16
23 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne Trong tiếng Pháp, các từ “khu vực” và “mang tính khu vực” có nhiều nghĩa và được sử dụng ở nhiều cấp độ (địa phương, quốc tế), nên chúng ta hãy thống nhất ngay từ đầu về việc loại bỏ cấp độ địa phương trong nội hàm của các từ này. Cụm từ “ khu vực” sử dụng trong bài này mang cấp độ quốc tế và được hiểu là một tập hợp các nước gần nhau, có quan hệ láng giềng và trong trường hợp cụ thể của bài viết, cụm từ này chỉ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á, viết tắt tiếng Anh là “ASEAN”. Đây là tên gọi được dùng phổ biến ở trong khu vực và trên thế giới. Nhưng liệu chỉ cần hiện diện ở trong một khu vực không gian nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, và cả Australia là đủ để có một sự tồn tại khác ngoài sự tồn tại trên bản đồ? Ta phải giả định câu trả lời là không, vì các nước thành viên còn phải phối hợp nỗ lực với nhau để tạo thành một “Cộng đồng ASEAN” được dự báo vào cuối năm 2015. Chúng ta đang ở thời điểm báo trước đó và ở thời điểm được mong chờ là mang tính lịch sử này, chúng ta sẽ điểm lại và phân tích thực trạng của ASEAN. Để hiểu được là làm thế nào mà ta đến được những bước hiện nay, chúng ta phải phân tích dưới góc độ địa chính trị trong suốt tiến trình. Từ đó, ta sẽ thấy được đâu là những thách thức gắn với tiến trình này. 1.1.1. Một thời điểm lịch sử Mục tiêu xây dựng “Cộng đồng ASEAN” vào năm 2015, chính thức là vào ngày 31 tháng 12, trong khi Hiệp hội “khu vực” sắp kỷ niệm 50 năm thành lập, có ý nghĩa nào khác ngoài ý nghĩa là một khẩu hiệu? ASEAN được thành lập năm 1967 tại Bangkok với năm nước thành viên sáng lập là các nước láng giềng (Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia và Philippines). Hiện nay Hiệp hội có số thành viên gấp đôi so với số thành viên ban đầu (cùng với Brunei và các nước Đông Dương: Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar): 10 nước này nằm trên một diện tích tương đương với diện tích của châu Âu. Nếu như sức nặng kinh tế của ASEAN thấp hơn rất nhiều so với sức nặng kinh tế của EU, thì dân số của hiệp hội này có quy mô không kém, gần như tương đương với khoảng 600 triệu người. Thuật ngữ “Liên minh” cho đến nay chưa bao giờ được sử dụng, và trên thực tế, mức độ hội nhập của khu vực Đông Nam á thấp hơn nhiều so với khu vực EU. Tuy nhiên, trong số ít ỏi các thể chế khu vực hiện có, Ban thư ký ASEAN là thể chế đã hoạt động thực sự từ năm 1976. Ban thư ký này

1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

23

1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh

và thách thứcHugues Tertrais – Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne

Trong tiếng pháp, các từ “khu vực” và “mang tính khu vực” có nhiều nghĩa và được sử dụng ở nhiều cấp độ (địa phương, quốc tế), nên chúng ta hãy thống nhất ngay từ đầu về việc loại bỏ cấp độ địa phương trong nội hàm của các từ này. Cụm từ “ khu vực” sử dụng trong bài này mang cấp độ quốc tế và được hiểu là một tập hợp các nước gần nhau, có quan hệ láng giềng và trong trường hợp cụ thể của bài viết, cụm từ này chỉ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á, viết tắt tiếng anh là “aSeaN”. Đây là tên gọi được dùng phổ biến ở trong khu vực và trên thế giới. Nhưng liệu chỉ cần hiện diện ở trong một khu vực không gian nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, và cả australia là đủ để có một sự tồn tại khác ngoài sự tồn tại trên bản đồ? Ta phải giả định câu trả lời là không, vì các nước thành viên còn phải phối hợp nỗ lực với nhau để tạo thành một “Cộng đồng aSeaN” được dự báo vào cuối năm 2015. Chúng ta đang ở thời điểm báo trước đó và ở thời điểm được mong chờ là mang tính lịch sử này, chúng ta sẽ điểm lại và phân tích thực trạng của aSeaN. Để hiểu được là làm thế nào mà ta đến được những bước hiện nay, chúng ta phải phân tích dưới góc độ địa chính trị trong suốt tiến trình. Từ đó, ta sẽ thấy được đâu là những thách thức gắn với tiến trình này.

1.1.1. Một thời điểm lịch sửmục tiêu xây dựng “Cộng đồng aSeaN” vào năm 2015, chính thức là vào ngày 31 tháng 12, trong khi Hiệp hội “khu vực” sắp kỷ niệm 50 năm thành lập, có ý nghĩa nào khác ngoài ý nghĩa là một khẩu hiệu? aSeaN được thành lập năm 1967 tại Bangkok với năm nước thành viên sáng lập là các nước láng giềng (Thái Lan, malaysia, Singapore, indonesia và philippines). Hiện nay Hiệp hội có số thành viên gấp đôi so với số thành viên ban đầu (cùng với Brunei và các nước Đông Dương: Việt Nam, Lào, Campuchia, myanmar): 10 nước này nằm trên một diện tích tương đương với diện tích của châu Âu. Nếu như sức nặng kinh tế của aSeaN thấp hơn rất nhiều so với sức nặng kinh tế của eu, thì dân số của hiệp hội này có quy mô không kém, gần như tương đương với khoảng 600 triệu người.

Thuật ngữ “Liên minh” cho đến nay chưa bao giờ được sử dụng, và trên thực tế, mức độ hội nhập của khu vực Đông Nam á thấp hơn nhiều so với khu vực eu. Tuy nhiên, trong số ít ỏi các thể chế khu vực hiện có, Ban thư ký aSeaN là thể chế đã hoạt động thực sự từ năm 1976. Ban thư ký này

Page 2: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

24

Những thách thức phát triển chung trong khối ASEAN

có trụ sở đặt tại Jakarta, thủ đô indonesia, hiện nay người giữ chức Tổng thư ký aSeaN là người Việt Nam, ông Lê Lương minh. Lý do chính đáng để indonesia được chọn làm địa điểm đặt trụ sở của thể chế này là điều không phải tranh cãi vì indonesia là thành viên sáng lập của Hiệp hội ngay từ năm 1967 và là đất nước rộng lớn nhất trong khối. Còn Việt Nam là biểu trưng cho giai đoạn mở rộng aSeaN trong những năm 1990 (cụ thể là năm 1995). một thiết chế quan trọng khác của aSeaN là chức Chủ tịch luân phiên hàng năm, tính tổng tất cả các “thế hệ” trong những năm gần đây có thể kể đến: myanmar (hay còn gọi là miến Điện) lần đầu tiên đảm nhiệm trọng trách này vào năm 2014 – nước này là thành viên của aSeaN từ năm 1997 và “bỏ qua” lượt nhiệm kỳ của mình vào năm 2006; malaysia, thành viên sáng lập, giữ chức chủ tịch năm 2015 và lần thứ ba là nước chủ nhà của hội nghị thượng đỉnh aSeaN tổ chức tại đảo Langkawi vào tháng 4 năm 2015; Lào, nước gia nhập đợt cuối cùng (1997), lần thứ hai tiếp quản vị trí Chủ tịch aSeaN vào năm 2016. Năm 2017 sẽ quay trở lại lượt của philippines.

Nhiều yếu tố mang lại sức sống cho Hiệp hội, kể cả thể thao. Cụ thể, với việc tổ chức Đại hội thể thao các nước Đông Nam á (SEA Games) lần thứ 28 vào năm 2015, Singapore đã tiếp nối một truyền thống có tuổi đời còn nhiều hơn tuổi đời của bản thân aSeaN: kỳ SEA Games lần đầu tiên được tổ chức tại Bangkok vào tháng 12 năm 1959, khoảng tám năm trước khi có tuyên bố Bangkok dẫn đến việc thành lập Hiệp hội. 457 vận động viên từ sáu nước (Thái Lan, malaysia, myanmar, miền Nam Việt Nam, Campuchia và Lào) đã cùng thi đấu tranh huy chương ở 12 môn thể thao. Ban đầu chỉ là đại hội thể thao của các nước bán đảo ở Đông Nam á, sự kiện này được mở rộng vào năm 1975 cho philippines và indonesia, và chính thức mang tên gọi SEA Games như hiện nay. Tại SEA Games 2015 tổ chức tại Singapore, 4 370 vận động viên đến từ 11 nước (10 nước aSeaN và Timor Leste) cùng thi đấu tranh huy chương ở 36 môn thể thao với hơn 400 nội dung thi đấu. Nhiều gấp gần 10 lần so với năm 1959.

Vậy việc thành lập Cộng đồng aSeaN vào ngày 31 tháng 12 năm 2015 sẽ có thể thay đổi những gì? ý tưởng đặt ra là thắt chặt quan hệ, phối hợp chính sách kinh tế, hài hòa hệ thống thể chế của các nước thành viên theo hướng thu hẹp khoảng cách của các nền kinh tế láng giềng vốn có sự chênh lệch rất lớn và áp dụng chính sách mở cửa rộng hơn trong nội khối. Đây không chỉ là một động thái mang tính chất quyết định và còn là một bước tiến theo đó mười nước thành viên cam kết với nhau và cam kết trước toàn thể giới về những nguyên tắc và triển vọng của một Hiệp hội khu vực: “Các nhà lãnh đạo ASEAN cam kết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, tạo thuận lợi cho phát triển thương mại, đầu tư và tạo việc làm, cũng như đẩy nhanh tiến trình đàm phán tiến tới thành lập thị trường chung trên cơ sở ký kết các thỏa thuận thương mại và dỡ bỏ hàng rào thuế quan”, theo tuyên bố ngày 22 tháng 11 năm 2015. Như vậy, aSeaN hoạt động trên cơ sở các mục tiêu tiếp nối, và mỗi mục tiêu hoàn thành sẽ giúp tăng cường sự gắn kết của toàn khối. aSeaN đang bước vào một giai đoạn 10 năm mới với “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN năm 2025”, với ba trụ cột, trên hết là chính trị và an ninh, kinh tế (để hướng tới thành lập “thị trường chung”), và văn hóa-xã hội. Hiện giờ đã có tuyên bố đầu tiên được đưa ra tại Kuala Lumpur vào tháng 4 năm 2015 nêu lên ý chí chung “khẳng định sự cần thiết phải tạo ra một cộng đồng người dân thống nhất nhưng vẫn giữ được bản sắc đặc thù của mỗi dân tộc”.

Việc thành lập một Cộng đồng kinh tế aSeaN vào năm 2015 gợi nhớ tới bước ngoặt trong những năm 1990, thể chế này cũng gắn với nhiều sáng kiến khác và tất cả các sáng kiến được đưa ra đó

Page 3: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

25

Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức

đều nhằm thắt chặt quan hệ giữa các nước thành viên. Trên tinh thần như vậy, tại hội nghị thượng đỉnh aSeaN tổ chức ở Singapore vào tháng 11 năm 2007, Hiến chương aSeaN đã được công bố, mặc dù vẫn chưa tạo được nền móng cho sự ra đời của một Nhà nước khu vực, nhưng bản Hiến chương này đã nhắc nhở các nước thành viên về những nguyên tắc lớn trong hành động chung: hợp tác, toàn vẹn lãnh thổ, hòa bình khu vực, cũng như quy định cơ chế hội nghị thượng đỉnh thường niên. Trước đó, tại Hội nghị thượng đỉnh Chiang mai (Thái Lan) tháng 5 năm 2000, aSeaN đã chào mừng kết quả mở rộng thành công và nâng số thành viên lên thành 10 nước. Tuy nhiên Hiệp hội cũng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính đã làm chao đảo cả khu vực trong hai năm 1997-1998. Vào đầu thập kỷ trước, hiệp ước Singapore 1992 được ký kết – có nhắc đến một cách cụ thể kế hoạch xây dựng “Cộng đồng kinh tế” vào năm 2015 – đã đặt nền móng cho một aSeaN mà chúng ta biết đến ngày nay, trong khi đó việc mở rộng Hiệp hội vào thời điểm đó vẫn mới chỉ là một dự định: trong số các thiết chế được lên kế hoạch phải kể đến hiệp định khu vực thương mại tự do aSeaN (aFTa) kết nối các nước trong khu vực trong một hệ thống quy định chung về kinh tế.

1.1.2. Một thực tiễn địa chính trịThực tế năm 1990 có thể coi là điểm mốc mang tính bước ngoặt. Những sự kiện lớn diễn ra trong giai đoạn 1989-1991 đã có ảnh hưởng trên toàn cầu. Hệ thống các nước cộng sản ở châu Âu sụp đổ, tiếp đến là sự tan rã của Liên Xô, trong khi Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Triều Tiên vẫn duy trì chế độ cộng sản. Trước năm 1990, Đông Nam á tìm kiếm tiếng nói của mình trong một khu vực chịu nhiều căng thẳng do chiến tranh lạnh và cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau năm 1990, aSeaN hoạt động chập chững và chỉ vài năm sau đó đã tập hợp 10 nước thành viên với mong muốn tìm được một vị trí trong các tương quan lực lượng mới trên trường quốc tế.

ASEAN ban đầu

aSeaN được xây dựng chậm chạp trong khoảng thời gian ¼ thế kỷ trước năm 1990, thời điểm được coi là bước ngoặt lớn của hiệp hội. Bối cảnh của sự xuất hiện một “khu vực” Đông Nam á trước hết mang tính chiến lược và gắn với thời kỳ chiến tranh lạnh. Trên bản đồ, mặt trận chiến tranh lạnh thứ hai – mặt trận chiến tranh lạnh thứ nhất là châu Âu bị chia rẽ – là khu vực châu á Thái Bình Dương, chiến tranh lạnh bắt đầu mở ra ở khu vực này vào năm 1950 với cuộc chiến tranh Triều Tiên. Đảng cộng sản đã chiến thắng tại Trung Quốc một năm trước đó, mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 10 năm 1949. Xa hơn xuống phía Nam, chính xác là về phía Đông Nam á, cuộc chiến tranh Đông Dương leo thang, với sự tham gia từ năm 1945 của đội quân viễn chinh pháp và phong trào kháng chiến quốc gia được Trung Quốc hỗ trợ. Việc mỹ tham chiến vào năm 1950 khi nước này mới đánh bại Nhật Bản 5 năm trước đó đã dẫn đến phong trào đoàn kết của tất cả các mặt trận. Ngày 27 tháng 6 năm 1950, 48 giờ đồng hồ sau khi các lực lượng của Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38, tổng thống mỹ Harry Truman đã nhắc nhở Liên Hợp Quốc và hứa hẹn sẽ trợ giúp cho các nước nằm trên chiến tuyến: ông ta cũng vạch ra ranh giới ngăn cách Bắc-Nam gần giống như “tấm màn sắt” ngăn cách châu Âu, ranh giới này ngăn cách phe cộng sản ở phía Tây với toàn bộ phần còn lại ở phía Đông, chủ yếu là các đảo quốc và được mỹ ủng hộ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và philippines.

Page 4: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

26

Những thách thức phát triển chung trong khối ASEAN

Trong những năm 1950, Đông Nam á dường ít ít bị chia rẽ hơn. Sau hội nghị Genève đặt dấu chấm hết cho cuộc xung đột Đông Dương lần thứ nhất (tháng 7 năm 1954), nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ phía Bắc vĩ tuyến 17 được thành lập. Sau Hội nghị manilla dẫn đến sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam á (SeaTo, tháng 9 năm 1954), Thái Lan và philippines dựa vào quan hệ liên minh với mỹ và cả pakistan. Ngược lại, indonesia khẳng định quan điểm trung lập và tổ chức hội nghị quốc tế Bandung với sự tham gia của các nước châu á và châu phi mới giành được độc lập (tháng 4 năm 1955). Tình hình xung đột và cuộc chiến tranh chia cắt hai miền Nam-Bắc Việt Nam trong những năm 1960 đã làm cho bối cảnh trong khu vực trở nên căng thẳng.

Không ai thực sự rõ Đông Nam á có nghĩa là gì. phạm vi của khu vực này gắn với tình trạng kém phát triển, với giới hạn là phần Nam á. Trong những năm 1950, Tibor mende mô tả một khu vực Đông Nam Á nằm giữa hai thế giới (mende, 1955) từ các trường hợp của indonesia, myanmar và, vì có SeaTo nên có cả trường hợp của pakistan – một châu á đã được giải phóng thuộc địa nhưng lại bị đói nghèo tấn công. Còn năm 1971, Gunnar myrdal ám ảnh (từ cuộc điều tra thực hiện trong những năm 1960) về một Thảm kịch châu Á giáng xuống cả một vùng không gian kéo dài từ Ấn Độ tới philippines (myrdal, 1973). Nhưng không lâu sau đó, nhắc đến Đông Nam á là nhắc đến chiến tranh. Cuộc chiến tranh Việt Nam, với sự khốc liệt và thời gian kéo dài, trong đó thời kỳ khốc liệt nhất kéo dài tới 7 năm (1965-1972) đã làm chấn động cả khu vực. Với nguyên tắc chủ đạo trong hành động là “lý thuyết domino”, mỹ tìm cách ngăn chủ nghĩa cộng sản lây lan tới miền Nam Việt Nam. Để đạt được điều này, mỹ đã dồn vào đây vô cùng nhiều phương tiện và nhấn chìm miền Bắc Việt Nam trong những cơn mưa bom đồng thời gửi tới miền Nam Việt Nam hơn 500 000 quân. Sự bền bỉ kiên cường của Quân đội nhân dân Việt Nam cộng với sự giúp đỡ của “phe” cộng sản, ở mức độ tương đương với mức độ tham chiến của mỹ, đã gây kéo dài cuộc đối đầu giữa hai bên.

Chính ở thời điểm căng thẳng nhất của cuộc chiến mà sau rất nhiều lần cố gắng, aSeaN đã ra đời vào ngày 8 tháng 8 năm 1967: năm nước tham gia ký kết tuyên bố Bangkok (Thái Lan, malaysia, Singapore, indonesia, philippines) đã vẽ nên một vành cung ở phía Nam bán đảo Đông Dương đang bị chiến tranh như để phòng bị trước khả năng cuộc chiến có thể vượt biên giới và ngăn chặn mối “đe dọa” của cộng sản đi cùng với cuộc chiến tranh đó. Diễn biến về sau này của cuộc chiến đã chứng minh họ có lý: ở vành ngoài của “bãi lầy chiến tranh” Việt Nam, các nước láng giềng – Lào và sau này là Campuchia – dần dần bị ảnh hưởng của cuộc chiến. Kết thúc cuộc chiến này chính là thất bại của mỹ và chế độ cộng sản được xác lập ở ba nước Đông Dương (1975). Ngoại trừ myanmar, toàn bộ khu vực này bị chia cắt thành hai phe, Đông Dương “đỏ” và aSeaN. Điều mà trước đó mới chỉ là một “dự định”, theo cách nói của François Joyaux, đã trở thành một liên minh trong thực tế (Joyaux, 1997).

Page 5: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

27

Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức

Bản đồ 2. Mặt trận châu Á trong chiến tranh lạnh

Nguồn: archive.org/web/

Page 6: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

28

Những thách thức phát triển chung trong khối ASEAN

Vốn trước đó bị lay chuyển, aSeaN dần thích nghi và được củng cố. Tại Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên trong lịch sử của Hiệp hội tổ chức tại Bali, aSeaN với 5 nước thành viên đã thông qua các văn bản đầu tiên vào tháng 2 năm 1976: Bản tuyên bố về Hiệp ước aSeaN thống nhất và vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay với tất cả các thành viên mới đều ký kết. Song song với đó, việc phân biệt Đông Nam á “bán đảo” hay còn gọi là lục địa và Đông Nam á “đảo quốc” hay còn gọi là quần đảo được xóa bỏ. Theo đó, Đại hội thể thao SEA Games, vốn ban đầu chỉ giới hạn trong phạm vi Đông Nam á “bán đảo” (myanmar, malaysia, Singapore, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam), đã làm thay đổi sự phân chia của các nước thành viên sau năm 1975. Tại Đại hội thể thao khu vực tổ chức vào tháng 12 năm 1975 tại Bangkok, Lào, Campuchia và miền Nam Việt Nam không tham gia. Ở kỳ Đại hội lần sau, tổ chức vào tháng 11 năm 1977 tại Kuala Lumpur, các nước này bị thay thế bởi Brunei, indonesia và philippines. Cùng với Thái Lan, các nước này cũng đã đối đầu với Việt Nam trong những năm 1980 sau khi nước này đem quân can thiệp vào Campuchia để diệt trừ chế độ “Khmer Đỏ” và duy trì sự hiện diện quân đội tại Campuchia trong khoảng 10 năm. phải đợi tới gần 20 năm sau, 10 nước thành viên hiện nay của aSeaN mới có mặt đầy đủ tại Đại hội thể thao khu vực năm 1995 tổ chức tại Chiang mai (Thái Lan).

Trong khoảng thời gian đó, một sự thay đổi lớn đã diễn ra vào những năm 1970 với sự chấm dứt của cuộc chiến tranh Đông Dương và bắt đầu xuất hiện tăng trưởng kinh tế ở các nước nằm ven Thái Bình Dương. Đông Nam á được vẽ lại dưới hình ảnh của một khu vực có tăng trưởng, cho tới khi Ngân hàng thế giới WB nhận thấy “kỳ tích châu á” vào năm 1993: trục tăng trưởng Bắc-Nam thay thế cho trục nghèo đói Nam á. Tiến trình xây dựng thể chế của aSeaN cũng được song song thực hiện. Trong những năm 1990, 10 nước thành viên trong Hiệp hội đã tạo ra một thực tiễn chính trị hiện hữu cho cái mà trước đó chỉ là một thực thể địa lý. Đông Nam á có vẻ bắt đầu thực sự tồn tại theo đúng thực trạng của mình, với sự trộn lẫn giữa tăng trưởng và kém phát triển, thậm chí thực tế này cũng được thể hiện cả trong dự án khu vực. Cuối cùng cũng có thể hình dung ra được “cộng đồng aSeaN”.

ASEAN ngày nay

Không dễ lần lại được dấu vết của aSeaN “ban đầu” trong khung cảnh và nhịp sống hối hả ngày nay. Các nước Đông Nam á đã tìm được cho mình một sự đồng thuận chung, xoay quanh ý tưởng “mang tính khu vực”, sau khi đã trải qua một chặng đường dài với nhiều cuộc xung đột xảy ra trong suốt nửa sau của thế kỷ 20, khi mà những căng thẳng của chiến tranh lạnh và cuộc chiến tranh Việt Nam đã lên đến mức đỉnh điểm. Trong những điều kiện như vậy, bước ngoặt năm 1990, được đánh dấu bằng sự tan rã của Liên Xô, “quê hương” của chủ nghĩa cộng sản quốc tế, chính là một thời điểm then chốt.

Page 7: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

29

Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức

Bản đồ 3. Trục tăng trưởng ven Thái Bình Dương

Nguồn: Tertrais (2015).

Page 8: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

30

Những thách thức phát triển chung trong khối ASEAN

aSeaN mà chúng ta biết đến ngày nay là những gì thừa hưởng từ bước ngoặt năm 1990. Trong lịch sử aSeaN, người ta nhắc đến hai thời kỳ trước và sau 1990, hai thời kỳ này kéo dài như nhau, trong khoảng ¼ thế kỷ. Như chúng ta đều biết, sự thay đổi lớn của năm 1990 chính là sự chấm dứt của tình trạng phân cực trên thế giới mà nếu nhìn lại, người ta coi đó là một cuộc chiến tranh lạnh kéo dài. Trong phạm vi khu vực, các cuộc xung đột cũng được giải quyết và aSeaN bắt đầu nhìn thấy những triển vọng mới: xung quanh bước ngoặt năm 1990, vấn đề Campuchia vốn chia rẽ sâu sắc các nước trong khu vực đã được giải quyết khi Việt Nam rút quân toàn bộ ra khỏi nước này (1989) và các bên liên quan tại Campuchia, cụ thể là Norodom Sihanouk và Hun Sen đã ký kết hiệp định paris (1991). Hiệp ước Singapore (1992) xét một mặt nào đó đã tái lập Hiệp hội khu vực, trong khi đó ở châu Âu, hiệp ước maastricht cũng tái khởi động tiến trình xây dựng châu Âu.

Xu hướng chung sau khi Liên Xô tan rã và sau khi tình trạng phân cực thế giới chấm dứt chính là xu hướng tập hợp và liên kết trong phạm vi “khu vực” xoay quanh các cực phát triển kinh tế đã có: Liên mình châu Âu eu được mở rộng, tái cấu trúc với sự ra đời của đồng tiền chung euro và lấy lại đà phát triển; Bắc mỹ bắt đầu có thị trường chung rộng lớn (NaFTa – Canada, mỹ, mexico); khu vực mậu dịch tự do Nam mỹ mercosur cũng hình thành ở mỹ Latinh, v.v. Châu á, thời điểm đó vẫn đứng sau sự phát triển mạnh mẽ của Nhật Bản, là khu vực kinh tế rộng lớn duy nhất vẫn ở trong tình trạng “vô tổ chức”, bất chấp sự trỗi dậy của các nước phía Nam. Tuy nhiên, aSeaN sẵn sàng cho xu thế này, mặc dù, khác với eu là phạm vi địa lý của aSeaN không trùng với trung tâm phát triển kinh tế của khu vực, mà bản thân trung tâm phát triển kinh tế đó được hình thành từ một “trục tăng trưởng” chạy dọc theo vùng ven châu á Thái Bình Dương – từ eo biển Triều Tiên tới Singapore, chạy qua Đài Loan và Hồng Kông.

Singapore, nước có vị trí số 1 trong khu vực về kinh tế, có vẻ là nước đưa ra sáng kiến: Hiệp ước Singapore được ký kết năm 1992 giữa sáu nước aSeaN – năm thành viên sáng lập và Brunei, giành độc lập năm 1984 và được kết nạp vào aSeaN trong cùng năm đó. Hiệp ước đã mang lại sức sống mới cho tổ chức khu vực này. aSeaN bắt đầu tăng cường hợp tác trên phương diện kinh tế với hiệp định aFTa và kế hoạch thành lập khu vực mậu dịch tự do aSeaN. Là tổ chức phi quân sự, một năm sau đó, aSeaN có thêm một “diễn đàn” an ninh khu vực (arF). Ban đầu có sự tham gia của các nước phương Tây, dần dần aSeaN có sự hợp tác với các nước khác trong khu vực, vốn thường là các nước cộng sản có trình độ phát triển kinh tế thấp kém, nhằm kêu gọi họ hội nhập vào tổ chức khu vực này. Giai đoạn những năm 1990 chứng kiến quá trình mở rộng aSeaN với sự gia nhập của các nước Đông Dương là láng giềng của Thái Lan: Việt Nam (1995), Lào và myanmar (1997), và cuối cùng là Campuchia (1999). aSeaN mới đang phải đối diện với những thách thức lớn của thế kỷ 21 và những thách thức mới trong khu vực.

1.1.3. Thách thức và cơ hộiKhả năng đứng vững của aSeaN trước những biến động địa chính trị, đặc biệt là thời kỳ chiến tranh lạnh và sự chấm dứt của thế giới hai cực, chắc chắn là gắn với chính những mục tiêu của tổ chức này. Tuyên bố Bangkok 1967, nền móng của Hiệp hội vẫn luôn sáng rõ: trong số những mục tiêu hàng đầu, đứng trước cả mục tiêu “thúc đẩy hòa bình” được đặt xuống hàng thứ hai, chính là “thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực”. Được đưa ra

Page 9: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

31

Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức

15 năm trước đó (1952) theo nghiên cứu của chuyên gia dân số người pháp alfred Sauvy, cách gọi Thế giới thứ ba và nội hàm của nó thể hiện đặc trưng của aSeaN 5 (năm nước thành viên), mặc dù Singapore đã bắt đầu đi lên, với dân số nông thôn chiếm đa số, tỷ lệ tăng dân số cao, nghèo đói, v.v.

Tăng trưởng không đồng đều

Kể từ đó, theo số liệu thống kê đánh giá tình hình từ những năm 1980, tăng trưởng là xu hướng chung trong khu vực, mặc dù phần lớn các nước thành viên cũng vẫn đang có tỷ lệ tăng trưởng thấp. Nếu đối chiếu từng nước ở ba giai đoạn tiếp nối (1990, 2000, 2010), tăng trưởng GDp bình quân hàng năm – tính cho ba thập kỷ tương ứng – và GNp bình quân đầu người, được thống kê vào cuối từng thập kỷ, có thể nhận thấy sự năng động chung trong nền kinh tế các nước. Kết quả của mỗi nước được biểu diễn bằng ba điểm: để lên cao trong ” nấc thang tăng trưởng”, Trung Quốc là trường hợp điển hình, với tỷ lệ tăng trưởng cao nhưng lại phải chịu gánh nặng của quy mô dân số lớn – ngược lại, Singapore đã đạt được sự phát triển nhanh chóng, với mức tăng trưởng ấn tượng trong thời gian dài nhưng lại chịu thiếu hụt về dân số. Nhưng không có tỷ lệ tăng trưởng thấp.

Sự chênh lệch giữa các nước trong khu vực vẫn còn lớn, thậm chí ở mức ấn tượng. Tăng trưởng kinh tế phân bổ không đồng đều, do chênh lệch về dân số và các yếu tố địa chính trị. Sự khác biệt đã phân tích ở trên giữa Trung Quốc và Singapore được thể hiện rất rõ trong thế giới mã Lai: indonesia, với dân số lên tới 250 triệu người và philippines, với dân số hơn 100 triệu người gặp khó khăn trong việc đảm bảo mang lại lợi ích từ tăng trưởng kinh tế tới người dân. Ngược lại, malaysia, với quy mô dân số nhỏ hơn, lại có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, giúp nước này xếp vào hàng những nước có trình độ phát triển kinh tế cao trong khu vực. Yếu tố địa chính trị cũng góp phần vào thực trạng này: ở khu vực xung quanh eo biển malacca và Singapore cũng như con đường hàng hải dẫn tới tâm điểm tăng trưởng của khu vực Đông Bắc á, xuất hiện một Đông Nam á “trung tâm” là nơi tập trung tăng trưởng và phát triển – chính xác là ở Singapore, Brunei và malaysia. Sự phát triển năng động về kinh tế, đặc biệt là về thương mại và tài chính, được khẳng định và mang lại thịnh vượng cho khu vực này, đặc biệt ở khu vực cảng Singapore, một trong những cảng biển lớn nhất thế giới. Khu vực này cũng có mức tăng trưởng GDp theo đầu người cao nhất aSeaN, thậm chí cạnh tranh được với mức tăng trưởng của các cường quốc lớn.

Tuyên bố Bangkok 1967 không nhắc đến một điều, nhưng điều này lại được gợi ra từ tiềm lực kinh tế của hai nước nhỏ nhưng giàu có là Brunei và Singapore, đó là năng lượng và giao thông chính là điều kiện cho phát triển.

Page 10: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

32

Những thách thức phát triển chung trong khối ASEAN

Biểu đồ 1. Thang máy tăng trưởng

Nguồn: Tertrais (2015).

Page 11: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

33

Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức

Năng lượng và giao thông

Trong lĩnh vực năng lượng, Đông Nam á có nguồn tài nguyên dầu khí riêng – dầu mỏ và khí đốt tự nhiên –, nhưng đang bị các khu vực khác vượt qua. Đông Nam á không phải là vùng Vịnh persic, mặc dù một trong những tập đoàn dầu khí lớn nhất thế giới là tập đoàn Shell lại ra đời từ chính khu vực này vào đầu thế kỷ 20 (năm 1906), chính xác là ra đời tại indonesia. Nhiều nước trong khu vực thuộc diện các nước “sản xuất”, nhưng ở quy mô trung bình và có vẻ không sở hữu trữ lượng lớn. Đây đều là các mỏ dầu khí ngoài khơi: các dàn khoan thăm dò khai thác đều được đặt dọc theo các vùng duyên hải (Việt Nam, Bắc Borneo [indonesia] hoặc Nam philippines) hoặc đặt cố định ở các vùng biển rộng lớn (phía Nam biển Đông, vịnh Thái Lan, biển Java, v.v.) nhưng không sâu. Từ Thái Lan đến indonesia, khí đốt tự nhiên là nguồn tài nguyên đóng vai trò hàng đầu và thường được xuất khẩu dưới dạng khí hóa lỏng tới các nước Đông Bắc á.

Ở cấp độ quốc gia, ngành dầu khí góp phần ổn định phát triển, đặc biệt là ngành công nghiệp lọc dầu, được coi là xuất phát điểm để phát triển cả một dây chuyền sản xuất: các nước trong khu vực đều chia sẻ quan điểm này, từ Singapore với ngành công nghiệp hóa dầu mũi nhọn cho tới Việt Nam, với dự án tiên phong là nhà máy lọc dầu Dung Quất khánh thành năm 2009 tại tỉnh Quảng Ngãi.

Trong phạm vi khu vực, nguồn cung cấp dầu khí lớn hơn rất nhiều đến từ các nước vùng Vịnh và các nước châu phi, được trung chuyển qua khu vực này để đi tiếp sang các nước Đông Bắc á, trung chuyển qua eo biển malacca và Singapore. Cảng Singapore vốn là cảng gắn liền với luồng vận chuyển này: vừa là một “trạm xăng” khổng lồ phục vụ cung cấp nhiên liệu cho các con tàu vận tải hàng hóa, là điểm phân phối xăng dầu cho phần lớn các nước trong khu vực, đồng thời giữ lại một phần để phát triển ngành công nghiệp hóa dầu “mũi nhọn”, Singapore đồng thời cũng giám sát việc vận chuyển hàng trăm ngàn tấn dầu tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.

Câu trả lời cho thách thức “năng lượng” có vẻ mang tính khu vực nhiều hơn, ít nhất là ở khu vực Đông Nam á bán đảo. Với lưu vực sông mekong, khu vực này có hệ thống sông lớn với tổng chiều dài 4 500 km, chạy qua sáu nước (tính cả Trung Quốc) với vô số tiềm năng về giao thông, thủy lợi và năng lượng. Trong thời kỳ giải phóng thuộc địa, sáng kiến đầu tiên được Liên Hiệp Quốc đưa ra vào năm 1957, thành lập một cơ chế tập hợp bốn nước nằm trong lưu vực sông mekong (Thái Lan, Lào, Campuchia và miền Nam Việt Nam) để thống nhất các sáng kiến về kinh tế và từ đó phục vụ cho phát triển. Tuy nhiên, trong những năm 1960, chiến tranh quay trở lại Việt Nam và các vùng lân cận nên khu vực này không còn những điều kiện cần thiết phù hợp để triển khai sáng kiến trên. Cần phải đợi thêm gần 40 năm nữa để cuộc chiến chấm dứt (1975) và căng thẳng giảm đi – trong khu vực xoay quanh Campuchia và Trung Quốc. Việc Việt Nam tham gia aSeaN (1995) là sự kiện cụ thể hóa của bối cảnh mới. Với sự thúc đẩy của aDB, có trụ sở tại manilla, kế hoạch hình thành một ranh giới khu vực xung quanh lưu vực sông mekong, hay còn gọi là khu vực tiểu vùng sông mekong (GmS) – 1995 – đã được mở rộng thêm cho myanmar và Trung Quốc.

Page 12: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

34

Những thách thức phát triển chung trong khối ASEAN

Một khẩu hiệu, “sự kết nối”

Khu vực GmS nhắc tới những yếu tố nền tảng của sự phát triển: năng lượng và giao thông. Đối với yếu tố thứ nhất là năng lượng, chương trình hợp tác của những năm 1950 và 1960 được tái khởi động và cải thiện. Hơn 20 công trình đập thủy điện được nghiên cứu hoặc xây dựng ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc, Lào, khu vực biên giới Lào-Thái Lan và Campuchia. Các vấn đề ngoại giao và/hoặc liên quan đến môi trường chắc chắn sẽ làm cho chương trình trở nên phức tạp: các con đập xây dựng ở thượng nguồn, đặc biệt là đập ngăn dòng chảy chính, bị cho là làm thay đổi dòng chảy, còn đối với các con đập xây “nương theo dòng chảy”, việc chia sẻ nguồn lợi giữa các nước hẳn nhiên cũng là nguồn gây căng thẳng. Với vị trí của mình trong lưu vực sông mekong, Lào là nhân chứng hay còn là một tác nhân quan trọng: công trình đập-hồ chứa công suất lớn Nam Theun, được xây trên một nhánh chính và khánh thành năm 2010, năm 2012 một thỏa thuận đã đạt được với Thái Lan để triển khai dự án đập Sayabouri, trên thượng nguồn sông mekong.

Các yếu tố còn lại, đặc biệt là hạ tầng đường bộ và giao thông cũng được tính đến khi thiết kế một “hành lang phát triển”. Các hành lang được hình dung như sau: trên bản đồ, hành lang phát triển chính là các trục – trục hoặc hành lang tùy theo các cách gọi khác nhau – đánh dấu con đường kết nối những trung tâm có sự phát triển năng động. Theo cách này, nhiều hành lang đã được vẽ nên: “hành lang kinh tế Bắc-Nam” nối Côn minh tới Bangkok, tức là nối từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc tới một trung tâm đô thị cho đến nay được coi là thành phố phát triển năng động nhất trong khu vực bán đảo Đông Dương; hai hành lang khác đều kết nối tới Việt Nam, một hành lang từ Côn minh tới Hà Nội, hành lang còn lại nối từ Bangkok tới thành phố Hồ Chí minh và chạy qua thủ đô phnom penh của Campuchia. Cả ba hành lang này đều là những trục kết nối được phát triển trên cơ sở các tuyến đường bộ và đường sắt, rồi từ đó mới phát triển các hoạt động kinh tế như các nhà máy lọc dầu và các cơ sở chế biến dầu khí khác, các trục đường giao thông – đường bộ hay đường sắt – đều được coi như là điều kiện để ổn định sản xuất và phát triển các luồng trao đổi. Sự phát triển nhanh chóng của myanmar và sự năng động của thành phố Côn minh đã dẫn đến sự phát triển chung ở hai bên, đặc biệt thông qua trục kết nối từ Côn minh tới cảng Kyaukpyu mới được xây dựng (myanmar).

Các dự án này, được cho là có khả năng thoát ra khỏi được xu hướng “Ban căng hóa” để lại từ thời chiến tranh và vẫn còn đang ảnh hưởng tới vùng bán đảo này, cũng được tính đến trong kế hoạch “kết nối” aSeaN. phần còn lại của Đông Nam á, tức là vùng Đông Nam á quần đảo (indonesia và philippines) cũng không thoát khỏi xu thế này. Tuy nhiên khó khăn đặt ra ở đây chính là đặc điểm về điều kiện địa lý cũng như tình trạng thiếu hạ tầng giao thông ở các đảo: chi phí logistics chắc chắn sẽ cao hơn nhiều chi phí vận tải bằng đường biển, và việc đi lại hoặc vận chuyển giữa các đảo ở cự ly tương đối ngắn về mặt cơ học sẽ tốn kém hơn so với phí vận chuyển từ Jakarta tới các cảng biển lớn của Trung Quốc và ngược lại, mặc dù những khoảng cách này lớn hơn; indonesia đã thiết kế riêng hạ tầng cho mình – Sea Highway, ”đường cao tốc” trên biển – để đi theo hướng phát triển này.

Tương lai ASEAN

aSeaN, với tư cách là một tổ chức khu vực, liệu có đủ phương tiện để giải quyết mọi việc? Không hơn gì trường hợp eu, mặc dù có mức độ hội nhập sâu hơn, thậm chí ở cấp độ trên quốc gia, hiệp hội các quốc gia Đông Nam á không phải là một Nhà nước có đủ quyền lực để giải quyết hết mọi vấn đề. Điều này đặc biệt đúng với các vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu hoặc thiên tai: những

Page 13: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

35

Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức

trường hợp thiên tai như sóng thần (2004) hay núi lửa phun trào trên đảo Luzon hoặc đảo Java có thể được giải quyết theo cơ chế phòng ngừa thiên tai cấp khu vực – hoặc ít nhất cũng phải được đặt ra ở cấp khu vực; nhưng các vụ cháy rừng ở indonesia với khói bụi lan sang nhiều nước trong khu vực lại đặt ra nhiều vấn đề hơn. Những thách thức tương tự cũng đặt ra cho vấn đề “an ninh”, bất chấp việc đã có cơ chế Diễn đàn an ninh khu vực. Những tranh chấp biên giới trên biển, đặc biệt trong khu vực biển Đông là nguồn gốc gây nhiều căng thẳng cả ở tầm khu vực và quốc tế dường như không tìm được giải pháp trong phạm vi khu vực.

Tuy nhiên, aSeaN vẫn là “Hiệp hội khu vực” duy nhất trong châu á - Thái Bình Dương: tập hợp 10 nước Đông Nam á với hơn 600 triệu dân, trong khi chỉ riêng Trung Quốc, quốc gia lớn nhất và đông dân nhất châu á đã có số dân lớn gấp hơn hai lần. Sự cân bằng địa chính trị ở châu á phụ thuộc trước hết vào khả năng phát triển của châu lục này cũng như những mối quan hệ có thể thiết lập và duy trì với các thực thể khác trong khu vực. Từ thời điểm bước ngoặt 1990, nhiều cố gắng đã được đưa ra nhằm tổ chức một hình thức khối khu vực nào đó, vượt qua phạm vi của aSeaN. Sáng kiến East Asian Economic Caucus (eaeC), được đưa ra theo đề xuất của Thủ tướng malaysia mahathir năm 1991, để tập hợp các nước châu á phi cộng sản đã không được cụ thể hóa. Song song với đó, aSeaN (với 5 thành viên sáng lập và Brunei) được mở rộng trong giai đoạn 1995-1999 cho bốn nước thành viên mới để phù hợp với tổ chức và điều kiện địa lý của khu vực. Ngoài Đông Nam á, cuộc khủng hoảng châu á 1997-1998 đã dẫn đến ý tưởng hình thành các cơ chế mở rộng khác: aSeaN +3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc). ý tưởng về các cơ chế này xuất phát từ Séoul đã cho thấy các “nước nhỏ”, trong trường hợp này là Hàn Quốc, là những nước quan tâm nhiều nhất tới tiến trình xây dựng khu vực. Nhưng aSeaN +3 không thể được coi là một “tổ chức” khu vực, cơ chế này chỉ đơn giản là sự ghi nhận các đối tác đối thoại chính của aSeaN, tức là những đối tác quan tâm nhiều nhất tới tương lai của Hiệp hội, vì những lý do chiến lược (Trung Quốc) hoặc bởi đó là những điểm đến chính của các luồng vốn đầu tư ra quốc tế hoặc để chuyển các cơ sở sản xuất của mình ra nước ngoài (Hàn Quốc, Nhật Bản).

Song song với đó, nhiều hình thức tập hợp rộng lớn hơn cũng được triển khai, không dựa vào Hiệp hội khu vực mà thông qua việc kết nối các nước ở nhiều khu vực khác nhau trên quy mô toàn cầu. apeC (Asia Pacific Economic Cooperation). một sáng kiến của australia (1989) được nêu ra tại Hội nghị thượng đỉnh Seattle (1993) hiện là sự kiện hàng năm tập hợp toàn bộ các nước nằm trong khu vực Thái Bình Dương – gồm cả các nước Đông Nam á. Từ năm 1996, cơ chế aSem (Asia-Europe Meeting) cũng tổ chức hội nghị thượng đỉnh hai năm một lần, mặc dù số lượng các đối tác tham gia tăng lên thường xuyên cũng làm mờ bớt sự hiện diện của cơ chế này trên trường quốc tế. một cơ chế khu vực hóa và tự do mậu dịch khác trong khu vực cũng được khuyến khích, đặc biệt từ phía mỹ: Thỏa thuận đối tác xuyên Thái Bình Dương pTT, được khởi động đàm phán từ năm 2008 giữa mỹ và 11 nước đối tác của mỹ (Canada, mexico, Chilê, peru, Nhật Bản, malaysia, Việt Nam, Singapore, Brunei, australia, New Zealand) – không có Trung Quốc – đã được ký kết bước đầu dưới hình thức hiệp ước vào ngày 5 tháng 10 năm 2015 tại thành phố atlanta, bước tiếp theo là cần có sự phê chuẩn của các nước.

Tiến trình xây dựng khu vực ở Đông Nam á sắp trải qua 50 năm. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á không thay đổi tên gọi ban đầu. Trong khi bối cảnh ra đời gắn với chiến tranh lạnh, hiệp hội này đã sống sót qua thời kỳ này và thậm chí còn tìm được bước đà phát triển mới ở thời điểm bước ngoặt

Page 14: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

36

Những thách thức phát triển chung trong khối ASEAN

năm 1990. Tăng gấp đôi về số lượng thành viên, aSeaN đã kết nạp cả những nước nghèo và cả những nước cộng sản ở bán đảo Đông Dương, đã có sự phát triển về kinh tế nhờ vào chính sách tự do mậu dịch. Trở thành nhân tố tích cực trong đời sống quốc tế ở châu á, aSeaN đang tiến lên theo từng mục tiêu của mình và vừa vượt qua cột mốc đề ra cho năm 2015. Tầm nhìn 2025 đang định hướng cho hoạt động của Hiệp hội. mốc thời gian 2025 sẽ kiểm chứng xem nền kinh tế của aSeaN có tiếp tục được củng cố, sức nặng và vai trò của hiệp hội có được khẳng định và liệu có được xem là một nhân tố trong đời sống quốc tế hay không. Châu á chắc chắn là khu vực có nhiều biến động sâu sắc nhất trên thế giới, và với những nước thành viên vốn từ lâu được xếp vào diện kém phát triển, châu lục này có vẻ – ít nhất là đối với khu vực phía Đông châu lục – đã ra khỏi nhóm các nước thuộc thế giới thứ ba. Đông Nam á giống như hình ảnh thu nhỏ của châu lục và dường như đang thành công trong việc tạo ra một mức độ thống nhất nhất định, dù rằng chưa thể khẳng định tiến trình hội nhập rõ rệt ở đây. Căng thẳng vẫn còn tồn tại giữa tiến trình xây dựng, hội nhập quốc gia – mới chỉ bắt đầu và còn đang mong muốn được khẳng định – và tiến trình xây dựng, hội nhập khu vực. Tương lai chắc chắn phụ thuộc vào việc tìm kiếm được sự dung hòa giữa hai tiến trình, vốn là những yếu tố quyết định để aSeaN trở thành một nhân tố có sức ảnh hưởng trong khu vực, một vị thế mà Hiệp hội này luôn mong muốn tìm kiếm.

Tài liệu tham khảo chọn lọcBoisseau du rocher, S. (2009), Le piège de l’Asie du Sud-Est, perrin, paris.

Bruneau, m. (2006), L’Asie entre l’Inde et la Chine. Logiques territoriales des Etats, Belin, paris.

Fau, N., S. Khonthapane and Ch. Taillard (2013), Transnational Dynamics in Southeast Asia: The Greater Mekong Subregion and Malacca Straits Economic Corridors, iSeaS, Singapour.

Foucher, m. (éd.) (2002), Asies nouvelles – atlas, Belin, paris.

Franck, m. (dir) (2012), Territoires de l’urbain en Asie du Sud-Est, métropolisation en mode mineur, CNrS, paris.

Jammes, J. and F. robinne (2014), L’Asie du Sud-Est 2014 – bilan, enjeux et perspectives, iraSeC – publication annuelle depuis 2007, Bangkok.

Journoud, p. (dir.) (2012), L’évolution du débat stratégique en Asie du Sud-Est depuis 1945, irSem, paris.

Joyaux, F. (1997), L’Association des nations du sud-est asiatique, puF, paris.

Katsumata, H. (2009), ASEAN’s Cooperative Security Entreprise: Norms and Interest in the ASEAN Regional Forum, palgrave macmillan, New York.

mende, T. (1955), L’Asie du Sud-Est entre deux mondes, Seuil.

myrdal, G. (1973), Drame de l’Asie, Seuil.

pelletier, ph. (éd.) (2004), Identités territoriales en Asie orientale, Les indes savantes, paris.

Page 15: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris

37

Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức

ricklefs, m.C. (2010), A new History of Southeast Asia, palgrave macmillan, New York.

Taillard, Ch. (éd.) (2004), Intégration régionale en Asie orientale, Les indes savantes, paris.

Tarling, N. (ed.) (1992-1999), The Cambridge History of Southeast Asia, Cambridge university press, 4 vol, Cambridge uK.

Tertrais, H. (2015), L’Asie pacifique au XXe siècle, armand Colin, coll. Cursus, paris.

Tertrais, H. (2014), Atlas de l’Asie du Sud-Est – Les enjeux de la croissance, autrement, paris.

Tertrais, H. (2011), La Chine et la mer – Sécurité et coopération régionale en Asie orientale et du Sud-Est (dir.), L’Harmattan, paris.

Tertrais, H. (2004), Atlas des guerres d’Indochine, 1940-1990 – De l’Indochine française à l’ouverture, autrement.

Tertrais, H. (2004), « L’axe de croissance de l’asie pacifique », dans Ch. Taillard (éd.) Intégrations régio-nales en Asie orientale, Les indes savantes, paris.

Tertrais, H. (2004), « L’impact du communisme dans la configuration de l’asie », dans ph. pelletier (éd.), Identités territoriales en Asie orientale, Les indes savantes, paris.

World Bank (1993), The East Asian Miracle. Economic Growth and Public Policy, oxford university press, Washington New York.

Page 16: 1.1. Quá trình xây dựng khu vực ASEAN - tamdaoconf.com · Quá trình xây dựng khu vực ASEAN – bối cảnh và thách thức Hugues Tertrais – Đại học Paris