Upload
trinhnhi
View
217
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
1
Vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Ths. Võ Văn Tài
Giảng viên Khoa Kiểm sát hình sự
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn cải cách tư pháp đang được triển khai thực hiện theo tinh thần của
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, bên
cạnh việc sắp xếp, cơ cấu lại hệ thống các cơ quan tư pháp, phân định rõ chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn…, thì việc tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo
mọi hành vi phạm tội phải được kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của
pháp luật hình sự cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và được tiến hành thường
xuyên, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách tư pháp đi đúng hướng. Quá trình phát
hiện và xử lý tội phạm và người phạm tội chính là việc vận dụng mô hình pháp lý được quy
định trong Bộ luật hình sự (BLHS) vào thực tiễn. Quá trình đó là việc định tội danh đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đe dọa gây ra hoặc gây ra thiệt hại cho các quan hệ mà luật
hình sự bảo vệ.
Việc định tội danh một cách nghiêm túc và đúng đắn trở nên cấp thiết hơn trong tình
hình tội phạm ngày càng gia tăng và chuyển phức tạp như hiện nay, thông qua đó nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và công dân, giúp cho việc xử lý tội phạm và
người phạm tội được nghiêm minh, đảm bảo trật tự kỷ cương của pháp luật, đồng thời phục
vụ hiệu quả cho tiến trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên thực tiễn không phải lúc nào cũng
thực hiện tốt công tác trên. Rất nhiều trường hợp nhất là đối với các tội có tính chất chiếm
đoạt thuộc Chương tội phạm xâm phạm sở hữu quy định tại XIV BLHS, mà cụ thể là tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (quy định tại Điều 139,
Điều 140) các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh không chính xác, áp dụng pháp luật
hình sự để xử lý hành vi vi phạm pháp luật khác; và nhiều trường hợp đối với hành vi vi
phạm mà lằn ranh giữa có tội và không có tội mong manh như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản, thì cơ quan chức năng thường lựa chọn biện pháp “an toàn” là từ chối tiến hành
định tội danh. Việc làm trên của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong thực tiễn ít
nhiều làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, gây mất lòng tin trong nhân dân đối với cơ
quan bảo vệ pháp luật và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội.
Qua nghiên cứu thực tiễn xử lý oan sai đối với những người phạm tội mà thực tiễn
gọi là “hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế” và việc từ chối định tội đối với hành vi
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín chiếm đoạt tài sản thường được gọi là
“dân sự hóa hành vi phạm tội” nhận thấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong
2
đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề nêu trên
là cần thiết. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
không phải là tội phạm mới, nhưng để sử dụng mô hình pháp lý trên xử lý đối với người
phạm tội này thì cần phải có sự nghiên cứu về các dấu hiệu cấu thành tội của nó và đối
chiếu những hành vi vi phạm xảy ra trong thực tiễn nhằm tìm ra những nguyên nhân để có
giải pháp khắc phục trong thời gian tới. Từ những lý do, nên tác giả chọn đề tài “Vấn đề
hình sự hóa, dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản” làm đề tài nghiên cứu khoa học để góp phần làm rõ thực trạng của vấn
đề đã nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp chí pháp lý
đề cập đến loại tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín chiếm đoạt tài sản, nhưng
chủ yếu tiếp cận ở các góc độ khái quát nhất hoặc dưới góc độ so sánh chúng với các tội
phạm khác trong chương các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự Việt Nam hoặc chỉ
nghiên cứu một khía cạnh nhất định. Như bài viết: “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản có đối tượng chiếm đoạt là tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong luật hình sự Việt
Nam” của tác giả Hồ Ngọc Hải; “Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi
phạm pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay” của Hồ Trọng Ngũ;
“Khi nào thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của tác giả Lê Hồng Phúc;
“Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị
hoàn thiện” của tác giả Trần Duy Bình “Tình hình tội phạm gia tăng do luật không chặt”và
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - lằn ranh mong manh giữa hình sự và dân sự” của
cùng tác giả Nguyễn Hồng Phúc; “Nghịch lý trong xử lý hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” của tác giả Mã Hải và An Huy; “Hiện tượng hình sự hóa các quan hệ dân sự”
của Nguyễn Văn Vân … Chưa có một công trình nghiên cứu tổng quát nào liên quan đến
việc hình sự hóa, dân sự hóa đối với hai loại tội phạm này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận hoạt động định tội danh
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thông
qua một số vụ án thực tiễn làm sáng tỏ quá trình giải quyết vụ án liên quan đến hai tội phạm
này.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn ở các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định trong BLHS năm
1999 sửa đổi, phân tích thực trạng áp dụng pháp luật để xử lý hành vi liên quan hai tội phạm
trên mà thực tiễn cho rằng là hiện tượng hình sự hóa, dân sự hóa.
4. Mục đích nghiên cứu
3
Dựa trên các kết quả nghiên cứu về lý luận về hoạt động định tội danh các đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cùng với việc phân
tích các vụ án cụ thể nhằm làm sáng tỏ việc xử lý đối với những hành vi phạm tội này trong
thực tiễn, góp một phần nâng cao nhận thức cho các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các
vụ án hình sự được chính xác và đúng quy định của pháp luật.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích đã được xác định, để hoàn thiện đề tài cần thiết phải thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích các vấn đề lý luận về định tội, cơ sở của việc định tội danh đối với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Nghiên cứu, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự về các dấu hiệu đặc trưng
của hai loại tội phạm này.
- Thông qua một số vụ án điển hình về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được giải quyết trong thực tiễn thời gian gần đây, sẽ làm rõ
những khó khăn, vướng mắc mà các cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải khi định tội danh
đối với các trường hợp trên, từ đó, kiến nghị các giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt
động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản quy định tại Điều 139, Điều 140 BLHS hiện hành.
Về thực tiễn: Bên cạnh việc hoàn thiện về mặt lý luận, với việc vận dụng, phân tích
các vụ án cụ thể, rút ra những tồn tại, thiếu sót trong quá trình xử lý vụ án liên quan, đề tài
cũng có ý nghĩa như là một nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu phục vụ cho thực tiễn áp
dụng BLHS hiện hành vào công tác đấu tranh chống hai tội phạm này ở nước ta.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động định tội danh đối với hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;
Chương 2: Thực trạng của hoạt động định tội danh được gọi là hình sự hóa, dân sự
hóa đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;
nguyên nhân và một số kiến nghị.
4
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI HÀNH VI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN,
LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Lý luận về định tội danh
. . . Khái niệm định tội danh
Định tội danh là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội. Trên cơ sở xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm vào tội gì, quy định
tại điều khoản nào của BLHS, cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ pháp lý buộc người vi
phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do hành vi của mình gây ra.
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, khái niệm định tội danh được hiểu ở hai
nghĩa. Trước hết, định tội danh là một quá trình lôgic nhất định, là hoạt động của con người
về việc xác nhận và ghi nhận sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với
các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm được quy định trong phần các tội phạm của Bộ
luật hình sự. Thứ hai, định tội danh là việc đánh giá về mặt pháp lý đối với một hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Hai nghĩa này có sự quan hệ mật thiết với nhau trong khái niệm định
tội danh.
Định tội danh là một quá trình lôgic, bởi vậy để thực hiện đúng đắn quá trình này đòi
hỏi phải có các tiền đề, điều kiện, cơ sở phương pháp luận, biện pháp lôgic và kỹ thuật pháp
lý. Hơn nữa, định tội danh là một hoạt động do cán bộ tư pháp tiến hành, họ là những người
được trang bị kiến thức nhất định về thế giới quan, có kiến thức chuyên môn và kinh
nghiệm. Trong quá trình định tội danh, tư duy của họ bắt nguồn từ việc sử dụng các biện
pháp kỹ thuật pháp lý và phát triển theo những quy luật lôgic nhất định. Trong lý luận và
thực tiễn, khái niệm định tội danh còn được hiểu là kết quả nhất định của quá trình hoạt
động do Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán hay Hội thẩm nhân dân tiến hành. Điều đó
có nghĩa rằng định tội danh là sự đánh giá một tội phạm về mặt pháp lý, trên cơ sở những tài
liệu đã thu thập được trong quá trình tố tụng.
Định tội danh cũng có nghĩa là một trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý,
là sự đánh giá về mặt pháp lý đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người có thẩm
quyền đang xem xét, xác định hành vi được quy định ở điều nào của Bộ luật hình sự. Hay
định tội danh là kết luận về sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét
với khái niệm về loại tội tương ứng được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự, tức là
việc lựa chọn quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi cụ thể đang xem xét.
Như vậy, định tội danh thực chất là sự xác định về mặt pháp lý đối với hành vi phạm tội xảy
ra trong thực tế. Do đó, điều có ý nghĩa quan trọng trong quá trình định tội danh là phải tìm
được những dấu hiệu cơ bản, điển hình và quan trọng nhất, phải chỉ ra những dấu hiệu cần
và đủ để xác định thực chất của hành vi xảy ra trong thực tế. Đồng thời, khi đối chiếu các
dấu hiệu đó với các dấu hiệu được quy định trong cấu thành tội phạm cụ thể, phải đưa ra kết
5
luận rằng nhà làm luật khi ban hành quy phạm pháp luật là để áp dụng cho những trường
hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét.
Nhưng áp dụng quy phạm pháp luật hình sự là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải
tiến hành một cách tuần tự từ cái chung đến cái riêng. Tội phạm là một loại vi phạm pháp
luật nói chung. Do đó, khi định tội danh, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải thực hiện đầy đủ các bước cơ bản, đảm bảo cho quá trình xác định tội phạm được
chính xác. Trước hết, cần phải xác định có hay không có hành vi phạm tội, đó là hành vi
phạm tội hay chỉ đơn thuần là hành vi vi phạm pháp luật khác (vi phạm hành chính, vi phạm
nghĩa vụ trong dân sự,…). Sau đó, cần xác định xem hành vi đó vi phạm điều khoản cụ thể
nào của Bộ luật hình sự và trên cơ sở đó định tội cho phù hợp.
Định tội danh là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự và được tiến hành bởi hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng,
từ khi khởi tố vụ án cho tới khi bản án hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi
trách nhiệm, quyền hạn của mình phải ra Quyết định khởi tố vụ án. Khi đã có đầy đủ căn cứ
để xác định một người có hành vi phạm tội thì ra Quyết định khởi tố bị can và phải ghi rõ
tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng (Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự
(Bộ luật TTHS)). Kết thúc hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra làm bản Kết luận điều tra
chuyển sang Viện kiểm sát. Từ bản Kết luận điều tra này, theo đúng trình tự, thủ tục pháp
luật quy định, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án bằng cáo trạng ghi
rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự cần được áp dụng.
Đối với Tòa án, việc kiểm tra, xem xét định tội danh được thực hiện ngay trong giai
đoạn xét xử. Sau khi nhận được hồ sơ của Viện kiểm sát, trong quá trình chuẩn bị xét xử,
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ kiểm tra việc truy tố có căn cứ hay không và tùy
trường hợp có quyền quyết định: đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Khi ra bản án, vấn đề xác định tội danh có ý nghĩa rất lớn. Trong
bản án phải phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội,
xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều
khoản nào của Bộ luật hình sự… Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm việc xem xét định tội danh đã đúng hay chưa cũng rất được quan tâm, vấn đề này được
thể hiện tại các Điều 248, 285, 298 Bộ luật TTHS.
Như vậy, Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính lôgic, là dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài
liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, để giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra
văn bản áp dụng pháp luật.
6
Từ sự phân tích và định nghĩa nêu trên, có thể rút ra nhận xét về đặc điểm của định
tội danh như sau:
Thứ nhất, về chủ thể. Định tội danh là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền
trong Tố tụng hình sự, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cùng một số cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trong các cơ quan này theo quy định của Bộ luật TTHS tiến hành.
Thứ hai, về căn cứ. Định tội danh phải dựa trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập
được cùng các tình tiết thực tế của vụ án hình sự và phải dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản
của tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự, để đối chiếu sự phù hợp giữa các
dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định.
Thứ ba, về bản chất. Định tội danh thực tế là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
(bao gồm cả pháp luật TTHS) và phải được tiến hành bằng việc ra văn bản áp dụng pháp
luật để giải quyết vụ án hình sự.
Thứ tư, về mục đích của định tội danh trong tố tụng hình sự là nhằm giải quyết vụ án
hình sự một cách đúng đắn, xử lý đúng người, đúng tội và buộc người có hành vi phạm tội
phải chịu hình phạt và các biện pháp tư pháp tương xứng với tính chất và mức độ của hành
vi phạm tội mà họ đã thực hiện.
. .2. Cơ sở của việc định tội danh
Là những căn cứ giúp cho việc định tội danh đảm bảo tính chính xác, khoa học.
Gồm: Cơ sở pháp lý trực tiếp, cơ sở pháp lý gián tiếp và cơ sở khoa học của việc định tội
danh.
* Cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội danh.
Định tội danh là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã diễn ra trong thực tiễn với các dấu hiệu tương ứng trong quy phạm pháp luật hình
sự. Quy phạm pháp luật hình sự chứa đựng những dấu hiệu đặc trưng, điển hình, bắt buộc
không thể thiếu được của một loại tội phạm cụ thể. Những dấu hiệu đó sẽ trở thành khuôn
mẫu pháp lý làm cơ sở cho người tiến hành tố tụng so sánh, đối chiếu với hành vi nguy
hiểm cho xã hội xảy ra ngoài thế giới khách quan, từ đó xác định được người phạm tội
phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự.
Tại Điều 2 BLHS hiện hành quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Điều này có nghĩa là, một người chỉ
bị cho là phạm tội và bị xử lý khi hành vi mà họ thực hiện được quy định trong Bộ luật hình
sự, không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có quyền tự cho mình quyền được xác định
hành vi do một người thực hiện có phải là tội phạm hay không và áp dụng hình phạt tùy
thích không theo quy định của Luật hình sự.
7
Bộ luật hình sự bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật được sắp xếp làm hai phần:
Phần chung và phần các tội phạm. Trong đó, phần chung quy định về các nhiệm vụ, các
nguyên tắc, các chế định, các khái niệm cơ bản của luật hình sự Việt Nam, hiệu lực của Đạo
luật hình sự, giới hạn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt, các điều kiện miễn
trách nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt… Nói cách khác, phần chung của Bộ luật hình
sự bao gồm những quy định chung nhất, bao trùm nhất về đạo luật hình sự, về tội phạm và
hình phạt.
Phần các tội phạm bao gồm các quy phạm xác định các tội phạm cụ thể, và kèm theo
đó là quy định về các hình phạt cụ thể đối với từng tội. Phần các tội phạm được các nhà làm
luật đã tìm và xác định xem trong quá trình tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội
dấu hiệu nào là đặc trưng, cơ bản và được lặp lại nhiều lần trong thực tế, để từ đó quy định
thành các dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng. Vì vậy, phần các tội
phạm nêu mô hình cụ thể của tội phạm, các loại và mức độ trừng phạt đối với mỗi tội phạm.
Định tội danh có mục đích để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một con người về
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện. Trong khía cạnh pháp luật, định tội danh
có nghĩa là lựa chọn một quy phạm pháp luật mà nó đề cập tới trường hợp cụ thể nào đó.
Quy phạm pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ thể quy định trách nhiệm hình sự đối với
mỗi hành vi phạm tội. Nhưng những quy định này phải dựa trên các nguyên tắc, điều kiện
được nêu ra trong các quy phạm phần chung, còn bản thân quy phạm pháp luật phần chung
sẽ không có ý nghĩa nếu thiếu quy phạm pháp luật phần các tội phạm. Như vậy, quy phạm
pháp luật phần chung và quy phạm pháp luật phần các tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ,
không thể thiếu của định tội danh với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Định tội danh là việc đối chiếu
dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với dấu hiệu trong mô hình
một loại tội phạm tương ứng, xác định sự giống nhau của một tình huống cụ thể đã xảy ra
trong cuộc sống với một trường hợp đã được nêu trong Bộ luật hình sự. Nhưng phần các tội
phạm chỉ nêu định nghĩa về tội phạm đã hoàn thành. Còn trong thực tế, có những trường
hợp đòi hỏi phải có sự đánh giá một hành vi đã thực hiện nào đó là tội phạm nhưng chỉ ở
giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt được nêu tại Điều 17 và Điều 18 BLHS.
Do vậy, khi định tội danh phải căn cứ vào quy phạm pháp luật phần các tội phạm, tìm ra
quy phạm pháp luật tương ứng cho tội phạm đó ở giai đoạn phạm tội hoàn thành và kết hợp
với quy định về chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt để xử lý đối với những trường hợp
người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc
hành vi chưa gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Bên cạnh đó, trong phần các tội phạm của
Bộ luật hình sự còn đề cập tới hàng loạt tội phạm có dấu hiệu của hành vi tội phạm được
thực hiện dưới hình thức đồng phạm, vì vậy để định tội danh với những trường hợp phạm
tội do nhiều người cố ý cùng thực hiện, thì song song với việc áp dụng quy phạm pháp luật
phần các tội phạm còn phải áp dụng chế định đồng phạm quy định tại Điều 20 BLHS.
8
Như vậy, khi tiến hành định tội danh đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội cần
phải căn cứ vào cả quy phạm phần chung và quy phạm phần các tội phạm của Bộ luật hình
sự, đồng thời phải viện dẫn một cách chính xác và đầy đủ điều khoản hay một số điều luật
liên quan, bao quát được toàn bộ hành vi nguy hiểm cho xã hội được nêu trong phần các tội
phạm của BLHS và cũng cần phải lưu ý tới hiệu lực về không gian và thời gian của điều
khoản được viện dẫn. Có như vậy, việc định tội danh mới đảm bảo đủ cơ sở pháp lý để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó.
*Cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho việc định tội danh.
Trong quá trình định tội danh, nếu BLHS giữ vai trò là cơ sở pháp lý trực tiếp, thì Bộ
luật TTHS giữ vai trò là cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho quá trình này. Bộ luật TTHS quy
định về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Ngoài ra, toàn bộ các quy phạm của
Bộ luật TTHS cũng quy định về cả cách thức của quá trình định tội danh nhằm bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng của công dân trong lĩnh vực hoạt động tư pháp hình sự. Trong
Bộ luật TTHS, những quy phạm nhằm bổ trợ cho việc định tội danh được chính xác như:
Chương V - quy định về chứng cứ trong vụ án hình sự; chương VI - quy định về các biện
pháp ngăn chặn; chương VIII - quy định về khởi tố vụ án hình sự; chương X đến chương
XIII quy định về điều tra, như khởi tố bị can, trình tự, thủ tục hỏi cung bị can, lấy lời khai
những người tham gia tố tụng, đối chất, nhận dạng, khám xét, tạm giữ, kê biên tài sản, khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi ...
Bên cạnh Bộ luật TTHS, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền như: Nghị quyết, Thông tư liên tịch, Nghị định…cũng có vai trò là cơ
sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho việc định tội danh. Bởi vì, những văn bản do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành quy định cụ thể nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội mà theo
đó sự mô tả trong dấu hiệu cấu thành tội phạm của Bộ luật hình sự không thể khái quát
được. Hơn nữa, những biến đổi và phát triển không ngừng của xã hội đòi hỏi phải ban hành
những văn bản mới thay thế cho những văn bản đã không còn phù hợp. Các cơ quan có
thẩm quyền trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử phải nắm vững và hiểu rõ nội dung quy
định của những văn bản này mới có thể vận dụng để định tội danh được chính xác.
*Cơ sở khoa học của việc định tội danh
Cấu thành tội phạm là cơ sở giúp cho quá trình định tội danh, là một trong những
khái niệm mang tính chất trừu tượng, là sự tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc
trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Bởi vậy, cấu thành
tội phạm là mô hình khái quát, trừu tượng mang tính chất khoa học gồm những dấu hiệu
chung, cơ bản nhất của tội phạm. Chính vì thế, việc nghiên cứu những vấn đề về cấu thành
tội phạm có ý nghĩa pháp lý hình sự rất quan trọng đối với quá trình định tội danh, vì định
tội danh chính xác tức là xác định đúng sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy
9
hiểm cho xã hội nhất định nào đó được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
tương ứng được quy định tại một quy phạm pháp luật hình sự cụ thể của phần các tội phạm.
Dựa vào cấu trúc của tội phạm, khoa học luật hình sự phân chia cấu thành tội phạm
thành bốn nhóm: Nhóm dấu hiệu về mặt khách thể, nhóm dấu hiệu về chủ thể, nhóm dấu
hiệu về mặt khách quan và nhóm dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, tội
phạm là một thể thống nhất, do vậy việc tách riêng từng yếu tố trong quá trình định tội danh
nêu trên chỉ có ý nghĩa tương đối, căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể để chúng ta
vận dụng các yếu tố này cho hợp lý trong quá trình định tội danh.
1.2. Hoạt động định tội danh đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Khái niệm Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã
hội có tính chất quá độ và trong thời ký quá độ ấy có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế. Trong đường lối, chính sách phát triển kinh tế, Đảng ta đề
ra: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước
ta trở thành một nước công nghiệp ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là các
quan hệ sở hữu và hệ thống lý luận về sở hữu ở nước ta còn nhiều điều cần bổ sung hoàn
thiện và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình kinh tế - chính trị. Cũng chính vì vậy mà các
quan hệ sở hữu còn chưa hoàn thiện về hình thức, còn nhiều tranh chấp liên quan đến quyền
sở hữu. Bởi vậy, một hệ thống pháp luật bảo vệ quyền sở hữu là hết sức cần thiết và quan
trọng. Hiện nay, để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều
loại quy phạm pháp luật để điều chỉnh, trong đó các quy định hình sự có ý nghĩa quan trọng
khi quy định những hành xâm phạm chế độ sở hữu tài sản được nhà nước bảo hộ và cách
thức xử lý những hành vi đó nhằm mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa để bảo vệ
quyền sở hữu.
Trong Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, có riêng một chương quy định về các tội
xâm phạm sở hữu, bao gồm 13 điều quy định rõ các hành vi xâm phạm sở hữu được Nhà
nước bảo vệ. Tuy nhiên, xuất phát từ phạm vi nghiên cứu của đề tài, nên chúng tôi đi vào
tìm hiểu những vấn đề mang tính chất lý luận liên quan đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.
Như chúng ta đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do chủ thể có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cố ý hoặc vô ý xâm đến những quan hệ xã hội là
khách thể bảo vệ của luật hình sự. Một hành vi chỉ bị xam là tội phạm thì hành vi đó phải là
hành vi nguy hiểm cho xã hội; Chủ thể thực hiện hành vi ấy phải là người có năng lực trách
nhiệm hình sự, có nghĩa người thực hiện hành vi phải có khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của mình; Để xảy ra hành vi nguy hiểm đó là do lỗi của họ và hành vi đó đã xâm
phạm đến những quan hệ xã hội mà luật hình sự tuyên bố bảo vệ.
10
Kết hợp với quy định tại khoản 1 Điều 140 BLHS:
“Người nào có một trong những hành vi sau đây: Chiếm đoạt tài sản của người khác
có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt…:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản
đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản”.
Từ đó chúng ta có thể hiểu: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi
nguy hiểm của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của
pháp luật hình sự đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên bằng các hình thức hợp đồng rồi cố ý dùng
thủ đoạn gian dối hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp hoặc bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó một cách trái phái luật.
1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng như bất kì một tội phạm nào khác
trong BLHS đều có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó gồm các dấu hiệu thuộc mặt
khách thể, khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm.
*Về khách thể của tội phạm. Tội phạm nào cũng xâm phạm đến một hoặc một số
khách thể nhất định, đó là các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, khách thể mà tội phạm này hướng đến là quan hệ sở hữu
về tài sản. Cũng như các tội xâm phạm sở hữu khác được quy định trong BLHS, tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, nghĩa là tác động
đến các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu
được pháp luật bảo vệ.
Tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều
140 BLHS là tài sản được quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 gồm: “vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên, đối tượng là tài sản của tội phạm này phải
thỏa mãn các yếu tố nhất định sau:
Tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và giá trị sử dụng, là thước
đo giá trị sức lao động của con người được kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu
cầu về vật chất và tinh thần của con người. Những tài sản không có giá trị và giá trị sử dụng
không thể trở thành đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
11
Tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là tài sản có
chủ sở hữu, quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu là hợp pháp và được pháp luật công nhận,
có thể chuyển dịch thông qua các giao dịch thể hiện bằng các hợp đồng dân sự cụ thể.
Những tài sản không có chủ sở hữu hoặc bị từ bỏ quyền sở hữu (vật bị đánh rơi, bỏ quên,
thất lạc,…) không phải là đối tượng tác động của tội phạm này.
Tài sản là đối tượng của tội phạm này còn là những giấy tờ có giá mà thông qua đó,
người phạm tội có thể nhận tiền hoặc phần tài sản nhất định (cổ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu,…). Đối với những giấy tờ có giá mà giá trị của nó phải thông qua tổ chức, cá nhân
xác nhận mới thể hiện được giá trị thì không phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
Đối với các loại tài sản có tính chất, công dụng đặc biệt (ma túy, vũ khí, phương tiện,
chất cháy, chất gây nổ, chất độc hại, chất phóng xạ,…) hoặc tài sản là các loại giấy tờ có giá
ghi danh (việc chuyển dịch, xác lập quyền sở hữu phải thông qua các giao dịch pháp lý hợp
pháp) hoặc các loại tài sản khác thuộc danh mục hàng hóa, tài sản bị cấm giao dịch, hạn chế
giao dịch như: đồ chơi bị cấm, phế liệu gây ô nhiễm môi trường,…thì tùy trường hợp, việc
chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử lý theo các tội danh khác tương ứng.
Như vậy, tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải thỏa
mãn những yếu tố nhất định phản ánh đặc điểm vốn có của tài sản, về tính chất, giá trị sử
dụng, có thể đưa vào giao dich trong thực tiễn.
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định một hành vi phạm vào lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản không cần căn cứ vào giá trị tài sản chiếm đoạt. Tuy nhiên, BLHS năm 1999
sửa đổi quy định rõ yếu tố định lượng đối với tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ bốn
triệu đồng trở lên. Quy định này trở thành một trong những căn cứ quan trọng để xác định
có xử lý hình sự đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không. Quy định
yếu tố định lượng trong trường hợp này phân biệt rõ ràng ranh giới giữa vi phạm hành chính
và tội phạm, là cơ sở để áp dụng thống nhất pháp luật trên phạm vi toàn quốc, tạo điều kiện
cho người dân hiểu rõ hơn các quy đinh của pháp luật, tự điều chỉnh hành vi của mình trong
những trường hợp nhất định.
*Về mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, những biểu hiện bên
ngoài của tội phạm, gồm hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi và hậu quả.
- Hành vi khách quan: là những xử sự có sự kiểm soát của ý thức và điều khiển của ý
chí con người, là nguyên nhân gây thiệt hại cho các khách thể được Luật hình sự bảo vệ.
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện các đặc điểm sau: có tính nguy hiểm cho xã hội,
là hoạt động có ý thức của chủ thể, nó trái pháp luật hình sự và về hình thức thể hiện, hành
vi khách quan của tội phạm được thể hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động.
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi khách quan phải gây thiệt hại về
12
vật chất cho chủ sở hữu, nguy hiểm cho xã hội, khi thực hiện hành vi, chủ thể đã được tính
toán, cân nhắc kỹ lưỡng và được thể hiện dưới dạng hành động nhận tài sản của người khác
bằng các hình thức của hợp đồng, sau khi có được tài sản người phạm tội đã có hành vi
chiếm đoạt tài sản đó.
Hành vi chiếm đoạt tài sản thể hiện thông qua các hợp đồng vay, mượn, thuê… tài
sản của người khác rồi sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả
lại tài sản. Đây là hành vi sử dụng tài sản không đúng nghĩa vụ đã cam kết ban đầu nên
người phạm tội không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Việc chủ sở hữu chuyển
giao tài sản cho người phạm tội lúc đầu thông qua một giao dịch pháp lý hợp pháp, có thỏa
thuận, cam kết giữa các bên tham gia theo quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, sau khi
có được tài sản, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản này, mong muốn
biến tài sản đó thành tài sản của mình, vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết trước đó.
Người phạm tội muốn tạo lập cho mình quyền chiếm giữ, sử dụng, định đoạt đối với
tài sản của người khác, họ sử dụng các cách thức làm hao hụt giá trị và giá trị sử dụng của
tài sản, khiến nó không thể trở về trạng thái ban đầu được hoặc vì muốn biến tài sản của
người khác (một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản) thành tài sản của mình nên đã có các
hành vi, thủ đoạn gian dối như lật lọng, chây ì, thông tin giả dối về việc bị người thứ ba
chiếm đoạt tài sản đó hoặc bỏ trốn, cố ý không trả lại tài sản cho chủ sở hữu,…khi đến hạn
phải trả lại tài sản theo hợp đồng. Vì gây thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm trên,
nên tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi đã gây ra những thiệt hại về vật chất cho chủ tài
sản.
- Hậu quả của tội phạm: Là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ
xã hội là khách thể được Luật hình sự bảo vệ, nó được biểu hiện thông qua việc biến đổi
tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm.
Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm gây ra được xác định thông qua đặc điểm về chất và
lượng của chính đối tượng tác động. Tại Điều 140 BLHS năm 1999 sửa đổi đã chỉ ra rất rõ
rằng, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ 4 triệu đồng trở lên mới bị xử lý về
tội phạm này. Trong trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 4 triệu đồng thì người
phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc vào một trong các trường hợp gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã
bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa xóa án tích mà còn vi phạm (được hướng dẫn trong
Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001
của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp về
việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của
BLHS năm 1999).
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả. Một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất của Luật hình sự, một người phải chịu trách nhiệm hình
sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả đó là kết quả của hành vi trái pháp luật mà
thực hiện họ gây ra. Do đó, khi một người thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS và chỉ buộc họ phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình khi
13
giữa hành vi và hậu quả có mối quan hệ nhân quả. Có nghĩa là về mặt thời gian, hành vi trái
pháp luật hình sự được coi là nguyên nhân phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; Hậu
quả là kết quả tất yếu do hành vi trái pháp luật hình sự gây ra; Một hành vi có thể dẫn đến
nhiều hậu quả và một hậu quả có thể xuất phát từ nhiều hành vi khác nhau.
Do vậy, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không dẫn đến hậu quả,
không xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì người thực hiện hành vi
ấy không phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Có hành vi mới có hậu quả tương ứng, hậu
quả luôn có sau hành vi về mặt thời gian, hành vi phải là điều kiện tất yếu hình thành nên
hậu quả.
*Về mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lỗi của người phạm tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp, họ nhận thức
rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả và mong muốn cho hậu
quả xảy ra. Ban đầu, khi giao kết hợp đồng, người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện hợp
đồng đó đúng theo thỏa thuận, chỉ sau khi có được tài sản, ý thức chiếm đoạt tài sản mới
hình thành, và vì vậy, ý thức chiếm đoạt của họ được xác định tại thời điểm họ chiếm đoạt
tài sản chứ không xác định tại thời điểm họ nhận tài sản. Đây là một trong những căn cứ
quan trọng để xác định người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm nào
(tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 hay tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo Điều 140 BLHS).
Ngoài ra, đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích chiếm đoạt tài
sản được coi là dấu hiệu bắt buộc, nó phải gắn liền với các hành vi dùng thủ đoạn gian dối,
bỏ trốn hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng
trả lại tài sản sau khi có được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp. Nếu không có mục đích
chiếm đoạt tài sản hoặc mục đích chiếm đoạt có trước thời điểm nhận tài sản thông qua hợp
đồng, thì người thực hiện hành vi phạm tội không phạm tội hoặc phạm vào tội khác.
*Về chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chủ thể của tội phạm nói
chung là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định. Chủ thể của
tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam chỉ có thể là cá nhân và cá nhân này phải đáp ứng
các điều kiện nhất định về độ tuổi, về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
Đối với chủ thể tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng phải đáp ứng những điều
kiện như đã nêu trên.
Căn cứ vào cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng (quy định tại
khoản 2 Điều 140) của tội này, thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm
hình sự khi thực hiện lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đối với người
từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này khi hành vi thỏa
mãn cấu thành tội phạm quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 140 BLHS.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng, chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
phải là người tham gia vào hợp đồng thuê, vay, mượn tài sản và sau đó không thực hiện
14
đúng cam kết như đã thỏa thuận trong hợp đồng ban đầu nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản
đó. Việc giao kết hợp đồng được thực hiện một cách hợp pháp theo đúng trình tự, thủ tục và
các điều kiện nhất định về giao kết hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định.
Tóm lại, bốn yếu tố của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho việc định tội
danh đối với tội phạm này được chính xác
1.2.3. Cơ sở pháp lý của hoạt động định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
Như đã phân tích, hoạt động định tội danh là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực
tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự
quy định. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi nguy hiểm
của chủ thể đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi cố ý dùng thủ đoạn gian dối hoặc sử dụng tài sản đó
vào mục đích bất hợp pháp hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó một cách trái phái luật.
Như vậy, khi tiến hành định tội đối với tội phạm trên, các cơ quan tiến hành tố tụng
cần phải làm rõ hành vi xảy ra trên thực tế có thỏa mãn các dấu hiệu được mô tả trong cấu
thành tội phạm quy định trong BLHS hay không. Nghĩa là cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
phải xem xét, đánh giá đối với hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận
được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi sau đó, chủ thể có dùng thủ
đoạn gian dối hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả
năng trả lại tài sản hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật hay không,
và việc xem xét đánh giá về sự phù hợp của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu được
mô tả trong BLHS phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật TTHS đã quy định.
Khi hành vi thực tế thỏa mãn dấu hiệu được mô tả thì chủ thể của hành vi mới phạm vào tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Từ đó cho thấy, cơ sở pháp lý của hoạt động định tội
đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chính là cấu thành tội phạm được quy
định tại Điều 140 BLHS và những quy định về trình tự, thủ tục để tiến hành hoạt động trong
Bộ luật TTHS.
1.3. Hoạt động định tội danh đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
.3. . Khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Điều 139 quy định: “Người nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người
khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc
đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt…”.
Như vậy, dấu hiệu hành vi khách quan trong tội phạm chính là sự gian dối trong quá trình
15
tiếp cận, giao dịch để nhận tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nhằm tạo
điều kiện cho việc thực hiện hành vi chiếm đoạt. Chủ thể có được tài sản cũng bằng các
hình thức của hợp đồng, nhưng lúc thỏa thuận, giao dịch, chủ thể không có ý định thực hiện
như giao kết mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản nhận được.
Đồng thời, kết hợp với định nghĩa tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do chủ
thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cố ý hoặc vô ý xâm đến những quan hệ
xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Nên có thể định nghĩa: Tội lừa chiếm đoạt tài
sản là hành vi nguy hiểm của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo
quy định của pháp luật hình sự, đã cố ý dùng thủ đoạn gian dối để nhận tài sản của người
khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên bằng các hình thức hợp đồng, và chiếm đoạt tài sản
đó một cách trái phái luật.
1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó gồm
các dấu hiệu thuộc mặt khách thể, khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Tuy
nhiên, các hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng
như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (đã phân tích ở tiểu mục 1.2.2 Mục 1.2
Chương 1), mặt khách thể của tội phạm là quan hệ sở hữu tài sản; Chủ thể của tội phạm
phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định quy định tại Điều 12
BLHS; Mặt khách quan và chủ quan cũng có nhiều điểm tương đồng. Dấu hiệu khác nhau
cơ bản của hai loại tội phạm trên là dấu hiệu hành vi, hậu quả và thời điểm hình thành ý
thức chiếm đoạt. Vì vậy, tác giả thấy rằng, chỉ cần làm rõ những điểm khác nhau này khi
nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Dấu hiệu hành vi khách quan trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là sự gian
dối trong quá trình tiếp cận, giao dịch để nhận tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp bằng các hình thức của hợp đồng, nhưng lúc thỏa thuận, giao dịch, chủ thể không
có ý định thực hiện như giao kết mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc tài
sản đang được quản lý hợp pháp. Thủ đoạn gian dối ở tội phạm này là nhằm mục đích che
giấu ý thức chiếm đoạt tài sản, là phương thức mà người phạm tội sử dụng để có được tài
sản và chiếm đoạt tài sản đó. Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng
có khi sử dụng thủ đoạn gian dối, nhưng xét về thời gian, thủ đoạn gian dối của người phạm
tội này xuất hiện sau khi có được tài sản. Trong khi đó, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, thủ đoạn gian dối xuất hiện trước khi người phạm tội nhận được tài sản, thủ đoạn đó là
cách thức mà người phạm tội sử dụng nhằm tạo niềm tin để người có tài sản giao tài sản cho
họ, sau đó họ thực hiện hành vi chiếm đoạt.
- Về hậu quả, trong cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thiệt hại về tài
sản là từ hai triệu đồng trở lên.
- Ý thức chiếm đoạt tài sản của người phạm tội lừa đảo nảy sinh trước khi chủ thể
dùng thủ đoạn gian dối trong quá trình tiếp cận, giao dịch để nhận tài sản của chủ sở hữu
16
hoặc người quản lý hợp pháp bằng các hình thức của hợp đồng. Từ sự hình thành ý thức
chiếm đoạt tài sản của người khác nên chủ thể chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện hành vi và mong muốn đạt kết quả.
- Về thời điểm hoàn thành tội phạm, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoàn
thành kể từ thời điểm có sự chiếm đoạt, tức là, người phạm tội đã có được tài sản và định
đoạt nó theo ý thức chủ quan của mình. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời điểm
hoàn thành tội phạm sớm hơn, thời điểm mà người phạm tội nhận được tài sản của người
khác một cách gian dối thì hành vi đã thỏa mãn cấu thành tội phạm.
.3.3. Cơ sở pháp lý của hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản
Hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng là hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập
được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
tương ứng quy định tại Điều 139 BLHS. Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản chính là sự gian dối trong quá trình tiếp cận, giao dịch để nhận tài sản của chủ sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp, lúc thỏa thuận, giao dịch, chủ thể không có ý định thực hiện
như giao kết mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản nhận được.
Khi tiến hành định tội đối với tội phạm này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải
làm rõ hành vi xảy ra trên thực tế có thỏa mãn các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội
phạm quy định trong BLHS hay không, khi thực hiện hành vi vay, mượn, thuê tài sản của
người khác hoặc nhận tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng, chủ thể có dùng
thủ đoạn gian dối nhằm tạo sự tin tưởng đối với chủ sở hữu hoặc người đang quản lý tài sản
giao tài sản để người phạm tội chiếm đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật hay không; và
việc xem xét đánh giá về sự phù hợp của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu được mô
tả trong BLHS cũng phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật TTHS đã quy
định. Khi hành vi thực tế thỏa mãn dấu hiệu được mô tả thì chủ thể của hành vi mới phạm
vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy, cơ sở pháp lý của hoạt động định tội đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 139 BLHS và
những quy định về trình tự, thủ tục để tiến hành hoạt động trên của Bộ luật TTHS hiện
hành.
17
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐƯỢC GỌI LÀ HÌNH
SỰ HÓA, DÂN SỰ HÓA ĐỐI VỚI HÀNH VI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN,
LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN;
NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Hoạt động định tội danh đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp
luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, được tiến hành
trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự
để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện
với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng quy định tại Điều 139, Điều 140 BLHS.
Khi hành vi thực tế như vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng, chủ thể có dùng thủ đoạn gian dối nhằm tạo sự tin tưởng
đối với chủ sở hữu hoặc người đang quản lý tài sản để bị hại giao tài sản; hay sau khi nhận
tài sản, chủ thể dùng thủ đoạn gian dối hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật, thì chủ thể của hành vi mới bị
xem là người phạm tội; và ngược lại, nếu hành vi không thỏa mãn các dấu hiệu nêu trên, cơ
quan tiến hành tố tụng không được xem là họ phạm tội. Thực tế không phải lúc nào cơ
quan, người có thẩm quyền cũng thực hiện tốt công tác trên. Có nhiều trường hợp hành vi
tuy có vi phạm pháp luật, nhưng chỉ là vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, kinh tế, do sai
sót trong quá trình đánh giá mặt thực tế của hành vi nên cơ quan, người tiến hành tố tụng
hình sự nhận định là tội phạm và đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với người thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật ấy; Đồng thời cũng có nhiều trường hợp hành vi đã thỏa
mãn các dấu hiệu mô tả trong cấu thành tội phạm, mặc dù có tiến hành một số hoạt đồng
điều tra, nhưng cơ quan chức năng cho rằng hành vi đó không phạm tội nên không tiến hành
xử lý đối với người phạm tội. Truy cứu trách nhiệm hình sự (hay còn gọi là hoạt động định
tội) oan, sai đối với người vô tội và việc không tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử
(còn gọi là từ chối định tội) đối với người phạm tội trong thực tiễn là hiện tượng tiêu cực, là
tình trạng hình sự hóa, dân sự hóa (phi hình sự hóa) đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Để hiểu rõ hơn tình trạng trên, thiết nghĩ trước tiên cần nghiên cứu, làm rõ khái niệm
hình sự hóa, dân sự hóa (phi hình sự hóa).
2.1. Khái niệm hình sự hóa, dân sự hóa
2. . . Khái niệm hình sự hóa
Hình sự hóa là một khái niệm pháp lý được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực lập pháp
hình sự, là việc quy định mới trong Phần các tội phạm của pháp luật hình sự chế tài hình sự
(hình phạt) đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó mà nay mới bị coi là tội phạm hoặc
18
tăng nặng hơn loại, mức hình phạt đối với một số loại tội phạm mà trước đây đã quy định
loại, mức hình phạt nhẹ hơn đối với một số loại tội phạm đó.
Nội dung hình sự hóa là việc quy định mới chế tài hình sự (hình phạt) đối với hành vi
nguy hiểm mới bị coi là tội phạm hoặc tăng nặng hơn loại, mức hình phạt đối với một số
loại tội phạm trong Bộ luật hình sự. Điều này cho thấy, hình sự hóa là hoạt động lập pháp
hình sự, chỉ cơ quan có thẩm quyền là Quộc hội mới được tiến hành các hoạt động này.
Tuy nhiên, trong thực tiễn thường sử dụng thuật ngữ “hình sự hóa” để chỉ hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng, mà các hoạt động đó thường gắn liền với hiện tượng tiêu
cực của công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Thực chất của vấn đề này là việc cơ quan,
người tiến hành tố tụng hình sự áp dụng không đúng pháp luật hình sự để giải quyết các
tranh chấp, vi phạm pháp luật mà đáng lẽ ra phải dùng các quy phạm pháp luật phi hình sự
để giải quyết nên đã gây ra sự oan, sai cho người vô tội. Thuật ngữ hình sự hóa được sử
dụng rộng rãi trong thực tiễn không phải là thuật ngữ khoa học pháp lý hình sự, có nội hàm
rất xa lạ với nội hàm đúng nghĩa của nó, việc sử dụng như trên là một cách nói về thực trạng
tiêu cực của công tác đấu tranh chống tội phạm.
2. .2. Khái niệm dân sự hóa
Trong khoa học pháp lý không tồn tại khái niệm dân sự hóa mà chỉ có khái niệm phi
hình sự hóa, là một khái niệm pháp lý được sử dụng trong lĩnh vực lập pháp hình sự, là việc
loại khỏi Phần các tội phạm của pháp luật hình sự, chế tài hình sự (hình phạt) đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội nào đó mà trước đây bị coi là tội phạm, nhưng nay không bị coi là
tội phạm nữa; hoặc thu hẹp phạm vi trấn áp về hình sự với một số quy phạm và chế định
nào đó của pháp luật hình sự; hoặc quy định theo hướng giảm nhẹ hơn loại, mức hình phạt
đối với một số loại tội phạm mà trước đây đối với một số loại tội phạm đó, pháp luật hình
sự đã quy định loại, mức hình phạt nặng hơn.
Phi hình sự hóa chính là việc loại bỏ chế tài hình sự (hình phạt) đối với hành vi nguy
hiểm mà trước đây bị coi là tội phạm, nay không bị coi là tội phạm nữa; hoặc quy định giảm
hơn loại, mức hình phạt đối với một số loại tội phạm trong Bộ luật hình sự. Điều này cho
thấy, phi hình sự hóa cũng là hoạt động lập pháp hình sự, chỉ cơ quan có thẩm quyền là
Quộc hội mới được tiến hành.
Thuật ngữ dân sự hóa mà thực tiễn đã sử dụng nhằm để chỉ hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, mà các hoạt động đó thường gắn liền với hiện tượng cơ quan, người
tiến hành tố tụng hình sự từ chối tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người
phạm tội vì những nguyên nhân khác nhau. Bản chất của vấn đề là việc cơ quan, người tiến
hành tố tụng hình sự áp dụng pháp luật phi hình sự để giải quyết các tranh chấp, vi phạm
pháp luật mà đáng lẽ ra phải dùng các quy phạm pháp luật hình sự để giải quyết nên dẫn đến
bỏ lọt tội phạm. Như vậy, có thể khẳng định thuật ngữ dân sự hóa mà thực tiễn đã sử dụng
chính là cách nói khác của thuật ngữ phi hình sự hóa, cả hai đều nhằm một nội dung chỉ
thực trạng bọ lọt tội phạm của cơ quan có thẩm quyền.
19
Như vậy, thuật ngữ dân sự hóa (phi hình sự hóa) được sử dụng trong thực tiễn cũng
không phải là thuật ngữ khoa học pháp lý hình sự, nó có nội hàm rất khác với nội hàm đúng
nghĩa, là một cách nói về thực trạng bỏ lọt tội phạm.
2.2. Thực trạng vấn đề hình sự hóa, dân sự hóa đối với hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
2.2.1. Thực trạng vấn đề hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Vấn đề “hình sự hóa” trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản là việc cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự áp dụng không đúng
pháp luật hình sự mà cụ thể là quy định tại Điều 139, Điều 140 BLHS để giải quyết các
tranh chấp, vi phạm pháp luật và trình tự tố tụng được áp dụng trong quá trình giải quyết
các vụ việc là tố tụng hình sự, mà đáng lẽ phải dùng pháp luật khác và trình tự, thủ tục tố
tụng phi hình sự để giải quyết nên đã gây ra oan, sai cho người vô tội. Thực trạng trên gây
ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho những gia đình và bản thân bị bị xử lý oan, sai, tác động
rất xấu đến trật tự an toàn xã hội, nó đã được dư luận lên án và báo động; các cơ quan chức
năng trong thực tiễn cũng rất quan tâm, đưa ra nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng này.
Mặc dù trong thời gian gần đây, tình hình trên có thuyên giảm, nhưng nó vẫn chưa chấm dứt
và nhiều lúc có diễn biến rất phức tạp, gây sự hoài nghi về trình độ, năng lực của các cá
nhân tiến hành tố tụng, sự khách quan, thận trọng và công tâm trong sử dụng quyền lực Nhà
nước giao của các cá nhân này, và thực trạng ấy cũng là vật cản của quá trình nâng tầm nền
tư pháp của nước ta với thế giới hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ thực trạng này
thông qua các vụ án cụ thể là vấn đề cần thiết để có sự đánh giá toàn diện và chính xác, qua
đó rút ra được những nguyên nhân và tìm những giải pháp khắc phục.
*Vụ án thứ nhất.
Vào năm 2010, bà Nguyễn Thị H có vay tiền của nhiều người với tổng số tiền
khoảng 450.000.000 đồng để làm vốn kinh doanh, do bị thua lỗ, bà H không có tiền trả nợ
như đã cam kết với các chủ nợ, nên các chủ nợ tiến hành khởi kiện bà H ra Tòa án. Trong
quá trình thụ lý, điều tra xác minh, Tòa án nhận định là đủ cơ sở kết luận bà H có vay tiền
của các chủ nợ nói trên. Tuy nhiên, bà H lại một mực chối cãi chữ ký trong các hợp đồng
vay tiền không phải của bà. Căn cứ Kết luận giám định: Chữ ký người vay nợ trong các biên
nhận mà chủ nợ cung cấp đúng là của bà H, Tòa án cho rằng hành vi của bà H có dấu hiệu
của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nên ban hành Công văn đề nghị Viện kiểm
sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà H. Căn cứ kết quả xác minh thu thập chứng cứ
ban đầu, Cơ quan điều tra tiến hành khởi tố vụ án và bị can H về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Sau khi vụ án có kết luận điều tra,
Viện kiểm sát truy tố bị can ra trước Tòa án cấp huyện và quyết định truy tố trên được Tòa
án sơ thẩm chấp nhận và ra bản án kết tội đối với bà H. Không đồng ý với bản án sơ thẩm,
bị cáo kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng, cấp sơ
20
thẩm có thiếu sót là chưa làm rõ nguyên nhân dẫn đến việc bà H mất khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn, và thiếu sót này cấp phúc thẩm không khắc phục được nên quyết
định hủy toàn bộ bản án, trả về cấp sơ thẩm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục
chung. Sau khi Cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại đối với vụ án, thì vấn đề bà H mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn là do bị thua lỗ trong kinh doanh. Nhận thấy đã khởi
tố, truy tố, xét xử oan sai, nên cơ quan tiến hành tố tụng phải đình chỉ vụ án.
Qua vụ án trên thấy rằng, việc bà H chối bỏ chữ ký của mình trong hợp đồng vay tiền
là một trong những thủ đoạn nhằm né tránh nghĩa vụ hoàn trả nợ. Để có cở sở kết luận hành
vi của bà Nguyễn Thị H thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 140
BLHS, thì ngoài việc trưng cầu giám định chữ ký người vay nợ trong các biên nhận mà chủ
nợ cung cấp đúng là của bà H, cơ quan tiến hành tố tụng phải điều tra làm rõ nguyên nhân
vì sao bà H không thanh toán các khoản nợ đến hạn. Nếu chứng minh được rõ ràng việc bà
cố tình không thực hiện nghĩa vụ về tài sản là bà sau khi nhận được tài sản bằng hợp vay tài
sản, đã sử dụng tài sản trên vào mục đích bất hợp pháp hoặc có thủ đoạn gian dối nhằm
chiếm đoạt tài sản, thì lúc đó mới đủ cơ sở kết luận bà H phạm tội. Cơ quan chức năng chỉ
dựa vào tình tiết bà H không thừa nhận chữ ký của bà trong các biên nhận nợ để khởi tố,
truy tố, xét xử sơ thẩm là vội vàng và thiếu thận trọng nên đã gây ra oan sai người vô tội.
*Vụ án thứ hai.
Từ tháng 8/2005 đến tháng 12/2005, ông Lê Duy N (chủ cơ sở sản xuất rượu D.N) đã
nhiều lần vay của bà S tổng cộng 375 triệu đồng. Theo thỏa thuận, lãi suất vay là 6%/tháng
và đến đầu năm 2006 ông N phải trả cả lãi lẫn vốn. Sau đó, ông N dùng giấy tờ đất của
người khác thế chấp cho bà S, đồng thời làm hợp đồng chuyển nhượng 1.400m2 đất mà ông
N đã đem thế chấp ngân hàng để cấn trừ nợ. Phát hiện được việc làm gian dối, bà S tố cáo
ông với cơ quan chức năng. Sau khi tiến hành điều tra, Cơ quan điều tra khởi tố, bắt tạm
giam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Căn cứ quyết định truy tô của Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị phạt ông N từ 7-8 năm tù, tuy
nhiên Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hành vi của ông N không cấu thành tội phạm nên tuyên
ông N không phạm tội. Sau đó, Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, nhưng
Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy bản án sơ không vi phạm nên tuyên bác kháng nghị và giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Trong vụ án này, vấn đề quan trọng nhất là ông N có mục đích chiếm đoạt và thực tế
ông đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của bà S hay không. Ông N không thực hiện cam kết
trả nợ đúng hạn, có những hành vi gian dối nhất định trong việc cấn trừ nợ là lấy tài sản mà
mình đã thế chấp ngân hàng ra giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, nhưng giao dịch
này là đề cấn trừ nghĩa vụ chứ không xuất phát từ đây, người phạm tội nhận được tài sản rồi
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài ấy. Nội dung trên cho thấy hành vi diễn ra trên thực tế
không phù hợp với hành vi khách quan được nêu trong cấu thành tội phạm. Vì vậy, Cơ quan
21
điều tra, Viện kiểm sát đã truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai người không có tội hay còn
gọi là hình sự hóa quan hệ dân sự.
*Vụ án thứ ba.
Vào tháng 10/2006, Dương Công Đ nghe tin bà H (mẹ vợ của Đ) định bán nhà đất
(chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà) với giá 100.000.000,
đồng nên Đ tích cực trong đi tìm người mua nhằm mục đích giúp bán tài sản trên cho gia
đình. Khoảng 10 ngày sau, Đức biết được ông Trần Văn T có ý định mua đất, nên Đ tìm đến
nhà ông T giới thiệu, qua thỏa thuận ông T đồng ý mua nhà đất của bà H với số tiền
120.000.000 đồng, ông T đặt cọc trước cho Đ số tiền 20.000.000 đồng. Đ mang số tiền trên
về nói lại và giao nói với bà H, nhưng bà không đồng ý bán, vì bà đã hứa bán cho người
khác với giá 100.000.000 đồng và đã nhận đặt cọc số tiền 5.000.000 đồng. Thấy bà H bán
tài sản với giá như trên là thấp, nên Đ nói với ông T là bà H đã đồng ý cho Đ đại diện đứng
ra bán tài sản trên. Sau khi ký giấy tay mua bán, ông T đã giao đủ số tiền còn lại cho Đ.
Nhận được tiền, Đ mang về nói với bà H và yêu cầu bà hủy giao kết (miệng) và trả lại số
tiền 5.000.000 đồng mà bà H nhận của người mà bà hứa bán nhà đất, bà H không đồng ý,
sau đó thì sự việc được đưa đến cơ quan chức năng.
Cơ quan điều tra cho rằng Dương Công Đ chưa được bà H ủy quyền bán tài sản theo
quy định của pháp luật, Đ đã dùng thủ đoạn gian dối để tham gia giao dịch và nhận tiền của
ông T là hành vi lừa đảo nên khởi tố vụ án và bị can Đ theo Điều 139 BLHS. Căn cứ Kết
luận điều tra, Viện kiểm sát truy tố Đ ra trước Tòa án nhân dân để xét xử theo Điều 139
BLHS. Tòa án cho rằng Dương Công Đ sau khi đứng ra bán nhà đất cho ông T, Đ đã mang
toàn bộ số tiền về đưa cho bà H, Đ không có ý thức dùng hợp đồng dân sự để chiếm đoạt tài
sản của người khác nên hành vi của Đ không thỏa mãn cấu thành tội phạm quy định tại Điều
139 BLHS. Qua hai lần thực hiện điều tra bổ sung theo yều cầu của Tòa án, cuối cùng cơ
quan tiến hành tố tụng thống nhất đình chỉ vụ án.
Vụ việc trên một lần nữa cho thấy các cơ quan, người tiến hành TTHS trong thực
tiễn nhiều lúc vẫn chưa hiều rõ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm, đặc biệt
là dấu về mặt khách quan của tội phạm. Dương Công Đ tuy có dùng thủ đoạn gian dối trong
quá trình giao dịch và ký kết hợp đồng với ông T, nhưng việc gian dối đó không nhằm
chiếm đoạt tài sản của ông T hay bà H mà nhằm giúp bà H bán tài sản với giá cao hơn; đồng
thời tài sản (nhà đất) là loại bất động sản không thể di dời được, tài sản đó của bà H có bị Đ
giả danh bà H đứng bán cho người khác đi nữa thì bà H vẫn không bị mất quyền sử dụng
đối với tài sản, bà cũng không bị thiệt hại gì; và ông T tuy có tham gia giao dịch nhằm chủ
thể, nhưng ông vẫn có quyền yêu cầu phía bên bán tiếp tục thực hiện giao dịch hoặc trả lại
tiền cho ông. Đây thực chất là tranh chấp về dân sự, nếu như có một bên gian dối trong ký
kết và thực hiện hợp đồng thì hợp đồng đó thuộc trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu. Cơ
quan chức năng kết luận hành vi của Đ thỏa mãn dấu hiệu mô tả trong cấu thành tội phạm
quy định tại Điều 139 BLHS là định tội oan, sai đối với hành vi vi phạm pháp luật khác.
22
2.2.2. Thực trạng vấn đề dân sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Như chúng tôi đã phân tích, hoạt động định tội danh đối với hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các
tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng
quy định tại Điều 139, Điều 140 BLHS. Khi cơ quan có thẩm quyền vì lý do nào đó mà từ
chối tiến hành hoạt động trên đối với những hành vi đã thỏa mãn cấu thành tội phạm mô tả
trong pháp luật hình sự là bỏ lọt tội phạm. Thực tiễn gọi tình trạng này là dân sự hóa đối với
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nội dung
của vấn đề là việc cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự áp dụng pháp luật phi hình sự để
giải quyết các tranh chấp, vi phạm pháp luật mà đáng lẽ ra phải dùng các quy phạm pháp
luật hình sự để giải quyết. Thực trạng này gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho xã hội,
quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân không được bảo vệ trước những hành
vi xâm hại, nó đã được dư luận lên án; các cơ quan chức năng trong thực tiễn cũng rất quan
tâm, đưa ra nhiều biện để khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm. Dưới sự tác động của kinh tế
thị trường, sự cám dỗ của vật chất, sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ nên thời gian
gần đây, tình hình trên vẫn không thuyên giảm và nhiều lúc còn diễn biến phức tạp hơn, gây
hoài nghi trong dư luận về sự khách quan, công tâm trong sử dụng quyền lực Nhà nước giao
của các cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng. Nên việc nghiên cứu thực trạng này thông qua
một số vụ án cụ thể là cần thiết để tạo cơ sở thực tiễn cho việc mô phỏng bức tranh có gam
màu tối này.
*Vụ án thứ nhất.
Căn cứ công văn ngày 10/6/2011 của Chi cục thi hành án dân sự về việc đề nghị
KTVA về tội “Vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản” theo Điều 310 BLHS, Viện kiểm
sát tiến hành nghiên cứu vụ việc nhận thấy, vào ngày 18/2/2011 Chi cục thi hành án huyện
tiến hành kê biên phần đất nông nghiệp có diện tích 30.000 m2 của Lê Thị Th nhằm đảm
bảo bà Th thi hành nghĩa vụ hoàn trả số tiền 486 triệu đồng theo bản án sơ thẩm dân sự của
Tòa án huyện. Đến ngày 18/5/2011, mặc dù tài sản đã bị kê biên và trong trong biên kê biên
tài sản, Chi cục thi hành án huyện ghi rõ chỉ giao cho bà Th tiếp tục quản lý sử dụng, cấm
chuyển nhượng, tăng cho với mọi hình thức, nhưng bà Th vẫn tiến hành thỏa thuận và đến
Phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng phần diện tích bị kê biên trên cho ông
Nguyễn Văn Đ với số tiền 900 triệu đồng. Sau khi nhận được tiền cuyển nhượng đất, thì
hành vi của Lê Thị Th bị phát hiện. Xét thấy hành vi của Lê Thị Th có dấu hiệu của tội
phạm, Viện kiểm sát chuyển kiến nghị khởi tố của Chi cục thi hành án cho Cơ quan điều tra
và yêu cầu khởi tố vụ án.
23
Trong quá trình điều tra làm rõ diễn biến của vụ án, mặc dù bà Th không hoàn trả và
cũng không có khả năng hoàn trả cho ông Đ số tiền 900 triệu đồng, nhưng Cơ quan điều tra
vẫn cho rằng, theo quy định của pháp luật về đất đai, việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất chi xem hoàn tất khi các bên nộp hồ sơ chuyển nhượng cho Phòng đăng ký quyền sử
dụng đất và được cơ quan này đồng cho nộp thuế chuyển quyền và lệ phí trước bạ, và tranh
chấp hợp đồng giữa bà Th và ông Đ chỉ là tranh chấp dân sự, chỉ cần hướng dẫn ông Đ khởi
kiện yều cầu Tòa án buộc bà Th phải hoàn trả số tiền mà bà đã nhận là phù hợp để ra quyết
định không khởi tố vụ án hình sự. Sau đó, Viện kiểm sát thay đổi quan điểm và đã ra công
văn trả lời việc không khởi tố vụ án hình sự là có cơ sở.
Nhận định của Cơ quan điều tra cho thấy có những điểm không hợp lý như: Khi thực
hiện việc thỏa thuận và chuyển nhượng phần đất trên, bà Lê Thị Th đã sử dụng thủ đoạn
gian dối thông qua việc bà không cung cấp cho ông Đ biết phần đất trên bà không có quyền
mang ra chuyển nhượng; bà cố ý che dấu thông tin về phần đất đã bị Chi cục thi hành kê
biên để ông Đ tin tưởng tham gia ký kết hợp đồng và đưa tiền, để cho bà Th chiếm đoạt số
tiền nói trên thể hiện qua việc bà không có khả năng hoàn trả lại số tiền đã nhận; Và việc bà
Th tiến hành bán tài sản được giao quản lý sau khi bị kê biên là hành vi đặc trưng mô tả tại
Điều 310 BLHS, ngay thời điểm tiến hành ký kết bán tài sản ấy là tội phạm đã hoàn thành,
cho dù việc bán (chuyển nhượng) đó có được xem là hoàn tất theo quy định của pháp luât
đất đai hay không.
Hành vi cố ý dùng thủ đoạn gian dối để ký kết hợp đồng trái pháp luật và chiếm đoạt
tài sản của người khác của bà Th đã xâm phạm đến hai khách thể mà Luật hình bảo vệ là
trật tự pháp luật trong kê biên tài sản của cơ quan có thẩm quyền và quan hệ sở hữu; mục
đích của việc vi phạm kê biên là nhằm chiếm đoạt tài ản của ông Đ, nên hành vi phạm kê
biên ấy có thể xem là hành vi tiền đề để người phạm tội thực hiện hành vi tiếp theo nhằm
đạt mục đích đề ra; Và theo nguyên tắc thu hút tội danh, phải kết luận hành vi của Lê Thị
Th cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Điều 139 BLHS. Việc cơ
quan tiến hành tố tụng kết luận bà Th không phạm bất kỳ tội nào, vụ việc cần giải quyết
theo quy định của pháp luật dân sự là bỏ lọt tội phạm hay còn gọi là dân sự hóa đối với
hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
*Vụ án thứ hai.
Ngày 15/7/2011, Trần Văn K đến gặp anh Nguyễn Văn L đặt vấn đề thuê chiếc xe ô
tô loại INOVA, biển số: 89M- 4527 (trị giá 310 triệu đồng) sử dụng đi lại, K đã thỏa thuận
với anh L thuê xe trong 3 ngày, mỗi ngày K phải trả cho anh L là 1.000.000 đồng và K đã
thanh toán trước số tiền thuê xe cho L. Sau khi nhận xe và giấy chứng nhận đăng ký, K đã
sử dụng đến ngày thứ hai thì nảy sinh ý định mang xe của anh L đi cầm cố lấy tiền và trả
nợ, vì vậy K đã mang xe đến hiệu cầm đồ và cầm cho anh Nguyễn Văn H lấy số tiền là 120
triệu đồng, K thỏa thuận với anh H sau 10 ngày sẽ đến chuộc xe. Nhận được tiền, K trả nợ
cho anh Đinh Khắc T hết 115 triệu đồng, số tiền còn lại K sử dụng vào việc tiêu xài cá
24
nhân. Đến ngày hẹn, L không thấy K mang xe đến trả như đã thỏa thuận nên đã đến gặp K
để đòi xe, K đã nói đã cầm cố và hứa sẽ chuộc về trả lại. Do K không thực hiện như cam kết
nên anh Nguyễn Văn H (chủ hiệu cầm đồ) đã thanh lý và bán xe cho người khác. Biết được
sự việc, L đã làm đơn tố cáo Trần Văn K với Cơ quan điều tra.
Tại Cơ quan điều tra, K khai nhận không có ý định chiếm đoạt tài sản của anh L, chỉ
vì K không có tiền trả nợ nên mới cầm cố xe lấy tiền trả nợ, sau đó thì K bỏ đi khỏi địa
phương.
Cơ quan điều tra cho rằng hành vi của Trần Văn K đã phạm tội Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS, bởi vì K sau khi nhận tài sản của
người khác bằng hợp đồng thuê tài sản, K đã sử dụng tài sản trên vào mục đích bất hợp
pháp dẫn đến không có khả năng trả và bỏ trốn khỏi địa phương, nên cần khởi tố K theo
pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, Viện kiểm sát qua nghiên cho rằng, khoản 1 Điều 140 BLHS quy định:
Chỉ “Người nào có một trong những hành vi: Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc
nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;... sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn
đến không có khả năng trả lại tài sản.” thì mới cấu thành tội phạm này. Sau khi nhận được
tài sản (xe ô tô), K không có hành vi gian dối, không sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp
pháp, đặc biệt là K không bỏ trốn, ngay từ ban đầu K đã đến Cơ quan điều tra khai báo toàn
bộ hành vi của mình và hứa sẽ chuộc xe trả cho anh L, vì vậy hành vi của Trần Văn K
không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như đề nghị của Cơ quan điều
tra, mà hành vi đó chỉ vi phạm nghĩa vụ dân sự, đây là quan hệ thuộc sự điều chỉnh của
pháp luật dân sự. Từ đó, Viện kiểm sát không đồng ý với Cơ quan điều tra về việc khởi tố
vụ án.
Quan điểm của Viện kiểm sát là quá cứng nhắc, không đúng với nội dung và tinh
thần của Điều 140 BLHS. Đúng là hợp đồng dân sự giữa K và L là hợp pháp, nhưng nội
dung hợp đồng quy định rất rõ việc thuê xe chỉ nhằm phục vụ đi lại, thời hạn thuê là ba
ngày, hết thời hạn K phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu, nhưng sau đó vì muốn có tiền trả
nợ và tiêu xài cá nhân, K đã bất chấp sự ràng buộc của hợp đồng để mang tài sản mà mình
không có quyền định đoạt đi cầm cố dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Việc K nhận
tài sản với mục đích ban đầu là sử dụng, sau đó mang cầm cố lấy tiền nên hoàn toàn có thể
xem hành vi mang tài sản cầm cố đó là sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp. Sự bất
hợp pháp thể hiện rất rõ trong trường hợp này là việc định đoạt tài sản của người khác khi
chưa được sự đồng ý hay ủy quyền của chủ sở hữu, sử dụng tài sản vào mục đích khác với
nội dung đã thỏa thuận; Và việc K bỏ đi khỏi địa phương khi chưa thực hiện đầy đã nghĩa
vụ đã cam kết cũng như nghĩa vụ phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan giải quyết tranh
chấp được xem là hành vi bỏ trốn, luật không ràng buộc là phải bỏ trốn ngay từ khi nhận tài
sản hay bỏ trốn sau khi đã có tham gia giải quyết tranh chấp một vài lần, miễn là việc bỏ
25
trốn này dẫn đến hệ quả là chủ sở hữu bị thiệt hại về tài sản là phù hợp với thuật ngữ trên.
Từ phân tích trên cho thấy, cơ quan chức năng không kịp thời áp dụng biện cần thiết đối với
K và dùng quy phạm pháp luật phi hình sự giải quyết tranh chấp trên là hiện tượng tiêu cực
cần ngăn chặn.
*Vụ án thứ ba.
Vào năm 2009, Ban giám đốc Công ty cao su TB cho chủ trương xem xét những hộ
gia đình có người làm công trong công ty là người dân tộc thiểu số, thuộc diện hộ nghèo hỗ
trợ sẽ cho vay vốn nhằm giúp những hộ này có điều kiện mua sắm phương đi lại phục vụ
đời sống và sản xuất. Lúc đó, Lâm Thanh T là cán bộ quỹ tín dụng của công ty tiến hành
điều tra và lập danh sách những hộ thuộc diện ưu tiên cho vay trình công ty. Sau khi xem
xét, Ban giám đốc duyệt cho 30 hộ vay với số tiền là 10 triệu đồng/hộ. T đại diện cho những
hộ dân trên nhận 300 triệu đồng. Nhưng lúc giao tiền cho các hộ dân, T nói Cty chỉ cho mỗi
hộ vay 3 triệu, các hộ trên nhận thấy số tiền 3 tiệu không đủ để mua sắm phương tiện (xe
mô tô) nên từ chối nhận tiền. T giữ tất cả số tiền nói trên và sử dụng vào mục đích cá nhân,
thì sau đó, hành vi của T bị phát hiện và vụ việc được chuyển cho Cơ quan điều tra.
Mặc dù quá trình điều tra làm rõ vụ án không có điều gì trở ngại, nhưng đến ba năm
sau, cơ quan điều tra vẫn không ra quyết định khởi tố vụ án hay quyết định không khởi tố
vụ án hình sự. Lý do của sự chậm trễ trên được cơ quan điều tra lý giải, là để tạo điều kiện
cho T có thời gian khắc phục hậu quả. Viện kiểm sát đã nhiều lần kiến nghị Cơ quan điều
tra vi phạm thời hạn xử lý tin báo, tố giác tội phạm theo quy định của Điều 103 Bộ luật
TTHS, nhưng kết quả vẫn không thay đổi và sau đó, Viện kiểm sát cũng không có động thái
gì tiếp theo, người phạm tội vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật.
Việc cơ quan chức năng cố ý không áp dụng quy phạm pháp luật hình sự để xử lý
người phạm tội trong trường hợp này là một dạng khác của thực trạng bỏ lọt tội, họ hiểu rõ
hành vi nguy hiểm trên thỏa mãn cấu thành tội phạm, nên không ra bất kỳ một quyết định
liên quan nào đến vụ việc trên. Việc làm này thiết nghĩ nó cũng có bóng dáng của tình trạng
dân sự hóa hành vi phạm tội.
Qua nghiên cứu, làm rõ thực trạng hình sự hóa, dân sự hóa hành vi phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua các vụ án cụ thể cho
thấy, mặc dù việc hình sự hóa, dân sự hóa diễn ra rất đa dạng đối với nhiều vụ việc có diễn
biến, nội dung và chủ thể với những đặc điểm về xã hội, nghề nghiệp khác nhau, nhưng
trong các trường hợp cụ thể đó điều có liên quan đến quá trình tiến hành tố tụng và áp dụng
pháp luật hình sự của các cơ quan, người có thẩm quyền. Vì vậy, sau khi mô tả phần nào
bức tranh của thực tiễn phục vụ cho việc đánh giá toàn diện và chính xác bản chất của vấn
đề, thì việc tiếp theo là đi tìm những nguyên nhân từ trong các cơ quan công quyền nhằm
tạo cơ sở cho việc đưa ra những giải pháp đúng trọng tâm khắc phục thành công những tồn
tại, hạn chế ấy.
26
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Nguyên nhân từ đội ngũ cán bộ:
Do đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn thiếu về số lượng so với chỉ
tiêu biên chế được giao, một số còn hạn chế trình độ, năng lực và kinh nghiệm công tác thực
tiễn, công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện
nay, đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ,
một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là
vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hướng tới kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của Bộ máy Nhà
nước.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đánh giá:
“Công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình
hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp
vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức.
Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hướng tới kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của Bộ
máy Nhà nước”.
Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, qua hơn 12 năm thực hiện tiến trình cải cách
tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và qua hơn 9 năm Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị đã có sự chuyển biến về công tác tổ chức cán bộ, số lượng và chất
lượng của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được nâng lên rõ rệt, ngày càng
đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, so với yêu cầu
chung thì đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán của các cơ quan tiến hành tố
tụng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác chưa đồng đều, có một bộ
phận còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác. Mặc dù theo quy định của Pháp
lệnh tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, quy định tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán là cử nhân luật, nhưng trên thực tế
khả năng nhận thức, năng lực công tác, kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn, ý thức
và tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân khác nhau nên dẫn đến kết quả công tác đạt được
cũng khác nhau.
Chính do đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn thiếu về số lượng,
yếu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác và sự thiếu trách nhiệm trong khi
phải giải quyết vụ án, nên dẫn đến tình trạng những người tiến hành tố tụng không nghiên
cứu kỹ hồ sơ vụ án, việc thu thập và đánh giá chứng cứ sơ sài, không chặt chẽ nên dễ dẫn
đến sai lầm trong việc định tội danh.
Một lý do nữa cũng tác động rất lớn đến quá trình thực hiện hoạt động định tội là sự
tác động của kinh tế thị trường làm nhiều cán bộ tha hóa, biến chất, vì những động cơ khác
27
nhau họ sẵn sàng bẻ cong pháp luật, cố tình đưa ra hướng nhận định không đúng bản chất
của vụ án, nghiêm minh của pháp luật.
- Nguyên nhân từ công tác xây dựng, hướng dẫn, giải thích pháp luật:
Mặc dù BLHS năm 1999 sửa đổi quy định rất cụ thể, rõ ràng về khái niệm cũng như
hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên việc định tội
danh đối với tội phạm này chủ yếu phải căn cứ vào các yếu tố của mặt khách quan để xác
định ý thức chủ quan của người phạm tội, đây là một vấn đề khó và còn có nhiều cách hiểu
khác nhau trong thực tiễn. Nhưng cho đến nay, các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa ban
hành văn bản hướng dẫn cụ thể giúp cho cơ quan thực tiễn giải quyết những vấn đề khó
khăn, vướng mắc trong việc định tội danh đối với các tội có hành vi cố ý xâm phạm tài sản
như đã phân tích ở trên. Xuất phát từ nguyên nhân này, nên nhận thức giữa các địa phương,
giữa các cơ quan tố tụng còn khác nhau.
Một số Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán do thiếu văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật thống nhất, nên chưa nhận thức đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của các tội có hành
vi cố ý xâm phạm tài sản một cách chính xác. Do đó, quan điểm giữa Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đối với cùng một vụ án cũng
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
- Thiếu sót trong hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ:
Hoạt động lập hồ sơ và kiểm sát việc lập hồ sơ, thu thập chứng cứ trong một số vụ án
có hành vi cố ý xâm phạm tài sản của Điều tra viên chưa chặt chẽ, chỉ chú trọng lời khai của
bị can mà chưa chú ý đến các chứng cứ khác; không chú ý điều tra làm rõ động cơ, mục
đích phạm tội; tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ một số vụ án còn rất nhiều mâu thuẫn. Kiểm
sát các hoạt động điều tra làm rõ hành vi, thủ đoạn, xác định mục đích phạm tội và việc lập
hồ sơ của Cơ quan điều tra chưa tốt, nhiều vụ án chỉ chú trọng thu thập chứng cứ buộc tội,
bỏ qua chứng cứ gỡ tội trong vụ án, khi đánh giá chứng cứ nhất là mặt khách quan của tội
phạm còn mang tính chủ quan, suy diễn gây ra oan, sai cho người vô tội là khó tránh khỏi.
Trong quá trình giải quyết các vụ án có hành vi cố ý xâm phạm tài sản, một số Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán do trình độ nhận thức hạn chế nên trong việc đánh giá
chứng cứ để xác định tội danh cũng như áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự xử lý không
chính xác; khi đánh giá chứng cứ không xem xét tính hợp pháp, xác thực và tính có liên
quan đến vụ án cũng như việc xem xét một cách khách quan, toàn diện tất cả các tình tiết
của vụ án để đánh giá cho chính xác, dẫn đến quan điểm khởi tố, truy tố và xét xử của cấp
sơ thẩm không đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Một lý do nữa cũng tác động rất lớn đến quá trình thực hiện hoạt động định tội là sự
tác động của kinh tế thị trường làm nhiều cán bộ tha hóa, biến chất, vì những động cơ khác
nhau họ sẵn sàng bẻ cong pháp luật, cố tình đưa ra hướng nhận định không đúng bản chất
28
của vụ án, để từ đó đưa ra các quyết định sai trái phục vụ cho lợi ích của mình làm ảnh
hưởng tính nghiêm minh của pháp luật.
Để việc định tội danh đối với các tội xâm phạm tài sản cũng như tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, xét thấy cần đưa ra những kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này, từ đó đảm bảo cho việc truy cứu TNHS đối với
người phạm tội được khách quan và đúng pháp luật.
2.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác định tội danh đối với
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Từ phân tích, làm rõ hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn, tác giả nhận thấy cơ sở pháp lý và
khoa học cho việc định tội danh trên đã hoàn thiện và đã dự liệu tương đối đầy đủ các loại
hành vi xảy ra trong thực tiễn, nhưng thực tiễn định tội danh đối với tội phạm này vẫn còn
những bất cấp, hạn chế. Qua làm rõ nguyên nhân, tác giả nhận thấy những tồn tại chủ yếu
xuất phát từ con người, nên nhận thấy cần có những giải pháp về con người để góp phần
cho hoạt động định tội danh trong thực tiễn ngày càng chính xác và đúng pháp luật.
2.4.1. Kiến nghị về công tác cán bộ
Hiệu quả của hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh đối với hành vi cố ý
xâm phạm tài sản (trong đó có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản) nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng công tác tổ chức
cán bộ đóng vai trò rất quan trọng. Khi nói về công tác tổ chức cán bộ Bác Hồ đã chỉ rõ
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc có thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém” và trong Nghị quyết số 08-NQ/TW về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW về “chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020” của Bộ Chính trị cũng đã thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo là phải xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh. Do đó, để nâng cao hiệu quả định tội danh đối với
hành vi cố ý xâm phạm tài sản, giải pháp trước tiên là phải đào tạo một đội ngũ Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ về số lượng và giỏi về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Vì vậy, để thực
hiện tốt giải pháp về công tác tổ chức cán bộ, theo chúng tôi cần thực hiện những giải pháp
như sau:
* Nâng cao năng lực đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trong hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự
Qua kết quả khảo sát, đánh giá thực tiễn, để nâng cao năng lực đội ngũ Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, theo tác
giả cần thực hiện đồng bộ trên các mặt.
-Thứ nhất, nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp.
29
Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã thể hiện rõ quan điểm: “công tác tư
pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả
các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất”.
Do đó, việc nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Bởi vì, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là một dạng công việc đặc thù,
hàng ngày, hàng giờ phải thường xuyên tiếp xúc, đối diện với những mặt trái của xã hội,
tiếp xúc với đủ loại vi phạm và tội phạm. Nếu cán bộ tư pháp không được trau dồi, rèn
luyện về đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp thì rất dễ bị những mặt trái của cơ chế kinh tế thị
trường cám dỗ. Để nâng cao nhận thức và bản lĩnh, trước hết mỗi cán bộ tư pháp phải tự rèn
luyện ý thức chính trị, phải luôn xác định công tác điều tra, truy tố, xét xử là công tác chính
trị, phải quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, vận dụng vào trong hoạt động tố tụng để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị
trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Rèn luyện nâng cao nhận thức về tư tưởng
chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp sẽ giúp cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành một cách có lý, có tình, được nhân dân tin
tưởng và đồng tình, giúp cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn.
- Thứ hai, bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức
pháp luật.
Nhân tố con người được coi là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng của mọi
hoạt động. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự bên cạnh tính hệ trọng còn có
tính phức tạp cao. Trong quá trình này, các chủ thể tiến hành tố tụng được pháp luật trao
cho quyền tự do đánh giá chứng cứ trên cơ sở niềm tin nội tâm, ý thức pháp luật của mình.
Vì vậy, khi các chủ thể đó có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, nắm vững kiến thức về
pháp luật, thì các quyết định tố tụng của họ mới có cơ sở thực tế, đảm bảo tính khách quan,
đúng đắn và phù hợp với pháp luật, và đó cũng chính là cơ sở quan trọng làm giảm tình
trạng oan, sai trong tố tụng hình sự.
Để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, năng lực công tác,
cũng như kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn trong việc định tội danh cho đội ngũ Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, trong quá trình công tác cần chú trọng việc bồi dưỡng các kiến
thức về Luật hình sự và kiến thức về lý luận định tội danh. Nhằm giúp cho họ nắm vững
những dấu hiệu cấu thành tội phạm, nắm vững các cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học và phương
pháp định tội danh, để thực hiện hoạt động định tội danh đảm bảo chặt chẽ, khoa học và
chính xác. Bên cạnh đó, cũng cần tổ chức các buổi hội thảo tổng kết rút kinh nghiệm trong
việc định tội danh đối với các vụ án để xảy ra oan sai, có sai sót hoặc còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau trong việc định tội danh.
30
-Thứ ba, bổ sung đủ số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán nhằm tránh
quá tải trong quá trình làm việc.
Để đáp ứng được nhu cầu về số lượng, trình độ chuyên môn và năng lực công tác cho
đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thì cần chú trọng công tác tuyển chọn cán
bộ, đặc biệt là cần quan tâm, chủ động hơn với chất lượng nguồn nhân lực đầu vào. Vì trên
thực tế hiện tại chỉ có lực lượng Điều tra viên trong ngành Công an nhân dân là được đào
tạo một cách có hệ thống mang tính liên tục, kế thừa tại các trường trong ngành Công an
nhân dân, nên phần nào được chủ động hơn về nguồn nhân lực.
Riêng đối với lực lượng Kiểm sát viên và Thẩm phán hiện tại nguồn của hai đối
tượng này chủ yếu được tuyển dụng từ sinh viên tốt nghiệp các trường luật trên cả nước, sau
đó được đưa đi đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát ngắn hạn. Trong khi đó hiện tại chế độ đãi
ngộ và thu nhập trong ngành Kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân chưa đủ sức thu hút
nhân tài vào công tác trong ngành, nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp vào công tác một thời
gian thì chuyển sang làm công việc khác vì mức thu nhập không đảm bảo cuộc sống, nên
việc tuyển đủ biên chế cho ngành Kiểm sát và Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp thời
điểm hiện nay là một vấn đề hết sức khó khăn. Do đó, để chủ động hơn về nguồn nhân lực
cho ngành Kiểm sát và ngành Tòa án, cần có kế hoạch dài hạn và đề nghị Nhà nước tăng
cường chế độ đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng
* Đề cao trách nhiệm công tác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự
- Về trách nhiệm của Điều tra viên.
Điều tra là khâu đột phá, là giai đoạn đầu giữ vai trò thành bại đối với cả tiến trình tố
tụng hình sự, có thể nói những sai lầm tư pháp nghiêm trọng nhất như bỏ lọt tội phạm, làm
oan người vô tội … thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Điều tra vụ án hình sự là tổng hợp toàn bộ hoạt động mang tính chủ động và sáng
tạo của Điều tra viên nhằm phát hiện và làm sáng tỏ sự thật về vụ án hình sự. Trong quá
trình điều tra vụ án, lực lượng chính thực hiện kế hoạch điều tra là Điều tra viên. Họ là chủ
thể trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra. Thực hiện mọi kế hoạch điều tra; đề xuất các
biện pháp xử lý đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng chính sách, pháp luật, góp phần quan
trọng vào thắng lợi chung của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Hoạt động điều tra đòi hỏi Điều tra viên phải có những phẩm chất phù hợp với tính
chất đặc thù của hoạt động này, nhưng chính hoạt động điều tra cũng làm hình thành, phát
triển ở Điều tra viên những phẩm chất đặc trưng, phù hợp với hoạt động nghề nghiệp của
mình. Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Điều tra viên cho thấy hầu hết các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ trong vụ
án hình sự như: khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người
làm chứng, đối chất, nhận dạng và các hoạt động điều tra khác đều do Điều tra viên trực tiếp
31
thực hiện, do đó việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của Điều tra viên trong quá trình điều
tra thu thập chứng cứ có vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự.
- Về trách nhiệm của Kiểm sát viên.
Vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự là hết sức
quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, hạn chế tình trạng oan, sai trong giải quyết
vụ án hình sự và bảo đảm tính pháp chế.
Tại Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn như: kiểm
sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều
tra; đề ra yêu cầu điều tra; triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người làm
chứng, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; kiểm sát việc bắt,
tạm giữ, tạm giam …
Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình điều tra thu thập chứng cứ của vụ án được toàn
diện, khách quan, Kiểm sát viên phải thật sự đề cao vai trò trách nhiệm của mình trong quá
trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, phải thường xuyên theo dõi,
kiểm tra tiến độ điều tra vụ án để kịp thời phát hiện những thiếu sót trong hoạt động điều
tra, thu thập chứng cứ của Điều tra viên để yêu cầu khắc phục, trong trường hợp cần thiết
nếu hoạt động điều tra thu thập chứng cứ của Điều tra viên chưa được toàn diện, thì Kiểm
sát viên trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS, nhằm
đảm bảo cho việc điều tra thu thập chứng cứ của vụ án được kịp thời, toàn diện, khách quan
và đúng pháp luật.
- Về trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là thành
phần của Hội đồng xét xử có vị trí, vai trò rất đặc biệt, họ là những người có thẩm quyền ra
quyết định để tuyên một người nào đó có tội hay không có tội, nếu có tội thì tội phạm đó là
tội gì và mức hình phạt được áp dụng như thế nào.
Theo Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Do đó, để đảm bảo hoạt động định tội danh được chính
xác, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải đề cao tinh thần trách nhiệm của mình trong
việc xem xét, đánh giá chứng cứ của vụ án, phải nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ do Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở đó qua kết quả
xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải so sánh, đối chiếu
các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án với kết quả thẩm vấn tại phiên tòa để xem xét tính
đúng đắn, khách quan của chứng cứ và bác bỏ những chứng cứ không phù hợp với tình tiết,
diễn biến của vụ án, từ đó ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
32
2.4.2. Kiến nghị về công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật
Tuy về mặt lý luận đã làm sáng tỏ phần nào về các loại hành vi chiếm đoạt tài sản
tương ứng với từng điều luật cụ thể của BLHS, nhưng thực tiễn các hành vi phạm tội rất đa
dạng và có nhiều vấn đề lý luận chưa thể dự liệu hết, đồng thời trình độ hiểu biết về lý luận
khoa học luật hình sự từng cơ quan và người tiến hành tố tụng có sự chênh lệch nhất định,
nên xảy ra trường hợp hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau là khó tránh khỏi. Trong khi đó
các văn bản hướng dẫn chuyên sâu về từng loại tội phạm không nhiều và hầu như không có
đối với nhóm tội phạm chiếm đoạt tài sản.
Vì vậy, Liên ngành trung ương cần tổng hợp trong khả năng có thể các vụ án trong
thực tiễn có những vướng mắc và cách hiểu khác nhau để điển hình, nhân rộng và xây dựng
những chuyên đề, văn bản mang tính hướng dẫn cụ thể, chi tiết về từng loại hành vi để các
cấp căn cứ áp dụng một cách hiệu quả và chính xác trong việc định tội danh đối với nhóm
tội phạm phổ biến này.
Nhằm mục đích khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong quá trình định tội danh
đối với tội phạm này, làm cơ sở cho công tác định tội danh đảm bảo tính chính xác, khoa
học, cần phải tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của BLHS. BLHS là một trong những căn cứ đầu
tiên và quan trọng nhất đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội phạm này được chính
xác. Do đó, để tránh những mâu thuẫn và cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp
luật hình sự trên thực tế thì cần phải quy định theo hướng cụ thể, rõ ràng và bao quát được
những tình huống phát sinh trên thực tế.
Thứ hai, mặc dù về lý luận chúng ta không thừa nhận Án lệ là nguồn của Luật hình
sự, nhưng thực tế áp dụng pháp luật thì đâu đó vẫn thường lấy nhưng vụ việc tương tự mà
cấp trên đã giải quyết trước làm chuẩn để giải quyết những vụ việc xãy ra sau đó, có thể nói
hình thức án lệ đã tồn tại trong thực tế. Bên cạnh sự phát triển đa dạng của thực tiễn nên
những quy định của pháp luật hiện hành thường không dự liệu hết được những tình huống
sẽ xãy ra, vì vậy cần phát triển án lệ nhằm tránh sự tùy tiện của từng địa phương khi xử lý
hành vi vi phạm.
Thứ ba, trong hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp cần thiết phải có sự phối
kết hợp chặt chẽ, tạo tiền đề thúc đẩy nhau, giúp đỡ nhau trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, đảm bảo định tội danh chính xác, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội. Các cơ quan tư pháp trung ương (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ Công an) cần phải thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, thống nhất nhận thức để
các cơ quan tư pháp ở địa phương áp dụng luật được đúng đắn.
Thứ tư, một vấn đề mang tính rất thời sự hiện nay là Chính phủ đã đưa mô hình quản
lý nguồn nhân lực theo mô hình vị trí việc làm vào thực tiễn. Mô hình này tạo ra sự khích
thích và buộc cán bộ, công chức phải thường xuyên nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ,
33
năng lực, kỹ năng nghề nghiệp để đảm bảo được vị trí, công việc mà mình đang và muốn
đảm nhận. Tuy hoạt động tư pháp là hoạt động đặ thù, nhưng theo xu thế trên chúng ta cũng
phải có sự điều chỉnh đối với công tác tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm các chức danh tư pháp
cho phù hợp.
Nguồn cán bộ đầu vào của lực lượng Điều tra viên là từ nguồn cán bộ ngành công an
được tuyển dụng trực tiếp từ những sinh viên học tập tại các Trường thuộc ngành Công an
nhân dân; Nguồn Kiểm sát viên, Thẩm phán xuất phát tử nguồn cán bộ Tòa án, cán bộ kiểm
sát thông qua các đợt thi công chức. Một người đã tốt nghiệp Đại học luật hoặc tương
đương thì trình độ, kiến thức của họ sẽ đáp ứng điều kiện của một cán bộ điều tra, tòa án,
kiểm sát, nhưng để trở thành Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thì họ phải có những
phẩn chất về chính trị, bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp. Vì vậy, theo chúng tôi để tuyển
chọn được những con người có tố chất phù hợp trở thành Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, thì việc cần thiết là phải tổ chức thi tuyển. Thông qua thi tuyển, chúng ta mới
có cơ hội thẩm định trình độ năng lực thật sự của họ.
Điều kiện cần cho những người tham gia thi tuyển cũng phải bám sát những điều
kiện bổ nhiệm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được quy định trong các văn bản
tương ứng. Nhưng để trở thành cán bộ có chức danh tư pháp như trên thì những người này
phải vượt qua đợt sát hạch nghiêm ngặt. Có như vậy các cán bộ điều tra, kiểm sát và tòa án
mới từ bỏ tư tưởng “sống lâu sẽ lên lão làng”, muốn trở thành Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán thì trong thời gian công tác ấy, bên cạnh phải hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao, bản thân từng người phải có kế hoạch tự học tập nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị
và nghề nghiệp. Khi đó chúng ta mới có được những Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay.
Thứ năm, là căn cứ vào nhiệm kỳ của các chức danh nói trên, cấp có thẩm quyền
phải xây dựng được những tiêu chí nghiêm ngặt và rõ ràng về đánh giá mức hoàn thành
nhiệm vụ. Bên cạnh những tiêu chí mà hiện nay chúng ta đang áp dụng, theo chúng tôi cần
xây dựng thêm tiêu chí nữa là, nếu trong một năm, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
nào chỉ một lần để xãy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội thì xem như năm đó
không hoàn thành nhiệm vụ. Nếu trong nhiệm kỳ năm năm có hai năm không hoàn thành
nhiệm vụ thì không xem xét tái bổ nhiệm. Đây là biện pháp giúp xóa bỏ sự chay ỳ của Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và nếu được áp dụng nghiêm túc, chúng tôi tin rằng nó
sẽ giúp làm giảm tình trạng gây oan, sai người vô tội và bỏ lọt tội phạm trong hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự.
34
PHẦN KẾT LUẬN
Trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, thì việc định tội danh chính xác
đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội là rất quan trọng. Bởi vì, việc định tội danh đúng sẽ
giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật và việc áp dụng hình phạt sẽ phát huy được mục đích cải tạo, giáo dục người
phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội.
Về mặt lý luận đã làm rõ thế nào là định tội danh, cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý
cho việc định tội danh đối với hành vi phạm tội và trong Bộ luật hình sự cũng đã mô tả đầy
đủ các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đồng thời từ sự mô tả các dấu hiệu trong cấu thành tội
phạm quy định tại Điều 139, Điều 140 Bộ luật hình sự, chúng ta cũng đã làm rõ dấu hiệu về
mặt hành vi khách quan nhằm tạo cơ sở cho thực tiễn vận dụng nội dung trên để xử lý chính
xác hành vi phạm tội trong thực tiễn.
Qua khảo sát thực tiễn cho thấy, tuy phần lớn cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố,
điều tra, truy tố và xét xử đối với hai loại tội phạm trên đúng theo quy định của pháp luật và
người phạm tội bị trừng trị thích đáng. Nhưng bênh cạnh những kết quả đạt được, thì việc
định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản cũng cho thấy còn nhiều bất cập hạn chế, như tình trạng hình sự hóa hành vi vi phạm
pháp luật khác, hoặc dân sự hóa những hành vi phạm tội như đã nêu trong phần thực trạng
của chuyên đề.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau, như
trình độ năng lực của người tiến hành tố tụng còn hạn chế, còn một số người tiến hành tố
tụng chưa vô tư, khách quan, công tâm trong áp dụng pháp luật…và một nguyên nhân nữa
cơ quan có thẩm quyền trong quá trình hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa dự liệu hết những
tình huống đa dạng trong thực tiễn. Vì vậy, để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên cần
phải có những giải pháp kiến nghị nhằm đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được chính xác, góp phần cho
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả và sự thành công của tiến trình cải
cách nền tư pháp nước ta hiện nay.
35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
3. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi).
4. Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 sửa đổi.
5. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 sửa đổi.
6. Luật giám định tư pháp.
7. Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân Tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử
sơ thẩm” của Bộ luật TTHS năm 2003.
8. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày
25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ
Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm
sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 .
9. Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005 của Viện
kiểm sát Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về mối quan hệ phối hợp giữa
CQĐT và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2003
10. Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày
28/7/1010 của Viện kiểm sát Tối cao, Bộ Công an, Toà án nhân dân Tối cao về việc hướng
dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật TTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
11. Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng VKSND
Tối cao về việc ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự
12. Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng VKSND
Tối cao về việc ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự.
B. CÁC VĂN BẢN CỦA CƠ QUAN THẨM QUYỀN
13. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
14. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
15. Báo cáo số 345/VKSTC-V1A ngày 01/12/2010 của Viện kiểm sát Tối cao về
36
công tác kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố.
16. Báo cáo số 09/ BC-VKS-P1A ngày 11/12/2007 của Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh
về kết quả thực hiện chuyên đề đình chỉ điều tra.
17. Báo cáo số 16/ BC-VKS-P1A ngày 24/12/2008 của Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh
về kết quả thực hiện chuyên đề đình chỉ điều tra.
18. Báo cáo số 186/ BC-VKS-P1 ngày 14/8/2009 của Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh về
thực trạng đình chỉ điều tra do miễn trách nhiệm hình sự.
19. Báo cáo số 06/ BC-VKS-P3 ngày 15/12/2010 của Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh về
sơ kết rút kinh nghiệm những vụ án hình sự bị cấp phúc thẩm hủy án để điều tra lại.
20. Quyết định số 46/QĐ-KSXX -P3 ngày 16/3/2011 của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Tây Ninh về việc rút rút kháng nghị phúc thẩm.
21. Quyết định số 01/KSĐT ngày 25/11/2007 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân
Châu, tỉnh Tây Ninh về việc hủy bỏ Quyết định KTVA.
22. Cáo trạng số 55/QĐ/KSĐT ngày 24/5/2007 của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
23. Cáo trạng số 136/QĐ/KSĐT ngày 29/7/2007 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã
Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
24. Cáo trạng số 126/QĐ/KSĐT ngày 13/10/2010 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã
Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
25. Bản án số 98/2009/HSPT ngày 7/6/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
26. Bản án số 165/2011/HSPT ngày 26/8/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
27. Bản án số 145/2009/HSST ngày 29/9/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh,
tỉnh Tây Ninh.
28. Bản án số 47/2011/HSST ngày 13/4/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh,
tỉnh Tây Ninh.
29. Bản án số 13/2011/HSST ngày 25/02/2011 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu,
tỉnh Tây Ninh.
C. CÁC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC, SÁCH
1. Chu Thị Trang Vân, Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phương diện
là những hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án, Tạp chí Khoa học, ĐH
Quốc gia Hà Nội.
2. Dương Thanh Biểu (2008), Thông báo rút kinh nghiệm, kiến nghị nghiệp vụ của
các Viện phúc thẩm từ năm 200 đến năm 2007, Nxb.Tư pháp.
37
3. Đặng Khắc Thắng, Sử dụng tài sản không đúng mục đích hay gian dối để chiếm
đoạt, trang thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên.
4. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, tập
các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. TP, Hồ Chí Minh.
5. Đoàn Tấn Minh, Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối
với các tội phạm trong luật hình sự hiện hành, Nxb Tư pháp.
6. Hồ Ngọc Hải (2012), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng
chiếm đoạt là tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc
sỹ.
7. Hồ Trọng Ngũ, Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi phạm
pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay, Trang thông tin điện tử Viện
nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh.
8. Huỳnh Chủ Nghĩa, Hoạt động điều tra các vụ án về tội xâm phạm sở hữu của Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện thuộc tỉnh Đồng Tháp, Luận văn Thạc sỹ.
9. Lê Hồng Phúc, Khi nào thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Trang
thông tin điện tử - Báo Bình Dương.
10. Nguyễn Đình Trung, Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều
tra cấp huyện trong điều tra, truy tố các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh
Đồng nai, Luận văn Thạc sỹ.
11. Nguyễn Thu Vân, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140
BLHS 1999, Luận văn Thạc sỹ.
12. Nguyễn Văn Vân (2001), Về hiện tượng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự
trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, Tạp chí Khoa học pháp luật (số 02).
13. Thảo Vy (2001), Xác định hành vi chiếm đoạt trong các quan hệ vay mượn, Tạp
chí nghề luật (số 02).
14. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I, Nhà
xuất bản Hà Nội.
15. Trần Duy Bình, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Một số vướng mắc
trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện, Trang thông tin điện tử Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang.
16. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân (Tập 2).
17. Vi Văn Cảnh (2014), Khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự, Trang thông tin điện
tử của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang.
38
18. Phạm Hồng Hải (998), Mấy suy nghĩ về bảo vệ quyền con người trong TTHS ở
nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 3).
19. Võ Khánh Vinh (2008), Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 8).
20. Mai Văn Lư (2010), Bàn về quy định Tòa an trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
điều kiện cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát (số 11).
21. Võ Thị Kim Oanh (2010), “Thực tiễn áp dụng quy định về Tòa án trả hồ sơ để
điều tra bổ sung”, Tạp chí khoa học pháp lý (số 3).
22. Bùi Mạnh Cường (2011), “Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố”,
Tạp chí kiểm sát (số 01).
23. Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1999), Tư pháp hình sự so sánh, Hà
Nội.
24. Trường Đại học An ninh Nhân dân (2006), Đề cương giáo trình luật TTHS, TP.
Hồ Chí Minh.
25. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển
bách khoa & Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
26. Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Bách Khoa, Hà Nội
27. Nguyễn Ngọc Anh (2009), Bình luận koa học Bộ luật TTHS năm 2003, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đào Trí Úc (1995), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật TTHS Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Trần Quang Tiệp (2011), Chế định chứng cứ trong Luật TTHS Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
31. Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội.
35. Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Giáo trình Luật hình sự, Hà Nội.