40
1 ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Tên đề tài: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP DO NGƢỜI PHẠM TỘI LÀ CÁN BỘ THUỘC CÁC CƠ QUAN TƢ PHÁP THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAYChủ nhiệm đề tài: Ths. Vũ Minh Hằng NỘI DUNG ĐỀ TÀI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp (CQTP) là điều kiện cần thiết để bảo đảm duy trì công lý nói chung cũng như để bảo đảm sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước. Trên thực tế, nhiều lý do khác nhau mà hoạt động đúng đắn của các CQTP có thể bị chính những người là cán bộ thuộc các cơ quan này hoặc các cá nhân khác thông qua những hành vi nguy hiểm làm sai lệch đi. Nói cách khác, tính đúng đắn của các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án của các CQTP có thể bị những hành vi phạm tội “Xâm phạm hoạt động tư pháp” (XPHĐTP) xâm hại, làm cho kết quả giải quyết vụ án bị oan, sai, không đúng pháp luật. Thời gian qua, các tội phạm XPHĐTP ở nước ta có những diễn biến phức tạp cả về cơ cấu, tính chất cũng như mức độ nguy hiểm của tội phạm. Theo thống kê của VKSND tối cao, từ năm 2009 đến 2013, đã khởi tố, điều tra 876 vụ án về tội XPHĐTP. Điều đáng lưu ý là, trong số 876 vụ án này lại có tới 205 vụ án do cán bộ của các CQTP thực hiện hoặc có liên quan đến hoạt động tư pháp (chiếm tỉ lệ 23,40%) và loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng với tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao. Nhiều hành vi phạm tội XPHĐTP của cán bộ các CQTP không chỉ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng như gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân mà còn gây ra nhiều dư luận xấu trong xã hội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các CQTP. Do đó, đấu tranh phòng, chống các tội phạm XPHĐTP nói chung, các tội phạm do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện luôn là quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước ta và đã trở thành một yêu cầu cấp thiết trong tiến trình cải cách tư pháp . Tại

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

1

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG

Tên đề tài: “THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG

CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP DO NGƢỜI PHẠM TỘI

LÀ CÁN BỘ THUỘC CÁC CƠ QUAN TƢ PHÁP THỰC HIỆN

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY”

Chủ nhiệm đề tài: Ths. Vũ Minh Hằng

NỘI DUNG ĐỀ TÀI

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp

(CQTP) là điều kiện cần thiết để bảo đảm duy trì công lý nói chung cũng như để

bảo đảm sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước. Trên thực tế, vì

nhiều lý do khác nhau mà hoạt động đúng đắn của các CQTP có thể bị chính

những người là cán bộ thuộc các cơ quan này hoặc các cá nhân khác thông qua

những hành vi nguy hiểm làm sai lệch đi. Nói cách khác, tính đúng đắn của các

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án của các CQTP có thể bị những

hành vi phạm tội “Xâm phạm hoạt động tư pháp” (XPHĐTP) xâm hại, làm cho

kết quả giải quyết vụ án bị oan, sai, không đúng pháp luật.

Thời gian qua, các tội phạm XPHĐTP ở nước ta có những diễn biến phức

tạp cả về cơ cấu, tính chất cũng như mức độ nguy hiểm của tội phạm. Theo

thống kê của VKSND tối cao, từ năm 2009 đến 2013, đã khởi tố, điều tra 876 vụ

án về tội XPHĐTP. Điều đáng lưu ý là, trong số 876 vụ án này lại có tới 205 vụ

án do cán bộ của các CQTP thực hiện hoặc có liên quan đến hoạt động tư pháp

(chiếm tỉ lệ 23,40%) và loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng với tính

chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao. Nhiều hành vi phạm tội XPHĐTP của

cán bộ các CQTP không chỉ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng như gây thiệt hại

nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài

sản, danh dự, nhân phẩm của công dân mà còn gây ra nhiều dư luận xấu trong xã

hội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các CQTP.

Do đó, đấu tranh phòng, chống các tội phạm XPHĐTP nói chung, các tội phạm

do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện luôn là quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước

ta và đã trở thành một yêu cầu cấp thiết trong tiến trình cải cách tư pháp. Tại

Page 2: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

2

Nghị quyết số 49 – NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, Đảng ta nêu rõ quan điểm đấu tranh phòng, chống các tội

phạm do cán bộ có chức vụ, quyền hạn thực hiện và các tội XPHĐTP nói riêng

như sau: “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội

phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng

chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức

vụ, quyền hạn để phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho

người khác”.

Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền điều tra, xử lý các tội XPHĐTP

mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thuộc về trách nhiệm của Cơ quan

điều tra Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao.

Thực hiện chủ trương của Đảng, những năm qua, Cơ quan điều tra

VKSND tối cao đã tích cực phát hiện và điều tra, xử lý nhiều vụ án XPHĐTP và

đạt được những kết quả nhất định. Theo đó đã góp phần làm trong sạch đội ngũ

cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, qua thực tiễn, công tác điều tra của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: Tỷ lệ điều tra, giải quyết án do

người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thực hiện còn thấp, nhiều vụ xử lý

chưa nghiêm minh, còn bỏ lọt tội phạm gây bức xúc trong dư luận xã hội…

Thực trạng này là do một số nguyên nhân khách quan như: Thẩm quyền điều tra

của Cơ quan điều tra VKSND tối cao chưa được pháp luật quy định một cách cụ

thể; tổ chức và hoạt động của cơ quan này hiện nay chưa phù hợp với nhiệm vụ

được giao...Ngoài ra, còn do các nguyên nhân chủ quan là: Tội XPHĐTP là một

trong những tội phức tạp cả về nghiên cứu lý luận và cả về thực tiễn áp dụng

pháp luật nhưng lại ít được các CQTP quan tâm nghiên cứu, đánh giá để kịp thời

dự báo và đưa ra các giải pháp đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm.

Chính vì vậy, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải nghiên cứu một cách

tổng thể và toàn diện các vấn đề lý luận về các tội phạm XPHĐTP nói chung và

các tội phạm XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện nói riêng; nghiên

cứu về tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội XPHĐTP của cán

bộ thuộc các CQTP và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm XPHĐTP của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong thời gian qua, dưới góc độ khoa học luật

hình sự và tội phạm học để có được những dự báo chính xác, khoa học về xu

hướng phát triển của tội phạm, trên cơ sở đó, đề xuất những biện pháp đấu tranh

phòng chống có hiệu quả đối với loại tội phạm này. Vì vậy, tôi lựa chọn nghiên

cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp phòng, chống các tội xâm phạm hoạt

động tư pháp do người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp thực

hiện ở Việt Nam hiện nay” nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng,

Page 3: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

3

chống các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP trong điều

kiện cải cách tư pháp ở nước ta.

2. Tình hình nghiên cứu

Từ trước đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tội

XPHĐTP và đấu tranh phòng, chống các tội XPHĐTP của các nhà khoa học và

những người làm công tác thực tiễn được công bố như:

- Đề tài khoa học cấp Bộ (1997), Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

và việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra của Viện kiểm sát

nhân dân, VKSND tối cao, Hà Nội.

- Đề tài khoa học cấp Bộ (1998), Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động

tư pháp và trách nhiệm của VKSND các cấp trong cuộc đấu tranh chống các

loại tội phạm này, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội.

- Nguyễn Tất Viễn (2005), Các tội XPHĐTP trong luật hình sự Việt Nam,

Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.

- Phạm Thị Minh Thúy (2009), Áp dụng pháp luật trong điều tra các tội

xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Luận văn

Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia (Khu vực II).

- Nguyễn Thị Thu Trang (2012), Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà

người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp – Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.

Ngoài ra, còn có các tài liệu tham khảo, giáo trình trong các cơ sở đào tạo

của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, VKSND tối cao hay một số bài viết công bố trên

các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí kiểm sát, Tạp

chí Luật học…cũng đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau.

Các công trình khoa học nói trên đều là những công trình có giá trị khoa

học và thực tiễn cao. Nhiều công trình đã nghiên cứu khá sâu sắc và toàn diện về

các tội XPHĐTP và đã đưa ra nhiều giải pháp mang tính tổng thể về mặt pháp

luật, về tổ chức thực hiện…nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các tội

XPHĐTP. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về các tội

XPHĐTP mà chủ thể là cán bộ thuộc các CQTP để đưa ra giải pháp nâng cao

chất lượng công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này. Do

vậy, về phương diện lý luận, việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp

phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do người phạm tội là cán

bộ thuộc các cơ quan tư pháp thực hiện ở Việt Nam hiện nay” không bị trùng

lặp với các công trình khoa học trước đây.

Page 4: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật hình

sự về các tội XPHĐTP, đồng thời thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực

trạng diễn biến tình hình tội phạm XPHĐTP do người phạm tội là cán bộ thuộc

các CQTP thực hiện và công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao để đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian tới.

- Nhiệm vụ của đề tài: Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận,

tạo nhận thức chung về các tội XPHĐTP và các tội XPHĐTP mà người phạm

tội là cán bộ thuộc các CQTP nói riêng; nghiên cứu tình hình tội phạm XPHĐTP

do cán bộ các CQTP thực hiện để làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội;

nghiên cứu thực trạng hoạt động điều tra các vụ án XPHĐTP của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao trong những năm qua để tìm ra nguyên nhân của tồn tại, hạn

chế trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này, từ đó đề xuất giải

pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tình hình tội phạm XPHĐTP do cán bộ các CQTP

thực hiện và thực tiễn hoạt động điều tra các tội XPHĐTP thuộc thẩm quyền của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao trên phạm vi toàn quốc, trong giai đoạn từ năm

2009 đến năm 2013.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là phép biện

chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước

và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội

phạm. Bên cạnh đó, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát, tổng kết kinh

nghiệm thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu khoa học góp

phần làm phong phú thêm lý luận về các tội XPHĐTP nói chung và công tác đấu

tranh phòng, chống các tội XPHĐTP thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao nói riêng.

- Về mặt thực tiễn: Đề tài có thể sử dụng là tài liệu tham khảo cho các cán

bộ, ĐTV, Kiểm sát viên đang tham gia công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm, nhất là trực tiếp đấu tranh phòng chống các tội XPHĐTP. Ngoài ra, đề tài

còn có thể phục vụ cho quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập nghiệp vụ

điều tra tại các cơ sở đào tạo của ngành Kiểm sát.

Page 5: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

5

7. Kết cấu, bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề

tài được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về các tội xâm phạm hoạt động tư

pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp

- Chƣơng 2: Thực trạng tình hình tội phạm của các tội xâm phạm hoạt

động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp và công

tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này ở Việt Nam hiện nay

- Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh

phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ

thuộc các cơ quan tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Page 6: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

6

Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG

TƢ PHÁP MÀ NGƢỜI PHẠM TỘI LÀ CÁN BỘ

THUỘC CÁC CƠ QUAN TƢ PHÁP

1. Một số vấn đề lý luận về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong

Bộ luật hình sự Việt Nam

1.1. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS), các tội XPHĐTP

là nhóm tội, được quy định từ Điều 292 đến Điều 314 của Chương XXII. Trong

đó, khái niệm tội XPHĐTP được quy định tại Điều 292 như sau: “Các tội xâm

phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của

các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi

của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”.

Để hiểu rõ khái niệm tội XPHĐTP thì cần phải làm rõ một số khái niệm

liên quan như khái niệm tư pháp, cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp.

- Khái niệm tư pháp: Theo Từ điển Tiếng Việt, “Tư pháp là việc xét xử

theo pháp luật”, còn theo nghĩa Hán - Việt, “Tư pháp là trông coi, gìn giữ pháp

luật hay bảo vệ pháp luật”.

Theo quan điểm của thuyết “Tam quyền phân lập”, tư pháp là một trong

ba nhánh quyền lực của Nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp và tư pháp.

Trong đó, tư pháp là quyền xét xử, phán xét về các tranh chấp, vi phạm pháp

luật được giao cho Tòa án thực hiện độc lập với các quyền khác.

Như vậy, khái niệm “tư pháp” có hai cách hiểu: Thứ nhất, tư pháp là hoạt

động bảo vệ pháp luật, giải quyết các tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật; thứ

hai, tư pháp là thuật ngữ dùng để chỉ các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải

quyết các tranh chấp, xung đột giữa các quan hệ xã hội.

- Khái niệm cơ quan tư pháp: Từ trước đến nay, có rất nhiều quan niệm

khác nhau về CQTP. Trên thực tế, tùy thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội

và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước mà mỗi quốc gia có những

quan niệm khác nhau về CQTP.

Ở những nước theo thuyết “Tam quyền phân lập”, quyền lực Nhà nước

được phân chia thành ba nhánh: Quyền lập pháp được giao cho Nghị viện hoặc

Quốc hội, quyền hành pháp giao cho Chính phủ và quyền tư pháp được giao cho

Tòa án thực hiện, các cơ quan này hoạt động độc lập và có khả năng chế ước lẫn

nhau để tránh lạm quyền. Vì vậy, ở các nước này, CQTP chỉ bao gồm hệ thống

Page 7: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

7

cơ quan xét xử là Tòa án các cấp. Có thể nói, đây là điển hình của quan niệm về

CQTP theo nghĩa hẹp: CQTP là Tòa án (Cơ quan xét xử).

Ở Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước ta đã có quan niệm về

CQTP theo nghĩa rộng. Theo các quy định của Hiến pháp năm 1946 và các Sắc

lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số

131/SL ngày 20/7/1946 thì, cùng với Tòa án các cấp, cơ quan Công tố cũng dần

dần được hình thành trong bộ máy nhà nước. Thời kỳ đầu, hệ thống cơ quan

Công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án, do Bộ Tư pháp quản lý. Khái

niệm CQTP lúc đó đã được hiểu là bao gồm các cơ quan làm công tác xét xử và

cơ quan làm công tác điều tra, truy tố (công tố).

Sau khi Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức VKSND năm 1960 được ban

hành, VKSND được thành lập, đặt dưới sự giám sát của Quốc hội. Cho đến nay,

VKSND luôn tồn tại như một bộ phận hợp thành nhánh quyền lực thứ ba của

Nhà nước ta - Quyền tư pháp.

Ngày nay, với chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước theo nguyên tắc: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối

hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp, từ các Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII); Nghị quyết Trung

ương 3 (khóa VIII); Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/ 2002, Nghị quyết số

49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết Đại hội Đảng

lần thứ IX, X, XI, Đảng ta đã thể hiện rất rõ quan niệm về CQTP thông qua việc

đề ra những nhiệm vụ chính của cải cách tư pháp như sau: Thứ nhất, sắp xếp lại

tổ chức và nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của các CQTP như: Tòa án

nhân dân (TAND), VKSND và CQĐT, kiện toàn tổ chức thi hành án, trong đó

lấy Tòa án làm trung tâm; thứ hai, hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, củng

cố và tăng cường các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp. Các quan điểm của Đảng

về CQTP đã tiếp tục được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013. Như vậy, có

thể thấy, từ trước đến nay, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về CQTP luôn

được đề cập đến theo nghĩa rộng, đó là những cơ quan có nhiệm vụ tiến hành

các hoạt động tố tụng để giải quyết các tranh chấp, vi phạm pháp luật và tội

phạm. Hệ thống Các CQTP bao gồm CQĐT, VKS, Tòa án, Cơ quan thi hành án.

Vì vậy, có thể hiểu: “CQTP là cơ quan do Nhà nước lập ra, có chức

năng, nhiệm vụ tiến hành hoạt động tố tụng nhằm giải quyết các tranh chấp

giữa các chủ thể của các quan hệ pháp luật khác nhau để bảo vệ quyền lợi của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

- Khái niệm hoạt động tư pháp: Hiện tại, đang có nhiều cách hiểu khác

nhau về HĐTP nhưng đa số các nhà nghiên cứu lý luận và những người làm

Page 8: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

8

công tác thực tiễn đều thừa nhận quan điểm cho rằng: HĐTP là tập hợp những

việc làm cụ thể do CQTP thực hiện trong tố tụng, trực tiếp liên quan và hướng

tới mục đích giải quyết các vụ án một cách đúng đắn khách quan.

Đồng tình với quan điểm này, tác giả cho rằng, xuất phát từ quan điểm

của Đảng ta về CQTP thì HĐTP được hiểu là hoạt động mang tính quyền lực

nhà nước do các CQTP, do các cán bộ tư pháp thực hiện trong quá trình tố tụng

và được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng. HĐTP là hoạt động trực tiếp liên

quan tới việc giải quyết một vụ án cụ thể cũng như việc thi hành bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Do đó HĐTP có thể hiểu theo nghĩa là

“hoạt động tố tụng”, tức là các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Từ việc nghiên cứu, làm rõ các khái niệm tư pháp, CQTP, HĐTP, có thể

đưa ra khái niệm cụ thể hơn về các tội XPHĐTP như sau: “Các tội XPHĐTP là

những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các

cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án trong quá trình tiến hành tố tụng

và thông qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp, của tổ chức, công dân”.

1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm hoạt

động tư pháp

Các tội XPHĐTP được quy định tại Chương XXII BLHS với 23 điều (từ

Điều 292 đến Điều 314). Trong đó, Điều 292 quy định về khái niệm tội

XPHĐTP, 22 điều luật còn lại quy định về các tội phạm cụ thể, bao gồm: Tội

truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) người không có tội (Điều 293); Tội không

truy cứu TNHS người có tội (Điều 294); Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295);

Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296); Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm

trái pháp luật (Điều 297); Tội dùng nhục hình (Điều 298); Tội bức cung (Điều

299); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300); Tội thiếu trách nhiệm để người bị

giam, giữ trốn (Điều 301); Tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ (Điều

302); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều

303); Tội không chấp hành án (Điều 304); Tội không thi hành án (Điều 305);

Tội cản trở việc thi hành án (Điều 306); Tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài

liệu sai sự thật (Điều 307); Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc

từ chối cung cấp tài liệu (Điều 308); Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác

khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật (Điều 309); Tội vi phạm việc

niêm phong, kê biên tài sản (Điều 310); Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn

khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311); Tội đánh tháo người bị giam,

giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312): Tội che giấu tội

phạm (Điều 313); Tội không tố giác tội phạm (Điều 314).

Page 9: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

9

Nghiên cứu 22 tội phạm cụ thể quy định trong chương XXII BLHS về các

tội XPHĐTP thì thấy, các tội được sắp xếp theo một trật tự nhất định, trên cơ sở

đặc điểm chung của từng nhóm tội, liên quan đến chủ thể của tội phạm. Theo đó,

có thể chia 22 tội danh của chương này thành bốn nhóm tội sau:

Nhóm 1: Các tội XPHĐTP do những người có chức vụ, quyền hạn trong

HĐTP thực hiện, bao gồm các tội được quy định tại các điều 293, 294, 295, 296,

298, 299, 300, 301, 302, 303 và Điều 305 BLHS.

Nhóm 2: Các tội XPHĐTP được thực hiện bởi những người có nghĩa vụ

phải giúp các CQTP trong HĐTP, bao gồm các tội quy định tại các điều 307,

308 và Điều 310 BLHS.

Nhóm 3: Các tội XPHĐTP mà chủ thể là đối tượng của các bản án hoặc

quyết định của CQTP, đó là các tội quy định tại các điều 304, 311 BLHS.

Nhóm 4: Các tội XPHĐTP khác, bao gồm các tội được quy định tại các

điều 297, 306, 309, 312, 313 và Điều 314 BLHS.

Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 và Luật này có hiệu lực từ

ngày 01/01/2010. Trong lần sửa đổi này, các quy định của Chương XXII BLHS

năm 1999 vẫn được giữ nguyên. Điều đó cho thấy quy định về các tội XPHĐTP

trong BLHS năm 1999 về cơ bản đã phù hợp với thực tiễn.

2. Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp và của

nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc

các cơ quan tƣ pháp

2.1. Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

So với các loại tội phạm khác, các tội XPHĐTP có những đặc điểm riêng

biệt được thể hiện qua các dấu hiệu pháp lý như sau:

- Khách thể của tội phạm: Các hành vi phạm tội XPHĐTP đã xâm phạm

đến hoạt động đúng đắn của các CQTP trong việc điều tra, truy tố, xét xử và thi

hành án để bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, công dân. Đồng thời hành vi phạm tội XPHĐTP còn xâm

phạm đến nhiều quan hệ xã hội khác được luật hình sự bảo vệ như quan hệ nhân

thân, quan hệ sở hữu v.v.

- Mặt khách quan của tội phạm: Các tội XPHĐTP được thực hiện thông

qua những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong lĩnh vực HĐTP và

thông qua đó, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước;

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Hành vi phạm tội của nhóm tội

này được thể hiện ở các dạng sau:

Page 10: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

10

+ Hành vi XPHĐTP của các cán bộ thuộc các CQTP hoặc của những

người thuộc các tổ chức, cơ quan bổ trợ tư pháp như cơ quan giám định, tổ chức

luật sư v.v;

+ Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc bằng các thủ đoạn khác tác

động đến HĐTP nhằm làm cho các hoạt động này được thực hiện sai quy định

của pháp luật;

+ Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các

phán quyết hay quyết định của các CQTP.

+ Hành vi không thực hiện nghĩa vụ công dân trong việc giúp đỡ các

CQTP thực hiện nhiệm vụ của mình.

Hậu quả mà các hành vi phạm tội XPHĐTP gây ra có thể là thiệt hại cho

HĐTP như làm sai lệch tiến trình tố tụng, cản trở hoạt động tố tụng, làm ảnh

hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc gây thiệt

hại về quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức v.v.

- Chủ thể của tội phạm: Có thể là chủ thể đặc biệt hay chủ thể thường.

Tùy từng tội phạm cụ thể mà chủ thể của các tội XPHĐTP có thể là: Người của

CQTP có trách nhiệm thực hiện HĐTP; người của cơ quan, tổ chức bổ trợ tư

pháp có nghĩa vụ thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp; các cá nhân khác có

chức vụ, quyền hạn hoặc không có chức vụ, quyền hạn.

- Mặt chủ quan của tội phạm: Hầu hết các tội XPHĐTP đều được thực

hiện với lỗi cố ý (trừ tội Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn).

Kết quả nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tội XPHĐTP là

cơ sở để nhận thức đầy đủ hơn về đặc điểm pháp lý của nhóm tội XPHĐTP mà

người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp (Nhóm tội thứ nhất).

2.2. Đặc điểm pháp lý của nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà

người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp

Trong số các tội phạm cụ thể được quy định ở Chương XXII của BLHS

về các tội XPHĐTP thì chỉ có 11 tội có dấu hiệu chủ thể tội phạm là cán bộ

thuộc các CQTP (chủ thể đặc biệt). Đó là những tội quy định tại các điều 293,

294, 295, 296, 298, 299, 300, 301, 302, 303 và Điều 305 của BLHS. Theo quy

định tại Khoản 3 Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự đây là nhóm tội thuộc thẩm

quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Vì vậy, trong giới hạn của

đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội danh và thực tiễn

hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đối với nhóm tội này.

Khi nghiên cứu cấu thành tội phạm của 11 tội XPHĐTP thuộc thẩm

quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao nói trên có thể nhận thấy,

Page 11: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

11

nhóm tội phạm này có một số đặc điểm chung về dấu hiệu khách thể, dấu hiệu

chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Cụ thể là:

+ Về dấu hiệu khách thể: Các tội XPHĐTP do các cán bộ thuộc các

CQTP thực hiện có tính nguy hiểm cao cho xã hội, bởi hành vi phạm tội đã xâm

hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tố tụng như hoạt động điều

tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tội phạm trực tiếp xâm phạm đến tính đúng

đắn trong HĐTP của các CQTP và không chỉ gây tổn hại đến uy tín cũng như

việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các CQTP mà còn xâm phạm đến

lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

+ Về chủ thể: Chủ thể của nhóm tội phạm này là chủ thể đặc biệt, đó là

những cán bộ, công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng, có kiến thức

chuyên sâu về công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như: Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên…Những đối tượng này không chỉ có

kiến thức pháp luật mà còn có trình độ nghiệp vụ chuyên ngành nên thủ đoạn

phạm tội cũng như việc che giấu hành vi phạm tội rất tinh vi.

Khác với việc phát hiện, điều tra một số loại tội phạm khác như giết

người, trộm cắp, cướp tài sản…việc xác định, truy tìm người phạm tội ban đầu

có thể gặp khó khăn nhưng đối với nhóm tội XPHĐTP do các cán bộ CQTP

thực hiện ngay từ đầu đã có thể xác định được người thực hiện hành vi phạm tội

(Ví dụ: Tội ra bản án trái pháp luật - Chủ thể chỉ có thể là Thẩm phán, Hội thẩm;

Tội Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội - Chủ thể chỉ có thể là

người có thẩm quyền trong việc truy cứu TNHS như Thủ trưởng, Phó Thủ

trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, ĐTV, KSV). Tuy nhiên, quá

trình chứng minh tội phạm cũng như đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội của họ

lại là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải có phương pháp cũng

như chiến thuật điều tra linh hoạt. Thậm chí, ngay cả đã làm rõ hành vi phạm

tội, việc xử lý tội phạm cũng gặp nhiều khó khăn vì đối tượng thường lợi dụng

các mối quan hệ để “chạy chọt” gây cản trở cho quá trình xử lý vụ án.

+ Về mặt chủ quan: Ngoài tội “Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ

trốn” (Điều 301 BLHS) được thực hiện với lỗi vô ý, các tội còn lại được người

phạm tội thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ, mục đích phạm tội đều không phải là

dấu hiệu bắt buộc để định tội đối với loại tội phạm này nhưng lại có ý nghĩa

quanm trọng trong việc xem xét quyết định hình phạt đối với người phạm tội .

Tuy không được quy định trực tiếp trong điều luật nhưng qua thực tiễn xét xử thì

đa số cán bộ CQTP phạm tội XPHĐTP là do tham nhũng, tư lợi, chạy theo

thành tích, hay sĩ diện cá nhân...

Page 12: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

12

Ngoài ra, mỗi cấu thành tội phạm của từng tội phạm cụ thể trong nhóm tội

này cũng có sự khác nhau về dấu hiệu chủ thể và hành vi khách quan của tội

phạm như sau:

Tội “Truy cứu TNHS người không có tội” (Điều 293 BLHS):

Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện qua hành vi của người có

thẩm quyền đã cố ý truy cứu TNHS đối với người mà mình biết rõ là không có

tội. Quyền truy cứu TNHS người không có tội có thể là quyền khởi tố bị can,

quyền đề nghị truy tố, quyền truy tố đối với người không có tội.

Chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt và chỉ có thể là người có thẩm

quyền trong việc truy cứu TNHS như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện

trưởng, Phó Viện trưởng VKS, ĐTV, KSV. Những cán bộ, nhân viên trong cơ

quan xét xử và thi hành án không phải là chủ thể của tội phạm này.

Tội “Không truy cứu TNHS người có tội” (Điều 294 BLHS):

Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm là hành vi của người có thẩm

quyền trong hoạt động tố tụng hình sự cố ý không khởi tố, không truy tố đối với

người mà mình biết rõ là có tội. Đặc trưng của dấu hiệu khách quan là hành vi

lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người thẩm quyền truy cứu TNHS nhưng đã

không truy cứu TNHS người có tội. Tội phạm được coi là hoàn thành tại thời

điểm người có thẩm quyền biết rõ là có đủ cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS

người phạm tội nhưng đã không thực hiện việc truy cứu TNHS đối với họ. Đó

có thể là hành vi: không ra quyết định khởi tố bị can hoặc ra quyết định không

khởi tố bị can, không đề nghị truy tố…Hoặc là ra quyết định đình chỉ điều tra,

đình chỉ vụ án đối với người có hành vi phạm tội.

Về chủ thể: Cũng giống như Tội truy cứu TNHS người không có tội, chủ

thể của tội phạm này chỉ có thể là người có thẩm quyền truy cứu TNHS.

Tội “Ra bản án trái pháp luật” (Điều 295 BLHS):

Hành vi khách quan của tội phạm được biểu hiện ở hành vi của Thẩm

phán hoặc Hội thẩm đã ra bản án mà họ biết rõ là trái pháp luật. Tính trái pháp

luật của bản án thể hiện ở chỗ: Nội dung bản án không phù hợp với thực tế

khách quan, không có căn cứ pháp luật…Tội phạm hoàn thành tại thời điểm

Thẩm phán hoặc Hội thẩm ký vào biên bản nghị án.

Chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là Thẩm phán hoặc Hội thẩm.

Tội “Ra quyết định trái pháp luật” (Điều 296 BLHS):

Hành vi khách quan của tội phạm được biểu hiện là hành vi của người có

thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã ra quyết định

mà biết rõ là trái pháp luật. Bao gồm các quyết định mà họ có quyền ký và ban

hành theo quy định của BLTTHS. Quyết định được coi là trái pháp luật khi thiếu

Page 13: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

13

căn cứ và không hợp pháp. Hậu quả của tội phạm là những thiệt hại về vật chất

và phi vật chất do hành vi ra quyết định trái pháp luật đã gây ra cho quyền và lợi

ích của Nhà nước, của tổ chức và công dân. Hậu quả thiệt hại là yếu tố bắt buộc

của cấu thành tội phạm này

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt - là người có thẩm quyền ra

quyết định trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tội “Dùng nhục hình” (Điều 298 BLHS):

Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở chỗ, chỉ cần người phạm tội

có hành vi dùng nhục hình là tội phạm đã hoàn thành. Hành vi dùng nhục hình

trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là những hành vi có tính

chất hành hạ, gây đau đớn về thể xác, xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của

người khác như: đánh đập, không cho ăn, uống, bắt đứng hay ngồi, nằm ở tư thế

không tự nhiên…

Chủ thể của tội phạm này là những người có chức vụ, quyền hạn trong

trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo quy định của pháp luật.

Chủ thể của tội phạm có thể là ĐTV, KSV, cán bộ quản lý trại giam…

Tội “Bức cung” (Điều 299 BLHS):

Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi của người có thẩm

quyền trong điều tra, truy tố, xét xử đã sử dụng các thủ đoạn trái pháp luật buộc

người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật. Bao gồm các phương thức, thủ đoạn mà

người phạm tội sử dụng nhằm cưỡng ép người bị thẩm vấn khai sai sự thật. Đó

là những biện pháp tác động đến tinh thần hoặc thể chất của người bị thẩm vấn

để ép buộc họ phải khai báo sai sự thật, ngoài ý muốn. Ví dụ: đe dọa dùng nhục

hình, đối xử tàn tệ trong khi giam, giữ, truy ép về tâm lý…Đối tượng bị bức

cung có thể là người bị tình nghi, bị can, bị cáo…Hành vi bức cung đã gây hậu

quả nghiêm trọng là làm cho người bị thẩm vấn phải khai báo sai dẫn đến việc

bắt giam hoặc truy tố, xét xử oan, sai…Hậu quả nghiêm trọng là yếu tố bắt buộc

của cấu thành tội phạm này.

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, là người có trách nhiệm tiến

hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử như ĐTV, KSV, Thẩm phán hoặc những

người khác có quyền thẩm vấn.

Tội “Làm sai lệch hồ sơ vụ án” (Điều 300 BLHS):

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi của người có liên quan đến

quản lý hồ sơ vụ án đã cố ý thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, tiêu hủy, làm hư hỏng

tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch hồ sơ,

nội dung của vụ án.

Page 14: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

14

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt - là người có liên quan đến

việc quản lý hồ sơ vụ án khi họ tham gia vào hoạt động tố tụng. Đó là ĐTV,

KSV, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án v.v.

Tội “Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn” (Điều 301 BLHS):

Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi thiếu trách nhiệm

của người được giao trách nhiệm quản lý, canh gác hoặc dẫn giải người bị giam,

giữ nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp

luật dẫn đến việc người đó trốn. Hậu quả nghiêm trọng là yếu tố bắt buộc của

cấu thành tội phạm. Hậu quả này có thể là những thiệt hại về vật chất hoặc tinh

thần. Ví dụ: Người bỏ trốn đã phạm tội mới hoặc trả thù người khác…

Chủ thể của tội phạm là những người trực tiếp quản lý, canh gác, dẫn giải

người bị giam, giữ như: Cán bộ quản lý nhà tạm giữ, giám thị trại giam, cảnh sát

tư pháp dẫn giải người bị tạm giam…

Tội “Tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ” (Điều 302 BLHS):

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức

vụ, quyền hạn tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ. Lợi dụng chức vụ,

quyền hạn tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ là hành vi lợi dụng thẩm

quyền ra lệnh tha người đang bị giam, giữ khi không có đủ căn cứ theo quy định

của pháp luật. Lạm quyền tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ là hành vi

của người không có thẩm quyền ra lệnh tha nhưng đã tha người bị giam, giữ

vượt ra khỏi quyền hạn của mình.

Chủ thể của tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn trong việc tha người

bị giam, giữ hoặc là người có trách nhiệm nhất định liên quan đến việc quản lý

người bị giam, giữ như: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Chánh án, Phó

Chánh án, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Giám thị trại giam…

Tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giam, giữ người trái pháp luật”

(Điều 303 BLHS):

Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi của người có chức

vụ, quyền hạn cố ý không ra quyết định hoặc không chấp hành quyết định trả tự

do cho người bị giam, giữ thông qua các dạng hành vi như: Không ra quyết định

hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc quyết định trả tự do; không thực hiện quyết

định trả tự do đối với người bị giam, giữ theo quy định của pháp luật.

Tội phạm có chủ thể đặc biệt tương tự như chủ thể của tội “Tha trái pháp

luật người đang bị giam, giữ”.

Tội “Không thi hành án” (Điều 305 BLHS):

Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi của người có thẩm

quyền đã cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định

Page 15: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

15

thi hành án và hành vi đó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó đã bị

xử lý kỷ luật về hành vi không thi hành án mà còn vi phạm.

Chủ thể tội phạm là người có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc

là người có trách nhiệm thi hành quyết định đó theo pháp luật quy định.

Kết luận Chƣơng 1

Trong Chương 1, trên cơ sở các quy định của BLHS và các văn bản pháp

luật khác có liên quan, đề tài đã tập trung phân tích, làm sáng tỏ khái niệm các

tội XPHĐTP, các đặc điểm pháp lý của tội phạm XPHĐTP. Trong đó, tập trung

làm rõ các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ

của các CQTP làm cơ sở để phân tích, đánh giá diễn biến tình hình tội phạm,

nguyên nhân, điều kiện thực hiện các tội XPHĐTP của cán bộ các CQTP và

công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này ở nước ta trong

thời gian từ năm 2009 đến 2013.

Page 16: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

16

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM

HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ NGƢỜI PHẠM TỘI LÀ CÁN BỘ

THUỘC CÁC CƠ QUAN TƢ PHÁP VÀ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH

PHÒNG, CHỐNG NHÓM TỘI PHẠM NÀY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Thực trạng tình hình tội phạm của các tội xâm phạm hoạt động tƣ

pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp ở Việt Nam

hiện nay

1.1. Phần tội phạm đã rõ

Tình hình tội phạm (THTP) là hiện tượng xã hội tiêu cực, được cấu thành

bởi tổng thể các tội phạm đã xảy ra trên một địa bàn, trong một khoảng thời gian

nhất định. Do đó, THTP về các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc

các CQTP ở Việt Nam hiện nay có thể được hiểu là sự phản ánh tổng hợp về các

tội phạm thuộc nhóm tội này xảy ra trên toàn quốc trong thời gian từ năm 2009

đến năm 2013.

Khi nghiên cứu, đánh giá về THTP cần phải dựa trên các tiêu chí liên

quan đến bản chất của nó như: Mức độ của THTP (trong đó phải xem xét tổng

số các tội phạm đã xảy ra, gồm tội phạm đã được phát hiện - “tội phạm đã rõ” và

cả tội phạm không được phát hiện - “tội phạm ẩn”); Cơ cấu và diễn biến của

THTP. Sau cùng là đánh giá mức độ thiệt hại mà THTP đã gây ra cho xã hội.

Việc nghiên cứu THTP nói chung và tình hình tội phạm XPHĐTP mà

người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP nói riêng chủ yếu được dựa trên các

thống kê tội phạm. Thông qua các số liệu này mới có thể đưa ra những thông tin

chính xác, khoa học về tình hình, thực trạng phạm tội, về cơ cấu, diễn biến, xu

hướng phát triển cũng như nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm.

Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu, đánh giá những số

liệu thống kê liên quan đến tội phạm XPHĐTP do người phạm tội là cán bộ các

CQTP thực hiện trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013. Các số liệu thống

kê tội phạm của Cục Điều tra VKSND tối cao đã cơ bản phản ánh phần tội phạm

đã rõ của THTP về các tội phạm XPHĐTP do người phạm tội là cán bộ thuộc

các CQTP thực hiện trong 5 năm qua.

1.1.1. Mức độ, diễn biến của tình hình tội phạm về các tội xâm phạm

hoạt động tư pháp do người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thực hiện

Dấu hiệu mức độ của THTP về các tội XPHĐTP mà người phạm tội là

cán bộ của các CQTP được thể hiện qua các thông số về tổng số các vụ phạm tội

Page 17: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

17

và người phạm tội trên toàn quốc trong thời gian từ 2009 đến 2013 và diễn biến

(động thái) của nó cũng sẽ được phản ánh ở sự tăng hay giảm hoặc ổn định

tương đối của các tội phạm này trên toàn quốc trong 5 năm qua. Sự tăng hay

giảm trong cơ cấu của THTP được phản ánh thông qua các số liệu về các vụ

phạm tội và người phạm tội sẽ giúp chúng ta đánh giá được sự tăng hay giảm

của tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm đối với xã hội.

Nghiên cứu diễn biến của THTP về các tội XPHĐTP do cán bộ của các

CQTP thực hiện giúp cho việc dự đoán xu hướng vận động của các tội phạm này

trong thời gian tiếp theo, trên cơ sở đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội

phạm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Theo số liệu thống kê của Cục Điều tra VKSND tối cao thì hàng năm số

lượng tội phạm và người phạm tội XPHĐTP bị khởi tố, điều tra chiếm tỉ lệ rất

nhỏ so với tổng số tội phạm và người phạm tội trên toàn quốc. Trong 5 năm qua,

các CQĐT đã khởi tố 876 vụ án về tội XPHĐTP (chiếm tỉ lệ khoảng 0,25 % trên

tổng số vụ án hình sự). Điều đáng nói là, trong số các vụ phạm tội XPHĐTP thì

số vụ án XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện lại chiếm một tỉ lệ không

nhỏ. Từ năm 2009 đến 2013, CQĐT của VKSND tối cao đã khởi tố 205 vụ/234

bị can (chiếm tỉ lệ khoảng 23,4 % trên tổng số vụ án và 13,3% trên tổng số bị

can bị khởi tố về tội XPHĐTP). Trung bình mỗi năm khởi tố 41 vụ/46,8 bị can.

Cụ thể là:

- Năm 2009, khởi tố 16 vụ/21 bị can (giảm 2 vụ, 8 bị can so với 2008).

- Năm 2010, khởi tố 21 vụ/42 bị can (tăng 5 vụ, 21 bị can so với 2009).

- Năm 2011, khởi tố 52 vụ/70 bị can (tăng 31 vụ, 28 so với 2010).

- Năm 2012, có 66 vụ/68 bị can (tăng14 vụ, giảm 2 bị can so với 2011).

- Năm 2013, khởi tố 50 vụ/33 bị can (giảm 16 vụ, 02 bị can so với 2012).

Như vậy, có thể thấy, tình hình tội phạm XPHĐTP do cán bộ của các

CQTP thực hiện đang có những diễn biến phức tạp, tăng, giảm không đồng đều

nhưng tăng là xu hướng chung. Trong đó, năm 2011 có số bị can tăng cao nhất

và năm 2012 có số vụ án khởi tố tăng cao nhất. Nếu lấy số vụ án và bị can đã

khởi tố năm 2009 làm mốc là 100% thì năm có số vụ án tăng cao nhất lên tới

412,5% (năm 2012) và năm có số bị can tăng cao nhất lên tới 333,3% (năm

2011). Trung bình trong 5 năm đã tăng gấp 3 lần về số vụ và 3,5 lần về số bị

can. Riêng năm 2013, cả số vụ và số bị can đều giảm so với hai năm trước đó.

Điều đó cho thấy diễn biến phức tạp của nhóm tội phạm này.

Trong số 205 vụ với 234 bị can nói trên thì số tội phạm XPHĐTP mà

người phạm tội là cán bộ các CQTP là 103 vụ/121 bị can; ngoài ra số vụ phạm

tội khác phát sinh từ HĐTP do các cán bộ các CQTP thực hiện hoặc có liên quan

Page 18: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

18

đến những vụ án mà CQĐT của VKSND tối cao đang khởi tố, điều tra là 102

vụ/113 bị can. Như vậy, có thể thấy, từ năm 2009 đến năm 2013, số lượng vụ án

XPHĐTP mà bị can là cán bộ của các CQTP chiếm một tỉ lệ đáng kể (khoảng

50%) trong tổng số các vụ án và bị can mà Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã

khởi tố, điều tra theo thẩm quyền. Điều này cho thấy, cũng như nhiều loại tội

phạm khác, các tội XPHĐTP đang có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ do những

ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế, xã hội theo quy luật kinh tế thị trường. Vì

thế, công tác đấu tranh phòng, chống các hành vi phạm tội XPHĐTP của các cán

bộ tư pháp sẽ là một công việc khó khăn, lâu dài và phức tạp, đòi hỏi phải có sự

kết hợp đồng bộ, thường xuyên các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung

và biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử loại tội

phạm nguy hiểm này.

Tuy nhiên, mức độ, diễn biến của THTP cũng mới chỉ là sự phản ánh

hình thức bề ngoài mà chưa lột tả hết bản chất của THTP. Cho nên để có thể đưa

ra những nhận định, đánh giá kết luận chính xác về tính chất, mức độ nghiêm

trọng của THTP về các tội XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện cần

phải nghiên cứu các mặt bên trong nói lên bản chất của nó. Mặt bên trong đó

chính là các chỉ số về cơ cấu của từng loại tội phạm và tính chất của THTP.

1.1.2. Cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm về các tội xâm phạm hoạt

động tư pháp do người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thực hiện

- Về cơ cấu: Cơ cấu của THTP về tội XPHĐTP do cán bộ các CQTP

thực hiện được thể hiện qua những số liệu phản ánh sự tương quan về tỷ lệ giữa

các loại tội phạm và người phạm tội trong tổng số chung của THTP của nhóm

tội phạm này. Theo thống kê của Cục Điều tra VKSND tối cao, từ năm 2009 đến

2013, loại tội phạm chiếm số lượng nhiều nhất là: Tội Thiếu trách nhiệm để

người bị giam, giữ trốn 41vụ/46 bị can (chiếm tỉ lệ 39,8% về số vụ và 38% số bị

can); thứ hai là tội Dùng nhục hình 18 vụ/24 bị can (chiếm tỉ lệ 17,5% về số vụ

và 19,8% số bị can) ; tiếp theo là các tội Ra quyết định trái pháp luật là 17 vụ/19

bị can (chiếm tỉ lệ 16,5% về số vụ và 15,7% số bị can); tội Làm sai lệch hồ sơ

vụ án là 11 vụ/12 bị can (chiếm tỉ lệ 10,7% về số vụ và 9,9% số bị can). Những

tội phạm XPHĐTP khác có số lượng vụ án và bị can chiếm tỉ lệ thấp. Cá biệt, có

một số tội phạm trong 5 năm chỉ khởi tố được 1 vụ/1 bị can hoặc không khởi tố,

điều tra vụ nào như: Tội “Ra bản án trái pháp luật”, tội “Bức cung”…

Nghiên cứu số liệu về những tội phạm cụ thể đã được thống kê nói trên thì

thấy rằng, tội phạm XPHĐTP do các cán bộ CQTP thực hiện có thể xảy ra ở tất

cả các CQTP. Theo báo cáo của ngành Kiểm sát thì số vụ phạm tội và số người

phạm tội thuộc ngành Công an là 42 vụ/56 bị can (chiếm 40,7% số vụ và 46,2%

Page 19: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

19

số bị can); thuộc ngành Toà án là 25 vụ/23 bị can (chiếm 24,3% số vụ và 19%

số bị can); thuộc ngành Kiểm sát là 8 vụ/10 bị can (chiếm 7,7% số vụ và 8,3%

số bị can); thuộc cơ quan Thi hành án là 28 vụ/32 bị can (chiếm 27,1% số vụ và

26,5% số bị can). Trong đó, các vụ phạm tội chủ yếu xảy ra ở cấp huyện (65%),

ở cấp tỉnh (33%), ở cấp trung ương (2%).

Đánh giá về tình hình vi phạm, tội phạm XPHĐTP, CQĐT của VKSND

tối cao đã đưa ra nhận định rằng: “Đánh giá chung về tình hình vi phạm, tội

phạm XPHĐTP trong thời gian qua cho thấy số vụ vi phạm, tội phạm xảy ra có

diễn biến khá phức tạp. Đối tượng phạm tội chủ yếu là cán bộ thuộc các cơ

quan tư pháp; nhiều người giữ cương vị lãnh đạo các cơ quan tư pháp như: Phó

Thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh; Phó Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự cấp tỉnh; Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp huyện” [1].

- Về tính chất: Khi xem xét tính chất nguy hiểm của THTP về nhóm tội

XPHĐTP do các cán bộ của các CQTP thực hiện thì không thể chỉ dừng lại ở

việc đánh giá các dấu hiệu về mức độ, cơ cấu, diễn biến của nó mà còn phải dựa

vào dấu hiệu thiệt hại do THTP gây ra để đánh giá đúng tính chất của THTP.

Cho đến nay vẫn chưa có thống kê riêng về những hậu quả do các tội

phạm XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ tư pháp gây ra, nhưng qua kết quả

khảo sát thực tiễn chúng tôi nhận thấy, trong 5 năm qua, loại tội phạm này

không chỉ có chiều hướng gia tăng về số vụ án và số bị can mà tính chất của tội

phạm cũng ngày càng nguy hiểm hơn. Đã có nhiều vụ án oan, sai do hành vi

phạm tội XPHĐTP của các cán bộ tư pháp gây ra, xâm hại nghiêm trọng đến lợi

ích của Nhà nước, đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, gây bức xúc

trong dư luận xã hội. Điển hình như, năm 2011 đã xảy ra 04 vụ dùng nhục hình

gây ra hậu quả làm chết 02 người, gây thương tích cho 5 người khác với tỉ lệ

thương tật từ 12% đến 40%; 09 vụ phạm tội Thiếu trách nhiệm để 17 bị can bỏ

trốn khỏi nơi giam, giữ; 04 vụ ra quyết định trái pháp luật trong thi hành án đã

gây thiệt hại cho các đương sự tới 48 tỉ đồng. Ngoài ra, còn có những hành vi

phạm tội XPHĐTP khác như: Làm sai lệch hồ sơ vụ án, không truy cứu trách

nhiệm hình sự người có tội đã làm cho việc giải quyết vụ án bị oan, sai, bỏ lọt

tội phạm. Ví dụ: Vụ án T. N. C (nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án) đã

ra quyết định kê biên, bán đấu giá trái pháp luật căn nhà số 194 ở Phố Huế, quận

HBT, Hà Nội, gây thiệt hại cho đương sự hàng chục tỉ đồng; vụ án Ph. T. T. T.

(nguyên KSV VKSND thành phố VT, tỉnh HG) đã làm sai lệch hồ sơ vụ án mua

bán trái phép chất ma túy để giao trả trái pháp luật vật chứng của vụ án là số tài

sản trị giá trêm ba trăm triệu đồng cho bị can, đồng thời còn cho 3 bị can được

bảo lĩnh, tại ngoại, dẫn đến việc bị can đầu vụ bỏ trốn; Vụ án dùng nhục hình

Page 20: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

20

của 5 Điều tra viên Công an thành phố TH, tỉnh PY đối với bị can N.T. K., làm

bị can chết…đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các cán bộ tư pháp,

các CQTP, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào công lý. Chính vì vậy, khi

đánh giá về những tồn tại, hạn chế trong công tác tư pháp ở nước ta thời gian

qua, Nghị quyết số 08 –NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu: “còn

nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự

do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng,

Nhà nước và các CQTP”. Qua đó có thể kết luận, tình trạng phạm tội XPHĐTP

của các cán bộ thuộc các CQTP trong 5 năm qua có những diễn biến phức tạp,

tác động trên phạm vi rộng và đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng như

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu tại Hội nghị Tổng kết công tác năm

2002 và triển khai công tác năm 2003 của ngành Kiểm sát nhân dân: “Sai phạm

nào cũng có thiệt hại, nhưng sai phạm của cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật

là hậu quả rất nặng nề”[2]. Do đó, việc tăng cường hơn nữa những biện pháp

đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này là hết sức cần thiết.

1.2. Phần tội phạm ẩn

Tình hình tội phạm của nhóm tội XPHĐTP do cán bộ các CQTP thực

hiện còn được xem xét ở yếu tố tội phạm ẩn. Tội phạm ẩn trong nhóm các tội

XPHĐTP do người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thực hiện có thể tồn tại

dưới ba dạng cơ bản sau: Tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo và tội

phạm ẩn thống kê. Cụ thể như sau:

+ Tội phạm ẩn tự nhiên là một khái niệm dùng để chỉ tất cả những tội

phạm đã xảy ra trên thực tế nhưng các cơ quan chức năng như công an, kiểm sát,

tòa án không phát hiện ra được vì không có thông tin gì về chúng.Tội phạm ẩn

tự nhiên trong trong số các tội phạm XPHĐTp do cán bộ của các CQTP thực

hiện chiếm tỉ lệ đáng kể là do có nguyên nhân từ việc che giấu hành vi phạm tội

rất tinh vi của các cán bộ tư pháp, bằng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ

chủ thể tội phạm đã tạo ra những cản trở để khỏi bị phát hiện. Ngoài ra còn có

nguyên nhân từ chính những người bị hại, nạn nhân đã không tố giác tội phạm vì

những lý do khác nhau như sợ bị trả thù hoặc vì muốn giảm trách nhiệm.

+ Tội phạm ẩn nhân tạo: Khác với tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn

nhân tạo lại có nguồn gốc từ phía chủ thể áp dụng pháp luật. Đó là những tội

phạm thực tế xảy ra, các cơ quan chức năng đã nắm được nhưng vì các nguyên

nhân khác nhau mà hành vi phạm tội đó không bị xử lý theo pháp luật hoặc có

thể do các cơ quan tiến hành tố tụng đã không khởi tố vụ án theo đúng yêu cầu

của pháp luật. Việc hành vi phạm tội đã bị phát hiện nhưng không bị xử lý theo

pháp luật là do có một hành vi phạm tội khác che đậy. Đối với tội phạm

XPHĐTP có chủ thể là các cán bộ tư pháp có thể xảy ra ở các giai đoạn tố tụng

Page 21: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

21

hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Chẳng hạn như, trường hợp các cơ

quan Công an trong quá trình thực hiện việc giam, giữ, dẫn giải đã thiếu trách

nhiệm để cho người phạm tội bỏ trốn nhưng đã che giấu không báo cáo mà tự tổ

chức đi tìm để trốn tránh trách nhiệm hoặc người có thẩm quyền vì một lý do

nào đó đã không truy tố người phạm tội theo quy định của pháp luật mà quyết

định đình chỉ điều tra với lý do miễn trách nhiệm hình sự.

+ Tội phạm ẩn thống kê là có những hành vi phạm tội và người phạm tội

tuy đã được xử lý bằng chế tài hình sự nhưng không được đưa vào thống kê.

Nguyên nhân gây ra tình trạng này là hiện nay những quy định về thống kê báo

cáo cũng như việc thực hiện các quy định này giữa các CQTP còn có sự không

thống nhất. Ví dụ: Ngành Kiểm sát lấy số liệu tổng kết công tác năm từ ngày

01/12 đến ngày 30/11 của năm sau nhưng ngành Tòa án lại lấy số liệu từ ngày

01/10 đến ngày 30/9 của năm sau. Trong thực tế số liệu của các CQTP lệch nhau

không lớn nhưng vẫn xảy ra. Việc làm lọt số lượng tội phạm đã bị phát hiện,

điều tra, xử lý trong các số liệu thống kê tội phạm làm cho việc đánh giá THTP

trong thực tế là không chính xác, làm ảnh hưởng đến sự phân tích, đánh giá và

dẫn đến những sai lệch trong các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Theo GS. TSKH Đào Trí Úc thì: “Trong khoa học về tội phạm, kiểm soát

về tội phạm được hiểu như là khả năng nắm bắt tình hình tội phạm thực tế của

các cơ quan quản lý hữu quan của Nhà nước và mức độ phản ánh thực tế của

Nhà nước đối với tội phạm” [3]. Như vậy, có thể khẳng định, tỷ lệ tội phạm ẩn

trong THTP nói chung và trong nhóm tội phạm XPHĐTP do cán bộ các CQTP

thực hiện nói riêng phản ánh khả năng kiểm soát tội phạm của các cơ quan bảo

vệ pháp luật ở nước ta còn có sự hạn chế. Qua tìm hiểu ở các cơ quan chức năng

chúng tôi thấy rằng, phần lớn các tội phạm XPHĐTP thuộc thẩm quyền điều tra

của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đều có độ ẩn rất cao. Tuy không thể thống

kê các vụ tội phạm ẩn nhưng trong báo cáo tổng kết công tác của Cục điều tra

VKSND tối cao hàng năm đều có chung đánh giá là: Mặc dù đã có nhiều cố

gắng nhưng hoạt động của CQĐT của VKSND tối cao mới chỉ đáp ứng được

một phần yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm XPHĐTP trong tình hình

hiện nay, tỉ lệ vụ án và bị can được khởi tố, điều tra còn thấp so với số lượng tội

phạm xảy ra trên thực tế [4]. Vì vậy, việc nghiên cứu tội phạm ẩn sẽ góp phần

quan trọng vào việc đấu tranh chống và phòng ngừa các tội XPHĐTP nói chung

trong công cuộc cải cách và xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Tóm lại, qua nghiên cứu THTP của các tội XPHĐTP thuộc thẩm quyền

điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao cho thấy, mặc dù nhóm tội phạm

này chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với tổng số tội phạm xảy ra hàng năm trên toàn quốc,

nhưng lại đang có chiều hướng tăng nhanh và diễn biến phức tạp. Điều đáng lưu

ý là phần lớn các tội phạm thuộc nhóm này có độ ẩn cao, khó bị phát hiện, vì

Page 22: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

22

vậy việc tăng cường công tác phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi phạm tội này

trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết.

2. Nguyên nhân, điều kiện của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp

do cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp thực hiện

Nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung là tổng hợp những ảnh

hưởng và quá trình xã hội làm phát sinh THTP. Đó là sự tác động một cách tổng

thể các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật và tâm lý con người

làm phát sinh, thay đổi mức độ, động thái, cơ cấu, tính chất của THTP. Là một

bộ phận của THTH nói chung nên các nguyên nhân, điều kiện chung này đã có

ảnh hưởng sâu sắc đến nguyên nhân và điều kiện của các tội XPHĐTP do cán bộ

thuộc các CQTP thực hiện nói riêng.

Qua nghiên cứu, khảo sát tình trạng phạm tội XPHĐTP của cán bộ thuộc

các CQTP ở nước ta trong thời gian qua, chúng tôi nhận thấy nguyên nhân, điều

kiện dẫn đến nảy sinh các tội phạm này do nhiều hiện tượng, quá trình xã hội

khác nhau. Do đó, có thể có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu nguyên nhân, điều

kiện của nhóm tội này nhưng căn cứ vào đặc điểm về chủ thể của các tội phạm

XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện, chúng tôi chọn cách tiếp cận là

tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện của nhóm tội phạm này dựa vào tính đặc thù về

chủ thể của các tội phạm này.

Kết quả phân tích các quy định của pháp luật về các tội XPHĐTP thuộc

thẩm quyền điều tra của CQĐT của VKSND tối cao trong Chương 1 của đề tài

này đã cho thấy đây là những tội phạm có chủ thể đặc biệt là các cán bộ tư pháp

như ĐTV, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Chấp hành viên - những

người đã được nhà nước trao cho nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để tiến hành

các hoạt động tố tụng để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của công dân. Tuy nhiên, trên thực tế, đã có

không ít cán bộ tư pháp không nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, trách nhiệm

của mình hoặc bị cám dỗ bởi đồng tiền mà cố tình làm sai lệch các hoạt động tố

tụng, gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Qua nghiên cứu các hồ sơ điều tra

về tội XPHĐTP có thể rút ra những nguyên nhân, điều kiện chủ yếu dẫn các cán

bộ của các CQTP đến con đường phạm tội là:

Thứ nhất, đa số người phạm tội có nhận thức sai lệch về tầm quan trọng

của vị trí công tác, quyền hạn của mình, cho rằng mình là người đang nắm và

thừa hành pháp luật nên có thái độ cửa quyền, hách dịch, coi thường tính mạng,

sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bị can, bị cáo hay của các đương

sự….Điển hình như vụ án T. B.T, N. V. Q.– nguyên Điều tra viên công an

Thành phố NT đã đánh đập bà T. T. L. để lấy lời khai, chỉ vì nghi ngờ bà L.

Page 23: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

23

trộm cắp tiền của chủ nhà. Hậu quả bà L. đã bị thương tích nặng nhưng sau khi

xác minh thì bà L. không phải là thủ phạm [5].

Thứ hai, bên cạnh những cán bộ tư pháp tận tâm, hết lòng vì công việc

chung thì có nhiều cán bộ tư pháp còn vì tư lợi cá nhân mà phạm tội, thuộc

trường hợp này là những người phạm các tội tham nhũng, hối lộ trong hoạt động

tư pháp. Ví dụ: P.T.T.T – nguyên Kiểm sát viên huyện VT, tỉnh HG đã nhận hối

lộ của các bị can phạm tội ma túy để làm sai lệch hồ sơ vụ án bằng cách tạo

dựng biên bản lấy lời khai, giả mạo chữ ký của nhân chứng, từ đó đã trả trái

phép 11 lượng vàng cho bị can N.T.H., đồng thời đã đề xuất cho bị can này

được bảo lĩnh tại ngoại và xử phạt dưới khung hình phạt của điều luật [6].

Thứ ba, một số cán bộ tư pháp đã mắc căn bệnh “thành tích” hoặc nóng

vội, chủ quan, vì sức ép của công việc mà nôn nóng muốn hoàn thành công việc

sớm, dẫn đến phạm tội. Điển hình là vụ án dùng nhục hình xảy ra tại Công an

Thành phố TH, tỉnh PY vào tháng 5 năm 2012: Khi bắt được N.T.K là nghi can

trong vụ trộm cắp xe máy có tính chuyên nghiệp, do nôn nóng muốn phá được

băng nhóm trộm cắp chuyên nghiệp này mà năm cán bộ, ĐTV đã đánh đập đối

tượng Kiều để lấy lời khai, làm cho đối tượng bị tử vong và chết trên đường đi

cấp cứu ngay trong ngày 13/5/2012 [7].

Thứ tư, một số cán bộ tư pháp có thái độ thờ ơ, bàng quan trước nhiệm

vụ của mình, trước các trách nhiệm mà pháp luật đã quy định dẫn đến tắc trách,

lơ là, tùy tiện trong công tác quản lý, điều hành các hoạt động tư pháp hay khi

trực tiếp tiến hành những hoạt động tố tụng…nên đã gây ra hậu quả nghiêm

trọng từ sự thiếu trách nhiệm đó. Điển hình như trường hợp T.V.V. và một số

cán bộ trại giam Công an tỉnh TH đã thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra

buồng giam để các bị can mang nhiều lưỡi cưa sắt vào phòng giam, làm công cụ

để cắt song sắt ô thoáng, phá cửa 04 buồng giam để 04 bị can đang bị giam về

các tội phạm rất nghiêm trọng trốn khỏi nơi giam đêm 03/11/2010. Hoặc như

H.V.C - nguyên cán bộ quản giáo trại giam HT vì thiếu trách nhiệm nên đã để

một phạm nhân bỏ trốn khỏi trại giam sau đó phạm tội giết người [8].

Thứ năm, hiện tại vẫn còn có những cán bộ số cán bộ phạm tội do trình

độ nghiệp vụ thấp kém vì không được đào tạo bài bản, kiến thức pháp luật, kiến

thức chuyên môn còn chắp vá, trình độ nghiệp vụ còn non kém, trong khi hoạt

động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, có ảnh hưởng trực tiếp

đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của con người, đòi hỏi những người

thực hiện hoạt động này ngoài phẩm chất chính trị và đạo đức cần thiết còn phải

được đào tạo một cách chính quy và bài bản để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu

tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan và chủ

Page 24: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

24

quan, chúng ta chưa có được đội ngũ cán bộ điều tra, truy tố, xét xử hay thi hành

án ngang tầm nhiệm vụ. Nhận xét về hạn chế của đội ngũ cán bộ các CQTP hiện

nay, Nghị quyết số 49- NQ/TW năm 2005 của Đảng về Chiến lược Cải cách tư

pháp đã nêu: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp

vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán

bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp”.

Thứ sáu, chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức nói chung và

cán bộ tư pháp nói riêng còn nhiều hạn chế, đời sống của nhiều cán bộ gặp khó

khăn và ảnh hưởng không nhỏ tới ý thức của các cán bộ tư pháp là sức cám dỗ

của đồng tiền. Điển hình là vụ N.T.P, N.V.N (Lãnh đạo phòng Cảnh sát điều tra

Công an TG) đã chỉ đạo cho các cán bộ, ĐTV dưới quyền đem số tiền trên 5 tỉ

đồng thu giữ trong vụ án 502X gửi ngân hàng để lấy lãi chia nhau, phục vụ đời

sống của một nhóm cán bộ. Hoặc vụ N.V.H, Chấp hành viên Chi cục Thi hành

án huyện NG, tỉnh HD đã nhận 405 triệu đồng của người thi hành án nhưng

không nộp vào quỹ của Chi cục mà sử dụng cho cá nhân. Đây là vấn đề cần

được xem xét kỹ hơn trong tình hình xã hội hiện nay, khi các hiện tượng tiêu

cực hàng ngày len lỏi vào đội ngũ cán bộ, viên chức, trong đó có đội ngũ cán bộ

tư pháp [9].

Ngoài ra, còn có nguyên nhân là sự yếu kém trong công tác quản lý cán

bộ của một số CQTP chưa thật chặt chẽ, khen thưởng, kỷ luật chưa nghiêm

minh, chưa thường xuyên giáo dục ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cho

cán bộ. Thậm chí có một số lãnh đạo cơ quan còn có tư tưởng cục bộ, bao che

cho cán bộ khi phát hiện có sai phạm thì tìm cách che giấu để xử lý nội bộ.

Chính điều này đã làm cản trở việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm,

phạm tội XPHĐTP của các cán bộ tư pháp.

Những nguyên nhân, điều kiện nói trên đã làm phát sinh và tạo điều kiện

thuận lợi cho sự gia tăng của THTP về các tội XPHĐTP do cán bộ thuộc các

CQTP thực hiện.

3. Công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tƣ

pháp do cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp thực hiện

Kết quả nghiên cứu về THTP của nhóm tội XPHĐTP mà người phạm tội

là cán bộ thuộc các CQTP đã cho thấy, các tội phạm XPHĐTP do cán bộ thuộc

các CQTP thực hiện trong 5 năm qua đã có những diễn biến hết sức phức tạp,

tăng, giảm không ổn định nhưng có chiều hướng gia tăng, mặc dù công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các tội XPHĐTP nói riêng đã được

Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Trong Nghị quyết số 49 năm 2005 về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đảng ta nêu rõ quan điểm đấu tranh

Page 25: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

25

phòng, chống các tội phạm do các cán bộ có chức vụ, quyền hạn thực hiện và

các tội XPHĐTP nói riêng như sau: “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc

hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật,

những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng

cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm

khắc để làm gương cho người khác”. Điều đó thể hiện sự nỗ lực và quyết tâm

của Đảng, Nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và

các tội phạm XPHĐTP do cán bộ các CQTP thực hiện nói riêng.

Không chỉ dừng lại ở việc đề ra chủ trương, đường lối đấu tranh phòng

chống tội phạm mà Nhà nước đã ban hành những văn bản pháp luật cần thiết

cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng

hình sự, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự v.v quy định rõ thẩm quyền điều tra,

truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong

đó, Cơ quan điều tra của VKSND tối cao được trao cho thẩm quyền:“Điều tra

một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc

các cơ quan tư pháp” (Khoản 3 Điều 110 BLTTHS). Vì vậy, kết quả đấu tranh

phòng, chống các tội XPHĐTP do cán bộ các CQTP thực hiện được thể hiện chủ

yếu qua kết quả hoạt động điều tra các vụ án XPHĐTP thuộc thẩm quyền của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi

đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát công tác điều tra của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao trong 5 năm (từ 2009 đến 2013) và nhận thấy như sau:

3.1. Những kết quả đạt được trong công tác đấu tranh phòng, chống

các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các

cơ quan tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội và

Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, những năm qua, CQĐT của

VKSND tối cao đã tích cực phối hợp với các CQTP khác đấu tranh kiên quyết

đối với loại tội phạm XPHĐTP do cán bộ các CQTP thực hiện, điều tra, khám

phá nhiều vụ án, góp phần ngăn chặn tình trạng vi phạm, phạm tội trong hoạt

động tư pháp, đảm bảo hoạt động đúng đắn của các CQTP trong quá trình điều

tra, truy tố, xét xử.

Trước hết, để thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm,

Cục Điều tra VKSND tối cao đã quan tâm đến công tác xây dựng và hoàn thiện

cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động, về việc phối hợp phân loại, xử lý thông

tin về tội phạm XPHĐTP (nhất là đối với loại tội phạm XPHĐTP do các cán bộ

tư pháp thực hiện) trong nội bộ ngành cũng như các cơ quan hữu quan của các

ngành khác. Do đó, đã ban hành một số quy chế quan trọng như: Quy chế Tổ

Page 26: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

26

chức và hoạt động của Cục Điều tra VKSND tối cao” năm 2010; Quy chế Tiếp

nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền

giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao” năm 2011. Dựa trên các cơ sở

pháp lý này, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã tiến hành các hoạt động điều

tra theo thẩm quyền và đã đạt được những kết quả như sau:

3.1.1. Kết quả tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến

nghị khởi tố

Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt

động “mở đầu” cho quá trình phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý tội phạm nên

lãnh đạo Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã hết chú trọng đến hoạt động này

bằng việc thường xuyên chỉ đạo các phòng nghiệp vụ tăng cường và nâng cao

chất lượng công tác tiếp nhận, thu thập tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố thuộc thẩm quyền nhằm đảm bảo mọi hành vi tội phạm XPHĐTP do các

cán bộ tư pháp thực hiện được phát hiện và xử lý kịp thời.

Để làm tốt nhiệm vụ này, các phòng nghiệp vụ của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao đã tích cực và có nhiều biện pháp để chủ động phát hiện, thu

thập tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền xảy ra trên địa bàn được

phân công; thực hiện có hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ nhằm phát hiện tội

phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình. Cụ thể, trên cơ sở các thông tin về tội

phạm đã tiếp nhận, thu thập; trọng tâm là các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố mà dư luận xã hội quan tâm, được đăng tải trên các phương tiện

thông tin đại chúng hoặc do các cơ quan Đảng, Nhà nước và lãnh đạo VKSND

tối cao chỉ đạo giải quyết; các Điều tra viên tập trung nghiên cứu, phân loại, tổ

chức kiểm tra xác minh. Đối với những thông tin về tội phạm chưa rõ thẩm

quyền thì phối hợp với Viện kiểm sát địa phương để xác minh, làm rõ. Đồng

thời triển khai thực hiện Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối

cao (Quy chế 116), xây dựng mạng lưới cộng tác viên cơ sở ở các địa bàn; duy

trì hộp thư tố giác, tin báo tội phạm, phát triển hộp thư điện tử trên Website của

ngành Kiểm sát; đảm bảo quá trình xác minh tố giác, tin báo về tội phạm

XPHĐTP theo đúng trình tự, quy định của BLTTHS.

Theo kết quả khảo sát, trong 5 năm qua, CQĐT của VKSND tối cao đã tiếp

nhận 789 tin báo, tố giác và đã tiến hành thụ lý, xác minh giải quyết 455 tin (đạt

tỉ lệ 57,66%), số vụ việc chuyển cơ quan khác hoặc chờ địa phương xử lý, chờ

kết quả xét xử (giám đốc thẩm) của Tòa án hoặc chờ kết quả xác minh là 334 tin

(chiếm tỉ lệ 42,34%).

Page 27: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

27

Theo thống kê của Cục Điều tra VKSND tối cao, trong tổng số 205 vụ án

đã khởi tố thì số vụ án khởi tố về các tội tham nhũng, chức vụ trong hoạt động

tư pháp là 102 vụ, chiếm tỉ lệ 49,8%; số vụ án về tội XPHĐTP mà người phạm

tội là cán bộ của các CQTP là 103 vụ, chiếm tỉ lệ 50,2%.

Thông qua kết quả điều tra, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã có những

kiến nghị xử lý vi phạm, xử lý đối với cán bộ tư pháp vi phạm pháp luật nhưng

chưa đến mức xử lý hình sự hoặc do chính sách hình sự mà không truy tố. Chỉ

tính riêng năm 2010, Cục Điều tra đã ban hành 25 bản kiến nghị, trong đó có 11

bản kiến nghị với Giám đốc Công an tỉnh, 06 kiến nghị với Chánh án Tòa án

nhân dân cấp tỉnh, 04 kiến nghị với Cục trưởng Cục Thi hành án và Tổng cục

trưởng Cục Thi hành án Bộ Tư pháp; 03 kiến nghị với Viện trưởng VKSND cấp

tỉnh ở một số địa phương để yêu cầu xử lý kỷ luật cán bộ vi phạm. Ví dụ, Cục

Điều tra VKSND tối cao đã kiến nghị Chánh án TAND Thành phố HP, yêu cầu

xử lý kỷ luật Thẩm phán N.V.C vì hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án dân sự hoặc

có kiến nghị với Giám đốc Công an tỉnh BP yêu cầu xử lý hành chính đối với

Điều tra viên vì đã làm sai lệch hồ sơ vụ án; kiến nghị với Viện trưởng VKSND

Thành phố HCM yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của Viện trưởng VKSND

Quận TĐ vì thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý cán bộ [10] Các kiến nghị

của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã được các cơ quan hữu quan tiếp thu,

thực hiện, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm.

3.1.2. Kết quả hoạt động khởi tố, điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư

pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp của Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Hoạt động điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra của

VKSND tối cao có một số đặc điểm là: Địa bàn hoạt động rộng (trên phạm vi cả

nước); đối tượng điều tra là cán bộ có chức danh pháp lý như Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên…Đây là những người am hiểu pháp

luật, có kinh nghiệm trong hoạt động tư pháp nên có nhiều khả năng đối phó với

các cơ quan bảo vệ pháp luật; Đa số các Điều tra viên của Cục Điều tra chưa

được đào tạo bài bản về nghiệp vụ điều tra mà chủ yếu từ các khâu công tác

kiểm sát khác chuyển sang, lực lượng Điều tra viên còn mỏng; các công cụ

phương tiện phục vụ hoạt động điều tra còn thiếu…Tuy nhiên, với quyết tâm

kiên quyết đẩy lùi tình trạng phạm tội của các cán bộ tư pháp, những năm qua,

các Điều tra viên của VKSND tối cao đã nỗ lực tiến hành các hoạt động phát

hiện, điều tra các vụ phạm tội thuộc thẩm quyền nên đã đạt được những kết quả

nhất định. Một số vụ án được Cơ quan điều tra VKSND tối cao phát hiện, điều

tra, xử lý kịp thời, được dư luận đồng tình. Ví dụ: Năm 2010, đã khởi tố, điều tra

Page 28: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

28

N.V.T (Phó Cục trưởng Cục Thi hành án) và N.T.T (Chấp hành viên Cục Thi

hành án tỉnh TG) về tội Ra quyết định trái pháp luật, các bị can đã bị truy tố và

xét xử với mức án nghiêm khắc, được nhân dân địa phương đồng tình; Năm

2012, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã khởi tố, điều tra và đề nghị truy tố 5

bị can là các Điều tra viên, sĩ quan Công an của Công an thành phố TH, tỉnh PY

về tội “Dùng nhục hình” được dư luận đánh giá cao.

Theo các báo cáo tổng kết công tác của Cục Điều tra VKSND tối cao, trong

5 năm qua, số vụ án CQĐT đề nghị truy tố không có vụ án nào bị đình chỉ điều

tra vì không phạm tội, không có bị cáo nào bị Tòa án tuyên không phạm tội.

Kết quả khởi tố, điều tra các vụ án XPHĐTP của Cơ quan điều tra VKSND

tối cao không những đã đáp ứng việc thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát,

yêu cầu phòng, chống tội phạm và công tác đấu tranh, ngăn ngừa các hành vi

phạm tội XPHĐTP của cán bộ các CQTP mà còn đáp ứng việc giải quyết những

khiếu kiện, bức xúc của công dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

3.2. Những hạn chế, tồn tại trong công tác đấu tranh phòng, chống các

tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ

quan tư pháp

Có thể thấy, những kết quả đạt được trong công tác đấu tranh phòng,

chống các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP là rất tích

cực, thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung

và CQĐT của VKSND nói riêng trong đấu tranh, phòng ngừa nhóm tội phạm

nguy hiểm này. Tuy nhiên, thực tế đấu tranh phòng, chống các tội XPHĐTP

cũng còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại như sau :

Một là, số vụ án, số bị can được CQĐT của VKSND tối cao khởi tố, điều

tra về tội XPHĐTP còn thấp trong khi số lượng kiến nghị với các CQTP đề nghị

xử lý kỷ luật, xử lý hành chính đối với cán bộ tư pháp còn nhiều cho thấy vẫn

còn có những hành vi XPHĐTP của cán bộ tư pháp chưa được xử lý đúng mức.

Hai là, CQĐT của VKSND tối cao chưa quản lý được đầy đủ tình hình tội

XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện, trên toàn quốc. Một số địa phương

xảy ra tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT này nhưng VKSND địa

phương vẫn “làm ngơ” để CQĐT khác điều tra, không chuyển cho CQĐT của

VKSND tối cao, chỉ đến khi vụ việc trở nên phức tạp, địa phương không giải

quyết được mới thông tin, báo cáo đến cơ quan có thẩm quyền.

Ba là, hoạt động điều tra của CQĐT Viện KSND tối cao chưa thực sự

hiệu quả. Các vụ án điều tra thường kéo dài hoặc phải gia hạn điều tra. Tỉ lệ vụ

án, bị can phải đình chỉ điều tra còn cao. Theo thống kê, trong số 103 vụ án

được điều tra thì đã có tới 11 vụ án phải đình chỉ điều tra (chiếm tỉ lệ 10,6%)

Page 29: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

29

phần nào chứng tỏ trong hoạt động phát hiện, xử lý các đối tượng phạm tội còn

tồn tại cách xử lý mang tính chất ‟nội bộ”, cho qua.

Bốn là, hoạt truy tố, xét xử đối với một số vụ án về tội XPHĐTP của cán

bộ các CQTP chưa thực sự nghiêm minh, mức án áp dụng đối với nhiều bị cáo

còn chưa tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội nên không

đủ sức răn đe. Điển hình là vụ án “Dùng nhục hình” dẫn đến chết người xảy ra

tại tỉnh PY thì 5 bị cáo là cán bộ, Điều tra viên chỉ bị xử phạt mức án từ 1 năm

đến 5 năm tù , trong đó bị cáo bị xử phạt mức án nhẹ nhất là 1 năm tù cho hưởng

án treo nên bản án này đã bị hủy để điều tra lại [11].

3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong công tác đấu tranh

phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán

bộ thuộc các cơ quan tư pháp

Công tác đấu tranh phòng, chống các tội XPHĐTP do cán bộ của các

CQTP thực hiện còn có những tồn tại, hạn chế nhất định là do những nguyên

nhân chủ yếu sau đây :

Thứ nhất, do những quy định của pháp luật về thẩm quyền điều tra các tội

XPHĐTP là chưa rõ ràng, cụ thể.

Điều 110 BLTTHS quy định: Thẩm quyền điều tra các tội XPHĐTP mà

người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thuộc về CQĐT của VKSND tối cao,

đồng thời cũng quy định thẩm quyền điều tra đối với các tội XPHĐTP nói chung

(các tội phạm quy định tại Chương XXII BLHS) cho CQĐT của ngành Công an.

Điều này dẫn đến sự chồng chéo trong thẩm quyền và làm mất đi tính chủ động,

khách quan của các CQĐT trong quá trình phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các

hành vi phạm tội XPHĐTP nói chung và nhóm tội phạm do các cán bộ của

CQTP thực hiện nói riêng. Trong thực tế, có những tội phạm XPHĐTP xảy ra

nhưng không có cơ quan nào tiến hành điều tra hoặc mất nhiều thời gian để xác

định thẩm quyền dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc điều tra không kịp thời.

Thứ hai, công tác phát hiện, điều tra các tội XPHĐTP mà người phạm tội

là cán bộ thuộc các CQTP trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn so với việc phát

hiện, điều tra các loại tội phạm khác trong khi đội ngũ Điều tra viên chưa được

đào tạo chuyên sâu về phương pháp phát hiện, điều tra loại tội phạm này. Các

trang thiết bị, công cụ, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác điều tra của

CQĐT Viện KSND tối cao còn thiếu và lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm.

Thứ ba, một số CQTP chưa nhận thức đúng đắn về yêu cầu của công tác

đấu tranh phòng chống tội phạm XPHĐTP trong nội bộ cơ quan, tổ chức của

mình; chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp

Page 30: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

30

cho cán bộ dẫn đến một bộ phận cán bộ bị suy thoái về tư tưởng, đạo đức nên dễ

dàng sa ngã trước sự cám dỗ của đồng tiền và sa vào con đường phạm tội.

Thứ tư, về cơ cấu tổ chức của CQĐT Viện KSND tối cao hiện chỉ có ở

cấp trung ương, không có lực lượng hỗ trợ tư pháp để giúp thực hiện các hoạt

động xác minh, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và điều tra tội phạm. Đây cũng là

một trong những nguyên nhân làm hạn chế hoạt động điều tra của CQĐT Viện

KSND tối cao trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.

Kết luận Chƣơng 2

Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh và khảo sát

thực tiễn, trong Chương 2, chúng tôi đã làm rõ thực trạng, diễn biến tình hình tội

phạm về các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP, làm rõ

những nguyên nhân, điều kiện của nó, trên cơ sở đó để xem xét, đánh giá kết

quả công tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm nguy hiểm này ở nước ta

trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2013, tìm ra những tồn tại, hạn chế trong công

tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này, đồng thời chỉ ra những nguyên

nhân khách quan và chủ quan của những tồn tại, hạn chế đó. Đây là cơ sở thực

tiễn quan trọng để dự báo chính xác tình hình tội phạm XPHĐTP do cán bộ

thuộc các CQTP thực hiện trong thời gian tới và đề xuất các giải pháp nâng cao

chất lượng, hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này

trong Chương 3.

Page 31: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

31

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU

TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ

PHÁP MÀ NGƢỜI PHẠM TỘI LÀ CÁN BỘ THUỘC CÁC CƠ QUAN

TƢ PHÁP NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP

1. Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời

phạm tội là cán bộ thuộc các Cơ quan tƣ pháp trong thời gian tới

1.1. Cơ sở dự báo

Tình hình tội phạm XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các

CQTP là một phần trong bức tranh tổng thể của tình hình tội phạm nói chung.

Chính vì vậy, những yếu tố tác động đến THTP chung cũng sẽ là những yếu tố

ảnh hưởng đến THTP của các tội XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực

hiện. Do đó, để có thể đưa ra những dự báo về tình hình diễn biến của nhóm tội

phạm này, trước hết, phải nhận biết được các yếu tố tác động đến THTP nói

chung ở nước ta hiện nay.

Tình hình tội phạm luôn có liên quan chặt chẽ với quá trình phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong

một khoảng thời gian nhất định. Vì thế, THTP nói chung ở nước ta và THTP của

các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP nói riêng, trong

thời gian tới sẽ có những biến động bởi những nhân tố chủ yếu sau đây:

+ Một là, những tác động về kinh tế - xã hội: Trong xu thế hội nhập quốc

tế và phát triển kinh tế theo quy luật kinh tế thị trường, đã có một bộ phận không

nhỏ người dân nước ta chịu ảnh hưởng của những tư tưởng lệch lạc về các giá trị

văn hóa, lối sống thực dụng dẫn đến thích hưởng thụ, lười lao động, coi trọng

các nhu cầu của cá nhân mà xem nhẹ lợi ích của cộng đồng.

+ Hai là, công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội còn những hạn chế,

bất cập như: Công tác quản lý xã hội trong nhiều lĩnh vực còn nhiều sơ hở, thiếu

sót, nhất là trong quản lý kinh tế, quản lý kinh doanh, quản lý cư trú, quản lý cán

bộ; công tác quản lý giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư chưa được

các cấp, các ngành quan tâm đúng mức, còn nhiều sơ hở, bất cập…

+ Ba là, hệ thống pháp luật, chính sách về kinh tế - xã hội chưa hoàn

thiện, đồng bộ, còn nhiều sơ hở, thiếu sót và chậm được hướng dẫn thi hành, các

chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe và còn nhiều bất cập trong khi phương thức thủ

đoạn của bọn tội phạm ngày càng tinh vi, phức tạp.

Page 32: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

32

+ Bốn là, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật

có lúc, có nơi, có việc chưa kịp thời và hiệu quả. Nhất là công tác phát hiện, xử

lý các vi phạm pháp luật và tội phạm tham nhũng, chức vụ chưa được thường

xuyên, kịp thời và nghiêm minh, còn tình trạng nể nang, né tránh nên hiệu lực

phòng ngừa thấp. Vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa được phát huy

cao nhất trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

+ Năm là, tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ

phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sự non kém về bản lĩnh chính trị và trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ; ý thức trách nhiệm và tinh thần làm việc của cán bộ,

công chức trong các cơ quan nhà nước chưa cao, nhiều trường hợp tiêu cực, vi

phạm pháp luật, một số trường hợp còn phạm tội, trong đó có một bộ phận cán

bộ tư pháp.

Chính vì những lý do trên mà trong các báo cáo của các cơ quan CQTP

về THTP đều có chung dự báo là: THTP nhìn chung tiếp tục có những diễn biến

hết sức phức tạp với những phương thức thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng

tội phạm luôn có xu hướng gia tăng cả về quy mô và tính chất. Là một bộ phận

cấu thành của THTP thì tình hình tội phạm XPHĐTP do các cán bộ tư pháp thực

hiện trong thời gian tới ở nước ta cũng sẽ có những biến động gia tăng tương

ứng với những biến động của THTP nói chung.

1.2. Nội dung dự báo

Trên cơ sở phân tích những yếu tố tác động đến THTP nói chung, có thể

đưa ra các dự báo về THTP của các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ

thuộc các CQTP, trong thời gian tới như sau:

Một là, THTP của các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc

các CQTP sẽ biến động gia tăng tương ứng với sự biến động của tình hình tội

phạm nói chung.

Hai là, tội “Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn” sẽ tiếp tục gia

tăng trong lĩnh vực giam, giữ, thi hành án phạt tù. Bởi lẽ, trên thực tế, công tác

tạm giữ, tạm giam và thi hành án phạt tù hiện đang gặp rất nhiều khó khăn,

vướng mắc: Thứ nhất, các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam hiện nay đang

quá tải trong khi cơ sở vật chất phục vụ cho việc giam, giữ còn thiếu và một số

nơi đang ở trong tình trạng xuống cấp; thứ hai, do thiếu biên chế cán bộ làm

công tác quản lý giam, giữ nên một số nơi giam, giữ phải huy động cả chiến sỹ

nghĩa vụ tham gia công tác; đa số cán bộ, chiến sỹ chưa được đào tạo chuyên

sâu về chuyên môn nghiệp vụ quản lý giam, giữ, tinh thần cảnh giác, ý thức

trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ, chiến sỹ trong khi làm

nhiệm vụ chưa cao, thậm chí có trường hợp còn lơ là, tắc trách và vụ lợi, chế độ

Page 33: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

33

đãi ngộ đối với cán bộ, chiến sỹ làm công tác này chưa tương xứng với tính chất

công việc được giao; thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát của VKS đối với công

tác này chưa thường xuyên, liên tục; việc áp dụng các chế tài để xử lý đối với

loại tội phạm này những năm qua là chưa nghiêm khắc nên không đủ sức răn đe.

Đây là những nguyên nhân, điều kiện chủ yếu làm phát sinh tội phạm này.

Tiếp theo, các tội phạm XPHĐTP có thể phát sinh trong lĩnh vực thi hành

án dân sự như: Tội “Ra quyết định trái pháp luật”; tội “Không thi hành án”…

cũng sẽ tăng nhanh và có những diễn biến phức tạp. Bởi vì, hoạt động thi hành

án dân sự là một lĩnh vực HĐTP hết sức phức tạp, liên quan đến nhiều cấp,

nhiều ngành, liên quan tới những tài sản thuộc về các tổ chức xã hội và công dân

như tiền, nhà ở, đất đai…Trong khi đó, thể chế pháp luật và văn bản hướng dẫn

về thi hành án dân sự hiện nay còn có quá nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa rõ

ràng nên có nhiều “kẽ hở” pháp luật bị các cán bộ CQTHA dân sự lợi dụng để

làm sai mà không dễ phát hiện. Mặt khác, trong thi hành án dân sự, cả người

được thi hành án và người phải thi hành án đều có chung một tâm lý là muốn

được lợi ích cao nhất từ việc thi hành án nên thường sử dụng chiêu bài “hối lộ”

cho cán bộ thi hành án để hưởng lợi. Trên thực tế, nhiều cán bộ thi hành án dân

sự đã bị sa ngã bởi những đề nghị “hấp dẫn” từ phía các đương sự, cộng với việc

thường xuyên phải tiếp xúc với tiền bạc và những tài sản giá trị lớn như trong thi

hành án nên dễ làm phát sinh lòng tham dẫn đến việc phạm tội vì trục lợi.

Ba là, trong thời gian tới, một số tội phạm gắn với hành vi của những

người có thẩm quyền ra các quyết định trong HĐTP như: Tội “Không truy cứu

TNHS người có tội”, tội “Ra quyết định pháp luật” cũng có chiều hướng gia

tăng. Vì theo quy định của pháp luật hiện hành, các ĐTV, KSV, Thẩm phán,

Chấp hành viên là những người trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng. Tuy

nhiên, những người đứng đầu các CQTP như Viện trưởng VKS, Thủ trưởng

CQĐT, Chánh án Tòa án, Thủ trưởng CQTHA dân sự lại là những người có vai

trò quyết định hoặc có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định xử lý, giải quyết các vụ

án. Nhưng hiện tại, các quy định của pháp luật về trách nhiệm cá nhân của người

đứng đầu các CQTP và những người trực tiếp tiến hành tố tụng chưa đầy đủ, rõ

ràng nên rất dễ bị lợi dụng để ra những quyết định sai trái mà không sợ phải chịu

trách nhiệm.

Bên cạnh những tội phạm XPHĐTP có chiều hướng gia tăng thì từ thực tế

công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm XPHĐTP của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao có thể thấy xu hướng giảm trong thời gian tới của tội phạm

“Dùng nhục hình”. Bởi lẽ trong 5 năm qua, nhiều tội phạm dùng nhục hình đã bị

phát hiện, điều tra và xử lý nghiêm minh; đồng thời tội phạm này khi xảy ra thì

Page 34: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

34

thường gây nên sự căm phẫn trước hành vi trái pháp luật, vô đạo đức và thiếu

lương tâm của người phạm tội nên luôn bị dư luận xã hội lên án mạnh mẽ. Mặt

khác, nguyên nhân dẫn đến tội phạm này của các cán bộ CQTP chủ yếu là do

bộc phát, nhất thời, nóng vội, muốn lập thành tích trong quá trình phá án, do coi

thường tính mạng, sức khỏe của người khác nhưng hiện tại các CQTP đang tích

cực đẩy mạnh các hoạt động phòng chống vi phạm, tội phạm, đẩy mạnh công tác

giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, văn hóa ứng xử, tinh

thần và trách nhiệm trong nghề nghiệp của các cán bộ tư pháp như: Cuộc vận

động “Xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên vững về chính trị, giỏi về nghiệp

vụ, tinh thông về pháp luật; công tâm, bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” của

ngành Kiểm sát; phong trào thi đua “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều

lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ” của ngành Công an v.v.

nên những hành vi trái pháp luật và phi đạo đức trong hoạt động tư pháp của cán

bộ các CQTP như trong các vụ án “Dùng nhục hình” chắc chắn sẽ bị đẩy lùi.

Tóm lại, từ những dự báo trên, có thể thấy, trong thời gian tới, nhóm tội

phạm XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện sẽ có những diễn biến phức

tạp theo chiều hướng gia tăng. Vì vậy, cần phải có những biện pháp hữu hiệu để

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng, chống loại tội phạm này trong tình hình mới.

2. Yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm

phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tƣ

pháp trong điều kiện cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay

Hoạt động tư pháp là hoạt động quyền lực nên đòi hỏi các cán bộ tư pháp,

các CQTP phải là sự mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Một

trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp là “Xây dựng

các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại” để thực hiện

mục tiêu: “Xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm

minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc” [13].

Trên cơ sở chủ trương, định hướng cải cách tư pháp, việc đấu tranh phòng,

chống các tội XPHĐTP trong điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Thứ nhất, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các CQTP trong việc

phòng, chống các tội XPHĐTP phải dựa trên quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của

Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, với mục tiêu tăng cường sự phối hợp, phân

công, kiểm soát quyền lực trong hoạt động tư pháp, bảo đảm các điều kiện để

các CQTP thực hiện tốt chức năng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Page 35: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

35

Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật, tổ chức và hoạt động của các CQTP đáp

ứng phải đáp ứng được tính chất đặc thù đấu tranh phòng, chống tội phạm

XPHĐTP nói chung và nhóm tội phạm XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ

của các CQTP nói riêng với phương châm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh

các hành vi có dấu hiệu tội phạm, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội

phạm để kiến nghị các giải pháp phòng ngừa, góp phần hoàn thiện hệ thống

pháp luật.

Thứ ba, đề cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần trách nhiệm của cán

bộ, nhân viên tư pháp; giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự

giác của công dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp.

3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống

các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc các

cơ quan tƣ pháp ở Việt Nam trong thời gian tới

Như trên đã phân tích, các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc

các CQTP xảy ra là do có những nguyên nhân nhất định. Để có thể đưa ra những

giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống loại tội

phạm này cần phải dựa trên kết quả nghiên cứu những nguyên nhân của những

tồn tại, hạn chế của công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong

thời gian qua và những yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm XPHĐTP

nói chung trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. Chính vì lẽ đó, chúng tôi

mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau đây:

3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật

Trong đấu tranh phòng chống tội phạm trước hết phải kể đến biện pháp

pháp luật. Việc không ngừng hoàn thiện pháp luật, ban hành pháp luật kịp thời

và chặt chẽ, tránh được những sơ hở, khiếm khuyết trong áp dụng pháp luật sẽ là

biện pháp phòng ngừa tích cực.

Để hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự, tạo cơ sở pháp lý cho

việc xử lý chính xác, nghiêm minh mọi hành vi phạm tội XPHĐTP của các cán

bộ tư pháp, theo chúng tôi cần bổ sung thêm tội quy định về hành vi của cán bộ

tư pháp đã cố ý để các bị can thông cung với nhau gây hậu quả nghiêm trọng,

đồng thời cần ban hành văn bản hướng dẫn các quy định của Chương XXII

BLHS về các tội XPHĐTP, đặc biệt là các dấu hiệu“gây hậu quả nghiêm

trọng”;“gây hậu quả rất nghiêm trọng”và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”

trong các tình tiết định khung của các điều luật cụ thể.

Về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự để khắc phục những vướng mắc,

bất cập trong các quy định về thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện KSND tối

Page 36: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

36

cao, đồng thời tăng cường kiểm soát hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước

trong hoạt động tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa

các tội XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện thì BLTTHS nên quy định

cho CQĐT của VKSND tối cao thẩm quyền điều tra tất cả tội phạm XPHĐTP

thay vì chỉ quy định thẩm quyền điều quyền điều tra “một số loại tội phạm

XPHĐTP” như hiện nay. Đồng thời mở rộng thẩm quyền điều tra các tội phạm

tham nhũng, chức vụ khác mà cán bộ các CQTP có thể thực hiện khi các hành vi

tham nhũng này có liên quan đến hoạt động tư pháp của các CQTP.

Thứ hai, cần bổ sung những quy định cụ thể về chức trách, nhiệm vụ của

từng cơ quan khi thực hiện mối quan hệ phối hợp trong vấn đề tiếp nhận và giải

quyết tin báo, tố giác về tội phạm nói chung và các tội XPHĐTP do người phạm

tội là cán bộ các CQTP thực hiện nói riêng.

Thứ ba, phân biệt rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng các cơ quan

tư pháp như CQĐT, VKS, Tòa án, cơ quan Thi hành án trong việc tổ chức, chỉ

đạo hoạt động tố tụng và trong tiến hành tố tụng đối với vụ án cụ thể. tăng

cường quyền hạn, trách nhiệm của các cán bộ tư pháp có chức danh pháp lý như

Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…

3.2. Nhóm giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các

hoạt động tư pháp, các cơ quan tư pháp và các cán bộ thuộc cơ quan tư pháp

Hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước (quyền tư

pháp), do vậy hoạt động tư pháp phải chịu sự kiểm tra giám sát của nhiều cơ chế

khác nhau (trong đó có cơ chế kiểm tra từ bên trong mỗi hệ thống CQTP và cơ

chế giám sát từ bên ngoài hệ thống CQTP). Cơ chế kiểm tra từ bên trong của

mỗi hệ thống CQTP là cơ chế kiểm tra, giám sát do chủ thể thực thi quyền tư

pháp đặt ra để kiểm tra, giám sát các bộ phận thuộc hệ thống của mình trong quá

trình thực thi thẩm quyền tư pháp. Đó là các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm

tra của bộ phận thanh tra, kiểm tra công vụ; hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ

quan tiến hành tố tụng cấp trung ương đối với cơ quan tiến hành tố tụng ở địa

phương, của cấp trên đối với cấp dưới nhằm đảm bảo cho hệ thống đó hoạt động

đúng chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định. Cơ chế giám sát từ bên

ngoài bao gồm hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước (hoạt động giám

sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Viện kiểm sát) đối với các cơ quan thực

thi quyền tư pháp, còn gọi là giám sát nhà nước và giám sát do các tổ chức chính

trị và tổ chức chính trị - xã hội thực hiện, gọi là giám sát xã hội. Tuy nhiên trong

khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung đề xuất các biện pháp tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát. Bởi vì, VKSND là cơ quan duy

nhất được Nhà nước giao cho chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hoạt

Page 37: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

37

động kiểm sát của VKSND đối với các hoạt động tư pháp thực chất là việc sử

dụng các quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho để hạn chế sự lạm quyền

của chính các cơ quan Nhà nước (các CQTP). Mục đích của kiểm sát các hoạt

động tư pháp là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và

thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong quá

trình kiểm sát các hoạt động tố tụng của các CQTP, Viện kiểm sát có quyền áp

dụng những biện pháp luật định để phát hiện, loại trừ những hành vi vi phạm

pháp luật và tội phạm của bất kỳ CQTP nào, bất kỳ cán bộ tư pháp nào. Do đó,

kiểm sát các hoạt động tư pháp là hoạt động phòng ngừa có hiệu quả nhất đối

với các tội XPHĐTP. Viện kiểm sát có vai trò rất quan trọng trong đấu tranh,

phòng ngừa tội phạm XPHĐTP và cũng là cơ quan có điều kiện thuận lợi nhất

để phát hiện, đấu tranh với những hành vi XPHĐTP của các cán bộ tư pháp.

Để hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp có hiệu quả cao, cần phải tiến

hành một số biện pháp sau:

Một là, tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của VKSND các cấp đối với các

công tác kiểm sát thực hiện chức năng.

Hai là, VKSND các cấp phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mình thông

quan các khâu công tác kiểm sát, kịp thời phát hiện những dấu hiệu sai phạm

của những người tiến hành tố tụng, những người có chức vụ quyền hạn trong

hoạt động tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm thực hiện tốt

nhiệm vụ chống oan, sai, chống lọt, bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, của tập

thể, quyền và lợi ích chính đáng của công dân.

Ba là, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và thường

xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, ý thức trách nhiệm cho các cán bộ, Kiểm sát

viên để đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên của ngành Kiểm sát thực sự là những

người gương mẫu trong việc chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật,

xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của đảng, Nhà nước và nhân dân trong đấu tranh

phòng chống tội phạm nói chung và các tội XPHĐTP nói riêng.

Bốn là, tăng cường sự phối hợp giữa VKSND các cấp với các cơ quan, đơn

vị có liên quan trong việc phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm thuộc thẩm quyền

điều tra của Cơ quan điều tra VKSND.

Năm là, tăng cường trang thiết bị, phương tiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ

của VKSND các cấp, có chính sách, chế độ đãi ngộ phù hợp để động viên đội

ngũ cán bộ ngành Kiểm sát hoàn thành tốt nhiệm vụ.

3.3. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp, tăng

cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ quan tư pháp, các chế độ chính

sách đãi ngộ đối với cán bộ các cơ quan tư pháp.

Page 38: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

38

Một trong những nguyên nhân dẫn đến phát sinh tội phạm trong lĩnh vực

hoạt động tư pháp là đội ngũ cán bộ tư pháp ở nước ta hiện nay còn thiếu về số

lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ và còn gặp nhiều khó khăn về kinh

tế, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa.

Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ tư pháp còn có biểu hiện tiêu cực, thiếu tinh

thần trách nhiệm, thiếu bản lĩnh nghề nghiệp và sa sút về phẩm chất đạo đức.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ này, trước tiên phải đổi mới quy trình

tuyển chọn các chức danh tư pháp. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến tư cách đạo

đức, bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi người, để đáp

ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời điểm hiện nay. Bên cạnh việc tuyển

chọn cán bộ kỹ càng thì cần phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao

trình độ nghiệp vụ, chuyên môn pháp lý, bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp

cho cán bộ tư pháp nhất là đối với những người có chức danh pháp lý. Đồng thời

cần tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho CQĐT, VKS, Tòa án

và Cơ quan Thi hành án cũng như có chính sách tiền lương, phụ cấp và các

khoản đãi ngộ đặc thù đảm bảo cho cán bộ tư pháp có điều kiện ổn định cuộc

sống, yên tâm công tác, không bị dao động, sa ngã trước mọi tác động cám dỗ,

mua chuộc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.

3.4. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với các tội phạm xâm phạm

hoạt động tư pháp do cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp thực hiện.

Theo quy định của pháp luật, Cơ quan điều tra của VKSND tối cao là

CQĐT chuyên trách có thẩm quyền điều tra các tội XPHĐTP mà người phạm tội

là cán bộ thuộc các CQTP. Vì vậy chất lượng hoạt động của CQĐT này sẽ ảnh

hưởng trực tiếp đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này. Thời

gian qua, CQĐT của VKSND tối cao đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để hoàn thành

tốt nhiệm vụ của mình. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc phát

hiện, điều tra, xử lý các tội XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện còn

có những hạn chế nhất định, hiệu quả công tác điều tra chưa cao. Để khắc phục

tình trạng này, thì cần phải có những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của

CQĐT này để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp như sau:

Một là, đổi mới tổ chức bộ máy của CQĐT của VKSND tối cao theo hướng

tổ chức thêm các đơn vị nghiệp vụ đóng trên một số vùng, miền. Hiện tại, ngoài

trụ sở chính đóng tại Hà Nội, CQĐT Viện KSND tối cao còn có 02 cơ quan đại

diện thường trực tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên (đóng ở Đà Nẵng) và

miền Nam (tại Thành phố Hồ Chí Minh). Nhưng trên thực tế với phạm vi hoạt

động trên toàn lãnh thổ Việt Nam thì CQĐT này cần phải có thêm các đơn vị

Page 39: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

39

hoạt động ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nam bộ thì mới đảm bảo kịp thời

nắm bắt và xử lý thông tin vi phạm, tội phạm xảy ra trong quá trình tiến hành tố

tụng của các CQTP trên cả nước.

Cùng với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cần bổ sung đội ngũ cán bộ làm

công tác điều tra cho CQĐT Viện KSND tối cao. Hiện tại, CQĐT chỉ có tổng số

82 biên chế, trong đó Điều tra viên các cấp là 55 người nhưng phải theo dõi

thông tin vi phạm của các CQTP trung ương, các CQTP ở 63 tỉnh, thành phố và

các CQTP của 698 huyện, thị xã trên toàn quốc nên không thể kịp thời nắm bắt

và xử lý những tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền. Trên thực tế hoạt

động cảu CQĐT Viện KSND tối cao đã bị hạn chế rất nhiều khi không nắm

được đầy đủ thông tin về tình hình tội phạm XPHĐTP xảy ra trong cả nước.

Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động của CQĐT Viện KSND tối cao bằng

việc thực hiện đồng bộ các biện pháp sau đây:

- Nâng cao chất lượng hoạt động tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về

các tội phạm XPHĐTP.

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án XPHĐTP

thuộc thẩm quyền.

- Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT của VKSND tối cao với

các cơ quan, đơn vị hữu quan trong quá trình điều tra các vụ án XPHĐTP mà

người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.

Cuối cùng, ngoài việc nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ trong ngành

nói chung thì đối với CQĐT ngành Kiểm sát cần tăng cường đầu tư cơ sở vật

chất, trang thiết bị phù hợp với tính đặc thù trong công tác của CQĐT này.

Page 40: ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG Chủ nhiệm đề tài Ths. Vũ Minh ...tkshcm.edu.vn/media/hobacit/De_tai_khoa_hoc/vu_minh_hang_2015.pdfchất, mức độ nguy hiểm ngày

40

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt

kinh tế, xã hội thì THTP nói chung và tội phạm XPHĐTP nói riêng, đặc biệt là

nhóm tội XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện cũng có những diễn biến

phức tạp. Tính chất nghiêm trọng của nhóm tội phạm này thể hiện ở chỗ chúng

không những có thể xâm hại đến các lợi ích của Nhà nước, đến quyền và lợi ích

chính đáng của công dân mà còn làm giảm sút uy tín của các CQTP, gây mất

lòng tin của nhân dân vào các hoạt động bảo vệ pháp luật, từ đó làm giảm hiệu

quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, việc nâng cao chất lượng

của công tác đấu tranh chống loại tội phạm nguy hiểm này có một ý nghĩa rất

quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp ở

Việt Nam hiện nay.

Để đấu tranh có hiệu quả đối với các tội XPHĐTP nói chung và các tội

XPHĐT do cán bộ các CQTP thực hiện nói riêng thì cần phải có nhận thức đúng

đắn những vấn đề lý luận về loại tội phạm XPHĐTP nói chung cũng như những

đặc điểm pháp lý đặc trưng của các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ

các ơ quan tư pháp cũng như nắm bắt được thực trạng, diễn biến tình hình tội

phạm, nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm và công tác đấu tranh phòng

chống loại tội phạm này ở Việt Nam trong thời gian qua, trên cơ sở đó đưa ra

những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác

này, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Đây cũng chính là nhiệm

vụ và mục tiêu nghiên cứu của đề tài.

Bằng cách nghiên cứu, tiếp cận vấn đề dưới góc độ khoa học luật hình sự

và khoa học tội phạm học, tác giả đề tài đã cố gắng làm sáng tỏ các vấn đề nêu

trên cả về mặt lý luận và cả về mặt thực tiễn. Qua đó đề xuất một số giải pháp

nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội

XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống loại tội phạm này nói riêng ở

Việt Nam hiện nay.

Dù đã rất cố gắng nhưng đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng

nhưng trong một thời gian nghiên cứu không dài và khả năng nghiên cứu, phân

tích của tác giả còn hạn chế nên chắc chắn sẽ còn có những thiếu sót trong kết

quả nghiên cứu. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thành

viên Hội đồng khoa học và các đồng nghiệp để đề tài thêm hoàn thiện./.