220
Bác Hvới thơ Đƣờng lut

Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Bác Hồ với thơ Đƣờng luật

Page 2: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Page 3: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BẢO TỒN

VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ DÂN TỘC VIỆT NAM

HỘI THƠ ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT

NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN

HÀ NỘI - 2016

Page 4: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Page 5: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

LỜI THƯA

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Văn hoá cũng là

một mặt trận”. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt

động cách mạng của mình Ngƣời đã sử dụng khá nhiều

bài viết bằng các thể loại thơ để hƣớng dẫn, chỉ bảo và

động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết đấu

tranh trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng

đất nƣớc, trong đó có nhiều bài đƣợc viết bằng thể thơ

Đƣờng luật.

Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Ngƣời;

Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy Văn hoá

dân tộc Việt Nam, phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí

Minh và Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam tổ chức thành

công Hội thảo khoa học “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật

Việt Nam”.

Với trên 50 bản tham luận công phu và nghiêm túc,

các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà thơ đã cùng

nhau tìm hiểu mối quan hệ giữa Bác Hồ với thơ Đƣờng

luật. Không chỉ nhằm tôn vinh tài thơ lớn, tƣ tƣởng

tình cảm cao đẹp của Bác Hồ mà qua đó còn thấy đƣợc

cách mà Ngƣời đã Việt Nam hoá thành công một di sản

Page 6: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

6 | Lời thƣa

văn hoá nổi tiếng của nhân loại thành di sản văn hoá

mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam; một thứ

vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ nƣớc và

dựng nƣớc của nhân dân ta.

Trong một hội nghị khoa học có thể có những ý

kiến khác nhau hay những luận điểm trùng nhau. Tuy

vậy, Ban tuyển chọn đã tiếp nhận đƣợc rất nhiều thông

tin thú vị, rất có ý nghĩa về cuộc đời cũng nhƣ thơ Bác;

Là tài sản quý giá cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung

và cho những ngƣời yêu thơ Đƣờng luật nói riêng có

điều kiện chiêm nghiệm, suy ngẫm và học tập.

Vì điều kiện khuân khổ cuốn sách có hạn, Ban

tuyển chọn xin phép chỉ giới thiệu một số bài viết

làm ví dụ, có lẽ còn phải tiếp tục nghiên cứu và trao

đổi thêm.

Để có đƣợc những tài liệu quý giá mang tính học

thuật và giàu chất nhân văn trong công cuộc Nghiên

cứu bảo tồn và Phát huy văn hoá dân tộc. Hội thơ

Đƣờng luật Việt Nam sẽ tiếp tục tổ chức các cuộc Hội

thảo khoa học về các danh nhân văn hoá dân tộc sẽ trân

trọng kính mời các nhà nghiên cứu, các vị học giả cùng

tham gia.

Trân trọng.

BAN TUYỂN CHỌN

Page 7: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Đề dẫn:

HỘI THÂO BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT

GS Hoàng Chƣơng

Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn & Phát huy Văn hóaDân tộc Việt Nam

Trong tác phẩm Văn hóa và đổi mới, cố Thủ tƣớng Phạm Văn

Đồng từng nhận xét: Một trong những tính trội của văn hóa Việt

Nam là khả năng tiếp nhận những cái hay, cái đẹp của các nền văn

hóa khác, không kể đến bất cứ từ đâu, để làm giàu cho mình. Thơ

Đƣờng luật Việt Nam là một bằng chứng hùng hồn cho nhận xét

minh triết đó.

Từ một thể thơ cổ của dân tộc láng giềng Trung Hoa, qua quá

trình tiếp biến văn hóa, dân ta đã biến Thơ Đƣờng luật trở thành một

công cụ hữu hiệu phản ánh trí tuệ Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, một

thứ vũ khí sắc bén chống lại dã tâm xâm lƣợc cũng nhƣ đồng hóa của

những kẻ bá quyền trong cái dân tộc đã sản sinh ra nó. Và một trong

những con ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất góp phần biến Thơ Đƣờng

luật thành một thể thơ truyền thống Việt Nam là Bác Hồ vĩ đại của

chúng ta.

Hôm nay chúng ta hội tụ về Bảo tàng Hồ Chí Minh lịch sử thực

hiện Hội thảo mang tên “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật Việt Nam” do

Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam

phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh và Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam

tổ chức. Thay mặt Ban tổ chức, tôi nhiệt liệt chào mừng các vị đại

biểu, chào mừng các nhà khoa học, nhà thơ, hội viên Hội thơ Đƣờng

Page 8: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

8 | GS Hoàng Chƣơng

luật Việt Nam đã gửi đến Hội thảo hơn 50 bản tham luận công phu,

nghiêm túc.

Mặc dù đã có hàng trăm bài viết về tập thơ “Nhật ký trong tù” và

nhiều bài thơ viết bằng thơ Đƣờng luật theo thể thơ tiêu biểu là thất

ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt

của Bác Hồ trên nhiều quyển sách, tờ báo trong nhiều thập kỷ qua,

nhƣng dƣờng nhƣ chƣa có một Hội thảo khoa học chuyên đề về nội

dung: “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật”. Đây cúng là một trong những

hoạt động thiết thực kỷ niệm 125 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, đồng

thời nhằm thiết thực hƣởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo

tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh. Tìm hiểu mối quan hệ giữa Bác Hồ

với thơ Đƣờng luật, không chỉ nhằm tôn vinh tài thơ lớn, tƣ tƣởng tình

cảm cao đẹp của Bác Hồ mà qua đó chúng ta còn tìm hiểu đƣợc cách

mà Ngƣời Việt Nam hóa thành công một di sản nổi tiếng của dân tộc

Trung Hoa, biến nó thành một di sản văn hóa đậm bản sắc văn hóa

Việt Nam, một thứ vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ nƣớc và

dựng nƣớc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử.

Nói đến đề tài “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật”, trƣớc hết là chúng ta

nghĩ ngay đến tập thơ “Nhật ký trong tù”. Đây là tập thơ nổi tiếng của

Bác với 133 bài thơ Đƣờng luật viết hoàn toàn bằng chữ Hán đƣợc

chính ngƣời Trung Quốc đánh giá đã đạt đến tầm cao và chiều sâu của

một thứ thơ Đƣờng luật chính hiệu. Bởi thế “Nhật ký trong tù” không

những đƣợc ngƣời Việt Nam, ngƣời Trung Quốc ƣa thích mà độc giả

nhiều nƣớc khác trên thế giới cũng ƣa thích.

Theo tôi đƣợc biết đã có gần 10 nƣớc dịch và phát hành tập thơ

“Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch. Tôi có may mắn đƣợc trực tiếp

tham gia tổ chức và chủ trì Hội thảo Nhật ký trong tù tại Rumani vào

giữa tháng 8 năm 2005. Dịch giả tập thơ này ra tiếng Rumani là nhà

văn Constantin Lupeanu đã từng là Đại sứ tại Việt Nam và Phó đại sứ

tại Trung Quốc, ông đã dịch trực tiếp tập thơ của Bác Hồ từ nguyên

bản chữ Hán ra chữ Rumani. Một điều rất đỗi ngạc nhiên là các nhà

văn Rumani đã cảm nhận đƣợc hình thức thơ Đƣờng và nội dung sâu

Page 9: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 9

sắc trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chủ Tịch. Có lẽ những ngƣời

Châu Âu khác và những ngƣời Châu Mỹ la tinh cũng tiếp nhận Nhật

ký trong tù của Bác Hồ nhƣ vậy. Chủ tịch Hội nhà văn Rumani nói:

Hồ Chí Minh nhƣ hoa sen từ bùn đất vƣơn lên.

Xin trích đọc hai bài ngắn trong Nhật ký trong tù đã dịch sang

tiếng Rumani:

Bài Nghe tiếng giã gạo

Sunetul Decorticaru/0rezului

Cindedecorticat, orezul

Dar/dupa acea/bobul e ca bumbacul de/alb

Asa e si omul in lumea asta mare

Necazul il pefae jad de valoare

Dịch: Gạo đem vào giã bao đau đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông

Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy

Gian nan rèn luyện mới thành công

Bài: Nửa đêm:

Ngủ thì ai cũng nhƣ lƣơng thiện

Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền

Hiền dữ đâu phải là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên

Dịch: Miez de noapte

Sunt toti bawrrbati curati Sibuni in somn

Cint se trezessc, se-mpart in răi si buni

Ei nu prin nastere sunt răi si buni

Totul, tine de educatia pentru om

Không những tại Rumani, tại Liên Xô và các nƣớc Đông Âu cũ

cũng nhƣ tại Tây Âu, Châu phi, Cu Ba và Châu mỹ la tinh, tập Nhật

ký trong tù cũng đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích. Dù đƣợc viết bằng chữ

Page 10: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

10 | GS Hoàng Chƣơng

Hán, trong hình thức một thể thơ vốn của dân tộc Trung Hoa, nhƣng

không ai nghĩ nó là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, mà là sản

phẩm đặc sắc của văn hóa Việt Nam, của một trong những con ngƣời

Việt Nam tiêu biểu nhất, một trong những nhân cách Việt Nam đẹp

và hấp dẫn nhất.

Đó là tập Nhật ký trong tù với bạn đọc thế giới, còn đối với ngƣời

Việt Nam chúng ta, Nhật ký trong tù là một trong những tác phẩm văn

học đƣợc quan tâm nhiều nhất, đƣợc tìm đọc rộng rãi nhất, mặc dù

phần lớn ngƣời đọc phải thƣởng thức tác phẩm qua các bản dịch.

“Nhật ký trong tù” còn đƣợc nhà soạn chèo Trần Đình Ngôn

chuyển lên sân khấu chèo với tên gọi “Những vần thơ thép” và Nhà

hát chèo Việt Nam đã diễn rất thành công. Vở chèo đã đƣợc nhiều vị

lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc và nhân ta rất yêu thích.

Rõ ràng “Nhật ký trong tù” đã trở thành một hiện tƣợng văn học

thú vị, thậm chí bí ẩn, khó giải thích nổi vì sao khi một lãnh tụ cách

mạng Việt Nam nhƣ Hồ Chủ Tịch lại rất thành công trong thể thơ

Đƣờng luật, một thể loại văn học bác học có niêm luật rất chặt chẽ, rất

khắt khe và ngôn từ cực kỳ chau chuốt của ngƣời Trung Hoa. nhà thơ,

nhà soạn kịch Quách Mạt Nhƣợc, một nhà văn hóa lớn của Trung

Quốc cho rằng tập thơ “Nhật ký trong tù” là một đỉnh cao của Đƣờng

thi hiện đại, trong đó có một số bài thơ rất hay, nếu nhƣ đặt lẫn vào

trong tập thơ của những thi nhân cự phách đời Đƣờng, đời Tống thì

cũng khó phân biệt đƣợc.

Để giải thích điều này, chúng ta cần nhìn lại về quá khứ để thấy

đƣợc nền tảng văn hóa tinh thần của Bác Hồ. Khi còn là cậu bé

Nguyễn Sinh Cung, Bác đã đƣợc cha là nhà Hán học Nguyễn Sinh Sắc

trau dồi cho nhiều kiến thức về văn hóa Trung Hoa và Đƣờng thi cùng

với kiến thức và tình yêu văn hóa Việt Nam và thi ca Việt Nam.

Bác lại đƣợc nhà thơ lớn, nhà soạn tuồng lớn của dân tộc là Đào

Tấn yêu mến và dìu dắt. Vốn Hán học và vốn văn hóa dân tộc hòa

Page 11: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 11

nhuyễn trong tâm hồn Bác Hồ từ thời thơ ấu và tuổi thanh niên là nền

tảng văn hóa, là hành trang văn hóa trên con đƣờng Cách mạng của

Bác, giúp Bác dù có tiếp xúc, có chịu ảnh hƣởng văn hóa Âu, Mỹ,

nhƣng văn hóa dân tộc, trong đó có vốn Đƣờng thi vẫn hiện hữu và đã

tỏa sáng trong thơ ca của Bác.

Cũng nhƣ Nguyễn Du, Đào Tấn… đã Việt Nam hóa hoàn toàn

văn học cổ của Trung Hoa, thơ Đƣờng luật của Hồ Chủ Tịch đƣợc thể

hiện theo nhịp điệu và màu sắc Việt Nam, mang tƣ tƣởng, tâm hồn

Việt Nam, dù là các bài thơ nổi tiếng trong “Nhật ký trong tù” hay các

bài thơ đƣợc làm sau này, tiêu biểu nhƣ bài thơ tứ tuyệt Nguyên tiêu

viết bằng chữ Hán đã đƣợc dùng làm đề từ cho đêm thơ Nguyên tiêu

độc đáo trên toàn cõi Việt Nam thống nhất:

Kim dạ Nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

Hoặc bài ngũ ngôn tứ tuyệt nhƣ lời ứng khẩu bằng tiếng Việt, kêu

gọi thế hệ trẻ vững chí bền lòng trong lao động sáng tạo vì đất nƣớc:

Không có việc gì khó

Chỉ sợ lòng không bền

Đào núi và nấp biển

Quyết chí cũng làm nên

Hồ Chủ Tịch đúng là nhà thơ lỗi lạc trong lĩnh vực Đƣờng thi ở

Việt Nam đƣợc cả thế giới biết đến và tôn vinh. Mới đây nhất, tháng

10 năm 2015, nƣớc Anbani lại công bố bản dịch tập “Nhật ký trong

tù” và có lẽ tập thơ này sẽ còn tiếp tục đƣợc dịch ở những nƣớc khác.

Trên đây chúng tôi điểm vài nét sơ lƣợc về thơ Đƣờng luật của

Bác Hồ, coi nhƣ gợi mở để các nhà nghiên cứu tiếp tục bàn sâu hơn:

Page 12: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

12 | GS Hoàng Chƣơng

chúng ta sẽ đi sâu phân tích việc Bác Hồ học tập, tiếp thu thơ Đƣờng

luật, sử dụng nó nhƣ một thứ vũ khí trong hoạt động Cách mạng của

ngƣời, kết nối nó với tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam, để biến

nó trở hành một thứ di sản đậm bản sắc Việt Nam.

Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào nói rằng, với Bác, thơ Đƣờng

luật đã Việt hóa thành công, đã trở thành một di sản văn hóa của dân

tộc Việt Nam.

Ban tổ chức Hội thảo rất vui mừng khi thấy nhiều tham luận rất

hay, rất sâu sắc của quý vị đã in trong tập tƣ liệu Hội thảo.

Xin cảm ơn quý vị đã nhiệt tình tham gia Hội thảo. Chúc Hội

thảo thành công.

Hà Nội, 23/10/2015

Page 13: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

THƠ ĐƯỜNG LUẬT CÛA HỒ CHÍ MINH

TRONG “NHẬT KÝ TRONG TÙ”

GS – AHLĐ - Vũ Khiêu

Tôi hoan nghênh sáng kiến của Giáo sƣ Hoàng Chƣơng qua việc

tổ chức cuộc Hội thảo về Bác Hồ với thơ Đƣờng luật. Trong thời

gian ở trong nƣớc, Bác Hồ đã làm nhiều bài thơ giản dị để chúc nhân

dân ta trong dịp Tết Nguyên đán và nhiều câu thơ, bài thơ động viên

nhân dân ta lao động và chiến đấu. Những bài thơ đó ít nói về bản

thân Bác. Muốn hiểu đƣợc những cảm xúc sâu sắc và những suy tƣ

thầm lặng của Bác thì phải tìm tới những bài thơ mà Bác đã ghi lại

nhƣ những mẩu nhật ký của bản thân mình. Chúng ta đã không đƣợc

thấy rõ, nếu nhƣ các đồng chí lãnh đạo ở bên cạnh Ngƣời không tha

thiết yêu cầu Bác cho phổ biến tập Nhật ký trong tù.

Trong cuộc Hội thảo hôm nay, tôi xin phép đƣợc phát biểu đôi

điều cảm nghĩ của bản thân tôi sau khi đọc những bài thơ Đƣờng luật

của Bác.

Bác khiêm tốn chỉ cho mình là ngƣời ghi nhật ký chứ chẳng phải

làm thơ nhƣng nhật ký ấy lại viết theo một thể loại khó nhất là thơ

Đƣờng. Theo Quách Mạt Nhƣợc, nhiều bài trong đó có thể xếp ngang

những bài thơ Đƣờng hay nhất.

Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh đƣợc dịch ra tiếng Việt. Các bản

dịch dù chƣa thể hay bằng nguyên tác, nhƣng đã ngọt ngào nhƣ tiếng

hát dân gian, thanh cao nhƣ cốt cách dân tộc.

Page 14: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

14 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu

Thành công ấy là sản phẩm của bao công phu bền bỉ trong nhận

thức cuộc sống và trau dồi nghệ thuật. Nó bắt nguồn từ những bài

giặm Nghệ Tĩnh, những bài hát dân ca hay nhất, đã sớm cùng với lời

ru và sữa mẹ rót vào tâm hồn ấu thơ của Hồ Chí Minh.

Không phải Hồ Chí Minh ở trong tù mới biết đến thơ Đƣờng qua

tập Thiên gia thi. Ngay từ những ngày còn nhỏ, sống bên cha, Ngƣời

đã nghe cha và bè bạn của cha hàng ngày đọc thơ và làm thơ. Ngƣời

đã thuộc lòng không ít những bài thơ của Trung Quốc và Việt Nam.

Không chỉ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Thức mà còn Nguyễn Trãi, Nguyễn

Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm… đã để lại trong tâm hồn

Ngƣời những cảm hứng thi ca đẹp nhất.

Từ ngày ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc (1911), Hồ Chí Minh đi vào

thế giới bao la của văn học thế giới, nhất là văn học phƣơng Tây. Qua

đó, Ngƣời tiếp thu đƣợc sự uyên bác về kiến thức, sự trong sáng trong

hành văn, sự tinh tế trong thể hiện. Không có quá trình công phu tích

lũy và rèn luyện ấy, thì không dễ dàng có đƣợc một tập thơ cao cả về

tƣ tƣởng và trau chuốt về nghệ thuật nhƣ Nhật ký trong tù.

1. Xiềng xích và tự do

Nhà tù đã đặt Hồ Chí Minh trƣớc một hoàn cảnh chiến đấu mới.

Một trận cuồng phong đã “cản ngƣợc cánh chim bằng” và con ngƣời

tự do đã sa vào xiềng xích.

Trong cái nhà tù man rợ này, mọi xiềng xích đã đƣa ra để trói

buộc một con ngƣời, nhất đây lại là con ngƣời đã suốt đời lấy tự do

làm lẽ sống, suốt đời chiến đấu nhằm đập tan mọi xiềng xích cho cả

nhân loại và cho mỗi con ngƣời.

Sự vật lộn giữa tự do và xiềng xích lại diễn ra trong một hoàn

cảnh đầy những điều ngang trái và từ đó nó đã tạo nên những nét

tƣơng phản tô đậm thêm sự cao cả của tự do và sự tàn bạo của xiềng

xích. Hồ Chí Minh - con ngƣời đã thống nhất ở bản thân những tinh

Page 15: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 15

hoa của cả nhà thơ và nhà cách mạng - đến nay lại tự phân đôi thành

thân thể và tinh thần.

Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao …

Thân thể này, chúng có thể hành hạ nhƣng tinh thần này thì không

gì khuất phục nổi:

Nghĩ mình trong lúc gian truân,

Tai ƣơng rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Với tinh thần ấy, Hồ Chí Minh biến tai ƣơng thành môi trƣờng

rèn luyện. Cƣờng bạo của nhà tù càng nén xuống thì khí phách của

anh hùng càng vùng lên. Xiềng xích càng muốn trói buộc con ngƣời

và dập tắt mọi thi hứng thì tinh anh của con ngƣời tự do càng phát

tiết ra ngoài và kết lại trong thơ.

Nhật ký trong tù đã phản ánh sâu sắc và sinh động những sự kiện

từ ngày Hồ Chí Minh bị bắt ở Túc Vinh và trải qua 14 tháng giam

cầm, qua gần 30 nhà tù của 13 huyện.

Trong tù thì ngày mang gông, đêm cùm chân. Giải đi thì tay bị

trói, cổ mang vòng xích, dầm mƣa, dãi nắng, trèo núi qua truông…

Sống trong tù thì thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu không khí. Ban đêm thì

“ngồi trên hố xí để chờ sáng”. Buổi sáng thì đi đổ thùng và quét nhà

giam. Đã thế còn bị hành hạ bởi muỗi, bởi rệp, bởi ghẻ lở.

Thơ của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở việc mô tả những hiện

tƣợng của hoàn cảnh một ngày trong tù bằng nghìn thu ở ngoài xã hội.

Giá trị hiện thực của nó còn ở chỗ mỗi hiện tƣợng nêu lên là một tâm

trạng. Đối với con ngƣời phong phú về tâm hồn và đa dạng về tình

cảm nhƣ Hồ Chí Minh những ngày trong tù là những ngày có oán, có

thƣơng, có đau xót, có uất hận, có u sầu.

Nghĩ đến nhiệm vụ dở dang của mình, lòng chiến sĩ bừng lên

nhƣ lửa cháy:

Page 16: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

16 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu

Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh,

Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận.

Cái u sầu tiếp theo niềm uất giận, giống nhƣ bóng đen của cây

đa ngoài cửa ngục, cứ đêm ngày trùm lên nhà lao, trùm lên thân

phận con ngƣời:

Bóng đa đè nặng nhà lao,

Đêm sao lặng ngắt, ngày sao tối sầm!

Ƣu sầu và uất giận còn nặng nề hơn nữa trong lúc ốm đau:

Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,

Đáng khóc mà ta cứ hát tràn.

Không khóc mà hát. Tiếng hát đó đã biến cái bất hạnh thành niềm

tin. Với sự sáng suốt và chủ động của con ngƣời, cái bi đát (le

tragique) trở thành cái hài hƣớc (le comique). Cái trữ tình trong thơ

chứa đựng thêm một nội dung mỉa mai châm biếm và từ đó lại vang

lên một tiếng cƣời kiêu hãnh và khinh bỉ của một ngƣời đứng trên cao

nhìn xuống.

Không khóc mà hát. Đêm tàn rồi hửng sáng, đông qua rồi xuân

sang, khổ hết thì vui đến… Với tinh thần ấy, tác giả nhìn mọi khổ cực

của mình và mọi hành vi của kẻ địch với một cái nhìn kiên nghị và lạc

quan. Bọn cai ngục dùng dây thừng để trói thì Ngƣời coi nó giống nhƣ

“Tua đai quan võ bằng kim tuyến”. Khi chúng thay dây thừng bằng

xích sắt thì Ngƣời lại thấy “Mỗi bƣớc leng keng tiếng ngọc rung”.

Không khóc mà hát. Tiếng hát đó trở thành những bài thơ hào

hứng và thiết tha hƣớng về Tự do, ngƣời tự do, cảnh tự do, quyền tự

do, bầu trời tự do… mƣời ba lần Ngƣời nhắc đến tự do. Đã là ngƣời tự

do thì “Mặc dù bị trói chân tay” vẫn vui đƣợc với cảnh “Chim ca rộn

núi, hƣơng bay ngát rừng”. Đêm không ngủ đƣợc, mỗi lúc viết xong

một bài thơ cũng chính là lúc nhà thơ “Nhòm qua khe cửa ngắm trời

tự do”.

Page 17: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 17

Mặc dù bị gông cùm trong ngục, nhƣng khi vừa chợp mắt, con

ngƣời tự do đã thấy “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” hoặc “Mơ

thấy cƣỡi rồng lên thƣợng giới”.

2. Cá nhân và cộng đồng

Trong “Nhật ký trong tù”, khát vọng lớn nhất là khát vọng tự do,

đau khổ lớn nhất là đau khổ của nhân loại. Ở đây cả đến cái vui sâu xa

và cái buồn thầm lặng cũng man mác tình ngƣời.

Đêm đông lạnh, Ngƣời nhìn những bạn tù “Gối quắp, lƣng còng

ngủ chẳng an”. Có ngƣời đã lấy những trang sách bồi lại thành mảnh

chăn bằng giấy để đắp tạm, còn hơn “không đệm không chăn”.

Hồ Chí Minh viết về những con ngƣời chịu đói mà chết, những

ngƣời đau đớn bởi gông cùm còn khốn khổ về tật bệnh. Có ngƣời đêm

qua còn nằm ngủ bên cạnh mình mà sáng nay đã chết. Có ngƣời khổ

quá đâm nhào xuống xe, chạy trốn lại bị cảnh sát bắt lôi về. Có ngƣời

vợ vì chồng trốn lính đã bị bắt giam. Có em bé vừa nửa tuổi đã khóc

oa oa trong tù. Có ngƣời vợ đến nhà giam thăm chồng mà chẳng nói

đƣợc gì với chồng:

Anh ở trong song sắt,

Em ở ngoài song sắt,

Gần nhau chỉ tấc gang,

Mà biển trời cách vực.

Bỗng nhớ đến câu thơ thời xƣa:

Anh ở đầu sông Tƣơng,

Em ở cuối sông Tƣơng.

Dòng sông Tƣơng thăm thẳm giữa hai đầu gợi lên sự chia ly xót

xa và tình yêu thƣơng bát ngát của một cặp tình nhân. Còn ở đây, giữa

bên trong và bên ngoài song sắt là sự cay đắng nghẹn ngào của hai vợ

chồng cùng nhìn nhau mà chẳng nói nên lời. Hai đoạn thơ nói về hai

cảnh ngộ khác nhau nhƣng lại cùng đẹp nhƣ nhau cả lời lẫn ý.

Page 18: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

18 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu

Trong những lần bị giải từ nhà ngục này sang nhà ngục khác, Hồ

Chí Minh chứng kiến nhiều cảnh sinh hoạt của nhân dân và ghi lại

những cảm xúc của mình.

Có buổi chiều “Gió sắc tựa gƣơm mài đá núi - Rét nhƣ dùi nhọn

chích cành cây”, Ngƣời phác ra những nét sinh động của một bức

tranh quê thắm đƣợm nhân tình:

Chùa xa chuông giục ngƣời nhanh bƣớc,

Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay…

Sống trên đất của nƣớc đang giam cầm mình, Hồ Chí Minh vẫn

đầy lòng thƣơng mến với nhân dân nƣớc ấy và lo lắng cho đời sống

của họ, khi thấy: “đất khô cằn” và “trời đại hạn”.

Có lúc đi thuyền, hai chân bị trói và treo lên nhƣng khi thấy làng

xóm bên sông đông đúc thì lòng Ngƣời lại thấy “nhẹ thênh thênh”

giống nhƣ “chiếc thuyền chài đang lƣớt sóng giữa dòng sông”. Tình

cảm của Ngƣời phản ánh hoàn cảnh khốn khổ của nhân dân lao động

mà Ngƣời đã từng thấy ở quê hƣơng và ở mọi nơi trên thế giới. Tình

cảm ấy ngày một mãnh liệt, thôi thúc. Ngƣời học tập, suy nghĩ và sáng

tạo, hình thành nên những phẩm chất đặc biệt của một nhân cách. Tình

cảm riêng tƣ ấy vẫn gắn với cuộc chiến đấu mãnh liệt nhằm đem lại

độc lập cho các dân tộc, tự do cho mỗi con ngƣời và văn minh cho cả

nhân loại.

Chính vì lẽ trên mà trong thơ Hồ Chí Minh đã nổi bật lên cả tính

độc đáo của cá nhân và tính phổ quát của cộng đồng khiến Ngƣời

xuất hiện nhƣ một hình tƣợng tuyệt vời, hấp dẫn, sự ngƣỡng mộ và

khâm phục của đông đảo độc giả.

3. Thiên nhiên và nghệ thuật

Nói về thơ thiên nhiên, Hồ Chí Minh từng viết:

Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,

Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông,

Page 19: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 19

Nay ở trong thơ nên có thép,

Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

Qua lời thơ này tƣởng nhƣ Ngƣời không làm thơ về thiên nhiên.

Không ngờ thiên nhiên lại tràn ngập trong nhiều bài thơ của Ngƣời.

Chỉ có điều là Ngƣời yêu thiên nhiên, nhƣng không dừng lại mô tả

“cái đẹp” của thiên nhiên tách khỏi đời sống xã hội. Trong thơ của

Ngƣời, nếu nhƣ bông hoa cƣời, con chim hót, nắng xuyên vào ngục,

mây trôi trên tầng không… thì đó không chỉ là đối tƣợng xã hội của

nhà thơ mà còn là những cảnh ngộ, những tâm trạng, những phƣơng

tiện tự thể hiện của con ngƣời.

Những lúc cảnh vắng canh khuya, nhà tù đã quạnh hiu, còn quạnh

hiu hơn nữa. Đó là những lúc tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên và

Ngƣời đã viết những bài thơ hay nhất. “Một canh, hai canh lại ba

canh” nằm chẳng ngủ, Ngƣời nhìn ra bên ngoài:

Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,

Nhòm song Bắc đẩu đã nằm ngang.

Lúc này, Ngƣời càng cảm thấy yêu mến và gần gũi với trăng sao

và trăng sao đã đƣợc nhân hóa để nói chuyện với Ngƣời.

Hồ Chí Minh không chỉ viết một bài về trăng. Trong thiên nhiên

có lẽ trăng là hình tƣợng gắn bó nhất với tâm hồn con ngƣời. Trăng là

ngƣời bạn thanh cao và gần gũi:

Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Trong nhà tù, đêm trung thu không đƣợc thƣởng trăng, nhà thơ

cảm thấy lòng buồn vời vợi:

Trung thu vành vạnh mảnh gƣơng thu,

Sáng khắp nhân gian bạc một màu…

Chẳng đƣợc tự do mà thƣởng nguyệt,

Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.

Page 20: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

20 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu

Ngay cả khi ra khỏi ngục tù, trong khi chỉ đạo cuộc kháng chiến ở

chiến khu, Ngƣời vẫn yêu trăng và gần gũi với trăng. Trăng đòi sự có

mặt trong thơ của Ngƣời:

Trăng vào cửa sổ đòi thơ,

Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.1

Thơ trăng có thể là loại thơ cao nhất trong thơ thiên nhiên. Nó

lắng đọng và kết tinh những tình cảm đẹp nhất của con ngƣời. Nó là

sự gặp gỡ của những tâm hồn thanh cao trong thế giới huyền diệu và

tinh tế của thiên nhiên và nghệ thuật.

Qua Nhật ký trong tù, chúng ta thấy nổi lên những quan hệ đẹp

nhất giữa con ngƣời với xã hội và con ngƣời với thiên nhiên. Hồ Chí

Minh, con ngƣời gắn bó mật thiết với nhân dân lao động lại là ngƣời

thích sống với thiên nhiên, làm bạn với thiên nhiên. Giữa Thủ đô nhộn

nhịp của Việt Nam, bên cạnh tòa nhà nguy nga của Phủ Chủ tịch,

Ngƣời sống trong một ngôi nhà sàn nhỏ bé, bên cạnh ao cá vƣờn cây,

giữa hoa thơm và bóng mát.

Cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày sinh của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt

Nam với muôn vàn kính yêu lại hƣớng về con ngƣời đẹp nhất. Con

ngƣời ấy luôn luôn hạ mình xuống, coi mình là đầy tớ của nhân dân,

nhƣng nhân dân lại nâng Ngƣời lên coi nhƣ vị cha già của dân tộc.

Trong cuộc Hội thảo về thơ Đƣờng luật của Bác Hồ hôm nay,

chúng ta lại cùng nhau thấy rõ thêm những phẩm chất đặc sắc của một

con ngƣời bất diệt. Bất diệt về sự nghiệp anh hùng, bất diệt về tinh

hoa văn hóa và bất diệt về nhân cách cao cả trong sự nghiệp của dân

tộc và nhân loại.

VK

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.544.

Page 21: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

BÚT PHÁP CÛA BÁC HỒ

TRONG SÁNG TÁC THƠ ĐƯỜNG LUẬT

TS. Phạm Thị Xuân Châu

Chi hội Thơ Đƣờng luật tỉnh Điện Biên

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ viết khá

nhiều thơ Đƣờng luật. Nhật ký trong tù: 133 bài. Thơ chữ Hán ngoài

Nhật ký trong tù: 35 bài. Thơ Đƣờng luật quốc ngữ: 35 bài. Nhƣ vậy,

thơ Đƣờng luật của Bác tổng cộng trên 200 bài.Trong đó có 178 bài tứ

tuyệt, 20 bài bát cú, 5 bài trƣờng thiên. Bên cạnh những bài viết theo

đúng tinh thần của thơ cổ, Bác đã dùng Đƣờng luật cải biên thành

nhiều thể loại phong phú để cùng biểu đạt những tƣ tƣởng lớn, những

tình cảm sâu sắc tinh tế.

1. Về Tổ quốc và Nhân dân

Đọc thơ Đƣờng luật của Bác, dù là nhật ký viết trong tù hay

những bài thơ sau này trƣớc và sau cách mạng, trong kháng chiến,

ta luôn thấy hiển hiện lên một tấm lòng yêu nƣớc thiết tha, một ý

chí báo quốc sắt đá, một tấm lòng thủy chung, kiên định, sắt son

hƣớng về Tổ quốc, nhân dân, đồng chí, đồng bào, nhƣ tấm lòng của

Nguyễn Trãi khi xƣa trong Quốc âm thi tập:

Bui một tấm lòng ƣu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nƣớc triều đông.

Bác Hồ của chúng ta cũng vậy, nỗi nƣớc nhà trằn trọc trong

giấc ngủ:

Page 22: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

22 | TS. Phạm Thị Xuân Châu

Một canh... hai canh... lại ba canh...

Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành

Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt

Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh

(Thụy bất trƣớc - Không ngủ đƣợc)

Ngày nay đọc lại Nhật ký trong tù, chúng ta không khỏi xúc động,

và càng thêm hiểu, thêm thƣơng, thêm cảm phục tấm lòng của Bác đối

với Tổ quốc, nhân dân dẫu Ngƣời đang trong cảnh đọa đày.

Có nỗi đau khổ, đắng cay trong cảnh ốm đau nơi tù ngục, lại

là nơi đất khách quê ngƣời, nhƣng vẫn trăn trở không nguôi niềm

cố quốc:

Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh

Nội thƣơng đất Việt cảnh lầm than/

Trong tù mắc bệnh càng đau khổ

Đáng khóc mà ta cứ hát tràn.

(Bệnh trọng - Ốm nặng)

Có nỗi nhớ nƣớc, thƣơng nhà suốt bao tháng ngày khắc khoải, hóa

thành lệ rơi trên những dòng thơ:

Nghìn dặm bâng khuâng hồn nƣớc cũ

Muôn tơ vƣơng vấn mộng sầu nay

Ở tù năm trọn thân vô tội

Hòa lệ thành thơ tả nỗi này

(Thu dạ - Đêm thu)

Khi Bác mới ra khỏi nhà tù, thân hình tiều tụy “chân yếu mắt

mờ, tóc bạc”, chỉ duy nhất một điều không thay đổi là tấm lòng

chung thủy, sắt son: “Giang tâm nhƣ kính tịnh vô trần”, là nỗi niềm

thiết tha hƣớng về tổ quốc, quê hƣơng, đồng chí, đồng bào:

Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh

Dao vọng Nam thiên ức cố nhân

(Tân xuất ngục, học đăng sơn - Mới ra tù, tập leo núi)

Page 23: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 23

Ở những bài thơ này, Bác giữ nguyên đặc điểm cổ kính của thơ

tứ tuyệt luật Đƣờng, ngõ hầu diễn tả trọn vẹn chiều sâu của những

nỗi niềm: cựu sơn hà, hoài cố quốc, ức cố nhân, nhất là trong hoàn

cảnh Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng/ Tin tức bên nhà bữa bữa

trông (Tức cảnh).

Chất trữ tình trong thơ có sự quyện hòa của cả chất tình và chất

thép. Màu sắc trữ tình thể hiện qua chính hiện thực tâm trạng của Bác,

cho ngƣời đọc thêm hiểu, thêm thƣơng nỗi niềm của Bác trong mƣời

bốn trăng tê tái gông cùm, từ đó càng thêm cảm phục ý chí kiên

cƣờng của Ngƣời trong gian khổ và tấm lòng thủy chung vô hạn của

Ngƣời với Tổ quốc, nhân dân, nhƣ tấm lòng của Ức Trai xƣa trong bài

Thuật hứng:

Bui có một lòng trung lẫn hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

2. Về cách mạng

Thơ Đƣờng luật của Bác giống nhƣ dòng nhật ký hàm súc, trữ

tình, ghi lại suy nghĩ, tâm hồn, lý tƣởng của Bác trên bƣớc đƣờng hoạt

động. Chiến khu Việt Bắc, chiếc nôi cách mạng buổi ban đầu luôn

hiện lên trong thơ Bác, còn in dấu ấn những tháng năm xƣa Bác đã ở

nơi đây nhóm lên ngọn lửa cách mạng sáng đến mai sau:

Non xa xa, nƣớc xa xa

Nào phải thênh thang mới gọi là.

Đây suối Lênin, kia núi Mác

Hai tay xây dựng một sơn hà.

(Pác Bó hùng vĩ)

Câu đầu bài thơ chỉ có sáu tiếng. Bác đã sáng tạo bài tứ tuyệt với

các câu thất ngôn chen lục ngôn. Sự phá cách này khiến lời thơ trở nên

trữ tình, mềm mại, tự nhiên, không còn thấy dấu ấn của thủ pháp miêu

tả, mà dƣờng nhƣ chỉ là Bác đang ghi lại hình ảnh núi rừng Pác Bó

đầy chất thơ đang trải rộng ra trƣớc mắt mình:

Page 24: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

24 | TS. Phạm Thị Xuân Châu

Non xa xa, nƣớc xa xa

Sự biến thể của thơ tứ tuyệt cho thấy sự linh hoạt của Bác trong

bút pháp thi ca. Câu thơ đi ra ngoài công thức gợi ra cái nên thơ, trữ

tình của cảnh vật và sự khoáng đạt, bao la, dung dị của hồn ngƣời. Bác

chan hòa, gắn bó với thiên nhiên với tình yêu rộng lớn bao la của

ngƣời chiến sĩ cách mạng, đang bƣớc theo chân lý ngời sáng của chủ

nghĩa Mác - Lênin, với niềm tin tƣởng sắt son vào tiền đồ ngày mai

tƣơi sáng của dân tộc, để hôm nay luôn một lòng vững vàng, kiên định

sự nghiệp lớn:

Hai tay xây dựng một sơn hà

Bác không chỉ vận dụng thơ Đƣờng luật để nói những tƣ tƣởng

lớn của mình về Tổ quốc và nhân dân, mà thông qua thể thơ này, Bác

còn đặt ra những vấn đề quan trọng của đấu tranh cách mạng.

Bác đã vận dụng tính hàm súc, ngắn gọn của thơ luật Đƣờng để

đúc kết quan điểm cách mạng của mình, nhƣ ở bài thơ chữ Hán Học

dịch kỳ (Học đánh cờ). Bên ngoài là chuyện chơi cờ (Nhàn rỗi đem cờ

học đánh chơi/ Thiên binh, vạn mã đuổi nhau hoài) nhƣng bên trong

lại là vấn đề tƣ duy cách mạng, chiến lƣợc đấu tranh cách mạng: luôn

chủ động, sáng tạo và quyết đoán (Tấn công, thoái thủ nên thần tốc/

Chân lẹ, tài cao ắt thắng ngƣời). Bên ngoài là tƣ duy đánh cờ, nhƣng

bên trong lại là tƣ duy chiến lƣợc, là tƣ tƣởng tiến công cách mạng

một cách khoa học và kiên quyết, giành thế chủ động trong đấu tranh

(Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ/ Kiên quyết không ngừng thế tiến

công). Ý chí và trí tuệ của một nhà chiến lƣợc cách mạng, với chiến

thuật cách mạng biết thời, biết thế, đón thời, tạo thế đƣợc diễn tả hết

sức rõ ràng, sinh động, dễ hiểu trong nội hàm ẩn dụ của thể thơ tứ

tuyệt luật Đƣờng:

Lỡ nƣớc hai xe đành bỏ phí,

Gặp thời một tốt cũng thành công.

Bài học nắm bắt thời cơ của Cách mạng Tháng Tám là minh

chứng cho chiến thuật cách mạng sắc sảo, đầy trí tuệ của Bác.

Page 25: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 25

Từ việc chơi cờ Bác đặt ra vấn đề tƣơng quan giữa thế và lực, tấn

công và phòng thủ, để đi đến kết luận về thế trận cách mạng trên bàn

cờ đấu tranh:

Vốn trƣớc hai bên ngang thế lực

Mà sau thắng lợi một bên giành

Tấn công phòng thủ không sơ hở

Đại tƣớng anh hùng mới xứng danh.

Một thể thơ, vốn mang đậm tính khuôn mẫu, cổ điển, nhƣng

trong tay Bác, lại trở thành phƣơng tiện ngôn ngữ linh hoạt, đúc

kết sắc bén triết lý đấu tranh cách mạng, mang tính thời đại, tính

chính trị sâu sắc.

Ngày 11/11, kỷ niệm kết thúc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất

(1914 - 1918), Bác viết bài Song thập nhất (Ngày 11/11), nêu lên nhận

định của mình về vai trò của các nƣớc châu Á trong công cuộc kháng

chiến chống chủ nghĩa phát xít:

Kháng Nhật cờ bay khắp Á châu

Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau

Cờ to ắt hẳn là nên có

Cờ nhỏ dù sao, thiếu đƣợc đâu.

Bài thơ không triển khai theo mạch khai, thừa, chuyển, hợp

thƣờng gặp ở thơ tứ tuyệt mà phát triển theo hình tƣợng lá cờ (tinh

kỳ), biểu tƣợng của phong trào kháng Nhật ở mỗi nƣớc. Hai chữ “tinh

kỳ” lặp đi lặp lại bốn lần trong suốt cả 4 dòng thơ, gợi không khí

kháng Nhật sục sôi khắp châu Á.

Bác dùng hình ảnh lá cờ để khái quát cao trào chống Nhật đồng

thời nêu lên một quan điểm đầy tự chủ và sắc sảo không chỉ tình hình

Việt Nam mà cả tình hình thế giới, không chỉ vai trò của các nƣớc lớn,

mà còn vai trò của nƣớc nhỏ (kể cả nhƣợc tiểu), để khẳng định vai trò

không thể thiếu của mỗi quốc gia trong sự nghiệp chung:

Page 26: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

26 | TS. Phạm Thị Xuân Châu

Nƣớc lớn có vai trò của nƣớc lớn: Cờ to ắt hẳn là nên có. Nhƣng

nƣớc nhỏ cũng có vai trò của nƣớc nhỏ: Cờ nhỏ dù sao, thiếu đƣợc

đâu. Không thể bỏ qua, xem nhẹ, coi thƣờng. Bác đã khẳng định chủ

quyền của mọi dân tộc, dù là dân tộc nhỏ, cũng chính là phê phán chủ

nghĩa sô-vanh (nƣớc lớn), hòng áp đặt bá quyền đối với những nƣớc

vẫn bị coi là nhƣợc tiểu. Quan điểm dân tộc của Bác mang tính quốc

tế rộng lớn, đòi hỏi trên toàn thế giới là phải có sự tôn trọng lẫn nhau

và có sự bình đẳng giữa các dân tộc.

Tƣ duy cách mạng rộng lớn của Bác chứa đựng trong một bài thơ

rất nhỏ. Bác dùng bài tứ tuyệt luật Đƣờng cải biên để khẳng định sự

thật và chân lý chính trị một cách ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu, mang

tính thời đại.

Trong thơ Bác không chỉ có trí tuệ cách mạng, mà còn có những

tình cảm cách mạng giữa những ngƣời đồng chí, đồng đội. Đáng nhớ

nhất là những bài thơ Bác viết về các bậc nhân sĩ yêu nƣớc, những con

ngƣời đạo cao đức trọng đã vì chính nghĩa dân tộc mà tự nguyện từ bỏ

tất cả, lên chiến khu tham gia kháng chiến, phục vụ đất nƣớc, phục vụ

nhân dân, nhƣ bài nhƣ Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Tặng

Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn). Cụ Bùi Bằng Đoàn nguyên là

Thƣợng thƣ của triều đình cũ. Cụ nổi tiếng liêm khiết, Bác Hồ vô

cùng quý trọng. Bài thơ tứ tuyệt chữ Hán của Bác viết tặng cụ tỏa ra

một tình tri kỷ đằm thắm sáng trong. Cụ Võ Liêm Sơn từng đỗ đạt,

làm quan dƣới triều Nguyễn một thời, rồi cáo quan bỏ về để phản đối

thực dân Pháp xâm lƣợc, phản đối thái độ nhu nhƣợc của triều đình.

Bài thơ Bác Hồ viết tặng cụ Võ chan chứa tình đồng cảm tri âm. Bài

thơ chữ Hán, viết đúng luật thi, diễn tả thật đằm thắm, sâu sắc tình

cảm của những con ngƣời cùng chung lý tƣởng thờ dân, thờ nƣớc, tận

hiếu, tận trung, với một niềm tin sắt đá: Kháng chiến ắt thành công.

Còn có một bài thơ đặc biệt cảm động là bài Điếu Huỳnh Bộ

trƣởng thi (Thơ viếng Huỳnh Bộ trƣởng), đề ngày 21/ 4/1947, ngày tạ

thế của cụ chí sĩ yêu nƣớc Huỳnh Thúc Kháng. Bài thơ tiếng Việt, viết

Page 27: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 27

theo thể ngũ ngôn bát cú Đƣờng luật có những chỗ phá cách, mở đầu

lại tiếng than thống thiết:

Than ôi!

Bể Đà Nẵng triều thảm Trông vào Bộ Nội vụ

Đèo Hải vân mây sầu Tài đức tiếc thƣơng nhau

Tháng tƣ tin buồn đến Đồng bào ba chục triệu

Huỳnh Bộ trƣởng đi đâu? Đau đớn lệ rơi châu.

Đầu năm 1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng trên hai cƣơng vị Bộ

trƣởng Bộ Nội vụ và Hội trƣởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam

(Liên Việt) đi kinh lý các tỉnh miền Trung. Tháng 4 năm 1947 khi cụ

đang thị sát tình hình tại Quảng Ngãi thì đột ngột lâm bệnh nặng.

Biết mình khó qua khỏi, ngày 14/4/1947 cụ viết bức thƣ tâm huyết

gửi Bác Hồ:

“Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mƣơi năm ôm ấp độc

lập và dân chủ, nay nƣớc nhà đã đƣợc độc lập, dân chủ đã đƣợc

thực hiện. Thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc là không đƣợc gặp lại Cụ lần

cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân trên đƣờng vinh

quang hạnh phúc. Chào quyết thắng!”

Cụ Huỳnh ra đi để lại trong Bác xiết bao trống vắng và buồn

thƣơng, nhớ tiếc. Bác viết bài thơ ngũ ngôn bát cú luật Đƣờng, nhƣng

lại có tính chất một tế văn. Điều chƣa từng gặp trong thơ cổ chí kim.

Hai tiếng “Than ôi!” đầy thống thiết mở ra cảm xúc đớn đau.

Hai câu thơ đầu cũng không có tính chất khai đề, thừa đề của thơ

luật mà đi ngay vào hình ảnh buồn thƣơng của đất trời xứ Quảng:

Than ôi! Bể Đà Nẵng triều thảm/ Đèo Hải Vân mây sầu.

Thơ luật ít khi đối ở hai câu đề, nhƣng trong trƣờng hợp này, Bác

đã đặt lên trƣớc hai hình ảnh đối nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau để

nói cho hết nỗi buồn thƣơng của đất trời non nƣớc quê hƣơng trƣớc sự

Page 28: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

28 | TS. Phạm Thị Xuân Châu

ra đi đột ngột của cụ Huỳnh, ngƣời con ƣu tú của mảnh đất nhân kiệt,

địa linh. Những câu tiếp theo cũng không triển khai theo luật mà đều

tập trung nói nỗi buồn mất mát:

Nỗi ngơ ngác, hẫng hụt:

Tháng tƣ tin buồn đến

Huỳnh Bộ trƣởng đi đâu?

Nỗi đau buồn của Bác:

Trông vào Bộ Nội vụ

Tài đức tiếc thƣơng nhau.

Nỗi đau đớn của đồng bào:

Đồng bào ba chục triệu

Đau đớn lệ rơi châu.

Về ngôn từ, viết về sự ra đi của một bậc chí sĩ yêu nƣớc, hết lòng

vì nƣớc vì dân, nên Bác dùng nhiều từ Hán Việt trang trọng xen các từ

thuần Việt giàu sắc thái biểu cảm: than ôi, sầu, thảm, buồn, đau đớn,

lệ, châu... tạo thành dòng cảm xúc trữ tình lâm ly, thống thiết. Bút

pháp mà không phải bút pháp, thể loại mà lại “phi” thể loại, vì sự thật,

chính cái gốc tình cảm mới là yếu tố quyết định hình thức và kết cấu

của bài thơ.

Bài thơ rất gọn, câu thơ rất ngắn mà nói đƣợc đầy đủ cái tình hết

mực thâm trọng của Bác, của nhân dân đối với cụ Huỳnh, đồng thời

qua đó ngƣời đọc thấy đƣợc tài cao, đức trọng và uy tín lớn của cụ

Huỳnh đối với nhân dân.

Ngày 29/4/1947, hơn một tuần sau khi cụ Huỳnh tạ thế, Bác Hồ

viết thƣ gửi đồng bào cả nƣớc: “Cụ Huỳnh là ngƣời học hành rất

rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nƣớc mà trƣớc đây

cụ bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn Đảo mƣời mấy năm trƣờng,

gian nan cực khổ nhƣng lòng son dạ sắt, yêu nƣớc thƣơng nòi của cụ

Huỳnh, chẳng những không sờn, lại thêm kiên quyết. Cụ Huỳnh là

Page 29: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 29

ngƣời giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí,

oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không

thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh phấn đấu cho nhân dân đƣợc tự do,

nƣớc độc lập”.

Bài thơ và bức thƣ của Bác là minh chứng cho tình đồng tâm,

tri kỷ sâu nặng của Bác đối với cụ Huỳnh Thúc Kháng, và cũng là

tình cảm cách mạng cao đẹp mà Bác hƣớng tới những bậc chí sĩ của

dân tộc.

3. Về con ngƣời

Thơ Bác nói chung, Nhật ký trong tù nói riêng, chan chứa một tinh

thần nhân đạo cao cả. Đọc Nhật ký trong tù, ta luôn bắt gặp một tình

thƣơng bao la hƣớng về những kiếp ngƣời đau khổ mà Bác đã gặp

trong nhà tù Trung Quốc hay trên đƣờng bị chuyển lao. Bác thƣơng từ

em nhỏ chƣa đầy một tuổi đã phải theo mẹ đến ở nhà tù, thƣơng đến

ngƣời phu làm đƣờng dãi gió dầm mƣa; Bác ngậm ngùi xót xa cho

ngƣời bạn tù khổ đau vừa mới chết; Bác chạnh lòng thƣơng cho cảnh

ngộ của vợ chồng ngƣời bạn tù trong cảnh “gần nhau trong tấc gang,

mà biển trời cách mặt”; Bác hiểu lòng ngƣời trong tiếng sáo ly hƣơng

và thƣơng ngƣời cô phụ phƣơng xa mòn mỏi ngóng trông chồng.

Có thể nói, trái tim nhân ái bao la của Ngƣời nhƣ vầng dƣơng ấm

áp bao dung chiếu tới mọi cảnh đời. Vậy nên, Bác vui khi ngƣời nông

dân đƣợc mùa cƣời tƣơi hớn hở (Dã cảnh), Bác xót xa khi trên đƣờng

đi nhìn cảnh hạn hán, ngƣời nông dân rơi vào cảnh cơ khổ mất mùa:

Nghe nói xuân nay trời đại hạn/ Mƣời phân thu hoạch chỉ vài phân

(Long An - Đồng Chính), Bác quên đi nỗi mệt nhọc, cô đơn trên

đƣờng lƣu đày để đồng cảm với cuộc sống bình dị, đơn sơ của ngƣời

lao động: Cô em xóm núi xay ngô tối/ Xay hết lò than đã rực hồng)

(Mộ - Chiều tối).

Không hề có một khoảng cách hay sự phân biệt nào trong tình

cảm của Bác đối với nhân dân Trung Quốc. Bác xót thƣơng đồng bào

Page 30: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

30 | TS. Phạm Thị Xuân Châu

của mình trong cảnh lầm than, và Bác cũng thƣơng xót nhân dân

Trung Hoa trong cảnh đời đau khổ. Cho dù chính cái chính quyền của

Tƣởng Giới Thạch khi ấy đang bắt giam Ngƣời một cách vô lý và đầy

đọa Ngƣời qua bao nỗi đắng cay.

Đọc thơ Đƣờng luật của Bác, ta nhận thấy sự cải biên để tạo ra

những biến thể, phá cách chẳng qua cũng chỉ là để diễn tả một chiều

sâu tƣ tƣởng, một ý nghĩa nhân sinh cao đẹp trong trái tim rộng lớn

của Ngƣời. Chẳng hạn bài Tân Dƣơng ngục trung hài (Cháu bé trong

nhà lao Tân Dƣơng), một bài thơ tứ tuyệt luật Đƣờng nhƣng lại mở

đầu bằng một câu thơ phi Đƣờng luật:

Oa...! Oa...! Oa...!

Cha trốn không đi lính nƣớc nhà

Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi

Phải theo mẹ đến ở nhà pha.

Câu thơ mở đầu chỉ có 3 tiếng “Oa...! Oa...! Oa, là âm thanh

tiếng khóc của cháu bé trong nhà lao. Chính câu thơ “tam ngôn” với

ba chữ tƣợng thanh “Oa...! Oa...! Oa...!” hoàn toàn thuần Việt đã

gây ra ấn tƣợng mạnh mẽ về tiếng khóc của cháu bé sơ sinh vang lên

trong tù ngục, vọng vào trái tim ta niềm xót xa, thƣơng cảm, gieo nỗi

bất bình, phẫn nộ về chính sách vô nhân đạo và hết sức vô lý của nhà

cầm quyền Tƣởng Giới Thạch lúc đƣơng thời.

Yêu thƣơng những con ngƣời khổ đau bất hạnh bao nhiêu, Bác

cũng kịch liệt phê phán những kẻ vô lƣơng, bất chính bấy nhiêu. Ngòi

bút của Bác lúc thì trữ tình đằm thắm, khi lại trào lộng sâu cay, nhƣ

trƣờng hợp bài thơ Lai Tân (來賓), bài thơ số 96 của Nhật ký trong tù.

Xuất phát từ yêu cầu biểu đạt nội dung, Bác đã sử dụng một kết

cấu độc đáo, không theo trình tự, lớp lang kiểu khai, thừa, chuyển,

hợp của tứ tuyệt luật Đƣờng. Ở đây, Bác dùng cả ba câu đầu vào một

nhiệm vụ, nhƣ ba mũi xung kích cùng giáp công một tiền đồn:

Page 31: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 31

Câu 1: Ban trƣởng nhà lao chuyên đánh bạc

Câu 2: Giải ngƣời cảnh trƣởng kiếm ăn quanh

Câu 3: Chong đèn huyện trƣởng làm công chuyện

Câu 4, bất ngờ hạ xuống, kết thúc nhẹ bẫng:

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình

Bằng kết cấu “lệch chuẩn” đặc biệt này, Bác đã lôi ra giữa thanh

thiên bạch nhật những chân dung nhem nhuốc của các vị chức sắc, từ

ban trƣởng nhà lao đến cảnh trƣởng, huyện trƣởng, mỗi ngƣời một vẻ,

nhƣng đều giống nhau ở chỗ cùng đại diện cho bộ mặt đen tối, thối nát

của chính quyền (Tƣởng Giới Thạch). Họ đều là “trƣởng” (ngƣời

đứng đầu) nhƣng ngày ngày chỉ cặm cụi và mẫn cán với những tệ

đoan: cờ bạc, ăn chặn, chơi bời, hút xách, nhận hối lộ..., trong khi đó,

thật mai mỉa và khôi hài thay:

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình

(Lai Tân y cựu thái bình thiên).

Kết cấu 3/1, với vai trò bình đẳng, ngang hàng của câu 1, 2, 3 và

sự kết thúc đột ngột, bất ngờ ở câu 4 đã tạo ra một nét nhấn “chết

ngƣời”, cho ngƣời đọc thấy rõ tấm màn giả tạo “nghìn thu thái bình”

không che đƣợc hiện thực thối nát. Với bút pháp thâm thúy, với thủ

pháp nghệ thuật đối lập, kiểu câu lặp cú pháp mà chủ ngữ là những

ban trƣởng, cảnh trƣởng, huyện trƣởng cùng với những việc làm dơ

dáy của họ, bài thơ Đƣờng luật phá cách này giống nhƣ một cuộn

phim tƣ liệu cực ngắn, cực sắc lƣu lại vĩnh viễn bức tranh hiện thực

đen tối của xã hội Trung Quốc dƣới thời Tƣởng Giới Thạch. Giúp ta

nhìn đƣợc sâu hơn vào số phận khổ đau của nhân dân Trung Quốc

cũng nhƣ tình cảnh khốn cùng của những phạm nhân chẳng may trót

sa chân vào chốn ngục tù.

Cũng đứng trên lập trƣờng nhân văn sâu sắc, Bác có một cái nhìn

rất riêng, khác nhiều ngƣời về công trình Vạn lý Trƣờng Thành:

Nghe nói Trƣờng Thành vạn dặm trƣờng

Chạy từ Đông Hải tới Tây cƣơng.

Page 32: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

32 | TS. Phạm Thị Xuân Châu

Hàng bao nhiêu triệu ngƣời lao động

Xây đắp thành này trấn một phƣơng.

(Vịnh Vạn lý Trƣờng Thành)

Vạn lý Trƣờng Thành là một công trình kiến trúc thành lũy lớn

nhất trong lịch sử văn minh nhân loại, đƣợc UNESSCO xếp loại là

một trong bảy kỳ quan của thế giới. Năm 1955, Bác sang thăm Trung

Quốc. Đứng trƣớc Vạn lý Trƣờng Thành đồ sộ, nhƣng Bác không

choáng ngợp vì sự vĩ đại của nó mà xúc động nghĩ tới nhân dân,

những con ngƣời bình thƣờng nhất, bé nhỏ nhất, chịu nhiều khổ đau

và thiệt thòi nhất, hàng trăm vạn ngƣời, đã đắp nên thành này để “trấn

giữ một phƣơng”. Máu, mồ hôi, và nƣớc mắt của nhân dân lao động từ

bao nhiêu thế kỷ đã chảy xuống để dựng nên cho ai một Vạn lý

Trƣờng Thành?

Có thể thấy, tầm cao tƣ tƣởng, chiều sâu nhân văn, chính là nhân

cách văn hóa lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Ngƣời đứng trƣớc

công trình này, và đã viết nên bài thơ chỉ có bốn câu, hoàn toàn theo

đúng luật Đƣờng để nói quan điểm riêng của Bác về nhân dân, về Vạn

lý Trƣờng Thành.

Đến Khúc Phụ, Sơn Đông thăm miếu Khổng Tử, Bác cũng có

những cảm nghĩ sâu sắc để ngày nay chúng ta đƣợc học tập:

五月十九訪曲父 Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ,

古松古廟两依稀 Cổ tùng cổ miếu lƣỡng y hi.

孔家世力今何在 Khổng gia thế lực kim hà tại?

只剩斜陽照古碑 Chỉ thặng tà dƣơng chiếu cổ bi.

Dịch nghĩa:

Ngày 19 tháng 5 tới thăm Khúc Phụ,

Cây tùng cổ, ngôi miếu cổ, cùng chìm trong hoang vắng.

Thế lực họ Khổng ngày nay ở nơi nào?

Chỉ còn sót lại chút nắng chiều tà chiếu trên tấm bia cổ.

Page 33: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 33

Bài thơ chữ Hán, viết theo đúng đặc trƣng thể tứ tuyệt luật Đƣờng.

Câu 1: nói thời gian đến thăm Khúc Phụ, quê hƣơng của Khổng

Phu Tử.

Câu 2: nói không gian cảnh thực ngày nay: cây tùng nghìn tuổi,

ngôi miếu nghìn năm, cùng nhƣ chìm trong hoang vắng.

Từ cảnh thực ở câu 2, Bác mới đi tới câu thứ 3, nói những ý nghĩ

sâu xa của mình về Khổng giáo, mà Bác thấy là một thế lực đã lỗi thời

(dù Bác thấu hiểu Khổng Tử đã từng có một vị trí nhất định trong lịch

sử tƣ tƣởng phƣơng Đông):

Khổng gia thế lực kim hà tại?

Hai chữ “thế lực” nguyên để chỉ một sức mạnh đè nén, áp chế tƣ

tƣởng và số phận con ngƣời. Vậy nên, bốn chữ “Khổng gia thế lực”

mà Bác dùng mang nội hàm ý nghĩa phê phán rất sâu xa:

1) Đó là cái thế lực đã đèn nén con ngƣời công dân, không cho

con ngƣời có quyền tự do sống, giam con ngƣời trong vòng “tam

cƣơng” của Nho giáo, thống trị tƣ tƣởng con ngƣời bằng lí thuyết

quân thần/ vua và bề tôi, trói chặt con ngƣời trong vòng kiềm tỏa

của kẻ thống trị (Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung/ Vua bảo

bề tôi chết, mà không chịu chết là bất trung).

2) Đó là cái thế lực đã đè nén ngƣời phụ nữ dƣới chế độ nam

quyền bất bình đẳng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, khinh miệt

nữ giới: “Nữ nhân nan hóa”, và đặt ra thuyết “tam tòng” hà khắc trói

buộc ngƣời phụ nữ suốt cả cuộc đời “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng

phu, phu tử tòng tử”.

Bác phê phán Khổng giáo, nhƣng không phải là phê phán nội

dung đạo đức của đạo Khổng, mà là phê phán cái quyền uy, cái thế

lực đã hàng nghìn năm đè nén, áp chế con ngƣời bằng học thuyết

Khổng giáo.

Chính vì không công nhận tƣ tƣởng thống trị của Khổng giáo, cho

đó là một học thuyết đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại cách

Page 34: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

34 | TS. Phạm Thị Xuân Châu

mạng ngày nay, nên Bác đã nêu một câu hỏi đầy thâm thúy: Khổng

gia thế lực kim hà tại? Hỏi nhƣng chính là để khẳng định: Thế lực

hàng nghìn năm của họ Khổng nay đã đâu còn!

Cho nên, dƣới cái nhìn đầy chất nhân văn của Bác thì ngày nay

học thuyết Khổng giáo chỉ nhƣ ánh chiều tà còn rớt lại, cũng nhƣ

những gì đã đƣợc chạm khắc vào trong tấm bia cổ kia giờ đây cũng

nhạt mờ theo thời gian và đang chìm vào trong bóng tà dƣơng của

lịch sử:

Chỉ thặng tà dƣơng chiếu cổ bi.

KẾT LUẬN

1) Di sản của Bác để lại cho chúng ta trong mấy trăm bài thơ

Đƣờng luật Bác đã viết bằng chữ Hán và chữ Việt đã cho ta bài học

lớn về việc dùng nghệ thuật cổ điển, có những sáng tạo, để diễn đạt

những ý tƣởng hiện đại. Ta cũng thấy trong thơ của Bác có “trăm

lời trăm ý đẹp”, là những “vần thơ thép” mà vẫn “mênh mông bát

ngát tình”.

2) Dù khi phá cách, cải biến, hay khi giữ nguyên luật lệ của thơ

Đƣờng, thì thơ Bác vẫn thể hiện đúng con ngƣời Bác: không thụ động,

không sao chép, máy móc, mà luôn cơ động, linh hoạt, độc lập trong

tƣ duy và tự chủ trong sáng tạo. Chính điều đó làm nên phong cách

thơ Đƣờng luật của Bác: cổ điển mà hiện đại, truyền thống mà cách

mạng, làm đẹp thêm cho di sản thơ Đƣờng luật của dân tộc.

3) Giá trị thơ của Bác không phải chỉ đƣợc phát huy trong phạm

vi nƣớc ta mà còn đƣợc thế giới tìm hiểu và ngƣỡng mộ. Ông giám

đốc nhà xuất bản Pháp Pierre Seghers, khi xin in thơ Bác có phát

biểu rằng:

“Ngƣời đọc thơ Hồ Chí Minh nếu không nâng tâm trí mình lên

đúng mức thì rất khó để hiểu cho hết đƣợc cái tinh túy của thơ”.

PTXC

Page 35: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

CHẤT CHÂN THỰC VÀ LẠC QUAN

TRONG THƠ CHÛ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Nhà thơ Hoài Yên

Nguyên Chủ tịch CLB UNESCO Thơ Đƣờng Việt Nam

ĐT: 09 888 95 738

Nghe nói học giả ngƣời Trung Hoa, ông Quách Mạt Nhƣợc, khi

đọc Ngục trung nhật ký của chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khen hay và ví

với thơ của các danh sĩ đời Đƣờng. Điều đó có khía cạnh đúng, nhƣng

cũng có khía cạnh chƣa chính xác.

Khía cạnh đúng là ở tính chân thực trong biểu cảm thơ của họ

giống nhau, khiến những bài thơ đều hay và dễ đi vào lòng ngƣời đọc.

Ở khía cạnh khác, thơ chủ tịch Hồ Chí Minh thì lạc quan yêu đời, đầy

tự tin, còn thơ của các danh sĩ đời Đƣờng thì ngập chìm trong “nỗi

sầu vạn cổ”.

Chúng ta hãy phân tích 2 bài thơ làm ví dụ dƣới đây để chứng

minh luận điểm này:

Bài “Giải đi sớm” của chủ tịch Hồ Chí Minh:

I-

“Gà gáy một lần đêm chửa tan

Chòm sao đƣa nguyệt vƣợt lên ngàn

Ngƣời đi cất bƣớc trên đƣờng thẳm

Rát mặt đêm thu trận gió hàn.”

II-

“Hƣớng đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn quét sạch không

Hơi ấm bao la trùm vũ trụ

Ngƣời đi thi hứng bỗng thêm nồng.”

Nam Trân (Dịch)

Page 36: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

36 | Hoài Yên

Bài “Lúc chiều hôm” của danh sĩ thi thánh Đỗ Phủ (Đời Đƣờng):

“Nƣớc sông còn chảy mãi nơi này

Núi vắng mây chiều lơ lửng bay

Hoa lạnh nép mình trong cỏ rối

Chim buồn chọn chỗ giữa cây dày

Ngày nào nƣớc cũ về thăm nhỉ?

Thu muộn lòng riêng chịu khổ đây!

Tuổi trẻ đời ngƣời không trở lại

Bạc phau mái tóc tựa tơ gầy.”

Đinh Vũ Ngọc (Dịch)

Cách chọn bối cảnh thiên nhiên ở cả 2 bài đều có dụng ý. Chủ tịch

Hồ Chí Minh chọn buổi sáng, bắt đầu tử nửa đêm về sáng, trời còn

đang tối tăm mù mịt với những cơn gió rét mùa thu rát mặt. Nhƣng

sau đó, trời sáng hồng, hơi ấm tràn ngập, khiến ngƣời thơ dâng trào

cảm hứng. Tinh thần lạc quan của bài thơ bao trùm.

Trong khi đó, thi thánh Đỗ Phủ chọn khung cảnh buổi chiều của

một ngày sắp tàn. Ở thời của ông phổ biến một quan điểm là “Thi dĩ

bi vi mỹ” (Thơ có buồn mới hay), ngƣời thơ bơi trong “nỗi sầu vạn

cổ”, thƣơng cho thân phận chịu “riêng nỗi khổ đây, tiếc cho thời trai

trẻ không trở lại và ngán cho mái tóc bạc tựa tơ gầy! Cái khung cảnh

của một chiều thu muộn, mây bay lơ lửng, hoa lạnh chim buồn giúp

cho tác giả dễ gửi gắm lòng mình đang nhớ về quê hƣơng, những

mong giải tỏa nỗi buồn, nhƣng hình nhƣ lại càng buồn thêm! Nói nhƣ

thi tiên Lý Bạch “Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu”.

Cả hai bài thơ đều hay, đều dễ đi vào lòng ngƣời, bởi vì cả hai

tác giả đều giãi tỏ lòng mình một cách chân thực, thánh thiện (Có

chân, có thiện ắt có mỹ). Nhƣng họ khác nhau ở tinh thần và quan

điểm sống, nên những gì họ gửi gắm qua bài thơ thì hoàn toàn khác

nhau. Cái hay của thơ Đỗ Phủ, hàng nghìn năm nay đã đƣợc khẳng

định, nhƣng quan điểm “Dĩ bi vi mỹ” thì hiện thời không còn phù

hợp nữa. Thơ nói chung, đâu chỉ có buồn mới hay!?

HY

Page 37: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

BÁC HỒ VẬN DỤNG TUYỆT CÚ ĐƯỜNG THI

PGS-TS Hồ Sĩ Hiệp

Đại học Sƣ phạm Tp. Hồ Chí Minh

Bác Hồ là ngƣời tinh thông Hán ngữ, yêu thích văn học cổ Trung

Quốc. Từ nội dung các truyện cổ dân gian “Ngu Công dời núi” và

“Chim Tinh Vệ lấp biển” Bác đã sáng tác ra mấy câu thơ giản đơn

nhƣng ý nghĩa sâu sắc trong những năm khó khăn gian khổ, có tính

chất châm ngôn nhằm giáo dục thanh niên:

“Không có việc gì khó,

Chỉ sợ lòng không bền,

Đào núi và lấp biển,

Quyết chí ắt làm nên.”

“Lƣơng Sơn bá – Chúc Anh Đài” cũng là một truyện dân gian

quen thuộc của nhân dân Trung Quốc. Những năm sau hòa bình lập lại

(1954) sau khi xem đoàn Cải lƣơng Khu 4 diễn vở “Lƣơng Sơn Bá –

Chúc Anh Đài” Bác đã cảm hứng đọc mấy câu thơ sau đây nói lên

cảm nghĩ của mình về xã hội thời xa xƣa: Đánh cho phong kiến tan

tành, Cho bao nhiêu Anh Đài, Sơn Bá đƣợc thành lứa đôi …”

Ngoài văn học dân gian trong văn học Trung Quốc, Bác yêu thích

thơ Đƣờng, thơ Tống. Trong đời sống hàng ngày nhất là trong các bài

nói, bài viết Ngƣời thƣờng dẫn chứng nhiều thi từ, thi liệu của thơ ca

cổ điển Trung Hoa. Trong “Nhật ký trong tù”, ở trên đất nƣớc Trung

Quốc mặc dù tự nhận là “ngâm thơ ta vốn không ham” nhƣng vì

“trong ngục biết làm gì đây” nên Bác đành “vừa ngâm vừa đợi đến

ngày tự do”. Trong hơn một năm ngồi tù với cảnh “Quảng Tây giải

khắp mƣời ba huyện” để “vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”, Bác đã

Page 38: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

38 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp

đọc một tuyển tập thơ ca cổ điển Trung Quốc, sau đó Bác có làm thơ

nói lên cảm tƣởng của mình khi đọc tập thơ này – đó là bài “Cảm

tƣởng đọc Thiên gia thi” (Khán Thiên gia thi hữu cảm). “Thiên gia

thi” là một tập thơ mỏng, tuyển chọn các bài thơ tả cảnh thiên nhiên

phổ biến của thời Đƣờng – Tống thời xƣa dùng làm sách học cho trẻ

con ở nhà trƣờng. Tập này lƣu truyền khá phổ biến ở vùng Liễu Châu,

tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian thực tập Hán ngữ ở trƣờng Đại học

Sƣ phạm Quảng Tây tại Quế Lâm chúng tôi nhiều lần đến Liễu Châu.

Đi qua những nơi mà Bác Hồ đã từng đến và bị “giải khắp mƣời ba

huyện” của tỉnh Quảng Tây, chúng tôi đều cảm nhận thêm về tên đất,

tên ngƣời và sự việc mà Bác miêu tả trong “Nhật ký trong tù”. Trong

các hiệu sách lớn nhỏ của tỉnh Quảng Tây ngày nay, tập “Thiên gia

thi” đƣợc bày bán rất nhiều. Điều này gợi cho chúng tôi sự ƣớc đoán

là những thập kỷ đầu của thế kỷ này, “Thiên gia thi” là tác phẩm đƣợc

lƣu truyền rộng rãi ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc, nhất là ở Quảng

Tây và Quảng Đông.

Ở Trung Quốc hiện nay, có nhiều tập “Thiên gia thi”, nhƣ: “Thiên

gia thi” do Tạ Phƣơng Đắc chủ biên (Bắc Kinh, Đại Trung ấn loát),

“Thiên gia thi” do Lƣu Hậu Thôn biên soạn từ đời Tống. Theo chúng

tôi, bản “Thiên gia thi” mà Bác đọc trong thời gian ở nhà tù Liễu Châu

là bản của Lƣu Hậu Thôn, ngƣời đời Tống biên soạn.

“Thiên gia thi” dày hơn 200 trang, tuyển chọn 228 bài thơ của hơn

một trăm tác giả nổi tiếng (cũng có một số bài vô danh) của các đời

Đƣờng – Tống. Trong số các tác giả có thơ tuyển chọn vào thi tập và

có nhiều nhà thơ lớn nhƣ: Vƣơng Bột, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ,

Bạch Cƣ Dị (Đƣờng), Tô Thức, Lục Du (Tống), v.v… Thơ đƣợc

tuyển chọn đều thuộc loại thơ cận thể: ngũ tuyệt (39 bài), ngũ luật (47

bài), thất tuyệt (94 bài). Các bài thơ này đều là những bài thơ ngắn,

thanh luật đơn giản, lời thơ trau chuốt, ít điển cố, điển tích, dễ đọc, dễ

thuộc. Ngoài phần tuyển thơ sau mỗi bài đều có lời giới thiệu tác giả,

Page 39: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 39

chú giải và giải nghĩa rất cô đọng, dễ hiểu. Nhiều bài thơ hay đƣợc

truyền tụng trong thơ Đƣờng – Tống đều đƣợc tuyển chọn nhƣ bài

“Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Tĩnh dạ tƣ” của Lý Bạch, “Khúc

giang” của Đỗ Phủ, “Phong Kiều dạ bạc” của Trƣơng Kế, “Thanh

minh” của Đỗ Mục,“Thu tứ” của Lục Du, v.v…

Đề tài khá phổ biến trong “Thiên gia thi” là thiên nhiên. Chính vì

vậy, cảm tƣởng đầu tiên của Bác khi đọc thi tập này là: “Cổ thi thiên

ái thiên nhiên mỹ” (Thơ xƣa nghiêng về yêu vẻ đẹp của thiên nhiên).

“Cổ thi” mà Bác nói ở đây là “Cổ thi” trong “Thiên gia thi”, tức là

thơ Đƣờng, thơ Tống thời xƣa. Vì là sách dạy học ở trong nhà trƣờng

phong kiến Trung Quốc với mục đích làm cho ngƣời dạy, ngƣời học

dễ thuộc, dễ nhớ ít liên quan đến xã hội, chính trị nên thơ tuyển chọn

trong “Thiên gia thi” phần lớn là thơ miêu tả về cảnh đẹp thiên nhiên

với cảnh núi sông, cỏ cây, hoa lá, hoa tuyết, gió mây mà Bác khái

quát là: “Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong” (Mây, gió, trăng, hoa,

tuyết, núi, sông) mà ít chú ý đến phản ảnh hiện thực đời sống xã hội.

Không có nhà thơ đời Đƣờng – Tống nào là không có những bài

thơ miêu tả thiên nhiên tuyệt hay. Cảnh “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết,

núi, sông” mà Bác nói chính là những đề tài phổ biến trong thơ của

các nhà thơ nổi tiếng đời Đƣờng nhƣ: Lý Bạch, Vƣơng Duy, Mạnh

Hạo Nhiên, Cao Thích, Sầm Tham, Trƣơng Nhƣợc Nhƣ. Thái độ của

Bác sau khi đọc “Thiên gia thi” là nói lên cảm tƣởng của mình chứ

không phải phê bình nhƣ trƣớc đây nhiều ngƣời đã nhận định theo

câu thơ dịch “Thơ xƣa yêu cảnh thiên nhiên đẹp”. Theo ý ấy của Bác

có thể hiểu là: sau khi đọc “Thiên gia thi” ngoài các đề tài xã hội và

nhân sinh thì phần lớn các thi phẩm này “nghiêng về miêu tả cảnh

đẹp thiên nhiên” (thiên ái thiên nhiên mỹ). Từ cảm tƣởng đến đề tài

xã hội, nhân sinh, thơ ca phải là vũ khí, có tính chiến đấu cao, nhà

thơ phải là ngƣời chiến sĩ, hăng hái xung phong trên mặt trận văn

hoá tƣ tƣởng: “Nay ở trong thơ nên có thép; nhà thơ cũng phải biết

Page 40: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

40 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp

xung phong” (Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết, thi gia dã yếu hội

xung phong).

Trong thơ ca cổ điển Trung Hoa, Bác chịu ảnh hƣởng của thơ

Đƣờng khá sâu sắc về các mặt: thể loại, ngôn từ, thi tứ, tiêu đề, bút

pháp, v.v… Tuyệt đại thơ chữ Hán của Bác Hồ là thơ tứ tuyệt, tiêu đề

các bài thơ nhƣ: Thu dạ, Đối nguyệt, Đăng sơn, Thế lộ nan, Vọng

nguyệt, Trung thu, Dạ cảnh, Hoàng hôn trong thơ Bác đều rất phổ

biến trong thơ Đƣờng – Tống. Những lối thơ nhƣ vịnh, phỏng, tƣ,

tặng, vô đề mà Bác sử dụng đều quen thuộc trong thơ Đƣờng.

Thơ Đƣờng (618 - 907) là đỉnh cao chói lọi của thơ cổ Trung

Quốc và phƣơng Đông. Thời xƣa và ngay cả thời nay các nƣớc “đồng

văn” nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều chịu ảnh hƣởng sâu

sắc của thơ Đƣờng. Sự ảnh hƣởng đó kết hợp với sự vận dụng, sáng

tạo để sáng tác những thi phẩm mang phong cách, thể luật và ngôn từ

hàm súc, tinh luyện của Đƣờng thi. Có thể nói ở các nƣớc phƣơng

Đông không có quốc gia nào chịu ảnh hƣởng và vận dụng sáng tạo thơ

Đƣờng nhƣ ở Việt Nam. Từ ngàn xƣa ở Việt Nam đã có các khái

niệm quen thuộc nhƣ “thơ Đƣờng”, “thơ Đƣờng luật”. “Thơ Đƣờng”

là để chỉ thơ Trung Quốc xuất hiện ở đời Đƣờng và “thơ Đƣờng” luật

là để chỉ thơ cổ Việt Nam mà ngƣời Việt Nam sáng tác theo thể thơ

Luật thi – thất ngôn bát cú của đời Đƣờng. Thơ Đƣờng luật gồm 8

câu, mỗi câu 7 chữ tuy đã là ngắn, gọn so với những kiệt tác trƣờng

thi kiệt tác trong thơ Đƣờng nhƣ “Trƣờng hận ca” và “Tỳ bà hành”

của Bạch Cƣ Dị nhƣng để rút gọn hơn, ngắn hơn, đơn giản và dễ

hiểu hơn, các nhà thơ đời Đƣờng đã có “sáng kiến” là “cắt” bài Luật

thi (8 câu) ra thành hai bài gọi là “tuyệt cú”. Chữ “tuyệt” trong “tuyệt

cú” vốn gọi là “tiệt cú” (tiệt là cắt – thơ 8 câu cắt ra), cắt từ một bài 8

câu của Luật thi thành ra hai bài 4 câu của thơ tuyệt cú. Tƣởng rằng

thơ Luật thi 8 câu hoàn chỉnh hay nhƣng thơ tuyệt cú 4 câu cũng rất

tuyệt diệu về ngôn từ và ý tứ nên đƣơng thời không gọi là thơ “tiệt

cú” (thơ câu cắt) mà gọi là thơ “tuyệt cú” (thơ câu hay). Ở Trung

Quốc xƣa nay thƣờng gọi thể thơ độc đáo này của thơ Đƣờng là tuyệt

Page 41: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 41

cú còn ở Việt Nam hay gọi là thơ “tứ tuyệt”. Luật thi và tuyệt cú là

hai thể loại đặc sắc và rất phổ biến trong thơ Đƣờng. Hai bài “tuyệt

cú” là “Phong Kiều dạ bạc” của Trƣơng Kế và “Thanh minh” của

Đỗ Mục rất đƣợc yêu thích và lƣu truyền ở Việt Nam xƣa nay. Các

nhà thơ lớn của dân tộc ta nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân

Hƣơng đều chịu ảnh hƣởng sâu sắc và sáng tạo đối với thơ tuyệt cú

đời Đƣờng. Các nhà thơ Việt Nam nổi tiếng nhƣ Tản Đà, Xuân Diệu,

Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Tế Hanh đều yêu thích, chịu ảnh

hƣởng và vận dụng thể thơ rất đặc biệt này của thơ Đƣờng.

Bác Hồ là nhà chính trị đồng thời cũng là nhà văn hóa, nhà thơ.

Trong cuộc đời cách mạng, về văn, Ngƣời chịu ảnh hƣởng của văn

phƣơng Tây và Nga. Về thơ, Ngƣời am tƣờng, yêu thích và hay vận

dụng thơ Đƣờng để tuyên truyền, vận động và giáo dục quần chúng.

Ngƣời nói: “Ngâm thơ ta vốn không ham, nhƣng vì trong ngục biết

làm chi đây. Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, vừa ngâm vừa đợi đến

ngày tự do” (Nhật ký trong tù). Bài “Khán Thiên gia thi hữu cảm”

(Cảm tƣởng đọc Thiên gia thi) có thể coi là một bài cảm nhận và phê

bình thơ đơn giản, dễ hiểu của Bác. Bác nói đến hai chữ “cổ thi” (thơ

cổ) để chỉ thơ cổ Trung Hoa chủ yếu là thơ Đƣờng. Đề tài phổ biến

trong thơ Đƣờng là “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Đó là thực

thể, là vẻ đẹp của tự nhiên. Hai câu cuối thể hiện cảm nghĩ và cũng có

thể nói là quan niệm của Bác đối với thơ ca hiện đại phải là có “chất

thép” và nhà thơ chẳng phải để “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”

mà phải biết “xung phong” mạnh mẽ trên mặt trận văn hóa.

Nói đến sự vận dụng thơ tuyệt cú đời Đƣờng của Bác trong cuộc

sống và hoạt động của Bác là phải nói đến một thi tập mà ở trong nhà

tù Tƣởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Trung Quốc mà Bác có đọc và

sau đó có làm một bài thơ phát biểu cảm tƣởng – đó là tập thơ “Thiên

gia thi” (Thơ nghìn nhà) của nhà thơ cũng là nhà biên soạn đời Tống

là Lƣu Hậu Thôn. Thời gian ở trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch Bác

đã đọc “Thiên gia thi” và họa theo một số bài với mục đích nói lên

cảm nghĩ, hoàn cảnh của bản thân và hiện thực ở chốn lao tù thời bấy

Page 42: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

42 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp

giờ. Ngày nay, sau hơn 75 năm, đọc lại “Nhật ký trong tù” (1941) và

thơ kháng chiến làm trong kháng chiến ở Việt Bắc của Bác, mọi

ngƣời đều dễ nhận thấy Bác đã khéo vận dụng ý tứ, vần điệu, đề tài

của thơ tứ tuyệt đời Đƣờng trong cuộc sống và hoạt động cách mạng

của mình.

Qua “Nhật ký trong tù” và thơ chữ Hán của Bác, chúng ta có thể

thấy Bác vận dụng thơ Đƣờng – Tống rất nhiều. Câu thơ “xuân giang

xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân nƣớc lẫn, màu trời thêm xuân)

trong bài “Nguyên tiêu” của Bác không phải là không có duyên nợ

với câu thơ “Thu thủy cộng trƣờng thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với

trời xa một màu) trong bài “Đằng Vƣơng Các tự” của thi sĩ Vƣơng

Bột. Đọc bài thơ “Vọng nguyệt” (Ngắm trăng) của Bác ngƣời đọc liên

tƣởng đến bài thơ “Tĩnh dạ thƣ” (Suy nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của

Lý Bạch. Trong bài “Đi đƣờng” của Bác có hai câu: “Trùng sơn đăng

đáo cao phong hậu. Vạn lý dƣ đƣa cố miện gian” (Núi cao lên đến tận

cùng. Thu vào tầm mắt muôn trùng nƣớc non) thì cũng có tứ thơ giống

câu thơ “Dục cùng thiên lý mục. Cánh thƣớng nhất tầng lâu” trong bài

“Đăng Quán Tƣớc lâu” của Vƣơng Chi Hoán. Bài “Giữa đƣờng đáp

thuyền đi huyện Ung Ninh” của Bác có hai câu cuối: “Lƣỡng ngạn

hƣơng thôn trù mật thậm. Giang tâm ngƣ phủ điếu thuyền khinh” (Làng

xóm ven sông đông đúc thế. Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh) rất

gần với hai câu: “Lƣỡng ngạn viên thanh đề bất tận. Khinh chu dĩ quá

vạn trùng san” (Hai bên bờ sông tiếng vƣợn kêu không ngớt. Thuyền

nhẹ tênh tênh đã vƣợt núi muôn trùng) trong bài “Tảo phát Bạch Đế

Thành” của Lý Bạch. Bài “Trung thu II” của Bác có tứ thơ “Tâm tùy

thu nguyệt cộng du du” (Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu) là bắt

nguồn từ tứ thơ “Tâm tùy hồ thủy cộng du du” (Lòng ta cứ man mác

theo nƣớc hồ mênh mông) trong bài “Tống Lƣơng Lục” của Trƣơng

Duyệt, thi sĩ thời Khai–Nguyên, Thiên–Bảo, Thịnh–Đƣờng. Nếu trong

bài “Tống Lƣơng Lục” Trƣơng Duyệt tỏ ra bất lực trƣớc sự ƣớc mong

của mình (Vân đạo thần tiên bất khả tiếp) thì trong bài “Trung thu II”

của Bác, mặc dù “Chẳng đƣợc tự do mà thƣởng nguyệt” nhƣng Ngƣời

Page 43: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 43

vẫn đạt đƣợc mong ƣớc theo cách riêng đầy lạc quan, yêu đời của mình

là “lòng theo vời vợi mảnh trăng thu”…

Trong các nhà thơ đời Đƣờng, Bác Hồ yêu mến và kính phục nhất

là Đỗ Phủ. Trong “Di chúc”, Bác đã nhắc đến Đỗ Phủ: Ông Đỗ Phủ là

ngƣời làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời nhà Đƣờng có câu:

“Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (đời ngƣời sống 70 xƣa nay hiếm). Câu

thơ mà Bác trích là từ bài “Khúc giang” của Đỗ Phủ. Bài “Khúc

giang” của Đỗ Phủ có hai câu là: “Tửu trái tầm thƣờng hành xứ hữu,

Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (Nợ rƣợu thƣờng thƣờng đi đến đâu

cũng mắc phải, đời ngƣời sống 70 xƣa nay hiếm). Bác Hồ không trích

câu trên mà chỉ trích câu thơ sau của Đỗ Phủ để nói lên quy luật của

cuộc đời. Trong bài “Thất tửu” Bác lại có câu phảng phất giọng thơ

của Đỗ Phủ trong bài “Khúc giang”. Câu thơ của Bác là: “Nhân vị

ngũ tuần thƣờng thán lão” (Ngƣời đời thƣờng chƣa đến năm mƣơi đã

than già). Từ những dẫn chứng này có thể thấy Bác là ngƣời tâm đắc

và yêu mến thơ Đỗ Phủ nhƣ thế nào!

Đối với thơ ca cổ điển Trung Hoa thái độ của Bác là tiếp thu về

mặt hình thức và sáng tạo về mặt nội dung hay nói một cách khác, Bác

vận dụng từ ngữ, ý tứ, thi liệu trong thơ Đƣờng – Tống, từ đó thay đổi,

cải biến để diễn tả nội dung mới phù hợp với cách cảm, cách nghĩ độc

đáo của Bác. Ai cũng biết bài “Đăng Quán Tƣớc lâu” của Vƣơng Chi

Hoán là một bài thơ rất nổi tiếng hay cả về ý và lời. Câu thơ “Dục

cùng thiên lý mục. Cảnh thƣớng nhất tằng lâu” (Muốn tầm mắt nhìn

thấu nghìn dặm, hãy lên cao một tầng lầu) của Vƣơng Chi Hoán là tả

chiều cao và chiều rộng của không gian nhƣng chƣa nói đƣợc cái tình

ngƣời. Trong bài “Nạn hữu xuy địch” (Nghe bạn tù thổi sáo) dựa theo

tứ thơ của Vƣơng Chi Hoán nhƣng Bác diễn tả theo cách riêng của

mình. Cách riêng ấy là tình cảm, lòng thƣơng ngƣời vô hạn của Bác

trong chốn lao lung tù ngục: “Thiên lý quan hà khôn xiết nỗi, Lên lầu

ai đó ngóng trông nhau”. Rõ ràng hai câu thơ của Bác rất sâu sắc về ý

và lời. Câu thơ dàn trải về không gian, thời gian nhƣng nặng trĩu, sâu

Page 44: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

44 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp

lắng về nỗi đau của lòng ngƣời. Sự so sánh, liên tƣởng của Bác trong

hai câu thơ này là đúng và hay.

Một nhà thơ đời Đƣờng mà Bác cũng có nhiều thiện cảm, đó là

Đỗ Mục (803 - 853). Ông tự Mục Chi, ngƣời Kinh Triệu, tỉnh Thiểm

Tây, năm 26 tuổi đậu tiến sĩ, có ra làm quan. Ông giỏi về thơ thất

ngôn, tuyệt cú, ý hàm súc, lời điêu luyện. Cùng với “Bạc Tần Hoài”,

“Thanh minh” là một bài thơ nổi tiếng của ông đƣợc ngƣời đời sau

truyền tụng. “Thanh minh” miêu tả tâm trạng u buồn, chán ngán và

lạnh lẽo của kẻ hành nhân lữ thứ trong cảnh thời tiết của ngày thanh

minh có mƣa phùn, rét buốt. Dựa vào tiêu đề của Đỗ Mục trong “Nhật

ký trong tù” Bác cũng sáng tác một bài thơ chữ Hán tên là “Thanh

minh”. Câu đầu của bài thơ Bác vẫn giữ nguyên câu thơ của Đỗ Mục

(Thanh minh thời tiết vũ phân phân) nhƣng đến câu thơ thứ 2, 3 và 4

thì Bác thay đổi từ ngữ để diễn tả nội dung hoàn toàn mới (Lung lý –

Tù nhân – Tự do – Vệ binh – Biện công môn). Ở đây không còn là

hình ảnh của một ngƣời lữ thứ trong ngày thanh minh trời lạnh, giá rét,

trời mƣa, cô đơn, u buồn chỉ biết tìm đến một quán rƣợu để giải sầu mà

là hình ảnh của một ngƣời tù nhân ở chốn lao lung, khát khao cuộc sống

tự do, có nhu cầu về quyền sống, quyền làm ngƣời. Đúng nhƣ nhận xét

của Phan Nhuận, ngƣời dịch “Nhật ký trong tù” ra tiếng Pháp, tuy Bác

thay đổi có 11 chữ nhƣng đã “thay đổi linh hồn của một bài thơ”. Có

nghĩa là từ bút pháp hoàn toàn hiện thực của Đỗ Mục, Bác đã chuyển

sang bút pháp lãng mạn cách mạng với nội dung hoàn toàn mới, mang

tính thời sự và thời đại sâu sắc.

Nói đến việc vận dụng sáng tạo và linh hoạt của Bác đối với thơ

tuyệt cú Đƣờng luật phải nói đến trƣờng hợp Bác sử dụng tứ thơ độc

đáo trong bài “Phong Kiều dạ bạc” của thi sĩ Trƣơng Kế (sống trƣớc

sau năm 756), ngƣời thời Thịnh Đƣờng. Ông là ngƣời Tƣờng Châu,

tỉnh Hồ Bắc, đậu tiến sĩ và có ra làm quan. Thơ của Trƣơng Kế chủ

yếu là thơ tả cảnh. Bài “Phong Kiều dạ bạc” (Đêm đậu thuyền ở bến

Page 45: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 45

Phong Kiều) là thi phẩm tuyệt vời, không có thi tập và thi thoại nào là

không nhắc đến. Tƣơng truyền rằng thi phẩm này của Trƣơng Kế, có

đƣợc là do có cảm xúc dạt dào, bột phát của tác giả khi nghe tiếng

chuông chùa Hàn San trong đêm khuya thanh vắng vọng đến thuyền

khách đang đậu ở bến Phong Kiều. Trƣớc cảnh đẹp thiên nhiên vào

rằm tháng giêng ở Việt Bắc, Bác đã sáng tác bài thơ “Nguyên tiêu”.

Bài thơ của Bác mang “phong vị” của thơ Đƣờng rất rõ nét. Điều đáng

nói ở đây là tƣ thế của hai thi nhân ở hai hoàn cảnh khác nhau. Cùng

là ban đêm nhƣng thi sĩ Trƣơng Kế thì buồn sầu, thả hồn theo giấc ngủ

trên chiếc thuyền con bé nhỏ trƣớc cảnh đèn chài lẻ loi và hàng cây

phong lặng lẽ, trong khi đó đêm “Nguyên tiêu” Bác đang “giữa dòng

bàn bạc việc quân”, bàn về việc quốc gia đại sự giữa đêm khuya trong

núi rừng Việt Bắc. Tính chất thơ ca phƣơng Đông cổ kính, trang

nghiêm, với sự cách tân hiện đại đƣợc Bác thể hiện trong thi phẩm

tuyệt vời này. Cũng là cảnh ban đêm nhƣng cảnh trong bài “Phong

Kiều dạ bạc” là “trăng tà, tiếng quạ kêu sƣơng”, là “lửa chài, cây bến

sầu vƣơng giấc hồ”, là “thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng

chuông chùa Hàn San” còn cảnh trong bài “Nguyên tiêu” của Bác là

cảnh “Rằm xuân lồng lộng trăng soi”, là “Sông xuân nƣớc lẫn màu

trời thêm xuân”, là “Giữa dòng bàn bạc việc quân, khuya về bát ngát

trăng ngân đầy thuyền” ở núi rừng Việt Bắc trong những năm kháng

chiến gian khổ. Bài “Tặng Trần Canh đồng chí” (Tặng đồng chí Trần

Canh) của Bác là “họa” lại bài thơ “Lƣơng châu từ” của thi sĩ Vƣơng

Hàn đời Đƣờng. Bài thơ này của Bác là làm tặng tƣớng Trần Canh

thời kháng chiến ở Việt Bắc.

Ông Quách Mạt Nhƣợc là một nhà văn, nhà thơ lớn của Trung

Quốc. Khi ông sang thăm Việt Nam, vào thăm nơi ở và làm việc tại

ngôi nhà sàn trong Phủ Chủ tịch Bác đã mời ông Quách Mạt Nhƣợc

ngồi xuống sàn và cùng nói chuyện thơ văn. Bác nói với ông Quách

Mạt Nhƣợc về ấn tƣợng sâu sắc của Bác với thơ văn Đƣờng – Tống.

Page 46: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

46 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp

Sau buổi tiếp, Bác đã tặng ông Quách Mạt Nhƣợc tập thơ “Nhật ký

trong tù” vừa xuất bản. Bác đề nghị ông Quách Mạt Nhƣợc đọc và

viết nhận xét. Sau khi về nƣớc, đọc đi đọc lại tập thơ viết bằng chữ

Hán vô giá của Bác làm trên đất Trung Quốc năm xƣa ông Quách Mạt

Nhƣợc đã viết bài đăng trên báo chí Trung Quốc và nhận xét: “Nhật ký

trong tù “không phân biệt đâu là thơ Bác, đâu là thơ Đƣờng – Tống”

và nhà thơ Viên Ƣng không hết lời ca ngợi Bác là “bậc đại trí, đại

nhân và đại dũng”.

HSH

Page 47: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

“VĂN DĨ TÂI ĐẠO”

TRONG CÁC TÁC PHẨM ĐƯỜNG THI CÛA HỒ CHÍ MINH

Ths. Đào Tuấn Anh

Bảo tàng Hồ Chí Minh

Khi đề cập đến giá trị của những tác phẩm thi ca Hồ Chí Minh

mang khuynh hƣớng Đƣờng thi đƣợc thể hiện trong tập thơ Nhật ký

trong tù, nhà văn, nhà thơ, Quách Mạt Nhƣợc của Trung Quốc đã

nhận xét: “Nội dung là thổ lộ trực tiếp nỗi niềm tâm sự hoặc phản

ánh những điều thấy trƣớc mắt, hầu hết đều không màu mè, tô vẽ,

mà rõ ràng nhƣ lời nói. Có một số bài rất hay, nếu nhƣ đặt lẫn vào

trong tập thơ của những thi nhân thời Đƣờng đời Tống, thì cũng

khó mà phân biệt đƣợc”1. Giá trị về mặt văn học nghệ thuật là nhƣ

vậy, nhƣng cũng chính những tác phẩm này còn thể hiện một khía

cạnh khác, đó chính là tôn chỉ, mục đích viết và sáng tác “văn dĩ tải

đạo” của Hồ Chí Minh.

Sinh thời mục đích viết trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đƣợc

Ngƣời xác định đó là viết cho ai, viết làm gì, viết cái gì và viết nhƣ thế

nào. Vì vậy, trong những tác phẩm báo, thơ, những bài văn chính luận,

Ngƣời đều viết rất ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức

của đa số ngƣời dân Việt Nam, đa phần những tác phẩm thể hiện mục

đích tuyên truyền cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều “muốn

nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có ngƣời sẽ chê rằng văn

1Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,

2012, tập 3, tr. 327.

Page 48: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

48 | ThS. Đào Tuấn Anh

chƣơng cụt quằn. Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau

mắn, chắc chắn nhƣ 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả”2,

Với Hồ Chí Minh, Ngƣời nhận thấy:

Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,

Mây gió trăng hoa tuyết núi sông.

Nhƣng, ở trong thời kỳ mà cả đất nƣớc đều chịu dƣới ách áp

bức của chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì nhà thơ cũng phải đứng lên

chiến đấu, phải dùng ngòi bút của mình để đánh địch trên mặt trận

văn hóa, tƣ tƣởng, vậy nên:

“Nay ở trong thơ nên có thép,

Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”

Bởi Ngƣời hiểu rằng “Hơn sáu mƣơi năm nay, đế quốc chủ nghĩa

Pháp đạp trên đầu; hơn hai mƣơi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử

địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu rảnh mà

vẽ vời trau chuốt!...”3 Thực hiện tôn chỉ, mục đích đó nên đa phần thơ,

văn, báo chí của Ngƣời đều đi vào lòng quần chúng nhân dân nhƣ

những câu ca dao, hò vè, truyền khẩu ngắn gọn, thích ứng với những

đối tƣợng tuyên truyền cụ thể thì có những tác phẩm cụ thể nhƣ: Hòn

đá, Ca sợi chỉ, Con cáo và tổ ong, Ca binh lính,…

Khi trò chuyện với M. Tkát Sốp, dịch giả Liên Xô về mối quan hệ

giữa thơ và chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chia sẻ:

“Tôi vẫn nghĩ thơ và chính trị không thể tách rời - Ngƣời ngừng một

chút rồi thêm - Còn, có phải thơ chính trị không “cao quý”? Và đó

không phải là loại mà ngƣời làm thơ có thể viết hay? Có phải nhà thơ

không cần làm những bài thơ liên quan đến việc đấu tranh với những

cái xấu? Không, không thể thế đƣợc. Tôi cho rằng, không nghi ngờ gì

cả, cũng nhƣ các ngành nghệ thuật khác, thơ phải gắn bó với sự

nghiệp cách mạng; đó là điều khẳng định. Và những gì đặt ra chung

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.283.

3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.283.

Page 49: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 49

quanh việc này có quan hệ đến nhân cách nhà thơ”4. Rõ ràng, với Hồ

Chí Minh, thơ và chính trị có một sự gắn kết đặc biệt, thơ ca không

thể xa rời cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, thi nhân không thể

không thể hiện trách nhiệm trƣớc vận mệnh của nhân dân và của chính

bản thân mình.

Mục đích, tôn chỉ là nhƣ vậy, và trong các sáng tác của mình ,

Hồ Chí Minh cũng nghiêm túc thực hiện tinh thần thẳng thắn, ngắn

gọn, cô đọng, súc tích, dễ xem, dễ hiểu, dễ thực hành. Tuy nhiên

trong di sản thơ văn đồ sộ của Hồ Chí Minh không thể không đề

cập tới một hệ thống các tác phẩm mang khuynh hƣớng Đƣờng thi,

vừa có giá trị văn học, nghệ thuật cao, thể hiện trí tuệ, trình độ thơ

văn đạt đến độ mẫu mực của Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là sự

giãi bày những tâm tƣ, tình cảm, quan điểm sáng tác “văn dĩ tải

đạo” của Ngƣời, dùng thơ văn làm phƣơng tiện truyền tải tƣ tƣởng,

suy nghĩ của mình trƣớc thời cuộc.

Sinh ra và lớn lên trên một vùng đất có mạch nguồn văn hóa nổi

bật, lại đƣợc đào tạo những giá trị Hán học ngay từ thủa thiếu thời, vì

vậy những ảnh hƣởng của thi ca Trung Quốc đã sớm thấm đẫm trong

con ngƣời Hồ Chí Minh. Theo GS. TSKH, nhà phê bình lý luận văn

học Phƣơng Lựu: “Có thể nói Bác là một vạch nối vĩ đại giữa chúng

ta, những thế hệ con cháu của Ngƣời, với tất cả những cái gì tốt đẹp:

chân, thiện, mỹ trong cuộc đời và trong lịch sử. Đồng chí Phạm Văn

Đồng có nói, Bác đã Việt Nam hoá cho chúng ta tất cả những cái gì là

tinh hoa của thế giới. Cũng có thể học tập cách nói ấy và thêm rằng

Bác đã hiện đại hóa cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp trong

quá khứ dân tộc. Ở một mức độ nhất định, thơ Đƣờng là giao tiếp của

hai mặt đó. Vì thơ Đƣờng là sản phẩm văn hoá của nƣớc láng giềng,

nhƣng đã vốn gắn bó với di sản của ta. Ngƣời ta thƣờng nói đến cái

cốt cách Á Đông, cái phong thái cổ điển ở Bác. Thơ Đƣờng đƣợc sử

4Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,

2012, tập 3, tr. 402.

Page 50: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

50 | ThS. Đào Tuấn Anh

dụng và đổi mới trong thơ Bác - chủ yếu là ở trong thơ chữ Hán - mặc

dù ở một góc rất nhỏ, cũng góp phần nói lên cái cốt cách đó, cái phong

thái đó”5. Tuy vậy, cái chất thơ Đƣờng đó xét cho đến cùng cốt cũng

chỉ để nói lên tinh thần và khí phách con ngƣời cách mạng Hồ Chí

Minh, nói lên nỗi tâm tƣ và khát vọng của một ngƣời muốn đổi thay,

cách mạng để xây dựng nên một thế giới, một đất nƣớc tốt đẹp hơn, vì

vậy, ở khía cạnh nào đó, “nói thơ chữ Hán của Bác chịu ảnh hƣởng của

Đƣờng thi, không bằng nói có sự gặp gỡ giữa phong cách Đƣờng thi

với phong thái của Bác: ung dung, thanh thản, nhƣng kỳ vĩ sâu lắng”6.

Hồ Chí Minh cũng đồng thời thể hiện rõ là một thi nhân kiệt xuất,

am tƣờng những giá trị văn hóa cổ kim của cả phƣơng Đông và

phƣơng Tây, sự tài tình của Ngƣời là đã lồng ghép những giá trị tinh

tế của văn hóa phƣơng Tây vào các tác phẩm Đƣờng thi phƣơng

Đông. Dịch giả Phan Nhuận, ngƣời đã dịch tác phẩm Nhật ký trong tù

ra tiếng Pháp đã nhận xét khá tinh tế về nội dung hình tƣợng trong hai

bài Cấm hút thuốc lá và Tiết thanh minh nhƣ sau: “Trƣớc một tấm

bảng đề cấm hút thuốc, một tên cai ngục tịch thu thuốc lá của tù nhân.

Để bắt ngƣời ta tôn trọng pháp luật chăng? Không phải, để nhét cho

đầy cái túi thuốc lá của nó. Đây là lối châm biếm Pháp: đòi hỏi, bƣớng

bỉnh. Một tù nhân trƣớc cảnh mƣa phùn không ngớt, giam hãm tâm

hồn trong hàng triệu sợi dây của một mối thất vọng ảo não. Vậy không

nơi nào có lối thoát ƣ? Ngƣời cai ngục chỉ ra lối công đƣờng ở xa. Đó

là nụ cƣời Anh”7.

Làm đƣợc điều đó, bởi Hồ Chí Minh đã là sự tích hợp các giá trị

văn hóa không chỉ của phƣơng Đông mà còn cả các giá trị văn hóa

phƣơng Tây, bởi khi nghiên cứu và tìm hiểu về các tác phẩm văn học

của nhân loại, Ngƣời “thích đọc Sếch–pia (Shakespeare) và Đích–ken

5Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005,

tr. 479. 6Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 482.

7Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 480.

Page 51: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 51

(Dickens) bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa và Huy Gô

(Hugo), Dôla (Zola) bằng tiếng Pháp”. Ngôn ngữ, đó chính là con

đƣờng tốt nhất mà Hồ Chí Minh đã dùng để mở và đi vào khu vƣờn

văn hóa của các quốc gia, học hỏi và làm giàu cho vốn hiểu biết của

mình, đồng thời từ đó cũng xây dựng và định hình nên một khả năng

độc lập trên cơ sở kế thừa tinh hoa của dân tộc và nhân loại trong

những sáng tác của Ngƣời. Ngƣời có thể làm thơ mang phong cách

Đƣờng thi bởi Ngƣời đã hiểu và làm chủ Đƣờng thi, hiểu và nắm vững

văn hóa Trung Hoa, để từ đó, Ngƣời đã có thể sáng tạo trên cơ sở từ

chính Đƣờng thi.

Ngƣời thực sự trở thành một tác gia lớn của nền văn thơ hiện đại

nƣớc nhà, trong những giá trị thi ca to lớn Hồ Chí Minh để lại, những

tác phẩm Đƣờng thi của Ngƣời thực sự là mẫu mực về thơ văn. Những

thi phẩm của Hồ Chí Minh mặc dù thi liệu vẫn mang tính truyền

thống, nội dung có thể vẫn là những cảnh lƣu luyến khi chia tay, nỗi

niềm xúc động trƣớc phong cảnh đẹp, hay nỗi nhớ bạn hữu, quê

hƣơng của ngƣời thi sĩ đang phải chịu cảnh tha hƣơng,…

“Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,

Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng;

Nay gặt đã xong, cày đã khắp,

Quê ngƣời, tôi vẫn chốn lao lung.”

Hay:

“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,

Lòng sông gƣơng sáng, bụi không mờ;

Bồi hồi dạo bƣớc Tây Phong lĩnh,

Trông lại trời Nam, nhớ bạn xƣa.”

Nhƣng hồn trong đó lại thể hiện chí khí của ngƣời cách mạng

hiện đại, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi trƣớc những đe dọa từ

thực tế đang phải chịu đựng, và niềm tin sắt đá không gì lay chuyển

nổi của Ngƣời.

Page 52: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

52 | ThS. Đào Tuấn Anh

“Trời xanh cố ý hãm anh hùng

Tám tháng hao mòn với xích gông

Tấc bóng nghìn vàng đà đáng tiếc

Ngày nào thoát khỏi chốn lao lung”

Trong thơ Hồ Chí Minh, hình ảnh Tổ quốc đau thƣơng luôn hiện

lên, nhắc Ngƣời không bao giờ đƣợc quên trách nhiệm của mình với

việc giải phóng nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ.

“Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh,

“Nội thƣơng” đất Việt cảnh lầm than;

Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,

Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!”

Vƣợt lên trên những đè nén, khó khăn gặp phải trên hành trình

vạn dặm tìm lại vị thế cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã không ngừng tu

dƣỡng, rèn luyện mình trong những bƣớc gian truân; Trong bài Bốn

tháng rồi, Ngƣời viết:

“Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài”,

Lời nói ngƣời xƣa đâu có sai;

Sống khác loài ngƣời vừa bốn tháng,

Tiều tuỵ còn hơn mƣời năm trời.”

Bởi vì:

“Bốn tháng cơm không no,

Bốn tháng đêm thiếu ngủ,

Bốn tháng áo không thay,

Bốn tháng không giặt giũ.”

Cho nên:

“Răng rụng mất một chiếc,

Tóc bạc thêm mấy phần,

Gầy đen nhƣ quỷ đói,

Ghẻ lở mọc đầy thân.”

Page 53: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 53

May mà:

“Kiên trì và nhẫn nại,

Không chịu lùi một phân,

Vật chất tuy đau khổ,

Không nao núng tinh thần.”

Trong bài Nghe tiếng giã gạo, Ngƣời đã thể hiện rõ quyết tâm rèn

luyện sắt đá:

“Gạo đem vào giã bao đau đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông

Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy

Gian nan rèn luyện mới thành công”

Ý chí của những câu thơ này theo nhiều nhà nghiên cứu “đã đẩy

lùi thơ Đƣờng vào dĩ vãng khá xa”. Bởi, “trong thơ cổ nếu có những

bài thơ tự khuyến thì cũng chỉ là trên một vài phƣơng diện của tƣ đức,

còn nếu có đặt vấn đề ở tầm cao hơn, thì phần nhiều cũng là những lời

tuyên bố, chứ chƣa phải là sự thực đƣợc đúc kết. Con ngƣời trong thơ

Đƣờng có chan hòa đƣợc trong thiên nhiên, thì lại bị đè bẹp bởi hoàn

cảnh xã hội”8.

Từ chỗ thấm những giá trị Đƣờng thi trong những tác phẩm của

mình, Hồ Chí Minh còn bổ sung và làm giàu cho Đƣờng thi những nội

dung mới, tƣ tƣởng mới, canh tân, cách mạng, thực hiện đúng tôn chỉ

dùng thơ làm chính trị của Ngƣời. Sự đổi mới này thậm chí đƣợc đánh

giá có những chỗ vƣợt lên bởi đã quy tụ đƣợc về hai điểm: dân tộc và

cách mạng. “Nội dung mới này gây ra sự phá vỡ, đổi mới theo nhiều

mức độ trong hình thức thơ Đƣờng. Trƣớc hết là về tứ thơ. Tứ thơ gắn

liền với tƣ tƣởng, nhƣng thƣờng đƣợc gói ghém trong một vài hình

tƣợng tƣơng đối rõ nét… Cái nghệ thuật chuyển dùng rất tinh vi này

cũng rất đúng với việc đổi mới những thi tứ Đƣờng thi trong thơ Bác.

Tài năng nghệ sĩ của Bác là ở chỗ vẫn sử dụng một đôi chút chất liệu

8Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 487

Page 54: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

54 | ThS. Đào Tuấn Anh

trong thơ Đƣờng, nhƣng thay đổi lại hoặc đƣa thêm vào một ít chất

liệu mới làm cho nó biểu hiện một nội dung mới theo những hƣớng

nói trên”9. Sự đổi mới đó còn đƣợc thể hiện qua ngôn ngữ, thể loại,

phong cách,… rất đa dạng và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đặc biệt

nhiều ngôn từ của phƣơng Tây và của Việt Nam cũng đã đƣợc Hồ Chí

Minh sử dụng nhuần nhuyễn trong các bài thơ mang chất Đƣờng thi

của mình.

Sáng tác thơ của Hồ Chí Minh cũng nhƣ Ngƣời làm cách mạng

thực sự với tinh thần sáng tạo, vƣợt gộp10

và truyền tải đúng đắn, hiệu

quả trách nhiệm của ngƣời chiến sĩ cách mạng, ngƣời thi sĩ trƣớc thời

cuộc, vận mệnh của quốc gia dân tộc, cốt đem những giá trị học thuật ra

giúp đời, dấn thân vào cuộc cách mạng cũng chính là tƣ tƣởng nhập thế

mà Hồ Chí Minh đã thổi hồn vào những tác phẩm Đƣờng thi của mình.

Có thể nói không quá rằng, trên lĩnh vực nào ngƣời ta cũng thấy

những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ngƣời đƣợc coi là

nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo,… nhƣng Ngƣời chƣa bao giờ

chính thức nhận cho mình một danh hiệu nào cả. Khi trao đổi với một

nhà báo Liên Xô, Ruf Bersatxki, Ngƣời tâm sự: “Tôi là cây bút tiểu

phẩm, nhà chính luận. Gọi là nhà tuyên truyền tôi cũng không tranh

cãi, nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất”11

. Với thơ ca, Ngƣời

cũng tự nhận xét:

“Ngâm thơ ta vốn không ham,

Nhƣng vì trong ngục biết làm chi đây;

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây”,

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”

9 Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 489.

10 Theo PGS Phan Ngọc: “Vƣợt gộp” là tiếp thu cái mới nhƣng đổi mới nó trên cơ sở cái cũ

đã đƣợc đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh mới; nghĩa là bảo vệ đƣợc cả cái cũ lẫn cái

mới sao cho thích hợp với sự đổi mới cần phải tiến hành. “Vƣợt gộp” không phải là nhắm

mắt chạy theo cái mới, vứt bỏ cái cũ, không phải là khƣ khƣ giữ lấy cái cũ, từ bỏ cái mới.

11 Ruf Bersatxki (Liên Xô): Một lần gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo Văn Nghệ 1980.

Page 55: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 55

Khiêm tốn, giản dị không bao giờ tự nhận mình là một thi nhân,

nhƣng dƣới cái nhìn của những nhà văn, nhà thơ thế giới, Hồ Chí

Minh đích thực “là một trong những nhà thơ lớn nhất ngày nay, một

trong những đại biểu cuối cùng của một nền văn học đánh dấu bằng

cả ngàn năm bị đô hộ và áp bức”12

. Trong những sáng tác của Ngƣời,

những tác phẩm mang khuynh hƣớng Đƣờng thi thực sự giữ một vị

trí trang trọng, “Ngƣời đã có một cống hiến lớn về văn học bằng

ngôn ngữ nƣớc ngoài. Vƣợt lên khuôn khổ nghiêm ngặt của luật thơ

Đƣờng, Ngƣời viết nên những vần thơ của tiếng khóc, tiếng cƣời.

Chính sự trào lộng, niềm yêu đời, những tiếng tự đáy lòng… làm cho

thơ Ngƣời càng phong phú và có giá trị hiện thực lớn. Tóm lại, nội

dung cách mạng mới, những cảm xúc mới đã đƣợc thể hiện bằng luật

thơ “cổ điển”13

.

ĐTA

12

Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3, tr. 105.

13 Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3, tr. 402.

Page 56: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

56 | ThS. Đào Tuấn Anh

Page 57: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

KHÂO SÁT HIỆN TƯỢNG PHÁ CÁCH TRONG THƠ

ĐƯỜNG LUẬT HỒ CHÍ MINH

Lê Đình Sơn

Khoa Ngữ văn Đại học Vinh

1. Lịch sử thơ Đƣờng Trung Quốc, có một số bài thơ của các nhà

thơ nổi tiếng cố tình phạm thi luật. Ngƣời ta cho những lỗi đó là

“dụng ý nghệ thuật” của tác giả. Phải chăng những dụng ý ấy làm cho

bài thơ của họ càng có ấn tƣợng lâu bền trong lòng bạn đọc qua bao

thời đại. Xin nêu hai trƣờng hợp điển hình. Nhà thơ Lý Bạch trong câu

đầu bài thơ “Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng

Lăng” vẫn giữ từ “nhân”(cố nhân) mà không thay từ khác có thanh

trắc để hợp luật.

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu”

Bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu cũng phạm luật “Nhị tứ

lục phân minh” ngay từ câu đầu tiên.

“Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ”

Lẽ ra từ thứ tƣ “thừa” và chữ thứ sáu “Hạc” phải mang thanh trắc

và thanh bằng. Tác giả Thôi Hiệu nhận ra điều này nhƣng ông vẫn

không sửa. Ở Việt Nam, Hồ Xuân Hƣơng trong bài thơ “Đèo ba dội”

cũng thể hiện một dụng ý nghệ thuật khi sai luật bằng trắc ở từ thứ hai

của câu thơ.

“Một đèo, một đèo, lại một đèo”

Từ “đèo” chữ thứ hai của câu thơ trên lẽ ra phải mang thanh trắc,

nhƣng ở đây tác giả vẫn dùng thanh bằng để nhấn mạnh ý nghĩa ba lần

Page 58: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

58 | Lê Đình Sơn

điệp từ “đèo”. Cùng với điệp ba lần từ “một”, câu thơ “Một đèo, một

đèo, lại một đèo”, tạo cho ta một cảm giác sâu sắc về núi non trùng

điệp hùng vỹ của một vùng đất Tam Điệp Ninh Bình xƣa và nay.

Bác Hồ trong quá trình sáng tác đã để lại một số bài thơ tiêu biểu

thể hiện sự phá cách thơ tứ tuyệt ở nhiều hình thức khác nhau. Có bài

thơ Bác phá luật bằng trắc, phá luật thơ nhƣ “Vãn cảnh”, “Báo tiệp”.

Ở những bài thơ tứ tuyệt gieo vần trắc – mà nhiều nhà thi pháp học

xếp vào thơ cổ phong – nhƣ Thiên Giang ngục hay bài thơ tứ tuyệt ở

đầu tập “Ngục trung nhật ký”, ta cũng thấy sự mạnh dạn, sáng tạo của

Bác trong việc sử dụng các vần điệu.

Sau đây chúng tôi xin bàn đến sự phá cách trong bài thơ “Vãn cảnh”

“Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ

Hoa khai hoa tạ lƣỡng vô tình

Hoa hƣơng thấu nhập lung môn lý

Hƣớng tại lung nhân tố bất bình”

Thơ dịch:

“Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,

Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình

Hƣơng hoa bay thấu vào trong ngục,

Kể với tù nhân nỗi bất bình”

Tìm hiểu lỗi phá cách bằng trắc ở ba bài thơ trên của Lý Bạch,

Thôi Hiệu, Hồ Xuân Hƣơng ta thấy rằng những từ phạm luật thơ đều

là danh từ nhƣ “cố nhân”, “Hoàng Hạc”, “đèo” ở bài “Vãn cảnh”, từ

“Mai khôi” cũng thuộc danh từ.

Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ.

Bài thơ “Vãn cảnh” đƣợc Bác làm theo luật trắc của thơ tứ tuyệt.

Nhƣ vậy chữ thứ hai của câu đầu phải mang thanh trắc. Nhƣng chữ

thứ hai ở đây lại mang thanh bằng (Khôi). Thông thƣờng chữ thứ hai

và chữ thứ sáu trong câu thơ phải cùng thanh. Chữ thứ sáu của câu

thơ: “Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ” là thanh trắc (Hữu). “Mai khôi”

Page 59: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 59

là một danh từ vì vậy Bác chấp nhận nhƣ một dụng ý nghệ thuật mà

không thay từ khác. Phải chăng những “lỗi” bằng trắc thuộc về danh

từ nhƣ đã nói ở trên là sự trùng hợp ngẫu nhiên của các nhà thơ lớn!.

“Vãn cảnh” đƣợc Bác Hồ làm theo thể tứ tuyệt trốn vận cùng với

điểm nhấn phá cách bằng trắc, câu thơ thứ nhất gây cho ngƣời đọc

một ấn tƣợng, một suy cảm đáng trân trọng về loài hoa hồng mà Bác

thể hiện quan điểm nhân văn tốt đẹp trong suốt bài thơ. Bài thơ còn là

một quan điểm thẩm mỹ, đúng đắn, lành mạnh khi hình tƣợng hoa

hồng đƣợc Bác sử dụng phép nhân hóa.

Bắt nguồn từ một hiện tƣợng thiên nhiên - cảnh nở tàn của hoa

hồng trong khoảng lắng suy tƣ; buổi chiều, nhà thơ đã gửi vào đó

những chiêm nghiệm về cuộc đời, những nỗi niềm xúc cảm của mình.

Trong vô vàn những hiện thực hiển diện quanh mình, tác giả chọn hoa

hồng - loài hoa tƣợng trung cho vẻ đẹp đáng trân trọng nâng niu. Tạo

hóa đã sinh ra hoa hồng, phú cho nó vẻ đẹp hƣơng sắc thế mà không

cho nó hƣởng ngoại lệ, cái đẹp ấy giờ đây đang tàn phai.

Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ.

Câu thơ với năm thanh bằng và hai thanh trắc nhƣ gợi dậy một

cách cụ thể sự lan tỏa của hƣơng hoa và thực tại những cánh hoa đẹp

đang dần rụng khơi dậy trong lòng ngƣời đọc một cảm giác nao lòng.

Nao lòng trƣớc quy luật của tạo hóa. Quy luật cào bằng mọi số phận,

quy luật áp đặt luật lệ không trừ ai.

Hoa khai hoa tạ lƣỡng vô tình.

Cái đẹp ở đây cũng phải chịu chung số phận khắc nghiệt. Đến đây

chúng ta có thể nói rằng tạo hóa đã vô tình khi tạo ra cái đẹp để rồi

đánh đồng số phận nó với tất cả.

Khái quát đƣợc thực tế chứng tỏ Bác không hề vô cảm mà trong

Ngƣời đậm chất nghệ sỹ và trái tim nhân ái vô bờ. Trái tim ấy giúp

Ngƣời cảm nhận đƣợc sức sống của cái đẹp: Mặc dù hoa nở rồi tàn,

hoa không tránh đƣợc quy luật của tạo hóa, song hoa tàn nhƣng linh

Page 60: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

60 | Lê Đình Sơn

hồn hoa không tắt, bằng chứng là hƣơng hoa bay đi tìm đến với hồn

đồng điệu.

“Hƣơng hoa thấu nhập lung môn lý,

Hƣớng tại lung nhân tố bất bình”

Đến hai câu thơ này hình tƣợng thơ có sự vận động, hoa hồng từ

chỗ là một ý niệm trìu tƣợng, một cái bóng thì đây trở thành một linh

hồn cụ thể với tâm sự nỗi niềm muốn chia sẻ với tù nhân. Hoa tìm đến

Bác bởi Bác là ngƣời mang trong mình phẩm chất một nghệ sỹ nên

hơn ai hết có thể cảm thông, sẽ chia với số phận mong manh của cái

đẹp. Tỏ bày nỗi bất bình hƣơng hoa đã khẳng định đƣợc sức sống của

mình, hoa không cam chịu sự bất công của tạo hóa mà bay đi đòi

quyền sống. Tƣ tƣởng nhân văn cao cả của Bác chính là ở sự phát hiện

mới mẻ ấy.

Ở trên nói vô tình, ở dƣới nói bất bình. Hoa là nhân vật nhập thân

do nỗi niềm của hoa chính là nỗi niềm ấm ức với sự bất công - bất

bình cho hoa, phải chăng cũng là nỗi bất bình của Bác trƣớc cảnh

giam hãm, tù đày.

Đồng cảm đƣợc với số phận của một loài hoa Bác khẳng định

đƣợc bản thân mình và sự bất khả chiến bại của cái đẹp trong mọi

hoàn cảnh.

Có lẽ “Vô đề” dƣới đây đƣợc xem là thơ đề từ cho tập “Ngục

trung nhật ký”. Chúng ta biết thơ đề từ thƣờng định hƣớng tƣ tƣởng

chủ đề, quan điểm tƣ tƣởng và nghệ thuật của tác giả qua tập thơ. Bài

thơ “Vô đề” của Bác Hồ đem đến cho chúng ta những bài học giáo

dục sâu sắc. Đó là lẽ sống đúng đắn, khát vọng và mục đích, hành

động phấn đấu cho một sự nghiệp lớn, lý tƣởng cao đẹp. Muốn đạt

đƣợc những điều ấy, con ngƣời phải rèn luyện tinh thần, bản lĩnh phải

cao. Bài “Vô đề” thể hiện sự kế thừa và cách tân thể thơ tứ tuyệt mạnh

mẽ của Bác Hồ.

Page 61: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 61

Bài thơ “Vô đề” thuộc tập “Ngục trung nhật ký” Bác Hồ có dụng

ý phá cách thơ tứ tuyệt:

“Thân thể tại ngục trung

Tinh thần tại ngục ngoại

Dục thành đại sự nghiệp

Tinh thần cánh yếu đại”

Thơ dịch:

“Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao

Muốn nên sự nghiệp lớn

Tinh thần càng phải cao”

Có thể nói bài thơ Bác viết bằng chữ Hán ngũ ngôn tứ tuyệt không

có đề tựa trên đây là một hiện tƣợng độc đáo bất ngờ. Cách hiệp vần

của bài thơ không theo quy luật bắt vần thông thƣờng của thơ tứ tuyệt.

Nếu là vần bằng ở cuối câu thứ nhất “trung” thì chữ cuối của câu thứ

hai Bác lại dùng từ mang thanh trắc (ngoại). Chữ cuối của câu thứ ba

và câu thứ tƣ cũng đều thanh trắc (nghiệp, đại). Nhƣ vậy xét cách hiệp

vần của bài thơ này, Bác không theo mô hình gieo vần bằng của tứ

tuyệt Đƣờng luật. Nghiên cứu kỹ đặc điểm hợp vần của bài thơ, chúng

tôi thấy Bác vận dụng một cách sáng tạo luật gieo vần trắc của thơ ngũ

ngôn tứ tuyệt. Hai vần trắc ở câu thứ hai (ngoại) và câu thứ tƣ (đại)

chính là vần của bài thơ “Không đề”. Gieo vần trắc trong thơ Đƣờng

luật rất ít xảy ra. Bài thơ trên Bác vẫn mạnh dạn cách tân, bung phá

tạo nên một hiện tƣợng “lạ” trong thơ Đƣờng luật Việt Nam. Nếu xem

bài thơ này đƣợc Bác viết theo kiểu vần trắc thì chữ cuối của câu thứ

ba phải mang thanh bằng, nhƣng ở đây Bác lại dùng thanh trắc

(nghiệp). Thành ra bài thơ không chỉ độc đáo về cách hiệp vần mà còn

đổi mới phá cách trong việc dùng thanh bằng trắc ở cuối câu thứ nhất

và thứ ba.

Page 62: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

62 | Lê Đình Sơn

Những dụng ý “nghệ thuật” đƣợc Bác dùng trong bài thơ càng làm

nổi bật ý nghĩa tƣơng phản, đối lập giữa “thân thể” và “tinh thần” của

chủ thể trữ tình bài thơ:

“Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao”

Ta càng cảm phục hình tƣợng ngƣời tù cộng sản trong lao ngục.

Kẻ thù có thể giam hãm, cùm trói thể xác của Bác Hồ. Chúng không

bao giờ trói buộc đƣợc tinh thần, tƣ tƣởng, trí óc của ngƣời cộng sản.

Ta bắt gặp ý tƣởng đẹp đẽ này trong câu thơ của Xuân Thủy tƣơng

đồng với ý thơ của Bác.

“Đế quốc tù ta, ta chẳng tù”

Cấu trúc đặc biệt của vần thơ cách dùng nhấn mạnh những từ “đại

sự nghiệp”, “cánh yếu đại” ở hai câu cuối bài thơ có giá trị nhƣ một

khích lệ, một quy luật tất yếu của sức mạnh tinh thần trƣớc bất kỳ một

hoàn cảnh gian nan, khó khăn nào.

“Muốn nên sự nghiệp lớn

Tinh thần càng phải cao”

Mới đọc thoáng qua, một số ngƣời băn khoăn, khó xác định bài

thơ trên thuộc thể loại thơ bốn câu năm chữ hay thơ ngũ ngôn tứ

tuyệt? Chúng tôi cho rằng Bác làm bài thơ này theo thể tứ tuyệt vần

trắc trốn vận. Chữ cuối của câu thứ nhất lẽ ra phải mang thanh trắc và

hợp với hai vần (ngoại, đại) nhƣng Bác đã tĩnh lƣợc vần trắc thứ nhất.

Căn cứ vào bản dịch thơ, tác giả Nam Trân cũng dịch bài thơ “Vô

đề” trên đây theo thể vần bằng ngũ ngôn tứ tuyệt.

2. Thơ tứ tuyệt Hồ Chí Minh còn khá nhiều bài mang “dụng ý

nghệ thuật” của Bác. Chúng ta khảo sát một số bài thơ dƣới đây:

Bài “Thiên Giang ngục”

“Lung ngoại lục thập cửu nhân áng,

Lung trung đích áng bất tri số

Page 63: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 63

Giam phòng khƣớc tƣợng bào dƣợc đƣờng

Hựu tƣợng nhai thƣợng mại áng phố”

Thơ dịch:

“Ngoại lao sáu chín chiếc ang ngƣời

Chồng chất trong lao biết mấy mƣơi

Nhà ngục mà nhƣ nhà chế thuốc

Gọi là hàng chĩnh cũng không sai”

Ngay cuối câu đầu bài thơ, Bác không chịu tuân thủ luật gieo vần

mà vẫn dùng chữ áng không thể hiệp vần với hai chữ số và phố ở

dƣới. Chữ thứ hai, thứ tƣ, câu thơ đầu đều là trắc (ngoại, thập). Phải

chăng khi dùng số từ 69 Bác muốn giữ nguyên cách gọi số lƣợng từ

tiếng Hán mà không cần sửa cho êm tai. Đây là một đặc điểm thƣờng

bắt gặp trong lối viết của Bác.

Cách gieo vần của bài tứ tuyệt này cũng rất đặc biệt. Các từ

“áng”, “số”, “phố” ở cuối câu thứ nhất, thứ hai, thứ tƣ đều mang

thanh trắc, ba từ này hợp vần với nhau. Bài tứ tuyệt “Thiên Giang

ngục” Bác gieo vần trắc tạo cho ngƣời đọc một cảm giác vừa ghê sợ

vừa hài hƣớc. Nhà ngục Thiên Giang ở Quảng Tây là nơi giam ngƣời

mà ngoài ngục cũng nhƣ trong ngục là hình ảnh những chiếc ang chôn

ngƣời đáng sợ. Bác còn dùng lối nói khôi hài, tƣơng phản giữa cái

chết và cái nhà thuốc cứu ngƣời.

“Nhà ngục mà nhƣ nhà chế thuốc

Gọi là hàng chĩnh cũng không sai”.

Bài thơ vần trắc, cùng với sự phá cách tạo trái khoáy trong ta về

sự vật, hình ảnh đƣợc miêu tả. Nếu bài “Thiên Giang ngục” mang

tính đối lập thì bài “Cƣớp áp” (Cái cùm) Bác lại nêu một nghịch lý.

Ấy là miệng cái cùm trông nhƣ miệng loài ác thú. Thế mà cứ tối tối

mọi tù nhân phải tranh nhau đƣa chân vào miệng cùm để mong có

giấc ngủ yên dằm. Nếu không, giấc ngủ của họ sẽ bị đe dọa. Đó cũng

chính là cái mâu thuẫn giữa hành vi và suy nghĩ của tù nhân trong

Page 64: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

64 | Lê Đình Sơn

hoàn cảnh bị giam cầm. Cái nghịch lý trong hành động không cần làm

mà cứ phải thực hiện trong chính mỗi con ngƣời.

“Tranh ninh ngã khẩu tự hung thần

Vãn vãn trƣơng khai bã cƣớc thôn

Các nhân bị thôn liễu hữu cƣớc

Chỉ thặng tả cƣớc năng khuất thân”

“Thế gian cánh hữu ly kỳ sự

Nhân mẫn tranh tiên thƣợng cƣớc kiểm

Nhân vị hữu kiểm tài đắc thụy,

Vô kiểm một xứ khả an niên”

Thơ dịch:

I

“Dữ tựa hung thần miệng chực nhai

Đêm đêm há hốc nuốt chân ngƣời

Mọi ngƣời bị nuốt chân bên phải

Co duỗi còn chân bên trái thôi”

II

“Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật

Cùm chân sau trƣớc cũng tranh nhau

Đƣợc cùm chân mới yên bề ngủ

Không đƣợc cùm chân biết ngủ đâu”

Sự bung phá cao độ về luật bằng trắc, luật thơ ở đây dƣờng nhƣ

nhấn mạnh ý nghĩa tính chất phi lý mà Bác nêu trong bài thơ. Có lẽ cái

phi lý tính đó đƣợc Bác thể hiện nhƣ một đột phá so với thơ tứ tuyệt

cổ điển. Bác muốn bung rời chất dính kết nghiệt ngã giữa các câu thơ

trong bài thơ này. Câu hai, ba ở bài một, câu ba, bốn ở bài hai là một

chứng minh hùng hồn. Cùng với tính chất trào lộng thâm thúy, bài thơ

có giá trị hiện thực tố cáo sâu sắc chế độ nhà tù Tƣởng Giới Thạch

thời bấy giờ.

Page 65: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 65

Khảo sát bài thơ “Kha tƣởng đào” Bác lại có lối phá luật rất

linh hoạt.

“Nhất tâm chỉ tƣởng tự do cảnh

Biểu mệnh khiêu xa tha tẩu khai,

Khả tích tha bào bán lý hữu

Hựu bị cảnh binh tróc hồi lai!”

Thơ dịch:

“Tự do anh ấy hằng mong mỏi

Liều mạng đâm nhào nhảy xuống xe

Rủi quá chạy đâu chừng nửa dặm

Bị ngay cảnh sát bắt lôi về.”

Câu một và câu bốn hợp thành một cặp câu thơ của bài tứ tuyệt.

Nhƣng câu bốn không trùng khớp với luật “nhị tứ lục phân minh” ở

câu một thành ra dụng ý nghệ thuật của Bác ở đây có tác dụng nhấn

mạnh lòng khát khao muốn sống cuộc đời tự do của ngƣời tù. Ý tƣởng

tự do đó khiến hành động của ngƣời tù trở nên táo bạo. Hành động

nhảy xe đào thoát của ngƣời tù bất thành, nên câu thơ thứ tƣ Bác tỏ

nỗi niềm thƣơng cảm và sẵn sàng để câu thơ chảy theo mạch cảm xúc

mà không cần chú trọng quy ƣớc về luật thơ:

“Khả tích tha bào bán lý hữu

Hựu bị cảnh binh tróc hồi lai!”

Bài “Báo tiệp”:

“Nguyệt thôi song vấn thi thành vị?

Quân vụ nhƣng mang vị tố thi,

Sơn lâu chung hƣởng kinh thu mộng

Chính thị liên khu báo tiệp thì”

Thơ dịch:

“Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

Page 66: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

66 | Lê Đình Sơn

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu

Ấy tin thắng trận Liên khu báo về”

Xét phƣơng diện tổ chức dính kết thơ tứ tuyệt, bài “Báo tiệp” đã

phá luật thơ. Thông thƣờng thơ tứ tuyệt có hai cặp câu thơ kết dính

với nhau. Mỗi cặp câu thơ đều có sự tƣơng ứng về thanh âm giữa các

chữ hai, bốn, sáu trong từng cặp câu thơ. Khảo sát bài “Báo tiệp” ta

thấy Bác có ý đảo ngƣợc sự tƣơng ứng âm thanh của các cặp câu. Cặp

câu một gồm câu một và bốn.

Nguyệt thôi song vấn thi thành vị?

B T B

Chính thị liên khu báo tiệp thì

T B T

Cặp câu hai gồm câu hai và ba

Quân vụ nhƣng mang vị tố thi,

T B T

Sơn lâu chung hƣởng kinh thu mộng

B T B

Hiện tƣợng ngƣợc nhau về bằng trắc (B-T) trong bảng thống kê

trên chứng tỏ bài thơ phá luật thơ. Phân tích bài thơ này chúng ta ít

chú ý đặc điểm phá luật thơ của Bác. Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh khi

phân tích kết cấu bài “Báo tiệp” có nói một cách tế nhị dƣờng nhƣ

câu 1,2 và câu 3,4 là hai phần của hai bài thơ khác nhau hợp lại,

nhƣng có tác dụng hỗ trợ nhau làm sáng tỏ chủ đề bài thơ.

Dụng ý nghệ thuật phá luật thơ của Bác trong bài thơ này có giá

trị nhƣ sự xuất thần của ngọn bút trong đêm thu khi âm hƣởng tiếng

kèn chiến thắng chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947-1948 báo về hòa

hợp với ý tƣởng câu kết bài thơ.

Chính thị liên khu báo tiệp thì

Page 67: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 67

Sự tƣơng khắc về âm thanh giữa hai cặp câu thơ trong bài “Báo

tiệp” càng chứng tỏ bản lĩnh của một tâm hồn chiến sỹ và nghệ sỹ Hồ

Chí Minh.

Trong di sản thơ Đƣờng của Bác còn có một trƣờng hợp rất hi hữu

nhƣng lại trở thành một bài thơ nổi tiếng đƣợc giới nghiên cứu và bạn

đọc quan tâm đặc biệt.

Bài “Không đề”

“Đã lâu không làm bài thơ nào

Nay lại thử làm xem ra sao

Lục khắp giấy tờ vần chửa thấy

Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao”

Đây là bài thơ tứ tuyệt vừa phá luật bằng trắc vừa phá chất dính

kết. Đặc biệt hai câu 1 và 2 hầu nhƣ Bác dùng thanh bằng là chính.

“Đã lâu không làm bài thơ nào

Nay lại thử làm xem ra sao”

Luật “nhị tứ lục phân minh” bị bung phá mạnh mẽ ở hai câu thơ

trên có lẽ xuất phát từ cách nói dân dã, khẩu khí đời thƣờng của Bác

tạo nên phong cách độc đáo của bài thơ. Hai câu 3,4 Bác trở lại tính

ổn định của luật tứ tuyệt Đƣờng thi:

“Lục khắp giấy tờ vần chửa thấy

Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao”

Có lẽ không khí đánh Mỹ bùng lên của xuân Mậu Thân 68 khắp

chiến trƣờng Miền Nam, hậu phƣơng lớn, tiền tuyến lớn đánh mạnh

thắng to đã khơi dậy cảm hứng sáng tác của Bác làm nên phút thăng

hoa nghệ thuật để có đƣợc câu kết thần tình:

Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao.

Cái vần “thắng” ở đây cho phép tác giả lãng quên một cách có ý

thức khi vận dụng sáng tạo luật thơ Đƣờng.

Page 68: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

68 | Lê Đình Sơn

Khảo sát các bài thơ Đƣờng trên đây, chúng ta đi đến một nhận

xét tổng quát. Hiện tƣợng phá luật trong thơ tứ tuyệt Bác Hồ theo thời

gian tiệm tiến từ “Ngục trung nhật ký” trở đi ngày càng có sự bung

phá đa dạng, táo bạo hơn. Phải chăng hiện tƣợng phá luật này nhằm

đáp ứng nhu cầu cá tính sáng tạo của Bác Hồ, nhu cầu tiếp thu truyền

thống và cách tân văn học. Phá luật trong thơ Đƣờng là một hiện

tƣợng độc đáo, thƣờng xảy ra ở các nhà thơ lớn. Hiện tƣợng này có ý

nghĩa nhƣ một nút nhấn tạo cái bất ngờ lý thú, tạo sự đồng cảm sâu

sắc đối với ngƣời đọc trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng.

Nhƣ vậy qua khảo nghiệm hiện tƣợng phá luật nhƣ những dụng ý

nghệ thuật của tác giả Hồ Chí Minh chứng tỏ rằng thơ tứ tuyệt của

Bác tiếp thu một cách sáng tạo di sản thơ Đƣờng Trung Quốc ngày

càng mang tính dân tộc cao hơn và phong phú hơn. Đây là một trong

những biểu hiện sinh động của quá trình dân tộc hóa thơ Đƣờng luật

Việt Nam.

LĐS

Page 69: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

HỒ CHÍ MINH VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT

ThS. Võ Quang Huy

Trung tâm GDTX huyện Vũ Quang, Hà Tĩnh

Giáo sƣ Phong Lê - ngƣời có nhiều năm nghiên cứu về sự nghiệp

văn chƣơng của Bác Hồ, trong cuộc trò chuyện sau nhân kỷ niệm 114

năm Ngày sinh của Bác đã từng nói:

“Đọc văn thơ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tôi luôn luôn đặt

cho mình các câu hỏi về những bí ẩn chƣa biết hết đƣợc. Nghiên cứu

về Bác và văn thơ Bác, đối với tôi, là đứng trƣớc những bí ẩn ấy”

Đã biết bao nhiêu bài viết, công trình có giá trị trong nƣớc và trên

thế giới nghiên cứu về Bác và đã phần nào làm nỗi bật đƣợc vai trò

của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam, một bậc đại nhân, đại trí,

đại dũng, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Đúng vậy,

những bí ẩn chƣa biết hết đƣợc về Bác còn rất nhiều nhƣng không thể

không kể đến di sản thơ Đƣờng mà ngƣời để lại.

Sinh thời Bác Hồ từng nói “Ngâm thơ ta vốn không ham”, Bác

làm thơ, viết văn không phải mong muốn mình trở thành nhà văn

nhƣng thực tế hoạt động cách mạng Ngƣời nhận thức đƣợc tầm quan

trọng của văn nghệ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, là vũ

khí đấu tranh đắc lực trên mặt trận văn hóa tƣ tƣởng và cũng là nơi để

Bác bày tỏ tâm hồn đa cảm, tinh tế của mình. Trong di sản văn học

Bác để lại có truyện và kí, văn chính luận và thơ. Trong giới hạn của

một bài tham luận tôi xin nêu một số suy nghĩ của mình về thơ Đƣờng

luật của Bác.

Vốn xuất xứ từ thời Đƣờng ở Trung Quốc và đƣợc truyền bá vào

Việt Nam trong thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc, thơ Đƣờng luật đã trở

Page 70: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

70 | ThS. Võ Quang Huy

thành một thể thơ đặc biệt đƣợc các nhà thơ trung đại và cả một số nhà

thơ hiện đại của nƣớc ta yêu thích và tạo đƣợc một vị trí vững chắc

trong lịch sử thơ ca nƣớc ta. Sáng tác thơ Đƣờng đúng luật đã khó

chƣa nói đến việc có những bài thơ hay vì đây vốn là thể thơ rất chặt

chẽ về niêm, luật, vận, đối, ngắt nhịp, hài thanh.... Vì quá chặt chẽ về

niêm luật nên không ít những nhà thơ nỗi tiếng của nƣớc ta nhƣ

Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến hay Hồ Chí Minh đã Việt hóa thơ

đƣờng, phá luật, cách luật để thuận lợi hơn trong việc bộc lộ tâm tƣ

tình cảm của mình.

Thơ Đƣờng luật của Bác đƣợc sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ

quốc ngữ trong đó nỗi bật nhất là tập thơ “Nhật ký trong tù”, những

bài thơ sáng tác khi hoạt động cách mạng ở Việt Bắc và các bài thơ

chúc tết.... Để làm đƣợc thơ Đƣờng bằng chữ Hán đòi hỏi ngƣời sáng

tác phải tinh thông Hán học. Chúng ta đều biết, Bác Hồ xuất thân

trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ đã đƣợc học chữ Hán một

cách cơ bản. Trình độ Hán ngữ của Bác chắc chắn đã đƣợc bổ sung và

nâng cao khi Ngƣời quen biết một số nhà hoạt động cách mạng Trung

Quốc ở Pari và trên hết là những nổ lực tự học không biết mệt mõi của

bản thân. Sự tinh thông Hán ngữ của Bác thể hiện ở những bài thơ Bác

làm bằng chữ Hán mà chúng ta đều biết qua tập “Nhật ký trong tù” với

133 bài và những bài thơ chúc tết khác. Những bài thơ làm theo thể

Đƣờng luật của Bác hay đến mức mà Quách Mạt Nhƣợc - nhà vǎn hoá

lớn của Trung Quốc phải thốt lên nếu để lẫn thơ chữ Hán của Hồ Chí

Minh với thơ Đƣờng khó có thể phân biệt đƣợc.

Tập thơ “Nhật ký trong tù” gồm 133 bài thơ tứ tuyệt và thất ngôn

bát cú đƣợc viết bằng chữ Hán thể hiện sự am hiểu tuyệt vời về Hán tự

cũng nhƣ thể thơ Đƣờng luật của Bác. Đọc Nhật kí trong tù, ta nhận ra

sự ảnh hƣởng đậm đặc của chất Đƣờng thi, bút pháp cổ điển trong

phong cách thơ của Ngƣời. Nghệ thuật đối, bút pháp ẩn dụ, điệp từ đã

đƣợc Bác sử dụng rất tài tình và khéo léo.

Page 71: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 71

Một đặc điểm nghệ thuật luôn bao trùm trong thơ Đƣờng luật của

Bác là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, là

sự hòa quyện giữa chất thơ và chất thép, giữa hình tƣợng ngƣời chiến

sỹ và thi sỹ. Do vậy mà thơ Bác dù mang phong vị thơ Đƣờng, Tống

nhƣng không u buồn, cổ kính nhƣ thơ Đỗ Phủ, Lí Bạch mà hình ảnh

thơ luôn mới mẻ, hiện đại, phóng khoáng, tứ thơ luôn hƣớng về ánh

sáng, tƣơng lai. Thơ Đƣờng của Bác không thiếu mây, gió, trăng, hoa,

tuyết, núi, sông nhƣ thơ cổ nhƣng điểm đọng lại ấn tƣợng nhất sau khi

đọc vẫn là hình ảnh con ngƣời cách mạng, con ngƣời lao động với tinh

thần lạc quan, ý chí phi thƣờng, tin tƣởng vào ngày mai tƣơi sáng.

Trong bài “Khán “Thiên gia thi” hữu cảm” (Cảm tƣởng đọc “Thiên

gia thi”) Bác viết:

“Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,

Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong;

Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết,

Thi gia dã yếu hội xung phong”.

Nam Trân dịch:

“Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,

Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;

Nay ở trong thơ nên có thép,

Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”

Thiên nhiên trong thơ Đƣờng của Bác gắn bó với cuộc sống, với

con ngƣời, với tình yêu, với thơ. Truyền thống của thơ ca phƣơng

Đông càng đặc biệt chú ý đến vai trò của thiên nhiên. Bác Hồ sáng tác

“Nhật kí trong tù” trong điều kiện lao tù khắc nghiệt, vậy mà bài thơ

vẫn tràn ngập hình ảnh của thiên nhiên. Nhà nghiên cứu Đặng Thai

Mai có nhận xét: “Trong Nhật kí trong tù thiên nhiên chiếm một địa vị

danh dự”. Mây, gió, trăng, hoa, trong thơ xƣa cũng hiện diện trong

thơ Bác, tất nhiên là với màu sắc mới. Hình ảnh của núi sông cũng cao

đẹp, hùng vĩ và thơ mộng và chứa chất tình ngƣời mà ta bắt gặp trong

bài “Mới ra tù tập leo núi”

Page 72: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

72 | ThS. Võ Quang Huy

“Núi ấp ôm mây mây ấp núi

Lòng sông gƣơng sáng bụi không mờ.”

Hay là câu thơ “Chòm sao nâng nguyệt vƣợt lên ngàn” trong bài

thơ “Giải đi sớm”.

Sỡ dĩ thiên nhiên chiếm vị trí danh dự trong tập thơ còn vì đó là

cảm hứng sáng tạo bất tận, là bạn tri âm tri kỹ của Bác, là biểu tƣợng

cho vẻ đẹp tâm hồn và khát vọng tự do cháy bỏng... mà hình ảnh ánh

trăng la một ví dụ:

“Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Điều làm nên nét hiện đại trong thơ Đƣờng của Bác chính là chất

“thép”, là tinh thần “xung phong” của thi nhân. Nhà lao Tƣởng Giới

Thạch không thể giam cầm đƣợc tâm hồn của Bác, đó là một tâm hồn

phong phú, cao đẹp của ngƣời tù vĩ đại lúc nào cũng nóng lòng, đau

đáu hƣớng về Tổ quốc. Ngay cả trong lúc ngủ niềm thủy chung với

cách mạng của Ngƣời luôn thƣờng trực, trƣớc sau nhƣ một. Đó còn là

tinh thần, ý chí, khát vọng tự do cháy bỏng, mãnh liệt luôn cháy trong

tâm thức ngƣời chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù đang phải chịu cảnh

lao tù, xiềng xích.

“Một canh, hai canh lại ba canh

Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành

Canh bốn canh năm vừa chợp mắt

Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.”

Ánh sáng, niềm tin vào tƣơng lai, hình ảnh con ngƣời lao động

khỏe khoắn, yêu đời... là những điều xuất hiện thƣờng xuyên trong các

bài thơ Bác viết dù đƣợc sáng trong trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Tóm lại thơ Đƣờng của Bác thể hiện những nội dung tƣ tƣởng vô

cùng lớn lao của Ngƣời. Đó là sự hòa quyện giữa giá trị hiện thực và

nhân đạo, giữa chất thép và tình cảm; đó là sự đau thƣơng, cực nhọc

nhƣng lại xen lẫn ở đó những tiếng cƣời trào phúng; đó là sự đau khổ

Page 73: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 73

buồn bã nhƣng cao hơn cả là niềm tin, khát vọng, là sự lạc quan chƣa

bao giờ dập tắt trong tâm hồn một chiến sỹ cộng sản. Phải chăng vì

thế mà nhà thơ Hoàng Trung Thông khi đọc thơ Bác từng viết:

“Vần thơ của Bác vần thơ thép

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”

Bên cạnh các bài thơ Đƣờng trong tập “Nhật ký trong tù” thì

những bài thơ Đƣờng viết về mùa xuân hay chúc tết cũng rất đáng lƣu

ý. Qua những vần thơ viết về mùa xuân, chúng ta thấy ở Bác luôn có

một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của một thi nhân cùng với một cốt

cách, phong thái ung dung, tự tại của ngƣời chiến sĩ cách mạng kiên

trung. Xuân khơi nguồn cảm hứng thơ. Thơ lấy xuân làm nguyên cớ.

Xuân tự đất trời và xuân tự lòng ngƣời hòa quyện, tâm hồn thi sĩ và

tinh thần chiến sĩ kết tụ, Bác để lại cho đời những vần thơ vừa rung

động, tràn ngập sắc xuân, vừa toát lên tinh thần lạc quan, khoẻ khoắn

của một ý chí lớn: ý chí cách mạng.

Theo thơ chúc tết của Bác, chúng ta nhƣ đƣợc dịp ôn lại lịch sử

của dân tộc, đƣợc dịp nhìn lại những năm tháng kháng chiến của toàn

dân vừa trƣờng kỳ gian khổ vừa thắng lợi vẻ vang.

Xin đƣợc cô đọng vấn đề ở hai bài thơ Đƣờng của Bác mà bản

thân tôi rất yêu thích, đó là “Cảnh khuya”:

“Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa

Cảnh khuya nhƣ vẽ, ngƣời chƣa ngủ

Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà”

(1947)

Và bài “Nguyên tiêu”:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.

Page 74: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

74 | ThS. Võ Quang Huy

Xuân Thủy dịch:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nƣớc lẫn màu trời thêm xuân.

Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”

Hiếm có những câu thơ tả cảnh đẹp thiên nhiên nào hay hơn hai

câu đầu của hai bài thơ vừa trích. Đó không chỉ là cảnh đẹp đơn thuần,

riêng lẽ mà là vẻ đẹp đƣợc tạo ra từ sự hòa quyện của nhiều yếu tố và

trên hết đó là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm hồn thi sỹ Hồ Chí

Minh. Hai câu sau của hai bài thơ lại là hình ảnh của một chiến sỹ

cách mạng không vì ngắm cảnh mà quên đi nhiệm vụ với tổ quốc khi

dân tình đang chìm đắm trong đói khổ, nô lệ, lầm than.

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí

Minh” đã và đang đƣợc triển khai sâu rộng trên cả nƣớc và thu đƣợc

nhiều thành quả đáng ghi nhận. Từ những bài thơ Đƣờng mà Bác để

lại các thế hệ hôm nay và mai sau sẽ học tập đƣợc rất nhiều về phong

cách và tâm hồn Hồ Chí Minh. Đó là cuộc sống lạc quan tin tƣởng,

luôn hƣớng về ánh sáng tƣơng lai, đó là sự tiếp thu có chọn lọc tinh

hoa văn hóa nhân loại và cải biến cho phù hợp với văn hóa nƣớc nhà,

đó còn là một tấm lòng vì dân, vì nƣớc, nhân đạo, nhân văn.

Thơ hay nhiều khi không nằm ở hệ thống luật lệ phức tạp, gò bó,

kỹ xão ngôn ngữ... mà cốt ở tấm lòng ngƣời làm thơ. Nhân dân Việt

Nam và nhân dân thế giới đều nhìn thấy trong thơ chữ Hán của Bác một

bức chân dung tự họa của Ngƣời: vừa thanh cao vừa giản dị, vừa vĩ đại

vừa nhạy cảm tinh tế, vừa mang dáng dấp cổ điển của các bậc tao nhân

mặc khách vừa mang dáng dấp một anh hùng dân tộc của thế kỷ XX.

“Yêu Bác lòng ta tƣơi sáng hơn”, thích thơ Bác nói chung và thơ

Đƣờng của Bác nói riêng chính là cơ sở để mỗi ngƣời Việt Nam có ý

thức bảo lƣu, giữ gìn, truyền bá, nâng cao giá trị của thơ Bác làm cho

di sản văn hóa đó mãi đƣợc trƣờng tồn đến thế hệ sau./.

VQH

Page 75: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

VẺ ĐẸP CỔ ĐIỂN VÀ HIỆN ĐẠI

TRONG BÀI THƠ “CHIỀU TỐI” CÛA HỒ CHÍ MINH

Th.s. Nguyễn Thị Thiện

Trƣờng THPT Thạch Thất – Hà Nội

Tuy văn chƣơng không phải là sự nghiệp chính của cuộc đời

nhƣng với di sản thơ ca phong phú để lại cho đƣơng thời và hậu thế,

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa

lớn không chỉ của Việt Nam mà của toàn nhân loại. Rất nhiều bài thơ

đƣợc sáng tác theo thể thất ngôn Đƣờng luật, trong đó sự kết hợp hài

hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt

của thơ Ngƣời. Điều đó thể hiện rõ nét qua nhiều bài thơ, tiêu biểu là

bài “Mộ” - “Chiều tối” rút từ tập “Nhật ký trong tù”, tập thơ sáng tác

trong hoàn cảnh tác giả bị giam cầm tại nhà lao của chính quyền

Tƣởng Giới Thạch từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943.

Nói đến màu sắc cổ điển trong thơ là nói đến những yếu tố về nội

dung và thi pháp có sự ảnh hƣởng rõ nét của thơ phƣơng Đông – chủ

yếu là thơ Đƣờng Trung Quốc, vốn đƣợc coi là mẫu mực về đề tài, thể

loại, bút pháp, thi liệu. Do đâu thơ Hồ Chí Minh lại đậm đà chất cổ

điển? Bác vốn xuất thân từ một gia đình Nho học. Ông ngoại và phụ

thân của Bác vốn là những bậc túc nho nổi tiếng đƣơng thời nên ngƣời

con ƣu tú của gia đình, con ngƣời Việt Nam đẹp nhất ấy đã tiếp thu,

kết tinh đƣợc vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa cổ phƣơng Đông.

Với tâm hồn phong phú, trí tuệ anh minh, lại giỏi chữ Hán và am hiểu

sâu sắc thơ Đƣờng, thơ Ngƣời vì thế đậm đà chất cổ điển. Điều đó

đƣợc thể hiện: giàu cảm hứng với thiên nhiên, bút pháp chấm phá nhƣ

ghi lấy linh hồn của tạo vật, ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc ý tại ngôn

Page 76: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

76 | ThS. Nguyễn Thị Thiện

ngoại. Bên cạnh đó, đã sống và làm việc, tiếp xúc với văn minh

phƣơng Tây, hồn thơ ấy rất sáng tạo và hiện đại, biểu hiện ở: tính chất

dân chủ của đề tài, hình tƣợng thơ luôn vận động khỏe khoắn hƣớng

về ánh sáng và tƣơng lai, chủ thể trữ tình hòa hợp với thiên nhiên

nhƣng không là ẩn sỹ mà là chiến sỹ. Điều đáng nói là chất cổ điển và

hiện đại luôn hài hòa trong thơ của Hồ Chí Minh mà bài thơ Chiều tối

là một sáng tác tiêu biểu.

Trong bài, mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động kết hợp nhuần

nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Hình ảnh tuy

mang dáng dấp của thi liệu thơ cổ nhƣng ý thơ, cảm hứng thơ và nhân

vật trữ tình lại hoàn toàn hƣớng về ánh sáng, hƣớng tới thiên nhiên và

cuộc sống con ngƣời. Hai câu thơ đầu mở ra không gian cảnh núi rừng

khi chiều tối:

“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)”

Cảnh đƣợc gợi lên qua bút pháp ƣớc lệ quen thuộc của thơ cổ

đồng thời nói lên thật đúng hoàn cảnh của Bác và mang những nét

mới. Ngƣời đọc có thể hình dung cảnh ngƣời tù đang bị áp giải ngẩng

mặt lên trời quan sát cảnh vật, nhận ra cánh chim bay và chòm mây

trôi ngang qua bầu trời. Cảnh đó phảng phất một nỗi buồn hiu quạnh.

Nửa đầu bài tứ tuyệt này, ngƣời đọc đƣợc chiêm ngƣỡng một bức

tranh thiên nhiên có đƣờng nét cánh chim bay tìm về tổ, có hình ảnh

chòm mây trôi lững lờ. Những hình ảnh này xuất hiện thật tự nhiên,

vừa song hành vừa đăng đối. Không có một chữ nào chỉ thời gian

nhƣng ngƣời đọc cảm nhận ngay đƣợc thời gian lúc này là chiều

muộn. Chỉ bằng mấy nét chấm phá, tả rất ít nhƣng lại gợi nhiều, tác

giả tái hiện đƣợc cả linh hồn của cảnh vật: Cánh chim bay về rừng tìm

chốn ngủ với dáng điệu mỏi mệt và đám mây lẻ loi trôi chầm chậm

giữa lƣng trời. Nghệ thuật đối ngẫu, một nét đặc trƣng của thơ cổ,

càng làm nổi bật dáng chim nhỏ nhoi và vũ trụ rộng lớn lúc hoàng

Page 77: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 77

hôn. Cánh chim ấy dƣờng nhƣ mang bóng tối đang phủ dần lên cảnh

vật. Câu thơ mang đậm phong vị cổ thi. Bởi khi tả cảnh chiều tối, các

thi nhân xƣa vẫn thƣờng dùng hình ảnh cánh chim. Nguyễn Du, ngôi

sao sáng chói trong bầu trời thơ ca Việt Nam thời Trung đại, trong kiệt

tác Truyện Kiều đã viết: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Và Bà Huyện

Thanh Quan, bậc nữ lƣu tài danh của dân tộc sống ở thế kỷ XIX, trong

thi phẩm “Chiều hôm nhớ nhà” cũng viết: “Ngàn mai gió cuốn chim

bay mỏi”. Những áng cổ thi ấy đều dùng cánh chim tả cảnh chiều tà

buồn vắng, hiu quạnh. Lý Bạch, bậc Tiên thi đời Đƣờng ở Trung Quốc

khi tả không gian trong bài Độc tọa Kính Đình sơn đã viết: “Chúng

điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn” nghĩa là: Các loài chim bay

cao hết/ Đám mây cô đơn nhàn hạ trôi. Cánh chim của Lý Bạch xƣa

dƣờng nhƣ bay vút vào không gian, nhƣ tan biến vào cõi vĩnh hằng.

Còn cánh chim trong thơ Bác không bay đi hết, nó chỉ chuyển trạng

thái từ bay sang ngơi nghỉ để rồi lại tiếp tục chu trình tuần hoàn của sự

sống. Còn hình ảnh chòm mây trôi nhẹ, lời thơ Nam Trân dịch đã

uyển chuyển linh hoạt nhƣng vẫn chƣa lột tả đƣợc chữ “cô vân” – đám

mây lẻ loi và chƣa thể hiện đƣợc ý nghĩa của từ láy “mạn mạn” trong

nguyên tác. Điều đó chứng tỏ ngôn ngữ thơ Hồ Chí Minh vô cùng

hàm súc. Ở đây, cánh chim bay mỏi và chòm mây cô đơn dƣờng nhƣ

mang theo cả nỗi lòng của tác giả, một ngƣời tù đang bị đày ải “giải

tới giải lui” khắp mƣời ba huyện ở tỉnh Quảng Tây, nơi đất khách quê

ngƣời lạ lẫm - có hôm tới 53 cây số một ngày – phía trƣớc lại là một

nhà tù khác đang chờ đón. Thế nhƣng tác giả không san sẻ cho cảnh

vật nỗi niềm buồn đau của cảnh ngộ mình đang phải từng trải. Trái lại,

Ngƣời đã quên mình để sẻ chia, đồng cảm, hòa hợp với thiên nhiên tạo

vật xung quanh. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là một phong thái

ung dung của một con ngƣời đang khao khát tự do, tuy bị mất tự do

nhƣng vẫn làm chủ mình, làm chủ hoàn cảnh ở mọi tình huống. Cũng

chính điều này còn cho thấy vẻ đẹp hiện đại của thơ Hồ Chí Minh ẩn

chứa và hòa hợp ngay trong những thi liệu thơ đậm chất cổ điển.

Phần sau của bài thơ đã tiếp nối mạch thơ ở phần trên thật tự

nhiên, tái hiện bức tranh lao động và sinh hoạt thƣờng nhật của con

ngƣời nơi xóm núi.

Page 78: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

78 | ThS. Nguyễn Thị Thiện

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)”

Nếu bức tranh thiên nhiên phần đầu bài thơ có phần ảm đạm, buồn

vắng quạnh thì phần thơ cuối này hoàn toàn ngƣợc lại: Cô gái xóm núi

xay ngô bên bếp lửa đã toát lên một vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung và

ấm áp. Điều thú vị là tác giả đã dùng nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy

ánh sáng của lò than để nói về bóng tối của không gian vùng sơn cƣớc

lúc màn đêm buông xuống. Trời không tối, làm sao thấy đƣợc hình

ảnh “lô dĩ hồng”. Hình ảnh thơ này thật bình dị và cũng rất sáng tạo,

thể hiện nét mới, chất hiện đại của bài thơ. Hơn nữa trong bài, hình

tƣợng thơ không tĩnh tại nhƣ thƣờng gặp trong thơ cổ mà có sự vận

động hƣớng về ánh sáng, về tƣơng lai. Bài thơ rất phong phú về sự

vận động: vận động của cánh chim, vận động của chòm mây, vận

động của con ngƣời đang làm việc hăng say. Và ngay cả thời gian

trong bài cũng vận động từ chiều muộn cho đến tối hẳn. Tâm trạng

nhân vật trữ tình cũng có sự vận động: từ mỏi mệt, lẻ loi, lạnh lẽo sang

vui tƣơi, ấm nồng cùng cảnh vật và con ngƣời. Cách miêu tả và quan

sát trong bài của tác giả từ hƣớng ngoại sang hƣớng nội, từ cao đến

thấp, từ xa đến gần. Trong thi phẩm, chữ “hồng” chính là nhãn tự, là

điểm sáng của cả bài thơ có sức lan tỏa lớn. Lô dĩ hồng đã diễn tả

đƣợc thời gian vận động rất tự nhiên của cảnh vật. Sắc hồng của lò

than đang đƣợm đã xua đi bóng đêm và sự lạnh lẽo của núi rừng lúc

chiều tối, lan tỏa hơi ấm ra xung quanh, nhân lên niềm vui, niềm lạc

quan của con ngƣời, nó củng cố và mài sắc thêm ý chí của ngƣời

chiến sỹ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã nơi xa xứ.

Nghệ thuật ở hai câu cuối bài còn có một nét đặc sắc khác rất đáng lƣu

ý. Giữa câu thơ thứ ba và câu bốn có những cụm từ lặp lại theo hình

thức liên hoàn: “ma bao túc” và “bao túc ma hoàn”. Hình thức này đã

tạo nên kết cấu vòng tròn giữa hai câu thơ, gợi lên sự cảm nhận về

vòng quay đều đều của chiếc cối xay ngô và từ vòng quay ấy gợi lên

sự luân chuyển của thời gian tuần tự.

Page 79: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 79

Trƣớc cảnh vật và cuộc sống con ngƣời nơi xóm núi, trong lòng

tác giả dânglên dạt dào cảm xúc. Qua đó, ngƣời đọc thấy đƣợc vẻ đẹp

tâm hồn Hồ Chí Minh: tha thiết yêu thiên nhiên, cuộc sống, con ngƣời.

Hai câu thơ sau khiến ngƣời đọc vô cùng cảm động bởi đã ghi lại cảnh

sinh hoạt quen thuộc, bình dị của một gia đình nơi xóm núi. Điều đó

chứng tỏ trong hành trình hoạt động cách mạng, toàn tâm toàn trí vì sự

nghiệp cứu nƣớc, cứu dân, nhƣng trong trái tim Bác Hồ vẫn có một

khoảng dành cho tình cảm gia đình. Về tấm lòng yêu đời của Ngƣời ở

hai câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt đẹp về

cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu.

Những hình ảnh nhƣ thế không thiếu gì chung quanh ta nhƣng thƣờng

nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể

nào ghi lại đƣợc”.

Chiều tối chỉ vẻn vẹn bốn câu thơ thất ngôn song đã cho thấy tâm

hồn vô cùng cao đẹp và tài năng văn chƣơng của Bác. Sự kết hợp hài

hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại đã mang đến cho bài thơ một vẻ

đẹp vừa truyền thống vừa mới mẻ. Đây cũng chính là một trong những

yếu tố làm nên đặc sắc nghệ thuật thơ Đƣờng luật của Hồ Chí Minh -

con ngƣời của tƣơng lai ấy - luôn hƣớng về thiên nhiên, cuộc sống,

con ngƣời với sự đồng cảm và trân trọng “Nâng niu tất cả chỉ quên

mình” (Tố Hữu)./.

NTT

Page 80: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

80 | ThS. Nguyễn Thị Thiện

Page 81: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

THƠ BÁC HỒ - MÓN ĂN TINH THẦN

CÛA DÂN TỘC VIỆT NAM

Đinh Mỹ Hạnh

Chi hội thơ Đƣờng luật Tân Yên – Bắc Giang

Chủ Tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đồng thời là

nhà thơ lớn của dân tộc ta. Thơ của Ngƣời là những tác phẩm văn học

vô giá, góp vào kho tàng văn học Việt Nam và thế giới. Trong suốt

cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã sáng tác khá nhiều thơ.

Khoảng trên 300 bài, gồm có 133 bài thơ trong Nhật ký trong tù, 35

bài thơ chữ Hán, 22 bài thơ chúc tết và trên một trăm bài thơ tiếng

Việt khác. Tuy số lƣợng không phải là lớn, nhƣng về mặt chất lƣơng,

thơ Bác có nội dung phong phú, phong cách nghệ thuật độc đáo, kết

hợp tài tình giữa tinh hoa cổ thi và tính hiện đại của thơ ca cách mạng.

Đã làm rung động trái tim của các thế hệ ngƣời Việt Nam và bè bạn

khắp năm châu.

Trong thơ Bác có tới quá nửa là thơ Đƣờng Luật. Bởi Bác xuất

thân là con của một vị Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc vốn nổi danh là

ngƣời giỏi thơ hay chữ. Tuổi học trò đầu đời của Bác, Bác học chữ

Hán, mà thời đó nói đến thơ thì chủ yếu là thơ Đƣờng Luật. Hơn nữa

trong số trên 300 sáng tác của Bác, đã có 168 bài viết bằng chữ Hán.

Bài thơ khởi đầu cho sự nghiệp thơ ca cách mạng của Ngƣời là một

bài thơ Đƣờng Luật gửi cụ Phan Châu Trinh (năm 1913):

“Chọc trời khuấy nƣớc tiếng đùng đùng,

Phải có kiên cƣờng mới anh hùng.

Ba hột đạn - thầm ba tấc lƣỡi,

Sao cho ích giống mấy cam lòng”.

Page 82: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

82 | Đinh Mỹ Hạnh

Và bài thơ cuối cùng trong sự nghiệp thơ ca của Ngƣời (1968)

cũng là một bài thơ Đƣờng Luật. Bài Vô đề:

“Bảy mƣơi tám tuổi chƣa già lắm,

Vẫn vững hai vai việc nƣớc nhà.

Kháng chiến dân ta đang thắng lớn,

Vững bƣớc ta cùng con em ta”.

Sinh thời Bác nói “Ngâm thơ ta vốn không ham…” (Lão phu

nguyên bất ái ngâm thi) bởi Bác là nhà cách mạng chuyên nghiệp chứ

không phải là nhà thơ chuyên nghiệp. Bác nói “Tôi chỉ có một sự ham

muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nƣớc tôi đƣợc hoàn toàn độc

lập, dân tôi đƣợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo

mặc, ai cũng đƣợc học hành…”. Bác làm thơ cũng là để phục vụ cho

sự nghiệp cách mạng, cho nên thơ Bác nói chung và thơ Đƣờng Luật

của Bác nói riêng, trƣớc hết đều có tính mục đích rõ ràng: vì nhân dân,

vì dân tộc, vì cách mạng, vì con ngƣời. Chúng ta hãy nghe bài Cảm

tƣởng đọc thiên gia thi:

“Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,

Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông.

Nay ở trong thơ nên có thép,

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.

Bài thơ ra đời năm 1943 khi chiến tranh thế giới lần thứ hai đã

bùng nổ, tạo thời cơ cho các nƣớc thuộc địa giành độc lập. Sự nghiệp

cách mạng của đất nƣớc Trung Quốc - đất nƣớc của thơ Đƣờng rực rỡ

- rất cần có những nhà thơ, những văn nghệ sĩ cách mạng. Ở nƣớc ta,

mùa xuân năm 1941, Bác Hồ về nƣớc trực tiếp lãnh đạo cách mạng,

xác định giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do là nhiệm vụ hàng

đầu. Lực lƣợng cách mạng đƣợc xây dựng ngày càng mạnh lên cả về

chính trị, quân sự, văn hóa. Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò

của văn nghệ sĩ trong đó có nhà thơ; yêu cầu họ phải tích cực góp

phần chiến đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc, ấm no hạnh phúc của

nhân dân. Sau này, Ngƣời tiếp tục khẳng định: “Văn hóa văn nghệ

Page 83: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 83

cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Ngƣời

giao nhiệm vụ cho văn nghệ sĩ rất “nặng nề” nhƣng đem lại vinh

quang cho văn nghệ sĩ rất lớn. Tinh thần “xung phong” của văn nghệ

sĩ và chất “thép” trong các tác phẩm của họ góp phần quan trọng vào

thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc, thống nhất đất

nƣớc. Nhiều văn nghệ sĩ đã anh dũng hy sinh. Văn nghệ kháng chiến,

giải phóng dân tộc mãi mãi xứng đáng là đỉnh cao của nền văn nghệ

cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh không có ý phê phán, phủ định

“thiên nhiên đẹp” trong cổ thi. Ngƣời chỉ đƣa ra cảm tƣởng “cổ thi

nghiêng về yêu cảnh đẹp thiên nhiên” đơn thuần mà thôi. Cho nên, để

cho hài hòa, cân bằng, nhất là xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu thời

đại hiện nay, Ngƣời đề nghị nên có thêm chất “thép” vào trong thơ.

Bổ sung chất “thép” sẽ tạo nên nét đặc sắc mới trong thơ hiện đại. Thơ

sẽ tƣơi thêm, mạnh hơn, giúp ích cho đời nhiều hơn. Giữa “thiên

nhiên” và chất “thép” cũng không hề mâu thuẫn, loại trừ lẫn nhau; mà

nó luôn có quan hệ, hài hòa, bổ sung cho nhau. Một bài thơ hay là sự

hòa quyện giữa “thiên nhiên” và chất “thép” đến mức độ ngƣời đọc

không còn phân biệt đâu là “thiên nhiên”, đâu là chất “thép”. Thơ Hồ

Chí Minh, đặc biệt là thơ trữ tình, là mẫu mực sự hài hòa giữa “thiên

nhiên” và chất “thép”, giữa chất “thép” và chất “tình”. Nhà thơ Hoàng

Trung Thông viết rất đúng rằng:

“Vần thơ của Bác vần thơ thép,

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.

Rất nhiều bài thơ của Bác đã trở thành tuyệt tác, trở thành mẫu

mực về điều đó. Ta hãy lắng nghe bài Cảnh khuya của bác:

“Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya nhƣ vẽ ngƣời chƣa ngủ,

Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà”.

Lối so sánh của Bác thật kì lạ! Tiếng suối vốn đƣợc cảm nhận

bằng thính giác nhƣng nghe tiếng suối Ngƣời cảm nhận đƣợc độ

Page 84: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

84 | Đinh Mỹ Hạnh

“trong” của dòng chảy. Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó

hẳn cũng là thứ quà riêng mà thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho

những ngƣời chiến sĩ trên đƣờng hành quân xa xôi mệt mỏi. Chẳng

những vậy, tiếng suối trong nhƣng là “trong nhƣ tiếng hát xa”. “Tiếng

hát xa” là thứ âm thanh rất đặc biệt. Đó phải là tiếng hát rất cao để có

sức lan toả mạnh mẽ, để từ xa con ngƣời vẫn có thể cảm nhận đƣợc.

Đó cũng là tiếng hát vang lên trong thời khắc yên lặng bởi nếu không,

nó sẽ bị lẫn vào biết bao âm thanh phức tạp của sự sống, liệu từ xa,

con ngƣời còn có thể cảm nhận đƣợc? Điều thú vị trong câu thơ của

Bác Hồ là một âm thanh của tự nhiên đƣợc so sánh với tiếng hát của

con ngƣời. Điều đó thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc trong những

vần thơ của Bác. Và giữa cái cảnh khuya “Trăng lồng cổ thụ bóng

lồng hoa”, “cảnh khuya nhƣ vẽ” ấy, là “ngƣời chƣa ngủ/Chƣa ngủ vì

lo nỗi nƣớc nhà” ta thấy đƣợc tinh thần cách mạng của Bác.

Bài thơ Nguyên tiêu của Bác thì nay đã trở thành thơ hiệu cho

ngày thơ Việt Nam:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.

Đ/c Xuân Thuỷ đã dịch ra thơ lục bát:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nƣớc lẫn màu trời thêm xuân.

Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.

Đã mấy mƣơi năm, bản dịch của Xuân Thủy vẫn sống đƣợc cùng

nguyên bản. Ngƣời dịch khéo đƣa chữ xuân từ câu thứ hai lên câu thứ

nhất để giữ đủ ba chữ xuân trong nguyên bản Hán tự. Với ba chữ ấy,

trong đêm chiến khu 1948 xuân chảy dài theo dòng sông, xuân lan

rộng trên mặt nƣớc, xuân vút cao lên tận trời! Xuân hứng thành thi

hứng, dẫn mạch thơ đi nhƣ sóng trào. Hai chữ thiên – yên bắt vần tự

Page 85: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 85

nhiên đến không ai nhận ra chính vần ấy đã nối ngọn sóng thơ ở câu

hai với chân sóng ở câu bản lề thứ ba. Kín đáo nơi chân sóng, động

lực thúc đẩy dòng chảy, con ngƣời đang bàn việc quân, việc nƣớc. Kì

lạ thay, sau câu bản lề kia, trăng chỉ là một vừng ở câu đầu, đã thành

trăng ánh một trời nơi câu cuối! Và con thuyền quân dụng thoắt biến

thành thuyền thi tứ, thành đấu, thành thƣng đong đầy ánh sáng để mà

nói với bạn đọc niềm vui sống tràn trề của ngƣời làm thơ, thi sĩ tƣớng

quân Hồ Chí Minh.

Thơ Đƣờng luật của Bác phần nhiều là thơ tứ tuyệt. Trong thơ tứ

tuyệt của Ngƣời phong cách thật độc đáo. Câu 1,2 thƣờng là mộc mạc

chân chất và giản dị, thậm chí giản dị nhƣ những câu nói đời thƣờng:

“Đã lâu chƣa làm bài thơ nào,

Nay lại thử làm thơ xem sao”

Nhƣng đến câu 2,3 thì thơ bỗng vút lên một cách lạ thƣờng:

“Lục khắp giấy tờ vần chẳng thấy,

Bỗng nghe vần thắng vút lên cao”.

Hay:

“Gạo đem vào giã bao đau đớn,

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông.

Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy,

Gian nan rèn luyện mới thành công”

Hay:

“Ngủ thì ai cũng nhƣ lƣơng thiện,

Tỉnh dậy phân ra kẻ giữ hiền.

Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,

Phần nhiều do giáo dục mà nên”

… v.v và v.v…

Câu “thừa”, câu chuyển (câu 3) trong thơ Bác sâu sắc uyên thâm

đến mức nếu từ thơ chữ Hán dịch ra thơ tiếng Việt, thì có bài các

Page 86: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

86 | Đinh Mỹ Hạnh

dịch giả phải bó tay. Ví nhƣ trong bài Nguyên Tiêu câu 3: “Yên ba

thâm xứ đàm quân sự” chỉ dịch là “Giữa dòng bàn bạc việc quân”

thì chƣa thể lột tả đƣợc sự mông lung sâu thẳm nơi sông nƣớc, từ chỗ

bí mật để bàn quân sự lại trở thành công khai “giữa dòng”... Hay

trong bài thơ “Thất cửu” câu thơ thứ 3: “Tự cung thanh đạm tinh

thần sảng” chỉ dịch thành “Sống quen thanh đạm nhẹ ngƣời” thì mất

cả tính tự cung, tính tự chủ, và phần nào sự sảng khoái của Ngƣời.

Sẽ là thiếu sót khi bàn về thơ Đƣờng luật của Bác, mà không nói

đến sự tài tình trong xƣớng hoạ, trong chơi chữ, trong lối chơi “tập

cổ” của Bác.

Thật là thú vị khi nghe những bài thơ xƣớng hoạ của Bác cùng

Luật sƣ Phan Anh. Bác viết bài Cảnh rừng Việt Bắc:

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,

Vƣợn hót, chim kêu suốt cả ngày.

Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng,

Săn về thƣờng chén thịt rừng quay.

Non xanh, nƣớc biếc tha hồ dạo,

Rƣợu ngọt, chè tƣơi mặc sức say.

Kháng chiến thành công ta trở lại,

Trăng xƣa, hạc cũ với xuân này”.

Bài thơ trên của Bác làm vào lúc Luật sƣ Phan Anh là thành

viên của Hội đồng Chính phủ, đƣợc Bác Hồ mời về họp ở một thôn

thuộc huyện Sơn Dƣơng (tỉnh Tuyên Quang). Dân làng đã chiêu đãi

một bữa cơm ngon với đầy đủ thổ sản, thú rừng. Trong không khí

ấy, Luật sƣ Phan Anh họa lại nhƣ sau:

“Cảnh rừng càng biết lại càng hay,

Khác cảnh phồn hoa sống mỗi ngày.

Ngựa bƣớc dồn câu, ta vẫn vững,

Tàu bay hết nƣớc, địch đành quay.

Page 87: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 87

Núi rừng cách mặt tình thêm mặn,

Thơ phú, không men vẫn ý say.

Hạc cũ, trăng xƣa đâu đó ta,

Ngày xuân tô điểm nƣớc non này”.

Quân Pháp đánh lên căn cứ địa Việt Bắc (8/10/1947) nhƣng chiến

sĩ cách mạng đã dũng cảm chiến đấu bảo vệ an toàn ATK. Bác tạm

lánh một tuần lễ lại quay về chốn cũ ở “Phủ Chủ tịch” bên thác nƣớc 7

tầng, dòng suối mát và cây đa cổ thụ rợp bóng vào những đêm trăng

sáng cùng với Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp bàn việc quân sự. Đang

trong thời điểm khó khăn ác liệt ấy, Bác làm bài thơ “Cảnh khuya”:

“Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.

Cảnh khuya nhƣ vẽ, Ngƣời chƣa ngủ,

Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà”…

Bác đánh máy ra nhiều bản gởi cho cụ Bùi Bằng Đoàn (Thƣờng

trực Quốc Hội), cụ Cù Huy Cận (nhà thơ), luật sƣ Phan Anh… Mấy

hôm sau, luật sƣ Phan Anh họa lại gởi lên Bác nhƣ sau:

“Họa vần xin gởi cho ai,

Đƣờng xa sẻ tấm quan hoài nƣớc non”.

“Quanh quanh dòng suối cảnh đƣờng xa,

Trời có trăng và núi có hoa.

Trăng sáng bao lao trời đất nƣớc,

Hoa thơm phảng phất vị hƣơng nhà”...

Không mấy ai yêu thơ Bác lại không biết đến với một sự khâm

phục bài thơ hoạ đầy khí phách và tính chiến đấu của Bác với Nguyễn

Hải Thần, ngƣời sáng lập và lãnh đạo Việt Nam Cách mệnh Đồng

minh Hội. Tháng 9 năm 1945 Việt Cách về nƣớc theo 200.000

quân Trung Hoa Dân quốc do tƣớng Lƣ Hán chỉ huy sang với danh

nghĩa giải giới quân đội Nhật. Thực chất là chống phá cách mạng rất

quyết liệt. Nguyễn Hải Thần gửi cho Bác:

Page 88: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

88 | Đinh Mỹ Hạnh

“Gai góc đƣờng đời ông với tôi,

Hai vai gánh vác sẻ làm đôi.

Cùng chung Nam Bắc chung nòi giống,

Cùng một ông cha một giống nòi.

Đành chịu nƣớc cờ thua nửa ngựa,

Còn hơn miệng thế tiếng mƣời voi.

Mấy lời nhắn nhủ ông ghi nhớ,

Ngƣợc nƣớc buông câu phải lựa mồi”

Bác đã hoạ lại:

“Gai góc đƣờng đời ông với tôi,

Hai vai gánh vác sẻ làm đôi.

Đã chung Nam Bắc chung bờ cõi,

Nỡ bỏ ông cha bỏ giống nòi.

Ông chịu nƣớc cờ thua nửa ngựa,

Tôi đành ghé đít cƣỡi đầu voi.

Cờ tàn mới biết ai cao thấp,

Há phải chi ai cá thấy mồi”.

Thật tuyệt vời!

Thơ Đƣờng Luật của Bác còn nổi tiếng uyên thâm về lối chiết tự, chơi

chữ. Ta hãy nghe bài thơ có đầu đề “Chiết Tự”. Nguyên tác chữ Hán:

“Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,

Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung.

Nhân hữu ƣu sầu ƣu điểm đại,

Lung khai trúc sản, xuất chân long”.

Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để

thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo

lối chiết tự, bài thơ này có nghĩa đen nhƣ sau: chữ tù (囚) bỏ chữ

nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患

) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân đứng (亻) vào

Page 89: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 89

chữ ƣu (憂) trong “ƣu sầu” thành chữ ƣu (優) trong “ƣu điểm”. Chữ

lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍). Nhƣng nghĩa bóng

của bài thơ lại lại bao hàm một ý chí kiên cƣờng mạnh mẽ của Bác:

“Ngƣời thoát khỏi tù ra dựng nƣớc,

Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay.

Ngƣời biết lo âu, ƣu điểm lớn,

Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay”.

Thật tài hoa!

Nhà thơ Vƣơng Hàn đời nhà Đƣờng Trung Quốc có bài thơ

“Lƣơng Châu Từ” nổi tiếng:

“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,

Dục ẩm tỳ bà mã thƣợng thôi.

Tuý ngoạ sa trƣờng quân mạc tiếu,

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.

Nghĩa:

“Rƣợu bồ đào cùng với chén lƣu ly,

Muốn uống nhƣng đàn tỳ bà đã giục lên ngựa.

Say khƣớt nằm ở sa trƣờng, anh chớ cƣời,

Xƣa nay chinh chiến mấy ai trở về đâu”.

Ngày 8/10/1950, Bác viết thƣ biểu dƣơng các chiến sĩ ngoài mặt

trận sau chiến dịch Biên Giới và gửi tặng Trần Canh bài thơ:

“Hƣơng tân mỹ tửu dạ quang bôi,

Dục ẩm, tỳ bà mã thƣợng thôi.

Túy ngọa sa trƣờng quân mạc tiếu,

Địch nhân hƣu phóng nhất nhân hồi”.

Dịch:

“Rƣợu ngọt sâm banh lấp lánh ly,

Muốn uống, tì bà thúc ngựa phi.

Page 90: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

90 | Đinh Mỹ Hạnh

Đừng cƣời say nghỉ nơi trận mạc,

Không tha quân địch một tên về”.

Đây là một lối chơi thơ theo “Tập cổ” quen thuộc của thời xƣa.

Bác chỉ cần thay hai chữ câu đầu và năm chữ đầu câu cuối để gửi gắm

ý tứ của mình. vậy mà từ một bài thơ có tƣ tƣởng bi quan của ngƣời

lính trận: “Xƣa nay chinh chiến mấy ai về “trở thành bài thơ ca ngợi

chiến công ngƣời lính “Không tha quân địch một tên về”.

Thơ Bác Hồ, từ lâu đã là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với

dân tộc Việt Nam. Khí Bác còn sống, cứ tết đến Xuân về, cả nƣớc lại

đón đợi thơ chúc tết của Ngƣời. Mỗi một lần hội nghị ai ai cũng mong

mỏi và đề nghị Bác đọc thơ… Ngƣời nông dân đón đọc thơ Bác nhƣ

đọc những câu ca dao tục ngữ, những câu dân ca quen thuộc quê mình.

Các nhà văn, nhà thơ nghiên cứu, đọc thơ Bác nhƣ đọc những tác phẩm

đỉnh cao của nghệ thuật. Nhân dân thế giới đón nhân thơ Bác với biết

bao cảm xúc về một tâm hồn “Đại nhân, Đại trí và Đại dũng”.

Trong phạm vi hội nghị này, với một trình độ có hạn, xin đƣợc

mạo muội trao đổi đôi điều tìm hiểu về thơ Đƣờng Luật của Bác.

Chỉ với một mong muốn nhƣ là đƣợc thêm một lần thƣởng thức thơ

Bác, đƣợc tiếp tục học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức, tác

phong của Ngƣời.

ĐTMH

Page 91: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Nguyễn Thanh Toàn

Trƣờng Đại học Cần Thơ

Hội Nhà Văn TP. Cần Thơ

Bác Hồ không chỉ là nhà tƣ tƣởng vĩ đại, vị lãnh tụ tối cao của

cách mạng Việt Nam, Ngƣời còn là nhà chiến sỹ cộng sản kiệt xuất,

đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và phong trào công nhân

quốc tế. Bên cạnh đó Ngƣời còn đƣợc UNESCO tôn vinh, công nhận

là Danh nhân văn hóa thế giới. Nghiên cứu về Ngƣời không dễ vì cuộc

đời và sự nghiệp của Ngƣời là cả một kho tàng đồ sộ, là di sản quý giá

của nhân loại. Dựa vào vốn hiểu biết hạn chế của mình và trên khuôn

khổ một bài tiểu luận ngắn nên tôi không có tham vọng dàn trải mà

chỉ chấm phá đôi nét trong mảng thơ Đƣờng luật của Bác đã sáng tác

mà tôi có dịp nghiền ngẫm.

1. Bác Hồ chịu ảnh hƣởng của Thơ Đƣờng luật ra sao?

Hiện nay, chƣa có tài liệu nào minh chứng về những ngày đầu đến

với thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo một tài liệu chƣa chính thống

ghi theo lời kể của nhà văn Sơn Tùng thì bài thơ đầu tiên (Trên Đèo

Ngang) Bác làm năm 1895 (mới lên 5 tuổi): “Núi cõng con đƣờng mòn/

Cha thì cõng theo con/ Núi nằm ì một chỗ/ Cha lại cúi lom khom/

Đƣờng bám lì lƣng núi/ Con thì chạy lon ton/ Cha siêng hơn hòn núi/

Đƣờng hẳn lƣời hơn con”. Đây không phải là bài đúng niêm luật của

thể Ngũ ngôn bát cú Đƣờng luật, nhƣng rõ ràng đã chịu ảnh hƣởng bởi

hình thức thơ và cách gieo vần, dù chỉ đối ý mà chƣa đối từ.

Bài thơ “Ba Ông Phỗng” Bác viết năm 1903 (khi mới 13 tuổi) thì

rõ ràng đã chỉn chu hơn theo thể thơ tứ tuyệt:

Page 92: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

92 | Nguyễn Thanh Toàn

“Kìa ba ông lão bé con con

Biết có tình gì với nƣớc non

Trƣơng mắt làm chi ngồi đó mãi

Hỏi xem non nƣớc mất hay còn”.

Bài thơ vừa hóm hỉnh nhƣ tả thực lại vừa ý nhị lồng ghép ý tứ của

một tầm nhìn thời đại vì Tổ quốc. So với bài của cụ Tam Nguyên Yên

Đổ làm trƣớc đó: “Ông đứng làm chi đó hỡi ông/ Trơ trơ nhƣ đá vững

nhƣ đồng/ Đêm ngày gìn giữ cho ai vậy/ Non nƣớc đầy vơi có biết

không?” ta thấy trách nhiệm với “nƣớc non” đƣợc nâng cao lên,

không cam chịu “trơ trơ” nữa mà đã có những trăn trở thể hiện tinh

thần trách nhiệm cao với thời cuộc.

Xét về thực trạng văn đàn nƣớc ta thời Bác đang sống cũng nhƣ

những năm trƣớc đó, thể thơ Đƣờng luật chữ Hán hoặc chữ Nôm

đang đƣợc đa số các danh sĩ Nho học thời bấy giờ dùng để sáng tác.

Điển hình có thể kể đến nhƣ Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế

Xƣơng, Phan Bội Châu… Kho tàng thơ Bác để lại là những tứ thơ

mang hƣơng vị Đƣờng luật sâu sắc. Phải chăng lúc sinh thời, Ngƣời

đã chịu ảnh hƣởng lối thơ ấy từ những nhà Nho nhƣ ông ngoại và

cha mình? Những bài thơ đƣợc viết dƣới thể tứ tuyệt chữ Hán cũng

đƣợc lƣu truyền qua thời gian bởi những ngƣời yêu thơ Đƣờng luật,

chẳng hạn: “Nhật

cái nguyệt ám mông lung” (Ban mai - Nguồn: Lê Xuân Đức).

Giới yêu thơ cả nƣớc không ai không biết đến bài “Nguyên Tiêu”

nổi tiếng của Ngƣời mang vẻ đẹp cổ điển, mẫu mực không thể thiếu

trong “Ngày Thơ Việt Nam” bên cạnh bài “Nam Quốc Sơn Hà” của

danh tƣớng Lý Thƣờng Kiệt. Chúng ta càng không thể quên tập “Nhật

ký trong tù” với 134 bài thơ chữ Hán đều viết bằng thể thơ Đƣờng

luật. Riêng bài thơ mang tính chiến đấu của Bác “Khán Thiên gia thi

hữu cảm”: “Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết/ Thi gia dã yếu hội xung

Page 93: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 93

phong” đã trở thành kim chỉ nam, dẫn hƣớng cho các thế hệ nhà thơ

cách mạng hiện đại.

2. Những thi đề, thi cảm chính trong thơ Đuờng luật của Hồ Chí Minh

Sinh thời Hồ Chủ tịch không thừa nhận mình là nhà thơ chính

bởi Ngƣời là ngƣời con của dân tộc, của giang sơn gấm vóc và cả

của thời đại nên Ngƣời không có thời gian nhiều cho thơ: “Ngâm thơ

ta vốn không ham”. Tuy vậy, đọc những bài thơ của Ngƣời ta nhận ra

quan điểm của Ngƣời khi làm thơ không đơn thuần là giải trí mà

luôn bao hàm giá trị triết lý nhân sinh sâu sắc, đôi khi thể hiện thế

giới quan, nhân sinh quan cách mạng, đôi khi là những bài học luân

lý đời thƣờng, có khi là lời khuyên, lời động viên hoặc kêu gọi… Nội

dung tƣ tƣởng trong thơ Ngƣời thƣờng đƣợc chuyển tải một cách ý

vị, dễ hiểu đến ngƣời đọc. Những giá trị nội dung trong thơ của

Ngƣời khó có thể nắm bắt hết bởi “Ý tại ngôn ngoại”, ngoài ra, mảng

thơ chữ Hán ngƣời sáng tác rất nhiều, chúng ta thƣờng tiếp xúc với

thơ Ngƣời qua bản dịch mà dịch giả khó lòng chuyển tải hết ý nghĩa

trong nguyên tác. Trong khuân khổ bài viết của mình, tôi xin tập

trung bàn về những bài viết về thiên nhiên của Bác. Đồng thời qua

đó làm nổi bật lòng yêu nƣớc, tinh thần lạc quan của Ngƣời.

Thiên nhiên và non sông gấm vóc dƣới góc nhìn của Bác luôn rất

sống động, phong phú và đa dạng. Nó không chỉ là đối tƣợng để khai

thác, miêu tả, là tác nhân cho xúc cảm thẩm mỹ bay cao và vƣơn xa,

hơn thế nữa, nó còn tạo nên những giá trị thẩm mỹ tự nhiên cho tác

phẩm nghệ thuật, tạo nên cốt cách của một thi sỹ - nhà hiền triết

phƣơng Đông Hồ Chí Minh rất độc đáo. Chính vì thế, thiên nhiên và

non sông gấm vóc trong tình cảm và tâm hồn Ngƣời không còn là Cái

Tự nhiên tự nó mà đã trở thành Cái Tự nhiên cho ta (ý của Hegel) -

(theo Đỗ Ngọc Yên – Thiên nhiên và mùa xuân trong thơ Bác - Báo

Điện tử Tổ quốc).

Có thể thấy thời niên thiếu Bác đã luôn trăn trở với thời cuộc qua

bài thơ “Ba Ông Phỗng” (đã dẫn). Chỉ đến khi ở trong nhà lao của

Page 94: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

94 | Nguyễn Thanh Toàn

chính quyền Tƣởng Giới Thạch, Bác mới có thời gian chiêm nguỡng

cảnh sắc thiên nhiên, dù chƣa phải thiên nhiên quê nhà: “Ngƣời ngắm

trăng soi ngoài cửa sổ/ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”(Ngắm

trăng). Trăng trong thơ Bác đã đƣợc thi vị hóa để trăng và ngƣời đã

trở thành đôi bạn, sẻ chia tâm sự, đối ẩm cùng nhau.

Trong một số bài thơ của Bác thiên nhiên luôn đƣợc soi sáng, thi

vị hóa và chắp cánh dƣới tầm nhìn, góc nhìn mới lạ: “Chim mỏi về

rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không” (Chiều tối);

“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi/ Lòng sông gƣơng sáng bụi không mờ”

(Mới ra tù tập leo núi)… Thiên nhiên trong thơ Ngƣời luôn đẹp nhƣng

thiên nhiên của nƣớc Việt không chỉ càng đẹp mà còn luôn đằm thắm,

trữ tình, gần gũi thân quen và đáng yêu biết nhƣờng nào. Trên chiến

khu Việt Bắc, khi thƣ thả sau thời gian bận rộn việc quân, nhà thơ

tƣớng quân Hồ Chí Minh đã để lại một thi phẩm bất hủ: “Kim dạ

Nguyên Tiêu nguyệt chính viên/ Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên/

Yên ba thâm xứ đàm quân sự/ Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”

(Nguyên Tiêu). Câu cuối là một tuyệt tác hiếm thấy, khó có thể dịch

sát, đầy đủ bởi nói mãi vẫn không đủ từ ngữ để chuyển tải hết cái hay

trong thơ.

Một trong những bài thơ hay khác về thiên nhiên là “Cảnh rừng

Việt Bắc”: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay/ Vƣợn hót chim kêu suốt

cả ngày/ Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng/ Săn về thƣờng chén thịt

rừng quay/ Non xanh nƣớc biếc tha hồ dạo/ Rƣợu ngọt, chè tƣơi mặc

sức say/ Kháng chiến thành công ta trở lại/ Trăng xƣa, hạc cũ với

xuân này”. Thật thi vị, vừa lạc quan, vừa ung dung thƣ thái, hồn thơ

hoà hợp với thiên nhiên, nghe âm thanh thiên nhiên qua tiếng “vƣợn

hót chim kêu”, đặc biệt là ngây ngất bên cảnh cũ và Xuân với Ngƣời

là đôi bạn tri kỷ, tri âm.

Cũng là trăng, là cảnh thiên nhiên nhƣng đối với ngƣời tự do

khác hẳn với tù nhân, thi sỹ khác hẳn với nhà thơ chiến sĩ, càng khác

hơn với ngƣời lãnh đạo công cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc.

Page 95: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 95

Bởi vậy, cốt cách, phong thái trong thơ Ngƣời cũng cao ngạo mà thật

hào hùng nhƣng vẫn ấm áp: “Hôm nay xiềng xích thay dây trói/ Mỗi

bƣớc leng keng tiếng ngọc rung/ Tuy bị tình nghi là gián điệp/ Mà

nhƣ khanh tƣớng vẻ ung dung” (Vãng Nam Ninh). Thơ của Bác

không cầu kỳ, nó rất mộc mạc, gần gũi nhƣng ý tƣởng lại vô cùng

sâu sắc: “Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ, bóng

lồng hoa/ Cảnh khuya nhƣ vẽ ngƣời chƣa ngủ/ Chƣa ngủ vì lo nỗi

nƣớc nhà” (Cảnh khuya). Những bài thơ tả cảnh thể hiện rất rõ cảm

hứng dạt dào của Bác trƣớc thiên nhiên. Có bài chỉ vài nét phác họa

đơn sơ, song cũng có bài nhƣ một bức tranh sơn mài lộng lẫy. Nhƣng

bao trùm lên tất cả vẫn là vẻ đẹp phong phú, đa dạng của thiên nhiên.

Mặc dù thân thể bị giam cầm trong ngục tối nhƣng trái tim nhạy cảm

của Bác vẫn dễ dàng rung động trƣớc một ánh nắng mai rọi chiếu nơi

cửa ngục âm u:

“Trong ngục giờ đây còn tối mịt

Ánh hồng trƣớc mặt đã bừng soi”

(Buổi sớm)

Thiên nhiên trong “Nhật kí trong tù” đẹp đẽ và ấm áp tình ngƣời.

Nó thực sự trở thành nguồn động viên, an ủi to lớn đối với ngƣời tù

đặc biệt Hồ Chí Minh:

“Mặc dù bị trói chân tay

Chim ca rộn núi, hƣơng bay ngát rừng

Vui say ai cấm ta đừng

Đƣờng xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu”

(Trên đƣờng đi)

Thân thể trong ngục tù nhƣng Bác luôn lạc quan tin tƣởng và sự

tất thắng của con đƣờng đã chọn. Tinh thần lạc quan thể hiện rất rõ

trong nhiều bài thơ:

“Phƣơng Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn, quét sạch không

Page 96: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

96 | Nguyễn Thanh Toàn

Hơi ấm bao la trùm vũ trụ

Ngƣời đi, thi hứng bỗng thêm nồng”

(Giải đi sớm)

Khi bị giải từ nơi này qua nơi khác, bằng nét bút tài hoa của ngƣời

nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền

hoành tráng đó, nổi bật lên tƣ thế hiên ngang của ngƣời chiến sĩ với

quyết tâm vƣợt khó và tinh thần lạc quan tin tƣởng vào tƣơng lai tƣơi

sáng của cách mạng:

“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lí dƣ đồ cố miện gian”

(Tẩu lộ)

Sự hàm súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của

thơ Đƣờng không bó buộc nổi tứ thơ phóng khoáng và cảm xúc dạt

dào của thi nhân.

3. Những giá trị nghệ thuật sâu sắc

Nhƣ trên đã đề cập, Bác không coi mình là nhà thơ, nhƣng trong

suốt sự nghiệp vĩ đại của mình Ngƣời vẫn để lại cho chúng ta những

áng thơ trác tuyệt mang những giá trị nghệ thuật cao. Trƣớc tiên,

chúng ta có thể khẳng định quan điểm sáng tác của Ngƣời là “Nghệ

thuật vị nhân sinh” bởi phần lớn sáng tác đều hƣớng đến đất nƣớc, đến

cuộc cách mạng vĩ đại. Có những bài tự khuyên mình nhƣng cũng

ngầnm gửi gắm đến các đồng chí, đồng bào lời nhắn nhủ, sự động

viên vƣợt qua nghịch cảnh tù đày để sống và tiếp tục cống hiến cho sự

nghiệp chung. Bài thơ “Khán Thiên gia thi hữu cảm” có thể coi là lời

Tuyên ngôn về đối tƣợng sáng tác của Bác (Sáng tác gì? Cho ai? Làm

gì?) chứ không đơn thuần là “Cho khuây” nhƣ ở bài mở đầu tập

“Ngục trung Nhật kí”.

Page 97: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 97

Thơ của Bác Hồ luôn ngắn gọn, hàm súc nhƣng vẫn đủ thanh

thoát, mềm mại mà không đơn điệu. Bài “Cảnh khuya” (đã dẫn) là

một trong những bài thơ nhƣ thế. “Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa/

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa/ Cảnh khuya nhƣ vẽ ngƣời chƣa

ngủ/ Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà” - Trong bài tứ tuyệt này, có đủ bức

tranh thiên nhiên hữu tình, có âm thanh, hình ảnh hòa quyện vào làm

nền cho con ngƣời thi nhân bận lo toan việc nƣớc. Các thủ pháp nhân

hóa, so sánh, liên tƣởng đƣợc phối trộn tinh tế hòa quyện trong nhau.

Trong bài “Tảo Giải” (đã dẫn): “Nhất thứ kê đề dạ vị lan/ Quần tinh

ủng nguyệt thƣớng thu san/ Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thƣợng/

Nghênh diện thu phong trận trận hàn” thì nghệ thuật và nội dung hòa

quyện nâng cánh cho thơ. Cảnh thiên nhiên dù khắc nghiệt vẫn đủ thi

vị trƣớc phong thái hiên ngang, thách thức khó khăn gian khổ của

ngƣời làm thơ chiến sỹ.

Ngoài việc chắt lọc từ ngữ, Bác thƣờng sử dụng Nghệ thuật điệp

từ, điệp ngữ trong khá nhiều bài. Điển hình là bài thơ “Tẩu lộ” (đã

dẫn) với “Trùng san” đuợc ba lần lặp lại thật khéo léo và tinh tế. Bản

dịch của Nam Trân cũng rất thành công và là một trong số ít bài dịch

gần sát nghĩa nhƣ nguyên tác: “Đi đuờng mới thấy gian lao/ Núi cao

rồi lại núi cao trập trùng/ Núi cao cao đến vô cùng/ Thu vào tầm mắt

muôn trùng nƣớc non”. Tuy thế, câu đầu chƣa nhấn bằng do Bác dùng

“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan” - Theo nguyên tác phải là ngƣời đi đƣờng

giỏi mới có khả năng nhận biết, chứ không phải ai cũng biết. Đó là

chƣa kể chữ “Đi đuờng” của Bác chƣa chắc chỉ là con đƣờng đơn

thuần (“Đƣờng Kách Mệnh” chẳng hạn)? Còn câu “Nghênh diện thu

phong trận trận hàn” thì bản dịch còn xa mới theo kịp nguyên tác.

Năm 1942, trong một bài TNBC Bác đã viết phê phán Quốc trƣởng

Pháp Henri Philippe Pétain đã đầu hàng phát xít Đức nhƣ sau: “Bán

nƣớc lại còn hô cứu nuớc/ Ô danh mà muốn đuợc thơm danh” (Báo

điện tử Đảng Cộng Sản VN). Bài “Nguyên Tiêu” nổi tiếng với các

điệp từ “Xuân”, “Nguyệt” ngập tràn cảm xúc. Nhà thơ Xuân Thủy

dịch rất đạt nhƣng câu cuối vẫn chƣa thể sánh cùng nguyên tác.

Page 98: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

98 | Nguyễn Thanh Toàn

Nghệ thuật thơ tứ tuyệt của Bác mang vẻ đẹp trong sự kết hợp hài

hòa giữa truyền thống với hiện đại, giữa tính dân tộc với tính quốc tế.

Bác kế thừa tính cô đọng, hàm súc, ý tại ngôn ngoại của thể thơ Tứ

tuyệt Đƣờng luật cổ điển, tính đa nghĩa, sâu sắc của văn phong chữ

Hán kết hợp hài hòa với phong cách hiện đại ở bối cảnh, nhân vật. Bối

cảnh trong thơ Bác không thoát ly mà gần gũi với đời thƣờng. Nhân

vật trong thơ Bác là nhân vật hiện đại, là thi nhân, nhƣng cũng đồng

thời là chiến sĩ, đôi lúc là những ngƣời dân lao động mà Bác tình cờ

bắt gặp (Vợ anh bạn tù, Cô em xóm núi, Cháu bé trong nhà lao Tân

Cƣơng…). Bài thơ “Học đánh cờ” (đã dẫn) đƣợc PGS. TS. Đặng

Quốc Bảo liên tƣởng đến phƣơng châm “Dĩ bất biến - Ứng vạn biến”

(cổ điển) phối hợp với một bài phân tích chiến lƣợc kiểu Ma trận

SWOT trong Kinh tế học và Xã hội học hiện đại (Theo Tạp chí Giáo

dục Thủ đô số 23 - tháng 11/2011)…

Giá trị nội dung – tƣ tƣởng và vẻ đẹp nghệ thuật của thơ Đƣờng

luật HCM vô cùng thâm sâu, độc đáo, không thể một sớm một chiều

mà có thể nắm bắt, cảm nhận thấu. Tôi xin tạm dừng bài viết của mình

tại đây. Cám ơn quý vị đã đọc, đã nghe và xin trân trọng những ý kiến

phản biện, góp ý cho bài viết.

NTT

Page 99: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT VIỆT NAM

NGND Trần Bửu Lâm

Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam

Bác Hồ kính yêu là một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một

danh nhân văn hóa nổi tiếng thế giới. Nhƣng trong phạm vi Hội thảo

BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM tôi chi trình bày

những ý kiến của tôi về Bác Hồ với thơ Đƣờng luật Việt Nam. Sự

nghiệp văn thơ của Bác Hồ là một phần rất bé nhỏ trong sự nghiệp

cách mạng vĩ đại của Bác. Tuy nhiên văn thơ của Bác đã có tác dụng

quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, bồi dƣỡng ý chí cách mạng,

giáo dục đạo đức, lòng yêu nƣớc cho nhân dân trong quá khứ, hiện tại

và cả mai sau. Thơ là tiếng lòng, tiếng nói của tình cảm giàu tính

thuyết phục nên trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác đã

dùng thơ trong đó thể loại thơ Đƣờng luật chiếm phần đáng kể để

tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng, kêu gọi toàn dân đoàn

kết, hăng hái tham gia cách mạng.Lời thơ của Bác ấm áp, tình cảm dễ

đi vào lòng ngƣời. Là một nhà nho uyên thâm nên thơ Đƣờng luật của

Bác có hai phần: phần thơ Đƣờng luật Bác viết bằng tiếng Việt và một

phần Bác viết bằng chữ Hán. Tôi hiểu chữ Hán rất lơ mơ, nên tôi chủ

yếu tập trung trình bày cảm nhận của tôi qua các bài thơ Đƣờng luật

bằng tiếng Việt.Bác Hồ dùng thơ văn nói chung, thơ Đƣờng luật nói

riêng làm phƣơng tiện tuyên truyền, đấu tranh cách mạng nên thơ Bác

luôn mang đậm chất “thép” của thời đại cách mạng vô sản. Bác viết:

“Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp

Mây, gió, trăng, hoa. tuyết, núi, sông

Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.

Page 100: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

100 | NGND. Trần Bửu Lâm

Sau 30 năm bôn ba tìm đƣờng cứu nƣớc, đầu năm 1941, khi tình

hình trong nƣớc và tình hình thế giới chuyển biến mau lẹ, Bác quyết

định về nƣớc để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạnh. Thời kỳ nầy

Bác thƣờng dùng thơ để tuyên truyền,phổ biến chủ trƣơng, chính sách,

kêu gọi nhân dân đoàn kết đánh Tây, đuổi Nhật giành lại chinh quyền:

Đinh Chƣơng Dƣơng (1884 – 1972), quê Thanh Hóa, sớm giác

ngộ và tham gia hoạt động tích cực. Năm ông thọ 60 tuổi, Bác đã

làm bài thơ sau để tặng:

“Quan sơn muôn dặm gặp nhau đây

Mục đích chung là đuổi Nhật, Tây

Dân bị hai tròng vào một cổ

Ta liều trăm đắng với ngàn cay

Già dù yếu sức mang mang nhẹ

Trẻ cố ra công gánh gánh đầy

Non nƣớc của ta, ta lấy lại

Nghìn thu sự nghiệp nổi từ đây”.

Bài thơ này Bác viết năm 1943 là thời điểm phe phát xit liên tiếp

thua quân Đồng minh, thời cơ để nhân dân ta đứng lên khởi nghĩa

giành chính quyền đã xuất hiện. Cho nên qua bài thơ tặng cụ Đinh

Chƣơng Dƣơng Bác đã chỉ rõ nhiệm vụ trƣớc mắt của toàn dân, trẻ

hay gìa tùy theo sức của minh mà tham gia đánh đuổi Nhật, Pháp để

giành quyền độc lập (Non nƣớc của ta, ta lấy lại). Câu thơ “Non nƣớc

của ta, ta lấy lại” có bảy chữ, một triết lý rõ ràng dễ hiểu, nhƣng đó là

mục tiêu duy nhât, mục tiêu cao cả của cách mạng dân tộc mà dƣới sự

lãnh đạo của Đảng do Bác đứng đầu nhân dân ta phải chiến đấu ròng

rã đầy hy sinh, gian khổ gần 30 năm mới giành đƣợc.

Trong lúc phe phát xít và phe Đồng minh đánh nhau rất ác liệt.

ngày 14/6/1940, quân phát xít Đức tấn công nƣớc Pháp, chiếm thủ đô

Pari. Tám ngày sau (22/6/1940), Chính phủ Pê- tanh ký hiệp định đình

chiến với Đức. thực chất đây là hiệp định đầu hàng Đức một cách

Page 101: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 101

nhục nhã của thống chế Pêtanh. Trƣớc sự kiện này Bác đã sáng tác bài

thơ TẶNG THỐNG CHẾ PÉTANH nhƣ sau:

“Vận mệnh Lang-sa lúc chẳng lành

Pê-tanh lão tƣớng hóa hôi tanh

Cúi đầu, quỳ gối, hàng quân Đức

Trợn mắt, nhăn mày, chửi nƣớc Anh

Bán nƣớc lại còn khoe cứu nƣớc

Ô danh mà muốn đựợc thơm danh

Già mà nhƣ chú càng thêm dại

Tiếng xấu muôn đời nhuốc sử xanh”.

Ngày 11/7/ 1942

Lợi dụng việc Pháp đầu hàng Đức, quân Nhật kéo vào Đông

Dƣơng và toàn quyền Đờ Cu nhanh chóng đầu hàng Nhật và chịu làm

tay sai cho quân Nhật, Bác liền có bài thơ luật Đƣờng TẶNG TOÀN

QUYỀN ĐỜ CU:

“Non nƣớc Rồng Tiên rõ mịt mù

Lợi quyền phó mặc bố thằng cu

Đối dân Nam Việt thì lên mặt

Gặp bọn Phù tang (1) chí đội khu

Về Pháp không cơm e chết đói

Ở đây, hút máu béo ni nu

Cũng nhƣ thống chế Pêtanh vậy

Chú cứ cu cù đƣợc mãi ru”.

Qua hai bài thơ tặng thống chế Pêtanh và tặng toàn quyền Đờ cu

Bác vạch mặt thái độ hống hách đối với dân thuộc đìa nhƣng cúi đầu

quỳ gối đầu hàng nhục nhã đối với bọn phát xít Đức, Nhật.

Để tuyên truyền, kêu gọi toàn dân đoàn kết nhằm giải phóng dân

tộc, Bác đã sáng tác bài CHƠI TRĂNG:

Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi trăng

Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:

Page 102: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

102 | NGND. Trần Bửu Lâm

“Non nƣớc tơi bời sao vậy nhỉ?

Nhân dân cực khổ biết hay chăng?

Khi nào dấy đƣợc quân anh dũng

Để dẹp cho tan bọn nhố nhăng?

Nam Việt bao giờ thì giải phóng?

Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”

Trăng rằng: "Tôi kính trả lời ông

Tôi đã từng soi khắp núi sông

Muốn biết tự do chầy hoặc chóng

Thì xem tổ chức khắp hay không

Nƣớc nhà giành lại nhờ gan sắt

Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng

Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi

Tức là cách mạng chóng thành công”.

Trong 2 khổ thơ Đƣờng luật này Bác mƣợn ánh sáng của Trăng và

nhân vật chị Hằng để tuyên truyền,giáo dục đồng bào cả nƣớc nhận

thức đƣợc đất nƣớc đang tơi bời, nhân dân đang cực khổ, làm sao dẹp

hết bọn nhố nhăng? Bao giờ nƣớc nhà đƣợc giải phóng? Trăng đã trả

lời rõ ràng tỉ mỉ. nhƣng chúng ta đều hiểu sâu sắc rằng các câu hỏi và

các câu trả lời trong bài thơ CHƠI TRĂNG là tƣ tƣởng vĩ đại của Bác.

Đầu năm 1941, Bác về nƣớc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng,

những ngày còn sống trong hang Pác Bó với cháo bẹ, rau măng Bác

đã dịch cuốn lịch sử Đảng Công sản Liên Xô để làm tài liệu học tập

cho cán bộ cách mạng. Bác đã sáng tác bài thơ tứ tuyệt:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang”.

Page 103: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 103

Từ hang Pác Bó này, từ cháo bẹ, rau măng Bác đã lãnh đạo cách

mạng tháng 8 năm 1945 thành còng.

Hai mƣơi năm sau, tháng 2 năm 1961, Bác thăm lại hang Pác Bó,

Bác xúc động sáng tác bài THĂM LẠI HANG PÁC BÓ:

“Hai mƣơi năm trƣớc ở hang này,

Đảng vạch con đƣờng đánh Nhật, Tây

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu,

Non sông gấm vóc có ngày nay”.

Tôi chỉ nêu 6 bài thơ Đƣờng luật chủ yếu Bác sáng tác từ năm

1941 đến 1943 là thời kỳ Bác thức tĩnh đồng bào, xây dựng lực lƣợng,

chờ đón thời cơ để lãnh đạo toàn dân đúng lên khởi nghĩa giành chính

quyền. Bất cứ thể loại thơ nào của Bác cũng đều mang chất thép cách

mạng của thời đại rất rõ. Đúng nhƣ cố Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh đã

nhận định:”Trong thơ của Hồ Chủ tịch, mỗi câu, mỗi chữ đều mang

chất “thép:, đều toát ra tƣ tƣởng, tình cảm của một chiến sĩ vĩ đại”.

TBL

Page 104: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

104 | NGND. Trần Bửu Lâm

Page 105: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

“TẨU LỘ” - THƠ BÁC. MỘT NHÂN CÁCH LỚN

Võ Giáp

Hội TĐL Việt Nam

Phiên âm: Tẩu lộ

“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lý dƣ đồ cố miện gian”.

Hồ Chí Minh

Nam Trân dịch thơ: Đi đƣờng

“Đi đƣờng mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nƣớc non”.

(Sách giáo khoa lớp 8)

Tẩu lộ là bài thơ luật đƣờng tứ tuyệt của Hồ Chí Minh, đƣợc đƣa

vào giảng dạy trong nhà trƣờng. Bài thơ độc đáo về ngữ nghĩa và về

cách chơi thơ, nhƣ dùng nhiều “điệp từ”. Hai lần dùng “tẩu lộ”, ba lần

dùng “trùng san”. Trong khi thể thơ quy định chỉ có 28 chữ, thời xƣa

coi mỗi chữ nhƣ một viên đá quý. Hẳn tác giả phải tâm đắc lắm, muốn

khắc sâu tầm của ý tƣởng mới làm nhƣ vậy. Ngoài ra còn có cách chơi:

“Thủ vĩ cú đồng từ”, “Vĩ thủ áp cú đồng từ” (ở bài này là từ kép).

Trƣớc hết ta tìm hiểu nghĩa của một số từ. Theo hán văn, tẩu ( )

là chạy. Khứ ( ), hành ( ), tỹ ( ) mới là đi (đi chữ nôm viết).

Ngoài ra tẩu lộ ( , lộ có nghĩa là con đƣờng) cũng có nghĩa là đi.

Page 106: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

106 | Võ Giáp

Ngày nay ngƣời Trung Quốc lại quen dùng từ tẩu là đi. Vì vậy ta còn

có thể hiểu: nếu tẩu là động từ thì tẩu lộ là đi đƣờng. Còn tẩu đóng

vai trò là tính từ của từ lộ, thì tẩu lộ có nghĩa là đƣờng đi. Vậy tẩu lộ

có 3 cách hiểu: đi, đi đƣờng, đƣờng đi.

Trùng ( ) có nghĩa là tầng tầng lớp lớp (tính từ), cũng có nghĩa là

lặp lại (động từ), tiếng Việt vẫn có từ “trùng” với nghĩa trên. San ( )

còn đƣợc đọc là sơn nghĩa là núi. Ta cũng có thể hiểu: trùng san là lặp

lại núi (nếu trùng là động từ), hoặc trùng san là núi điệp trùng (nếu

trùng là tính từ).

Vì vậy câu 1 có điệp từ “Tẩu lộ.... tẩu lộ....”, nhƣng không hẳn là

điệp nghĩa. Câu này ta có thể hiểu: Đi đƣờng mới biết đƣờng đi khó.

Câu 2 có chữ hựu ( ) nghĩa là lại, còn có cách chơi thủ vĩ cú đồng

từ. “Trùng san... trùng san”. Ở đây dùng “san” cho đúng vận. Câu này

ta có thể hiểu: Hết dãy núi này lại đến dãy núi khác.

Câu 3 có chữ hậu ( ) nghĩa là có hậu, về sau sẽ tốt (chứ không

phải là hậu là sau). Từ đầu của câu sau lặp lại từ cuối của câu trƣớc,

đây là cách chơi vĩ thủ áp cú đồng từ. Câu này ta có thể hiểu: Nhiều

dãy núi vậy, nhƣng khi lên đến đỉnh núi cao (nhất), mới có đƣợc nét

đẹp xa hơn.

Câu 4 nối tiếp ý của câu 3. Câu này ta có thể hiểu: (Khi lên đến

đỉnh núi cao nhất). Mọi cảnh vật vẽ ra trong muôn dặm sẽ thu cả

vào trong tầm mắt mình.

Bác viết bài thơ này trong giai đoạn còn lăn lộn gian nan giữa

trùng vây của bọn thực dân đế quốc và bè lũ phản động tay sai, để tìm

đƣờng cứu nƣớc, bằng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng

quê hƣơng. Bài thơ ý ngoài là thế, nhƣng ẩn ý là: Con đƣờng cách

mạng khó là vậy, biết bao gian nan và hiểm nguy trƣớc mắt, nhƣng

phải quyết tâm vƣợt qua để đạt đến đích, ta sẽ thu lại đƣợc cả giang

sơn gấm vóc vào tay nhân dân mình.

Page 107: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 107

Sở dĩ Bác Hồ ƣa thể thơ luật đƣờng tứ tuyệt vì quan niệm “Một

tác phẩm văn chƣơng không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ

diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó đƣợc trình bày sao cho

mọi ngƣời ai cũng hiểu đƣợc, khi đọc xong độc giả phải suy nghĩ, thì

tác phẩm ấy mới xem nhƣ là một tác phẩm hay...”.

Thơ tứ tuyệt xƣa coi sơn, thủy, phong, hoa, tuyết, nguyệt là

những thi liệu. Với Bác cũng vậy, nhƣng nó không làm cho con

ngƣời choáng ngợp trƣớc tự nhiên, mà có sự vƣợt lên “Núi cao lên

đến tận cùng”.

Trong thơ luật đƣờng tứ tuyệt của Bác gần nhƣ câu đầu (đề) bài

nào cũng đến với ngƣời đọc một cách hồn nhiên, dung dị nhƣng chân

thực “Đi đƣờng mới biết gian lao”. Tiếp câu 2 (câu thực) làm rõ thêm

đề ““Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Câu 3 (câu luận) đóng vai

trò vừa tiếp tục triển khai tứ thơ “Núi cao lên đến tận cùng”. Để chuẩn

bị cho mạch thơ hƣớng vào kết thúc “Thu vào tầm mắt muôn trùng

nƣớc non” (Câu 4). Đúng cấu trúc hoàn hảo một bài thể thơ luật

đƣờng, cùng chính vận “an” (nan, san, gian), kết hợp với các thanh

hài hòa uyển chuyển đọc cả bài nghe êm ái.

Biện pháp điệp từ (Câu 1: Tẩu lộ... tẩu lộ), thủ vĩ cú đồng từ (Câu

2: Trùng san... trùng san), vĩ thủ áp cú động từ (Câu 3: Trùng san...)

đã làm các câu thơ cứ thế nối tiếp ý thơ, cứ thế tràn ra để chuyển tải

nội dung. Làm các câu thơ gắn kết với nhau một cách chặt chẽ, ý thơ

cũng từ đó mà tỏa ra.

Qua “Tẩu lộ” và phần lớn thơ của Bác, ta thấy Bác luôn nhìn thiên

nhiên từ cao từ xa nhƣ muốn bao quát cả vũ trụ. Về không gian, từ

“tối” chuyển sang “sáng”. Từ đó ta có thể nhận ra: Thơ Bác biểu hiện

một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.

Nhà nghiên cứu văn học Pháp Rogie Deunuyx viết: Thơ Hồ Chí

Minh nói ít mà gợi nhiều, bài thơ có màu sắc thấm đẫm, có âm thanh

trầm lắng, không phô diễn...

Page 108: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

108 | Võ Giáp

Thƣờng ngƣời ta dịch bài thơ thể luật đƣờng ra thể thơ luật đƣờng,

hoặc lục bát vì cả hai thể này cùng là thơ luật đã thuần Việt. Làm sao

dịch giả phải chuyển tải đƣợc hết ý tƣởng của tác giả là đƣợc. Đã có

những bài, dịch giả cẩn thận chỉ dừng lại ở dịch nghĩa, vì sợ dịch thơ

không lột tả hết ý tƣởng của tác giả.

Các cách chơi thơ luật đƣờng tứ tuyệt của Bác Hồ, ta còn thấy ở

một số bài thơ khác nhƣ: Tân xuất ngục, học đăng sơn: Vân ủng trùng

sơn, sơn ủng vân (thủ vĩ cú đảo từ). Ngọ hậu: Nhân nhân ngƣỡng khán

tự do thiên/Tự do thiên thƣợng thần tiên khách (vĩ thủ áp cú đồng từ).

Ly Bắc Kinh: Ký Bắc thiên tân huyền hạo nguyệt/ Tâm tùy hạo

nguyệt cộng du du/ Hạo nguyệt thùy phân vi lƣỡng bán/ (điệp từ)...

Bác Hồ là ngƣời ham đọc và ham học, nên có thể các cách chơi

thơ luật đƣờng tứ tuyệt của ngƣời xƣa đã để lại dấu ấn, nhƣ: Lý

Thƣờng Kiệt: Nam quốc sơn hà nam đế cƣ (điệp từ). Thôi Hộ - Đề

đô thành Nam Trang: Nhân diện đào hoa tƣơng ánh hồng/ Nhân diện

bất tri hà xứ khứ (điệp từ). Tần Quan – Tần Quan ký Tô Thức: Khứ

mã nhƣ phi tửu lực vi/Tửu lực vi tinh thời dĩ mộ (Vĩ thủ áp cú đồng

từ). Kim Xƣơng Tự - Xuân oán: Mạc giao chi thƣợng đề/Đề thời kinh

thiếp mộng (Vĩ thủ áp cú đồng từ)...

Điều đó có thể nói: Đọc thơ Bác là học cách làm thơ dân dã mà

triết lý, học cách làm người có bản lĩnh mà nhân hậu của Bác./.

VG

Page 109: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

THƠ BÁC HỒ RỰC RỠ ÁNH TRIÊU DƯƠNG

Hoàng Triều Ân

Hội thơ Đƣờng LuậtCao Bằng

Trong không khí toàn dân tộc sục sôi khí thế bƣớc vào cuộc kháng

chiến ngày đầu không cân sức ấy, không ít ngƣời mang nặng nỗi ƣu tƣ

lo lắng. Vậy mà năm 1947 từ Thủ đô kháng chiến ATK (an toàn khu),

Bác Hồ có bài thơ Đƣờng Luật viết bằng chữ Hán không chút ƣu tƣ

sầu muộn..

VIỆT BẮC SƠN LÂM TỨC CẢNH

“Việt Bắc lâm thâm hứng vị ƣơng

Viên hô điểu ứng bán triêu dƣơng

Khách lai thả trích ngọc giao khảo

Liệp phản thƣờng thiêu dã vị thƣờng

Thủy lục sơn thanh du bất tận

Tửu điềm trà nộn túy do hƣơng

Khai tuyền chi hậu tòng lâm thử

Hạc hữu nguyệt minh xuân ý trƣờng.”

Bài thơ Luật Đƣờng với thể thơ vốn bề thế, chững chạc, nay đọc

bài thơ ta càng thấy bề thế, chững chạc, vững vàng hơn, làm ấm lòng

bao kẻ sĩ đƣơng thời. Ta thấy lại viên thanh, minh nguyệt gợi cảnh

thanh bình trong thơ Lý Bạch Lƣỡng ngạn viên thanh đề bất tận (Tảo

phát Bạch Đế thành – Tiếng vƣợn hai bờ kêu chẳng dứt) – hoặc trong

thơ Vƣơng Duy Thâm lâm nhân bất tri – Minh nguyệt lai tƣơng chiếu

(Trúc Ly quán – Nơi rừng sâu không ai biết - Chỉ có vầng trăng vằng

vặc đến soi nhau).

Page 110: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

110 | Hoàng Triều Ân

Thể thơ Đƣờng Luật và những thi liệu quen thuộc trong Đƣờng

Thi (thế kỷ VII – đầu thế kỷ X) gợi đến trong thơ Bác lúc này thật đã

làm bình tâm, làm cho cõi lòng thanh thản của nhiều văn nghệ sĩ

những ngày đầu kháng chiến. Chẳng đã thuở ban đầu ấy, có nhà thơ

của Hà Thành cũng tản cƣ về “An toàn khu kháng chiến ATK”, đã gọi

nơi đây là xứ sở tối tăm;

“Sớm nay ra cửa U Tỳ quốc

Một chiếc xe nghênh đạp giữa đƣờng…”

Lời thơ ấy, so với bài “Việt Bắc sơn lâm tức cảnh” đƣợc dịch ra

Việt ngữ, ta thấy Việt Bắc nên thơ biết bao:

CẢNH RỪNG VIỆT BẮC

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

Vƣợn hót chim kêu suốt cả ngày

Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng

Săn về thƣờng chén thịt rừng quay

Non xanh nƣớc biếc tha hồ dạo

Rƣợu ngọt chè tƣơi mặc sức say

Kháng chiến thành công ta trở lại

Trăng xƣa hạc cũ với xuân này.”

Nhắc đến thơ Lý Bạch, thơ Vƣơng Duy, chúng ta lƣu ý không khí

thanh bình - chứ về mặt thi liệu tiếng vƣợn kêu không dứt hay vầng trăng

sáng vằng vặc là cảnh quan thiên nhiên trời phú cho mọi ngƣời thế gian;

ở Việt Bắc khi đó và hiện nay tiếng vƣợn, vầng trăng vẫn còn đó.

Những cảnh sinh hoạt phổ biến ở mọi nơi miền núi đi vào trong thơ

Bác rất bình dị, rất nhuần nhuyễn. Đãi khách bằng đặc sản là ngô nếp

nƣớng bùi, thơm. Đi săn là một thú vui ở miền núi. Một ngƣời đề

xƣớng rồi nổi tù và. Cả bản làng sửa soạn mồi thuốc súng hỏa mai, gọi

theo chó đàn. Vào rừng, nơi này một tiếng “ô hồi” đuổi thú, khắp nơi

vọng lại nhiều tiếng “ô hồi” đuổi thú. Con thú dù là con hƣơu lớn bằng

con bò mộng cũng phải cuồng chân, biết chạy vào đâu, khi tứ phía “ô

Page 111: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 111

hồi”. Chó đàn vào vết, sủa lắt nhắt, dai dẳng khắp nơi. Khi đã phát hiện

con thú rồi, con mồi khó mà lọt. Khi con mồi đƣợc khiêng về, máu ứa,

mọi ngƣời quệt chút tiết vào báng súng theo phong tục và đƣợc ăn thịt

sơn hào nƣớng hƣơng bay tỏa thơm lừng. Cảnh Việt Bắc là thế.

“Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng

Săn về thƣờng chén thịt rừng quay.”

Và cũng qua đó ta càng hiểu hơn câu thơ Tố Hữu viết sau này Suối

dài xanh mƣớt nƣơng ngô - bốn phƣơng lồng lộng thủ đô gió ngàn.

Với bốn câu đề và thực, cảnh sinh hoạt thật vui vẻ, vững vàng,

không thể hiện một chút lo âu với chiến sự của cuộc kháng chiến đang

diễn ra lúc này, mà cụ thể là hai gọng kìm quân Pháp bầy bố đang thắt

lại bủa vây “thủ đô kháng chiến ATK”.

Ngày 7/10/1947 thực dân Pháp mở màn cuộc tấn công lên Việt

Bắc. Mở đầu là bƣớc một mang mật danh Lê-a, mục tiêu đánh chiếm

là khu tam giác Bắc Cạn - Chợ Đồn - Chợ Mới. Lúc này hình thành

hai gọng kìm bao vây toàn bộ khu căn cứ địa Việt Bắc. Hƣớng đông

dài 420 km hành quân và nhảy dù từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, một bộ

phận sẽ tiến xuống Bắc Cạn, hình thành gọng kìm thứ nhất, kẹp chặt

phía đông Việt Bắc. Hƣớng tây, dài 250km, gồm quân thủy lục từ Hà

Nội theo Sông Hồng lên Việt Trì, Đoan Hùng, chiếm Chiêm Hóa

(Tuyên Quang) hình thành gọng kìm thứ hai. Bƣớc thứ hai, mang mật

danh ceinture (tức là siết chặt vành đai). Chúng định làm gì? Sau này

trong Hồi ký Xa-lăng đã lộ rõ 4 mục tiêu chiến lƣợc của cuộc tiến

công khi đó “Diệt và bắt cơ quan đầu não của Việt Minh, tìm diệt chủ

lực, phá tan căn cứ địa Việt Bắc, bịt kín, khóa chặt biên giới Việt

Trung, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc và

loại trừ mọi chi viện từ bên ngoài. Truy lùng Việt Minh đến tận sào

huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ” (Hồi ký Xa-

lăng - NXB Press de la cité Paris, 1971 – t.2 – tr. 58 và 74)

Ngay khi hai gọng kìm siết chặt, tất cả chúng tập trung càn quét

khu tam giác Bắc Cạn- Chợ Chu- Chợ Mới, chúng nhảy dù xuống Chợ

Page 112: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

112 | Hoàng Triều Ân

Chu- Chợ Mới thuộc huyện Định Hóa, Thái Nguyên, cơ quan Trung

ƣơng của ta đóng vững vàng ở cách đó 20 km đƣờng chim bay.

Đến ngày 19/12/1947 cuộc tấn công Việt Bắc của thực dân Pháp

thất bại hoàn toàn. Đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc.

Chiến dịch Việt Bắc - Thu đông 1947 của ta đã hoàn thành nhiệm

vụ đề ra “Phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp; bảo vệ cơ

quan đầu não kháng chiến; bảo toàn và nâng cao sức chiến đấu của bộ

đội chủ lực; bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc”.

Tình hình sôi động nhƣ vậy mà lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh vẫn

tiếp tục xuất khẩu hai câu thơ thật hào sảng, ung dung:

“Non xanh nƣớc biếc tha hồ dạo

Rƣợu ngọt chè tƣơi mặc sức say”

Sức nặng của hai câu thơ là ở mấy từ tha hồ dạo, mặc sức say vừa

khẳng định nhƣ đinh đóng cột, vừa lạc quan phơi phới.

Non xanh nƣớc biếc, màu sắc tƣơi tắn của giang san đất nƣớc, bày

ra mênh mông vùng Việt Bắc thật mỹ lệ. Theo tƣ duy về phần luận

của một bài thơ Đƣờng Luật, ta nghĩ tha hồ dạo có nghĩa ta là chủ

nhân ông của đất nƣớc, là nhân dân Việt Nam, không ai khác, nhƣ bài

Tuyên ngôn thời nhà Lý Nam quốc sơn hà Nam Đế cƣ. Tha hồ dạo

cũng có nghĩa là dân tộc ta đang kháng chiến để gìn giữ non sông gấm

vóc của cha ông đang bị xâm lăng. Thi liệu sơn thanh thủy tú của Việt

Bắc trong bài thơ thật gần gũi mà thật thâm thúy lắm thay.

Ở Việt Bắc có rất nhiều loại rƣợu (tiếng Tày là Lẩu) Lẩu khẩu

xay, Lẩu khẩu nua, Lẩu bắp muối, Lẩu pảng, Lẩu bắp, Lẩu pạo, Lẩu

cút lòa, Lẩu mẻc đều qua chƣng cất. Riêng Lẩu hoan (rƣợu ngọt) là

thứ rƣợu quý chế biến từ gạo nếp và loại men dành riêng cho Lẩu

hoan, ủ chứ không qua chƣng cất. Rƣợu ngọt có thể chế với lòng đỏ

trứng gà, chế với con tằm vàng óng trong suốt đang kéo kén… để

dùng làm thuốc bồi dƣỡng. Rƣợu ngọt là thứ rƣợu quý. Vậy mà trong

hoàn cảnh Việt Bắc đang bƣớc vào cuộc kháng chiến 1947 ở thủ đô

kháng chiến ATK vẫn có những cuộc ẩm thực nhàn nhã, thƣ thái. Câu

Page 113: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 113

thơ rƣợu ngọt chè tƣơi mặc sức say là khẩu khí lạc quan của ngƣời

nắm đƣợc quy luật chiến thắng của cuộc kháng chiến chính nghĩa. Sau

đó thời gian ngắn, năm 1948, tiễn cụ Võ Liêm Sơn ở Hội nghị văn hóa

toàn quốc lần thƣ hai, trở về Liên khu 4, Bác tặng Cụ một bài thơ

Đƣờng Luật ngũ ngôn bát cú cũng đã có hai câu kết khẳng đinh “Tặng

Công chỉ nhất cú – Kháng chiến tất thành công” (Tặng Võ Công -

Một câu xin tặng cụ - Kháng chiến tất nhiên thành công).

Bài thơ viết tha hồ dạo, mặc sức say là nói lên tiếng nói của

ngƣời chủ nhân, của ngƣời có trách nhiệm bảo vệ non xanh nƣớc

biếc, rƣợu ngọt chè tƣơi…

Đọc 2 câu đề và 2 câu kết của bài thơ, ta thấy còn lại một dƣ âm

hào hùng phóng khoáng lạc quan.

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

Vƣợn hót chim kêu suốt cả ngày

Kháng chiến thành công ta trở lại

Trăng xƣa hạc cũ với xuân này.”

Đây là nói thời gian mai sau, có nghĩa là Bác từ năm 1947 đã

khẳng định kháng chiến ắt thành công, suy tƣ với một tinh thần lạc

quan cách mạng, từ bài thơ viết năm mở đầu cuộc kháng chiến

Vầng trăng khi đó sẽ trở thành bạn cũ, chim hạc cũng sẽ là bạn cũ.

Ở Việt Bắc trăng tỏa sáng. Những ngày Bác ở trên ấy làm nhiều thơ

gắn bó với trăng bởi trăng là bạn của núi rừng. Khuya về bát ngát

trăng ngân đầy thuyền (Nguyên tiêu 1948) Trăng vào cửa sổ đòi thơ

(Báo tiệp 1948), Ngoài song trăng rọi cây sân – Ánh trăng nhích bóng

cây gần trƣớc song - Việc quân việc nƣớc bàn xong - Gối khuya ngon

giấc bên song trăng nhòm (Đối nguyệt)…Trăng trong thơ Bác làm

sáng rực những ý tình trong thơ. Mà cũng gợi ta nhớ lại ánh trăng,

vầng trăng của các thi sĩ thời Đƣờng xƣa cổ kính với tâm hồn thơ

mộng. Đêm trƣờng trời mát trăng trong – Bùi ngùi thuyền khách bên

sông một mình (Cao Thích – Đông Bình lộ tác) Nhớ anh xa ngóng

dặm trƣờng – Bên sông dƣới bóng trăng suông tựa lầu (Vƣơng Xƣơng

Page 114: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

114 | Hoàng Triều Ân

Linh - Tống Hồ Đại) Bâng khuâng nằm chẳng ngủ - Cửa ngỏ bóng

trăng tà (Mạnh Hạo Nhiên – Quy Chung Nam sơn)…

Hạc trong thơ Bác nghe cũng cổ kính mà cũng hiện đại Hạc vàng

ai cƣỡi đi đâu – Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ (Thôi Hiệu –

Hoàng Hạc lâu) Ca dao xƣa có nói đến sự gắn bó thủy chung rùa và

hạc, con rùa khi lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia. Nhƣng ý niệm

cao hơn cả là loài hạc, chim cao cẳng lội nƣớc ấy thanh cao, tƣợng

trƣng cho sự may mắn, điềm lành, ấm êm, hanh phúc. Hồi kháng

chiến chống Pháp gần ngôi trƣờng trung học Ngô Sĩ Liên vùng giải

phóng Bắc Giang, nhà cụ Nghị Hiều vẫn nuôi con hạc cao quý, dáng

cao hơn ngƣời, chơi với đàn gà trong sân, ấm êm hạnh phúc. Ở Việt

Bắc ngày nay thỉnh thoảng vẫn có con hạc lạc đàn bay qua rồi bay vội

về vùng suối xa khi môi trƣờng sống bị thu hẹp. Những bức tranh thêu

tùng hạc vẫn là sản phẩm cao quý của dân tộc.

Cho nên nói trăng xƣa hạc cũ, vừa cổ kính vừa hiện đại, thiên

nhiên đẹp của mọi ngƣời hạnh phúc thủy chung.

“Kháng chiến thành công ta trở lại

Trăng xƣa hạc cũ với xuân này.”

Toàn bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng Ngày nay đã

xa rồi cuộc kháng chiến chống Pháp trƣờng kỳ mà anh dũng. Ta hãy

tƣởng tƣợng vào những ngày đầu cuộc kháng chiến ấy, bao sôi động,

lúc đó ta gặp không ít khó khăn, nhƣ ta đang đi trong bóng tối, chỉ cần

xuất hiện le lói một ngọn đuốc đã làm ấm áp lòng mọi ngƣời thật là

quý. Bài thơ là ngọn đuốc trong đêm cho ta một chủ nghĩa lạc quan

anh hùng cách mạng bởi ta thêm vững tâm tin tƣởng khi thấy ánh sáng

chiến thắng của cuộc kháng chiến trong thơ.

Nhƣng chẳng những thế, bài thơ mang ánh sáng rực rỡ của chủ

nghĩa lạc quan, còn là ánh sáng ban mai, là ánh triều dƣơng rực rỡ tỏa

sáng huy hoàng mọi miền đất nƣớc, dân tộc Việt Nam vững tin vào

con đƣờng kháng chiến trƣờng kỳ mà thành công. Thơ Bác Hồ rực rỡ

ánh triêu dƣơng.

HTA

Page 115: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

NGẪM XEM NGƯỜI„ VỚI THƠ NÀY!

Nguyễn Khuyến

Chi hội thơ Đƣờng luật Hậu Lộc Thanh Hóa

Ngay từ năm 1923 nhà thơ đồng thời là nhà báo Xô Viết nổi

tiếng Omanđenxtam. Trong bài “Thăm một chiến sỹ Cộng sản quốc

tế Nguyễn Ái Quốc” đã tiên cảm phi thƣờng về chủ tịch Hồ Chí

Minh nhƣ sau: “Dáng dấp con ngƣời đang ngồi trƣớc mặt tôi đây,

Nguyễn Ái Quốc đang tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa

châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tƣơng lai” với dự cảm đặc biệt

của một thi nhân. Omandenxtam phát hiện ra sự dồn tụ, kết tinh của

văn hóa Việt Nam trong con ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất. Và

khẳng định Bác là tinh hoa của dân tộc Việt Nam và cũng là tinh hoa

của nhân loại.

Gần một thế kỷ dã trôi qua, thời gian đã chứng minh linh giác

đặc biệt sáng suốt của Omanddenxxtam. Đó là một phát hiện thiên

tài về một thiên tài. Thời gian ấy Bác Hồ đang học tập tại trƣờng

đại học Phƣơng Đông của Quốc tế Cộng Sản Maxcơva. Chọn tƣ

cách là đại diện nền văn hóa tƣơng lai, nhà thơ Nga đã nhìn thấy sự

bất tử của Ngƣời, tiên đoán về những giá trị có tính nhân loại vĩnh

cửu của Bác từ khi Ngƣời mới bƣớc sang tuổi ba mƣơi.

Vì thế, hôm nay trong khuôn khổ một tham luận nhỏ tại một Cuộc

Hội thảo lớn vể Ngƣời, tôi cũng không có tham vọng và sự thực cũng

chƣa đủ khả năng để viết về con ngƣời và sự nghiệp của Ngƣời. Điều

đó đã và đang có rất nhiều những nhà nghiên cứu uy tín, những chính

khách lớn và nhiều nguyên thủ Quốc gia tiếp tục. Tôi chỉ muốn: Là

một ngƣời yêu thơ - đặc biệt là thơ Đƣờng luật- bày tỏ một vài chiêm

Page 116: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

116 | Nguyễn Khuyến

nghiệm về một nhà thơ, một nhà văn hóa lớn; là một ngƣời con đƣợc

dành những tình cảm trân trọng yêu thƣơng để tri ân tới Ngƣời cha già

của toàn dân tộc.

Trƣớc hết cần khẳng định rằng. Trong di sản văn hóa đặc sắc của

chủ tịch Hồ Chí Minh để lại thì thơ ca của Ngƣời chiếm vị trí quan

trọng hàng đầu. Và nếu làm công tác của một nhà văn bản học thì

chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng: Trong 220 bài thơ mà Bác còn

để lại đƣợc sáng tác theo nhều thể loại khác nhau trong nhiều cảnh

huống khác nhau đã có tới 142 bài thơ Đƣờng luật. Con số có tính

thống kê ấy tự thân nó cũng đã nói lên rất nhiều điều, và chúng ta

cũng có thể đặt ra câu hỏi là: Tại sao một con ngƣời nhƣ chủ tịch Hồ

Chí Minh. Ngƣời không phải là ngƣời của một quyển sách của một

nền văn hóa duy nhất. Từ tuổi nhỏ Ngƣời đã học chứ Hán và văn học

cổ điển Trung Quốc với cụ thân sinh là nhà khoa bảng lớn và khi mới

lớn lên trong cuộc đời cách mạng bôn ba của mình đã có may mắn

(hay là sự chọn lựa may mắn) tự đào luyện bằng văn hóa Phƣơng Tây

đặc biệt là văn hóa Pháp và thế kỷ ánh sáng với những đại diện xuất

sắc nhƣ: Volaire, Rousscau, Vich-To-Huygo đã chiếu rọi vào tâm trí

Ngƣời. Có thể nói chủ tịch Hồ Chí Minh là tƣợng trƣng cho sự tổng

hòa thành công của nhiều nền văn hóa, hơn thế nữa của nhiều nền văn

minh rực rỡ. Một con ngƣời nhƣ thế, một trí tuệ nhƣ thế khi về với thi

ca lại ƣu ái với thể thơ Luật Đƣơng đến vậy.

Đi tìm lời giải cho vấn đề này cũng chính là đến với cách tiếp cận

chủ đề Bác Hồ với thơ Đƣơng luật. Để làm sáng rõ thêm luận điểm ấy

đầu tiên tƣởng cũng nên điểm lại đôi nét về nguồn gốc, sự hòa đồng

và sức sống của thơ Đƣờng luật Việt Nam.

Tất cả chúng ta ai cũng biết rằng thơ Luật Đƣờng có xuất xứ từ

Trung Quốc và mãi mãi trong kho tàng văn hóa thế giới. Đƣờng thi-

Tống từ vẫn luôn là những viên ngọc quí không chỉ cho nền văn minh

Trung Hoa mà còn của toàn nhân loại. Cùng với sự ảnh hƣởng, sự

giao thoa các nền văn hóa giữa các quốc gia. Thơ Đƣờng du nhập vào

Page 117: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 117

Việt Nam đến nay đã hàng nghìn năm. Cũng với thời gian đó Đƣờng

Thi cùng tràn vào các quốc gia nhƣ Nhật Bản, Triều Tiên…. Tuy

nhiên trên thực tế thì cho đến hiện nay chỉ ở Việt Nam thơ Đƣờng luật

mới thực sự là một hạt giống tốt đƣợc gieo trồng vào một miền đất

màu mỡ phì nhiêu, đủ mọi điều kiện để hạt giống ấy đơm hoa kết trái.

Còn ở các quốc gia khác thậm chí ngay tại Trung Quốc nơi chôn rau

cắt rốn của Đƣờng thi. Sự phát triển của thơ Luật Đƣờng cũng không

mạnh mẽ bằng ở Việt Nam. Giải thích về hiện tƣợng này, có nhà

nghiên cứu cho rằng: Do có sự thay đổi về các thành tố trong ngôn

ngữ Hán cổ và tiếng Trung Hoa hiện đại mà cụ thể là cách phát âm

khác nhau nên qui luật bằng trắc của thơ Đƣờng bị phá vỡ. Đặc biệt

đối với các nƣớc láng giềng nhƣ Triều Tiên, Nhật Bản, yếu tố ngữ

pháp này cũng đã là một thứ rào cản lớn cho việc hòa đồng một thể

loại thơ từ nhiều thế kỷ qua. Về mặt lý luận và học thuật chúng tôi

đồng tình với cách phân tích này. Chỉ xin nêu một ví dụ cụ thể: Nếu

đọc câu “Nƣớc cộng hòa nhân dân Trung Hoa” theo âm Hán cổ sẽ là:

Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc. Cũng câu ấy nếu đọc theo tiếng

Trung Quốc hiện đại sẽ là: “…Trung hóa rấn mín cung hứa quớ?”. So

sánh một câu này chúng ta cũng đã thấy rõ sự khác biệt các âm.

Trong khi đó thì ở Việt Nam do Tiếng Việt có hệ thống các dấu

huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã rất phù hợp với thanh bằng trắc trong luật

thơ Đƣờng. Đây có lẽ cũng là một yếu tố giúp cho Đƣờng thi khi vào

Việt Nam đã nhanh chóng tìm ra quê hƣơng thứ hai của mình và sẵn

sàng hòa vào dòng chảy văn hóa chung của dân tộc Việt để từ đó tiếp

tục phát lộ, tiếp tục thăng hoa tỏa sáng trong vƣờn hoa rực rỡ sắc màu

hƣơng vị của thi đàn Việt Nam.

Mặt khác, mà theo thiển ý riêng của chúng tôi, đây mới là yếu tố

quyết định làm nên sự hòa nhập của một thể thơ ngoại lai thành một

thể thơ của dân tộc giúp cho Đƣờng thi có sức sống bền bỉ trong lòng

nhân dân, cũng giúp cho thơ Đƣờng trong nhiều thế kỷ đồng hành

cùng dân tộc Việt đã đạt đƣợc những thành tựu huy hoàng với rất

nhiều tác gia, tác phẩm bất tử với thời gian: đó chính là tính nghệ

Page 118: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

118 | Nguyễn Khuyến

thuật, tính hiệu quả của thể loại thơ này đặc biệt phù hợp với bản sắc,

bản chất của con ngƣời Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, một dân tộc

nhân ái vị tha luôn biết tôn trọng yêu quí vẻ đẹp của Chân, Thiện, Mỹ

với một sự cảm nhận tinh tế sâu sắc và kiệm lời (thơ Luật Đƣờng đáp

ứng đƣợc yêu cầu này). Bởi nếu có một thể loại thơ nào dùng câu chữ

ít nhất mà vẫn chuyển tải đƣợc mọi cung bậc, mọi sắc thái tình cảm

của con ngƣời từ, yêu, thƣơng, hờn, giận đến những sự kiện sự việc

mang tầm cỡ quốc gia nhân loại. Hơn thế còn đƣợc chuyển tải bằng

một hình thức trang nhã, bằng một nghệ thuật đặc sắc điêu luyện. Đó

chỉ có thể là thơ Đƣờng Luật.

Chúng ta hãy xem: Từ ý chí hào sảng, từ niềm tin sắt đá vào chủ

quyền đất nƣớc gói trọn trong một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đƣợc coi

nhƣ bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

“Nam quốc sơn hà nam đế cƣ

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thƣ

Nhƣ hà nghịch lỗ lai xâm phậm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hƣ”

Lý Thƣờng Kiệt

Đã biến thành sức mạnh vật chất không những giúp cho quân dân

nhà Lý chôn vùi giấc mộng xâm lăng của giặc ngoại xâm phƣơng Bắc

tại sông Nhƣ Nguyệt mà hào quang của chiến tích ấy cùng với tinh

thần bài thơ còn rọi sáng đến muôn đời con cháu mai sau!

Đến phút lắng lòng của một bậc Quân vƣơng sau những lo toan,

những bộn bề công việc quốc gia đại sự để trải hồn mình, hòa mình

vào dây phút sinh sôi kỳ diệu của mùa xuân, của thiên nhiên trong bài:

Xuân Hiểu của Trần Nhân Tông.

“Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ qui

Nhất song bạch hồ điệp

Phách Phách sấn hoa phi”

Page 119: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 119

Dịch thơ

“Ngủ dậy ngỏ song mây

Xuân về vẫn chửa hay

Song song đôi bƣớm trắng

Phấp phới sấn hoa bay”

Biết bao là nồng nàn, xiết bao là tình ý. Các bậc tiên hiền xƣa cho

rằng “Thi trung hữu họa”. “Thi trung hữu nhạc”. Còn đại thi hào

Nguyễn Du thì “Tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Tất cả chỉ

ở trong một bài thơ bốn câu, mỗi câu năm chữ. Thơ đến nhƣ thế tƣởng

chẳng cần bình giải gì thêm. Hãy để tự thân vẻ đẹp nguyên sơ của nó

thấm vào hồn ngƣời đọc để đƣợc cùng cộng hƣởng, để đƣợc cùng

thăng hoa.

Thơ Đƣờng đã đáp lại tình cảm của chủ tịch Hồ Chí Minh nhƣ

thế nào. Hay nói chính xác hơn là nghệ thuật Đƣờng thi của Bác Hồ?

Ở lĩnh vực này đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình cả trong và

ngoài nƣớc có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc và sâu sắc.

Tuy nhiên bây giờ và lâu dài vẫn sẽ còn cần và chắc chắn sẽ còn rất

nhiều công trình nghiên cứu tiếp. Bởi lẽ nếu nói về một con ngƣời

dẫu ngƣời đó là một vĩ nhân vẫn sẽ có lúc cạn lời. Nhƣng nói về Bác

Hồ ngƣời sáng lập ra một thời đại đồng thời là một ngƣời ông, ngƣời

bác, ngƣời cha của thời đại ấy dân tộc ấy thì mạch nguồn cảm xúc

chẳng bao giờ vơi cạn.

Còn chúng tôi nhƣ đã đề cập ở phần trên. Chúng tôi không tiếp

cận vấn đề với tƣ cách là một nhà phê bình văn học. Chỉ xin đƣợc ghi

lại một vài cảm nhận của một ngƣời yêu thơ với một nhà thơ mà mình

yêu kính. Hiểu cho đƣợc cái hay của thơ Bác hay nói cách khác là

hiểu đƣợc nghệ thuật thơ của Bác là một dịp thử thách đối với tƣ

tƣởng tình cảm và khiếu thẩm mỹ không của riêng ai.

Thơ Bác dễ hiểu mà khó thƣởng thức. Phải biết khát mới thấy

đƣợc vị ngọt mát của nƣớc giếng khơi. Có nâng mình lên tới một mức

Page 120: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

120 | Nguyễn Khuyến

trong sáng nhất định thì mới nắm đƣợc cái tinh túy cốt lõi trong tình ý

câu thơ. Có gạt bỏ thị hiếu thông thƣờng quen với thói hoa mỹ sang

trọng thì mới nhìn rõ vẻ đẹp chân chất của những câu chữ vần điệu

mộc mạc tự nhiên.

Chúng ta hãy đọc lại

“Hoa Hồng nở hoa Hồng lại rụng

Hoa tàn hoa nở cũng vô tình

Hƣơng hoa bay thấu vào trong ngục

Kể với tù nhân nỗi bất bình”

Cảnh chiều hôm (Nhật ký trong tù)

Và bốn câu rất hiện thực sau:

“Khiêng lợn lính đi cùng một lối

Ta thì ngƣời dắt, lợn ngƣời khiêng

Con ngƣời coi rẻ hơn con lợn

Ngƣời có còn đâu đƣợc chủ quyền”

Cảnh binh khiêng lợn cùng đi (Nhật ký trong tù)

Thật là sự kỳ diệu về văn chƣơng, khi những tình cảm chứa chan

chủ nghĩa nhân đạo hoàn toàn hiện đại lại có thể khuôn vào những câu

thơ cổ điển của một ngôn ngữ khác với tiếng mẹ đẻ của tác giả. Rõ

ràng tính phổ biến của văn hóa không phải là lời nói suông. Và cũng

thật rõ ràng ẩn đấu đằng sau những câu thơ có vẻ dễ dàng ấy là vẻ đẹp

của một tâm hồn lớn, tâm hồn của một ngƣời hiền vĩ đại của thời đại

chúng ta. Ngƣời với chủ nghĩa nhân bản, với nghị lực phi thƣờng của

ngƣời hành động, với sự ƣu ái thƣờng xuyên đối với số phận của

những con ngƣời.

Do chƣa có điều kiện đi sâu tìm hiểu thêm về những nét đặc sắc

trong nghệ thuật Đƣờng thi của Bác Hồ. Chỉ xin đƣợc khẳng đinh một

điều là: Xuyên suốt trong tất cả các tác phẩm của Bác dù viết bằng

văn xuôi hay thơ tự do, thơ Đƣờng luật vẫn luôn chan chứa một tấm

lòng nhân ái bao la, một chủ nghĩa nhân đạo cao cả với một phong

cách thống nhất. Đó là sự kết hợp đẹp đẽ giữa những cái cao cả và

Page 121: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 121

bình thƣờng, giản dị mà thanh cao, vĩ đại mà gần gũi, rất Việt Nam mà

cũng rất nhân loại.

Bức tƣợng đài ngôn ngữ này làm nổi bật chân dung Hồ Chí Minh

một con ngƣời trong tất cả, tất cả trong một con ngƣời.

Với những phẩm chất cao quí nhƣ vậy, hiển nhiên Bác là ngọn

nguồn, ngọn nguồn của suy tƣởng, của bồi đắp, của dẫn dắt và soi

sáng. Và đúng nhƣ cố nhà thơ Tố Hữu đã viết:

“Ta bên Ngƣời, Ngƣời tỏa sáng trong ta

Ta bỗng lớn ở bên Ngƣời một chút”

Bác vĩ đại nhƣng không quá tầm với bất cứ ai

Đến đây bằng một cách tổng quan nhất. Chúng tôi đã có cái may

mắn trình bày những chiêm nghiệm, những suy ngẫm của cá nhân về

một luận đề rất lớn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với thơ Đƣờng luật Việt

Nam”. Và bây giờ nếu có thể có đƣợc một điều ƣớc. Chúng tôi thật sự

tha thiết mong ƣớc rằng: Thơ Đƣờng luật Việt Nam một thể thơ đã

đồng hành cùng dòng chảy văn học của dân tộc Việt, trải qua nhiều

biến thiên của lịch sử đã có những đóng góp xứng đáng vào sự phát

triển mạnh mẽ, bền vững của nền văn hóa Việt. Với những tác phẩm,

tác giả nổi tiếng còn sống mãi với thời gian trong đó đặc biệt là những

thi phẩm bất hủ của nhà văn hóa lớn, nhà thơ lớn Hồ Chí Minh. Dòng

thơ ấy xứng đáng tiếp tục có một chỗ đứng bình đẳng trên thi đàn việt

trong đại gia đình văn hóa Việt Nam.

NK

Page 122: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

122 | Nguyễn Khuyến

Page 123: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

MỘT SỐ BÀI THƠ THỂ ĐƯỜNG LUẬT

CÛA CHÛ TỊCH HỒ CHÍ MINH VIẾT TẠI CAO BẰNG

NGƢT Hoàng An

Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt

Nam; anh hùng giải phóng dân tộc; danh nhân văn hóa thế giới.

Sau ba mƣơi năm bôn ba hải ngoại để tìm đƣờng cứu nƣớc, về đến

Cao Bằng lãnh đạo cách mạng, mặc dù bận trăm công nghìn việc,

Ngƣời vẫn sáng tác nhiều thơ, văn để phục vụ cách mạng. Thơ văn

của Ngƣời ngày nay đã trở thành những viên ngọc óng ánh trong kho

tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam. ở Cao Bằng, ngoài một số thể loại

khác, chúng tôi còn lƣu giữ đƣợc một số bài thơ viết theo thể thơ

Đƣờng luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đa số là tứ tuyệt Đƣờng luật.

Mới đặt chân về Tổ quốc (tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng) Bác

đƣợc đón đến ở và làm việc tại hang Pác Bó. Trong hang Pác Bó có

phần âm u, nhƣng địa hình chung quanh thật hùng vĩ. Phía trên hang là

núi và cây cối um tùm. Phía dƣới hang là dòng suối trong xanh chảy

quanh năm. Bác đặt tên con suối ấy là suối Lê - nin và núi là núi Các -

mác. Thật là một cảnh tƣợng nên thơ, một thế đứng đẹp và vững vàng

để hoạt động cách mạng - Bác có ngay bài “Pác Bó hùng vĩ”:

“Non xa xa, nƣớc xa xa

Nào phải thênh thang mới gọi là

Đây suối Lê nin, kia núi Mác

Hai tay xây dựng một sơn hà.”

Tháng 2 năm 1941

Page 124: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

124 | NGƢT. Hoàng An

Ở hang, hoàn cảnh sinh hoạt rất khó khăn, nhất là đời sống vật

chất: quanh quẩn chỉ là “sáng ra bờ suối”, “tối vào hang”. “Cháo

bẹ” là một thứ cháo nấu bằng bột ngô. Đồng bào địa phƣơng chỉ dùng

nó vào lúc giáp hạt. Rau ăn thì toàn rau rừng với măng đắng. Bàn làm

việc chỉ kê bằng những tấm đá phiến “chông chênh” để Ngƣời dịch

cuốn lịch sử Đảng cộng sản (B) Liên Xô để làm tài liệu huấn luyện

cho cán bộ. Nhƣng nào Ngƣời có nản lòng, sờn chí, ngƣợc lại, Ngƣời

“sẵn sàng” chấp nhận mọi điều kiện thiếu thốn mà lạc quan cách

mạng, tự cho mình có một cuộc sống “thật là sang”. Cụm từ “vẫn sẵn

sàng” làm sáng lên cả bài thơ. Vì đâu chỉ có “sẵn sàng” ăn “cháo bẹ

rau măng”, mà là tinh thần, nghị lực của Bác “sẵn sàng” vƣợt mọi khó

khăn, gian khổ... trên con đƣờng cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ

một cách tốt đẹp. Đó mới “thật là sang” mới thật là vẻ vang theo ý

tƣởng của Bác trong bài thơ. Bài “Tức cảnh Pác Bó”, Bác viết:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng *

Cuộc đời cách mạng thật là sang.”

Tháng 2 năm 1941

Trong hoạt động cách mạng, Bác rất coi trọng công tác tuyên

truyền - Để đẩy mạnh việc tuyên truyền, cổ động và tổ chức đồng bào

làm cách mệnh, tại Cao Bằng Ngƣời đã quyết định cho xuất bản tờ

báo “Việt Nam độc lập” gọi tắt là “Việt Lập”. Báo lƣu hành tại Cao

Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn. Từ tháng 8 năm 1941 đến tháng 8 năm

1942, báo Việt Lập đã liên tiếp đăng bài của Bác, với nhiều bút danh

khác nhau. Trong đó có nhiều bài Bác viết theo thể Đƣờng luật. Cái

cốt yếu nhất trong tuyên truyền đối với đồng bào là “đoàn kết” với

nhau để làm cách mạng. Bác trực tiếp vẽ một bức tranh ký họa để

tuyên truyền cạnh bài “Việt Nam, độc lập”:

“Việt Nam độc lập thổi kèn loa

Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già

Page 125: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 125

Đoàn kết vững bền nhƣ khối sắt

Để cùng nhau cứu nƣớc non ta.”

Việt Lập 21/8/1941 số 103.

Phong trào cách mạng ngày càng phát triển nhƣ một vết dầu

loang. Trong đó, có một bộ phận quan trọng phát triển đến xã Hồng

Việt, huyện Hòa An (Cao Bằng). Lũng Dẻ là một thôn vùng cao của

xã Hồng Việt cũng là cơ sở cách mạng. Đến Lũng Dẻ, một hôm, Bác

trèo lên núi cao quan sát, trƣớc cảnh thiên nhiên sáng sủa, tƣơi đẹp,

hồn thơ lớn của Bác bỗng nhiên cảm xúc. Ngƣời viết bài “Thƣớng

Sơn” (bằng chữ Hán theo phong cách thơ Đƣờng luật). ý tứ bài thơ

thật sâu sắc, vừa quảng khoát, vừa ý nhị:

“Lục nguyệt nhị thập tứ

Thƣớng đáo thử sơn lai

Cử đầu: hồng nhật cận

Đối ngạn: nhất chi mai.”

Lũng Dẻ 1942

Lên núi

“Hai mƣơi tƣ tháng sáu

Lên ngọn núi này chơi

Ngẩng đầu: mặt trời đỏ

Bên suối: một nhành mai.”

Tố Hữu dịch

Phong trào cách mạng không những lan rộng theo địa bàn mà đã

thấm sâu dần vào tầng lớp nhân dân.

Bà Nông Thị Trƣng dân tộc Tày (Cao Bằng), nguyên là chánh án

Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng. Bà có hồi ký, viết trong tập “Đƣợc

gặp Bác” (NXB Dân Tộc Việt Bắc), kể rằng: Hồi đó (Hồi Bác hoạt

dộng ở Pác Bó, Hồng Việt) tôi còn ít tuổi, cùng một số đồng chí đƣợc

lên gặp Bác Hồ, đƣợc Bác tặng quà - quyển vở - có ghi bài thơ:

Page 126: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

126 | NGƢT. Hoàng An

“Vở này ta tặng cháu yêu, ta.

Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là

Mong cháu ra công mà học tập

Mai sau cháu giúp nƣớc non nhà.”

1944

Bên cái lí chí cách mạng, ta còn thấy ở Bác một tình cảm yêu quý

nhân dân sâu sắc. Một món quà nhỏ tặng cháu Nông Thị Trƣng thể

hiện tình cảm đó của Bác. Bác khuyên cháu “ra công mà học tập”. Bác

tin tƣởng ở thế hệ trẻ “mai sau cháu giúp nƣớc non nhà”, tức là tin

tƣởng ở lực lƣợng cách mạng mai sau.

Lúc này trên thế giới đang biến động, Pháp đã đầu hàng phát xít

Đức. Thế mà thống chế Pê - tanh (Pháp) lại rỏ ra oai. Pê - tanh kêu gọi

“Pháp - Việt phục hƣng”! Hồi đó bọn Pháp ra lệnh cho các trƣờng học

ở Việt Nam: cứ mỗi tuần sáng thứ hai thầy trò phải xếp hàng đứng chào

cờ Pháp! Tại núi rừng Cao Bằng, Bác đã viết bài chỉ trán, vạch mặt bản

chất lừa dối, phờ phỉnh của Pê - tanh một cách sâu sắc, cay đắng:

“Vận mệnh Lang - sa lúc chẳng lành

Pê - tanh lão tƣớng hóa hôi tanh

Cúi đầu, quì gối, hàng quân Đức

Trợn mắt, nhăn mày, chửi nƣớc Anh

Bán nƣớc lại còn khoe cứu nƣớc

Ô danh mà muốn đƣợc thơm danh

Già mà nhƣ chú, già thêm dại

Tiếng xấu muôn đời, nhuốc sử xanh.”

Việt Lập, 11/7/42, số 131

Với toàn quyền Đờ - cu cũng vậy. Bác đã viết cho Đờ - cu một

bài, cũng với thái độ vạch mặt, chỉ trán sâu cay:

Tặng toàn quyền Đờ-cu

“Non nƣớc rồng tiên rõ mịt mù

Lợi quyền phó mặt bố thằng cu

Page 127: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 127

Đối dân Nam Việt thì lên mặt

Gặp bọn phù - tang chí đội khu

Về Pháp, không cơm, e chết đói

ở đây, hút máu, béo ni nu

Cũng nhƣ thống chế Pê - tanh vậy

Chú cứ cu cù đƣợc mãi ru!”

Việt Lập, 11/8/42, số 134

Ở cả hai bài thơ trên, đằng sau bút pháp trào phúng, hài hƣớc, mỉa

mai...ta thấy rõ ràng chất thép trong thơ Bác. Bác nói thẳng bản chất

lừa dối, phỉnh nịnh, bóc lột của Pê - tanh và Đờ - cu. Bác coi họ vào

hàng thấp kém, gọi họ bằng “chú”. Bảo cho Pê - tanh là “Già mà nhƣ

chú, già thêm dại” nói với Đờ - cu rằng: “Chú cứ cu cù đƣợc mãi ru!”

Kết luận cả hai cũng chỉ là một duộc mà thôi.

Tìm đƣờng cứu nƣớc, lãnh đạo kháng chiến là công việc rất lớn

lao, đầy khó khăn gian khổ... Nhƣng không phải lúc nào Bác cũng tỏ

ra căng thẳng, nặng nề. Ngƣợc lại Bác vẫn giữ đƣợc một phong thái

bình tĩnh, ung dung. Gặp dịp Bác lại lồng công việc lớn lao ấy vào thơ

một cách ý nhị, vui vẻ, nhẹ nhàng. Gặp tuần trăng đẹp Bác vẫn “dạo

chơi trăng” một cách thƣ thái và nhắn “hỏi chị Hằng” về “non nƣớc

tơi bời sao vậy nhỉ”. Chị Hằng đã vui vẻ trả lời: “Muốn biết tự do

chầy hay chóng”, “thì xem tổ chức khắp hay không”. Thực ra Bác đã

khôn khéo nhân cách hóa để nhân vật “chị Hằng” nói hộ lòng mình

mà thôi. Bác viết bài:

“Gặp tuần trăng sáng dạo chơi trăng

Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:

“Non nƣớc tời bời sao vậy nhỉ?

Nhân dân cực khổ biết hay chăng?

Khi nào kéo đƣợc quân anh dũng

Để dẹp cho tan bọn nhố nhăng

Đất Việt bao giờ thì giải phóng?

Page 128: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

128 | NGƢT. Hoàng An

Nói cho nghe thử hỡi cô Hằng?”

Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:

Tôi đã từng soi khắp núi sông

Muốn biết tự do chầy hay chóng

Thì xem tổ chức khắp hay không

Nƣớc nhà giành lại bằng tài sắt

Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng

Tổ chức tuyên truyền càng rộng rãi

Tức là cách mệnh chóng thành công”.

Việt Lập, 21/8/1942 số 135

Chiến dịch biên giới (Cao - Bắc - Lạng) toàn thắng là một sự

kiện nổi bật. Từ 10/9/ - 12/9/1950, Bác đến sở chỉ huy trực tiếp theo

dõi, động viên và chỉ đạo mặt trận Đông Khê. Trèo lên núi cao,

trong khung cảnh “Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân”, Bác thấy

quân ta chiến đấu ngoan cƣờng, áp đảo, chiến thắng địch nhƣ nuốt

chửng quân địch, Bác cảm kích, khảng khái viết:

Đăng sơn

“Huề thƣợng đăng sơn quan trận địa

Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân

Nghĩa quân tráng khí thôn Ngƣu, Đẩu

Thệ diệt sài lang xâm lƣợc quân.”

1950

Lên núi

“Chống gậy lên non xem trận địa

Vạn trùng núi dỡ vạn trùng mây

Quân ta khí mạnh nuốt Ngƣu, Đẩu

Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.”

Xuân Diệu dịch

(theo sách “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh NXB Văn học 1990”)

Page 129: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 129

Năm 1961, Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng theo hiệp định Giơ

- ne - vơ (1954), Miền Nam còn tạm thời bị chia cắt, nhƣng chính

quyền cách mạng đã bƣớc đầu thành lập khắp nơi, (nơi bí mật, nơi

công khai). Bác lên thăm Cao Bằng, có dịp vào thăm lại hang Pác Bó.

Bao nhiêu ký ức cũ dồn lại trong đầu Bác, nhƣ đếm lại từng ngày, nay

đã là “Hai mƣơi năm trƣớc”. Hang Pác Bó nơi từng chứng kiến những

bữa “cháo bẹ, rau măng....” là đây. ở đó có “Đảng vạch con đƣờng

đánh Nhật, Tây”. Bác trực tiếp “Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu”. Bài

“Thăm lại hang Pác Bó”:

“Hai mƣơi năm trƣớc ở hang này

Đảng vạch con đƣờng đánh Nhật, Tây

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay.”

20/2/1961

Pác Bó đƣợc Bác Hồ chọn làm căn cứ địa cách mạng. Cao Bằng

trở thành cái nôi của cách mạng cả nƣớc. Đó là niềm vinh dự tự hào

lớn của Cao Bằng. Tại nơi đây trong lĩnh vực thơ, văn, trong những

năm hoạt động ở Cao Bằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một kho

tàng văn, thơ phong phú. Bên cạnh các thể loại khác, chúng tôi đƣợc

hƣởng thụ và lƣu giữ lại đƣợc một số bài thơ viết theo thể Đƣờng luật

rất sắc xảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi tin tƣởng rằng, ở

Việt Nam, thể thơ Đƣờng luật sẽ còn đƣợc duy trì và phát triển mãi...

HA

Page 130: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

130 | NGƢT. Hoàng An

Page 131: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

HỒ CHÍ MINH VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Trần xuân Yên

Trƣờng Trung học phổ thông Vũ Quang

Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của Đảng cộng sản và

nhân dân Việt Nam, của giai cấp vô sản thế giới, Ngƣời còn là biểu

tƣợng của sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa

nhân loại. Từ trƣớc tới nay có hàng trăm công trình nghiên cứu về

cuộc đời và sự nghiệp của Ngƣời, đặc biệt là sự nghiệp thơ văn. Thơ

văn Hồ Chí Minh đƣợc coi là một trong những biểu hiện cốt cách Việt

Nam của Hồ Chí Minh. Tìm hiểu thơ văn của Ngƣời chúng ta không

thể bỏ sót mảng thơ Đƣờng luật. Nội dung bài viết này chỉ xin đề cập

một cách khái quát nhất việc Hồ chí Minh đã sử dụng thể thơ Đƣờng

để phản ánh những vấn đề trong cuộc sống nằm ngoài quy ƣớc thi

pháp Đƣờng thi theo phong cách của Ngƣời.

Thơ của Hồ Chí Minh có thể chia thành hai mảng: mảng thơ trữ

tình và mảng thơ tuyên truyền vận động cách mạng. Mỗi mảng thơ

đều có đối tƣợng trữ tình khác nhau, cộng đồng sáng tác và độc giả

khác nhau nên Bác đã rất uyển chuyển trong việc lựa chọn những thể

tài phù hợp. Nếu ở mảng thơ tuyên truyền vận động cách mạng Bác

chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát, thể thơ tự do nhƣng có vần điệu cốt

để mọi ngƣời dễ đọc, dễ nghe, dễ nhớ, dễ thuộc phù hợp với đại

chúng… thì với mảng thơ trữ tình Bác chủ yếu sử dụng thể thơ

Đƣờng luật và mảng thơ này không chỉ nhiều về số lƣợng mà còn đạt

tới giá trị nghệ thuật cao, giá trị nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, sự

phân chia này cũng chỉ mang tính tƣơng đối bởi… và cả hai mảng

thơ này đều cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh – một bậc “vĩ

nhân văn hóa”.

Page 132: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

132 | Trần Xuân Yên

Hồ Chí Minh làm thơ Đƣờng luật trong bất cứ hoàn cảnh nào:

trong những tình thế khó khăn, bất đắc dĩ nhất của quá trình hoạt

động cách mạng, trong giao tiếp, công việc, trong đối ngoại cấp

cao… Tất cả những bài thơ Đƣờng đó đều thể hiện đƣợc tâm thế của

Ngƣời, thể hiện năng khiếu, tài năng, sự am hiểu sâu sắc về truyền

thống, về các giá trị cuộc sống và trên hết vẫn là tình yêu mà Ngƣời

giành cho Đƣờng thi. Chuyện kể rằng, khi Bác bị Tƣởng Giới Thạch

bắt giam, suốt hành trình giải lao đầy gian khổ đó, hành lý bọn chúng

cho phép Bác mang theo mình chỉ có tập “Thiên gia thi” (Thơ nghìn

nhà)- là tuyển tập những bài thơ cận thể và cổ thể ngắn gọn, súc tích,

dễ hiểu, dễ nhớ của các nhà thơ nổi tiếng đời Đƣờng, đời Tống, là

sách nhập môn của những ngƣời bắt đầu học làm thơ, với hi vọng tập

thơ ấy có thể làm Bác khuất phục chính quyền Tƣởng. Nhƣng chúng

không ngờ đƣợc rằng chính tập Đƣờng thi ấy đã tiếp thêm sức mạnh

cho Bác và là nguồn cảm hứng sâu xa để Ngƣời viết nên tập Ngục

trung nhật ký bằng tất cả tinh thần thép và trái tim nhân ái bao la.

Điều kỳ diệu ở đây là Hồ Chí Minh – một ngƣời Việt Nam yêu nƣớc,

đã lấy thể loại thơ do chính nhân dân Trung Hoa sáng tạo nên, viết

ngay trên đất nƣớc ấy nhằm vạch trần, chống lại chủ nghĩa quân

phiệt của chính quyền Tƣởng Giới Thạch nhƣng lại mang đậm chất

trữ tình của ngƣời Việt và phong cách Hồ Chí Minh.

Tuyển tập Đƣờng thi ấy thực sự là ngƣời bạn tâm giao của Hồ Chí

Minh trong suốt quãng đời hoạt động cách mạng sau này, gợi lên cho

Ngƣời bao trở trăn, suy tƣ, xúc cảm, tiếp thêm nghị lực, ý chí, tinh

thần và trách nhiệm của ngƣời chiến sỹ cộng sản đối với con ngƣời và

cuộc sống. Nguồn cảm hứng có đƣợc từ tập “Thiên gia thi” đã đƣợc

Ngƣời trực tiếp phát biểu trong tập Ngục trung nhật ký của mình: “Cổ

thi thiên ái thiên nhiên mỹ/ Sơn, thuỷ, yên, hoa, tuyết, nguyệt, phong/

Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết/ Thi gia dã yếu hội xung phong (Thơ

xƣa nghiêng về yêu cảnh đẹp thiên nhiên/ Núi, sông, khói, hoa, tuyết,

trăng, gió/ Trong thơ thời nay nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết

xung phong). “Xung phong” trong cách dùng của Bác cần đƣợc mở

Page 133: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 133

rộng quan niệm, đó là sự phá bỏ những quy ƣớc chật hẹp trong luật

Đƣờng thi, trong đề tài, trong bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ, cách điệu

hóa khiến cho Đƣờng thi khó làm, khó nhớ, khó hiểu và ngƣời làm thơ

(thi gia) cần phải ý thức đƣợc sứ mệnh cao cả của mình, tự nguyện, tự

giác tham gia chiến đấu, dám biến ngòi bút thành “bom đạn phá cƣờng

quyền” – điều chƣa bao giờ có trong Đƣờng thi truyền thống.

Bác cũng không ngần ngại đƣa vào thể thơ Đƣờng luật những

hình ảnh không lấy gì đẹp đẽ, hãnh diện nhƣng chứa đầy sự lạc quan:

“Năm mƣơi ba cây số một ngày... Ngồi trên hố xí đợi ngày mai”.

Cảnh ở trong tù ăn uống kham khổ, mất vệ sinh xẩy ra bệnh tật cũng

đƣợc Bác đƣa vào thơ đầy ý vị:..” Cửa tù khi mở không đau bụng/

Đau bụng thì không mở cửa tù” hay… “Đầy mình đỏ tía nhƣ hoa

gấm…gãy đàn trong ngục thảy tri âm”…

Cái gậy là phƣơng tiện đồng hành cùng Bác trong những tháng

ngày giải lao, mất gậy là sự tiếc nuối không nguôi, nỗi niềm về cây

gậy đã đi vào thơ Bác thật thú vị: “Suốt đời ngay thẳng lại kiên

cƣờng… Đôi ta dằng dặc nỗi buồn thƣơng”.

Cái cùm cũng đƣợc Bác đƣa vào thơ, mặc dù là một công cụ giam

giữ nhƣng có khi lại là sự cứu cánh cho tù nhân: “Dữ tựa hung thần

miệng chực chai… Không đƣợc cùm chân biết ngủ đâu”.

Rận, rệp, muỗi… là những sinh vật đáng ghét chuyên hút máu

ngƣời tù nhân, gây bệnh tật, nhƣng Bác không ngần ngại đƣa vào

trong thơ: “Rệp bò lổm ngổm nhƣ hoa cốc… muỗi lƣợn nghênh ngang

tự máy bay…” hay … “Thừa cơ rận, rệp xông vào đánh… Oanh sớm

mừng nghe hót xóm gần”.

Ngƣời bạn tù cờ bạc vừa chết cũng là đối tƣợng đƣợc Bác quan

tâm: “Thân anh da bọc lấy xƣơng…Hôm nay anh đã về nơi suối

vàng”. Bác còn bày tỏ sự cảm thƣơng cho ngƣời vợ nhớ chồng, cho

cháu bé sinh ra trong nhà lao Tân Dƣơng, cho phu làm đƣờng vất

vả, cho những ngƣời nông dân mất mùa… Tất cả những dấu ấn của

năm tháng lao tù dƣới chế độ hà khắc của nhà tù Tƣởng Giới Thạch

Page 134: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

134 | Trần Xuân Yên

đã đi vào thể thơ Đƣờng luật của Bác một cách tự nhiên, đầy xúc

động nhƣ thế.

Nỗi nhớ đƣợc Bác nói đến nhiều trong các bài thơ Đƣờng luật:

nhớ bạn bè, đồng chí: “năm tròn cố quốc tăm hơi vắng…Tin tức bên

nhà bữa bữa trông”, “Trông lại trời Nam nhớ bạn xƣa”…, nỗi nhớ

đất nƣớc, Tổ quốc là điều thƣờng trực trong lòng Ngƣời: “Một canh

hai canh lại ba canh…Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”.

Ra tù Hồ Chí Minh trở về tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam,

năm 1947 khi chiến sự hết sức căng thẳng, Bác và các đồng chí lãnh

đạo phải ẩn náu trong rừng sâu chiến khu Việt Bắc, mặc dù bận trăm

công ngàn việc nhƣng Bác vẫn làm thơ Thất ngôn bát cú: “Cảnh rừng

Việt thật là hay…Trăng xƣa hạc cũ với xuân này”. Đi khảo sát chiến

trƣờng, chuẩn bị cho chiến dịch Thu Đông, Bác cũng làm thơ: “Chống

gậy lên non thăm trận địa… Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”.

Tình bạn bè, bằng hữu là điều không thiếu trong thơ Ngƣời,

nhân dịp năm mới Bác làm thơ tặng cụ Bùi Bằng Đoàn thể hiện sự

tri ân với các vị tiền bối: “Xem sách chim rừng vào đậu cửa… Nhớ

cụ thơ xuân tặng một bài”.

Năm 1961 khi trong chuyến công tác tại Trung Hoa Bác đã làm

thơ Thất ngôn tứ tuyệt tặng đồng chí Trần Canh, một cán bộ cao cấp

đƣợc làm việc nhiều cùng với Bác: “Khi xƣa gặp chú một thanh niên.

Nay chú cầm quân giữ soái quyền. Trăm vạn hùng binh theo lệnh chú.

Giữ gìn cách mạng cõi Điền biên”.

Hằng năm, mỗi khi tết đến xuân về Bác lại làm thơ chúc tết đồng

bào ta ở trong nƣớc và kiều bào ở nƣớc ngoài. Bác dùng nhiều thể loại

khác nhau nhƣng những bài viết theo thể Tứ tuyệt đã đạt tới giá trị

nghệ thuật cao, có sức lan tỏa lớn hơn cả. Thơ chúc tết Xuân 1967:

“Xuân về xin có một bài ca…Tin mừng thắng trận nở nhƣ hoa”. Chúc

tết Xuân Mậu thân 1968 Bác viết: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân

qua…Tiến lên toàn thắng ắt về ta”.

Page 135: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 135

Bài thơ chúc tết Xuân Kỷ Dậu 1969 là bài thơ thứ 42, bài thơ cuối

cùng trong sự nghiệp thơ của Bác. Bài này Bác lại viết bằng thể thơ

lục bát của dân tộc ta. Chắc ngƣời muốn những tình cảm của mình

mãi mãi vẹn nguyên, thêm vào, nối dài ra nhƣ thể lục bát, để hát mãi

bài ca hùng tráng của dân tộc mà ở thơ Đƣờng không làm đƣợc: “Năm

qua thắng lợi vẻ vang…. Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn”.

Bác ơi! Điều ham muốn cuối cùng của Ngƣời trƣớc lúc đi xa là

“Đất nƣớc đƣợc độc lập…ai cũng đƣợc học hành” giờ đã thành hiện

thực. Tình yêu của lớp lớp cháu con đối với Ngƣời vẫn còn vẹn

nguyên. Chúng con thật sự trân trọng và xúc động trƣớc những lời tâm

huyết Ngƣời để lại cho hậu thế trong cuộc đời và trong cả sự nghiệp

thơ ca. Đặc biệt, chúng con hết sức xúc động, tự hào khi cảm nhận

đƣợc, thấy đƣợc trong trái tim ngƣời chiến sỹ - nghệ sỹ Hồ Chí Minh

có một tình yêu mãnh liệt dành cho thơ Đƣờng luật và đã Việt hóa để

thể thơ này trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tâm

hồn ngƣời Việt Nam.

TXY

Page 136: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

136 | Trần Xuân Yên

Page 137: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

TÌNH YÊU THIÊN NHIÊN TRONG THƠ HỒ CHÍ MINH

QUA THỂ LUẬT ĐƯỜNG

Nguyễn Đức Thọ

Trƣởng Ban Thông tin – Truyền thông

Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam

Thiên nhiên từ xƣa tới nay là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều

tao nhân mặc khách. Các nhà thơ đời Đƣờng nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ,…

các nhà thơ cổ điển Việt Nam nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Bà huyện Thanh Quan … đều có những

áng thơ tuyệt tác viết về thiên nhiên hùng vĩ, hoa lệ. Thơ Hồ Chí

Minh, đặc biệt là Nhật kí trong tù cũng đã dành cho thiên nhiên một vị

trí danh dự. Mặt trời tỏa sáng trong thơ Bác, là biểu tƣợng cho khát

vọng tự do của con ngƣời Bác và cả dân tộc.

Trải qua 14 tháng tù đày, trên những chặng đƣờng khổ ải, xiềng

xích và bị dẫn giải đi khắp 13 huyện của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc,

nếm đủ mùi cay đắng, Hồ Chí Minh với dũng khí không chịu lùi bƣớc,

không nao núng tinh thần, với tâm thế tinh thần ở ngoài lao, đã lấy

thiên nhiên làm nơi nƣơng tựa tâm hồn mình. Một ánh trăng đêm, một

giọt sƣơng mai, một khóm chuối dƣới trăng lạnh, một tiếng chim

rừng, một mùi thơm hƣơng hoa lá... đƣợc Ngƣời đón nhận một cách

say mê vàtự do không gò bó. Từ khí phách ung dung tự tại và yêu đời

ấy, trong thời gian bị tù đày Bác đã cho ra đời trong số trên một trăm

ba mƣơi bài thơ của Nhật ký trong tù, để có trên dƣới vài chục bài thơ

tả cảnh. Ngay nhiều bài thơ Bác không chủ tâm tả cảnh, song ta vẫn

bắt gặp rất nhiều hình ảnh thiên nhiên Ngƣời dùng để bày tỏ ý chí và

khát vọng của lòng mình.

Page 138: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

138 | Nguyễn Đức Thọ

“Trong ngục giờ đây còn tối mịt

Ánh hồng trƣớc mặt đã bừng soi”

Hình ảnh trăng trong thơ Bác là một điểm sáng chói lọi, và cũng

là một cảnh vật lung linh huyền ảo. Ngƣời nói đến trăng, trăng tròn,

trăng sáng, trăng thu... Ngƣời ngắm trăng qua song sắt nhà tù. Không

rƣợu, không hoa, mà trăng vẫn đƣợc nhân cách hoá đến lạ lùng

“Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”, thật là một mối tình với trăng

thật tri âm, tri kỷ:

“Trong tù không rƣợu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ

Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

(Ngắm trăng)

Trăng và nhà thơ giao hòa, giao cảm. Trong ngục tối, nhà thơ

hƣớng tới vầng trăng sáng với tâm hồn thanh cao, với phong thái ung

dung tự tại và tinh thần lạc quan yêu đời.

Tách mình ra khỏi tự nhiên, nguyên khởi là một nỗ lực và là bƣớc

ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của loài ngƣời, kể từ khi con

ngƣời biết chế tác ra công cụ lao động và sử dụng ngôn ngữ nhƣ một

phƣơng tiện giao tiếp rất hữu hiệu.(tác phẩm En ghen). Thế nhƣng,

chủ động hoà đồng trở lại với tự nhiên nhƣ một phẩm chất mang tính

nhân văn sâu sắc lại chỉ có ở một số ngƣời với tƣ cách là nhà sáng lập

ra các học thuyết tƣ tƣởng, hay các nghệ sỹ lớn mà tác phẩm của họ có

ảnh hƣởng sâu rộng đến tiến trình phát triển của nhân loại. Trong tƣ

tƣởng và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiên nhiên dƣờng

nhƣ có cả hai phẩm chất đó: Nhà tƣ tƣởng và nhà nghệ sỹ.

Chịu giam cầm, nằm gai nếm mật nhƣng ngày đêm vẫn đau đáu

hƣớng về Tổ quốc, quê hƣơng điều đó thể hiện rất rõ nét trong thơ

Bác. Bài thơ “Chiều tối”

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Page 139: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 139

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng”

Thiên nhiên trong bài thơ trên là áng mây cô đơn lẻ loi đang lơ

lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về ngƣời lƣu đày trên con

đƣờng khổ ải xa lắc? Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cảm, vừa tả cảnh

vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tƣợng, dƣ ba.

Một nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Hình ảnh cô thiếu nữ xóm

núi xay ngô và lò than rực hồng tƣợng trƣng cho một mái ấm đoàn tụ

gia đình, nó đã làm vợi đi bao nỗi cô đơn, tĩnh mịch. Trong hoàn cảnh

suốt một ngày bị đày ải, chân tay còn mang nặng xích xiềng, Ngƣời

vẫn hƣớng về một cảnh sinh hoạt dân dã bình dị: thiếu nữ xay ngô, dõi

nhìn bếp lửa, lò than rực hồng. Bác đã tìm thấy nơi để nƣơng tựa tâm

hồn mình. Hình nhƣ nỗi cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo bị xua tan.

Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh có lúc mang vẻ đẹp cổ điển

nhƣ trong Chiều tối. Một cánh chim mỏi bay về rừng tìm cây trú ẩn.

Một áng mây lẻ loi lơ lửng trôi giữa bầu trời. Nhà thơ phóng bút, phác

họa một vài nét, lấy điểm để gợi diện, lấy động để tả tĩnh… từ cánh

chim và áng mây mà làm hiện lên cái vắng lặng êm đềm, cái mênh

mông của bầu trời lúc chiều tối nơi xóm núi xa lạ. Cảnh thiên nhiên

đẹp mà thoáng buồn qua cảm nhận ngƣời đi đày.

Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng điệu; cánh chim và áng mây kia trở

thành mảnh tâm hồn của ngƣời chiến sĩ cách mạng trên con đƣờng đi

đày nơi đất khách quê ngƣời.

Trong lúc bị xích cùm, giải đi sang nhà lao khác lúc “Gà gáy”

một màn đêm chửa tan, nhà thơ ngƣớc mắt nhìn lên bầu trời thu,

hƣớng về ánh sáng mà đi tới, cảm thấy trăng sao cùng đồng hành

trên con đƣờng xa gió rét với mình

Chòm sao nâng nguyệt vƣợt lên ngàn

Giải đi sớm)

Page 140: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

140 | Nguyễn Đức Thọ

Bài thơ “Giữa đƣờng đáp thuyền đi Ung Ninh” thể hiện một cái

nhìn ấm áp, trìu mến của Bác đối với thiên nhiên và cuộc sống con

ngƣời. Mặc dù đôi chân đang bị trói, bị treo lên nhƣ tội bị treo cổ

(giảo hình), nhƣng với tâm thế làm chủ hoàn cảnh, Ngƣời vẫn tự do

thƣởng thức cảnh đẹp. Một chiếc thuyền câu bơi nhẹ trên dòng sông,

cảnh sắc đông vui của xóm làng quê đôi bờ sông đã ôm trọn tâm hồn

thi nhân. Nếu không có một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống dào

dạt nếu không có một tinh thần lạc quan Cách mạng, không thể có tâm

hồn cao thƣợng, và vần thơ đẹp nhƣ vậy:

“Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,

Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;

Làng xóm ven sông đông đúc thế,

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”

Thơ viết trong cảnh tù đày của Hồ Chí Minh làm hiện lên một thế

giới sinh vật, cảnh hữu tình nên thơ. Trong cảnh nhà tù tối tăm lạnh

lẽo, Ngƣời thao thức hƣớng về ánh sáng nhƣ hƣớng về tự do. Lúc thì

trải lòng vời vợi mảnh trăng thu, lúc thì nhìn trăng sao qua cửa ngục

và tinh tế nhận cảm đƣợc cái lạnh lùng của một khóm chuối:

“Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,

Nhòm song Bắc đẩu đã nằm ngang”

(Đêm lạnh)

Bài thơ “Mới ra tù tập leo núi”, hai câu thơ đầu tả cảnh mây núi

hùng vĩ ôm ấp quấn quýt nhau thật thi vị hữu tình. Cảnh sắc mây núi,

lòng sông mang màu sắc cổ điển đầy ấn tƣợng: Bức tranh sơn thủy

đƣợc sáng tạo nên trong niềm vui tự do. Nó còn mang ý nghĩa thẩm

mĩ tƣợng trƣng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung của con ngƣời.

Núi cao trập trùng là để đo tầm vóc và nghị lực của ngƣời đi đƣờng.

Với phƣơng châm “chiếm lĩnh đƣợc đỉnh cao mới giành đƣợc hạnh

phúc, mới tận hƣởng vẻ đẹp bát ngát của nƣớc non trải dài muôn

dặm”. Cảm hứng vũ trụ đƣợc diễn tả đầy thi vị. Khi đƣợc ra tù, Bác

Page 141: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 141

tập leo núi, thiên nhiên trong thơ Ngƣời cũng vừa cổ điển lại vừa

hiện đại.

“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi

Lòng sông gƣơng sáng, bụi không mờ

Bồi hồi dạo bƣớc Tây phong lĩnh

Trông lại trời Nam, nhớ bạn xƣa”

Thơ của Bác không những tài hoa mà còn thể hiện quy luật sự

vận động của cuộc sống của lịch sử. Chính vì vậy ngoài sông núi,

trăng sao, Bác còn dùng rất nhiều hình ảnh về mặt trời. Mặt trời luôn

ửng đỏ trong thơ Bác xua tan những bóng tối âm u đem lại một bình

minh ấm áp. Bác đã coi mặt trời là nguôn sinh khí trong bóng đêm tù

đày. Và là tƣợng trƣng cho ngày mai tƣơi sáng, tƣơng lai của cuộc

Cách mạng giải phóng dân tộc. Một chân lý vận động của tự nhiên,

một chân lý của ngƣời làm cách mạng thuộc về chính nghĩa:

“Sự vật vần xoay đà định sẵn

Hết mƣa là nắng hửng lên thôi

Đất trời một thoáng thu màn ƣớt

Sông núi muôn trùng trải gấm phơi

Trời ấm, hoa cƣời, chào gió nhẹ

Cây cao, chim hót, rộn cành tƣơi

Ngƣời cùng vạn vật đều phơi phới

Hết khổ là vui, vốn lẽ đời”

(Tình thiên - Trời hửng).

Giáo sự, Đặng Thái Mai có viết về bài thơ “Trời hửng” của Bác

“là bức thảm thêu bằng chữ bạc, chữ vàng trên nền thảm đỏ”. Đó là

sự cảm nhận thiên nhiên bởi một trái tim lạc quan Cách mạng. Thời kỳ

ở trong tù thơ Bác rực rỡ tràn ngập ánh sáng và sức sống với một ngòi

bút khoáng đạt đã đạt tới độ hào hùng, mãnh liệt giữa đêm đen ngục

tối đã nhận ra ánh sáng bình minh đang bừng dậy ở phía chân trời.

Đó là bình minh của đất trời những cũng là bình minh của thời đại.

Page 142: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

142 | Nguyễn Đức Thọ

Trở về Tổ quốc sau bao nhiêu năm bôn ba, chan chứa tình yêu

thiên nhiên Bác về lấy Pác Pó làm nơi ở, đặt tên cho Khuổi Mịn là con

suối Lê Nin, và bức tƣờng thành, núi trƣớc mặt là núi Các Mác. Quả là

chí khí, thiên nhiên hoà quyện với mục đích lý tƣởng của Ngƣời:

“Non xa xa, nƣớc xa xa

Nào phải thênh thang mới gọi là/

Đây suối Lê Nin kia nuí Mác

Hai tay gây dựng một sơn hà”

Chỉ với mấy câu thơ, đã lột tả chân thực hoạt động cách mạng của

Ngƣời, tràn đầy lạc quan, giữa rừng núi hùng vĩ. Bác đã vẽ nên cho

chúng ta bức tranh thiên nhiên phong cảnh núi rừng nơi đỉnh đầu Tổ

quốc: non xanh, nƣớc biếc; cảnh vật yên bình thanh cao. Và đặc biệt

thiên nhiên trong thơ Bác đã giao hoà với nhịp sống của ngƣời chiến sĩ

cách mạng. Cháo bẹ, rau măng là những sản vật từ thiên nhiên đã

cùng Bác sống trong những ngày gian khổ nhất:

“Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông trên dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang.”

Rồi theo thời gian Cách mạng lớn dần cho tới khi thiết lập đƣợc

một nền dân chủ cộng hoà qua Cách Mạng tháng 8/1945. Bác vẫn với

một tình yêu thiên nhiên da diết mộc mạc. Bác đã nói: “Tôi chỉ có một

sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nƣớc ta đƣợc hoàn

toàn độc lập, dân ta đƣợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn

áo mặc, ai cũng đƣợc học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà

nho nhỏ, nơi có non xanh, nƣớc biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều

làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với

vòng danh lợi.” (Trích Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.161-162.).

Lời tuyên bố trên của Bác đã trở thành khát vọng của cả dân tộc

Việt Nam và đã từng bƣớc đƣợc thực hiện. Còn phần sau của lời tuyên

Page 143: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 143

bố, là ƣớc nguyện của riêng Ngƣời, một mong muốn hết sức bình dị,

tự nhiên, đời thƣờng, nhƣng đã tạo nên một nét văn hoá Hồ Chí Minh,

một nét đặc trƣng tình yêu thiên nhiên của nhà thơ Hồ Chí Minh.

Năm 1945, Chính phủ của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

chuyển lên chiến khu Việt Bắc, giữa chốn rừng xa lạ đầy gian khổ,

thiếu thốn, để động viên tinh thần lạc quan của mọi ngƣời, Bác đã làm

bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc:

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

Vƣợn hót chim kêu suốt cả ngày

Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng

Săn về thƣờng chén thịt rừng quay

Non xanh nƣớc biếc tha hồ

Rƣợu ngọt, chè tƣơi mặc sức say

Kháng chiến thành công ta trở lại

Trăng xƣa, hạc cũ với xuân này”

Và rồi cái tình yêu thiên nhiên ở một nhà cách mạng đã hoà

quyện thành ý chí cách mạng và thể hiện trong ý thơ vừa cổ điển vừa

hiện đại vừa thực tế Bác đã viết giữa cảnh rừng nơi đầu nguồn Cách

Mạng, vƣa là tình cảm, vừa là nỗi lòng chân thực, vừa thể hiện ý chí

của Ngƣời

“Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát ca

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya nhƣ vẽ ngƣời chƣa ngủ

Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà”

Mùa Xuân năm 1946 là mùa Xuân đầu tiên của nền Dân chủ Cộng

hòa còn vô cùng non trẻ và Tết này cũng thực sự là Tết độc lập, tự do.

Bác đã đƣa thiên nhiên vào vần thơ chúc tết

“Tết này mới thực Tết dân ta

Mấy chữ chào mừng báo Quốc gia

Độc lập đầy vơi ba chén rƣợu

Page 144: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

144 | Nguyễn Đức Thọ

Tự do vàng đỏ một rừng hoa

Mọi nhà vui đón Xuân Dân chủ

Cả nƣớc hoan nghênh Phúc Cộng hòa”

(Thơ chúc Tết năm 1946)

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cục diện trên chiến trƣờng

càng về sau càng trở nên cam go và quyết liệt hơn. Với cƣơng vị là

ngƣời đứng đầu nhà nƣớc, Bác bận trăm công nghìn việc, nhƣng Bác

vẫn không quên làm thơ nhƣ một món quà xuân vừa để chúc Tết đồng

bào chiến sĩ cả nƣớc, vừa để kêu gọi toàn dân tham gia kháng chiến.

Cũng vì thế mà những vần thơ Xuân của Bác thời kỳ này luôn gắn liền

với nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang, xuân thuỷ, tiếp xuân thiên

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”

Bài thơ “Nguyên Tiêu” Bác làm trong một đêm trăng trên dòng

sông xuân, để bàn việc quân quả là không còn gì để nói cái chất thi vị,

thanh cao và tuyệt mỹ của áng thơ mà trong đó thi sĩ vừa là nhà thơ

vừa là nhà cách mạng, nhà tƣ lệnh chỉ huy chiến tranh với một tƣ thế

của ngƣời cầm chắc trong tay ngày chiến thắng. Và bài thơ trên đã có

13 lần vang lên trong Ngày thơ Nguyên tiêu đất nƣớc.

Dù còn phải mất 8 năm nữa, Cách mạng miền Nam mới giành

đƣợc chiến thắng hoàn toàn, nhƣng ngay từ 1967 Bác đã tin tƣởng

và thiên nhiên là vƣờn hoa xuân, vƣờn hoa chiến thắng nở rộ trong

thơ Bác:

“Xuân về xin có một bài ca

Gửi chúc đồng bào cả nƣớc ta

Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi

Tin mừng thắng trận nở nhƣ hoa”

(Thơ chúc Tết năm 1967)

Page 145: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 145

Ngay trong chiến dịch xuân Mậu Thân,1968, Bác đã vui mừng

thấy phong trào cách mạng miền Nam tiến lên nhƣ vũ bão và cảnh đẹp

mùa xuân chiến thắng đã vào thơ Bác một cách tự nhiên

“Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua

Thắng trận tin vui khắp mọi nhà

Nam Bắc thi đua dánh giặc Mỹ

Tiến lên!

Toàn thắng ắt về ta.

(Thơ chúc Tết năm 1968)

Tuy nhiên tình yêu thiên nhiên, của Nhà thơ Hồ Chí Minh không

chỉ thể hiện ở trong các tác phẩm thơ ca, nhƣ là những sáng tạo nghệ

thuật mang đậm dấu ấn cá nhân, mà nó còn đƣợc thể hiện trong toàn

bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Ngƣời. Vì thế chúng ta có thể

thấy những nơi Bác chọn làm chỗ ở và làm việc đều là những địa danh

vừa đảm bảo sự bí mật thiết yếu về mặt an ninh, quốc phòng, vừa gần

gũi với thiên nhiên hùng vĩ. Những địa danh đó chính là suối Lê Nin,

núi Các Mác ở Pắc Bó, Cao Bằng, lán Nà Lừa ở Tân Trào, Tuyên

Quang, khu Đá Chông ở Ba Vì và ngôi nhà sàn xung quanh có vƣờn

cây, ao cá ở giữa thủ đô Hà Nội.

Tình yêu thiên nhiên, ở Bác đã vƣợt lên trên việc ngắm cảnh

hay ngâm vịnh, mà quan trọng hơn là tình yêu ấy đã đƣợc thể hiện

thành công trong thơ ca, mà còn thể hiện trên những việc làm rất cụ

thể, thiết thực trong việc bảo vệ, giữ gìn tài sản vô giá của quốc gia,

dân tộc.

Nhƣ vậy có thể thấy cảnh vật thiên nhiên, tình yêu thiên nhiên

luôn có mặt trong đời sống tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong

thơ ca của Ngƣời. Chính thiên nhiên đã khơi nguồn cho nhiều tác

phẩm thơ ca nổi tiếng và góp phần nâng vị thế danh nhân văn hoá thế

giới của Ngƣời lên một tầm cao mới.

Page 146: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

146 | Nguyễn Đức Thọ

Nhƣng điều cần thiết phải nhấn mạnh ở đây là từ cổ chí kim, từ

Đông sang Tây những kiệt tác văn chƣơng về thiên nhiên và đất nƣớc

thƣờng là sản phẩm vô giá của những nhà văn, nhà thơ lỗi lạc và đồng

thời cũng là những ngƣời có tƣ tƣởng, tình cảm xuất chúng nhƣ

Trƣơng Kế, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn

Du, Nguyễn Trãi, Quách Tấn...

Còn đối với Bác những tƣ tƣởng, tình cảm, tình yêu thiên nhiên

không chỉ dừng lại ở những điều chỉ giáo trong các văn bản hay tác

phẩm nghệ thuật, mà hơn thế, nó đã trở thành những hành động, một

kỹ năng sống trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Ngƣời.

Những hành động ấy, ngoài ý nghĩa giáo dục, còn ẩn chứa bên trong

Bác là một ngƣời yêu thiên nhiên và đất nƣớc đến khôn cùng.

Thiên nhiên và đất nƣớc trong đời sống tinh thần của Bác, trong

thơ ca của Bác với một góc nhìn qua thơ luật Đƣờng, không đơn giản

chỉ là một thái độ ứng xử tích cực của con ngƣời đối với cuộc sống

xung quanh, hơn thế nữa là sự quan tâm, bảo vệ, hoà đồng với thiên

nhiên, con ngƣời và đất nƣớc đã trở thành một phần máu thịt, gắn

quện với nhân sinh quan và thế giới quan của một chiến sỹ cộng sản

lỗi lạc, thể hiện tầm, tâm, độ nhận thức cực kỳ sâu sắc của Bác đối với

thế giới tự nhiên và vai trò chủ động, tích cực của con ngƣời trong tiến

trình biến “Cái Tự nhiên tự nó” thành “Cái Tự nhiên cho ta”. Đấy vừa

là một tình cảm cao quí, vừa là một bài học lịch sử vô giá mà trƣớc lúc

đi xa Ngƣời muốn để lại cho muôn đời con cháu.

NĐT

Page 147: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH QUA MỘT BÀI THƠ

VIẾT TRONG “NGỤC TRUNG NHẬT KÝ”

Lê Trọng Hồng

Chi hội thơ Đƣờng luật Lục Đầu Giang, Hải Dƣơng

Viết về thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hàng ngàn

tác giả và hàng ngàn bài viết. Nhiều bài viết nhấn mạnh đến ý chí cách

mạng của Ngƣời và càng nhiều bài viết về nghệ thuật làm thơ chữ Hán

của Ngƣời. Trong bài viết ngắn này chỉ xin cảm nhận về nhân văn của

Ngƣời qua một bài thơ trong hơn một trăm bài thơ viết trong Ngục

trung nhật ký.

Cũng nhƣ nhiều ngƣời đã nói nhật ký vốn là những ghi chép của

tác giả và chỉ dành riêng cho tác giả có quyền đọc nó. Tuy nhiên Ngục

trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đƣợc công bố rộng rãi

trƣớc tất cả mọi ngƣời trong và ngoài nƣớc. Điều này lẽ ra là trái với

quan niệm của cộng đồng, bởi một khi đã là nhật ký thì ngƣời viết có

thể nói ra những điều tâm sự kín đáo hợp lẽ và sẽ có cả những tâm sự

bức xúc đến mức cao độ dễ đƣa đến những manh động về một khía

cạnh nào đó làm cho hình ảnh của tác giả xấu đi trƣớc những ngƣời

đƣợc biết về nội dung của nhật ký. Phải nói rằng đây là một trƣờng

hợp khá đặc biêt. Nó đặc biệt ở chỗ không những đã đƣợc công bố

rộng rãi, còn đƣợc nhiều ngƣời dịch giảng, coi nhƣ một ấn phẩm quý

giá vừa có thể thƣởng thức về mặt nghệ thuật vừa có thể học hỏi về

mặt tƣ tƣởng của tác giả.

Đánh giá về tập nhật ký ta đều nhận ra rằng toàn bộ các bài viết

đều có một chủ đề riêng rẽ và càng nhiều hơn các bài đan xen quyện

chặt vào nhau giữa nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên chúng ta cũng

rút ra đƣợc một số chủ đề chính đó là những bài tự nói với mình,

Page 148: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

148 | Lê Trọng Hồng

những bài cảm thông cho một hoàn cảnh nào đó và khá nhiều bài phê

phán, cáo buộc một hành vi nào đó của tầng lớp thống trị và sau hết là

loạt bài thống kê lại đƣợc những gì mình đã trải qua cùng với những

cảm nhận của riêng mình trong từng hoàn cảnh.

Một đặc điểm rất quen thuộc của tác giả đó là mƣợn cảnh để tỏ

tình và phần nhiều các bài thơ chỉ toàn là cảnh và chẳng tỏ rõ bất kỳ

một nhận định nào, nhƣng khi đọc xong bài thơ ngƣời đọc tự thấy nhƣ

mở ra trƣớc mắt nhân văn cao đẹp của tác giả. Đây cũng chính là

những gì tôi muốn đƣợc một lần bày tỏ cảm xúc trƣớc một văn phong

trác tuyệt của Ngƣời qua tác phẩm Bán lộ thuận thủy phó Ung viết

trong Ngục trung nhật ký với nguyên văn chữ Hán và phần phiên âm

dƣới đây:

半路搭船赴邕

乘舟順水往邕寧,

脛吊船欄似絞刑。

兩岸鄉村稠密甚,

江心漁父釣船輕。

Bán lộ đáp thuyền phó Ung

“Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh

Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình

Lƣỡng ngạn hƣơng thôn trù mật thậm

Giang tâm ngƣ phủ điếu thuyền khinh.”

Dịch nghĩa

“Đáp thuyền xuôi dòng đi Ung Ninh,

Chân bị treo lên giàn thuyền nhƣ tội hình treo cổ;

Làng xóm hai bên sông thật là đông đúc,

Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài lƣớt nhẹ.”

Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Page 149: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 149

Bản dịch của Nam Trân

“Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,

Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;

Làng xóm ven sông đông đúc thế,

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.”

Trƣớc hết bài thơ hoàn toàn nằm trong cách viết nhật ký đó là việc

kể ra sự việc bị nhà tù của chính quyền đƣơng thời giải đi Ung Ninh

bằng phƣơng tiện giao thông đƣờng thủy thuận theo chiều dòng chảy.

“Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh”

Trong đó kể rõ bản thân bị buộc chân treo trên cao, còn đầu thì

hƣớng xuống dƣới tựa nhƣ ngƣời bị thắt cổ.

“Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình”

Một chi tiết khác mà ngƣời viết nhật ký đã nhìn thấy từ phía xa

hai bên bờ sông, nơi con thuyền đi qua thật là đông đúc và trù phú.

“Lƣỡng ngạn hƣơng thôn trù mật thậm”

Gần hơn nữa là từ giữa dòng sông có một ngƣ phủ ngồi trên chiếc

thuyền câu nhỏ nhẹ.

“Giang tâm ngƣ phủ điếu thuyền khinh”

Phía sau của lối kể chuyện ta nhận thấy tác giả dùng phép tả chân

để thâu tóm toàn bộ cảnh vật. Về cách tả cảnh tác giả đã rất tinh tế

nhìn từ xa đến gần. Đây chính là cách nhìn phù hợp của ngƣời đang di

chuyển đối với những hình ảnh cố định, vì cho dù tốc độ trôi thuận

dòng có nhanh đến mấy thì quang cảnh làng xóm vẫn dƣờng nhƣ đứng

nguyên tại chố.

Tuy nhiên toàn cảnh dòng sông với đôi bờ vốn chƣa đủ để có một

bức tranh hoàn chỉnh và khéo thay với một chiếc thuyền câu cùng với

sự chuyển động đã tạo ra bóng dáng sự hoạt động của con ngƣời, điểm

thêm trong bức tranh thủy mạc mà tác giả đã phác họa trong thơ.

Page 150: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

150 | Lê Trọng Hồng

Những cái gửi gấm trong thơ lại dần đƣợc mở ra qua từng chi tiết

đó chính là những điều không xuất hiện mà rất có thể có trong thực tế

của hoàn cảnh. Đó chính là sự đau đớn của những vòng dây trói ngày

càng thít lại do trọng lƣợng của cơ thể cứ ghì xuống tạo ra những cơn

đau về da thịt. Đó chính là trạng thái xuống máu của cơ thể sống, trái

ngƣợc với cấu tạo vốn có của con ngƣời làm đầu óc càng ngày càng

trĩu xuống bắt ta phải phân tâm vì đau đớn, huống chi từng con sóng

vỗ nhao lên hạ xuống tạo ra những rung giật cơ học với gia tốc rơi

mới đƣợc hình thành. Ta hiểu vì sao không một tiếng kêu đau đớn,

không một lời phẫn uất mảy may xuất hiện trƣớc sự đối xử vô nhân

tính của các quan chức chính quyền mà cụ thể là những cai tù của họ.

Ngoài ý nghĩa tinh tế và toàn bích về văn học nghệ thuật của một

tác phẩm ta nhƣ thấy ở đâu đó một nhân sinh quan khác thƣờng của

tác giả. Với một tâm niệm nào đó (mà ta chƣa biết) đã làm cho tác giả

quên đi hoặc nữa là không quan tâm đến nỗi đau xác thịt mà ngƣời đó

đang phải gánh chịu.

Một lối viết pha trò hài hƣớc mà ta quen gặp trong nhiều bài thơ

khác cũng đã đƣợc phát hiện trong tác phẩm với một từ “vãng” (đƣợc

dịch là đi) hoàn toàn không nói gì đến sự ép buộc mà chính nhà thơ

đang phải chịu đựng. Có cái gì đó tỏ ra rằng đây chỉ nhƣ một cuộc đi

lại thông thƣờng, hoàn toàn khác với sự thật đó là một cuộc dẫn giải tù

nhân cùng với mọi sự khắc nghiệt thƣờng thấy.

Điều gì đã tạo ra cho Hồ Chí Minh một thói quen hài hƣớc trƣớc

mọi bạo ngƣợc, từng xuất hiện trong nhiều bài thơ viết trong Ngục

trung nhật ký nếu không phải là biểu hiện của sự lạc quan, sự tự tin

vào mục đích chân chính mà bản thân hƣớng tới và sau cùng là một ý

chí vĩ đại vốn đã đƣợc thấy trong những tấm gƣơng lãnh tụ của nhiều

cuộc cách mạng từng đƣợc khắc họa trong văn chƣơng trong nƣớc và

trên thế giới từ trƣớc đến nay.

Trong một luận điểm khác ta có thể nghĩ đến đó là cái gì đã làm

cho con ngƣời ấy có một tâm hồn lạc quan và một ý chí gang thép đến

Page 151: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 151

vậy. Đây chính là việc mà chúng ta phải tìm thấy trong bài thơ. Sự

chịu đựng vì không có cách nào khác? Đây cũng là một cái lý, tuy

nhiên nếu chúng ta lại đọc ở trong đó đƣợc những chi tiết mà nhà thơ

nói đến đó là: làng xóm ven sông đông đúc thế (viết theo ý của ngƣời

dịch khá sát với nội dung). Bằng một câu hỏi đầy sự ngỡ ngàng, ta ngộ

ra rằng tác giả đã vui vì sự tốt lành của một miền quê mà dƣờng nhƣ

trên đƣờng đời tác giả ít có dịp đƣợc thấy sau bao năm bôn ba khắp

thế giới. Cái mừng vui của một vĩ nhân khi nhận thấy ở đây những

ngƣời dân, dƣờng nhƣ có đƣợc một chút yên bình, không có sự tàn

phá của chiến tranh tàn khốc.

Chúng ta biết hai bên bờ sông ở đây là của Trung Quốc. Nhƣng

với Hồ Chí Minh thì ngƣời Trung Quốc hay ngƣời Việt Nam và tất cả

các dân tộc trên thế giới đều là những con ngƣời và đều cần đƣợc sống

cho ra sống. Có lẽ chính vì thế mà nhiều năm sau, trong Tuyên ngôn

độc lập nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 2 tháng 9 năm 1945,

Ngƣời đã vận dụng lời lẽ đúng đắn trong bản tuyên ngôn của các nƣớc

khác mà khảng định: mọi ngƣời sinh ra đều có quyền bình đẳng…

Cũng trong bức tranh mà nhà thơ đã cấu tạo nên còn có thêm một

chi tiết khác hẳn với quang cảnh hai bờ sông, đó là một chiếc thuyền

câu với ngƣời ngƣ phủ đang ở giữa dòng sông. Đây cũng chính là sự

hoạt động đặc trƣng cho sự tự do của một cá thể trong sinh cơ lập

nghiệp. Có gì đó gợi cho ngƣời đọc nghĩ đến mục đích mà ngƣời làm

thơ hƣớng đến đã từng lúc chi phối toàn bộ tâm hồn và thể xác, khiến

cho mọi sự đau đớn mọi sự bó buộc dƣờng nhƣ không tồn tại.

Những điều vừa nhận định trên đây sẽ có thể chỉ là sự võ đoán

vô căn cứ nếu nhƣ bài thơ chỉ là của một nhà thơ bình thƣờng khác.

Tuy nhiên chúng ta lại hoàn toàn có thể nghĩ tới vì nhiều năm qua đi,

nhà thơ, nhà cách mạng Hô Chí Minh đã toàn tâm, toàn ý và biểu lộ

qua những trang di chúc với một câu nói hết sức cảm động: “Tôi chỉ

có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc đó là đồng bào ta, ai cũng

có cơm ăn áo mặc, ai cũng đƣợc học hành…” Đây cũng chính là sự

Page 152: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

152 | Lê Trọng Hồng

lôi cuốn của bậc vĩ nhân khi nghĩ đến khát vọng của mình là làm sao

để giải phóng cho họ, làm sao để họ có cuộc sống yên vui và cao hơn

nữa là tự do cho con ngƣời, tự do cho các dân tộc và tự do cho toàn

nhân loại.

Cũng xin mạnh dạn đề cập thêm về sự xuất hiện của con thuyền

câu giữa dòng sông khi ấy với một ý tƣởng khác dƣờng nhƣ tác giả đã

ngụ vào đó và tự ví mình với con thuyền câu đó luôn ở giữa dòng và

luôn đƣợc tự do. Những gì mà thể xác trải qua vốn chẳng là gì cả và

không cần phải nói đến trong sự cảm nhận của tác giả trƣớc hoàn cảnh

hiện tại. Từ đó bài thơ có cái tự nhiên của một bức tranh phong cảnh

vốn đƣợc cho là đẹp trên một vùng quê và cảnh đó không có sự bó

buộc nào về những nhận định vốn không cần bày tỏ. Điều này cho

thấy ý thơ (có thể khác với nhận định của ngƣời viết) hoàn toàn nằm

ngoài văn bản phù hợp với những gì là tinh tế của thơ chữ Hán đó là Ý

tại ngôn ngoại, đƣợc sử dụng nhiều hơn so với thể thơ khác.

Điều mà chúng ta nhận ra văn chƣơng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

đích thực là văn chƣơng tuyệt phẩm mang tính nghệ thuật cao và nhất

là không thiếu tích cách mạng mà Ngƣời luôn gửi gấm trong mỗi câu

mỗi chữ trong thơ chữ Hán nói chung và trong Ngục trung nhật ký nói

riêng. Thêm một lần khảng định những bài thơ chữ Hán của Hồ Chí

Minh trƣớc hết là thơ của một nhà thơ uyên bác cùng với sự khảng

định đồng nhất về một nhà cách mạng Hồ Chí Minh với ý chí kiên

định cách mạng vĩ đại nhất trong mọi thời đại. Đây cũng chính là nhân

văn của nhà thơ, nhà cách mạng Hồ Chí Minh mà ngƣời viết mong

muốn tìm đƣợc trong “Ngục trung nhật ký”.

LTH

Page 153: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

TẠI SAO BÁC HỒ ƯA THÍCH THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Đỗ Hùng Luân

Hội ngƣời tù yêu nƣớc Đà Nẵng

Thơ Đƣờng xuất xứ từ Trung Quốc đến nay đã hơn 1300 năm,

đã du nhập vào VN từ bao thế kỷ trƣớc và đã mang tâm hồn VN.

Bài “Nam quốc sơn hà nam đế cƣ” của Lý Thƣờng Kiệt, thơ Trần

Quang Khải...,Thơ Nôm Đƣờng luật của Nguyễn Trãi, Nguyễn

Khuyến, bà Huyện Thanh Quang, Hồ Xuân Hƣơng và cac nhà thơ

khác nổi tiếng sau này.là những Nhà thơ lớn với những tác phẩm

thơ Đƣờng tuyệt tác.

Các Nho gia yêu nƣớc thời Pháp thuộc đã dùng thơ Luật Đƣờng làm

vũ khí đấu tranh chống Pháp nhƣ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh...

Bác Hồ của chúng ta dùng thơ Đƣờng để diễn tả cảnh vật, nội

tâm. tƣ tƣởng để lãnh đạo cách mạng chống Pháp, Mỹ giành độc lập

thống nhất đất nƣớc..

Thơ Đƣờng của Bác gần gủi với đời sống và mang nhiều tính

nhân dân. Hơn nữa dù là hình thức nào nhƣng tình cảm và nội dung

vẫn là hồn cốt của thơ Bác Hồ. Hồ Chủ tịch là biểu thị của một lý trí

vĩ đại, một tâm hồn vĩ đại.

Thơ Đƣờng có đặc tính mỹ học, là tính hàm súc. Những bài thơ

mang hơi thở, nhịp đập của trái tim dân tộc thì trƣờng tồn mãi mãi.

Thơ Đƣờng nhƣ đóa hoa bất tử.không úa tàn theo thời gian. Bác Hồ đã

kết hợp đƣợc với nhân sinh quan cách mạng. Mỗi khi đọc lên chúng ta

cảm thấy một cái gì vẫn mới, vẫn đẹp và vô cùng sống động, đƣợc

rung cảm với truyền thống trữ tình đậm đà và tế nhị của dân tộc. Bài

thơ “Thăm lại hang Pác Bó”:

Page 154: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

154 | Đỗ Hùng Luân

Hai mƣơi năm trƣớc ở hang này,

Đảng vạch con đƣờng đánh Nhật, Tây;

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu,

Non sông gấm vóc có ngày nay.

2/1961

Bác Hồ là hình ảnh một nghệ sĩ, một nhà nghệ sĩ-chiến sĩ. Ngƣời

khuyên bảo “Nay ở trong thơ nên có thép”. Chất thép trong thơ Bác

Hồ là tinh thần chiến đấu cách mạng giải phóng dân tộc

Đặc biệt những bài thơ chúc mừng năm mới của Bác Hồ thƣờng

chỉ có 4 câu nhƣng trong đó đƣờng lối của cách mạng Việt Nam trong

từng giai đoạn đƣợc vạch ra rất rõ mà lại hoàn toàn phù hợp với

nguyện vọng chung của nhân dân. Thí dụ đầu năm 1967 Bác Hồ viết

bài thơ “Thơ chúc Tết năm 1967”:

Xuân về xin có một bài ca,

Gủi chúc đồng bào cả nƣớc ta:

Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi

Tin mừng thắng trận nở nhƣ hoa!

Thơ Đƣờng hiện nay đã đƣợc chuyển giao kỹ thuật một cách hoàn

hảo nhờ các tài thơ lớn Việt Nam. Hình thức của nó chỉ còn là nguồn

gốc xa xôi, chứ bản thân thơ Luật Đƣờng cả chữ Hán và chữ Nôm, đã

trở thành tài sản tinh thần của ngƣời Việt Nam, mang hồn Việt, giọng

Việt. Cấu trúc thơ Đƣờng thƣờng gọn nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều

hơn tả. Đặc tính mỹ học là tính hàm xúc, ít lời nhiều ý.

Có lẽ vì tất cả những lẽ trên mà Bác Hồ đã chọn làm thơ Đƣờng

trong các tác phẩm thơ của mình.

*Nghĩ về một số bài thơ “Nhật ký trong tù” với chiến sĩ bị địch

bát tù đày. Trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Bác viết

“Ngục trung nhật ký” hơn 100 bài thơ chữ Hán, đƣợc dịch thành

“Nhật ký trong tù”, trong đó có nhiều bài rất thiết thực với ngƣời chiến

sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày thời thời Mỹ - Ngụy:

Page 155: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 155

Thân thể ở trong lao,

Tinh thần ở ngoài lao

Muốn nên sự nghiệp lớn

Tinh thần càng phải cao,

Bài thơ của Bác đối với ngƣời chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù

đày (trong đó có tôi) (1) là hoàn toàn chính xác. Trong lúc đang bị

giam cầm nơi ngục tối nhà lao của quân thù, câu thơ ấy là lời giáo

huấn, là chân lý đối với họ. Thức tế đã là nhƣ vậy: Trong một phòng

giam, đến cả nhà lao và cả hệ thống trại giam Côn Đảo (nơi tôi bị

giam cầm), hàng chục ngàn ngƣời bị địch giam cầm, đánh đập.

Nhƣng, tinh thần ngƣời chiến sĩ cách mạng vẫn không nao núng, mà

chỉ một lòng hƣớng về cách mạng, vẫn tin tƣởng ngày thắng lợi.

Ở Côn Đảo đầu các năm 1960, địch cƣỡng ép ngƣời tù câu lƣu ly

khai Cộng sản, nhƣng chúng không tài nào đạt đƣợc múc địch, cuối

cùng phải khâm phục tƣ tƣởng sắt đá của ngƣời Cộng sản một lòng

không chịu ly khai. Chúng cũng không khuất phục ngƣời tù chính trị

chào cờ ba sọc của chúng, mặc dầu khi bắt ly khai hay bắt chào cờ,

nếu ta chống lại thì chúng dùng đủ mọi thủ đoạn và hành động dã

man, tàn ác để khủng bố đánh đập nhƣ giam chuồng Cọp, hầm đá,

còng chân, bóp siết đời sống, đối xử với tù nhân chính trị nhƣ con vật

nhằm khuất phục.

Kẻ địch không thể giam đƣợc tƣ tƣởng, tinh thần của ngƣời tù

chính trị “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”. Họ đã đoàn

kết đấu tranh chống lại sự bóp siết đời sống, đòi dân sinh, dân chủ đòi

trao trả cho chính quyền cách mạng.

Trong nhà lao ta tổ chức học tập nâng cao lập trƣờng chính trị và

quan điểm cách mạng, nâng cao trình độ mọi mặt - biến nhà tù thành

trƣờng học- để khi trở về chung tay đóng góp cách mang nhƣ câu thơ

của Bác: “Muốn nên sự nghiệp lớn/ Tinh thần càng phải cao” thật

đúng với ngƣời tù chính trị cách mạng thời chống Mỹ..

Hoặc câu:

Page 156: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

156 | Đỗ Hùng Luân

“Trên đời muôn vạn điều cay đắng

Cay đắng chi bằng mất tự do”

Câu trên gần với nghĩa “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do” mà

ngƣời tù chính trị chúng tôi thuở đó ai cũng lấy làm tâm đắc. Rất

chính xác với bản thân ngƣời tù nhà lao đế quốc, tay sai.

Mất tự do là cay đắng nhất trong cái mọi cay đắng trên đời, nhƣ

con chim trong lồng muốn tung bay mà không bay ra đƣợc. Nằm trong

tay của quân thù chúng ta cần đoàn kết yêu thƣơng nhau để sống, để

đấu tranh giành quyền sống, đấu tranh buộc địch trao trả cho chính

quyền cách mạng.

Tự do nó thiêng liêng cao quý làm sao:Ai trong hoàn cảnh tù đày

đều rất thấm thía hơn ai hết về sự cay đắng mất tự do trong câu thơ

trên của Bác

Những sinh hoạt thƣờng ngày trong nhà tù thời Bác vẫn là hình

ảnh sinh hoạt của ngƣời tù thời Mỹ -Ngụy nhƣ ca hát, đàn, sáo. Bài

thơ “Ngƣời bạn tù thổi sáo” Đối với chiến sĩ cách mạng ở Côn Đảo thì

có lúc có nơi chúng ta ca hát cả tập thể.

Bài “Học đánh cờ” hoặc “Ngắm trăng” (Tù thời Mỹ -Ngụy Không

phải mọi phòng giam nào cũng có thể thấy đƣợc ánh trăng để ngắm

mà hí họa trong một thời gian, một không gia nào đó mới có thể nhìn

thấy ánh trăng) hay bài “Chia nƣớc” thời Bác:

“Mỗi ngƣời nửa chậu nƣớc nhà pha

Rửa mặt, pha trà tự ý ta

Muốn để pha trà đừng rủa mặt

Muốn đem rửa mặt chớ pha trà”

Trong nhà tù Mỹ -Ngụy còn độc ác hơn thế, chúng chỉ chia cho

mỗi ngƣời tù 1 lon guigo nƣớc để dùng mọi thứ, (Khi bị chúng bóp

siết ở từng trƣờng hợp từng nơi giam).

Page 157: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 157

Hoặc bài “Vợ ngƣời bạn tù đến thăm chồng” rất phù hợp với cảnh

vợ thăm chồng là tù trƣớc 1975:

“Anh đứng trong cửa sắt

Em đứng ngoài cửa sắt

Gần nhau trong tấc gang

Mà biển trời cách mặt...”

Bài thơ “Bốn tháng rồi” với nội dung “Một ngày trong tù bằng

nghìn năm ở ngoài”. Lời của ngƣời xƣa quả không sai. Bốn tháng

sống khác loài ngƣời làm cho thân mình tiều tụy hơn 10 năm. Bốn

tháng ăn không no, không ngủ yên, không thay quần áo, không tắm

giặt rồi một cái răng rụng, tóc bạc đi nhiều, ghẻ lở. Nhờ kiên trì nhẫn

nại không chịu lùi bƣớc, vật chất tuy đau khổ nhƣng tinh thần không

nao núng.

Nội dung này.sao mà giống anh chị em tù chính trị khi bị chúng

ngƣợc đái đàn áp ở Côn Đảo hay khi viện trợ bị Mỹ cắt bớt làm tù

nhân ăn đói..

Từ những vấn đề trên đây cho ta thấy cái tinh hoa, của thơ Đƣờng

mà Bác Hồ đã làm trong cả cuộc đời, thôi thúc chúng ta học tập theo

gƣơng Bác, sáng tác nhiều thơ Đƣờng đồng thời tuyên truyền những

điều tốt đẹp đến những ai quên lãng hoặc chƣa nhận thấy hết cái đẹp

của thơ Đƣờng. Chúng ta phải làm không mệt mỏi để giữ gìn và phát

huy nền văn hóa của dân tộc ta từ bao đời nay.

Sau cuộc Hội thảo này cần có đúc kết cái ƣu việt của thơ Đƣờng

mang tâm hồn Việt Nam để truyền bá rộng rãi với mọi lớp ngƣời trong

cả nƣớc.

ĐHL

Page 158: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Lê Công Bƣờng

476 tổ 28 KP 3A Tân Thới Hiệp – Q.12 – TP. HCM

Nói về “Nhật kí trong tù”: thơ của Bác đều viết bằng chữ Hán, đại

đa số là thơ tứ tuyệt. Cũng có đan xen vài bài tứ tuyệt đa thủ. Số ít còn

lại là thơ ngũ ngôn (năm chữ) cuối nhật kí có hai bài thất ngôn Đƣờng

luật hoàn chỉnh (đó là bài Đêm thu tr 145 và bài Trời hửng tr 147).

Theo tôi biết Bác xuất thân từ gia đình khoa bảng, một nhà túc

nho dòng dõi của văn chƣơng trí tuệ. Nên ở bất cứ hoàn cảnh nào, địa

vị nào thì thi tứ vẫn trào dâng nhƣ nƣớc triều vậy.

Ngay mở đầu tập nhật kí bài: Khai quyến tr 8:

“Lão phu nguyên bất ái ngâm thi

Nhân vị tù trung vô sở vi

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật

Thả ngâm thả đãi tự do thì”

Chúng ta đã thấy ngay đó là một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh đủ

hai niêm ba vần. Nội dung nói lên cảnh trong tù buồn, nên Bác làm

thơ cho khuây khỏa, chứ thực ra Bác (lão phu) không ham (bất ái)

ngâm ngợi. Một nhà hoạt đông nhƣ Bác đã dồn hết trí tuệ tâm huyết

của mình vào công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đất nƣớc, còn

đâu thời gian mà ngâm ngợi. Nhƣng cảnh trong lao tù ngâm thơ là một

cách giết thời gian tốt nhất đối với Bác. Nó cởi mở cho tâm hồn

khoáng đạt và lấp đi khoảng thời gian trống vắng lòng mình. Nó còn

làm nguôi ngoai cho bạn tù trong lúc buồn vui. Bài “Tại Túc Vinh

Nhai bị khấu lƣu” tr 9 (bị bắt giữ ở Túc Vinh) bài tứ tuyệt này cũng

Page 159: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 159

đủ hai niêm và hai vần. Trong bài “Chiết tự” tr 85 (chơi chữ) cũng là

một bài tứ tuyệt hoàn chỉnh đủ hai niêm hai vần nhƣng rất tiếc ở phần

dịch, dịch giả chỉ dịch đƣợc nguyên ý của bài thơ, lối dịch lại không ra

lối thơ tứ tuyệt (trong tập này còn nhiều bài dịch nhƣ thế) lớp trẻ

chúng ta phần nhiều là không biết chữ Hán. Nhìn vào bài thơ dịch cứ

ngỡ rằng đó là bài thơ tự do bảy chữ.

Bài “Thế lộ nan” tr 12 (Đƣờng đời hiểm trở) cũng vậy, đây là một

bài thơ tứ tuyệt đa thủ (ba khổ) hai khổ thơ đầu đầy đủ hai niêm ba

vần, khổ thơ thứ ba đủ hai niêm hai vần. Thế mà dịch giả dịch sai cả

niêm luật, khổ thơ thứ ba dịch lạc cả vần.

Trong thơ Bác điểm đặc biệt nhất là tính lạc quan yêu đời, yêu

cảnh. Toàn bộ “Nhật kí trong tù” không có một bài thơ nào mang nét

bi quan, chán nản đó là điều đặc biệt nhất.

Bài “Ngọ” tr 16 (Buổi trƣa):

“Ngục trung ngọ thụy chân thƣ phục

Nhất thụy hôn hôn kỉ cú chung

Mộng kiến thừa long thiên thƣợng khứ

Tỉnh thời tài giác ngọa lung trung.”

Xin thƣa: trong lao tù là nơi tối tăm là chốn đọa đầy, thế mà giấc

ngủ trƣa của Bác vẫn thanh thản thƣ nhàn. Giấc ngủ trƣa kéo dài suốt

mấy giờ liền đã đƣa Bác vào giấc mộng “Mộng thấy thừa long thiên

thƣợng giới”. Thừa long (cƣỡi rồng).

Đúng! Bác là ngƣời đã cƣỡi rồng,thật sự cƣỡi rồng.Con rồng của

Bác uốn khúc hình chữ S đã tung cánh bay lên tầng không uốn mình

vào vũ trụ.Trong lúc cƣỡi rồng Bác đã lèo lái nó,đã uốn nắn nó đƣa

con rồng Việt Nam sánh cùng với năm châu bốn biển. Giờ đây Bác đã

đi xa nhƣng con rồng đó đã đƣợc con cháu Bác thực hiện lời di chúc

của Ngƣời nó đang tiến lên xứng danh với tầm vóc của thời đại.

Tính lạc quan trong thơ Bác còn thể hiện ở nhiều bài nhƣ nhƣ bài

“Tẩu lộ” tr 37 (Đi đƣờng) bài “Mộ” tr 38 (Chiều tối) bài “Tự miễn”

Page 160: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

160 | Đỗ Hùng Luân

tr 46 (Tự khuyên mình) bài “Táo giải” tr 52, 53 (Giải đi sớm) v.v…

Có những bài vừa mang tính lạc quan lại còn có cả tính hài hƣớc nữa

nhƣ bài “Vãn” tr 21 nhà ngục lại thành ra nhạc viện hàn lâm v.v…

Trong thơ Bác còn mang tính triết lí nhƣ bài “Văn Thung Mễ

Thanh” tr 81 (Nghe tiếng giã gạo).

Thật vậy ở đời không có sự tôi luyện nào lại không trải qua gian

nan vất vả. Sự gian nan vất vả đã làm cho con ngƣời ta cứng cáp hơn,

khôn ngoan hơn.Tôi luyện trong gian nan vất vả làm cho ngƣời ta lớn

lên và trƣởng thành ra. Bác đã đem hạt gạo để ví với con ngƣời. Sự

đau đớn của hạt gạo khi bị chày cối giày vò nhƣng qua đau đớn đó nó

đã trắng muốt bạch nhƣ miên.

Đúng thế: muốn đƣợc thành công tất nhiên chúng ta không thể

không trải qua gian nan, thử thách. Bài thơ đầy tính triết lí đó nhắc

nhở chúng ta muốn gặt hái đƣợc những điều tốt đẹp trƣớc hết phải

băng qua khó khổ gian nan, phải vƣợt lên muôn trùng bão tố. Phải

có đức tính kiên trì, nhẫn nại. Phải có sức chịu đựng và một tâm

hồn cao thƣợng.

Trong thơ Bác bút pháp trào lộng và hài hƣớc cũng đƣợc Bác sử

dụng nhiều nhƣ bài “Dạ túc Long Tuyền” tr 39, (Đêm ngủ ở Long

Tuyền), bài “Bang” tr 57 (Dây trói), bài “Giải trào” tr 63 (Pha trò),

bài “Vãng Nam Ninh” tr 64 (Đi Nam Ninh) v.v… Bài “Đêm ngủ ở

Long Tuyền” đã đƣợc chú thích ở dƣới. Còn bài “Dây trói” Bác đã

coi cuộn dây gai nhƣ con rồng quấn quanh mình. Đầu mối của sợi dây

đƣợc Bác miêu tả nhƣ những tua đai của các võ quan. Ngƣời tù nhân

nhƣ Bác mà Bác đã miêu tả nhƣ một ông quan võ cái khác nhau là

quan võ có tua – đai bằng kim tuyến, còn ở Bác tua là một cuộn gai.

Bài “Đi Nam Ninh” tiếng xiềng xích kêu khi bƣớc chân cử động

đƣợc Bác ví von nhƣ tiếng ngọc rung. Bài “Sang” tr 80 (Ghẻ lở) nét

trào lộng càng dâng cao, ghẻ lở đầy mình Bác nói: trông nhƣ hoa gấm.

Tiếng sột soạt gãi ghẻ đƣợc Bác mô phỏng nhƣ tiếng gảy đàn v.v…

Page 161: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 161

Bài Anh phỏng Hoa đoàn tr 89 (đoàn đại biểu anh sang thăm trung

hoa) nói lên cảnh chính quyền Trung Hoa dân quốc đón tiếp bạn đồng

minh rõ là: bên khinh bên trọng. Phải chăng Anh - Mĩ là những nƣớc

lớn còn Việt Nam là man ri nhƣ những thời xa xƣa chăng. Những bài

học lịch sử chứng minh đẳng cấp của ngƣời Việt Nam qua các thời kì

Lê - Lý - Trần - Lê chƣa đủ làm thức tỉnh chính quyền của Tƣởng

Giới Thạch. Cách đón tiếp đó đã đƣợc Bác dùng bút pháp trào phúng

viết lên những vần thơ khi ngƣời đọc cảm thấy tái tê chua xót và nhìn

thấy ngay chính quyền của Tƣởng Giới Thạch là lòng lang dạ sói, dã

tâm của bọn cáo cầy. Bác viết: -Ta cũng một đoàn, một đoàn ở đây là

đại diện cho Việt Nam độc lập đồng minh hội và cũng là đồng minh

của Trung Quốc chống phát xít. Cũng nhƣ các phái đoàn Anh - Mĩ thế

mà Anh - Mĩ đƣợc mừng reo tỏ nhiệt tình. Còn Bác thì chính quyền

Tƣởng dành riêng một lối đón tiếp. Lối đón tiếp đó là lối nào? – là lối

vào lao tù khổ hạnh v.v…

Trong thơ Bác nhiều bài thơ Bác đã vận dụng điển tích xa xƣa nhƣ

bài “Quách tiên sinh” tr 102 (tiên sinh họ Quách), bài “Bệnh trọng”

tr 116 (ốm nặng), bài “Tức cảnh” tr 149 (tức cảnh) v.v… Những bài

thơ đƣợc dụng điển thì ý tứ sâu xa hơn. Ngƣời đọc thƣờng phải vận

dụng trí tuệ, vận dụng những hiểu biết của mình để tìm tòi - suy luận

mong giải đáp đƣợc ý nghĩa của câu thơ theo những chiều hƣớng trái

ngƣợc nhau.

Bác cũng thấu đƣợc câu nói của cổ nhân trong khi làm thơ Đƣờng

luật vô trƣng bất thi. Quả vậy ngƣời thơ thì phải trƣng ra đƣợc cái điển

tích để tỏ ra cái tài bác học uyên thâm của mình.

Trong thơ Bác nhiều bài thơ Bác làm có phong cách giống nhƣ

thơ vua Lê Thánh Tông. Nhƣ các bài “Ngọ” tr16 (Buổi trƣa), bài

“Thính kê minh” tr 71 (Nghe gà gáy), bài “Chiết tự” tr 85 (Chơi chữ),

bài “Tích quang âm” tr 133 (Tiếc ngày giờ) v.v… Những bài thơ trên

đều mang ý chí và khí phách của ngƣời anh hùng.

Page 162: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

162 | Đỗ Hùng Luân

Lại nói về thơ có khí phách.Thuở nhỏ Bác học cụ đồ Vƣơng Thúc

Quý, cụ thƣờng sai học trò đốt đèn để hút thuốc. Một hôm một cậu

học trò vô ý để dầu vƣơng ra cả đế đèn, cụ Vƣơng nhân đó mới ra một

vế đối “Thắp đèn lên, dầu vƣơng ra đế” vƣơng là vƣơng vãi nhƣng

đồng nghĩa với chữ nho đế là vua. Bấy giờ Bác (tức là Nguyễn Sinh

Cung) xin đối “Cƣỡi ngựa dong, thẳng tấn lên Đƣờng” tấn nghĩa là

tiến tới còn có nghĩa nƣớc Tấn cùng với nƣớc Đƣờng là hai nƣớc

mạnh. Cụ Vƣơng khen câu đối của Bác là có khí phách tiến lên.

Lại nhắc lại cái khẩu khí đó lúc Bác mới có 5 tuổi. Gia đình Bác

chuyển từ Nghệ An vào Huế. Lúc đi qua Đèo Ngang Bác đã làm một

bài thơ tả cảnh thuyền buồm đi trên biển. Cái khẩu khí của ngƣời anh

hùng toát ra ở câu thơ mà lúc đó Bác mới 5 tuổi: Biển là ao lớn/

thuyền là con bò/ bò ăn gió no/ lội trên mặt nƣớc/ em nhìn thấy trƣớc/

anh nhìn thấy sau/ ta lớn mau mau/ vƣợt qua ao lớn. Và quả vậy cái

khẩu khí ấy sống với cuộc đời hoạt động đi đây đi đó khắp bốn biển

năm châu của Bác.

Trong thơ Bác dù ở hoàn cảnh nào (nhất là hoàn cảnh Bác ở lao

tù) các bài thơ mang các tính cách khác nhau nhƣ tính lạc quan yêu

đời, tính triết lí nhân sinh, bút pháp trào lộng hài hƣớc, v..v. Nhƣng

tính nhân văn thì đặc biệt sâu sắc và nỗi bật xuyên suốt cả cuộc đời

thơ của Bác.Việc Bác làm thơ Đƣờng luật hay là do Bác chịu khó đọc

và Bác đã học đƣợc rất nhiều cổ thi Trung Quốc. Lại nói về cổ thi qua

bài: Khán “Thiên gia thi” hữu cảm tr 148 (cảm tƣởng đọc Thiên gia

thi). Ta thấy ngay rằng Bác Hồ đã đọc và đã học đƣợc rất nhiều ở

Thiên gia thi. (Thiên gia thi ở Trung Quốc có hai quyển. Quyển 1 do

Lƣu Khắc Trang đời Tống tuyển chọn gọi là Đƣờng Tống thiên gia

thi. Quyển sau do Tạ Phƣơng Đắc cuối đời Tống tuyển chọn lại gọi là

thiên gia thi). Ở đây tôi xin nói thêm là tôi rất thích bài thơ: Tầm hữu

vị ngộ (Tìm bạn không gặp) của Bác. Bác viết vào đầu năm 1954 tức

là lúc Bác Giáp và cố vấn Vi Quốc Thanh (ngƣời Trung Quốc) đi lên

Tây Bắc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên. Bác lên sau và tìm không

gặp (ở đây không biết Bác tìm đại tƣớng Võ Nguyên Giáp hay tìm cố

Page 163: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 163

vấn Vi Quốc Thanh) nhƣng bài thơ: Tầm hữu vị ngộ đƣợc giáo sƣ

Phan Văn Các sƣu tầm và dịch công bố 1990 nguyên văn bài thơ chữ

Hán đã đƣợc phiên âm.

“Bách lý tâm quân vị ngộ quân

Mã đề đạp toái lũng đầu vân

Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ

Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân”

Một bài thơ tứ tuyệt tuyệt hảo

Một số nhà nghiên cứu Trung Quốc đã cho rằng Bác viết bài

thơ đó là do cảm hứng từ một bài thơ ngộ đạo của một ni cô chép

trong cuốn “Hạc lâm ngọc lộ” của La Đại Kinh đời Tống. Bài thơ

đó nhƣ sau:

“Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân

Mang hài đạp biến lung đầu vân

Qui lai tiếu niệp mai hoa khứu

Xuân tại chi đầu dĩ thập phân”

Bài thơ ngộ đạo này là một bài thơ hiếm”xuất hiện” thế mà Bác đã

đọc đƣợc. chứng tỏ Bác là ngƣời đọc rất nhiều cổ thi Trung Quốc,

trong đó có cả thơ thiền.

Lại nói về dịch thơ: Trong bài “Tầm hữu vị ngộ” giáo sƣ Phan

Văn Các là ngƣời sƣu tầm và dịch đầu tiên. Nên bản dịch của giáo sƣ

là bản chính thức. Còn chúng ta những ngƣời đi sau tất nhiên phải tôn

trọng lớp tiền nhân và lớp đàn anh. Nhƣng trong thơ dịch thì nhiều

dịch giả lại có những nét dịch khác nhau. Họ cũng có quyền dịch và

cũng cần phải tìm lại, đánh giá sao cho bản dịch sát nghĩa hơn, câu thơ

óng chuốt hơn, ngôn từ hợp lý hơn.

Quế Sơn Du Tử tôi nay cũng xin lạm dịch bài “Tầm hữu vị

ngộ” của Bác. Xin đọc:

“Trăm dặm tìm không gặp tƣớng quân

Mây đèo quần nát ngựa nhanh chân

Page 164: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

164 | Đỗ Hùng Luân

Đƣờng về bắt gặp mai bên núi

Mỗi đóa hoa vang một nét xuân”

Tóm lại tại sao Bác hay làm thơ Đƣờng luật? Xin thƣa với quý vị

rằng là do Bác học Hán văn nhiều. Lại đọc cổ thi Trung Quốc nhiều

nữa nên Bác đã rút ra đƣợc kinh nghiệm kế thừa những cái hay của

thơ cổ,vƣợt lên những hạn chế và phát triển thêm,bổ sung thêm “chất

thép” tạo ra cái hay cái mới cho phù hợp với thời đại.Chính vì thế

Khóa Họp Hội Đồng UNESCO lần thứ 24 họp tại Paris cuối năm 1987

đã công nhận Bác là Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt

xuất của Việt Nam.

LCB

Page 165: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

BÁC HỒ VỚI THƠ LUẬT ĐƯỜNG

Nam Phụng

Chi hội Thơ Đƣờng luật Hải Phòng

Vốn sinh ra từ cái nôi thiêng lớn của non sông ta; cái nôi cách

mạng lớn của Tổ quốc ta; trong một gia đình truyền thống Nho học

yêu nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, một

danh nhân văn hóa thế giới của thế kỷ 20. Ngƣời là niềm vinh dự tự

hào của non sông đất nƣớc ta, của những ngƣời Việt Nam.

Lúc sinh thời, Bác Hồ rất yêu thơ, nhất là thơ luật Đƣờng. Ngƣời

đã viết tập “Nhật ký trong tù” bằng chữ Hán. Tập thơ nhƣ những trang

ghi lại một thời kỳ Ngƣời bị quân Tƣởng1 bắt, bị giam cầm, bị giải

qua nhiều nhà tù ở Trung Quốc. Qua tập thơ cổ luật đó, chúng ta mới

thấy hết nỗi gian nan, cực nhọc của Bác. Tập thơ đã đƣợc các nhà

nghiên cứu Hán – Nôm dịch sang quốc ngữ và xuất bản. Phải chăng

do ƣu thế của thanh âm trầm bổng ngũ thanh tiếng Việt mà các bản

dịch đều rất hay, rất dễ hiểu. Thơ của Ngƣời mang đậm chất nhân văn,

hùng tráng, đầy tính lạc quan yêu đời. Cũng thể hiện Ngƣời luôn vững

lòng tin tƣởng sâu sắc ở đƣờng lối Cách mạng mà Ngƣời hằng mơ ƣớc

là: “Đất nƣớc độc lập tự do; Nhân dân ấm no hạnh phúc”.

Mặc dù làm khá nhiều thơ rất hay mà Bác không hề nhận mình là

nhà thơ. Bác làm thơ thƣờng để tự răn, để khích lệ động viên tinh thần

cách mạng, tinh thần yêu nƣớc của nhân dân. Kêu gọi đoàn kết toàn

dân, tạo sức mạnh cho Cách mạng thành công.

Khi Ngƣời đọc “Thiên gia thi” đã xúc động viết:

1 Tƣởng Giới Thạch – Quốc dân đảng Trung Hoa.

Page 166: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

166 | Nam Phụng

“… Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

Bài thơ “Giã gạo” in trong tập “Nhật ký trong tù” là bài thơ

mang khí phách phi thƣờng của một nhân cách lớn; mang tính triết lý

sâu sắc:

“Gạo đem vào giã bao đau đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông

Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy

Gian nan rèn luyện ắt thành công”

Qua bài thơ chúng ta càng thấy ý chí, lý tƣởng sự rèn luyện, sự

chịu đựng gian khổ của Bác trong những tháng năm “nếm mật nằm

gai”. Với câu “Gian nan rèn luyện ắt thành công”, từ đó ta thấy Bác

quyết tâm đến thế nào vì giải phóng quê hƣơng.

Thời kỳ tiền khởi nghĩa, khi còn tạm náu mình trong hang Pắc Bó,

Bác đã viết:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Hòn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời Cách mạng thật là sang”

Thêm một minh chứng là bài thơ đã thể hiện lập trƣờng cách

mạng, ý chí kiên cƣờng. Cho dù cuộc sống của Ngƣời lúc đó vô vàn

khó khăn thiếu thốn, “Cháo bẹ rau măng” Bác vẫn dịch sử Đảng, viết

tài liệu để huấn luyện, bồi dƣỡng cho những đồng chí, những cán bộ

lúc bấy giờ. Ngƣời lạc quan vẽ lên bức tranh phong cảnh hùng vĩ,

hoành tráng của hang Pắc Bó của núi rừng quê hƣơng bằng những vần

thơ sau:

“Non xa xa nƣớc xa xa

Nào phải thênh thang mới gọi là

Đây suối Lê-nin kia núi Mác

Hai tay gây dựng một sơn hà”

Page 167: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 167

Đó là bài thơ tứ tuyệt phá cách bởi câu thứ nhất chỉ có 6 từ. Có lẽ

thơ của Ngƣời cốt chuyển đạt ý mà không câu nệ sự thiếu đủ của từ.

Đến thời kỳ kháng chiến 9 năm chống Pháp. Cuộc sống ở chiến

khu Việt Bắc càng gian nan khó khăn vất vả hơn mà Bác vẫn bình

thản ung dung, lạc quan Cách mạng. Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc đã

nói lên điều đó:

“Cảnh rùng Việt Bắc thật là hay

Vƣợn hót chim kêu suốt cả ngày

Khách đến thì mời ngô nếp nƣớng

Săn về thƣờng chén thịt rừng quay

Kháng chiến thành công ta trở lại

Trăng xƣa hạc cũ với xuân này”

Bài thơ đã toát lên vẻ đĩnh đạc đàng hoàng của lãnh tụ, từ ngữ

thuần Nôm, không cao siêu, cầu kỳ, dễ đọc, dễ hiểu. Ngƣời đã bình

dân hóa một thể thơ vốn đƣợc tôn vinh là thơ Bác học. Quả là một tâm

hồn cao khiết, không màng chi đến danh lợi cá nhân. Cặp câu kết đã

bộc lộ phong cách lão thực của một vĩ nhân cao khiết, vô tƣ. “Kháng

chiến thành công ta trở lại/ Trăng xƣa hạc cũ với xuân này”.

Khác hẳn với bài thơ trên, bài “Nguyên tiêu” là bài thơ tứ tuyệt

chữ Hán. Qua bài này ta thấy rõ hơn sự học, sự đọc của Bác; nhất là

cổ thi luật Đƣờng đã ảnh hƣởng đến thơ Bác thế nào!

Trƣớc khi bàn sâu về bài thơ “Nguyên tiêu” của Bác, xin phép

đƣợc giới thiệu đôi nét về hai bài thơ nổi tiếng của hai danh sĩ nổi tiếng

của nhà Đƣờng dƣới đây để rộng đƣờng dƣ luận. Thứ nhất là bài thơ

“Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu (704-754). Tƣơng truyền khi Lý Bạch

lên xem lầu Hoàng Hạc, thấy thơ của Thôi Hiệu thì nói rằng: “Cảnh

trƣớc mắt đẹp quá, chƣa tìm ra lời thì đã thấy thơ của Thôi Hiệu đề ở

đây rồi”. Lý Bạch khâm phục bèn thôi không đề nữa. Bài thơ nhƣ sau:

“Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ

Thử địa không dƣ Hoàng Hạc lâu

Page 168: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

168 | Nam Phụng

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du

Tỉnh xuyên lịch lịch Hán Dƣơng thụ

Phƣơng thảo thê thê Anh Vũ châu

Nhật mộ hƣơng quan hà xứ thị

Yên ba giang thƣợng sử nhân sầu”

Có nghĩa là:

“Ngƣời xƣa đã cƣỡi hạc vàng bay đi rồi

Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc thôi

Hạc đã đi rồi thì không trở lại nữa

Mây trắng ngàn năm vẫn man mác trôi

Dòng sông quang tạnh rực rỡ, hàng cây ở đất Hán Dƣơng

Cỏ thơm tƣơi tốt trên bãi Anh Vũ

Chiều buông tự hỏi đâu là nơi quê nhà

Khói sóng trên sông gợi trong lòng ai nỗi buồn”

Xét về ý tứ, câu chữ, điển cố; bài thơ rất xứng tầm thơ Bác học.

Nhất là cặp câu kết rất hay, có sức lay động lòng ngƣời đọc. Tuy

nhiên bài thơ chƣa tròn trịa. Tiền giải chỉ là thơ cổ phong, hậu giải

mới là thơ luật; tính nhạc trong bài thơ chƣa thật thuyết phục. Nếu so

sánh với bài thứ hai, thơ tứ tuyệt của Trƣơng Kế thì nhạc điệu của

“Phong Kiều dạ bạc” hẳn hay hơn:

“Nguyệt lạc ô đề sƣơng mãn thiên

Giang phong ngƣ hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”

Nghĩa là:

“Trăng lặn, quạ kêu sƣơng phủ kín trời

Lau lách ven sông, ánh đèn chài gợi nỗi buồn man mác

Ngoài thành Cô Tô, trên chùa Hàn Sơn

Nửa đêm chuông dóng khách gọi đò”

Page 169: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 169

Bài thơ này rất hay về nhạc và cấu trúc từ nhƣng lại lạc ý tứ, lỏng

bố cục. Câu đầu tả cảnh gần sáng, câu cuối tả cảnh nửa đêm. Vậy là

không nhất quán cả về thời gian và sự việc.

Ta thử so sánh hai bài cổ thi chữ Hán trên với bài thơ “Nguyên

tiêu” của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đƣợc Bác thể hiện bằng chữ Hán

vào tháng 2 năm 1948. Đó cũng là thời gian cuộc kháng chiến chống

Pháp có nhiều chuyển biến thuận lợi.

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Bán dạ quy lai nguyệt mãn thuyền”

Tạm dịch nghĩa:

“Đêm nay rằm tháng giêng trăng tròn đầy

Sông xuân, nƣớc xuân và trời xuân

Trong chốn thâm u, khói sóng (trên sông) bàn việc quân cơ

Nửa đêm trở về trăng đầy thuyền”

Là bài thơ luật Đƣờng tả về một cảnh họp bí mật đêm rằm trăng

sáng trên sông. Hẳn là rất thành công nên Bác đã làm đƣợc những vần

thơ sảng khoái, lạc quan, ý tứ sâu sắc, thanh âm tròn đầy … Không

phải nhà thơ chuyên nghiệp, lại ngày đêm lo cho công cuộc Kháng

chiến. Trong hoàn cảnh ở chiến khu còn thiếu thốn trăm bề. Bác vẫn

đành cho mình những phút giây cảm hứng sáng tác những bài thơ đắt

giá nhƣ vậy. Cũng là bài tứ tuyệt đồng vận với bài “Phong Kiều dạ

bạc”, chỉ khác ở ý tứ, câu chữ. Thơ Trƣơng Kế biểu lộ hình ảnh tiêu

cực nhàn tản, thoát tục. Còn thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có gió

trăng mây nƣớc mà tích cực, sống động biết bao.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành thời gian, thăm hỏi

nhân dân. Khi thành phố, lúc nông thôn, khi công xƣởng, lúc ruộng

đồng. Ngƣời đến đâu cũng đem lại sự ấm cúng, niềm yêu thƣơng. Đến

với quần chúng, Ngƣời thƣờng dạy bảo bằng những lời lẽ ân cần đầy

khích lệ. Dƣờng nhƣ ngƣời luôn cố gắng hạ tầm tri thức của mình để

Page 170: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

170 | Nam Phụng

nâng tầm hiểu biết của nhân dân. Thơ của Bác làm nhằm phục vụ đại

chúng thƣờng giản dị, xúc tích, ngắn gọn. Ví nhƣ bài “Mừng xuân

68” Bác viết:

“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp nƣớc nhà

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên toàn thắng ắt về ta”

Bảo là thơ cũng đúng, bảo là lời hiệu triệu cũng đúng. Bác của

chúng ta vĩ đại nhƣ thế. Ai cũng biết Đƣờng thi là thể thơ du nhập từ

lâu đời, đã Việt hóa và đã trở thành hồn thơ Việt Nam. Cũng nhƣ

một số thơ khác xƣa nay du nhập vào và cũng dần dần Việt hóa.

Ngƣời xƣa đã biết biến thơ Đƣờng thành vũ khí sắc bén đấu tranh

chống ngoại xâm. Bác của chúng ta và nhiều vị tiền bối cũng vậy. Và

ngày nay những ngƣời yêu thơ luật Đƣờng cũng vậy.

Với lòng kính yêu và nhớ thƣơng vô hạn đối với ngƣời, chắc hẳn

chúng ta viết bao nhiêu sách, nói bao nhiêu lời cũng không kể hết

những công lao trời biển ấy. Bác đi xa đã lâu. Nhƣng tinh thần, tƣ

tƣởng, tác phong và đạo đức của Ngƣời mãi mãi còn đọng lại trong

lòng ngƣời dân Việt Nam. Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Bác.

Con xin kính dâng lên Ngƣời mấy vần thơ để tỏ lòng kính yêu và biết

ơn Ngƣời. Bài thơ “Bác chỉ ƣớc”:

Sinh thời Bác ƣớc giản đơn thôi

Cả nƣớc sau khi độc lập rồi

Chăm chỉ học hành đời ổn định

Cần cù lao động sống yên vui

Hòa bình hạnh phúc trên toàn cõi

Dân chủ tự do mọi kiếp ngƣời

Chẳng nghĩ cho mình lo tất cả

Dạt dào tình Bác sáng muôn nơi! NP

Page 171: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

TÍNH HÓM HỈNH TRONG BÀI THƠ

“SƠ ĐÁO THIÊN BÂO NGỤC” CÛA BÁC HỒ

Nguyễn Văn Thụ

Phó chủ tịch Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam

Đây là một bài thơ rút ra từ tập “Ngục trung nhật ký”, nguyên tác

nhƣ sau:

“Nhật hành ngũ thập tam công lý

Thấp tận y quan, phá tận hài

Triệt dạ hựu vô an thụy xứ

Xí khanh thƣợng tọa đãi triêu lai”

Dịch giả Nam Trân (Viện Hán Nôm) đã dịch ra thơ Việt văn

nhƣ sau:

“Năm mƣơi ba cây số một ngày

Áo mũ dầm mƣa, rách hết giày

Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ

Ngồi trên hố xí đợi ngày mai.”

Đọc xong bài thơ, tôi thấy thƣơng Bác quá. Bọn cai tù Tƣởng

Giới Thạch hành hạ con ngƣời ghê gớm quá. Bác của chúng ta quả

là môt ngƣời thiết thạch, có khả năng chịu đựng đến cùng cực Tôi

lại tự hỏi: vì sao Bác lại chịu đựng đƣợc nỗi khổ sở, đầy đọa đến

nhƣ vậy? Tôi đã tự trả lời, có lẽ Bác luôn thƣờng trực ở trong tâm

trí một niềm tin.

Bác cho rằng, sự khổ sở, cực nhọc này chỉ là tạm thời; ngày mai,

sáng ra, ta sẽ tự ổn định. Đó là lớp nghĩa thứ nhất của bài thơ.

Page 172: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

172 | Nam Phụng

Và, ý chí giải phóng dân tộc của Bác nhất định sẽ đƣợc thực hiện.

Niềm tin ấy, nó có logic, tất yếu nhƣ sự vận hành của trái đất, hết đêm

là sẽ đến ngày. Đó là lớp nghĩa thứ hai của bài thơ.

Cũng có ngƣời cho rằng: bài thơ này không có chất thơ, nó chỉ là

một bản thông báo có 4 nội dung:

- Đi dòng dã 53 cây số một ngày

- Dầm mƣa, mũ áo ƣớt sũng, giầy dép rách nát.

- Về đến nhà lao, thâu đêm không có chỗ nằm nghỉ (vì tù đông,

nhà tù hẹp)

- Đành ngồi trên hố xí để chờ sáng.

Nhƣng ngẫm nghĩ, tôi mới thấy: cả bài thơ có 4 câu nhân với 7

thành hai mƣơi tám tiếng thì có hai mƣơi lăm tiếng đầu liên nhau,

đúng chỉ là có nội dung thông báo tình trạng khốn khổ của ngƣời tù,

nhƣng hai mƣơi lăm tiếng ấy lại có vai trò nhƣ những nốt trầm của

một bản nhạc, để bất ngờ tạo ra một cao trào lộng lẫy về âm thanh

tƣơi sáng: ĐÃI TRIÊU LAI, đợi ngày mai.

Ba chữ “đãi triêu lai” là thi nhãn của cả bài thơ. Chất thơ, chất

lãng mạn cách mạng tập trung vào ba chữ ấy..

Phải nói rằng, dịch giả Nam Trân đã dịch bài thơ này của Bác rất

sát chữ, sát ý và lại khai thác triệt để nhạc điệu bằng, trắc của thể thơ

tứ tuyệt Đƣờng luật.

Thế nhƣng (theo tôi) so với nguyên tác, bản dịch mới chỉ dịch

đƣợc cái phần nghiêm túc của bài thơ, còn cái chất hài hƣớc, tự trào

của Bác đã cài đặt vào trong thơ thì cụ Nam Trân chƣa thấy thể hiện.

Nguyên tác câu thứ tƣ là:

Xí khanh thƣợng tọa đãi triêu lai.

Ba chữ “đãi triêu lai” thì rõ rồi: đợi sáng mai, đợi ngày mai, đợi

tƣơng lai.

Page 173: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 173

Hai chữ “thƣợng tọa” gộp lại là một động từ chỉ động tác ngồi

lên trên. Nhƣng khi hiểu nó là một danh từ, thì nó lại có nghĩa là rất

trang trọng, cung kính.

Hai chữ “xí khanh”: Xét theo mặt chữ Hán thì “xí” là nơi đi vệ

sinh, “khanh” là cái hố, cái hầm. Nhƣng không xét theo mặt chữ, mà

chỉ nghe cách phát âm ra hai tiếng “xí khanh” thì ngƣời ta lại khai thác

phép đồng âm dị nghĩa: Xí là trù tính việc xã hội (nhƣ xí nghiệp chẳng

hạn); khanh là một chức quan to nhƣ quan thƣợng khanh, nhƣ quốc vụ

khanh. Gộp hai tiếng “xí khanh” thì nó có dị nghĩa là một chức quan

to đảm nhận việc trù tính đại sự cho đất nƣớc; mà vị quan to này lại

đƣợc thƣợng tọa trên cái hố xí. Sau khi đọc xong cả câu thì sự tự trào

(cho vui mình, cho vui bạn tù) lại đƣợc chuyển sang ý nghĩa nghiêm

túc, lạc quan, tin tƣởng là “đợi ngày mai”, ngày mai trời sẽ sáng.

Đọc xong bài thơ, tôi vô cùng cảm động, vì Bác đã hy sinh cho

hậu thế quá nhiều.

Tôi lại hiểu thêm, Bác Hồ không phải là một ngƣời khắc kỷ; Bác

là ngƣời có tâm hồn phóng khoáng, yêu đời, biết trào lộng, hóm hỉnh.

Trào lộng, hóm hỉnh ngay trong khi khốn khổ nhất.

Âu đó cũng là phép tự tiêu sầu, trục lụy để nuôi dƣỡng niềm tin tất

thắng của một vĩ nhân.

NVT

Page 174: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

174 | Nam Phụng

Page 175: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

QUANH MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁC HỒ

VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT

GS. Nguyễn Khắc Phi

Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

Trong sáng tác thơ của Hồ Chủ tịch, tỉ lệ số bài viết theo thể

Đƣờng luật khá cao, trong đó phần lớn lại viết bằng chữ Hán.Thơ

Đƣờng luật là một thể thơ cổ, ra đời cách đây khoảng 1500 năm, lại

có xuất xứ ở nƣớc ngoài. Không chỉ Ngục trung nhật kí đƣợc viết

trên đất Trung Quốc, mà trong tập Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (Ngoài

Nhật kí trong tù) xuất bản năm 1990, cũng có đến 15 bài thơ Đƣờng

luật viết trên đất Trung Quốc, nói về những nhân vật, danh thắng của

Trung Quốc trong các dịp ngƣời đi công tác hoặc nghỉ dƣỡng.Thế

nhƣng, tất cả đều toát ra tinh thần dân tộc và tính hiện đại sâu săc.

Nhiều bài viết và công trình trƣớc nay đã cố gắng làm nổi bật những

điều ấy, song vẫn còn những khía cạnh cần bàn luận thêm về mối

quan hệ giữa Ngƣời, thơ của Ngƣời với thơ Đƣờng luật.Trong tham

luận này, tôi chỉ xin trình bày một số ý kiến về một vài điểm quanh

chủ đề nói trên.

I. Về tiêu chí để xác định Thơ Đƣờng luật trong thơ Bác

Có một số ngƣời dùng khái niệm “Thơ Đƣờng” thay cho “Thơ

Đƣờng luật”. Đó là một lối nói đơn giản theo quy ƣớc, không thật sự

khoa học, có thể gây hiểu nhầm là chỉ thơ ở đời Đƣờng nói chung dù

đƣợc sáng tác bằng bất cứ thể thơ nào (nhƣ tên gọi của hai tập Thơ

Đƣờng do NXB Văn học đã xuất bản). Bởi vậy, bàn về vấn đề “Bác

Hồ với thơ Đƣờng luật”, trƣớc hết không thể không minh định thuật

ngữ ấy, mặc dầu nhà ngôn ngữ học, thi pháp học nổi tiếng bậc nhất

Page 176: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

176 | GS. Nguyễn Khắc Phi

của Trung Quốc là Vƣơng Lực cũng phải thừa nhận “Phân loại thể thơ

là một vấn đề phức tạp” (Cổ đại Hán ngữ. Tập 4. Bản đã sửa chữa in

lần thứ 33. Trung Hoa thƣ cục. Bắc Kinh, 2003, trang 1511). Công

thức thì đã rõ nhƣng vận dụng cụ thể thì không đơn giản. Một bài thơ

thất ngôn bát cú bảo đảm niêm, luật, đối nhƣng lại gieo vần trắc có thể

coi là thơ Đƣờng luật hay không? Ý kiến phổ biến hiện nay đều cho

rằng thơ Đƣờng luật chỉ gieo vần bằng (Toàn bộ thơ Đỗ Phủ chỉ có 1

bài gieo vần trắc). Bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch là thơ cận thể (thơ

Đƣờng luật) hay cổ thể (vì rõ ràng câu thứ 2 vừa thất luật, và do đó,

vừa kéo theo thất niêm)? Bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là thơ

Đƣờng luật hay bán cổ bán luật (vì rõ ràng ở 4 câu đầu có nhiều chỗ

thất luật, thất niêm)? Trong bài báo đặc sắc viết năm 2013 Nhật kí

trong tù – những vần thơ chữ Hán hiện đại, “nôm na” mà thâm thuý

của Hồ Chí Minh, GS. Trần Đình Sử có nêu nhận định: “…Thơ luật ở

đây chủ yếu chỉ tuân thủ quy định về số câu, số chữ, bằng trắc, còn

các yêu cầu khác nhƣ niêm, điển cố…đều không đòi hỏi chặt chẽ”.

Tinh thần của nhận định ấy cơ bản là thoả đáng song có vài điểm cụ

thể cần làm rõ. Sử dụng điển cố là một đặc điểm của văn thơ trung đại

nói chung, không phải là một yêu cầu của thơ Đƣờng luật. Hồ Chí

Minh không hoàn toàn”tuân thủ quy định về số câu, số chữ, bằng trắc”

mà linh động, thậm chí “phá rào” khá nhiều và ngƣời nghiên cứu hoàn

toàn có thể thống kê một cách cụ thể. Không phải đến Hồ Chí Minh,

mà ngay từ lúc ra đời, các nhà thơ kể cả thánh thơ Đỗ Phủ, ngƣời

đƣợc xem là tuân thủ luật thơ một cách nghiêm nhặt nhất, với nguyên

tắc tối cao là “bất dĩ từ hại ý”, đã tìm cách linh động về mặt này hay

mặt khác và một số kiểu linh động dần dần đã đƣợc “hợp pháp hoá”,

không bị coi là phạm luật hay phá luật nữa. Không nên đồng nhất 2

khái niệm phạm luật và phá luật. “Phá luật” là do yêu cầu diễn đạt,

mặc dầu rất am hiểu luật thơ, vẫn cố tình vi phạm. Ở đây tôi không

muốn nhắc lại công thức “nhất tam ngũ bất luận” (mà thực ra chỉ có

“nhất ngũ bất luận”, còn chữ thứ ba thì có một số trƣờng hợp tuyệt đối

cấm “bất luận”) mà muốn nêu ra vài trƣờng hợp có thể linh động

Page 177: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 177

khác: chữ cuối câu thứ nhất có thể gieo vần hay không gieo (với thơ

ngũ ngôn không gieo vần là thông lệ, với thơ thất ngôn có gieo vần lại

là thông lệ); thơ tuyệt cú có thể thất niêm ở giữa bài, nói cách khác,

mô hình đòn cân thanh điệu (tổ hợp thanh 3 chữ thứ 2, thứ 4, thứ 6: B

T B hay TBT) của câu thứ 3 có thể khác với mô hình của câu thứ 2

trong khi công thức yêu cầu phải “giống” để bảo đảm nguyên tắc niêm

(sự linh động này đặc biệt thích hợp với trƣờng hợp câu thứ 3 đánh

dấu một bƣớc nhảy vọt trong mạch cảm xúc, một sự chuyển ý thơ đột

ngột); thơ tuyệt cú có thể dùng đối hay không và đối ở bất cứ vị trí

nào: thơ tuyệt cú không chỉ không hạn chế dùng điệp từ (thơ bát cú

Đƣờng luật chỉ cho phép lặp chữ trong một số trƣờng hợp) mà còn

“khuyến khích” dùng điệp từ… Vì thơ tuyệt cú đƣợc phép linh động

rất nhiều mặt, nên trong 3 dạng của thơ Đƣờng luật (bát cú, trƣờng

luật, tuyệt cú), thơ 4 câu là dễ làm “đúng luật” nhất, và từ đó nhiều khi

cũng khó phân biệt ranh giới giữa thơ tuyệt cú Đƣờng luật (“luật

tuyệt”) và thơ tuyệt cú cổ thể (cổ tuyệt). Ở cấp độ một câu (dòng) thơ

luật, cần nói rõ hơn hiện tƣợng không tuân thủ công thức “nhị tứ lục”,

trƣờng hợp thƣờng đƣợc gọi là “thất luật” (thất luật sẽ dẫn theo “thất

niêm” và “thất đối về thanh”). Những câu thơ nhƣ vậy gọi là “ảo cú”

(“ảo” là “không thuận, “ảo cú” là câu đọc lên nghe không thuận tai).

Nhà thơ hoàn toàn có quyền viết những “ảo cú”, nhƣng khi đã viết “ảo

cú” thì thƣờng phải “cứu ảo”, tức phải điều chỉnh thanh âm ngay trong

câu hoặc ở câu đối diện để “cân đối lại” âm thanh (chẳng hạn, ở câu

Dục bả Tây Hồ tỉ Tây tử - Muốn đem Tây Hồ sánh với Tây Thi - của

Tô Thức, chữ “Tây” thứ 2 theo công thức đáng lẽ phải “trắc” mà tác

giả đã linh động dùng thanh “bằng”, thì ở vị trí chữ thứ 5 theo công

thức là “bằng” thì nay lại dùng “tỉ” có thanh trắc để cân đối lại. Nếu

trong bài dùng nhiều ảo cú thì cả bài gọi là thơ “ảo luật” nhƣ bài Trú

mộng – “Mộng ngày” của Đỗ Phủ.

Chỉ ra những chỗ phạm luật hay phá luật không khó, khó là xác

định ranh giới ở đâu, để khi vƣợt qua ranh giới đó thì không nên gọi

là thơ Đƣờng luật nữa. Khi cùng cố PGS. Lê Đức Niệm tham gia sƣu

Page 178: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

178 | GS. Nguyễn Khắc Phi

tầm, biên soạn cuốn Thơ Đƣờng xứ Nghệ do NXB Đại học Quốc gia

xuất bản, tôi đã không đồng ý với anh Niệm ở 2 điểm: một là tên

sách không thể hiện nội dung xác định, 2 là khi tuyển đã đƣa vào cả

những bài phạm luật quá nhiều, không nên gọi là Thơ Đƣờng nữa (dù

quan niệm về thơ Đƣờng nhƣ thế nào).

Nếu tên gọi của Hội thảo (sau này có thể là của chủ đề nghiên

cứu) không thay đổi, thiêt tƣởng những vấn đề nêu trên rất đáng đƣợc

tham khảo để xác định cho trúng phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu. Xác

định những vấn đề trên hoàn toàn không nhằm thu hẹp phạm vi, số

lƣợng những bài thơ viết theo thể Đƣờng luật của Bác Hồ mà chỉ có

xác định rõ những điều trên mới nêu bật đƣợc điểm độc đáo trong việc

vận dụng thể thơ Đƣờng luật của Hồ Chí Minh, từ đó phát hiện thêm,

phát hiện đƣợc sâu hơn, toàn diện hơn một số phƣơng diện trong tƣ

tƣởng, tình cảm, phong cách của Ngƣời. Quan niệm về cái gọi là

“ranh giới” nói trên thay đổi tuỳ nhiều điều kiện, có lẽ càng về sau

càng có thể mở rộng, linh động nhiều hơn. Thơ Đƣờng luật, nếu kể từ

năm sinh của sƣ Pháp Thuận (915 – 990), tác giả của danh tác Quốc

tộ, thƣờng đƣợc coi là bài ngũ ngôn tuyệt cú Đƣờng luật sớm nhất ở

nƣớc ta, cho đến nay là vừa tròn 1100 năm, nếu có những sự vận

dụng linh động nào về luật thơ, không chỉ là thƣờng tình mà còn hợp

quy luật. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thống nhất một quy ƣớc nào

đấy về các tiêu chí để xác định ranh giới giữa các thể thơ.

Không phải dễ dàng thống nhất về các tiêu chí, càng không dễ

dàng thống nhất chỉ ra đích danh đâu là tiêu chuẩn cứng, về mặt

lƣợng, nhƣng thiển nghĩ về mặt chất, ít ra cũng hình dung đƣợc quan

niệm của ngƣời trình bày về cái gọi là “ranh giới” để xác định những

bài thơ nào có thể xác định là thơ Đƣờng luật mặc dầu ở đó có những

chỗ linh động, thậm chí “phá rào” so với quan niệm truyền thống. Cho

đến nay, theo chúng tôi, vẫn không nên xếp những bài gieo vần trắc,

nhƣ bài “Thân thể tại ngục trung…” vào thơ Đƣờng luật, mặc dầu có

những nét phảng phất giống thơ Đƣờng luật.

Page 179: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 179

Bên cạnh những điều có thể gọi là “luật” của thơ Đƣờng luật nói

trên, cũng cần nêu vài đặc điểm cơ bản nhất về mặt từ pháp và cú

pháp của thơ Đƣờng luật, đặc biệt ở đời Đƣờng, trong đó đặc biệt là

thủ pháp tỉnh lƣợc và thủ pháp đảo trang. Thủ pháp tỉnh lƣợc không

chỉ đáp ứng đƣợc nhu cầu diễn đạt cô đọng hàm súc của thơ Đƣờng

luật mà chủ yếu là thể hiện quan điểm triết học của Trung Quốc cổ đại

về mối quan hệ giữa cái hƣ và cái thực. Thơ Đƣờng luật truyền thống

sẵn sàng tỉnh lƣợc bất cứ từ loại nào và đảm đƣơng bất cứ chức năng

ngữ pháp nào trong câu thơ, đặc biệt là các quan hệ từ và đại từ nhân

xƣng. Về sự tỉnh lƣợc từ loại sau, Giáo sƣ – Viện sĩ Francois Cheng

(Trình Bão Nhất) chỉ rõ: “Nếu ngay trong văn ngôn sự vắng mặt của

đại từ nhân xƣng là thƣờng thấy, thì phải nhấn mạnh rằng sự vắng mặt

ấy lại càng hiển nhiên trong thơ ca và thực tế là vắng mặt toàn bộ

trong luật thi (N. K. Phi nhấn mạnh)” (L’écriture poétique chinoise –

Bút pháp thơ ca Trung Quốc. NXB Seuil. Paris, 1996, trang 39). Tỉnh

lƣợc không làm cho nội dung thơ nghèo đi mà ngƣợc lại. Chỉ cần đối

chiếu nguyên văn 2 câu thơ “Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tƣ cố

hƣơng” của Lý Bạch với một số bản dịch ra tiếng Pháp, tiếng Nga là

thấy ngay điều ấy. Tiếng Trung Quốc xƣa là một thứ ngôn ngữ đơn

tiết và không thay đổi hình thái nên nghĩa của một từ hoàn toàn lệ

thuộc vào vị trí của của nó trong câu, bởi vậy thay đổi (trong đó có

“đảo trang”) vị trí là lập tức thay đổi ý nghĩa. Chính 2 đặc điểm này đã

làm nẩy sinh một loại thơ độc đáo và độc nhất vô nhị là thơ hồi văn

(một loại thơ có thể xáo lộn thứ tự các chữ theo một quy luật nào đó

để có thể đọc thành 2 hoặc rất nhiều cách có ý nghĩa khác nhau mà

vẫn đúng niêm luật). Hai điểm này cơ bản thuộc về cú pháp nhƣng tác

động rất lớn đến từ pháp. Riêng về từ pháp của thơ Đƣờng luật truyền

thống, một điểm nổi bật là tính chất tinh luyện. GS. Phan Ngọc đã

trình bày về tính chất tinh luyện của ngôn ngữ thơ Đƣờng một cách

sâu sắc trong một bài báo bàn về cấu tứ của thơ Đƣờng. Chính nhiều

nhà thơ và nhiều giai thoại về thơ Đƣờng cũng cho ta rõ điều đó. Có lẽ

chẳng có gì minh hoạ tốt hơn bằng câu thơ của Đỗ Phủ: “Tự bất kinh

nhân tử bất hƣu” (Dùng chữ chƣa làm cho mọi ngƣời kinh hoàng thì

Page 180: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

180 | GS. Nguyễn Khắc Phi

chết cũng chƣa thôi” hay câu thơ của Mạnh Giao: “Nhị cú tam niên

đắc” (có khi hai câu thơ phải ba năm mới làm xong). Cũng chẳng có

gì minh hoạ sinh động hơn câu chuyện về nguồn gốc chữ “thôi xao”

bằng cuộc tao phùng giữa Giả Đảo và Hàn Dũ, chữ “nhất tự sƣ” qua

sự góp ý của Trịnh Cốc cho nhà sƣ - nhà thơ Tề Kỷ về “một chữ”

trong bài thơ Tảo mai.

Tất cả những điều nói trên, nếu không thuộc lĩnh vực “luật” thì

cũng nằm trong phạm trù về “pháp”, về “lệ”, đều là những căn cứ rất

quan trong khi bàn đến việc vận dụng thể thơ Đƣờng luật củả Bác.

II. Về việc vận dụng thể thơ Đƣờng luật của Hồ Chí Minh.

1. Nói đến thơ, dù là thơ Đƣờng luật, trƣớc hết cũng phải đề cập việc

sử dụng ngôn ngữ.

Cách đây trên 20 năm, nhà nghiên cứu lão thành Trƣơng Chính đã

chỉ ra những yếu tố “bạch thoại” và cả những yếu tố “phi bạch thoại”,

“phi văn ngôn” (tiếng lóng, tiếng địa phƣơng, tiếng phiên âm từ các

ngôn ngữ châu Âu và cả những tiếng do Bác tạo ra từ tiếng Pháp nhƣ

chữ “cú” (coup) trong câu “nhất thuỵ hôn hôn kỉ cú chung - Buổi trƣa)

trong Nhật kí trong tù, nhƣng phải nói đến năm 2013, GS. Trần Đình

Sử, trong bài báo đã dẫn, mới là ngƣời nêu ra vấn đề này một cách

toàn diện và có kiến giải thoả đáng. GS. cho rằng thơ trong Nhật kí

trong tù, dù làm bằng thể thơ truyền thống, dù có không ít bài mang

đậm phong vị cổ điển, thậm chí viết theo “thi pháp trung đại”, vẫn là

“thơ hiện đại, mang phong cách hiện đại”, là “thơ bạch thoại, thơ văn

xuôi, sử dụng đủ loại chất liệu của bản thân đời sống”. Không chỉ

dùng từ hiện đại (nhƣ “tẩu” trong bài “Tẩu lộ” không thể dịch là

“chạy”) mà cũng sử dụng khá nhiều “cấu trúc câu văn xuôi bạch

thoại”. “chính loại thơ này thích hợp với thể nhật kí của tập thơ, phù

hợp với việc ghi lại nhiều tình huống, nhiều hình ảnh của đời sống

trong tù ngục, đầy bi hài, chua chát, u mua, hóm hỉnh. Đó là phong

cách nôm na, bình dị rất đặc trƣng cho văn phong Hồ Chí Minh”. Từ

những luận điểm trên, GS. nhận định ý kiến của Quách Mạt Nhƣợc

Page 181: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 181

cho rằng nhiều bài thơ trong Ngục trung nhật kí “đặt chung với thơ

Đƣờng thơ Tống cũng không phân biệt đƣợc” là “không thoả đáng”.

Do đặc điểm của đối tƣợng miêu tả, do đƣợc sáng tác trong một

hoàn cảnh đặc thù, đặc biệt là do văn phong của Bác, không thể nói

ngôn từ trong mọi bài thơ Đƣờng luật của Bác đều tinh luyện nhƣ ở

các danh tác đời Đƣờng mà phần lớn là bình dị, thậm chí có khi là

“nôm na” nhƣ GS. Sử đã nói. Dĩ nhiên, “bình dị” không có nghĩa là

không trong sáng, không sâu sắc.

Có thể chỉ ra những đặc điểm sử dụng ngôn từ trong thơ Đƣờng

luật Hồ Chí Minh ở nhiều điểm khác nữa. Nhƣ Trình Bão Nhất chỉ rõ,

trong thơ Đƣờng luật (ở đời Đƣờng), đại từ nhân xƣng hầu nhƣ vắng

bóng. Điều đó có lẽ không còn phù hợp với tƣ duy, tính cách của con

ngƣời hiện đại nên trong thơ Đƣờng luật của Bác, ta thấy xuất hiện rất

nhiều, thậm chí đƣợc dùng làm điệp từ trong cùng một bài, không chỉ

2 lần mà có khi 3, 4 lần. Nhƣ trong bài Tặng Võ công (Tặng cụ Võ),

Ngƣời đã dùng đến 3 chữ “ngã” và đến 4 chữ “công” (đại từ nhân

xƣng ngôi thứ hai). Cách dùng điệp ngữ ở đây không chỉ nói lên mối

quan hệ thân tình mà còn biểu thị thái độ tôn trọng với cụ Võ Liêm

Sơn (số lƣợng chữ “công” không chỉ nhiều hơn mà sắc thái biểu cảm

cũng rõ hơn, phù hợp hơn những đại từ nhân xƣng ngôi thứ hai khác).

Có thể so sánh cách dùng đại từ nhân xƣng ở bài này với cách dùng

ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai trong bài Kí Mao Chủ tịch. Theo tôi,

trong thơ Đƣờng luật Hồ Chí Minh, có một loại đại từ nhân xƣng đặc

biệt sử dụng một danh từ có ý nghĩa khái quát, nhƣng lại đặc chỉ một

cá thể không thể nhầm lẫn là “nhân” và “khách”. Đặt trong văn cảnh,

phần lớn hai danh từ này đƣợc dùng để thay thế cho đại từ nhân xƣng

ngôi thứ nhất.

2. Những đặc điểm trong việc vận dụng luật thơ

a. Vì sao Hồ chí Minh chủ yếu dùng thể thơ 4 câu (tuyệt cú, tứ

tuyệt) và trong loại thơ 4 câu, chủ yếu lại dùng thể thất ngôn tuyệt cú,

đó có thể là một đề tài nghiên cứu lí thú. Thơ bát cú của Bác có thể

Page 182: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

182 | GS. Nguyễn Khắc Phi

đếm trên đầu ngón tay. Không thể nói tuyệt cú làm dễ hơn, càng

không thể nói thơ bát cú có giá trị hơn nhƣng rõ ràng là thơ bát cú có

nhiều ràng buộc hơn, phải gia công nhiều hơn về mặt chữ nghĩa, nói

thế cũng có nghĩa là, ngƣợc lại, thơ tuyệt cú đƣợc dành một không

gian thoáng rộng hơn nhiều cho việc vận dụng luật thơ, phù hợp hơn

với hoàn cảnh sáng tác của Ngƣời (cho dù là trong cảnh tù ngục hay

trong những ngày lãnh đạo kháng chiến bận rộn, căng thẳng).Thế tại

sao trong thơ tuyệt cú, Ngƣời lại chọn thể thất ngôn? Phải chăng vì

âm điệu của thơ thất ngôn uyển chuyển hơn (thơ ngũ ngôn không có

vấn đề đòn cân thanh điệu “nhị tứ lục phân minh”), vì thơ ngũ ngôn

số chữ quá ít (chỉ 20 chữ), khó biểu đạt tâm tƣ, tình cảm đa dạng,

khó miêu tả, tƣờng thuật những sự kiện trong cuộc sống bộn bề? Dĩ

nhiên trong lịch sử văn học, có không ít những danh tác viết bằng thể

ngũ tuyệt nhƣ Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch, Điểu minh giản của Vƣơng

Duy, Đăng Quán Tƣớc lâu của Vƣơng Chi Hoán, Quốc tộ của sƣ

Pháp Thuận, Tụng giá hoàn kinh sƣ của Trần Quang Khải ; chính thơ

Bác cũng có bài rất hay nhƣ Thƣớng sơn viết ở Lũng Dẻ năm 1942.

Và ngay hai bài mở đầu tập Ngục trung nhật kí, hai bài có thể xếp

vào hàng danh tác, chính là 2 bài thơ 4 câu 5 chữ, một bài cổ thể,

một bài cận thể. Phải chăng thể thơ nhỏ bé này phù hợp với yêu cầu

“ngôn chí”, đề xuất những phƣơng châm, tuyên ngôn, luận điểm,

khẩu hiệu sắt đanh, ngắn gọn nhƣ chạm khắc vào đá? Nhìn toàn bộ

lịch sử phát triển thơ tứ tuyệt Đƣờng luật, ở Trung Quốc cũng nhƣ ở

Việt Nam, xét cả nền văn học cũng nhƣ của một tác giả nhƣ Lí Bạch,

Đỗ Mục, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng…, vì những lí do khác nhau,

ta thấy thể thất ngôn tuyệt cú vẫn đƣợc “thiên ái” hơn. Trong tất cả

tuyển tập tuyệt cú hiện có, bao giờ số lƣợng thất ngôn tuyệt cú cũng

áp đảo số lƣợng ngũ ngôn tuyệt cú. Nhân đây, xin nêu một ví dụ cụ

thể là Thiên gia thi, tuyển tập thơ đƣợc biên soạn ở đời Thanh tập

hợp những bài thơ Đƣờng luật vào loại hay của đời Đƣờng và đời

Tống (trừ 2 bài cuối cùng là của đời Minh), một tập thơ Bác đã nêu

một nhận xét có tính phê phán đầy ý nghĩa nhƣng chắc hẳn cũng đã

Page 183: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 183

đọc đi đọc lại nhiều lần và hấp thu từ đó ít ra cũng không ít kinh

nghiệm và chất liệu để làm thơ. Thiên gia thi gồm tất cả 226 bài,

đƣợc sắp xếp theo trình tự thể loại Ngũ tuyệt – Ngũ luật (bát cú) –

Thất tuyệt – thất luật (bát cú), trong đó thất ngôn tuyệt cú chiếm số

lƣợng áp đảo (94 bài) trong khi thất ngôn bát cú có 48 bài, ngũ ngôn

bát cú có 45 bài và ngũ ngôn tuyệt cú chỉ có 39 bài. Chúng tôi sẽ còn

quay lại vấn đề này ở phần sau.

b. Cũng nhƣ nhiều nhà thơ xƣa, Bác có làm một số chùm thơ (từ

2 đến 6 bài), nhƣng có 2 điểm đặc biệt: một là, trong một chùm thơ

có khi vừa có cả ngũ ngôn lẫn thất ngôn, vừa có cả Đƣờng luật lẫn cổ

thể nhƣ bài “Tứ cá nguyệt liễu”; hai là, cũng trong chùm 4 bài thơ

này, giữa các bài có các quan hệ từ “nhân vi” (bởi vì), “sở dĩ” (cho

nên), “hạnh nhi” (may sao) làm cho cả chùm thơ mang tính chất nghị

luận rõ nét. Đó là hiện tƣợng chƣa từng có trong các chùm thơ

Đƣờng luật của Trung Quốc, dù đó là chùm thơ bát cú Thu hứng 8

bài của Đỗ Phủ đời Đƣờng hay chùm thơ thất ngôn tuyệt cú Uyên

Ƣơng hồ trác ca – Bài ca chèo thuyền ở hồ Uyên Ƣơng 100 bài của

Chu Di Tôn ở đời Thanh.

c. Xét từng bài, ở thơ Đƣờng luật của Bác có bài “thêm câu” (6

câu nhƣ “tứ tuyệt nối dài”, có bài cũng 6 câu nhƣng chen vào 2 câu

ngũ ngôn và thất ngôn ở giữa nhƣ Mậu Thân xuân tiết). Bài “Tết Mậu

Thân”, nếu bỏ 2 câu giữa, phần còn lại vẫn có thể xem là một bài tuyệt

cú đặc sắc. Trƣớc tin vui chiến thắng Mậu Thân, dƣờng nhƣ niềm vui

của Bác đã vỡ oà, làm phá vỡ cả khuôn khổ nhỏ bé của thể tứ tuyệt.

Trƣớc mắt ta hiện lên một bức tranh “hoa điểu tranh năng” đủ màu

sắc: ở câu 2, muôn hoa đỏ và tím đua nở; ở 2 câu thơ chen vào, chim

trắng lao xuống hồ bắt cá và cái oanh vàng bay vút lên bầu trời xanh.

Yết hậu nhƣ bài Quế Lâm phong cảnh cũng có thể coi là một dạng

thêm câu đặc biệt. Ở cấp độ câu, tƣởng cũng cần nhắc lại hiện tƣợng

thêm chữ nhƣ ở bài Cận Long châu (câu cuối có 8 chữ) hay bớt chữ

nhƣ bài thơ mở đầu bằng 3 chữ, nói đúng hơn là 3 tiếng

“Oa!..Oa!...Oaa!...” (Tân Dƣơng ngục trung hài).

Page 184: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

184 | GS. Nguyễn Khắc Phi

d. Nhƣ đã nói, các nhà thơ có quyền viết những câu thơ phá luật

và sau đó thƣờng “cứu ảo”. Điểm đáng lƣu ý là những “ảo cú” trong

thơ Đƣờng luật của Bác rất nhiều mà lại thƣờng không “cứu ảo”. Bài

Tặng Võ công có đến 4 chỗ thất niêm và 4 chỗ thất luật nhƣng vẫn có

thể coi đó là thơ Đƣờng luật vì đã đảm bảo tất cả những yêu cầu khác

còn lại của một bài thơ luật. Điều đáng nói hơn là Bác đã “phá luật” ở

những chỗ đích đáng, nhƣ câu thứ 3 ở bài đầu của chùm thơ Tứ cá

nguyệt liễu: “Tứ nguyệt phi nhân loại sinh hoạt” (Bốn tháng sinh hoạt

chẳng ra ngƣời) hay câu “Thí vấn dƣ sở phạm hà tội?” (Thử hỏi ta

phạm tội gì?). Chỉ có phá cách mới bộc lộ rõ đƣợc thái độ “bất bình”

cao độ, mà những thực tế xấu xa tột bậc cũng nhƣ hiện tƣợng cực kì

vô lí đó cũng không đáng đƣợc diễn đạt bằng những thanh điệu hài

hoà cân đối của một câu thơ đúng luật!.

e. Nhƣ đã nói, thơ tuyệt cú có nhiều điểm “thoáng” hơn trong

việc vận dụng niêm, luật, đối. Thơ tuyệt cú Đƣờng luật của Hồ Chí

Minh đã thể hiện tới mức tối đa những điều “linh động hợp pháp”

ấy. Có thể chỉ ra mấy điểm sau:

+. Tuyệt đại thơ tuyệt cú của Hồ Chí Minh là thơ thất ngôn. Ở thể

thơ này, chữ cuối của câu đầu không gieo vần là biệt lệ nhƣng ở thơ

của Ngƣời, không gieo vần lại là thông lệ. Thống kê mấy chục bài thơ

cuối cùng của tập thơ Ngục trung nhật kí, có thể thấy tỉ lệ này chiếm

đến trên 85%, tức chữ cuối câu đầu hầu hết đều dùng thanh trắc. Vì

sao vậy? Phải chăng giữa hai thanh, Ngƣời “thiên ái” thanh trắc hơn vì

với đặc điểm về cao độ và trƣờng độ, thanh trắc có khả năng diễn đạt

những ý tƣởng mạnh mẽ, rắn rỏi và cả thái độ bất bình phẫn nộ một

cách thuận lợi hơn? Tôi hoàn toàn chia sẻ ý kiến của cố GS. Lê Trí

viễn khi nói về giọng điệu của bài thơ mở đầu Ngục trung nhật kí:

“Thử đọc bài chữ Hán rồi đọc bài dịch mà nghe. Có phải âm điệu khác

nhau khá xa không? Một bên nhƣ có gì khó chịu, bực bội, nếu không

thì cũng nhƣ đang bị ngăn cản, bó buộc. Đây là bài mở đầu một tập

sách, cũng là cảm tƣởng đầu của một giai đoạn trớ trêu, đày đoạ. Phải

thắng cái trớ trêu, đày đoạ này. Cho nên cả sức mạnh con ngƣời dồn

Page 185: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 185

vào bên trong. Bài thơ vang ngân mà rất kín. Nhƣ rắn lại, đúc lại. Có

ngƣời nói bài thơ này nên khắc vào đá.Có thể nói thêm: Đây là kim

cƣơng. Và nhƣ thế là hợp tình, hợp cảnh, rất hay. Phần lớn điều này

thể hiện ở vần trắc, vần trắc mà dấu nặng. Trong khi đó, bài dịch dùng

vần bằng. Bài thơ thành ra mở, thoáng, chừng nào đó thanh thản. Cái

thế của bài thơ bị đổ mất và sức mạnh giảm đi một phần” (Lê Trí Viễn

– Một đời dạy văn, viết văn. Tập 3. NXB Giáo dục, H, 2006, trang

571). Ở Trung Quốc, khi nói đến việc phá luật bằng cách dùng nhiều

thanh trắc, ngƣời ta thƣờng dẫn câu Hoàng hạc nhất khứ bất phục

phản trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, vì câu thơ chỉ có một

thanh bằng ở đầu câu. Thế nhƣng, trong thơ Bác, ta thấy có những

câu thơ không có thanh bằng nào, nhƣ “Khả thị kháng Mỹ cứu quốc

sự, Hoàn toàn chiếm lĩnh ngã tâm tƣ” (Kí Hoàng Sơn, kì tứ) hay có

câu kéo dài ra 8 chữ trong đó 7 chữ đầu đều thuộc thanh trắc:

“Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành” (3 câu ở trên câu đặc

biệt này đều làm đúng quy định về niêm luật). Hiện tƣợng dùng

thanh trắc ở chữ cuối câu đầu thƣờng gắn liền với phép đối đặt ngay

ở phần trên của bài thơ để diễn đạt một cách có hiệu quả hơn các mối

tƣơng quan, đặc biệt là tƣơng quan đối lập giữa các sự vật, nhƣ hai

câu đầu ở 2 bài sau:

Kí Ni – lỗ (Gửi Nê – ru)

Ngã phấn đấu thì quân hoạt động

Quân nhập ngục thì ngã trú lung

(Lúc tôi phấn đấu anh hoạt động,

Lúc anh hoạt động, tôi ngồi tù)

Dạ bán (Nửa đêm)

Thuỵ thì đô tƣợng thuần lƣơng hán,

Tỉnh hậu tài phân thiện ác nhân.

(Lúc ngủ mọi ngƣời đều có vẻ thuần hậu,

Tỉnh dậy mới phân biệt rõ ngƣời thiện kẻ ác)

Page 186: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

186 | GS. Nguyễn Khắc Phi

+ Câu thứ ba thất niêm khá nhiều và ở câu có tính chất bản lề này,

ta đều thƣờng tìm thấy một sự chuyển dịch nào đấy hoặc về mạch cảm

xúc, hoặc về đối tƣợng miêu tả, hoặc về phƣơng pháp biểu đạt…

+ Thơ tuyệt cú Hồ Chí Minh dùng rất nhiều điệp từ, điệp ngữ,

hình thức điệp rất phong phú và tác dụng cũng rất đa dạng. Có không

ít chỗ điệp một từ đến 3 lần chỉ trong một câu. Có bài điệp đến 3 từ

trong đó có từ điệp 5 lần nhƣ Vãn cảnh (điệp chữ “hoa” 5 lần), Trung

thu bài II (điệp chữ “thu” 5 lần). Trong Cảnh vệ đảm trƣ đồng hành

bài I, tác giả đã điệp chữ “nhân” 4 lần, chữ “trƣ” 3 lần để làm nổi bật

sự nhục nhã của con ngƣời khi đã “không có quyền tự chủ”. Bác rất

thích dùng “điệp liên hoàn”, một hình thức xuất hiện rất nhiều trong

Chinh phụ ngâm. Hình thức này không chỉ tăng thêm sức biểu hiện

nội dung cho từng bài, mà xét về mặt giọng điệu của toàn tập thơ, đã

tạo nên một luồng âm thanh nhẹ nhàng, đôi khi tha thiết, cân đối lại

những vần thơ hùng hồn, đanh thép.

Vẫn còn có thể nói thêm về một vài vấn đề khác nhƣ cách sử dụng

đối, song thiết tƣởng với những dẫn chứng nêu trên, ta cũng đủ thấy

sự độc đáo, mạnh dạn trong việc sử dụng một thể thơ truyền thống của

Hồ Chí Minh. Bác không chỉ “thích nghi” đƣợc với nó mà còn vƣợt

qua đƣợc “những thách thức với những luật lệ nghiêm khắc” của nó

để tạo ra những vần thơ của riêng mình, và vì vậy, nếu đem đặt chúng

bên cạnh, thậm chí xen lẫn các bài thơ Đƣờng luật Đƣờng – Tống, chỉ

qua việc vận dụng luật thơ và sử dụng ngôn từ, chúng ta cũng dễ dàng

“phân biệt”.

III. Về bài thơ Khán Thiên gia thi hữu cảm

Để hiểu đúng giá trị của bài thơ này, cần làm rõ vài điều sau đây;

1. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một tuyên ngôn về thơ, thơ

hiện đại, thơ cách mạng của Hồ Chí Minh. Linh hồn của nền thơ ca ấy

là tính chất chiến đấu: Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết. GS. Sử đã

phàn nàn câu thơ dịch “Nay ở trong thơ nên có thép” chƣa lột đƣợc

tinh thần của nguyên bản vì thơ nay chƣa hẳn đã là thơ hiện đại. Song

Page 187: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 187

đáng phàn nàn nhất là việc dịch thành thơ câu thứ nhất: Cổ thi thiên ái

thiên nhiên mĩ. Bản dịch thơ đầu tiên là “Thơ xƣa yêu cảnh thiên

nhiên đẹp”. Dịch nhƣ vậy là đã bỏ qua từ “thiên”, một từ rất quan

trọng của câu thơ. Bác không hề phê bình bản thân tình cảm yêu thiên

nhiên ở “cổ thi” mà chỉ nêu tình trạng yêu thiên lệch. Do đƣợc góp ý

nhiều, nhất là của GS. Đặng Thai Mai, gần đây có ngƣời dịch lại thành

“Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp” (Suy nghĩ mới về Nhật kí

trong tù. Viện Văn học – NXB Giáo dục. H, 1995, tr.579). Rõ ràng

dịch nhƣ vậy cũng chƣa ổn vì chữ “thƣờng” và cả cụm từ “thƣờng

chuộng” cũng chƣa lột đƣợc tinh thần của chữ “thiên” và “thiên ái”.

Trƣớc mắt cần góp sức dịch cho thật đạt bài thơ này vì tác phẩm

không chỉ cho ta thấy rõ quan điểm văn học của Ngƣời nói chung, mà

còn cho thấy nhận định chính xác, tinh tế về một hiện tƣợng văn học

cụ thể, một di sản văn hoá của nhân loại.

2. Mặc dầu nhận định về “cổ thi” nói chung nhƣ vậy là hoàn toàn

chuẩn xác, song khi diễn giải, truyền đạt quan điểm của Ngƣời, cần

tránh lối nói tuyệt đối, cực đoan, cho rằng có thể vận dụng vào tất cả

các hiện tƣợng văn học cụ thể. Nên nhớ rằng dù Hồ Chí Minh dùng từ

“cổ thi” ngay trong câu đầu nhƣng tên bài thơ là “Khán Thiên gia thi

hữu cảm”, tức đây chỉ là cảm xúc – bình luận sau khi đọc một tập

tuyển thơ cụ thể chứ không phải toàn bộ cổ thi. Bao Công chỉ còn một

bài thơ duy nhất còn lại là Thƣ Đoan Châu quận trai bích (Đề lên

tƣờng thƣ trai ở quận Đoan Châu), trong đó nhà thơ không chỉ so sánh

mình với “thép” mà còn là “thép ròng”(Tinh cƣơng bất tác câu: Thép

ròng chẳng uốn câu!). Một cán bộ trẻ làm luận án về 2 tập thơ Tần

trung ngâm và Tân nhạc phủ của Bạch Cƣ Dị, muốn đặt tên luận án là

“Chất thép trong thơ Bạch Cƣ Dị” song ngại “phạm huý” nên hỏi

tôi.Tôi trả lời: “Nên cân nhắc thêm là “Chất thép” hay “Tính chiến

đấu”, song dùng “Chất thép” cũng không sao vì ít ra trong 2 tập thơ ấy

cũng có “quặng sắt”, và vì nhƣ ta đã biết, lúc làm gián quan, làm thơ

phúng dụ là một hoạt động chính trị của Bạch Cƣ Dị (dĩ nhiên là nhà

thơ vẫn chƣa thể thoát khỏi quan niệm trung quân) và nhiều bài thơ

Page 188: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

188 | GS. Nguyễn Khắc Phi

phúng dụ đã gây nên phản ứng quyết liệt của cả triều đình, nhƣ chính

ông đã nhận xét là bọn quan lại đứa thì “mặt biến sắc”, đứa thì “nắm

tay giận dữ”, đứa thì “nghiến răng tức tối”, khi chỉ ra tính chiến đấu

của 2 tập thơ này, đừng quên là đồng thời phải thống kê tất cả hình

ảnh thiên nhiên trong đó có đầy đủ tất cả “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết,

núi, sông” đấy nhé, và quan trọng hơn, còn phải phân tích tác dụng

của những hình ảnh thiên nhiên ấy đã phục vụ cho hoạt động chính trị

của nhà thơ nhƣ thế nào. “Giá một bong hoa thắm, Bằng tiền thuế

mƣời nhà” là có chất “thép” trong “hoa”, ông lão bán than khoác

manh áo mỏng dính đẩy xe nặng hơn nghìn cân trên đƣờng tuyết dày

mấy thƣớc mà vì “sợ than rẻ” nên vẫn “mong trời lạnh cóng”, ấy là có

“thép” trong “tuyết”… Nếu Hồ chí Minh đọc 2 tập thơ phúng dụ nói

trên của Bạch Cƣ Dị và cần ghi cảm tƣởng sau khi đọc, chắc hẳn

Ngƣời sẽ viết khác!

3. Dẫu vậy, nhận định về Thiên gia thi, về cơ bản vẫn có ý nghĩa

phổ quát, vẫn có thể giúp ta trong việc tìm hiểu một đặc điểm của thơ

cổ. Với Thiên gia thi, đặc điểm ấy, có thể nói là nhƣợc điểm ấy, lại thể

hiện nổi bật vì có những lí do cụ thể ta cần phải biết để có nhận định

đúng mức. Thiên gia thi chỉ tuyển những bài thơ Đƣờng luật Đƣờng

Tống và trình bày theo trình tự các tiểu loại. Nhìn chung, trong lịch sử

thơ ca Trung Quốc, những bài thơ có ý nghĩa xã hội – chính trị tiêu biểu

nhất nhƣ Trƣờng hận ca, Tỳ Bà hành, Binh xa hành, Tam lại, Tam

biệt… đều viết theo thể cổ thi vì thiên bức không hạn chế, không bị

ràng buộc bởi những luật lệ ngặt nghéo. Tuyệt đại bộ phận thơ viết về

chủ đề thiên nhiên dều sử dụng thể Đƣờng luật.Thiên gia thi là tập thơ

soạn cho trẻ học, lại càng khó đƣa vào những bài dài viết về các chủ đề

xã hội. Trong hơn 200 bài trong thiên gia thi chỉ có 3 bài cuối cùng là

viết về chủ đề xã hội, Không chỉ thế, khi sắp xếp các bài, ngƣời tuyển

chọn còn sắp xếp theo thứ tự “Mùa”. Chẳng hạn trong phần “thất

tuyệt”, những bài đƣợc tuyển nhiều là “Xuân”, tiếp đó là “Thu” (vì Hạ

và Đông khó gây cảm hứng thơ chăng?) nhƣng về trình tự thì tuyệt đối

Page 189: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 189

theo thứ tự Xuân – Hạ - Thu – Đông. Với một ý đồ soạn sách nhƣ vậy,

với việc lựa chọn thể thơ nhƣ vậy và bố cục nhƣ vậy thì khuynh hƣớng

“thiên ái thiên nhiên mĩ” lại càng thể hiện một cách nổi bật.

4. “Chất thép” hiển nhiên là phẩm chất ƣu tú của thơ ca cách

mạng song không phải là toàn bộ mọi phẩm chất, cho nên “chất thép

trong thơ” là khác với “thơ thép”, từ rất xƣa, ngƣời ta đã nói “thi ngôn

tình”, “thi ngôn tình”, nói nhƣ Bạch Cƣ Dị, “Căn tình, miêu ngôn, hoa

thanh, thực nghĩa” (“Gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm

thanh, quả là ý nghĩa). Xét cho cùng, chất thép là một biểu hiện đặc

thù của cái tình trong những mối quan hệ xã hội – chính trị. Bởi vậy,

tôi không thú vị khi thấy một nhà thơ lớn của nƣớc ngoài đã kết thúc

bài viết của mình về thơ của Bác nhƣ sau: “Chúng ta hãy hô to: “Tinh

thần thép muôn năm! Văn nghệ thép và thơ ca thép muôn năm!”. Ở

Việt Nam, học giả Trƣơng Chính cũng là ngƣời đầu tiên phản ứng với

lối nhận định này. Tôi rất thích nhiều bài thơ và nhiều câu thơ của anh

Hoàng Trung Thông nhƣng xin nói thực là không thích 2 câu “Vần

thơ của Bác vần thơ thép, Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”. Tại sao

lại dùng quan hệ từ “Mà vẫn” giữa 2 câu thơ nhƣ thế! Đọc 2 câu này,

tôi bất chợt nghĩ tới 2 câu đầu của Đại cáo bình Ngô: “Việc nhân

nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt chỉ lo trừ bạo” Lòng “nhân

nghĩa”, tình yêu thƣơng dân, mà trong hoàn cảnh bấy giờ là đồng nhất

với lòng yêu nƣớc “mênh mông bát ngát”, chính là cái gốc, cái nguyên

nhân tạo nên cái chất “thép” của cả đân tộc để quyết tâm “trừ bạo”

5. Không chú ý đúng mức cái tình mênh mông của Bác, trong đó

có cả tình yêu thiên nhiên sâu lắng thì rất dễ đi đến những cách giải

thích khiên cƣỡng nhiều bài thơ rất hay của Bác, nhất là những bài

viết về thiên nhiên.

Sách giáo khoa có dạy bài Tảo giải. Chọn nhƣ vậy là đúng vì đây

là một trong những bài thơ hay nhất của Bác, Tuy nhiên, về văn bản

thì có vấn đề. Mọi sự rắc rối đều bắt đầu từ bản dịch đầu tiên. Viện

Văn học và nhà thơ Nam Trân đã có công rất lớn trong việc dịch thơ

Bác. Có một vài chữ các dịch giả đã đề nghị Bác cho chỉnh lại, nhƣng

Page 190: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

190 | GS. Nguyễn Khắc Phi

chữ Tảo trong bài “Tảo giải” thì chƣa. Theo anh Nam Trân, trong câu

“U ám tàn dƣ tảo nhất không” ở bài thơ này, Bác đã viết nhầm chữ

“tảo” nghĩa là “quét” thành chữ “tảo” nghĩa là “sớm” và cho rằng

dùng “tảo” nghĩa là “quét”, ý thơ sẽ mạnh hơn (nghĩa là có chất “thép”

hơn chăng?). Qua góp ý cua một số ngƣời, tất cả các bản in hiện nay

đều đã phục nguyên, nghĩa là dùng lại chữ “tảo” nghĩa là “sớm” nhƣ

cũ, nhƣng có điều lạ là ở những bản in của các NXB có uy tín nhất

nhƣ NXB Chính trị Quốc gia hay NXBGD Việt Nam, các ngƣời biên

soạn, trong chú thich vẫn bày tỏ sự băn khoăn và nghi ngờ, cho rằng

dùng chữ “tảo” là “quét” vẫn “hợp lí hơn”, “hay hơn”. Trong bài Về

những cách hiểu khác nhau đối với một câu thơ trong Ngục trung nhật

kí đăng ở Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thƣ (số 5, tháng 9, năm

2012), tôi đã căn cứ vào nhiều tƣ liệu và nhiều lập luận để chứng minh

rằng Bác không hề viết nhầm chữ này và dùng “tảo” nghĩa là “sớm”

thì lời thơ tự nhiên hơn và ý thơ cũng hám súc, sâu sắc, mạnh mẽ hơn

rất nhiều.

Cũng với thiên hƣớng muốn làm cho ý thơ của Bác “mạnh hơn”,

trong khi dịch thơ Bác nhiều khi nguyên văn đã không thật đƣợc tôn

trọng và ngƣời dịch chƣa hiểu rằng, trong việc dịch thơ cổ điển, dịch

“thêm chữ” nhiều khi là “bớt nghĩa”. Chẳng hạn, để dịch câu thứ 2 của

bài Thƣớng sơn, ngƣời dịch nào cũng muốn cho Bác đứng ở chỗ thật

cao (bằng cách thêm chữ “đỉnh”) mà quên mất rằng, ở bài này, nếu

làm đột xuất “độ cao” về “không gian” là làm nhoè mất yếu tố “thời

gian”, thời điểm cách mạng đã đến gần (“Ngảng đầu mặt trời gần”) và

“tầm cao” về tƣ tƣởng và “tầm nhin” của Bác. Tôi đã trình bày kĩ

những luận điểm này ở một bài báo đăng ở Tạp chí Thơ của Hội Nhà

văn, số 5/ 2011 và Tạp chí Thông tin các vấn đề lí luận, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, số 9/ 2013

6. Bác nhấn mạnh một nhƣợc điểm của “cổ thi” không có nghĩa

là Bác không đánh giá cao nó, không tiếp thu đƣợc gì từ đó. Trong

Di chúc, Ngƣời chỉ nhắc đến 3 tên riêng: Mác, Lê nin, Đỗ Phủ và

khẳng định Đỗ Phủ là nhà thơ “rất nổi tiếng” ở đời Đƣờng. Không

Page 191: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 191

chỉ dùng thể thơ Đƣờng luật để sáng tác, bác còn tiếp thu nhiều

phƣơng diện khác nhƣ ngữ liệu, điển tích, cấu tứ,…mà nhiều nhà

nghiên cứu đã chỉ ra.

Về phƣơng diện này, xin đƣợc lƣu ý ba điểm:

a. Nhiều ngƣời nói đến “âm vang thơ Đƣờng” trong thơ Bác, điều

đó không sai song cần phân biệt thơ Đƣờng và thơ Tống, Bác tiếp thu

nhiều điều từ thơ Đƣờng nhƣng cũng không ít từ thơ Tống, từ Chu Hi,

Trình Hạo, Phạm Trọng Yêm, Khấu Chuẩn…Trong phần chính của

Thiên gia thi là “thất tuyệt”, số lƣợng thơ Tống áp đảo thơ Đƣờng (2

bài khuyết danh, 55 bài thơ Tống, thơ Đƣờng chỉ có 37 bài). Không

chỉ thế, rất nhiều bài miêu tả những sinh hoạt bình dị của ngƣời lao

động Trung Hoa gợi cho ta liên tƣởng tới nhiều bài thơ Tống chứ

không phải thơ Đƣờng.

b. Bác chỉ ra “cổ thi” “thiên ái” cái đẹp của thiên nhiên nhƣng

chính “yêu thiên nhiên” là một trong những tình cảm lớn của Ngƣời.

Tình cảm thiên nhiên ở thơ Bác giống và khác tình cảm thiên nhiên

trong thơ Đƣờng nhƣ thế nào, không ít ngƣời đã chỉ ra, nhƣng đó vẫn

còn là vấn đề cần làm rõ thêm và phân tích sâu hơn. Haiku cũng là sản

phẩm của thơ ca trung đại phƣơng Đông, nhƣng chỉ nêu lên vài điểm

ở trên, ta đã thấy thiên nhiên ở đó khác với thiên nhiên ở thơ Đƣờng

biết dƣờng nào. Ngoài việc so sánh với tình cảm thiên nhiên trong thơ

Đƣờng, ta cần phải liên hệ với cả tình cảm thiên nhiên trong thơ ca cổ

điển Việt Nam và cả tƣ tƣởng về vũ trụ, về triết lí nhân sinh của các

tác giả tiền bối của Việt Nam nữa. Đọc bài Cảnh khuya Bác sáng tác ở

Việt Bắc, ta không thể không liên hệ với 4 câu thơ rất nổi tiếng trong

Chinh phụ ngâm: “Hoa dãi nguyệt nguyệt in từng tấm…”. Cả hai đều

có hình ảnh trăng và hoa lồng vào nhau, nhƣng ở Chinh phụ ngâm

cảnh chỉ có 2 tầng, trong thơ Bác có đến 3 tầng, hơn thế, không chỉ có

trăng, hoa mà còn có cả “suối trong”, “cổ thụ”, đặc trƣng của núi rừng

Việt Bắc, không chỉ có hoạ mà còn có cả “nhạc”. Không phải ngẫu

nhiên, cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng, một chiến hữu rất gần gũi với

Page 192: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

192 | GS. Nguyễn Khắc Phi

Bác, đã nói: “Hai ngƣời bạn đời luôn luôn cùng sống với Bác là con

ngƣời và thiên nhiên.” Và khi nói tới tình cảm thiên nhiên của Bác,

Phạm Văn Đồng đã nhắc tới 2 câu thơ của Nguyễn Công Trứ:

Gió trăng chứa một thuyền đầy

Của kho vô tận biết ngày nào vơi

Và kết luận: “Hai câu thơ từ hàng trăm năm trƣớc rất phù hợp

với khung cảnh sống và lối sống của Hồ Chí Minh, thể hiện nguyện

vọng và xu hƣớng của cuộc sống văn minh chân chính” (Hồ Chí

Minh một con ngƣời một dân tộc một thời đại một sự nghiệp, NXB

Sự Thật, H, 1990. trang 72 – 73)

c. Chắc chẳng có ngƣời Mĩ nào dám nói và muốn nói răng “Haiku

là một thể thơ dân tộc” của Mỹ hay Pháp, dù thơ Haiku đã du nhập vào

2 nƣớc này từ lâu, song với thể thơ Đƣờng luật, tôi không hề muốn nói

đó là một thể thơ ngoại nhập mà đã không ít lần khẳng định dứt khoát

rằng đó là một thể thơ dân tộc có nguồn gốc ở ngoài đã đƣợc dân tộc

hoá triệt để. Trong một cuộc Hội thảo tính dân tộc trong âm nhạc do Bộ

Văn hoá tổ chức cách đây hơn nửa thế kỉ có đồng chí Trƣờng Chinh

tham dự, anh Đỗ Nhuận đã phát biểu một ý kiến rất hay mà tôi còn nhớ

mãi: “Tính dân tộc là cái gì đó mang tính ổn định nhƣng đồng thời

trong đó cũng luôn có những mặt thay đổi, biến hoá. Có một số yếu tố

vốn là của dân tộc nhƣng qua thời gian trở nên lỗi thời và sẽ mất đi,

song lại có những yếu tố ngoại lai, sau khi du nhập do hợp với thuỷ thổ

đã trở thành của dân tộc. Tempo Di Marcia là nhạc du nhập từ phƣơng

Tây nhƣng không thể gọi Hành quân xa của tôi là nhạc Tây!”. Bởi vậy,

trong cuộc Hội thảo hôm nay, trong thành phần Ban Tổ chức, tôi đặc

biệt hoan nghênh sự có mặt của Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát

huy Văn hoá dân tộc. Con ngƣời Việt Nam đã có ý thức và đã biết từng

bƣớc dân tộc hoá thể thơ Đƣờng luật từ thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh

Khiêm, và đến thời hiện đại, việc Bác Hồ sử dụng một cách sáng tạo

thể thơ đó là một cột mốc sáng chói. Trên dây là một số luận điểm tôi

đã triển khai trong một bài viết sẽ đƣợc đăng tải nay mai: Định vị Thơ

Đƣờng luật trong lịch sử văn học dân tộc.

NKP

Page 193: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

THƠ ĐƯỜNG LUẬT CHỮ HÁN CÛA

CHÛ TỊCH HỒ CHÍ MINH

TS. Nguyễn Minh San

Tạp chí Văn hiến Việt Nam

Xuất thân trong một gia đình khoa bảng Nho học (thân phụ đỗ

Phó bảng), ngay từ nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đƣợc học chữ Hán

một cách cơ bản trong trƣờng học ở Kinh đô Huế, thƣờng xuyên đƣợc

tiếp xúc, nghe các cuộc đàm đạo văn thơ, trong đó chủ yếu là thể thơ

Đƣờng luật - một thể thơ của Trung Quốc du nhập vào nƣớc ta từ

nghìn năm trƣớc - của những bậc túc Nho, giỏi văn thơ, chữ nghĩa, có

chí khí cách mạng và tƣ tƣởng thân dân ở Kinh thành. Với trí thông

minh thiên bẩm, có thể khẳng định, Hồ Chí Minh đã lĩnh hội đƣợc cái

hay, cái đẹp cũng nhƣ những yêu cầu nghiêm ngặt của thể thơ Đƣờng

luật. Để rồi, cái vốn tri thức ấy nhƣ những đốm lửa hồng chỉ chờ một

ngọn gió là thổi bùng lên thành những ngọn lửa rực hồng của sáng tạo

thi ca trong Hồ Chí Minh. Và, ngọn gió ấy đã thổi. Đó là khi Hồ Chí

Minh dấn thân vào con đƣờng hoạt động cách mạng với bao gian khổ,

tù đày để thành lập Đảng tiên phong, lãnh đạo đất nƣớc làm Cách

mạng tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh nƣớc Việt Nam dân

chủ cộng hòa. Và, mặc dù “Ngâm thơ ta vốn không ham….”, nhƣng

trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời một di sản thơ

Đƣờng luật khá lớn, với nội dung thấm đẫm tƣ tƣởng nhân văn, và thể

hiện sự tìm tòi, sáng tạo trong vận dụng/sử dụng thể thơ Đƣờng luật.

Không chỉ làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, mà còn làm thơ

Đƣờng luật bằng cả chữ Quốc ngữ - chữ viết của ngƣời Việt Nam.

Điều quan trọng là, dù thể hiện bằng ngôn ngữ nào, thơ Đƣờng luật

Page 194: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

194 | TS. Nguyễn Minh San

của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ đƣợc những yêu cầu cơ bản, khắt

khe của thể thơ này và chuyển tải đƣợc tâm hồn, cốt cách của một nhà

thơ hiện đại, cách mạng Việt Nam. Trong khuôn khổ một tham luận,

tôi chỉ xin đi vào tìm hiểu di sản thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ

Chí Minh.

1. Tổng quan về di sản thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Chủ

tịch Hồ Chí Minh

1.1. Thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm ở Việt Nam

Bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán làm ở Việt Nam đầu tiên của

Hồ Chí Minh là bài Thƣợng Sơn (Lên núi), làm ngày 24/6/1942, tại

Lũng Dẻ, tỉnh Cao Bằng. Thời gian này, Hồ Chí Minh đang chuẩn bị

cho chuyến đi Trung Quốc – chuyến đi mà Ngƣời đã bị Quốc dân

Đảng Trung Quốc bắt và giam giữ từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu

năm 1943. Bài thơ nhƣ sau:

Lục nguyệt nhị thập tứ,

Thƣớng đáo thử sơn lai.

Cử đầu hồng nhật cận,

Đối ngạn nhất chi mai.

Dịch thơ (Tố Hữu dịch):

Hai mƣơi tƣ tháng sáu,

Lên ngọn núi này chơi.

Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,

Bên suối một nhành mai”.

Sau bài thơ này, phải hơn 5 năm sau, vào đầu năm 1948, Ngƣời

mới tiếp tục làm thơ theo thể Đƣờng luật bằng chữ Hán ngay trên Tổ

quốc mình. Đó là bài Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng):

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.

Page 195: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 195

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Dịch thơ (Xuân Thủy dịch):

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nƣớc lẫn màu trời thêm xuân,

Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Trong năm 1948, Hồ Chí Minh còn làm 4 bài thơ Đƣờng luật bằng

chữ Hán trong thời gian Ngƣời hoạt động ở Việt Bắc, là: Báo tiệp (Tin

thắng trận, viết năm 1948), Tặng Bùi Công (tặng cụ Bùi Bằng Đoàn,

viết năm 1948); Thu dạ (Đêm thu) viết năm 1948; Tặng võ công

(19948). Từ năm 1950 cho đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp

thắng lợi, năm 1954, Hồ Chí Minh làm 8 bài thơ thể Đƣờng luật bằng

chữ Hán ở Việt Nam, là: Vô đề (Không đề) viết năm 1950; Tƣ chiến sĩ

(Nhớ chiến sĩ), viết năm 1950; Đối nguyệt (Đối trăng) viết năm 1950;

Đăng sơn (Lên núi) viết năm 1950; Thất cửu (Sáu mƣơi ba tuổi), viết

năm 1953; Tầm hữu vị ngộ (Tìm bạn không gặp) viết năm 1954.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnev về lập lại hòa

bình ở Việt Nam đƣợc ký kết, miền Bắc đƣợc hƣởng hòa bình, tự do,

tiến lên chủ nghĩa xã hội. Song, bẵng đi một thời gian dài, khoảng trên

dƣới 14 năm, Hồ Chí Minh không làm một bài thơ Đƣờng luật chữ

Hán nào ở Việt Nam. Mãi đến tháng 3 năm 1968, Hồ Chí Minh mới

viết liền hai bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, là: Nhị vật (Hai chớ) và

Vô đề (Không đề). Đó là hai bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán cuối

cùng của Hồ Chí Minh làm ở Việt Nam.

Nhƣ vậy, di sản thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm ở

Việt Nam có tổng cộng 13 bài.

1.2. Thơ Đường luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm trên đất

Trung Quốc

Hồ Chí Minh làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán trên đất Trung

Quốc trong 2 trƣờng hợp: Thứ nhất, Hồ Chí Minh làm trong hoàn

Page 196: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

196 | TS. Nguyễn Minh San

cảnh bị tù đầy trong nhà lao của Tƣởng Giới Thạch; Thứ hai, Hồ Chí

Minh làm khi là Thƣợng khách của Đảng và Nhà nƣớc Trung Quốc.

1.2.1. Thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm trong hoàn

cảnh bị tù đầy trong nhà lao của Tƣởng Giới Thạch.

Tháng 8 năm 1942, thay mặt Trung ƣơng Đảng với tƣ cách “Đại

biểu dân Việt Nam” lấy tên là Hồ Chí Minh, Bác sang Trung Quốc để

liên lạc với các lực lƣợng cách mạng của ngƣời Việt Nam tại đó. Vừa

qua biên giới, Bác đã bị chính quyền địa phƣơng của Tƣởng Giới

Thạch bắt và giam cầm hơn 1 năm trong các nhà tù của Tƣởng Giới

Thạch trên đất Trung Quốc.

“Trang” Nhật ký trong tù đầu tiên bằng thơ theo thể Đƣờng luật

bằng chữ Hán đƣợc Hồ Chí Minh “ngâm” vào ngày 29/8/1942, khi

lính Tƣởng tống Hồ Chí Minh vào nhà lao huyện Tĩnh Tây (đây là nhà

lao đầu tiên trên đất Trung Quốc giam giữ Hồ Chí Minh), là bài “Nhập

Tĩnh Tây huyện ngục” (Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây):

Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm

Thiên thƣợng tình vân trục vũ vân;

Tình, vũ phù vân phi khứ liễu,

Ngục trung lƣu trú tự do nhân.

Dịch thơ:

Trong lao tù cũ đón tù mới,

Trên trời mây tạnh đuổi mây mƣa;

Mây mƣa, mây tạnh bay đi hết,

Còn lại trong tù khách tự do.

“Trang” Nhật kỳ trong tù cuối cùng, cũng đƣợc Hồ Chí Minh viết

bằng thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, ngày 10/9/1943 cũng là ngày cuối

cùng Hồ Chí Minh bị giam cầm, sau này khi làm sách, bài này lấy đặt

tiêu đề là bài Kết luận:

Page 197: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 197

Hạnh ngộ anh minh Hầu Chủ nhiệm,

Nhĩ kim hựu thị tự do nhân;

Ngục trung nhật ký tong kim chỉ,

Thâm tạ Hầu công tái tạo ân.

Dịch thơ:

Sáng suốt, nhờ ơn Hầu Chủ nhiệm,

Tự do trở lại với ta rồi;

Ngục trung nhật ký từ đây dứt,

Tái tạo ơn sâu, cảm tạ ngƣời.

Trong khoảng thời gian từ ngày 29/8/1942 đến ngày 10/9/1943/vị

chi khoảng 12 tháng rƣỡi bị giam cầm, giải tới giải lui hết nhà lao này

đến nhà tù khác ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã phải “ngâm”/ phải

làm/ phải viết tổng cộng 109 bài nhật ký bằng chữ Hán theo thể thơ

Đƣờng luật.

1.2.2. Thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán Hồ Chí Minh làm khi là Thƣợng

khách của Đảng CS Trung Quốc và Nƣớc CHND Trung Hoa.

Nếu hoàn cảnh làm thơ nói theo Hồ Chí Minh là “ngâm thơ” Nhật

ký trong tù của Hồ Chí Minh là bắt buộc, Hồ Chí Minh làm tới 109

bài, thì bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán đầu tiên trên đất Trung Quốc

khi Ngƣời đƣợc trả tự do là bài: “Tân xuất ngục học đăng sơn” (Mới

ra tù, tập leo núi):

Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,

Giang tâm nhƣ kính tịnh vô trần;

Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh,

Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.

Dịch thơ:

Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,

Lòng sông gƣơng sáng bụi không mờ;

Bồi hồi dạo bƣớc Tây Phong lĩnh,

Trông lại trời Nam, nhớ bạn xƣa.

Page 198: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

198 | TS. Nguyễn Minh San

Sau khi thoát khỏi ngục tù Tƣởng Giới Thạch (sau ngày

10/9/1943), Hồ Chí Minh còn ở lại trên đất Trung Quốc mấy tháng,

song Ngƣời không làm một bài thơ nào.

Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành

công, Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng

hòa, lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, rồi công

cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam,

thống nhất đất nƣớc, trên cƣơng vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nƣớc,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều chuyến đi thăm và đi nghỉ dƣỡng

bệnh ở Trung Quốc theo lời mời của lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc

Trung Quốc. Trong bối cảnh mới, tƣ cách là Thƣợng khách, trên đất

Trung Quốc, hầu nhƣ đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có thơ

vịnh cảnh bằng chữ Hán theo thể thơ Đƣờng luật để tặng cho những

nơi có danh lam thắng cảnh đó. Trong di sản thơ này, có thể kể đến

các bài sau: “Quá Hồ Bắc” (làm ngày 12/3/1950, khi Bác đi qua tỉnh

Hồ Bắc, nhìn thấy đồng lúa xanh); “Thập tam tảo quá Trƣờng Sa”

(làm ngày 13/3/1950); “Cận Long Châu” (Long Châu, một huyện của

tỉnh Quảng Tây), làm ngày 19/3/1950; “Vạn Lý Trƣờng Thành” (làm

ngày 6/7/1955, ghi lại cảm tƣởng về công trình vĩ đại Vạn Lý Trƣờng

Thành); Phong cảnh Quế Lâm (làm tháng 5/1961); “Vịnh Thái Hồ”

(làm ngày 17/5/1961, khi Bác ngồi thuyền du ngoạn Thái Hồ - một

thắng cảnh gồm 91 hòn đảo, thuộc Tây Hồ, tỉnh Giang Tô); “Phỏng

Khúc Phụ” (Thăm Khúc Phụ), làm ngày 19/5/1965, khi Bác Hồ thăm

Khúc Phụ, quê Khổng Tử;…

Trong những lần sang thăm và nghỉ dƣỡng ở Trung Quốc, không

ít lần, lãnh đạo Trung Nam Hải cũng đã làm thơ tặng Bác. Nhận đƣợc

thơ tặng, bao giờ Bác cũng làm thơ họa/tặng lại. Ví nhƣ, trong chuyến

Bác đi nghỉ dƣỡng từ ngày 21/5 đến ngày 8/6/1965, ở Hoàng Sơn -

khu du lịch và điều dƣỡng nổi tiếng ở tỉnh An Huy, Trung Quốc. Cùng

đi với Ngƣời có đồng chí Đổng Tất Vũ - Phó Chủ tịch nƣớc CHND

Trung Hoa. Tại Nhà khách của Hoàng Sơn, Phó Chủ tịch Đổng làm

Page 199: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 199

bài thơ Thất ngôn “Từ giã Hoàng Sơn” (gồm 4 khổ) tặng Chủ tịch Hồ

Chí Minh. Ngay lập tức Bác viết chùm thơ bằng chữ Hán “Hoàng Sơn

nhật ký lục thủ” (Dịch: Hoàng Sơn nhật ký, 6 bài) tặng Phó Chủ tịch

Đổng. Chùm thơ 6 bài thể Tứ tuyệt, thất ngôn. Bài 1, Bác ca ngợi

Hoàng Sơn công xã nhiều trà, vị trà dịu mát, đậm hƣơng; Bài 2, Bác

ca ngợi các cháu thiếu nhi ở Hoàng Sơn thật là ngoan, tình cảm quí

mến Bác Hồ; bài 3, Bác ca ngợi cảnh núi Hoàng Sơn rất đẹp, đêm

nghe tiếng suối, hòa tiếng chim; bài 5, Bác ca ngợi tỉnh An Huy, nơi

nuôi dƣỡng các hào kiệt Tân Tứ quân, ca ngợi công nhân An Huy; bài

6, Bác ca ngợi địa phƣơng đã đón tiếp Bác chân tình. Đáng chú ý là

bài thứ 4, Bác viết:

“Đổng công tặng ngã dĩ trƣờng thi,

Ngã dục tác thi phụng họa thi.

Khả thị kháng Mỹ cứu quốc sự,

Hoàn toàn chiếm lĩnh ngã tâm ti (tƣ)

Dịch thơ:

Cụ Đổng tặng tôi bài thơ dài,

Tôi muốn làm thơ họa lại Ngƣời.

Nhƣng việc nƣớc nhà đang chống Mỹ,

Hoàn toàn chiếm trọn trái tim tôi”.

(Bản dịch của Phan Văn Các)

2. Mấy nhận xét về thơ Đường luật bằng chữ Hán của Chủ tịch

Hồ Chí Minh

2.1. Là ngƣời học chữ Hán từ nhỏ, lại có tâm hồn thi ca, nên Hồ

Chí Minh làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán nhƣ các nhà thơ ở quê

hƣơng của thể thơ này là điều không khó khăn lắm. Trong cuộc đời

hoạt động cách mạng trƣớc khi lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm

1945 thành công cũng nhƣ trong thời kỳ lãnh đạo nhân dân ta tiến

hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã nhiều lần đến Trung Quốc, có nhiều năm sống và hoạt động

trên đất Trung Quốc. Từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc với tên Lý Thụy,

Page 200: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

200 | TS. Nguyễn Minh San

đã đến Quảng Châu, làm phiên dịch cho phái đoàn Cố vấn Chính phủ

Liên Xô. Tại đây, Bác đã bắt đầu bắt liên lạc với những ngƣời yêu

nƣớc Việt Nam. Năm 1939, Bác đã ở Văn phòng Bát lộ quân Trùng

Khánh, tại thôn Hồng Nham, thành phố Trùng Khánh. Đầu năm 1940,

Bác đã đến thăm một số cơ sở cách mạng ở nhà ga xe lửa Khai Viễn ở

Vân Nam. Đầu tháng 3 năm 1940, Bác đã sống ở Côn Minh, tỉnh Vân

Nam (trong nhà vợ chồng ông Tống Minh Phƣơng, một Việt kiều yêu

nƣớc). Tháng 4 năm 1941, Bác đã nhiều lần đi lại Tĩnh Tây, tỉnh

Quảng Tây,…Nhƣng trong suốt thời gian dài gần 20 năm này, Chủ

tịch Hồ Chí Minh không làm một bài thơ thể Đƣờng luật bằng chữ

Hán nào. Mãi đến ngày 24/6/1942, khi đã 52 tuổi, Ngƣời mới làm bài

thơ Đƣờng luật đầu tiên bằng chữ Hán, bài Thƣợng Sơn (Lên núi), đã

nói đến ở trên.

Qua di sản thơ Đƣờng luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta thấy số

lƣợng bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh khá lớn.

Chỉ tính trong tuyển tập Hồ Chí Minh – thơ Tứ tuyệt (Nxb Giáo dục,

Hà Nội, 2007) do GS Hà Minh Đức tuyển chọn và giới thiệu, cả tập có

131 bài, thì có tới 124 bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, chỉ có 7 bài

là thơ Đƣờng luật bằng chữ Quốc ngữ. Và, trong di sản thơ Đƣờng

luật viết bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh, số bài thơ Chủ tịch Hồ Chí

Minh làm trên đất Trung Quốc nhiều hơn số bài thơ Hồ Chí Minh làm

ở Việt Nam. Cụ thể, trong tuyển thơ Hồ Chí Minh – thơ Tứ tuyệt nhắc

đến trên đây, trong số 124 bài thơ Tứ tuyệt in trong tập này, chỉ có

13/124 bài Chủ tịch Hồ Chí Minh làm khi ở Việt Nam/trên đất Việt

Nam, còn đa số bài (111/124) Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trên đất

Trung Quốc. Và, trong số 111 bài thơ Đƣờng luật làm bằng chữ Hán

trên đất Trung Quốc ấy, tuyệt đại đa số Hồ Chí Minh làm bắt buộc

“nhƣng mà trong ngục biết làm chi đây” khi ở trong nhà tù của Trung

Quốc (109/111 bài).

Điều đó cho thấy, không phải lúc nào và ở đâu Hồ Chí Minh cũng

sử dụng chữ Hán, cũng làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán. Hồ Chí

Minh chỉ làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán trong 2 trƣờng hợp.

Page 201: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 201

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn chữ Hán làm thể thơ

Đƣờng luật những khi cần gửi gắm/ thể hiện những ý tƣởng sâu xa về

cách mạng, những nhận định, đánh giá về sự vật, hiện tƣợng hoặc khi

cần bộc lộ/bày tỏ cảm xúc, ý chí của mình trƣớc con ngƣời và thiên

nhiên. Nói cách khác, Hồ Chí Minh chọn chữ Hán và thể thơ Đƣờng

luật để làm thơ trữ tình/tự sự. Với yếu tính cô đọng, hàm súc của chữ

Hán và yêu cầu niêm luật chặt chẽ của thể thơ Đƣờng luật sẽ là

phƣơng tiện chuyển tải tốt nhất yêu cầu của thơ trữ tình/ tự sự trên đây

của nhà thơ. Trƣờng hợp làm thơ này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đúng

với cả những bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán làm trên đất Trung

Quốc và trên đất Việt Nam. Và cũng cho thấy rất ít khi Chủ tịch Hồ

Chí Minh làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán khi ở Việt Nam, và giải

thích vì sao thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán làm ở Việt Nam ít hơn

nhiều số bài thơ cùng loại làm trên đất Trung Quốc.

Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn/ sử dụng chữ Hán và/ để làm

thơ thể Đƣờng luật trong bối cảnh Ngƣời phải cần đến ngôn ngữ này,

cần đến thể thơ Đƣờng luật này để che mắt địch, để đấu tranh với

ngoại cảnh, để chiến thắng bản thân, vƣợt lên sự hà khắc của nhà tù

Trung Quốc khi Ngƣời bị cầm tù; Và, trong bối cảnh Ngƣời phải cần

đến ngôn ngữ này, cần đến thể thơ Đƣờng luật này, cần phải vận dụng

tất cả sự hiểu biết Hán học của mình, phải vận dụng tri thức, hiểu biết

văn hóa và con ngƣời Trung Quốc để làm công tác đối ngoại với Nƣớc

Bạn, với các Đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, với nhân

dân Trung Quốc, khi Ngƣời là Thƣợng khách của Trung Quốc.

Ngoài tiếng mẹ đẻ, Hồ Chí Minh giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, …,

nhƣng khi ở trên đất Trung Quốc, Ngƣời biết rõ lợi thế của việc sử

dụng những ngôn ngữ bản địa để làm việc, đặc biệt là làm thơ, thì mới

dễ dàng trong công việc và nhận đƣợc sự trân trọng, đánh giá cao của

nƣớc sở tại. Hồ Chí Minh không thể không biết trong lịch sử ngoại

giao Việt Nam – Trung Quốc thời phong kiến, khi sứ giả Việt Nam

qua Trung Quốc, hoặc khi sứ giả Trung Quốc sang Việt Nam, ngƣời

Trung Quốc thƣờng cậy mình là quê hƣơng Nho học, coi thƣờng sứ

Page 202: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

202 | TS. Nguyễn Minh San

giả các nƣớc, thƣờng khoe tài làm thơ, ra câu đối thách sứ giả Việt

Nam đối thơ, đối chữ. Nếu sứ giả không đối thơ, đối chữ đƣợc, là làm

thấp uy tín quốc gia. Vì thế, các triều đại phong kiến nƣớc ta bao giờ

cũng chọn những ngƣời, ngoài lòng yêu nƣớc, sự trung thành với triều

đình, có sức khỏe, thì phải giỏi chữ nghĩa (Hán), giỏi ứng phó, tài làm

thơ, câu đối. Và, những ngƣời đƣợc cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc

chƣa bào giờ làm sỉ nhục nƣớc nhà. Đồng thời, là một nhà cách mạng,

một chiến sĩ quốc tế đấu tranh cho hòa bình thế giới, Hồ Chí Minh hiểu

rất rõ tâm lý dân tộc, và sức mạnh của vũ khí ngôn ngữ bản địa khi

mình sống và hoạt động ở nƣớc ngoài. Vì thế, khi ở Trung Quốc, dù là

thân phận ngƣời tù đầy, hay khi là Thƣợng khách của Đảng và Nhà

nƣớc Trung Hoa, chữ Hán đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng triệt để

và vô cùng hữu hiệu nhƣ một công cụ hỗ trợ đắc lực, mang lại hiệu quả

cao trong hoạt động cách mạng trên đất Trung Quốc, trong đấu tranh

đòi tự do cho mình và trong ngoại giao. Tất cả, không phải để khoe văn

hay chữ tốt của mình, nhằm đề cao mình mà, tất cả đều nhằm đề cao tài

năng, khí phách con ngƣời Việt Nam. Tất cả, với Hồ Chí Minh, chỉ xem

nó nhƣ một phƣơng tiện, một công cụ để Ngƣời đạt đến mục đích cao

cả của mình.

Thơ Đƣờng là di sản văn hóa, niềm tự hào của Trung Quốc. Ngay

ở Trung Quốc, không phải nhà thơ nào cũng có thể làm thơ Đƣờng

luật. Vì thế, những ai làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán, đặc biệt là

ngƣời nƣớc ngoài đều đƣợc trân trọng, vị nể. Hồ Chí Minh đã làm cho

ngƣời Trung Quốc, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trí thức, văn nghệ

sĩ kính trọng, nể phục về trình độ Hán ngữ và am hiểu văn hóa, phong

tục Trung Hoa; trong đó, đỉnh cao là làm thơ Đƣờng bằng chữ Hán,

mà tiêu biểu cho di sản văn hóa này là Nhật ký trong tù. Khi bị tù đầy

trong nhà lao của Tƣởng Giới Thạch, dù chịu vô vàn khổ cực cả tinh

thần và thể xác, Hồ Chí Minh tự nhủ, cũng là tự xác định với mình:

“Thân thể ở trong lao/Tinh thần ở ngoài lao/Muốn nên sự nghiệp

lớn/Tinh thần càng phải cao”. Đó là tinh thần vô cùng kiên định, tinh

thần lạc quan cách mạng, không kể gì hiểm nguy, không kể gì sống

Page 203: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 203

chết, tinh thần bay bổng trong trời đất cách mạng bao la, thở cùng

một nhịp, cùng chung mạch máu với nhân dân, kiên quyết tin tƣởng

sự nghiệp cách mạng của nhân dân nhất định thắng lợi. Điều ấy toát

ra từ những câu, chữ ý nhị, hóm hỉnh, trào phúng chan chứa trong tất

cả hơn một trăm bài thơ của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã lấy tai

nạn, khó khăn gian khổ trong tù để rèn luyện bản thân: “Nghĩ mình

trong bƣớc gian truân/Tai ƣơng rèn luyện tinh thần thêm hăng”. Nhờ

“vừa ngâm/thơ, vừa đợi”, Ngƣời đã vƣợt qua hết thảy, đến đƣợc với

ngày tự do.

Chính vì vậy, ngƣời Trung Quốc khâm phục, đánh giá cao trình

độ Hán văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khâm phục, đánh giá cao thơ

Đƣờng luật của Ngƣời. Ngay từ năm 1956, trƣớc khi Nhật ký trong tù

đƣợc dịch ra tiếng Việt và xuất bản ở Việt Nam năm 1961, nhà thơ lớn

của Trung Quốc là Viên Ƣng đã viết về tập thơ Nhật ký trong tù:

“Trong tập sách nhỏ gồm hơn một trăm ba mƣơi bài thơ cổ Trung

Quốc không những chúng ta đƣợc thấy lại bộ mặt tàn khốc đen tối của

nhà tù Trung Quốc mà chúng ta còn đƣợc gặp một tâm hồn vĩ đại của

một nhà ái quốc, một tâm hồn vĩ đại của bậc đại trí, đại nhân, đại

dũng. Khi tôi giở đọc tập Nhật ký trong tù, lòng tôi xúc động vô cùng.

Tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó đã tỏa ra ánh sáng chói ngời trong một

hoàn cảnh tối tăm, trong những ngày tháng tối tăm. Bác Hồ là một

nhà thơ lớn” (Trích theo Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 301-302). Năm 1960, Quách Mạt

Nhƣợc, một học giả - nhà văn lớn, ngƣời đứng đầu ngành VHNT

Trung Quốc thời gian này, khi đọc nguyên tác Nhật ký trong tù, những

bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh, đã viết: “Tập thơ ấy

tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần, đó không đơn thuần là thơ mà là một bộ

sử thi, là một bức tranh tự họa hoặc một thiên tự truyện bằng thơ của

một nhà cách mạng. Hơn một trăm bài thơ đó, hầu nhƣ mỗi bài đều thể

hiện một cách sống con ngƣời đồng chí Hồ Chí Minh, một vị lão thành

cách mạng lịch duyệt, thông thái, ung dung chất phác mà kiên nghị. Quả

thật thơ chính là ngƣời”. (Trích theo Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù,

Page 204: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

204 | TS. Nguyễn Minh San

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 301-302). Ông nhấn mạnh tinh

thần vô cùng kiên định, tinh thần lạc quan cách mạng “không kể gì hiểm

nguy, không kể gì sống chết, tinh thần bay bổng trong trời đất cách mạng

bao la, thở cùng một nhịp, cùng chung mạch máu với nhân dân, kiên

quyết tin tƣởng sự nghiệp cách mạng của nhân dân nhất định thắng lợi...

Sự ý nhị, trào phúng chan chứa trong tất cả hơn một trăm bài thơ, cho

thấy Hồ Chí Minh “Sự lạc quan khiến đổng chí lấy tai nạn trƣớc mắt làm

sự rèn luyện bản thân: Nghĩ mình trong bƣớc gian truân/Tai ƣơng rèn

luyện tinh thần thêm hăng” (Trích theo Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 301-302). Chính Quách Mạt

Nhƣợc đã nhận xét về thơ chữ Hán Đƣờng luật của Bác: “Có một số bài

rất hay, nếu nhƣ đặt vào một tập thơ của thi nhân Đƣờng Tống thì khó

phân biệt”.

2.2. Thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh, mà ở đây là

tập Nhật ký trong tù là tập thơ Đƣờng luật duy nhất trên thế giới đƣợc

dịch ra nhiều ngôn ngữ/thứ tiếng nhất. Tính đến nay, tác phẩm này đã

đƣợc dịch ra hơn 30 thứ tiếng, hầu hết các thứ tiếng phổ biến ở châu

Âu (Anh, Pháp, Nga, Đức, Italya, Bồ Đào Nha, Tây ban nha, Hy Lạp,

Ba Lan, Séc, Slovalia, Hunggari, Rumani, Khorvat (Nam tƣ cũ),

Beloruxia,…; Các thứ tiếng Bắc Âu (Đan Mạch, Thụy Điển,…; Tiếng

Ả rập ở châu Phi; đặc bietj các thứ tiếng châu Á: Lào, Thái Lan, Nhật

Bản, Hàn Quốc, Mianma, Mông Cổ, Xrilanca, Begal, Karala, Tamil

(Ấn Độ), Kazatan,…; và Quốc tế ngữ. tới hơn 30 thứ tiếng.

Điều giá trị hơn là, “Ngƣời dịch tác phẩm Nhật ký trong tù của

Chủ tịch Hồ Chí Minh sang các thứ tiếng nƣớc ngoài, trƣớc hết đều là

những ngƣời tiên tiến của thời đại, các trí thức, các nhà thơ, mang

một hoài bão lớn, hƣớng tới cái thiện, cái mỹ, nhiều ngƣời trực tiếp

dấn thân vào con đƣờng đấu tranh cho hạnh phúc nhân dân, khao

khát thể hiện ý chí giải phóng con ngƣời, tìm đến tự do chân lý…”.

(Thúy Toàn – Sức lan tỏa của thi ca và cuộc đời Hồ Chí Minh, Nxb

Văn học, Hà Nội 2014, tr 23).

Page 205: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 205

Đây là một kỷ lục mà, ngay cả hơn một nghìn năm lịch sử của

Đƣờng thi cũng chƣa có ai có đƣợc.

2.3. Hồ Chí Minh là một nhà thơ tài ba, đó là điều đã đƣợc khẳng

định. Song, nói HCM “làm thơ”, theo tôi là chỉ đúng một phần, và

đúng với một số bài. Còn, với tập thơ Nhật ký trong tù, nói chính xác

là HCM “làm thơ” theo cách “ngâm thơ” (trƣờng hợp một số bài thơ

trong Nhật ký trong tù), “vịnh cảnh” trƣớc, sau đó đích thân Ngƣời ghi

lại văn bản hóa trên giấy trắng mực đen.

Mặc dù trong tập Nhật ký trong tù, có bố cục chặt chẽ, với Bài

đề từ:

Thân thể tại ngục trung,

Tinh thần tại ngục ngoại;

Dục thành đại sự nghiệp,

Tinh thần cảnh yếu đại.

Dịch thơ:

Thân thể ở trong lao,

Tinh than ở ngoài lao;

Muốn nên sự nghiệp lớn,

Tinh thần càng phải cao.

Tiếp sau đó là bài thơ đƣợc đặt cái tên nhƣ một sự có chủ ý trƣớc:

Khai quyển:

Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,

Nhân vị tù trung vô sở vi;

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,

Thả ngâm thả đãi tự do thì.

Dịch thơ:

Ngâm thơ ta vốn không ham,

Nhƣng mà trong ngục biết làm chi đây?

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.

Page 206: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

206 | TS. Nguyễn Minh San

Nhƣng theo tôi thì, “Trang” Nhật ký trong tù đầu tiên bằng thơ

theo thể Đƣờng luật bằng chữ Hán không phải đƣợc Hồ Chí Minh

làm/ sáng tác có chủ ý, mà là “ngâm” vào ngày 29/8/1942, khi lính

Tƣởng tống Hồ Chí Minh vào nhà lao huyện Tĩnh Tây (đây là nhà lao

đầu tiên trên đất Trung Quốc giam giữ Hồ Chí Minh), là bài “Nhập

Tĩnh Tây huyện ngục” (Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây). Hồ Chí Minh

dùng từ “Ngâm thi”/ “Ngâm thơ”, mà không dùng từ “làm thơ”, “sáng

tác thơ”. Điều này rất đúng trên hai phƣơng diện. Một là, Bác bị bắt,

bị giam trong nhà tù, làm gì có giấy bút để mà ngồi “làm thơ”. Hai là,

trong bối cảnh bị giam cầm và chịu cảnh đày đọa khốn cùng, đói khát

đó, chỉ có những lời mình nhủ với mình, mình dặn mình, mình hứa

quyết tâm với mình là phải cố gắng lên, thì “ngâm”, một hành động

không thể ngồi im một chỗ, mà vừa đi đi, lại lại, vừa vuốt râu, vừa nói

ra một điều gì đó. Và với tâm hồn thơ, tài thơ của HCM, thì đó là thơ,

là ngâm lên những câu thơ tự sự phản ánh thái độ của mình với mình,

với xung quanh, hứa với mình:

Thân thể tại ngục trung,

Tinh thần tại ngục ngoại;

Dục thành đại sự nghiệp,

Tinh thần cảnh yếu đại.

Dịch thơ:

Thân thể ở trong lao,

Tinh than ở ngoài lao;

Muốn nên sự nghiệp lớn,

Tinh thần càng phải cao.

Và trong bối cảnh nay giải đi nhà tù này, mai giải đi nhà lao khác

14 tháng trời, không biết ngày nào đƣợc thả, và ngay cả tính mệnh

cũng không thể đoán định là sống chết ra sao, HCM cũng không có ý

định/ mục đích làm thơ để in thành tập Nhật ký trong tù. Những trang

nhật ký bằng thơ đó cứ ra đời một cách ngẫu nhiên, tự nhiên nhƣ một

sự phản ứng tức thì “xuất khẩu thành thơ”, không chuẩn bị, không chủ

Page 207: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 207

định, tuần tự theo ngày tháng, ngày nào cũng “ngâm thơ”, trên đƣờng

đi, cũng “ngâm thơ”, còn sống ngày nào còn “ngâm thơ” ngày ấy, để

“đợi ngày mai”, cho đến ngày Bác đƣợc thả tự do. Sau này, khi có

điều kiện Hồ Chí Minh mới tập hợp những bài thơ mà tác giả của nó

đã “ngâm” trong những tháng ngày tù đày, hoàn thiện cuốn Nhật ký.

Nhờ thế, chúng ta mới có tập thơ Nhật ký trong tù có bố cục chặt chẽ:

có bài đề từ, có bài khai quyển, có bài kết luận.

2.4. Thơ Đƣờng là thể tài đã có một thi pháp riêng, qua những

niêm luật chặt chẽ từ ngàn xƣa (ví nhƣ thơ Tứ tuyệt, chỉ có 28 chữ,

chia đều cho 4 câu). Do Đƣờng thi đã in sâu trong tiềm/tâm thức, do

đã nắm vững thi pháp, niêm luật đó, nên, mặc dù chỉ là “ngâm thơ”

thôi, chỉ là khi thi hứng dâng trào (“thi hứng cũng vừa toan cất bút…”,

thì thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh vẫn rất đúng luật

thơ Đƣờng. Song, qua những vần thơ “ngâm” lên trong tù ấy (hay bởi

vì là thơ “ngâm”, không phải thơ “làm”), nên ta thấy HCM không áp

dụng/rập khuôn một cách máy móc niêm luật của thơ Đƣờng Trung

Quốc mà, đã có những cải cách trong sử dụng số chữ/từ, trong cấu

trúc bài thơ khác với thể thơ Đƣờng truyền thống. Việc cải cách đó

của Hồ Chí Minh bao giờ cũng có chừng mực, không làm mất đi chất

thơ Đƣờng trong các bài loại đó. Việc cải cách đó có nhiều, tôi chỉ xin

đi vào một điểm, HCM mở rộng dung lƣợng bài thơ theo thể Đƣờng

luật, cho dù bài đó sáng tác bằng chữ Hán hay bằng chữ Quốc

ngữ/tiếng Việt, bằng cách mở rộng cấu trúc bài thơ so với truyền

thống Đƣờng thi (4 câu, mỗi câu có Ngũ ngôn – 5 chữ/từ hoặc Thất

ngôn – 7 chữ/từ), vì vậy có rất nhiều bài gồm từ 2 đến 3, 4, 5 khổ thơ,

mỗi khổ có 4 câu giống nhƣ cấu trúc bài thơ Đƣờng cổ. Trong tập Hồ

Chí Minh – thơ tứ tuyệt dẫn ở trên, có đến 11 bài HCM làm kiểu này.

Đó là các bài: Thế lộ nan (Đƣờng đời khó khăn), gồm 3 khổ, 12 câu;

Tảo (Buổi sớm), gồm 2 khổ, 8 câu; Cƣớc áp (Cái cùm), gồm 2 khổ, 8

câu; Học dịch kỳ (Học đánh cờ), gồm 3 khổ, 12 câu; Trung thu (Trung

thu), gồm 2 khổ, 8 câu; Tảo giải (Giải đi sớm), gồm 2 khổ, 8 câu;

Cảnh binh đảm trƣ đồng hành (Lính gác khiêng lợn cùng đi), gồm 2

Page 208: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

208 | TS. Nguyễn Minh San

khổ, 8 câu; Song thập nhất (Ngày 11 tháng 11), gồm 3 khổ, 12 câu; Ký

Nê lỗ (Gửi Nê ru), gồm 2 khổ, 8 câu; Thu cảm (Thu cảm), gồm 2 khổ,

8 câu. Trong bài Cảnh rừng Việt Bắc viết năm 1947, HCM cũng cấu

trúc bài theo 2 khổ, mỗi khổ 4 câu, thất ngôn.

Ngoài cấu trúc trên, có một số bài HCM làm lại có 6 câu, mỗi

câu ngũ ngôn; có bài một khổ 2 câu, 2 khổ 4 câu. Ví nhƣ bài Cảnh

khuya. Bài này có 10 câu thất ngôn, khổ đầu 2 câu, khổ 2 và khổ 3,

mỗi khổ 4 câu:

Đêm khuya nhân lúc quan hoài

Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần

Tiếng suối trong nhƣ tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bong lồng hoa

Cảnh khuya nhƣ vẽ, ngƣời chƣa ngủ

Chƣa ngủ vì lo nỗi nƣớc nhà

Nƣớc nhà đƣơng gặp lúc gay go

Trăm việc ngàn công đều phải lo

Giúp đỡ nhờ anh em gắng sức

Sức nhiều thắng lợi lại càng to.

(Bài này, nhiều tài liệu chỉ trích khổ 2)

Cũng thay đổi cấu trúc, mở rộng dung lƣợng bài tứ tuyết, HCM có

những bài mà, khổ thơ 4 câu đầu, là câu thất ngôn, nhƣng ở khổ thơ 4

câu sau, lại là câu ngũ ngôn; Khổ thơ 4 câu đầu là câu thất ngôn,

nhƣng ở khổ thơ 4 câu sau, lại là 4 câu thơ thể tự do (nhƣ bài Chúc Tết

1949); Những khổ thơ đầu là những câu ngũ ngôn, song những câu

cuối bài là những câu thơ thể tự do (nhƣ bài: Thơ mừng Tết Quý Tỵ,

1953); Khổ đầu là một số câu thơ làm theo thể thơ tự do, các khổ thơ

sau là thể Tứ tuyệt ngũ ngôn, cuối bài lại là thơ tự do, nhƣ bài: Bài ca

du kích (1942); điển hình là bài Tân Dƣơng ngục trung hài (Cháu bé

trong nhà lao Tân Dƣơng) trong Nhật Ký trong tù:

Page 209: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 209

Oa…! Oa…! Oa!...!

Gia phạ đƣơng binh cứu quốc gia;

Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,

Yếu đáo ngục trung căn trƣớc ma.

Dịch thơ:

Oa…! Oa…! Oa…!

Cha trốn không đi lính nƣớc nhà;

Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,

Phải theo mẹ đến ở nhà pha.

Qua đây, có thể thấy, mục đích “ngâm thơ”/“làm thơ” của HCM

không câu nệ nắn nót xem nó có đúng luật hay không, có chỉnh thể

này, thể nọ hay không mà, cốt là ở nội dung, phục vụ cái mà HCM cần

chuyển tải đến ngƣời nghe, ngƣời đọc thơ Ngƣời.

Lời tạm kết

1. Những bài thơ Đƣờng luật làm bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, tiêu biểu là tập Nhật ký trong tù, là những hòn ngọc văn

hóa chói lọi trong di sản văn hóa vĩ đại của dân tộc ta. Qua di sản thơ

này, đã góp phần khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên

tài của Đảng ta, dân tộc ta; một con ngƣời Đại nhân, Đại trí, Đại dũng;

một Danh nhân Văn hóa Thế giới; là Bác Hồ muôn vàn kính yêu của

dân tộc ta.

2. Qua cách vận dụng một thể thơ nƣớc ngoài – Đƣờng luật để

sáng tạo nên những kiệt tác bất hủ, chuyển tải đƣợc tình cảm, tính

cách, phẩm chất con ngƣời Việt Nam, cho chúng ta bài học về việc

tiếp thu các tinh hoa văn hóa nƣớc ngoài để làm giàu văn hóa dân tộc.

Đó là “mƣợn”/ “dùng” cái vỏ hình thức, nhƣng nội dung thơ phải

mang tính dân tộc, phải phù hợp với Việt Nam.

3. Trung Quốc là nƣớc láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” và

có lịch sử quan hệ lâu đời với nƣớc ta. Trƣớc năm 1979 (thời điểm

Trung Quốc tiến hành chiến tranh xâm lƣợc 6 tỉnh biên giới nƣớc ta),

Page 210: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

210 | TS. Nguyễn Minh San

việc dạy Tiếng Trung còn là yêu cầu bắt bƣộc (cùng với tiếng Nga)

trong các trƣờng phổ thông, và ở các trƣờng sƣ phạm có khoa/bộ môn

Tiếng Trung/đào tạo giáo viên Tiếng Trung ở miền Bắc. Song, sau

thời gian đó, Tiếng Trung không còn có địa vị nhƣ vậy nữa. Cả xã hội,

chạy theo Tiếng Anh. Từ quy định của ngành Giáo dục và Đào tạo,

chuyển thành tâm lý của xã hội, những ngƣời học Tiếng Trung/biết

Tiếng Trung chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Đốt đuốc giữa ban ngày cũng

không tìm đƣợc một cán bộ Nhà nƣớc nào có khả năng giao dịch

thông thƣờng bằng tiếng Trung, chứ chƣa nói đến việc làm đƣợc một

bài thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán (một bài thôi). Để có điều kiện hợp

tác toàn diện với Trung Quốc chúng ta cần phải có nhiều ngƣời học,

nhiều ngƣời giỏi tiếng Trung Quốc.

Kinh nghiệm và những thành công của Hồ Chí Minh trên các mặt

trận chính trị - ngoại giao – văn học nghệ thuật với Trung Quốc mãi

mãi là bài học cho chúng ta./.

NMS

Page 211: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

KẾT LUẬN HỘI THÂO KHOA HỌC “BÁC HỒ VỚI THƠ

ĐƯỜNG LUẬT”

PGS. TS Nguyễn Hồng Vinh

Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học, Nghệ thuật Trung ƣơng

I. Mục đích, ý nghĩa Hội thảo

Đây là hoạt động tiếp nối các hoạt động kỷ niệm 125 năm Ngày

sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm tiếp tục khẳng định công lao to lớn

của Bác Hồ với Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta trong 90 năm qua, kể

từ ngày 21/6/1925, Bác Hồ chỉ đạo xuất bản số đầu tờ báo “Thanh

Niên", cơ quan của Hội Việt Nam thanh niên cách mạng; đồng thời,

tôn vinh danh hiệu: “Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc,

Danh nhân văn hóa thế giới” - nhƣ ghi nhận của UNESCO! Trong

suốt quá trình hoạt động cách mạng, Bác Hồ vừa là nhà báo, nhà thơ,

nhà chính trị, nhà văn hóa lỗi lạc, mà việc vận dụng sáng tạo thơ

Đƣờng luật để tạo nên hàng trăm bài thơ có nội dung tƣ tƣởng và nghệ

thuật cao, phục vụ đắc lực công tác tuyên truyền, giáo dục, tập họp

quần chúng làm cách mạng, là một minh chúng tiêu biểu. Vì lẽ đó,

việc tiếp tục nghiên cứu thơ Đƣờng luật của Bác Hồ thông qua cuộc

Hội thảo này, là việc làm thiết thực để các thế hệ ngƣời Việt Nam,

nhất là các nhà nghiên cứu văn hóa, các nhà thơ hiểu sâu sắc thêm

“Những phẩm chất đặc sắc của một con ngƣời bất diệt. Bất diệt về sự

nghiệp anh hùng, bất diệt về tinh hoa văn hóa và bất diệt về nhân

cách cao cả trong sự nghiệp của dân tộc và nhân loại” - nhƣ ý kiến

của GS. Anh hùng Lao động Vũ Khiêu.

Page 212: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

212 | PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh

Đây cũng là hoạt động góp sức tiếp tục triển khai thực hiện Nghị

quyết 33- NQ/TW, Hội nghị Trung ƣơng 9 (khóa XI) về: “Xây dựng,

phát triển văn hóa, con ngƣời Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triến

bền vững đất nƣớc", trong đó ghi rõ: “Phải coi trọng xây dựng văn

hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nƣớc, mà nội dung quan trọng

là học tập và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Chúng ta vui mừng thấy rằng, khá nhiều tham luận và ý kiến trong

cuộc Hội thảo hôm nay, đã toát lên tinh thần quan trọng đó.

II. Bác Hồ với việc tiếp cận, vận dụng sáng tạo thơ Đƣờmg luật

vào quá trình tuyên truyền, chỉ đạo cách mạng Việt Nam

Thứ nhất, nhƣ các đồng chí đã biết, bậc thang tiến hóa của nền

văn minh thế giới, đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trên nhiều bình diện

văn hóa vật chất, tinh thần, trong đó có những tác phẩm thơ Đƣờng

(Đƣờng thi) rực rỡ một thời, biểu tƣợng huy hoàng của ngôn ngữ nhân

loại đã đạt đến điểm thăng hoa - nhƣ nhận xét của một nhà nghiên

cứu. Mặc dù thời gian lịch sử đã trôi qua trên một ngàn năm, song đến

hôm nay, nhiều bài thơ Đƣờng vẫn còn làm say mê, lay động lòng

ngƣời. Nhiều tứ thơ Đƣờng của các thi sĩ đời Đƣờng đã đạt đến sự

thần diệu, tài hoa trong sáng tạo ngôn ngữ, mà không mấy thời đại có

đƣợc. Thơ Đƣờng rất phong phú về thể loại, nhƣng ngƣời ta thƣờng

nhớ tới thơ Đƣờng với các thể thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ

ngôn tứ tuyệt...

Thơ Đƣờng luật ở Việt Nam có từ thời Tiền Lê, với sáng tác của

các tƣớng lĩnh, văn nhân, các bậc tu hành, viết bằng cả chữ Hán và

chữ Nôm, phát triển trong suốt 10 thế kỷ trung đại, cho đến nay còn

giữ đƣợc đến hàng chục nghìn bài. Thơ Đƣờng luật ở Việt Nam là sự

tiêp biến có cải biên, sáng tạo, mà đỉnh cao là thơ Nguyễn Trãi,

Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí

Minh... Bởi vậy, thơ Đƣờng luật ở Việt Nam có những đặc điểm riêng,

không phải là sự sao chép thể thơ Đƣờng luật Trung Quốc. Sự giao

lƣu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đƣa tới quá trình tiếp

Page 213: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 213

biến đầy sáng tạo của thơ Việt, làm phong phú di sản thơ ca Việt

Nam, thể hiện cốt cách văn hóa, bản lĩnh sáng tạo của các nhà thơ

Việt, mà điển hình là Bác Hồ trong hành trình tiếp thu và sáng tác thơ

Đƣờng luật.

Thứ hai, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ

đã viết khá nhiều thơ Đƣờng luật, nhƣ: “Nhật ký trong tù” 133 bài.

Thơ chữ Hán ngoài “Nhật ký trong tù”, có 35 bài. Thơ Đƣờng luật

quốc ngữ: 35 bài; tổng cộng trên 200 bài; trong đó có 178 bài tứ

tuyệt, 20 bài bát cú, 5 bài trƣờng thiên. Bên cạnh những bài viết theo

đúng tinh thần của thơ cổ, Bác đã dùng Đƣờng luật cải biên thành

nhiều dạng phong phú để cùng biểu đạt những tƣ tƣởng lớn, những

tình cảm sâu sắc, tinh tế của nhà cách mang chuyên nghiệp. Dù thể

hiện bằng ngôn ngữ nào, thơ Đƣờng luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh

nhiều khi vẫn giữ đƣợc những yêu cầu cơ bản, khắt khe của thể thơ

này và chuyển tải đƣợc tâm hồn, cốt cách, đạo lý, lẽ sống của con

ngƣời vào những bài thơ mang tính hiện đại trong thế kỷ 20. Hồ Chí

Minh làm thơ Đƣờng luật bằng chữ Hán trên đất Trung Quốc trong

hai trƣờng hợp: làm trong hoàn cảnh bị tù đầy trong nhà lao của

Tƣởng Giới Thạch; và làm thơ khi là thƣợng khách của Đảng và Nhà

nƣớc Trung Quốc.

Chúng ta đồng tình với phân tích của nhiều báo cáo cho rằng:

trƣớc hết, thơ Đƣờng luật của Bác Hồ thể hiện tình cảm sâu nặng của

Ngƣời đối với Tổ quốc và Nhân dân. Dù là nhật ký viết trong tù, hay

những bài thơ sau này, viết trƣớc cách mạng cũng nhƣ trong hai cuộc

kháng chiến, luôn hiển hiện một tấm lòng yêu nƣớc thiết tha, sự kiên

định, sắt son hƣớng về Tổ quốc, nhân dân, đồng chí, đồng bào.

Trong thơ Bác, có nỗi đau khổ, đắng cay trong cảnh ốm đau nơi tù

ngục, lại ở trên đất khách quê ngƣời, nhƣng vẫn trăn trở không nguôi

niềm cố quốc. Có nỗi nhớ nƣớc, thƣơng nhà suốt bao tháng ngày khắc

khoải, hóa thành lệ rơi trên những dòng thơ. Chất trữ tình trong thơ có

sự quyện hòa của cả chất tình và chất thép; từ đó, chúng ta càng thêm

Page 214: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

214 | PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh

cảm phục ý chí kiên cƣòng của Ngƣời trong lao tù xiềng xích, vẫn giữ

tấm lòng thủy chung vô hạn với Tổ quốc, nhân dân, nhƣ tấm lòng của

Ức Trai xƣa trong bài “Thuật hứng”.

Thứ ba, thơ Đƣờng luật của Bác giống nhƣ dòng nhật ký hàm xúc,

trữ tình, ghi lại suy nghĩ, tâm hồn, lý tƣởng của Bác trên bƣớc đƣờng

hoạt động cách mạng. Bác không chỉ vận dụng thơ Đƣờng luật để nói

những tƣ tƣởng lớn của mình về Tổ quốc và nhân dân, mà thông qua

thể thơ này, Bác còn đặt ra những vấn đề hệ trọng của đấu tranh cách

mạng: vấn đề tƣ duy cách mạng, chiến lƣợc và sách lƣợc cách mạng.

Trong thơ Bác, chúng ta thấy rõ tƣ tƣởng của Ngƣời khi nói về ngƣời

làm cách mạng, không chỉ cần trí tuệ cách mạng, mà cần cả những

tình cảm cách mạng đối với đồng chí, đồng bào. Đặc biệt là các bài

Bác viết về các bậc nhân sĩ yêu nƣớc đã vì chính nghĩa dân tộc mà tự

nguyện từ bỏ tất cả để lên chiến khu tham gia kháng chiến, phục vụ

đất nƣớc, phục vụ nhân dân, nhƣ bài “Tặng Bùi công” (Tặng cụ Bùi

Bằng Đoàn), “Tặng Võ công” (Tặng cụ Võ Liêm Sơn), bài “Điểu

Huỳnh Bộ trƣởng thi” (Thơ viếng Huỳnh Bộ trƣởng), đề ngày

21/4/1947, ngày tạ thế của Cụ chí sĩ yêu nƣớc Huỳnh Thúc Kháng.

Thứ tƣ, về con ngƣời, thơ Bác chan chứa một tinh thần nhân đạo

cao cả, một trái tim nhân ái bao la đối với mọi lớp ngƣời, từ em nhỏ

chƣa đầy một tuổi đã phải theo mẹ đến ở nhà tù; thƣơng ngƣời phu

làm đƣờng dãi nắng gội mƣa; ngậm ngùi xót xa ngƣời bạn tù khổ đau

vừa mới chết; day dứt trƣớc cảnh ngộ vợ chồng ngƣời bạn tù trong

cảnh “gần nhau trong tấc gang, mà biển trời cách mặt”, hiểu lòng

ngƣời trong tiếng sáo ly hƣơng và thƣơng ngƣời cô phụ phƣơng xa

mòn mỏi ngóng trông chồng, v.v… và v.v…

Thứ năm, về nghệ thuật trong thơ Đƣờng luật của Bác, nhiều tham

luận của nhà chính trị Hà Đăng, GS Vũ Khiêu, GS Nguyễn Khắc Phi,

PGS Hồ Sĩ Hiệp, NGND Trần Bửu Lâm, ThS Nguyễn Thúy Đức, ThS

Võ Quang Huy, ThS Nguyễn Thị Thiện, ThS Đào Tuấn Anh; các nhà

nghiên cứu Nguyễn Thanh Toàn, Đỗ Thị Mỹ An, Đỗ Hùng Luân, Lê

Page 215: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 215

Huy Thực, Lê Đình Sơn, Bùi Sỹ Hoa, Đinh Mỹ Hạnh, Nguyễn Xuân

Đức; các nhà thơ Nam Phụng, Huỳnh Đức Trung, Đỗ Thành Hƣng,

Phạm Văn Trung... đều cho rằng, từ chỗ thấm sâu những giá trị Đƣờng

thi trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh còn bổ sung và làm

giàu cho Đƣờng thi những nội dung mới, tƣ tƣỏng mới, mang tính

canh tân, cách mạng; dùng thơ làm chính trị, cổ vũ cuộc đấu tranh

đánh đổ thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do, hạnh

phúc cho nhân dân. Do vậy, Bác Hồ đã chỉ rõ mối quan hệ giữa thơ ca

và chính trị qua câu thơ có tính chất “tuyên ngôn” trong tập “Nhật ký

trong tù”:

“Nay ở trong thơ nên có thép,

Nhà thơ cũng phải biết xung phong ”

Theo hƣớng đó, đa phần thơ, văn, báo chí của Ngƣời đều đi vào

lòng quần chúng nhân dân nhƣ những câu ca dao, hò vè, truyền khẩu

ngắn gọn, súc tích, thích ứng với những đối tƣợng tuyên truyền cụ thể,

có sức tập hợp, khích lệ quần chúng đoàn kết, vùng lên làm cách mạng

tự giải phóng mình.

Chúng ta rất thú vị và thấm thía khi biết cuộc trò chuyện với dịch

giả Liên Xô M. Tkát-sốp về mối quan hệ giữa thơ ca và chính trị, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn nói rõ quan điểm của mình: “Tôi vẫn

nghĩ thơ và chính trị không thể tách rời...”. Bác nêu một câu hỏi: “Có

phải thơ chính trị không “cao quý”? Có phải nhà thơ không cần làm

những bài thơ liên quan đến việc đấu tranh với những cái xấu?”. Bác

trả lời dứt khoát: “Không, không thể thế đƣợc! Tôi cho rằng, không

nghi ngờ gì cả, cũng nhƣ các ngành nghệ thuật khác, thơ phải gắn bó

với sự nghiệp cách mạng; đó là điều khẳng định. Và những gì đặt ra

chung quanh việc này có quan hệ đến nhân cách nhà thơ”.

Nhiều nhà nghiên cứu có mặt hôm nay đều có chung nhận xét: thơ

chữ Hán của Bác đƣợc coi nhƣ một bức chân dung tự hoạ của Ngƣời:

vừa thanh cao, vừa giản dị, vừa vĩ đại, vừa tinh tế, vừa mang dáng dấp

cổ điển của các bậc tao nhân mặc khách, vừa rất hiện đại, xứng danh

Page 216: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

216 | PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh

là một nhà thơ tiêu biểu của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, mặc

dù Bác Hồ không bao giờ nhận mình là nhà thơ.

Chúng ta rất xúc động, hằng năm, mỗi khi Tết đến xuân về, Bác

lại làm thơ chúc Tết đồng bào ở trong nƣớc và kiều bào ở nƣớc ngoài.

Bác dùng nhiều thể loại khác nhau, nhƣng những bài viết theo thể tứ

tuyệt đã đạt tới giá trị nghệ thuật cao, có sức lan toả lớn hơn cả, truyền

niềm lạc quan cách mạng, thổi bùng ý chí “Đánh cho Mỹ cút, đánh

cho Nguỵ nhào”. Tiếc rằng, khi Tổ quốc thống nhất, “Bắc Nam sum

họp xuân nào vui hơn”, Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta cách đó 6 năm!

III. Về giá trị thơ Đƣờng luật của Bác Hồ

Một số tham luận và ý kiến tại Hội thảo hôm nay đều khẳng định:

Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh có nội dung phong phú, tinh thâm mà

uyên bác, thể hiện khí phách, trí tuệ và tinh thần lạc quan cách mạng

của một nhà cách mạng với niềm tin kiên định vào tƣơng lai của dân

tộc, tỏ rõ khí phách anh hùng, vƣợt lên mọi gian khổ, hi sinh; thấm

đẫm tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu cuộc sống, yêu hoà bình; ý

chí kiên cƣờng chống xâm lƣợc, chống bạo quyền; một tấm lòng chân

thành, thuỷ chung với đồng chí, bạn bè… Có thể nói, thế giới quan và

phƣơng pháp luận khoa học và cách mạng, đã bao trùm trong các bài

thơ Đƣờng luật của Bác.

Chính vì vậy, sau khi đọc tập thơ “Nhật ký trong tù”, nhà thơ lớn

Trung Quốc Quách Mạt Nhƣợc đã viết: “Một trăm bài thơ, hầu hết

bài nào cũng đều toát ra hết sức sinh động hình ảnh một nhà cách

mạng lão thành, thanh thoát, tài trí, ung dung, giản dị, kiên cƣờng ấy

là một đồng chí Hồ Chí Minh. Thật là “thi nhƣ kỳ nhân” (thơ nhƣ

ngƣời vậy”… Có một số bài rất hay, nếu đặt lẫn vào một tập của các

thi nhân Đƣờng Tông thì cũng khó phân biệt”.

Còn Cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng nói về thơ Hồ Chí Minh, đã

khái quát giá trị cao quý trong thơ của Bác: “Hồ Chí Minh không chỉ

hiện qua các bài thơ thắm đƣợm tình ngƣời và cuộc sống, cuộc sống

Page 217: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 217

của con ngƣời, có cốt cách Việt Nam và phƣơng Đông, đặc biệt thanh

cao và tao nhã, tỏa ra từ sự nghiệp và bình sinh của Hồ Chí Minh,

nhà lý luận, nhà hành động, con ngƣời ấy bao giờ cũng thơ, cũng

chan chứa, lúc thâm trầm, luôn luôn dung dị thơ sử thi, thơ anh hùng

ca, thơ trữ tình nhƣ chính cuộc đời này vậy, thơ vậy”.

Theo tinh thần đó, cuộc Hội thảo hôm nay với gần 50 bài tham

luận in trong Kỷ yếu cùng các ý kiến phát biểu, đặc biệt là Báo cáo Đề

dẫn Hội thảo của GS Hoàng Chƣơng, Giám đốc Trung tâm bảo tồn và

Phát huy văn hóa dân tộc - tất cả đều toát lên tình cảm quý trọng và

lòng biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo thiên

tài của Đảng và Nhà nƣớc ta; đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của

Việt Nam và thế giới, mà sự nghiệp thi ca, trong đó có hàng trăm bài

thơ Đƣờng luật của Ngƣời mãi mãi là di sản tinh thần vô giá, còn tiềm

ẩn nhiều nội dung và nghệ thuật phong phú mà chúng ta cần tiếp tục

nghiên cứu phát huy, biến nó thành động lực tinh thần cổ vũ toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục giƣơng cao ngọn cờ bách chiến

bách thắng trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa thân yêu của chúng ta!

Xin trân trọng cảm ơn!

NHV

Page 218: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Mục lục

LỜI THƢA .............................................................................................. 5

1. GS Hoàng Chƣơng - Đề dẫn: HỘI THẢO BÁC HỒ VỚI THƠ

ĐƢỜNG LUẬT ...................................................................................... 7

2. GS - AHLĐ Vũ Khiêu - THƠ ĐƢỜNG LUẬT CỦA HỒ CHÍ MINH

TRONG “NHẬT KÝ TRONG TÙ” ...................................................... 13

3. TS Phạm Thị Xuân Châu - BÚT PHÁP CỦA BÁC HỒ TRONG

SÁNG TÁC THƠ ĐƢỜNG LUẬT ...................................................... 21

4. Hoài Yên - CHẤT CHÂN THỰC VÀ LẠC QUAN TRONG THƠ

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.................................................................. 35

5. PGS. TS Hồ Sĩ Hiệp - BÁC HỒ VẬN DỤNG TUYỆT CÚ

ĐƢỜNG THI ........................................................................................ 37

6. ThS. Đào Tuấn Anh“VĂN DĨ TẢI ĐẠO” TRONG CÁC TÁC PHẨM

ĐƢỜNG THI CỦA HỒ CHÍ MINH ...................................................... 47

7. Lê Đình Sơn - KHẢO SÁT HIỆN TƢỢNG PHÁ CÁCH TRONG

THƠ ĐƢỜNG LUẬT HỒ CHÍ MINH ................................................. 57

8. ThS. Võ Quang Huy - HỒ CHÍ MINH VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT .. 69

9. ThS. Nguyễn Thị Thiện - VẺ ĐẸP CỔ ĐIỂN VÀ HIỆN ĐẠI TRONG

BÀI THƠ “CHIỀU TỐI” CỦA HỒ CHÍ MINH .................................. 75

10. Đinh Mỹ Hạnh - THƠ BÁC HỒ - MÓN ĂN TINH THẦN CỦA DÂN

TỘC VIỆT NAM .................................................................................. 81

11. Nguyễn Thanh Toàn - BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT ............ 91

12. NGND Trần Bửu Lâm - BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT

VIỆT NAM ........................................................................................... 99

13. Võ Giáp - “TẨU LỘ” - THƠ BÁC. MỘT NHÂN CÁCH LỚN ....... 105

14. Hoàng Triều Ân - THƠ BÁC HỒ RỰC RỠ ÁNH TRIÊU DƢƠNG109

15. Nguyễn Khuyến - NGẪM XEM NGƢỜI… VỚI THƠ NÀY! ......... 115

Page 219: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 219

16. NGƢT Hoàng An - MỘT SỐ BÀI THƠ THỂ ĐƢỜNG LUẬT CỦA

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VIẾT TẠI CAO BẰNG ........................ 123

17. Trần Xuân Yên - HỒ CHÍ MINH VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT ........ 131

18. Nguyễn Đức Thọ - TÌNH YÊU THIÊN NHIÊN TRONG THƠ HỒ

CHÍ MINH QUA THỂ LUẬT ĐƢỜNG ............................................ 137

19. Lê Trọng Hồng - NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH QUA MỘT BÀI THƠ

VIẾT TRONG “NGỤC TRUNG NHẬT KÝ” ..................................... 147

20. Đỗ Hùng Luân - TẠI SAO BÁC HỒ ƢA THÍCH THƠ ĐƢỜNG

LUẬT .................................................................................................. 153

21. Lê Công Bƣờng - BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT................... 158

22. Nam Phụng - BÁC HỒ VỚI THƠ LUẬT ĐƢỜNG ......................... 165

23. Nguyễn Văn Thụ - TÍNH HÓM HỈNH TRONG BÀI THƠ “SƠ ĐÁO

THIÊN BẢO NGỤC” CỦA BÁC HỒ ................................................ 171

24. GS. Nguyễn Khắc Phi - QUANH MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁC HỒ

VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT ................................................................. 175

25. TS. Nguyễn Minh San - THƠ ĐƢỜNG LUẬT CHỮ HÁN CỦA CHỦ

TỊCH HỒ CHÍ MINH ......................................................................... 193

26. PGS. TS. Nguyễn Hồng Vinh - KẾT LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC

“BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT” ............................................. 211

Page 220: Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƢỜNG LUẬT Kỷ yếu – Nhiều tác giả

NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN

65 Nguyễn Du - Hà Nội - Tel & Fax: 04.38222135

E-mail: [email protected]

http://nxbhoinhavan.com

Chi nhánh miền Nam

371/16 Hai Bà Trƣng-Q3-TP. HCM

Tel & Fax: 08.38297915

Email: [email protected]

Chi nhánh miền Trung và Tây Nguyên

42-Trần Phú-thành phố Đà Nẵng - Tel: 0511.3849516

Email: [email protected]

Chi nhánh miền Tây Nam Bộ

341C - Hoàng Lam - thành phố Bến Tre

Tel: 075.3812736 - 016.998.083.86

Email: [email protected]

Chịu trách nhiệm xuất bản:

PHẠM TRUNG ĐỈNH

Chịu trách nhiệm nội dung:

TRẦN QUANG QUÝ

Biên tâp:

Trình bày:

Sửa bản in:

In: 1000 cuốn; khổ 16x24 cm tại Công ty CP KH&CN Hoàng Quốc Việt.

Địa chỉ cơ sở in: 18 - Hoàng Quốc Việt - Cầu Giấy - Hà Nội

Số xác nhận ĐKXB: /CXBIPH/ /HNV

Số quyết định xuất bản: /QĐ-NXBHNV ngày 2016.

In xong và nộp lƣu chiểu quý năm 2016

Mã ISBN: 978-604-53-