38
1 Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản lm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Ths. Võ Văn Tài Giảng viên Khoa Kiểm sát hình sự LI MĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn cải cách tư pháp đang được trin khai thc hin theo tinh thn ca Nghquyết 49-NQ/TW ca BChính trị vchiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, bên cnh vic sp xếp, cơ cấu li hthống các cơ quan tư pháp, phân định rõ chức năng, nhiệm vvà quyền hạn…, thì việc tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống ti phạm, đảm bo mọi hành vi phạm ti phải được kp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định ca pháp luật hình sự cũng là một trong nhng nhim vtrọng tâm và được tiến hành thường xuyên, tđó góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách tư pháp đi đúng hướng. Quá trình phát hiện và xử lý tội phạm và người phm tội chính là việc vn dụng mô hình pháp lý được quy định trong Bluật hình sự (BLHS) vào thực tiễn. Quá trình đó là việc định ti danh đối vi hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đe dọa gây ra hoặc gây ra thiệt hại cho các quan hệ mà luật hình sự bo v. Việc định ti danh một cách nghiêm túc và đúng đắn trnên cấp thiết hơn trong tình hình tội phạm ngày càng gia tăng và chuyển phc tạp như hiện nay, thông qua đó nhằm bo vquyn, lợi ích của Nhà nước, ca tchức và công dân, giúp cho việc xlý tội phạm và người phm tội được nghiêm minh, đảm bo trt tkcương của pháp luật, đồng thi phc vhiu qucho tiến trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên thực tin không phải lúc nào cũng thc hin tốt công tác trên. Rất nhiều trường hp nhất là đối với các tội có tính chất chiếm đoạt thuộc Chương tội phạm xâm phạm shữu quy định ti XIV BLHS, mà cụ thlà tội la đảo chiếm đoạt tài sản ti lm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (quy định tại Điều 139, Điều 140) các cơ quan tiến hành tố tng định tội danh không chính xác, áp dụng pháp luật hình sự để xlý hành vi vi phạm pháp luật khác; và nhiều trường hợp đối vi hành vi vi phạm mà lằn ranh giữa có tội và không có tội mong manh như tội lm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thì cơ quan chức năng thường la chn biện pháp “an toàn” là tchi tiến hành định ti danh. Việc làm trên của các cơ quan tiến hành tố tng hình sự trong thc tiễn ít nhiều làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, gây mất lòng tin trong nhân dân đối với cơ quan bo vpháp luật và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tan toàn xã hội. Qua nghiên cứu thc tin xlý oan sai đối vi những người phm tội mà thực tin gọi là “hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế” và việc tchối định tội đối với hành vi phm ti lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lm dụng tín chiếm đoạt tài sản thường được gọi là dân sự hóa hành vi phm tinhn thy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong

Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

1

Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm

đoạt tài sản lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Ths. Võ Văn Tài

Giảng viên Khoa Kiểm sát hình sự

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong giai đoạn cải cách tư pháp đang được triển khai thực hiện theo tinh thần của

Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, bên

cạnh việc sắp xếp, cơ cấu lại hệ thống các cơ quan tư pháp, phân định rõ chức năng, nhiệm

vụ và quyền hạn…, thì việc tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo

mọi hành vi phạm tội phải được kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của

pháp luật hình sự cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và được tiến hành thường

xuyên, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách tư pháp đi đúng hướng. Quá trình phát

hiện và xử lý tội phạm và người phạm tội chính là việc vận dụng mô hình pháp lý được quy

định trong Bộ luật hình sự (BLHS) vào thực tiễn. Quá trình đó là việc định tội danh đối với

hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đe dọa gây ra hoặc gây ra thiệt hại cho các quan hệ mà luật

hình sự bảo vệ.

Việc định tội danh một cách nghiêm túc và đúng đắn trở nên cấp thiết hơn trong tình

hình tội phạm ngày càng gia tăng và chuyển phức tạp như hiện nay, thông qua đó nhằm bảo

vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và công dân, giúp cho việc xử lý tội phạm và

người phạm tội được nghiêm minh, đảm bảo trật tự kỷ cương của pháp luật, đồng thời phục

vụ hiệu quả cho tiến trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên thực tiễn không phải lúc nào cũng

thực hiện tốt công tác trên. Rất nhiều trường hợp nhất là đối với các tội có tính chất chiếm

đoạt thuộc Chương tội phạm xâm phạm sở hữu quy định tại XIV BLHS, mà cụ thể là tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (quy định tại Điều 139,

Điều 140) các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh không chính xác, áp dụng pháp luật

hình sự để xử lý hành vi vi phạm pháp luật khác; và nhiều trường hợp đối với hành vi vi

phạm mà lằn ranh giữa có tội và không có tội mong manh như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản, thì cơ quan chức năng thường lựa chọn biện pháp “an toàn” là từ chối tiến hành

định tội danh. Việc làm trên của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong thực tiễn ít

nhiều làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, gây mất lòng tin trong nhân dân đối với cơ

quan bảo vệ pháp luật và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội.

Qua nghiên cứu thực tiễn xử lý oan sai đối với những người phạm tội mà thực tiễn

gọi là “hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế” và việc từ chối định tội đối với hành vi

phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín chiếm đoạt tài sản thường được gọi là

“dân sự hóa hành vi phạm tội” nhận thấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong

Page 2: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

2

đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề nêu trên

là cần thiết. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

không phải là tội phạm mới, nhưng để sử dụng mô hình pháp lý trên xử lý đối với người

phạm tội này thì cần phải có sự nghiên cứu về các dấu hiệu cấu thành tội của nó và đối

chiếu những hành vi vi phạm xảy ra trong thực tiễn nhằm tìm ra những nguyên nhân để có

giải pháp khắc phục trong thời gian tới. Từ những lý do, nên tác giả chọn đề tài “Vấn đề

hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản” làm đề tài nghiên cứu khoa học để góp phần làm rõ thực trạng của vấn

đề đã nêu trên.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp chí pháp lý

đề cập đến loại tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín chiếm đoạt tài sản, nhưng

chủ yếu tiếp cận ở các góc độ khái quát nhất hoặc dưới góc độ so sánh chúng với các tội

phạm khác trong chương các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự Việt Nam hoặc chỉ

nghiên cứu một khía cạnh nhất định. Như bài viết: “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản có đối tượng chiếm đoạt là tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong luật hình sự Việt

Nam” của tác giả Hồ Ngọc Hải; “Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi

phạm pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay” của Hồ Trọng Ngũ;

“Khi nào thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của tác giả Lê Hồng Phúc;

“Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị

hoàn thiện” của tác giả Trần Duy Bình “Tình hình tội phạm gia tăng do luật không chặt”và

“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - lằn ranh mong manh giữa hình sự và dân sự” của

cùng tác giả Nguyễn Hồng Phúc; “Nghịch lý trong xử lý hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản” của tác giả Mã Hải và An Huy; “Hiện tượng hình sự hóa các quan hệ dân sự”

của Nguyễn Văn Vân … Chưa có một công trình nghiên cứu tổng quát nào liên quan đến

việc hình sự hóa, dân sự hóa đối với hai loại tội phạm này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận hoạt động định tội danh

đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thông

qua một số vụ án thực tiễn làm sáng tỏ quá trình giải quyết vụ án liên quan đến hai tội phạm

này.

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn ở các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định trong BLHS năm

1999 sửa đổi, phân tích thực trạng áp dụng pháp luật để xử lý hành vi liên quan hai tội phạm

trên mà thực tiễn cho rằng là hiện tượng hình sự hóa, dân sự hóa.

4. Mục đích nghiên cứu

Page 3: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

3

Dựa trên các kết quả nghiên cứu về lý luận về hoạt động định tội danh các đối với tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cùng với việc phân

tích các vụ án cụ thể nhằm làm sáng tỏ việc xử lý đối với những hành vi phạm tội này trong

thực tiễn, góp một phần nâng cao nhận thức cho các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các

vụ án hình sự được chính xác và đúng quy định của pháp luật.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích đã được xác định, để hoàn thiện đề tài cần thiết phải thực hiện các

nhiệm vụ cụ thể sau:

- Phân tích các vấn đề lý luận về định tội, cơ sở của việc định tội danh đối với tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

- Nghiên cứu, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự về các dấu hiệu đặc trưng

của hai loại tội phạm này.

- Thông qua một số vụ án điển hình về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được giải quyết trong thực tiễn thời gian gần đây, sẽ làm rõ

những khó khăn, vướng mắc mà các cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải khi định tội danh

đối với các trường hợp trên, từ đó, kiến nghị các giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt

động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản quy định tại Điều 139, Điều 140 BLHS hiện hành.

Về thực tiễn: Bên cạnh việc hoàn thiện về mặt lý luận, với việc vận dụng, phân tích

các vụ án cụ thể, rút ra những tồn tại, thiếu sót trong quá trình xử lý vụ án liên quan, đề tài

cũng có ý nghĩa như là một nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu phục vụ cho thực tiễn áp

dụng BLHS hiện hành vào công tác đấu tranh chống hai tội phạm này ở nước ta.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu gồm 2 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động định tội danh đối với hành vi lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;

Chương 2: Thực trạng của hoạt động định tội danh được gọi là hình sự hóa, dân sự

hóa đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;

nguyên nhân và một số kiến nghị.

Page 4: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

4

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH

ĐỐI VỚI HÀNH VI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN,

LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. Lý luận về định tội danh

. . . Khái niệm định tội danh

Định tội danh là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với người phạm tội. Trên cơ sở xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm vào tội gì, quy định

tại điều khoản nào của BLHS, cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ pháp lý buộc người vi

phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do hành vi của mình gây ra.

Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, khái niệm định tội danh được hiểu ở hai

nghĩa. Trước hết, định tội danh là một quá trình lôgic nhất định, là hoạt động của con người

về việc xác nhận và ghi nhận sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với

các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm được quy định trong phần các tội phạm của Bộ

luật hình sự. Thứ hai, định tội danh là việc đánh giá về mặt pháp lý đối với một hành vi

nguy hiểm cho xã hội. Hai nghĩa này có sự quan hệ mật thiết với nhau trong khái niệm định

tội danh.

Định tội danh là một quá trình lôgic, bởi vậy để thực hiện đúng đắn quá trình này đòi

hỏi phải có các tiền đề, điều kiện, cơ sở phương pháp luận, biện pháp lôgic và kỹ thuật pháp

lý. Hơn nữa, định tội danh là một hoạt động do cán bộ tư pháp tiến hành, họ là những người

được trang bị kiến thức nhất định về thế giới quan, có kiến thức chuyên môn và kinh

nghiệm. Trong quá trình định tội danh, tư duy của họ bắt nguồn từ việc sử dụng các biện

pháp kỹ thuật pháp lý và phát triển theo những quy luật lôgic nhất định. Trong lý luận và

thực tiễn, khái niệm định tội danh còn được hiểu là kết quả nhất định của quá trình hoạt

động do Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán hay Hội thẩm nhân dân tiến hành. Điều đó

có nghĩa rằng định tội danh là sự đánh giá một tội phạm về mặt pháp lý, trên cơ sở những tài

liệu đã thu thập được trong quá trình tố tụng.

Định tội danh cũng có nghĩa là một trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý,

là sự đánh giá về mặt pháp lý đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người có thẩm

quyền đang xem xét, xác định hành vi được quy định ở điều nào của Bộ luật hình sự. Hay

định tội danh là kết luận về sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét

với khái niệm về loại tội tương ứng được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự, tức là

việc lựa chọn quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi cụ thể đang xem xét.

Như vậy, định tội danh thực chất là sự xác định về mặt pháp lý đối với hành vi phạm tội xảy

ra trong thực tế. Do đó, điều có ý nghĩa quan trọng trong quá trình định tội danh là phải tìm

được những dấu hiệu cơ bản, điển hình và quan trọng nhất, phải chỉ ra những dấu hiệu cần

và đủ để xác định thực chất của hành vi xảy ra trong thực tế. Đồng thời, khi đối chiếu các

dấu hiệu đó với các dấu hiệu được quy định trong cấu thành tội phạm cụ thể, phải đưa ra kết

Page 5: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

5

luận rằng nhà làm luật khi ban hành quy phạm pháp luật là để áp dụng cho những trường

hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét.

Nhưng áp dụng quy phạm pháp luật hình sự là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải

tiến hành một cách tuần tự từ cái chung đến cái riêng. Tội phạm là một loại vi phạm pháp

luật nói chung. Do đó, khi định tội danh, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng phải thực hiện đầy đủ các bước cơ bản, đảm bảo cho quá trình xác định tội phạm được

chính xác. Trước hết, cần phải xác định có hay không có hành vi phạm tội, đó là hành vi

phạm tội hay chỉ đơn thuần là hành vi vi phạm pháp luật khác (vi phạm hành chính, vi phạm

nghĩa vụ trong dân sự,…). Sau đó, cần xác định xem hành vi đó vi phạm điều khoản cụ thể

nào của Bộ luật hình sự và trên cơ sở đó định tội cho phù hợp.

Định tội danh là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng trong quá

trình giải quyết vụ án hình sự và được tiến hành bởi hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng,

từ khi khởi tố vụ án cho tới khi bản án hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi

trách nhiệm, quyền hạn của mình phải ra Quyết định khởi tố vụ án. Khi đã có đầy đủ căn cứ

để xác định một người có hành vi phạm tội thì ra Quyết định khởi tố bị can và phải ghi rõ

tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng (Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự

(Bộ luật TTHS)). Kết thúc hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra làm bản Kết luận điều tra

chuyển sang Viện kiểm sát. Từ bản Kết luận điều tra này, theo đúng trình tự, thủ tục pháp

luật quy định, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án bằng cáo trạng ghi

rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự cần được áp dụng.

Đối với Tòa án, việc kiểm tra, xem xét định tội danh được thực hiện ngay trong giai

đoạn xét xử. Sau khi nhận được hồ sơ của Viện kiểm sát, trong quá trình chuẩn bị xét xử,

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ kiểm tra việc truy tố có căn cứ hay không và tùy

trường hợp có quyền quyết định: đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình

chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Khi ra bản án, vấn đề xác định tội danh có ý nghĩa rất lớn. Trong

bản án phải phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội,

xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều

khoản nào của Bộ luật hình sự… Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái

thẩm việc xem xét định tội danh đã đúng hay chưa cũng rất được quan tâm, vấn đề này được

thể hiện tại các Điều 248, 285, 298 Bộ luật TTHS.

Như vậy, Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính lôgic, là dạng của hoạt

động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan

tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài

liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa

các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu

thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, để giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra

văn bản áp dụng pháp luật.

Page 6: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

6

Từ sự phân tích và định nghĩa nêu trên, có thể rút ra nhận xét về đặc điểm của định

tội danh như sau:

Thứ nhất, về chủ thể. Định tội danh là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền

trong Tố tụng hình sự, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cùng một số cơ

quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng trong các cơ quan này theo quy định của Bộ luật TTHS tiến hành.

Thứ hai, về căn cứ. Định tội danh phải dựa trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập

được cùng các tình tiết thực tế của vụ án hình sự và phải dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản

của tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự, để đối chiếu sự phù hợp giữa các

dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành

tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định.

Thứ ba, về bản chất. Định tội danh thực tế là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự

(bao gồm cả pháp luật TTHS) và phải được tiến hành bằng việc ra văn bản áp dụng pháp

luật để giải quyết vụ án hình sự.

Thứ tư, về mục đích của định tội danh trong tố tụng hình sự là nhằm giải quyết vụ án

hình sự một cách đúng đắn, xử lý đúng người, đúng tội và buộc người có hành vi phạm tội

phải chịu hình phạt và các biện pháp tư pháp tương xứng với tính chất và mức độ của hành

vi phạm tội mà họ đã thực hiện.

. .2. Cơ sở của việc định tội danh

Là những căn cứ giúp cho việc định tội danh đảm bảo tính chính xác, khoa học.

Gồm: Cơ sở pháp lý trực tiếp, cơ sở pháp lý gián tiếp và cơ sở khoa học của việc định tội

danh.

* Cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội danh.

Định tội danh là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho

xã hội đã diễn ra trong thực tiễn với các dấu hiệu tương ứng trong quy phạm pháp luật hình

sự. Quy phạm pháp luật hình sự chứa đựng những dấu hiệu đặc trưng, điển hình, bắt buộc

không thể thiếu được của một loại tội phạm cụ thể. Những dấu hiệu đó sẽ trở thành khuôn

mẫu pháp lý làm cơ sở cho người tiến hành tố tụng so sánh, đối chiếu với hành vi nguy

hiểm cho xã hội xảy ra ngoài thế giới khách quan, từ đó xác định được người phạm tội

phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự.

Tại Điều 2 BLHS hiện hành quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật

hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Điều này có nghĩa là, một người chỉ

bị cho là phạm tội và bị xử lý khi hành vi mà họ thực hiện được quy định trong Bộ luật hình

sự, không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có quyền tự cho mình quyền được xác định

hành vi do một người thực hiện có phải là tội phạm hay không và áp dụng hình phạt tùy

thích không theo quy định của Luật hình sự.

Page 7: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

7

Bộ luật hình sự bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật được sắp xếp làm hai phần:

Phần chung và phần các tội phạm. Trong đó, phần chung quy định về các nhiệm vụ, các

nguyên tắc, các chế định, các khái niệm cơ bản của luật hình sự Việt Nam, hiệu lực của Đạo

luật hình sự, giới hạn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt, các điều kiện miễn

trách nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt… Nói cách khác, phần chung của Bộ luật hình

sự bao gồm những quy định chung nhất, bao trùm nhất về đạo luật hình sự, về tội phạm và

hình phạt.

Phần các tội phạm bao gồm các quy phạm xác định các tội phạm cụ thể, và kèm theo

đó là quy định về các hình phạt cụ thể đối với từng tội. Phần các tội phạm được các nhà làm

luật đã tìm và xác định xem trong quá trình tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội

dấu hiệu nào là đặc trưng, cơ bản và được lặp lại nhiều lần trong thực tế, để từ đó quy định

thành các dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng. Vì vậy, phần các tội

phạm nêu mô hình cụ thể của tội phạm, các loại và mức độ trừng phạt đối với mỗi tội phạm.

Định tội danh có mục đích để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một con người về

hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện. Trong khía cạnh pháp luật, định tội danh

có nghĩa là lựa chọn một quy phạm pháp luật mà nó đề cập tới trường hợp cụ thể nào đó.

Quy phạm pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ thể quy định trách nhiệm hình sự đối với

mỗi hành vi phạm tội. Nhưng những quy định này phải dựa trên các nguyên tắc, điều kiện

được nêu ra trong các quy phạm phần chung, còn bản thân quy phạm pháp luật phần chung

sẽ không có ý nghĩa nếu thiếu quy phạm pháp luật phần các tội phạm. Như vậy, quy phạm

pháp luật phần chung và quy phạm pháp luật phần các tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ,

không thể thiếu của định tội danh với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình

sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Định tội danh là việc đối chiếu

dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với dấu hiệu trong mô hình

một loại tội phạm tương ứng, xác định sự giống nhau của một tình huống cụ thể đã xảy ra

trong cuộc sống với một trường hợp đã được nêu trong Bộ luật hình sự. Nhưng phần các tội

phạm chỉ nêu định nghĩa về tội phạm đã hoàn thành. Còn trong thực tế, có những trường

hợp đòi hỏi phải có sự đánh giá một hành vi đã thực hiện nào đó là tội phạm nhưng chỉ ở

giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt được nêu tại Điều 17 và Điều 18 BLHS.

Do vậy, khi định tội danh phải căn cứ vào quy phạm pháp luật phần các tội phạm, tìm ra

quy phạm pháp luật tương ứng cho tội phạm đó ở giai đoạn phạm tội hoàn thành và kết hợp

với quy định về chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt để xử lý đối với những trường hợp

người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc

hành vi chưa gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Bên cạnh đó, trong phần các tội phạm của

Bộ luật hình sự còn đề cập tới hàng loạt tội phạm có dấu hiệu của hành vi tội phạm được

thực hiện dưới hình thức đồng phạm, vì vậy để định tội danh với những trường hợp phạm

tội do nhiều người cố ý cùng thực hiện, thì song song với việc áp dụng quy phạm pháp luật

phần các tội phạm còn phải áp dụng chế định đồng phạm quy định tại Điều 20 BLHS.

Page 8: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

8

Như vậy, khi tiến hành định tội danh đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội cần

phải căn cứ vào cả quy phạm phần chung và quy phạm phần các tội phạm của Bộ luật hình

sự, đồng thời phải viện dẫn một cách chính xác và đầy đủ điều khoản hay một số điều luật

liên quan, bao quát được toàn bộ hành vi nguy hiểm cho xã hội được nêu trong phần các tội

phạm của BLHS và cũng cần phải lưu ý tới hiệu lực về không gian và thời gian của điều

khoản được viện dẫn. Có như vậy, việc định tội danh mới đảm bảo đủ cơ sở pháp lý để truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó.

*Cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho việc định tội danh.

Trong quá trình định tội danh, nếu BLHS giữ vai trò là cơ sở pháp lý trực tiếp, thì Bộ

luật TTHS giữ vai trò là cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho quá trình này. Bộ luật TTHS quy

định về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền

hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Ngoài ra, toàn bộ các quy phạm của

Bộ luật TTHS cũng quy định về cả cách thức của quá trình định tội danh nhằm bảo vệ các

quyền và lợi ích chính đáng của công dân trong lĩnh vực hoạt động tư pháp hình sự. Trong

Bộ luật TTHS, những quy phạm nhằm bổ trợ cho việc định tội danh được chính xác như:

Chương V - quy định về chứng cứ trong vụ án hình sự; chương VI - quy định về các biện

pháp ngăn chặn; chương VIII - quy định về khởi tố vụ án hình sự; chương X đến chương

XIII quy định về điều tra, như khởi tố bị can, trình tự, thủ tục hỏi cung bị can, lấy lời khai

những người tham gia tố tụng, đối chất, nhận dạng, khám xét, tạm giữ, kê biên tài sản, khám

nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi ...

Bên cạnh Bộ luật TTHS, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền như: Nghị quyết, Thông tư liên tịch, Nghị định…cũng có vai trò là cơ

sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho việc định tội danh. Bởi vì, những văn bản do cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền ban hành quy định cụ thể nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội mà theo

đó sự mô tả trong dấu hiệu cấu thành tội phạm của Bộ luật hình sự không thể khái quát

được. Hơn nữa, những biến đổi và phát triển không ngừng của xã hội đòi hỏi phải ban hành

những văn bản mới thay thế cho những văn bản đã không còn phù hợp. Các cơ quan có

thẩm quyền trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử phải nắm vững và hiểu rõ nội dung quy

định của những văn bản này mới có thể vận dụng để định tội danh được chính xác.

*Cơ sở khoa học của việc định tội danh

Cấu thành tội phạm là cơ sở giúp cho quá trình định tội danh, là một trong những

khái niệm mang tính chất trừu tượng, là sự tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc

trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Bởi vậy, cấu thành

tội phạm là mô hình khái quát, trừu tượng mang tính chất khoa học gồm những dấu hiệu

chung, cơ bản nhất của tội phạm. Chính vì thế, việc nghiên cứu những vấn đề về cấu thành

tội phạm có ý nghĩa pháp lý hình sự rất quan trọng đối với quá trình định tội danh, vì định

tội danh chính xác tức là xác định đúng sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy

Page 9: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

9

hiểm cho xã hội nhất định nào đó được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm

tương ứng được quy định tại một quy phạm pháp luật hình sự cụ thể của phần các tội phạm.

Dựa vào cấu trúc của tội phạm, khoa học luật hình sự phân chia cấu thành tội phạm

thành bốn nhóm: Nhóm dấu hiệu về mặt khách thể, nhóm dấu hiệu về chủ thể, nhóm dấu

hiệu về mặt khách quan và nhóm dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, tội

phạm là một thể thống nhất, do vậy việc tách riêng từng yếu tố trong quá trình định tội danh

nêu trên chỉ có ý nghĩa tương đối, căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể để chúng ta

vận dụng các yếu tố này cho hợp lý trong quá trình định tội danh.

1.2. Hoạt động định tội danh đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.2.1. Khái niệm Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải trải

qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã

hội có tính chất quá độ và trong thời ký quá độ ấy có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản

xuất, nhiều thành phần kinh tế. Trong đường lối, chính sách phát triển kinh tế, Đảng ta đề

ra: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước

ta trở thành một nước công nghiệp ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng

quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là các

quan hệ sở hữu và hệ thống lý luận về sở hữu ở nước ta còn nhiều điều cần bổ sung hoàn

thiện và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình kinh tế - chính trị. Cũng chính vì vậy mà các

quan hệ sở hữu còn chưa hoàn thiện về hình thức, còn nhiều tranh chấp liên quan đến quyền

sở hữu. Bởi vậy, một hệ thống pháp luật bảo vệ quyền sở hữu là hết sức cần thiết và quan

trọng. Hiện nay, để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều

loại quy phạm pháp luật để điều chỉnh, trong đó các quy định hình sự có ý nghĩa quan trọng

khi quy định những hành xâm phạm chế độ sở hữu tài sản được nhà nước bảo hộ và cách

thức xử lý những hành vi đó nhằm mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa để bảo vệ

quyền sở hữu.

Trong Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, có riêng một chương quy định về các tội

xâm phạm sở hữu, bao gồm 13 điều quy định rõ các hành vi xâm phạm sở hữu được Nhà

nước bảo vệ. Tuy nhiên, xuất phát từ phạm vi nghiên cứu của đề tài, nên chúng tôi đi vào

tìm hiểu những vấn đề mang tính chất lý luận liên quan đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản.

Như chúng ta đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do chủ thể có năng

lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cố ý hoặc vô ý xâm đến những quan hệ xã hội là

khách thể bảo vệ của luật hình sự. Một hành vi chỉ bị xam là tội phạm thì hành vi đó phải là

hành vi nguy hiểm cho xã hội; Chủ thể thực hiện hành vi ấy phải là người có năng lực trách

nhiệm hình sự, có nghĩa người thực hiện hành vi phải có khả năng nhận thức và điều khiển

hành vi của mình; Để xảy ra hành vi nguy hiểm đó là do lỗi của họ và hành vi đó đã xâm

phạm đến những quan hệ xã hội mà luật hình sự tuyên bố bảo vệ.

Page 10: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

10

Kết hợp với quy định tại khoản 1 Điều 140 BLHS:

“Người nào có một trong những hành vi sau đây: Chiếm đoạt tài sản của người khác

có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng

gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị

kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt…:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác

bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản

đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác

bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến

không có khả năng trả lại tài sản”.

Từ đó chúng ta có thể hiểu: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi

nguy hiểm của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của

pháp luật hình sự đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của

người khác có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên bằng các hình thức hợp đồng rồi cố ý dùng

thủ đoạn gian dối hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp hoặc bỏ trốn để

chiếm đoạt tài sản đó một cách trái phái luật.

1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng như bất kì một tội phạm nào khác

trong BLHS đều có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó gồm các dấu hiệu thuộc mặt

khách thể, khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm.

*Về khách thể của tội phạm. Tội phạm nào cũng xâm phạm đến một hoặc một số

khách thể nhất định, đó là các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Đối với tội lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, khách thể mà tội phạm này hướng đến là quan hệ sở hữu

về tài sản. Cũng như các tội xâm phạm sở hữu khác được quy định trong BLHS, tội lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, nghĩa là tác động

đến các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu

được pháp luật bảo vệ.

Tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều

140 BLHS là tài sản được quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 gồm: “vật, tiền,

giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên, đối tượng là tài sản của tội phạm này phải

thỏa mãn các yếu tố nhất định sau:

Tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và giá trị sử dụng, là thước

đo giá trị sức lao động của con người được kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu

cầu về vật chất và tinh thần của con người. Những tài sản không có giá trị và giá trị sử dụng

không thể trở thành đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Page 11: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

11

Tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là tài sản có

chủ sở hữu, quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu là hợp pháp và được pháp luật công nhận,

có thể chuyển dịch thông qua các giao dịch thể hiện bằng các hợp đồng dân sự cụ thể.

Những tài sản không có chủ sở hữu hoặc bị từ bỏ quyền sở hữu (vật bị đánh rơi, bỏ quên,

thất lạc,…) không phải là đối tượng tác động của tội phạm này.

Tài sản là đối tượng của tội phạm này còn là những giấy tờ có giá mà thông qua đó,

người phạm tội có thể nhận tiền hoặc phần tài sản nhất định (cổ phiếu, tín phiếu, trái

phiếu,…). Đối với những giấy tờ có giá mà giá trị của nó phải thông qua tổ chức, cá nhân

xác nhận mới thể hiện được giá trị thì không phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản.

Đối với các loại tài sản có tính chất, công dụng đặc biệt (ma túy, vũ khí, phương tiện,

chất cháy, chất gây nổ, chất độc hại, chất phóng xạ,…) hoặc tài sản là các loại giấy tờ có giá

ghi danh (việc chuyển dịch, xác lập quyền sở hữu phải thông qua các giao dịch pháp lý hợp

pháp) hoặc các loại tài sản khác thuộc danh mục hàng hóa, tài sản bị cấm giao dịch, hạn chế

giao dịch như: đồ chơi bị cấm, phế liệu gây ô nhiễm môi trường,…thì tùy trường hợp, việc

chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử lý theo các tội danh khác tương ứng.

Như vậy, tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải thỏa

mãn những yếu tố nhất định phản ánh đặc điểm vốn có của tài sản, về tính chất, giá trị sử

dụng, có thể đưa vào giao dich trong thực tiễn.

Bộ luật hình sự năm 1985 quy định một hành vi phạm vào lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản không cần căn cứ vào giá trị tài sản chiếm đoạt. Tuy nhiên, BLHS năm 1999

sửa đổi quy định rõ yếu tố định lượng đối với tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ bốn

triệu đồng trở lên. Quy định này trở thành một trong những căn cứ quan trọng để xác định

có xử lý hình sự đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không. Quy định

yếu tố định lượng trong trường hợp này phân biệt rõ ràng ranh giới giữa vi phạm hành chính

và tội phạm, là cơ sở để áp dụng thống nhất pháp luật trên phạm vi toàn quốc, tạo điều kiện

cho người dân hiểu rõ hơn các quy đinh của pháp luật, tự điều chỉnh hành vi của mình trong

những trường hợp nhất định.

*Về mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, những biểu hiện bên

ngoài của tội phạm, gồm hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành

vi và hậu quả.

- Hành vi khách quan: là những xử sự có sự kiểm soát của ý thức và điều khiển của ý

chí con người, là nguyên nhân gây thiệt hại cho các khách thể được Luật hình sự bảo vệ.

Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện các đặc điểm sau: có tính nguy hiểm cho xã hội,

là hoạt động có ý thức của chủ thể, nó trái pháp luật hình sự và về hình thức thể hiện, hành

vi khách quan của tội phạm được thể hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động.

Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi khách quan phải gây thiệt hại về

Page 12: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

12

vật chất cho chủ sở hữu, nguy hiểm cho xã hội, khi thực hiện hành vi, chủ thể đã được tính

toán, cân nhắc kỹ lưỡng và được thể hiện dưới dạng hành động nhận tài sản của người khác

bằng các hình thức của hợp đồng, sau khi có được tài sản người phạm tội đã có hành vi

chiếm đoạt tài sản đó.

Hành vi chiếm đoạt tài sản thể hiện thông qua các hợp đồng vay, mượn, thuê… tài

sản của người khác rồi sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả

lại tài sản. Đây là hành vi sử dụng tài sản không đúng nghĩa vụ đã cam kết ban đầu nên

người phạm tội không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Việc chủ sở hữu chuyển

giao tài sản cho người phạm tội lúc đầu thông qua một giao dịch pháp lý hợp pháp, có thỏa

thuận, cam kết giữa các bên tham gia theo quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, sau khi

có được tài sản, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản này, mong muốn

biến tài sản đó thành tài sản của mình, vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết trước đó.

Người phạm tội muốn tạo lập cho mình quyền chiếm giữ, sử dụng, định đoạt đối với

tài sản của người khác, họ sử dụng các cách thức làm hao hụt giá trị và giá trị sử dụng của

tài sản, khiến nó không thể trở về trạng thái ban đầu được hoặc vì muốn biến tài sản của

người khác (một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản) thành tài sản của mình nên đã có các

hành vi, thủ đoạn gian dối như lật lọng, chây ì, thông tin giả dối về việc bị người thứ ba

chiếm đoạt tài sản đó hoặc bỏ trốn, cố ý không trả lại tài sản cho chủ sở hữu,…khi đến hạn

phải trả lại tài sản theo hợp đồng. Vì gây thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm trên,

nên tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi đã gây ra những thiệt hại về vật chất cho chủ tài

sản.

- Hậu quả của tội phạm: Là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ

xã hội là khách thể được Luật hình sự bảo vệ, nó được biểu hiện thông qua việc biến đổi

tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm.

Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm gây ra được xác định thông qua đặc điểm về chất và

lượng của chính đối tượng tác động. Tại Điều 140 BLHS năm 1999 sửa đổi đã chỉ ra rất rõ

rằng, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ 4 triệu đồng trở lên mới bị xử lý về

tội phạm này. Trong trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 4 triệu đồng thì người

phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc vào một trong các trường hợp gây

hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã

bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa xóa án tích mà còn vi phạm (được hướng dẫn trong

Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001

của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp về

việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của

BLHS năm 1999).

- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả. Một trong

những nguyên tắc quan trọng nhất của Luật hình sự, một người phải chịu trách nhiệm hình

sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả đó là kết quả của hành vi trái pháp luật mà

thực hiện họ gây ra. Do đó, khi một người thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được

quy định trong BLHS và chỉ buộc họ phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình khi

Page 13: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

13

giữa hành vi và hậu quả có mối quan hệ nhân quả. Có nghĩa là về mặt thời gian, hành vi trái

pháp luật hình sự được coi là nguyên nhân phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; Hậu

quả là kết quả tất yếu do hành vi trái pháp luật hình sự gây ra; Một hành vi có thể dẫn đến

nhiều hậu quả và một hậu quả có thể xuất phát từ nhiều hành vi khác nhau.

Do vậy, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không dẫn đến hậu quả,

không xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì người thực hiện hành vi

ấy không phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Có hành vi mới có hậu quả tương ứng, hậu

quả luôn có sau hành vi về mặt thời gian, hành vi phải là điều kiện tất yếu hình thành nên

hậu quả.

*Về mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong tội lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lỗi của người phạm tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp, họ nhận thức

rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả và mong muốn cho hậu

quả xảy ra. Ban đầu, khi giao kết hợp đồng, người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện hợp

đồng đó đúng theo thỏa thuận, chỉ sau khi có được tài sản, ý thức chiếm đoạt tài sản mới

hình thành, và vì vậy, ý thức chiếm đoạt của họ được xác định tại thời điểm họ chiếm đoạt

tài sản chứ không xác định tại thời điểm họ nhận tài sản. Đây là một trong những căn cứ

quan trọng để xác định người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm nào

(tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 hay tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

theo Điều 140 BLHS).

Ngoài ra, đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích chiếm đoạt tài

sản được coi là dấu hiệu bắt buộc, nó phải gắn liền với các hành vi dùng thủ đoạn gian dối,

bỏ trốn hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng

trả lại tài sản sau khi có được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp. Nếu không có mục đích

chiếm đoạt tài sản hoặc mục đích chiếm đoạt có trước thời điểm nhận tài sản thông qua hợp

đồng, thì người thực hiện hành vi phạm tội không phạm tội hoặc phạm vào tội khác.

*Về chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chủ thể của tội phạm nói

chung là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định. Chủ thể của

tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam chỉ có thể là cá nhân và cá nhân này phải đáp ứng

các điều kiện nhất định về độ tuổi, về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.

Đối với chủ thể tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng phải đáp ứng những điều

kiện như đã nêu trên.

Căn cứ vào cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng (quy định tại

khoản 2 Điều 140) của tội này, thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm

hình sự khi thực hiện lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đối với người

từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này khi hành vi thỏa

mãn cấu thành tội phạm quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 140 BLHS.

Tuy nhiên, cần chú ý rằng, chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

phải là người tham gia vào hợp đồng thuê, vay, mượn tài sản và sau đó không thực hiện

Page 14: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

14

đúng cam kết như đã thỏa thuận trong hợp đồng ban đầu nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản

đó. Việc giao kết hợp đồng được thực hiện một cách hợp pháp theo đúng trình tự, thủ tục và

các điều kiện nhất định về giao kết hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định.

Tóm lại, bốn yếu tố của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho việc định tội

danh đối với tội phạm này được chính xác

1.2.3. Cơ sở pháp lý của hoạt động định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản

Như đã phân tích, hoạt động định tội danh là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực

tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho

xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự

quy định. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi nguy hiểm

của chủ thể đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người

khác bằng các hình thức hợp đồng rồi cố ý dùng thủ đoạn gian dối hoặc sử dụng tài sản đó

vào mục đích bất hợp pháp hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó một cách trái phái luật.

Như vậy, khi tiến hành định tội đối với tội phạm trên, các cơ quan tiến hành tố tụng

cần phải làm rõ hành vi xảy ra trên thực tế có thỏa mãn các dấu hiệu được mô tả trong cấu

thành tội phạm quy định trong BLHS hay không. Nghĩa là cơ quan, cá nhân có thẩm quyền

phải xem xét, đánh giá đối với hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận

được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi sau đó, chủ thể có dùng thủ

đoạn gian dối hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả

năng trả lại tài sản hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật hay không,

và việc xem xét đánh giá về sự phù hợp của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu được

mô tả trong BLHS phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật TTHS đã quy định.

Khi hành vi thực tế thỏa mãn dấu hiệu được mô tả thì chủ thể của hành vi mới phạm vào tội

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Từ đó cho thấy, cơ sở pháp lý của hoạt động định tội

đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chính là cấu thành tội phạm được quy

định tại Điều 140 BLHS và những quy định về trình tự, thủ tục để tiến hành hoạt động trong

Bộ luật TTHS.

1.3. Hoạt động định tội danh đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

.3. . Khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Điều 139 quy định: “Người nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người

khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng

nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc

đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt…”.

Như vậy, dấu hiệu hành vi khách quan trong tội phạm chính là sự gian dối trong quá trình

Page 15: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

15

tiếp cận, giao dịch để nhận tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nhằm tạo

điều kiện cho việc thực hiện hành vi chiếm đoạt. Chủ thể có được tài sản cũng bằng các

hình thức của hợp đồng, nhưng lúc thỏa thuận, giao dịch, chủ thể không có ý định thực hiện

như giao kết mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản nhận được.

Đồng thời, kết hợp với định nghĩa tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do chủ

thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cố ý hoặc vô ý xâm đến những quan hệ

xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Nên có thể định nghĩa: Tội lừa chiếm đoạt tài

sản là hành vi nguy hiểm của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo

quy định của pháp luật hình sự, đã cố ý dùng thủ đoạn gian dối để nhận tài sản của người

khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên bằng các hình thức hợp đồng, và chiếm đoạt tài sản

đó một cách trái phái luật.

1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó gồm

các dấu hiệu thuộc mặt khách thể, khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Tuy

nhiên, các hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng

như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (đã phân tích ở tiểu mục 1.2.2 Mục 1.2

Chương 1), mặt khách thể của tội phạm là quan hệ sở hữu tài sản; Chủ thể của tội phạm

phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định quy định tại Điều 12

BLHS; Mặt khách quan và chủ quan cũng có nhiều điểm tương đồng. Dấu hiệu khác nhau

cơ bản của hai loại tội phạm trên là dấu hiệu hành vi, hậu quả và thời điểm hình thành ý

thức chiếm đoạt. Vì vậy, tác giả thấy rằng, chỉ cần làm rõ những điểm khác nhau này khi

nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Dấu hiệu hành vi khách quan trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là sự gian

dối trong quá trình tiếp cận, giao dịch để nhận tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý

hợp pháp bằng các hình thức của hợp đồng, nhưng lúc thỏa thuận, giao dịch, chủ thể không

có ý định thực hiện như giao kết mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc tài

sản đang được quản lý hợp pháp. Thủ đoạn gian dối ở tội phạm này là nhằm mục đích che

giấu ý thức chiếm đoạt tài sản, là phương thức mà người phạm tội sử dụng để có được tài

sản và chiếm đoạt tài sản đó. Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng

có khi sử dụng thủ đoạn gian dối, nhưng xét về thời gian, thủ đoạn gian dối của người phạm

tội này xuất hiện sau khi có được tài sản. Trong khi đó, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, thủ đoạn gian dối xuất hiện trước khi người phạm tội nhận được tài sản, thủ đoạn đó là

cách thức mà người phạm tội sử dụng nhằm tạo niềm tin để người có tài sản giao tài sản cho

họ, sau đó họ thực hiện hành vi chiếm đoạt.

- Về hậu quả, trong cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thiệt hại về tài

sản là từ hai triệu đồng trở lên.

- Ý thức chiếm đoạt tài sản của người phạm tội lừa đảo nảy sinh trước khi chủ thể

dùng thủ đoạn gian dối trong quá trình tiếp cận, giao dịch để nhận tài sản của chủ sở hữu

Page 16: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

16

hoặc người quản lý hợp pháp bằng các hình thức của hợp đồng. Từ sự hình thành ý thức

chiếm đoạt tài sản của người khác nên chủ thể chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc thực

hiện hành vi và mong muốn đạt kết quả.

- Về thời điểm hoàn thành tội phạm, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoàn

thành kể từ thời điểm có sự chiếm đoạt, tức là, người phạm tội đã có được tài sản và định

đoạt nó theo ý thức chủ quan của mình. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời điểm

hoàn thành tội phạm sớm hơn, thời điểm mà người phạm tội nhận được tài sản của người

khác một cách gian dối thì hành vi đã thỏa mãn cấu thành tội phạm.

.3.3. Cơ sở pháp lý của hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản

Hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng là hoạt động thực

tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập

được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của

hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm

tương ứng quy định tại Điều 139 BLHS. Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản chính là sự gian dối trong quá trình tiếp cận, giao dịch để nhận tài sản của chủ sở hữu

hoặc người quản lý hợp pháp, lúc thỏa thuận, giao dịch, chủ thể không có ý định thực hiện

như giao kết mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản nhận được.

Khi tiến hành định tội đối với tội phạm này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải

làm rõ hành vi xảy ra trên thực tế có thỏa mãn các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội

phạm quy định trong BLHS hay không, khi thực hiện hành vi vay, mượn, thuê tài sản của

người khác hoặc nhận tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng, chủ thể có dùng

thủ đoạn gian dối nhằm tạo sự tin tưởng đối với chủ sở hữu hoặc người đang quản lý tài sản

giao tài sản để người phạm tội chiếm đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật hay không; và

việc xem xét đánh giá về sự phù hợp của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu được mô

tả trong BLHS cũng phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật TTHS đã quy

định. Khi hành vi thực tế thỏa mãn dấu hiệu được mô tả thì chủ thể của hành vi mới phạm

vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy, cơ sở pháp lý của hoạt động định tội đối với tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 139 BLHS và

những quy định về trình tự, thủ tục để tiến hành hoạt động trên của Bộ luật TTHS hiện

hành.

Page 17: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

17

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐƯỢC GỌI LÀ HÌNH

SỰ HÓA, DÂN SỰ HÓA ĐỐI VỚI HÀNH VI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN,

LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN;

NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Hoạt động định tội danh đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp

luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành

trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự

để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện

với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng quy định tại Điều 139, Điều 140 BLHS.

Khi hành vi thực tế như vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản của người

khác bằng các hình thức hợp đồng, chủ thể có dùng thủ đoạn gian dối nhằm tạo sự tin tưởng

đối với chủ sở hữu hoặc người đang quản lý tài sản để bị hại giao tài sản; hay sau khi nhận

tài sản, chủ thể dùng thủ đoạn gian dối hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp

hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật, thì chủ thể của hành vi mới bị

xem là người phạm tội; và ngược lại, nếu hành vi không thỏa mãn các dấu hiệu nêu trên, cơ

quan tiến hành tố tụng không được xem là họ phạm tội. Thực tế không phải lúc nào cơ

quan, người có thẩm quyền cũng thực hiện tốt công tác trên. Có nhiều trường hợp hành vi

tuy có vi phạm pháp luật, nhưng chỉ là vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, kinh tế, do sai

sót trong quá trình đánh giá mặt thực tế của hành vi nên cơ quan, người tiến hành tố tụng

hình sự nhận định là tội phạm và đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với người thực

hiện hành vi vi phạm pháp luật ấy; Đồng thời cũng có nhiều trường hợp hành vi đã thỏa

mãn các dấu hiệu mô tả trong cấu thành tội phạm, mặc dù có tiến hành một số hoạt đồng

điều tra, nhưng cơ quan chức năng cho rằng hành vi đó không phạm tội nên không tiến hành

xử lý đối với người phạm tội. Truy cứu trách nhiệm hình sự (hay còn gọi là hoạt động định

tội) oan, sai đối với người vô tội và việc không tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử

(còn gọi là từ chối định tội) đối với người phạm tội trong thực tiễn là hiện tượng tiêu cực, là

tình trạng hình sự hóa, dân sự hóa (phi hình sự hóa) đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Để hiểu rõ hơn tình trạng trên, thiết nghĩ trước tiên cần nghiên cứu, làm rõ khái niệm

hình sự hóa, dân sự hóa (phi hình sự hóa).

2.1. Khái niệm hình sự hóa, dân sự hóa

2. . . Khái niệm hình sự hóa

Hình sự hóa là một khái niệm pháp lý được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực lập pháp

hình sự, là việc quy định mới trong Phần các tội phạm của pháp luật hình sự chế tài hình sự

(hình phạt) đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó mà nay mới bị coi là tội phạm hoặc

Page 18: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

18

tăng nặng hơn loại, mức hình phạt đối với một số loại tội phạm mà trước đây đã quy định

loại, mức hình phạt nhẹ hơn đối với một số loại tội phạm đó.

Nội dung hình sự hóa là việc quy định mới chế tài hình sự (hình phạt) đối với hành vi

nguy hiểm mới bị coi là tội phạm hoặc tăng nặng hơn loại, mức hình phạt đối với một số

loại tội phạm trong Bộ luật hình sự. Điều này cho thấy, hình sự hóa là hoạt động lập pháp

hình sự, chỉ cơ quan có thẩm quyền là Quộc hội mới được tiến hành các hoạt động này.

Tuy nhiên, trong thực tiễn thường sử dụng thuật ngữ “hình sự hóa” để chỉ hoạt động

của các cơ quan tiến hành tố tụng, mà các hoạt động đó thường gắn liền với hiện tượng tiêu

cực của công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Thực chất của vấn đề này là việc cơ quan,

người tiến hành tố tụng hình sự áp dụng không đúng pháp luật hình sự để giải quyết các

tranh chấp, vi phạm pháp luật mà đáng lẽ ra phải dùng các quy phạm pháp luật phi hình sự

để giải quyết nên đã gây ra sự oan, sai cho người vô tội. Thuật ngữ hình sự hóa được sử

dụng rộng rãi trong thực tiễn không phải là thuật ngữ khoa học pháp lý hình sự, có nội hàm

rất xa lạ với nội hàm đúng nghĩa của nó, việc sử dụng như trên là một cách nói về thực trạng

tiêu cực của công tác đấu tranh chống tội phạm.

2. .2. Khái niệm dân sự hóa

Trong khoa học pháp lý không tồn tại khái niệm dân sự hóa mà chỉ có khái niệm phi

hình sự hóa, là một khái niệm pháp lý được sử dụng trong lĩnh vực lập pháp hình sự, là việc

loại khỏi Phần các tội phạm của pháp luật hình sự, chế tài hình sự (hình phạt) đối với hành

vi nguy hiểm cho xã hội nào đó mà trước đây bị coi là tội phạm, nhưng nay không bị coi là

tội phạm nữa; hoặc thu hẹp phạm vi trấn áp về hình sự với một số quy phạm và chế định

nào đó của pháp luật hình sự; hoặc quy định theo hướng giảm nhẹ hơn loại, mức hình phạt

đối với một số loại tội phạm mà trước đây đối với một số loại tội phạm đó, pháp luật hình

sự đã quy định loại, mức hình phạt nặng hơn.

Phi hình sự hóa chính là việc loại bỏ chế tài hình sự (hình phạt) đối với hành vi nguy

hiểm mà trước đây bị coi là tội phạm, nay không bị coi là tội phạm nữa; hoặc quy định giảm

hơn loại, mức hình phạt đối với một số loại tội phạm trong Bộ luật hình sự. Điều này cho

thấy, phi hình sự hóa cũng là hoạt động lập pháp hình sự, chỉ cơ quan có thẩm quyền là

Quộc hội mới được tiến hành.

Thuật ngữ dân sự hóa mà thực tiễn đã sử dụng nhằm để chỉ hoạt động của các cơ

quan tiến hành tố tụng, mà các hoạt động đó thường gắn liền với hiện tượng cơ quan, người

tiến hành tố tụng hình sự từ chối tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người

phạm tội vì những nguyên nhân khác nhau. Bản chất của vấn đề là việc cơ quan, người tiến

hành tố tụng hình sự áp dụng pháp luật phi hình sự để giải quyết các tranh chấp, vi phạm

pháp luật mà đáng lẽ ra phải dùng các quy phạm pháp luật hình sự để giải quyết nên dẫn đến

bỏ lọt tội phạm. Như vậy, có thể khẳng định thuật ngữ dân sự hóa mà thực tiễn đã sử dụng

chính là cách nói khác của thuật ngữ phi hình sự hóa, cả hai đều nhằm một nội dung chỉ

thực trạng bọ lọt tội phạm của cơ quan có thẩm quyền.

Page 19: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

19

Như vậy, thuật ngữ dân sự hóa (phi hình sự hóa) được sử dụng trong thực tiễn cũng

không phải là thuật ngữ khoa học pháp lý hình sự, nó có nội hàm rất khác với nội hàm đúng

nghĩa, là một cách nói về thực trạng bỏ lọt tội phạm.

2.2. Thực trạng vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa đối với hành vi lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

2.2.1. Thực trạng vấn đề hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Vấn đề “hình sự hóa” trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản là việc cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự áp dụng không đúng

pháp luật hình sự mà cụ thể là quy định tại Điều 139, Điều 140 BLHS để giải quyết các

tranh chấp, vi phạm pháp luật và trình tự tố tụng được áp dụng trong quá trình giải quyết

các vụ việc là tố tụng hình sự, mà đáng lẽ phải dùng pháp luật khác và trình tự, thủ tục tố

tụng phi hình sự để giải quyết nên đã gây ra oan, sai cho người vô tội. Thực trạng trên gây

ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho những gia đình và bản thân bị bị xử lý oan, sai, tác động

rất xấu đến trật tự an toàn xã hội, nó đã được dư luận lên án và báo động; các cơ quan chức

năng trong thực tiễn cũng rất quan tâm, đưa ra nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng này.

Mặc dù trong thời gian gần đây, tình hình trên có thuyên giảm, nhưng nó vẫn chưa chấm dứt

và nhiều lúc có diễn biến rất phức tạp, gây sự hoài nghi về trình độ, năng lực của các cá

nhân tiến hành tố tụng, sự khách quan, thận trọng và công tâm trong sử dụng quyền lực Nhà

nước giao của các cá nhân này, và thực trạng ấy cũng là vật cản của quá trình nâng tầm nền

tư pháp của nước ta với thế giới hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ thực trạng này

thông qua các vụ án cụ thể là vấn đề cần thiết để có sự đánh giá toàn diện và chính xác, qua

đó rút ra được những nguyên nhân và tìm những giải pháp khắc phục.

*Vụ án thứ nhất.

Vào năm 2010, bà Nguyễn Thị H có vay tiền của nhiều người với tổng số tiền

khoảng 450.000.000 đồng để làm vốn kinh doanh, do bị thua lỗ, bà H không có tiền trả nợ

như đã cam kết với các chủ nợ, nên các chủ nợ tiến hành khởi kiện bà H ra Tòa án. Trong

quá trình thụ lý, điều tra xác minh, Tòa án nhận định là đủ cơ sở kết luận bà H có vay tiền

của các chủ nợ nói trên. Tuy nhiên, bà H lại một mực chối cãi chữ ký trong các hợp đồng

vay tiền không phải của bà. Căn cứ Kết luận giám định: Chữ ký người vay nợ trong các biên

nhận mà chủ nợ cung cấp đúng là của bà H, Tòa án cho rằng hành vi của bà H có dấu hiệu

của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nên ban hành Công văn đề nghị Viện kiểm

sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà H. Căn cứ kết quả xác minh thu thập chứng cứ

ban đầu, Cơ quan điều tra tiến hành khởi tố vụ án và bị can H về tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Sau khi vụ án có kết luận điều tra,

Viện kiểm sát truy tố bị can ra trước Tòa án cấp huyện và quyết định truy tố trên được Tòa

án sơ thẩm chấp nhận và ra bản án kết tội đối với bà H. Không đồng ý với bản án sơ thẩm,

bị cáo kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng, cấp sơ

Page 20: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

20

thẩm có thiếu sót là chưa làm rõ nguyên nhân dẫn đến việc bà H mất khả năng thanh toán

các khoản nợ đến hạn, và thiếu sót này cấp phúc thẩm không khắc phục được nên quyết

định hủy toàn bộ bản án, trả về cấp sơ thẩm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục

chung. Sau khi Cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại đối với vụ án, thì vấn đề bà H mất khả

năng thanh toán các khoản nợ đến hạn là do bị thua lỗ trong kinh doanh. Nhận thấy đã khởi

tố, truy tố, xét xử oan sai, nên cơ quan tiến hành tố tụng phải đình chỉ vụ án.

Qua vụ án trên thấy rằng, việc bà H chối bỏ chữ ký của mình trong hợp đồng vay tiền

là một trong những thủ đoạn nhằm né tránh nghĩa vụ hoàn trả nợ. Để có cở sở kết luận hành

vi của bà Nguyễn Thị H thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 140

BLHS, thì ngoài việc trưng cầu giám định chữ ký người vay nợ trong các biên nhận mà chủ

nợ cung cấp đúng là của bà H, cơ quan tiến hành tố tụng phải điều tra làm rõ nguyên nhân

vì sao bà H không thanh toán các khoản nợ đến hạn. Nếu chứng minh được rõ ràng việc bà

cố tình không thực hiện nghĩa vụ về tài sản là bà sau khi nhận được tài sản bằng hợp vay tài

sản, đã sử dụng tài sản trên vào mục đích bất hợp pháp hoặc có thủ đoạn gian dối nhằm

chiếm đoạt tài sản, thì lúc đó mới đủ cơ sở kết luận bà H phạm tội. Cơ quan chức năng chỉ

dựa vào tình tiết bà H không thừa nhận chữ ký của bà trong các biên nhận nợ để khởi tố,

truy tố, xét xử sơ thẩm là vội vàng và thiếu thận trọng nên đã gây ra oan sai người vô tội.

*Vụ án thứ hai.

Từ tháng 8/2005 đến tháng 12/2005, ông Lê Duy N (chủ cơ sở sản xuất rượu D.N) đã

nhiều lần vay của bà S tổng cộng 375 triệu đồng. Theo thỏa thuận, lãi suất vay là 6%/tháng

và đến đầu năm 2006 ông N phải trả cả lãi lẫn vốn. Sau đó, ông N dùng giấy tờ đất của

người khác thế chấp cho bà S, đồng thời làm hợp đồng chuyển nhượng 1.400m2 đất mà ông

N đã đem thế chấp ngân hàng để cấn trừ nợ. Phát hiện được việc làm gian dối, bà S tố cáo

ông với cơ quan chức năng. Sau khi tiến hành điều tra, Cơ quan điều tra khởi tố, bắt tạm

giam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Căn cứ quyết định truy tô của Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét

xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị phạt ông N từ 7-8 năm tù, tuy

nhiên Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hành vi của ông N không cấu thành tội phạm nên tuyên

ông N không phạm tội. Sau đó, Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, nhưng

Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy bản án sơ không vi phạm nên tuyên bác kháng nghị và giữ

nguyên bản án sơ thẩm.

Trong vụ án này, vấn đề quan trọng nhất là ông N có mục đích chiếm đoạt và thực tế

ông đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của bà S hay không. Ông N không thực hiện cam kết

trả nợ đúng hạn, có những hành vi gian dối nhất định trong việc cấn trừ nợ là lấy tài sản mà

mình đã thế chấp ngân hàng ra giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, nhưng giao dịch

này là đề cấn trừ nghĩa vụ chứ không xuất phát từ đây, người phạm tội nhận được tài sản rồi

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài ấy. Nội dung trên cho thấy hành vi diễn ra trên thực tế

không phù hợp với hành vi khách quan được nêu trong cấu thành tội phạm. Vì vậy, Cơ quan

Page 21: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

21

điều tra, Viện kiểm sát đã truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai người không có tội hay còn

gọi là hình sự hóa quan hệ dân sự.

*Vụ án thứ ba.

Vào tháng 10/2006, Dương Công Đ nghe tin bà H (mẹ vợ của Đ) định bán nhà đất

(chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà) với giá 100.000.000,

đồng nên Đ tích cực trong đi tìm người mua nhằm mục đích giúp bán tài sản trên cho gia

đình. Khoảng 10 ngày sau, Đức biết được ông Trần Văn T có ý định mua đất, nên Đ tìm đến

nhà ông T giới thiệu, qua thỏa thuận ông T đồng ý mua nhà đất của bà H với số tiền

120.000.000 đồng, ông T đặt cọc trước cho Đ số tiền 20.000.000 đồng. Đ mang số tiền trên

về nói lại và giao nói với bà H, nhưng bà không đồng ý bán, vì bà đã hứa bán cho người

khác với giá 100.000.000 đồng và đã nhận đặt cọc số tiền 5.000.000 đồng. Thấy bà H bán

tài sản với giá như trên là thấp, nên Đ nói với ông T là bà H đã đồng ý cho Đ đại diện đứng

ra bán tài sản trên. Sau khi ký giấy tay mua bán, ông T đã giao đủ số tiền còn lại cho Đ.

Nhận được tiền, Đ mang về nói với bà H và yêu cầu bà hủy giao kết (miệng) và trả lại số

tiền 5.000.000 đồng mà bà H nhận của người mà bà hứa bán nhà đất, bà H không đồng ý,

sau đó thì sự việc được đưa đến cơ quan chức năng.

Cơ quan điều tra cho rằng Dương Công Đ chưa được bà H ủy quyền bán tài sản theo

quy định của pháp luật, Đ đã dùng thủ đoạn gian dối để tham gia giao dịch và nhận tiền của

ông T là hành vi lừa đảo nên khởi tố vụ án và bị can Đ theo Điều 139 BLHS. Căn cứ Kết

luận điều tra, Viện kiểm sát truy tố Đ ra trước Tòa án nhân dân để xét xử theo Điều 139

BLHS. Tòa án cho rằng Dương Công Đ sau khi đứng ra bán nhà đất cho ông T, Đ đã mang

toàn bộ số tiền về đưa cho bà H, Đ không có ý thức dùng hợp đồng dân sự để chiếm đoạt tài

sản của người khác nên hành vi của Đ không thỏa mãn cấu thành tội phạm quy định tại Điều

139 BLHS. Qua hai lần thực hiện điều tra bổ sung theo yều cầu của Tòa án, cuối cùng cơ

quan tiến hành tố tụng thống nhất đình chỉ vụ án.

Vụ việc trên một lần nữa cho thấy các cơ quan, người tiến hành TTHS trong thực

tiễn nhiều lúc vẫn chưa hiều rõ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm, đặc biệt

là dấu về mặt khách quan của tội phạm. Dương Công Đ tuy có dùng thủ đoạn gian dối trong

quá trình giao dịch và ký kết hợp đồng với ông T, nhưng việc gian dối đó không nhằm

chiếm đoạt tài sản của ông T hay bà H mà nhằm giúp bà H bán tài sản với giá cao hơn; đồng

thời tài sản (nhà đất) là loại bất động sản không thể di dời được, tài sản đó của bà H có bị Đ

giả danh bà H đứng bán cho người khác đi nữa thì bà H vẫn không bị mất quyền sử dụng

đối với tài sản, bà cũng không bị thiệt hại gì; và ông T tuy có tham gia giao dịch nhằm chủ

thể, nhưng ông vẫn có quyền yêu cầu phía bên bán tiếp tục thực hiện giao dịch hoặc trả lại

tiền cho ông. Đây thực chất là tranh chấp về dân sự, nếu như có một bên gian dối trong ký

kết và thực hiện hợp đồng thì hợp đồng đó thuộc trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu. Cơ

quan chức năng kết luận hành vi của Đ thỏa mãn dấu hiệu mô tả trong cấu thành tội phạm

quy định tại Điều 139 BLHS là định tội oan, sai đối với hành vi vi phạm pháp luật khác.

Page 22: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

22

2.2.2. Thực trạng vấn đề dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Như chúng tôi đã phân tích, hoạt động định tội danh đối với hành vi lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng

pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các

tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi

nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng

quy định tại Điều 139, Điều 140 BLHS. Khi cơ quan có thẩm quyền vì lý do nào đó mà từ

chối tiến hành hoạt động trên đối với những hành vi đã thỏa mãn cấu thành tội phạm mô tả

trong pháp luật hình sự là bỏ lọt tội phạm. Thực tiễn gọi tình trạng này là dân sự hóa đối với

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nội dung

của vấn đề là việc cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự áp dụng pháp luật phi hình sự để

giải quyết các tranh chấp, vi phạm pháp luật mà đáng lẽ ra phải dùng các quy phạm pháp

luật hình sự để giải quyết. Thực trạng này gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho xã hội,

quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân không được bảo vệ trước những hành

vi xâm hại, nó đã được dư luận lên án; các cơ quan chức năng trong thực tiễn cũng rất quan

tâm, đưa ra nhiều biện để khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm. Dưới sự tác động của kinh tế

thị trường, sự cám dỗ của vật chất, sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ nên thời gian

gần đây, tình hình trên vẫn không thuyên giảm và nhiều lúc còn diễn biến phức tạp hơn, gây

hoài nghi trong dư luận về sự khách quan, công tâm trong sử dụng quyền lực Nhà nước giao

của các cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng. Nên việc nghiên cứu thực trạng này thông qua

một số vụ án cụ thể là cần thiết để tạo cơ sở thực tiễn cho việc mô phỏng bức tranh có gam

màu tối này.

*Vụ án thứ nhất.

Căn cứ công văn ngày 10/6/2011 của Chi cục thi hành án dân sự về việc đề nghị

KTVA về tội “Vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản” theo Điều 310 BLHS, Viện kiểm

sát tiến hành nghiên cứu vụ việc nhận thấy, vào ngày 18/2/2011 Chi cục thi hành án huyện

tiến hành kê biên phần đất nông nghiệp có diện tích 30.000 m2 của Lê Thị Th nhằm đảm

bảo bà Th thi hành nghĩa vụ hoàn trả số tiền 486 triệu đồng theo bản án sơ thẩm dân sự của

Tòa án huyện. Đến ngày 18/5/2011, mặc dù tài sản đã bị kê biên và trong trong biên kê biên

tài sản, Chi cục thi hành án huyện ghi rõ chỉ giao cho bà Th tiếp tục quản lý sử dụng, cấm

chuyển nhượng, tăng cho với mọi hình thức, nhưng bà Th vẫn tiến hành thỏa thuận và đến

Phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng phần diện tích bị kê biên trên cho ông

Nguyễn Văn Đ với số tiền 900 triệu đồng. Sau khi nhận được tiền cuyển nhượng đất, thì

hành vi của Lê Thị Th bị phát hiện. Xét thấy hành vi của Lê Thị Th có dấu hiệu của tội

phạm, Viện kiểm sát chuyển kiến nghị khởi tố của Chi cục thi hành án cho Cơ quan điều tra

và yêu cầu khởi tố vụ án.

Page 23: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

23

Trong quá trình điều tra làm rõ diễn biến của vụ án, mặc dù bà Th không hoàn trả và

cũng không có khả năng hoàn trả cho ông Đ số tiền 900 triệu đồng, nhưng Cơ quan điều tra

vẫn cho rằng, theo quy định của pháp luật về đất đai, việc chuyển nhượng quyền sử dụng

đất chi xem hoàn tất khi các bên nộp hồ sơ chuyển nhượng cho Phòng đăng ký quyền sử

dụng đất và được cơ quan này đồng cho nộp thuế chuyển quyền và lệ phí trước bạ, và tranh

chấp hợp đồng giữa bà Th và ông Đ chỉ là tranh chấp dân sự, chỉ cần hướng dẫn ông Đ khởi

kiện yều cầu Tòa án buộc bà Th phải hoàn trả số tiền mà bà đã nhận là phù hợp để ra quyết

định không khởi tố vụ án hình sự. Sau đó, Viện kiểm sát thay đổi quan điểm và đã ra công

văn trả lời việc không khởi tố vụ án hình sự là có cơ sở.

Nhận định của Cơ quan điều tra cho thấy có những điểm không hợp lý như: Khi thực

hiện việc thỏa thuận và chuyển nhượng phần đất trên, bà Lê Thị Th đã sử dụng thủ đoạn

gian dối thông qua việc bà không cung cấp cho ông Đ biết phần đất trên bà không có quyền

mang ra chuyển nhượng; bà cố ý che dấu thông tin về phần đất đã bị Chi cục thi hành kê

biên để ông Đ tin tưởng tham gia ký kết hợp đồng và đưa tiền, để cho bà Th chiếm đoạt số

tiền nói trên thể hiện qua việc bà không có khả năng hoàn trả lại số tiền đã nhận; Và việc bà

Th tiến hành bán tài sản được giao quản lý sau khi bị kê biên là hành vi đặc trưng mô tả tại

Điều 310 BLHS, ngay thời điểm tiến hành ký kết bán tài sản ấy là tội phạm đã hoàn thành,

cho dù việc bán (chuyển nhượng) đó có được xem là hoàn tất theo quy định của pháp luât

đất đai hay không.

Hành vi cố ý dùng thủ đoạn gian dối để ký kết hợp đồng trái pháp luật và chiếm đoạt

tài sản của người khác của bà Th đã xâm phạm đến hai khách thể mà Luật hình bảo vệ là

trật tự pháp luật trong kê biên tài sản của cơ quan có thẩm quyền và quan hệ sở hữu; mục

đích của việc vi phạm kê biên là nhằm chiếm đoạt tài ản của ông Đ, nên hành vi phạm kê

biên ấy có thể xem là hành vi tiền đề để người phạm tội thực hiện hành vi tiếp theo nhằm

đạt mục đích đề ra; Và theo nguyên tắc thu hút tội danh, phải kết luận hành vi của Lê Thị

Th cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Điều 139 BLHS. Việc cơ

quan tiến hành tố tụng kết luận bà Th không phạm bất kỳ tội nào, vụ việc cần giải quyết

theo quy định của pháp luật dân sự là bỏ lọt tội phạm hay còn gọi là dân sự hóa đối với

hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

*Vụ án thứ hai.

Ngày 15/7/2011, Trần Văn K đến gặp anh Nguyễn Văn L đặt vấn đề thuê chiếc xe ô

tô loại INOVA, biển số: 89M- 4527 (trị giá 310 triệu đồng) sử dụng đi lại, K đã thỏa thuận

với anh L thuê xe trong 3 ngày, mỗi ngày K phải trả cho anh L là 1.000.000 đồng và K đã

thanh toán trước số tiền thuê xe cho L. Sau khi nhận xe và giấy chứng nhận đăng ký, K đã

sử dụng đến ngày thứ hai thì nảy sinh ý định mang xe của anh L đi cầm cố lấy tiền và trả

nợ, vì vậy K đã mang xe đến hiệu cầm đồ và cầm cho anh Nguyễn Văn H lấy số tiền là 120

triệu đồng, K thỏa thuận với anh H sau 10 ngày sẽ đến chuộc xe. Nhận được tiền, K trả nợ

cho anh Đinh Khắc T hết 115 triệu đồng, số tiền còn lại K sử dụng vào việc tiêu xài cá

Page 24: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

24

nhân. Đến ngày hẹn, L không thấy K mang xe đến trả như đã thỏa thuận nên đã đến gặp K

để đòi xe, K đã nói đã cầm cố và hứa sẽ chuộc về trả lại. Do K không thực hiện như cam kết

nên anh Nguyễn Văn H (chủ hiệu cầm đồ) đã thanh lý và bán xe cho người khác. Biết được

sự việc, L đã làm đơn tố cáo Trần Văn K với Cơ quan điều tra.

Tại Cơ quan điều tra, K khai nhận không có ý định chiếm đoạt tài sản của anh L, chỉ

vì K không có tiền trả nợ nên mới cầm cố xe lấy tiền trả nợ, sau đó thì K bỏ đi khỏi địa

phương.

Cơ quan điều tra cho rằng hành vi của Trần Văn K đã phạm tội Lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS, bởi vì K sau khi nhận tài sản của

người khác bằng hợp đồng thuê tài sản, K đã sử dụng tài sản trên vào mục đích bất hợp

pháp dẫn đến không có khả năng trả và bỏ trốn khỏi địa phương, nên cần khởi tố K theo

pháp luật hình sự.

Tuy nhiên, Viện kiểm sát qua nghiên cho rằng, khoản 1 Điều 140 BLHS quy định:

Chỉ “Người nào có một trong những hành vi: Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc

nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối

hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;... sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn

đến không có khả năng trả lại tài sản.” thì mới cấu thành tội phạm này. Sau khi nhận được

tài sản (xe ô tô), K không có hành vi gian dối, không sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp

pháp, đặc biệt là K không bỏ trốn, ngay từ ban đầu K đã đến Cơ quan điều tra khai báo toàn

bộ hành vi của mình và hứa sẽ chuộc xe trả cho anh L, vì vậy hành vi của Trần Văn K

không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như đề nghị của Cơ quan điều

tra, mà hành vi đó chỉ vi phạm nghĩa vụ dân sự, đây là quan hệ thuộc sự điều chỉnh của

pháp luật dân sự. Từ đó, Viện kiểm sát không đồng ý với Cơ quan điều tra về việc khởi tố

vụ án.

Quan điểm của Viện kiểm sát là quá cứng nhắc, không đúng với nội dung và tinh

thần của Điều 140 BLHS. Đúng là hợp đồng dân sự giữa K và L là hợp pháp, nhưng nội

dung hợp đồng quy định rất rõ việc thuê xe chỉ nhằm phục vụ đi lại, thời hạn thuê là ba

ngày, hết thời hạn K phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu, nhưng sau đó vì muốn có tiền trả

nợ và tiêu xài cá nhân, K đã bất chấp sự ràng buộc của hợp đồng để mang tài sản mà mình

không có quyền định đoạt đi cầm cố dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Việc K nhận

tài sản với mục đích ban đầu là sử dụng, sau đó mang cầm cố lấy tiền nên hoàn toàn có thể

xem hành vi mang tài sản cầm cố đó là sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp. Sự bất

hợp pháp thể hiện rất rõ trong trường hợp này là việc định đoạt tài sản của người khác khi

chưa được sự đồng ý hay ủy quyền của chủ sở hữu, sử dụng tài sản vào mục đích khác với

nội dung đã thỏa thuận; Và việc K bỏ đi khỏi địa phương khi chưa thực hiện đầy đã nghĩa

vụ đã cam kết cũng như nghĩa vụ phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan giải quyết tranh

chấp được xem là hành vi bỏ trốn, luật không ràng buộc là phải bỏ trốn ngay từ khi nhận tài

sản hay bỏ trốn sau khi đã có tham gia giải quyết tranh chấp một vài lần, miễn là việc bỏ

Page 25: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

25

trốn này dẫn đến hệ quả là chủ sở hữu bị thiệt hại về tài sản là phù hợp với thuật ngữ trên.

Từ phân tích trên cho thấy, cơ quan chức năng không kịp thời áp dụng biện cần thiết đối với

K và dùng quy phạm pháp luật phi hình sự giải quyết tranh chấp trên là hiện tượng tiêu cực

cần ngăn chặn.

*Vụ án thứ ba.

Vào năm 2009, Ban giám đốc Công ty cao su TB cho chủ trương xem xét những hộ

gia đình có người làm công trong công ty là người dân tộc thiểu số, thuộc diện hộ nghèo hỗ

trợ sẽ cho vay vốn nhằm giúp những hộ này có điều kiện mua sắm phương đi lại phục vụ

đời sống và sản xuất. Lúc đó, Lâm Thanh T là cán bộ quỹ tín dụng của công ty tiến hành

điều tra và lập danh sách những hộ thuộc diện ưu tiên cho vay trình công ty. Sau khi xem

xét, Ban giám đốc duyệt cho 30 hộ vay với số tiền là 10 triệu đồng/hộ. T đại diện cho những

hộ dân trên nhận 300 triệu đồng. Nhưng lúc giao tiền cho các hộ dân, T nói Cty chỉ cho mỗi

hộ vay 3 triệu, các hộ trên nhận thấy số tiền 3 tiệu không đủ để mua sắm phương tiện (xe

mô tô) nên từ chối nhận tiền. T giữ tất cả số tiền nói trên và sử dụng vào mục đích cá nhân,

thì sau đó, hành vi của T bị phát hiện và vụ việc được chuyển cho Cơ quan điều tra.

Mặc dù quá trình điều tra làm rõ vụ án không có điều gì trở ngại, nhưng đến ba năm

sau, cơ quan điều tra vẫn không ra quyết định khởi tố vụ án hay quyết định không khởi tố

vụ án hình sự. Lý do của sự chậm trễ trên được cơ quan điều tra lý giải, là để tạo điều kiện

cho T có thời gian khắc phục hậu quả. Viện kiểm sát đã nhiều lần kiến nghị Cơ quan điều

tra vi phạm thời hạn xử lý tin báo, tố giác tội phạm theo quy định của Điều 103 Bộ luật

TTHS, nhưng kết quả vẫn không thay đổi và sau đó, Viện kiểm sát cũng không có động thái

gì tiếp theo, người phạm tội vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật.

Việc cơ quan chức năng cố ý không áp dụng quy phạm pháp luật hình sự để xử lý

người phạm tội trong trường hợp này là một dạng khác của thực trạng bỏ lọt tội, họ hiểu rõ

hành vi nguy hiểm trên thỏa mãn cấu thành tội phạm, nên không ra bất kỳ một quyết định

liên quan nào đến vụ việc trên. Việc làm này thiết nghĩ nó cũng có bóng dáng của tình trạng

dân sự hóa hành vi phạm tội.

Qua nghiên cứu, làm rõ thực trạng hình sự hóa, dân sự hóa hành vi phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua các vụ án cụ thể cho

thấy, mặc dù việc hình sự hóa, dân sự hóa diễn ra rất đa dạng đối với nhiều vụ việc có diễn

biến, nội dung và chủ thể với những đặc điểm về xã hội, nghề nghiệp khác nhau, nhưng

trong các trường hợp cụ thể đó điều có liên quan đến quá trình tiến hành tố tụng và áp dụng

pháp luật hình sự của các cơ quan, người có thẩm quyền. Vì vậy, sau khi mô tả phần nào

bức tranh của thực tiễn phục vụ cho việc đánh giá toàn diện và chính xác bản chất của vấn

đề, thì việc tiếp theo là đi tìm những nguyên nhân từ trong các cơ quan công quyền nhằm

tạo cơ sở cho việc đưa ra những giải pháp đúng trọng tâm khắc phục thành công những tồn

tại, hạn chế ấy.

Page 26: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

26

2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

- Nguyên nhân từ đội ngũ cán bộ:

Do đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn thiếu về số lượng so với chỉ

tiêu biên chế được giao, một số còn hạn chế trình độ, năng lực và kinh nghiệm công tác thực

tiễn, công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện

nay, đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ,

một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là

vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hướng tới kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của Bộ máy Nhà

nước.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đánh giá:

“Công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình

hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp

vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức.

Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hướng tới kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của Bộ

máy Nhà nước”.

Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, qua hơn 12 năm thực hiện tiến trình cải cách

tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và qua hơn 9 năm Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị đã có sự chuyển biến về công tác tổ chức cán bộ, số lượng và chất

lượng của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được nâng lên rõ rệt, ngày càng

đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, so với yêu cầu

chung thì đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán của các cơ quan tiến hành tố

tụng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác chưa đồng đều, có một bộ

phận còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác. Mặc dù theo quy định của Pháp

lệnh tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh

Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, quy định tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn

nghiệp vụ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán là cử nhân luật, nhưng trên thực tế

khả năng nhận thức, năng lực công tác, kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn, ý thức

và tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân khác nhau nên dẫn đến kết quả công tác đạt được

cũng khác nhau.

Chính do đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn thiếu về số lượng,

yếu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác và sự thiếu trách nhiệm trong khi

phải giải quyết vụ án, nên dẫn đến tình trạng những người tiến hành tố tụng không nghiên

cứu kỹ hồ sơ vụ án, việc thu thập và đánh giá chứng cứ sơ sài, không chặt chẽ nên dễ dẫn

đến sai lầm trong việc định tội danh.

Một lý do nữa cũng tác động rất lớn đến quá trình thực hiện hoạt động định tội là sự

tác động của kinh tế thị trường làm nhiều cán bộ tha hóa, biến chất, vì những động cơ khác

Page 27: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

27

nhau họ sẵn sàng bẻ cong pháp luật, cố tình đưa ra hướng nhận định không đúng bản chất

của vụ án, nghiêm minh của pháp luật.

- Nguyên nhân từ công tác xây dựng, hướng dẫn, giải thích pháp luật:

Mặc dù BLHS năm 1999 sửa đổi quy định rất cụ thể, rõ ràng về khái niệm cũng như

hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên việc định tội

danh đối với tội phạm này chủ yếu phải căn cứ vào các yếu tố của mặt khách quan để xác

định ý thức chủ quan của người phạm tội, đây là một vấn đề khó và còn có nhiều cách hiểu

khác nhau trong thực tiễn. Nhưng cho đến nay, các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa ban

hành văn bản hướng dẫn cụ thể giúp cho cơ quan thực tiễn giải quyết những vấn đề khó

khăn, vướng mắc trong việc định tội danh đối với các tội có hành vi cố ý xâm phạm tài sản

như đã phân tích ở trên. Xuất phát từ nguyên nhân này, nên nhận thức giữa các địa phương,

giữa các cơ quan tố tụng còn khác nhau.

Một số Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán do thiếu văn bản hướng dẫn áp dụng

pháp luật thống nhất, nên chưa nhận thức đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của các tội có hành

vi cố ý xâm phạm tài sản một cách chính xác. Do đó, quan điểm giữa Điều tra viên, Kiểm

sát viên, Thẩm phán và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đối với cùng một vụ án cũng

khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.

- Thiếu sót trong hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ:

Hoạt động lập hồ sơ và kiểm sát việc lập hồ sơ, thu thập chứng cứ trong một số vụ án

có hành vi cố ý xâm phạm tài sản của Điều tra viên chưa chặt chẽ, chỉ chú trọng lời khai của

bị can mà chưa chú ý đến các chứng cứ khác; không chú ý điều tra làm rõ động cơ, mục

đích phạm tội; tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ một số vụ án còn rất nhiều mâu thuẫn. Kiểm

sát các hoạt động điều tra làm rõ hành vi, thủ đoạn, xác định mục đích phạm tội và việc lập

hồ sơ của Cơ quan điều tra chưa tốt, nhiều vụ án chỉ chú trọng thu thập chứng cứ buộc tội,

bỏ qua chứng cứ gỡ tội trong vụ án, khi đánh giá chứng cứ nhất là mặt khách quan của tội

phạm còn mang tính chủ quan, suy diễn gây ra oan, sai cho người vô tội là khó tránh khỏi.

Trong quá trình giải quyết các vụ án có hành vi cố ý xâm phạm tài sản, một số Điều

tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán do trình độ nhận thức hạn chế nên trong việc đánh giá

chứng cứ để xác định tội danh cũng như áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự xử lý không

chính xác; khi đánh giá chứng cứ không xem xét tính hợp pháp, xác thực và tính có liên

quan đến vụ án cũng như việc xem xét một cách khách quan, toàn diện tất cả các tình tiết

của vụ án để đánh giá cho chính xác, dẫn đến quan điểm khởi tố, truy tố và xét xử của cấp

sơ thẩm không đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Một lý do nữa cũng tác động rất lớn đến quá trình thực hiện hoạt động định tội là sự

tác động của kinh tế thị trường làm nhiều cán bộ tha hóa, biến chất, vì những động cơ khác

nhau họ sẵn sàng bẻ cong pháp luật, cố tình đưa ra hướng nhận định không đúng bản chất

Page 28: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

28

của vụ án, để từ đó đưa ra các quyết định sai trái phục vụ cho lợi ích của mình làm ảnh

hưởng tính nghiêm minh của pháp luật.

Để việc định tội danh đối với các tội xâm phạm tài sản cũng như tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, xét thấy cần đưa ra những kiến nghị

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này, từ đó đảm bảo cho việc truy cứu TNHS đối với

người phạm tội được khách quan và đúng pháp luật.

2.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác định tội danh đối với

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Từ phân tích, làm rõ hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn, tác giả nhận thấy cơ sở pháp lý và

khoa học cho việc định tội danh trên đã hoàn thiện và đã dự liệu tương đối đầy đủ các loại

hành vi xảy ra trong thực tiễn, nhưng thực tiễn định tội danh đối với tội phạm này vẫn còn

những bất cấp, hạn chế. Qua làm rõ nguyên nhân, tác giả nhận thấy những tồn tại chủ yếu

xuất phát từ con người, nên nhận thấy cần có những giải pháp về con người để góp phần

cho hoạt động định tội danh trong thực tiễn ngày càng chính xác và đúng pháp luật.

2.4.1. Kiến nghị về công tác cán bộ

Hiệu quả của hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh đối với hành vi cố ý

xâm phạm tài sản (trong đó có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản) nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng công tác tổ chức

cán bộ đóng vai trò rất quan trọng. Khi nói về công tác tổ chức cán bộ Bác Hồ đã chỉ rõ

“cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc có thành công hay thất bại đều do cán bộ

tốt hay kém” và trong Nghị quyết số 08-NQ/TW về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW về “chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020” của Bộ Chính trị cũng đã thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo là phải xây dựng đội ngũ

cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh. Do đó, để nâng cao hiệu quả định tội danh đối với

hành vi cố ý xâm phạm tài sản, giải pháp trước tiên là phải đào tạo một đội ngũ Điều tra

viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ về số lượng và giỏi về

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Vì vậy, để thực

hiện tốt giải pháp về công tác tổ chức cán bộ, theo chúng tôi cần thực hiện những giải pháp

như sau:

* Nâng cao năng lực đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trong hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự

Qua kết quả khảo sát, đánh giá thực tiễn, để nâng cao năng lực đội ngũ Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, theo tác

giả cần thực hiện đồng bộ trên các mặt.

-Thứ nhất, nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp.

Page 29: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

29

Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, về một số nhiệm

vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã thể hiện rõ quan điểm: “công tác tư

pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả

các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất”.

Do đó, việc nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ Điều

tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm.

Bởi vì, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là một dạng công việc đặc thù,

hàng ngày, hàng giờ phải thường xuyên tiếp xúc, đối diện với những mặt trái của xã hội,

tiếp xúc với đủ loại vi phạm và tội phạm. Nếu cán bộ tư pháp không được trau dồi, rèn

luyện về đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp thì rất dễ bị những mặt trái của cơ chế kinh tế thị

trường cám dỗ. Để nâng cao nhận thức và bản lĩnh, trước hết mỗi cán bộ tư pháp phải tự rèn

luyện ý thức chính trị, phải luôn xác định công tác điều tra, truy tố, xét xử là công tác chính

trị, phải quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, vận dụng vào trong hoạt động tố tụng để

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị

trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Rèn luyện nâng cao nhận thức về tư tưởng

chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp sẽ giúp cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành một cách có lý, có tình, được nhân dân tin

tưởng và đồng tình, giúp cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn.

- Thứ hai, bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức

pháp luật.

Nhân tố con người được coi là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng của mọi

hoạt động. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự bên cạnh tính hệ trọng còn có

tính phức tạp cao. Trong quá trình này, các chủ thể tiến hành tố tụng được pháp luật trao

cho quyền tự do đánh giá chứng cứ trên cơ sở niềm tin nội tâm, ý thức pháp luật của mình.

Vì vậy, khi các chủ thể đó có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, nắm vững kiến thức về

pháp luật, thì các quyết định tố tụng của họ mới có cơ sở thực tế, đảm bảo tính khách quan,

đúng đắn và phù hợp với pháp luật, và đó cũng chính là cơ sở quan trọng làm giảm tình

trạng oan, sai trong tố tụng hình sự.

Để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, năng lực công tác,

cũng như kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn trong việc định tội danh cho đội ngũ Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán, trong quá trình công tác cần chú trọng việc bồi dưỡng các kiến

thức về Luật hình sự và kiến thức về lý luận định tội danh. Nhằm giúp cho họ nắm vững

những dấu hiệu cấu thành tội phạm, nắm vững các cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học và phương

pháp định tội danh, để thực hiện hoạt động định tội danh đảm bảo chặt chẽ, khoa học và

chính xác. Bên cạnh đó, cũng cần tổ chức các buổi hội thảo tổng kết rút kinh nghiệm trong

việc định tội danh đối với các vụ án để xảy ra oan sai, có sai sót hoặc còn tồn tại nhiều quan

điểm khác nhau trong việc định tội danh.

Page 30: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

30

-Thứ ba, bổ sung đủ số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán nhằm tránh

quá tải trong quá trình làm việc.

Để đáp ứng được nhu cầu về số lượng, trình độ chuyên môn và năng lực công tác cho

đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thì cần chú trọng công tác tuyển chọn cán

bộ, đặc biệt là cần quan tâm, chủ động hơn với chất lượng nguồn nhân lực đầu vào. Vì trên

thực tế hiện tại chỉ có lực lượng Điều tra viên trong ngành Công an nhân dân là được đào

tạo một cách có hệ thống mang tính liên tục, kế thừa tại các trường trong ngành Công an

nhân dân, nên phần nào được chủ động hơn về nguồn nhân lực.

Riêng đối với lực lượng Kiểm sát viên và Thẩm phán hiện tại nguồn của hai đối

tượng này chủ yếu được tuyển dụng từ sinh viên tốt nghiệp các trường luật trên cả nước, sau

đó được đưa đi đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát ngắn hạn. Trong khi đó hiện tại chế độ đãi

ngộ và thu nhập trong ngành Kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân chưa đủ sức thu hút

nhân tài vào công tác trong ngành, nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp vào công tác một thời

gian thì chuyển sang làm công việc khác vì mức thu nhập không đảm bảo cuộc sống, nên

việc tuyển đủ biên chế cho ngành Kiểm sát và Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp thời

điểm hiện nay là một vấn đề hết sức khó khăn. Do đó, để chủ động hơn về nguồn nhân lực

cho ngành Kiểm sát và ngành Tòa án, cần có kế hoạch dài hạn và đề nghị Nhà nước tăng

cường chế độ đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng

* Đề cao trách nhiệm công tác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố,

xét xử vụ án hình sự

- Về trách nhiệm của Điều tra viên.

Điều tra là khâu đột phá, là giai đoạn đầu giữ vai trò thành bại đối với cả tiến trình tố

tụng hình sự, có thể nói những sai lầm tư pháp nghiêm trọng nhất như bỏ lọt tội phạm, làm

oan người vô tội … thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Điều tra vụ án hình sự là tổng hợp toàn bộ hoạt động mang tính chủ động và sáng

tạo của Điều tra viên nhằm phát hiện và làm sáng tỏ sự thật về vụ án hình sự. Trong quá

trình điều tra vụ án, lực lượng chính thực hiện kế hoạch điều tra là Điều tra viên. Họ là chủ

thể trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra. Thực hiện mọi kế hoạch điều tra; đề xuất các

biện pháp xử lý đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng chính sách, pháp luật, góp phần quan

trọng vào thắng lợi chung của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Hoạt động điều tra đòi hỏi Điều tra viên phải có những phẩm chất phù hợp với tính

chất đặc thù của hoạt động này, nhưng chính hoạt động điều tra cũng làm hình thành, phát

triển ở Điều tra viên những phẩm chất đặc trưng, phù hợp với hoạt động nghề nghiệp của

mình. Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của Điều tra viên cho thấy hầu hết các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ trong vụ

án hình sự như: khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người

làm chứng, đối chất, nhận dạng và các hoạt động điều tra khác đều do Điều tra viên trực tiếp

Page 31: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

31

thực hiện, do đó việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của Điều tra viên trong quá trình điều

tra thu thập chứng cứ có vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết

đúng đắn vụ án hình sự.

- Về trách nhiệm của Kiểm sát viên.

Vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự là hết sức

quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, hạn chế tình trạng oan, sai trong giải quyết

vụ án hình sự và bảo đảm tính pháp chế.

Tại Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn như: kiểm

sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều

tra; đề ra yêu cầu điều tra; triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người làm

chứng, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; kiểm sát việc bắt,

tạm giữ, tạm giam …

Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình điều tra thu thập chứng cứ của vụ án được toàn

diện, khách quan, Kiểm sát viên phải thật sự đề cao vai trò trách nhiệm của mình trong quá

trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, phải thường xuyên theo dõi,

kiểm tra tiến độ điều tra vụ án để kịp thời phát hiện những thiếu sót trong hoạt động điều

tra, thu thập chứng cứ của Điều tra viên để yêu cầu khắc phục, trong trường hợp cần thiết

nếu hoạt động điều tra thu thập chứng cứ của Điều tra viên chưa được toàn diện, thì Kiểm

sát viên trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS, nhằm

đảm bảo cho việc điều tra thu thập chứng cứ của vụ án được kịp thời, toàn diện, khách quan

và đúng pháp luật.

- Về trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là thành

phần của Hội đồng xét xử có vị trí, vai trò rất đặc biệt, họ là những người có thẩm quyền ra

quyết định để tuyên một người nào đó có tội hay không có tội, nếu có tội thì tội phạm đó là

tội gì và mức hình phạt được áp dụng như thế nào.

Theo Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Do đó, để đảm bảo hoạt động định tội danh được chính

xác, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải đề cao tinh thần trách nhiệm của mình trong

việc xem xét, đánh giá chứng cứ của vụ án, phải nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ do Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở đó qua kết quả

xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải so sánh, đối chiếu

các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án với kết quả thẩm vấn tại phiên tòa để xem xét tính

đúng đắn, khách quan của chứng cứ và bác bỏ những chứng cứ không phù hợp với tình tiết,

diễn biến của vụ án, từ đó ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Page 32: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

32

2.4.2. Kiến nghị về công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật

Tuy về mặt lý luận đã làm sáng tỏ phần nào về các loại hành vi chiếm đoạt tài sản

tương ứng với từng điều luật cụ thể của BLHS, nhưng thực tiễn các hành vi phạm tội rất đa

dạng và có nhiều vấn đề lý luận chưa thể dự liệu hết, đồng thời trình độ hiểu biết về lý luận

khoa học luật hình sự từng cơ quan và người tiến hành tố tụng có sự chênh lệch nhất định,

nên xảy ra trường hợp hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau là khó tránh khỏi. Trong khi đó

các văn bản hướng dẫn chuyên sâu về từng loại tội phạm không nhiều và hầu như không có

đối với nhóm tội phạm chiếm đoạt tài sản.

Vì vậy, Liên ngành trung ương cần tổng hợp trong khả năng có thể các vụ án trong

thực tiễn có những vướng mắc và cách hiểu khác nhau để điển hình, nhân rộng và xây dựng

những chuyên đề, văn bản mang tính hướng dẫn cụ thể, chi tiết về từng loại hành vi để các

cấp căn cứ áp dụng một cách hiệu quả và chính xác trong việc định tội danh đối với nhóm

tội phạm phổ biến này.

Nhằm mục đích khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong quá trình định tội danh

đối với tội phạm này, làm cơ sở cho công tác định tội danh đảm bảo tính chính xác, khoa

học, cần phải tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của BLHS. BLHS là một trong những căn cứ đầu

tiên và quan trọng nhất đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội phạm này được chính

xác. Do đó, để tránh những mâu thuẫn và cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp

luật hình sự trên thực tế thì cần phải quy định theo hướng cụ thể, rõ ràng và bao quát được

những tình huống phát sinh trên thực tế.

Thứ hai, mặc dù về lý luận chúng ta không thừa nhận Án lệ là nguồn của Luật hình

sự, nhưng thực tế áp dụng pháp luật thì đâu đó vẫn thường lấy nhưng vụ việc tương tự mà

cấp trên đã giải quyết trước làm chuẩn để giải quyết những vụ việc xãy ra sau đó, có thể nói

hình thức án lệ đã tồn tại trong thực tế. Bên cạnh sự phát triển đa dạng của thực tiễn nên

những quy định của pháp luật hiện hành thường không dự liệu hết được những tình huống

sẽ xãy ra, vì vậy cần phát triển án lệ nhằm tránh sự tùy tiện của từng địa phương khi xử lý

hành vi vi phạm.

Thứ ba, trong hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp cần thiết phải có sự phối

kết hợp chặt chẽ, tạo tiền đề thúc đẩy nhau, giúp đỡ nhau trong quá trình giải quyết vụ án

hình sự, đảm bảo định tội danh chính xác, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô

tội. Các cơ quan tư pháp trung ương (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối

cao, Bộ Công an) cần phải thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, thống nhất nhận thức để

các cơ quan tư pháp ở địa phương áp dụng luật được đúng đắn.

Thứ tư, một vấn đề mang tính rất thời sự hiện nay là Chính phủ đã đưa mô hình quản

lý nguồn nhân lực theo mô hình vị trí việc làm vào thực tiễn. Mô hình này tạo ra sự khích

thích và buộc cán bộ, công chức phải thường xuyên nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ,

Page 33: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

33

năng lực, kỹ năng nghề nghiệp để đảm bảo được vị trí, công việc mà mình đang và muốn

đảm nhận. Tuy hoạt động tư pháp là hoạt động đặ thù, nhưng theo xu thế trên chúng ta cũng

phải có sự điều chỉnh đối với công tác tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm các chức danh tư pháp

cho phù hợp.

Nguồn cán bộ đầu vào của lực lượng Điều tra viên là từ nguồn cán bộ ngành công an

được tuyển dụng trực tiếp từ những sinh viên học tập tại các Trường thuộc ngành Công an

nhân dân; Nguồn Kiểm sát viên, Thẩm phán xuất phát tử nguồn cán bộ Tòa án, cán bộ kiểm

sát thông qua các đợt thi công chức. Một người đã tốt nghiệp Đại học luật hoặc tương

đương thì trình độ, kiến thức của họ sẽ đáp ứng điều kiện của một cán bộ điều tra, tòa án,

kiểm sát, nhưng để trở thành Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thì họ phải có những

phẩn chất về chính trị, bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp. Vì vậy, theo chúng tôi để tuyển

chọn được những con người có tố chất phù hợp trở thành Điều tra viên, Kiểm sát viên,

Thẩm phán, thì việc cần thiết là phải tổ chức thi tuyển. Thông qua thi tuyển, chúng ta mới

có cơ hội thẩm định trình độ năng lực thật sự của họ.

Điều kiện cần cho những người tham gia thi tuyển cũng phải bám sát những điều

kiện bổ nhiệm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được quy định trong các văn bản

tương ứng. Nhưng để trở thành cán bộ có chức danh tư pháp như trên thì những người này

phải vượt qua đợt sát hạch nghiêm ngặt. Có như vậy các cán bộ điều tra, kiểm sát và tòa án

mới từ bỏ tư tưởng “sống lâu sẽ lên lão làng”, muốn trở thành Điều tra viên, Kiểm sát viên,

Thẩm phán thì trong thời gian công tác ấy, bên cạnh phải hoàn thành mọi nhiệm vụ được

giao, bản thân từng người phải có kế hoạch tự học tập nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị

và nghề nghiệp. Khi đó chúng ta mới có được những Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay.

Thứ năm, là căn cứ vào nhiệm kỳ của các chức danh nói trên, cấp có thẩm quyền

phải xây dựng được những tiêu chí nghiêm ngặt và rõ ràng về đánh giá mức hoàn thành

nhiệm vụ. Bên cạnh những tiêu chí mà hiện nay chúng ta đang áp dụng, theo chúng tôi cần

xây dựng thêm tiêu chí nữa là, nếu trong một năm, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán

nào chỉ một lần để xãy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội thì xem như năm đó

không hoàn thành nhiệm vụ. Nếu trong nhiệm kỳ năm năm có hai năm không hoàn thành

nhiệm vụ thì không xem xét tái bổ nhiệm. Đây là biện pháp giúp xóa bỏ sự chay ỳ của Điều

tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và nếu được áp dụng nghiêm túc, chúng tôi tin rằng nó

sẽ giúp làm giảm tình trạng gây oan, sai người vô tội và bỏ lọt tội phạm trong hoạt động áp

dụng pháp luật hình sự.

Page 34: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

34

PHẦN KẾT LUẬN

Trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, thì việc định tội danh chính xác

đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội là rất quan trọng. Bởi vì, việc định tội danh đúng sẽ

giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật và việc áp dụng hình phạt sẽ phát huy được mục đích cải tạo, giáo dục người

phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về mặt lý luận đã làm rõ thế nào là định tội danh, cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý

cho việc định tội danh đối với hành vi phạm tội và trong Bộ luật hình sự cũng đã mô tả đầy

đủ các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đồng thời từ sự mô tả các dấu hiệu trong cấu thành tội

phạm quy định tại Điều 139, Điều 140 Bộ luật hình sự, chúng ta cũng đã làm rõ dấu hiệu về

mặt hành vi khách quan nhằm tạo cơ sở cho thực tiễn vận dụng nội dung trên để xử lý chính

xác hành vi phạm tội trong thực tiễn.

Qua khảo sát thực tiễn cho thấy, tuy phần lớn cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố,

điều tra, truy tố và xét xử đối với hai loại tội phạm trên đúng theo quy định của pháp luật và

người phạm tội bị trừng trị thích đáng. Nhưng bênh cạnh những kết quả đạt được, thì việc

định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản cũng cho thấy còn nhiều bất cập hạn chế, như tình trạng hình sự hóa hành vi vi phạm

pháp luật khác, hoặc dân sự hóa những hành vi phạm tội như đã nêu trong phần thực trạng

của chuyên đề.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau, như

trình độ năng lực của người tiến hành tố tụng còn hạn chế, còn một số người tiến hành tố

tụng chưa vô tư, khách quan, công tâm trong áp dụng pháp luật…và một nguyên nhân nữa

cơ quan có thẩm quyền trong quá trình hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa dự liệu hết những

tình huống đa dạng trong thực tiễn. Vì vậy, để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên cần

phải có những giải pháp kiến nghị nhằm đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được chính xác, góp phần cho

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả và sự thành công của tiến trình cải

cách nền tư pháp nước ta hiện nay.

Page 35: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

35

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1. Hiến pháp năm 2013.

2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

3. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi).

4. Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 sửa đổi.

5. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 sửa đổi.

6. Luật giám định tư pháp.

7. Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà

án nhân dân Tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử

sơ thẩm” của Bộ luật TTHS năm 2003.

8. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày

25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ

Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm

sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 .

9. Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005 của Viện

kiểm sát Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về mối quan hệ phối hợp giữa

CQĐT và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2003

10. Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày

28/7/1010 của Viện kiểm sát Tối cao, Bộ Công an, Toà án nhân dân Tối cao về việc hướng

dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật TTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

11. Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng VKSND

Tối cao về việc ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự

12. Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng VKSND

Tối cao về việc ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các

vụ án hình sự.

B. CÁC VĂN BẢN CỦA CƠ QUAN THẨM QUYỀN

13. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.

14. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020.

15. Báo cáo số 345/VKSTC-V1A ngày 01/12/2010 của Viện kiểm sát Tối cao về

Page 36: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

36

công tác kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tin báo, tố giác về tội phạm và kiến

nghị khởi tố.

16. Báo cáo số 09/ BC-VKS-P1A ngày 11/12/2007 của Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh

về kết quả thực hiện chuyên đề đình chỉ điều tra.

17. Báo cáo số 16/ BC-VKS-P1A ngày 24/12/2008 của Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh

về kết quả thực hiện chuyên đề đình chỉ điều tra.

18. Báo cáo số 186/ BC-VKS-P1 ngày 14/8/2009 của Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh về

thực trạng đình chỉ điều tra do miễn trách nhiệm hình sự.

19. Báo cáo số 06/ BC-VKS-P3 ngày 15/12/2010 của Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh về

sơ kết rút kinh nghiệm những vụ án hình sự bị cấp phúc thẩm hủy án để điều tra lại.

20. Quyết định số 46/QĐ-KSXX -P3 ngày 16/3/2011 của Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Tây Ninh về việc rút rút kháng nghị phúc thẩm.

21. Quyết định số 01/KSĐT ngày 25/11/2007 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân

Châu, tỉnh Tây Ninh về việc hủy bỏ Quyết định KTVA.

22. Cáo trạng số 55/QĐ/KSĐT ngày 24/5/2007 của Viện kiểm sát nhân dân huyện

Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

23. Cáo trạng số 136/QĐ/KSĐT ngày 29/7/2007 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã

Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

24. Cáo trạng số 126/QĐ/KSĐT ngày 13/10/2010 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã

Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

25. Bản án số 98/2009/HSPT ngày 7/6/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

26. Bản án số 165/2011/HSPT ngày 26/8/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

27. Bản án số 145/2009/HSST ngày 29/9/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh,

tỉnh Tây Ninh.

28. Bản án số 47/2011/HSST ngày 13/4/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh,

tỉnh Tây Ninh.

29. Bản án số 13/2011/HSST ngày 25/02/2011 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu,

tỉnh Tây Ninh.

C. CÁC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC, SÁCH

1. Chu Thị Trang Vân, Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phương diện

là những hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án, Tạp chí Khoa học, ĐH

Quốc gia Hà Nội.

2. Dương Thanh Biểu (2008), Thông báo rút kinh nghiệm, kiến nghị nghiệp vụ của

các Viện phúc thẩm từ năm 200 đến năm 2007, Nxb.Tư pháp.

Page 37: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

37

3. Đặng Khắc Thắng, Sử dụng tài sản không đúng mục đích hay gian dối để chiếm

đoạt, trang thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên.

4. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, tập

các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. TP, Hồ Chí Minh.

5. Đoàn Tấn Minh, Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối

với các tội phạm trong luật hình sự hiện hành, Nxb Tư pháp.

6. Hồ Ngọc Hải (2012), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng

chiếm đoạt là tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc

sỹ.

7. Hồ Trọng Ngũ, Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi phạm

pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay, Trang thông tin điện tử Viện

nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh.

8. Huỳnh Chủ Nghĩa, Hoạt động điều tra các vụ án về tội xâm phạm sở hữu của Cơ

quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện thuộc tỉnh Đồng Tháp, Luận văn Thạc sỹ.

9. Lê Hồng Phúc, Khi nào thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Trang

thông tin điện tử - Báo Bình Dương.

10. Nguyễn Đình Trung, Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều

tra cấp huyện trong điều tra, truy tố các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh

Đồng nai, Luận văn Thạc sỹ.

11. Nguyễn Thu Vân, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140

BLHS 1999, Luận văn Thạc sỹ.

12. Nguyễn Văn Vân (2001), Về hiện tượng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự

trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, Tạp chí Khoa học pháp luật (số 02).

13. Thảo Vy (2001), Xác định hành vi chiếm đoạt trong các quan hệ vay mượn, Tạp

chí nghề luật (số 02).

14. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I, Nhà

xuất bản Hà Nội.

15. Trần Duy Bình, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Một số vướng mắc

trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện, Trang thông tin điện tử Tòa án nhân dân tỉnh An

Giang.

16. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb. Công an

nhân dân (Tập 2).

17. Vi Văn Cảnh (2014), Khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý tội lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự, Trang thông tin điện

tử của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Page 38: Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo ...tkshcm.edu.vn/media/dovanhuy/files/Van_de_hinh_su_hoa_dan_su_ho… · Vấn đề hình sự hóa,

38

18. Phạm Hồng Hải (998), Mấy suy nghĩ về bảo vệ quyền con người trong TTHS ở

nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 3).

19. Võ Khánh Vinh (2008), Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN

của dân, do dân, vì dân ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 8).

20. Mai Văn Lư (2010), Bàn về quy định Tòa an trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong

điều kiện cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát (số 11).

21. Võ Thị Kim Oanh (2010), “Thực tiễn áp dụng quy định về Tòa án trả hồ sơ để

điều tra bổ sung”, Tạp chí khoa học pháp lý (số 3).

22. Bùi Mạnh Cường (2011), “Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng,

hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố”,

Tạp chí kiểm sát (số 01).

23. Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1999), Tư pháp hình sự so sánh, Hà

Nội.

24. Trường Đại học An ninh Nhân dân (2006), Đề cương giáo trình luật TTHS, TP.

Hồ Chí Minh.

25. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển

bách khoa & Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

26. Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Bách Khoa, Hà Nội

27. Nguyễn Ngọc Anh (2009), Bình luận koa học Bộ luật TTHS năm 2003, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đào Trí Úc (1995), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật TTHS Việt Nam, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Trần Quang Tiệp (2011), Chế định chứng cứ trong Luật TTHS Việt Nam, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

trong giai đoạn điều tra, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

31. Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an nhân

dân, Hà Nội.

33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Công an

nhân dân, Hà Nội.

35. Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Giáo trình Luật hình sự, Hà Nội.