19
[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 39 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng khái niệm rủi ro và bất trắc trong ngành khoa học xã hội Vanessa Manceron – Viện dân tộc học và xã hội học so sánh thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS) Các cộng đồng xã hội và cá nhân khi phải đối mặt với những tai họa xảy đến thường xuyên hoặc bất ngờ - bệnh tật, tai nạn, tai biến, thảm họa –, đều tự hỏi tương lai sẽ ra sao và đánh giá các mối đe dọa và tác động của những nghịch cảnh đó. Lo lắng về hiểm nguy và thảm họa không phải điều mới mẻ và cũng không chỉ giới hạn ở một vài nơi nào đó; đó là một trải nghiệm đan xen giữa cảm giác thấy mình yếu ớt và không may trước những mối bất hạnh đó. Thế nhưng, thuật ngữ « nguy hiểm » nguyên gốc trong tiếng Pháp có nghĩa là « phó mặc một sự việc » hoặc « dưới sự thống trị của ai đó » không được nhầm với thuật ngữ « rủi ro » vì nội hàm của thuật ngữ này liên quan nhiều hơn đến khái niệm khả năng có thể dự báo hoặc xác suất có thể xảy ra. Thuật ngữ « rủi ro » là một cách đặc biệt để xác định và ý thức về mối đe dọa và khả năng mối đe dọa đó có thể xảy đến, thuật ngữ này dần dần được sử dụng nhiều trong các xã hội công nghiệp kể từ thời kỳ hiện đại, giai đoạn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX (Peretti-Watel, 2001). Như vậy, khái niệm này có một lịch sử hình thành mà các ngành khoa học xã hội đã biết nắm cơ hội sử dụng nó, vì nó giúp cho nhìn thấy sự xuất hiện của một cách hiểu nào đó về khái niệm nguy hiểm, một đặc điểm nổi trội của xã hội đương đại, thường được gọi chung là « xã hội rủi ro » kể từ sau nghiên cứu của nhà xã hội học Ulrich Beck. Các xã hội ngày càng có nhiều rủi ro trong phát triển. Chúng ta đang chứng kiến cả một quá trình « đặt thế giới vào vòng rủi ro », và các mối đe dọa mới cũng ngày càng lây lan – rủi ro công nghệ, rủi ro y tế, rủi ro môi trường, rủi ro xã hội.

1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

  • Upload
    others

  • View
    8

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 39

1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng khái niệm rủi ro và bất trắc

trong ngành khoa học xã hộiVanessa Manceron – Viện dân tộc học và xã hội học so sánh

thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS)

Các cộng đồng xã hội và cá nhân khi phải đối mặt với những tai họa xảy đến thường xuyên hoặc bất ngờ - bệnh tật, tai nạn, tai biến, thảm họa –, đều tự hỏi tương lai sẽ ra sao và đánh giá các mối đe dọa và tác động của những nghịch cảnh đó. Lo lắng về hiểm nguy và thảm họa không phải điều mới mẻ và cũng không chỉ giới hạn ở một vài nơi nào đó; đó là một trải nghiệm đan xen giữa cảm giác thấy mình yếu ớt và không may trước những mối bất hạnh đó.

Thế nhưng, thuật ngữ « nguy hiểm » nguyên gốc trong tiếng Pháp có nghĩa là « phó mặc một sự việc » hoặc « dưới sự thống trị của ai đó » không được nhầm với thuật ngữ « rủi ro » vì nội hàm của thuật ngữ này liên quan nhiều hơn đến khái niệm khả năng có thể dự báo hoặc xác suất có thể xảy ra. Thuật ngữ « rủi ro » là một cách đặc biệt để xác định và ý

thức về mối đe dọa và khả năng mối đe dọa đó có thể xảy đến, thuật ngữ này dần dần được sử dụng nhiều trong các xã hội công nghiệp kể từ thời kỳ hiện đại, giai đoạn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX (Peretti-Watel, 2001). Như vậy, khái niệm này có một lịch sử hình thành mà các ngành khoa học xã hội đã biết nắm cơ hội sử dụng nó, vì nó giúp cho nhìn thấy sự xuất hiện của một cách hiểu nào đó về khái niệm nguy hiểm, một đặc điểm nổi trội của xã hội đương đại, thường được gọi chung là « xã hội rủi ro » kể từ sau nghiên cứu của nhà xã hội học Ulrich Beck.

Các xã hội ngày càng có nhiều rủi ro trong phát triển. Chúng ta đang chứng kiến cả một quá trình « đặt thế giới vào vòng rủi ro », và các mối đe dọa mới cũng ngày càng lây lan – rủi ro công nghệ, rủi ro y tế, rủi ro môi trường, rủi ro xã hội.

Page 2: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD40

Chính trong một thế giới bất định như vậy mới cần đến công việc của các ngành khoa học xã hội để có thể mô tả và tìm hiểu đặc điểm của các rủi ro đó (Callon và Lascoumes, 2001). Để làm được điều này, các nhà nghiên cứu, dù thuộc ngành xã hội học hay nhân học, đều nghiên cứu rủi ro như là một văn hóa gắn liền với từng cá nhân, quan tâm tới cách thức dẫn đến nhận thức của xã hội về mối nguy xét trên phương diện văn hóa, phân tích tình trạng bất bình đẳng và bất công xã hội có thể được bộc lộ hoặc làm sâu sắc thêm thông qua việc quản lý rủi ro, hoặc nữa là mô tả các giải pháp xã hội và những công cụ được đưa ra để quản lý sự bất hạnh, trong trường hợp xảy ra khủng hoảng hoặc một sự việc đột nhiên xảy ra như trường hợp của các thảm họa.

Các ngành khoa học xã hội góp phần rất lớn làm sáng tỏ những thách thức đương đại liên quan đến rủi ro và thảm họa, tùy theo các bối cảnh xã hội khác nhau và mối nguy hiểm có liên quan. Trong khóa học này tôi xin được xem xét vị trí của khái niệm rủi ro và việc xử lý tai họa gặp phải trong khoa học xã hội cũng như trong xã hội nói chung. Trước hết, tôi xin nhắc đến khái niệm rủi ro ở một số mốc lịch sử để từ đó đưa ra một định nghĩa hoặc phân tích cụ thể khái niệm này, sau đó, chúng  ta sẽ lướt qua xem các ngành khoa học xã hội, đặc biệt là ngành nhân học văn hóa đề cập lĩnh vực này như thế nào, và cuối cùng, qua phân tích trường hợp dịch cúm gia cầm, chúng ta sẽ phân tích một ví dụ về khả năng kết nối giữa nghiên cứu, một sự việc không may và các nhóm xã hội đã từng có trải nghiệm và nói về sự việc đó. Nghiên cứu về trường hợp dịch cúm gia cầm này sẽ tập trung vào các quan niệm xã hội cũng như những cách phản ứng khác nhau của người

dân thành thị và nông thôn trước dịch cúm tại Pháp.

1.1.1. biết rõ các mối đe dọa

Khái niệm rủi ro mang nhiều trường nghĩa : nó chỉ sự việc xảy ra bất ngờ (tương lai bất định, không biết trước được) / chỉ sự may rủi, điều may mắn, số mệnh hoặc ngẫu nhiên (hoàn cảnh may mắn sung sướng hoặc không may, bất hạnh ảnh hưởng đến số mệnh của cá nhân hoặc cộng đồng xã hội) / chỉ một tai biến làm gián đoạn nhịp sống thông thường và cắt đứt ý nghĩ cho rằng con người được định đoạt bằng một tương lai ổn định (gián đoạn, thay đổi đột ngột không tránh được).

Nhìn chung, rủi ro có đặc điểm liên quan đến sự ngẫu nhiên, không chắc chắn, có thể coi nó là một mắt xích bị khuyết trong chuỗi quan hệ nhân quả và thường tạo ra sự lộn xộn hoặc điều nằm ngoài dự tính. Một tai biến, có thể gán cho là do ngẫu nhiên (bất định) hoặc do các mối liên hệ nhân quả có bản chất khác nhau (do ý trời hay thần thánh, do hiện tượng vật lý, thiên văn, sinh học, v.v.). Nếu như tất cả các xã hội đều có những trải nghiệm về sự bất ổn và nghịch cảnh thì khung khái niệm mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng và có giải pháp với những bất ổn lại hoàn toàn khác nhau.

Chẳng hạn như thuật chiêm đoán là một cách đặc biệt phổ biến trên thế giới để lắng nghe điều bất ngờ. Đây là một học thuyết tri thức nhằm nắm bắt được phần bí mật của thế giới, đoán biết về tất cả những gì còn nằm ngoài tầm hiểu biết của con người, các sự việc xảy ra một cách vô tình, ngẫu nhiên, vốn đầy bí ẩn và con người không nắm bắt được (Bottéro, 1974). Chiêm đoán cho biết những cách thức tạo một mối liên hệ giữa may rủi và

Page 3: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 41

điều vô hình, giúp hình dung được sự tương ứng giữa thế giới vật lý (những gì nhận thấy được bằng giác quan) và thế giới nội tâm (những gì thuộc phi vật chất và vô hình, như tinh thần, sức sống, linh hồn, thần thánh, v.v.). Chiêm đoán mang lại một sự giải thích hợp lý chấp nhận được cho những hiện tượng mà ta không thể giải thích được một cách duy lý, kể cả về nguồn gốc, hay diễn biến của hiện tượng đó, và như vậy, chiêm đoán sẽ loại trừ yếu tố ngẫu nhiên ra khỏi cách giải thích sự vật hiện tượng hay sự việc diễn ra.

Nhưng khoa học luận lại tuân theo một tính hợp lý khác. Thế giới chỉ có thể biết được và nắm bắt được khi không còn dấu vết nào mang tính chủ ý, có tác động dù là của thánh thần hay của con người. Những gì còn chưa được biết đến, không thể đoán trước, bí ẩn hoặc vô hình chính là phần của thế giới khách quan, đo đếm được, song chủ thể nắm giữ sự hiểu biết vẫn chưa thể khám phá ra hoặc dự đoán một cách chắc chắn. Yếu tố ngẫu nhiên được đưa vào trong vô số các thuyết định mệnh mà khoa học dựng lên để giải thích các hiện tượng, nhưng đồng thời khoa học cũng mong muốn làm sao giải tỏa được những thuyết định mệnh đó. Các biểu đồ ngẫu nhiên được dựng lên để mô hình hóa các kịch bản lây lan vi rút có thể xảy ra chính là một ví dụ để minh họa cho mô hình này.

Yếu tố ngẫu nhiên nằm ngoài sơ suất hay chủ đích. Theo Peretti-Watel (2001), thuật ngữ « rủi ro » xuất hiện ở Ý vào thế kỷ XIV để chỉ những trở ngại và hiểm họa trên biển, hiện được dùng với một khái niệm nội hàm mới,

cùng với sự ra đời của một hệ thống bảo hiểm hiện đại, cho rằng các nguyên nhân của tai nạn hay sự vận hành của thế giới là nằm ngoài ý trời.

Như vậy, rủi ro là một mối nguy hiểm có thể dự báo (ta biết nó có thể xảy đến), và ta có thể chuẩn bị trước để phòng ngừa hoặc đối phó. Với quan điểm như vậy, rủi ro được thay cho may mắn. Đó chính là sản phẩm của xu hướng khoa học luận mang tính xác suất, thống kê và lượng hóa bằng các con số.

1.1.2. « Xã hội rủi ro »: các mối đe dọa trở nên phổ biến và một động thái xã hội-chính trị

Phải đến thế kỷ XX thì khái niệm rủi ro mới phát triển trở thành đặc điểm của các xã hội đương đại, theo dòng nghiên cứu của hai nhà xã hội học Ulrich Beck và Anthony Giddens. Theo A. Giddens, đặc điểm mới lạ nhất của xã hội hiện đại là khiến toàn nhân loại phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn: kể từ những năm 1970, các rủi ro xảy ra do hoạt động « sản xuất » hoặc là kết quả của các hoạt động con người là vô cùng nhiều, mang tính toàn cục, đa dạng và ảnh hưởng tới người dân thường ở những cấp độ rộng lớn. [2] Như vậy, đặc điểm nổi bật của thời kỳ hiện đại là ảnh hưởng ngày càng tăng của rủi ro tới cuộc sống của mỗi cá nhân, cùng lúc là niềm tin vào những tiến bộ của xã hội hiện đại ngày một suy giảm, tri thức ngày càng trở nên thiếu đồng nhất, khoa học bị đặt vào tranh luận và không còn ở vị trí số một nữa (Lyotard, 1979).

[2] Sự cố tai nạn hạt nhân tại các nhà máy điện hạt nhân Three Miles Island (1979), Tchernobyl (1986) và Fukushima (2012); rủi ro về công nghệ còn có thể xảy đến trong ngành công nghiệp hóa chất (Seveso năm 1974), hoặc về môi trường (Torrey Canyon năm 1967 và Amoco Cadiz năm 1978), y tế (ESB năm 1988 và cúm gia cầm năm 2005), v.v...

Page 4: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD42

Tất cả các nghiên cứu xã hội học đều nhấn mạnh đến những căng thẳng đặc trưng của Xã hội rủi ro: một bên là những mối đe dọa lan tràn và một bên là những rủi ro được đặt dưới tầm kiểm soát và giám sát chặt chẽ; một bên là mong muốn tìm kiếm sự an toàn còn một bên là lo lắng gia tăng gắn với sự nghi ngờ về giá trị của các nghiên cứu đầu ngành và cảm giác thế giới kỹ thuật ngày càng trở nên thiếu minh bạch và gây nhiều tai hại.

Tuy nhiên, theo Beck (2001), các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế và kỹ thuật công nghệ không hề mới, chúng được đặt ra ngay từ thời trung cổ, các vấn đề về y tế công cộng bị cho là do ô nhiễm đô thị là một bằng chứng. Theo tác giả này, đặc trưng của Xã hội rủi ro chủ yếu là « kiến trúc xã hội và động thái chính trị » của các mối đe dọa. Từ đặc điểm mang tính xã hội học và chính trị này của khái niệm đe dọa ở thời kỳ đương đại, ta có thể rút ra được một số đặc tính đáng chú ý:

- những thiệt hại thường là vô hình và không thể tránh khỏi có thể được giảm thiểu hoặc trở nên trầm trọng hơn là tùy theo định nghĩa mà mỗi xã hội xây dựng nên xung quanh khái niệm này;

- khái niệm rủi ro đòi hỏi phải có cách diễn giải mang tính quan hệ nhân quả, và điều này là độc quyền trong lĩnh vực kiến thức khoa học. Thực tế, song song với việc người ta có cái nhìn ngày càng mang tính phản biện với tri thức khoa học, tiến bộ khoa học cũng giúp nâng cao nhận thức về mối nguy hiểm;

- sự phân bố các mối đe dọa có một phần khớp với tình trạng bất bình đẳng (giữa các tầng lớp xã hội trong một nước hoặc giữa các nước với nhau), nhưng đồng thời cũng ẩn chứa hiệu ứng Boomerang và phản

ngược lại chính những người tạo ra hoặc lợi dụng các mối nguy hiểm đó (ví dụ các tập đoàn công nghiệp, các nhà sản xuất). Như vậy, rủi ro tạo ra những bất bình đẳng mới về lãnh thổ giữa các nước phía Bắc và các nước phía Nam, tuy nhiên vì các mối đe dọa có đặc tính trùm lên các quốc gia nên các rủi ro đó có thể làm suy yếu việc xây dựng bất cứ một quốc gia-nhà nước nào ;

- mong muốn tìm kiếm sự an toàn đã thay thế cho ảo tưởng về sự bình đẳng. Như vậy, một kiểu tinh thần đoàn kết đã được rèn đúc trong tâm lý sợ hãi, tinh thần đoàn kết dạng này có thể trở thành một sức mạnh chính trị và đảm bảo được sự chính danh cho một Nhà nước an toàn. Đồng thời, rủi ro cũng tạo nhiều phân biệt và đối lập trong xã hội, giữa một bên là những người phải đối mặt với rủi ro và những người hưởng lợi từ đó, giữa những người đưa ra định nghĩa về rủi ro và những người tiếp nhận những định nghĩa đó. Như vậy, xã hội rủi ro là xã hội của khoa học, của truyền thông và thông tin, trong đó vấn đề cần làm không phải là chuẩn bị để đối phó với sự thiếu thốn được quản lý trong khuôn khổ của Nhà nước-Quốc gia, mà là phải chuẩn bị để đối phó với nguy hiểm trong khuôn khổ của những hệ thống liên minh toàn cầu.

1.1.3. Các thuyết văn hóa về rủi ro và nhận thức của xã hội về nguy hiểm

Các ngành khoa học xã hội thường được đề nghị nêu ý kiến về phần cuối những tranh luận công khai, tức là đưa ra các phân tích về người dân và dư luận « để hiểu nhận thức của họ, lý do họ lo lắng, họ nghe theo tin đồn như thế nào, xu hướng tại sao họ hoảng sợ, v.v. » (Gilbert, 2002). Những trông chờ vào phân tích khoa học xã hội này thường dựa trên sự

Page 5: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 43

tin tưởng mà hầu như đều cho rằng có hai loại rủi ro, một là rủi ro khách quan (thực sự đo đếm và sờ nắn được) và một là rủi ro chủ quan (theo những nhận thức và ý tưởng hình thành nên trong đầu từ những gì nhìn thấy trên thực tế). Phân biệt như vậy sẽ thấy, các cách nhận thức của xã hội sẽ gây trở ngại cho nỗ lực để hiểu, nắm bắt và nhìn nhận một cách khách quan những rủi ro gặp phải; và những cách nhận thức đó chủ yếu liên quan đến niềm xác tín chứ không liên quan đến tri thức khoa học.

Một trong những thách thức đối với các ngành khoa học xã hội, đặc biệt với ngành nhân học, là đưa những cách nhận thức của xã hội về rủi ro ra khỏi sự bó buộc trong phạm vi tâm lý mê tín và sự phi lý. Các nhà nhân học, với công việc chính là giúp đưa ra cho thấy những nguyên tắc đồng nhất về khoa học luận trong các xã hội không hiện đại, đã chỉ ra rằng tâm lý sợ hãi trước một mối nguy hiểm tuân theo các logic xã hội văn hóa đặc thù và đều có sự hợp lý của nó.

Tác phẩm của Douglas và Wildavslky (1982) minh họa rõ nét mẫu hình của việc xác định tính chất văn hóa trong những nhận thức về rủi ro. Các tác giả đã phân biệt bốn loại hình lý tưởng trên cơ sở các đặc điểm ít nhiều được phân theo thứ bậc và tách bạch với nhau của các nhóm xã hội, ở đây tôi chỉ xin phép được nhắc đến một số đặc điểm chính :

- cơ cấu tổ chức theo thứ bậc, nguyên mẫu của nhóm này là bộ máy quan liêu, với đặc điểm nổi bật là phân hóa mạnh về vai trò và vị thế, và sự gắn bó với một số giá trị nhất định như trật tự và ổn định. Trong nhóm này có thể nhận thấy một xu hướng tôn trọng các tri thức chính danh và ác cảm với rủi ro và tìm giải đáp cho những rủi ro đó bằng cách tạo ra các quy định (quy định bắt buộc

phải xét nghiệm kiểm tra nhiễm HIV/AIDS, tiêm phòng cúm gia cầm, v.v.). Các chủ thể trong nhóm này thường có xu hướng coi thiên nhiên to lớn tới một số ngưỡng nhất định nào đó mà vượt qua những ngưỡng này thì các thiệt hại có thể gây những mất cân bằng lâu dài. Quan điểm này biện minh cho việc kiểm soát nhằm tạo một khung điều chỉnh cho phát triển công nghiệp mà không cấm đoán sự phát triển này;

- xu hướng cá nhân chủ nghĩa, với nguyên mẫu là thị trường tư bản chủ nghĩa của các doanh nghiệp tư nhân. Ở đây, các tình huống bất ổn không cần thiết phải tránh né, vì rủi ro cũng có thể là một cơ hội để khai thác và phát huy được khả năng của mình. Trong nhóm này có thể nhận thấy ưu tiên được dành cho việc phòng ngừa và khái niệm trách nhiệm cá nhân và thái độ bất chấp đối với các quy định mà người ta luôn cho là quá khắt khe. Những người theo xu hướng này thường tin tưởng nhiều hơn vào kiến thức, thông tin chính thức, vào các chuyên gia, song cũng hết sức mê mẩn công nghệ tiên tiến và những đổi mới công nghệ. Thiên nhiên luôn được coi là vô cùng to lớn và có sức đề kháng mạnh mẽ, trong trường hợp bị mất cân bằng, thiên nhiên có thể tự bù đắp để quay về trạng thái cân bằng ban đầu;

- xu hướng bình đẳng là xu hướng chủ yếu liên quan đến các nhóm xã hội tương đối khép kín, như môi trường quân đội, các tổ chức nghiệp đoàn, hiệp hội cư dân ven miền sông nước, v.v. Thành viên của nhóm này thường phát huy các giá trị bình đẳng và tâm lý thuộc về một tập thể. Trong nhóm này có thể nhận thấy xu hướng tự huy động các nguồn thông tin và tri thức của cá nhân để phản đối hoặc thử thách các quyết định của cơ quan nhà nước trong

Page 6: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD44

vấn đề đối phó rủi ro. Là những người đặc biệt nhạy cảm với rủi ro môi trường và công nghệ, các chủ thể trong nhóm này thống nhất với ý tưởng cho rằng thiên nhiên rất mong manh, dễ bị tác động và cân bằng thiên nhiên có thể bị đe dọa, điều này là khó có thể tránh được và có thể trở thành thảm kịch,

- sau cùng là xu hướng bên lề, đây là xu hướng của những người bị gạt ra ngoài, dễ bị tổn thương về mặt xã hội hoặc có vị trí thấp hơn so với phần còn lại của xã hội, đặc trưng của nhóm này là thiếu quan điểm rõ ràng về rủi ro, mà một trong những nguyên nhân là do thiếu thông tin. Thường họ là những người hứng chịu rủi ro, họ tin vào định mệnh, vào sự không may, và cho rằng thiên nhiên (giống như số phận) rất thất thường, và sẽ là không tưởng nếu tìm cách kiểm soát nó.

Theo cách phân loại này của Douglas và Wildavslky, những mối đe dọa hay tai họa ảnh hưởng đến các cá nhân là công việc của đội ngũ chuyên gia, các nhà nghiên cứu, song không bao giờ lại chỉ có mình họ: việc nắm bắt và diễn giải thường là công viêc chung, được chia sẻ và thảo luận trong các nhóm xã hội, và từ đó làm sáng tỏ các mối quan hệ ít nhiều mang tính xung đột mà các cá nhân kết nối với phần còn lại của xã hội (Augé và Herzlich, 1984).

1.1.4. hướng tới một cái nhìn nhân học về thảm họa

Các xã hội khi đối mặt với nghịch cảnh thường trải nghiệm hai dấu mốc thời gian: trước (rủi ro, mối nguy hiểm, lâm nguy, sự đe dọa, tức là tương lai đón trước) và sau (sự việc đã xảy ra, thảm họa, nỗi bất hạnh, điều phiền não, tức là quá khứ phải chịu đựng). Nếu như xã hội học có đóng góp rất lớn trong nghiên cứu về rủi ro thì nhân học lại phát huy được vai trò tuyệt

vời trong nghiên cứu về những điều bất trắc và những sự việc đôi khi tác động lâu dài tới các cá nhân và xã hội loài người, như trường hợp bệnh tật, thiên tai hoặc các thảm họa. Khi  những sự việc đó trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà nhân học, họ sẽ tìm hiểu, phân tích những trải nghiệm của nạn nhân, cuộc sống bình thường của họ bị đảo lộn, phải tổ chức lại cuộc sống hàng ngày, ký ức về thảm họa đã xảy ra, tâm trạng phiền não được thể hiện như thế nào, những mối quan hệ tương tác mới nảy sinh giữa người dân địa phương và các chuyên gia, những thay đổi mới liên quan đến quản lý sự việc về chính trị, y tế và truyền thông.

Trong một bài báo tham khảo, Langumier và Revet (2011) đã tổng hợp rất hiệu quả hiện trạng các nghiên cứu đã được thực hiện và đặc biệt là các phương pháp tiếp cận dưới góc độ nhân học khác nhau xoay quanh các đối tượng nghiên cứu này. Sau khi nhắc đến những đóng góp của các ngành khác như xã hội học thông qua hệ thống cảnh báo (Chateauraynaud và Torny, 1999), địa lý với những nghiên cứu về mức độ dễ bị tổn thương của các tổ chức xã hội (Hewith, 1983), khoa học chính trị với những tiếp cận về quản lý khủng hoảng và vai trò của các chủ thể (Gilbert, 2002), hai tác giả đã nhấn mạnh rằng, trên hết, nhân học đề xuất « tập trung vào việc coi thảm họa là một trải nghiệm xã hội, để từ đó đặt ra câu hỏi: cái gì tạo ra một sự việc ở cấp độ địa phương? Người ta sống chung với thảm họa như thế nào ? ».

Theo hai tác giả, sự quan tâm của ngành nhân học đối với đề tài này không phải là mới, tuy nhiên, khó phân biệt nó với các trường phái nghiên cứu thực thụ, ít nhất là trên góc độ tiếp cận đề tài. Các tác giả nhắc đến những nghiên cứu có sử dụng khái niệm thích nghi và quan tâm đến cách thức mà các xã hội

Page 7: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 45

loài người thích nghi với những môi trường khó khăn (khả năng ứng phó, sự ổn định được đảm bảo bằng tri thức và những quy tắc xã hội) (Evans-Pritchard, 1968 ; Firth, 1959). Một mảng khác trong lĩnh vực nghiên cứu này quan tâm đến sự vận động xã hội và cộng đồng cũng như tới những logic trong hành động khi xảy ra thảm họa (tương tác, phối hợp với các tổ chức nhân đạo, tác động của các chính sách quản lý và tái thiết sau thảm họa) (Oliver-Smith, 1986; Fassin và Vasquez, 2005). Một yếu tố nữa cũng được phân tích là cách thức các xã hội diễn giải sự việc xảy ra, cho nó một ý nghĩa nào đó, tùy thuộc vào văn hóa của mình. Ở một góc nhìn khác hơn, một số tác giả còn tìm hiểu về các yếu tố khác nhau giải thích cho mức độ dễ bị tổn thương của một xã hội trong một hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định (Copans, 1975). Cuối cùng, một số tác giả còn đòi hỏi phải công nhận lợi ích của các nghiên cứu mà họ đã thực hiện nhằm hiểu rõ hơn và tính đến vai trò của bối cảnh địa phương cũng như quan điểm của chính các nạn nhân trong công tác quản lý thảm họa.

Trong mọi trường hợp, nhân học đều luôn gắn với con người, gắn với logic hành động và logic diễn giải của họ để hiểu được tính hợp lý, hiểu được các lý giải mang tính cá nhân hoặc văn hóa, các thách thức về quan hệ xã hội, quan hệ với đất đai lãnh thổ địa phương, với bản sắc và ký ức. Nhân học đặt mình sát gần hơn với trải nghiệm. Đó chính là những gì chúng ta sẽ phân tích tiếp theo qua một nghiên cứu trường hợp thực hiện với các nhóm xã hội khác nhau cùng tham gia giải quyết cuộc khủng hoảng cúm gia cầm xảy ra ở vùng La Dombes, Pháp vào mùa xuân năm 2006.

1.1.5. trường hợp dịch cúm gia cầm : huy động các lực lượng xã hội khác nhau, xác định và quản lý khủng hoảng

Trong quá khứ, lĩnh vực thú y thường chỉ được hiểu một cách rất đơn giản là kiểm soát bệnh tật ở vật nuôi để đảm bảo an toàn tại phạm vi địa phương hoặc quốc gia. Những sự cố xảy ra trong những năm gần đây (bệnh bò điên, lở mồm long móng, SARS, cúm gia cầm) đã gây nhiều tranh luận trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa. Hiển nhiên, các vấn đề liên quan đến thú y, y tế công cộng, thực phẩm và môi trường đang trở thành các vấn đề tương quan qua lại lẫn nhau. Cái nhìn đối với dịch bệnh vật nuôi cũng đã thay đổi. Các bệnh lây truyền từ động vật sang người đã trở thành một vấn đề được đề cập trong chính trị.

Thực tế, hiện có hai cách nhìn cùng tồn tại song song, một cách nhìn của chính trị nhà nước và một cách nhìn của các tổ chức quốc tế, một bên liên quan đến các tiêu chuẩn về vệ sinh dịch tễ và các biện pháp dự phòng, và một bên là các vấn đề chính trị, mỗi bên dẫn đến một cách tường thuật khác nhau. Bệnh dịch không chỉ đơn giản là quản lý quần thể, bằng các biện pháp đo lường, tính toán rủi ro; nó còn liên quan đến kinh nghiệm, cảm nhận và các hệ thống quan hệ tồn tại trong xã hội. Những yếu tố này có thể phát sinh căng thẳng giữa một bên là thực tế được các chuyên gia dịch tễ hoặc kinh tế làm cho trở nên khách quan và một bên là những cách hiểu khác nhau của người dân cũng như hành động của họ.

Quan điểm của tôi được phát triển trên cơ sở các yếu tố kinh nghiệm, cách nhìn nhận và hành động trong thực tiễn. Đây là một thời điểm thú vị đối với nhà dân tộc học, vì khi

Page 8: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD46

vi-rút đã thâm nhập vào thế giới con người, kiến thức, cách nhìn nhận và các cấp độ hành động sẽ lan truyền theo phạm vi dịch chuyển của các nhóm xã hội, các cộng đồng.

Các xã hội loài người khi đối mặt với bệnh tật luôn luôn có hai cơ chế tư duy: một mặt, xác định nguồn gốc căn bệnh và mặt khác cố gắng tránh xa căn bệnh đó. Cùng với các bệnh lây truyền từ động vật sang người, vấn đề này càng đặt ra gay gắt, vì nó dẫn đến khả năng kết hợp xuyên-chủng loài khủng khiếp.

Ở Pháp, các chủ thể phản ứng khác nhau trước dịch cúm gia cầm xảy ra vào mùa xuân năm 2006 tại vùng Dombes. Những cách thức mà mọi người hiểu về bệnh cúm gia cầm đã hình thành nên những mối quan hệ đặc biệt giữa con người với con người, giữa con người với các loài động vật và rộng hơn nữa là với môi trường. Loài vật nào và những người nào người ta muốn bảo vệ, loài vật nào người ta muốn tránh xa để bảo vệ sự an toàn cho bản thân? Trong mọi trường hợp, nguồn gốc vi-rút được xác định xa bản thân nhất có thể, giống như một hình ảnh khác của bản thể. Đây sẽ là ý tưởng xuyên suốt trong phần tiếp theo, tôi sẽ phân tích các logic cũng như phản ứng khác nhau của hai cộng đồng, cộng đồng người chăn nuôi nông thôn và cộng đồng người dân đô thị tham gia vào công việc bảo vệ môi trường và vật nuôi.

Logic của những người chăn nuôi ở nông thôn

Dombes là một vùng có khí hậu ẩm, nằm ở phía Bắc thành phố Lyon, miền Tây nước Pháp, không xa biên giới với Thụy Sĩ. Vùng này có nhiều ao hồ, được sử dụng để nuôi cá và là nơi săn bắn các loài thú hoang sinh sống ở các vùng đầm lầy, đây cũng là nơi hàng năm có các đàn chim di trú bay qua. Nghề chăn nuôi gia cầm ở đây chủ yếu là nuôi ở sân nhà,

nhưng mỗi xã cũng đều có một hoặc hai trang trại lớn nằm cách xa các khu dân cư. Khi  vi-rút H5N1 xuất hiện ở một trang  trại nuôi gà tây theo hình thức công nghiệp và lây sang các loài chim trời sống ở các vùng đầm lầy lân cận (hàng trăm con ngỗng và vịt trời), cả vùng đã bị đặt dưới các biện pháp kiểm dịch gắt gao khiến cho vùng phải chịu những thiệt hại kinh tế nghiêm trọng trong khoảng thời gian gần sáu tháng (Xem Bản đồ 2).

Toàn bộ các hoạt động trong đời sống địa phương bị ảnh hưởng, hoạt động du lịch giảm sút, các địa điểm săn bắt, thu nhập từ các ao cá và thu nhập từ nông nghiệp cũng đều bị giảm sút sau khi các hàng rào chắn được dựng ra để cách ly ổ dịch, sau khi có lệnh cấm tiếp cận với 2.000 ao hồ, đầm lầy trong vùng, cũng như lệnh tiêu hủy các loài gia cầm và gia súc nuôi ngoài trời, ngoài ra việc buôn bán các sản phẩm từ gia cầm cũng bị đình trệ (Manceron, 2009).

Người ta e ngại kinh tế vùng có thể bị tê liệt nếu như tình hình cứ tiếp tục kéo dài và điều này dẫn đến làn sóng chỉ trích các biện pháp y tế áp dụng tại địa phương. Người ta cho rằng chính các biện pháp đó còn gây ra nhiều tổn hại hơn bản thân dịch cúm, một điều đáng nói hơn nữa là các phương tiện mà chính quyền đưa ra để kiểm soát dịch bệnh đã không được người dân ủng hộ. Vấn đề chủ yếu là các biện pháp vệ sinh dịch tễ, vì không áp dụng được đối với từng cá nhân nên được áp dụng trên quy mô không gian và cộng đồng rộng hơn.

Phương thức quản lý bao quát trên quy mô rộng này làm mờ đi khái niệm con người, trong khi đó, đây lại là yếu tố được huy động đầu tiên, ngay khi người ta phải đối mặt với dịch bệnh xuất hiện. Cách quản lý như vậy cũng khiến cho cơ thể con người và động vật

Page 9: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 47

được đối xử như nhau, không có sự phân biệt, đều được coi là yếu tố tiếp nhận và có thể lan truyền vi-rút. Ranh giới giữa các loài bị vi-rút lây lan và những e ngại đối với sức khỏe bản thân mỗi cá nhân dường như đã bị làm tan loãng đi trước tính duy lý về mặt khoa học sinh học của các biện pháp được đưa ra áp dụng.

Điểm gây tranh cãi thứ hai liên quan đến việc phân định không rõ ràng giữa vùng có nguy cơ (cần phải được phòng dịch) và vùng nguy hiểm (cần phải được cách ly). Đương nhiên, ranh giới được đặt ra là để phân cách các

không gian, nhưng ranh giới đó cũng mặc định không gian đó được xếp vào loại nào. Trong thực tế, nó tạo ra sự đối lập giữa một bên là người bệnh (ở phía trong đường ranh) và người lành (ở phía ngoài đường ranh). Trong tưởng tượng của những người ở phía trong đường ranh, điều này dẫn tới nhiều hình thức kỳ thị từ phía ngoài. Việc xác định các khu vực độ ẩm cao, nhiều đầm lầy là các khu vực có nguy cơ hoặc việc sử dụng cách nói vùng bị nhiễm thay vì nói là vùng có nguy cơ để bảo vệ các không gian và cộng đồng nằm ngoài đường ranh, tức là vẫn chưa bị nhiễm vi-rút, đã khiến những người ở trong

Vùng Dombes bị ảnh hưởng bởi dịch cúm gia cầm (h5n1) năm 2006 : phân vùng kiểm dịch và chống lây lan

Nguồn: Báo « Le Parisien » ngày 18 tháng 2 năm 2006.

2bản đồ

Joyeux (Ain) : trường hợpcúm gia cầm đầu tiên ở Pháp

Page 10: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD48

đường ranh có cảm giác bị mất giá, bị tẩy chay (Manceron, 2008).

Điểm gây tranh cãi thứ ba liên quan đến cách đối xử khác nhau đối với gia cầm nuôi nhốt và các loài chim hoang dã. Trong khi các đàn gà nuôi bị cách ly, hoặc tiêu hủy, kể cả những con lành, chưa nhiễm vi-rút, không có một biện pháp nào được áp dụng đối với các loài chim hoang dã có mang dịch, và chúng vẫn tự do bay lượn, vượt qua các vùng cách ly, phân của chúng vẫn tiếp tục reo rắc vi-rút tới những nơi chúng bay qua. Theo ý kiến của người chăn nuôi, các biện pháp kiểm dịch được đem áp dụng đã đảo ngược trật tự lợi ích, tập trung quan tâm nhiều đến môi trường hơn là đến con người.

Những người hiểu theo cách này công khai cho rằng chính các loài chim hoang dã mới là nơi phát ra ổ dịch. Cách thức quy trách nhiệm này chỉ nên hiểu một cách tương đối trong bối cảnh hệ thống xã hội ở một giai đoạn nhất định nào đó. Trong trường hợp dịch cúm gia cầm xảy ra ở Dombes trong những năm 50, người ta cho rằng nguyên nhân phát tán dịch là do chu trình buôn bán gà con một ngày tuổi từ xã này sang xã khác. Trong đợt dịch lần này, nguyên nhân lại không phải như vậy. Việc lây lan bệnh giữa gia cầm nuôi nhốt và các loài chim trời đã dẫn đến việc người ta có thêm một khả năng nữa trong việc tìm kiếm nguyên nhân giải thích phù hợp. Và nguyên nhân này được người ta công nhận, là bởi nó hiện thực hóa các vấn đề xã hội-môi trường và phù hợp với cách nghĩ trong các xã hội nông thôn đương đại.

Ở Dombes, việc phân biệt gia cầm hoang/gia cầm nuôi xuất hiện ngay trong những câu chuyện lịch sử hình thành của địa phương và là một trong những chất nền cho sự hình thành và phát triển của xã hội tại đây. « Văn

hóa » ở đây là khai thác môi trường tự nhiên một cách duy ý chí, đặc biệt là nuôi trồng ở các khu vực ao hồ đầm nước để tránh tình trạng nước đọng ao tù, cây cỏ mọc tự nhiên hoang dã và các loài vật có hại phát triển, vì tình trạng này có thể dẫn tới sự phát triển của dịch bệnh và gây rối loạn xã hội. Ý muốn bảo vệ đa dạng sinh học ở các vùng ngập nước như vậy đã bị coi là gây rối loạn nghiêm trọng môi trường sinh thái tại địa phương.

Trong bối cảnh đó, dịch cúm gia cầm xảy ra vài tháng sau khi một chương trình bảo vệ môi trường khắt khe được khởi động không thể coi là một việc ngẫu nhiên. Môi trường tự nhiên mang đầy những độc hại, và các loài vật gây hại, có thể truyền bệnh như thiên nga đã phát triển nhanh chóng, vượt quá khả năng kiểm soát của con người.

Nói cách khác, thiên nga là loài vật được đặt dưới sự bảo vệ của các quy định bảo vệ môi trường lại cũng là loài mang vi-rút cúm gia cầm, trong khi những người nông dân chăm sóc các loại gia cầm nuôi và đảm bảo khai thác được lợi ích của môi trường tự nhiên thông qua hoạt động nuôi trồng lại bị nhìn nhận một cách tiêu cực, thậm chí còn bị đánh giá xấu trong công việc nhân bản hóa và xã hội hóa thế giới của mình.

H5N1 là một thực thể có ý nghĩa trong một hệ thống các tham chiếu xã hội đặc thù. Trước logic là dịch bệnh có thể lây lan, người ta thực hiện sắp xếp và lập lại trật tự cho các phân loại vốn trước đó đã bị phá vỡ ở địa phương. Người ta tiến hành phân biệt các loài thuộc họ lông vũ, tùy theo dạng quan hệ cũng như khoảng cách với từng loài. Chẳng hạn, thiên nga là một loài vật mang tính trang trí ở thành phố được xếp giống như gà nhà ở nông thôn hoặc được coi là một loại thủy cầm vốn cũng rất quen thuộc mặc dù sống

Page 11: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 49

hoang dã trong thiên nhiên, tương tự như việc bảo vệ môi trường sinh thái được quy cho sản xuất nông nghiệp và gắn với những gì mang tính nông thôn.

Vi-rút cúm xâm nhập từ môi trường và một phần từ cộng đồng. Một sự kiện mang tính môi trường sinh thái thực ra luôn luôn có một phần mang tính chính trị. Khi tìm hiểu ý nghĩa của tai họa xảy ra, người ta cũng đưa ra và bảo vệ ý tưởng của mỗi người về sự khác biệt của bản thân, về chỗ đứng của mình trong cộng đồng, nhưng ngày nay, chỗ đứng này có liên quan rất chặt chẽ với những mối quan hệ mà cá nhân có hoặc không có với môi trường tự nhiên, và với những thực thể phi con người, kể cả các loại vi-rút (Xem Ảnh 1).

Logic của những người hoạt động môi trường

Chăn nuôi động vật tức là đặt mối quan hệ vào trong logic bảo vệ và chăm sóc. Ngoài những thiệt hại về kinh tế, bất kỳ một trường hợp gia cầm nào bị chết hay bị bệnh cũng bị coi là một thất bại đối với người chăn nuôi, thất bại trên phương diện kinh nghiệm và kỹ thuật chăn nuôi. Khi có sự can thiệp của cơ quan thú y, đột nhiên họ thấy mình bị tước mất phương tiện hành động. Logic dịch tễ học xét về một mặt nào đó thường là bịt mắt bịt tai trước ý kiến của những người chăn nuôi cũng như những kiến thức họ tích lũy được qua kinh nghiệm chăn nuôi của mình.

Cách diễn giải theo kiểu nông thôn: vi-rút do các loài chim trời phát tán

Ảnh: Vanessa Manceron.

1ảnh

Page 12: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD50

Bên cạnh đó, họ còn phải đối mặt với trách nhiệm nặng nề: đảm bảo sức khỏe cộng đồng, hay nói cách khác là không được làm hại tới sức khỏe của những người xung quanh. Xã hội nói chung đòi hỏi họ phải hiểu và chịu trách nhiệm về những gì họ làm. Những trường hợp khủng hoảng y tế đã xảy ra càng làm cho trách nhiệm này của họ thêm nặng nề, thậm chí còn làm nảy sinh cả tâm lý nghi ngờ và dè chừng.

Dư luận sau khủng hoảng y tế có vẻ như đi liền với những chỉ trích ngày càng mạnh mẽ đối với hình thức chăn nuôi công nghiệp. Những ý kiến chỉ trích này xuất hiện chủ yếu từ những mạng lưới hoạt động môi trường hoặc những người phản đối chăn nuôi công nghiệp, và thường có ở các khu vực thành thị. Xu hướng chung là coi chăn nuôi gà công nghiệp là nguồn gốc dẫn đến dịch bệnh, ngoài ra họ cũng quy cho thói quen của con người. Dịch bệnh không thực sự có trong môi trường thiên nhiên. Nó xuất phát từ quan hệ có nhiều vấn đề và mang tính hoang dã (hiểu theo nghĩa ngoại lai, xa lạ) của con người với thiên nhiên và các loài vật, ngoài ra còn có thêm sự tiếp tay của hệ thống tư bản chủ nghĩa tự do.

Có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ  nhất, nhấn mạnh vào yếu tố tự nhiên, là  của những người phản đối công nghiệp hóa chăn nuôi, họ phân biệt rạch ròi thiên  nhiên/nhân tạo. Quan điểm thứ hai, thiểu số hơn, là của những người phản đối việc chăn nuôi trong những điều kiện tồi tệ và việc giết  động  vật. Quan điểm thứ hai này tập  trung vào bản thân con vật và được đặt trong cặp đối lập giữa một bên là thống trị/bạo lực và một bên là đồng cảm/coi trọng. Cả hai quan điểm này đều có liên quan đến đạo đức chính trị, và gắn với một mối

quan hệ cụ thể và thường nhật với các loài vật nuôi.

Trong trường hợp thứ nhất, những người hoạt động môi trường chỉ trích chính sách nuôi nhốt tập trung và cách ly các con vật theo khuyến cáo của các cơ quan thú y và cho rằng điều kiện nuôi nhốt và tiêu chuẩn công nghiệp sẽ là thành trì vững chắc nhất ngăn ngừa vi-rút lây lan. Việc thuần hóa quá mức bằng nuôi nhốt tập trung được biện hộ bằng các lập luận về vệ sinh dịch tễ, và ảnh hưởng xấu đến việc chăn thả tự nhiên vốn « thiên nhiên » hơn nhưng lại bị hy sinh một cách bất công. Những người theo quan điểm này cho rằng nếu ủng hộ việc chăn thả tự nhiên sẽ là không đúng vì nhiều lẽ: làm tăng sự bất bình đẳng giữa những người nuôi, giữa các quốc gia (công bằng xã hội); quảng bá cho một mô hình chăn nuôi với những điều kiện lý tưởng cho việc xuất hiện và lây truyền vi-rút; chỉ ủng hộ những lợi ích về kinh tế cho ngành chăn nuôi mà không quan tâm đến chất lượng môi trường, vốn là yếu tố đảm bảo sức khỏe về lâu dài cho người tiêu dùng.

Quan điểm theo trường phái tự nhiên ngầm gắn dịch bệnh (vật nuôi và con người) cho việc nhân tạo hóa quan hệ của con người với môi trường sống. Những con vật bị thuần hóa, bị biến thành đồ vật vì mục đích kinh tế của con người đã bị « ngã bệnh ». Và đặc điểm tự nhiên vốn có của chúng nhưng bị con người bỏ quên, khinh rẻ đã quay trở lại như một hiệu ứng boomerang nhắm vào con người dưới dạng vi-rút lây truyền không kiểm soát được. Nguồn gốc của dịch bệnh không thể chỉ tồn tại trong thiên nhiên hoang dã hay không chỉ đơn thuần là do thuần hóa. Nó  xuất phát từ các con vật bị biến thành nhân tạo, không thể ăn được cũng không thể tiếp xúc được, vì chúng đã trở nên hoàn

Page 13: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 51

toàn xa lạ với sự tiếp nối tự nhiên vốn là một giá trị thân thiết của những người hoạt động môi trường nhưng bị kỹ thuật chăn nuôi làm đứt gãy. Đe dọa của vi-rút nằm ở sự dã man đối với các loài vật nuôi. Chính vì vậy, phải thiết lập lại ranh giới giữa thiên nhiên và nhân tạo, làm điều đó để khuyến khích một mối quan hệ bớt sự can thiệp của con người với động vật, nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh từ chính việc con người xâm phạm vào nguyên tắc này trong quan hệ của mình với thiên nhiên.

Logic của những người bảo vệ động vật

Trong trường hợp thứ hai, phản đối xuất phát từ một nhóm xã hội đấu tranh cho việc bảo vệ vật nuôi, nhằm đảm bảo cho chúng được nuôi trong điều kiện dễ chịu, hoặc chấm dứt tình trạng vật nuôi bị con người thống trị và bị giết lấy thịt. Dịch bệnh vật nuôi được gán thẳng cho tính bạo lực trong quan hệ thuần hóa giữa vật nuôi và con người. Người ta phản đối việc nuôi nhốt động vật trong những điều kiện tồi tệ, bị đối xử dã man, khiến chúng sợ hãi và những đau đớn mà chúng phải chịu khi bị giết thịt. Ở đây, có nghịch lý trong định nghĩa về chăn nuôi, tức là có sự nghịch lý giữa chăm sóc và nuôi sống vật nuôi và khiến chúng mắc bệnh hoặc giết thịt chúng. Dịch cúm gia cầm, xét về một mặt nào đó, chính là hình ảnh đại diện nhìn thấy trước được về nỗi kinh hoàng trong chăn nuôi nói chung, nỗi kinh hoàng mà không ai mảy may lo lắng, trừ phi có dịch bệnh xảy ra.

Phản ứng trước dịch cúm gia cầm như vậy cũng có hai mặt và mang tính đôi chiều : một mặt, một số nhóm có tư tưởng cải cách nhiều hơn thì coi dịch cúm xảy ra như là một loại « bệnh tâm thần » lấy con người làm trung tâm, tạo ra một kịch phát và thường chẳng có lợi ích gì với sự đau đớn của các con vật.

Người ta nhắc đến những nỗi sợ hãi vô căn cứ của con người, khiến họ phản ứng bằng việc bỏ rơi cả các thú cưng như mèo; những lý  do thực dụng như vậy cũng là nguyên nhân khiến chính quyền tìm cách giết bớt chim bồ câu hoặc người dân nông thôn tấn công cả các loài nằm trong danh sách cần bảo vệ. Cuối cùng, việc tiêu hủy dã man các loài gia cầm với số lượng lớn, ồ ạt có lẽ là kết quả từ sự vô trách nhiệm của các cơ quan quản lý phương Tây, những người chỉ quan tâm đến việc mua khẩu trang mặt nạ bảo vệ và vắc-xin phòng bệnh mà bỏ qua các biện pháp phòng ngừa bằng cách cải thiện điều kiện y tế ở phương Đông.

Mặt khác, một số nhóm cấp tiến hơn, phản đối việc chăn nuôi lấy thịt, và có các lý do mang tính chiến lược và lý tưởng đã nhắc đến dịch cúm gia cầm như một sự kiện đánh dấu ngày tận thế: « chúng ta rồi sẽ chết hết, nếu các bạn không ngừng ăn thịt ! ». Sự đau đớn và việc tiêu hủy ồ ạt vật nuôi do dịch bệnh, dù gây phẫn nộ đến thế nào, cũng là tín hiệu của một tương lai tốt đẹp hơn, cứ như thể giấc mơ về một thế giới không có nuôi nhốt, không có giết thịt các con vật chưa bao giờ gần gũi đến thế. Vi-rút H5N1 đã làm lung lay cả một hệ thống chăn nuôi, cả về kinh tế và đạo đức. Vi-rút H5N1 đã dẫn đến sự ra đời của lệnh cấm sử dụng các con vịt sống để săn bắn và đã làm suy yếu các trang trại nuôi vịt hoang ngoài trời. Vi-rút H5N1 đã dẫn đến việc áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn đối với hoạt động buôn lậu các loại chim nhập khẩu, đóng cửa các công viên và chợ kinh doanh chim cảnh, cấm chọi gà, gây khó khăn cho các vườn thú... Vi-rút H5N1 đã tạm thời thực hiện được những gì mà những người theo trường phái đấu tranh phải rất vất vả mới có thể gây được sự chú ý từ dư luận.

Page 14: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD52

Khác với hai quan điểm đã trình bày ở trên, quan điểm của những người theo trường phái bảo vệ động vật không có sự phân biệt giữa các loài vật. Những người theo quan điểm này thiết lập một hình thức gần bản thể với sự cai trị của những cái phi con người, vốn không liên quan tới việc thuần chủng hay thiên nhiên hóa môi trường mà liên quan nhiều hơn tới sự đồng cảm, tới lòng thương đối với loài vật. Có thể thấy rằng, quan niệm về vi-rút ngày càng cách xa với những giá trị tham chiếu về sinh học và tiến gần hơn tới những tham chiếu mang tính đạo đức, vi-rút xuất hiện được coi như một tác nhân thể hiện sự trả thù của thiên nhiên trước sự dã

man của con người. Vi-rút « hoang dã » chỉ có thể xuất phát từ chính con người, do con người mà ra. Và khác với hai quan điểm trên, ở quan điểm này, đó không phải bởi những người khác nhận ra ý tưởng mà mỗi người có về thiên nhiên, mà bởi các loài vật và môi trường, cũng như con người, không phải là thuần hóa hay doang dã, không phải là tự nhiên hay nhân tạo, chỉ đơn giản bởi vì chúng là những sinh vật sống.

Kết luận

Các quan niệm xã hội về vi-rút H5N1 như vậy không nằm trong cùng một hệ thống các giá trị tham chiếu.

bảng tóm tắt ba cách hiểu đối với nguồn gốc vi-rút và công tác quản lý khủng hoảng y tế

Nguồn: tác giả.

1bảng

Cách nhìn nông thôn Cách nhìn môi trường Cách nhìn thú yNguồn vi-rút Động vật hoang dã

và động vật xâm lấn (ngoại lai)

Vật nuôi công nghiệp và chu trình buôn bán (tạo tác)

Vật nuôi bị nhốt (điều kiện chăn nuôi ngược đãi)

Phân loại Ngoại lai/địa phươngHoang dã/nuôi nhà

Tự nhiên/nhân tạo Độc ác/đồng cảm

Rối loạn Rối loạn trong môi trườngXung đột môi trường

Rối loạn trong các trang trại Tranh cãi kỹ thuật

Rối loạn trong quan hệ con người-vật nuôi Tranh luận về đạo đức

Yếu tố xã hội Các nhà hoạt động môi trường

Công nghiệp và các công ty chăn nuôi tư bản

Sản xuất và tiêu dùng thịt gia cầm

Những phản ứng đối với công tác quản lý y tế

- Chiếm hữu lãnh thổ- Tước mất phương tiện

hành động- Kỳ thị- Đảo ngược về lợi ích

(gà nhà/thiên nga; thực thể con người/phi con người)

- Việc nuôi nhốt phục vụ cho hệ thống chăn nuôi công nghiệp

- Những hộ chăn nuôi nhỏ bị hy sinh

- Đảo ngược về lợi ích (gà nhân tạo/ gà tự nhiên)

- Tăng sự chịu đựng đau đớn và cái chết của vật nuôi

- Quản lý y tế chưa thông suốt ở châu Á

- Ngày tận thế : khủng hoảng ngành chăn nuôi

Page 15: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 53

Mức độ hợp lý thay đổi rất nhiều tùy theo các loại quan hệ cũng như những giá trị quy chiếu trong mối quan hệ giữa con người với các loài vật và môi trường thiên nhiên. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, nguồn gốc của vi-rút được quy cho thế giới của sự khác biệt, của người khác, cứ như thể làm như vậy sẽ giữ được khoảng cách với vi-rút, và nhất là bởi dịch bệnh xảy ra sẽ đặt ra nhiều vấn đề về vị trí của con người trong thế giới của mình cũng như trong thế giới của các loài vật. Mỗi khi như vậy, người ta lại đòi hỏi phải xác lập ranh giới và sự tiếp nối giữa con người với các loài vật và với môi trường thiên nhiên để có thể tái thiết lập một số trật tự đã có trong thế giới của xã hội con người và thế giới thiên nhiên nhưng đã bị xáo trộn, và đó là những trật tự phù hợp trong một bối cảnh xã hội, lịch sử nhất định.

Danh mục tham khảo chọn lọc

AUGE M., et C. HERZLICH (1984), Le sens du mal. Anthropologie, histoire, sociologie de la maladie, Montreux, Editions de Archives européennes.

BANKOFF, G. (2003), Cultures of Disaster. Society and natural hazard in the Philippines, London, Routledge.

BENSA A., et E. FASSIN (2002), « Les sciences sociales face à l’événement », Terrain, 38, pp. 5-20.

BECK, U. (2001), La société du risque : sur la voie d’une autre modernité, Paris, Flammarion.

BOTTERO, J. (1974), « Symptômes, signes, écritures en Mésopotamie ancienne  », in J-P.  VERNANT, L. VANDERMEERSCH, J.  GERNET, R. CRAHAY, L. BRISSON, J.  CARLIER, D. GRODZYNSKI, A. RETEL-LAURENTIN (ed.), Divination et rationalité. Paris, Ed. Du Seuil, Collection « Recherches Anthropologiques », pp. 70-197.

CALLON M., LASCOUMES P., et Y. BARTHES (2001), Agir dans un monde incertain. Essai sur  la démocratie technique, Paris, Ed. du Seuil.

CHATEAURAYNAUD F., et D. TORNY (1999), Les sombres précurseurs. Une sociologie pragmatique de l’alerte et du risque, Paris, EHESS.

COPANS, J. (1975), Sécheresses et famines du Sahel, Paris, Maspero.

DOUGLAS M., et A. WILDAVSKY (1982), Risk and Culture: An Essay on the Selection of Technical and Environmental Dangers, Berkeley, University of California Press.

DUCLOS, D. (1996), « Puissance et faiblesse du concept de risque », L’année sociologique, 46 (2), pp. 309-337.

EVANS-PRITCHARD, E.E. (1968), Les Nuer. Description des mode de vie et des institutions politiques, Paris, Gallimard.

EWALD, F. (1986), L’État providence, Paris, Grasset et Fasquelle.

FASSIN D., et P. VASQUEZ (2005), «  Humanitarian exeption as the rule : The political theology of the 1999 Tragedia in Venezuela », American Ethnologist, 32 (3), pp. 389-455.

FIRTH, R. (1959), Social Change in Tikopia, New-York, Macmillan.

GIDDENS, A. (1994), Les conséquences de la modernité. Paris, l’Harmattan, Collection « Théorie sociale contemporaine ».

GILBERT C. (ed), (2002), Risques collectifs et situation de crise : Apports de la recherche en Sciences Sociales, Paris, L’Harmattan.

HEWITT K. (ed.), (1983), Interpretation of Calamity, Boston, Alen and Unwin.

HOFFMAN S., et A. OLIVER-SMITH (ed.), (2002), Catastrophe and Culture. The Anthropology of Disaster, Santa Fe, School of American Research.

Page 16: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD54

KECK F., et A. LAKOFF (ed.), (2013), « Sentinel Devices », LIMN, number 3.

LANGUMIER J., et S. REVET (2011), « Une ethnographie des catastrophes est-elle possible? Coulées de boue au Venezuela et en France », in B. Glowczewski et A. Soucaille (ed.) Désastres, Paris, Ed. De l’Herne, Cahiers d’Anthropologie Sociale n° 7, pp. 77-90.

LYOTARD, J-F. (1979), La condition post-moderne, Paris, Ed. Minuit.

MANCERON, V. (2008), « Les oiseaux de l’infortune et la géographie sanitaire : la Dombes et la grippe aviaire ». Terrain, 51, pp.160-173.

MANCERON, V. (2009), « Grippe aviaire et disputes contagieuses. La Dombes dans la tourmente », Ethnologie Française, XXXIX, 1, pp. 57-68.

MAUCH C., et C. PFISTER (ed.), (2009), Natural Disasters, Cultural Responses: Case Studies Toward a Global Environmental History, Lanham, Lexington Books.

NEYRAT, F. (2008), Biopolitique des catas-trophes, Paris, Musica Falsa Editions.

PERETTI-WATEL, P. (2001), La société du risque, Paris, Ed. La découverte, Collection « Repères ».

REVET S. et J. LANGUMIER (ed.), (2013), Le  gouvernement des catastrophes, Paris, Ed. Karthala.

OLIVER-SMITH, A. (1996), « Anthropological Research on Hazards and Disasters », Annual Review of Anthropology, 25, pp. 303-328.

OLIVER-SMITH, A. (1986), The Martyred City. Death and Rebirth in the Ande, Albuquerque, University of New Mexico Press.

ZONABEND, F. (1989), La presqu’île au nucléaire, Paris, Ed. Odile Jacob.

thảo luận…

Alexis Drogoul, iRD

Tôi không thấy nhắc đến yếu tố thông tin và phổ biến thông tin. Tuy nhiên, tôi thấy một trong những đặc điểm quan trọng của xã hội hiện đại của chúng ta ngày nay, hay ít nhất là của con người hiện đại là lượng thông tin phổ biến hiện tăng theo cấp số nhân, và luôn được phổ biến ngay lập tức nhờ mạng Internet. Theo chị, đâu là ảnh hưởng của lượng thông tin khổng lồ và ồ ạt này tới vấn đề nhận thức về rủi ro ?

Stéphane Cartier, CnRS

Cám ơn chị đã chỉ cho thấy một dấu hiệu xấu có thể là dấu hiệu của tai họa, song cũng có thể là dấu hiệu xác định bản sắc của các cộng đồng hoặc nhóm xã hội. Chị có thể giải thích người dân có thể quay trở lại cuộc sống bình thường như thế nào, hoặc điều đó có thể làm biến đổi xã hội của họ cũng như các mối quan hệ trong đó ?

Vanessa Manceron

Nói chung mọi người không cần thiết phải tiếp cận với cùng một thông tin. Khi chúng tôi chuyện trò với chủ trang trại chăn nuôi, họ  nói là họ có thông tin từ ti vi ngay cả trước khi họ biết về việc vi-rút đã lây sang địa phương họ. Ông thị trưởng đã được thông tin như vậy! Họ đã rất sốc trước việc bị tước mất các phương tiện hành động để chủ động ứng phó với thực tế. Cách tuyên truyền thông tin như vậy tạo ra một sự thiếu tin tưởng vô cùng lớn. Người ta có thể xì xầm bàn tán về bất cứ điều gì, theo bất cứ hướng nào. Và những rủi ro xảy ra lại trở thành một mảnh đất màu mỡ cho các trò chơi chính trị: người ta không còn chỉ giới hạn ở phạm vi địa phương, không còn là chuyện của riêng chúng ta, giữa  chúng ta với nhau nữa. Để

Page 17: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 55

những đòi hỏi của mình được nghe thấy trên phạm vi quốc gia hay quốc tế thì rõ ràng các rủi ro xảy đến là một cơ hội tuyệt vời để làm điều đó. Thực tế, thông tin lan truyền đi cũng là một cách để làm cho mình được biết đến, là một cách để nhìn ra thế giới hoặc để bảo vệ những đặc thù của mình, hoặc để khiến cho một tai họa hay một cách nhìn thế giới của mình được lắng nghe. Đây là một thách thức thời đại : chúng tôi là những người chăn nuôi, chúng tôi có kinh nghiệm của mình về các vấn đề dịch bệnh này, và không có lý do gì mà những người chăn nuôi đó lại không có trọng lượng gì trong các vấn đề thuộc quyền của những cơ quan quyền lực về quản lý hành chính.

Alexis Drogoul, iRD

Khi nghiên cứu về những rủi ro đã xảy ra, ngày nay chúng ta nhận thấy có rất nhiều quan điểm khác nhau đã được bày tỏ một cách hoàn toàn bột phát. Thậm chí các quan điểm đó hoàn toàn đối kháng nhau, quan điểm nào cũng đòi hỏi phải có chỗ đứng và tính chính danh trong không gian tranh luận thế giới.

Trường hợp thảm họa xảy ra ở Fukushima, Nhật Bản, rất in thông tin chính thống lọt ra, trong khi trên các trang Facebook cá nhân của  những người có mặt tại chỗ thì tin tức được cập nhật từng phút tại hiện trường. Liệu điều này có làm thay đổi chút nào nhận thức về rủi ro của mọi người?

Vanessa Manceron

Giống như một vở kịch được dựng tại chỗ. Đó là thông tin tức thời nhưng cũng là trải nghiệm thực tế của người đưa tin, ít nhất đó cũng là trải nghiệm của chính những người dân là nạn nhân của thảm họa, đó là việc của cá nhân họ, nhưng đồng thời cũng là việc đặt trong mối quan hệ với chính quyền địa

phương. Với việc chia sẻ thông tin tức thời như vậy, tôi thấy họ có cảm giác đang thuộc về thế giới chung của những người chịu thảm họa, tựa như thuộc về một không gian địa lý đang dần thu hẹp lại. Sự việc xảy ra ở Dombes có thể có tác động ở Hồng Kông, những khoảng cách địa lý bị thu hẹp mới đặt ra nhiều vấn đề. Vi-rút xuất hiện ở châu Á và bị phát tán đến tận Dombes cũng làm nảy sinh các câu hỏi về bản sắc, về bản thể vì thông tin hiện nay được lan truyền ngay lập tức, khiến cho các câu chuyện trải nghiệm, những kinh nghiệm khác nhau ở mỗi nơi trở nên gần nhau hơn. Nhưng đồng thời, tôi tin là điều đó cũng tạo ra một thế giới chung.

Tại Dombes, rất nhiều người đã so sánh thời gian cách ly cúm gia cầm với giai đoạn chiếm đóng thời kỳ chiến tranh. Đã có nhiều ý kiến về vai trò của hiến binh, những người vừa làm nhiệm vụ giám sát, bảo vệ sức khỏe người dân, nhưng đồng thời cũng có vai trò ngăn ngừa những hành động phản đối nếu có. Phạm vi cách ly cũng bị nhìn nhận theo nhiều cách: những người ở phía trong ranh giới cách ly bị kỳ thị một cách bất công. Có người còn không muốn lộ diện ở rach giới khu vực cách ly và không cách ly để đỡ bị nhận mặt và bị kỳ thị. Có người còn cho rằng lập ra ranh giới cách ly khác nào coi con người và các loại gia cầm cùng một ruộc – « Chúng tôi bị nhốt như lũ vịt trong chuồng ».

Việc quay trở lại cuộc sống bình thường cũng rất khó khăn. Dịch cúm gia cầm những năm 1950 chỉ xảy ra ở phạm vi hẹp của một vài trang trại, cũng chỉ liên quan đến việc mua bán con giống một ngày tuổi chứ không phải do các loài chim trời sống trong môi trường tự nhiên. Công tác quản lý dịch cũng chỉ giới hạn ở phạm vi địa phương, tóm lại đây chỉ là một trường hợp dịch bệnh vật nuôi thông thường. Người dân cũng đã quen với những trường hợp như vậy.

Page 18: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ] Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD56

Tuy nhiên, dịch bệnh lần này liên quan đến cả các vấn đề chính trị và xã hội, nó không chỉ là một bất ổn có nguồn gốc thuần túy từ thiên nhiên. Thay đổi cấp độ và bản chất, người ta sợ hãi khi phải bước ra khỏi phạm vi hoàn toàn địa phương. Điều này khiến họ nghĩ đến một tương lai định hình mà ở đó, yếu tố địa phương sẽ phải nhường chỗ cho yếu tố toàn cầu mà đại diện là thuyết môi trường chủ nghĩa. Tác động địa phương không phải là thật rõ rệt, có thể cảm nhận được, nhưng đối với tâm lý người dân, nó cũng đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử, thậm chí có thể nói là họ đã thay đổi thế giới.

nguyễn tú, học viện Khoa học xã hội thành phố hồ Chí Minh

Đâu là vai trò của chính phủ trong giải quyết xung đột giữa các nhóm xã hội? Thông tin hiện nay rất khó kiểm soát, nhất là thông tin trên mạng: nếu chính phủ không có biện pháp phù hợp, làm sao có thể đảm bảo ổn định và lòng tin cho mọi người?

Jean-pascal torréton

Thường thông tin trái ngược là do thiếu sự tin tưởng vào quy trình khoa học, người ta cho rằng nghiên cứu khoa học chỉ để hỗ trợ cho phát ngôn của một cơ quan quyền lực chính thức.

Liệu có ví dụ nào về sự thành công trong việc tuyên truyền thông tin hậu khủng hoảng, tức là những thông tin giúp hòa giải những quan điểm xung đột hoặc chí ít cũng giúp rút ra được những thông tin chính xác từ những nguồn bột phát, nhất thời?

Yves Le bars

Những phân tích mang tính chất nhân học của chị đã làm thay đổi sự việc ở cấp độ địa phương như thế nào? Trong tình huống như

vậy, việc đánh giá hiện tượng không phải là trung lập, khách quan: nó phải dựa trên diễn biến của chính hiện tượng đó. Chị đã nhận được yêu cầu đến tận nơi, vậy tác động của điều đó là gì ? Điều đó có đặt ra các vấn đề về đạo đức nghề nghiệp và phương pháp đánh giá hay không?

Vanessa Manceron

Quan hệ giữa một thông tin không thể kiểm soát, những xung đột, sự bất ổn xã hội và những giải pháp của chính phủ phụ thuộc vào thang độ phân tích. Chính phủ Pháp sẽ không can thiệp vào việc quản lý, giải quyết xung đột giữa những người chăn nuôi và những người hoạt động về môi trường. Tuy nhiên, lúc nãy tôi có nhắc đến quy định cần phải tiêu hủy 100 con thiên nga, việc thương lượng liên quan đến con số này có sự tham gia của các bên bao gồm:

- Chính quyền địa phương với đại diện là ông chủ tịch chính quyền vùng. Phạm vi thẩm quyền của ông này thay đổi tùy theo các cấp khác nhau;

- Cơ quan quản lý thú y, trong trường hợp có khủng hoảng, thẩm quyền của cơ quan này là rất lớn. Cơ quan này sẽ là trung gian giữa một bên là chính phủ và một bên là người  dân địa phương, để thực hiện các biện pháp chính phủ đưa ra nhưng đồng thời cũng là cái đệm. Các cơ quan này sẽ đứng ra giải quyết với người dân địa phương nhằm đưa ra được một số những điều chỉnh nhỏ trong quy định của chính phủ cho phù hợp với thực tế ở địa phương, giúp giải quyết hoặc tháo gỡ những xung đột có thể có và giảm bớt căng  thẳng. Chẳng hạn, tác động tuyên truyền là rất lớn khi Dominique de Villepin đến thăm một trang trại và dùng bữa với món đùi gà, điều này giúp cho người dân thấy an

Page 19: 1.1. Các quan niệm xã hội về rủi ro: một số cách sử dụng ... · mà mỗi xã hội đưa ra để giải thích các hiện tượng, nắm bắt được chúng

[ ]Tháng 07 năm 2014 / Khóa học Tam Đảo 2013 / © AFD 57

tâm, và đây cũng là một biện pháp tuyên truyền cho việc áp dụng các biện pháp để trấn an người dân khỏi những nỗi sợ hãi không đáng có. Người ta tìm cách phổ biến một kiến thức khoa học bằng cách dựng kịch bản và phát trên truyền hình, và điều này làm những người chăn nuôi « cười rú lên ». Qua đó, có thể thấy, rối loạn về mặt xã hội luôn có trước khi xảy ra khủng hoảng, và nhìn chung khi xảy ra khủng hoảng thì tình trạng rối loạn đó sẽ được bộc lộ một cách rõ rệt hơn. Tuy nhiên, xã hội con người được rèn đúc qua xung đột, và xung đột là một dạng trong nhiều dạng quan hệ mà người ta không thể làm kinh tế trên đó. Một xung đột bản thân nó tự quản lý, tự xử lý trong sự hiểu biết lẫn nhau ở cấp độ địa phương, thông thường không cần đến sự can thiệp của các cơ quan chính quyền. Ngược lại, Nhà nước sẽ là một bộ phận hữu cơ khi hỗ trợ cho một chính sách bảo tồn góp phần gìn giữ không gian thiên nhiên, trong trường hợp đó, nhà nước sẽ là một chủ thể tham gia vào xung đột.

Việc thiếu tin tưởng vào những kiến thức công bố chính thức và việc tuyên truyền hậu khủng hoảng một cách hiệu quả đòi hỏi phải có một biện pháp truyền thông chính thức, có sự đồng thuận của các bên. Thế nhưng, theo ý kiến tôi, trong giai đoạn hậu khủng hoảng, cũng như trong giai đoạn trước và trong khủng hoảng, không có thông tin hoặc kiến thức khoa học nào có thể có được sự kết dính của tất cả mọi người. Đây là một thực tế xã hội không thể tránh khỏi.

Điều này chắc chắn đặt ra câu hỏi về vị trí của nhà nhân học. Tôi đã từng rơi vào những tình huống vô cùng phức tạp do những hiểu

biết về thực tế và thông lệ địa phương hoàn toàn trái ngược với những biện pháp cơ quan thú y khuyến cáo áp dụng. Ở giai đoạn bắt đầu khủng hoảng, người ta không biết liệu tất cả các trang trại chăn nuôi ở Dombes đều phải bị tiêu hủy hay không. Áp lực là vô cùng lớn. Địa phương chìm trong không khí thảm họa, chỗ nào cũng thấy các biển cấm - « Khu vực cấm », « Không lại gần », « Không ra khỏi nhà », « Hãy lau kính », « Hãy dùng găng tay và ủng », v.v. Những hành vi có nguy cơ không được phổ biến, phát tán. Tuy nhiên, cơ quan thú y không có đủ người để cấm các hành vi đó.

Đồng nghiệp của tôi làm việc tại châu Phi cũng rơi vào những tình huống khó khăn tương tự, chẳng hạn họ phải đóng vai trò cố vấn cho chính quyền và các cơ quan quản lý địa phương. Khi làm việc ở Dombes, tôi vẫn giữ được phương pháp tiếp cận khoa học vì hoàn cảnh vẫn cho phép tôi làm được điều đó, nhưng ở nhiều trường hợp khác, người ta còn yêu cầu các nhà nghiên cứu nhân học xác định xem đâu là những hành vi có vấn đề về mặt vệ sinh dịch tễ để tránh những khu vực có tiếp xúc. Điều này đặt ra vấn đề về đạo đức nghiên cứu vì nó dẫn đến những lệnh cấm và có tác động rất lớn về mặt xã hội đối với người dân địa phương, người dân địa phương sẽ buộc phải từ bỏ một số thói quen vốn có ý nghĩa với họ về mặt xã hội hoặc đó là những thói quen giúp họ tạo lập được nhiều quan hệ và xây dựng được nhiều giá trị về mặt xã hội. Người ta bị buộc vào một cái khuôn dưỡng khí với những chuẩn mực nhiều khi mâu thuẫn, trái ngược với những gì họ vẫn có hàng ngày, và vô hình chung người ta phải tham gia vào cái mà chúng ta gọi là chuẩn hóa mọi thứ.