiệp
cách mạng của đất nƣớc Trung Quốc - đất nƣớc của thơ Đƣờng rực rỡ
- rất cần có những nhà thơ, những văn nghệ sĩ cách mạng. Ở nƣớc ta,
mùa xuân năm 1941, Bác Hồ về nƣớc trực tiếp lãnh đạo cách mạng,
xác định giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do là nhiệm vụ hàng
đầu. Lực lƣợng cách mạng đƣợc xây dựng ngày càng mạnh lên cả về
chính trị, quân sự, văn hóa. Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò
của văn nghệ sĩ trong đó có nhà thơ; yêu cầu họ phải tích cực góp
phần chiến đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc, ấm no hạnh phúc của
nhân dân. Sau này, Ngƣời tiếp tục khẳng định: “Văn hóa văn nghệ
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 83
cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Ngƣời
giao nhiệm vụ cho văn nghệ sĩ rất “nặng nề” nhƣng đem lại vinh
quang cho văn nghệ sĩ rất lớn. Tinh thần “xung phong” của văn nghệ
sĩ và chất “thép” trong các tác phẩm của họ góp phần quan trọng vào
thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nƣớc. Nhiều văn nghệ sĩ đã anh dũng hy sinh. Văn nghệ kháng chiến,
giải phóng dân tộc mãi mãi xứng đáng là đỉnh cao của nền văn nghệ
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh không có ý phê phán, phủ định
“thiên nhiên đẹp” trong cổ thi. Ngƣời chỉ đƣa ra cảm tƣởng “cổ thi
nghiêng về yêu cảnh đẹp thiên nhiên” đơn thuần mà thôi. Cho nên, để
cho hài hòa, cân bằng, nhất là xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu thời
đại hiện nay, Ngƣời đề nghị nên có thêm chất “thép” vào trong thơ.
Bổ sung chất “thép” sẽ tạo nên nét đặc sắc mới trong thơ hiện đại. Thơ
sẽ tƣơi thêm, mạnh hơn, giúp ích cho đời nhiều hơn. Giữa “thiên
nhiên” và chất “thép” cũng không hề mâu thuẫn, loại trừ lẫn nhau; mà
nó luôn có quan hệ, hài hòa, bổ sung cho nhau. Một bài thơ hay là sự
hòa quyện giữa “thiên nhiên” và chất “thép” đến mức độ ngƣời đọc
không còn phân biệt đâu là “thiên nhiên”, đâu là chất “thép”. Thơ Hồ
Chí Minh, đặc biệt là thơ trữ tình, là mẫu mực sự hài hòa giữa “thiên
nhiên” và chất “thép”, giữa chất “thép” và chất “tình”. Nhà thơ Hoàng
Trung Thông viết rất đúng rằng:
“Vần thơ của Bác vần thơ thép,
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.
Rất nhiều bài thơ của Bác đã trở thành tuyệt tác, trở thành mẫu
mực về điều đó. Ta hãy lắng nghe bài Cảnh khuya của bác:
“Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya nhƣ vẽ ngƣời chƣa ngủ,
Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà”.
Lối so sánh của Bác thật kì lạ! Tiếng suối vốn đƣợc cảm nhận
bằng thính giác nhƣng nghe tiếng suối Ngƣời cảm nhận đƣợc độ
84 | Đinh Mỹ Hạnh
“trong” của dòng chảy. Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó
hẳn cũng là thứ quà riêng mà thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho
những ngƣời chiến sĩ trên đƣờng hành quân xa xôi mệt mỏi. Chẳng
những vậy, tiếng suối trong nhƣng là “trong nhƣ tiếng hát xa”. “Tiếng
hát xa” là thứ âm thanh rất đặc biệt. Đó phải là tiếng hát rất cao để có
sức lan toả mạnh mẽ, để từ xa con ngƣời vẫn có thể cảm nhận đƣợc.
Đó cũng là tiếng hát vang lên trong thời khắc yên lặng bởi nếu không,
nó sẽ bị lẫn vào biết bao âm thanh phức tạp của sự sống, liệu từ xa,
con ngƣời còn có thể cảm nhận đƣợc? Điều thú vị trong câu thơ của
Bác Hồ là một âm thanh của tự nhiên đƣợc so sánh với tiếng hát của
con ngƣời. Điều đó thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc trong những
vần thơ của Bác. Và giữa cái cảnh khuya “Trăng lồng cổ thụ bóng
lồng hoa”, “cảnh khuya nhƣ vẽ” ấy, là “ngƣời chƣa ngủ/Chƣa ngủ vì
lo nỗi nƣớc nhà” ta thấy đƣợc tinh thần cách mạng của Bác.
Bài thơ Nguyên tiêu của Bác thì nay đã trở thành thơ hiệu cho
ngày thơ Việt Nam:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.
Đ/c Xuân Thuỷ đã dịch ra thơ lục bát:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nƣớc lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Đã mấy mƣơi năm, bản dịch của Xuân Thủy vẫn sống đƣợc cùng
nguyên bản. Ngƣời dịch khéo đƣa chữ xuân từ câu thứ hai lên câu thứ
nhất để giữ đủ ba chữ xuân trong nguyên bản Hán tự. Với ba chữ ấy,
trong đêm chiến khu 1948 xuân chảy dài theo dòng sông, xuân lan
rộng trên mặt nƣớc, xuân vút cao lên tận trời! Xuân hứng thành thi
hứng, dẫn mạch thơ đi nhƣ sóng trào. Hai chữ thiên – yên bắt vần tự
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 85
nhiên đến không ai nhận ra chính vần ấy đã nối ngọn sóng thơ ở câu
hai với chân sóng ở câu bản lề thứ ba. Kín đáo nơi chân sóng, động
lực thúc đẩy dòng chảy, con ngƣời đang bàn việc quân, việc nƣớc. Kì
lạ thay, sau câu bản lề kia, trăng chỉ là một vừng ở câu đầu, đã thành
trăng ánh một trời nơi câu cuối! Và con thuyền quân dụng thoắt biến
thành thuyền thi tứ, thành đấu, thành thƣng đong đầy ánh sáng để mà
nói với bạn đọc niềm vui sống tràn trề của ngƣời làm thơ, thi sĩ tƣớng
quân Hồ Chí Minh.
Thơ Đƣờng luật của Bác phần nhiều là thơ tứ tuyệt. Trong thơ tứ
tuyệt của Ngƣời phong cách thật độc đáo. Câu 1,2 thƣờng là mộc mạc
chân chất và giản dị, thậm chí giản dị nhƣ những câu nói đời thƣờng:
“Đã lâu chƣa làm bài thơ nào,
Nay lại thử làm thơ xem sao”
Nhƣng đến câu 2,3 thì thơ bỗng vút lên một cách lạ thƣờng:
“Lục khắp giấy tờ vần chẳng thấy,
Bỗng nghe vần thắng vút lên cao”.
Hay:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông.
Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công”
Hay:
“Ngủ thì ai cũng nhƣ lƣơng thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ giữ hiền.
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
… v.v và v.v…
Câu “thừa”, câu chuyển (câu 3) trong thơ Bác sâu sắc uyên thâm
đến mức nếu từ thơ chữ Hán dịch ra thơ tiếng Việt, thì có bài các
86 | Đinh Mỹ Hạnh
dịch giả phải bó tay. Ví nhƣ trong bài Nguyên Tiêu câu 3: “Yên ba
thâm xứ đàm quân sự” chỉ dịch là “Giữa dòng bàn bạc việc quân”
thì chƣa thể lột tả đƣợc sự mông lung sâu thẳm nơi sông nƣớc, từ chỗ
bí mật để bàn quân sự lại trở thành công khai “giữa dòng”... Hay
trong bài thơ “Thất cửu” câu thơ thứ 3: “Tự cung thanh đạm tinh
thần sảng” chỉ dịch thành “Sống quen thanh đạm nhẹ ngƣời” thì mất
cả tính tự cung, tính tự chủ, và phần nào sự sảng khoái của Ngƣời.
Sẽ là thiếu sót khi bàn về thơ Đƣờng luật của Bác, mà không nói
đến sự tài tình trong xƣớng hoạ, trong chơi chữ, trong lối chơi “tập
cổ” của Bác.
Thật là thú vị khi nghe những bài thơ xƣớng hoạ của Bác cùng
Luật sƣ Phan Anh. Bác viết bài Cảnh rừng Việt Bắc:
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vƣợn hót, chim kêu suốt cả ngày.
Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng,
Săn về thƣờng chén thịt rừng quay.
Non xanh, nƣớc biếc tha hồ dạo,
Rƣợu ngọt, chè tƣơi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xƣa, hạc cũ với xuân này”.
Bài thơ trên của Bác làm vào lúc Luật sƣ Phan Anh là thành
viên của Hội đồng Chính phủ, đƣợc Bác Hồ mời về họp ở một thôn
thuộc huyện Sơn Dƣơng (tỉnh Tuyên Quang). Dân làng đã chiêu đãi
một bữa cơm ngon với đầy đủ thổ sản, thú rừng. Trong không khí
ấy, Luật sƣ Phan Anh họa lại nhƣ sau:
“Cảnh rừng càng biết lại càng hay,
Khác cảnh phồn hoa sống mỗi ngày.
Ngựa bƣớc dồn câu, ta vẫn vững,
Tàu bay hết nƣớc, địch đành quay.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 87
Núi rừng cách mặt tình thêm mặn,
Thơ phú, không men vẫn ý say.
Hạc cũ, trăng xƣa đâu đó ta,
Ngày xuân tô điểm nƣớc non này”.
Quân Pháp đánh lên căn cứ địa Việt Bắc (8/10/1947) nhƣng chiến
sĩ cách mạng đã dũng cảm chiến đấu bảo vệ an toàn ATK. Bác tạm
lánh một tuần lễ lại quay về chốn cũ ở “Phủ Chủ tịch” bên thác nƣớc 7
tầng, dòng suối mát và cây đa cổ thụ rợp bóng vào những đêm trăng
sáng cùng với Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp bàn việc quân sự. Đang
trong thời điểm khó khăn ác liệt ấy, Bác làm bài thơ “Cảnh khuya”:
“Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya nhƣ vẽ, Ngƣời chƣa ngủ,
Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà”…
Bác đánh máy ra nhiều bản gởi cho cụ Bùi Bằng Đoàn (Thƣờng
trực Quốc Hội), cụ Cù Huy Cận (nhà thơ), luật sƣ Phan Anh… Mấy
hôm sau, luật sƣ Phan Anh họa lại gởi lên Bác nhƣ sau:
“Họa vần xin gởi cho ai,
Đƣờng xa sẻ tấm quan hoài nƣớc non”.
“Quanh quanh dòng suối cảnh đƣờng xa,
Trời có trăng và núi có hoa.
Trăng sáng bao lao trời đất nƣớc,
Hoa thơm phảng phất vị hƣơng nhà”...
Không mấy ai yêu thơ Bác lại không biết đến với một sự khâm
phục bài thơ hoạ đầy khí phách và tính chiến đấu của Bác với Nguyễn
Hải Thần, ngƣời sáng lập và lãnh đạo Việt Nam Cách mệnh Đồng
minh Hội. Tháng 9 năm 1945 Việt Cách về nƣớc theo 200.000
quân Trung Hoa Dân quốc do tƣớng Lƣ Hán chỉ huy sang với danh
nghĩa giải giới quân đội Nhật. Thực chất là chống phá cách mạng rất
quyết liệt. Nguyễn Hải Thần gửi cho Bác:
88 | Đinh Mỹ Hạnh
“Gai góc đƣờng đời ông với tôi,
Hai vai gánh vác sẻ làm đôi.
Cùng chung Nam Bắc chung nòi giống,
Cùng một ông cha một giống nòi.
Đành chịu nƣớc cờ thua nửa ngựa,
Còn hơn miệng thế tiếng mƣời voi.
Mấy lời nhắn nhủ ông ghi nhớ,
Ngƣợc nƣớc buông câu phải lựa mồi”
Bác đã hoạ lại:
“Gai góc đƣờng đời ông với tôi,
Hai vai gánh vác sẻ làm đôi.
Đã chung Nam Bắc chung bờ cõi,
Nỡ bỏ ông cha bỏ giống nòi.
Ông chịu nƣớc cờ thua nửa ngựa,
Tôi đành ghé đít cƣỡi đầu voi.
Cờ tàn mới biết ai cao thấp,
Há phải chi ai cá thấy mồi”.
Thật tuyệt vời!
Thơ Đƣờng Luật của Bác còn nổi tiếng uyên thâm về lối chiết tự, chơi
chữ. Ta hãy nghe bài thơ có đầu đề “Chiết Tự”. Nguyên tác chữ Hán:
“Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung.
Nhân hữu ƣu sầu ƣu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long”.
Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để
thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo
lối chiết tự, bài thơ này có nghĩa đen nhƣ sau: chữ tù (囚) bỏ chữ
nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患
) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân đứng (亻) vào
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 89
chữ ƣu (憂) trong “ƣu sầu” thành chữ ƣu (優) trong “ƣu điểm”. Chữ
lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍). Nhƣng nghĩa bóng
của bài thơ lại lại bao hàm một ý chí kiên cƣờng mạnh mẽ của Bác:
“Ngƣời thoát khỏi tù ra dựng nƣớc,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay.
Ngƣời biết lo âu, ƣu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay”.
Thật tài hoa!
Nhà thơ Vƣơng Hàn đời nhà Đƣờng Trung Quốc có bài thơ
“Lƣơng Châu Từ” nổi tiếng:
“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thƣợng thôi.
Tuý ngoạ sa trƣờng quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
Nghĩa:
“Rƣợu bồ đào cùng với chén lƣu ly,
Muốn uống nhƣng đàn tỳ bà đã giục lên ngựa.
Say khƣớt nằm ở sa trƣờng, anh chớ cƣời,
Xƣa nay chinh chiến mấy ai trở về đâu”.
Ngày 8/10/1950, Bác viết thƣ biểu dƣơng các chiến sĩ ngoài mặt
trận sau chiến dịch Biên Giới và gửi tặng Trần Canh bài thơ:
“Hƣơng tân mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm, tỳ bà mã thƣợng thôi.
Túy ngọa sa trƣờng quân mạc tiếu,
Địch nhân hƣu phóng nhất nhân hồi”.
Dịch:
“Rƣợu ngọt sâm banh lấp lánh ly,
Muốn uống, tì bà thúc ngựa phi.
90 | Đinh Mỹ Hạnh
Đừng cƣời say nghỉ nơi trận mạc,
Không tha quân địch một tên về”.
Đây là một lối chơi thơ theo “Tập cổ” quen thuộc của thời xƣa.
Bác chỉ cần thay hai chữ câu đầu và năm chữ đầu câu cuối để gửi gắm
ý tứ của mình. vậy mà từ một bài thơ có tƣ tƣởng bi quan của ngƣời
lính trận: “Xƣa nay chinh chiến mấy ai về “trở thành bài thơ ca ngợi
chiến công ngƣời lính “Không tha quân địch một tên về”.
Thơ Bác Hồ, từ lâu đã là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với
dân tộc Việt Nam. Khí Bác còn sống, cứ tết đến Xuân về, cả nƣớc lại
đón đợi thơ chúc tết của Ngƣời. Mỗi một lần hội nghị ai ai cũng mong
mỏi và đề nghị Bác đọc thơ… Ngƣời nông dân đón đọc thơ Bác nhƣ
đọc những câu ca dao tục ngữ, những câu dân ca quen thuộc quê mình.
Các nhà văn, nhà thơ nghiên cứu, đọc thơ Bác nhƣ đọc những tác phẩm
đỉnh cao của nghệ thuật. Nhân dân thế giới đón nhân thơ Bác với biết
bao cảm xúc về một tâm hồn “Đại nhân, Đại trí và Đại dũng”.
Trong phạm vi hội nghị này, với một trình độ có hạn, xin đƣợc
mạo muội trao đổi đôi điều tìm hiểu về thơ Đƣờng Luật của Bác.
Chỉ với một mong muốn nhƣ là đƣợc thêm một lần thƣởng thức thơ
Bác, đƣợc tiếp tục học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức, tác
phong của Ngƣời.
ĐTMH
BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Nguyễn Thanh Toàn
Trƣờng Đại học Cần Thơ
Hội Nhà Văn TP. Cần Thơ
Bác Hồ không chỉ là nhà tƣ tƣởng vĩ đại, vị lãnh tụ tối cao của
cách mạng Việt Nam, Ngƣời còn là nhà chiến sỹ cộng sản kiệt xuất,
đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và phong trào công nhân
quốc tế. Bên cạnh đó Ngƣời còn đƣợc UNESCO tôn vinh, công nhận
là Danh nhân văn hóa thế giới. Nghiên cứu về Ngƣời không dễ vì cuộc
đời và sự nghiệp của Ngƣời là cả một kho tàng đồ sộ, là di sản quý giá
của nhân loại. Dựa vào vốn hiểu biết hạn chế của mình và trên khuôn
khổ một bài tiểu luận ngắn nên tôi không có tham vọng dàn trải mà
chỉ chấm phá đôi nét trong mảng thơ Đƣờng luật của Bác đã sáng tác
mà tôi có dịp nghiền ngẫm.
1. Bác Hồ chịu ảnh hƣởng của Thơ Đƣờng luật ra sao?
Hiện nay, chƣa có tài liệu nào minh chứng về những ngày đầu đến
với thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo một tài liệu chƣa chính thống
ghi theo lời kể của nhà văn Sơn Tùng thì bài thơ đầu tiên (Trên Đèo
Ngang) Bác làm năm 1895 (mới lên 5 tuổi): “Núi cõng con đƣờng mòn/
Cha thì cõng theo con/ Núi nằm ì một chỗ/ Cha lại cúi lom khom/
Đƣờng bám lì lƣng núi/ Con thì chạy lon ton/ Cha siêng hơn hòn núi/
Đƣờng hẳn lƣời hơn con”. Đây không phải là bài đúng niêm luật của
thể Ngũ ngôn bát cú Đƣờng luật, nhƣng rõ ràng đã chịu ảnh hƣởng bởi
hình thức thơ và cách gieo vần, dù chỉ đối ý mà chƣa đối từ.
Bài thơ “Ba Ông Phỗng” Bác viết năm 1903 (khi mới 13 tuổi) thì
rõ ràng đã chỉn chu hơn theo thể thơ tứ tuyệt:
92 | Nguyễn Thanh Toàn
“Kìa ba ông lão bé con con
Biết có tình gì với nƣớc non
Trƣơng mắt làm chi ngồi đó mãi
Hỏi xem non nƣớc mất hay còn”.
Bài thơ vừa hóm hỉnh nhƣ tả thực lại vừa ý nhị lồng ghép ý tứ của
một tầm nhìn thời đại vì Tổ quốc. So với bài của cụ Tam Nguyên Yên
Đổ làm trƣớc đó: “Ông đứng làm chi đó hỡi ông/ Trơ trơ nhƣ đá vững
nhƣ đồng/ Đêm ngày gìn giữ cho ai vậy/ Non nƣớc đầy vơi có biết
không?” ta thấy trách nhiệm với “nƣớc non” đƣợc nâng cao lên,
không cam chịu “trơ trơ” nữa mà đã có những trăn trở thể hiện tinh
thần trách nhiệm cao với thời cuộc.
Xét về thực trạng văn đàn nƣớc ta thời Bác đang sống cũng nhƣ
những năm trƣớc đó, thể thơ Đƣờng luật chữ Hán hoặc chữ Nôm
đang đƣợc đa số các danh sĩ Nho học thời bấy giờ dùng để sáng tác.
Điển hình có thể kể đến nhƣ Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế
Xƣơng, Phan Bội Châu… Kho tàng thơ Bác để lại là những tứ thơ
mang hƣơng vị Đƣờng luật sâu sắc. Phải chăng lúc sinh thời, Ngƣời
đã chịu ảnh hƣởng lối thơ ấy từ những nhà Nho nhƣ ông ngoại và
cha mình? Những bài thơ đƣợc viết dƣới thể tứ tuyệt chữ Hán cũng
đƣợc lƣu truyền qua thời gian bởi những ngƣời yêu thơ Đƣờng luật,
chẳng hạn: “Nhật
cái nguyệt ám mông lung” (Ban mai - Nguồn: Lê Xuân Đức).
Giới yêu thơ cả nƣớc không ai không biết đến bài “Nguyên Tiêu”
nổi tiếng của Ngƣời mang vẻ đẹp cổ điển, mẫu mực không thể thiếu
trong “Ngày Thơ Việt Nam” bên cạnh bài “Nam Quốc Sơn Hà” của
danh tƣớng Lý Thƣờng Kiệt. Chúng ta càng không thể quên tập “Nhật
ký trong tù” với 134 bài thơ chữ Hán đều viết bằng thể thơ Đƣờng
luật. Riêng bài thơ mang tính chiến đấu của Bác “Khán Thiên gia thi
hữu cảm”: “Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết/ Thi gia dã yếu hội xung
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 93
phong” đã trở thành kim chỉ nam, dẫn hƣớng cho các thế hệ nhà thơ
cách mạng hiện đại.
2. Những thi đề, thi cảm chính trong thơ Đuờng luật của Hồ Chí Minh
Sinh thời Hồ Chủ tịch không thừa nhận mình là nhà thơ chính
bởi Ngƣời là ngƣời con của dân tộc, của giang sơn gấm vóc và cả
của thời đại nên Ngƣời không có thời gian nhiều cho thơ: “Ngâm thơ
ta vốn không ham”. Tuy vậy, đọc những bài thơ của Ngƣời ta nhận ra
quan điểm của Ngƣời khi làm thơ không đơn thuần là giải trí mà
luôn bao hàm giá trị triết lý nhân sinh sâu sắc, đôi khi thể hiện thế
giới quan, nhân sinh quan cách mạng, đôi khi là những bài học luân
lý đời thƣờng, có khi là lời khuyên, lời động viên hoặc kêu gọi… Nội
dung tƣ tƣởng trong thơ Ngƣời thƣờng đƣợc chuyển tải một cách ý
vị, dễ hiểu đến ngƣời đọc. Những giá trị nội dung trong thơ của
Ngƣời khó có thể nắm bắt hết bởi “Ý tại ngôn ngoại”, ngoài ra, mảng
thơ chữ Hán ngƣời sáng tác rất nhiều, chúng ta thƣờng tiếp xúc với
thơ Ngƣời qua bản dịch mà dịch giả khó lòng chuyển tải hết ý nghĩa
trong nguyên tác. Trong khuân khổ bài viết của mình, tôi xin tập
trung bàn về những bài viết về thiên nhiên của Bác. Đồng thời qua
đó làm nổi bật lòng yêu nƣớc, tinh thần lạc quan của Ngƣời.
Thiên nhiên và non sông gấm vóc dƣới góc nhìn của Bác luôn rất
sống động, phong phú và đa dạng. Nó không chỉ là đối tƣợng để khai
thác, miêu tả, là tác nhân cho xúc cảm thẩm mỹ bay cao và vƣơn xa,
hơn thế nữa, nó còn tạo nên những giá trị thẩm mỹ tự nhiên cho tác
phẩm nghệ thuật, tạo nên cốt cách của một thi sỹ - nhà hiền triết
phƣơng Đông Hồ Chí Minh rất độc đáo. Chính vì thế, thiên nhiên và
non sông gấm vóc trong tình cảm và tâm hồn Ngƣời không còn là Cái
Tự nhiên tự nó mà đã trở thành Cái Tự nhiên cho ta (ý của Hegel) -
(theo Đỗ Ngọc Yên – Thiên nhiên và mùa xuân trong thơ Bác - Báo
Điện tử Tổ quốc).
Có thể thấy thời niên thiếu Bác đã luôn trăn trở với thời cuộc qua
bài thơ “Ba Ông Phỗng” (đã dẫn). Chỉ đến khi ở trong nhà lao của
94 | Nguyễn Thanh Toàn
chính quyền Tƣởng Giới Thạch, Bác mới có thời gian chiêm nguỡng
cảnh sắc thiên nhiên, dù chƣa phải thiên nhiên quê nhà: “Ngƣời ngắm
trăng soi ngoài cửa sổ/ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”(Ngắm
trăng). Trăng trong thơ Bác đã đƣợc thi vị hóa để trăng và ngƣời đã
trở thành đôi bạn, sẻ chia tâm sự, đối ẩm cùng nhau.
Trong một số bài thơ của Bác thiên nhiên luôn đƣợc soi sáng, thi
vị hóa và chắp cánh dƣới tầm nhìn, góc nhìn mới lạ: “Chim mỏi về
rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không” (Chiều tối);
“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi/ Lòng sông gƣơng sáng bụi không mờ”
(Mới ra tù tập leo núi)… Thiên nhiên trong thơ Ngƣời luôn đẹp nhƣng
thiên nhiên của nƣớc Việt không chỉ càng đẹp mà còn luôn đằm thắm,
trữ tình, gần gũi thân quen và đáng yêu biết nhƣờng nào. Trên chiến
khu Việt Bắc, khi thƣ thả sau thời gian bận rộn việc quân, nhà thơ
tƣớng quân Hồ Chí Minh đã để lại một thi phẩm bất hủ: “Kim dạ
Nguyên Tiêu nguyệt chính viên/ Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên/
Yên ba thâm xứ đàm quân sự/ Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
(Nguyên Tiêu). Câu cuối là một tuyệt tác hiếm thấy, khó có thể dịch
sát, đầy đủ bởi nói mãi vẫn không đủ từ ngữ để chuyển tải hết cái hay
trong thơ.
Một trong những bài thơ hay khác về thiên nhiên là “Cảnh rừng
Việt Bắc”: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay/ Vƣợn hót chim kêu suốt
cả ngày/ Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng/ Săn về thƣờng chén thịt
rừng quay/ Non xanh nƣớc biếc tha hồ dạo/ Rƣợu ngọt, chè tƣơi mặc
sức say/ Kháng chiến thành công ta trở lại/ Trăng xƣa, hạc cũ với
xuân này”. Thật thi vị, vừa lạc quan, vừa ung dung thƣ thái, hồn thơ
hoà hợp với thiên nhiên, nghe âm thanh thiên nhiên qua tiếng “vƣợn
hót chim kêu”, đặc biệt là ngây ngất bên cảnh cũ và Xuân với Ngƣời
là đôi bạn tri kỷ, tri âm.
Cũng là trăng, là cảnh thiên nhiên nhƣng đối với ngƣời tự do
khác hẳn với tù nhân, thi sỹ khác hẳn với nhà thơ chiến sĩ, càng khác
hơn với ngƣời lãnh đạo công cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 95
Bởi vậy, cốt cách, phong thái trong thơ Ngƣời cũng cao ngạo mà thật
hào hùng nhƣng vẫn ấm áp: “Hôm nay xiềng xích thay dây trói/ Mỗi
bƣớc leng keng tiếng ngọc rung/ Tuy bị tình nghi là gián điệp/ Mà
nhƣ khanh tƣớng vẻ ung dung” (Vãng Nam Ninh). Thơ của Bác
không cầu kỳ, nó rất mộc mạc, gần gũi nhƣng ý tƣởng lại vô cùng
sâu sắc: “Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ, bóng
lồng hoa/ Cảnh khuya nhƣ vẽ ngƣời chƣa ngủ/ Chƣa ngủ vì lo nỗi
nƣớc nhà” (Cảnh khuya). Những bài thơ tả cảnh thể hiện rất rõ cảm
hứng dạt dào của Bác trƣớc thiên nhiên. Có bài chỉ vài nét phác họa
đơn sơ, song cũng có bài nhƣ một bức tranh sơn mài lộng lẫy. Nhƣng
bao trùm lên tất cả vẫn là vẻ đẹp phong phú, đa dạng của thiên nhiên.
Mặc dù thân thể bị giam cầm trong ngục tối nhƣng trái tim nhạy cảm
của Bác vẫn dễ dàng rung động trƣớc một ánh nắng mai rọi chiếu nơi
cửa ngục âm u:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trƣớc mặt đã bừng soi”
(Buổi sớm)
Thiên nhiên trong “Nhật kí trong tù” đẹp đẽ và ấm áp tình ngƣời.
Nó thực sự trở thành nguồn động viên, an ủi to lớn đối với ngƣời tù
đặc biệt Hồ Chí Minh:
“Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn núi, hƣơng bay ngát rừng
Vui say ai cấm ta đừng
Đƣờng xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu”
(Trên đƣờng đi)
Thân thể trong ngục tù nhƣng Bác luôn lạc quan tin tƣởng và sự
tất thắng của con đƣờng đã chọn. Tinh thần lạc quan thể hiện rất rõ
trong nhiều bài thơ:
“Phƣơng Đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn, quét sạch không
96 | Nguyễn Thanh Toàn
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Ngƣời đi, thi hứng bỗng thêm nồng”
(Giải đi sớm)
Khi bị giải từ nơi này qua nơi khác, bằng nét bút tài hoa của ngƣời
nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền
hoành tráng đó, nổi bật lên tƣ thế hiên ngang của ngƣời chiến sĩ với
quyết tâm vƣợt khó và tinh thần lạc quan tin tƣởng vào tƣơng lai tƣơi
sáng của cách mạng:
“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dƣ đồ cố miện gian”
(Tẩu lộ)
Sự hàm súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của
thơ Đƣờng không bó buộc nổi tứ thơ phóng khoáng và cảm xúc dạt
dào của thi nhân.
3. Những giá trị nghệ thuật sâu sắc
Nhƣ trên đã đề cập, Bác không coi mình là nhà thơ, nhƣng trong
suốt sự nghiệp vĩ đại của mình Ngƣời vẫn để lại cho chúng ta những
áng thơ trác tuyệt mang những giá trị nghệ thuật cao. Trƣớc tiên,
chúng ta có thể khẳng định quan điểm sáng tác của Ngƣời là “Nghệ
thuật vị nhân sinh” bởi phần lớn sáng tác đều hƣớng đến đất nƣớc, đến
cuộc cách mạng vĩ đại. Có những bài tự khuyên mình nhƣng cũng
ngầnm gửi gắm đến các đồng chí, đồng bào lời nhắn nhủ, sự động
viên vƣợt qua nghịch cảnh tù đày để sống và tiếp tục cống hiến cho sự
nghiệp chung. Bài thơ “Khán Thiên gia thi hữu cảm” có thể coi là lời
Tuyên ngôn về đối tƣợng sáng tác của Bác (Sáng tác gì? Cho ai? Làm
gì?) chứ không đơn thuần là “Cho khuây” nhƣ ở bài mở đầu tập
“Ngục trung Nhật kí”.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 97
Thơ của Bác Hồ luôn ngắn gọn, hàm súc nhƣng vẫn đủ thanh
thoát, mềm mại mà không đơn điệu. Bài “Cảnh khuya” (đã dẫn) là
một trong những bài thơ nhƣ thế. “Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa/
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa/ Cảnh khuya nhƣ vẽ ngƣời chƣa
ngủ/ Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà” - Trong bài tứ tuyệt này, có đủ bức
tranh thiên nhiên hữu tình, có âm thanh, hình ảnh hòa quyện vào làm
nền cho con ngƣời thi nhân bận lo toan việc nƣớc. Các thủ pháp nhân
hóa, so sánh, liên tƣởng đƣợc phối trộn tinh tế hòa quyện trong nhau.
Trong bài “Tảo Giải” (đã dẫn): “Nhất thứ kê đề dạ vị lan/ Quần tinh
ủng nguyệt thƣớng thu san/ Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thƣợng/
Nghênh diện thu phong trận trận hàn” thì nghệ thuật và nội dung hòa
quyện nâng cánh cho thơ. Cảnh thiên nhiên dù khắc nghiệt vẫn đủ thi
vị trƣớc phong thái hiên ngang, thách thức khó khăn gian khổ của
ngƣời làm thơ chiến sỹ.
Ngoài việc chắt lọc từ ngữ, Bác thƣờng sử dụng Nghệ thuật điệp
từ, điệp ngữ trong khá nhiều bài. Điển hình là bài thơ “Tẩu lộ” (đã
dẫn) với “Trùng san” đuợc ba lần lặp lại thật khéo léo và tinh tế. Bản
dịch của Nam Trân cũng rất thành công và là một trong số ít bài dịch
gần sát nghĩa nhƣ nguyên tác: “Đi đuờng mới thấy gian lao/ Núi cao
rồi lại núi cao trập trùng/ Núi cao cao đến vô cùng/ Thu vào tầm mắt
muôn trùng nƣớc non”. Tuy thế, câu đầu chƣa nhấn bằng do Bác dùng
“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan” - Theo nguyên tác phải là ngƣời đi đƣờng
giỏi mới có khả năng nhận biết, chứ không phải ai cũng biết. Đó là
chƣa kể chữ “Đi đuờng” của Bác chƣa chắc chỉ là con đƣờng đơn
thuần (“Đƣờng Kách Mệnh” chẳng hạn)? Còn câu “Nghênh diện thu
phong trận trận hàn” thì bản dịch còn xa mới theo kịp nguyên tác.
Năm 1942, trong một bài TNBC Bác đã viết phê phán Quốc trƣởng
Pháp Henri Philippe Pétain đã đầu hàng phát xít Đức nhƣ sau: “Bán
nƣớc lại còn hô cứu nuớc/ Ô danh mà muốn đuợc thơm danh” (Báo
điện tử Đảng Cộng Sản VN). Bài “Nguyên Tiêu” nổi tiếng với các
điệp từ “Xuân”, “Nguyệt” ngập tràn cảm xúc. Nhà thơ Xuân Thủy
dịch rất đạt nhƣng câu cuối vẫn chƣa thể sánh cùng nguyên tác.
98 | Nguyễn Thanh Toàn
Nghệ thuật thơ tứ tuyệt của Bác mang vẻ đẹp trong sự kết hợp hài
hòa giữa truyền thống với hiện đại, giữa tính dân tộc với tính quốc tế.
Bác kế thừa tính cô đọng, hàm súc, ý tại ngôn ngoại của thể thơ Tứ
tuyệt Đƣờng luật cổ điển, tính đa nghĩa, sâu sắc của văn phong chữ
Hán kết hợp hài hòa với phong cách hiện đại ở bối cảnh, nhân vật. Bối
cảnh trong thơ Bác không thoát ly mà gần gũi với đời thƣờng. Nhân
vật trong thơ Bác là nhân vật hiện đại, là thi nhân, nhƣng cũng đồng
thời là chiến sĩ, đôi lúc là những ngƣời dân lao động mà Bác tình cờ
bắt gặp (Vợ anh bạn tù, Cô em xóm núi, Cháu bé trong nhà lao Tân
Cƣơng…). Bài thơ “Học đánh cờ” (đã dẫn) đƣợc PGS. TS. Đặng
Quốc Bảo liên tƣởng đến phƣơng châm “Dĩ bất biến - Ứng vạn biến”
(cổ điển) phối hợp với một bài phân tích chiến lƣợc kiểu Ma trận
SWOT trong Kinh tế học và Xã hội học hiện đại (Theo Tạp chí Giáo
dục Thủ đô số 23 - tháng 11/2011)…
Giá trị nội dung – tƣ tƣởng và vẻ đẹp nghệ thuật của thơ Đƣờng
luật HCM vô cùng thâm sâu, độc đáo, không thể một sớm một chiều
mà có thể nắm bắt, cảm nhận thấu. Tôi xin tạm dừng bài viết của mình
tại đây. Cám ơn quý vị đã đọc, đã nghe và xin trân trọng những ý kiến
phản biện, góp ý cho bài viết.
NTT
BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT VIỆT NAM
NGND Trần Bửu Lâm
Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam
Bác Hồ kính yêu là một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một
danh nhân văn hóa nổi tiếng thế giới. Nhƣng trong phạm vi Hội thảo
BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM tôi chi trình bày
những ý kiến của tôi về Bác Hồ với thơ Đƣờng luật Việt Nam. Sự
nghiệp văn thơ của Bác Hồ là một phần rất bé nhỏ trong sự nghiệp
cách mạng vĩ đại của Bác. Tuy nhiên văn thơ của Bác đã có tác dụng
quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, bồi dƣỡng ý chí cách mạng,
giáo dục đạo đức, lòng yêu nƣớc cho nhân dân trong quá khứ, hiện tại
và cả mai sau. Thơ là tiếng lòng, tiếng nói của tình cảm giàu tính
thuyết phục nên trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác đã
dùng thơ trong đó thể loại thơ Đƣờng luật chiếm phần đáng kể để
tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng, kêu gọi toàn dân đoàn
kết, hăng hái tham gia cách mạng.Lời thơ của Bác ấm áp, tình cảm dễ
đi vào lòng ngƣời. Là một nhà nho uyên thâm nên thơ Đƣờng luật của
Bác có hai phần: phần thơ Đƣờng luật Bác viết bằng tiếng Việt và một
phần Bác viết bằng chữ Hán. Tôi hiểu chữ Hán rất lơ mơ, nên tôi chủ
yếu tập trung trình bày cảm nhận của tôi qua các bài thơ Đƣờng luật
bằng tiếng Việt.Bác Hồ dùng thơ văn nói chung, thơ Đƣờng luật nói
riêng làm phƣơng tiện tuyên truyền, đấu tranh cách mạng nên thơ Bác
luôn mang đậm chất “thép” của thời đại cách mạng vô sản. Bác viết:
“Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa. tuyết, núi, sông
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
100 | NGND. Trần Bửu Lâm
Sau 30 năm bôn ba tìm đƣờng cứu nƣớc, đầu năm 1941, khi tình
hình trong nƣớc và tình hình thế giới chuyển biến mau lẹ, Bác quyết
định về nƣớc để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạnh. Thời kỳ nầy
Bác thƣờng dùng thơ để tuyên truyền,phổ biến chủ trƣơng, chính sách,
kêu gọi nhân dân đoàn kết đánh Tây, đuổi Nhật giành lại chinh quyền:
Đinh Chƣơng Dƣơng (1884 – 1972), quê Thanh Hóa, sớm giác
ngộ và tham gia hoạt động tích cực. Năm ông thọ 60 tuổi, Bác đã
làm bài thơ sau để tặng:
“Quan sơn muôn dặm gặp nhau đây
Mục đích chung là đuổi Nhật, Tây
Dân bị hai tròng vào một cổ
Ta liều trăm đắng với ngàn cay
Già dù yếu sức mang mang nhẹ
Trẻ cố ra công gánh gánh đầy
Non nƣớc của ta, ta lấy lại
Nghìn thu sự nghiệp nổi từ đây”.
Bài thơ này Bác viết năm 1943 là thời điểm phe phát xit liên tiếp
thua quân Đồng minh, thời cơ để nhân dân ta đứng lên khởi nghĩa
giành chính quyền đã xuất hiện. Cho nên qua bài thơ tặng cụ Đinh
Chƣơng Dƣơng Bác đã chỉ rõ nhiệm vụ trƣớc mắt của toàn dân, trẻ
hay gìa tùy theo sức của minh mà tham gia đánh đuổi Nhật, Pháp để
giành quyền độc lập (Non nƣớc của ta, ta lấy lại). Câu thơ “Non nƣớc
của ta, ta lấy lại” có bảy chữ, một triết lý rõ ràng dễ hiểu, nhƣng đó là
mục tiêu duy nhât, mục tiêu cao cả của cách mạng dân tộc mà dƣới sự
lãnh đạo của Đảng do Bác đứng đầu nhân dân ta phải chiến đấu ròng
rã đầy hy sinh, gian khổ gần 30 năm mới giành đƣợc.
Trong lúc phe phát xít và phe Đồng minh đánh nhau rất ác liệt.
ngày 14/6/1940, quân phát xít Đức tấn công nƣớc Pháp, chiếm thủ đô
Pari. Tám ngày sau (22/6/1940), Chính phủ Pê- tanh ký hiệp định đình
chiến với Đức. thực chất đây là hiệp định đầu hàng Đức một cách
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 101
nhục nhã của thống chế Pêtanh. Trƣớc sự kiện này Bác đã sáng tác bài
thơ TẶNG THỐNG CHẾ PÉTANH nhƣ sau:
“Vận mệnh Lang-sa lúc chẳng lành
Pê-tanh lão tƣớng hóa hôi tanh
Cúi đầu, quỳ gối, hàng quân Đức
Trợn mắt, nhăn mày, chửi nƣớc Anh
Bán nƣớc lại còn khoe cứu nƣớc
Ô danh mà muốn đựợc thơm danh
Già mà nhƣ chú càng thêm dại
Tiếng xấu muôn đời nhuốc sử xanh”.
Ngày 11/7/ 1942
Lợi dụng việc Pháp đầu hàng Đức, quân Nhật kéo vào Đông
Dƣơng và toàn quyền Đờ Cu nhanh chóng đầu hàng Nhật và chịu làm
tay sai cho quân Nhật, Bác liền có bài thơ luật Đƣờng TẶNG TOÀN
QUYỀN ĐỜ CU:
“Non nƣớc Rồng Tiên rõ mịt mù
Lợi quyền phó mặc bố thằng cu
Đối dân Nam Việt thì lên mặt
Gặp bọn Phù tang (1) chí đội khu
Về Pháp không cơm e chết đói
Ở đây, hút máu béo ni nu
Cũng nhƣ thống chế Pêtanh vậy
Chú cứ cu cù đƣợc mãi ru”.
Qua hai bài thơ tặng thống chế Pêtanh và tặng toàn quyền Đờ cu
Bác vạch mặt thái độ hống hách đối với dân thuộc đìa nhƣng cúi đầu
quỳ gối đầu hàng nhục nhã đối với bọn phát xít Đức, Nhật.
Để tuyên truyền, kêu gọi toàn dân đoàn kết nhằm giải phóng dân
tộc, Bác đã sáng tác bài CHƠI TRĂNG:
Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi trăng
Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
102 | NGND. Trần Bửu Lâm
“Non nƣớc tơi bời sao vậy nhỉ?
Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
Khi nào dấy đƣợc quân anh dũng
Để dẹp cho tan bọn nhố nhăng?
Nam Việt bao giờ thì giải phóng?
Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”
Trăng rằng: "Tôi kính trả lời ông
Tôi đã từng soi khắp núi sông
Muốn biết tự do chầy hoặc chóng
Thì xem tổ chức khắp hay không
Nƣớc nhà giành lại nhờ gan sắt
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng
Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi
Tức là cách mạng chóng thành công”.
Trong 2 khổ thơ Đƣờng luật này Bác mƣợn ánh sáng của Trăng và
nhân vật chị Hằng để tuyên truyền,giáo dục đồng bào cả nƣớc nhận
thức đƣợc đất nƣớc đang tơi bời, nhân dân đang cực khổ, làm sao dẹp
hết bọn nhố nhăng? Bao giờ nƣớc nhà đƣợc giải phóng? Trăng đã trả
lời rõ ràng tỉ mỉ. nhƣng chúng ta đều hiểu sâu sắc rằng các câu hỏi và
các câu trả lời trong bài thơ CHƠI TRĂNG là tƣ tƣởng vĩ đại của Bác.
Đầu năm 1941, Bác về nƣớc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng,
những ngày còn sống trong hang Pác Bó với cháo bẹ, rau măng Bác
đã dịch cuốn lịch sử Đảng Công sản Liên Xô để làm tài liệu học tập
cho cán bộ cách mạng. Bác đã sáng tác bài thơ tứ tuyệt:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 103
Từ hang Pác Bó này, từ cháo bẹ, rau măng Bác đã lãnh đạo cách
mạng tháng 8 năm 1945 thành còng.
Hai mƣơi năm sau, tháng 2 năm 1961, Bác thăm lại hang Pác Bó,
Bác xúc động sáng tác bài THĂM LẠI HANG PÁC BÓ:
“Hai mƣơi năm trƣớc ở hang này,
Đảng vạch con đƣờng đánh Nhật, Tây
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu,
Non sông gấm vóc có ngày nay”.
Tôi chỉ nêu 6 bài thơ Đƣờng luật chủ yếu Bác sáng tác từ năm
1941 đến 1943 là thời kỳ Bác thức tĩnh đồng bào, xây dựng lực lƣợng,
chờ đón thời cơ để lãnh đạo toàn dân đúng lên khởi nghĩa giành chính
quyền. Bất cứ thể loại thơ nào của Bác cũng đều mang chất thép cách
mạng của thời đại rất rõ. Đúng nhƣ cố Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh đã
nhận định:”Trong thơ của Hồ Chủ tịch, mỗi câu, mỗi chữ đều mang
chất “thép:, đều toát ra tƣ tƣởng, tình cảm của một chiến sĩ vĩ đại”.
TBL
104 | NGND. Trần Bửu Lâm
“TẨU LỘ” - THƠ BÁC. MỘT NHÂN CÁCH LỚN
Võ Giáp
Hội TĐL Việt Nam
Phiên âm: Tẩu lộ
“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dƣ đồ cố miện gian”.
Hồ Chí Minh
Nam Trân dịch thơ: Đi đƣờng
“Đi đƣờng mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nƣớc non”.
(Sách giáo khoa lớp 8)
Tẩu lộ là bài thơ luật đƣờng tứ tuyệt của Hồ Chí Minh, đƣợc đƣa
vào giảng dạy trong nhà trƣờng. Bài thơ độc đáo về ngữ nghĩa và về
cách chơi thơ, nhƣ dùng nhiều “điệp từ”. Hai lần dùng “tẩu lộ”, ba lần
dùng “trùng san”. Trong khi thể thơ quy định chỉ có 28 chữ, thời xƣa
coi mỗi chữ nhƣ một viên đá quý. Hẳn tác giả phải tâm đắc lắm, muốn
khắc sâu tầm của ý tƣởng mới làm nhƣ vậy. Ngoài ra còn có cách chơi:
“Thủ vĩ cú đồng từ”, “Vĩ thủ áp cú đồng từ” (ở bài này là từ kép).
Trƣớc hết ta tìm hiểu nghĩa của một số từ. Theo hán văn, tẩu ( )
là chạy. Khứ ( ), hành ( ), tỹ ( ) mới là đi (đi chữ nôm viết).
Ngoài ra tẩu lộ ( , lộ có nghĩa là con đƣờng) cũng có nghĩa là đi.
106 | Võ Giáp
Ngày nay ngƣời Trung Quốc lại quen dùng từ tẩu là đi. Vì vậy ta còn
có thể hiểu: nếu tẩu là động từ thì tẩu lộ là đi đƣờng. Còn tẩu đóng
vai trò là tính từ của từ lộ, thì tẩu lộ có nghĩa là đƣờng đi. Vậy tẩu lộ
có 3 cách hiểu: đi, đi đƣờng, đƣờng đi.
Trùng ( ) có nghĩa là tầng tầng lớp lớp (tính từ), cũng có nghĩa là
lặp lại (động từ), tiếng Việt vẫn có từ “trùng” với nghĩa trên. San ( )
còn đƣợc đọc là sơn nghĩa là núi. Ta cũng có thể hiểu: trùng san là lặp
lại núi (nếu trùng là động từ), hoặc trùng san là núi điệp trùng (nếu
trùng là tính từ).
Vì vậy câu 1 có điệp từ “Tẩu lộ.... tẩu lộ....”, nhƣng không hẳn là
điệp nghĩa. Câu này ta có thể hiểu: Đi đƣờng mới biết đƣờng đi khó.
Câu 2 có chữ hựu ( ) nghĩa là lại, còn có cách chơi thủ vĩ cú đồng
từ. “Trùng san... trùng san”. Ở đây dùng “san” cho đúng vận. Câu này
ta có thể hiểu: Hết dãy núi này lại đến dãy núi khác.
Câu 3 có chữ hậu ( ) nghĩa là có hậu, về sau sẽ tốt (chứ không
phải là hậu là sau). Từ đầu của câu sau lặp lại từ cuối của câu trƣớc,
đây là cách chơi vĩ thủ áp cú đồng từ. Câu này ta có thể hiểu: Nhiều
dãy núi vậy, nhƣng khi lên đến đỉnh núi cao (nhất), mới có đƣợc nét
đẹp xa hơn.
Câu 4 nối tiếp ý của câu 3. Câu này ta có thể hiểu: (Khi lên đến
đỉnh núi cao nhất). Mọi cảnh vật vẽ ra trong muôn dặm sẽ thu cả
vào trong tầm mắt mình.
Bác viết bài thơ này trong giai đoạn còn lăn lộn gian nan giữa
trùng vây của bọn thực dân đế quốc và bè lũ phản động tay sai, để tìm
đƣờng cứu nƣớc, bằng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng
quê hƣơng. Bài thơ ý ngoài là thế, nhƣng ẩn ý là: Con đƣờng cách
mạng khó là vậy, biết bao gian nan và hiểm nguy trƣớc mắt, nhƣng
phải quyết tâm vƣợt qua để đạt đến đích, ta sẽ thu lại đƣợc cả giang
sơn gấm vóc vào tay nhân dân mình.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 107
Sở dĩ Bác Hồ ƣa thể thơ luật đƣờng tứ tuyệt vì quan niệm “Một
tác phẩm văn chƣơng không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ
diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó đƣợc trình bày sao cho
mọi ngƣời ai cũng hiểu đƣợc, khi đọc xong độc giả phải suy nghĩ, thì
tác phẩm ấy mới xem nhƣ là một tác phẩm hay...”.
Thơ tứ tuyệt xƣa coi sơn, thủy, phong, hoa, tuyết, nguyệt là
những thi liệu. Với Bác cũng vậy, nhƣng nó không làm cho con
ngƣời choáng ngợp trƣớc tự nhiên, mà có sự vƣợt lên “Núi cao lên
đến tận cùng”.
Trong thơ luật đƣờng tứ tuyệt của Bác gần nhƣ câu đầu (đề) bài
nào cũng đến với ngƣời đọc một cách hồn nhiên, dung dị nhƣng chân
thực “Đi đƣờng mới biết gian lao”. Tiếp câu 2 (câu thực) làm rõ thêm
đề ““Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Câu 3 (câu luận) đóng vai
trò vừa tiếp tục triển khai tứ thơ “Núi cao lên đến tận cùng”. Để chuẩn
bị cho mạch thơ hƣớng vào kết thúc “Thu vào tầm mắt muôn trùng
nƣớc non” (Câu 4). Đúng cấu trúc hoàn hảo một bài thể thơ luật
đƣờng, cùng chính vận “an” (nan, san, gian), kết hợp với các thanh
hài hòa uyển chuyển đọc cả bài nghe êm ái.
Biện pháp điệp từ (Câu 1: Tẩu lộ... tẩu lộ), thủ vĩ cú đồng từ (Câu
2: Trùng san... trùng san), vĩ thủ áp cú động từ (Câu 3: Trùng san...)
đã làm các câu thơ cứ thế nối tiếp ý thơ, cứ thế tràn ra để chuyển tải
nội dung. Làm các câu thơ gắn kết với nhau một cách chặt chẽ, ý thơ
cũng từ đó mà tỏa ra.
Qua “Tẩu lộ” và phần lớn thơ của Bác, ta thấy Bác luôn nhìn thiên
nhiên từ cao từ xa nhƣ muốn bao quát cả vũ trụ. Về không gian, từ
“tối” chuyển sang “sáng”. Từ đó ta có thể nhận ra: Thơ Bác biểu hiện
một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Nhà nghiên cứu văn học Pháp Rogie Deunuyx viết: Thơ Hồ Chí
Minh nói ít mà gợi nhiều, bài thơ có màu sắc thấm đẫm, có âm thanh
trầm lắng, không phô diễn...
108 | Võ Giáp
Thƣờng ngƣời ta dịch bài thơ thể luật đƣờng ra thể thơ luật đƣờng,
hoặc lục bát vì cả hai thể này cùng là thơ luật đã thuần Việt. Làm sao
dịch giả phải chuyển tải đƣợc hết ý tƣởng của tác giả là đƣợc. Đã có
những bài, dịch giả cẩn thận chỉ dừng lại ở dịch nghĩa, vì sợ dịch thơ
không lột tả hết ý tƣởng của tác giả.
Các cách chơi thơ luật đƣờng tứ tuyệt của Bác Hồ, ta còn thấy ở
một số bài thơ khác nhƣ: Tân xuất ngục, học đăng sơn: Vân ủng trùng
sơn, sơn ủng vân (thủ vĩ cú đảo từ). Ngọ hậu: Nhân nhân ngƣỡng khán
tự do thiên/Tự do thiên thƣợng thần tiên khách (vĩ thủ áp cú đồng từ).
Ly Bắc Kinh: Ký Bắc thiên tân huyền hạo nguyệt/ Tâm tùy hạo
nguyệt cộng du du/ Hạo nguyệt thùy phân vi lƣỡng bán/ (điệp từ)...
Bác Hồ là ngƣời ham đọc và ham học, nên có thể các cách chơi
thơ luật đƣờng tứ tuyệt của ngƣời xƣa đã để lại dấu ấn, nhƣ: Lý
Thƣờng Kiệt: Nam quốc sơn hà nam đế cƣ (điệp từ). Thôi Hộ - Đề
đô thành Nam Trang: Nhân diện đào hoa tƣơng ánh hồng/ Nhân diện
bất tri hà xứ khứ (điệp từ). Tần Quan – Tần Quan ký Tô Thức: Khứ
mã nhƣ phi tửu lực vi/Tửu lực vi tinh thời dĩ mộ (Vĩ thủ áp cú đồng
từ). Kim Xƣơng Tự - Xuân oán: Mạc giao chi thƣợng đề/Đề thời kinh
thiếp mộng (Vĩ thủ áp cú đồng từ)...
Điều đó có thể nói: Đọc thơ Bác là học cách làm thơ dân dã mà
triết lý, học cách làm người có bản lĩnh mà nhân hậu của Bác./.
VG
THƠ BÁC HỒ RỰC RỠ ÁNH TRIÊU DƯƠNG
Hoàng Triều Ân
Hội thơ Đƣờng LuậtCao Bằng
Trong không khí toàn dân tộc sục sôi khí thế bƣớc vào cuộc kháng
chiến ngày đầu không cân sức ấy, không ít ngƣời mang nặng nỗi ƣu tƣ
lo lắng. Vậy mà năm 1947 từ Thủ đô kháng chiến ATK (an toàn khu),
Bác Hồ có bài thơ Đƣờng Luật viết bằng chữ Hán không chút ƣu tƣ
sầu muộn..
VIỆT BẮC SƠN LÂM TỨC CẢNH
“Việt Bắc lâm thâm hứng vị ƣơng
Viên hô điểu ứng bán triêu dƣơng
Khách lai thả trích ngọc giao khảo
Liệp phản thƣờng thiêu dã vị thƣờng
Thủy lục sơn thanh du bất tận
Tửu điềm trà nộn túy do hƣơng
Khai tuyền chi hậu tòng lâm thử
Hạc hữu nguyệt minh xuân ý trƣờng.”
Bài thơ Luật Đƣờng với thể thơ vốn bề thế, chững chạc, nay đọc
bài thơ ta càng thấy bề thế, chững chạc, vững vàng hơn, làm ấm lòng
bao kẻ sĩ đƣơng thời. Ta thấy lại viên thanh, minh nguyệt gợi cảnh
thanh bình trong thơ Lý Bạch Lƣỡng ngạn viên thanh đề bất tận (Tảo
phát Bạch Đế thành – Tiếng vƣợn hai bờ kêu chẳng dứt) – hoặc trong
thơ Vƣơng Duy Thâm lâm nhân bất tri – Minh nguyệt lai tƣơng chiếu
(Trúc Ly quán – Nơi rừng sâu không ai biết - Chỉ có vầng trăng vằng
vặc đến soi nhau).
110 | Hoàng Triều Ân
Thể thơ Đƣờng Luật và những thi liệu quen thuộc trong Đƣờng
Thi (thế kỷ VII – đầu thế kỷ X) gợi đến trong thơ Bác lúc này thật đã
làm bình tâm, làm cho cõi lòng thanh thản của nhiều văn nghệ sĩ
những ngày đầu kháng chiến. Chẳng đã thuở ban đầu ấy, có nhà thơ
của Hà Thành cũng tản cƣ về “An toàn khu kháng chiến ATK”, đã gọi
nơi đây là xứ sở tối tăm;
“Sớm nay ra cửa U Tỳ quốc
Một chiếc xe nghênh đạp giữa đƣờng…”
Lời thơ ấy, so với bài “Việt Bắc sơn lâm tức cảnh” đƣợc dịch ra
Việt ngữ, ta thấy Việt Bắc nên thơ biết bao:
CẢNH RỪNG VIỆT BẮC
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vƣợn hót chim kêu suốt cả ngày
Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng
Săn về thƣờng chén thịt rừng quay
Non xanh nƣớc biếc tha hồ dạo
Rƣợu ngọt chè tƣơi mặc sức say
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xƣa hạc cũ với xuân này.”
Nhắc đến thơ Lý Bạch, thơ Vƣơng Duy, chúng ta lƣu ý không khí
thanh bình - chứ về mặt thi liệu tiếng vƣợn kêu không dứt hay vầng trăng
sáng vằng vặc là cảnh quan thiên nhiên trời phú cho mọi ngƣời thế gian;
ở Việt Bắc khi đó và hiện nay tiếng vƣợn, vầng trăng vẫn còn đó.
Những cảnh sinh hoạt phổ biến ở mọi nơi miền núi đi vào trong thơ
Bác rất bình dị, rất nhuần nhuyễn. Đãi khách bằng đặc sản là ngô nếp
nƣớng bùi, thơm. Đi săn là một thú vui ở miền núi. Một ngƣời đề
xƣớng rồi nổi tù và. Cả bản làng sửa soạn mồi thuốc súng hỏa mai, gọi
theo chó đàn. Vào rừng, nơi này một tiếng “ô hồi” đuổi thú, khắp nơi
vọng lại nhiều tiếng “ô hồi” đuổi thú. Con thú dù là con hƣơu lớn bằng
con bò mộng cũng phải cuồng chân, biết chạy vào đâu, khi tứ phía “ô
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 111
hồi”. Chó đàn vào vết, sủa lắt nhắt, dai dẳng khắp nơi. Khi đã phát hiện
con thú rồi, con mồi khó mà lọt. Khi con mồi đƣợc khiêng về, máu ứa,
mọi ngƣời quệt chút tiết vào báng súng theo phong tục và đƣợc ăn thịt
sơn hào nƣớng hƣơng bay tỏa thơm lừng. Cảnh Việt Bắc là thế.
“Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng
Săn về thƣờng chén thịt rừng quay.”
Và cũng qua đó ta càng hiểu hơn câu thơ Tố Hữu viết sau này Suối
dài xanh mƣớt nƣơng ngô - bốn phƣơng lồng lộng thủ đô gió ngàn.
Với bốn câu đề và thực, cảnh sinh hoạt thật vui vẻ, vững vàng,
không thể hiện một chút lo âu với chiến sự của cuộc kháng chiến đang
diễn ra lúc này, mà cụ thể là hai gọng kìm quân Pháp bầy bố đang thắt
lại bủa vây “thủ đô kháng chiến ATK”.
Ngày 7/10/1947 thực dân Pháp mở màn cuộc tấn công lên Việt
Bắc. Mở đầu là bƣớc một mang mật danh Lê-a, mục tiêu đánh chiếm
là khu tam giác Bắc Cạn - Chợ Đồn - Chợ Mới. Lúc này hình thành
hai gọng kìm bao vây toàn bộ khu căn cứ địa Việt Bắc. Hƣớng đông
dài 420 km hành quân và nhảy dù từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, một bộ
phận sẽ tiến xuống Bắc Cạn, hình thành gọng kìm thứ nhất, kẹp chặt
phía đông Việt Bắc. Hƣớng tây, dài 250km, gồm quân thủy lục từ Hà
Nội theo Sông Hồng lên Việt Trì, Đoan Hùng, chiếm Chiêm Hóa
(Tuyên Quang) hình thành gọng kìm thứ hai. Bƣớc thứ hai, mang mật
danh ceinture (tức là siết chặt vành đai). Chúng định làm gì? Sau này
trong Hồi ký Xa-lăng đã lộ rõ 4 mục tiêu chiến lƣợc của cuộc tiến
công khi đó “Diệt và bắt cơ quan đầu não của Việt Minh, tìm diệt chủ
lực, phá tan căn cứ địa Việt Bắc, bịt kín, khóa chặt biên giới Việt
Trung, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc và
loại trừ mọi chi viện từ bên ngoài. Truy lùng Việt Minh đến tận sào
huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ” (Hồi ký Xa-
lăng - NXB Press de la cité Paris, 1971 – t.2 – tr. 58 và 74)
Ngay khi hai gọng kìm siết chặt, tất cả chúng tập trung càn quét
khu tam giác Bắc Cạn- Chợ Chu- Chợ Mới, chúng nhảy dù xuống Chợ
112 | Hoàng Triều Ân
Chu- Chợ Mới thuộc huyện Định Hóa, Thái Nguyên, cơ quan Trung
ƣơng của ta đóng vững vàng ở cách đó 20 km đƣờng chim bay.
Đến ngày 19/12/1947 cuộc tấn công Việt Bắc của thực dân Pháp
thất bại hoàn toàn. Đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc.
Chiến dịch Việt Bắc - Thu đông 1947 của ta đã hoàn thành nhiệm
vụ đề ra “Phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp; bảo vệ cơ
quan đầu não kháng chiến; bảo toàn và nâng cao sức chiến đấu của bộ
đội chủ lực; bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc”.
Tình hình sôi động nhƣ vậy mà lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh vẫn
tiếp tục xuất khẩu hai câu thơ thật hào sảng, ung dung:
“Non xanh nƣớc biếc tha hồ dạo
Rƣợu ngọt chè tƣơi mặc sức say”
Sức nặng của hai câu thơ là ở mấy từ tha hồ dạo, mặc sức say vừa
khẳng định nhƣ đinh đóng cột, vừa lạc quan phơi phới.
Non xanh nƣớc biếc, màu sắc tƣơi tắn của giang san đất nƣớc, bày
ra mênh mông vùng Việt Bắc thật mỹ lệ. Theo tƣ duy về phần luận
của một bài thơ Đƣờng Luật, ta nghĩ tha hồ dạo có nghĩa ta là chủ
nhân ông của đất nƣớc, là nhân dân Việt Nam, không ai khác, nhƣ bài
Tuyên ngôn thời nhà Lý Nam quốc sơn hà Nam Đế cƣ. Tha hồ dạo
cũng có nghĩa là dân tộc ta đang kháng chiến để gìn giữ non sông gấm
vóc của cha ông đang bị xâm lăng. Thi liệu sơn thanh thủy tú của Việt
Bắc trong bài thơ thật gần gũi mà thật thâm thúy lắm thay.
Ở Việt Bắc có rất nhiều loại rƣợu (tiếng Tày là Lẩu) Lẩu khẩu
xay, Lẩu khẩu nua, Lẩu bắp muối, Lẩu pảng, Lẩu bắp, Lẩu pạo, Lẩu
cút lòa, Lẩu mẻc đều qua chƣng cất. Riêng Lẩu hoan (rƣợu ngọt) là
thứ rƣợu quý chế biến từ gạo nếp và loại men dành riêng cho Lẩu
hoan, ủ chứ không qua chƣng cất. Rƣợu ngọt có thể chế với lòng đỏ
trứng gà, chế với con tằm vàng óng trong suốt đang kéo kén… để
dùng làm thuốc bồi dƣỡng. Rƣợu ngọt là thứ rƣợu quý. Vậy mà trong
hoàn cảnh Việt Bắc đang bƣớc vào cuộc kháng chiến 1947 ở thủ đô
kháng chiến ATK vẫn có những cuộc ẩm thực nhàn nhã, thƣ thái. Câu
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 113
thơ rƣợu ngọt chè tƣơi mặc sức say là khẩu khí lạc quan của ngƣời
nắm đƣợc quy luật chiến thắng của cuộc kháng chiến chính nghĩa. Sau
đó thời gian ngắn, năm 1948, tiễn cụ Võ Liêm Sơn ở Hội nghị văn hóa
toàn quốc lần thƣ hai, trở về Liên khu 4, Bác tặng Cụ một bài thơ
Đƣờng Luật ngũ ngôn bát cú cũng đã có hai câu kết khẳng đinh “Tặng
Công chỉ nhất cú – Kháng chiến tất thành công” (Tặng Võ Công -
Một câu xin tặng cụ - Kháng chiến tất nhiên thành công).
Bài thơ viết tha hồ dạo, mặc sức say là nói lên tiếng nói của
ngƣời chủ nhân, của ngƣời có trách nhiệm bảo vệ non xanh nƣớc
biếc, rƣợu ngọt chè tƣơi…
Đọc 2 câu đề và 2 câu kết của bài thơ, ta thấy còn lại một dƣ âm
hào hùng phóng khoáng lạc quan.
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vƣợn hót chim kêu suốt cả ngày
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xƣa hạc cũ với xuân này.”
Đây là nói thời gian mai sau, có nghĩa là Bác từ năm 1947 đã
khẳng định kháng chiến ắt thành công, suy tƣ với một tinh thần lạc
quan cách mạng, từ bài thơ viết năm mở đầu cuộc kháng chiến
Vầng trăng khi đó sẽ trở thành bạn cũ, chim hạc cũng sẽ là bạn cũ.
Ở Việt Bắc trăng tỏa sáng. Những ngày Bác ở trên ấy làm nhiều thơ
gắn bó với trăng bởi trăng là bạn của núi rừng. Khuya về bát ngát
trăng ngân đầy thuyền (Nguyên tiêu 1948) Trăng vào cửa sổ đòi thơ
(Báo tiệp 1948), Ngoài song trăng rọi cây sân – Ánh trăng nhích bóng
cây gần trƣớc song - Việc quân việc nƣớc bàn xong - Gối khuya ngon
giấc bên song trăng nhòm (Đối nguyệt)…Trăng trong thơ Bác làm
sáng rực những ý tình trong thơ. Mà cũng gợi ta nhớ lại ánh trăng,
vầng trăng của các thi sĩ thời Đƣờng xƣa cổ kính với tâm hồn thơ
mộng. Đêm trƣờng trời mát trăng trong – Bùi ngùi thuyền khách bên
sông một mình (Cao Thích – Đông Bình lộ tác) Nhớ anh xa ngóng
dặm trƣờng – Bên sông dƣới bóng trăng suông tựa lầu (Vƣơng Xƣơng
114 | Hoàng Triều Ân
Linh - Tống Hồ Đại) Bâng khuâng nằm chẳng ngủ - Cửa ngỏ bóng
trăng tà (Mạnh Hạo Nhiên – Quy Chung Nam sơn)…
Hạc trong thơ Bác nghe cũng cổ kính mà cũng hiện đại Hạc vàng
ai cƣỡi đi đâu – Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ (Thôi Hiệu –
Hoàng Hạc lâu) Ca dao xƣa có nói đến sự gắn bó thủy chung rùa và
hạc, con rùa khi lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia. Nhƣng ý niệm
cao hơn cả là loài hạc, chim cao cẳng lội nƣớc ấy thanh cao, tƣợng
trƣng cho sự may mắn, điềm lành, ấm êm, hanh phúc. Hồi kháng
chiến chống Pháp gần ngôi trƣờng trung học Ngô Sĩ Liên vùng giải
phóng Bắc Giang, nhà cụ Nghị Hiều vẫn nuôi con hạc cao quý, dáng
cao hơn ngƣời, chơi với đàn gà trong sân, ấm êm hạnh phúc. Ở Việt
Bắc ngày nay thỉnh thoảng vẫn có con hạc lạc đàn bay qua rồi bay vội
về vùng suối xa khi môi trƣờng sống bị thu hẹp. Những bức tranh thêu
tùng hạc vẫn là sản phẩm cao quý của dân tộc.
Cho nên nói trăng xƣa hạc cũ, vừa cổ kính vừa hiện đại, thiên
nhiên đẹp của mọi ngƣời hạnh phúc thủy chung.
“Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xƣa hạc cũ với xuân này.”
Toàn bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng Ngày nay đã
xa rồi cuộc kháng chiến chống Pháp trƣờng kỳ mà anh dũng. Ta hãy
tƣởng tƣợng vào những ngày đầu cuộc kháng chiến ấy, bao sôi động,
lúc đó ta gặp không ít khó khăn, nhƣ ta đang đi trong bóng tối, chỉ cần
xuất hiện le lói một ngọn đuốc đã làm ấm áp lòng mọi ngƣời thật là
quý. Bài thơ là ngọn đuốc trong đêm cho ta một chủ nghĩa lạc quan
anh hùng cách mạng bởi ta thêm vững tâm tin tƣởng khi thấy ánh sáng
chiến thắng của cuộc kháng chiến trong thơ.
Nhƣng chẳng những thế, bài thơ mang ánh sáng rực rỡ của chủ
nghĩa lạc quan, còn là ánh sáng ban mai, là ánh triều dƣơng rực rỡ tỏa
sáng huy hoàng mọi miền đất nƣớc, dân tộc Việt Nam vững tin vào
con đƣờng kháng chiến trƣờng kỳ mà thành công. Thơ Bác Hồ rực rỡ
ánh triêu dƣơng.
HTA
NGẪM XEM NGƯỜI„ VỚI THƠ NÀY!
Nguyễn Khuyến
Chi hội thơ Đƣờng luật Hậu Lộc Thanh Hóa
Ngay từ năm 1923 nhà thơ đồng thời là nhà báo Xô Viết nổi
tiếng Omanđenxtam. Trong bài “Thăm một chiến sỹ Cộng sản quốc
tế Nguyễn Ái Quốc” đã tiên cảm phi thƣờng về chủ tịch Hồ Chí
Minh nhƣ sau: “Dáng dấp con ngƣời đang ngồi trƣớc mặt tôi đây,
Nguyễn Ái Quốc đang tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa
châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tƣơng lai” với dự cảm đặc biệt
của một thi nhân. Omandenxtam phát hiện ra sự dồn tụ, kết tinh của
văn hóa Việt Nam trong con ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất. Và
khẳng định Bác là tinh hoa của dân tộc Việt Nam và cũng là tinh hoa
của nhân loại.
Gần một thế kỷ dã trôi qua, thời gian đã chứng minh linh giác
đặc biệt sáng suốt của Omanddenxxtam. Đó là một phát hiện thiên
tài về một thiên tài. Thời gian ấy Bác Hồ đang học tập tại trƣờng
đại học Phƣơng Đông của Quốc tế Cộng Sản Maxcơva. Chọn tƣ
cách là đại diện nền văn hóa tƣơng lai, nhà thơ Nga đã nhìn thấy sự
bất tử của Ngƣời, tiên đoán về những giá trị có tính nhân loại vĩnh
cửu của Bác từ khi Ngƣời mới bƣớc sang tuổi ba mƣơi.
Vì thế, hôm nay trong khuôn khổ một tham luận nhỏ tại một Cuộc
Hội thảo lớn vể Ngƣời, tôi cũng không có tham vọng và sự thực cũng
chƣa đủ khả năng để viết về con ngƣời và sự nghiệp của Ngƣời. Điều
đó đã và đang có rất nhiều những nhà nghiên cứu uy tín, những chính
khách lớn và nhiều nguyên thủ Quốc gia tiếp tục. Tôi chỉ muốn: Là
một ngƣời yêu thơ - đặc biệt là thơ Đƣờng luật- bày tỏ một vài chiêm
116 | Nguyễn Khuyến
nghiệm về một nhà thơ, một nhà văn hóa lớn; là một ngƣời con đƣợc
dành những tình cảm trân trọng yêu thƣơng để tri ân tới Ngƣời cha già
của toàn dân tộc.
Trƣớc hết cần khẳng định rằng. Trong di sản văn hóa đặc sắc của
chủ tịch Hồ Chí Minh để lại thì thơ ca của Ngƣời chiếm vị trí quan
trọng hàng đầu. Và nếu làm công tác của một nhà văn bản học thì
chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng: Trong 220 bài thơ mà Bác còn
để lại đƣợc sáng tác theo nhều thể loại khác nhau trong nhiều cảnh
huống khác nhau đã có tới 142 bài thơ Đƣờng luật. Con số có tính
thống kê ấy tự thân nó cũng đã nói lên rất nhiều điều, và chúng ta
cũng có thể đặt ra câu hỏi là: Tại sao một con ngƣời nhƣ chủ tịch Hồ
Chí Minh. Ngƣời không phải là ngƣời của một quyển sách của một
nền văn hóa duy nhất. Từ tuổi nhỏ Ngƣời đã học chứ Hán và văn học
cổ điển Trung Quốc với cụ thân sinh là nhà khoa bảng lớn và khi mới
lớn lên trong cuộc đời cách mạng bôn ba của mình đã có may mắn
(hay là sự chọn lựa may mắn) tự đào luyện bằng văn hóa Phƣơng Tây
đặc biệt là văn hóa Pháp và thế kỷ ánh sáng với những đại diện xuất
sắc nhƣ: Volaire, Rousscau, Vich-To-Huygo đã chiếu rọi vào tâm trí
Ngƣời. Có thể nói chủ tịch Hồ Chí Minh là tƣợng trƣng cho sự tổng
hòa thành công của nhiều nền văn hóa, hơn thế nữa của nhiều nền văn
minh rực rỡ. Một con ngƣời nhƣ thế, một trí tuệ nhƣ thế khi về với thi
ca lại ƣu ái với thể thơ Luật Đƣơng đến vậy.
Đi tìm lời giải cho vấn đề này cũng chính là đến với cách tiếp cận
chủ đề Bác Hồ với thơ Đƣơng luật. Để làm sáng rõ thêm luận điểm ấy
đầu tiên tƣởng cũng nên điểm lại đôi nét về nguồn gốc, sự hòa đồng
và sức sống của thơ Đƣờng luật Việt Nam.
Tất cả chúng ta ai cũng biết rằng thơ Luật Đƣờng có xuất xứ từ
Trung Quốc và mãi mãi trong kho tàng văn hóa thế giới. Đƣờng thi-
Tống từ vẫn luôn là những viên ngọc quí không chỉ cho nền văn minh
Trung Hoa mà còn của toàn nhân loại. Cùng với sự ảnh hƣởng, sự
giao thoa các nền văn hóa giữa các quốc gia. Thơ Đƣờng du nhập vào
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 117
Việt Nam đến nay đã hàng nghìn năm. Cũng với thời gian đó Đƣờng
Thi cùng tràn vào các quốc gia nhƣ Nhật Bản, Triều Tiên…. Tuy
nhiên trên thực tế thì cho đến hiện nay chỉ ở Việt Nam thơ Đƣờng luật
mới thực sự là một hạt giống tốt đƣợc gieo trồng vào một miền đất
màu mỡ phì nhiêu, đủ mọi điều kiện để hạt giống ấy đơm hoa kết trái.
Còn ở các quốc gia khác thậm chí ngay tại Trung Quốc nơi chôn rau
cắt rốn của Đƣờng thi. Sự phát triển của thơ Luật Đƣờng cũng không
mạnh mẽ bằng ở Việt Nam. Giải thích về hiện tƣợng này, có nhà
nghiên cứu cho rằng: Do có sự thay đổi về các thành tố trong ngôn
ngữ Hán cổ và tiếng Trung Hoa hiện đại mà cụ thể là cách phát âm
khác nhau nên qui luật bằng trắc của thơ Đƣờng bị phá vỡ. Đặc biệt
đối với các nƣớc láng giềng nhƣ Triều Tiên, Nhật Bản, yếu tố ngữ
pháp này cũng đã là một thứ rào cản lớn cho việc hòa đồng một thể
loại thơ từ nhiều thế kỷ qua. Về mặt lý luận và học thuật chúng tôi
đồng tình với cách phân tích này. Chỉ xin nêu một ví dụ cụ thể: Nếu
đọc câu “Nƣớc cộng hòa nhân dân Trung Hoa” theo âm Hán cổ sẽ là:
Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc. Cũng câu ấy nếu đọc theo tiếng
Trung Quốc hiện đại sẽ là: “…Trung hóa rấn mín cung hứa quớ?”. So
sánh một câu này chúng ta cũng đã thấy rõ sự khác biệt các âm.
Trong khi đó thì ở Việt Nam do Tiếng Việt có hệ thống các dấu
huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã rất phù hợp với thanh bằng trắc trong luật
thơ Đƣờng. Đây có lẽ cũng là một yếu tố giúp cho Đƣờng thi khi vào
Việt Nam đã nhanh chóng tìm ra quê hƣơng thứ hai của mình và sẵn
sàng hòa vào dòng chảy văn hóa chung của dân tộc Việt để từ đó tiếp
tục phát lộ, tiếp tục thăng hoa tỏa sáng trong vƣờn hoa rực rỡ sắc màu
hƣơng vị của thi đàn Việt Nam.
Mặt khác, mà theo thiển ý riêng của chúng tôi, đây mới là yếu tố
quyết định làm nên sự hòa nhập của một thể thơ ngoại lai thành một
thể thơ của dân tộc giúp cho Đƣờng thi có sức sống bền bỉ trong lòng
nhân dân, cũng giúp cho thơ Đƣờng trong nhiều thế kỷ đồng hành
cùng dân tộc Việt đã đạt đƣợc những thành tựu huy hoàng với rất
nhiều tác gia, tác phẩm bất tử với thời gian: đó chính là tính nghệ
118 | Nguyễn Khuyến
thuật, tính hiệu quả của thể loại thơ này đặc biệt phù hợp với bản sắc,
bản chất của con ngƣời Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, một dân tộc
nhân ái vị tha luôn biết tôn trọng yêu quí vẻ đẹp của Chân, Thiện, Mỹ
với một sự cảm nhận tinh tế sâu sắc và kiệm lời (thơ Luật Đƣờng đáp
ứng đƣợc yêu cầu này). Bởi nếu có một thể loại thơ nào dùng câu chữ
ít nhất mà vẫn chuyển tải đƣợc mọi cung bậc, mọi sắc thái tình cảm
của con ngƣời từ, yêu, thƣơng, hờn, giận đến những sự kiện sự việc
mang tầm cỡ quốc gia nhân loại. Hơn thế còn đƣợc chuyển tải bằng
một hình thức trang nhã, bằng một nghệ thuật đặc sắc điêu luyện. Đó
chỉ có thể là thơ Đƣờng Luật.
Chúng ta hãy xem: Từ ý chí hào sảng, từ niềm tin sắt đá vào chủ
quyền đất nƣớc gói trọn trong một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đƣợc coi
nhƣ bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
“Nam quốc sơn hà nam đế cƣ
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thƣ
Nhƣ hà nghịch lỗ lai xâm phậm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hƣ”
Lý Thƣờng Kiệt
Đã biến thành sức mạnh vật chất không những giúp cho quân dân
nhà Lý chôn vùi giấc mộng xâm lăng của giặc ngoại xâm phƣơng Bắc
tại sông Nhƣ Nguyệt mà hào quang của chiến tích ấy cùng với tinh
thần bài thơ còn rọi sáng đến muôn đời con cháu mai sau!
Đến phút lắng lòng của một bậc Quân vƣơng sau những lo toan,
những bộn bề công việc quốc gia đại sự để trải hồn mình, hòa mình
vào dây phút sinh sôi kỳ diệu của mùa xuân, của thiên nhiên trong bài:
Xuân Hiểu của Trần Nhân Tông.
“Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ qui
Nhất song bạch hồ điệp
Phách Phách sấn hoa phi”
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 119
Dịch thơ
“Ngủ dậy ngỏ song mây
Xuân về vẫn chửa hay
Song song đôi bƣớm trắng
Phấp phới sấn hoa bay”
Biết bao là nồng nàn, xiết bao là tình ý. Các bậc tiên hiền xƣa cho
rằng “Thi trung hữu họa”. “Thi trung hữu nhạc”. Còn đại thi hào
Nguyễn Du thì “Tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Tất cả chỉ
ở trong một bài thơ bốn câu, mỗi câu năm chữ. Thơ đến nhƣ thế tƣởng
chẳng cần bình giải gì thêm. Hãy để tự thân vẻ đẹp nguyên sơ của nó
thấm vào hồn ngƣời đọc để đƣợc cùng cộng hƣởng, để đƣợc cùng
thăng hoa.
Thơ Đƣờng đã đáp lại tình cảm của chủ tịch Hồ Chí Minh nhƣ
thế nào. Hay nói chính xác hơn là nghệ thuật Đƣờng thi của Bác Hồ?
Ở lĩnh vực này đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình cả trong và
ngoài nƣớc có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc và sâu sắc.
Tuy nhiên bây giờ và lâu dài vẫn sẽ còn cần và chắc chắn sẽ còn rất
nhiều công trình nghiên cứu tiếp. Bởi lẽ nếu nói về một con ngƣời
dẫu ngƣời đó là một vĩ nhân vẫn sẽ có lúc cạn lời. Nhƣng nói về Bác
Hồ ngƣời sáng lập ra một thời đại đồng thời là một ngƣời ông, ngƣời
bác, ngƣời cha của thời đại ấy dân tộc ấy thì mạch nguồn cảm xúc
chẳng bao giờ vơi cạn.
Còn chúng tôi nhƣ đã đề cập ở phần trên. Chúng tôi không tiếp
cận vấn đề với tƣ cách là một nhà phê bình văn học. Chỉ xin đƣợc ghi
lại một vài cảm nhận của một ngƣời yêu thơ với một nhà thơ mà mình
yêu kính. Hiểu cho đƣợc cái hay của thơ Bác hay nói cách khác là
hiểu đƣợc nghệ thuật thơ của Bác là một dịp thử thách đối với tƣ
tƣởng tình cảm và khiếu thẩm mỹ không của riêng ai.
Thơ Bác dễ hiểu mà khó thƣởng thức. Phải biết khát mới thấy
đƣợc vị ngọt mát của nƣớc giếng khơi. Có nâng mình lên tới một mức
120 | Nguyễn Khuyến
trong sáng nhất định thì mới nắm đƣợc cái tinh túy cốt lõi trong tình ý
câu thơ. Có gạt bỏ thị hiếu thông thƣờng quen với thói hoa mỹ sang
trọng thì mới nhìn rõ vẻ đẹp chân chất của những câu chữ vần điệu
mộc mạc tự nhiên.
Chúng ta hãy đọc lại
“Hoa Hồng nở hoa Hồng lại rụng
Hoa tàn hoa nở cũng vô tình
Hƣơng hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình”
Cảnh chiều hôm (Nhật ký trong tù)
Và bốn câu rất hiện thực sau:
“Khiêng lợn lính đi cùng một lối
Ta thì ngƣời dắt, lợn ngƣời khiêng
Con ngƣời coi rẻ hơn con lợn
Ngƣời có còn đâu đƣợc chủ quyền”
Cảnh binh khiêng lợn cùng đi (Nhật ký trong tù)
Thật là sự kỳ diệu về văn chƣơng, khi những tình cảm chứa chan
chủ nghĩa nhân đạo hoàn toàn hiện đại lại có thể khuôn vào những câu
thơ cổ điển của một ngôn ngữ khác với tiếng mẹ đẻ của tác giả. Rõ
ràng tính phổ biến của văn hóa không phải là lời nói suông. Và cũng
thật rõ ràng ẩn đấu đằng sau những câu thơ có vẻ dễ dàng ấy là vẻ đẹp
của một tâm hồn lớn, tâm hồn của một ngƣời hiền vĩ đại của thời đại
chúng ta. Ngƣời với chủ nghĩa nhân bản, với nghị lực phi thƣờng của
ngƣời hành động, với sự ƣu ái thƣờng xuyên đối với số phận của
những con ngƣời.
Do chƣa có điều kiện đi sâu tìm hiểu thêm về những nét đặc sắc
trong nghệ thuật Đƣờng thi của Bác Hồ. Chỉ xin đƣợc khẳng đinh một
điều là: Xuyên suốt trong tất cả các tác phẩm của Bác dù viết bằng
văn xuôi hay thơ tự do, thơ Đƣờng luật vẫn luôn chan chứa một tấm
lòng nhân ái bao la, một chủ nghĩa nhân đạo cao cả với một phong
cách thống nhất. Đó là sự kết hợp đẹp đẽ giữa những cái cao cả và
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 121
bình thƣờng, giản dị mà thanh cao, vĩ đại mà gần gũi, rất Việt Nam mà
cũng rất nhân loại.
Bức tƣợng đài ngôn ngữ này làm nổi bật chân dung Hồ Chí Minh
một con ngƣời trong tất cả, tất cả trong một con ngƣời.
Với những phẩm chất cao quí nhƣ vậy, hiển nhiên Bác là ngọn
nguồn, ngọn nguồn của suy tƣởng, của bồi đắp, của dẫn dắt và soi
sáng. Và đúng nhƣ cố nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Ta bên Ngƣời, Ngƣời tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Ngƣời một chút”
Bác vĩ đại nhƣng không quá tầm với bất cứ ai
Đến đây bằng một cách tổng quan nhất. Chúng tôi đã có cái may
mắn trình bày những chiêm nghiệm, những suy ngẫm của cá nhân về
một luận đề rất lớn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với thơ Đƣờng luật Việt
Nam”. Và bây giờ nếu có thể có đƣợc một điều ƣớc. Chúng tôi thật sự
tha thiết mong ƣớc rằng: Thơ Đƣờng luật Việt Nam một thể thơ đã
đồng hành cùng dòng chảy văn học của dân tộc Việt, trải qua nhiều
biến thiên của lịch sử đã có những đóng góp xứng đáng vào sự phát
triển mạnh mẽ, bền vững của nền văn hóa Việt. Với những tác phẩm,
tác giả nổi tiếng còn sống mãi với thời gian trong đó đặc biệt là những
thi phẩm bất hủ của nhà văn hóa lớn, nhà thơ lớn Hồ Chí Minh. Dòng
thơ ấy xứng đáng tiếp tục có một chỗ đứng bình đẳng trên thi đàn việt
trong đại gia đình văn hóa Việt Nam.
NK
122 | Nguyễn Khuyến
MỘT SỐ BÀI THƠ THỂ ĐƯỜNG LUẬT
CÛA CHÛ TỊCH HỒ CHÍ MINH VIẾT TẠI CAO BẰNG
NGƢT Hoàng An
Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt
Nam; anh hùng giải phóng dân tộc; danh nhân văn hóa thế giới.
Sau ba mƣơi năm bôn ba hải ngoại để tìm đƣờng cứu nƣớc, về đến
Cao Bằng lãnh đạo cách mạng, mặc dù bận trăm công nghìn việc,
Ngƣời vẫn sáng tác nhiều thơ, văn để phục vụ cách mạng. Thơ văn
của Ngƣời ngày nay đã trở thành những viên ngọc óng ánh trong kho
tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam. ở Cao Bằng, ngoài một số thể loại
khác, chúng tôi còn lƣu giữ đƣợc một số bài thơ viết theo thể thơ
Đƣờng luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đa số là tứ tuyệt Đƣờng luật.
Mới đặt chân về Tổ quốc (tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng) Bác
đƣợc đón đến ở và làm việc tại hang Pác Bó. Trong hang Pác Bó có
phần âm u, nhƣng địa hình chung quanh thật hùng vĩ. Phía trên hang là
núi và cây cối um tùm. Phía dƣới hang là dòng suối trong xanh chảy
quanh năm. Bác đặt tên con suối ấy là suối Lê - nin và núi là núi Các -
mác. Thật là một cảnh tƣợng nên thơ, một thế đứng đẹp và vững vàng
để hoạt động cách mạng - Bác có ngay bài “Pác Bó hùng vĩ”:
“Non xa xa, nƣớc xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lê nin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà.”
Tháng 2 năm 1941
124 | NGƢT. Hoàng An
Ở hang, hoàn cảnh sinh hoạt rất khó khăn, nhất là đời sống vật
chất: quanh quẩn chỉ là “sáng ra bờ suối”, “tối vào hang”. “Cháo
bẹ” là một thứ cháo nấu bằng bột ngô. Đồng bào địa phƣơng chỉ dùng
nó vào lúc giáp hạt. Rau ăn thì toàn rau rừng với măng đắng. Bàn làm
việc chỉ kê bằng những tấm đá phiến “chông chênh” để Ngƣời dịch
cuốn lịch sử Đảng cộng sản (B) Liên Xô để làm tài liệu huấn luyện
cho cán bộ. Nhƣng nào Ngƣời có nản lòng, sờn chí, ngƣợc lại, Ngƣời
“sẵn sàng” chấp nhận mọi điều kiện thiếu thốn mà lạc quan cách
mạng, tự cho mình có một cuộc sống “thật là sang”. Cụm từ “vẫn sẵn
sàng” làm sáng lên cả bài thơ. Vì đâu chỉ có “sẵn sàng” ăn “cháo bẹ
rau măng”, mà là tinh thần, nghị lực của Bác “sẵn sàng” vƣợt mọi khó
khăn, gian khổ... trên con đƣờng cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ
một cách tốt đẹp. Đó mới “thật là sang” mới thật là vẻ vang theo ý
tƣởng của Bác trong bài thơ. Bài “Tức cảnh Pác Bó”, Bác viết:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng *
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Tháng 2 năm 1941
Trong hoạt động cách mạng, Bác rất coi trọng công tác tuyên
truyền - Để đẩy mạnh việc tuyên truyền, cổ động và tổ chức đồng bào
làm cách mệnh, tại Cao Bằng Ngƣời đã quyết định cho xuất bản tờ
báo “Việt Nam độc lập” gọi tắt là “Việt Lập”. Báo lƣu hành tại Cao
Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn. Từ tháng 8 năm 1941 đến tháng 8 năm
1942, báo Việt Lập đã liên tiếp đăng bài của Bác, với nhiều bút danh
khác nhau. Trong đó có nhiều bài Bác viết theo thể Đƣờng luật. Cái
cốt yếu nhất trong tuyên truyền đối với đồng bào là “đoàn kết” với
nhau để làm cách mạng. Bác trực tiếp vẽ một bức tranh ký họa để
tuyên truyền cạnh bài “Việt Nam, độc lập”:
“Việt Nam độc lập thổi kèn loa
Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 125
Đoàn kết vững bền nhƣ khối sắt
Để cùng nhau cứu nƣớc non ta.”
Việt Lập 21/8/1941 số 103.
Phong trào cách mạng ngày càng phát triển nhƣ một vết dầu
loang. Trong đó, có một bộ phận quan trọng phát triển đến xã Hồng
Việt, huyện Hòa An (Cao Bằng). Lũng Dẻ là một thôn vùng cao của
xã Hồng Việt cũng là cơ sở cách mạng. Đến Lũng Dẻ, một hôm, Bác
trèo lên núi cao quan sát, trƣớc cảnh thiên nhiên sáng sủa, tƣơi đẹp,
hồn thơ lớn của Bác bỗng nhiên cảm xúc. Ngƣời viết bài “Thƣớng
Sơn” (bằng chữ Hán theo phong cách thơ Đƣờng luật). ý tứ bài thơ
thật sâu sắc, vừa quảng khoát, vừa ý nhị:
“Lục nguyệt nhị thập tứ
Thƣớng đáo thử sơn lai
Cử đầu: hồng nhật cận
Đối ngạn: nhất chi mai.”
Lũng Dẻ 1942
Lên núi
“Hai mƣơi tƣ tháng sáu
Lên ngọn núi này chơi
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ
Bên suối: một nhành mai.”
Tố Hữu dịch
Phong trào cách mạng không những lan rộng theo địa bàn mà đã
thấm sâu dần vào tầng lớp nhân dân.
Bà Nông Thị Trƣng dân tộc Tày (Cao Bằng), nguyên là chánh án
Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng. Bà có hồi ký, viết trong tập “Đƣợc
gặp Bác” (NXB Dân Tộc Việt Bắc), kể rằng: Hồi đó (Hồi Bác hoạt
dộng ở Pác Bó, Hồng Việt) tôi còn ít tuổi, cùng một số đồng chí đƣợc
lên gặp Bác Hồ, đƣợc Bác tặng quà - quyển vở - có ghi bài thơ:
126 | NGƢT. Hoàng An
“Vở này ta tặng cháu yêu, ta.
Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là
Mong cháu ra công mà học tập
Mai sau cháu giúp nƣớc non nhà.”
1944
Bên cái lí chí cách mạng, ta còn thấy ở Bác một tình cảm yêu quý
nhân dân sâu sắc. Một món quà nhỏ tặng cháu Nông Thị Trƣng thể
hiện tình cảm đó của Bác. Bác khuyên cháu “ra công mà học tập”. Bác
tin tƣởng ở thế hệ trẻ “mai sau cháu giúp nƣớc non nhà”, tức là tin
tƣởng ở lực lƣợng cách mạng mai sau.
Lúc này trên thế giới đang biến động, Pháp đã đầu hàng phát xít
Đức. Thế mà thống chế Pê - tanh (Pháp) lại rỏ ra oai. Pê - tanh kêu gọi
“Pháp - Việt phục hƣng”! Hồi đó bọn Pháp ra lệnh cho các trƣờng học
ở Việt Nam: cứ mỗi tuần sáng thứ hai thầy trò phải xếp hàng đứng chào
cờ Pháp! Tại núi rừng Cao Bằng, Bác đã viết bài chỉ trán, vạch mặt bản
chất lừa dối, phờ phỉnh của Pê - tanh một cách sâu sắc, cay đắng:
“Vận mệnh Lang - sa lúc chẳng lành
Pê - tanh lão tƣớng hóa hôi tanh
Cúi đầu, quì gối, hàng quân Đức
Trợn mắt, nhăn mày, chửi nƣớc Anh
Bán nƣớc lại còn khoe cứu nƣớc
Ô danh mà muốn đƣợc thơm danh
Già mà nhƣ chú, già thêm dại
Tiếng xấu muôn đời, nhuốc sử xanh.”
Việt Lập, 11/7/42, số 131
Với toàn quyền Đờ - cu cũng vậy. Bác đã viết cho Đờ - cu một
bài, cũng với thái độ vạch mặt, chỉ trán sâu cay:
Tặng toàn quyền Đờ-cu
“Non nƣớc rồng tiên rõ mịt mù
Lợi quyền phó mặt bố thằng cu
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 127
Đối dân Nam Việt thì lên mặt
Gặp bọn phù - tang chí đội khu
Về Pháp, không cơm, e chết đói
ở đây, hút máu, béo ni nu
Cũng nhƣ thống chế Pê - tanh vậy
Chú cứ cu cù đƣợc mãi ru!”
Việt Lập, 11/8/42, số 134
Ở cả hai bài thơ trên, đằng sau bút pháp trào phúng, hài hƣớc, mỉa
mai...ta thấy rõ ràng chất thép trong thơ Bác. Bác nói thẳng bản chất
lừa dối, phỉnh nịnh, bóc lột của Pê - tanh và Đờ - cu. Bác coi họ vào
hàng thấp kém, gọi họ bằng “chú”. Bảo cho Pê - tanh là “Già mà nhƣ
chú, già thêm dại” nói với Đờ - cu rằng: “Chú cứ cu cù đƣợc mãi ru!”
Kết luận cả hai cũng chỉ là một duộc mà thôi.
Tìm đƣờng cứu nƣớc, lãnh đạo kháng chiến là công việc rất lớn
lao, đầy khó khăn gian khổ... Nhƣng không phải lúc nào Bác cũng tỏ
ra căng thẳng, nặng nề. Ngƣợc lại Bác vẫn giữ đƣợc một phong thái
bình tĩnh, ung dung. Gặp dịp Bác lại lồng công việc lớn lao ấy vào thơ
một cách ý nhị, vui vẻ, nhẹ nhàng. Gặp tuần trăng đẹp Bác vẫn “dạo
chơi trăng” một cách thƣ thái và nhắn “hỏi chị Hằng” về “non nƣớc
tơi bời sao vậy nhỉ”. Chị Hằng đã vui vẻ trả lời: “Muốn biết tự do
chầy hay chóng”, “thì xem tổ chức khắp hay không”. Thực ra Bác đã
khôn khéo nhân cách hóa để nhân vật “chị Hằng” nói hộ lòng mình
mà thôi. Bác viết bài:
“Gặp tuần trăng sáng dạo chơi trăng
Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
“Non nƣớc tời bời sao vậy nhỉ?
Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
Khi nào kéo đƣợc quân anh dũng
Để dẹp cho tan bọn nhố nhăng
Đất Việt bao giờ thì giải phóng?
128 | NGƢT. Hoàng An
Nói cho nghe thử hỡi cô Hằng?”
Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
Tôi đã từng soi khắp núi sông
Muốn biết tự do chầy hay chóng
Thì xem tổ chức khắp hay không
Nƣớc nhà giành lại bằng tài sắt
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng
Tổ chức tuyên truyền càng rộng rãi
Tức là cách mệnh chóng thành công”.
Việt Lập, 21/8/1942 số 135
Chiến dịch biên giới (Cao - Bắc - Lạng) toàn thắng là một sự
kiện nổi bật. Từ 10/9/ - 12/9/1950, Bác đến sở chỉ huy trực tiếp theo
dõi, động viên và chỉ đạo mặt trận Đông Khê. Trèo lên núi cao,
trong khung cảnh “Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân”, Bác thấy
quân ta chiến đấu ngoan cƣờng, áp đảo, chiến thắng địch nhƣ nuốt
chửng quân địch, Bác cảm kích, khảng khái viết:
Đăng sơn
“Huề thƣợng đăng sơn quan trận địa
Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân
Nghĩa quân tráng khí thôn Ngƣu, Đẩu
Thệ diệt sài lang xâm lƣợc quân.”
1950
Lên núi
“Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi dỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngƣu, Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.”
Xuân Diệu dịch
(theo sách “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh NXB Văn học 1990”)
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 129
Năm 1961, Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng theo hiệp định Giơ
- ne - vơ (1954), Miền Nam còn tạm thời bị chia cắt, nhƣng chính
quyền cách mạng đã bƣớc đầu thành lập khắp nơi, (nơi bí mật, nơi
công khai). Bác lên thăm Cao Bằng, có dịp vào thăm lại hang Pác Bó.
Bao nhiêu ký ức cũ dồn lại trong đầu Bác, nhƣ đếm lại từng ngày, nay
đã là “Hai mƣơi năm trƣớc”. Hang Pác Bó nơi từng chứng kiến những
bữa “cháo bẹ, rau măng....” là đây. ở đó có “Đảng vạch con đƣờng
đánh Nhật, Tây”. Bác trực tiếp “Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu”. Bài
“Thăm lại hang Pác Bó”:
“Hai mƣơi năm trƣớc ở hang này
Đảng vạch con đƣờng đánh Nhật, Tây
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu
Non sông gấm vóc có ngày nay.”
20/2/1961
Pác Bó đƣợc Bác Hồ chọn làm căn cứ địa cách mạng. Cao Bằng
trở thành cái nôi của cách mạng cả nƣớc. Đó là niềm vinh dự tự hào
lớn của Cao Bằng. Tại nơi đây trong lĩnh vực thơ, văn, trong những
năm hoạt động ở Cao Bằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một kho
tàng văn, thơ phong phú. Bên cạnh các thể loại khác, chúng tôi đƣợc
hƣởng thụ và lƣu giữ lại đƣợc một số bài thơ viết theo thể Đƣờng luật
rất sắc xảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi tin tƣởng rằng, ở
Việt Nam, thể thơ Đƣờng luật sẽ còn đƣợc duy trì và phát triển mãi...
HA
130 | NGƢT. Hoàng An
HỒ CHÍ MINH VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Trần xuân Yên
Trƣờng Trung học phổ thông Vũ Quang
Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của Đảng cộng sản và
nhân dân Việt Nam, của giai cấp vô sản thế giới, Ngƣời còn là biểu
tƣợng của sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa
nhân loại. Từ trƣớc tới nay có hàng trăm công trình nghiên cứu về
cuộc đời và sự nghiệp của Ngƣời, đặc biệt là sự nghiệp thơ văn. Thơ
văn Hồ Chí Minh đƣợc coi là một trong những biểu hiện cốt cách Việt
Nam của Hồ Chí Minh. Tìm hiểu thơ văn của Ngƣời chúng ta không
thể bỏ sót mảng thơ Đƣờng luật. Nội dung bài viết này chỉ xin đề cập
một cách khái quát nhất việc Hồ chí Minh đã sử dụng thể thơ Đƣờng
để phản ánh những vấn đề trong cuộc sống nằm ngoài quy ƣớc thi
pháp Đƣờng thi theo phong cách của Ngƣời.
Thơ của Hồ Chí Minh có thể chia thành hai mảng: mảng thơ trữ
tình và mảng thơ tuyên truyền vận động cách mạng. Mỗi mảng thơ
đều có đối tƣợng trữ tình khác nhau, cộng đồng sáng tác và độc giả
khác nhau nên Bác đã rất uyển chuyển trong việc lựa chọn những thể
tài phù hợp. Nếu ở mảng thơ tuyên truyền vận động cách mạng Bác
chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát, thể thơ tự do nhƣng có vần điệu cốt
để mọi ngƣời dễ đọc, dễ nghe, dễ nhớ, dễ thuộc phù hợp với đại
chúng… thì với mảng thơ trữ tình Bác chủ yếu sử dụng thể thơ
Đƣờng luật và mảng thơ này không chỉ nhiều về số lƣợng mà còn đạt
tới giá trị nghệ thuật cao, giá trị nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, sự
phân chia này cũng chỉ mang tính tƣơng đối bởi… và cả hai mảng
thơ này đều cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh – một bậc “vĩ
nhân văn hóa”.
132 | Trần Xuân Yên
Hồ Chí Minh làm thơ Đƣờng luật trong bất cứ hoàn cảnh nào:
trong những tình thế khó khăn, bất đắc dĩ nhất của quá trình hoạt
động cách mạng, trong giao tiếp, công việc, trong đối ngoại cấp
cao… Tất cả những bài thơ Đƣờng đó đều thể hiện đƣợc tâm thế của
Ngƣời, thể hiện năng khiếu, tài năng, sự am hiểu sâu sắc về truyền
thống, về các giá trị cuộc sống và trên hết vẫn là tình yêu mà Ngƣời
giành cho Đƣờng thi. Chuyện kể rằng, khi Bác bị Tƣởng Giới Thạch
bắt giam, suốt hành trình giải lao đầy gian khổ đó, hành lý bọn chúng
cho phép Bác mang theo mình chỉ có tập “Thiên gia thi” (Thơ nghìn
nhà)- là tuyển tập những bài thơ cận thể và cổ thể ngắn gọn, súc tích,
dễ hiểu, dễ nhớ của các nhà thơ nổi tiếng đời Đƣờng, đời Tống, là
sách nhập môn của những ngƣời bắt đầu học làm thơ, với hi vọng tập
thơ ấy có thể làm Bác khuất phục chính quyền Tƣởng. Nhƣng chúng
không ngờ đƣợc rằng chính tập Đƣờng thi ấy đã tiếp thêm sức mạnh
cho Bác và là nguồn cảm hứng sâu xa để Ngƣời viết nên tập Ngục
trung nhật ký bằng tất cả tinh thần thép và trái tim nhân ái bao la.
Điều kỳ diệu ở đây là Hồ Chí Minh – một ngƣời Việt Nam yêu nƣớc,
đã lấy thể loại thơ do chính nhân dân Trung Hoa sáng tạo nên, viết
ngay trên đất nƣớc ấy nhằm vạch trần, chống lại chủ nghĩa quân
phiệt của chính quyền Tƣởng Giới Thạch nhƣng lại mang đậm chất
trữ tình của ngƣời Việt và phong cách Hồ Chí Minh.
Tuyển tập Đƣờng thi ấy thực sự là ngƣời bạn tâm giao của Hồ Chí
Minh trong suốt quãng đời hoạt động cách mạng sau này, gợi lên cho
Ngƣời bao trở trăn, suy tƣ, xúc cảm, tiếp thêm nghị lực, ý chí, tinh
thần và trách nhiệm của ngƣời chiến sỹ cộng sản đối với con ngƣời và
cuộc sống. Nguồn cảm hứng có đƣợc từ tập “Thiên gia thi” đã đƣợc
Ngƣời trực tiếp phát biểu trong tập Ngục trung nhật ký của mình: “Cổ
thi thiên ái thiên nhiên mỹ/ Sơn, thuỷ, yên, hoa, tuyết, nguyệt, phong/
Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết/ Thi gia dã yếu hội xung phong (Thơ
xƣa nghiêng về yêu cảnh đẹp thiên nhiên/ Núi, sông, khói, hoa, tuyết,
trăng, gió/ Trong thơ thời nay nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết
xung phong). “Xung phong” trong cách dùng của Bác cần đƣợc mở
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 133
rộng quan niệm, đó là sự phá bỏ những quy ƣớc chật hẹp trong luật
Đƣờng thi, trong đề tài, trong bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ, cách điệu
hóa khiến cho Đƣờng thi khó làm, khó nhớ, khó hiểu và ngƣời làm thơ
(thi gia) cần phải ý thức đƣợc sứ mệnh cao cả của mình, tự nguyện, tự
giác tham gia chiến đấu, dám biến ngòi bút thành “bom đạn phá cƣờng
quyền” – điều chƣa bao giờ có trong Đƣờng thi truyền thống.
Bác cũng không ngần ngại đƣa vào thể thơ Đƣờng luật những
hình ảnh không lấy gì đẹp đẽ, hãnh diện nhƣng chứa đầy sự lạc quan:
“Năm mƣơi ba cây số một ngày... Ngồi trên hố xí đợi ngày mai”.
Cảnh ở trong tù ăn uống kham khổ, mất vệ sinh xẩy ra bệnh tật cũng
đƣợc Bác đƣa vào thơ đầy ý vị:..” Cửa tù khi mở không đau bụng/
Đau bụng thì không mở cửa tù” hay… “Đầy mình đỏ tía nhƣ hoa
gấm…gãy đàn trong ngục thảy tri âm”…
Cái gậy là phƣơng tiện đồng hành cùng Bác trong những tháng
ngày giải lao, mất gậy là sự tiếc nuối không nguôi, nỗi niềm về cây
gậy đã đi vào thơ Bác thật thú vị: “Suốt đời ngay thẳng lại kiên
cƣờng… Đôi ta dằng dặc nỗi buồn thƣơng”.
Cái cùm cũng đƣợc Bác đƣa vào thơ, mặc dù là một công cụ giam
giữ nhƣng có khi lại là sự cứu cánh cho tù nhân: “Dữ tựa hung thần
miệng chực chai… Không đƣợc cùm chân biết ngủ đâu”.
Rận, rệp, muỗi… là những sinh vật đáng ghét chuyên hút máu
ngƣời tù nhân, gây bệnh tật, nhƣng Bác không ngần ngại đƣa vào
trong thơ: “Rệp bò lổm ngổm nhƣ hoa cốc… muỗi lƣợn nghênh ngang
tự máy bay…” hay … “Thừa cơ rận, rệp xông vào đánh… Oanh sớm
mừng nghe hót xóm gần”.
Ngƣời bạn tù cờ bạc vừa chết cũng là đối tƣợng đƣợc Bác quan
tâm: “Thân anh da bọc lấy xƣơng…Hôm nay anh đã về nơi suối
vàng”. Bác còn bày tỏ sự cảm thƣơng cho ngƣời vợ nhớ chồng, cho
cháu bé sinh ra trong nhà lao Tân Dƣơng, cho phu làm đƣờng vất
vả, cho những ngƣời nông dân mất mùa… Tất cả những dấu ấn của
năm tháng lao tù dƣới chế độ hà khắc của nhà tù Tƣởng Giới Thạch
134 | Trần Xuân Yên
đã đi vào thể thơ Đƣờng luật của Bác một cách tự nhiên, đầy xúc
động nhƣ thế.
Nỗi nhớ đƣợc Bác nói đến nhiều trong các bài thơ Đƣờng luật:
nhớ bạn bè, đồng chí: “năm tròn cố quốc tăm hơi vắng…Tin tức bên
nhà bữa bữa trông”, “Trông lại trời Nam nhớ bạn xƣa”…, nỗi nhớ
đất nƣớc, Tổ quốc là điều thƣờng trực trong lòng Ngƣời: “Một canh
hai canh lại ba canh…Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”.
Ra tù Hồ Chí Minh trở về tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
năm 1947 khi chiến sự hết sức căng thẳng, Bác và các đồng chí lãnh
đạo phải ẩn náu trong rừng sâu chiến khu Việt Bắc, mặc dù bận trăm
công ngàn việc nhƣng Bác vẫn làm thơ Thất ngôn bát cú: “Cảnh rừng
Việt thật là hay…Trăng xƣa hạc cũ với xuân này”. Đi khảo sát chiến
trƣờng, chuẩn bị cho chiến dịch Thu Đông, Bác cũng làm thơ: “Chống
gậy lên non thăm trận địa… Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”.
Tình bạn bè, bằng hữu là điều không thiếu trong thơ Ngƣời,
nhân dịp năm mới Bác làm thơ tặng cụ Bùi Bằng Đoàn thể hiện sự
tri ân với các vị tiền bối: “Xem sách chim rừng vào đậu cửa… Nhớ
cụ thơ xuân tặng một bài”.
Năm 1961 khi trong chuyến công tác tại Trung Hoa Bác đã làm
thơ Thất ngôn tứ tuyệt tặng đồng chí Trần Canh, một cán bộ cao cấp
đƣợc làm việc nhiều cùng với Bác: “Khi xƣa gặp chú một thanh niên.
Nay chú cầm quân giữ soái quyền. Trăm vạn hùng binh theo lệnh chú.
Giữ gìn cách mạng cõi Điền biên”.
Hằng năm, mỗi khi tết đến xuân về Bác lại làm thơ chúc tết đồng
bào ta ở trong nƣớc và kiều bào ở nƣớc ngoài. Bác dùng nhiều thể loại
khác nhau nhƣng những bài viết theo thể Tứ tuyệt đã đạt tới giá trị
nghệ thuật cao, có sức lan tỏa lớn hơn cả. Thơ chúc tết Xuân 1967:
“Xuân về xin có một bài ca…Tin mừng thắng trận nở nhƣ hoa”. Chúc
tết Xuân Mậu thân 1968 Bác viết: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân
qua…Tiến lên toàn thắng ắt về ta”.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 135
Bài thơ chúc tết Xuân Kỷ Dậu 1969 là bài thơ thứ 42, bài thơ cuối
cùng trong sự nghiệp thơ của Bác. Bài này Bác lại viết bằng thể thơ
lục bát của dân tộc ta. Chắc ngƣời muốn những tình cảm của mình
mãi mãi vẹn nguyên, thêm vào, nối dài ra nhƣ thể lục bát, để hát mãi
bài ca hùng tráng của dân tộc mà ở thơ Đƣờng không làm đƣợc: “Năm
qua thắng lợi vẻ vang…. Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn”.
Bác ơi! Điều ham muốn cuối cùng của Ngƣời trƣớc lúc đi xa là
“Đất nƣớc đƣợc độc lập…ai cũng đƣợc học hành” giờ đã thành hiện
thực. Tình yêu của lớp lớp cháu con đối với Ngƣời vẫn còn vẹn
nguyên. Chúng con thật sự trân trọng và xúc động trƣớc những lời tâm
huyết Ngƣời để lại cho hậu thế trong cuộc đời và trong cả sự nghiệp
thơ ca. Đặc biệt, chúng con hết sức xúc động, tự hào khi cảm nhận
đƣợc, thấy đƣợc trong trái tim ngƣời chiến sỹ - nghệ sỹ Hồ Chí Minh
có một tình yêu mãnh liệt dành cho thơ Đƣờng luật và đã Việt hóa để
thể thơ này trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tâm
hồn ngƣời Việt Nam.
TXY
136 | Trần Xuân Yên
TÌNH YÊU THIÊN NHIÊN TRONG THƠ HỒ CHÍ MINH
QUA THỂ LUẬT ĐƯỜNG
Nguyễn Đức Thọ
Trƣởng Ban Thông tin – Truyền thông
Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam
Thiên nhiên từ xƣa tới nay là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều
tao nhân mặc khách. Các nhà thơ đời Đƣờng nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ,…
các nhà thơ cổ điển Việt Nam nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Bà huyện Thanh Quan … đều có những
áng thơ tuyệt tác viết về thiên nhiên hùng vĩ, hoa lệ. Thơ Hồ Chí
Minh, đặc biệt là Nhật kí trong tù cũng đã dành cho thiên nhiên một vị
trí danh dự. Mặt trời tỏa sáng trong thơ Bác, là biểu tƣợng cho khát
vọng tự do của con ngƣời Bác và cả dân tộc.
Trải qua 14 tháng tù đày, trên những chặng đƣờng khổ ải, xiềng
xích và bị dẫn giải đi khắp 13 huyện của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc,
nếm đủ mùi cay đắng, Hồ Chí Minh với dũng khí không chịu lùi bƣớc,
không nao núng tinh thần, với tâm thế tinh thần ở ngoài lao, đã lấy
thiên nhiên làm nơi nƣơng tựa tâm hồn mình. Một ánh trăng đêm, một
giọt sƣơng mai, một khóm chuối dƣới trăng lạnh, một tiếng chim
rừng, một mùi thơm hƣơng hoa lá... đƣợc Ngƣời đón nhận một cách
say mê vàtự do không gò bó. Từ khí phách ung dung tự tại và yêu đời
ấy, trong thời gian bị tù đày Bác đã cho ra đời trong số trên một trăm
ba mƣơi bài thơ của Nhật ký trong tù, để có trên dƣới vài chục bài thơ
tả cảnh. Ngay nhiều bài thơ Bác không chủ tâm tả cảnh, song ta vẫn
bắt gặp rất nhiều hình ảnh thiên nhiên Ngƣời dùng để bày tỏ ý chí và
khát vọng của lòng mình.
138 | Nguyễn Đức Thọ
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trƣớc mặt đã bừng soi”
Hình ảnh trăng trong thơ Bác là một điểm sáng chói lọi, và cũng
là một cảnh vật lung linh huyền ảo. Ngƣời nói đến trăng, trăng tròn,
trăng sáng, trăng thu... Ngƣời ngắm trăng qua song sắt nhà tù. Không
rƣợu, không hoa, mà trăng vẫn đƣợc nhân cách hoá đến lạ lùng
“Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”, thật là một mối tình với trăng
thật tri âm, tri kỷ:
“Trong tù không rƣợu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ
Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
(Ngắm trăng)
Trăng và nhà thơ giao hòa, giao cảm. Trong ngục tối, nhà thơ
hƣớng tới vầng trăng sáng với tâm hồn thanh cao, với phong thái ung
dung tự tại và tinh thần lạc quan yêu đời.
Tách mình ra khỏi tự nhiên, nguyên khởi là một nỗ lực và là bƣớc
ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của loài ngƣời, kể từ khi con
ngƣời biết chế tác ra công cụ lao động và sử dụng ngôn ngữ nhƣ một
phƣơng tiện giao tiếp rất hữu hiệu.(tác phẩm En ghen). Thế nhƣng,
chủ động hoà đồng trở lại với tự nhiên nhƣ một phẩm chất mang tính
nhân văn sâu sắc lại chỉ có ở một số ngƣời với tƣ cách là nhà sáng lập
ra các học thuyết tƣ tƣởng, hay các nghệ sỹ lớn mà tác phẩm của họ có
ảnh hƣởng sâu rộng đến tiến trình phát triển của nhân loại. Trong tƣ
tƣởng và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiên nhiên dƣờng
nhƣ có cả hai phẩm chất đó: Nhà tƣ tƣởng và nhà nghệ sỹ.
Chịu giam cầm, nằm gai nếm mật nhƣng ngày đêm vẫn đau đáu
hƣớng về Tổ quốc, quê hƣơng điều đó thể hiện rất rõ nét trong thơ
Bác. Bài thơ “Chiều tối”
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 139
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”
Thiên nhiên trong bài thơ trên là áng mây cô đơn lẻ loi đang lơ
lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về ngƣời lƣu đày trên con
đƣờng khổ ải xa lắc? Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cảm, vừa tả cảnh
vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tƣợng, dƣ ba.
Một nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Hình ảnh cô thiếu nữ xóm
núi xay ngô và lò than rực hồng tƣợng trƣng cho một mái ấm đoàn tụ
gia đình, nó đã làm vợi đi bao nỗi cô đơn, tĩnh mịch. Trong hoàn cảnh
suốt một ngày bị đày ải, chân tay còn mang nặng xích xiềng, Ngƣời
vẫn hƣớng về một cảnh sinh hoạt dân dã bình dị: thiếu nữ xay ngô, dõi
nhìn bếp lửa, lò than rực hồng. Bác đã tìm thấy nơi để nƣơng tựa tâm
hồn mình. Hình nhƣ nỗi cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo bị xua tan.
Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh có lúc mang vẻ đẹp cổ điển
nhƣ trong Chiều tối. Một cánh chim mỏi bay về rừng tìm cây trú ẩn.
Một áng mây lẻ loi lơ lửng trôi giữa bầu trời. Nhà thơ phóng bút, phác
họa một vài nét, lấy điểm để gợi diện, lấy động để tả tĩnh… từ cánh
chim và áng mây mà làm hiện lên cái vắng lặng êm đềm, cái mênh
mông của bầu trời lúc chiều tối nơi xóm núi xa lạ. Cảnh thiên nhiên
đẹp mà thoáng buồn qua cảm nhận ngƣời đi đày.
Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng điệu; cánh chim và áng mây kia trở
thành mảnh tâm hồn của ngƣời chiến sĩ cách mạng trên con đƣờng đi
đày nơi đất khách quê ngƣời.
Trong lúc bị xích cùm, giải đi sang nhà lao khác lúc “Gà gáy”
một màn đêm chửa tan, nhà thơ ngƣớc mắt nhìn lên bầu trời thu,
hƣớng về ánh sáng mà đi tới, cảm thấy trăng sao cùng đồng hành
trên con đƣờng xa gió rét với mình
Chòm sao nâng nguyệt vƣợt lên ngàn
Giải đi sớm)
140 | Nguyễn Đức Thọ
Bài thơ “Giữa đƣờng đáp thuyền đi Ung Ninh” thể hiện một cái
nhìn ấm áp, trìu mến của Bác đối với thiên nhiên và cuộc sống con
ngƣời. Mặc dù đôi chân đang bị trói, bị treo lên nhƣ tội bị treo cổ
(giảo hình), nhƣng với tâm thế làm chủ hoàn cảnh, Ngƣời vẫn tự do
thƣởng thức cảnh đẹp. Một chiếc thuyền câu bơi nhẹ trên dòng sông,
cảnh sắc đông vui của xóm làng quê đôi bờ sông đã ôm trọn tâm hồn
thi nhân. Nếu không có một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống dào
dạt nếu không có một tinh thần lạc quan Cách mạng, không thể có tâm
hồn cao thƣợng, và vần thơ đẹp nhƣ vậy:
“Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”
Thơ viết trong cảnh tù đày của Hồ Chí Minh làm hiện lên một thế
giới sinh vật, cảnh hữu tình nên thơ. Trong cảnh nhà tù tối tăm lạnh
lẽo, Ngƣời thao thức hƣớng về ánh sáng nhƣ hƣớng về tự do. Lúc thì
trải lòng vời vợi mảnh trăng thu, lúc thì nhìn trăng sao qua cửa ngục
và tinh tế nhận cảm đƣợc cái lạnh lùng của một khóm chuối:
“Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,
Nhòm song Bắc đẩu đã nằm ngang”
(Đêm lạnh)
Bài thơ “Mới ra tù tập leo núi”, hai câu thơ đầu tả cảnh mây núi
hùng vĩ ôm ấp quấn quýt nhau thật thi vị hữu tình. Cảnh sắc mây núi,
lòng sông mang màu sắc cổ điển đầy ấn tƣợng: Bức tranh sơn thủy
đƣợc sáng tạo nên trong niềm vui tự do. Nó còn mang ý nghĩa thẩm
mĩ tƣợng trƣng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung của con ngƣời.
Núi cao trập trùng là để đo tầm vóc và nghị lực của ngƣời đi đƣờng.
Với phƣơng châm “chiếm lĩnh đƣợc đỉnh cao mới giành đƣợc hạnh
phúc, mới tận hƣởng vẻ đẹp bát ngát của nƣớc non trải dài muôn
dặm”. Cảm hứng vũ trụ đƣợc diễn tả đầy thi vị. Khi đƣợc ra tù, Bác
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 141
tập leo núi, thiên nhiên trong thơ Ngƣời cũng vừa cổ điển lại vừa
hiện đại.
“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gƣơng sáng, bụi không mờ
Bồi hồi dạo bƣớc Tây phong lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xƣa”
Thơ của Bác không những tài hoa mà còn thể hiện quy luật sự
vận động của cuộc sống của lịch sử. Chính vì vậy ngoài sông núi,
trăng sao, Bác còn dùng rất nhiều hình ảnh về mặt trời. Mặt trời luôn
ửng đỏ trong thơ Bác xua tan những bóng tối âm u đem lại một bình
minh ấm áp. Bác đã coi mặt trời là nguôn sinh khí trong bóng đêm tù
đày. Và là tƣợng trƣng cho ngày mai tƣơi sáng, tƣơng lai của cuộc
Cách mạng giải phóng dân tộc. Một chân lý vận động của tự nhiên,
một chân lý của ngƣời làm cách mạng thuộc về chính nghĩa:
“Sự vật vần xoay đà định sẵn
Hết mƣa là nắng hửng lên thôi
Đất trời một thoáng thu màn ƣớt
Sông núi muôn trùng trải gấm phơi
Trời ấm, hoa cƣời, chào gió nhẹ
Cây cao, chim hót, rộn cành tƣơi
Ngƣời cùng vạn vật đều phơi phới
Hết khổ là vui, vốn lẽ đời”
(Tình thiên - Trời hửng).
Giáo sự, Đặng Thái Mai có viết về bài thơ “Trời hửng” của Bác
“là bức thảm thêu bằng chữ bạc, chữ vàng trên nền thảm đỏ”. Đó là
sự cảm nhận thiên nhiên bởi một trái tim lạc quan Cách mạng. Thời kỳ
ở trong tù thơ Bác rực rỡ tràn ngập ánh sáng và sức sống với một ngòi
bút khoáng đạt đã đạt tới độ hào hùng, mãnh liệt giữa đêm đen ngục
tối đã nhận ra ánh sáng bình minh đang bừng dậy ở phía chân trời.
Đó là bình minh của đất trời những cũng là bình minh của thời đại.
142 | Nguyễn Đức Thọ
Trở về Tổ quốc sau bao nhiêu năm bôn ba, chan chứa tình yêu
thiên nhiên Bác về lấy Pác Pó làm nơi ở, đặt tên cho Khuổi Mịn là con
suối Lê Nin, và bức tƣờng thành, núi trƣớc mặt là núi Các Mác. Quả là
chí khí, thiên nhiên hoà quyện với mục đích lý tƣởng của Ngƣời:
“Non xa xa, nƣớc xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là/
Đây suối Lê Nin kia nuí Mác
Hai tay gây dựng một sơn hà”
Chỉ với mấy câu thơ, đã lột tả chân thực hoạt động cách mạng của
Ngƣời, tràn đầy lạc quan, giữa rừng núi hùng vĩ. Bác đã vẽ nên cho
chúng ta bức tranh thiên nhiên phong cảnh núi rừng nơi đỉnh đầu Tổ
quốc: non xanh, nƣớc biếc; cảnh vật yên bình thanh cao. Và đặc biệt
thiên nhiên trong thơ Bác đã giao hoà với nhịp sống của ngƣời chiến sĩ
cách mạng. Cháo bẹ, rau măng là những sản vật từ thiên nhiên đã
cùng Bác sống trong những ngày gian khổ nhất:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông trên dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Rồi theo thời gian Cách mạng lớn dần cho tới khi thiết lập đƣợc
một nền dân chủ cộng hoà qua Cách Mạng tháng 8/1945. Bác vẫn với
một tình yêu thiên nhiên da diết mộc mạc. Bác đã nói: “Tôi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nƣớc ta đƣợc hoàn
toàn độc lập, dân ta đƣợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng đƣợc học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà
nho nhỏ, nơi có non xanh, nƣớc biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều
làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với
vòng danh lợi.” (Trích Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.161-162.).
Lời tuyên bố trên của Bác đã trở thành khát vọng của cả dân tộc
Việt Nam và đã từng bƣớc đƣợc thực hiện. Còn phần sau của lời tuyên
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 143
bố, là ƣớc nguyện của riêng Ngƣời, một mong muốn hết sức bình dị,
tự nhiên, đời thƣờng, nhƣng đã tạo nên một nét văn hoá Hồ Chí Minh,
một nét đặc trƣng tình yêu thiên nhiên của nhà thơ Hồ Chí Minh.
Năm 1945, Chính phủ của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
chuyển lên chiến khu Việt Bắc, giữa chốn rừng xa lạ đầy gian khổ,
thiếu thốn, để động viên tinh thần lạc quan của mọi ngƣời, Bác đã làm
bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc:
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vƣợn hót chim kêu suốt cả ngày
Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng
Săn về thƣờng chén thịt rừng quay
Non xanh nƣớc biếc tha hồ
Rƣợu ngọt, chè tƣơi mặc sức say
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xƣa, hạc cũ với xuân này”
Và rồi cái tình yêu thiên nhiên ở một nhà cách mạng đã hoà
quyện thành ý chí cách mạng và thể hiện trong ý thơ vừa cổ điển vừa
hiện đại vừa thực tế Bác đã viết giữa cảnh rừng nơi đầu nguồn Cách
Mạng, vƣa là tình cảm, vừa là nỗi lòng chân thực, vừa thể hiện ý chí
của Ngƣời
“Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát ca
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya nhƣ vẽ ngƣời chƣa ngủ
Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà”
Mùa Xuân năm 1946 là mùa Xuân đầu tiên của nền Dân chủ Cộng
hòa còn vô cùng non trẻ và Tết này cũng thực sự là Tết độc lập, tự do.
Bác đã đƣa thiên nhiên vào vần thơ chúc tết
“Tết này mới thực Tết dân ta
Mấy chữ chào mừng báo Quốc gia
Độc lập đầy vơi ba chén rƣợu
144 | Nguyễn Đức Thọ
Tự do vàng đỏ một rừng hoa
Mọi nhà vui đón Xuân Dân chủ
Cả nƣớc hoan nghênh Phúc Cộng hòa”
(Thơ chúc Tết năm 1946)
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cục diện trên chiến trƣờng
càng về sau càng trở nên cam go và quyết liệt hơn. Với cƣơng vị là
ngƣời đứng đầu nhà nƣớc, Bác bận trăm công nghìn việc, nhƣng Bác
vẫn không quên làm thơ nhƣ một món quà xuân vừa để chúc Tết đồng
bào chiến sĩ cả nƣớc, vừa để kêu gọi toàn dân tham gia kháng chiến.
Cũng vì thế mà những vần thơ Xuân của Bác thời kỳ này luôn gắn liền
với nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thuỷ, tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
Bài thơ “Nguyên Tiêu” Bác làm trong một đêm trăng trên dòng
sông xuân, để bàn việc quân quả là không còn gì để nói cái chất thi vị,
thanh cao và tuyệt mỹ của áng thơ mà trong đó thi sĩ vừa là nhà thơ
vừa là nhà cách mạng, nhà tƣ lệnh chỉ huy chiến tranh với một tƣ thế
của ngƣời cầm chắc trong tay ngày chiến thắng. Và bài thơ trên đã có
13 lần vang lên trong Ngày thơ Nguyên tiêu đất nƣớc.
Dù còn phải mất 8 năm nữa, Cách mạng miền Nam mới giành
đƣợc chiến thắng hoàn toàn, nhƣng ngay từ 1967 Bác đã tin tƣởng
và thiên nhiên là vƣờn hoa xuân, vƣờn hoa chiến thắng nở rộ trong
thơ Bác:
“Xuân về xin có một bài ca
Gửi chúc đồng bào cả nƣớc ta
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở nhƣ hoa”
(Thơ chúc Tết năm 1967)
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 145
Ngay trong chiến dịch xuân Mậu Thân,1968, Bác đã vui mừng
thấy phong trào cách mạng miền Nam tiến lên nhƣ vũ bão và cảnh đẹp
mùa xuân chiến thắng đã vào thơ Bác một cách tự nhiên
“Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua dánh giặc Mỹ
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta.
(Thơ chúc Tết năm 1968)
Tuy nhiên tình yêu thiên nhiên, của Nhà thơ Hồ Chí Minh không
chỉ thể hiện ở trong các tác phẩm thơ ca, nhƣ là những sáng tạo nghệ
thuật mang đậm dấu ấn cá nhân, mà nó còn đƣợc thể hiện trong toàn
bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Ngƣời. Vì thế chúng ta có thể
thấy những nơi Bác chọn làm chỗ ở và làm việc đều là những địa danh
vừa đảm bảo sự bí mật thiết yếu về mặt an ninh, quốc phòng, vừa gần
gũi với thiên nhiên hùng vĩ. Những địa danh đó chính là suối Lê Nin,
núi Các Mác ở Pắc Bó, Cao Bằng, lán Nà Lừa ở Tân Trào, Tuyên
Quang, khu Đá Chông ở Ba Vì và ngôi nhà sàn xung quanh có vƣờn
cây, ao cá ở giữa thủ đô Hà Nội.
Tình yêu thiên nhiên, ở Bác đã vƣợt lên trên việc ngắm cảnh
hay ngâm vịnh, mà quan trọng hơn là tình yêu ấy đã đƣợc thể hiện
thành công trong thơ ca, mà còn thể hiện trên những việc làm rất cụ
thể, thiết thực trong việc bảo vệ, giữ gìn tài sản vô giá của quốc gia,
dân tộc.
Nhƣ vậy có thể thấy cảnh vật thiên nhiên, tình yêu thiên nhiên
luôn có mặt trong đời sống tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
thơ ca của Ngƣời. Chính thiên nhiên đã khơi nguồn cho nhiều tác
phẩm thơ ca nổi tiếng và góp phần nâng vị thế danh nhân văn hoá thế
giới của Ngƣời lên một tầm cao mới.
146 | Nguyễn Đức Thọ
Nhƣng điều cần thiết phải nhấn mạnh ở đây là từ cổ chí kim, từ
Đông sang Tây những kiệt tác văn chƣơng về thiên nhiên và đất nƣớc
thƣờng là sản phẩm vô giá của những nhà văn, nhà thơ lỗi lạc và đồng
thời cũng là những ngƣời có tƣ tƣởng, tình cảm xuất chúng nhƣ
Trƣơng Kế, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn
Du, Nguyễn Trãi, Quách Tấn...
Còn đối với Bác những tƣ tƣởng, tình cảm, tình yêu thiên nhiên
không chỉ dừng lại ở những điều chỉ giáo trong các văn bản hay tác
phẩm nghệ thuật, mà hơn thế, nó đã trở thành những hành động, một
kỹ năng sống trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Ngƣời.
Những hành động ấy, ngoài ý nghĩa giáo dục, còn ẩn chứa bên trong
Bác là một ngƣời yêu thiên nhiên và đất nƣớc đến khôn cùng.
Thiên nhiên và đất nƣớc trong đời sống tinh thần của Bác, trong
thơ ca của Bác với một góc nhìn qua thơ luật Đƣờng, không đơn giản
chỉ là một thái độ ứng xử tích cực của con ngƣời đối với cuộc sống
xung quanh, hơn thế nữa là sự quan tâm, bảo vệ, hoà đồng với thiên
nhiên, con ngƣời và đất nƣớc đã trở thành một phần máu thịt, gắn
quện với nhân sinh quan và thế giới quan của một chiến sỹ cộng sản
lỗi lạc, thể hiện tầm, tâm, độ nhận thức cực kỳ sâu sắc của Bác đối với
thế giới tự nhiên và vai trò chủ động, tích cực của con ngƣời trong tiến
trình biến “Cái Tự nhiên tự nó” thành “Cái Tự nhiên cho ta”. Đấy vừa
là một tình cảm cao quí, vừa là một bài học lịch sử vô giá mà trƣớc lúc
đi xa Ngƣời muốn để lại cho muôn đời con cháu.
NĐT
NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH QUA MỘT BÀI THƠ
VIẾT TRONG “NGỤC TRUNG NHẬT KÝ”
Lê Trọng Hồng
Chi hội thơ Đƣờng luật Lục Đầu Giang, Hải Dƣơng
Viết về thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hàng ngàn
tác giả và hàng ngàn bài viết. Nhiều bài viết nhấn mạnh đến ý chí cách
mạng của Ngƣời và càng nhiều bài viết về nghệ thuật làm thơ chữ Hán
của Ngƣời. Trong bài viết ngắn này chỉ xin cảm nhận về nhân văn của
Ngƣời qua một bài thơ trong hơn một trăm bài thơ viết trong Ngục
trung nhật ký.
Cũng nhƣ nhiều ngƣời đã nói nhật ký vốn là những ghi chép của
tác giả và chỉ dành riêng cho tác giả có quyền đọc nó. Tuy nhiên Ngục
trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đƣợc công bố rộng rãi
trƣớc tất cả mọi ngƣời trong và ngoài nƣớc. Điều này lẽ ra là trái với
quan niệm của cộng đồng, bởi một khi đã là nhật ký thì ngƣời viết có
thể nói ra những điều tâm sự kín đáo hợp lẽ và sẽ có cả những tâm sự
bức xúc đến mức cao độ dễ đƣa đến những manh động về một khía
cạnh nào đó làm cho hình ảnh của tác giả xấu đi trƣớc những ngƣời
đƣợc biết về nội dung của nhật ký. Phải nói rằng đây là một trƣờng
hợp khá đặc biêt. Nó đặc biệt ở chỗ không những đã đƣợc công bố
rộng rãi, còn đƣợc nhiều ngƣời dịch giảng, coi nhƣ một ấn phẩm quý
giá vừa có thể thƣởng thức về mặt nghệ thuật vừa có thể học hỏi về
mặt tƣ tƣởng của tác giả.
Đánh giá về tập nhật ký ta đều nhận ra rằng toàn bộ các bài viết
đều có một chủ đề riêng rẽ và càng nhiều hơn các bài đan xen quyện
chặt vào nhau giữa nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên chúng ta cũng
rút ra đƣợc một số chủ đề chính đó là những bài tự nói với mình,
148 | Lê Trọng Hồng
những bài cảm thông cho một hoàn cảnh nào đó và khá nhiều bài phê
phán, cáo buộc một hành vi nào đó của tầng lớp thống trị và sau hết là
loạt bài thống kê lại đƣợc những gì mình đã trải qua cùng với những
cảm nhận của riêng mình trong từng hoàn cảnh.
Một đặc điểm rất quen thuộc của tác giả đó là mƣợn cảnh để tỏ
tình và phần nhiều các bài thơ chỉ toàn là cảnh và chẳng tỏ rõ bất kỳ
một nhận định nào, nhƣng khi đọc xong bài thơ ngƣời đọc tự thấy nhƣ
mở ra trƣớc mắt nhân văn cao đẹp của tác giả. Đây cũng chính là
những gì tôi muốn đƣợc một lần bày tỏ cảm xúc trƣớc một văn phong
trác tuyệt của Ngƣời qua tác phẩm Bán lộ thuận thủy phó Ung viết
trong Ngục trung nhật ký với nguyên văn chữ Hán và phần phiên âm
dƣới đây:
半路搭船赴邕
乘舟順水往邕寧,
脛吊船欄似絞刑。
兩岸鄉村稠密甚,
江心漁父釣船輕。
Bán lộ đáp thuyền phó Ung
“Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh
Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Lƣỡng ngạn hƣơng thôn trù mật thậm
Giang tâm ngƣ phủ điếu thuyền khinh.”
Dịch nghĩa
“Đáp thuyền xuôi dòng đi Ung Ninh,
Chân bị treo lên giàn thuyền nhƣ tội hình treo cổ;
Làng xóm hai bên sông thật là đông đúc,
Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài lƣớt nhẹ.”
Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 149
Bản dịch của Nam Trân
“Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.”
Trƣớc hết bài thơ hoàn toàn nằm trong cách viết nhật ký đó là việc
kể ra sự việc bị nhà tù của chính quyền đƣơng thời giải đi Ung Ninh
bằng phƣơng tiện giao thông đƣờng thủy thuận theo chiều dòng chảy.
“Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh”
Trong đó kể rõ bản thân bị buộc chân treo trên cao, còn đầu thì
hƣớng xuống dƣới tựa nhƣ ngƣời bị thắt cổ.
“Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình”
Một chi tiết khác mà ngƣời viết nhật ký đã nhìn thấy từ phía xa
hai bên bờ sông, nơi con thuyền đi qua thật là đông đúc và trù phú.
“Lƣỡng ngạn hƣơng thôn trù mật thậm”
Gần hơn nữa là từ giữa dòng sông có một ngƣ phủ ngồi trên chiếc
thuyền câu nhỏ nhẹ.
“Giang tâm ngƣ phủ điếu thuyền khinh”
Phía sau của lối kể chuyện ta nhận thấy tác giả dùng phép tả chân
để thâu tóm toàn bộ cảnh vật. Về cách tả cảnh tác giả đã rất tinh tế
nhìn từ xa đến gần. Đây chính là cách nhìn phù hợp của ngƣời đang di
chuyển đối với những hình ảnh cố định, vì cho dù tốc độ trôi thuận
dòng có nhanh đến mấy thì quang cảnh làng xóm vẫn dƣờng nhƣ đứng
nguyên tại chố.
Tuy nhiên toàn cảnh dòng sông với đôi bờ vốn chƣa đủ để có một
bức tranh hoàn chỉnh và khéo thay với một chiếc thuyền câu cùng với
sự chuyển động đã tạo ra bóng dáng sự hoạt động của con ngƣời, điểm
thêm trong bức tranh thủy mạc mà tác giả đã phác họa trong thơ.
150 | Lê Trọng Hồng
Những cái gửi gấm trong thơ lại dần đƣợc mở ra qua từng chi tiết
đó chính là những điều không xuất hiện mà rất có thể có trong thực tế
của hoàn cảnh. Đó chính là sự đau đớn của những vòng dây trói ngày
càng thít lại do trọng lƣợng của cơ thể cứ ghì xuống tạo ra những cơn
đau về da thịt. Đó chính là trạng thái xuống máu của cơ thể sống, trái
ngƣợc với cấu tạo vốn có của con ngƣời làm đầu óc càng ngày càng
trĩu xuống bắt ta phải phân tâm vì đau đớn, huống chi từng con sóng
vỗ nhao lên hạ xuống tạo ra những rung giật cơ học với gia tốc rơi
mới đƣợc hình thành. Ta hiểu vì sao không một tiếng kêu đau đớn,
không một lời phẫn uất mảy may xuất hiện trƣớc sự đối xử vô nhân
tính của các quan chức chính quyền mà cụ thể là những cai tù của họ.
Ngoài ý nghĩa tinh tế và toàn bích về văn học nghệ thuật của một
tác phẩm ta nhƣ thấy ở đâu đó một nhân sinh quan khác thƣờng của
tác giả. Với một tâm niệm nào đó (mà ta chƣa biết) đã làm cho tác giả
quên đi hoặc nữa là không quan tâm đến nỗi đau xác thịt mà ngƣời đó
đang phải gánh chịu.
Một lối viết pha trò hài hƣớc mà ta quen gặp trong nhiều bài thơ
khác cũng đã đƣợc phát hiện trong tác phẩm với một từ “vãng” (đƣợc
dịch là đi) hoàn toàn không nói gì đến sự ép buộc mà chính nhà thơ
đang phải chịu đựng. Có cái gì đó tỏ ra rằng đây chỉ nhƣ một cuộc đi
lại thông thƣờng, hoàn toàn khác với sự thật đó là một cuộc dẫn giải tù
nhân cùng với mọi sự khắc nghiệt thƣờng thấy.
Điều gì đã tạo ra cho Hồ Chí Minh một thói quen hài hƣớc trƣớc
mọi bạo ngƣợc, từng xuất hiện trong nhiều bài thơ viết trong Ngục
trung nhật ký nếu không phải là biểu hiện của sự lạc quan, sự tự tin
vào mục đích chân chính mà bản thân hƣớng tới và sau cùng là một ý
chí vĩ đại vốn đã đƣợc thấy trong những tấm gƣơng lãnh tụ của nhiều
cuộc cách mạng từng đƣợc khắc họa trong văn chƣơng trong nƣớc và
trên thế giới từ trƣớc đến nay.
Trong một luận điểm khác ta có thể nghĩ đến đó là cái gì đã làm
cho con ngƣời ấy có một tâm hồn lạc quan và một ý chí gang thép đến
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 151
vậy. Đây chính là việc mà chúng ta phải tìm thấy trong bài thơ. Sự
chịu đựng vì không có cách nào khác? Đây cũng là một cái lý, tuy
nhiên nếu chúng ta lại đọc ở trong đó đƣợc những chi tiết mà nhà thơ
nói đến đó là: làng xóm ven sông đông đúc thế (viết theo ý của ngƣời
dịch khá sát với nội dung). Bằng một câu hỏi đầy sự ngỡ ngàng, ta ngộ
ra rằng tác giả đã vui vì sự tốt lành của một miền quê mà dƣờng nhƣ
trên đƣờng đời tác giả ít có dịp đƣợc thấy sau bao năm bôn ba khắp
thế giới. Cái mừng vui của một vĩ nhân khi nhận thấy ở đây những
ngƣời dân, dƣờng nhƣ có đƣợc một chút yên bình, không có sự tàn
phá của chiến tranh tàn khốc.
Chúng ta biết hai bên bờ sông ở đây là của Trung Quốc. Nhƣng
với Hồ Chí Minh thì ngƣời Trung Quốc hay ngƣời Việt Nam và tất cả
các dân tộc trên thế giới đều là những con ngƣời và đều cần đƣợc sống
cho ra sống. Có lẽ chính vì thế mà nhiều năm sau, trong Tuyên ngôn
độc lập nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 2 tháng 9 năm 1945,
Ngƣời đã vận dụng lời lẽ đúng đắn trong bản tuyên ngôn của các nƣớc
khác mà khảng định: mọi ngƣời sinh ra đều có quyền bình đẳng…
Cũng trong bức tranh mà nhà thơ đã cấu tạo nên còn có thêm một
chi tiết khác hẳn với quang cảnh hai bờ sông, đó là một chiếc thuyền
câu với ngƣời ngƣ phủ đang ở giữa dòng sông. Đây cũng chính là sự
hoạt động đặc trƣng cho sự tự do của một cá thể trong sinh cơ lập
nghiệp. Có gì đó gợi cho ngƣời đọc nghĩ đến mục đích mà ngƣời làm
thơ hƣớng đến đã từng lúc chi phối toàn bộ tâm hồn và thể xác, khiến
cho mọi sự đau đớn mọi sự bó buộc dƣờng nhƣ không tồn tại.
Những điều vừa nhận định trên đây sẽ có thể chỉ là sự võ đoán
vô căn cứ nếu nhƣ bài thơ chỉ là của một nhà thơ bình thƣờng khác.
Tuy nhiên chúng ta lại hoàn toàn có thể nghĩ tới vì nhiều năm qua đi,
nhà thơ, nhà cách mạng Hô Chí Minh đã toàn tâm, toàn ý và biểu lộ
qua những trang di chúc với một câu nói hết sức cảm động: “Tôi chỉ
có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc đó là đồng bào ta, ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng đƣợc học hành…” Đây cũng chính là sự
152 | Lê Trọng Hồng
lôi cuốn của bậc vĩ nhân khi nghĩ đến khát vọng của mình là làm sao
để giải phóng cho họ, làm sao để họ có cuộc sống yên vui và cao hơn
nữa là tự do cho con ngƣời, tự do cho các dân tộc và tự do cho toàn
nhân loại.
Cũng xin mạnh dạn đề cập thêm về sự xuất hiện của con thuyền
câu giữa dòng sông khi ấy với một ý tƣởng khác dƣờng nhƣ tác giả đã
ngụ vào đó và tự ví mình với con thuyền câu đó luôn ở giữa dòng và
luôn đƣợc tự do. Những gì mà thể xác trải qua vốn chẳng là gì cả và
không cần phải nói đến trong sự cảm nhận của tác giả trƣớc hoàn cảnh
hiện tại. Từ đó bài thơ có cái tự nhiên của một bức tranh phong cảnh
vốn đƣợc cho là đẹp trên một vùng quê và cảnh đó không có sự bó
buộc nào về những nhận định vốn không cần bày tỏ. Điều này cho
thấy ý thơ (có thể khác với nhận định của ngƣời viết) hoàn toàn nằm
ngoài văn bản phù hợp với những gì là tinh tế của thơ chữ Hán đó là Ý
tại ngôn ngoại, đƣợc sử dụng nhiều hơn so với thể thơ khác.
Điều mà chúng ta nhận ra văn chƣơng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đích thực là văn chƣơng tuyệt phẩm mang tính nghệ thuật cao và nhất
là không thiếu tích cách mạng mà Ngƣời luôn gửi gấm trong mỗi câu
mỗi chữ trong thơ chữ Hán nói chung và trong Ngục trung nhật ký nói
riêng. Thêm một lần khảng định những bài thơ chữ Hán của Hồ Chí
Minh trƣớc hết là thơ của một nhà thơ uyên bác cùng với sự khảng
định đồng nhất về một nhà cách mạng Hồ Chí Minh với ý chí kiên
định cách mạng vĩ đại nhất trong mọi thời đại. Đây cũng chính là nhân
văn của nhà thơ, nhà cách mạng Hồ Chí Minh mà ngƣời viết mong
muốn tìm đƣợc trong “Ngục trung nhật ký”.
LTH
TẠI SAO BÁC HỒ ƯA THÍCH THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Đỗ Hùng Luân
Hội ngƣời tù yêu nƣớc Đà Nẵng
Thơ Đƣờng xuất xứ từ Trung Quốc đến nay đã hơn 1300 năm,
đã du nhập vào VN từ bao thế kỷ trƣớc và đã mang tâm hồn VN.
Bài “Nam quốc sơn hà nam đế cƣ” của Lý Thƣờng Kiệt, thơ Trần
Quang Khải...,Thơ Nôm Đƣờng luật của Nguyễn Trãi, Nguyễn
Khuyến, bà Huyện Thanh Quang, Hồ Xuân Hƣơng và cac nhà thơ
khác nổi tiếng sau này.là những Nhà thơ lớn với những tác phẩm
thơ Đƣờng tuyệt tác.
Các Nho gia yêu nƣớc thời Pháp thuộc đã dùng thơ Luật Đƣờng làm
vũ khí đấu tranh chống Pháp nhƣ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh...
Bác Hồ của chúng ta dùng thơ Đƣờng để diễn tả cảnh vật, nội
tâm. tƣ tƣởng để lãnh đạo cách mạng chống Pháp, Mỹ giành độc lập
thống nhất đất nƣớc..
Thơ Đƣờng của Bác gần gủi với đời sống và mang nhiều tính
nhân dân. Hơn nữa dù là hình thức nào nhƣng tình cảm và nội dung
vẫn là hồn cốt của thơ Bác Hồ. Hồ Chủ tịch là biểu thị của một lý trí
vĩ đại, một tâm hồn vĩ đại.
Thơ Đƣờng có đặc tính mỹ học, là tính hàm súc. Những bài thơ
mang hơi thở, nhịp đập của trái tim dân tộc thì trƣờng tồn mãi mãi.
Thơ Đƣờng nhƣ đóa hoa bất tử.không úa tàn theo thời gian. Bác Hồ đã
kết hợp đƣợc với nhân sinh quan cách mạng. Mỗi khi đọc lên chúng ta
cảm thấy một cái gì vẫn mới, vẫn đẹp và vô cùng sống động, đƣợc
rung cảm với truyền thống trữ tình đậm đà và tế nhị của dân tộc. Bài
thơ “Thăm lại hang Pác Bó”:
154 | Đỗ Hùng Luân
Hai mƣơi năm trƣớc ở hang này,
Đảng vạch con đƣờng đánh Nhật, Tây;
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu,
Non sông gấm vóc có ngày nay.
2/1961
Bác Hồ là hình ảnh một nghệ sĩ, một nhà nghệ sĩ-chiến sĩ. Ngƣời
khuyên bảo “Nay ở trong thơ nên có thép”. Chất thép trong thơ Bác
Hồ là tinh thần chiến đấu cách mạng giải phóng dân tộc
Đặc biệt những bài thơ chúc mừng năm mới của Bác Hồ thƣờng
chỉ có 4 câu nhƣng trong đó đƣờng lối của cách mạng Việt Nam trong
từng giai đoạn đƣợc vạch ra rất rõ mà lại hoàn toàn phù hợp với
nguyện vọng chung của nhân dân. Thí dụ đầu năm 1967 Bác Hồ viết
bài thơ “Thơ chúc Tết năm 1967”:
Xuân về xin có một bài ca,
Gủi chúc đồng bào cả nƣớc ta:
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở nhƣ hoa!
Thơ Đƣờng hiện nay đã đƣợc chuyển giao kỹ thuật một cách hoàn
hảo nhờ các tài thơ lớn Việt Nam. Hình thức của nó chỉ còn là nguồn
gốc xa xôi, chứ bản thân thơ Luật Đƣờng cả chữ Hán và chữ Nôm, đã
trở thành tài sản tinh thần của ngƣời Việt Nam, mang hồn Việt, giọng
Việt. Cấu trúc thơ Đƣờng thƣờng gọn nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều
hơn tả. Đặc tính mỹ học là tính hàm xúc, ít lời nhiều ý.
Có lẽ vì tất cả những lẽ trên mà Bác Hồ đã chọn làm thơ Đƣờng
trong các tác phẩm thơ của mình.
*Nghĩ về một số bài thơ “Nhật ký trong tù” với chiến sĩ bị địch
bát tù đày. Trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Bác viết
“Ngục trung nhật ký” hơn 100 bài thơ chữ Hán, đƣợc dịch thành
“Nhật ký trong tù”, trong đó có nhiều bài rất thiết thực với ngƣời chiến
sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày thời thời Mỹ - Ngụy:
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 155
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao,
Bài thơ của Bác đối với ngƣời chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù
đày (trong đó có tôi) (1) là hoàn toàn chính xác. Trong lúc đang bị
giam cầm nơi ngục tối nhà lao của quân thù, câu thơ ấy là lời giáo
huấn, là chân lý đối với họ. Thức tế đã là nhƣ vậy: Trong một phòng
giam, đến cả nhà lao và cả hệ thống trại giam Côn Đảo (nơi tôi bị
giam cầm), hàng chục ngàn ngƣời bị địch giam cầm, đánh đập.
Nhƣng, tinh thần ngƣời chiến sĩ cách mạng vẫn không nao núng, mà
chỉ một lòng hƣớng về cách mạng, vẫn tin tƣởng ngày thắng lợi.
Ở Côn Đảo đầu các năm 1960, địch cƣỡng ép ngƣời tù câu lƣu ly
khai Cộng sản, nhƣng chúng không tài nào đạt đƣợc múc địch, cuối
cùng phải khâm phục tƣ tƣởng sắt đá của ngƣời Cộng sản một lòng
không chịu ly khai. Chúng cũng không khuất phục ngƣời tù chính trị
chào cờ ba sọc của chúng, mặc dầu khi bắt ly khai hay bắt chào cờ,
nếu ta chống lại thì chúng dùng đủ mọi thủ đoạn và hành động dã
man, tàn ác để khủng bố đánh đập nhƣ giam chuồng Cọp, hầm đá,
còng chân, bóp siết đời sống, đối xử với tù nhân chính trị nhƣ con vật
nhằm khuất phục.
Kẻ địch không thể giam đƣợc tƣ tƣởng, tinh thần của ngƣời tù
chính trị “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”. Họ đã đoàn
kết đấu tranh chống lại sự bóp siết đời sống, đòi dân sinh, dân chủ đòi
trao trả cho chính quyền cách mạng.
Trong nhà lao ta tổ chức học tập nâng cao lập trƣờng chính trị và
quan điểm cách mạng, nâng cao trình độ mọi mặt - biến nhà tù thành
trƣờng học- để khi trở về chung tay đóng góp cách mang nhƣ câu thơ
của Bác: “Muốn nên sự nghiệp lớn/ Tinh thần càng phải cao” thật
đúng với ngƣời tù chính trị cách mạng thời chống Mỹ..
Hoặc câu:
156 | Đỗ Hùng Luân
“Trên đời muôn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do”
Câu trên gần với nghĩa “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do” mà
ngƣời tù chính trị chúng tôi thuở đó ai cũng lấy làm tâm đắc. Rất
chính xác với bản thân ngƣời tù nhà lao đế quốc, tay sai.
Mất tự do là cay đắng nhất trong cái mọi cay đắng trên đời, nhƣ
con chim trong lồng muốn tung bay mà không bay ra đƣợc. Nằm trong
tay của quân thù chúng ta cần đoàn kết yêu thƣơng nhau để sống, để
đấu tranh giành quyền sống, đấu tranh buộc địch trao trả cho chính
quyền cách mạng.
Tự do nó thiêng liêng cao quý làm sao:Ai trong hoàn cảnh tù đày
đều rất thấm thía hơn ai hết về sự cay đắng mất tự do trong câu thơ
trên của Bác
Những sinh hoạt thƣờng ngày trong nhà tù thời Bác vẫn là hình
ảnh sinh hoạt của ngƣời tù thời Mỹ -Ngụy nhƣ ca hát, đàn, sáo. Bài
thơ “Ngƣời bạn tù thổi sáo” Đối với chiến sĩ cách mạng ở Côn Đảo thì
có lúc có nơi chúng ta ca hát cả tập thể.
Bài “Học đánh cờ” hoặc “Ngắm trăng” (Tù thời Mỹ -Ngụy Không
phải mọi phòng giam nào cũng có thể thấy đƣợc ánh trăng để ngắm
mà hí họa trong một thời gian, một không gia nào đó mới có thể nhìn
thấy ánh trăng) hay bài “Chia nƣớc” thời Bác:
“Mỗi ngƣời nửa chậu nƣớc nhà pha
Rửa mặt, pha trà tự ý ta
Muốn để pha trà đừng rủa mặt
Muốn đem rửa mặt chớ pha trà”
Trong nhà tù Mỹ -Ngụy còn độc ác hơn thế, chúng chỉ chia cho
mỗi ngƣời tù 1 lon guigo nƣớc để dùng mọi thứ, (Khi bị chúng bóp
siết ở từng trƣờng hợp từng nơi giam).
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 157
Hoặc bài “Vợ ngƣời bạn tù đến thăm chồng” rất phù hợp với cảnh
vợ thăm chồng là tù trƣớc 1975:
“Anh đứng trong cửa sắt
Em đứng ngoài cửa sắt
Gần nhau trong tấc gang
Mà biển trời cách mặt...”
Bài thơ “Bốn tháng rồi” với nội dung “Một ngày trong tù bằng
nghìn năm ở ngoài”. Lời của ngƣời xƣa quả không sai. Bốn tháng
sống khác loài ngƣời làm cho thân mình tiều tụy hơn 10 năm. Bốn
tháng ăn không no, không ngủ yên, không thay quần áo, không tắm
giặt rồi một cái răng rụng, tóc bạc đi nhiều, ghẻ lở. Nhờ kiên trì nhẫn
nại không chịu lùi bƣớc, vật chất tuy đau khổ nhƣng tinh thần không
nao núng.
Nội dung này.sao mà giống anh chị em tù chính trị khi bị chúng
ngƣợc đái đàn áp ở Côn Đảo hay khi viện trợ bị Mỹ cắt bớt làm tù
nhân ăn đói..
Từ những vấn đề trên đây cho ta thấy cái tinh hoa, của thơ Đƣờng
mà Bác Hồ đã làm trong cả cuộc đời, thôi thúc chúng ta học tập theo
gƣơng Bác, sáng tác nhiều thơ Đƣờng đồng thời tuyên truyền những
điều tốt đẹp đến những ai quên lãng hoặc chƣa nhận thấy hết cái đẹp
của thơ Đƣờng. Chúng ta phải làm không mệt mỏi để giữ gìn và phát
huy nền văn hóa của dân tộc ta từ bao đời nay.
Sau cuộc Hội thảo này cần có đúc kết cái ƣu việt của thơ Đƣờng
mang tâm hồn Việt Nam để truyền bá rộng rãi với mọi lớp ngƣời trong
cả nƣớc.
ĐHL
BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Lê Công Bƣờng
476 tổ 28 KP 3A Tân Thới Hiệp – Q.12 – TP. HCM
Nói về “Nhật kí trong tù”: thơ của Bác đều viết bằng chữ Hán, đại
đa số là thơ tứ tuyệt. Cũng có đan xen vài bài tứ tuyệt đa thủ. Số ít còn
lại là thơ ngũ ngôn (năm chữ) cuối nhật kí có hai bài thất ngôn Đƣờng
luật hoàn chỉnh (đó là bài Đêm thu tr 145 và bài Trời hửng tr 147).
Theo tôi biết Bác xuất thân từ gia đình khoa bảng, một nhà túc
nho dòng dõi của văn chƣơng trí tuệ. Nên ở bất cứ hoàn cảnh nào, địa
vị nào thì thi tứ vẫn trào dâng nhƣ nƣớc triều vậy.
Ngay mở đầu tập nhật kí bài: Khai quyến tr 8:
“Lão phu nguyên bất ái ngâm thi
Nhân vị tù trung vô sở vi
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
Thả ngâm thả đãi tự do thì”
Chúng ta đã thấy ngay đó là một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh đủ
hai niêm ba vần. Nội dung nói lên cảnh trong tù buồn, nên Bác làm
thơ cho khuây khỏa, chứ thực ra Bác (lão phu) không ham (bất ái)
ngâm ngợi. Một nhà hoạt đông nhƣ Bác đã dồn hết trí tuệ tâm huyết
của mình vào công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đất nƣớc, còn
đâu thời gian mà ngâm ngợi. Nhƣng cảnh trong lao tù ngâm thơ là một
cách giết thời gian tốt nhất đối với Bác. Nó cởi mở cho tâm hồn
khoáng đạt và lấp đi khoảng thời gian trống vắng lòng mình. Nó còn
làm nguôi ngoai cho bạn tù trong lúc buồn vui. Bài “Tại Túc Vinh
Nhai bị khấu lƣu” tr 9 (bị bắt giữ ở Túc Vinh) bài tứ tuyệt này cũng
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 159
đủ hai niêm và hai vần. Trong bài “Chiết tự” tr 85 (chơi chữ) cũng là
một bài tứ tuyệt hoàn chỉnh đủ hai niêm hai vần nhƣng rất tiếc ở phần
dịch, dịch giả chỉ dịch đƣợc nguyên ý của bài thơ, lối dịch lại không ra
lối thơ tứ tuyệt (trong tập này còn nhiều bài dịch nhƣ thế) lớp trẻ
chúng ta phần nhiều là không biết chữ Hán. Nhìn vào bài thơ dịch cứ
ngỡ rằng đó là bài thơ tự do bảy chữ.
Bài “Thế lộ nan” tr 12 (Đƣờng đời hiểm trở) cũng vậy, đây là một
bài thơ tứ tuyệt đa thủ (ba khổ) hai khổ thơ đầu đầy đủ hai niêm ba
vần, khổ thơ thứ ba đủ hai niêm hai vần. Thế mà dịch giả dịch sai cả
niêm luật, khổ thơ thứ ba dịch lạc cả vần.
Trong thơ Bác điểm đặc biệt nhất là tính lạc quan yêu đời, yêu
cảnh. Toàn bộ “Nhật kí trong tù” không có một bài thơ nào mang nét
bi quan, chán nản đó là điều đặc biệt nhất.
Bài “Ngọ” tr 16 (Buổi trƣa):
“Ngục trung ngọ thụy chân thƣ phục
Nhất thụy hôn hôn kỉ cú chung
Mộng kiến thừa long thiên thƣợng khứ
Tỉnh thời tài giác ngọa lung trung.”
Xin thƣa: trong lao tù là nơi tối tăm là chốn đọa đầy, thế mà giấc
ngủ trƣa của Bác vẫn thanh thản thƣ nhàn. Giấc ngủ trƣa kéo dài suốt
mấy giờ liền đã đƣa Bác vào giấc mộng “Mộng thấy thừa long thiên
thƣợng giới”. Thừa long (cƣỡi rồng).
Đúng! Bác là ngƣời đã cƣỡi rồng,thật sự cƣỡi rồng.Con rồng của
Bác uốn khúc hình chữ S đã tung cánh bay lên tầng không uốn mình
vào vũ trụ.Trong lúc cƣỡi rồng Bác đã lèo lái nó,đã uốn nắn nó đƣa
con rồng Việt Nam sánh cùng với năm châu bốn biển. Giờ đây Bác đã
đi xa nhƣng con rồng đó đã đƣợc con cháu Bác thực hiện lời di chúc
của Ngƣời nó đang tiến lên xứng danh với tầm vóc của thời đại.
Tính lạc quan trong thơ Bác còn thể hiện ở nhiều bài nhƣ nhƣ bài
“Tẩu lộ” tr 37 (Đi đƣờng) bài “Mộ” tr 38 (Chiều tối) bài “Tự miễn”
160 | Đỗ Hùng Luân
tr 46 (Tự khuyên mình) bài “Táo giải” tr 52, 53 (Giải đi sớm) v.v…
Có những bài vừa mang tính lạc quan lại còn có cả tính hài hƣớc nữa
nhƣ bài “Vãn” tr 21 nhà ngục lại thành ra nhạc viện hàn lâm v.v…
Trong thơ Bác còn mang tính triết lí nhƣ bài “Văn Thung Mễ
Thanh” tr 81 (Nghe tiếng giã gạo).
Thật vậy ở đời không có sự tôi luyện nào lại không trải qua gian
nan vất vả. Sự gian nan vất vả đã làm cho con ngƣời ta cứng cáp hơn,
khôn ngoan hơn.Tôi luyện trong gian nan vất vả làm cho ngƣời ta lớn
lên và trƣởng thành ra. Bác đã đem hạt gạo để ví với con ngƣời. Sự
đau đớn của hạt gạo khi bị chày cối giày vò nhƣng qua đau đớn đó nó
đã trắng muốt bạch nhƣ miên.
Đúng thế: muốn đƣợc thành công tất nhiên chúng ta không thể
không trải qua gian nan, thử thách. Bài thơ đầy tính triết lí đó nhắc
nhở chúng ta muốn gặt hái đƣợc những điều tốt đẹp trƣớc hết phải
băng qua khó khổ gian nan, phải vƣợt lên muôn trùng bão tố. Phải
có đức tính kiên trì, nhẫn nại. Phải có sức chịu đựng và một tâm
hồn cao thƣợng.
Trong thơ Bác bút pháp trào lộng và hài hƣớc cũng đƣợc Bác sử
dụng nhiều nhƣ bài “Dạ túc Long Tuyền” tr 39, (Đêm ngủ ở Long
Tuyền), bài “Bang” tr 57 (Dây trói), bài “Giải trào” tr 63 (Pha trò),
bài “Vãng Nam Ninh” tr 64 (Đi Nam Ninh) v.v… Bài “Đêm ngủ ở
Long Tuyền” đã đƣợc chú thích ở dƣới. Còn bài “Dây trói” Bác đã
coi cuộn dây gai nhƣ con rồng quấn quanh mình. Đầu mối của sợi dây
đƣợc Bác miêu tả nhƣ những tua đai của các võ quan. Ngƣời tù nhân
nhƣ Bác mà Bác đã miêu tả nhƣ một ông quan võ cái khác nhau là
quan võ có tua – đai bằng kim tuyến, còn ở Bác tua là một cuộn gai.
Bài “Đi Nam Ninh” tiếng xiềng xích kêu khi bƣớc chân cử động
đƣợc Bác ví von nhƣ tiếng ngọc rung. Bài “Sang” tr 80 (Ghẻ lở) nét
trào lộng càng dâng cao, ghẻ lở đầy mình Bác nói: trông nhƣ hoa gấm.
Tiếng sột soạt gãi ghẻ đƣợc Bác mô phỏng nhƣ tiếng gảy đàn v.v…
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 161
Bài Anh phỏng Hoa đoàn tr 89 (đoàn đại biểu anh sang thăm trung
hoa) nói lên cảnh chính quyền Trung Hoa dân quốc đón tiếp bạn đồng
minh rõ là: bên khinh bên trọng. Phải chăng Anh - Mĩ là những nƣớc
lớn còn Việt Nam là man ri nhƣ những thời xa xƣa chăng. Những bài
học lịch sử chứng minh đẳng cấp của ngƣời Việt Nam qua các thời kì
Lê - Lý - Trần - Lê chƣa đủ làm thức tỉnh chính quyền của Tƣởng
Giới Thạch. Cách đón tiếp đó đã đƣợc Bác dùng bút pháp trào phúng
viết lên những vần thơ khi ngƣời đọc cảm thấy tái tê chua xót và nhìn
thấy ngay chính quyền của Tƣởng Giới Thạch là lòng lang dạ sói, dã
tâm của bọn cáo cầy. Bác viết: -Ta cũng một đoàn, một đoàn ở đây là
đại diện cho Việt Nam độc lập đồng minh hội và cũng là đồng minh
của Trung Quốc chống phát xít. Cũng nhƣ các phái đoàn Anh - Mĩ thế
mà Anh - Mĩ đƣợc mừng reo tỏ nhiệt tình. Còn Bác thì chính quyền
Tƣởng dành riêng một lối đón tiếp. Lối đón tiếp đó là lối nào? – là lối
vào lao tù khổ hạnh v.v…
Trong thơ Bác nhiều bài thơ Bác đã vận dụng điển tích xa xƣa nhƣ
bài “Quách tiên sinh” tr 102 (tiên sinh họ Quách), bài “Bệnh trọng”
tr 116 (ốm nặng), bài “Tức cảnh” tr 149 (tức cảnh) v.v… Những bài
thơ đƣợc dụng điển thì ý tứ sâu xa hơn. Ngƣời đọc thƣờng phải vận
dụng trí tuệ, vận dụng những hiểu biết của mình để tìm tòi - suy luận
mong giải đáp đƣợc ý nghĩa của câu thơ theo những chiều hƣớng trái
ngƣợc nhau.
Bác cũng thấu đƣợc câu nói của cổ nhân trong khi làm thơ Đƣờng
luật vô trƣng bất thi. Quả vậy ngƣời thơ thì phải trƣng ra đƣợc cái điển
tích để tỏ ra cái tài bác học uyên thâm của mình.
Trong thơ Bác nhiều bài thơ Bác làm có phong cách giống nhƣ
thơ vua Lê Thánh Tông. Nhƣ các bài “Ngọ” tr16 (Buổi trƣa), bài
“Thính kê minh” tr 71 (Nghe gà gáy), bài “Chiết tự” tr 85 (Chơi chữ),
bài “Tích quang âm” tr 133 (Tiếc ngày giờ) v.v… Những bài thơ trên
đều mang ý chí và khí phách của ngƣời anh hùng.
162 | Đỗ Hùng Luân
Lại nói về thơ có khí phách.Thuở nhỏ Bác học cụ đồ Vƣơng Thúc
Quý, cụ thƣờng sai học trò đốt đèn để hút thuốc. Một hôm một cậu
học trò vô ý để dầu vƣơng ra cả đế đèn, cụ Vƣơng nhân đó mới ra một
vế đối “Thắp đèn lên, dầu vƣơng ra đế” vƣơng là vƣơng vãi nhƣng
đồng nghĩa với chữ nho đế là vua. Bấy giờ Bác (tức là Nguyễn Sinh
Cung) xin đối “Cƣỡi ngựa dong, thẳng tấn lên Đƣờng” tấn nghĩa là
tiến tới còn có nghĩa nƣớc Tấn cùng với nƣớc Đƣờng là hai nƣớc
mạnh. Cụ Vƣơng khen câu đối của Bác là có khí phách tiến lên.
Lại nhắc lại cái khẩu khí đó lúc Bác mới có 5 tuổi. Gia đình Bác
chuyển từ Nghệ An vào Huế. Lúc đi qua Đèo Ngang Bác đã làm một
bài thơ tả cảnh thuyền buồm đi trên biển. Cái khẩu khí của ngƣời anh
hùng toát ra ở câu thơ mà lúc đó Bác mới 5 tuổi: Biển là ao lớn/
thuyền là con bò/ bò ăn gió no/ lội trên mặt nƣớc/ em nhìn thấy trƣớc/
anh nhìn thấy sau/ ta lớn mau mau/ vƣợt qua ao lớn. Và quả vậy cái
khẩu khí ấy sống với cuộc đời hoạt động đi đây đi đó khắp bốn biển
năm châu của Bác.
Trong thơ Bác dù ở hoàn cảnh nào (nhất là hoàn cảnh Bác ở lao
tù) các bài thơ mang các tính cách khác nhau nhƣ tính lạc quan yêu
đời, tính triết lí nhân sinh, bút pháp trào lộng hài hƣớc, v..v. Nhƣng
tính nhân văn thì đặc biệt sâu sắc và nỗi bật xuyên suốt cả cuộc đời
thơ của Bác.Việc Bác làm thơ Đƣờng luật hay là do Bác chịu khó đọc
và Bác đã học đƣợc rất nhiều cổ thi Trung Quốc. Lại nói về cổ thi qua
bài: Khán “Thiên gia thi” hữu cảm tr 148 (cảm tƣởng đọc Thiên gia
thi). Ta thấy ngay rằng Bác Hồ đã đọc và đã học đƣợc rất nhiều ở
Thiên gia thi. (Thiên gia thi ở Trung Quốc có hai quyển. Quyển 1 do
Lƣu Khắc Trang đời Tống tuyển chọn gọi là Đƣờng Tống thiên gia
thi. Quyển sau do Tạ Phƣơng Đắc cuối đời Tống tuyển chọn lại gọi là
thiên gia thi). Ở đây tôi xin nói thêm là tôi rất thích bài thơ: Tầm hữu
vị ngộ (Tìm bạn không gặp) của Bác. Bác viết vào đầu năm 1954 tức
là lúc Bác Giáp và cố vấn Vi Quốc Thanh (ngƣời Trung Quốc) đi lên
Tây Bắc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên. Bác lên sau và tìm không
gặp (ở đây không biết Bác tìm đại tƣớng Võ Nguyên Giáp hay tìm cố
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 163
vấn Vi Quốc Thanh) nhƣng bài thơ: Tầm hữu vị ngộ đƣợc giáo sƣ
Phan Văn Các sƣu tầm và dịch công bố 1990 nguyên văn bài thơ chữ
Hán đã đƣợc phiên âm.
“Bách lý tâm quân vị ngộ quân
Mã đề đạp toái lũng đầu vân
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân”
Một bài thơ tứ tuyệt tuyệt hảo
Một số nhà nghiên cứu Trung Quốc đã cho rằng Bác viết bài
thơ đó là do cảm hứng từ một bài thơ ngộ đạo của một ni cô chép
trong cuốn “Hạc lâm ngọc lộ” của La Đại Kinh đời Tống. Bài thơ
đó nhƣ sau:
“Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân
Mang hài đạp biến lung đầu vân
Qui lai tiếu niệp mai hoa khứu
Xuân tại chi đầu dĩ thập phân”
Bài thơ ngộ đạo này là một bài thơ hiếm”xuất hiện” thế mà Bác đã
đọc đƣợc. chứng tỏ Bác là ngƣời đọc rất nhiều cổ thi Trung Quốc,
trong đó có cả thơ thiền.
Lại nói về dịch thơ: Trong bài “Tầm hữu vị ngộ” giáo sƣ Phan
Văn Các là ngƣời sƣu tầm và dịch đầu tiên. Nên bản dịch của giáo sƣ
là bản chính thức. Còn chúng ta những ngƣời đi sau tất nhiên phải tôn
trọng lớp tiền nhân và lớp đàn anh. Nhƣng trong thơ dịch thì nhiều
dịch giả lại có những nét dịch khác nhau. Họ cũng có quyền dịch và
cũng cần phải tìm lại, đánh giá sao cho bản dịch sát nghĩa hơn, câu thơ
óng chuốt hơn, ngôn từ hợp lý hơn.
Quế Sơn Du Tử tôi nay cũng xin lạm dịch bài “Tầm hữu vị
ngộ” của Bác. Xin đọc:
“Trăm dặm tìm không gặp tƣớng quân
Mây đèo quần nát ngựa nhanh chân
164 | Đỗ Hùng Luân
Đƣờng về bắt gặp mai bên núi
Mỗi đóa hoa vang một nét xuân”
Tóm lại tại sao Bác hay làm thơ Đƣờng luật? Xin thƣa với quý vị
rằng là do Bác học Hán văn nhiều. Lại đọc cổ thi Trung Quốc nhiều
nữa nên Bác đã rút ra đƣợc kinh nghiệm kế thừa những cái hay của
thơ cổ,vƣợt lên những hạn chế và phát triển thêm,bổ sung thêm “chất
thép” tạo ra cái hay cái mới cho phù hợp với thời đại.Chính vì thế
Khóa Họp Hội Đồng UNESCO lần thứ 24 họp tại Paris cuối năm 1987
đã công nhận Bác là Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt
xuất của Việt Nam.
LCB
BÁC HỒ VỚI THƠ LUẬT ĐƯỜNG
Nam Phụng
Chi hội Thơ Đƣờng luật Hải Phòng
Vốn sinh ra từ cái nôi thiêng lớn của non sông ta; cái nôi cách
mạng lớn của Tổ quốc ta; trong một gia đình truyền thống Nho học
yêu nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, một
danh nhân văn hóa thế giới của thế kỷ 20. Ngƣời là niềm vinh dự tự
hào của non sông đất nƣớc ta, của những ngƣời Việt Nam.
Lúc sinh thời, Bác Hồ rất yêu thơ, nhất là thơ luật Đƣờng. Ngƣời
đã viết tập “Nhật ký trong tù” bằng chữ Hán. Tập thơ nhƣ những trang
ghi lại một thời kỳ Ngƣời bị quân Tƣởng1 bắt, bị giam cầm, bị giải
qua nhiều nhà tù ở Trung Quốc. Qua tập thơ cổ luật đó, chúng ta mới
thấy hết nỗi gian nan, cực nhọc của Bác. Tập thơ đã đƣợc các nhà
nghiên cứu Hán – Nôm dịch sang quốc ngữ và xuất bản. Phải chăng
do ƣu thế của thanh âm trầm bổng ngũ thanh tiếng Việt mà các bản
dịch đều rất hay, rất dễ hiểu. Thơ của Ngƣời mang đậm chất nhân văn,
hùng tráng, đầy tính lạc quan yêu đời. Cũng thể hiện Ngƣời luôn vững
lòng tin tƣởng sâu sắc ở đƣờng lối Cách mạng mà Ngƣời hằng mơ ƣớc
là: “Đất nƣớc độc lập tự do; Nhân dân ấm no hạnh phúc”.
Mặc dù làm khá nhiều thơ rất hay mà Bác không hề nhận mình là
nhà thơ. Bác làm thơ thƣờng để tự răn, để khích lệ động viên tinh thần
cách mạng, tinh thần yêu nƣớc của nhân dân. Kêu gọi đoàn kết toàn
dân, tạo sức mạnh cho Cách mạng thành công.
Khi Ngƣời đọc “Thiên gia thi” đã xúc động viết:
1 Tƣởng Giới Thạch – Quốc dân đảng Trung Hoa.
166 | Nam Phụng
“… Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Bài thơ “Giã gạo” in trong tập “Nhật ký trong tù” là bài thơ
mang khí phách phi thƣờng của một nhân cách lớn; mang tính triết lý
sâu sắc:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy
Gian nan rèn luyện ắt thành công”
Qua bài thơ chúng ta càng thấy ý chí, lý tƣởng sự rèn luyện, sự
chịu đựng gian khổ của Bác trong những tháng năm “nếm mật nằm
gai”. Với câu “Gian nan rèn luyện ắt thành công”, từ đó ta thấy Bác
quyết tâm đến thế nào vì giải phóng quê hƣơng.
Thời kỳ tiền khởi nghĩa, khi còn tạm náu mình trong hang Pắc Bó,
Bác đã viết:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Hòn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời Cách mạng thật là sang”
Thêm một minh chứng là bài thơ đã thể hiện lập trƣờng cách
mạng, ý chí kiên cƣờng. Cho dù cuộc sống của Ngƣời lúc đó vô vàn
khó khăn thiếu thốn, “Cháo bẹ rau măng” Bác vẫn dịch sử Đảng, viết
tài liệu để huấn luyện, bồi dƣỡng cho những đồng chí, những cán bộ
lúc bấy giờ. Ngƣời lạc quan vẽ lên bức tranh phong cảnh hùng vĩ,
hoành tráng của hang Pắc Bó của núi rừng quê hƣơng bằng những vần
thơ sau:
“Non xa xa nƣớc xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lê-nin kia núi Mác
Hai tay gây dựng một sơn hà”
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 167
Đó là bài thơ tứ tuyệt phá cách bởi câu thứ nhất chỉ có 6 từ. Có lẽ
thơ của Ngƣời cốt chuyển đạt ý mà không câu nệ sự thiếu đủ của từ.
Đến thời kỳ kháng chiến 9 năm chống Pháp. Cuộc sống ở chiến
khu Việt Bắc càng gian nan khó khăn vất vả hơn mà Bác vẫn bình
thản ung dung, lạc quan Cách mạng. Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc đã
nói lên điều đó:
“Cảnh rùng Việt Bắc thật là hay
Vƣợn hót chim kêu suốt cả ngày
Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng
Săn về thƣờng chén thịt rừng quay
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xƣa hạc cũ với xuân này”
Bài thơ đã toát lên vẻ đĩnh đạc đàng hoàng của lãnh tụ, từ ngữ
thuần Nôm, không cao siêu, cầu kỳ, dễ đọc, dễ hiểu. Ngƣời đã bình
dân hóa một thể thơ vốn đƣợc tôn vinh là thơ Bác học. Quả là một tâm
hồn cao khiết, không màng chi đến danh lợi cá nhân. Cặp câu kết đã
bộc lộ phong cách lão thực của một vĩ nhân cao khiết, vô tƣ. “Kháng
chiến thành công ta trở lại/ Trăng xƣa hạc cũ với xuân này”.
Khác hẳn với bài thơ trên, bài “Nguyên tiêu” là bài thơ tứ tuyệt
chữ Hán. Qua bài này ta thấy rõ hơn sự học, sự đọc của Bác; nhất là
cổ thi luật Đƣờng đã ảnh hƣởng đến thơ Bác thế nào!
Trƣớc khi bàn sâu về bài thơ “Nguyên tiêu” của Bác, xin phép
đƣợc giới thiệu đôi nét về hai bài thơ nổi tiếng của hai danh sĩ nổi tiếng
của nhà Đƣờng dƣới đây để rộng đƣờng dƣ luận. Thứ nhất là bài thơ
“Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu (704-754). Tƣơng truyền khi Lý Bạch
lên xem lầu Hoàng Hạc, thấy thơ của Thôi Hiệu thì nói rằng: “Cảnh
trƣớc mắt đẹp quá, chƣa tìm ra lời thì đã thấy thơ của Thôi Hiệu đề ở
đây rồi”. Lý Bạch khâm phục bèn thôi không đề nữa. Bài thơ nhƣ sau:
“Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dƣ Hoàng Hạc lâu
168 | Nam Phụng
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tỉnh xuyên lịch lịch Hán Dƣơng thụ
Phƣơng thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hƣơng quan hà xứ thị
Yên ba giang thƣợng sử nhân sầu”
Có nghĩa là:
“Ngƣời xƣa đã cƣỡi hạc vàng bay đi rồi
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc thôi
Hạc đã đi rồi thì không trở lại nữa
Mây trắng ngàn năm vẫn man mác trôi
Dòng sông quang tạnh rực rỡ, hàng cây ở đất Hán Dƣơng
Cỏ thơm tƣơi tốt trên bãi Anh Vũ
Chiều buông tự hỏi đâu là nơi quê nhà
Khói sóng trên sông gợi trong lòng ai nỗi buồn”
Xét về ý tứ, câu chữ, điển cố; bài thơ rất xứng tầm thơ Bác học.
Nhất là cặp câu kết rất hay, có sức lay động lòng ngƣời đọc. Tuy
nhiên bài thơ chƣa tròn trịa. Tiền giải chỉ là thơ cổ phong, hậu giải
mới là thơ luật; tính nhạc trong bài thơ chƣa thật thuyết phục. Nếu so
sánh với bài thứ hai, thơ tứ tuyệt của Trƣơng Kế thì nhạc điệu của
“Phong Kiều dạ bạc” hẳn hay hơn:
“Nguyệt lạc ô đề sƣơng mãn thiên
Giang phong ngƣ hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
Nghĩa là:
“Trăng lặn, quạ kêu sƣơng phủ kín trời
Lau lách ven sông, ánh đèn chài gợi nỗi buồn man mác
Ngoài thành Cô Tô, trên chùa Hàn Sơn
Nửa đêm chuông dóng khách gọi đò”
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 169
Bài thơ này rất hay về nhạc và cấu trúc từ nhƣng lại lạc ý tứ, lỏng
bố cục. Câu đầu tả cảnh gần sáng, câu cuối tả cảnh nửa đêm. Vậy là
không nhất quán cả về thời gian và sự việc.
Ta thử so sánh hai bài cổ thi chữ Hán trên với bài thơ “Nguyên
tiêu” của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đƣợc Bác thể hiện bằng chữ Hán
vào tháng 2 năm 1948. Đó cũng là thời gian cuộc kháng chiến chống
Pháp có nhiều chuyển biến thuận lợi.
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Bán dạ quy lai nguyệt mãn thuyền”
Tạm dịch nghĩa:
“Đêm nay rằm tháng giêng trăng tròn đầy
Sông xuân, nƣớc xuân và trời xuân
Trong chốn thâm u, khói sóng (trên sông) bàn việc quân cơ
Nửa đêm trở về trăng đầy thuyền”
Là bài thơ luật Đƣờng tả về một cảnh họp bí mật đêm rằm trăng
sáng trên sông. Hẳn là rất thành công nên Bác đã làm đƣợc những vần
thơ sảng khoái, lạc quan, ý tứ sâu sắc, thanh âm tròn đầy … Không
phải nhà thơ chuyên nghiệp, lại ngày đêm lo cho công cuộc Kháng
chiến. Trong hoàn cảnh ở chiến khu còn thiếu thốn trăm bề. Bác vẫn
đành cho mình những phút giây cảm hứng sáng tác những bài thơ đắt
giá nhƣ vậy. Cũng là bài tứ tuyệt đồng vận với bài “Phong Kiều dạ
bạc”, chỉ khác ở ý tứ, câu chữ. Thơ Trƣơng Kế biểu lộ hình ảnh tiêu
cực nhàn tản, thoát tục. Còn thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có gió
trăng mây nƣớc mà tích cực, sống động biết bao.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành thời gian, thăm hỏi
nhân dân. Khi thành phố, lúc nông thôn, khi công xƣởng, lúc ruộng
đồng. Ngƣời đến đâu cũng đem lại sự ấm cúng, niềm yêu thƣơng. Đến
với quần chúng, Ngƣời thƣờng dạy bảo bằng những lời lẽ ân cần đầy
khích lệ. Dƣờng nhƣ ngƣời luôn cố gắng hạ tầm tri thức của mình để
170 | Nam Phụng
nâng tầm hiểu biết của nhân dân. Thơ của Bác làm nhằm phục vụ đại
chúng thƣờng giản dị, xúc tích, ngắn gọn. Ví nhƣ bài “Mừng xuân
68” Bác viết:
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nƣớc nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta”
Bảo là thơ cũng đúng, bảo là lời hiệu triệu cũng đúng. Bác của
chúng ta vĩ đại nhƣ thế. Ai cũng biết Đƣờng thi là thể thơ du nhập từ
lâu đời, đã Việt hóa và đã trở thành hồn thơ Việt Nam. Cũng nhƣ
một số thơ khác xƣa nay du nhập vào và cũng dần dần Việt hóa.
Ngƣời xƣa đã biết biến thơ Đƣờng thành vũ khí sắc bén đấu tranh
chống ngoại xâm. Bác của chúng ta và nhiều vị tiền bối cũng vậy. Và
ngày nay những ngƣời yêu thơ luật Đƣờng cũng vậy.
Với lòng kính yêu và nhớ thƣơng vô hạn đối với ngƣời, chắc hẳn
chúng ta viết bao nhiêu sách, nói bao nhiêu lời cũng không kể hết
những công lao trời biển ấy. Bác đi xa đã lâu. Nhƣng tinh thần, tƣ
tƣởng, tác phong và đạo đức của Ngƣời mãi mãi còn đọng lại trong
lòng ngƣời dân Việt Nam. Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Bác.
Con xin kính dâng lên Ngƣời mấy vần thơ để tỏ lòng kính yêu và biết
ơn Ngƣời. Bài thơ “Bác chỉ ƣớc”:
Sinh thời Bác ƣớc giản đơn thôi
Cả nƣớc sau khi độc lập rồi
Chăm chỉ học hành đời ổn định
Cần cù lao động sống yên vui
Hòa bình hạnh phúc trên toàn cõi
Dân chủ tự do mọi kiếp ngƣời
Chẳng nghĩ cho mình lo tất cả
Dạt dào tình Bác sáng muôn nơi! NP
TÍNH HÓM HỈNH TRONG BÀI THƠ
“SƠ ĐÁO THIÊN BÂO NGỤC” CÛA BÁC HỒ
Nguyễn Văn Thụ
Phó chủ tịch Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam
Đây là một bài thơ rút ra từ tập “Ngục trung nhật ký”, nguyên tác
nhƣ sau:
“Nhật hành ngũ thập tam công lý
Thấp tận y quan, phá tận hài
Triệt dạ hựu vô an thụy xứ
Xí khanh thƣợng tọa đãi triêu lai”
Dịch giả Nam Trân (Viện Hán Nôm) đã dịch ra thơ Việt văn
nhƣ sau:
“Năm mƣơi ba cây số một ngày
Áo mũ dầm mƣa, rách hết giày
Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ
Ngồi trên hố xí đợi ngày mai.”
Đọc xong bài thơ, tôi thấy thƣơng Bác quá. Bọn cai tù Tƣởng
Giới Thạch hành hạ con ngƣời ghê gớm quá. Bác của chúng ta quả
là môt ngƣời thiết thạch, có khả năng chịu đựng đến cùng cực Tôi
lại tự hỏi: vì sao Bác lại chịu đựng đƣợc nỗi khổ sở, đầy đọa đến
nhƣ vậy? Tôi đã tự trả lời, có lẽ Bác luôn thƣờng trực ở trong tâm
trí một niềm tin.
Bác cho rằng, sự khổ sở, cực nhọc này chỉ là tạm thời; ngày mai,
sáng ra, ta sẽ tự ổn định. Đó là lớp nghĩa thứ nhất của bài thơ.
172 | Nam Phụng
Và, ý chí giải phóng dân tộc của Bác nhất định sẽ đƣợc thực hiện.
Niềm tin ấy, nó có logic, tất yếu nhƣ sự vận hành của trái đất, hết đêm
là sẽ đến ngày. Đó là lớp nghĩa thứ hai của bài thơ.
Cũng có ngƣời cho rằng: bài thơ này không có chất thơ, nó chỉ là
một bản thông báo có 4 nội dung:
- Đi dòng dã 53 cây số một ngày
- Dầm mƣa, mũ áo ƣớt sũng, giầy dép rách nát.
- Về đến nhà lao, thâu đêm không có chỗ nằm nghỉ (vì tù đông,
nhà tù hẹp)
- Đành ngồi trên hố xí để chờ sáng.
Nhƣng ngẫm nghĩ, tôi mới thấy: cả bài thơ có 4 câu nhân với 7
thành hai mƣơi tám tiếng thì có hai mƣơi lăm tiếng đầu liên nhau,
đúng chỉ là có nội dung thông báo tình trạng khốn khổ của ngƣời tù,
nhƣng hai mƣơi lăm tiếng ấy lại có vai trò nhƣ những nốt trầm của
một bản nhạc, để bất ngờ tạo ra một cao trào lộng lẫy về âm thanh
tƣơi sáng: ĐÃI TRIÊU LAI, đợi ngày mai.
Ba chữ “đãi triêu lai” là thi nhãn của cả bài thơ. Chất thơ, chất
lãng mạn cách mạng tập trung vào ba chữ ấy..
Phải nói rằng, dịch giả Nam Trân đã dịch bài thơ này của Bác rất
sát chữ, sát ý và lại khai thác triệt để nhạc điệu bằng, trắc của thể thơ
tứ tuyệt Đƣờng luật.
Thế nhƣng (theo tôi) so với nguyên tác, bản dịch mới chỉ dịch
đƣợc cái phần nghiêm túc của bài thơ, còn cái chất hài hƣớc, tự trào
của Bác đã cài đặt vào trong thơ thì cụ Nam Trân chƣa thấy thể hiện.
Nguyên tác câu thứ tƣ là:
Xí khanh thƣợng tọa đãi triêu lai.
Ba chữ “đãi triêu lai” thì rõ rồi: đợi sáng mai, đợi ngày mai, đợi
tƣơng lai.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 173
Hai chữ “thƣợng tọa” gộp lại là một động từ chỉ động tác ngồi
lên trên. Nhƣng khi hiểu nó là một danh từ, thì nó lại có nghĩa là rất
trang trọng, cung kính.
Hai chữ “xí khanh”: Xét theo mặt chữ Hán thì “xí” là nơi đi vệ
sinh, “khanh” là cái hố, cái hầm. Nhƣng không xét theo mặt chữ, mà
chỉ nghe cách phát âm ra hai tiếng “xí khanh” thì ngƣời ta lại khai thác
phép đồng âm dị nghĩa: Xí là trù tính việc xã hội (nhƣ xí nghiệp chẳng
hạn); khanh là một chức quan to nhƣ quan thƣợng khanh, nhƣ quốc vụ
khanh. Gộp hai tiếng “xí khanh” thì nó có dị nghĩa là một chức quan
to đảm nhận việc trù tính đại sự cho đất nƣớc; mà vị quan to này lại
đƣợc thƣợng tọa trên cái hố xí. Sau khi đọc xong cả câu thì sự tự trào
(cho vui mình, cho vui bạn tù) lại đƣợc chuyển sang ý nghĩa nghiêm
túc, lạc quan, tin tƣởng là “đợi ngày mai”, ngày mai trời sẽ sáng.
Đọc xong bài thơ, tôi vô cùng cảm động, vì Bác đã hy sinh cho
hậu thế quá nhiều.
Tôi lại hiểu thêm, Bác Hồ không phải là một ngƣời khắc kỷ; Bác
là ngƣời có tâm hồn phóng khoáng, yêu đời, biết trào lộng, hóm hỉnh.
Trào lộng, hóm hỉnh ngay trong khi khốn khổ nhất.
Âu đó cũng là phép tự tiêu sầu, trục lụy để nuôi dƣỡng niềm tin tất
thắng của một vĩ nhân.
NVT
174 | Nam Phụng
QUANH MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁC HỒ
VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
GS. Nguyễn Khắc Phi
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Trong sáng tác thơ của Hồ Chủ tịch, tỉ lệ số bài viết theo thể
Đƣờng luật khá cao, trong đó phần lớn lại viết bằng chữ Hán.Thơ
Đƣờng luật là một thể thơ cổ, ra đời cách đây khoảng 1500 năm, lại
có xuất xứ ở nƣớc ngoài. Không chỉ Ngục trung nhật kí đƣợc viết
trên đất Trung Quốc, mà trong tập Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (Ngoài
Nhật kí trong tù) xuất bản năm 1990, cũng có đến 15 bài thơ Đƣờng
luật viết trên đất Trung Quốc, nói về những nhân vật, danh thắng của
Trung Quốc trong các dịp ngƣời đi công tác hoặc nghỉ dƣỡng.Thế
nhƣng, tất cả đều toát ra tinh thần dân tộc và tính hiện đại sâu săc.
Nhiều bài viết và công trình trƣớc nay đã cố gắng làm nổi bật những
điều ấy, song vẫn còn những khía cạnh cần bàn luận thêm về mối
quan hệ giữa Ngƣời, thơ của Ngƣời với thơ Đƣờng luật.Trong tham
luận này, tôi chỉ xin trình bày một số ý kiến về một vài điểm quanh
chủ đề nói trên.
I. Về tiêu chí để xác định Thơ Đƣờng luật trong thơ Bác
Có một số ngƣời dùng khái niệm “Thơ Đƣờng” thay cho “Thơ
Đƣờng luật”. Đó là một lối nói đơn giản theo quy ƣớc, không thật sự
khoa học, có thể gây hiểu nhầm là chỉ thơ ở đời Đƣờng nói chung dù
đƣợc sáng tác bằng bất cứ thể thơ nào (nhƣ tên gọi của hai tập Thơ
Đƣờng do NXB Văn học đã xuất bản). Bởi vậy, bàn về vấn đề “Bác
Hồ với thơ Đƣờng luật”, trƣớc hết không thể không minh định thuật
ngữ ấy, mặc dầu nhà ngôn ngữ học, thi pháp học nổi tiếng bậc nhất
176 | GS. Nguyễn Khắc Phi
của Trung Quốc là Vƣơng Lực cũng phải thừa nhận “Phân loại thể thơ
là một vấn đề phức tạp” (Cổ đại Hán ngữ. Tập 4. Bản đã sửa chữa in
lần thứ 33. Trung Hoa thƣ cục. Bắc Kinh, 2003, trang 1511). Công
thức thì đã rõ nhƣng vận dụng cụ thể thì không đơn giản. Một bài thơ
thất ngôn bát cú bảo đảm niêm, luật, đối nhƣng lại gieo vần trắc có thể
coi là thơ Đƣờng luật hay không? Ý kiến phổ biến hiện nay đều cho
rằng thơ Đƣờng luật chỉ gieo vần bằng (Toàn bộ thơ Đỗ Phủ chỉ có 1
bài gieo vần trắc). Bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch là thơ cận thể (thơ
Đƣờng luật) hay cổ thể (vì rõ ràng câu thứ 2 vừa thất luật, và do đó,
vừa kéo theo thất niêm)? Bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là thơ
Đƣờng luật hay bán cổ bán luật (vì rõ ràng ở 4 câu đầu có nhiều chỗ
thất luật, thất niêm)? Trong bài báo đặc sắc viết năm 2013 Nhật kí
trong tù – những vần thơ chữ Hán hiện đại, “nôm na” mà thâm thuý
của Hồ Chí Minh, GS. Trần Đình Sử có nêu nhận định: “…Thơ luật ở
đây chủ yếu chỉ tuân thủ quy định về số câu, số chữ, bằng trắc, còn
các yêu cầu khác nhƣ niêm, điển cố…đều không đòi hỏi chặt chẽ”.
Tinh thần của nhận định ấy cơ bản là thoả đáng song có vài điểm cụ
thể cần làm rõ. Sử dụng điển cố là một đặc điểm của văn thơ trung đại
nói chung, không phải là một yêu cầu của thơ Đƣờng luật. Hồ Chí
Minh không hoàn toàn”tuân thủ quy định về số câu, số chữ, bằng trắc”
mà linh động, thậm chí “phá rào” khá nhiều và ngƣời nghiên cứu hoàn
toàn có thể thống kê một cách cụ thể. Không phải đến Hồ Chí Minh,
mà ngay từ lúc ra đời, các nhà thơ kể cả thánh thơ Đỗ Phủ, ngƣời
đƣợc xem là tuân thủ luật thơ một cách nghiêm nhặt nhất, với nguyên
tắc tối cao là “bất dĩ từ hại ý”, đã tìm cách linh động về mặt này hay
mặt khác và một số kiểu linh động dần dần đã đƣợc “hợp pháp hoá”,
không bị coi là phạm luật hay phá luật nữa. Không nên đồng nhất 2
khái niệm phạm luật và phá luật. “Phá luật” là do yêu cầu diễn đạt,
mặc dầu rất am hiểu luật thơ, vẫn cố tình vi phạm. Ở đây tôi không
muốn nhắc lại công thức “nhất tam ngũ bất luận” (mà thực ra chỉ có
“nhất ngũ bất luận”, còn chữ thứ ba thì có một số trƣờng hợp tuyệt đối
cấm “bất luận”) mà muốn nêu ra vài trƣờng hợp có thể linh động
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 177
khác: chữ cuối câu thứ nhất có thể gieo vần hay không gieo (với thơ
ngũ ngôn không gieo vần là thông lệ, với thơ thất ngôn có gieo vần lại
là thông lệ); thơ tuyệt cú có thể thất niêm ở giữa bài, nói cách khác,
mô hình đòn cân thanh điệu (tổ hợp thanh 3 chữ thứ 2, thứ 4, thứ 6: B
T B hay TBT) của câu thứ 3 có thể khác với mô hình của câu thứ 2
trong khi công thức yêu cầu phải “giống” để bảo đảm nguyên tắc niêm
(sự linh động này đặc biệt thích hợp với trƣờng hợp câu thứ 3 đánh
dấu một bƣớc nhảy vọt trong mạch cảm xúc, một sự chuyển ý thơ đột
ngột); thơ tuyệt cú có thể dùng đối hay không và đối ở bất cứ vị trí
nào: thơ tuyệt cú không chỉ không hạn chế dùng điệp từ (thơ bát cú
Đƣờng luật chỉ cho phép lặp chữ trong một số trƣờng hợp) mà còn
“khuyến khích” dùng điệp từ… Vì thơ tuyệt cú đƣợc phép linh động
rất nhiều mặt, nên trong 3 dạng của thơ Đƣờng luật (bát cú, trƣờng
luật, tuyệt cú), thơ 4 câu là dễ làm “đúng luật” nhất, và từ đó nhiều khi
cũng khó phân biệt ranh giới giữa thơ tuyệt cú Đƣờng luật (“luật
tuyệt”) và thơ tuyệt cú cổ thể (cổ tuyệt). Ở cấp độ một câu (dòng) thơ
luật, cần nói rõ hơn hiện tƣợng không tuân thủ công thức “nhị tứ lục”,
trƣờng hợp thƣờng đƣợc gọi là “thất luật” (thất luật sẽ dẫn theo “thất
niêm” và “thất đối về thanh”). Những câu thơ nhƣ vậy gọi là “ảo cú”
(“ảo” là “không thuận, “ảo cú” là câu đọc lên nghe không thuận tai).
Nhà thơ hoàn toàn có quyền viết những “ảo cú”, nhƣng khi đã viết “ảo
cú” thì thƣờng phải “cứu ảo”, tức phải điều chỉnh thanh âm ngay trong
câu hoặc ở câu đối diện để “cân đối lại” âm thanh (chẳng hạn, ở câu
Dục bả Tây Hồ tỉ Tây tử - Muốn đem Tây Hồ sánh với Tây Thi - của
Tô Thức, chữ “Tây” thứ 2 theo công thức đáng lẽ phải “trắc” mà tác
giả đã linh động dùng thanh “bằng”, thì ở vị trí chữ thứ 5 theo công
thức là “bằng” thì nay lại dùng “tỉ” có thanh trắc để cân đối lại. Nếu
trong bài dùng nhiều ảo cú thì cả bài gọi là thơ “ảo luật” nhƣ bài Trú
mộng – “Mộng ngày” của Đỗ Phủ.
Chỉ ra những chỗ phạm luật hay phá luật không khó, khó là xác
định ranh giới ở đâu, để khi vƣợt qua ranh giới đó thì không nên gọi
là thơ Đƣờng luật nữa. Khi cùng cố PGS. Lê Đức Niệm tham gia sƣu
178 | GS. Nguyễn Khắc Phi
tầm, biên soạn cuốn Thơ Đƣờng xứ Nghệ do NXB Đại học Quốc gia
xuất bản, tôi đã không đồng ý với anh Niệm ở 2 điểm: một là tên
sách không thể hiện nội dung xác định, 2 là khi tuyển đã đƣa vào cả
những bài phạm luật quá nhiều, không nên gọi là Thơ Đƣờng nữa (dù
quan niệm về thơ Đƣờng nhƣ thế nào).
Nếu tên gọi của Hội thảo (sau này có thể là của chủ đề nghiên
cứu) không thay đổi, thiêt tƣởng những vấn đề nêu trên rất đáng đƣợc
tham khảo để xác định cho trúng phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu. Xác
định những vấn đề trên hoàn toàn không nhằm thu hẹp phạm vi, số
lƣợng những bài thơ viết theo thể Đƣờng luật của Bác Hồ mà chỉ có
xác định rõ những điều trên mới nêu bật đƣợc điểm độc đáo trong việc
vận dụng thể thơ Đƣờng luật của Hồ Chí Minh, từ đó phát hiện thêm,
phát hiện đƣợc sâu hơn, toàn diện hơn một số phƣơng diện trong tƣ
tƣởng, tình cảm, phong cách của Ngƣời. Quan niệm về cái gọi là
“ranh giới” nói trên thay đổi tuỳ nhiều điều kiện, có lẽ càng về sau
càng có thể mở rộng, linh động nhiều hơn. Thơ Đƣờng luật, nếu kể từ
năm sinh của sƣ Pháp Thuận (915 – 990), tác giả của danh tác Quốc
tộ, thƣờng đƣợc coi là bài ngũ ngôn tuyệt cú Đƣờng luật sớm nhất ở
nƣớc ta, cho đến nay là vừa tròn 1100 năm, nếu có những sự vận
dụng linh động nào về luật thơ, không chỉ là thƣờng tình mà còn hợp
quy luật. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thống nhất một quy ƣớc nào
đấy về các tiêu chí để xác định ranh giới giữa các thể thơ.
Không phải dễ dàng thống nhất về các tiêu chí, càng không dễ
dàng thống nhất chỉ ra đích danh đâu là tiêu chuẩn cứng, về mặt
lƣợng, nhƣng thiển nghĩ về mặt chất, ít ra cũng hình dung đƣợc quan
niệm của ngƣời trình bày về cái gọi là “ranh giới” để xác định những
bài thơ nào có thể xác định là thơ Đƣờng luật mặc dầu ở đó có những
chỗ linh động, thậm chí “phá rào” so với quan niệm truyền thống. Cho
đến nay, theo chúng tôi, vẫn không nên xếp những bài gieo vần trắc,
nhƣ bài “Thân thể tại ngục trung…” vào thơ Đƣờng luật, mặc dầu có
những nét phảng phất giống thơ Đƣờng luật.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 179
Bên cạnh những điều có thể gọi là “luật” của thơ Đƣờng luật nói
trên, cũng cần nêu vài đặc điểm cơ bản nhất về mặt từ pháp và cú
pháp của thơ Đƣờng luật, đặc biệt ở đời Đƣờng, trong đó đặc biệt là
thủ pháp tỉnh lƣợc và thủ pháp đảo trang. Thủ pháp tỉnh lƣợc không
chỉ đáp ứng đƣợc nhu cầu diễn đạt cô đọng hàm súc của thơ Đƣờng
luật mà chủ yếu là thể hiện quan điểm triết học của Trung Quốc cổ đại
về mối quan hệ giữa cái hƣ và cái thực. Thơ Đƣờng luật truyền thống
sẵn sàng tỉnh lƣợc bất cứ từ loại nào và đảm đƣơng bất cứ chức năng
ngữ pháp nào trong câu thơ, đặc biệt là các quan hệ từ và đại từ nhân
xƣng. Về sự tỉnh lƣợc từ loại sau, Giáo sƣ – Viện sĩ Francois Cheng
(Trình Bão Nhất) chỉ rõ: “Nếu ngay trong văn ngôn sự vắng mặt của
đại từ nhân xƣng là thƣờng thấy, thì phải nhấn mạnh rằng sự vắng mặt
ấy lại càng hiển nhiên trong thơ ca và thực tế là vắng mặt toàn bộ
trong luật thi (N. K. Phi nhấn mạnh)” (L’écriture poétique chinoise –
Bút pháp thơ ca Trung Quốc. NXB Seuil. Paris, 1996, trang 39). Tỉnh
lƣợc không làm cho nội dung thơ nghèo đi mà ngƣợc lại. Chỉ cần đối
chiếu nguyên văn 2 câu thơ “Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tƣ cố
hƣơng” của Lý Bạch với một số bản dịch ra tiếng Pháp, tiếng Nga là
thấy ngay điều ấy. Tiếng Trung Quốc xƣa là một thứ ngôn ngữ đơn
tiết và không thay đổi hình thái nên nghĩa của một từ hoàn toàn lệ
thuộc vào vị trí của của nó trong câu, bởi vậy thay đổi (trong đó có
“đảo trang”) vị trí là lập tức thay đổi ý nghĩa. Chính 2 đặc điểm này đã
làm nẩy sinh một loại thơ độc đáo và độc nhất vô nhị là thơ hồi văn
(một loại thơ có thể xáo lộn thứ tự các chữ theo một quy luật nào đó
để có thể đọc thành 2 hoặc rất nhiều cách có ý nghĩa khác nhau mà
vẫn đúng niêm luật). Hai điểm này cơ bản thuộc về cú pháp nhƣng tác
động rất lớn đến từ pháp. Riêng về từ pháp của thơ Đƣờng luật truyền
thống, một điểm nổi bật là tính chất tinh luyện. GS. Phan Ngọc đã
trình bày về tính chất tinh luyện của ngôn ngữ thơ Đƣờng một cách
sâu sắc trong một bài báo bàn về cấu tứ của thơ Đƣờng. Chính nhiều
nhà thơ và nhiều giai thoại về thơ Đƣờng cũng cho ta rõ điều đó. Có lẽ
chẳng có gì minh hoạ tốt hơn bằng câu thơ của Đỗ Phủ: “Tự bất kinh
nhân tử bất hƣu” (Dùng chữ chƣa làm cho mọi ngƣời kinh hoàng thì
180 | GS. Nguyễn Khắc Phi
chết cũng chƣa thôi” hay câu thơ của Mạnh Giao: “Nhị cú tam niên
đắc” (có khi hai câu thơ phải ba năm mới làm xong). Cũng chẳng có
gì minh hoạ sinh động hơn câu chuyện về nguồn gốc chữ “thôi xao”
bằng cuộc tao phùng giữa Giả Đảo và Hàn Dũ, chữ “nhất tự sƣ” qua
sự góp ý của Trịnh Cốc cho nhà sƣ - nhà thơ Tề Kỷ về “một chữ”
trong bài thơ Tảo mai.
Tất cả những điều nói trên, nếu không thuộc lĩnh vực “luật” thì
cũng nằm trong phạm trù về “pháp”, về “lệ”, đều là những căn cứ rất
quan trong khi bàn đến việc vận dụng thể thơ Đƣờng luật củả Bác.
II. Về việc vận dụng thể thơ Đƣờng luật của Hồ Chí Minh.
1. Nói đến thơ, dù là thơ Đƣờng luật, trƣớc hết cũng phải đề cập việc
sử dụng ngôn ngữ.
Cách đây trên 20 năm, nhà nghiên cứu lão thành Trƣơng Chính đã
chỉ ra những yếu tố “bạch thoại” và cả những yếu tố “phi bạch thoại”,
“phi văn ngôn” (tiếng lóng, tiếng địa phƣơng, tiếng phiên âm từ các
ngôn ngữ châu Âu và cả những tiếng do Bác tạo ra từ tiếng Pháp nhƣ
chữ “cú” (coup) trong câu “nhất thuỵ hôn hôn kỉ cú chung - Buổi trƣa)
trong Nhật kí trong tù, nhƣng phải nói đến năm 2013, GS. Trần Đình
Sử, trong bài báo đã dẫn, mới là ngƣời nêu ra vấn đề này một cách
toàn diện và có kiến giải thoả đáng. GS. cho rằng thơ trong Nhật kí
trong tù, dù làm bằng thể thơ truyền thống, dù có không ít bài mang
đậm phong vị cổ điển, thậm chí viết theo “thi pháp trung đại”, vẫn là
“thơ hiện đại, mang phong cách hiện đại”, là “thơ bạch thoại, thơ văn
xuôi, sử dụng đủ loại chất liệu của bản thân đời sống”. Không chỉ
dùng từ hiện đại (nhƣ “tẩu” trong bài “Tẩu lộ” không thể dịch là
“chạy”) mà cũng sử dụng khá nhiều “cấu trúc câu văn xuôi bạch
thoại”. “chính loại thơ này thích hợp với thể nhật kí của tập thơ, phù
hợp với việc ghi lại nhiều tình huống, nhiều hình ảnh của đời sống
trong tù ngục, đầy bi hài, chua chát, u mua, hóm hỉnh. Đó là phong
cách nôm na, bình dị rất đặc trƣng cho văn phong Hồ Chí Minh”. Từ
những luận điểm trên, GS. nhận định ý kiến của Quách Mạt Nhƣợc
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 181
cho rằng nhiều bài thơ trong Ngục trung nhật kí “đặt chung với thơ
Đƣờng thơ Tống cũng không phân biệt đƣợc” là “không thoả đáng”.
Do đặc điểm của đối tƣợng miêu tả, do đƣợc sáng tác trong một
hoàn cảnh đặc thù, đặc biệt là do văn phong của Bác, không thể nói
ngôn từ trong mọi bài thơ Đƣờng luật của Bác đều tinh luyện nhƣ ở
các danh tác đời Đƣờng mà phần lớn là bình dị, thậm chí có khi là
“nôm na” nhƣ GS. Sử đã nói. Dĩ nhiên, “bình dị” không có nghĩa là
không trong sáng, không sâu sắc.
Có thể chỉ ra những đặc điểm sử dụng ngôn từ trong thơ Đƣờng
luật Hồ Chí Minh ở nhiều điểm khác nữa. Nhƣ Trình Bão Nhất chỉ rõ,
trong thơ Đƣờng luật (ở đời Đƣờng), đại từ nhân xƣng hầu nhƣ vắng
bóng. Điều đó có lẽ không còn phù hợp với tƣ duy, tính cách của con
ngƣời hiện đại nên trong thơ Đƣờng luật của Bác, ta thấy xuất hiện rất
nhiều, thậm chí đƣợc dùng làm điệp từ trong cùng một bài, không chỉ
2 lần mà có khi 3, 4 lần. Nhƣ trong bài Tặng Võ công (Tặng cụ Võ),
Ngƣời đã dùng đến 3 chữ “ngã” và đến 4 chữ “công” (đại từ nhân
xƣng ngôi thứ hai). Cách dùng điệp ngữ ở đây không chỉ nói lên mối
quan hệ thân tình mà còn biểu thị thái độ tôn trọng với cụ Võ Liêm
Sơn (số lƣợng chữ “công” không chỉ nhiều hơn mà sắc thái biểu cảm
cũng rõ hơn, phù hợp hơn những đại từ nhân xƣng ngôi thứ hai khác).
Có thể so sánh cách dùng đại từ nhân xƣng ở bài này với cách dùng
ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai trong bài Kí Mao Chủ tịch. Theo tôi,
trong thơ Đƣờng luật Hồ Chí Minh, có một loại đại từ nhân xƣng đặc
biệt sử dụng một danh từ có ý nghĩa khái quát, nhƣng lại đặc chỉ một
cá thể không thể nhầm lẫn là “nhân” và “khách”. Đặt trong văn cảnh,
phần lớn hai danh từ này đƣợc dùng để thay thế cho đại từ nhân xƣng
ngôi thứ nhất.
2. Những đặc điểm trong việc vận dụng luật thơ
a. Vì sao Hồ chí Minh chủ yếu dùng thể thơ 4 câu (tuyệt cú, tứ
tuyệt) và trong loại thơ 4 câu, chủ yếu lại dùng thể thất ngôn tuyệt cú,
đó có thể là một đề tài nghiên cứu lí thú. Thơ bát cú của Bác có thể
182 | GS. Nguyễn Khắc Phi
đếm trên đầu ngón tay. Không thể nói tuyệt cú làm dễ hơn, càng
không thể nói thơ bát cú có giá trị hơn nhƣng rõ ràng là thơ bát cú có
nhiều ràng buộc hơn, phải gia công nhiều hơn về mặt chữ nghĩa, nói
thế cũng có nghĩa là, ngƣợc lại, thơ tuyệt cú đƣợc dành một không
gian thoáng rộng hơn nhiều cho việc vận dụng luật thơ, phù hợp hơn
với hoàn cảnh sáng tác của Ngƣời (cho dù là trong cảnh tù ngục hay
trong những ngày lãnh đạo kháng chiến bận rộn, căng thẳng).Thế tại
sao trong thơ tuyệt cú, Ngƣời lại chọn thể thất ngôn? Phải chăng vì
âm điệu của thơ thất ngôn uyển chuyển hơn (thơ ngũ ngôn không có
vấn đề đòn cân thanh điệu “nhị tứ lục phân minh”), vì thơ ngũ ngôn
số chữ quá ít (chỉ 20 chữ), khó biểu đạt tâm tƣ, tình cảm đa dạng,
khó miêu tả, tƣờng thuật những sự kiện trong cuộc sống bộn bề? Dĩ
nhiên trong lịch sử văn học, có không ít những danh tác viết bằng thể
ngũ tuyệt nhƣ Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch, Điểu minh giản của Vƣơng
Duy, Đăng Quán Tƣớc lâu của Vƣơng Chi Hoán, Quốc tộ của sƣ
Pháp Thuận, Tụng giá hoàn kinh sƣ của Trần Quang Khải ; chính thơ
Bác cũng có bài rất hay nhƣ Thƣớng sơn viết ở Lũng Dẻ năm 1942.
Và ngay hai bài mở đầu tập Ngục trung nhật kí, hai bài có thể xếp
vào hàng danh tác, chính là 2 bài thơ 4 câu 5 chữ, một bài cổ thể,
một bài cận thể. Phải chăng thể thơ nhỏ bé này phù hợp với yêu cầu
“ngôn chí”, đề xuất những phƣơng châm, tuyên ngôn, luận điểm,
khẩu hiệu sắt đanh, ngắn gọn nhƣ chạm khắc vào đá? Nhìn toàn bộ
lịch sử phát triển thơ tứ tuyệt Đƣờng luật, ở Trung Quốc cũng nhƣ ở
Việt Nam, xét cả nền văn học cũng nhƣ của một tác giả nhƣ Lí Bạch,
Đỗ Mục, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng…, vì những lí do khác nhau,
ta thấy thể thất ngôn tuyệt cú vẫn đƣợc “thiên ái” hơn. Trong tất cả
tuyển tập tuyệt cú hiện có, bao giờ số lƣợng thất ngôn tuyệt cú cũng
áp đảo số lƣợng ngũ ngôn tuyệt cú. Nhân đây, xin nêu một ví dụ cụ
thể là Thiên gia thi, tuyển tập thơ đƣợc biên soạn ở đời Thanh tập
hợp những bài thơ Đƣờng luật vào loại hay của đời Đƣờng và đời
Tống (trừ 2 bài cuối cùng là của đời Minh), một tập thơ Bác đã nêu
một nhận xét có tính phê phán đầy ý nghĩa nhƣng chắc hẳn cũng đã
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 183
đọc đi đọc lại nhiều lần và hấp thu từ đó ít ra cũng không ít kinh
nghiệm và chất liệu để làm thơ. Thiên gia thi gồm tất cả 226 bài,
đƣợc sắp xếp theo trình tự thể loại Ngũ tuyệt – Ngũ luật (bát cú) –
Thất tuyệt – thất luật (bát cú), trong đó thất ngôn tuyệt cú chiếm số
lƣợng áp đảo (94 bài) trong khi thất ngôn bát cú có 48 bài, ngũ ngôn
bát cú có 45 bài và ngũ ngôn tuyệt cú chỉ có 39 bài. Chúng tôi sẽ còn
quay lại vấn đề này ở phần sau.
b. Cũng nhƣ nhiều nhà thơ xƣa, Bác có làm một số chùm thơ (từ
2 đến 6 bài), nhƣng có 2 điểm đặc biệt: một là, trong một chùm thơ
có khi vừa có cả ngũ ngôn lẫn thất ngôn, vừa có cả Đƣờng luật lẫn cổ
thể nhƣ bài “Tứ cá nguyệt liễu”; hai là, cũng trong chùm 4 bài thơ
này, giữa các bài có các quan hệ từ “nhân vi” (bởi vì), “sở dĩ” (cho
nên), “hạnh nhi” (may sao) làm cho cả chùm thơ mang tính chất nghị
luận rõ nét. Đó là hiện tƣợng chƣa từng có trong các chùm thơ
Đƣờng luật của Trung Quốc, dù đó là chùm thơ bát cú Thu hứng 8
bài của Đỗ Phủ đời Đƣờng hay chùm thơ thất ngôn tuyệt cú Uyên
Ƣơng hồ trác ca – Bài ca chèo thuyền ở hồ Uyên Ƣơng 100 bài của
Chu Di Tôn ở đời Thanh.
c. Xét từng bài, ở thơ Đƣờng luật của Bác có bài “thêm câu” (6
câu nhƣ “tứ tuyệt nối dài”, có bài cũng 6 câu nhƣng chen vào 2 câu
ngũ ngôn và thất ngôn ở giữa nhƣ Mậu Thân xuân tiết). Bài “Tết Mậu
Thân”, nếu bỏ 2 câu giữa, phần còn lại vẫn có thể xem là một bài tuyệt
cú đặc sắc. Trƣớc tin vui chiến thắng Mậu Thân, dƣờng nhƣ niềm vui
của Bác đã vỡ oà, làm phá vỡ cả khuôn khổ nhỏ bé của thể tứ tuyệt.
Trƣớc mắt ta hiện lên một bức tranh “hoa điểu tranh năng” đủ màu
sắc: ở câu 2, muôn hoa đỏ và tím đua nở; ở 2 câu thơ chen vào, chim
trắng lao xuống hồ bắt cá và cái oanh vàng bay vút lên bầu trời xanh.
Yết hậu nhƣ bài Quế Lâm phong cảnh cũng có thể coi là một dạng
thêm câu đặc biệt. Ở cấp độ câu, tƣởng cũng cần nhắc lại hiện tƣợng
thêm chữ nhƣ ở bài Cận Long châu (câu cuối có 8 chữ) hay bớt chữ
nhƣ bài thơ mở đầu bằng 3 chữ, nói đúng hơn là 3 tiếng
“Oa!..Oa!...Oaa!...” (Tân Dƣơng ngục trung hài).
184 | GS. Nguyễn Khắc Phi
d. Nhƣ đã nói, các nhà thơ có quyền viết những câu thơ phá luật
và sau đó thƣờng “cứu ảo”. Điểm đáng lƣu ý là những “ảo cú” trong
thơ Đƣờng luật của Bác rất nhiều mà lại thƣờng không “cứu ảo”. Bài
Tặng Võ công có đến 4 chỗ thất niêm và 4 chỗ thất luật nhƣng vẫn có
thể coi đó là thơ Đƣờng luật vì đã đảm bảo tất cả những yêu cầu khác
còn lại của một bài thơ luật. Điều đáng nói hơn là Bác đã “phá luật” ở
những chỗ đích đáng, nhƣ câu thứ 3 ở bài đầu của chùm thơ Tứ cá
nguyệt liễu: “Tứ nguyệt phi nhân loại sinh hoạt” (Bốn tháng sinh hoạt
chẳng ra ngƣời) hay câu “Thí vấn dƣ sở phạm hà tội?” (Thử hỏi ta
phạm tội gì?). Chỉ có phá cách mới bộc lộ rõ đƣợc thái độ “bất bình”
cao độ, mà những thực tế xấu xa tột bậc cũng nhƣ hiện tƣợng cực kì
vô lí đó cũng không đáng đƣợc diễn đạt bằng những thanh điệu hài
hoà cân đối của một câu thơ đúng luật!.
e. Nhƣ đã nói, thơ tuyệt cú có nhiều điểm “thoáng” hơn trong
việc vận dụng niêm, luật, đối. Thơ tuyệt cú Đƣờng luật của Hồ Chí
Minh đã thể hiện tới mức tối đa những điều “linh động hợp pháp”
ấy. Có thể chỉ ra mấy điểm sau:
+. Tuyệt đại thơ tuyệt cú của Hồ Chí Minh là thơ thất ngôn. Ở thể
thơ này, chữ cuối của câu đầu không gieo vần là biệt lệ nhƣng ở thơ
của Ngƣời, không gieo vần lại là thông lệ. Thống kê mấy chục bài thơ
cuối cùng của tập thơ Ngục trung nhật kí, có thể thấy tỉ lệ này chiếm
đến trên 85%, tức chữ cuối câu đầu hầu hết đều dùng thanh trắc. Vì
sao vậy? Phải chăng giữa hai thanh, Ngƣời “thiên ái” thanh trắc hơn vì
với đặc điểm về cao độ và trƣờng độ, thanh trắc có khả năng diễn đạt
những ý tƣởng mạnh mẽ, rắn rỏi và cả thái độ bất bình phẫn nộ một
cách thuận lợi hơn? Tôi hoàn toàn chia sẻ ý kiến của cố GS. Lê Trí
viễn khi nói về giọng điệu của bài thơ mở đầu Ngục trung nhật kí:
“Thử đọc bài chữ Hán rồi đọc bài dịch mà nghe. Có phải âm điệu khác
nhau khá xa không? Một bên nhƣ có gì khó chịu, bực bội, nếu không
thì cũng nhƣ đang bị ngăn cản, bó buộc. Đây là bài mở đầu một tập
sách, cũng là cảm tƣởng đầu của một giai đoạn trớ trêu, đày đoạ. Phải
thắng cái trớ trêu, đày đoạ này. Cho nên cả sức mạnh con ngƣời dồn
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 185
vào bên trong. Bài thơ vang ngân mà rất kín. Nhƣ rắn lại, đúc lại. Có
ngƣời nói bài thơ này nên khắc vào đá.Có thể nói thêm: Đây là kim
cƣơng. Và nhƣ thế là hợp tình, hợp cảnh, rất hay. Phần lớn điều này
thể hiện ở vần trắc, vần trắc mà dấu nặng. Trong khi đó, bài dịch dùng
vần bằng. Bài thơ thành ra mở, thoáng, chừng nào đó thanh thản. Cái
thế của bài thơ bị đổ mất và sức mạnh giảm đi một phần” (Lê Trí Viễn
– Một đời dạy văn, viết văn. Tập 3. NXB Giáo dục, H, 2006, trang
571). Ở Trung Quốc, khi nói đến việc phá luật bằng cách dùng nhiều
thanh trắc, ngƣời ta thƣờng dẫn câu Hoàng hạc nhất khứ bất phục
phản trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, vì câu thơ chỉ có một
thanh bằng ở đầu câu. Thế nhƣng, trong thơ Bác, ta thấy có những
câu thơ không có thanh bằng nào, nhƣ “Khả thị kháng Mỹ cứu quốc
sự, Hoàn toàn chiếm lĩnh ngã tâm tƣ” (Kí Hoàng Sơn, kì tứ) hay có
câu kéo dài ra 8 chữ trong đó 7 chữ đầu đều thuộc thanh trắc:
“Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành” (3 câu ở trên câu đặc
biệt này đều làm đúng quy định về niêm luật). Hiện tƣợng dùng
thanh trắc ở chữ cuối câu đầu thƣờng gắn liền với phép đối đặt ngay
ở phần trên của bài thơ để diễn đạt một cách có hiệu quả hơn các mối
tƣơng quan, đặc biệt là tƣơng quan đối lập giữa các sự vật, nhƣ hai
câu đầu ở 2 bài sau:
Kí Ni – lỗ (Gửi Nê – ru)
Ngã phấn đấu thì quân hoạt động
Quân nhập ngục thì ngã trú lung
(Lúc tôi phấn đấu anh hoạt động,
Lúc anh hoạt động, tôi ngồi tù)
Dạ bán (Nửa đêm)
Thuỵ thì đô tƣợng thuần lƣơng hán,
Tỉnh hậu tài phân thiện ác nhân.
(Lúc ngủ mọi ngƣời đều có vẻ thuần hậu,
Tỉnh dậy mới phân biệt rõ ngƣời thiện kẻ ác)
186 | GS. Nguyễn Khắc Phi
+ Câu thứ ba thất niêm khá nhiều và ở câu có tính chất bản lề này,
ta đều thƣờng tìm thấy một sự chuyển dịch nào đấy hoặc về mạch cảm
xúc, hoặc về đối tƣợng miêu tả, hoặc về phƣơng pháp biểu đạt…
+ Thơ tuyệt cú Hồ Chí Minh dùng rất nhiều điệp từ, điệp ngữ,
hình thức điệp rất phong phú và tác dụng cũng rất đa dạng. Có không
ít chỗ điệp một từ đến 3 lần chỉ trong một câu. Có bài điệp đến 3 từ
trong đó có từ điệp 5 lần nhƣ Vãn cảnh (điệp chữ “hoa” 5 lần), Trung
thu bài II (điệp chữ “thu” 5 lần). Trong Cảnh vệ đảm trƣ đồng hành
bài I, tác giả đã điệp chữ “nhân” 4 lần, chữ “trƣ” 3 lần để làm nổi bật
sự nhục nhã của con ngƣời khi đã “không có quyền tự chủ”. Bác rất
thích dùng “điệp liên hoàn”, một hình thức xuất hiện rất nhiều trong
Chinh phụ ngâm. Hình thức này không chỉ tăng thêm sức biểu hiện
nội dung cho từng bài, mà xét về mặt giọng điệu của toàn tập thơ, đã
tạo nên một luồng âm thanh nhẹ nhàng, đôi khi tha thiết, cân đối lại
những vần thơ hùng hồn, đanh thép.
Vẫn còn có thể nói thêm về một vài vấn đề khác nhƣ cách sử dụng
đối, song thiết tƣởng với những dẫn chứng nêu trên, ta cũng đủ thấy
sự độc đáo, mạnh dạn trong việc sử dụng một thể thơ truyền thống của
Hồ Chí Minh. Bác không chỉ “thích nghi” đƣợc với nó mà còn vƣợt
qua đƣợc “những thách thức với những luật lệ nghiêm khắc” của nó
để tạo ra những vần thơ của riêng mình, và vì vậy, nếu đem đặt chúng
bên cạnh, thậm chí xen lẫn các bài thơ Đƣờng luật Đƣờng – Tống, chỉ
qua việc vận dụng luật thơ và sử dụng ngôn từ, chúng ta cũng dễ dàng
“phân biệt”.
III. Về bài thơ Khán Thiên gia thi hữu cảm
Để hiểu đúng giá trị của bài thơ này, cần làm rõ vài điều sau đây;
1. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một tuyên ngôn về thơ, thơ
hiện đại, thơ cách mạng của Hồ Chí Minh. Linh hồn của nền thơ ca ấy
là tính chất chiến đấu: Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết. GS. Sử đã
phàn nàn câu thơ dịch “Nay ở trong thơ nên có thép” chƣa lột đƣợc
tinh thần của nguyên bản vì thơ nay chƣa hẳn đã là thơ hiện đại. Song
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 187
đáng phàn nàn nhất là việc dịch thành thơ câu thứ nhất: Cổ thi thiên ái
thiên nhiên mĩ. Bản dịch thơ đầu tiên là “Thơ xƣa yêu cảnh thiên
nhiên đẹp”. Dịch nhƣ vậy là đã bỏ qua từ “thiên”, một từ rất quan
trọng của câu thơ. Bác không hề phê bình bản thân tình cảm yêu thiên
nhiên ở “cổ thi” mà chỉ nêu tình trạng yêu thiên lệch. Do đƣợc góp ý
nhiều, nhất là của GS. Đặng Thai Mai, gần đây có ngƣời dịch lại thành
“Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp” (Suy nghĩ mới về Nhật kí
trong tù. Viện Văn học – NXB Giáo dục. H, 1995, tr.579). Rõ ràng
dịch nhƣ vậy cũng chƣa ổn vì chữ “thƣờng” và cả cụm từ “thƣờng
chuộng” cũng chƣa lột đƣợc tinh thần của chữ “thiên” và “thiên ái”.
Trƣớc mắt cần góp sức dịch cho thật đạt bài thơ này vì tác phẩm
không chỉ cho ta thấy rõ quan điểm văn học của Ngƣời nói chung, mà
còn cho thấy nhận định chính xác, tinh tế về một hiện tƣợng văn học
cụ thể, một di sản văn hoá của nhân loại.
2. Mặc dầu nhận định về “cổ thi” nói chung nhƣ vậy là hoàn toàn
chuẩn xác, song khi diễn giải, truyền đạt quan điểm của Ngƣời, cần
tránh lối nói tuyệt đối, cực đoan, cho rằng có thể vận dụng vào tất cả
các hiện tƣợng văn học cụ thể. Nên nhớ rằng dù Hồ Chí Minh dùng từ
“cổ thi” ngay trong câu đầu nhƣng tên bài thơ là “Khán Thiên gia thi
hữu cảm”, tức đây chỉ là cảm xúc – bình luận sau khi đọc một tập
tuyển thơ cụ thể chứ không phải toàn bộ cổ thi. Bao Công chỉ còn một
bài thơ duy nhất còn lại là Thƣ Đoan Châu quận trai bích (Đề lên
tƣờng thƣ trai ở quận Đoan Châu), trong đó nhà thơ không chỉ so sánh
mình với “thép” mà còn là “thép ròng”(Tinh cƣơng bất tác câu: Thép
ròng chẳng uốn câu!). Một cán bộ trẻ làm luận án về 2 tập thơ Tần
trung ngâm và Tân nhạc phủ của Bạch Cƣ Dị, muốn đặt tên luận án là
“Chất thép trong thơ Bạch Cƣ Dị” song ngại “phạm huý” nên hỏi
tôi.Tôi trả lời: “Nên cân nhắc thêm là “Chất thép” hay “Tính chiến
đấu”, song dùng “Chất thép” cũng không sao vì ít ra trong 2 tập thơ ấy
cũng có “quặng sắt”, và vì nhƣ ta đã biết, lúc làm gián quan, làm thơ
phúng dụ là một hoạt động chính trị của Bạch Cƣ Dị (dĩ nhiên là nhà
thơ vẫn chƣa thể thoát khỏi quan niệm trung quân) và nhiều bài thơ
188 | GS. Nguyễn Khắc Phi
phúng dụ đã gây nên phản ứng quyết liệt của cả triều đình, nhƣ chính
ông đã nhận xét là bọn quan lại đứa thì “mặt biến sắc”, đứa thì “nắm
tay giận dữ”, đứa thì “nghiến răng tức tối”, khi chỉ ra tính chiến đấu
của 2 tập thơ này, đừng quên là đồng thời phải thống kê tất cả hình
ảnh thiên nhiên trong đó có đầy đủ tất cả “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết,
núi, sông” đấy nhé, và quan trọng hơn, còn phải phân tích tác dụng
của những hình ảnh thiên nhiên ấy đã phục vụ cho hoạt động chính trị
của nhà thơ nhƣ thế nào. “Giá một bong hoa thắm, Bằng tiền thuế
mƣời nhà” là có chất “thép” trong “hoa”, ông lão bán than khoác
manh áo mỏng dính đẩy xe nặng hơn nghìn cân trên đƣờng tuyết dày
mấy thƣớc mà vì “sợ than rẻ” nên vẫn “mong trời lạnh cóng”, ấy là có
“thép” trong “tuyết”… Nếu Hồ chí Minh đọc 2 tập thơ phúng dụ nói
trên của Bạch Cƣ Dị và cần ghi cảm tƣởng sau khi đọc, chắc hẳn
Ngƣời sẽ viết khác!
3. Dẫu vậy, nhận định về Thiên gia thi, về cơ bản vẫn có ý nghĩa
phổ quát, vẫn có thể giúp ta trong việc tìm hiểu một đặc điểm của thơ
cổ. Với Thiên gia thi, đặc điểm ấy, có thể nói là nhƣợc điểm ấy, lại thể
hiện nổi bật vì có những lí do cụ thể ta cần phải biết để có nhận định
đúng mức. Thiên gia thi chỉ tuyển những bài thơ Đƣờng luật Đƣờng
Tống và trình bày theo trình tự các tiểu loại. Nhìn chung, trong lịch sử
thơ ca Trung Quốc, những bài thơ có ý nghĩa xã hội – chính trị tiêu biểu
nhất nhƣ Trƣờng hận ca, Tỳ Bà hành, Binh xa hành, Tam lại, Tam
biệt… đều viết theo thể cổ thi vì thiên bức không hạn chế, không bị
ràng buộc bởi những luật lệ ngặt nghéo. Tuyệt đại bộ phận thơ viết về
chủ đề thiên nhiên dều sử dụng thể Đƣờng luật.Thiên gia thi là tập thơ
soạn cho trẻ học, lại càng khó đƣa vào những bài dài viết về các chủ đề
xã hội. Trong hơn 200 bài trong thiên gia thi chỉ có 3 bài cuối cùng là
viết về chủ đề xã hội, Không chỉ thế, khi sắp xếp các bài, ngƣời tuyển
chọn còn sắp xếp theo thứ tự “Mùa”. Chẳng hạn trong phần “thất
tuyệt”, những bài đƣợc tuyển nhiều là “Xuân”, tiếp đó là “Thu” (vì Hạ
và Đông khó gây cảm hứng thơ chăng?) nhƣng về trình tự thì tuyệt đối
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 189
theo thứ tự Xuân – Hạ - Thu – Đông. Với một ý đồ soạn sách nhƣ vậy,
với việc lựa chọn thể thơ nhƣ vậy và bố cục nhƣ vậy thì khuynh hƣớng
“thiên ái thiên nhiên mĩ” lại càng thể hiện một cách nổi bật.
4. “Chất thép” hiển nhiên là phẩm chất ƣu tú của thơ ca cách
mạng song không phải là toàn bộ mọi phẩm chất, cho nên “chất thép
trong thơ” là khác với “thơ thép”, từ rất xƣa, ngƣời ta đã nói “thi ngôn
tình”, “thi ngôn tình”, nói nhƣ Bạch Cƣ Dị, “Căn tình, miêu ngôn, hoa
thanh, thực nghĩa” (“Gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm
thanh, quả là ý nghĩa). Xét cho cùng, chất thép là một biểu hiện đặc
thù của cái tình trong những mối quan hệ xã hội – chính trị. Bởi vậy,
tôi không thú vị khi thấy một nhà thơ lớn của nƣớc ngoài đã kết thúc
bài viết của mình về thơ của Bác nhƣ sau: “Chúng ta hãy hô to: “Tinh
thần thép muôn năm! Văn nghệ thép và thơ ca thép muôn năm!”. Ở
Việt Nam, học giả Trƣơng Chính cũng là ngƣời đầu tiên phản ứng với
lối nhận định này. Tôi rất thích nhiều bài thơ và nhiều câu thơ của anh
Hoàng Trung Thông nhƣng xin nói thực là không thích 2 câu “Vần
thơ của Bác vần thơ thép, Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”. Tại sao
lại dùng quan hệ từ “Mà vẫn” giữa 2 câu thơ nhƣ thế! Đọc 2 câu này,
tôi bất chợt nghĩ tới 2 câu đầu của Đại cáo bình Ngô: “Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt chỉ lo trừ bạo” Lòng “nhân
nghĩa”, tình yêu thƣơng dân, mà trong hoàn cảnh bấy giờ là đồng nhất
với lòng yêu nƣớc “mênh mông bát ngát”, chính là cái gốc, cái nguyên
nhân tạo nên cái chất “thép” của cả đân tộc để quyết tâm “trừ bạo”
5. Không chú ý đúng mức cái tình mênh mông của Bác, trong đó
có cả tình yêu thiên nhiên sâu lắng thì rất dễ đi đến những cách giải
thích khiên cƣỡng nhiều bài thơ rất hay của Bác, nhất là những bài
viết về thiên nhiên.
Sách giáo khoa có dạy bài Tảo giải. Chọn nhƣ vậy là đúng vì đây
là một trong những bài thơ hay nhất của Bác, Tuy nhiên, về văn bản
thì có vấn đề. Mọi sự rắc rối đều bắt đầu từ bản dịch đầu tiên. Viện
Văn học và nhà thơ Nam Trân đã có công rất lớn trong việc dịch thơ
Bác. Có một vài chữ các dịch giả đã đề nghị Bác cho chỉnh lại, nhƣng
190 | GS. Nguyễn Khắc Phi
chữ Tảo trong bài “Tảo giải” thì chƣa. Theo anh Nam Trân, trong câu
“U ám tàn dƣ tảo nhất không” ở bài thơ này, Bác đã viết nhầm chữ
“tảo” nghĩa là “quét” thành chữ “tảo” nghĩa là “sớm” và cho rằng
dùng “tảo” nghĩa là “quét”, ý thơ sẽ mạnh hơn (nghĩa là có chất “thép”
hơn chăng?). Qua góp ý cua một số ngƣời, tất cả các bản in hiện nay
đều đã phục nguyên, nghĩa là dùng lại chữ “tảo” nghĩa là “sớm” nhƣ
cũ, nhƣng có điều lạ là ở những bản in của các NXB có uy tín nhất
nhƣ NXB Chính trị Quốc gia hay NXBGD Việt Nam, các ngƣời biên
soạn, trong chú thich vẫn bày tỏ sự băn khoăn và nghi ngờ, cho rằng
dùng chữ “tảo” là “quét” vẫn “hợp lí hơn”, “hay hơn”. Trong bài Về
những cách hiểu khác nhau đối với một câu thơ trong Ngục trung nhật
kí đăng ở Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thƣ (số 5, tháng 9, năm
2012), tôi đã căn cứ vào nhiều tƣ liệu và nhiều lập luận để chứng minh
rằng Bác không hề viết nhầm chữ này và dùng “tảo” nghĩa là “sớm”
thì lời thơ tự nhiên hơn và ý thơ cũng hám súc, sâu sắc, mạnh mẽ hơn
rất nhiều.
Cũng với thiên hƣớng muốn làm cho ý thơ của Bác “mạnh hơn”,
trong khi dịch thơ Bác nhiều khi nguyên văn đã không thật đƣợc tôn
trọng và ngƣời dịch chƣa hiểu rằng, trong việc dịch thơ cổ điển, dịch
“thêm chữ” nhiều khi là “bớt nghĩa”. Chẳng hạn, để dịch câu thứ 2 của
bài Thƣớng sơn, ngƣời dịch nào cũng muốn cho Bác đứng ở chỗ thật
cao (bằng cách thêm chữ “đỉnh”) mà quên mất rằng, ở bài này, nếu
làm đột xuất “độ cao” về “không gian” là làm nhoè mất yếu tố “thời
gian”, thời điểm cách mạng đã đến gần (“Ngảng đầu mặt trời gần”) và
“tầm cao” về tƣ tƣởng và “tầm nhin” của Bác. Tôi đã trình bày kĩ
những luận điểm này ở một bài báo đăng ở Tạp chí Thơ của Hội Nhà
văn, số 5/ 2011 và Tạp chí Thông tin các vấn đề lí luận, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, số 9/ 2013
6. Bác nhấn mạnh một nhƣợc điểm của “cổ thi” không có nghĩa
là Bác không đánh giá cao nó, không tiếp thu đƣợc gì từ đó. Trong
Di chúc, Ngƣời chỉ nhắc đến 3 tên riêng: Mác, Lê nin, Đỗ Phủ và
khẳng định Đỗ Phủ là nhà thơ “rất nổi tiếng” ở đời Đƣờng. Không
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 191
chỉ dùng thể thơ Đƣờng luật để sáng tác, bác còn tiếp thu nhiều
phƣơng diện khác nhƣ ngữ liệu, điển tích, cấu tứ,…mà nhiều nhà
nghiên cứu đã chỉ ra.
Về phƣơng diện này, xin đƣợc lƣu ý ba điểm:
a. Nhiều ngƣời nói đến “âm vang thơ Đƣờng” trong thơ Bác, điều
đó không sai song cần phân biệt thơ Đƣờng và thơ Tống, Bác tiếp thu
nhiều điều từ thơ Đƣờng nhƣng cũng không ít từ thơ Tống, từ Chu Hi,
Trình Hạo, Phạm Trọng Yêm, Khấu Chuẩn…Trong phần chính của
Thiên gia thi là “thất tuyệt”, số lƣợng thơ Tống áp đảo thơ Đƣờng (2
bài khuyết danh, 55 bài thơ Tống, thơ Đƣờng chỉ có 37 bài). Không
chỉ thế, rất nhiều bài miêu tả những sinh hoạt bình dị của ngƣời lao
động Trung Hoa gợi cho ta liên tƣởng tới nhiều bài thơ Tống chứ
không phải thơ Đƣờng.
b. Bác chỉ ra “cổ thi” “thiên ái” cái đẹp của thiên nhiên nhƣng
chính “yêu thiên nhiên” là một trong những tình cảm lớn của Ngƣời.
Tình cảm thiên nhiên ở thơ Bác giống và khác tình cảm thiên nhiên
trong thơ Đƣờng nhƣ thế nào, không ít ngƣời đã chỉ ra, nhƣng đó vẫn
còn là vấn đề cần làm rõ thêm và phân tích sâu hơn. Haiku cũng là sản
phẩm của thơ ca trung đại phƣơng Đông, nhƣng chỉ nêu lên vài điểm
ở trên, ta đã thấy thiên nhiên ở đó khác với thiên nhiên ở thơ Đƣờng
biết dƣờng nào. Ngoài việc so sánh với tình cảm thiên nhiên trong thơ
Đƣờng, ta cần phải liên hệ với cả tình cảm thiên nhiên trong thơ ca cổ
điển Việt Nam và cả tƣ tƣởng về vũ trụ, về triết lí nhân sinh của các
tác giả tiền bối của Việt Nam nữa. Đọc bài Cảnh khuya Bác sáng tác ở
Việt Bắc, ta không thể không liên hệ với 4 câu thơ rất nổi tiếng trong
Chinh phụ ngâm: “Hoa dãi nguyệt nguyệt in từng tấm…”. Cả hai đều
có hình ảnh trăng và hoa lồng vào nhau, nhƣng ở Chinh phụ ngâm
cảnh chỉ có 2 tầng, trong thơ Bác có đến 3 tầng, hơn thế, không chỉ có
trăng, hoa mà còn có cả “suối trong”, “cổ thụ”, đặc trƣng của núi rừng
Việt Bắc, không chỉ có hoạ mà còn có cả “nhạc”. Không phải ngẫu
nhiên, cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng, một chiến hữu rất gần gũi với
192 | GS. Nguyễn Khắc Phi
Bác, đã nói: “Hai ngƣời bạn đời luôn luôn cùng sống với Bác là con
ngƣời và thiên nhiên.” Và khi nói tới tình cảm thiên nhiên của Bác,
Phạm Văn Đồng đã nhắc tới 2 câu thơ của Nguyễn Công Trứ:
Gió trăng chứa một thuyền đầy
Của kho vô tận biết ngày nào vơi
Và kết luận: “Hai câu thơ từ hàng trăm năm trƣớc rất phù hợp
với khung cảnh sống và lối sống của Hồ Chí Minh, thể hiện nguyện
vọng và xu hƣớng của cuộc sống văn minh chân chính” (Hồ Chí
Minh một con ngƣời một dân tộc một thời đại một sự nghiệp, NXB
Sự Thật, H, 1990. trang 72 – 73)
c. Chắc chẳng có ngƣời Mĩ nào dám nói và muốn nói răng “Haiku
là một thể thơ dân tộc” của Mỹ hay Pháp, dù thơ Haiku đã du nhập vào
2 nƣớc này từ lâu, song với thể thơ Đƣờng luật, tôi không hề muốn nói
đó là một thể thơ ngoại nhập mà đã không ít lần khẳng định dứt khoát
rằng đó là một thể thơ dân tộc có nguồn gốc ở ngoài đã đƣợc dân tộc
hoá triệt để. Trong một cuộc Hội thảo tính dân tộc trong âm nhạc do Bộ
Văn hoá tổ chức cách đây hơn nửa thế kỉ có đồng chí Trƣờng Chinh
tham dự, anh Đỗ Nhuận đã phát biểu một ý kiến rất hay mà tôi còn nhớ
mãi: “Tính dân tộc là cái gì đó mang tính ổn định nhƣng đồng thời
trong đó cũng luôn có những mặt thay đổi, biến hoá. Có một số yếu tố
vốn là của dân tộc nhƣng qua thời gian trở nên lỗi thời và sẽ mất đi,
song lại có những yếu tố ngoại lai, sau khi du nhập do hợp với thuỷ thổ
đã trở thành của dân tộc. Tempo Di Marcia là nhạc du nhập từ phƣơng
Tây nhƣng không thể gọi Hành quân xa của tôi là nhạc Tây!”. Bởi vậy,
trong cuộc Hội thảo hôm nay, trong thành phần Ban Tổ chức, tôi đặc
biệt hoan nghênh sự có mặt của Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát
huy Văn hoá dân tộc. Con ngƣời Việt Nam đã có ý thức và đã biết từng
bƣớc dân tộc hoá thể thơ Đƣờng luật từ thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, và đến thời hiện đại, việc Bác Hồ sử dụng một cách sáng tạo
thể thơ đó là một cột mốc sáng chói. Trên dây là một số luận điểm tôi
đã triển khai trong một bài viết sẽ đƣợc đăng tải nay mai: Định vị Thơ
Đƣờng luật trong lịch sử văn học dân tộc.
NKP
THƠ ĐƯỜNG LUẬT CHỮ HÁN CÛA
CHÛ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Nguyễn Minh San
Tạp chí Văn hiến Việt Nam
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng Nho học (thân phụ đỗ
Phó bảng), ngay từ nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đƣợc học chữ Hán
một cách cơ bản trong trƣờng học ở Kinh đô Huế, thƣờng xuyên đƣợc
tiếp xúc, nghe các cuộc đàm đạo văn thơ, trong đó chủ yếu là thể thơ
Đƣờng luật - một thể thơ của Trung Quốc du nhập vào nƣớc ta từ
nghìn năm trƣớc - của những bậc túc Nho, giỏi văn thơ, chữ nghĩa, có
chí khí cách mạng và tƣ tƣởng thân dân ở Kinh thành. Với trí thông
minh thiên bẩm, có thể khẳng định, Hồ Chí Minh đã lĩnh hội đƣợc cái
hay, cái đẹp cũng nhƣ những yêu cầu nghiêm ngặt của thể thơ Đƣờng
luật. Để rồi, cái vốn tri thức ấy nhƣ những đốm lửa hồng chỉ chờ một
ngọn gió là thổi bùng lên thành những ngọn lửa rực hồng của sáng tạo
thi ca trong Hồ Chí Minh. Và, ngọn gió ấy đã thổi. Đó là khi Hồ Chí
Minh dấn thân vào con đƣờng hoạt động cách mạng với bao gian khổ,
tù đày để thành lập Đảng tiên phong, lãnh đạo đất nƣớc làm Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh nƣớc Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Và, mặc dù “Ngâm thơ ta vốn không ham….”, nhƣng
trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời một di sản thơ
Đƣờng luật khá lớn, với nội dung thấm đẫm tƣ tƣởng nhân văn, và thể
hiện sự tìm tòi, sáng tạo trong vận dụng/sử dụng thể thơ Đƣờng luật.
Không chỉ làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, mà còn làm thơ
Đƣờng luật bằng cả chữ Quốc ngữ - chữ viết của ngƣời Việt Nam.
Điều quan trọng là, dù thể hiện bằng ngôn ngữ nào, thơ Đƣờng luật
194 | TS. Nguyễn Minh San
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ đƣợc những yêu cầu cơ bản, khắt
khe của thể thơ này và chuyển tải đƣợc tâm hồn, cốt cách của một nhà
thơ hiện đại, cách mạng Việt Nam. Trong khuôn khổ một tham luận,
tôi chỉ xin đi vào tìm hiểu di sản thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ
Chí Minh.
1. Tổng quan về di sản thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Chủ
tịch Hồ Chí Minh
1.1. Thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm ở Việt Nam
Bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán làm ở Việt Nam đầu tiên của
Hồ Chí Minh là bài Thƣợng Sơn (Lên núi), làm ngày 24/6/1942, tại
Lũng Dẻ, tỉnh Cao Bằng. Thời gian này, Hồ Chí Minh đang chuẩn bị
cho chuyến đi Trung Quốc – chuyến đi mà Ngƣời đã bị Quốc dân
Đảng Trung Quốc bắt và giam giữ từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu
năm 1943. Bài thơ nhƣ sau:
Lục nguyệt nhị thập tứ,
Thƣớng đáo thử sơn lai.
Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai.
Dịch thơ (Tố Hữu dịch):
Hai mƣơi tƣ tháng sáu,
Lên ngọn núi này chơi.
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai”.
Sau bài thơ này, phải hơn 5 năm sau, vào đầu năm 1948, Ngƣời
mới tiếp tục làm thơ theo thể Đƣờng luật bằng chữ Hán ngay trên Tổ
quốc mình. Đó là bài Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng):
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 195
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Dịch thơ (Xuân Thủy dịch):
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nƣớc lẫn màu trời thêm xuân,
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Trong năm 1948, Hồ Chí Minh còn làm 4 bài thơ Đƣờng luật bằng
chữ Hán trong thời gian Ngƣời hoạt động ở Việt Bắc, là: Báo tiệp (Tin
thắng trận, viết năm 1948), Tặng Bùi Công (tặng cụ Bùi Bằng Đoàn,
viết năm 1948); Thu dạ (Đêm thu) viết năm 1948; Tặng võ công
(19948). Từ năm 1950 cho đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp
thắng lợi, năm 1954, Hồ Chí Minh làm 8 bài thơ thể Đƣờng luật bằng
chữ Hán ở Việt Nam, là: Vô đề (Không đề) viết năm 1950; Tƣ chiến sĩ
(Nhớ chiến sĩ), viết năm 1950; Đối nguyệt (Đối trăng) viết năm 1950;
Đăng sơn (Lên núi) viết năm 1950; Thất cửu (Sáu mƣơi ba tuổi), viết
năm 1953; Tầm hữu vị ngộ (Tìm bạn không gặp) viết năm 1954.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnev về lập lại hòa
bình ở Việt Nam đƣợc ký kết, miền Bắc đƣợc hƣởng hòa bình, tự do,
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Song, bẵng đi một thời gian dài, khoảng trên
dƣới 14 năm, Hồ Chí Minh không làm một bài thơ Đƣờng luật chữ
Hán nào ở Việt Nam. Mãi đến tháng 3 năm 1968, Hồ Chí Minh mới
viết liền hai bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, là: Nhị vật (Hai chớ) và
Vô đề (Không đề). Đó là hai bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán cuối
cùng của Hồ Chí Minh làm ở Việt Nam.
Nhƣ vậy, di sản thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm ở
Việt Nam có tổng cộng 13 bài.
1.2. Thơ Đường luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm trên đất
Trung Quốc
Hồ Chí Minh làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán trên đất Trung
Quốc trong 2 trƣờng hợp: Thứ nhất, Hồ Chí Minh làm trong hoàn
196 | TS. Nguyễn Minh San
cảnh bị tù đầy trong nhà lao của Tƣởng Giới Thạch; Thứ hai, Hồ Chí
Minh làm khi là Thƣợng khách của Đảng và Nhà nƣớc Trung Quốc.
1.2.1. Thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm trong hoàn
cảnh bị tù đầy trong nhà lao của Tƣởng Giới Thạch.
Tháng 8 năm 1942, thay mặt Trung ƣơng Đảng với tƣ cách “Đại
biểu dân Việt Nam” lấy tên là Hồ Chí Minh, Bác sang Trung Quốc để
liên lạc với các lực lƣợng cách mạng của ngƣời Việt Nam tại đó. Vừa
qua biên giới, Bác đã bị chính quyền địa phƣơng của Tƣởng Giới
Thạch bắt và giam cầm hơn 1 năm trong các nhà tù của Tƣởng Giới
Thạch trên đất Trung Quốc.
“Trang” Nhật ký trong tù đầu tiên bằng thơ theo thể Đƣờng luật
bằng chữ Hán đƣợc Hồ Chí Minh “ngâm” vào ngày 29/8/1942, khi
lính Tƣởng tống Hồ Chí Minh vào nhà lao huyện Tĩnh Tây (đây là nhà
lao đầu tiên trên đất Trung Quốc giam giữ Hồ Chí Minh), là bài “Nhập
Tĩnh Tây huyện ngục” (Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây):
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thƣợng tình vân trục vũ vân;
Tình, vũ phù vân phi khứ liễu,
Ngục trung lƣu trú tự do nhân.
Dịch thơ:
Trong lao tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mƣa;
Mây mƣa, mây tạnh bay đi hết,
Còn lại trong tù khách tự do.
“Trang” Nhật kỳ trong tù cuối cùng, cũng đƣợc Hồ Chí Minh viết
bằng thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, ngày 10/9/1943 cũng là ngày cuối
cùng Hồ Chí Minh bị giam cầm, sau này khi làm sách, bài này lấy đặt
tiêu đề là bài Kết luận:
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 197
Hạnh ngộ anh minh Hầu Chủ nhiệm,
Nhĩ kim hựu thị tự do nhân;
Ngục trung nhật ký tong kim chỉ,
Thâm tạ Hầu công tái tạo ân.
Dịch thơ:
Sáng suốt, nhờ ơn Hầu Chủ nhiệm,
Tự do trở lại với ta rồi;
Ngục trung nhật ký từ đây dứt,
Tái tạo ơn sâu, cảm tạ ngƣời.
Trong khoảng thời gian từ ngày 29/8/1942 đến ngày 10/9/1943/vị
chi khoảng 12 tháng rƣỡi bị giam cầm, giải tới giải lui hết nhà lao này
đến nhà tù khác ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã phải “ngâm”/ phải
làm/ phải viết tổng cộng 109 bài nhật ký bằng chữ Hán theo thể thơ
Đƣờng luật.
1.2.2. Thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm khi là Thƣợng
khách của Đảng CS Trung Quốc và Nƣớc CHND Trung Hoa.
Nếu hoàn cảnh làm thơ nói theo Hồ Chí Minh là “ngâm thơ” Nhật
ký trong tù của Hồ Chí Minh là bắt buộc, Hồ Chí Minh làm tới 109
bài, thì bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán đầu tiên trên đất Trung Quốc
khi Ngƣời đƣợc trả tự do là bài: “Tân xuất ngục học đăng sơn” (Mới
ra tù, tập leo núi):
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm nhƣ kính tịnh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh,
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
Dịch thơ:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gƣơng sáng bụi không mờ;
Bồi hồi dạo bƣớc Tây Phong lĩnh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xƣa.
198 | TS. Nguyễn Minh San
Sau khi thoát khỏi ngục tù Tƣởng Giới Thạch (sau ngày
10/9/1943), Hồ Chí Minh còn ở lại trên đất Trung Quốc mấy tháng,
song Ngƣời không làm một bài thơ nào.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công, Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng
hòa, lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, rồi công
cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nƣớc, trên cƣơng vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nƣớc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều chuyến đi thăm và đi nghỉ dƣỡng
bệnh ở Trung Quốc theo lời mời của lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc
Trung Quốc. Trong bối cảnh mới, tƣ cách là Thƣợng khách, trên đất
Trung Quốc, hầu nhƣ đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có thơ
vịnh cảnh bằng chữ Hán theo thể thơ Đƣờng luật để tặng cho những
nơi có danh lam thắng cảnh đó. Trong di sản thơ này, có thể kể đến
các bài sau: “Quá Hồ Bắc” (làm ngày 12/3/1950, khi Bác đi qua tỉnh
Hồ Bắc, nhìn thấy đồng lúa xanh); “Thập tam tảo quá Trƣờng Sa”
(làm ngày 13/3/1950); “Cận Long Châu” (Long Châu, một huyện của
tỉnh Quảng Tây), làm ngày 19/3/1950; “Vạn Lý Trƣờng Thành” (làm
ngày 6/7/1955, ghi lại cảm tƣởng về công trình vĩ đại Vạn Lý Trƣờng
Thành); Phong cảnh Quế Lâm (làm tháng 5/1961); “Vịnh Thái Hồ”
(làm ngày 17/5/1961, khi Bác ngồi thuyền du ngoạn Thái Hồ - một
thắng cảnh gồm 91 hòn đảo, thuộc Tây Hồ, tỉnh Giang Tô); “Phỏng
Khúc Phụ” (Thăm Khúc Phụ), làm ngày 19/5/1965, khi Bác Hồ thăm
Khúc Phụ, quê Khổng Tử;…
Trong những lần sang thăm và nghỉ dƣỡng ở Trung Quốc, không
ít lần, lãnh đạo Trung Nam Hải cũng đã làm thơ tặng Bác. Nhận đƣợc
thơ tặng, bao giờ Bác cũng làm thơ họa/tặng lại. Ví nhƣ, trong chuyến
Bác đi nghỉ dƣỡng từ ngày 21/5 đến ngày 8/6/1965, ở Hoàng Sơn -
khu du lịch và điều dƣỡng nổi tiếng ở tỉnh An Huy, Trung Quốc. Cùng
đi với Ngƣời có đồng chí Đổng Tất Vũ - Phó Chủ tịch nƣớc CHND
Trung Hoa. Tại Nhà khách của Hoàng Sơn, Phó Chủ tịch Đổng làm
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 199
bài thơ Thất ngôn “Từ giã Hoàng Sơn” (gồm 4 khổ) tặng Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Ngay lập tức Bác viết chùm thơ bằng chữ Hán “Hoàng Sơn
nhật ký lục thủ” (Dịch: Hoàng Sơn nhật ký, 6 bài) tặng Phó Chủ tịch
Đổng. Chùm thơ 6 bài thể Tứ tuyệt, thất ngôn. Bài 1, Bác ca ngợi
Hoàng Sơn công xã nhiều trà, vị trà dịu mát, đậm hƣơng; Bài 2, Bác
ca ngợi các cháu thiếu nhi ở Hoàng Sơn thật là ngoan, tình cảm quí
mến Bác Hồ; bài 3, Bác ca ngợi cảnh núi Hoàng Sơn rất đẹp, đêm
nghe tiếng suối, hòa tiếng chim; bài 5, Bác ca ngợi tỉnh An Huy, nơi
nuôi dƣỡng các hào kiệt Tân Tứ quân, ca ngợi công nhân An Huy; bài
6, Bác ca ngợi địa phƣơng đã đón tiếp Bác chân tình. Đáng chú ý là
bài thứ 4, Bác viết:
“Đổng công tặng ngã dĩ trƣờng thi,
Ngã dục tác thi phụng họa thi.
Khả thị kháng Mỹ cứu quốc sự,
Hoàn toàn chiếm lĩnh ngã tâm ti (tƣ)
Dịch thơ:
Cụ Đổng tặng tôi bài thơ dài,
Tôi muốn làm thơ họa lại Ngƣời.
Nhƣng việc nƣớc nhà đang chống Mỹ,
Hoàn toàn chiếm trọn trái tim tôi”.
(Bản dịch của Phan Văn Các)
2. Mấy nhận xét về thơ Đường luật bằng chữ Hán của Chủ tịch
Hồ Chí Minh
2.1. Là ngƣời học chữ Hán từ nhỏ, lại có tâm hồn thi ca, nên Hồ
Chí Minh làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán nhƣ các nhà thơ ở quê
hƣơng của thể thơ này là điều không khó khăn lắm. Trong cuộc đời
hoạt động cách mạng trƣớc khi lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công cũng nhƣ trong thời kỳ lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhiều lần đến Trung Quốc, có nhiều năm sống và hoạt động
trên đất Trung Quốc. Từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc với tên Lý Thụy,
200 | TS. Nguyễn Minh San
đã đến Quảng Châu, làm phiên dịch cho phái đoàn Cố vấn Chính phủ
Liên Xô. Tại đây, Bác đã bắt đầu bắt liên lạc với những ngƣời yêu
nƣớc Việt Nam. Năm 1939, Bác đã ở Văn phòng Bát lộ quân Trùng
Khánh, tại thôn Hồng Nham, thành phố Trùng Khánh. Đầu năm 1940,
Bác đã đến thăm một số cơ sở cách mạng ở nhà ga xe lửa Khai Viễn ở
Vân Nam. Đầu tháng 3 năm 1940, Bác đã sống ở Côn Minh, tỉnh Vân
Nam (trong nhà vợ chồng ông Tống Minh Phƣơng, một Việt kiều yêu
nƣớc). Tháng 4 năm 1941, Bác đã nhiều lần đi lại Tĩnh Tây, tỉnh
Quảng Tây,…Nhƣng trong suốt thời gian dài gần 20 năm này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh không làm một bài thơ thể Đƣờng luật bằng chữ
Hán nào. Mãi đến ngày 24/6/1942, khi đã 52 tuổi, Ngƣời mới làm bài
thơ Đƣờng luật đầu tiên bằng chữ Hán, bài Thƣợng Sơn (Lên núi), đã
nói đến ở trên.
Qua di sản thơ Đƣờng luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta thấy số
lƣợng bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh khá lớn.
Chỉ tính trong tuyển tập Hồ Chí Minh – thơ Tứ tuyệt (Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2007) do GS Hà Minh Đức tuyển chọn và giới thiệu, cả tập có
131 bài, thì có tới 124 bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, chỉ có 7 bài
là thơ Đƣờng luật bằng chữ Quốc ngữ. Và, trong di sản thơ Đƣờng
luật viết bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh, số bài thơ Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm trên đất Trung Quốc nhiều hơn số bài thơ Hồ Chí Minh làm
ở Việt Nam. Cụ thể, trong tuyển thơ Hồ Chí Minh – thơ Tứ tuyệt nhắc
đến trên đây, trong số 124 bài thơ Tứ tuyệt in trong tập này, chỉ có
13/124 bài Chủ tịch Hồ Chí Minh làm khi ở Việt Nam/trên đất Việt
Nam, còn đa số bài (111/124) Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trên đất
Trung Quốc. Và, trong số 111 bài thơ Đƣờng luật làm bằng chữ Hán
trên đất Trung Quốc ấy, tuyệt đại đa số Hồ Chí Minh làm bắt buộc
“nhƣng mà trong ngục biết làm chi đây” khi ở trong nhà tù của Trung
Quốc (109/111 bài).
Điều đó cho thấy, không phải lúc nào và ở đâu Hồ Chí Minh cũng
sử dụng chữ Hán, cũng làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán. Hồ Chí
Minh chỉ làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán trong 2 trƣờng hợp.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 201
Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn chữ Hán làm thể thơ
Đƣờng luật những khi cần gửi gắm/ thể hiện những ý tƣởng sâu xa về
cách mạng, những nhận định, đánh giá về sự vật, hiện tƣợng hoặc khi
cần bộc lộ/bày tỏ cảm xúc, ý chí của mình trƣớc con ngƣời và thiên
nhiên. Nói cách khác, Hồ Chí Minh chọn chữ Hán và thể thơ Đƣờng
luật để làm thơ trữ tình/tự sự. Với yếu tính cô đọng, hàm súc của chữ
Hán và yêu cầu niêm luật chặt chẽ của thể thơ Đƣờng luật sẽ là
phƣơng tiện chuyển tải tốt nhất yêu cầu của thơ trữ tình/ tự sự trên đây
của nhà thơ. Trƣờng hợp làm thơ này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đúng
với cả những bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán làm trên đất Trung
Quốc và trên đất Việt Nam. Và cũng cho thấy rất ít khi Chủ tịch Hồ
Chí Minh làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán khi ở Việt Nam, và giải
thích vì sao thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán làm ở Việt Nam ít hơn
nhiều số bài thơ cùng loại làm trên đất Trung Quốc.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn/ sử dụng chữ Hán và/ để làm
thơ thể Đƣờng luật trong bối cảnh Ngƣời phải cần đến ngôn ngữ này,
cần đến thể thơ Đƣờng luật này để che mắt địch, để đấu tranh với
ngoại cảnh, để chiến thắng bản thân, vƣợt lên sự hà khắc của nhà tù
Trung Quốc khi Ngƣời bị cầm tù; Và, trong bối cảnh Ngƣời phải cần
đến ngôn ngữ này, cần đến thể thơ Đƣờng luật này, cần phải vận dụng
tất cả sự hiểu biết Hán học của mình, phải vận dụng tri thức, hiểu biết
văn hóa và con ngƣời Trung Quốc để làm công tác đối ngoại với Nƣớc
Bạn, với các Đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, với nhân
dân Trung Quốc, khi Ngƣời là Thƣợng khách của Trung Quốc.
Ngoài tiếng mẹ đẻ, Hồ Chí Minh giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, …,
nhƣng khi ở trên đất Trung Quốc, Ngƣời biết rõ lợi thế của việc sử
dụng những ngôn ngữ bản địa để làm việc, đặc biệt là làm thơ, thì mới
dễ dàng trong công việc và nhận đƣợc sự trân trọng, đánh giá cao của
nƣớc sở tại. Hồ Chí Minh không thể không biết trong lịch sử ngoại
giao Việt Nam – Trung Quốc thời phong kiến, khi sứ giả Việt Nam
qua Trung Quốc, hoặc khi sứ giả Trung Quốc sang Việt Nam, ngƣời
Trung Quốc thƣờng cậy mình là quê hƣơng Nho học, coi thƣờng sứ
202 | TS. Nguyễn Minh San
giả các nƣớc, thƣờng khoe tài làm thơ, ra câu đối thách sứ giả Việt
Nam đối thơ, đối chữ. Nếu sứ giả không đối thơ, đối chữ đƣợc, là làm
thấp uy tín quốc gia. Vì thế, các triều đại phong kiến nƣớc ta bao giờ
cũng chọn những ngƣời, ngoài lòng yêu nƣớc, sự trung thành với triều
đình, có sức khỏe, thì phải giỏi chữ nghĩa (Hán), giỏi ứng phó, tài làm
thơ, câu đối. Và, những ngƣời đƣợc cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc
chƣa bào giờ làm sỉ nhục nƣớc nhà. Đồng thời, là một nhà cách mạng,
một chiến sĩ quốc tế đấu tranh cho hòa bình thế giới, Hồ Chí Minh hiểu
rất rõ tâm lý dân tộc, và sức mạnh của vũ khí ngôn ngữ bản địa khi
mình sống và hoạt động ở nƣớc ngoài. Vì thế, khi ở Trung Quốc, dù là
thân phận ngƣời tù đầy, hay khi là Thƣợng khách của Đảng và Nhà
nƣớc Trung Hoa, chữ Hán đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng triệt để
và vô cùng hữu hiệu nhƣ một công cụ hỗ trợ đắc lực, mang lại hiệu quả
cao trong hoạt động cách mạng trên đất Trung Quốc, trong đấu tranh
đòi tự do cho mình và trong ngoại giao. Tất cả, không phải để khoe văn
hay chữ tốt của mình, nhằm đề cao mình mà, tất cả đều nhằm đề cao tài
năng, khí phách con ngƣời Việt Nam. Tất cả, với Hồ Chí Minh, chỉ xem
nó nhƣ một phƣơng tiện, một công cụ để Ngƣời đạt đến mục đích cao
cả của mình.
Thơ Đƣờng là di sản văn hóa, niềm tự hào của Trung Quốc. Ngay
ở Trung Quốc, không phải nhà thơ nào cũng có thể làm thơ Đƣờng
luật. Vì thế, những ai làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, đặc biệt là
ngƣời nƣớc ngoài đều đƣợc trân trọng, vị nể. Hồ Chí Minh đã làm cho
ngƣời Trung Quốc, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trí thức, văn nghệ
sĩ kính trọng, nể phục về trình độ Hán ngữ và am hiểu văn hóa, phong
tục Trung Hoa; trong đó, đỉnh cao là làm thơ Đƣờng bằng chữ Hán,
mà tiêu biểu cho di sản văn hóa này là Nhật ký trong tù. Khi bị tù đầy
trong nhà lao của Tƣởng Giới Thạch, dù chịu vô vàn khổ cực cả tinh
thần và thể xác, Hồ Chí Minh tự nhủ, cũng là tự xác định với mình:
“Thân thể ở trong lao/Tinh thần ở ngoài lao/Muốn nên sự nghiệp
lớn/Tinh thần càng phải cao”. Đó là tinh thần vô cùng kiên định, tinh
thần lạc quan cách mạng, không kể gì hiểm nguy, không kể gì sống
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 203
chết, tinh thần bay bổng trong trời đất cách mạng bao la, thở cùng
một nhịp, cùng chung mạch máu với nhân dân, kiên quyết tin tƣởng
sự nghiệp cách mạng của nhân dân nhất định thắng lợi. Điều ấy toát
ra từ những câu, chữ ý nhị, hóm hỉnh, trào phúng chan chứa trong tất
cả hơn một trăm bài thơ của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã lấy tai
nạn, khó khăn gian khổ trong tù để rèn luyện bản thân: “Nghĩ mình
trong bƣớc gian truân/Tai ƣơng rèn luyện tinh thần thêm hăng”. Nhờ
“vừa ngâm/thơ, vừa đợi”, Ngƣời đã vƣợt qua hết thảy, đến đƣợc với
ngày tự do.
Chính vì vậy, ngƣời Trung Quốc khâm phục, đánh giá cao trình
độ Hán văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khâm phục, đánh giá cao thơ
Đƣờng luật của Ngƣời. Ngay từ năm 1956, trƣớc khi Nhật ký trong tù
đƣợc dịch ra tiếng Việt và xuất bản ở Việt Nam năm 1961, nhà thơ lớn
của Trung Quốc là Viên Ƣng đã viết về tập thơ Nhật ký trong tù:
“Trong tập sách nhỏ gồm hơn một trăm ba mƣơi bài thơ cổ Trung
Quốc không những chúng ta đƣợc thấy lại bộ mặt tàn khốc đen tối của
nhà tù Trung Quốc mà chúng ta còn đƣợc gặp một tâm hồn vĩ đại của
một nhà ái quốc, một tâm hồn vĩ đại của bậc đại trí, đại nhân, đại
dũng. Khi tôi giở đọc tập Nhật ký trong tù, lòng tôi xúc động vô cùng.
Tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó đã tỏa ra ánh sáng chói ngời trong một
hoàn cảnh tối tăm, trong những ngày tháng tối tăm. Bác Hồ là một
nhà thơ lớn” (Trích theo Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 301-302). Năm 1960, Quách Mạt
Nhƣợc, một học giả - nhà văn lớn, ngƣời đứng đầu ngành VHNT
Trung Quốc thời gian này, khi đọc nguyên tác Nhật ký trong tù, những
bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh, đã viết: “Tập thơ ấy
tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần, đó không đơn thuần là thơ mà là một bộ
sử thi, là một bức tranh tự họa hoặc một thiên tự truyện bằng thơ của
một nhà cách mạng. Hơn một trăm bài thơ đó, hầu nhƣ mỗi bài đều thể
hiện một cách sống con ngƣời đồng chí Hồ Chí Minh, một vị lão thành
cách mạng lịch duyệt, thông thái, ung dung chất phác mà kiên nghị. Quả
thật thơ chính là ngƣời”. (Trích theo Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù,
204 | TS. Nguyễn Minh San
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 301-302). Ông nhấn mạnh tinh
thần vô cùng kiên định, tinh thần lạc quan cách mạng “không kể gì hiểm
nguy, không kể gì sống chết, tinh thần bay bổng trong trời đất cách mạng
bao la, thở cùng một nhịp, cùng chung mạch máu với nhân dân, kiên
quyết tin tƣởng sự nghiệp cách mạng của nhân dân nhất định thắng lợi...
Sự ý nhị, trào phúng chan chứa trong tất cả hơn một trăm bài thơ, cho
thấy Hồ Chí Minh “Sự lạc quan khiến đổng chí lấy tai nạn trƣớc mắt làm
sự rèn luyện bản thân: Nghĩ mình trong bƣớc gian truân/Tai ƣơng rèn
luyện tinh thần thêm hăng” (Trích theo Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 301-302). Chính Quách Mạt
Nhƣợc đã nhận xét về thơ chữ Hán Đƣờng luật của Bác: “Có một số bài
rất hay, nếu nhƣ đặt vào một tập thơ của thi nhân Đƣờng Tống thì khó
phân biệt”.
2.2. Thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh, mà ở đây là
tập Nhật ký trong tù là tập thơ Đƣờng luật duy nhất trên thế giới đƣợc
dịch ra nhiều ngôn ngữ/thứ tiếng nhất. Tính đến nay, tác phẩm này đã
đƣợc dịch ra hơn 30 thứ tiếng, hầu hết các thứ tiếng phổ biến ở châu
Âu (Anh, Pháp, Nga, Đức, Italya, Bồ Đào Nha, Tây ban nha, Hy Lạp,
Ba Lan, Séc, Slovalia, Hunggari, Rumani, Khorvat (Nam tƣ cũ),
Beloruxia,…; Các thứ tiếng Bắc Âu (Đan Mạch, Thụy Điển,…; Tiếng
Ả rập ở châu Phi; đặc bietj các thứ tiếng châu Á: Lào, Thái Lan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Mianma, Mông Cổ, Xrilanca, Begal, Karala, Tamil
(Ấn Độ), Kazatan,…; và Quốc tế ngữ. tới hơn 30 thứ tiếng.
Điều giá trị hơn là, “Ngƣời dịch tác phẩm Nhật ký trong tù của
Chủ tịch Hồ Chí Minh sang các thứ tiếng nƣớc ngoài, trƣớc hết đều là
những ngƣời tiên tiến của thời đại, các trí thức, các nhà thơ, mang
một hoài bão lớn, hƣớng tới cái thiện, cái mỹ, nhiều ngƣời trực tiếp
dấn thân vào con đƣờng đấu tranh cho hạnh phúc nhân dân, khao
khát thể hiện ý chí giải phóng con ngƣời, tìm đến tự do chân lý…”.
(Thúy Toàn – Sức lan tỏa của thi ca và cuộc đời Hồ Chí Minh, Nxb
Văn học, Hà Nội 2014, tr 23).
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 205
Đây là một kỷ lục mà, ngay cả hơn một nghìn năm lịch sử của
Đƣờng thi cũng chƣa có ai có đƣợc.
2.3. Hồ Chí Minh là một nhà thơ tài ba, đó là điều đã đƣợc khẳng
định. Song, nói HCM “làm thơ”, theo tôi là chỉ đúng một phần, và
đúng với một số bài. Còn, với tập thơ Nhật ký trong tù, nói chính xác
là HCM “làm thơ” theo cách “ngâm thơ” (trƣờng hợp một số bài thơ
trong Nhật ký trong tù), “vịnh cảnh” trƣớc, sau đó đích thân Ngƣời ghi
lại văn bản hóa trên giấy trắng mực đen.
Mặc dù trong tập Nhật ký trong tù, có bố cục chặt chẽ, với Bài
đề từ:
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại;
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cảnh yếu đại.
Dịch thơ:
Thân thể ở trong lao,
Tinh than ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Tiếp sau đó là bài thơ đƣợc đặt cái tên nhƣ một sự có chủ ý trƣớc:
Khai quyển:
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi;
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch thơ:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhƣng mà trong ngục biết làm chi đây?
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
206 | TS. Nguyễn Minh San
Nhƣng theo tôi thì, “Trang” Nhật ký trong tù đầu tiên bằng thơ
theo thể Đƣờng luật bằng chữ Hán không phải đƣợc Hồ Chí Minh
làm/ sáng tác có chủ ý, mà là “ngâm” vào ngày 29/8/1942, khi lính
Tƣởng tống Hồ Chí Minh vào nhà lao huyện Tĩnh Tây (đây là nhà lao
đầu tiên trên đất Trung Quốc giam giữ Hồ Chí Minh), là bài “Nhập
Tĩnh Tây huyện ngục” (Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây). Hồ Chí Minh
dùng từ “Ngâm thi”/ “Ngâm thơ”, mà không dùng từ “làm thơ”, “sáng
tác thơ”. Điều này rất đúng trên hai phƣơng diện. Một là, Bác bị bắt,
bị giam trong nhà tù, làm gì có giấy bút để mà ngồi “làm thơ”. Hai là,
trong bối cảnh bị giam cầm và chịu cảnh đày đọa khốn cùng, đói khát
đó, chỉ có những lời mình nhủ với mình, mình dặn mình, mình hứa
quyết tâm với mình là phải cố gắng lên, thì “ngâm”, một hành động
không thể ngồi im một chỗ, mà vừa đi đi, lại lại, vừa vuốt râu, vừa nói
ra một điều gì đó. Và với tâm hồn thơ, tài thơ của HCM, thì đó là thơ,
là ngâm lên những câu thơ tự sự phản ánh thái độ của mình với mình,
với xung quanh, hứa với mình:
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại;
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cảnh yếu đại.
Dịch thơ:
Thân thể ở trong lao,
Tinh than ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Và trong bối cảnh nay giải đi nhà tù này, mai giải đi nhà lao khác
14 tháng trời, không biết ngày nào đƣợc thả, và ngay cả tính mệnh
cũng không thể đoán định là sống chết ra sao, HCM cũng không có ý
định/ mục đích làm thơ để in thành tập Nhật ký trong tù. Những trang
nhật ký bằng thơ đó cứ ra đời một cách ngẫu nhiên, tự nhiên nhƣ một
sự phản ứng tức thì “xuất khẩu thành thơ”, không chuẩn bị, không chủ
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 207
định, tuần tự theo ngày tháng, ngày nào cũng “ngâm thơ”, trên đƣờng
đi, cũng “ngâm thơ”, còn sống ngày nào còn “ngâm thơ” ngày ấy, để
“đợi ngày mai”, cho đến ngày Bác đƣợc thả tự do. Sau này, khi có
điều kiện Hồ Chí Minh mới tập hợp những bài thơ mà tác giả của nó
đã “ngâm” trong những tháng ngày tù đày, hoàn thiện cuốn Nhật ký.
Nhờ thế, chúng ta mới có tập thơ Nhật ký trong tù có bố cục chặt chẽ:
có bài đề từ, có bài khai quyển, có bài kết luận.
2.4. Thơ Đƣờng là thể tài đã có một thi pháp riêng, qua những
niêm luật chặt chẽ từ ngàn xƣa (ví nhƣ thơ Tứ tuyệt, chỉ có 28 chữ,
chia đều cho 4 câu). Do Đƣờng thi đã in sâu trong tiềm/tâm thức, do
đã nắm vững thi pháp, niêm luật đó, nên, mặc dù chỉ là “ngâm thơ”
thôi, chỉ là khi thi hứng dâng trào (“thi hứng cũng vừa toan cất bút…”,
thì thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh vẫn rất đúng luật
thơ Đƣờng. Song, qua những vần thơ “ngâm” lên trong tù ấy (hay bởi
vì là thơ “ngâm”, không phải thơ “làm”), nên ta thấy HCM không áp
dụng/rập khuôn một cách máy móc niêm luật của thơ Đƣờng Trung
Quốc mà, đã có những cải cách trong sử dụng số chữ/từ, trong cấu
trúc bài thơ khác với thể thơ Đƣờng truyền thống. Việc cải cách đó
của Hồ Chí Minh bao giờ cũng có chừng mực, không làm mất đi chất
thơ Đƣờng trong các bài loại đó. Việc cải cách đó có nhiều, tôi chỉ xin
đi vào một điểm, HCM mở rộng dung lƣợng bài thơ theo thể Đƣờng
luật, cho dù bài đó sáng tác bằng chữ Hán hay bằng chữ Quốc
ngữ/tiếng Việt, bằng cách mở rộng cấu trúc bài thơ so với truyền
thống Đƣờng thi (4 câu, mỗi câu có Ngũ ngôn – 5 chữ/từ hoặc Thất
ngôn – 7 chữ/từ), vì vậy có rất nhiều bài gồm từ 2 đến 3, 4, 5 khổ thơ,
mỗi khổ có 4 câu giống nhƣ cấu trúc bài thơ Đƣờng cổ. Trong tập Hồ
Chí Minh – thơ tứ tuyệt dẫn ở trên, có đến 11 bài HCM làm kiểu này.
Đó là các bài: Thế lộ nan (Đƣờng đời khó khăn), gồm 3 khổ, 12 câu;
Tảo (Buổi sớm), gồm 2 khổ, 8 câu; Cƣớc áp (Cái cùm), gồm 2 khổ, 8
câu; Học dịch kỳ (Học đánh cờ), gồm 3 khổ, 12 câu; Trung thu (Trung
thu), gồm 2 khổ, 8 câu; Tảo giải (Giải đi sớm), gồm 2 khổ, 8 câu;
Cảnh binh đảm trƣ đồng hành (Lính gác khiêng lợn cùng đi), gồm 2
208 | TS. Nguyễn Minh San
khổ, 8 câu; Song thập nhất (Ngày 11 tháng 11), gồm 3 khổ, 12 câu; Ký
Nê lỗ (Gửi Nê ru), gồm 2 khổ, 8 câu; Thu cảm (Thu cảm), gồm 2 khổ,
8 câu. Trong bài Cảnh rừng Việt Bắc viết năm 1947, HCM cũng cấu
trúc bài theo 2 khổ, mỗi khổ 4 câu, thất ngôn.
Ngoài cấu trúc trên, có một số bài HCM làm lại có 6 câu, mỗi
câu ngũ ngôn; có bài một khổ 2 câu, 2 khổ 4 câu. Ví nhƣ bài Cảnh
khuya. Bài này có 10 câu thất ngôn, khổ đầu 2 câu, khổ 2 và khổ 3,
mỗi khổ 4 câu:
Đêm khuya nhân lúc quan hoài
Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần
Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bong lồng hoa
Cảnh khuya nhƣ vẽ, ngƣời chƣa ngủ
Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà
Nƣớc nhà đƣơng gặp lúc gay go
Trăm việc ngàn công đều phải lo
Giúp đỡ nhờ anh em gắng sức
Sức nhiều thắng lợi lại càng to.
(Bài này, nhiều tài liệu chỉ trích khổ 2)
Cũng thay đổi cấu trúc, mở rộng dung lƣợng bài tứ tuyết, HCM có
những bài mà, khổ thơ 4 câu đầu, là câu thất ngôn, nhƣng ở khổ thơ 4
câu sau, lại là câu ngũ ngôn; Khổ thơ 4 câu đầu là câu thất ngôn,
nhƣng ở khổ thơ 4 câu sau, lại là 4 câu thơ thể tự do (nhƣ bài Chúc Tết
1949); Những khổ thơ đầu là những câu ngũ ngôn, song những câu
cuối bài là những câu thơ thể tự do (nhƣ bài: Thơ mừng Tết Quý Tỵ,
1953); Khổ đầu là một số câu thơ làm theo thể thơ tự do, các khổ thơ
sau là thể Tứ tuyệt ngũ ngôn, cuối bài lại là thơ tự do, nhƣ bài: Bài ca
du kích (1942); điển hình là bài Tân Dƣơng ngục trung hài (Cháu bé
trong nhà lao Tân Dƣơng) trong Nhật Ký trong tù:
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 209
Oa…! Oa…! Oa!...!
Gia phạ đƣơng binh cứu quốc gia;
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,
Yếu đáo ngục trung căn trƣớc ma.
Dịch thơ:
Oa…! Oa…! Oa…!
Cha trốn không đi lính nƣớc nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
Qua đây, có thể thấy, mục đích “ngâm thơ”/“làm thơ” của HCM
không câu nệ nắn nót xem nó có đúng luật hay không, có chỉnh thể
này, thể nọ hay không mà, cốt là ở nội dung, phục vụ cái mà HCM cần
chuyển tải đến ngƣời nghe, ngƣời đọc thơ Ngƣời.
Lời tạm kết
1. Những bài thơ Đƣờng luật làm bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tiêu biểu là tập Nhật ký trong tù, là những hòn ngọc văn
hóa chói lọi trong di sản văn hóa vĩ đại của dân tộc ta. Qua di sản thơ
này, đã góp phần khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên
tài của Đảng ta, dân tộc ta; một con ngƣời Đại nhân, Đại trí, Đại dũng;
một Danh nhân Văn hóa Thế giới; là Bác Hồ muôn vàn kính yêu của
dân tộc ta.
2. Qua cách vận dụng một thể thơ nƣớc ngoài – Đƣờng luật để
sáng tạo nên những kiệt tác bất hủ, chuyển tải đƣợc tình cảm, tính
cách, phẩm chất con ngƣời Việt Nam, cho chúng ta bài học về việc
tiếp thu các tinh hoa văn hóa nƣớc ngoài để làm giàu văn hóa dân tộc.
Đó là “mƣợn”/ “dùng” cái vỏ hình thức, nhƣng nội dung thơ phải
mang tính dân tộc, phải phù hợp với Việt Nam.
3. Trung Quốc là nƣớc láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” và
có lịch sử quan hệ lâu đời với nƣớc ta. Trƣớc năm 1979 (thời điểm
Trung Quốc tiến hành chiến tranh xâm lƣợc 6 tỉnh biên giới nƣớc ta),
210 | TS. Nguyễn Minh San
việc dạy Tiếng Trung còn là yêu cầu bắt bƣộc (cùng với tiếng Nga)
trong các trƣờng phổ thông, và ở các trƣờng sƣ phạm có khoa/bộ môn
Tiếng Trung/đào tạo giáo viên Tiếng Trung ở miền Bắc. Song, sau
thời gian đó, Tiếng Trung không còn có địa vị nhƣ vậy nữa. Cả xã hội,
chạy theo Tiếng Anh. Từ quy định của ngành Giáo dục và Đào tạo,
chuyển thành tâm lý của xã hội, những ngƣời học Tiếng Trung/biết
Tiếng Trung chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Đốt đuốc giữa ban ngày cũng
không tìm đƣợc một cán bộ Nhà nƣớc nào có khả năng giao dịch
thông thƣờng bằng tiếng Trung, chứ chƣa nói đến việc làm đƣợc một
bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán (một bài thôi). Để có điều kiện hợp
tác toàn diện với Trung Quốc chúng ta cần phải có nhiều ngƣời học,
nhiều ngƣời giỏi tiếng Trung Quốc.
Kinh nghiệm và những thành công của Hồ Chí Minh trên các mặt
trận chính trị - ngoại giao – văn học nghệ thuật với Trung Quốc mãi
mãi là bài học cho chúng ta./.
NMS
KẾT LUẬN HỘI THÂO KHOA HỌC “BÁC HỒ VỚI THƠ
ĐƯỜNG LUẬT”
PGS. TS Nguyễn Hồng Vinh
Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học, Nghệ thuật Trung ƣơng
I. Mục đích, ý nghĩa Hội thảo
Đây là hoạt động tiếp nối các hoạt động kỷ niệm 125 năm Ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm tiếp tục khẳng định công lao to lớn
của Bác Hồ với Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta trong 90 năm qua, kể
từ ngày 21/6/1925, Bác Hồ chỉ đạo xuất bản số đầu tờ báo “Thanh
Niên", cơ quan của Hội Việt Nam thanh niên cách mạng; đồng thời,
tôn vinh danh hiệu: “Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc,
Danh nhân văn hóa thế giới” - nhƣ ghi nhận của UNESCO! Trong
suốt quá trình hoạt động cách mạng, Bác Hồ vừa là nhà báo, nhà thơ,
nhà chính trị, nhà văn hóa lỗi lạc, mà việc vận dụng sáng tạo thơ
Đƣờng luật để tạo nên hàng trăm bài thơ có nội dung tƣ tƣởng và nghệ
thuật cao, phục vụ đắc lực công tác tuyên truyền, giáo dục, tập họp
quần chúng làm cách mạng, là một minh chúng tiêu biểu. Vì lẽ đó,
việc tiếp tục nghiên cứu thơ Đƣờng luật của Bác Hồ thông qua cuộc
Hội thảo này, là việc làm thiết thực để các thế hệ ngƣời Việt Nam,
nhất là các nhà nghiên cứu văn hóa, các nhà thơ hiểu sâu sắc thêm
“Những phẩm chất đặc sắc của một con ngƣời bất diệt. Bất diệt về sự
nghiệp anh hùng, bất diệt về tinh hoa văn hóa và bất diệt về nhân
cách cao cả trong sự nghiệp của dân tộc và nhân loại” - nhƣ ý kiến
của GS. Anh hùng Lao động Vũ Khiêu.
212 | PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh
Đây cũng là hoạt động góp sức tiếp tục triển khai thực hiện Nghị
quyết 33- NQ/TW, Hội nghị Trung ƣơng 9 (khóa XI) về: “Xây dựng,
phát triển văn hóa, con ngƣời Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triến
bền vững đất nƣớc", trong đó ghi rõ: “Phải coi trọng xây dựng văn
hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nƣớc, mà nội dung quan trọng
là học tập và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Chúng ta vui mừng thấy rằng, khá nhiều tham luận và ý kiến trong
cuộc Hội thảo hôm nay, đã toát lên tinh thần quan trọng đó.
II. Bác Hồ với việc tiếp cận, vận dụng sáng tạo thơ Đƣờmg luật
vào quá trình tuyên truyền, chỉ đạo cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, nhƣ các đồng chí đã biết, bậc thang tiến hóa của nền
văn minh thế giới, đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trên nhiều bình diện
văn hóa vật chất, tinh thần, trong đó có những tác phẩm thơ Đƣờng
(Đƣờng thi) rực rỡ một thời, biểu tƣợng huy hoàng của ngôn ngữ nhân
loại đã đạt đến điểm thăng hoa - nhƣ nhận xét của một nhà nghiên
cứu. Mặc dù thời gian lịch sử đã trôi qua trên một ngàn năm, song đến
hôm nay, nhiều bài thơ Đƣờng vẫn còn làm say mê, lay động lòng
ngƣời. Nhiều tứ thơ Đƣờng của các thi sĩ đời Đƣờng đã đạt đến sự
thần diệu, tài hoa trong sáng tạo ngôn ngữ, mà không mấy thời đại có
đƣợc. Thơ Đƣờng rất phong phú về thể loại, nhƣng ngƣời ta thƣờng
nhớ tới thơ Đƣờng với các thể thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ
ngôn tứ tuyệt...
Thơ Đƣờng luật ở Việt Nam có từ thời Tiền Lê, với sáng tác của
các tƣớng lĩnh, văn nhân, các bậc tu hành, viết bằng cả chữ Hán và
chữ Nôm, phát triển trong suốt 10 thế kỷ trung đại, cho đến nay còn
giữ đƣợc đến hàng chục nghìn bài. Thơ Đƣờng luật ở Việt Nam là sự
tiêp biến có cải biên, sáng tạo, mà đỉnh cao là thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí
Minh... Bởi vậy, thơ Đƣờng luật ở Việt Nam có những đặc điểm riêng,
không phải là sự sao chép thể thơ Đƣờng luật Trung Quốc. Sự giao
lƣu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đƣa tới quá trình tiếp
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 213
biến đầy sáng tạo của thơ Việt, làm phong phú di sản thơ ca Việt
Nam, thể hiện cốt cách văn hóa, bản lĩnh sáng tạo của các nhà thơ
Việt, mà điển hình là Bác Hồ trong hành trình tiếp thu và sáng tác thơ
Đƣờng luật.
Thứ hai, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ
đã viết khá nhiều thơ Đƣờng luật, nhƣ: “Nhật ký trong tù” 133 bài.
Thơ chữ Hán ngoài “Nhật ký trong tù”, có 35 bài. Thơ Đƣờng luật
quốc ngữ: 35 bài; tổng cộng trên 200 bài; trong đó có 178 bài tứ
tuyệt, 20 bài bát cú, 5 bài trƣờng thiên. Bên cạnh những bài viết theo
đúng tinh thần của thơ cổ, Bác đã dùng Đƣờng luật cải biên thành
nhiều dạng phong phú để cùng biểu đạt những tƣ tƣởng lớn, những
tình cảm sâu sắc, tinh tế của nhà cách mang chuyên nghiệp. Dù thể
hiện bằng ngôn ngữ nào, thơ Đƣờng luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhiều khi vẫn giữ đƣợc những yêu cầu cơ bản, khắt khe của thể thơ
này và chuyển tải đƣợc tâm hồn, cốt cách, đạo lý, lẽ sống của con
ngƣời vào những bài thơ mang tính hiện đại trong thế kỷ 20. Hồ Chí
Minh làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán trên đất Trung Quốc trong
hai trƣờng hợp: làm trong hoàn cảnh bị tù đầy trong nhà lao của
Tƣởng Giới Thạch; và làm thơ khi là thƣợng khách của Đảng và Nhà
nƣớc Trung Quốc.
Chúng ta đồng tình với phân tích của nhiều báo cáo cho rằng:
trƣớc hết, thơ Đƣờng luật của Bác Hồ thể hiện tình cảm sâu nặng của
Ngƣời đối với Tổ quốc và Nhân dân. Dù là nhật ký viết trong tù, hay
những bài thơ sau này, viết trƣớc cách mạng cũng nhƣ trong hai cuộc
kháng chiến, luôn hiển hiện một tấm lòng yêu nƣớc thiết tha, sự kiên
định, sắt son hƣớng về Tổ quốc, nhân dân, đồng chí, đồng bào.
Trong thơ Bác, có nỗi đau khổ, đắng cay trong cảnh ốm đau nơi tù
ngục, lại ở trên đất khách quê ngƣời, nhƣng vẫn trăn trở không nguôi
niềm cố quốc. Có nỗi nhớ nƣớc, thƣơng nhà suốt bao tháng ngày khắc
khoải, hóa thành lệ rơi trên những dòng thơ. Chất trữ tình trong thơ có
sự quyện hòa của cả chất tình và chất thép; từ đó, chúng ta càng thêm
214 | PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh
cảm phục ý chí kiên cƣòng của Ngƣời trong lao tù xiềng xích, vẫn giữ
tấm lòng thủy chung vô hạn với Tổ quốc, nhân dân, nhƣ tấm lòng của
Ức Trai xƣa trong bài “Thuật hứng”.
Thứ ba, thơ Đƣờng luật của Bác giống nhƣ dòng nhật ký hàm xúc,
trữ tình, ghi lại suy nghĩ, tâm hồn, lý tƣởng của Bác trên bƣớc đƣờng
hoạt động cách mạng. Bác không chỉ vận dụng thơ Đƣờng luật để nói
những tƣ tƣởng lớn của mình về Tổ quốc và nhân dân, mà thông qua
thể thơ này, Bác còn đặt ra những vấn đề hệ trọng của đấu tranh cách
mạng: vấn đề tƣ duy cách mạng, chiến lƣợc và sách lƣợc cách mạng.
Trong thơ Bác, chúng ta thấy rõ tƣ tƣởng của Ngƣời khi nói về ngƣời
làm cách mạng, không chỉ cần trí tuệ cách mạng, mà cần cả những
tình cảm cách mạng đối với đồng chí, đồng bào. Đặc biệt là các bài
Bác viết về các bậc nhân sĩ yêu nƣớc đã vì chính nghĩa dân tộc mà tự
nguyện từ bỏ tất cả để lên chiến khu tham gia kháng chiến, phục vụ
đất nƣớc, phục vụ nhân dân, nhƣ bài “Tặng Bùi công” (Tặng cụ Bùi
Bằng Đoàn), “Tặng Võ công” (Tặng cụ Võ Liêm Sơn), bài “Điểu
Huỳnh Bộ trƣởng thi” (Thơ viếng Huỳnh Bộ trƣởng), đề ngày
21/4/1947, ngày tạ thế của Cụ chí sĩ yêu nƣớc Huỳnh Thúc Kháng.
Thứ tƣ, về con ngƣời, thơ Bác chan chứa một tinh thần nhân đạo
cao cả, một trái tim nhân ái bao la đối với mọi lớp ngƣời, từ em nhỏ
chƣa đầy một tuổi đã phải theo mẹ đến ở nhà tù; thƣơng ngƣời phu
làm đƣờng dãi nắng gội mƣa; ngậm ngùi xót xa ngƣời bạn tù khổ đau
vừa mới chết; day dứt trƣớc cảnh ngộ vợ chồng ngƣời bạn tù trong
cảnh “gần nhau trong tấc gang, mà biển trời cách mặt”, hiểu lòng
ngƣời trong tiếng sáo ly hƣơng và thƣơng ngƣời cô phụ phƣơng xa
mòn mỏi ngóng trông chồng, v.v… và v.v…
Thứ năm, về nghệ thuật trong thơ Đƣờng luật của Bác, nhiều tham
luận của nhà chính trị Hà Đăng, GS Vũ Khiêu, GS Nguyễn Khắc Phi,
PGS Hồ Sĩ Hiệp, NGND Trần Bửu Lâm, ThS Nguyễn Thúy Đức, ThS
Võ Quang Huy, ThS Nguyễn Thị Thiện, ThS Đào Tuấn Anh; các nhà
nghiên cứu Nguyễn Thanh Toàn, Đỗ Thị Mỹ An, Đỗ Hùng Luân, Lê
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 215
Huy Thực, Lê Đình Sơn, Bùi Sỹ Hoa, Đinh Mỹ Hạnh, Nguyễn Xuân
Đức; các nhà thơ Nam Phụng, Huỳnh Đức Trung, Đỗ Thành Hƣng,
Phạm Văn Trung... đều cho rằng, từ chỗ thấm sâu những giá trị Đƣờng
thi trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh còn bổ sung và làm
giàu cho Đƣờng thi những nội dung mới, tƣ tƣỏng mới, mang tính
canh tân, cách mạng; dùng thơ làm chính trị, cổ vũ cuộc đấu tranh
đánh đổ thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do, hạnh
phúc cho nhân dân. Do vậy, Bác Hồ đã chỉ rõ mối quan hệ giữa thơ ca
và chính trị qua câu thơ có tính chất “tuyên ngôn” trong tập “Nhật ký
trong tù”:
“Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong ”
Theo hƣớng đó, đa phần thơ, văn, báo chí của Ngƣời đều đi vào
lòng quần chúng nhân dân nhƣ những câu ca dao, hò vè, truyền khẩu
ngắn gọn, súc tích, thích ứng với những đối tƣợng tuyên truyền cụ thể,
có sức tập hợp, khích lệ quần chúng đoàn kết, vùng lên làm cách mạng
tự giải phóng mình.
Chúng ta rất thú vị và thấm thía khi biết cuộc trò chuyện với dịch
giả Liên Xô M. Tkát-sốp về mối quan hệ giữa thơ ca và chính trị, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn nói rõ quan điểm của mình: “Tôi vẫn
nghĩ thơ và chính trị không thể tách rời...”. Bác nêu một câu hỏi: “Có
phải thơ chính trị không “cao quý”? Có phải nhà thơ không cần làm
những bài thơ liên quan đến việc đấu tranh với những cái xấu?”. Bác
trả lời dứt khoát: “Không, không thể thế đƣợc! Tôi cho rằng, không
nghi ngờ gì cả, cũng nhƣ các ngành nghệ thuật khác, thơ phải gắn bó
với sự nghiệp cách mạng; đó là điều khẳng định. Và những gì đặt ra
chung quanh việc này có quan hệ đến nhân cách nhà thơ”.
Nhiều nhà nghiên cứu có mặt hôm nay đều có chung nhận xét: thơ
chữ Hán của Bác đƣợc coi nhƣ một bức chân dung tự hoạ của Ngƣời:
vừa thanh cao, vừa giản dị, vừa vĩ đại, vừa tinh tế, vừa mang dáng dấp
cổ điển của các bậc tao nhân mặc khách, vừa rất hiện đại, xứng danh
216 | PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh
là một nhà thơ tiêu biểu của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, mặc
dù Bác Hồ không bao giờ nhận mình là nhà thơ.
Chúng ta rất xúc động, hằng năm, mỗi khi Tết đến xuân về, Bác
lại làm thơ chúc Tết đồng bào ở trong nƣớc và kiều bào ở nƣớc ngoài.
Bác dùng nhiều thể loại khác nhau, nhƣng những bài viết theo thể tứ
tuyệt đã đạt tới giá trị nghệ thuật cao, có sức lan toả lớn hơn cả, truyền
niềm lạc quan cách mạng, thổi bùng ý chí “Đánh cho Mỹ cút, đánh
cho Nguỵ nhào”. Tiếc rằng, khi Tổ quốc thống nhất, “Bắc Nam sum
họp xuân nào vui hơn”, Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta cách đó 6 năm!
III. Về giá trị thơ Đƣờng luật của Bác Hồ
Một số tham luận và ý kiến tại Hội thảo hôm nay đều khẳng định:
Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh có nội dung phong phú, tinh thâm mà
uyên bác, thể hiện khí phách, trí tuệ và tinh thần lạc quan cách mạng
của một nhà cách mạng với niềm tin kiên định vào tƣơng lai của dân
tộc, tỏ rõ khí phách anh hùng, vƣợt lên mọi gian khổ, hi sinh; thấm
đẫm tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu cuộc sống, yêu hoà bình; ý
chí kiên cƣờng chống xâm lƣợc, chống bạo quyền; một tấm lòng chân
thành, thuỷ chung với đồng chí, bạn bè… Có thể nói, thế giới quan và
phƣơng pháp luận khoa học và cách mạng, đã bao trùm trong các bài
thơ Đƣờng luật của Bác.
Chính vì vậy, sau khi đọc tập thơ “Nhật ký trong tù”, nhà thơ lớn
Trung Quốc Quách Mạt Nhƣợc đã viết: “Một trăm bài thơ, hầu hết
bài nào cũng đều toát ra hết sức sinh động hình ảnh một nhà cách
mạng lão thành, thanh thoát, tài trí, ung dung, giản dị, kiên cƣờng ấy
là một đồng chí Hồ Chí Minh. Thật là “thi nhƣ kỳ nhân” (thơ nhƣ
ngƣời vậy”… Có một số bài rất hay, nếu đặt lẫn vào một tập của các
thi nhân Đƣờng Tông thì cũng khó phân biệt”.
Còn Cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng nói về thơ Hồ Chí Minh, đã
khái quát giá trị cao quý trong thơ của Bác: “Hồ Chí Minh không chỉ
hiện qua các bài thơ thắm đƣợm tình ngƣời và cuộc sống, cuộc sống
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 217
của con ngƣời, có cốt cách Việt Nam và phƣơng Đông, đặc biệt thanh
cao và tao nhã, tỏa ra từ sự nghiệp và bình sinh của Hồ Chí Minh,
nhà lý luận, nhà hành động, con ngƣời ấy bao giờ cũng thơ, cũng
chan chứa, lúc thâm trầm, luôn luôn dung dị thơ sử thi, thơ anh hùng
ca, thơ trữ tình nhƣ chính cuộc đời này vậy, thơ vậy”.
Theo tinh thần đó, cuộc Hội thảo hôm nay với gần 50 bài tham
luận in trong Kỷ yếu cùng các ý kiến phát biểu, đặc biệt là Báo cáo Đề
dẫn Hội thảo của GS Hoàng Chƣơng, Giám đốc Trung tâm bảo tồn và
Phát huy văn hóa dân tộc - tất cả đều toát lên tình cảm quý trọng và
lòng biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo thiên
tài của Đảng và Nhà nƣớc ta; đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của
Việt Nam và thế giới, mà sự nghiệp thi ca, trong đó có hàng trăm bài
thơ Đƣờng luật của Ngƣời mãi mãi là di sản tinh thần vô giá, còn tiềm
ẩn nhiều nội dung và nghệ thuật phong phú mà chúng ta cần tiếp tục
nghiên cứu phát huy, biến nó thành động lực tinh thần cổ vũ toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục giƣơng cao ngọn cờ bách chiến
bách thắng trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa thân yêu của chúng ta!
Xin trân trọng cảm ơn!
NHV
Mục lục
LỜI THƢA .............................................................................................. 5
1. GS Hoàng Chƣơng - Đề dẫn: HỘI THẢO BÁC HỒ VỚI THƠ
ĐƢỜNG LUẬT ...................................................................................... 7
2. GS - AHLĐ Vũ Khiêu - THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA HỒ CHÍ MINH
TRONG “NHẬT KÝ TRONG TÙ” ...................................................... 13
3. TS Phạm Thị Xuân Châu - BÚT PHÁP CỦA BÁC HỒ TRONG
SÁNG TÁC THƠ ĐƢỜNG LUẬT ...................................................... 21
4. Hoài Yên - CHẤT CHÂN THỰC VÀ LẠC QUAN TRONG THƠ
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.................................................................. 35
5. PGS. TS Hồ Sĩ Hiệp - BÁC HỒ VẬN DỤNG TUYỆT CÚ
ĐƢỜNG THI ........................................................................................ 37
6. ThS. Đào Tuấn Anh“VĂN DĨ TẢI ĐẠO” TRONG CÁC TÁC PHẨM
ĐƢỜNG THI CỦA HỒ CHÍ MINH ...................................................... 47
7. Lê Đình Sơn - KHẢO SÁT HIỆN TƢỢNG PHÁ CÁCH TRONG
THƠ ĐƢỜNG LUẬT HỒ CHÍ MINH ................................................. 57
8. ThS. Võ Quang Huy - HỒ CHÍ MINH VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT .. 69
9. ThS. Nguyễn Thị Thiện - VẺ ĐẸP CỔ ĐIỂN VÀ HIỆN ĐẠI TRONG
BÀI THƠ “CHIỀU TỐI” CỦA HỒ CHÍ MINH .................................. 75
10. Đinh Mỹ Hạnh - THƠ BÁC HỒ - MÓN ĂN TINH THẦN CỦA DÂN
TỘC VIỆT NAM .................................................................................. 81
11. Nguyễn Thanh Toàn - BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT ............ 91
12. NGND Trần Bửu Lâm - BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT
VIỆT NAM ........................................................................................... 99
13. Võ Giáp - “TẨU LỘ” - THƠ BÁC. MỘT NHÂN CÁCH LỚN ....... 105
14. Hoàng Triều Ân - THƠ BÁC HỒ RỰC RỠ ÁNH TRIÊU DƢƠNG109
15. Nguyễn Khuyến - NGẪM XEM NGƢỜI… VỚI THƠ NÀY! ......... 115
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 219
16. NGƢT Hoàng An - MỘT SỐ BÀI THƠ THỂ ĐƢỜNG LUẬT CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VIẾT TẠI CAO BẰNG ........................ 123
17. Trần Xuân Yên - HỒ CHÍ MINH VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT ........ 131
18. Nguyễn Đức Thọ - TÌNH YÊU THIÊN NHIÊN TRONG THƠ HỒ
CHÍ MINH QUA THỂ LUẬT ĐƢỜNG ............................................ 137
19. Lê Trọng Hồng - NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH QUA MỘT BÀI THƠ
VIẾT TRONG “NGỤC TRUNG NHẬT KÝ” ..................................... 147
20. Đỗ Hùng Luân - TẠI SAO BÁC HỒ ƢA THÍCH THƠ ĐƢỜNG
LUẬT .................................................................................................. 153
21. Lê Công Bƣờng - BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT................... 158
22. Nam Phụng - BÁC HỒ VỚI THƠ LUẬT ĐƢỜNG ......................... 165
23. Nguyễn Văn Thụ - TÍNH HÓM HỈNH TRONG BÀI THƠ “SƠ ĐÁO
THIÊN BẢO NGỤC” CỦA BÁC HỒ ................................................ 171
24. GS. Nguyễn Khắc Phi - QUANH MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁC HỒ
VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT ................................................................. 175
25. TS. Nguyễn Minh San - THƠ ĐƢỜNG LUẬT CHỮ HÁN CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH ......................................................................... 193
26. PGS. TS. Nguyễn Hồng Vinh - KẾT LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC
“BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT” ............................................. 211
BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT Kỷ yếu – Nhiều tác giả
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
65 Nguyễn Du - Hà Nội - Tel & Fax: 04.38222135
E-mail: [email protected]
http://nxbhoinhavan.com
Chi nhánh miền Nam
371/16 Hai Bà Trƣng-Q3-TP. HCM
Tel & Fax: 08.38297915
Email: [email protected]
Chi nhánh miền Trung và Tây Nguyên
42-Trần Phú-thành phố Đà Nẵng - Tel: 0511.3849516
Email: [email protected]
Chi nhánh miền Tây Nam Bộ
341C - Hoàng Lam - thành phố Bến Tre
Tel: 075.3812736 - 016.998.083.86
Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm xuất bản:
PHẠM TRUNG ĐỈNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
TRẦN QUANG QUÝ
Biên tâp:
Trình bày:
Sửa bản in:
In: 1000 cuốn; khổ 16x24 cm tại Công ty CP KH&CN Hoàng Quốc Việt.
Địa chỉ cơ sở in: 18 - Hoàng Quốc Việt - Cầu Giấy - Hà Nội
Số xác nhận ĐKXB: /CXBIPH/ /HNV
Số quyết định xuất bản: /QĐ-NXBHNV ngày 2016.
In xong và nộp lƣu chiểu quý năm 2016
Mã ISBN: 978-604-53-