31
[ ] Tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © AFD 33 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực trạng dưới góc nhìn đa ngành và lịch đại Jean-Luc Maurer, Viện nghiên cứu quốc tế và phát triển (IHEID) (Nội dung gỡ băng) Tôi xin cảm ơn Viện Khoa học xã hội Việt Nam và các cơ quan đối tác của Pháp là AFD, IRD, AUF, ÉFEO, Đại học Nantes – và đặc biệt cảm ơn Stéphane Lagrée, anh thực sự là trụ cột của Khóa học mùa hè Tam Đảo ngay từ năm đầu tiên sự kiện này được tổ chức. Cũng chính anh đã có lời mời tôi tham dự Khóa học mùa hè Tam Đảo lần thứ 5 năm nay. Lời mời tham gia Khóa học mùa hè về khoa học xã hội đã từ những năm trước, lý do là bởi từ gần mười năm nay hè nào tôi cũng sang giảng dạy trong thời gian từ 2 đến 3 tuần tại Việt Nam. Viện nghiên cứu nơi tôi công tác đang có một chương trình đào tạo bậc thạc sĩ về nghiên cứu phát triển. Chương trình giảng dạy được thực hiện một phần tại Hà Nội. Chủ đề của Khóa học mùa hè Tam Đảo năm nay liên quan rất nhiều đến lĩnh vực thuộc chuyên ngành của tôi. Vì tôi nghiên cứu về các chính sách phát triển châu Á và phần lớn các nghiên cứu của tôi đều được thực hiện ở Đông Nam Á, chủ yếu về Indonesia, ngoài ra cũng có nghiên cứu về Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, và Malaysia [1] . Do đó, tôi biết khá rõ thực tiễn của khu vực, có lẽ còn kỹ hơn cả hai nước quê hương tôi là Pháp và Thụy Sĩ! Bên cạnh đó, đều đặn nhiều năm nay, tôi cùng với các đồng nghiệp khác của Viện Nghiên cứu Phát triển Genève tham gia giảng dạy về các vấn đề liên quan đến bất bình đẳng xã hội. Tôi hy vọng những nội dung tôi trình bày sẽ mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới cho vấn đề cơ bản này. Khi chuẩn bị bài giảng này, tôi cũng có tham vọng trình bày một bài dẫn nhập giới thiệu một bức tranh tổng thể về chủ đề của chúng ta, nhưng tôi cũng hy vọng những nội dung trong bài giảng của tôi sẽ phục vụ cho việc [1] Trong tiếng Pháp, tên gọi Malaysia chỉ đất nước bao gồm các đảo nằm rải rác trong vùng biển phía Nam Trung Quốc (…), còn tên gọi Malaisie dùng để chỉ phần quần đảo của nước này (…), De Koninck, R (2005), “L’Asie du Sud-Est”, Armand Colin, Paris.

1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

  • Upload
    voquynh

  • View
    223

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 33

1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á.

Thực trạng dưới góc nhìn đa ngành và lịch đại

Jean-Luc Maurer, Viện nghiên cứu quốc tế và phát triển (IHEID)

(nội dung gỡ băng)

Tôi xin cảm ơn Viện Khoa học xã hội Việt Nam và các cơ quan đối tác của Pháp là AFD, IRD, AUF, ÉFEO, Đại học Nantes – và đặc biệt cảm ơn Stéphane Lagrée, anh thực sự là trụ cột của Khóa học mùa hè Tam Đảo ngay từ năm đầu tiên sự kiện này được tổ chức. Cũng chính anh đã có lời mời tôi tham dự Khóa học mùa hè Tam Đảo lần thứ 5 năm nay. Lời mời tham gia Khóa học mùa hè về khoa học xã hội đã từ những năm trước, lý do là bởi từ gần mười năm nay hè nào tôi cũng sang giảng dạy trong thời gian từ 2 đến 3 tuần tại Việt Nam. Viện nghiên cứu nơi tôi công tác đang có một chương trình đào tạo bậc thạc sĩ về nghiên cứu phát triển. Chương trình giảng dạy được thực hiện một phần tại Hà Nội.

Chủ đề của Khóa học mùa hè Tam Đảo năm nay liên quan rất nhiều đến lĩnh vực thuộc

chuyên ngành của tôi. Vì tôi nghiên cứu về các chính sách phát triển châu Á và phần lớn các nghiên cứu của tôi đều được thực hiện ở Đông Nam Á, chủ yếu về Indonesia, ngoài ra cũng có nghiên cứu về Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, và Malaysia [1]. Do đó, tôi biết khá rõ thực tiễn của khu vực, có lẽ còn kỹ hơn cả hai nước quê hương tôi là Pháp và Thụy Sĩ! Bên cạnh đó, đều đặn nhiều năm nay, tôi cùng với các đồng nghiệp khác của Viện Nghiên cứu Phát triển Genève tham gia giảng dạy về các vấn đề liên quan đến bất bình đẳng xã hội. Tôi hy vọng những nội dung tôi trình bày sẽ mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới cho vấn đề cơ bản này.

Khi chuẩn bị bài giảng này, tôi cũng có tham vọng trình bày một bài dẫn nhập giới thiệu một bức tranh tổng thể về chủ đề của chúng ta, nhưng tôi cũng hy vọng những nội dung trong bài giảng của tôi sẽ phục vụ cho việc

[1] Trong tiếng Pháp, tên gọi Malaysia chỉ đất nước bao gồm các đảo nằm rải rác trong vùng biển phía Nam Trung Quốc (…), còn tên gọi Malaisie dùng để chỉ phần quần đảo của nước này (…), De Koninck, R (2005), “L’Asie du Sud-Est”, Armand Colin, Paris.

Page 2: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD34

thảo luận ở phần sau, cũng như cho toàn bộ các hoạt động trong suốt tuần học tại Tam Đảo. Tôi muốn trình bày thực trạng của 10 nước trong khu vực, so sánh thực tế của các nước dưới góc nhìn lịch đại vì ngoài tính đương đại và bối cảnh cụ thể của từng sự kiện, các quá trình phân biệt xã hội đều đặt trong lịch sử, văn hóa và trong thời gian dài. Điều này đã được Denys Lombard, một trong những người thầy của tôi nhắc tới. Trong bài giảng của tôi, tất nhiên không thiếu các số liệu. Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là đo đếm và định lượng, nhưng như thế chưa đủ, nhà nghiên cứu còn có nhiệm vụ phải hiểu, có thể là nhờ vào việc sử dụng số liệu, nhưng cũng có thể thông qua phân tích định tính. Là một nhà nghiên cứu chính sách, tôi rất coi trọng cả hai phương pháp tiếp cận này.

Sau phần mở đầu giới thiệu lý do tại sao tôi lựa chọn phân tích vấn đề bất bình đẳng và phân biệt xã hội trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á, phần chính trong bài giảng của tôi sẽ có ba nội dung lớn. Trong phần một, tôi sẽ giới thiệu các yếu tố thống nhất và đa dạng của khu vực Đông Nam Á, những yếu tố này thường là kết quả của một quá trình lịch sử dài và phức tạp. Trong phần hai, tôi sẽ trình bày ngắn gọn về con đường phát triển của các nước trong khu vực. Ở phần này, tôi sẽ nhấn mạnh mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo và các vấn đề bất bình đẳng. Trong phần cuối, tôi sẽ so sánh các vấn đề bất bình đẳng ở hai nước: Indonesia và Việt Nam. Đây là hai nước mà tôi đánh giá là có mô hình điển hình về bất bình đẳng trong khu vực. Phần kết luận trong bài giảng của tôi sẽ dành để phân tích về những bế tắc của mô hình phát triển hiện nay và những giải pháp có thể có để giải quyết những bế tắc đó.

Về tầm quan trọng của việc ưu tiên nghiên cứu bất bình đẳng và lý do lựa chọn khu vực Đông nam Á làm khu vực phân tích điển hình

Tại sao một nhà nghiên cứu chuyên về các vấn đề phát triển lại lựa chọn phân tích các vấn đề về khác biệt và bất bình đẳng xã hội và ưu tiên nghiên cứu các vấn đề này? Câu trả lời chắc chắn là vì, với những vấn đề môi trường càng ngày càng bức xúc bởi là hậu quả của mô hình phát triển kinh tế hiện nay, vấn đề phân biệt và bất bình đẳng xã hội ngày càng gia tăng chắc chắn là yếu tố có vai trò quyết định nhất đối với công bằng xã hội, ổn định chính trị, hòa bình và tương lai của nhân loại. Khác biệt và bất bình đẳng xã hội hiện nay đang ngày càng gia tăng ở tất cả các nước trên thế giới từ khi làn sóng toàn cầu hóa dựa trên mô hình tự do mới bắt đầu lan rộng trên toàn hành tinh vào đầu những năm 1980, với « cuộc cách mạng » bảo thủ của Reagan và Thatcher.

Từ 30 năm trở lại đây, chúng ta đã thực sự chứng kiến sự quay trở lại của kỷ nguyên bất bình đẳng vốn là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản dã man vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Kỷ nguyên này đã kết thúc bằng cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tiếp nối sau đó là cuộc đại khủng hoảng kinh tế - tài chính năm 1929 và một cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai trên quy mô toàn hành tinh với mức độ tàn phá nặng nề hơn. Tất cả các yếu tố này đều có quan hệ qua lại và để lại những hậu quả khủng khiếp. Cách nhau một thế kỷ, dường như lịch sử đang lặp lại, và giai đoạn chiến thắng của chủ nghĩa tư bản tài chính mà chúng ta đang trải qua cũng có thể dẫn tới những hậu quả bi thảm không kém. Vì những lý do đó, các nghiên cứu về phát triển cần dành một mức độ ưu tiên nhất định cho

Page 3: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 35

Bảng 1 giới thiệu các kết quả của nghiên cứu do WIDER – Viện nghiên cứu kinh tế của trường Đại học LHQ đặt tại Helsinki – thực hiện. Các nghiên cứu của Viện quan tâm rất nhiều đến các vấn đề bất bình đẳng xã hội. Nghiên cứu này được thực hiện tại 73 nước trong giai đoạn 1960-1990. Trong số 73 nước được nghiên cứu, 48 nước có mức chênh lệch về thu nhập ngày càng gia tăng. Các

bất bình đẳng này biến thiên theo hình chữ « U » ngược, quan sát được tại 29 nước, điều này đi ngược lại với thuyết tân cổ điển của Simon Kuznets. Lát nữa, tôi sẽ quay lại điểm này. Đúng là các số liệu này đã hơi cũ, nhưng nếu WIDER thực hiện một nghiên cứu tương tự đối với giai đoạn 1980-2010, tôi chắc chắn rằng sẽ không có nước nào nằm trong nhóm có sự sụt giảm về bất bình đẳng xã hội.

Kết quả nghiên cứu chính của WIDER

Nguồn: Giovanni Andrea Cornia with Sampsa Kiiski (2001)“Trend in Income Distribution in the Post-World War II Period: Evidence and Interpretation”, Wider Discussion Paper N°. 89, UNU/WIDER: Helsinki.

Các nước lấy mẫu trong mỗi

nhóm

Tỷ lệ dân số của các nước

lấy mẫu

Tỷ lệ dân số thế giới

Tỷ lệ GDP-PPP của các nước

lấy mẫu

Tỷ lệ GDP-PPP thế giới

Tăng bất bình đẳng 48 59 47 78 71

Tăng theo hình chữ U 29 55 44 73 66

Bất bình đẳng giảm 9 5 4 9 8

Không có xu hướng 16 36 29 13 12

Không tính trong mẫu … … 20 … 9

Tổng số 73 100 100 100 100

Bảng 1

phân tích các hiện tượng khác biệt và bất bình đẳng xã hội. Những phân tích này sẽ giúp hiểu rõ hơn bản chất của các hiện tượng

khác biệt và bất bình đẳng xã hội, từ đó giúp tìm ra giải pháp kiềm chế và giảm bớt các hiện tượng đó.

Page 4: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD36

Bảng 2 phân biệt ba nhóm nước: các nước phát triển, các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Có thể nhận thấy là trong số 22 nước có nền kinh tế chuyển đổi, 21 nước có hiện tượng bất bình đẳng về thu nhập ngày càng gia tăng. Nước duy nhất không gặp phải tình trạng này lại là nước duy nhất chưa mở cửa thị trường, đó là Belarus! Các bạn cũng có thể thấy là phần lớn các

nước nói tiếng Anh công nghiệp hóa, vốn là những nước đầu tiên cưỡi lên con ngựa chiến của làn sóng toàn cầu hóa tân tự do, đều là những nước có hiện tượng bất bình đẳng gia tăng. Chỉ có một số nước, như Pháp hay Na Uy, vào thời điểm đó, vẫn còn là những nước có bất bình đẳng giảm đi. Nhưng hiện nay ở cả hai nước này, các vấn đề bất bình đẳng lại đang có chiều hướng gia tăng.

Những thay đổi trong chênh lệch về thu nhập tại 73 nước giai đoạn 1960 – 1990

B t bình ng

Các n c phát tri n Các n c ang phát tri n Các n c ang chuy n i T ng s

T ng 12: Úc, Canada, an M ch, Ph n Lan, , Nh t B n, Hà

Lan, Niu Dilân, Tây Ban Nha, Th y i n, Anh, M

15: Achentina, Chilê, Trung Qu c, Colombia, Guatemala,

Hong Kong, Mehicô, Pakistan, Panama, Nam Phi,

Srilanka, ài Loan, Thái Lan, Venezuela

21: Acmênia, Azerbaijan, Bungari, Crôatia,CH Sec, Estonia, Grudia, Hungari, Kazakhstan, Latvia, Litva, Macedonia, Moldova, Ba

Lan, Rumani, Nga, Slovakia, Slovenia, Ukraina, Yugoslavia

48

n nh 3: Áo, B , c 12: Bangladet, Braxin, B bi n Ngà, CH Dominica, El Salvador, n , Indonexia,

Puerto Rico, Senegal, Singapore, Tanzania, Th

Nh K

1: Belarus 16

Gi m 2: Pháp, Na Uy 7: Bahamas, Honduras, Jamaica, Hàn Qu c,

Malaysia, Philippines, Tuynidi

0 9

T ng s 17 34 22 73

Nguồn: Giovanni Andrea Cornia with Sampsa Kiiski (2001)“Trend in Income Distribution in the Post-World War II Period: Evidence and Interpretation”, Wider Discussion Paper N°. 89, UNU/WIDER: Helsinki.

Bảng 2

Page 5: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 37

Về điểm này, số liệu của Ngân hàng thế giới cho thấy tình hình rất đáng báo động. So với tổng mức tiêu dùng chung của thế giới năm 2005, 20% những người nghèo nhất chỉ tiếp cận được với 1,5%. Nhóm mà chúng ta gọi là

« tầng lớp trung bình », tức là 3/5 số những người ở tốp giữa cũng chỉ chiếm 22% tổng mức tiêu dùng chung của toàn thế giới. Phần còn lại, 20% những người giàu nhất chiếm tới 3/4 tổng mức tiêu dùng.

Tỷ lệ tiêu dùng cá nhân trên thế giới, 2005

Nghèo nh t th gi i chi m 20% tiêu dùng 1,5%

Giàu nh t th gi i chi m 20% tiêu dùng 76,6%

Trung bình c a th gi i chi m 60% tiêu dùng 21,9%

T l tiêu dùng cá nhân trên th gi i n m 2005

Nguồn: World Bank Development indicators 2008.

Chênh lệch về tiêu dùng trên thế giới năm 2005

T l tiêu dùng

cá nhân trên th

gi i(%)

Th p phân v dân s th gi i (VD: 1 = nghèo nh t 10%; 2 = nghèo nh t 11-20%)

Nguồn: World Bank Development indicators 2008

1

2hình

hình

Page 6: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD38

Biểu đồ này còn phân tích sâu hơn và cho thấy mức độ chênh lệch trong bất bình đẳng về tiêu dùng của năm 2005 xét theo đơn vị 1/10. 1/10 số người giàu nhất chiếm tới gần 60% mức tiêu dùng của thế giới, cao hơn 120 lần so với nhóm 1/10 những người nghèo nhất, vốn chỉ chiếm 0,5% tổng mức tiêu dùng thế giới. Nếu lấy nhóm 1/10 thứ hai tính từ dưới lên với mức tiêu thụ chiếm 1%, khoảng cách chênh lệch vẫn gấp tới 60 lần. Vẫn cứ tiếp tục so sánh như vậy, ta đều có thể thấy khoảng cách giữa người nghèo và người giàu đang không ngừng gia tăng trên thế giới. Nếu lấy đơn vị tính là 1/100 hoặc 1/1000, các con số sẽ còn ấn tượng hơn nữa vì mức độ tập trung sự giàu có chỉ diễn ra chủ yếu ở đỉnh kim tự tháp. Tất cả những điều trên chứng tỏ rằng chúng ta hoàn toàn có lý khi phân tích vấn đề bất bình đẳng xã hội như là một hiện tượng xã hội có sức tàn phá khủng khiếp nhất trên quy mô toàn thế giới trong khoảng 30 năm trở lại đây.

Đông Á, đặc biệt là Đông Nam Á là một khu vực rất thú vị để phân tích vấn đề mà tôi đề cập đến ở trên. Vì những lý do lịch sử, văn hóa và tôn giáo, bất bình đẳng xã hội luôn được nhìn nhận ở mức độ khá ôn hòa nếu so với các khu vực khác trên thế giới, như Nam Mỹ – Braxin, Colombia, Bolivia – hoặc khu vực phía Nam châu Phi – Botswana, Namibia, Nam Phi. Nhận định này cũng được khẳng định trong bản báo cáo nổi tiếng năm 1993 của Ngân hàng thế giới về cái gọi là “Sự Thần kỳ Đông Á”, một báo cáo được phân tích và bị chỉ trích rất nhiều. Báo cáo này phân tích 7 nước trong khu vực là Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, là bốn nước thuộc khu vực Đông

Nam Á, và ba “con rồng nhỏ” của Đông Á là Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông. Kết luận chính mà báo cáo này đưa ra là khu vực Đông Á có đặc điểm chung là “tăng trưởng công bằng” – “Growth with Equity”.

Nếu phân tích ở một cấp độ khác, mặc dù có những khác biệt rất lớn, các nước Đông Nam Á đều có một “nền tảng văn hóa chung” lâu đời – đây là khái niệm mà nhà nghiên cứu phương đông học danh tiếng Paul Mus đã đưa ra trong tác phẩm nổi tiếng của mình có tên gọi Góc châu Á (L’angle de l’Asie). Trong công trình này, nhìn chung Paul Mus ca ngợi rất nhiều các giá trị bình đẳng, chia sẻ và bình dị. Theo những nghiên cứu mới nhất của giáo sư Edison Liu, một nhà nghiên cứu người Mỹ gốc Hoa hiện đang làm việc tại Singapore, tất cả các dân tộc thuộc khu vực Đông Nam Á đều có chung một tổ tiên, kể cả các dân tộc được gọi là thiểu số? Tất nhiên Paul Mus chưa nghĩ đến điều này khi ông đề cập đến khái niệm “nền tảng văn hóa chung”, đây là một khái niệm quan trọng trong phân tích các vấn đề về bất bình đẳng. Hơn nữa, Đông Á rộng lớn hơn Đông Nam Á, và bất bình đẳng xã hội nói chung vẫn ở mức ôn hòa ở hai nước nổi bật của hiện tượng “thần kỳ châu Á” là Hàn Quốc và Đài Loan. Tính riêng ở 10 nước Đông Nam Á, tình hình bất bình đẳng có khác nhau tùy theo các yếu tố lịch sử, văn hóa, chính trị mà chúng ta sẽ phân tích sau đây. Điểm chung duy nhất, không tính trình độ xuất phát điểm của mỗi nước, đó là bất bình đẳng luôn có chiều hướng gia tăng từ khoảng 20 – 30 năm trở lại đây ở hầu hết các nước này.

Page 7: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 39

Bảng này cho thấy bất bình đẳng về thu nhập và tiêu dùng tăng ở các nước thuộc hiện tượng “Thần kỳ Đông Á” trong các khoảng thời gian khác nhau tính từ đầu những năm 1970 cho đến giữa những năm 1990. Tôi xin thêm vào đây hai nước là Trung Quốc và Việt Nam, hai nước này tham gia vào nhóm ở khoảng giữa giai đoạn, còn Philippines thì chưa bao giờ có mặt. Vấn đề bất bình đẳng là vấn đề phức tạp và khó so sánh. Thứ nhất là bởi các nước không có chung các chỉ số: một số nước sử dụng chỉ số thu nhập, một số nước khác sử dụng chỉ số tiêu dùng; có nước lại sử dụng chỉ số tiêu dùng theo đầu người, nước khác lại tính chỉ số tiêu dùng theo hộ. Mặt khác, các năm được sử dụng làm mốc tham chiếu cũng không giống nhau. Điều này khiến cho phân tích so sánh khó hơn rất nhiều. Trong bảng này, mỗi nước có một năm xuất phát và năm kết thúc khác nhau, và hệ số Gini tương ứng, đây là chỉ số quan trọng được sử dụng cho phân tích bất bình đẳng. Có thể thấy bất bình đẳng tăng ở 8/10 nước

trong giai đoạn 1970-1995, nhưng có nhiều khác biệt lớn:

- Ở Singapore, Hồng Kông và Philippines, mức độ bất bình đẳng, vốn đã cao lại vẫn còn tiếp tục tăng. Nếu chỉ lấy riêng trường hợp điển hình là Singapore, có thể thấy nước này có mức độ bất bình đẳng cao nhất thế giới: hệ số Gini vốn đã rất cao vào năm 1973 (41) lại vẫn tiếp tục tăng mạnh tới tận năm 1989 (49). Với hệ số Gini cao như vậy, đảo quốc nhỏ bé này của khu vực Đông Nam Á được xếp ngang với Braxin về mức độ bất bình đẳng xã hội. Braxin vẫn luôn được coi là nước vô địch thế giới về vấn đề này, cho dù có vẻ như kể từ khi tổng thống Lula da Silva đưa ra các chính sách về tái phân phối, bất bình đẳng ở nước này đã giảm đáng kể.

- Với mức xuất phát điểm nói chung khá thấp, bất bình đẳng gần như bùng nổ ở Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Trung Quốc vốn rất bình đẳng trong 30 năm đầu tiên sau khi lập nước, có mức xuất phát điểm thấp hơn

Các nước thuộc hiện tượng “Thần kỳ Đông Á”: bất bình đẳng gia tăng mạnh, giai đoạn 1970-1995

Các qu c gia “Th n k ông Á” : b t bình ng v thu nh p gia t ng m nh

trong giai o n 1970-1995

Qu c gia và giai o n

Ph ng pháp tính H s Gini b t u

H s Gini k t thúc

H ng Kông, 1971-91 Thu nh p bình quân h gia ình

40.9 45.0

Singapore, 1973-89 Thu nh p bình quân h gia ình

41.0 49.0

ài Loan, 1985-95 Thu nh p bình quân h gia ình

29.0 31.7

Hàn Qu c, 1970-88 Thu nh p bình quân h gia ình

33.3 33.6

Malaysia, 1973-1989 Thu nh p u ng i 50.1 45.9

Thái Lan, 1975-92 Chi tiêu u ng i 36.4 46.2

Indonesia, 1970-95 Chi tiêu u ng i 34.9 34.2

Trung Qu c, 1985-95 Thu nh p u ng i 29.9 38.8

Philippines, 1985-94 Chi tiêu u ng i 41.0 42.9

Vi t Nam, 1993-2003 Chi tiêu u ng i 35.5 ±40.0

Nguồn: World Bank Database.

Bảng 3

Page 8: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD40

30 vào năm 1985, sau đó tăng lên đến mức 40 vào năm 1995. Hiện nay, chỉ số này của Trung Quốc là 50. Với mức này, Trung Quốc được xếp vào nhóm các nước bất bình đẳng nhất trên thế giới. Việt Nam cũng có một quy trình lịch sử tương tự, hiện đang có hệ số Gini ở mức 40;

- Bất bình đẳng cũng gia tăng ở Đài Loan và Hàn Quốc, nhưng vì xuất phát điểm thấp nên nhìn chung bất bình đẳng ở hai nước này hiện vẫn ở mức tương đối thấp;

- Mức độ bất bình đẳng chỉ giảm ở hai nước là Malaysia và Indonesia. Ở Indonesia, mức độ xuất phát điểm thấp và hiện nay vẫn ở mức tương đối thấp. Ngược lại, ở Malaysia, mức độ bất bình đẳng xuất phát điểm rất cao vào thời điểm nước này giành độc lập, sau đó giảm nhờ các chính sách tích cực mà Thủ tướng Mahathir đưa ra để hỗ trợ cho đại bộ phận người dân nước này. Tuy nhiên, bất bình đẳng ở nước này hiện vẫn ở mức tương đối cao.

Ngoài những bình luận theo thời điểm đã giới thiệu ở trên, nhìn chung bất bình đẳng có xu hướng giảm kể từ khi các nước giành được độc lập cho đến những năm 1980, cho dù tăng trưởng kinh tế của các nước ở các mức khác nhau. Chỉ đến khi làn sóng toàn cầu hóa của những năm 1980 bắt đầu lan

sang các nước này và nhấn chìm chúng thì bất bình đẳng mới tăng trở lại. Điều này đi ngược lại với thuyết tân cổ điển mà Simon Kuznets đưa ra vào những năm 1950 mà theo đó, bất bình đẳng luôn có xu hướng tự nhiên là tăng trong giai đoạn đầu khi có tăng trưởng kinh tế, sau đó sẽ giảm khi thành quả của tăng trưởng được chia sẻ đồng đều hơn cho tất cả mọi người.

Hơn nữa, phần lớn các lý giải đều không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố lịch sử hay văn hóa mà còn phụ thuộc vào các chính sách phát triển được đưa ra. Không phải ngẫu nhiên mà bất bình đẳng gia tăng hay giảm đi. Bất bình đẳng tăng hay giảm còn phụ thuộc vào các chính sách công mà các nhà lãnh đạo đưa ra áp dụng. Việc Hàn Quốc đạt được kết quả như họ có không phải là nhờ vào một điều thần kỳ. Bất bình đẳng không phải là định mệnh bắt buộc, nó phụ thuộc một phần vào các chính sách công, về thuế khóa và tái phân phối thu nhập xã hội. Có vẻ như trong bài giảng này, tôi đang reo rắc tư tưởng “bi quan về lý trí” và “lạc quan về ý chí” mà Antonio Gramsci đã đưa ra. Phân tích của tôi thực tế là thiên về màu tối hơn, nhưng tôi tin rằng luôn luôn có cách để cải thiện tình hình nhờ vào việc đưa ra các chính sách phù hợp.

Page 9: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 41

Bảng này tập hợp một số chỉ số mới nhất về những khác biệt trong bất bình đẳng về thu nhập ở 10 nước Đông Nam Á. Năm thực hiện điều tra và các chỉ số sử dụng là khác nhau. Trong bảng này cũng có sử dụng một chỉ số lớn khác, thường được sử dụng để tính toán bất bình đẳng, đó là chỉ số so sánh giữa nhóm 1/5 nghèo nhất (Q1) và nhóm 1/5 giàu nhất (Q5). Từ so sánh hai nhóm này, ta thấy có nhiều khác biệt lớn. Cụ thể, đối với Malaysia, tương quan Q1/Q5 cao hơn 12, có nghĩa là nhóm 1/5 những người giàu nhất giàu hơn nhóm 1/5 những người nghèo nhất đến 12  lần. Nếu lấy các nước có mức độ bất bình đẳng thấp nhất Đông Nam Á, như Indonesia và Việt Nam, mức chênh lệch giàu nghèo giữa nhóm 1/5 những người giàu nhất và 1/5  những người nghèo nhất chỉ là 5 lần. Kết luận này cũng được thể hiện trong chỉ số Gini.

1.1.1. thống nhất và đa dạng của khu vực Đông nam Á: kết quả của một quá trình lịch sử dài và phức tạp

Làm thế nào để lý giải tình hình thực tế cũng như những khác biệt trong khu vực? Tôi thấy không thể làm được điều này nếu không quay lại xem xét trong lịch sử. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên của lịch sử (theo lịch Thiên chúa), hai làn sóng ảnh hưởng văn hóa ngoại lai lớn đã lan sang Đông Nam Á – khu vực “góc châu Á - Angle de l’Asie” theo cách gọi của Paul Mus, “nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa” theo cách gọi của Michel Bruneau. Làn sóng ảnh hưởng lớn nhất là hiện tượng Ấn hóa, và làn sóng thứ hai là hiện tượng Trung Hoa hóa. Làn sóng thứ nhất đều tác động dù ít hay nhiều đến tất cả các nước trong khu vực và để lại dấu ấn lâu dài, đặc biệt là ở Campuchia và Indonesia. Việt Nam là nước duy nhất chịu ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa, trong khi đó Philippines gần như nằm ngoài hai quá

10 quốc gia Đông Nam Á: làm rõ những khác biệt trong bất bình đẳng về thu nhập

10 qu c gia NÁ: tình tr ng b t bình ng v thu nh p

N m i u tra Q1 Q5 Quan h Q5/Q1

H s Gini

Myanmar (Bi) n.a. n.a. n.a. n.a. n.a.

Brunây (Br) n.a. n.a. n.a. n.a. n.a.

Campuchia (C) 1997 (C) 6.9 47.6 6.9 40.4

Indonesia (I) 2002 (C) 8.4 43.3 5.2 34.3

Lào (L) 1997 (C) 7.6 45.0 6.0 37.0

Malaysia (M) 1997 (I) 4.4 54.3 12.4 49.2

Philippines (P) 2000 (C) 5.4 52.3 9.7 46.1

Singapore (S) 1998 (I) 5.0 49.0 9.7 42.5

Thái Lan (T) 2000 (C) 6.1 50.0 8.3 43.2

Vi t Nam (V) 2002 (C) 7.7 43.0 5.5 34.8

Nguồn: Báo cáo thế giới về phát triển con người năm 2005, UNDP.

Bảng 4

Page 10: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD42

trình tiếp biến văn hóa này. Nhấn mạnh điểm này là rất quan trọng, vì mặc dù Philippines thuộc về khu vực Đông Nam Á, kể cả về địa lý và chính trị, nhưng nhiều yếu tố lại khiến nước này gần hơn với khu vực Nam Mỹ về lịch sử và văn hóa. Điều này là kết quả của việc nước này không bị chịu ảnh hưởng từ hai làn sóng văn hóa ngoại lai tiền thực dân, và là nước duy nhất hướng sang bờ kia của Thái Bình Dương do liên tiếp nằm dưới sự đô hộ của Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Nếu không kể trường hợp ngoại lệ của Philippines, rất nhiều giá trị chung về tôn giáo và triết học gốc Ấn, là đạo Hindou và nhất là đạo Phật, hoặc gốc Trung Hoa, chủ yếu là đạo Khổng, đều thấm đẫm trong các xã hội Đông Nam Á và để lại một di sản, là một phần nguồn gốc của “nền tảng văn hóa chung” mà Paul Mus đã nhắc đến. Trong số những giá trị chung đó, có nhiều yếu tố mang lại một nhân sinh quan khá bình đẳng về xã hội: ý thức chia sẻ, tính bình dị và thanh đạm, những phẩm chất mà ta có thể thấy trong đạo Phật.

Nếu nhìn vào lịch sử gần hơn, có thể thấy đạo Hồi, mặc dù có mặt trong khu vực muộn hơn rất nhiều – từ thế kỷ 12 – và chủ yếu ảnh hưởng tới cộng đồng người Mã Lai, cũng đã chứa đựng nhiều giá trị mà tựu chung lại đều rất gần với tính khiêm nhường, tình đoàn kết và lòng từ thiện. Nhưng quá trình đô hộ từ phương Tây đã làm sâu sắc thêm những khác biệt vốn có. Một mặt, một số vùng trong khu vực bị đô hộ từ rất sớm, ngay từ cuối thế kỷ 16, như trường hợp quần đảo Mã Lai, Java hay Luzon, trong khi một số khu vực khác mãi đến giữa hoặc cuối thế kỷ 19 mới bị đô hộ, như trường hợp của đảo Bali, đảo phía bắc Sumatra, Campuchia hay Việt Nam. Một số vùng khác lại không thực sự bị thực dân hóa, như trường hợp của Thái Lan và các vùng lân cận, phía sâu trong các đảo

lớn hoặc các vùng núi cao. Điều quan trọng là cần phải hiểu rằng thời điểm quần đảo Mã Lai và đảo Java bị đô hộ bởi thực dân phương Tây cách thời điểm mà các vùng khác của khu vực Đông Nam Á bị đô hộ (vào thế kỷ 19, 20) đến gần ba thế kỷ.

Mặt khác, tất cả các cường quốc thực dân phương Tây đều tham gia xâu xé khu vực này. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước đầu tiên đặt chân lên khu vực vào thế kỷ 16, 17, tiếp theo đó là Hà Lan – người ta thường quên một thực tế là đất nước nhỏ bé này đã đô hộ một phần rất lớn trên thế giới vào thế kỷ 17 với sự có mặt của mình trên khắp các châu lục –, Anh, Pháp, sau đó là Hoa Kỳ vào thế kỷ 19, và cuối cùng là Nhật Bản với thời gian rất ngắn vào thế kỷ 20. Các dự án, phương pháp, cách thức và kết quả từ các quá trình đô hộ khác nhau giữa các nước hiển nhiên đã làm sâu sắc thêm sự khác biệt và đa dạng vốn có giữa các nước trong khu vực. Đạo Thiên chúa, đi cùng với quá trình thực dân hóa, chỉ ảnh hưởng chủ yếu đến các vùng chưa bị tác động từ Ấn Độ, Trung Hoa hoặc đạo Hồi, trường hợp điển hình là Philippines – đạo Cơ đốc được những người Tây Ban Nha du nhập vào nước này – và các vùng ngoại vi. Đạo Thiên chúa cũng đóng góp thêm một viên đá vào “nền tảng văn hóa chung” cũng với những giá trị về sự khiêm nhường, tinh thần đoàn kết và lòng nhân đạo. Tất nhiên đây là những giá trị nhìn nhận về mặt lý thuyết, còn thực tiễn thì lại rất xa mới được như vậy.

Nếu phác họa bằng những nét lớn trong quá trình lịch sử dài và phức tạp của khu vực, có thể thấy, chủ nghĩa quốc gia dân tộc bắt đầu biểu hiện ngay từ đầu thế kỷ 20 đã dẫn tới quá trình giải phóng thuộc địa có đặc điểm khá tương đồng, nhưng tuyên bố độc lập của các nước lại rất khác nhau. Sau Thế chiến thứ hai và những dấu ấn đau thương của việc

Page 11: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 43

Nhật Bản xâm lược tác động đến toàn bộ khu vực, một số nước đã giành được độc lập bằng đấu tranh vũ trang, như trường hợp của Indo-nesia hoặc Việt Nam. Một số khác giành được độc lập bằng con đường “hòa bình” hơn, như Malaysia hoặc Campuchia. Tất cả các nước Đông Nam Á giành được độc lập trong giai đoạn từ năm 1945 như Indonesia, Việt Nam, Philippines, Myanmar – đến cuối những năm 1950 hoặc đầu những năm 1960 như Cam-puchia, Lào, Malaysia, Singapore đều ghi vào hiến pháp các giá trị giống nhau. Có thể tìm thấy trong đó các nguyên tắc phát triển công bằng, công bằng xã hội và dân chủ. Tuy nhiên hình thái biểu hiện lại rất đa dạng, như chủ nghĩa quốc gia dân tộc xã hội của chế độ Su-karno ở Indonesia, chủ nghĩa xã hội khắc kỷ ở Myanmar hay đề cao độc lập dân tộc ở Việt Nam. Các yếu tố này chủ yếu nghiêng về các đặc điểm tương đồng nhiều hơn là đa dạng.

Sang thời kỳ hậu thuộc địa, tất cả các nước Đông Nam Á đều có những biến động phức tạp và bị ảnh hưởng sâu sắc bởi chiến tranh lạnh vốn biến khu vực này thành “điểm nóng” chính của thời kỳ căng thẳng này. Một số nước ngay lập tức đã đứng về phe Tây phương như Thái Lan, Philippines, Malaysia, Singapore và áp dụng các chiến lược hiện đại hóa và phát triển theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Nước duy nhất đứng về phe chủ nghĩa xã hội

là Việt Nam. Các nước khác ban đầu đã cố gắng đi theo con đường thứ ba là con đường không liên kết – Indonesia, Myanmar, Lào, Campuchia –, sau đó rốt cuộc cũng lại đứng sang phe phương Tây như Indonesia năm 1965 hoặc phe xã hội chủ nghĩa như Campuchia và Lào năm 1975. Nước duy nhất đứng ngoài các khối là Myanmar.

Các nước Đông Nam Á tất cả đều lần lượt trở thành thành viên của ASEAN, tổ chức được thành lập năm 1967, trừ Myanmar mới gia nhập những năm gần đây. Trong trường hợp Việt Nam, con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước này lựa chọn đã giúp nước này hội nhập một cách hoàn hảo vào tiến trình toàn cầu hóa tân tự do. Quá trình hội nhập vào cơn lốc toàn cầu hóa kinh tế đã kích thích tăng trưởng, dẫn tới những thay đổi sâu sắc về mặt xã hội, được biểu hiện thông qua việc giảm nghèo đói, nhưng cũng dẫn tới sự gia tăng khoảng cách bất bình đẳng giữa những người được và những người mất từ tiến trình này. Kết cục là lịch sử phức tạp của khu vực đã tạo ra một bức tranh ghép với các mảng màu đa sắc về dân tộc, văn hóa, dân số, tôn giáo và chính trị, nhưng bên cạnh đó cũng vẫn có những yếu tố thống nhất, gắn bó trên phương diện kinh tế, xã hội và chính trị.

Page 12: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD44

Bảng này tóm tắt lịch sử phát triển của khu vực Đông Nam Á. Có thể thấy có nhiều sự khác biệt lớn. Chẳng hạn có thể thấy có sự không đồng nhất lớn trên phương diện kinh tế giữa các nước trong khu vực. Đơn cử trường hợp

của Singapore, nước này có tỷ lệ mở cửa kinh tế cao hơn 400%, tức là giá trị ngoại thương của nước này cao gấp 4 lần GDP. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Indonesia chỉ bằng một nửa mặc dù nước này có GDP tương đương.

Đông Nam Á: tóm tắt những chặng đường lịch sửông Nam Á: tóm t t quá trình l ch snh h ng

v n hóa ti n thu c a

C ng qu c cai tr

N m tuyên b c l p

Gia nh p ASEAN

M c m c a kinh t

2004-06

Ch s t do chính tr

2008 (0 n 2)

Singapore n.a. Anh 1965 1967 407.9 1

Brunei o H i Anh 1984 1984 97.2 0

Malaysia o H i Anh 1957 1967 184.9 1

Thái Lan o Ph t n.a. n.a. 1967 139.4 2

Philippines o H i(Mi n Nam)

TBN+M 1946 1967 75.2 2

Indonesia o H i(sync.)

Hà Lan 1945 (49) 1967 52.8 2

Vi t Nam o Kh ng Pháp 1945 (75) 1995 170.6 0

Lào o Ph t Pháp 1953 1997 52.3 0

Campuchia o Ph t Pháp 1953 1999 138.8 1

Myanmar o Ph t Anh 1948 1997 52.8 0

Nguồn: Những tư liệu cá nhân của tác giả, WTO, UNDP.

5Bảng

Page 13: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 45

Các chỉ số nhân khẩu học cũng cho thấy có nhiều khác biệt lớn giữa các nước Đông Nam Á. Rất khó, thậm chí có thể nói là không thể so sánh một nước như Singapore – với diện tích 640 km2, dân số 5 triệu người – với nước láng giềng là Indonesia – với diện tích 2 triệu km2 và dân số 240 triệu người. Giữa hai nước này tất nhiên không có cùng các vấn đề về phát triển. Trên phương diện này, yếu tố đa dạng thắng thế so với yếu tố thống nhất, mặc dù các chỉ số gia tăng dân số trong các giai đoạn 1990-1995 và 2010-2015 cho thấy tất cả các nước này đều đã trải qua thời kỳ quá độ về dân số, tất nhiên ở các thời điểm khác nhau.

1.1.2. con đường phát triển của Đông nam Á: tâm điểm là quan hệ giữa tăng trưởng, nghèo đói và bất bình đẳng

Tập trung quan sát các nhóm chỉ số khác nhau về phát triển kinh tế và con người sẽ cho thấy bản chất các mối quan hệ hiện hữu trong các tiến trình phát triển giữa ba phương diện chính là tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo và biểu hiện của bất bình đẳng xã hội. Tất các các nước Đông Nam Á tham gia vào sự “Thần kỳ Đông Á” đều bắt đầu tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của mình vào những thời điểm khác nhau: Singapore, Thái Lan và Malaysia bắt đầu ngay thời kỳ đầu chiến tranh lạnh và lựa chọn đứng ngay về phe tư bản chủ nghĩa; còn Indonesia bắt đầu vào năm 1967, muộn hơn 20 năm. Tiến trình này diễn ra sớm hơn rất nhiều trước khi làn sóng toàn cầu hóa tân tự do bắt đầu diễn ra

Đông Nam Á: Các thông tin cơ bản về dân sốông Nam Á : thông tin c b n v dân s

Di n tích (km2)

Dân s 2010(tri u)

T ng dân s 1990-95 (%)

T ng dân s 2010-15 (%)

Phân b dân c nông thôn / ô

th (%)

Tu i trung

v2010

Ratio dép. 2010

Singapore 640 4.8 2.4 0.9 0/100 40.6 34.7

Brunei 5765 0.4 2.8 1.7 24.3/75.7 27.8 42.4

Malaysia 329758 27.9 2.6 1.5 27.8/72.2 26.3 51.3

Thái Lan 513115 68.1 1.2 0.5 66.0/34.0 33.2 41.2

Philippines 300000 93.6 2.3 1.7 51.1/48.9 23.2 60.7

Indonesia 1904842 232.5 1.5 1.0 55.7/44.3 28.2 48.7

Vi t Nam 331041 89.0 1.9 1.0 69.6/30.4 28.5 45.8

Lào 236800 6.4 2.7 1.8 66.8/33.2 20.6 68.1

Campuchia 181285 15.1 3.2 1.7 79.9/20.1 22.3 56.6

Myanmar 676572 50.5 1.4 1.0 66.3/33.7 27.9 47.2

Nguồn: De Koninck 2005, RDH 2010/UNDP.

6Bảng

Page 14: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD46

trong khu vực và trên thế giới từ đầu những năm 80 với cuộc “cách mạng” tự do được Reagan và Thatcher khởi xướng.

Các chính sách công về phát triển mà các nước này áp dụng và theo đuổi trong nhiều thập kỷ, với việc sử dụng một chính sách bảo hộ tinh vi, đã giúp họ đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, đạt được kết quả giảm nghèo ấn tượng nhờ vào việc áp dụng các chính sách xã hội, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục và y tế. Đa số các nước có tỷ trọng nông nghiệp lớn trong kinh tế trước khi bước vào con đường phát triển đều đã dành ưu tiên cho phát triển nông nghiệp, nông thôn hơn là cho công nghiệp nặng và công nghệ cao. Điều này đã có tác động lớn đến mức sống của người dân. Các nước này có mức xuất phát điểm về bất bình đẳng rất khác nhau do lịch sử để lại. Bất bình đẳng có xu hướng gia tăng ở các nước lựa chọn áp dụng ngay từ đầu mô hình phát triển tư bản chủ nghĩa như tại Singapore, Thái Lan và Malaysia, trong khi chúng tương đối ổn định ở Indonesia vì nước này áp dụng mô hình tương tự nhưng muộn hơn 20 năm.

Một dữ liệu khác có thể bổ sung để chúng ta sử dụng tại lớp học chuyên đề Tam Đảo được rút ra từ luận án “Tình hình đặc điểm bất bình đẳng tại Việt Nam / Dynamics of Inequality in Vietnam (1986-2008)” của chị Trần Thu Quỳnh do tôi hướng dẫn và được bảo vệ tại IHEID Geneva năm 2010. Trong luận án này, tác giả đã đưa ra một sự phân biệt thú vị giữa các bất bình đẳng mang tính cơ cấu, di sản lịch sử để lại và là kết quả của việc “tái sản xuất” – khái niệm của Pierre Bourdieu, với các bất bình đẳng mang tính tình huống, bối cảnh, do tình hình và sự phát triển kinh tế ở thời điểm nghiên cứu gây ra, cụ thể là bối cảnh toàn cầu hóa. Singapore, Thái Lan và Malaysia

là những nước mà các bất bình đẳng mang tính cơ cấu không chịu tác động từ quá trình phi thực dân hóa. Nhiều hiện tượng bất bình đẳng mới mang tính bối cảnh nảy sinh trên nền tảng những bất bình đẳng mang tính cơ cấu cũ – như tại Singapore. Việc các bất bình đẳng xuất hiện chồng lên nhau như vậy đã khiến hệ số Gini của nước này lên đến mức gần bằng 0,5. Như vậy, bất bình đẳng đã gia tăng tại các nước lựa chọn áp dụng ngay từ đầu mô hình phát triển tư bản chủ nghĩa, nhưng lại tương đối ổn định ở một nước duy nhất, chính là nước cũng áp dụng mô hình tương tự nhưng muộn hơn 20 năm. Khoảng cách này có lẽ lý giải phần nào đó sự ổn định các bất bình đẳng tại Indonesia, và bởi một lý do nữa là việc đất nước đã trải qua một tiến trình cách mạng, thời kỳ mà các bất bình đẳng mang tính cơ cấu đã bị xóa bỏ một phần lớn, như trường hợp của Việt Nam. Do những đặc thù về xã hội và chính trị mà lịch sử để lại, Philippines, mặc dù đã lựa chọn mô hình phát triển tư bản chủ nghĩa, lại là nước nằm ngoài sự phát triển năng động của hiện tượng “Thần kỳ Đông Á”.

Kể từ đầu tiến trình toàn cầu hóa tân tự do vào những năm 80, tăng trưởng kinh tế tuy vẫn được duy trì nhưng thường bị giảm sút về tốc độ ở các nước thuộc hiện tượng “Thần kỳ châu Á”. Mặc dù vậy, kết quả giảm nghèo vẫn luôn đạt mức cao ở Thái Lan, Malaysia, In-donesia trong bối cảnh chịu sự tác động lớn của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 - 1998. Các bất bình đẳng sau đó có xu hướng tăng ở khắp mọi nơi do tác động của các chính sách tự do hóa kinh tế và cắt giảm trợ cấp xã hội. Các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa vào thời điểm đó tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa bằng mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” như Việt Nam, Lào, Campuchia cũng có mức

Page 15: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 47

tăng trưởng kinh tế tăng mạnh, tỷ lệ nghèo đói giảm ấn tượng, nhất là ở Việt Nam. Nhưng ở nước này, bất bình đẳng xã hội cũng gia tăng một cách nhanh chóng, mặc dù điểm xuất phát là cực thấp. Hai nước Đông Nam Á

nằm ngoài toàn bộ tình hình này là Brunây, nhờ đặc thù là nước quân chủ và dầu mỏ và Myanmar nhờ vào lựa chọn chính trị qua việc áp dụng chế độ độc tài quân sự.

Các nước “Thần kỳ Đông Á”: biến thiên tăng trưởng kinh tế, 1965-1995

Các n c thu c nhóm “Th n k ông Á”: di n bi n t ng tr ng kinh t 1965-95

GDP/pc* 1965 (1995 PPP$**)

GDP/pc 1995 (1995 PPP$)

%/n m GDP 1965-80

%/n m GDP 1980-90

%/n m GDP 1990-95

Hàn Qu c 1528 13269 6.8 7.5 6.5

ài Loan 2324 15191 7.5 6.3 5.7

H ng Kông 4843 26334 6.2 5.1 4.9

Singapore 2648 23350 8.5 6.5 7.4

Thái Lan 1570 6723 4.6 6.4 6.8

Malaysia 2271 9458 3.6 4.2 6.0

Indonesia 817 3346 4.8 4.4 5.4

Philippines 1736 2475 2.9 -0.4 0.1

Vi t Nam n.a. 1308 -0.8 4.7 5.8

Trung Qu c 771 2479 3.5 8.4 9.2

* pc: per capita, theo u ng i ** PPP: s c mua t ng ng

Nguồn: V. Ahuja et. al, World Bank 1997.

Bây giờ chúng ta sẽ đi sâu hơn vào phân tích vấn đề về tăng trưởng, nghèo đói và bất bình đẳng. Bảng này cho ta thấy biến thiên về tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1965 – 1995. Trong vòng 30 năm, GDP đầu người đã tăng mạnh ở hầu hết các nước trong vùng. Mức tăng GDP bình quân đầu người là 8 lần ở Hàn Quốc và Singapore, 6 lần ở Đài Loan, 5 lần ở Hồng Kông, 4 lần ở Indonesia và Malaysia, 3 lần ở Trung Quốc. Duy nhất GDP bình quân đầu người ở Philippines là dậm chân tại chỗ: chỉ tăng 1,4 lần. Một điểm nữa có thể thấy là nếu như chia thành ba giai đoạn nhỏ 1965-1980, 1980-1990 và 1990-1995, tăng trưởng kinh tế

đạt mức cao hơn ở giai đoạn đầu và dần dần chững lại ở hai giai đoạn sau. Như vậy dường như có thể thấy, quá trình toàn cầu hóa bắt đầu vào đầu những năm 1980 đã không thực sự kích thích tăng trưởng kinh tế ở các nước “con rồng” châu Á, nhất là ở Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore. Nhiều tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này, như nhà kinh tế người Mỹ Dani Rodrik đã chỉ ra rằng toàn cầu hóa đã không tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế; hoặc Mark Weisbrot với bài nghiên cứu nổi tiếng là “The Emperor Has No Growth – tạm dịch Vị Hoàng đế không tăng trưởng” cũng đã thể hiện rõ điều này.

7Bảng

Page 16: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD48

Bảng này cho thấy mức giảm nghèo ấn tượng của các nước trong khu vực. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có lý khi đặt câu hỏi mức 1,25 USD PPP/ngày có ý nghĩa gì? Chỉ số cổ điển về nghèo đói này hiển nhiên không phản ánh hết thực tế của tình hình nghèo đói vốn phức tạp hơn và mang tính đa chiều nhiều hơn. Tuy vậy chuẩn nghèo này hiện vẫn đang được sử dụng trong khuôn khổ các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ MDGs. Tính theo chuẩn này, tỷ lệ nghèo đói đã giảm một nửa trong vòng 20 năm (1975-1995). Nếu xét tổng thể khu vực Đông Á, số người nghèo đã giảm từ 700 triệu xuống còn 345 triệu người. Ở một số nước như Thái Lan hay Malaysia, các hình thức nghèo đói gay gắt nhất (sức mua tương đương dưới 1,25 USD/người/ngày) gần như đã biến mất hoàn toàn cho tới khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998. Indonesia đã giảm tới 4 lần xét về số người nghèo và giảm tới 6 lần nếu tính theo tỷ lệ phần trăm! Mức giảm nghèo ấn tượng như

vậy là một hiện tượng đặc biệt và có thể nói là chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

Ở phần này, tôi chưa quay lại đề cập đến vấn đề bất bình đẳng gia tăng trong khu vực. Nội dung này đã được giới thiệu và bình luận ở phần trước trong bảng “ Các nước thuộc hiện tượng Thần kỳ Đông Á”, trong đó đã làm rõ tình trạng bất bình đẳng đã tăng mạnh trong giai đoạn 1970-1995. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh là vấn đề bất bình đẳng thường chỉ thu hẹp trong khuôn khổ các bất bình đẳng về thu nhập và nhất là các bất bình đẳng về tiêu dùng, các chỉ số này dễ đo đếm hơn và thường được đo đếm nhiều hơn. Trên thực tế, bất bình đẳng xã hội mang một phương diện rộng lớn hơn. Nó còn được xác định thông qua việc phân bổ các yếu tố tư liệu sản xuất khác như đất đai, vốn, lao động và khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ bản phổ quát như: y tế, giáo dục, nhà ở, bảo hiểm xã hội, quyền công dân, v.v. Để đi xa hơn, tôi muốn đề xuất rằng, phân tích bất bình đẳng xã hội

Các nước “Thần kỳ Đông Á”: kết quả giảm nghèo ấn tượng, 1975-1995

Pays du « Mirage de l’Asie Orientale » :réduction spectaculaire de la pauvreté, 1975-1995

S l ng 1975

S l ng 1985

S l ng 1993

S l ng 1995

% 1975

% 1985

% 1993

% 1995

ông Á 716,8 524,2 443,4 345,7 57,6 37,3 27,9 21,2

ông Á – Trung Qu c

147,9 125,9 91,8 76,4 51,4 35,6 22,7 18,2

Trung Qu c 568,9 398,3 351,6 269,3 59,5 37,9 29,7 22,2

Thái Lan 3,4 5,1 < 0,5 < 0,5 8,1 10 < 1 < 1

Malaysia 2,1 1,7 < 0,2 < 0,2 17,4 10,8 < 1 < 1

Indonesia 87,2 52,8 31,8 21,9 64,3 32,2 17 11,4

Philippin es 15,4 17,7 17,8 17,6 35,7 32,4 27,5 25,5

Vi t Nam .a.n 44,3 37,4 31,3 .a.n 74 52,7 42,2

Các n c thu c nhóm “Th n k ông Á” : thành t u gi m nghèo1975-95

Nguồn: V. Ahuja et. al, World Bank 1997.

8Bảng

Page 17: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 49

phải được dựa trên năm cặp đối lập: nông thôn /thành thị (khu vực), trung tâm/vành đai (vùng), đa số/thiểu số (dân tộc), chính thức/phi chính thức (việc làm) và nam/nữ (giới). Ngoài ra, để cụ thể hơn, từ phần này tôi sẽ tập trung phân tích vào trường hợp của hai nước trong khu vực mà tôi đánh giá là phù hợp nhất cho phân tích của chúng ta: Indo-nesia và Việt Nam.

1.1.3. phân tích so sánh quá trình khác biệt và bất bình đẳng xã hội ở indonesia và Việt nam

Tại sao tôi lại lựa chọn hai nước này? Câu trả lời trước hết là vì đây là hai nước có “trọng lượng” của khu vực Đông Nam Á. Xét về quy mô dân số, Indonesia có dân số gần 240 triệu người (đứng thứ tư thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ), còn Việt Nam có dân số gần 90 triệu người (đứng thứ ba trong khu vực, gần bằng dân số Philippines). Và hơn hết, xét theo lịch sử, văn hóa và tôn giáo, Indonesia và Việt Nam là hai “mô hình điển hình” giúp chúng ta có thể có sự phân tích so sánh thú vị nhất:

- Indonesia là nước đạo Hồi lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là nước đạo Hồi dân chủ lớn nhất thế giới từ 15 năm nay. Đất nước này đầu tiên bị Ấn hóa, sau đó bị Hà Lan đô hộ rất sớm, với mô hình quản lý gián tiếp thông qua người bản xứ;

- Việt Nam, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa Trung Hoa dưới một nghìn năm Bắc thuộc, bị Pháp đô hộ muộn hơn, Pháp áp dụng mô hình quản lý trực tiếp.

Trong phong trào giải phóng thuộc địa, hai nước này đều đã trải qua các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và các cuộc cách mạng, tuyên bố độc lập cùng một năm (1945), nhưng phải mất nhiều năm đấu tranh gian khổ mới thực sự giành được. Indonesia

giành được độc lập vào năm 1949 và Việt Nam giành được độc lập vào năm 1954 (miền Bắc) và năm 1975 (thống nhất đất nước).

Hai nước đã phải trải qua những thời điểm khởi đầu của quá trình độc lập đầy khó khăn trên phương diện chính trị và kinh tế, và các quá trình phát triển khác nhau theo thời gian:

- Năm 1949, Indonesia thoát khỏi ách đô hộ của Hà Lan trong tình trạng suy sụp và kiệt quệ. Ngay sau đó, năm 1950 lại rơi vào tình cảnh bất ổn chính trị, kinh tế trì trệ, tình hình lên tới đỉnh điểm khi nổ ra vụ thảm sát kinh hoàng năm 1965-1966 dẫn tới giải tán Đảng cộng sản Indonesia và sự sụp đổ của tổng thống Sukarno (cha đẻ của nền độc lập Indonesia). Sau đó, chế độ quân sự thân phương Tây của tướng Suharto lên nắm quyền. Quá trình phát triển của nước này chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1967;

- Việt Nam cũng ra khỏi cuộc khủng hoảng thế giới năm 1945 trong trình trạng suy yếu. Ngay sau đó phải trải qua các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc nối tiếp nhau chống lại thực dân Pháp cho tới khi giành chiến thắng vào năm 1954. Nhưng sau đó đất nước bị chia cắt làm đôi và phải chống đế quốc Mỹ cho tới khi giành lợi thắng vào năm 1975, thống nhất đất nước với sự lãnh đạo của vị cha già dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phải đến năm 1986 khi bắt đầu áp dụng chính sách Đổi mới, quá trình phát triển của đất nước mới thực sự bắt đầu. Đây sẽ là giai đoạn trọng tâm trong phân tích của chúng ta về quan hệ giữa nghèo đói, tăng trưởng và bất bình đẳng.

Quá trình phát triển nhanh của hai nước có sự khác biệt theo thời gian. Trái với Singapore và Malaysia vốn không phải trải qua những giai đoạn khó khăn thử thách mà bắt đầu ngay tiến trình phát triển của mình, bước phát triển

Page 18: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD50

khởi đầu của hai nước cách nhau 20  năm: Indonesia khởi đầu năm 1967 còn Việt Nam khởi đầu năm 1986. Tuy nhiên, giữa hai nước có rất nhiều điểm chung:

- Indonesia, dưới thời của chế độ chuyên chế và độc tài “Trật tự Mới”, đã có thời kỳ “Ba mươi năm vinh quang”, với mức tăng trưởng kinh tế ổn định và kết quả giảm nghèo đầy ấn tượng. Khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 đã đặt một dấu chấm cho quá trình phát triển cho tới tận năm 2005, kết thúc bằng một “thập kỷ mất mát” vì suy thoái kinh tế, bất ổn và bạo lực, làm suy yếu đất nước. Tuy nhiên, cuộc “khủng hoảng toàn diện” này đã cho ra đời một nền dân chủ cho đến nay có thể nói là tiến bộ nhất ở nước này.

- Việt Nam trong 20 năm qua đã có mức tăng trưởng kinh tế ổn định, ít bị tác động từ cuộc khủng hoảng 1997-1998 và đã trở thành một hình mẫu trong xóa đói giảm nghèo. Không có nhiều thay đổi trên phương diện chính trị; đất nước vẫn được điều hành theo một đảng lãnh đạo.

Bây giờ chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn các điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nước trên phương diện bất bình đẳng xã hội [2]. Sẽ có nhiều điểm tương đồng hơn là các điểm khác biệt. Chúng ta hãy bắt đầu bằng các con số cơ bản: hai nước có hệ số Gini về tiêu dùng không chỉ rất gần nhau mà còn ở mức thấp nhất ở Đông Nam Á. Mức trung bình của giai đoạn 2000-2010 là 37,6 ở Indonesia và 37,8 ở Việt Nam. Giả thuyết mà chúng tôi đưa ra để giải thích cho tình hình này là việc hai nước đã giành được độc lập nhờ vào các tiến trình

cách mạng mang tính dân tộc chủ nghĩa ở Indonesia và xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong các tiến trình đó, những người trước đây làm việc cho thực dân đều đã mất quyền lực và các đặc quyền của mình. Hiện tượng này không xảy ra với bất kỳ nước nào khác ở Đông Nam Á, ngoại trừ rất muộn sau này, vào năm 1975 ở Lào và nhất là ở Campuchia. Như vậy, cần phải nhấn mạnh rằng, các cuộc cách mạng dân tộc ở hai nước đều mang rất nhiều các giá trị về bình đẳng, đoàn kết thuộc về “nền tảng văn hóa chung” mà Paul Mus đã nhắc đến.

Quay lại các con số, ta có thể thấy bất bình đẳng mặc dù vẫn ở mức tương đối ôn hòa nhưng đã bắt đầu có xu hướng tăng nhanh và mạnh. Năm 2002, hệ số mới còn ở mức 34,3 ở Indonesia và 34,8 ở Việt Nam. Như vậy, khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng ra ở cả hai nước. Ở Indonesia, tương quan Q5/Q1 (Q: nhóm 1/5 dân số) đã tăng từ 5,2 lần năm 2002 (Q5/43,3 và Q1/8,4) lên 5,9 lần năm 2009 (Q5/44,9 và Q1/7,6); trong khi đó ở Việt Nam, cũng trong giai đoạn này, mức chênh lệch này đã tăng từ 5,6 lần năm 2002 (Q5/43 và Q1/7,7) lên 6,2 lần năm 2009 (Q5/45,4 và Q1/7,3). Điều đó cho thấy, tầng lớp tinh hoa mới, gần gũi với quyền lực chính trị đã hưởng lợi rất nhiều từ quá trình tự do hóa kinh tế, đồng thời ta thấy những bất bình đẳng mang tính bối cảnh đã được nhắc tới ở trên ngày càng gia tăng. Mức độ bất bình đẳng ở Việt Nam cao hơn một chút so với ở Indonesia. Đây là một điều đáng ngạc nhiên bởi vì Việt Nam xuất phát với mức bình đẳng khá cao trước Đổi mới. Trong vòng 25 năm, Việt Nam

[2] Tất cả các số liệu được sử dụng đến cuối đoạn so sánh giữa Việt Nam và Indonesia này được lấy từ dữ liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới hoặc từ Báo cáo phát triển con người năm 2010 của UNDP và được đưa vào trong 6 bảng chỉ số của phần phụ lục liên quan đến tất cả các nước thuộc Đông Nam Á.

Page 19: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 51

đã đuổi kịp và vượt Indonesia vì tình hình ở nước này có đi xuống nhưng ở mức ít hơn (hệ số Gini là 34,9 năm 1970). Các giả thuyết giải thích cho tình trạng này có thể là bởi quá trình tự do hóa ở Việt Nam đã diễn ra nhanh chóng, nền kinh tế nước này có độ mở lớn hơn nền kinh tế Indonesia. Tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDP đã tăng lên 68% so với mức 24% năm 2009. Đồng thời còn do sự khao khát tiêu dùng vốn bị hạn chế trong một thời gian dài và Việt Nam tương đối ít bị tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998. Chúng ta có thể lưu ý là cuộc khủng hoảng này dù sao cũng đã có một số những tác động có lợi; nhờ đó In-donesia đã cho ra đời được nền dân chủ nên cũng đã góp phần giảm nhẹ một chút tình trạng bất bình đẳng bởi trên thực tế, những tầng lớp trên và giàu có ở khu vực thành thị và dịch vụ là những người đầu tiên chịu tác động từ cuộc khủng hoảng này.

Tuy nhiên, nếu phân tích các xu hướng mang tính cơ cấu của sự khác biệt và bất bình đẳng xã hội, các đặc điểm tương đồng cũng vẫn thắng thế:

- Ở cả hai trường hợp, chênh lệch giữa thành thị và nông thôn gia tăng, trong khi năm 2010, tỷ lệ nghèo chung của cả nước ở mức 13,3% ở Indonesia và 14,5% ở Việt Nam. Ở nông thôn, tỷ lệ nghèo ở hai nước lên tới mức 16,7% ở Indonesia và 18,7% ở Việt Nam so với tỷ lệ nghèo thành thị chỉ là 9,9% ở Indonesia và 3,3% ở Việt Nam;

- Ở cả hai nước, khoảng cách phân biệt nông thôn - thành thị đi kèm theo với khoảng cách gia tăng giữa các trung tâm phát triển và các vùng vành đai. Đó là trường hợp của Java-Bali hoặc một số khu công nghiệp ở Sumatra, Kalimantan, Papua so với các tỉnh vùng sâu vùng xa như Bengkulu hay Moluques. Ở Việt Nam, khoảng cách chênh

lệch gia tăng giữa hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, hoặc giữa Đà Nẵng với các tỉnh Tây nguyên hoặc các tỉnh miền núi phía Bắc. Theo đó, số người sống dưới chuẩn nghèo tập trung đa số ở các vùng tập trung đông dân cư như đảo Java hoặc ở hai vùng đồng bằng lớn của Việt Nam; trong khi đó, tỷ lệ nghèo lại cao hơn rất nhiều trong các vùng sâu vùng xa. Thêm một nghịch lý nữa: bất bình đẳng về thu nhập nhìn chung lại thấp hơn ở các vùng nông thôn nghèo nhất so với các khu vực thành thị giàu có hơn;

- Ở cả hai nước, quá trình khác biệt xã hội kép này lại còn được tăng cường thêm bởi sự bất bình đẳng gia tăng giữa dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, hiện tượng này ở Việt Nam rõ rệt hơn, giữa dân tộc Kinh chiếm đa số với các dân tộc thiểu số sinh sống ở đồng bằng sông Cửu Long (Khmer), Tây Nguyên (dân tộc Jarai và các dân tộc thiểu số khác) và các tỉnh miền núi phía Bắc (Hmong, Dao, v.v.). Chính ở những vùng có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống nhất, tỷ lệ nghèo đói cũng cao nhất và các chỉ số phát triển con người cũng thấp nhất. Mặc dù ở Indonesia, người Javanais và người Sundanais ở đảo Java vẫn tiếp tục nắm giữ nhiều quyền lực chính về chính trị và kinh tế – cùng với bộ phận người Hoa thiểu số –, họ chia sẻ các quyền lực này một cách tương đối tốt với tầng lớp tinh hoa của một số dân tộc thiểu số lớn ở các đảo lân cận như dân tộc Minangkabau và dân tộc Batak ở đảo Sumatra hoặc dân tộc Bugis ở đảo Sulawesi. Hơn nữa, chính sách phân quyền hành chính được thực hiện với mức độ khá sâu từ sau khi chế độ Suharto sụp đổ thực sự đã là một “sự trả đũa của giới tinh hoa địa phương”. Họ bắt đầu nắm một phần lớn các quyền lực chính trị và kinh tế,

Page 20: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD52

đi cùng với khả năng “chia sẻ thành quả từ tham nhũng” và làm giàu nhanh chóng.

- Ở cả hai nước, khác biệt và bất bình đẳng xã hội được quyết định rất nhiều bởi khả năng tiếp cận với việc làm chính thức, lý do là bởi nghèo đói tập trung ở khu vực phi chính thức. Trong giai đoạn 2000-2008 khu vực này chiếm tới 63,1% việc làm ở Indonesia và 73,9% ở Việt Nam. Chúng ta đều đã biết, tỷ trọng lớn của việc làm phi chính thức trong nền kinh tế vẫn là một yếu tố giải thích cho đói nghèo và là một yếu tố có tính quyết định rất nhiều đến vấn đề bất bình đẳng.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhấn mạnh đến các khác biệt đáng kể giữa hai nước trong quá trình hình thành phân biệt và bất bình đẳng xã hội. Có thể đơn cử trường hợp của cặp đối lập thứ 5 trong số các cặp đối lập về bất bình đẳng mang tính cơ cấu, liên quan đến khác biệt và bất bình đẳng về giới. Cụ thể, bất bình đẳng về giới ở Việt Nam ít hơn nhiều so với ở Indonesia. Năm 2010, chỉ số bất bình đẳng về giới ở Việt Nam là 0,530 và ở Indonesia là 0,680. Thực tế này cũng trùng với các chỉ số khác được UNDP sử dụng: tỷ lệ phụ nữ là đại biểu quốc hội ở Việt Nam là 25,8% trong khi ở Indonesia chỉ là 11,6% –, tỷ lệ tử vong bà mẹ ở Việt Nam là 150 so với 420 ở Indonesia. Nguyên nhân giải thích cho sự khác biệt này chắc chắn là chế độ chính trị xã hội của Việt Nam và các cuộc chiến tranh liên tiếp mà nước này phải gánh chịu trong đó phụ nữ Việt đóng vai trò rất quan trọng. Còn về phía Indonesia, yếu tố đó chính là vai trò của đạo Hồi, vai trò này ngày càng gia tăng từ sau sự sụp đổ của chế độ Suharto.

Nói một cách rộng hơn, các chỉ báo về phát triển con người ở Việt Nam tốt hơn so với Indonesia, do nước này đầu tư nhiều hơn vào các lĩnh vực xã hội, giáo dục và nhất là y tế:

- chỉ số phát triển con người (HDI) ở Indonesia có tốt hơn một chút, ở mức 0,600 năm 2010 (so với 0,380 năm 1980 và 0,500 năm 1990), xếp thứ hạng 108 trên thế giới; trong khi đó ở Việt Nam là 0,572, xếp thứ hạng 113 ở cùng thời điểm. Tuy nhiên, Việt Nam có xuất phát điểm thấp hơn và nhất là muộn hơn đến 20 năm. Việc Indonesia có thứ hạng tốt hơn Việt Nam như vậy là do thu nhập bình quân đầu người nước này cao hơn khoảng 1000 US$ so với thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam. Vả lại, yếu tố này có tác động rất lớn đến kết quả tính toán chỉ số phát triển con người HDI: năm 2009, GNP/per capita (Tổng sản phẩm quốc dân tính trên đầu người) của Indonesia là 2349 US$ so với 1113 US$ của Việt Nam, tính theo giá trị hiện hành là 3720 US$ so với 2790 US$ tính theo sức mua tương đương  PPP; RNB/per capita [3] ở Indonesia là 3720 US$ so với 2790 US$ của Việt Nam. Tuy nhiên, hai nước đều đạt được những tiến bộ tương đương nhau và khoảng cách giữa hai nước đang dần thu hẹp vì Indonesia có mức xuất phát điểm vào khoảng 600 US$ PPP năm 1965 so với 200 US$ của Việt Nam;

- ngược lại, đối với các yếu tố khác về HDI, Việt Nam cũng có những kết quả tương đương, thậm chí tốt hơn Indonesia. Trong lĩnh vực giáo dục, hai nước đạt được những kết quả khá tương đương (thời gian đi học trung bình năm 2010 ở Indonesia là 5,7 năm, còn Việt Nam là 5,5 năm). Trong lĩnh vực y tế, Việt Nam đạt được kết quả tốt hơn: năm 2010, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là

[3] PPP: So sánh sức mua tương đương; RNB: Tổng sản phẩm quốc dân.

Page 21: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 53

74,9 so với 71,5 ở Indonesia, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam chỉ ở mức 14‰ so với 41‰ ở Indonesia, tương tự như tỷ lệ tử vong bà mẹ!

Các khác biệt trong phát triển xã hội giữa hai nước có một nguyên nhân rất rõ ràng. Nếu tính theo phần trăm tổng sản phẩm quốc nội GDP, chi tiêu công của Việt Nam năm 2009 cao gấp 3 lần so với Indonesia trong lĩnh vực y tế (7,2% so với 2,4%), hai lần trong lĩnh vực giáo dục (5,3% so với 2,8%). Tuy nhiên, hiện nay hai lĩnh vực xã hội này hiện đang được xã hội hóa ở Việt Nam và không phải tất cả các thay đổi đều diễn ra theo chiều hướng tốt.

Việc các khác biệt giữa hai nước được thể hiện rõ rệt nhất trong các chỉ báo chính trị - xã hội về phát triển con người không có gì đáng ngạc nhiên. Từ năm 2010, Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đã thay đổi các chỉ số về phát triển, hiện nay có sử dụng thêm các chỉ số về vấn đề bất bình đẳng. Chỉ số phát triển con người hiện nay được tính toán thêm với các chỉ báo về bất bình đẳng, các tính toán về chất lượng sống, chỉ số hạnh phúc, v.v. Theo tính toán của tổ chức Minh bạch quốc tế Transparency International, hai nước đều bị chỉ trích thiếu minh bạch và có xếp hạng tương đương về tham nhũng năm 2010: đối với Indonésia, mức độ minh bạch 2,8 và xếp thứ 110 trên thế giới về tham nhũng, những con số này là 2,7 và 116 đối với Việt Nam.

kết luận: bế tắc của mô hình phát triển và khả năng thay đổi con đường phát triển?

Phân tích các quá trình hình thành phân biệt và bất bình đẳng xã hội đang ngày càng gia tăng tại khu vực Đông Nam Á cho phép rút ra nhiều kết luận về bế tắc của mô hình phát

triển mà các nước trong khu vực đang theo đuổi và những khả năng có thể thực hiện những thay đổi về mô hình để đi theo một con đường phát triển mới ổn định hơn. Hiển nhiên là mô hình phát triển hiện nay với mức độ hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu đã giúp các nước đảm bảo được mức tăng trưởng cao và bền vững, giúp họ thực hiện được các chính sách công dẫn tới kết quả giảm nghèo ấn tượng. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này cũng đi kèm với tình trạng ngày càng gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và các hiện tượng bất bình đẳng xã hội khác theo 5 cặp tiêu chí đối lập đã trình bày ở trên.

Thế nhưng một mặt, việc bất bình đẳng gia tăng liên tục đã vượt mức có thể chấp nhận. Điều này là nguồn gốc của những căng thẳng về mặt xã hội và bất ổn về chính trị. Đó cũng là một trở ngại cho việc theo đuổi một quá trình phát triển vì con người, đảm bảo cải thiện điều kiện sống cho mọi người dân. Nhiều nhà kinh tế sáng suốt đã chỉ ra rằng nếu nằm dưới một ngưỡng bất bình đẳng nhất định thì khó có thể đạt được tăng trưởng ổn định, nhưng đồng thời, nếu bất bỉnh đẳng vượt ngưỡng thì tăng trưởng kinh tế cũng sẽ bị đe dọa. Mặt khác, việc theo đuổi tăng trưởng kinh tế theo con đường như vậy bản thân nó cũng đã là không thể. Nó phụ thuộc vào việc hội nhập ngày càng lớn vào quá trình toàn cầu hóa trong đó cạnh tranh càng ngày càng khốc liệt, cuộc chiến cạnh tranh, tăng năng suất không bao giờ ngừng nghỉ. Rất nhiều lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế và các dịch vụ công cơ bản sẽ bị tư nhân hóa, xu hướng chạy theo tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tăng mà tất cả chúng ta đều đã biết những tác hại khủng khiếp của nó và tham nhũng cũng sẽ ngày càng lan rộng.

Page 22: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD54

Vả lại, con đường phát triển như vậy cũng sẽ là không tốt xét về môi trường sinh thái.

Ngay cả khi tăng trưởng kinh tế vẫn tương đối ổn định, như trường hợp của Indonesia, điều đó cũng không giúp tránh khỏi việc bị rơi vào “cái bẫy” của các nước có thu nhập trung bình được biểu hiện bằng một mức tăng trưởng kinh tế không đi kèm với tạo thêm việc làm, điều này sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên tăng cao, đi kèm với những nguy cơ về xã hội và chính trị. Cuối cùng, như chúng ta đã nhắc đến ở trên, mô hình phát triển như vậy hoàn toàn không thể được xét trên góc độ môi trường sinh thái vì nó dựa trên việc khai thác bừa bãi tài nguyên, dẫn tới những tác động nghiêm trọng đến môi trường, làm gia tăng xu hướng trái đất nóng lên, đe dọa đến phần lớn các nước trong khu vực vốn có vùng bờ biển rộng lớn.

Trên cơ sở như vậy, liệu có thể nghĩ rằng cần thiết phải thay đổi định hướng phát triển. Chúng ta thấy dường như Đông Nam Á, có thể là hơn nhiều khu vực khác trên thế giới, trên cơ sở các giá trị cốt yếu của “nền tảng văn hóa chung”, sẽ có khả năng lựa chọn và áp dụng một con đường phát triển khác. Chẳng hạn ở Indonesia, xã hội nông dân vẫn luôn có truyền thống ủng hộ một hệ thống kinh tế - xã hội dựa trên các nguyên tắc hoàn toàn thích ứng để tái xây dựng một con đường phát triển khác cho tương lai, thay thế cho con đường phát triển hiện tại. Tôi chỉ xin liệt kê ở đây ba nguyên tắc quan trọng nhất: hidup sederhana – nguyên tắc về một cuộc sống bình dị –, cukupan – nguyên tắc theo đó

điều quan trọng không phải là làm giàu, tích lũy tài sản vô tận mà là chỉ cần có đủ để có được sự ấm no và hạnh phúc –, pemerataan – nguyên tắc chia sẻ công bằng các nguồn của cải. Những cuộc cách mạng chống thực dân của Việt Nam và Indonesia cũng đều chứa đựng rất nhiều các giá trị về công lý và đoàn kết tương trợ.

Mặc dù ít quen thuộc hơn với văn hóa Việt Nam, tôi vẫn tin tưởng rằng xã hội nông thôn truyền thống ở các vùng đồng bằng và miền núi cũng đều có những giá trị chung tạo nên nền tảng các nguyên tắc chung cho cuộc cách mạng xã hội của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ta có thể giả thiết rằng thực tế cũng tương tự như vậy ở hầu hết các nước khác trong khu vực và rằng vẫn còn có những giá trị về tính bình dị, tinh thần đoàn kết, ý thức chia sẻ và biết điều ở tất cả các xã hội thuộc về “nền tảng văn hóa chung” của Paul Mus – có thể ngoại trừ Singapore và Brunei. Ở mọi trường hợp, chắc chắn là trên một nền tảng như vậy, theo hướng những gì mà những người theo thuyết “giảm tăng trưởng” ủng hộ, mà ta phải định nghĩa lại con đường phát triển công bằng về mặt xã hội, bền vững về môi trường cho hành tinh của chúng ta. Đông Nam Á có những ưu thế giúp cho họ thực hiện được một thay đổi ít khó khăn hơn và bớt khốc liệt hơn so với các khu vực khác.

Tôi tin rằng chắc chắn một thế giới khác là có thể, nhưng hơn bao giờ hết, ý chí và sự dũng cảm về chính trị lớn hơn sẽ là cần thiết để biến điều này thành hiện thực, đúng như lời Gramsci đã nói. Xin cảm ơn.

Page 23: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 55

Đông Nam Á: các chỉ số kinh tế chínhông Nam Á : các ch s kinh t chính

GDP 2009 (tri u US$)

T ng GDP 2007(%)

GDP / pc2009 CRT

(US$)

GNI/pc2009 PPP

(US$)

Xu t kh u 2009

% GDP

Nh p kh u 2009

% GDP

L m phát 2009(%)

Singapore 182,352 8,5 36,587 44,790 221 (08) 45 (08) 0,6

Brunây 11,17 4,4 30,391 51,200 68 (07) 54 (06) 1

Malaysia 193,03 6,5 7,030 13,710 96 31 0,6

Thái Lan 263,77 4,9 3,893 7,640 68 30 - 0,8

Philippines 161,19 7,0 1,752 3,540 32 40 3,2

Indonesia 540,27 6,3 2,349 3,720 24 23 6.4

Vi t Nam 97,18 8,5 1,113 2,790 68 29 7,1

Lào 5,94 7,6 940 2,200 33 (08) 25 (08) 0

Campuchia 10,45 10,2 706 1,820 60 19 - 0,7

Myanmar n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. n.a.

Ngu n: Ngân hàng Th gi iPc: per capita, tính theo u ng iPPP: s c mua t ng ng

Nguồn: Ngân hàng Thế giớiPc: per capita, tính theo đầu ngườiPPP: sức mua tương đương

Đông Nam Á: các chỉ số phát triển con người (HDI) (1)ông Nam Á: các ch s phát tri n con ng i (HDI) (1)

HDI 1980 ch s

HDI 2010 ch s

HDI 2010 x p h ng

Tu i thtrung bình

2010

Trung bình th i gian i

h c 2010

GNI /pc2008

US$ PPP

X p h ng GNI-IDH

2010

Singapore n.a. 0,846 27 80,7 8,8 48,893 -19

Brunây n.a 0,805 37 77,4 7,5 49,915 -30

Malaysia 0,541 0,744 57 74,7 9,5 13,927 -3

Thái Lan 0,483 0,654 92 69,3 6,6 8,001 -11

Philippines 0,523 0,638 97 72,3 8,7 4,002 +12

Indonesia 0,390 0,600 108 71,5 5,7 3,957 +2

Vi t Nam n.a. 0,572 113 74,9 5,5 2,995 +7

Lào n.a. 0,497 122 65,9 4,6 2,321 +3

Campuchia n.a. 0,494 124 62,2 5,8 1,868 +12

Myanmar n.a. 0,451 132 62,7 4 1,596 +8

Nguồn: Báo cáo thế giới về phát triển con người 2010, UNDP

10

phụ lục

9Bảng

Bảng

Page 24: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD56

Đông Nam Á: các chỉ số phát triển con người (HDI) (2)ông Nam Á: các ch s phát tri n con ng i (HDI) (2)

HDI 1990 ch s

HDI 2000 ch s

HDI 2010 ch s

HDI 2010 Ch s c i u

ch nh theo b t bình ng

T ng t n th t

(%)

Thay i x p h ng

Ginitrung bình

2000-10

Singapore n.a. n.a. 0,846 n.a. n.a. n.a. 42,5

Brunây 0,773 0,792 0,805 n.a. n.a. n.a. n.a.

Malaysia 0,616 0,691 0,744 n.a. n.a. n.a. 37,9

Thái Lan 0,546 0,600 0,654 0,516 21,2 +5 42,5

Philippines 0,552 0,597 0,638 0,518 18,9 +11 44

Indonesia 0,458 0,500 0,600 0,494 17,7 +9 37,6

Vi t Nam 0,407 0,505 0,572 0,478 16,4 +9 37,8

Lào 0,354 0,425 0,497 0,374 24,8 +5 32,6

Campuchia n.a. 0,412 0,494 0,351 28,8 +3 44,2

Myanmar n.a. n.a. 0.451 n.a. n.a. n.a. n.a.

Nguồn: Báo cáo thế giới về phát triển con người 2010, UNDP

Đông Nam Á: các chỉ số về nghèo đói và việc làmông Nam Á : các ch s v nghèo ói và vi c làm

Nghèo ói %1.25 $ 2009

Nghèo ói% 2 $ 2009

Nghèo ói theo qu c gia % 2009

Nghèo ói nông thôn

%

Nghèo ói ô th

%

Vi c làm nông nghi p

% 2007

Vi c làm chính th c % 2000-08

Singapore 0 0 0 0 0 0 89.8

Brunây 0 0 0 0 0 n.a. n.a.

Malaysia 0 2.3 3,8 8,2 (09) 1,7 14.8 77,6

Thái Lan 10.8 26,5 8,1 10,4 (09) 3 41,7 46,6

Philippines 22,6 (06) 45 (06) 26,5 n.a. n.a. 36,1 55,3

Indonesia 18,7 50,6 13,3 (10) 16,6 (10) 9,9 41,2 36,9

Vi t Nam 13,1 (08) 38,5 (08) 14,5 (08) 18,7 (08) 3,3 n.a. 26,1

Lào 33,9 (08) 66 (08) 27,6 (08) 31,7 (08) 17,4 n.a. n.a.

Campuchia 28,3 (07) 56,5 (07) 30,1 (07) 34,5 (08) 11,8 n.a. 13,1

Myanmar n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. n.a.

Nguồn: World Bank Database

12

11Bảng

Bảng

Page 25: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 57

Đông Nam Á: các chỉ số về bất bình đẳng về thu nhập và về giớiông Nam Á : các ch s v b t bình ng v nh p và v gi i

B t bình ng % R n Q5

2009

B t bình ng

% R n Q1 2009

B t bình ng

T l Q5/Q1

B t bình ng v

gi i ch s2010

Chính tr% s gh

c a n gi i trong qu c

h i

Y tt l bà m

t vong

Giáo d c %ph n h c

h t phthông

Singapore n.a. n.a. n.a. 0,255 24,4 14 57,3

Brunây n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. 13 66,6

Malaysia 4,5 51,5 11,5 0,493 14,6 62 66

Thái Lan 3,9 58,6 15 0,586 12,7 110 25,6

Philippines 5,6 (06) 50,4 9 0,623 20,2 230 65,9

Indonesia 7,6 44,9 5,9 0,680 11,6 420 24,2

Vi t Nam 7,3 (08) 45,4 6,2 0,530 25,8 150 24,7

Lào 7,6 (08) 44,8 5,9 0,650 25,2 660 22,9

Campuchia 6,6 (07) 51,7 7,8 0,672 15,8 540 11,6

Myanmar n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. 380 18,0

Nguồn: World Bank Database; Báo cáo thế giới về phát triển con người 2010, UNDP

Đông Nam Á: các chỉ số khác về chính trị xã hộiông Nam Á : các ch s khác v chính tr xã h i

Chi tiêu công cho y t % GDP

2009

T vong tr em d i 5 tu i 2008

Chi tiêu công cho

giáo d c % GDP 2008

T l n tr ng ph

thông 2001-09

Ch s dân ch EIU

2010

T do báo chí UNDP 2009

Tham nh ng (nh n th c)

ch s và x ph ng TI 2010

Singapore 3,9 3 3 (09) 100 5,89 45 9,3 (1)

Brunây 3 7 n.a. 96,7 n.a. n.a. 5,5 (38)

Malaysia 4,8 6 4,1 69,1 6,19 48,3 4,4 (56)

Thái Lan 4,3 14 4,1 (09) n.a. 6,55 44 3,5 (78)

Philippines 3,8 32 2,8 81,4 6,12 38,3 2,4 (134)

Indonesia 2,4 41 2,8 75,8 6,53 28,5 2,8 (110)

Vi t Nam 7,2 14 5,3 66,9 2,94 81,7 2,7 (116)

Lào 4,1 61 2,3 43,9 2,10 92 2,1 (154)

Campuchia 5,9 90 3,7 (09) 40,4 4,87 35,2 2,1 (154)

Myanmar 2 98 n.a. 49,3 1,77 102,7 1,4 (176)

Nguồn: World Bank Database; Báo cáo thế giới về phát triển con người 2010, UNDPEconomist Intelligence Unit’s (EIU); Transparency international

13

14

Bảng

Bảng

Page 26: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD58

Một số sách chọn lọc

Về vấn đề bất bình đẳng

ATKINSON, A. (1970), “  On Measurement of Inequality “, Journal of Economic Theory, (2): 244-63.

BIRDSALL, N. (1999), “ Life is Unfair: Inequality in the World “, Foreign Policy, (95): 76-93.

BOCCELLA, N., A. BILLI (2005), Développement, inégalités, pauvretés. Paris: Karthala.

BOURGUIGNON, F., Ch. MORRISSON (2002), “Inequality among World Citizens, 1820-1992“, American Economic Review, 92(4): 727-44.

COMELIAU, Ch. (sous la direction de) (2006), Le défi social du développement: globalisation et inégalités, Paris/Genève: Karthala et IUED.

CORNIA, G A., J. COURT (2001), Inequality, Growth and Poverty in the Era of Liberalization and Globalization, Helsinki: UNU-WIDER, Policy Brief n° 4.

CORNIA, G A. (Ed) (2004), Inequality, Growth and Poverty in an Era of Liberalization and Globalization, Oxford/New York: Oxford University Press.

DENINGER, K., L. SQUIRE (1998), “ Ways of Looking at Old Issues: Inequality and Growth ”, Journal of Development Economics, 57 (2): 259-87.

DOLLAR, D. (2004), Globalization, Poverty, and Inequality since 1980. Washington: World Bank, Policy Research Working Paper 3333.

EASTERLY, W. (2002), Inequality Does Cause Underdevelopment: New Evidence, Washington: Centre for Global Development, Mimeo.

FITOUSSI, J-P., P. ROSANVALLON (1996), Le nouvel âge des inégalités. Paris: Seuil.

FITOUSSI, J-P., P. SAVIDAN (sous la direction de) (2003), Les inégalités. Paris: Comprendre, no 4.

GALBRAITH, J. (2011), “ Inequality and economic and political change: a comparative perspective” Cambridge Journal of Regions, Economy and Society, (4):13-27.

GRAMSCI, A. (1975), Gramsci dans le texte. De l’avant aux derniers écrits de prison. Recueil de textes sous la direction de F. Ricci. Paris: Editions Sociales.

HARRISON, A., M. McMILLAN (2007) “ On the Links between Globalization and Poverty”, Journal of Economic Inequality (5): 123-134.

JOMO, K S., J. BAUDOT (Eds) (2007), Flat World, Big Gaps: Economic Liberalization, Globalization, Poverty & Inequality, Hyederabad/London: Orient Longman and Zed Books.

KANBUR, R. (2003), Conceptual Challenges in Poverty and Inequality: One Development Economist Perspective. Helsinki: UNU-WIDER, Mimeo.

KRUGMAN, P. (2003), The Great Unraveling: Losing our Way in the New Century. New York: Norton.

KUZNETS, S. (1955), “Economic Growth and Income Inequality“, American Economic Review, 45 (1): 1-28.

MILANOVIC, B. (2002), Worlds Apart: International and World Inequality 1950-2000. Washington: World Bank, Mimeo.

MILANOVIC, B. (2004), Half a World: Regional Inequalities in Five Great Federations. Washington: World Bank and Carnegie Endowment for International Peace, Mimeo.

PERSSON, T., G. TABELLINI (1994), “Is Inequality Harmful for Growth?“, American Economic Review, 84(3): 600-620.

PIKETTY, Th. (1997), L’économie des inégalités. Paris: La Découverte.

RAVALLION, M. (2001), “Growth, Inequality and Poverty: Looking beyond Averages“, World Development, 29 (11): 1803-55.

Page 27: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 59

RODRIK, D. (1997), Has Globalization Gone too far?, Washington: Institute for International Economics, Mimeo.

RODRIK, D. (2006), Goodbye Washington Consensus, Hello Washington Confusion. Cambridge: Harvard University, Mimeo.

SALA-I-MARTIN, X. (2002), The World Distribution of Income, Washington: National Bureau of Economic Research, Working Paper 8933.

SEN, A. (1995), Inequality Reexamined, New York/Oxford: Clarendon Press and Russell Sage.

STEWART, F. (2001), Horizontal Inequality: A Neglected Dimension of Development. Helsinki: UNU-WIDER, Annual Lecture 5.

STIGLITZ, J. (2002), La grande désillusion, Paris: Fayard.

SUMNER, A. (2003), From Lewis to Dollar and Kray and Beyond: a Review and Stocktake of Fifty Years of Poverty, Inequality and Economic Growth, London: DSA Meeting at ODI, Mimeo.

WADE, R. (2004), “Is Globalization Reducing Poverty and Inequality? “, World Development, 32 (4): 567-89.

WEISBROT, M., R. NAIMAN, J. KIM (2000), The Emperor has no Growth: Declining Economic Growth Rate in the Era of Globalization, Washington: Center for Economic and Policy Research.

WILLIAMSON, J. (1993), “Democracy and the ‘Washington Consensus“, World Development, 21 (5): 1329-36.

WILLIAMSON, J. (2002), Winners and Losers over Two centuries of Globalization, Helsinki: UNU-WIDER Annual Lecture 6.

Về Đông Nam Á

ALAGAPPA, M. (Ed) (1995), Political Legitimacy in Southeast Asia: the Quest for Moral Authority, Stanford: Stanford University Press.

ARNDT, H., H. HILL (Eds) (1999), Southeast Asia’s Economic Crisis: Origins, Lessons, and the Way Forward, Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.

BEESON, M. (2004), Contemporary Southeast Asia. London: Palgrave Macmillan.

BELO, W., S. ROSENFELD (1990), Dragons in Distress: Asia’s Miracle Economies in Crisis, London: Penguin Books.

BRUNEAU, M. (2006), L’Asie d’entre Inde et Chine: logiques territoriales des États, Paris: Belin.

CHANG, H-J. (2006), The East-Asian Development Experience. The Miracle, the Crisis and the Future, London, Zed Books, Third World Network.

CHOWDURY, A., I. ISLAM (1993), The Newly Industrialising Economies of East Asia. London: Routledge.

DE KONINCK, R. (2005), L’Asie du Sud-Est. Paris: Armand Colin.

DIXON, Ch. (1991), South East Asia in the World-Economy. Cambridge: Cambridge University Press.

GOUROU, P. (1936), Les paysans du delta tonkinois. Etude de géographie humaine, Paris: Les Editions d’Art et d’Histoire.

HEWISON, K., R. ROBISON, G. RODAN (Eds) (1993), Southeast Asia in the 1990’s: Authoritarianism, Democracy and Capitalism, St. Leonards: Allen & Unwin (Australia).

ISLAM, I., A. CHOWDURY (1997), Asia-Pacific Economies: a Survey. London: Routledge.

JOMO, K.S. (Ed) (1997), Southeast Asia’s Misunderstood Miracle. Industrial Policy and Economic Development in Thailand, Malaysia and Indonesia. Boulder: Westview.

Page 28: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD60

JOMO, K.S. (Ed) (1998), Tigers in Trouble. Financial Governance, Liberalisation and Crisis in East Asia. London: Zed Books.

JOMO, K.S. (Ed) (2003), Southeast Asian Paper Tigers? From Miracle to Debacle and Beyond. London: RoutledgeCurzon.

KIM Young C. (Ed) (1995), The Southeast Asian Economic Miracle. New Brunswick and London: Transaction Publishers.

KINSBURY, D. (2001), South-East Asia: a Political Profile. Melbourne: Oxford University Press.

KUNIO, Y. (1988), The Rise of Ersatz Capitalism in South-East Asia. Singapore: Oxford University Press.

LOMBARD, D. (1990), Le carrefour javanais. Essai d’histoire globale. Trois volumes, Paris: Editions EHESS.

McLEOD, R., R. GARNAUT (Eds) (1998), East Asia in Crisis: From Being a Miracle to Needing One?, London: Routledge.

MUS, P. (1977), L’angle de l’Asie, Paris: Hermann, Collection Savoir.

NEHER, C., R. MARSSLEY (Eds) (1995), Democracy and Development in Southeast Asia: the Winds of Change, Boulder: Westview Press.

PARNWELL, M., R. BRYANT (Eds) (1996), Environmental Change in South-East Asia, People, Politics and Sustainable Development. London: Routledge.

RIGG, J. (1997), Southeast Asia: the Human Landscape of Modernization and Development, London: Routledge.

ROBISON, R., D. GOODMAN (Eds) (1996), The New Rich in Asia, Mobile Phones, McDonald’s and Middle Class Revolution. London: Routledge.

ROBISON, R., M. BEESON, K. JAYASURIYA and H-R. KIM (Eds) (2000), Politics and Markets in the Wake of the Asian Crisis, London and New York: Routledge. Chicago: Contemporary Books.

SCOTT, J. (2009), The Art of Not Being Governed, An Anarchist History of Upland Southeast Asia. New Haven and London, Yale University Press.

SEN, A. (1999), Beyond the Crisis: Development Strategies in Asia, Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.

STIGLITZ, J., S. YUSUF (Eds) (2001), Rethinking the East Asian Miracle, Oxford: Oxford University Press.

STUBBS, R. (2005), Rethinking Asia’s Economic Miracle. Basingstoke and New York: Palgrave Macmillan.

TERTRAIS, H. (1996), Asie du Sud-Est: le décollage, Paris: Le Monde/Marabout.

VATIKIOTIS, M. (1996), Political Change in Southeast Asia; Trimming the Banyan Tree, London: Routledge.

WATKINS, K. (1998), Economic Growth with Equity: Lessons from Asia, Oxford: Oxfam Publications.

WORLD BANK (1993), The East Asian Miracle: Economic Growth and Public Policy, New York: Oxford University Press.

thảo luận…

nguyễn thu Quỳnh, Viện phát triển bền vững vùng trung Bộ, VaSS

Nghèo đói có gắn với quá trình lịch sử và có liên quan đến những cơ chế tạo ra bất bình đẳng. Nếu có một “lối ra” cho bất bình đẳng thì đâu sẽ là động cơ?

Jean-Luc Maurer

Phần lớn các quân bài đều nằm trong tay các cơ quan quyền lực chính trị và các chính sách công được thông qua và thực hiện. Nếu sử dụng đồng thời cả các chính sách thuế và chính sách tái phân bổ, có khả năng có thể

Page 29: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 61

thay đổi được tình hình. Trong trường hợp này, chính các chính sách công đã cho phép thu được nhiều thành công trong xóa đói giảm nghèo chứ không phải là quy luật thị trường. Tuy nhiên, rất ít các nhà quản lý hiện nay thực sự có đủ quan tâm đến vấn đề bất bình đẳng để đưa ra được những biện pháp hiệu quả nhằm giảm bất bình đẳng trong xã hội. Nếu chúng ta nhìn vào thu nhập, lương, thưởng lên tới hàng trăm triệu đô la của các ông chủ doanh nghiệp, tôi nghĩ rằng chúng ta có chỗ để can thiệp. Thực tế, cái gọi là “bàn tay vô hình” của thị trường chỉ là một ảo tưởng nguy hiểm, cần thiết phải có điều tiết đối với các thu nhập đó.

Jean-pierre cling, iRD-DiaL

Đạo Phật tôn vinh các giá trị về ý thức chia sẻ, tính khiêm nhường, cũng giống như đạo Khổng, đạo Hồi hoặc đạo Thiên chúa. Rốt cuộc, các tôn giáo đều chứa đựng các giá trị tương đối gần nhau, vậy yếu tố này theo tôi cũng không giải thích được gì nhiều. Tôi thấy các luận thuyết liên quan đến những ảnh hưởng của tôn giáo, hoặc lý giải bằng văn hóa ít có giá trị trong việc lý giải các hiện tượng bất bình đẳng. Vả lại, các nước phát triển có mức độ bất bình đẳng lớn, như Mỹ hay Anh là những nước theo đạo Tin lành, cũng đều chứa đựng các giá trị tương tự. Ý cuối cùng, năm tiêu chí xác định mức độ phân biệt xã hội đưa ra ở trên theo tôi là xác đáng, nhưng tôi thấy còn thiếu tiêu chí về tầng lớp xã hội.

Virginie Diaz, aFD

Ông đã nói rằng bất bình đẳng có liên quan đến lựa chọn chính trị, lịch sử và thể chế. Tôi đồng tình với ý kiến này. Tuy nhiên, tìm kiếm bình đẳng bằng mọi giá thì cũng không phải là điều nên làm. Thực tế ở nhiều nước chuyên chế đã cho thấy việc tái phân bổ thu nhập một cách cưỡng bức không phải lúc nào cũng

mang lại những kết quả thuyết phục và thậm chí có thể đặt ra các vấn đề về công bằng xã hội và tự do cá nhân. Tại sao bất bình đẳng lại làm cho chúng ta thấy sốc? Chắc chắn là bởi vì bình đẳng xã hội là một điều lý tưởng để từ đó có thể lý giải được mọi cách xử sự sai lệch. Nhà kinh tế Amartya Sen đã chứng minh rất rõ rằng bình đẳng xã hội là điều lý tưởng và rằng không nên nhầm bất bình đẳng với bất công. Ông nghĩ gì về điều này trong trường hợp của Đông Nam Á?

axel Demenet, iRD-DiaL

Tôi muốn quay lại các vấn đề về những giá trị chung tại Đông Nam Á mà tác giả đã nêu lên, cũng như về tầm quan trọng của các giá trị đó, nhất là trong mối liên quan với các vấn đề bất bình đẳng. Các giá trị này có thể có tác động trực tiếp tới chất lượng sống của người dân, và mọi người không có cái nhìn giống nhau về điều khó chịu, phiền toái mà những giá trị đó gây ra. Quay trở lại trường hợp của Việt Nam, tôi thấy ông thiên về hướng lạc quan nhiều hơn khi nhắc tới nền tảng chung về tư tưởng bình đẳng. Về phần tôi, tôi thấy ở Việt Nam có một thế hệ mới khao khát tiêu dùng nhiều hơn và mong muốn tăng trưởng rõ ràng hơn và thấy được cụ thể hơn. Đây là lý do tại sao tôi đặt câu hỏi về sự tồn tại lâu dài của tinh thần bình đẳng và nhạy cảm với bất bình đẳng này.

Jean-Luc Maurer

Tôi chỉ có thể đồng ý với anh Jean-Pierre, tất cả các tôn giáo lớn, ít nhất về lý thuyết, đều chia sẻ các giá trị chung về tính bình dị, tinh thần bình đẳng, lòng từ thiện; dù các giá trị đó được ghi trong các sách thánh kinh hay được truyền khẩu trong dân gian. Và tôi nghĩ rằng, trong những nền truyền thống có ảnh hưởng nhiều, vẫn luôn có một số giá trị mà người ta có thể dựa vào đó để quay về với một nhân

Page 30: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD62

sinh quan về phát triển ít mang tính vật chất và tinh thần tiêu dùng chủ nghĩa, mang lại một cơ may cho điều mà tôi ủng hộ, đó là định hướng lại tổng thể cả con đường phát triển. Đạo Cơ đốc cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này có nhiều sự khác biệt lớn giữa đạo Thiên chúa và đạo Tin lành. Jean-Pierre đã nhắc đến các nước nói tiếng Anh và Mỹ với truyền thống theo đạo Tin lành. Có một khoảng cách lớn giữa đạo Tin lành và đạo Thiên chúa xét trên quan niệm về nghèo đói và bất bình đẳng. Với những người theo đạo Tin lành, bất bình đẳng là tương đối bình thường: cần phải đạt được thiên đường của mình trên mặt đất; người nghèo phải tự chịu trách nhiệm về cảnh nghèo của mình. Đối với đạo Thiên chúa, người nghèo không phải là thủ phạm mà là nạn nhân của một hệ thống. Còn đối với yếu tố tầng lớp xã hội, tôi không đề cập đến ở đây theo nghĩa hẹp của khái niệm này và tôi cũng không phân tích trên góc độ cấu trúc xã hội, điều này không phải là dễ vì để làm được điều đó chúng ta cần phải định nghĩa được thế nào là tầng lớp trung bình, một khái niệm “không thể nắm bắt”. Tuy nhiên, tôi thấy rằng khi phân chia các nhóm xã hội theo kiểu 1/5, khi nhắc tới phân phối thu nhập, chúng ta cũng đã nhắc tới vấn đề về tầng lớp. Nhóm 1/5 thấp nhất nói một cách chung nhất là tương ứng với tầng lớp vô sản, ba nhóm 1/5 ở giữa tương ứng với tầng lớp trung bình (dưới, giữa và trên) và nhóm 1/5 cao nhất tương ứng với tầng lớp đặc quyền.

Để trả lời cho câu hỏi của chị Virginie, hiển nhiên, việc tìm kiếm bình đẳng tuyệt đối là điều vô lý và là một tội ác. Điều này có thể thấy dưới chế độ Khmers Đỏ ở Campuchia. Tôi ủng hộ con đường ở giữa, ngay chính giữa. Việc bất bình đẳng tồn tại trong xã hội là

một điều bình thường, nhưng nếu vượt quá một mức độ nào đó, nó sẽ trở thành một vấn đề lớn về kinh tế, chính trị và xã hội. Một số nhà kinh tế nghiêng về phía khái niệm mức độ bất bình đẳng tối ưu, hệ số Gini ở mức 0,4 hay được nhắc tới ở điểm này. Mức này có thể ứng với tình hình của Việt Nam, Indonesia ở mức thấp hơn một chút. Trung Quốc đã vượt mức này (0,5). Hiển nhiên, bình đẳng và công bằng luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Tôi rất ngưỡng mộ các nghiên cứu của Amartya Sen, nhưng tôi vẫn ngạc nhiên khi vẫn có những cách nói xoa dịu về công lý hay công bằng nhưng che lấp đi các vấn đề về bất bình đẳng. Nhìn chung, các tác giả vẫn ở trong một cái nhìn mang tính chức năng chủ nghĩa đối với xã hội và lý giải các bất bình đẳng bằng việc cho rằng để xã hội tồn tại năng động, vận động và đi lên, không nên quá “ức hiếp” bộ máy của sáng kiến, của lợi nhuận. Thực ra, họ là những tín đồ của tình trạng nguyên trạng statu quo. Theo tôi, cần phải tìm kiếm sự cân bằng hợp lý giữa bình đẳng và công bằng và như vậy có thể dung hòa cả hai nguyên tắc.

Còn về các nhận xét của Axel, đúng là tôi đã có nói hơi quá về khái niệm “nền tảng văn hóa chung” của Paul Mus. Cũng đúng là tôi biết về xã hội Indonesia nhiều hơn xã hội Việt Nam. Tôi cũng rất ý thức và lo lắng về những hiện tượng hành vi mang tính tiêu dùng chủ nghĩa quá mức và thói phô trương nhiều khi đến mức gây sốc đang phát triển tại Việt Nam. Điều này có thể là kết quả của nhiều năm bị hạn chế và thiếu thốn, của những sự khác biệt về thế hệ. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, vẫn cần thiết phải nghiên cứu nhiều hơn nữa mới có thể đưa ra được nhận định về chủ đề này.

Page 31: 1.1. Khác biệt xã hội và bất bình đẳng ở Đông Nam Á. Thực ... · PDF filecác đồng nghiệp khác của Viện ... Tổng số 73 100 100 ... vào thời điểm

[ ]tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 63

Yves perraudeau, Đại học nantes

Trên góc độ lý thuyết và các tư duy kinh tế, trong số những người theo trường phái tự do, một số người không loại trừ sự hiện diện của Nhà nước và nhấn mạnh sự không hoàn hảo của thị trường và sự cần thiết phải có biện pháp điều tiết thị trường. Đúng là có các luồng tư tưởng mới hơn được phát triển vào những năm 70 và được cập nhật, nhất là trong các chính sách của Reagan hay Thatcher. Theo họ, can thiệp của Nhà nước mà làm ảnh hưởng xấu đến thị trường là điều không nên. Tuy nhiên, khi nhắc đến chủ nghĩa tư bản, cần phải phân biệt trong tư duy kinh tế những người tin vào thị trường và nhận ra những giới hạn của nó – như Adam Smith, người khuyến cáo phải có sự hiện diện của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, y tế –, và những người theo tư tưởng tự do mới cho rằng Nhà nước cần phải có ít quyền lực nhất có thể. Một số nước hiện nay chuyển sang kinh tế thị trường một cách cực đoan. Khủng hoảng tài chính năm 1998 đã cho thấy sự thiếu vắng các biện pháp điều

tiết. Tôi chỉ muốn đưa ra ở đây nhận xét trên, có liên quan đến các trường phái tư duy kinh tế. Không thể vơ đũa cả nắm tất cả các nhà kinh tế ủng hộ thị trường, vì vẫn có các mức độ nhạy cảm khác nhau đối với tầm quan trọng và vai trò điều tiết của Nhà nước.

Jean-Luc Maurer

Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của anh và tôi vô cũng ngưỡng mộ sự nghiệp của Adam Smith. Làm thế nào để thoát ra khỏi tình trạng bế tắc hiện nay? Tôi nghĩ rằng các nhà kinh tế phải chịu trách nhiệm rất lớn đối với tình hình mà chúng ta đang mắc phải hiện nay, nhưng họ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm ra lối thoát. Tôi ủng hộ việc quay lại một nền kinh tế chính trị có tư duy và nên rời xa những chệch choạc của nền kinh tế tự do thái quá, dựa trên tài chính và dựa trên những mô hình tính toán toán học và kinh tế lượng đơn thuần. Hãy quay lại với ý nghĩa đúng và quay lại theo hướng biện pháp của Adam Smith!