Upload
gintaaa
View
339
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
----------------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Phúc Khanh
Sinh viên thực hiện : Trần Ngọc Trung
Lớp : A4 - K38B
Hà nội - 2003
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………….…………….………………………..1
CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Khái niệm về bán phá giá…….…………………………………………………...3
1.1 Định nghĩa………………….………………………………………………………...3
1.2 Các đạo luật liên quan đến bán phá giá
( Luật doanh thu 1916, Luật thuế quan 1930,…)………...………………………...3
2. Quy định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá…...……...5
2.1 Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá……..……………………...5
2.2 Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá……..…………………….………………...6
2.2.1 Quá trình khởi kiện……..…………………….…………..………………………6
2.2.2 Quá trình điều tra….....…………………….…………………………………...10
2.2.3 Các khái niệm pháp lý chính …………….……………….……....…………...20
2.2.4 Quá trình xem xét lại…………...………….……………………………….…...34
CHƯƠNG II. THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ…………………....36
1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001…………………...37
1.2 Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Mỹ……….…….….…...43
2. Những nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Mỹ……...49
2.1 Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Mỹ…..…...49
2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của luật chống bán phá giá của Mỹ
đến bản thân nền kinh tế Mỹ…………..………….…………………………………...52
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn chống
bán phá giá của Mỹ……………….…………………………..………..……………...55
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá
giá……………………………………….…………….…………………………………...58
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá…....58
2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá…….………………...61
2.3 Nhóm giải pháp khác……………….……………………………………………...76
KẾT LUẬN……………….……….……………………………………….……...……...79
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
Luật chống bán phá giá là một trong những bộ luật non trẻ nhất của hệ
thống luật thương mại quốc gia cũng như thế giới bởi cho đến đầu thế kỷ XX,
khái niệm chống bán phá giá hầu như vẫn chưa hình thành.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày càng phát triển, khi
mà các hàng rào thương mại cổ điển dần được tháo bỏ, thì khái niệm bán phá
giá và chống bán phá giá ngày càng phổ biến và luật chống bán phá giá, do vậy,
ngày càng được chú trọng. Điều này đã được minh chứng qua số lượng ngày
càng tăng các quốc gia có luật chống bán phá giá cũng như các vụ kiện bán phá
giá diễn ra trên phạm vi toàn cầu.
Do vậy một điều hiển nhiên là trong hoạt động thương mại quốc tế trong
tương lai, việc các doanh nghiệp phải đối mặt với luật chống bán phá giá là một
điều tất yếu.
Mỹ, với tư cách là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và cũng là bạn hàng
khó chơi nhất, là một trong những quốc gia tiên phong trong việc sử dụng luật
chống bán phá giá để điều chỉnh mối quan hệ thương mại với các quốc gia
khác. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có dịp đối mặt với luật chống bán
phá giá Mỹ. Sự đơn giản về mặt bản chất nhưng phức tạp về các quy định cũng
như cách thức xử lý đòi hỏi các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp Việt
Nam, phải có được một vốn hiểu biết nhất định về bộ luật này nhằm, ít nhất,
tránh những lúng túng và sai sót không cần thiết trong trường hợp bị kiện bán
phá giá, và cao hơn, giành phần thắng về mình.
Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài này để thực hiện bài khoá luận tốt
nghiệp với mong muốn đưa ra được một cái nhìn riêng về bộ luật chống bán
phá giá của Mỹ. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan,
bản khoá luận này mới chỉ đưa ra được một số nét cơ bản của bộ luật chống bán
phá giá Mỹ cũng như việc thực thi bộ luật này trong thực tế nhằm giúp cho
người đọc có một cái nhìn khái quát nhất về bộ luật này.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và sự hỗ trợ về mặt tài liệu của giáo
viên hướng dẫn, thầy Nguyễn Phúc Khanh, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó hiệu
trưởng trường Đại học Ngoại thương. Dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của thầy,
em đã có thể hoàn thành tốt bản khoá luận tốt nghiệp này.
Hà nội, ngày 30/12/2003
Sinh viên
Trần Ngọc Trung
CHƯƠNG I
QUI ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ 1. Khái niệm về bán phá giá
1.1. Định nghĩa
Theo qui định tại khoản 800-801, chương 463 thuộc bộ Luật Doanh Thu
1916 (Revenue Act of 1916), hành vi bán phá giá là hành vi nhập khẩu, hỗ trợ
việc nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Mỹ tại mức giá thấp hơn
đáng kể so với giá trị thực hoặc giá bán buôn của hàng hóa đó, tính tại thời điểm
xuất khẩu vào thị trường Mỹ, hoặc tại thị trường chính của nước sản xuất, hoặc
tại một nước thứ ba cũng nhập khẩu hàng hóa đó (giá trị thực hoặc giá bán buôn
nói trên là giá không bao gồm cước vận chuyển, thuế, và các khoản phí khác cần
thiết cho việc nhập khẩu và bán tại thị trường Mỹ) với điều kiện, hành vi nói
trên được thực hiện nhằm phá hủy hoặc phương hại một ngành sản xuất ở Mỹ
hoặc ngăn cản việc thành lập một ngành sản xuất ở Mỹ, hoặc giành vị trí độc
quyền buôn bán hàng hóa đó ở Mỹ.
Theo định nghĩa trên, một hành vi sẽ được coi là bán phá giá nếu thỏa mãn
2 tiêu chí:
- Hàng hóa đó được bán tại mức giá thấp hơn giá trị thông thường.
- Việc bán hàng hóa tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất của
Mỹ.
1.2. Các đạo luật của Mỹ liên quan đến bán phá giá
Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên đưa luật chống bán phá giá vào
hệ thống luật pháp quốc gia.
Điều luật đầu tiên điều chỉnh hành vi bán phá giá là khoản 800 - 801 thuộc
Bộ Luật Doanh Thu ban hành năm 1916, thường được gọi là Luật chống bán
phá giá 1916.
Theo luật này, nhà nhập khẩu có thể bị truy cứu trách nhiệm dân sự và
hình sự nếu nhập khẩu hoặc bán hàng hóa ngoại nhập vào thị trường Mỹ tại mức
giá thấp hơn đáng kể so với mức giá của cũng sản phẩm đó bán tại một thị
trường khác tương đương. Đạo luật này được ban hành do nỗi lo sợ rằng các
Công ty châu Âu, đặc biệt là các Công ty Đức, trong nỗ lực giành lại vị thế trên
thị trường Mỹ sau thế chiến thứ I, sẽ đe dọa đến sự phát triển của ngành sản xuất
Mỹ.
Tuy nhiên, do tính phức tạp trong việc yêu cầu nguyên đơn đưa ra các
bằng chứng, nên luật này chỉ được áp dụng một cách hạn chế và đã nhanh chóng
được bổ sung bởi một điều luật khác: Luật chống bán phá giá ban hành năm
1921, sau này được đưa vào phần VII Luật thuế quan 1930 (Tariff Act of 1930).
Luật chống bán phá giá 1921 là căn cứ pháp lý quan trọng nhất trong việc xử lý
các hành vi bán phá giá. Bộ luật này cũng là nền tảng của Điều khoản VI của
GATT, sau này là Bộ luật chống bán phá giá của GATT ( ban hành năm 1967 ).
Sau việc ban hành luật chống bán phá giá 1921, phải mãi cho tới năm 1974
và 1979, Mỹ mới tiếp tục ban hành các điều luật điều chỉnh hành vi bán phá giá.
Đó là Luật Thương mại 1974 (Trade Act of 1974) và luật Thương mại 1979
(Trade Act of 1979). Hai điều luật này được ban hành nhằm chấn chỉnh lại công
tác kiểm soát, điều tra và xử lý các hành vi bán phá giá gây tổn hại cho nền công
nghiệp Mỹ. Chi tiết về vấn đề này sẽ được thảo luận kỹ ở phần sau.
Như vậy về cơ bản có 4 điều luật chính điều chỉnh hành vi bán phá giá:
- Luật chống bán phá giá 1916
- Luật chống bán phá giá 1921
- Luật Thương mại 1974
- Luật Thương mại 1979
Bốn bộ luật này được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau và đều được Bộ
Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ (USITC) dẫn chiếu
trong quá trình xử lý các vụ kiện bán phá giá.
2. Qui định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá
2.1. Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá
Cùng với sự hình thành của các điều luật liên quan, phạm vi thẩm quyền
xét xử hành vi bán phá giá cũng thay đổi theo.
Khi ban hành luật chống bán phá giá 1916, các vụ kiện bán phá giá được
coi là các vụ án dân sự và thậm chí là hình sự, do vậy cơ quan chịu trách nhiệm
là tòa án Mỹ. Thẩm quyền của tòa án chỉ giới hạn trong phạm vi xét xử, còn việc
tìm kiếm chứng cứ để có thể thắng được vụ kiện hoàn toàn là bổn phận của bên
nguyên đơn.
Việc ra đời Luật chống bán phá giá 1921 đồng nghĩa với việc chuyển đổi
thẩm quyền từ Tòa án sang Cục ngân khố Mỹ (US Treasury). Trách nhiệm cũng
được nâng cao: thẩm quyền của Cục Ngân khố không chỉ giới hạn trong việc
đưa ra phán quyết mà còn tiến hành các bước điều tra và xác định mức độ thiệt
hại mà mỗi hành vi bán phá giá gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế, các công tác liên
quan đến hành vi bán phá giá đều không được Cục Ngân khố tiến hành công
khai và thường không có thời hạn để hoàn tất một cuộc điều tra. Chính bởi lý do
này mà tính bảo hộ của Luật chống bán phá giá đã không được phát huy, tạo nên
sự phản ứng trong giới công nghiệp Mỹ, đặc biệt là trong ngành thép. Sự phản
ứng này đã dẫn đến kết quả ra đời của Luật Thương mại 1974 (Trade Act of
1979) và Luật Thương mại 1979 (Trade Act of 1979). Một cách chính xác thì
trong 2 bộ luật mới này, chính quyền Mỹ đã đưa ra các đạo luật qui định về hành
vi bán phá giá, cụ thể là Đạo luật Jackson - Vanik.
Theo luật mới này, hành vi bán hàng ở mức giá thấp hơn chi phí sản xuất
cũng được coi là bán phá giá. Về mặt thuật ngữ, bán phá giá và bán dưới mức
chi phí đều được gọi là bán dưới mức hợp lý (Less than fair value - LTFV). Luật
mới cũng đưa ra định nghĩa về chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất = chi phí trung bình + 10% chi phí quản lý + 8% lợi nhuận.
Đồng thời, thẩm quyền cũng được chuyển giao từ Cục Ngân khố Mỹ sang
Bộ Thương mại Hoa Kỳ ( DOC - Cơ quan bảo hộ công nghiệp nội địa) và Uỷ
ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC). Hai cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm
từng phần, cụ thể:
- Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) chịu trách nhiệm xác định mức giá bán
dưới mức hợp lý – mức LTFV. Việc xác định mức giá có thể được tiến hành khá
linh động. DOC có thể lựa chọn các mức tỷ giá hối đoái khác nhau khi chuyển
đổi giá xuất khẩu sang đồng tiền của nước xuất khẩu. DOC có thể bỏ qua mức
doanh số thấp hơn chi phí sản xuất thu được ở thị trường nước xuất khẩu. Khi
mức doanh số này quá thấp, DOC có thể sử dụng mức giá ở một thị trường thứ
ba. DOC cũng có thể không xét đến lượng doanh số ở mức giá cao hơn mức
LTFV thu được trên thị trường Mỹ. Một điều quan trọng là thị trường Mỹ có thể
phân ra thành các thị trường khu vực. Việc xác định lượng doanh số ở mức giá
LTFV chủ yếu phụ thuộc vào phương pháp tính toán mà DOC áp dụng.
- Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) chịu trách nhiệm xác định
mức độ thiệt hại. Tương tự như DOC, USITC cũng có thể linh động trong việc
xác định xem liệu hành vi bán phá giá gây ra những thiệt hại vật chất hay chỉ
mới đe dọa đến ngành sản xuất Mỹ. USITC có thể xem xét nhiều chỉ tiêu khác
nhau như doanh số, lợi nhuận, việc làm,…
2.2. Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá
Như đã trình bày ở trên, quá trình điều tra và đưa ra phán quyết cuối cùng
được gói gọn trong thời hạn tối đa là 280 ngày. Tuy nhiên, trên thực tế, các phán
quyết cuối cùng thường được đưa ra sớm hơn thời hạn này rất nhiều. Về cơ bản,
có 3 bước để kết thúc một vụ kiện bán phá giá:
- Khởi kiện.
- Điều tra
- Xem xét lại.
2.2.1. Quá trình khởi kiện
A. Tổng quan.
Bên nguyên đơn có thể đệ đơn kiện bán phá giá lên Bộ Thương mại Hoa
Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế (USITC) với nội dung: Một ngành
sản xuất của Mỹ đang phải chịu thiệt hại vật chất hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt
hại vật chất, hoặc việc thành lập một ngành sản xuất ở Mỹ bị trì hoãn do việc
nhập khẩu một hay nhiều loại hàng hóa tại mức giá thấp hơn mức hợp lý (mức
LTFV) hoặc do việc Chính phủ của một hay nhiều quốc gia trợ giá cho hàng hóa
mà Mỹ nhập khẩu.
B. Chuẩn bị khởi kiện
Thông thường, DOC và USITC thường xem xét lại đơn kiện trước khi
được đệ trình chính thức nhằm giúp nguyên đơn tránh được những sai sót có thể
ngăn cản quá trình điều tra.
Về mặt hình thức, đơn kiện phải có phần mở đầu và kết luận và được trình
bày theo dạng sau:
Mục 1: Thông tin chung
Mục 2: Mô tả hàng hóa nhập khẩu, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu
Mục 3: Thông tin về trợ giá và thông tin về giá
Mục 4: Thông tin về tình trạng nguy kịch
Mục 5: Thông tin về mức độ thiệt hại
Mục 1: Thông tin chung
Phần này cung cấp thông tin về nguyên đơn và ngành nội địa sản xuất sản
phẩm tương tự hoặc gần giống với sản phẩm nhập khẩu. Theo qui định, đơn kiện
phải nhân danh cả một ngành sản xuất. Để thỏa mãn điều kiện này thì:
i. Số lượng nhà sản xuất và công nhân ủng hộ đơn kiện phải đại diện cho
tối thiểu 25% tổng sản lượng của ngành đó.
ii. Số lượng nhà sản xuất và công nhân ủng hộ đơn kiện phải chiếm trên
50% sản lượng mà 25% nói trên tạo ra(1).
Nếu đơn kiện không có được sự ủng hộ của các nhà sản xuất và công nhân
chiếm trên 50% tổng sản lượng của ngành, thì DOC phải trưng cầu ý kiến của cả
ngành hoặc dựa vào các thông tin khác để xác định xem liệu đơn kiện đó có đạt
được mức ủng hộ như luật định không.
Mục 2: Mô tả hàng hóa nhập khẩu, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu
Trong phần này, bên nguyên đơn cần đưa ra những định nghĩa chính xác
và rõ ràng về hàng nhập khẩu bao gồm đặc tính kỹ thuật, nguyên liệu sản xuất
kèm theo catalog sản phẩm. Nhìn chung, định nghĩa này phải đủ rộng để bao
quát được toàn bộ vấn đề nhưng cũng phải đủ hẹp để tránh tốn thời gian điều tra.
Ngoài ra, bên nguyên đơn phải đưa ra thông tin về nước xuất xứ của hàng
nhập khẩu, nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, giá trị và kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường Mỹ trong 3 năm gần nhất.
Mục 3: Thông tin về trợ giá và thông tin về giá LTFV
Trong phần này, bên nguyên đơn phải đưa ra các thông tin, bằng chứng về
sự can thiệp của Chính phủ nước xuất khẩu đối với hàng nhập khẩu vào Mỹ,
cũng như mức giá dưới mức hợp lý - LTFV của hàng hóa nhập khẩu. Các thông
tin này sẽ chỉ do Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) xem xét.
Mục 4: Thông tin về "Tình trạng nguy kịch"
"Tình trạng nguy kịch" là điều khoản cho phép áp dụng thuế chống bán
phá giá trước thời hạn hiệu lực trong trường hợp đặc biệt. Bên nguyên đơn có
thể yêu cầu áp dụng điều khoản vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày DOC đưa
ra phán quyết cuối cùng 20 ngày.
Đương nhiên, để điều khoản này được áp dụng, thì bên nguyên đơn phải
nhận được phán quyết xử thắng của DOC và USITC. Việc thi hành điều khoản (1) Ví dụ, 1 tổng công ty, gồm nhiều công ty thành viên chiếm 25% tổng sản lượng của ngành, đệ đơn kiện bán phá giá. Để đơn kiện được chấp nhận, số công ty thành viên ủng hộ đơn kiện phải chiếm trên 50% sản lượng của tổng công ty.
này sẽ dẫn đến việc áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập
khẩu được bán trong khoảng thời gian 90 ngày trước khi mức thuế chống bán
phá giá được áp dụng. Điều khoản này được áp dụng nhằm 2 mục đích:
(1) Ngăn cản việc nhà nhập khẩu trốn thuế chống bán phá giá bằng cách
nhập khẩu một khối lượng lớn ngay sau khi có đơn kiện.
(2) Giảm bớt ảnh hưởng của lượng hàng nhập khẩu trốn thuế nếu như sự
việc đã xảy ra.
DOC phải đưa ra quyết định liên quan đến việc áp dụng điều khoản “tình
trạng nguy kịch”, và nếu quyết định của DOC là có tồn tại tình trạng đó, đồng
thời USITC cũng xác nhận việc có thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất nội
địa, thì USITC phải đưa ra một phán quyết bổ sung để xác định xem liệu có xảy
ra tình trạng trốn thuế hay không. Để đưa ra phán quyết này, USITC phải cân
nhắc các yếu tố:
(1) Thời gian và khối lượng hàng nhập khẩu.
(2) Sự tăng nhanh chóng lượng hàng nhập khẩu.
(3) Bất kỳ một yếu tố khác cho thấy đang có hành vi trốn thuế chống bán
phá giá.
Mục 5: Thông tin về mức độ thiệt hại
Trong phần này, bên nguyên đơn phải cung cấp các dữ liệu chứng minh
việc mặt hàng nhập khẩu gây thiệt hại hoặc đe đọa thiệt hại cho ngành sản xuất
nội địa. Nhìn chung, các số liệu này phải tổng kết được tình hình của 3 năm gần
nhất bao gồm:
(1) Kim ngạch và giá trị hàng nhập khẩu được bán ở mức giá LTFV.
(2) Giá bán tại Mỹ của hàng nhập khẩu và giá của sản phẩm tương tự được
sản xuất tại Mỹ.
(3) Năng suất, doanh số trong nước, doanh số xuất khẩu của sản phẩm
tương tự được sản xuất tại Mỹ.1
(4) Số lao động của Mỹ trong ngành sản xuất sản phẩm tương tự trên.
(5) Số liệu về thu nhập và lỗ (doanh số ròng, chi phí sản xuất, lợi nhuận
hoặc lỗ, chi phí bán hàng, chi phí quản lý)
2.2.2. Quá trình điều tra
Quá trình điều tra vụ kiện chống bán phá giá có thể được chia làm 5 bước,
kết thúc mỗi bước là phán quyết của DOC hoặc USITC.
Bước 1: Bắt đầu điều tra.
Bước 2: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Uỷ ban TMQT USITC
Bước 3: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Bộ TM HoaKỳ DOC
Bước 4: Giai đoạn điều tra chính thức của Bộ TM Hoa Kỳ DOC
Bước 5: Giai đoạn điều tra chính thức của Uỷ ban TMQT Hoa Kỳ USITC
Ngoại trừ bước 3, trong các bước còn lại nếu có phán quyết xử thua bên
nguyên đơn thì vụ kiện sẽ bị dừng lại.
Thời hạn hoàn thành cho 5 bước trên như sau:
Bước 1: 20 ngày sau khi nhận được đơn kiện
Bước 2: 45 ngày sau khi nhận được đơn kiện
Bước 3: 115 ngày sau khi hoàn thành bước 2
Bước 4: 75 ngày sau khi hoàn thành bước 3.
Bước 5: 120 ngày sau khi hoàn thành bước 3.
1 Những thông tin này sẽ được sử dụng để đánh giá quy mô của ngành sản xuất mặt hàng tương tự của Mỹ, từ đó
đánh giá mức độ thiệt hại mà mặt hàng bán phá giá gây ra.
A. Bước 1: Bắt đầu điều tra
Bên nguyên đơn phải đồng thời đệ đơn kiện lên DOC và USITC. Trong
vòng 20 ngày sau khi nhận đơn kiện, Bộ TM Hoa Kỳ (DOC) sẽ xác định tính
cần thiết áp dụng thuế chống bán phá giá như đơn kiện yêu cầu. Nếu phán quyết
của DOC là cần thiết, thì quá trình điều tra sẽ được tiến hành, nếu ngược lại
DOC sẽ bác đơn kiện và quá trình tố tụng chấm dứt.
B. Bước 2: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Uỷ ban Thương mại Quốc tế
Hoa Kỳ - USITC
Trong vòng 45 ngày sau khi nhận được đơn kiện, USITC sẽ dựa trên
những thông tin sẵn có để xác định xem liệu có dấu hiệu nào cho thấy một
ngành sản xuất Mỹ đang phải chịu thiệt hại hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại
vật chất, hoặc việc thành lập một ngành sản xuất bị ngăn cản do việc nhập khẩu
loại hàng hóa nằm trong diện điều tra. Trong giai đoạn điều tra sơ bộ này,
USITC phải tiến hành 6 bước:
- Thành lập và lên kế hoạch điều tra sơ bộ.
- Bảng câu hỏi.
- Họp báo và tổng kết
- Báo cáo của ban điều tra và bản ghi nhớ
- Tổng kết và biểu quyết
- Phán quyết và quan điểm của USITC
* Thành lập và lên kế hoạch điều tra sơ bộ
Sau khi nhận được đơn kiện, USITC sẽ thành lập một ban điều tra gồm 6
thành viên: 1 điều tra viên, 1 chuyên gia kinh tế, 1 kế toán viên/kiểm toán viên,
1 chuyên gia phân tích sản xuất, một luật sư, và 1 giám sát viên. Ban điều tra sẽ
lên kế hoạch điều tra và soạn thảo 1 thông báo cho công luận. Mục đích của bản
thông báo này là cung cấp cho công chúng những thông tin liên quan đến nội
dung điều tra và lịch trình điều tra.
Bên nguyên đơn cũng có thể tham gia vào ban điều tra.
* Bảng câu hỏi
Sau khi xem xét kỹ lưỡng đơn kiện và các thông tin sẵn có khác, ban điều
tra soạn thảo bảng câu hỏi để gửi cho các nhà sản xuất Mỹ, các nhà nhập khẩu
Mỹ và các nhà sản xuất nước ngoài nhằm lấy các thông tin cần thiết để đưa ra
phán quyết. Bảng câu hỏi sẽ được gửi đi trong vòng 2 đến 4 ngày làm việc sau
khi nhận được đơn kiện. Việc trả lời bảng câu hỏi là bắt buộc đối với các nhà
sản xuất và nhà nhập khẩu Mỹ. Nhà sản xuất nước ngoài không nhất thiết phải
trả lời bảng câu hỏi, tuy nhiên, việc không trả lời có thể dẫn đến những kết luận
không có lợi từ phía USITC.
Trong quá trình soạn thảo, bảng câu hỏi, USITC phải giải quyết một vấn
đề mấu chốt, đó là xác định chính xác sản phẩm cần điều tra. Trước khi đưa ra
phán quyết, USITC phải đánh giá mức độ thiệt hại mà một ngành sản xuất sản
phẩm tương tự của Mỹ phải hứng chịu. Luật chống bán phá giá định nghĩa "một
ngành sản xuất" là "bao gồm tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc
bao gồm các nhà sản xuất tạo ra một phần sản lượng chủ chốt của sản phẩm
trên…". Cũng theo luật thì "sản phẩm tương tự" là sản phẩm giống hệt, hoặc
trong trường hợp không có sản phẩm giống hệt, là sản phẩm có nhiều đặc tính
tương đồng với sản phẩm được so sánh nhất…". Việc xác định sản phẩm tương
tự được thực hiện dựa trên việc xem xét đơn kiện, thảo luận với các cá nhân
trong ngành sản xuất sản phẩm đó, và các phân tích mà USITC có được. Sau khi
đã lựa chọn được sản phẩm tương tự cần điều tra, USITC sẽ soạn thảo bảng câu
hỏi theo một mẫu đã được điều chỉnh cho phù hợp với vấn đề điều tra và gửi cho
các nhà sản xuất Mỹ, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất
nước ngoài (nước xuất khẩu thuộc diện điều tra).
Bảng câu hỏi cho nhà sản xuất Mỹ có 4 phần: Phần 1 đưa ra các câu hỏi về
bộ máy và hoạt động của Công ty; có ủng hộ đơn kiện này không? Tại sao?
Phần 2 yêu cầu cung cấp các thông tin, dữ liệu trong vòng 3 năm gần nhất về
năng suất, sản lượng, lượng hàng dự trữ, lượng hàng bán, lượng hàng nhập khẩu,
lượng tiêu thụ nội bộ, số lao động, giờ làm việc, mức lương. Phần 3 liên quan
đến các dữ liệu về tài chính trong 3 năm gần nhất bao gồm dữ liệu về tình hình
lỗ lãi của sản phẩm được điều tra; dữ liệu về vốn, chi phí nghiên cứu và phát
triển, và giá trị tài sản của doanh nghiệp; ngoài ra còn có các câu hỏi về mức độ
ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đối với tình hình vốn và đầu tư. Phần 4 yêu cầu
nhà sản xuất cung cấp các thông tin liên quan đến mức giá và yêu cầu nhà sản
xuất khẳng định việc sụt giảm doanh thu là do ảnh hưởng của loại hàng nhập
khẩu đang được điều tra.
Bảng câu hỏi cho nhà nhập khẩu Mỹ gồm 3 phần. Phần 1 tương tự như
bảng câu hỏi cho nhà sản xuất. Phần 2 yêu cầu các dữ liệu trong vòng 3 năm gần
nhất về việc nhập khẩu mặt hàng được điều tra; kim ngạch và giá trị hàng bán,
tiêu thụ nội bộ, chuyển nhượng hàng nhập khẩu nói trên; và lượng hàng nhập
khẩu dự trữ trong kho. Phần 3 yêu cầu cung cấp mức giá bán hàng nhập khẩu và
các thông tin liên quan đến mức giá.
Bảng câu hỏi cho nhà sản xuất nước ngoài cũng gồm 3 phần. Hai phần đầu
bao gồm các câu hỏi tổng quát về hoạt động của nhà sản xuất tại nước đang
được điều tra (nước xuất khẩu) và tại Mỹ. Phần 3 yêu cầu các thông tin trong 3
năm gần nhất về năng suất, sản lượng, lượng hàng bán trong nước, lượng xuất
khẩu sang Mỹ và các thị trường khác và lượng dự trữ mặt hàng trên.
* Họp báo và tổng kết
Sau khoảng 3 tuần điều tra sơ bộ, USITC sẽ tổ chức một cuộc họp báo.
Điều hành buổi họp báo là giám đốc điều tra của USITC; ban điều tra cùng tham
dự. Các bên ủng hộ hay phản đối vụ kiện đều có một tiếng đồng hồ để đưa ra
các luận điểm và bằng chứng để bảo vệ quan điểm của mình. Các bên diễn
thuyết phải đảm bảo tính chính xác của các thông tin đưa ra. Các quan chức
đứng đầu và ban điều tra có thể đặt câu hỏi cho các nhân chứng, nhưng việc chất
vấn giữa hai bên ủng hộ và phản đối là không được phép. Sau khi hai bên kết
thúc bài thuyết trình, mỗi bên cũng có 10 phút để bác bỏ luận điểm của bên còn
lại và đưa ra kết luận. Toàn bộ nội dung buổi họp báo được lập thành biên bản.
USITC khuyến khích các bên nộp bản tổng kết sau họp báo. Trong bản
tổng kết này, các bên có thể đưa ra các thông tin và luận điểm thích hợp với vấn
đề điều tra. Bảng tổng kết được giới hạn về độ dài là 50 trang và phải được trình
lên USITC trong vòng 3 ngày làm việc sau buổi họp báo.
* Báo cáo của ban điều tra và bản ghi nhớ
Báo cáo của ban điều tra là một văn bản khách quan do điều tra viên,
chuyên gia phân tích sản xuất, kế toán viên / kiểm toán viên, và chuyên gia kinh
tế soạn thảo dưới sự chỉ đạo của giám sát viên. Bản báo cáo bao gồm 1 bài
thuyết trình và phân tích về tất cả các số liệu thống kê và các thông tin khác thu
thập được từ bảng câu hỏi, tài liệu, nghiên cứu thực địa… Bản báo cáo không
đưa ra bất kỳ đề xuất nào liên quan đến phán quyết của USITC.
Sau khi giám sát viên xem xét kỹ, bản báo cáo sẽ được chuyển tới USITC
sau khoảng 5 tuần điều tra sơ bộ. Vào ngày làm việc tiếp theo, hội đồng cố vấn
sẽ chuyển cho USITC bản ghi nhớ do thành viên luật sư của ban điều tra soạn
thảo. Bản ghi nhớ nêu ra các vấn đề pháp lý liên quan đến cuộc điều tra, tóm tắt
luận điểm của hai bên ủng hộ và phản đối, đồng thời cũng đưa ra đề xuất về mặt
pháp lý.
* Tổng kết và biểu quyết
Khoảng 4 ngày làm việc sau khi nhận được bản báo cáo của ban điều tra,
USITC sẽ tổ chức một buổi họp nhằm tổng kết giai đoạn điều tra và biểu quyết.
Trong buổi họp, đại diện của USITC có thể chất vấn ban điều tra về các vấn đề
liên quan đến cuộc điều tra trước khi thông qua bản báo cáo. Tiếp sau đó, từng
đại diện của USITC sẽ tuyên bố quan điểm của cá nhân và biểu quyết việc có
hay không thiệt hại vật chất đối với một ngành sản xuất Mỹ do hành vi bán phá
giá gây ra. ý kiến biểu quyết sẽ quyết định đến phán quyết của USITC. Chỉ cần
số biểu quyết ủng hộ chiếm một nửa, thì phán quyết của USITC sẽ là: Có.
* Phán quyết và quan điểm của USITC
Theo qui định pháp luật, USITC phải đệ trình phán quyết của giai đoạn
điều tra sơ bộ lên Ban thư ký của DOC trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận đơn
kiện. Tiếp sau đó, USITC có 5 ngày để trình bày quan điểm bằng văn bản lên
DOC. Trong cùng thời gian này, ban điều tra cũng phải đệ trình lên DOC bản
báo cáo đã được phát hành rộng rãi (bản báo cáo được phát hành rộng rãi là bản
báo cáo trong đó không đề cập đến bất kỳ một công ty cụ thể nào và không chứa
đựng các thông tin bí mật).
C. Bước 3: Giai đoạn điều tra sơ bộ của DOC
Trong trường hợp phán quyết mà USITC đưa ra là có thiệt hại vật chất thì
DOC phải tiến hành giai đoạn điều tra sơ bộ. Thời hạn cho giai đoạn này là 160
ngày kể từ ngày nhận đơn kiện. DOC sẽ dựa trên các thông tin sẵn có để kết
luận xem liệu có cơ sở cho việc nghi ngờ hàng hóa nhập khẩu được bán ở mức
giá LTFV hay không. Cụ thể, DOC sẽ phải dựa vào các thông tin, số liệu do Ban
điều tra thu thập hoặc do chính DOC thu thập để xác định các khái niệm : Giá trị
thông thường, Giá xuất khẩu, Mức bán phá giá và tỉ lệ bán phá giá (ý nghĩa của
các khái niệm này sẽ được giải thích cụ thể ở phần 2.2.3).
Nếu kết luận sơ bộ của DOC là có hành vi bán phá giá thì DOC sẽ ra lệnh
đình chỉ việc thanh toán cho tất cả các giao dịch liên quan đến hàng nhập khẩu
thuộc diện điều tra, được thực hiện trong khoảng thời gian 90 ngày trước khi ban
hành lệnh này. Tiếp sau đó, các nhà nhập khẩu phải ký quĩ một khoản tiền tương
đương với tỉ lệ bán phá giá (1). Nếu kết luận của DOC là: không có cơ sở cho
những nghi ngờ trên, thì DOC vẫn tiến hành giai đoạn điều tra chính thức,
nhưng nhà nhập khẩu sẽ không phải ký quỹ số tiền nói trên.
(1) "Mức bán phá giá" là lượng chênh lệch giữa giá trị thông thường của loại hàng đó với giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ cũng của loại hàng đó".
"Mức bán phá giá" "Tỉ lệ bán phá giá " = Giá xuất khẩu
X 100%
D. Bước 4: Giai đoạn điều tra chính thức của DOC
Trong vòng 235 ngày sau ngày nhận đơn kiện, DOC phải đưa ra phán
quyết chính thức liệu hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra có được bán hoặc có
khả năng được bán ở mức giá dưới mức hợp lý (mức LTFV) hay không.
E. Bước 5: Giai đoạn điều tra chính thức của USITC
Trong vòng 280 ngày kể từ ngày nhận đơn kiện, USITC phải đưa ra phán
quyết chính thức về việc liệu hành vi nhập khẩu loại hàng hóa thuộc diện điều
tra có gây tổn hại vật chất hoặc đe dọa tổn hại vật chất hoặc ngăn cản việc thành
lập một ngành sản xuất của Mỹ hay không.
Giai đoạn điều tra chính thức này được chia làm 8 bước:
- Lập lịch trình điều tra.
- Lập bảng câu hỏi
- Báo cáo trước hội thảo
- Hội thảo và tổng kết.
- Báo cáo chính thức của ban điều tra và bản ghi nhớ.
- Kết thúc hồ sơ điều tra và ý kiến của các bên.
- Tổng kết và biểu quyết.
- Phán quyết và quan điểm của USITC.
* Lập lịch trình điều tra
Giai đoạn điều tra chính thức của USITC bắt đầu sau khi nhận được thông
báo của DOC về việc: DOC đã đưa ra kết luận sơ bộ rằng có hành vi bán phá giá
và cần tiếp tục điều tra. USITC sẽ thành lập một ban điều tra gồm 6 thành viên.
Ban điều tra sẽ lập lịch trình điều tra. Lịch trình này sẽ được USITC thông qua
trong vòng 1 tuần kể từ ngày nhận được thông báo của DOC.
Các bên liên quan, nếu muốn tham gia vào quá trình điều tra chính thức,
thì cần đệ đơn xin tham gia lên ban thư ký của USITC.
* Lập bảng câu hỏi
Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ của giai đoạn điều tra sơ bộ và đặc biệt là
quan điểm của USITC về vấn đề điều tra, ban điều tra sẽ lập bảng câu hỏi nhằm
khai thác từ các nhà sản xuất Mỹ và ngoại quốc, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà buôn
Mỹ các thông tin mà USITC cần. Bản thảo của bảng câu hỏi sẽ được gửi cho các
bên liên quan để lấy ý kiến. Tiếp đó, ban điều tra tập hợp các ý kiến và trình
bảng câu hỏi lên USITC để được thông qua. Bảng câu hỏi sau khi được thông
qua sẽ được gửi cho tất cả các nhà sản xuất Mỹ, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà sản
xuất nước ngoài có tham gia vào việc trả lời bảng câu hỏi của giai đoạn điều tra
sơ bộ. Bảng câu hỏi cũng có thể được gửi cho các Công ty khác mà ban điều tra
cho rằng có liên quan đến việc nhập khẩu hoặc sản xuất mặt hàng thuộc diện
điều tra. Về cơ bản, cấu trúc bảng câu hỏi này là tương đồng với bảng câu hỏi sử
dụng trong giai đoạn điều tra sơ bộ, tuy nhiên có thể có một vài thay đổi về nội
dung câu hỏi và sự rút ngắn về mặt thời gian của các số liệu cần thu thập.
Bảng câu hỏi cho nhà buôn Mỹ ít nhất gồm 4 phần: Phần 1 tương tự như
bảng câu hỏi cho nhà sản xuất và nhà nhập khẩu. Phần 2 yêu cầu số liệu về hạn
ngạch và giá trị loại hàng thuộc diện điều tra mà Công ty mua, phân loại theo
nước sản xuất (hàng sản xuất tại Mỹ, hàng sản xuất tại nước thuộc diện điều tra,
và hàng sản xuất tại nước không thuộc diện điều tra). Phần 3 đưa ra các câu hỏi
về đặc điểm của thị trường của loại hàng hóa trên và phương thức mua bán.
Phần 4 đưa ra các câu hỏi về tình hình cạnh tranh giữa hàng sản xuất tại Mỹ với
hàng sản xuất tại nước thuộc diện điều tra và hàng sản xuất tại nước không
thuộc diện điều tra. Ngoài ra còn có các câu hỏi yêu cầu đưa ra sự so sánh về
giá, chất lượng… giữa các mặt hàng có xuất xứ từ 3 nguồn gốc nói trên.
Bảng câu hỏi sẽ được gửi đi trong vòng 1 tuần sau khi nhận được thông
báo của DOC về kết luận điều tra sơ bộ.
* Báo cáo tiền hội thảo
Bản báo cáo này được trình lên USITC 9 ngày trước khi tổ chức hội thảo,
bao gồm các thông tin mới nhất và số liệu thống kê, phân tích của các bên liên
quan, cũng như các cơ sở để USITC và các bên thảo luận trong buổi hội thảo.
* Hội thảo và tổng kết
USITC sẽ tổ chức một buổi hội thảo ngay sau khi DOC đưa ra phán quyết
chính thức. Chủ tịch của USITC sẽ chủ trì buổi hội thảo. Buổi hội thảo là dịp để
các bên liên quan bày tỏ quan điểm của mình và cũng là cơ hội để các thành
viên USITC chất vấn các bên và khai thác thông tin phục vụ cho việc đưa phán
quyết chính thức. Đơn đăng ký tham gia hội thảo phải được gửi lên Ban thư ký
của USITC chậm nhất là 3 ngày trước khi buổi hội thảo diễn ra.
Trong buổi hội thảo, các bên ủng hộ và phản đối đơn kiện sẽ có 5 phút cho
mỗi bên để tóm tắt luận điểm của mình. Tiếp theo đó, mỗi bên sẽ có một tiếng
đồng hồ để nêu ra bằng chứng bảo vệ luận điểm của mình. Sau khi nghe trình
bày của các bên là quá trình chất vấn của USITC, của ban điều tra và của bên
đối lập.
Kết thúc buổi hội thảo là phần tóm tắt vụ kiện dài 5 phút do cả hai bên, bên
nguyên đơn và bị đơn, trình bày.
USITC khuyến khích các bên liên quan đệ trình bằng chứng lên USITC
trước khi diễn ra buổi hội thảo. Các bằng chứng này cần ngắn gọn và tập trung
vào vấn đề chính của cuộc điều tra. Ngoài ra, USITC cũng khuyến khích các bên
đệ trình bản tổng kết sau buổi hội thảo. Bản tổng kết có thể đưa ra thông tin
được khám phá trong thời gian sau khi tổ chức hội thảo. Thời hạn nộp bản tổng
kết là 5 ngày sau buổi hội thảo.
* Báo cáo chính thức của ban điều tra và bản ghi nhớ
Sau buổi hội thảo, ban điều tra sẽ cập nhật các thông tin thu thập được từ
buổi hội thảo, bản tổng kết,… vào bản báo cáo tiền hội thảo. Mục tiêu của bản
báo cáo chính thức là bổ sung và đính chính các thông tin được đưa ra trong bản
báo cáo tiền hội thảo. Bản báo cáo chính thức sẽ được đệ trình lên USITC
khoảng 2 tuần sau khi kết thúc hội thảo. Bản báo cáo chính thức, cùng với các
tài liệu do ban điều tra soạn thảo, biên bản nội dung buổi hội thảo, bản tổng kết
của các bên liên quan và các thông tin khác sẽ là căn cứ để USITC đưa ra phán
quyết cuối cùng.
* Kết thúc hồ sơ điều tra và ý kiến của các bên
USITC sẽ kết thúc hồ sơ điều tra 5 ngày sau khi nhận được bản báo cáo
chính thức của ban điều tra. Đến thời điểm này, các bên liên quan sẽ được phép
xem xét tất cả các thông tin trước đây chưa công bố. 2 ngày sau khi kết thúc hồ
sơ điều tra, các bên có liên quan sẽ có cơ hội đưa ra ý kiến về tính chính xác,
mức độ tin cậy, hoặc giá trị của các thông tin này.
* Tổng kết và biểu quyết
USITC sẽ tổ chức một buổi tổng kết và biểu quyết công khai, 3 ngày sau
khi nhận được ý kiến bình luận nêu trên của các bên có liên quan và 6 ngày
trước khi kết thúc thời hạn điều tra. Trước khi biểu quyết, USITC sẽ một lần nữa
xem xét lại toàn bộ hồ sơ và có thể yêu cầu ban điều tra tóm tắt lại quá trình điều
tra.
* Phán quyết và quan điểm của USITC
Theo qui định, USITC phải đệ trình phán quyết chính thức lên ban thư ký
của DOC trong vòng 120 ngày sau khi nhận được thông báo về kết luận sơ bộ
của DOC hoặc 45 ngày sau khi nhận được thông báo về kết luận chính thức của
DOC. Trong cùng thời gian này, USITC phải trình bày quan điểm bằng văn bản
về lý do đưa ra phán quyết đó. Các văn bản này cùng được chuyển cho các bên
liên quan.
Sau khi xem xét phán quyết chính thức và bản giải trình của USITC, DOC
sẽ đưa ra quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu
thuộc diện điều tra và đưa ra một mức thuế tương đương với tỉ lệ bán phá giá.
Lưu ý : Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý rằng, mức thuế mà DOC đưa ra
vào thời điểm này không phải là mức thuế thực sự mà hàng hoá nhập khẩu phải
chịu. Ta có thể xem xét một ví dụ: DOC phát hiện thấy hàng nhập khẩu được
bán với tỉ lệ bán phá giá là 5%. Sau khi USITC đưa ra phán quyết chính thức là
có thiệt hại vật chất, DOC sẽ ra quyết định áp dụng mức thuế chống bán phá giá
với hàng hoá đó là 5%. Từ thời điểm này, mặt hàng trên, khi nhập khẩu vào Mỹ,
sẽ phải chịu thêm một mức thuế 5%. Nhà nhập khẩu sẽ phải đặt cọc một số tiền
tương đương với mức 5% trên cho Cục Hải quan của Mỹ khi làm thủ tục nhập
khẩu. Tình trạng này sẽ được duy trì trong vòng một năm. Sau một năm, trong
quá trình xem xét lại, DOC mới đưa ra một mức thuế chống bán phá giá thực sự.
Mức thuế chống bán phá giá thực sự này có thể sẽ cao hơn hoặc thấp hơn tỉ lệ
bán phá giá mà DOC tìm thấy. Nếu cao hơn, nhà nhập khẩu sẽ phải nộp thêm số
tiền còn thiếu. Nếu thấp hơn, nhà nhập khẩu sẽ được hoàn trả lại phần thừa.
Đồng thời trong quá trình xem xét lại, DOC và USITC sẽ quyết định việc có tiếp
tục duy trì thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng đó hay không.
Có hai mốc hiệu lực của thuế chống bán phá giá, tuỳ thuộc vào phán quyết
chính thức của DOC về “tình trạng nguy kịch”. Nếu phán quyết chính thức của
DOC là có tồn tại "tình trạng nguy kịch”, và USITC cũng đưa ra phán quyết
chính thức rằng: 1 ngành sản xuất của Mỹ đang phải chịu thiệt hại vật chất, thì
USITC sẽ phải điều tra thêm để xác định xem liệu có tình trạng "trốn thuế" hay
không (như trình bày trong mục 4 - phần B - 2.2.1). Kết quả của cuộc điều tra
thêm này sẽ quyết định ngày hiệu lực của phán quyết: Nếu kết quả điều tra là có
hành vi "trốn thuế", thì mức thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng từ ngày
ban hành lệnh đình chỉ thanh toán (C-2.2.2); trong trường hợp ngược lại, thì thời
hạn hiệu lực bắt đầu từ ngày công bố chính thức quyết định của USITC.
Như vậy, việc DOC và USITC đưa ra các phán quyết chính thức chưa hẳn
đã kết thúc quá trình điều tra một hành vi bán phá giá. Như đã nói ở phần đầu,
quá trình điều tra chỉ kết thúc sau khi đã hoàn thành quá trình xem xét lại. Tuy
nhiên, để hiểu rõ hơn về bản chất của việc điều tra cũng như cơ sở để hình thành
kết quả của mỗi phán quyết, chúng ta sẽ nghiên cứu các khái niệm pháp lý chính
trước. Quá trình xem xét lại sẽ được đề cập sau.
2.2.3. Các khái niệm pháp lý chính
Các khái niệm pháp lý này chính là cái khung tạo ra kết quả điều tra của
Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
(USITC).
A. Giá trị thông thường ( Normal value )
Giá trị thông thường, nói một cách đơn giản, là giá của sản phẩm thuộc
diện điều tra được bán tại một thị trường khác ngoài Mỹ.
Giá trị thông thường là một khái niệm quan trọng, có tính quyết định đến
phương pháp tính mức bán phá giá cũng như kết quả hay mức thuế chống bán
phá giá sẽ được áp dụng.
Việc tiến hành xác định “giá trị thông thường” do DOC tiến hành và có 5
phương pháp để xác định khái niệm này :
(1) Giá thị trường nước xuất khẩu
(2) Giá thị trường nước thứ ba
(3) Giá dự tính
(4) Giá của nền kinh tế phi thị trường
(5) Giá xây dựng theo các dữ liệu sẵn có
(1) Giá trị thông thường = Giá thị trường nước xuất khẩu
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Giá trị thông thường
được tính trên cơ sở giá bán của sản phẩm xuất khẩu tại thị trường nước xuất
khẩu. Nói cách khác, một sản phẩm sẽ bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu
của sản phẩm đó vào thị trường Mỹ thấp hơn giá bán lẻ ( giá bán cho người tiêu
dùng) cũng của sản phẩm đó hoặc sản phẩm tương tự tại thị trường nước xuất
khẩu. Trên cơ sở giá CIF, DOC sẽ trừ đi các khoản phí như cước vận chuyển,
phí giao dịch, hoa hồng, và các chi phí bán hàng có liên quan khác. Mục đích
của DOC là muốn so sánh trên cơ sở giá xuất xưởng.
(2) Giá trị thông thường = Giá thị trường của nước thứ ba
Trong trường hợp sản phẩm thuộc diện điều tra hoặc sản phẩm tương tự
sản phẩm thuộc diện điều tra không được bán trên thị trường nước xuất khẩu
hoặc doanh số của mặt hàng này tại thị trường nước xuất khẩu quá thấp ( nhỏ
hơn 5% tổng doanh số mặt hàng này tại thị trường Mỹ ) thì DOC sẽ coi thị
trường mặt hàng này của nước xuất khẩu là không tồn tại và lựa chọn thị trường
một nước thứ ba nơi cũng nhập khẩu mặt hàng tương tự của nước xuất khẩu
trên. DOC sẽ lấy giá xuất khẩu vào thị trường nước thứ ba của mặt hàng thuộc
diện điều tra làm giá trị thông thường.
(3) Giá trị thông thường = Giá dự tính
Giá dự tính là mức giá do DOC xây dựng nên dựa trên 3 yếu tố: Chi phí
sản xuất ; Mức chi phí chung ; Mức lợi nhuận hợp lý. Việc tính toán mức chi
phí chung và mức lợi nhuận hợp lý sẽ được dựa trên các dữ liệu liên quan đến
hoạt động sản xuất và bán hàng do nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất thuộc diện
điều tra cung cấp. Trong trường hợp không xác định được 2 yếu tố này bằng cơ
sở trên, DOC có thể dựa vào : Số liệu thực tế về hoạt động sản xuất và bán hàng
của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất thuộc diện điều tra tại thị trường nước xuất
khẩu hoặc bất kỳ một phương pháp nào khác miễn là mức lợi nhuận dự tính
không vượt quá mức lợi nhuận thông thường mà nhà xuất khẩu hoặc nhà sản
xuất thuộc diện điều tra vẫn hưởng.
DOC sẽ áp dụng mức giá dự tính trong trường hợp không có thị trường
nước thứ ba tương tự.
Trường hợp đặc biệt : Loại trừ các khoản doanh thu phát sinh từ
mức giá thấp hơn mức chi phí.
Trong quá trình kinh doanh, thường có một số giao dịch có mức giá bán
thấp hơn mức chi phí sản xuất. Các giao dịch như vậy sẽ được coi là “giao dịch
trong điều kiện thương mại bất thường” và sẽ bị loại khỏi giá trị thông thường.
Trong thực tế, các giao dịch dưới mức chi phí sẽ bị loại nếu giá bán trung bình
của các giao dịch này thấp hơn chi phí sản xuất trung bình và kim ngạch của
các giao dịch này chiếm trên 20% tổng kim ngạch. Việc loại bỏ các giao dịch
trên sẽ làm tăng giá trị thông thường và càng làm cho việc phát hiện ra hành vi
bán phá giá khả dĩ hơn. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ. Trong ví dụ này, giả
sử mức chi phí sản xuất là 50 :
Thời điểm Kim
ngạch
Giá trị thông thường Giá xuất khẩu vào
thị trường Mỹ
Tháng 1 10 40 50
Tháng 2 10 100 100
Tháng 3 10 150 150
Tháng 4 10 200 200
Ví dụ trên đưa ra 4 giao dịch với kim ngạch của mỗi giao dịch là 10. Giao
dịch vào tháng 1 có mức giá là 40, thấp hơn mức chi phí sản xuất ( 50 ). Giao
dịch này chiếm 25% tổng kim ngạch ( > 20% ) vì vậy nó sẽ bị loại khỏi giá trị
thông thường. Kết quả là ta có:
Giá trị thông thường trung bình là (100 +150 + 200)/3 = 150
Mức giá xuất khẩu trung bình là (50 + 100 + 150 + 200)/4 = 125
Do đó mức bán phá giá là (150 – 125) = 25 và tỉ lệ bán phá giá là 25/125 =
20%. Nếu như giao dịch trong tháng 1 không bị loại khỏi gía trị thông thường
thì giá trị thông thường trung bình là 122.5 và như vậy đã không có hành vi bán
phá giá.
(4) Giá trị thông thường = Giá của một nền kinh tế phi thị trường
Đối với hàng nhập khẩu từ các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường như
Liên bang Sô Viết cũ, Trung Quốc,.., DOC sẽ từ chối việc lấy giá ở thị trường
nước xuất khẩu làm giá trị thông thường với quan điểm rằng giá và chi phí của
các thị trường nói trên là do chính phủ kiểm soát và do đó không phản ánh đúng
giá trị thị trường. DOC sẽ thu thập các thông tin về các yếu tố đầu vào mà nhà
sản xuất tại nước xuất khẩu cần để tạo ra sản phẩm thuộc diện điều tra. Sau đó,
DOC sẽ tính toán giá trị của các yếu tố đầu vào này trên cơ sở giá của các yếu
tố đó tại một “nước đại diện”. Nước đại diện là quốc gia có nền kinh tế thị
trường và được đánh giá là có mức độ phát triển tương đương với nước thuộc
diện điều tra.
(5) Giá trị thông thường = Giá xây dựng theo các dữ liệu sẵn có
Phương pháp cuối cùng mà DOC sử dụng là xác định giá trị thông thường
dựa vào các thông tin sẵn có chứ không phải là các dữ liệu mà nhà sản xuất
hoặc nhà nhập khẩu cung cấp. Phương pháp này được sử dụng khi nhà sản xuất
nước ngoài không cung cấp đủ các thông tin về giá và chi phí như DOC yêu
cầu, hoặc những thông tin được cung cấp tỏ ra không chính xác và đầy đủ.
Trong trường hợp đó, DOC sẽ dựa vào các dữ liệu sẵn có trong hồ sơ các vụ
kiện bán phá giá khác.
B. Mức bán phá giá ( Dumping Amount ) và Tỉ lệ bán phá giá
( Dumping Margins )
Theo quy định của luật chống bán phá giá, sau khi đã xác định được giá
trị thông thường bằng một trong năm phương pháp trên, DOC sẽ tiến hành tính
toán mức bán phá giá.
Mức bán phá giá là chênh lệch giữa giá trị thông thường và giá xuất khẩu
sang thị trường Mỹ của mặt hàng thuộc diện điều tra.
Tỉ lệ bán phá giá là tỉ lệ phần trăm của mức bán phá giá so với giá xuất
khẩu.
Việc xác định mức bán phá giá là một bước quan trọng để xác định xem
liệu có hay không hành vi bán phá giá và nếu có thì hành vi đó xảy ra ở mức độ
nào. Cụ thể, nếu giá xuất khẩu nhỏ hơn giá trị thông thường thì đã có hành vi
bán phá giá và tỉ lệ bán phá giá càng lớn thì mức độ nghiêm trọng của hành vi
bán phá giá càng cao.
Theo quy định, việc so sánh này sẽ được thực hiện ở cùng một khâu trong
kênh phân phối, thông thường là ở khâu xuất xưởng, và các thông số được sử
dụng trong quá trình so sánh thường có mốc thời gian không chênh lệch nhau
lắm. Việc so sánh hai giá trị này ở khâu xuất xưởng đồng nghĩa với việc phải
loại trừ tất cả các chi phí phát sinh sau thời điểm hàng hoá được xuất xưởng ra
khỏi mức giá được sử dụng để so sánh. Ví dụ như, nếu giá xuất khẩu là giá CIF,
tức là nhà xuất khẩu phải trả cước vận chuyển nội địa, cước tàu biển và bảo
hiểm, thì các mức cước này sẽ bị loại trừ để có được giá xuất xưởng.
Về cơ bản, có hai phương pháp so sánh : So sánh theo giá trị trung bình (
Weighted average to weighted average basis ) và So sánh theo từng giao dịch (
Transaction to Transaction basis ). Hãy xem xét ví dụ sau :
Thời điểm Giá trị thông thường Giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ
Tháng 1 50 50
Tháng 2 100 100
Tháng 3 150 150
Tháng 4 200 200
Nếu sử dụng phương pháp so sánh theo giá trị trung bình, ta sẽ có giá trị
thông thường là ( 50 + 100 + 150 + 200)/4 =125, còn giá xuất khẩu là (50 + 100
+ 150 + 200)/4 = 125. Do giá trị thông thường bằng giá xuất khẩu nên không có
hành vi bán phá giá.
Nếu sử dụng phương pháp so sánh theo từng giao dịch thì các giao dịch
trong nước và giao dịch xuất khẩu diễn ra vào cùng một mốc thời gian ( thường
là trong cùng một tháng ) sẽ được so sánh với nhau.
Trường hợp ngoại lệ
DOC có thể so sánh giá trị trung bình của giá trị thông thường với giá
xuất khẩu của từng giao dịch, nếu DOC phát hiện có sự chênh lệch lớn về mức
giá, bán cho các người mua khác nhau, bán cho các khu vực khác nhau, và bán
vào các thời điểm khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp này, kết quả sẽ rất
khác biệt.
Thời
điểm
Giá trị thông thường
(tính trên cơ sở giá trị
trung bình)
Giá xuất khẩu
(từng giao dịch)
Mức bán
phá giá
Tháng 1 125 50 75
Tháng 2 125 100 25
Tháng 3 125 150 -25
Tháng 4 125 200 -75
Phương pháp làm tròn : Từ ví dụ trên, ta có một lượng bán phá giá
dương là 100 ( 75 và 25 của hai giao dịch đầu ) và một lượng bán phá giá âm
cũng là 100 ( -25 và -75 của hai giao dịch cuối ). Sở dĩ có mức bán phá giá âm
là do giá xuất khẩu thực tế cao hơn giá trị thông thường. Sẽ không có hành vi
bán phá giá nếu lượng bán phá giá âm được bù cho lượng bán phá giá dương.
Tuy nhiên, DOC không chấp nhận sự bù đắp như trên và thay vào đó, gán giá
trị 0 vào các giao dịch có mức bán phá giá âm. Đây tạm gọi là phương pháp làm
tròn ( Zeroing ). Kết quả của phương pháp này là: Ta sẽ có một mức bán phá
giá là 100 và tỉ lệ bán phá giá là 100/500 = 20%.
Việc áp dụng phương pháp làm tròn được giải thích rằng : Chỉ cần có một
giao dịch có hành vi bán phá giá thì tức là mặt hàng nhập khẩu từ quốc gia đó
bị bán phá giá. Phương pháp này, do đó, đã hỗ trợ việc phát hiện ra hành vi bán
phá giá.
Ví dụ minh họa cách xác định mức bán phá giá
Ví dụ 1. Giá trị thông thường được xác định theo phương pháp 1, giá thị
trường nước xuất khẩu.
Giá trị thông thường Giá xuất khẩu
Nhà sản xuất X Thị trường trong
nước
Nhà sản xuất X Xuất khẩu
Giá bán : 100 Giá CIF : 100
Thuế : 5 Những khác biệt trong quá trình
xuất khẩu : 5
Chiết khấu : 2 Chiết khấu : 2
Đóng gói : 1 Đóng gói : 1
Cước vận chuyển nội địa : 1 Cước vận chuyển nội địa : 1
Cước đường biển/Bảo hiểm : 6
Lãi tiền vay : 5 Lãi tiền vay : 2
Bảo hành : 2 Bảo hành : 2
Hoa hồng : 2 Hoa hồng : 2
Giá trị thông thường ( tại khâu xuất
xưởng ) : 82
Giá xuất khẩu ( tại khâu xuất xưởng
) : 79
Từ ví dụ này, ta có tỉ lệ bán phá giá là ( 82 –79 )/100 x 100 = 3%. Ví dụ
này cho thấy, mặc dù giá bán trong nước và giá xuất khẩu là tương đương,
nhưng vẫn có hành vi bán phá giá do giá xuất khẩu ( tại khâu xuất xưởng ) thấp
hơn giá trị thông thường ( tại khâu xuất xưởng ).
Ví dụ 2.
Giá trị thông thường Giá xuất khẩu
Nhà sản
xuất X Thị
trường trong
nước
Nhà sản xuất X Xuất khẩu
Giá bán : 100 Giá CIF : 100
Thuế : 5 Những khác biệt trong quá
trình xuất khẩu : 5
Chiết khấu : 5 Chiết khấu : 2
Đóng gói : 1 Đóng gói : 1
Cước vận chuyển nội địa : 1 Cước vận chuyển nội địa : 1
Cước đường biển/Bảo hiểm :
6
Lãi tiền vay : 6 Lãi tiền vay : 1
Bảo hành : 2 Bảo hành : 2
Hoa hồng : 2 Hoa hồng : 2
Giá trị thông thường ( tại khâu
xuất xưởng ) : 78
Giá xuất khẩu ( tại khâu xuất
xưởng) : 80
Trong ví dụ này, tỉ lệ bán phá giá là ( 78 –80 )/100 x100 = -2. Theo
phương pháp làm tròn mà DOC áp dụng, mức bán phá giá âm này sẽ không
được tính vào công thức tính toán mà thay vào đó là giá trị 0.
C. Thiệt hại vật chất
Theo qui định tại khoản 771(7) của luật chống bán phá giá 1921, để xác
định mức độ thiệt hại vật chất, USITC phải xem xét:
(1) Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra.
(2) ảnh hưởng của việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra đến tình
hình giá cả của sản phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ.
(3) ảnh hưởng của việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra đến hoạt
động sản xuất của các Công ty, cá nhân Mỹ sản xuất mặt hàng tương tự.
USITC phải xác định xem mức tăng trong kim ngạch nhập khẩu mặt hàng
điều tra có tăng đáng kể hay không. Khi đánh giá ảnh hưởng của hàng nhập
khẩu đến tình hình giá cả, USITC phải cân nhắc liệu có tồn tại:
(1) Việc bán rẻ hàng nhập khẩu so với mặt hàng tương tự được sản xuất tại
Mỹ.
(2) Việc bán hàng nhập khẩu làm giảm hoặc kìm hãm việc tăng giá của sản
phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ.
Trong quá trình đánh giá ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến hoạt động
sản xuất của các Công ty, cá nhân Mỹ sản xuất mặt hàng tương tự, USITC sẽ
phải đánh giá tất cả các nhân tố kinh tế tương ứng như:
(1) Sự suy giảm trong sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng
suất,…
(2) Các nhân tố ảnh hưởng đến mức giá trên thị trường Mỹ.
(3) Các ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền, hàng tồn kho, nhân công, lương,
tốc độ tăng trưởng, khả năng huy động vốn và đầu tư.
(4) Các ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình phát triển và sản xuất của ngành
sản xuất Mỹ.
(5) Mức bán phá giá (là mức chênh lệch giữa giá trị thông thường của mặt
hàng thuộc diện điều tra với giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ của mặt hàng đó).
Nghị viện Mỹ yêu cầu USITC phải đánh giá tất cả các nhân tố trên, có xét
đến chu kỳ kinh doanh và điều kiện cạnh tranh đặc trưng của ngành sản xuất bị
ảnh hưởng bởi hàng nhập khẩu.
Một cách đơn giản, việc xác định mức thiệt hại vật chất được tiến hành
như sau:
Nhà
sản xuất Mỹ
Nhà xuất khẩu
nước ngoài Y
Nhà xuất khẩu
nước ngoài Z
Giá bán 100 80 110
Giá mục tiêu 121
Mức thiệt hại
vật chất
(121-80)/80x100
=51.25%
(121-110)/110x100
=10%
Trong ví dụ này, giả sử mức chi phí của nhà sản xuất Mỹ là 110. Do phải
đối mặt với hàng nhập khẩu giá rẻ, nhà sản xuất Mỹ buộc phải bán ở mức giá
thấp hơn mức chi phí. DOC có thể tiến hành tính toán một mức giá mục tiêu cho
nhà sản xuất Mỹ dựa trên mức chi phí sản xuất thực tế cộng với một mức lợi
nhuận hợp lý, trong ví dụ nàylà 10%. Do vậy, ta có mức giá mục tiêu trong ví dụ
này là 110+(110x10%)=121. Và ta có mức thiệt hại vật chất tương ứng là
51.25% và 10%.
D. Đe dọa thiệt hại vật chất
Theo luật chống bán phá giá, khi xác định xem liệu một ngành sản xuất
của Mỹ có bị đe dọa thiệt hại vật chất hay không, USITC cần cân nhắc:
(1) Tính xác thực của các thông tin về hình thức trợ giá được áp dụng
(hình thức trợ giá đó có phải là một trong các hình thức trợ giá được qui
định trong khoản 3 hoặc khoản 6.1 của Hiệp ước trợ giá của WTO hay
không).
(2) Việc tăng lượng hàng nhập khẩu vào Mỹ có phải do có sự tăng năng
suất của nước xuất khẩu hay không.
(3) Việc tăng thị phần của hàng nhập khẩu có phải do lượng nhập khẩu
tăng hay không.
(4) Mức giá của hàng nhập khẩu có làm giảm mức giá của sản phẩm nội
địa cùng loại và làm tăng nhu cầu nhập khẩu hay không.
(6) Khả năng chuyển đổi sản phẩm trong trường hợp nước xuất khẩu thuộc
diện điều tra ngừng sản xuất sản phẩm đó.
(7) ảnh hưởng tiêu cực đối với hoạt động sản xuất sản phẩm nội địa cùng
loại.
(8) Các xu hướng bất lợi khác biểu thị khả năng có thiệt hại vật chất do
nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra.
USITC sẽ phải cân nhắc toàn bộ các nhân tố trên trong một mối quan hệ
thống nhất, từ đó mới đưa ra kết luận và phán quyết chính thức.
E. Kìm hãm sản xuất
Nguyên đơn có thể khẳng định việc thành lập một ngành sản xuất của Mỹ
bị kìm hãm do việc nhập khẩu hoặc bán mặt hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra.
Luật chống bán phá giá không đưa ra định nghĩa về “kìm hãm sản xuất”, tuy
nhiên, trong quá trình xử kiện, USITC đã bắt đầu cân nhắc vấn đề này thông qua
các yếu tố sau:
(1) Ngành sản xuất đó bắt đầu hoạt động từ khi nào.
(2) Việc sản xuất là liên tục hay ngắt quãng.
(3) Qui mô của ngành sản xuất đó so với qui mô thị trường của loại sản
phẩm mà ngành sản xuất đó tạo ra.
(4) Ngành sản xuất đó đã đạt được mức hòa vốn hợp lý chưa.
(5) Các hoạt động sản xuất này thực sự là thuộc một ngành sản xuất mới
hay chỉ đơn thuần là một dòng sản phẩm mới của một ngành sản xuất cũ.
F. Sản phẩm nội địa đồng loại và ngành sản xuất Mỹ
Trước khi xác định thiệt hại vật chất hoặc nguy cơ thiệt hại vật chất của
một ngành sản xuất Mỹ, hoặc sự kìm hãm việc thành lập một ngành sản xuất
Mỹ, USITC phải xác định rõ thế nào là "sản phẩm nội địa đồng loại" và "ngành
sản xuất". Theo khoản 771(34) của luật chống bán phá giá 1921, "ngành sản
xuất" là "tập hợp bao gồm tất cả các nhà sản xuất của một sản phẩm nội địa
đồng loại, hoặc tập hợp các nhà sản xuất chiếm phần lớn sản lượng của sản
phẩm đó". Còn "sản phẩm nội địa đồng loại" là "sản phẩm giống hệt với sản
phẩm nhập khẩu thuộc diện điều tra, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm
giống hệt, là sản phẩm có nhiều đặc tính và giá trị sử dụng tương đồng với sản
phẩm nhập khẩu nhất".
Việc xác định phạm vi của 2 khái niệm này trong từng vụ kiện sẽ do DOC
tiến hành. Tuy nhiên, USITC có thể thay đổi phạm vi của khái niệm "sản phẩm
nội địa đồng loại" bằng cách đưa thêm một số sản phẩm nội địa vào danh sách
các sản phẩm nội địa đồng loại. Khi xác định sản phẩm nội địa đồng loại,
USITC thường cân nhắc các yếu tố sau:
(1) Đặc điểm bên ngoài và giá trị sử dụng.
(2) Khả năng thay thế cho sản phẩm khác.
(3) Kênh phân phối.
(4) Thiết bị sản xuất, qui trình sản xuất và nhân công.
(5) Cảm nhận của khách hàng và nhà sản xuất.
(6) Giá cả.
Một vấn đề cũng cần phải được nhắc đến: đó là liệu các sản phẩm ở các
công đoạn sản xuất khác nhau có được coi là sản phẩm đồng loại không. Khi
phân tích vấn đề này, USITC thường phải tiến hành phân tích bán thành phẩm
dựa theo các nhân tố sau:
(1) Sản phẩm thuộc khâu trước được sử dụng cho việc sản xuất sản phẩm ở
khâu tiếp theo hay được sử dụng độc lập.
(2) Có tồn tại thị trường riêng biệt cho sản phẩm thuộc khâu trước và sản
phẩm thuộc khâu tiếp theo không.
(3) Sự khác biệt về đặc tính và chức năng của sản phẩm thuộc 2 khâu kể
trên
(4) Sự khác biệt về chi phí hoặc giá trị giữa 2 sản phẩm trên.
(5) Qui trình chuyển đổi sản phẩm khâu trước thành sản phẩm khâu tiếp
theo.
Sau khi xác định được sản phẩm nội địa đồng loại của một cuộc điều tra,
USITC sẽ xác định "ngành sản xuất". USITC phải cân nhắc liệu một nhà sản
xuất cụ thể có được xếp vào khái niệm "ngành sản xuất" của một vụ kiện cụ thể
hay không. Để đưa ra quyết định này, USITC phải xem xét các yếu tố:
(1) Nguồn gốc và qui mô vốn.
(2) Trình độ công nghệ
(3) Giá trị đóng góp vào sản phẩm
(4) Mức nhân công
(5) Bất kì một chi phí hay hoạt động trực tiếp đóng góp vào quá trình sản
xuất sản phẩm nội địa đồng loại.
Một đặc điểm khi phân loại để xác định "ngành sản xuất" đó là USITC có
thể coi "ngành sản xuất" là:
(1) Bao gồm các nhà sản xuất sản phẩm đồng loại thuộc một khu vực địa
lý nhất định. Cách phân loại này được gọi là “Ngành sản xuất theo khu vực”.
Hoặc
(2) Bao gồm các nhà sản xuất sản phẩm đồng loại trên toàn nước Mỹ,
ngoại trừ "các bên liên quan"
* Ngành sản xuất theo khu vực
Luật chống bán phá giá 1921 qui định:
"Trong trường hợp cụ thể, đối với một mặt hàng cụ thể, nước Mỹ có thể
được chia thành 2 hay nhiều thị trường riêng biệt, và các nhà sản xuất trong mỗi
thị trường đó sẽ được coi là thuộc 1 ngành sản xuất riêng biệt nếu:
(1) Các nhà sản xuất trong thị trường đó bán tất cả hoặc phần lớn sản phẩm
của mình tại thị trường đó.
(2) Nhu cầu của thị trường đó không được đáp ứng, dù ở bất cứ mức độ
nào, bởi nhà sản xuất không thuộc thị trường đó.
Trong trường hợp như vậy, có thể coi là tồn tại thiệt hại vật chất, nguy cơ
thiệt hại vật chất, hoặc sự ngăn cản thành lập đối với một ngành sản xuất của Mỹ
cho dù toàn bộ ngành sản xuất đó tính trên toàn nước Mỹ không hề phải chịu
thiệt hại hay bị đe dọa thiệt hại, nếu có hành vi bán phá giá vào một thị trường
riêng biệt và các nhà sản xuất trong thị trường đó phải chịu thiệt hại vật chất
hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại vật chất do hành vi bán phá giá đó gây ra.
Thuật ngữ "ngành sản xuất theo khu vực" là để chỉ các nhà sản xuất nội địa
thuộc một khu vực nhất định, những nhà sản xuất này sẽ được coi là thuộc một
ngành sản xuất riêng biệt…”
Trong trường hợp USITC phát hiện có thiệt hại vật chất, nguy cơ thiệt hại
vật chất đối với một ngành sản xuất khu vực do hành vi bán phá giá hàng nhập
khẩu gây ra, thì DOC sẽ chỉ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nhà
xuất khẩu bán hàng vào thị trường đó.
* Các bên liên quan
Luật chống bán phá giá quy định:
"Nếu một nhà sản xuất sản phẩm nội địa cùng loại có quan hệ với nhà xuất
khẩu hoặc nhà nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra, hoặc nếu một nhà sản
xuất sản phẩm nội địa cùng loại đồng thời là nhà nhập khẩu sản phẩm thuộc diện
điều tra, thì nhà sản xuất đó, trong trường hợp cụ thể, có thể không được tính là
thuộc "ngành sản xuất".
Nhà sản xuất sẽ bị coi là có quan hệ với nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu
nếu:
(1) Nhà sản xuất trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà nhập khẩu.
(2) Nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà
sản xuất.
(3) Một bên thứ ba trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà xuất khẩu, nhà
nhập khẩu và nhà sản xuất.
(4) Nhà sản xuất và nhà xuất khẩu, nhập khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm
soát một bên thứ ba và có lý do chứng minh rằng mối quan hệ này có tác động
tới hành vi của nhà sản xuất.
G. Hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng
Theo luật chống bán phá giá, hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng là
hàng nhập khẩu từ quốc gia có kim ngạch xuất khẩu mặt hàng đó vào Mỹ nhỏ
hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó của Mỹ. Căn cứ để xác định
kim ngạch của mặt hàng trên là số liệu trong vòng 12 tháng gần nhất. Khi được
coi là hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng, thì các vụ kiện bán phá giá đối với
mặt hàng đó sẽ bị bác bỏ.
2.2.4. Quá trình xem xét lại
Theo qui định của luật chống bán phá giá. Trong vòng 5 năm kể từ ngày áp
dụng thuế chống bán phá giá. DOC và USITC phải tiến hành xem xét lại để cân
nhắc việc bãi bỏ thuế chống bán phá giá. Trên thực tế, một năm sau khi đưa ra
phán quyết chính thức, DOC sẽ tiến hành xem xét lại với mục đích cân nhắc và
đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức và sẽ hủy bỏ việc áp dụng thuế
chống bán phá giá trừ khi kết quả của quá trình xem xét lại cho thấy rằng hành
vi bán phá giá vẫn có khả năng tiếp diễn và đe dọa gây thiệt hại cho một ngành
sản xuất của Mỹ.
Trong quá trình đánh giá lại, USITC sẽ phải dự đoán những thay đổi trong
kim ngạch, ảnh hưởng của mức giá và ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến ngành
sản xuất khi mức thuế chống bán phá giá được bãi bỏ. Cụ thể, USITC sẽ phải
xem xét:
(1) Phán quyết ban đầu.
(2) Tiến triển của "ngành sản xuất" Mỹ kể từ khi mức thuế chống bán phá
giá được áp dụng.
(3) Khả năng bị đe dọa thiệt hại vật chất khi mức thuế chống bán phá giá
được bãi bỏ.
Khi đánh giá khả năng thay đổi về kim ngạch nhập khẩu trong trường hợp
thuế chống bán phá giá được bãi bỏ, USITC sẽ phải xem xét các yếu tố:
(1) Khả năng tăng năng suất hoặc sử dụng năng lực sản xuất nhàn rỗi của
nước xuất khẩu
(2) Lượng hàng tồn kho của mặt hàng thuộc diện điều tra
(3) Các rào cản đối với việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra vào
các nước khác ngoài Mỹ
(4) Khả năng chuyển đổi sản phẩm trong trường hợp nước xuất khẩu
ngừng sản xuất mặt hàng trên
Khi đánh giá khả năng ảnh hưởng của mức giá của hàng nhập khẩu trong
trường hợp bãi bỏ thuế chống bán phá giá, USITC sẽ phải cân nhắc:
(1) Khả năng bán rẻ hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra so với sản phẩm
nội địa đồng loại.
(2) Khả năng ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến sự sụt giảm giá của sản
phẩm nội địa đồng loại.
Khi đánh giá khả năng ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến "ngành sản
xuất" của Mỹ trong trường hợp bãi bỏ thuế chống bán phá giá, USITC sẽ phải
cân nhắc các yếu tố kinh tế tác động đến ngành sản xuất của Mỹ như:
(1) Khả năng sụt giảm sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng
suất,…
(2) Khả năng xuất hiện các ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền, lượng hàng
dự trữ, nhân công, lương, khả năng huy động vốn,…
Luật chống bán phá giá qui định: USITC phải xét đến tất cả các yếu tố này
trong mối quan hệ với chu kỳ sản xuất và đặc điểm cạnh tranh của ngành.
Trên đây là một vài nét về các qui định xử lý hành vi bán phá giá của Mỹ.
Để xem xét xem thực tế áp dụng các qui định này như thế nào, chúng ta sẽ
nghiên cứu trong Chương II.
CHƯƠNG II THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ
Trong vòng 50 năm qua , Hoa Kỳ đã liên kết các quốc gia trên thế giới lại
với nhau thông qua các hiệp định tự do hoá thương mại với mục đích giảm bớt
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đồng thời với việc nghiêm cấm các
hình thức phân biệt đối xử trong thương mại, các hiệp định này cũng thừa nhận
luật chống bán phá giá như một công cụ cho phép ngăn chặn các hành vi gian
lận thương mại gây tổn hại cho nền kinh tế của một quốc gia.
Do kết quả của việc giảm dần các hàng rào thương mại, thuế chống bán phá
giá đã nhanh chóng trở thành một công cụ đắc lực được các nhà sản xuất Mỹ tận
dụng để giảm bớt áp lực từ hàng hoá nhập khẩu. Các vụ kiện bán phá giá đã tăng
lên rất nhanh và xuất hiện ở tất cả các mặt hàng từ các sản phẩm nông nghiệp
như hoa, hải sản, mật ong tới các sản phẩm vật liệu như thép, và thậm chí là cả
các sản phẩm công nghệ cao như máy tính và chip bán dẫn.
Sức mạnh của luật chống bán phá giá nằm ở chỗ : Chính quyền Mỹ có thể
áp dụng một mức thuế lên đến trên 400%. Trong nhiều trường hợp, mức thuế có
thể đủ cao để đẩy các công ty nước ngoài ra khỏi thị trường Mỹ. Ngoài ra, mức
thuế chống bán phá giá còn có thể kéo dài tới 20 năm, tạo thành một hàng rào
“bền vững” đối với một sản phẩm được nhập khẩu từ một nước nhất định.
Xét một cách công bằng thì luật chống bán phá giá chỉ có được sức mạnh
kể từ khi Luật Thương mại 1979 ra đời. Luật Thương mại 1979 đã tạo ra một số
thay đổi trong Luật chống bán phá giá 1921, hay còn gọi là Chương VII Luật
Thuế quan 1930. Những thay đổi này có hiệu lực từ ngày 1/1/1980. Một trong
số những thay đổi đó là sự chuyển đổi thẩm quyền từ Cục Ngân khố Mỹ sang
Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (
USITC). Như vậy, sức mạnh hiện nay của Luật chống bán phá giá chỉ có được
từ ngày 1/1/1980. Đây là lý do để chúng ta xem xét và tổng kết các vụ kiện bán
phá giá trong giai đoạn 1980-2001.
1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001
Trong giai đoạn 1980-2001, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban
Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đã nhận được 988 vụ kiện bán phá giá
với tổng trị giá hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra là 58 tỉ USD.
Biểu đồ 1. Thống kê các vụ kiện Bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001
34
15
65
34
58
82
63
36 3829
21
65
89
36
59
18 1323
33
50
35
92
0102030405060708090
100
1980 1982 1984 1986 1988 1990 1992 1994 1996 1998 2000
*Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
Trong số 988 vụ kiện này, bên nguyên đơn tức là các nhà sản xuất Mỹ đã
giành thắng lợi được 42%( 42% số vụ kiện kết thúc bằng việc DOC đưa ra một
mức thuế chống bán phá giá); 38% số vụ kiện nhận được phán quyết của USITC
là: không gây thiệt hại cho ngành sản xuất Mỹ; 20% còn lại là do DOC hoãn
điều tra hoặc không tìm thấy hành vi bán phá giá. Nếu tính theo giá trị hàng
nhập khẩu thuộc diện điều tra thì các con số tương ứng là 54%; 32.5%; 13.5%
(tức là có 54% giá trị hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra phải chịu thuế chống
bán phá giá). Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 1980 đến 1990, các nhà sản xuất
Mỹ đã đệ trình khoảng 500 đơn kiện lên DOC và USITC. Một nửa trong số này
đã nhận được một mức thuế chống bán phá giá. Mức thuế trung bình trong giai
đoạn này là vào khoảng 30 đến 40%. Theo các số liệu thống kê, sự suy giảm
trong khả năng tận dụng năng lực sản xuất đi kèm với việc tăng lượng hàng
nhập khẩu là nguyên nhân chính dẫn đến việc ngày càng có nhiều vụ kiện nhận
được một mức thuế chống bán phá giá.
Bảng 1. Kết quả của các vụ kiện bán phá giá vào thị trường Mỹ
Giai đoạn 1980-2001
Kết quả của các vụ kiện bán phá giá qua các năm
DOC áp dụng thuế chống bán phá giá
(vụ)
USITC phán quyết : Không gây thiệt
hại vật chất (vụ)
DOC hoãn điều tra hoặc không phát hiện
ra hành vi bán phá giá (vụ)
1980 9 15 10 1981 4 5 6 1982 12 25 28 1983 12 14 8 1984 16 13 29 1985 26 20 36 1986 37 14 12 1987 17 15 4 1988 21 14 3 1989 17 9 3 1990 15 4 2 1991 19 40 6 1992 38 47 4 1993 11 9 16 1994 29 26 4 1995 9 6 3 1996 9 2 2 1997 14 7 2 1998 22 11 0 1999 20 24 6 2000 18 15 2 2001 40 43 9
*Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
Trong thập niên 90 và những năm đầu của thiên niên kỷ mới, “ chống bán
phá giá bằng việc áp dụng thuế” vẫn là một cách bảo hộ được các nhà sản xuất
Mỹ ưa thích. Ví dụ như riêng trong năm 1992 đã có 89 vụ kiện bán phá giá. Và
tính cho đến năm 2001, đã có đến 550 mức thuế chống bán phá giá được thực
thi.
Biểu đồ 2. Kết quả xử lý các vụ kiện trong
Giai đoạn 1980-2001
42%
38%
20%
DOC ¸p dông thuÕ chèng b¸n ph¸ gi¸
USITC ph¸n quyÕt : Kh«ng g©y thiÖt h¹i vËt chÊt
DOC ho·n ®iÒu tra hoÆc kh«ng ph¸t hiÖn ra hμnh vi b¸n ph¸ gi¸
*Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
Một đặc điểm khác đó là xu hướng ngày càng tăng của tỉ lệ bán phá giá
(dumping margins) mà DOC phát hiện ra. Xu hướng tăng này là khá ổn định với
tỉ lệ tăng trung bình là 2.5%/năm, đưa tỉ lệ bán phá giá bình quân từ mức 15.5%
trong những năm đầu của thập niên 80 lên mức 63% tính đến năm 2001. Tuy
nhiên, tỉ lệ tăng trong 10 năm đầu là cao hơn so với 10 năm tiếp theo, dù vậy xu
hướng tăng lên vẫn là xu hướng chính có thể thấy trong giai đoạn này.
Biểu đồ 4 biểu diễn tỉ lệ các vụ kiện nhận được phán quyết “gây thiệt hại
vật chất” của USITC. Cũng tương tự như trong biểu đồ 3, ta có thể thấy một xu
hướng tăng lên của số lượng phán quyết “gây thiệt hại vật chất”, tức là tỉ lệ các
phán quyết “gây thiệt hại vật chất” so với số lượng các vụ kiện ngày càng cao,
từ mức 45% vào đầu những năm 80 tăng lên đến mức 62% tính đến năm 2001.
Biểu đồ 3.Xu hướng của “tỉ lệ bán phá giá”(dumping margins)
Giai đoạn 1980-2001
0
10
20
30
40
50
60
70
1980
1982
1984
1986
1988
1990
1992
1994
1996
1998
2000
%
*Nguồn : Xu hướng phất triển của luật chống bán phá giá Mỹ
Bruce A. Blonigen - 4/2003
Biểu đồ 4. Tỉ lệ các phán quyết “Có thiệt hại vật chất”
Giai đoạn 1980-2001
0
10
20
30
40
50
60
7019
80
1982
1984
1986
1988
1990
1992
1994
1996
1998
2000
%
*Nguồn : Xu hướng phất triển của luật chống bán phá giá Mỹ Bruce A. Blonigen - 4/2003
Kết hợp hai xu hướng này lại cho thấy một xu hướng tăng lên của mức thuế
chống bán phá giá (tỉ lệ bán phá giá nhân với tỉ lệ phán quyết “gây thiệt hại vật
chất”), từ mức 5% lên 30% cho mỗi công ty bị kiện bán phá giá.
Có một số lý do có thể giải thích cho xu hướng này. Thứ nhất, những thay
đổi về mặt pháp lý đã làm thay đổi đáng kể những quy định mà Bộ Thương mại
Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) phải tuân thủ
trong quá trình đưa ra phán quyết của mình. Thứ hai, cơ cấu các công ty và các
sản phẩm thuộc diện điều tra thay đổi theo chiều hướng liên quan đến các hành
vi bán phá giá nhiều hơn. Cuối cùng, đó là sự tuỳ ý của các cơ quan pháp luật
Mỹ trong việc sử dụng các phương pháp có khả năng phát hiện ra hành vi bán
phá giá cao hơn.
Tuy nhiên, theo một nghiên cứu phát hành vào tháng 4/2003 của Bruce A.
Blonigen thuộc trường Đại học Tổng hợp Oregon và Cục Nghiên cứu Kinh tế
Quốc gia (NBER), xu hướng tăng lên của mức bán phá giá cơ bản là do sự linh
động ngày càng cao trong cách xác định mức bán phá giá của DOC. Điều này
có nghĩa là sự tăng lên của mức bán phá giá chủ yếu là do tác động của nguyên
nhân thứ ba, còn tác động của hai nguyên nhân đầu là rất ít hoặc không đáng
kể. Cụ thể, việc DOC sử dụng phương pháp “Dữ liệu sẵn có”, thẩm tra chi phí
sản xuất và việc sử dụng dữ liệu về chi phí để xây dựng giá trị thông thường bị
quy là nguyên nhân chính làm tăng đáng kể mức bán phá giá. Một điểm quan
trọng là xu hướng tăng lên của mức bán phá giá không chỉ do việc DOC ngày
càng áp dụng biện pháp trên nhiều hơn (phát triển theo chiều rộng), mà còn do
sự thay đổi trong việc áp dụng các biện pháp này. Điều này có nghĩa là sự thay
đổi trên dẫn đến kết quả : ngày càng tìm thấy mức bán phá giá cao hơn (phát
triển theo chiều sâu). Trong khi việc thực hiện Hiệp định đạt được tại vòng đàm
phán Uruguay 1995 (cụ thể là Hiệp định chống bán phá giá) đã làm mức bán
phá giá trung bình mà DOC phát hiện được giảm 20%, thì sự phát triển theo
chiều rộng và chiều sâu nói trên đã giúp bù lại những ảnh hưởng của Vòng đàm
phán Uruguay tính cho đến năm 2001.
Một khía cạnh khác cũng cần xét đến là các mục tiêu của luật chống bán
phá giá Mỹ. Về cơ bản, có bốn đặc điểm để hình thành một mục tiêu của luật
chống bán phá giá. Thứ nhất, đó là các công ty xuất khẩu có mức giá quá cạnh
tranh bởi đơn giản giá cả chính là nguyên nhân để kiện bán phá giá. Hơn nữa,
chính mức giá là yếu tố tạo nên sự cạnh tranh giữa nhà xuất khẩu và nhà sản
xuất nội địa Mỹ. Mức giá càng cạnh tranh thì động lực để các nhà sản xuất Mỹ
đệ đơn kiện bán phá giá càng cao. Thứ hai, đó là các công ty xuất khẩu chiếm
một thị phần đáng kể trên thị trường Mỹ. Sở dĩ có đặc điểm này là bởi lẽ, chỉ có
các công ty chiếm thị phần lớn mới tạo đủ sự đe doạ đối với khả năng sinh lời
của các đối thủ nội địa Mỹ. Thứ ba, thị phần của các công ty xuất khẩu này là
khá ổn định bởi nếu không các đối thủ Mỹ sẽ dễ dàng chiếm được thị phần mà
không cần viện đến luật chống bán phá giá. Và cuối cùng, thị trường Mỹ là thị
trường chủ chốt, nếu không muốn nói là thị trường duy nhất, của các công ty
xuất khẩu trên (Tuy nhiên, trên thực tế, không phải chỉ có các công ty có cả bốn
đặc điểm trên mới trở thành mục tiêu của các vụ kiện bán phá giá. Nhưng chí ít
chúng ta cũng có thể tìm thấy một trong bốn đặc điểm trên trong các bị đơn của
các vụ kiện bán phá giá)
Với các đặc điểm trên ta dễ dàng nhận thấy 5 đối tác thương mại lớn nhất
của Mỹ tính theo giá trị nhập khẩu là Canada (16.9% tổng giá trị nhập khẩu của
Mỹ) Trung Quốc (10.9% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ), Mexico (10.2% tổng
giá trị nhập khẩu của Mỹ), Nhật Bản (8.79% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ), và
Đức (5% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ)2. Trong số 5 nguồn nhập khẩu lớn nhất
này, mức tăng trưởng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trong thập niên 90 là lớn
nhất, gần gấp 3 lần mức tăng trưởng bình quân kim ngạch nhập khẩu cùng kỳ
của Mỹ. Trong số 4 quốc gia còn lại, nổi lên Mexico và Canada bởi 65% kim
ngạch xuất khẩu của Mexico và 61% kim ngạch xuất khẩu của Canada là sang
thị trường Mỹ. Với Nhật Bản và Đức, con số tương ứng là 24% và 6%.
Tóm lại, đây sẽ là 5 mục tiêu lớn nhất của luật chống bán phá giá Mỹ.
Biểu đồ 5. 10 quốc gia bị kiện bán phá giá nhiều nhất
Giai đoạn 1980-2001
2 Các số liệu trên tính đến tháng 9/2003 *Nguồn : Hiệp hội Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITA) – www.ita.gov
Brazil4.7%
Canada4.8%
Italy4.7%
Ph¸p3.7%
Anh3.6%
NhËt B¶n10.4%
Trung Quèc8.4%
Hμn Quèc6.4%
§øc6.1%
§μi Loan6%
C¸c quèc gia kh¸c
41.3%
*Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
1.2 Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Mỹ
Một vấn đề liên quan đến việc số lượng các vụ kiện bán phá giá và mức bán
phá giá phát hiện được ngày càng tăng là việc DOC xử lý các vụ kiện như thế
nào.
Kể từ năm 1979, chính quyền Mỹ đã rất nỗ lực trong việc sửa đổi luật
chống bán phá giá do nhận thức được tầm quan trọng ngày càng lớn của bộ luật
này. Phần lớn các thay đổi liên quan đến luật chống bán phá giá (kể cả những
thay đổi về mặt quản lý) đều nhằm mục đích tạo điều kiện cho việc đệ đơn kiện
và phát hiện hành vi bán phá giá. Có lẽ chính điều này đã khiến cho việc thi
hành luật ngày càng xa rời mục tiêu mà chính bản thân bộ luật này đưa ra, đó là
ngăn chặn các hành vi gian lận về giá, tạo ra một thị trường cạnh tranh bình
đẳng. Thay vào đó, bộ luật chống bán phá giá của Mỹ ngày càng mang tính chất
của một công cụ bảo hộ nền công nghiệp Mỹ.
Với 5 phương pháp xác định hành vi bán phá giá, DOC có toàn quyền lựa
chọn phương pháp thích hợp nhất cho từng vụ kiện và cũng có thể kết hợp cùng
một lúc nhiều phương pháp nếu cần thiết. Tuy nhiên, việc áp dụng các phương
pháp này vào thực tế đã không thể hiện được đúng tính chất của từng phương
pháp như quy định trong Luật. Cụ thể, Bộ luật chống bán phá giá hiện nay
dường như không có đủ khả năng để nhận biết chính xác các hành vi phân biệt
về giá (áp dụng một mức giá ở Mỹ thấp hơn ở thị trường nội địa) hoặc việc bán
hàng ở mức giá thấp hơn mức chi phí. Trong số 5 phương pháp mà DOC sử
dụng, chỉ có phương pháp so sánh giữa giá nhập khẩu vào thị trường Mỹ với giá
của thị trường nước xuất khẩu là tương đối xác định được sự khác biệt về giá.
Điều này có thể được thể hiện qua các phán quyết mà DOC đưa ra trong
giai đoạn từ 1/1/1995 đến 31/12/2001, tức là từ khi các hiệp định của vòng đàm
phán Uruguay có hiệu lực cho đến hết năm 2001. Trong giai đoạn này, DOC đã
đưa ra 364 phán quyết, trong đó số lượng phán quyết “Có hành vi bán phá giá”
là 276 với tỉ lệ bán phá giá trung bình là 58.79%. Vấn đề nổi lên trong các phán
quyết này là : có rất ít phán quyết hướng được đến mục tiêu xác định hành vi
phân biệt giá. Trong số 364 phán quyết, chỉ có 10 phán quyết được dựa hoàn
toàn trên cơ sở so sánh giữa giá nhập khẩu vào thị trường Mỹ với giá của thị
trường nước xuất khẩu. Hơn thế, 5 trong số 10 phán quyết này là : Không có
hành vi bán phá giá. Điều này có nghĩa là DOC, bằng phương pháp so sánh giá
nhập khẩu vào thị trường Mỹ với giá của thị trường nước xuất khẩu, chỉ phát
hiện ra 5 hành vi bán phá giá trong tổng số 364 cuộc điều tra.
Ngoài ra, như đã nói ở trên, DOC ngày càng thiên về sử dụng các phương
pháp giúp phát hiện hành vi bán phá giá như “Dữ liệu sẵn có”, “Giá dự tính”. Cụ
thể, trong số 364 phán quyết, 93 phán quyết là dựa trên các thông tin sẵn có
(phương pháp 5); 121 phán quyết dựa trên phương pháp: Giá trị thông thường =
Giá của nền kinh tế phi thị trường (phương pháp 4). Trong 52 phán quyết, DOC
đã sử dụng giá dự tính (phương pháp 3) do không tìm thấy thị trường so sánh
tương ứng hoặc sản phẩm tương tự không được bán tại thị trường so sánh. Trong
85 phán quyết, DOC kết hợp giữa giá dự tính với giá của nước xuất khẩu hoặc
giá của nước thứ ba do có đến hơn 20% các sản phẩm so sánh được bán ở mức
giá thấp hơn mức chi phí.
Trong 80 phán quyết khác, DOC dựa một phần vào việc so sánh giữa giá
nhập khẩu vào thị trường Mỹ với giá của thị trường nước xuất khẩu. Tuy nhiên,
trong các phán quyết này, DOC thường nghiêng về hướng chỉ sử dụng giá dự
tính thay cho dữ liệu thực tế hoặc loại bỏ các khoản doanh thu phát sinh từ mức
giá thấp hơn mức chi phí. Trong các vụ kiện sử dụng kiểu phương pháp hỗn hợp
này, DOC phát hiện ra 65 hành vi bán phá giá. Tuy nhiên, khó mà xác định được
rằng trong số 65 hành vi bán phá giá trên, có bao nhiêu hành vi là biểu hiện của
sự phân biệt về giá; còn có bao nhiêu hành vi chỉ là sự phóng đại của kiểu
phương pháp hỗn hợp trên ? Thật dễ hiểu khi có những nghi ngờ này bởi các
phương pháp hỗn hợp có xu hướng làm tăng mức bán phá giá lên cao hơn so với
kết quả có được từ việc so sánh thông thường. Việc chỉ sử dụng các khoản
doanh thu phát sinh từ mức giá cao hơn mức chi phí để so sánh với giá nhập
khẩu vào thị trường Mỹ luôn phóng đại mức bán phá giá, do các mức giá thấp
nhất thu được tại thị trường nước xuất khẩu đã bị loại ra khỏi quá trình so sánh.
Chúng ta có thể nhận biết được sự phóng đại này thông qua một phán quyết sau
: Cuộc điều tra được tiến hành đối với sản phẩm bán dẫn SRAM của Đài
Loan,sử dụng cho máy vi tính. Công ty thuộc diện điều tra là một công ty của
Mỹ Integrated Silicon Solution, Inc (ISSI) 3. ISSI bị một công ty cũng của Mỹ là
Micron, Inc kiện vì nhập khẩu sản phẩm bán dẫn của Đài Loan ở mức giá thấp
hơn mức hợp lý (LTFV). Trong quá trình tính toán mức bán phá giá, DOC sử
dụng phương pháp 1: xác định giá trị thông thường = giá tại thị trường nước
xuất khẩu (Đài Loan) và đã loại bỏ các khoản doanh thu phát sinh từ mức giá
thấp hơn mức chi phí ra khỏi giá trị thông thường. Kết quả là DOC phát hiện ra 3 Luật chống bán phá giá Mỹ : Đối mặt với thực tế – Brisnk Linsey – 1/2000
hành vi bán phá giá ở mức 7.56%. Trong khi đó, nếu không loại bỏ các khoản
doanh thu nói trên, kết quả sẽ giảm chỉ còn 1/3, tức là 2.74%.
Ngoài ra, trong số 258 cuộc điều tra, DOC đã hoàn toàn hoặc một phần
dựa vào phương pháp phân tích theo chi phí, nghĩa là DOC sử dụng các mức chi
phí thu thập được để xây dựng nên giá trị thông thường( phương pháp “giá dự
tính” và phương pháp “giá của nền kinh tế phi thị trường”). Hiển nhiên là việc
sử dụng dữ liệu về chi phí để xây dựng giá trị thông thường sẽ không thể chỉ rõ
hành vi phân biệt về giá do mức “giá trị thông thường” xác định được không hề
có liên quan đến các dữ liệu về giá. Một vấn đề khác trong phương pháp xây
dựng giá trị thông thường dựa trên các mức chi phí là : tỉ lệ lãi suất mà DOC áp
dụng thường cao hơn mức bình thường. Chính điều này sẽ làm tăng khả năng
phát hiện hành vi bán phá giá (Bảng 1).
Ngay cả khi DOC sử dụng các mức tỉ lệ lợi nhuận hợp lý thì phương pháp
so sánh giá của từng sản phẩm cụ thể với tỉ lệ lợi nhuận trung bình của cả ngành
cũng có xu hướng tạo ra mức bán phá giá cao hơn. Chúng ta có thể đưa ra một ví
dụ : Giả sử DOC xác định tỉ lệ lợi nhuận hợp lý của một ngành sản xuất là 5%.
Nhà sản xuất nước ngoài sản xuất 3 mẫu sản phẩm khác nhau A, B, C. Ba sản
phẩm A, B, C đều cùng một dòng sản phẩm và nhà sản xuất nước ngoài thu
được cùng một mức doanh số đối với 3 sản phẩm trên. Tuy nhiên, mức lợi
nhuận mà nhà sản xuất nước ngoài thu được từ 3 sản phẩm là không giống nhau
và lần lượt là 1%, 4%, 10%. Như vậy mức lợi nhuận trung bình mà nhà sản xuất
nước ngoài thu được là 5%, tương đương với mức mà DOC đưa ra. Tuy nhiên,
DOC lại xác định hành vi bán phá giá theo từng mẫu riêng biệt và coi các mức
bán phá giá âm bằng 0 (phương pháp làm tròn- zeroing). Kết quả là, Mẫu A và
B bị coi là bán phá giá.
Bảng 2. Số lượng các phán quyết theo từng phương pháp
Giai đoạn 1980-2001
Phương pháp tính toán Phán quyết
(Phán quyết “Có
hành vi bán phá
giá”)
Tỉ lệ bán phá giá trung
bình
(Chỉ tính trên các phán
quyết “Có hành vi bán
phá giá”)
Giá thị trường nước xuất
khẩu
10 (5)
4.00% (7.36%)
Giá thị trường nước thứ ba 3 (0)
0% (0%)
Kết hợp giữa giá thị trường
nước xuất khẩu với giá dự
tính
80 (65)
14.59% (17.95%)
Kết hợp giữa giá thị trường
nước thứ ba với giá dự tính
5 (5)
7.94% (7.94)
Giá dự tính 52 (36)
25.07% (35.70%)
Giá của nền kinh tế phi thị
trường
121 (72)
40.03% (67.05%)
“Dữ liệu sẵn có” 93 (93)
95.58% (95.58%)
Tổng số 364 (276)
44.68% (58.79%)
*Nguồn : Luật chống bán phá giá của Mỹ: Đối mặt với thực tế
Brink Linsey - 1/2000 Chúng ta có thể thấy rằng việc luật chống bán phá giá của Mỹ không có
khả năng phân biệt rõ ràng các hành vi phân biệt về giá không làm cho bộ luật
này bất lực trước việc xử lý các hành vi gian lận thương mại, mà ngược lại, còn
phát hiện ra nhiều hành vi bán phá giá hơn do đã đánh đồng các hành vi gian lận
với các hành vi thương mại bình thường khác.
Bảng 3. So sánh tỉ lệ lợi nhuận
Công ty/Vụ kiện (Thời gian tiến hành)
Tỉ lệ lợi nhuận do
DOC đưa ra (%)
Tỉ lệ lợi nhuận của
ngành công nghiệp Mỹ
(%)
Chen Hao Đài Loan/Dụng cụ ăn
tối của Đài Loan
(31/1/1998)
25.77 5.23
Phanh đĩa và rotor của Trung
Quốc
(21/2/1998)
12.5 5.93
Thép tấm của Trung Quốc
(24/10/1998) 10.14 3.43
PT Multi Raya/ Dụng cụ ăn tối
của
Indonesia
(21/1/1998)
22.61 5.23
Đinh lợp mái của Trung Quốc
(23/9/1998) 20.5 7.2
*Nguồn : Luật chống bán phá giá Mỹ : Đối mặt với thực tế
Brink Linsey- 1/2000 Như vậy, qua một số nét sơ lược về thực trạng xử lý các vụ bán phá giá
của Mỹ, có thể thấy rằng luật chống bán phá giá của Mỹ chưa thực hiện được
đúng chức năng mà chính quyền Mỹ thường nói tới, đó là : loại bỏ những nhân
tố “bóp méo” thị trường. Kết quả là, các phương pháp xác định hành vi bán phá
giá đã không thể phân biệt chính xác giữa mức giá thương mại thông thường với
mức giá “bóp méo” thị trường, dẫn đến việc trừng phạt cả những hành vi thương
mại cạnh tranh thông thường, những hành vi thương mại có sự tham gia của các
công ty Mỹ. Như vậy, không thể nói rằng : Luật chống bán phá giá đảm bảo một
“sân chơi” công bằng cho các công ty Mỹ và các đối thủ nước ngoài. Ngược lại,
luật chống bán phá giá còn chủ động tạo ra sự phân biệt giữa hàng hoá nước
ngoài với hàng hoá của Mỹ bằng cách áp đặt các quy định mà các sản phẩm của
Mỹ không phải chịu.
2. Những nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Mỹ 2.1 Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Mỹ
Với “lối chơi” không công bằng quen thuộc của mình, Mỹ đã vấp phải sự
phản đối của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Và luật chống bán phá giá cũng
không nằm ngoài những đối tượng đó. Trong những năm gần đây, liên minh
Châu Âu, Nhật Bản và một số quốc gia đang phát triển như Ấn Độ, Mexico đã
kịch liệt lên tiếng phản đối bộ luật chống bán phá giá của Mỹ mà cụ thể là đạo
luật chống bán phá giá 1916. Các nước này cho rằng đạo luật chống bán phá giá
1916 của Mỹ đã vi phạm một số quy định của WTO. Cụ thể, ngày 1/2/1999, liên
minh Châu Âu đã đệ đơn kiện lên WTO rằng đạo luật chống bán phá giá 1916
đã vi phạm:
� Khoản XVI: 4 của Hiệp định thành lập WTO tại Marrakesk.
� Khoản VI: 1 và khoản VI:2 của GATT 1994 và khoản 1, 2.1, 2.2, 3, 4,
và 5 của Hiệp định chống bán phá giá của WTO
Vào ngày 3/6/1999, Nhật Bản cũng đệ đơn kiện lên WTO rằng đạo luật
chống bán phá giá 1916 đã vi phạm :
� Khoản III: 4 của GATT 1994
� Khoản VI của GATT 1994 và Hiệp định chống bán phá giá của WTO,
cụ thể là Khoản VI: 2 của GATT 1994 và khoản 18.1 của Hiệp định
chống bán phá giá của WTO cũng như Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 9, và 11 của
Hiệp định chống bán phá giá của WTO
� Khoản XI của GATT 1994
� Khoản XVI: 4 của Hiệp định thành lập WTO tại Marrakesh (sau đây
gọi là Hiệp định WTO) và Khoản 18.4 của Hiệp định chống bán phá giá
của WTO.
Sau khi xem xét đơn kiện, WTO đã thành lập ban điều tra và đã ra bản báo
cáo vào ngày 31/3/2000 như sau:
Đạo luật chống bán phá giá của Mỹ đã vi phạm một số điều khoản về chống
bán phá giá của WTO, cụ thể :
(1) Các yêu cầu về gây thiệt hại thuộc Khoản VI: 1 GATT:
Khoản VI: 1 GATT quy định rằng : Hành vi bán hàng ở mức giá thấp hơn
mức hợp lý LTFV chỉ bị coi là hành vi bán phá giá nếu hành vi đó gây hoặc đe
doạ gây thiệt hại vật chất đối với một ngành sản xuất nằm trong khu vực hoạt
động của bên nguyên đơn, hoặc kìm hãm việc thành lập một ngành sản xuất nội
địa. Mặc dù, quy định của Luật chống bán phá giá 1916 khá tương đồng với quy
định trên nhưng đạo luật chống bán phá giá 1916 vẫn vi phạm Khoản VI: 1
GATT do đạo luật 1916 không hề đưa ra các yêu cầu cụ thể về việc gây thiệt hại
như trong Khoản VI:1 GATT.
(2) Các hình thức chống bán phá giá hợp lệ theo quy định của GATT 1994
Luật chống bán phá giá 1916 vi phạm Khoản VI: 2 GATT 1994 và khoản
18.1 Hiệp định chống bán phá giá của WTO bởi lý do luật chống bán phá giá
1916 cho phép áp dụng các biện pháp khác ngoài thuế chống bán phá giá để đối
phó với hàng nhập khẩu. Cụ thể, khoản VI: 2 GATT 1994 và Hiệp định chống
bán phá giá của WTO quy định rõ : Việc áp dụng thuế chống bán phá giá là biện
pháp duy nhất mà các nước thành viên của WTO có thể áp dụng đối với hành vi
bán phá giá.
Sự vi phạm của Mỹ có thể được thấy rõ hơn khi trong năm tài khoá 2001,
Mỹ đã thông qua đạo luật P.L 106-387 về lĩnh vực nông nghiệp theo đó cho
phép Cục Ngân khố Mỹ chuyển nhượng số tiền thu được từ thuế chống bán phá
giá cho các công ty đệ đơn kiện yêu cầu “bảo hộ”. Đạo luật này rõ ràng là một
hình thức trợ giá của chính phủ, giúp tăng thêm một lớp bảo hộ cho thị trường
Mỹ. Đây chính là một động thái vi phạm Hiệp định chống bán phá giá của WTO
bởi Hiệp định này chỉ cho phép các chính phủ áp dụng biện pháp thuế quan để
đối phó với những gian lận về giá, chứ không cho phép các quốc gia thành viên
tạo thêm bất kỳ một hàng rào bảo hộ nào khác giống như hành động trên của
Mỹ.
(3) Các vi phạm khác
Ngoài các vi phạm về mặt quy định trên, Mỹ còn vi phạm các quy định của
WTO trong việc xác định hành vi bán phá giá. Trước hết, theo quy định của
Hiệp định chống bán phá giá của WTO, khi so sánh giá xuất khẩu sang thị
trường Mỹ với giá trị thông thường, cơ quan điều tra của nước thành viên phải
sử dụng đồng nhất cùng một phương pháp cho cả hai mức giá. Cụ thể, nếu sử
dụng phương pháp giá trị trung bình (weighted averages) để tính giá xuất khẩu
thì cũng phải áp dụng phương pháp giá trị trung bình để tính giá trị thông
thường. Còn nếu lấy giá xuất khẩu theo từng giao dịch cụ thể thì cũng phải lấy
giá trị thông thường theo từng giao dịch cụ thể. Tuy nhiên, như đã đề cập trong
Chương I, ngoài việc áp dụng hai phương pháp trên, Mỹ vẫn áp dụng một
phương pháp thứ ba, đó là so sánh giá xuất khẩu của từng giao dịch với giá trị
thông thường trung bình. Trên thực tế, bản thân phương pháp thứ ba này không
phải là nguyên nhân chính tạo ra sự vi phạm, mà sự vi phạm cơ bản do biện
pháp làm tròn (zeroing) mà DOC sử dụng. Còn phương pháp thứ ba có tác dụng
như một chất xúc tác : Tạo ra các mức bán phá giá âm, để biện pháp zeroing có
tác dụng.
Một vi phạm khác trong các quy định về bán phá giá của Mỹ là : Bộ luật
Thương mại 1979 đã đưa ra một mức sàn cho chi phí quản lý và lợi nhuận, cụ
thể là 10% cho chi phí quản lý và 8% cho lợi nhuận (xem phần 2.1 Chương I).
Các mức sàn này được đưa ra chủ yếu nhằm phục vụ cho công tác xác định mức
bán phá giá theo phương pháp giá dự tính. DOC thường áp dụng các mức này
trừ khi số liệu thực tế cho thấy một mức cao hơn. Trong khi đó, WTO quy định
các nước thành viên phải dựa trên các dữ liệu thực tế để xác định các yếu tố này.
2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của luật chống bán phá giá của Mỹ
đến bản thân nền kinh tế Mỹ.
Những bất cập của Luật chống bán phá giá Mỹ cho thấy rằng cần có những
sửa đổi vì lợi ích của người tiêu dùng Mỹ và thương mại Mỹ.
Luật chống bán phá giá bấy lâu nay đã bị lạm dụng bởi những người theo
chủ nghĩa bảo hộ, những người muốn tìm kiếm một lối thoát khỏi sự cạnh tranh
của hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình đã bắt
đầu thay đổi. Việc lạm dụng luật chống bán phá giá phần nào giảm bớt sự cạnh
tranh của hàng hoá nhập khẩu đối với các sản phẩm tiêu thụ nội địa của Mỹ
nhưng lại chuyển những khó khăn đó sang cho các nhà xuất khẩu bởi các nhà
xuất khẩu Mỹ đang dần trở thành mục tiêu chính mà đạo luật chống bán phá giá
của các chính phủ nước ngoài hướng tới. Với việc Mỹ lạm dụng luật chống bán
phá giá vào thương mại quốc tế, các quốc gia khác cũng tích cực xây dựng bộ
luật chống bán phá giá riêng cho mình như một công cụ đối kháng khi mà các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan khác phải dần loại bỏ theo quy định của
WTO. Có thể nói, cho đến tận đầu thập niên 90, luật chống bán phá giá vẫn chỉ
là một công cụ bảo hộ xa lạ, được một số ít nước giàu như Mỹ, Canada,
Australia, và Châu Âu sử dụng. Nhưng đến nay, 62 quốc gia trên thế giới đã có
luật chống bán phá giá. Trong thập niên 90 đã có 2,438 cuộc điều tra về hành vi
bán phá giá được tiến hành trên toàn cầu; con số này biểu hiện một mức tăng
trên 50% so với thập niên 80. Trong giai đoạn từ 1995 đến 2000 có 28 quốc gia
đã chính thức sử dụng thuế chống bán phá giá để đối phó với hàng nhập khẩu;
13 trong số 28 quốc gia này đã tiến hành các cuộc điều tra hành vi bán phá giá
đối với sản phẩm xuất khẩu của Mỹ. Mỹ hiện đã trở thành mục tiêu lớn thứ ba
trên thế giới của luật chống bán phá giá, chỉ sau Trung Quốc và Nhật Bản. Còn
nếu chỉ tính trong số các quốc gia tham gia vào khu vực thương mại tự do Châu
Mỹ (FTAA), thì Mỹ là mục tiêu số một4.
Xu hướng tăng nhanh của việc áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới
đã tạo nên một mối đe doạ rõ rệt đối với tình hình tăng trưởng xuất khẩu của
Mỹ. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực chiếm đến hơn 50% kim ngạch xuất khẩu
của Mỹ như kim loại và các sản phẩm kim loại, hoá chất, máy công cụ, thiết bị
điện, hàng dệt may, và dược phẩm đều là các sản phẩm thuộc diện chịu nhiều tác
động của luật chống bán phá giá nhất. Còn đối với các thành viên tương lai của
FTAA như Brazil và Argentina, 75% chủng loại sản phẩm xuất khẩu của Mỹ
cũng là các sản phẩm chủ lực của các quốc gia này, và do đó nguy cơ 75% này
phải đối mặt với luật chống bán phá giá khi xuất sang các thị trường này cũng
không phải là nhỏ do Brazil và Argentina cũng là các nước tích cực trong việc
vận dụng luật chống bán phá giá.
Với tư cách là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới, Hoa Kỳ sẽ ngày càng trở
thành mục tiêu của luật chống bán phá giá khi mà các nước trên thế giới nắm
được cách sử dụng “vũ khí chống bán phá giá”. Rõ ràng là ngày càng phát triển
việc sử dụng luật chống bán phá giá sẽ chỉ làm dấy lên xu hướng bảo hộ và
càng làm tổn hại đến quyền lợi của nền kinh tế Mỹ.
Hơn thế nữa, bản thân sự bảo hộ này cũng làm tổn hại đến người dân Mỹ,
những người đã được lợi từ những hàng nhập khẩu giá rẻ. Trong một nghiên cứu
của mình, Daniel Griswold, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách
Thương mại thuộc Viện CATO Hoa Kỳ, đã đưa ra một bằng chứng về sự tổn hại
mà luật chống bán phá giá gây ra. Bằng chứng này liên quan đến ngành công
4 *Nguồn : Những thiệt hại mà luật chống bán phá giá dành cho người Mỹ – Dan Ikenson – 1/2000
nghiệp sản xuất thép của Mỹ. Đó là sau thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu Á
1997-1998, thị trường Mỹ đã tràn ngập các sản phẩm thép nhập khẩu giá rẻ.
Nhằm cứu vãn tình hình, ngành sản xuất thép của Mỹ đã kiện bán phá giá đối
với các sản phẩm thép nhập khẩu, đặc biệt là các sản phẩm thép của Châu Á.
Kết quả là ngành sản xuất thép đã nhận được sự bảo hộ của chính quyền Mỹ. Sự
bảo hộ này đã đem lại cho ngành thép khoảng 200 triệu USD mỗi năm. Tuy
nhiên, để có được khoản tiền trên thì các ngành khác đã phải chịu thiệt hại. Đó
là các ngành công nghiệp sử dụng thép như, xây dựng, vận tải,.., những ngành
có số lượng công nhân đông gấp 40 lần số lượng công nhân trong ngành thép, và
cũng là những ngành đã được lợi rất nhiều từ các sản phẩm thép giá rẻ nay đã
phải hy sinh những lợi ích đó chỉ vì một bộ phận công nhân nhỏ trong ngành
thép. Hơn thế nữa, những người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của các ngành sản
xuất trên như ôtô, các thiết bị điện dân dụng cũng phải hy sinh quyền lợi của
mình vì những chính sách hạn chế cạnh tranh và làm tăng chi phí. Theo
Griswold dự tính, để giá của mỗi tấn thép tăng thêm một dollar, thì người tiêu
dùng Mỹ đã phải bỏ ra thêm 120 triệu USD.
Rõ ràng, qua một số nét sơ lược trên, chúng ta có thể thấy rằng luật chống
bán phá giá Mỹ đang ẩn chứa trong nó những yếu tố bất cập. Mặc dù, Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO đã thừa nhận luật chống bán phá giá như một công
cụ pháp lý hợp lệ, nhưng vẫn cần có những sửa đổi đối với luật chống bán phá
giá Mỹ để công cụ này thực hiện đúng chức năng của mình hơn và cũng là để
tạo ra một hành lang pháp lý bình đẳng cho cả các nhà sản xuất Mỹ lẫn các nhà
xuất khẩu nước ngoài.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Việc các doanh nghiệp Việt Nam bị kiện bán phá giá thực sự là một điều
đáng lo ngại cho bản thân các doanh nghiệp. Nhưng đồng thời đó cũng là một
tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế Việt Nam bởi lẽ việc bị kiện bán phá giá
chứng tỏ một điều rằng : Các doanh nghiệp Việt Nam đã đủ lớn mạnh, đã tạo
được một sức ép cạnh tranh đủ lớn khiến các đối thủ nội địa Mỹ phải viện đến
sự bảo hộ của chính quyền. Điều cơ bản là các doanh nghiệp và các nhà xuất
khẩu Việt Nam cần xây dựng những hướng đi cụ thể để làm sao luật chống bán
phá giá không gây ảnh hưởng tới sự phát triển của các doanh nghiệp.
1. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn
chống bán phá giá của Mỹ. Qua một số nét sơ lược về một số mặt liên quan đến quy định chống bán
phá giá của Mỹ, chúng ta có thể nhận thấy rằng Luật chống bán phá giá của Mỹ
là một hàng rào bảo hộ rất tinh vi và khó có thể vượt qua.
Sự lợi hại của Luật chống bán phá giá thể hiện ở một số điểm như sau:
(1) Khả năng loại trừ cạnh tranh cao thông qua cách thức xử lý các vụ kiện
của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế
(USITC). Như đã trình bày trong Chương II, với các biện pháp hỗ trợ việc
phát hiện ra hành vi bán phá giá như Giá dự tính, phương pháp làm
tròn,…,luật chống bán phá giá hoàn toàn có thể tạo thành một hàng rào bảo
hộ hiệu quả trong bối cảnh các hàng rào thương mại quen thuộc khác đang
dần được dỡ bỏ theo quy định của WTO.
(2) Mức thuế chống bán phá giá cao kết hợp cùng nỗi lo nợ nần mà quá
trình xem xét lại tạo ra cho các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giúp loại bỏ mặt hàng
có tính cạnh tranh cao ra khỏi thị trường Mỹ.
(3) Ngay cả khi mức thuế thấp nhưng thời gian hiệu lực kéo dài (có thể lên
tới 20 năm) cùng với nguy cơ tăng lên của mức thuế sau mỗi lần xem xét
lại hàng năm cũng sẽ là một trở lực lớn không dễ vượt qua.
Hơn thế nữa, tác động của luật chống bán phá giá đối với mặt hàng thuộc
diện điều tra không chỉ do mức thuế của DOC tạo ra mà còn do một số nhân tố
khác. Một trong các nhân tố đó là:
Tác động của quá trình điều tra Một khi đã hình thành một vụ kiện bán phá giá thì hàng nhập khẩu thuộc
diện điều tra sẽ bị ảnh hưởng ít nhất là trong suốt quá trình điều tra. Trước hết,
quá trình điều tra sẽ tạo ra phản ứng của các nhà nhập khẩu Mỹ và/hoặc các nhà
xuất khẩu nước ngoài trong việc dự đoán mức thuế sẽ được áp dụng sau khi có
phán quyết chính thức, cũng như dự đoán lượng tiền phải ký quỹ một khi có kết
luận sơ bộ của DOC (xem mục C 2.2.2 Chương I). Những dự đoán này vì thế sẽ
làm lượng hàng nhập khẩu giảm mạnh. Việc giảm mạnh của hàng nhập khẩu sẽ
kéo dài trong suốt thời gian còn lại của quá trình điều tra, chừng nào vẫn có lý
do để tin rằng vụ kiện sẽ kết thúc bằng phán quyết chính thức rằng : Có hành vi
bán phá giá và có thiệt hại vật chất. Trên thực tế, ảnh hưởng của quá trình điều
tra đã được báo chí Mỹ nhắc đến rất nhiều. Ví dụ như trong một vụ kiện bán phá
giá mà Hiệp hội Dệt kim và Quần áo Thể thao Mỹ kiện các nhà sản xuất áo len
Hong Kong, Hàn Quốc, và Đài Loan, phán quyết sơ bộ “Có hành vi bán phá
giá” đã được đưa ra ngay vào thời điểm các đại lý bán lẻ ở Mỹ chuẩn bị đặt hàng
nhập khẩu lô quần áo cho mùa thu. Và kết quả là các đại lý Mỹ lập tức dừng
việc nhập khẩu lại và chuyển sang mua hàng của các nhà sản xuất nội địa, do sự
không chắc chắn về mức giá trong tương lai ( Thời báo NewYork, 24/4/2000, Tr.
C1).
Những tác động về mặt tâm lý như trên là rất bất lợi cho bên bị đơn vì chưa
cần biết kết quả chính thức của vụ kiện sẽ như thế nào, mà chỉ cần biết rằng mặt
hàng nhập khẩu trên có nguy cơ phải chịu thuế chống bán phá giá (vì bị kiện bán
phá giá), thì các kênh phân phối vào thị trường Mỹ đã bị đóng lại đối với mặt
hàng đó. Đây là một bài học kinh nghiệm cho các nhà xuất khẩu bởi các nhà
xuất khẩu cần hiểu rằng: Bản thân các đối thủ nội địa Mỹ cũng hiểu được những
tác động mà quá trình điều tra có thể tạo ra đối với hàng hoá nhập khẩu. Nên,
trong những giai đoạn khó khăn khi mà nhu cầu sụt giảm và khả năng tận dụng
năng suất thấp, nhằm tránh những cuộc chiến về giá khốc liệt mà phần thắng
chưa chắc đã thuộc về phía mình, các đối thủ nội địa Mỹ sẽ viện đến luật chống
bán phá như một giải pháp tình thế. Điều này có nghĩa là các đối thủ Mỹ sẽ đệ
đơn kiện bán phá giá mà không cần biết trên thực tế có tồn tại hành vi bán phá
giá hay không và cũng không trông đợi DOC đưa ra một mức thuế chống bán
phá giá. Hành động này chí ít sẽ giúp làm tăng mức giá cũng như làm tăng thị
phần cho các nhà sản xuất nội địa Mỹ trong giai đoạn điều tra bất kể thuế chống
bán phá giá có được áp dụng hay không. Như vậy toàn bộ ảnh hưởng của quá
trình điều tra, hiểu theo cách này, sẽ là “lời đe doạ” trừng phạt đối với các nhà
xuất khẩu nước ngoài nếu họ đưa ra một mức giá quá cạnh tranh. Và lời đe doạ
đó sẽ có hiệu lực bằng cách đệ đơn kiện.
Hơn thế nữa, việc đệ đơn kiện và việc điều tra của DOC và USITC còn có
tác động về mặt tâm lý đến bản thân nhà xuất khẩu. Rõ ràng là với một nhà xuất
khẩu không nắm rõ quy trình tiến hành cũng như các thông tin liên quan đến
việc xử lý bán phá giá, đồng thời thị trường Mỹ là thị trường duy nhất của loại
sản phẩm mà họ sản xuất, thì việc bị kiện bán phá giá quả thực là một điều đáng
lo ngại. Lợi dụng yếu tố tâm lý đó, các nhà sản xuất nội địa Mỹ có thể ràng buộc
nhà xuất khẩu trên vào các thoả ước theo đó nhà xuất khẩu sẽ chỉ xuất hàng của
mình tại một mức giá nhất định. Các thoả ước như vậy được luật pháp Mỹ mà cụ
thể là Học thuyết Noerr-Pennington thuộc bộ luật chống độc quyền cho phép và
do đó được luật pháp Mỹ bảo vệ.
Như vậy, qua việc nghiên cứu quy định và thực tiễn chống bán phá giá của
Mỹ, các nhà xuất khẩu cần phải ý thức được rằng : Luật chống bán phá giá nói
chung và luật chống bán phá giá của Mỹ nói riêng có những ảnh hưởng rất
nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và do
vậy đòi hỏi các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu cần cẩn trọng khi tham gia vào
thương mại quốc tế trong bối cảnh các hàng rào thương mại cổ điển đang dần
được dỡ bỏ và luật chống bán phá giá nổi lên như một sự thay thế hữu hiệu.
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán
phá giá
Một điều hiển nhiên là các nhà xuất khẩu luôn là những người bị động
trong các vụ kiện bán phá giá. Sự bị động đó một phần là do nhà xuất khẩu là
người bị kiện chứ không phải là người đi kiện. Tuy nhiên, chính sự lạ lẫm trước
những quy định phức tạp của luật chống bán phá giá cũng như cách thức tiến
hành của một vụ kiện bán phá giá mới là yếu tố cơ bản tạo nên sự bị động đó.
Chính sự bị động đó đã khiến nhà xuất khẩu đôi khi phải chịu những thiệt thòi
không đáng có, và bỏ qua những cơ hội để giành phần thắng. Nhằm hạn chế tình
trạng bị động trên cũng như hạn chế nguy cơ bị kiện bán phá giá, các nhà xuất
khẩu cần thực hiện một số giải pháp sau.
2.1.1 Nghiên cứu kỹ thị trường
Việc nắm rõ thị trường mục tiêu, nắm rõ các điều kiện cạnh tranh, các đối
thủ, điểm mạnh và điểm yếu của bản thân có lẽ là vấn đề cơ bản đối với tất cả
các doanh nghiệp khi có ý định xuất khẩu sản phẩm của mình sang một thị
trường mới. Và đối với vấn đề bán phá giá, công việc này cũng hết sức cần thiết.
Ngoài các yếu tố, thông số thuộc về thị trường, nhà xuất khẩu cần nắm rõ những
thông tin liên quan đến luật chống bán phá giá như các quy định của luật chống
bán phá giá, cách thức và trình tự tiến hành một vụ kiện bán phá giá, yêu cầu đối
với các bên liên quan,… Việc nắm vững những yếu tố trên sẽ giúp nhà xuất
khẩu hiểu rõ hơn về bản chất của luật chống bán phá giá, từ đó xây dựng những
chính sách cụ thể nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng của luật chống bán phá giá đến
hoạt động xuất khẩu và kinh doanh trên thị trường Mỹ. Hơn thế nữa, việc nắm
vững bản chất của luật chống bán phá giá sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu được
thế bị động một khi bị kiện bán phá giá.
2.1.2 Xây dựng một chính sách giá hợp lý
Trên cơ sở đã nghiên cứu kỹ thị trường Mỹ và các yếu tố liên quan khác,
nhà xuất khẩu cần xây dựng một chính sách giá hợp lý. Đây là một yếu tố hết
sức mấu chốt và cũng hết sức nhạy cảm bởi rõ ràng là việc bị kiện bán phá giá
đều xuất phát từ yếu tố giá cả của sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Việc
xây dựng một chính sách hợp lý quả thực không phải một chuyện đơn giản và
còn phải tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh và hoàn cảnh của nhà xuất khẩu,
tuy nhiên, về cơ bản một chính sách giá hợp lý nhằm tránh bị liên quan đến các
vụ kiện bán phá giá phải đáp ứng được một số tiêu chí sau:
(1) Đảm bảo được sự thống nhất về mức giá giữa các thị trường xuất khẩu
khác nhau, giữa thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa
(2) Đảm bảo được tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở có
cân nhắc đến mức giá hợp lý-LTFV. Điều này có nghĩa là trước khi hình
thành một mức giá xuất khẩu, nhà xuất khẩu cần cân nhắc mức độ cạnh
tranh của mức giá đó tại thị trường nước nhập khẩu, khả năng thoả mãn thị
trường của mức giá đó (xác định lượng cung – cầu của mức giá đó) và mức
lợi nhuận mà mức giá đó đem lại. Tuy nhiên có một vấn đề khi thực hiện
mục tiêu này : đó là áp lực cạnh tranh giữa các công ty nội địa của nước
xuất khẩu với nhau sẽ đẩy mức giá xuất khẩu xuống thấp. Do đó cần phải
liên kết các công ty trong cùng một mặt hàng lại với nhau để tránh sự cạnh
tranh không cần thiết dẫn đến thiệt hại cho tất cả các bên, một khi bị kiện
bán phá giá.
Điểm mấu chốt để thực hiện được hai tiêu chí này đó là yếu tố thông tin.
Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam luôn gặp phải vấn đề thiếu thông
tin khi xúc tiến công việc kinh doanh của mình. Bản thân các doanh nghiệp khó
có thể tự thu thập đủ thông tin mà mình cần. Do đó cần có sự hỗ trợ từ các tổ
chức khác như Cục Xúc tiến Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam, Hội đồng Thương mại Việt – Mỹ,…
2.1.3 Đa dạng hoá sản phẩm
Đây cũng là một biện pháp để hạn chế tầm ảnh hưởng của luật chống bán
phá giá đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Việc đa dạng hoá sản phẩm
không chỉ phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu của mỗi doanh nghiệp mà
còn giúp doanh nghiệp tận dụng thị trường và giảm nguy cơ bị kiện bán phá giá.
Điều này thể hiện ở chỗ thay vì dồn tất cả các yếu tố đầu vào vào một chủng loại
sản phẩm nhất định, doanh nghiệp có thể dàn các yếu tố này vào nhiều chủng
loại khác nhau, tạo cho mỗi chủng loại một đặc tính khác nhau, do đó có thể bán
ở các mức giá khác nhau với những thương hiệu khác nhau. Trước hết nếu khối
lượng đầu vào là không đổi (lượng nguyên liệu là không đổi) thì khối lượng đầu
ra trên mỗi chủng loại sản phẩm sẽ giảm đáng kể tỉ lệ theo số lượng các chủng
loại. Ví dụ như trong trường hợp cá Tra và cá Basa của Việt Nam, thay vì chỉ
xuất khẩu sang Mỹ 30 tấn các sản phẩm cá chưa chế biến, nhà xuất khẩu có thể
đa dạng hoá sản phẩm bằng cách xuất 10 tấn cá chưa chế biến, 10 tấn cá bán chế
biến (các sản phẩm như cá tẩm gia vị) và 10 tấn cá đã chế biến (các sản phẩm
như cá hộp). Việc dàn trải ra nhiều chủng loại sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ bị
kiện bán phá giá do khối lượng sản phẩm nhỏ hơn sẽ làm giảm khả năng bị kiện
gây thiệt hại cho nền sản xuất Mỹ và có thể được coi là Hàng nhập khẩu không
gây ảnh hưởng (như đã trình bày trong Chương I, sản phẩm có kim ngạch nhập
khẩu nhỏ hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó của Mỹ).
2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá
Sẽ thật phóng đại nếu đưa ra được các giải pháp để chắc chắn giành phần
thắng trong các vụ kiện bán phá giá của Mỹ, bởi như đã trình bày ở trên, luật
chống bán phá giá của Mỹ được xây dựng không phải chỉ như chính quyền Mỹ
tuyên bố là để loại bỏ những gian lận trong thương mại, tạo một môi trường
cạnh tranh bình đẳng mà sâu xa, đây là một công cụ để bảo hộ nền sản xuất Mỹ.
Chính bởi lẽ đó, sẽ rất khó khăn để có thể giành phần thắng một khi đã bị kiện
bán phá giá. Nhưng khó khăn không có nghĩa là không có hy vọng bởi thực tế
đã chứng minh rằng : vẫn có những vụ kiện mà phần thắng thuộc về bên bị đơn,
tức là các nhà xuất khẩu. Điều quan trọng là các nhà xuất khẩu cần phải nắm
được quy trình thủ tục cũng như cách thức theo hầu một vụ kiện bán phá giá. Và
sau đây là một số điều, tạm coi là giải pháp tình thế, mà các nhà xuất khẩu cần
lưu ý khi bị kiện bán phá giá
2.2.1 Tham gia một cách đầy đủ và hợp tác dưới sự cố vấn của các
chuyên gia
Một điều đầu tiên quan trọng khi bị kiện bán phá giá là tham gia vào quá
trình điều tra của DOC bởi theo quy định của luật chống bán phá giá Mỹ: trong
trường hợp nhà xuất khẩu nước ngoài từ chối tham gia vào quá trình điều tra và
không trả lời Bảng câu hỏi mà Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC)
đưa ra, thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) không có chọn lựa nào khác là sử
dụng những thông tin sẵn có mà DOC có thể tiếp cận được để tính toán mức bán
phá giá. Và trong phần lớn các trường hợp, những thông tin này là những thông
tin do bên nguyên đơn cung cấp hoặc từ tài liệu của các vụ kiện trước đó. Việc
DOC sử dụng những thông tin này sẽ rất bất lợi cho bên bị đơn bởi những thông
tin này không thể phản ánh đúng tình hình và thường là thiên vị về phía bên
nguyên đơn, do đó khả năng DOC phát hiện ra hành vi bán phá giá càng khả dĩ
hơn.
Cũng do sự không hợp tác hoặc không hợp tác đầy đủ mà USITC cũng sẽ
đưa ra phán quyết rằng : Hành vi bán phá giá trên gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại cho một ngành sản xuất của Mỹ.
Ngoài ra cũng có một vấn đề khác cần lưu ý là : Hợp tác với DOC và
USITC như thế nào. Việc trả lời các câu hỏi mà USITC đưa ra, cũng như cung
cấp những thông tin mà DOC yêu cầu không phải là một chuyện đơn giản. Luật
chống bán phá giá của Mỹ được soạn thảo ra là nhằm mục đích bảo vệ nền sản
xuất nội địa của Mỹ nên bất kỳ một sai sót nào trong việc đáp ứng các yêu cầu
mà hai cơ quan trên đưa ra cũng có thể dẫn đến việc phải chịu thuế chống bán
phá giá. Chính vì điều này mà các doanh nghiệp cần có sự cố vấn của các
chuyên gia. Với sự cố vấn của các chuyên gia, các doanh nghiệp sẽ biết cần phải
trả lời các câu hỏi chi tiết đến mức nào và cũng sẽ biết được khả năng thẩm tra
thông tin của DOC ở mức độ nào.
2.2.2 Cố gắng giành phần thắng ngay ở giai đoạn điều tra sơ bộ
Một điểm cũng hết sức quan trọng là cần tận dụng mọi cơ hội để giành
phần thắng ngay từ đầu. Đối với các nhà sản xuất Mỹ, để có thể giành phần
thắng trong một vụ kiện bán phá giá, họ phải đệ trình đơn kiện lên DOC và
USITC, đồng thời phải chứng minh được hai điểm :
� Chứng minh sự tồn tại một mức bán phá giá cao với DOC
� Chứng minh có thiệt hại vật chất hoặc có đe dọa thiệt hại vật chất với
USITC
Một khi các nhà sản xuất Mỹ chứng minh được hai điều trên và giành được
phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ thì phần thắng sẽ chắc chắn thuộc về
họ bởi giai đoạn điều tra chính thức của DOC và USITC gần như chỉ mang tính
chất thủ tục. Trong trường hợp này, nhà xuất khẩu chỉ có thể trông chờ đạt được
một mức thuế thấp trong giai đoạn xem xét lại.
Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu có ba cách để giành được phần thắng trong
giai đoạn điều tra sơ bộ. Đó là:
� Giành phần thắng tại USITC, tức là USITC tuyên bố rằng: việc bán tại
mức giá thấp hơn mức hợp lý-LTFV không gây thiệt hại hoặc đe doạ
gây thiệt hại đối với ngành sản xuất Mỹ
� DOC phát hiện một mức bán phá giá thấp
� Đạt được thoả ước đình chỉ đối với chính quyền Mỹ
Việc giành phần thắng đồng nghĩa với việc có thể tiếp tục xuất khẩu sản
phẩm sang Mỹ. Còn việc thua quả thật là một thảm hoạ. Một khi nhà sản xuất
Mỹ giành phần thắng, DOC sẽ áp dụng một mức thuế chống bán phá giá và mức
thuế này có thể kéo dài vô cùng, tức là từ 10 đến 20 năm. Điều này có thể được
minh chứng qua một sản phẩm hoá chất của Trung Quốc, chất Barium Chloride.
Việc nhập khẩu chất này vào Mỹ đã bị kiện bán phá giá vào năm 1983 và kết
quả là chất này đã phải chịu một mức thuế chống bán phá là 62.5% cho đến năm
1999, sau nhiều lần xem xét lại USITC quyết định huỷ bỏ mức thuế cũ nhưng
đồng thời đưa ra một phán quyết khác, đó là tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá
giá đối với sản phẩm này cho đến năm 2005. Như vậy là thuế chống bán phá giá
đối với sản phẩm Barium Chloride sẽ tồn tại hơn 20 năm.
Như đã trình bày ở trên, có ba cách để có thể giành phần thắng trong các vụ
kiện bán phá giá. Tuy nhiên, việc giành phần thắng, dù là ở DOC hay USITC,
đều rất khó khăn. Nhưng với sự giúp đỡ của các chuyên gia, chúng ta vẫn có thể
hy vọng vào khả năng giành phần thắng
A. Giành được mức bán phá giá thấp tại DOC
Trong hơn 80% số vụ kiện bán phá giá, DOC kết thúc điều tra bằng việc
phát hiện ra hành vi bán phá giá và áp dụng một mức thuế chống bán phá giá
dựa trên mức bán phá giá đó. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ liệu mức thuế mà DOC
đưa ra có đủ thấp để nhà xuất khẩu tiếp tục xuất khẩu sản phẩm của mình sang
thị trường Mỹ.
Rõ ràng là việc giành được một mức thuế thấp là rất khó khăn, đặc biệt là
đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Cũng giống như đối với Trung Quốc, DOC
không sử dụng các mức chi phí thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam để tính
toán mức bán phá giá bởi DOC coi Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường,
tức là, quốc gia mà tại đó chính phủ, chứ không phải thị trường, xác định mức
giá hàng hoá và kiểm soát nền kinh tế, cũng như các mối quan hệ kinh tế giữa
các công ty. Mặc dù, đã có rất nhiều thay đổi đối với nền kinh tế Việt Nam,
nhưng DOC không nhận biết được những thay đổi này và cũng do có những áp
lực về mặt chính trị từ phía chính quyền Mỹ buộc DOC phải không thừa nhận
Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.
Kết quả là, DOC chỉ sử dụng giá bán tại Mỹ của các nhà xuất khẩu, chứ
không sử dụng các dữ liệu về chi phí thực tế của họ. DOC yêu cầu nhà xuất
khẩu cung cấp thông tin về các yếu tố đầu vào, cụ thể là về mức nguyên liệu thô,
mức nhân công và mức năng lượng mà nhà xuất khẩu cần để sản xuất một đơn
vị sản phẩm thuộc diện điều tra. DOC sau đó sẽ sử dụng thông tin về giá của các
yếu tố đầu vào đó được công bố trong các tài liệu chính thức của một nước thứ
ba cùng trình độ phát triển và có nền kinh tế thị trường, chẳng hạn như Ấn Độ
hoặc Indonesia, để xác định giá trị của các yếu tố đầu vào trên (Trong vụ kiện cá
Tra và cá Basa của Việt Nam, DOC đã quyết định chọn Bangladesh làm nước
thay thế).
Phương pháp thay thế như thế này có thể dẫn đến một mức bán phá giá rất
cao. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu vẫn có cơ hội giành được tỉ lệ bán phá giá
thấp. Nếu tỉ lệ đó là 0%, giống như một số sản phẩm của Trung Quốc đã đạt
được (nhựa PVA), thì đây là tình huống khả quan nhất bởi nhà xuất khẩu sẽ
được giải phóng khỏi thuế chống bán phá giá và sẽ không phải đối phó với quá
trình xem xét lại mà DOC và USITC tiến hành hàng năm. Nếu tỉ lệ bán phá giá
là lớn hơn 2% và USITC xác định là có thiệt hại hoặc có đe doạ vật chất, thì rắc
rối chỉ mới bắt đầu bởi kết quả còn nằm ở giai đoạn xem xét lại.
Các nhà xuất khẩu thường không hiểu rằng, giai đoạn điều tra ban đầu của
DOC không quyết định mức thuế chống bán phá giá mà nhà nhập khẩu Mỹ phải
trả. Giai đoạn điều tra ban đầu chỉ đơn giản xác định mức tiền ký quỹ mà nhà
nhập khẩu Mỹ phải nộp cho Cục Hải quan Mỹ khi nhập khẩu sản phẩm vào Mỹ.
Một khi có yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá của DOC, thì một năm sau
đó, trong quá trình xem xét lại, DOC mới xác định mức thuế chống bán phá giá
mà nhà nhập khẩu phải trả. Nếu Nếu DOC xác định mức thuế chống bán phá giá
thực tế thấp hơn mức tiền ký quỹ, thì nhà nhập khẩu sẽ được nhận lại số tiền
chênh lệch cộng với một khoản tiền lãi từ Cục Hải quan Mỹ. Trong trường hợp
ngược lại, nhà nhập khẩu sẽ phải thanh toán số tiền chênh lệch trên cộng với
một khoản tiền lãi.
Đã có rất nhiều trường hợp nhà nhập khẩu Trung Quốc do đạt được một
mức bán phá giá thấp nên đã không tham gia vào quá trình xem xét lại và để cho
DOC tự thẩm tra các thông tin mà nhà xuất khẩu cung cấp. Kết quả là mức bán
phá giá tăng lên gấp 3-4 lần. Việc tăng đột ngột của mức bán phá giá đồng nghĩa
với việc tăng lên của mức thuế chống bán phá giá và điều này có thể khiến các
nhà nhập khẩu Mỹ phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Mức bán phá giá tìm được
trong giai đoạn xem xét lại cũng chính là mức thuế chống bán phá giá đối với
các lô hàng nhập khẩu trong tương lai, vì vậy một mức thuế chống bán phá giá
cao ở giai đoạn xem xét lại sẽ có thể đóng cửa hoàn toàn thị trường Mỹ đối với
nhà xuất khẩu. Do vậy vấn đề mấu chốt không chỉ là giành được một mức bán
phá giá thấp ở DOC trong giai đoạn điều tra ban đầu mà còn phải giành được cả
một mức bán phá giá thấp trong giai đoạn xem xét lại được tiến hành hàng năm.
Điều này có nghĩa là khi nào nhà xuất khẩu vẫn còn ý định xuất hàng sang thị
trường Mỹ thì họ vẫn phải tiếp tục theo đuổi vụ kiện chống bán phá giá và
đương nhiên vẫn phải trả tiền án phí và tiếp tục nguy cơ bị mất thị trường Mỹ.
B. Thoả ước đình chỉ
Tương tự như quá trình xem xét lại, việc đạt được một thoả ước đình chỉ
cũng có cái giá của nó. Như đã trình bày ở trên, rất khó có thể đạt được thỏa ước
đình chỉ. Trong số hơn 80 vụ kiện bán phá giá đối với Trung Quốc, DOC chỉ
thực hiện thoả ước đình chỉ trong 2 trường hợp : Sản phẩm mật ong và thép
Carbon1. Ngay cả trong vụ kiện cá Tra và cá Basa của Việt Nam, mặc dù chính
phủ Việt Nam đã đề xuất một thoả ước đình chỉ với DOC nhưng sau nhiều lần
đàm phán, hai bên vẫn không thể đạt được thoả ước trên. Thỏa ước đình chỉ là
một thoả ước giữa chính quyền Mỹ và chính quyền nước xuất khẩu theo đó,
DOC dừng việc điều tra bán phá giá lại và đưa ra một mức hạn ngạch cùng với
một mức giá sàn cho mặt hàng thuộc diện điều tra.
Trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc, lý do để DOC đưa ra
một thoả ước đình chỉ là do tác động từ phía nhà nhập khẩu Mỹ và nhà sản xuất
Mỹ chuyên đóng gói sản phẩm mật ong để bán tại thị trường Mỹ. Nếu sản phẩm
mật ong của Trung Quốc bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi thị trường Mỹ thì các nhà
đóng gói bao bì Mỹ sẽ phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp. Các nhà đóng gói,
do đó, đã tạo được đủ áp lực để buộc chính quyền Mỹ đi đến một thoả ước với
chính quyền Trung Quốc.
Tuy nhiên, thỏa ước đình chỉ cũng có cái giá của nó. Sau khi có được thoả
ước đình chỉ trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc, các nhà xuất
khẩu Trung Quốc cảm thấy thực sự mệt mỏi bởi mức giá sàn mà DOC đưa ra là
quá cao và làm giảm đáng kể kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mật ong.
C. Giành phần thắng tại USITC
Nếu nhà xuất khẩu không thể giành phần thắng tại DOC, thì nên tận dụng
cơ hội để có thể giành phần thắng tại USITC. Giành phần thắng tại USITC cũng
rất khó nhưng vẫn còn dễ dàng hơn là giành phần thắng tại DOC bởi nếu có
được sự hợp tác hiệu quả giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà nhập khẩu Mỹ
thì có thể gây đủ áp lực để USITC đưa ra phán quyết rằng : Hành vi bán hàng ở
mức giá thấp hơn mức hợp lý LTFV không gây thiệt hại vật chất hoặc đe doạ
gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất Mỹ.
2.2.3 Chiến lược để giành phần thắng trong giai đoạn điều tra ban đầu.
Dưới đây là một vài biện pháp để các nhà xuất khẩu vận dụng vào ba cơ hội
trên nhằm tăng khả năng giành phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ và
chính thức của DOC và USITC
A. Kết hợp với nhà nhập khẩu.
Chiến lược quan trọng nhất mà các nhà xuất khẩu cần áp dụng để tăng cơ
hội giành phần thắng là kết hợp với nhà nhập khẩu Mỹ. Trong rất nhiều vụ kiện,
các nhà xuất khẩu đã quyết định đơn độc đối chọi lại bên nguyên đơn và cuối
cùng kết quả đã không được tốt đẹp. Mặc dù, nhà xuất khẩu nước ngoài có thể
nắm rõ các số liệu của họ, nhưng họ không nắm vững tình hình thực tế tại thị
trường Mỹ. Do đó, tại USITC, nhà nhập khẩu Mỹ là bên duy nhất có thể biện hộ
một cách hiệu quả chống lại sự tố cáo của bên nguyên đơn rằng : Hành vi bán
dưới mức hợp lý-LTFV gây thiệt hại cho ngành sản xuất Mỹ.
Trong một số vụ kiện sản phẩm của Trung Quốc như chất Antimony
Trioxide, thuốc nhuộm Sulfur, chất Silicon Carbide và đường Saccharin, các nhà
xuất khẩu Trung Quốc đã giành được phần thắng tại USITC bởi sự xuất hiện và
lời làm chứng của các nhà nhập khẩu Mỹ. Trong vụ kiện đường Saccharin,
chính do lời khai của nhà nhập khẩu mà USITC đưa ra phán quyết xử thắng cho
nhà xuất khẩu. Cụ thể, nhà nhập khẩu Mỹ đã biện hộ rằng : nếu sản phẩm đường
Saccharin của Trung Quốc bị loại ra khỏi thị trường Mỹ do thuế chống bán phá
giá, thì các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ nhập đường Saccharin của Hàn Quốc để thay
cho sản phẩm của Trung Quốc. Sản phẩm của Hàn Quốc tuy có chất lượng kém
hơn nhưng giá lại thấp hơn sản phẩm của Trung Quốc. Sau khi xem xét kỹ,
USITC thấy rằng việc áp dụng một mức thuế chống bán phá giá chẳng đem lại
lợi ích gì cho các nhà sản xuất Mỹ mà chỉ đem lại lợi ích cho các nhà xuất khẩu
Hàn Quốc, do đó quyết định xử thắng cho các nhà xuất khẩu Trung Quốc.
Ngoài ra, các nhà nhập khẩu Mỹ còn có thể thuyết phục các khách hàng của
họ, tức là người tiêu dùng hoặc các nhà sản xuất khác, biện hộ cho nhà xuất
khẩu tại DOC và USITC. Như trong trường hợp chất Silicon Carbide, nhà nhập
khẩu đã thuyết phục General Motors, nhà sản xuất xe hơi lớn nhất nước Mỹ và
cũng là một khách hàng lớn của sản phẩm Silicon Carbide, biện hộ cho nhà xuất
khẩu Trung Quốc. Lời biện hộ từ phía General Motors là một trong những lý do
chính khiến USITC xử thắng cho nhà xuất khẩu Trung Quốc.
Một lý do quan trọng khác để hợp tác với nhà nhập khẩu là yếu tố Chính trị.
Các nhà sản xuất Mỹ nhập khẩu nguyên liệu thô của nhà xuất khẩu có thể tạo ra
một số áp lực về chính trị đối với DOC và USITC bởi một phần việc làm của
nước Mỹ có thể phải phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu thô của nhà xuất
khẩu. Như đã đề cập ở trên, trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc,
chính các công ty sản xuất bao bì đóng gói đã tạo ra một số áp lực chính trị đáng
kể đối với DOC để đạt được thoả ước đình chỉ.
Trong vụ kiện thuốc nhuộm Sulfur của Trung Quốc, các nhà sản xuất Mỹ
đã nhập khẩu thuốc nhuộm từ Anh, Ấn Độ, và Trung Quốc, rồi trộn các loại
thuốc nhuộm này lại với nhau tại cơ sở của họ ở Nam Carolina. Do cơ sở này
thuê một số lượng nhân công đáng kể ở Nam Carolina, các nhà nhập khẩu và sản
xuất nói trên đã có thể thuyết phục hai thượng nghị sĩ đại diện cho bang này viết
một bức thư biện hộ cho nhà xuất khẩu Trung Quốc. Do tình hình việc làm tại
Mỹ vào thời điểm đó đang lâm vào thời kỳ khủng hoảng nên hai thượng nghị sĩ
này đã ủng hộ các nhà sản xuất nhập khẩu thuốc nhuộm của Trung Quốc. Những
áp lực chính trị đã khiến USITC dễ dàng hơn trong việc xử thắng cho nhà xuất
khẩu Trung Quốc.
Áp lực về chính trị biện hộ cho nhà nhập khẩu Mỹ và nhà xuất khẩu không
thể đảm bảo phần thắng cho nhà xuất khẩu nhưng nó giúp củng cố sự bình đẳng
trong “sân chơi”. Cụ thể, DOC sẽ không thể nặng tay với bên bị đơn nếu DOC
biết rằng có áp lực chính trị từ phía mình. Tuy nhiên, nếu thiếu đi nhà nhập
khẩu, nhà xuất khẩu sẽ không thể tạo được áp lực về chính trị và DOC sẽ dễ
dàng hơn khi đưa ra phán quyết có lợi cho ngành sản xuất nội địa Mỹ. Nếu
không có sự hợp tác của các nhà nhập khẩu Mỹ, thì rõ ràng nhà xuất khẩu sẽ
không thể có được những hỗ trợ như vậy.
Nhà nhập khẩu cũng có thể giúp nhà xuất khẩu tìm được những giá trị thay
thế thấp nhất, giúp làm giảm mức bán phá giá. Như đã trình bày trong Chương I,
trong các vụ kiện bán phá giá đối với các quốc gia có nền kinh tế được coi là phi
thị trường như Việt Nam, bên nguyên đơn sẽ tìm một quốc gia khác có nền kinh
tế thị trường để thay thế cho Việt Nam ( như đã đề cập, khi đệ đơn kiện, bên
nguyên đơn phải chứng minh được rằng có tồn tại hành vi bán phá giá, do đó
bên nguyên đơn cũng phải thu thập thông tin để xác định “giá trị thông thường”
giống như các bước mà DOC và USITC phải tiến hành). Hiển nhiên, để đảm bảo
phần thắng cho mình, bên nguyên đơn sẽ cố gắng tìm những giá trị thay thế cao
nhất có thể và sẽ thuyết phục DOC và USITC sử dụng những gì mà họ tìm thấy.
Điều này rõ ràng bất lợi cho nhà xuất khẩu. Với sự tham gia của nhà nhập khẩu,
bên bị đơn sẽ có thêm cơ hội thuyết phục DOC và USITC không sử dụng những
giá trị quá cao mà bên nguyên đơn tìm được. Điều này đã được minh chứng qua
một số vụ kiện đối với các sản phẩm của Trung Quốc. Đơn cử như vụ kiện chất
Sulfanilic Acid5. Trong vụ kiện này, công ty của Mỹ là Nation Ford đã yêu cầu
DOC sử dụng giá nội địa của chất Aniline tại Ấn Độ. Nếu DOC sử dụng mức
giá này thì mức bán phá giá sẽ tăng gấp ba. Tuy nhiên, công ty Clariant
Chemicals, một nhà nhập khẩu chất Sulfanilic Acid của Trung Quốc đã đưa ra
bằng chứng chứng minh được rằng các nhà sản xuất Ấn Độ cũng nhập khẩu chất
Aniline để sản xuất chất Sulfanilic Acid chứ không dùng chất Aniline nội địa.
Chính nhờ bằng chứng đó mà DOC đã quyết định sử dụng mức giá nhập khẩu
chất Aniline vào Ấn Độ chứ không sử dụng mức giá nội địa.
Hơn nữa ngay cả khi nhà nhập khẩu Mỹ không thể giúp tạo ra những hậu
thuẫn để nhà xuất khẩu có thể giành phần thắng tại USITC, thì họ vẫn có thể
giúp nhà xuất khẩu giảm được thuế chống bán phá giá trong giai đoạn xem xét
lại. Nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giúp đỡ bằng cách : sau khi DOC đã chính thức ban
hành yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá, nhà nhập khẩu sẽ đồng ý nhập
khẩu một vài chuyến hàng để làm cơ sở cho việc giảm mức bán phá giá trong
giai đoạn xem xét lại.
Bởi nhà nhập khẩu Mỹ là một nhân tố quan trọng đối với khả năng giành
thắng lợi trong các vụ kiện bán phá giá, nên các nhà xuất khẩu không nên tách
mình ra khỏi các nhà nhập khẩu. Thay vào đó, các nhà xuất khẩu nên kết hợp 5 Bài học rút ra từ những vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với Trung Quốc-William.E.Perry
với các nhà nhập khẩu Mỹ để tạo thành một liên minh cùng tham gia vào vụ
kiện. Nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giữ vai trò chủ đạo tại USITC, còn nhà xuất khẩu
giữ vai trò chủ đạo tại DOC. Trong rất nhiều trường hợp, các nhà nhập khẩu Mỹ
còn đồng ý chia sẻ tiền án phí đối với các nhà xuất khẩu, giúp các nhà xuất khẩu
giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính. Sự thiện chí của các nhà nhập khẩu không
chỉ đơn thuần xuất phát từ “tấm lòng” của họ mà thực ra là xuất phát từ chính
bản thân quyền lợi của họ. Các nhà xuất khẩu cần hiểu rõ rằng không phải ai
khác mà chính nhà nhập khẩu Mỹ là người phải gánh vác bất kỳ một sự tăng lên
nào của mức bán phá giá tìm được trong giai đoạn xem xét lại. Sự tăng lên của
mức bán phá giá trong giai đoạn xem xét lại đồng nghĩa với sự tăng lên trong
mức thuế chống bán phá giá chính thức và điều đó có nghĩa là nhà nhập khẩu
Mỹ đang nợ Cục Hải quan Mỹ một khoản tiền tương đương với mức tăng lên đó
(cộng với một khoản lãi). Chính bởi lý do này mà sẽ không khó khăn gì cho nhà
xuất khẩu để có được sự hợp tác của nhà nhập khẩu Mỹ.
B. Xác định rõ các yếu tố đầu vào
Khi trả lời bảng câu hỏi của DOC, một vấn đề quan trọng là phải xác định
rõ những yếu tố đầu vào cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Như đã
trình bày ở trên, đối với các nền kinh tế phi thị trường, Bộ Thương mại Hoa Kỳ
(DOC) không sử dụng các mức chi phí thực tế của nhà xuất khẩu mà chỉ sử
dụng các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất, tức là DOC chỉ cần biết để sản xuất
ra một đơn vị sản phẩm, nhà xuất khẩu cần sử dụng bao nhiêu nguyên liệu thô,
bao nhiêu nhân công, bao nhiêu năng lượng,…Việc kê khai cả những yếu tố đầu
vào không cần thiết có thể làm tăng mức giá trị thông thường mà DOC xác định
được, tạo thêm khả năng phát hiện ra hành vi bán phá giá. Do vậy, nhà xuất
khẩu cần xác định rõ những yếu tố đầu vào trực tiếp liên quan đến quá trình sản
xuất để tránh những ảnh hưởng không có lợi đối với bản thân nhà xuất khẩu khi
DOC xác định mức bán phá giá.
C. Chuẩn bị sẵn sàng
Sau khi DOC đưa ra phán quyết sơ bộ trong giai đoạn điều tra ban đầu hoặc
trước khi đưa ra phán quyết sơ bộ trong giai đoạn xem xét lại, DOC sẽ trực tiếp
đến khảo sát cơ sở của nhà xuất khẩu để thẩm tra các mức doanh số và các chi
phí mà nhà xuất khẩu đệ trình lên DOC. Trong giai đoạn này, các nhà xuất khẩu
cần hết sức nghiêm túc bởi nó có ảnh hưởng đến tính xác thực của các thông tin
mà nhà xuất khẩu cung cấp cũng như ảnh hưởng tới quan điểm của các điều tra
viên.
D. Thái độ đối với các điều tra viên
Một vấn đề chính khác là nhà xuất khẩu nên đối xử như thế nào đối với các
điều tra viên. Trong quá trình thẩm tra, các điều tra viên đương nhiên không
phải là bạn của các nhà xuất khẩu, nhưng cũng không phải kẻ thù. Các điều tra
viên được DOC tuyển dụng để thẩm tra độ chính xác của các thông tin mà nhà
xuất khẩu cung cấp cho DOC, tức là họ được trả lương để chứng thực sự hoài
nghi của DOC. Do đó, nhiệm vụ của các điều tra viên là phát hiện ra các sai sót,
nhưng chừng nào các sai sót đó là không đáng kể và nhà xuất khẩu tỏ ra có thiện
chí hợp tác thì các điều tra viên cũng sẽ có thể bỏ qua.
Mặt khác, cũng sẽ là một sai lầm nếu nhà xuất khẩu tỏ ra quá thân thiện với
các điều tra viên bởi sự thân thiện quá mức sẽ dễ dàng dẫn đến những sai lầm
trong việc tiết lộ các thông tin không có lợi cho nhà xuất khẩu.
E. Biện hộ tại USITC
Một sai lầm mà các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã mắc phải đó là không
tham dự buổi họp báo do USITC tổ chức. Một khi đã bị kiện bán phá giá, rất
nhiều nhà xuất khẩu và sản xuất của Trung Quốc muốn tới Mỹ nhưng họ thường
tới không đúng thời điểm.
Buổi họp báo của DOC thường không quan trọng. Vào thời điểm họp báo,
ban điều tra của DOC đã có được quyết định của mình và việc xuất hiện tại buổi
họp báo của DOC chẳng có một chút ảnh hưởng nào tới kết quả của vụ kiện.
Hoàn toàn ngược lại với buổi họp báo của DOC, buổi họp báo mà USITC
tổ chức là hết sức quan trọng và lời biện hộ của nhà xuất khẩu tại buổi họp báo
này có thể tạo ra sự khác biệt giữa việc thắng và thua kiện. Trong buổi họp báo
này, đại diện của USITC sẽ nghe lời biện hộ của bên nguyên đơn và bên bị đơn.
Điều mà USITC quan tâm trong buổi họp báo này là khả năng đe doạ gây ra các
thiệt hại vật chất. Trong phán quyết của mình, Uỷ ban Thương mại Quốc tế
(USITC) phải xác định xem liệu sản phẩm của nhà xuất khẩu có đe doạ gây thiệt
hại vật chất đối với ngành sản xuất Mỹ trong tương lai gần hay không và một
phần phán quyết này dựa vào thái độ của nhà xuất khẩu. Nếu các nhà xuất khẩu
tham dự buổi họp báo, thì sự xuất hiện và lời biện hộ của họ sẽ giúp USITC
khẳng định vững chắc hơn rằng : Hoạt động xuất khẩu của họ sẽ không đe doạ
ngành sản xuất Mỹ trong tương lai. Còn nếu các nhà xuất khẩu không tham dự
buổi họp báo, thì đối với USITC, hành động đó có thể coi là biểu hiện của
những mối đe doạ thiệt hại vật chất trong tương lai.
Đơn cử như vụ kiện chất Antimony Trioxide6, chính nhờ vào lời biện hộ
mạnh mẽ của một quan chức thuộc Bộ Thương mại Trung Quốc rằng : Chính
phủ Trung Quốc sẽ ban hành giấy phép xuất khẩu để bảo tồn nguồn dự trữ tự
nhiên, nên USITC đã thừa nhận rằng kim ngạch xuất khẩu chất Antimony
Trioxide của Trung Quốc sẽ không tăng cao và do đó không đe doạ tới ngành
sản xuất của Trung Quốc. Tóm lại, trong mỗi vụ kiện, việc tham gia và nỗ lực
tìm ra bằng chứng để chứng minh rằng sản phẩm của nhà xuất khẩu sẽ không đe
doạ ngành sản xuất Mỹ trong tương lai sẽ giúp nhà xuất khẩu có thêm cơ hội
giành phần thắng tại USITC và do đó giành phần thắng chung cuộc.
6 Bài học rút ra từ những vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với Trung Quốc-William.E.Perry
F. Hợp tác toàn diện và tận dụng mọi cơ hội để giành thắng lợi.
Sau khi quyết định tham gia vào vụ kiện, một số nhà xuất khẩu thường mắc
sai lầm trong việc không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà DOC đưa ra trong
Bảng câu hỏi, mà chỉ đưa ra những thông tin mà họ sẵn sàng trả lời. Điều này sẽ
có thể dẫn đến những bất lợi đối với nhà xuất khẩu. Trong vụ kiện cá Tra và cá
Basa của Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu không đáp ứng đầy đủ thông
tin mà DOC yêu cầu đã phải chịu một tỉ lệ bán phá giá chung là 63.88%, mức
cao nhất mà DOC phát hiện được ( mức bán phá giá của các doanh nghiệp Việt
Nam là từ 36.84% đến 63.88%). Trong khi đó, các doanh nghiệp như Công ty
Cổ phần Xuất nhập khẩu Thuỷ sản An Giang (Agifish), Công ty TNHH Vĩnh
Hoàn, Công ty TNHH Nam Việt, Công ty XNK Nông sản Cần Thơ
(CATACO),…, những công ty đã đáp ứng được các yêu cầu trả lời của DOC, đã
được hưởng mức bán phá giá riêng dựa trên các thông tin mà công ty đó cung
cấp. Hơn thế nữa, mức bán phá giá mà các doanh nghiệp này được hưởng thấp
hơn đáng kể so với mức bán phá giá chung.
Tỉ lệ bán phá giá áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm cá Tra và cá Basa sang thị trường Mỹ
Nhà sản xuất / Nhà xuất khẩu Tỉ lệ bán phá giá (%)
Agifish 44.76
Vĩnh Hoàn 36.84
Nam Việt 52.90
CATACO 45.55
Afiex 44.66
Cafatex 44.66
Đà Nẵng 44.66
Mekonimex 44.66
QVD 44.66
Việt Hải 44.66
Vĩnh Long 44.66
Tỉ lệ chung áp dụng cho các doanh
nghiệp khác
63.88
Trích từ bản thông báo về phán quyết chính thức của DOC (Ký hiệu : 3510-DS-P)
Ngoài ra, một sai lầm mà các nhà xuất khẩu thường hay mắc phải là không
tận dụng hết mọi cơ hội. Như đã trình bày ở trên, việc giành thắng lợi đồng
nghĩa với việc các nhà xuất khẩu có thể tiếp tục xuất khẩu sản phẩm của họ sang
thị trường Mỹ.
Nhưng các nhà xuất khẩu thường tin rằng cách tốt nhất để giành thắng lợi
một vụ kiện bán phá giá là giành được một mức bán phá giá thấp tại DOC. Nếu
nhà xuất khẩu giành được mức bán phá giá thấp nhất, họ có thể trở thành nhà
xuất khẩu duy nhất của chủng loại sản phẩm thuộc diện điều tra. Tuy nhiên,
chiến lược như vậy có thể tạo thêm khó khăn trong quá trình xem xét lại bởi đối
với các doanh nghiệp Việt Nam, DOC không sử dụng các mức chi phí thực tế để
tính mức bán phá giá mà sử dụng mức giá của nước thay thế. Việc dồn hết hy
vọng vào việc giành thắng lợi tại DOC sẽ khiến nhà xuất khẩu phải thất vọng
bởi chiến thắng ở DOC luôn rất khó khăn trong khi đó lại bỏ qua cơ hội chiến
thắng dễ dàng hơn ở USITC.
2.2.4. Chiến lược trong giai đoạn xem xét lại.
Một khi nhà xuất khẩu không thể giành phần thắng trong giai đoạn điều tra
ban đầu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ,
thì DOC sẽ áp dụng một mức thuế chống bán phá giá đối với nhà xuất khẩu đó.
Và các nhà xuất khẩu thường bỏ cuộc khi nhận được kết quả trên. Tuy nhiên,
như đã trình bày ở các phần trước, mức thuế chống bán phá giá mà DOC áp
dụng trong giai đoạn này chưa phải là mức thuế chính thức. Do vậy, các nhà
xuất khẩu vẫn còn có “tia hy vọng” trong giai đoạn xem xét lại.
A. Các chuyến hàng mẫu và quá trình xem xét định kỳ
Các nhà xuất khẩu có thể hạ mức bán phá giá xuống bằng cách xuất những
lô hàng mẫu. Những lô hàng này có thể chỉ có khối lượng đến một tấn, với mục
đích tạo cơ sở cho quá trình xem xét lại. Đây là một trong những lý do để hợp
tác với nhà nhập khẩu Mỹ. Nếu như các nhà xuất khẩu có thể tạo thành một liên
minh với các nhà nhập khẩu Mỹ, thì nhà nhập khẩu Mỹ sẽ có thể sẵn sàng tiếp
tục nhập hàng với số lượng thấp. Mặc dù, nhà nhập khẩu sẽ phải cân nhắc vấn
đề thuế chống bán phá giá nhưng cũng sẽ tương đối dễ dàng để thực hiện việc
này bởi thông thường, sau khi DOC áp dụng một mức thuế chống bán phá giá,
thì mức giá trên thị trường Mỹ sẽ tăng lên đáng kể. Đây là một xu hướng hoàn
toàn tất yếu do tác động từ thực tế khách quan lẫn yếu tố tâm lý. Do vậy, nhà
xuất khẩu sẽ có cơ hội tăng mức giá của mình và làm giảm mức bán phá giá.
Tuy nhiên chuyến hàng mẫu cần phải được tính toán về mọi mặt sao cho có
thể tạo ra một mức bán phá giá thấp nhất. Trước khi thực hiện chuyến hàng này,
các luật sư cần thảo luận với các nhà sản xuất để tìm cách giảm các yếu tố sản
xuất đầu vào. Thời gian của chuyến hàng này cũng phải được tính toán sao cho
chuyến hàng “vào” thị trường Mỹ trước thời điểm tròn một năm áp dụng thuế
chống bán phá giá. Ví dụ, nếu yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá của DOC
có hiệu lực từ ngày 1/10/2001, thì chuyến hàng mẫu phải qua được Cục Hải
quan Mỹ trước ngày 1/10/2002. Nếu chuyến hàng mẫu đến muộn hơn thời điểm
này, thì nó sẽ không được sủ dụng làm cơ sở cho quá trình xem xét lại.
B. Nhà xuất khẩu mới
Nếu một nhà xuất khẩu thuộc quốc gia và thuộc mặt hàng chịu thuế chống
bán phá giá nhưng không tham dự vào quá trình điều tra ban đầu và không có
liên hệ gì với các nhà xuất khẩu thuộc giai đoạn điều tra ban đầu, thì nhà xuất
khẩu đó có thể yêu cầu tiến hành quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất
khẩu mới. Quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất khẩu mới có vẻ dễ
dàng hơn quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất khẩu đã tham gia vào
quá trình điều tra ban đầu. Sự dễ dàng hơn thể hiện ở chỗ : Trước hết, thay vì
phải đợi một năm, các nhà xuất khẩu mới có thể yêu cầu tiến hành xem xét lại 6
tháng một lần. Hơn thế nữa, chuyến hàng mẫu không cần phải “vào” Mỹ trước
thời điểm tròn một năm áp dụng thuế chống bán phá giá. Để có thể yêu cầu tiến
hành xem xét lại, nhà xuất khẩu cần đệ trình bằng chứng về việc giao dịch, như
hoá đơn hoặc hợp đồng, cùng với lời yêu cầu. Quá trình xem xét lại áp dụng cho
nhà xuất khẩu mới thường ngắn hơn quá trình xem xét lại thông thường và nhà
nhập khẩu những lô hàng của nhà xuất khẩu mới cũng chỉ phải ký quỹ một
khoản tiền thấp hơn mức thông thường (mức áp dụng cho các nhà nhập khẩu
nhập hàng của các nhà xuất khẩu đã tham gia vào quá trình điều tra ban đầu).
Do đó, rõ ràng có lợi thế đối với các nhà xuất khẩu mới.
2.2.5. Rẻ hơn không có nghĩa là tốt hơn
Một vấn đề của các nhà xuất khẩu đặc biệt là các nhà xuất khẩu Việt Nam,
đó là do sự eo hẹp về tài chính nên các nhà xuất khẩu thường thuê các luật sư
với mức thù lao thấp. Các nhà xuất khẩu đôi khi quên rằng các công ty luật cũng
là một loại hình kinh doanh, và đối với luật sư, thời gian là tiền bạc. Nếu mức
thù lao quá thấp, thì luật sư sẽ không thể quá chú tâm vào một vụ kiện mà phải
quan tâm đến các vụ kiện khác có mức thù lao cao hơn. Việc trả một mức thù
lao hợp lý có thể tạo điều kiện để các luật sư có cơ hội tìm kiếm được những
bằng chứng có lợi và khả năng thắng kiện sẽ cao hơn.
2.3 Nhóm các giải pháp khác
Ngoài hai nhóm giải pháp trên, nhà xuất khẩu còn có thể áp dụng một số
biện pháp khác nhằm đối phó với luật chống bán phá giá nói chung và luật
chống bán phá giá của Mỹ nói riêng.
2.3.1 Đa dạng hoá thị trường
Giải pháp này cần được các nhà xuất khẩu áp dụng nhằm hạn chế những
thiệt hại mà thuế chống bán phá giá tạo ra. Các nhà xuất khẩu cũng hiểu rằng
một khi DOC đã áp dụng một mức thuế chống bán phá giá cho sản phẩm của họ
thì điều đó có nghĩa là thị trường Mỹ đã gần như đóng cửa đối với sản phẩm của
họ đặc biệt là trong trường hợp nhà xuất khẩu nhận được một mức bán phá giá
cao. Và nếu như thị trường Mỹ là thị trường duy nhất cho sản phẩm của nhà xuất
khẩu thì tức là công việc kinh doanh của nhà xuất khẩu coi như đã chấm dứt.
Chúng ta có thể cảm nhận được điều này trong vụ cá Tra và cá Basa của Việt
Nam và cũng thấy được sự khó khăn đến nhường nào mà các bà con nông dân
phải đối mặt trong tình trạng khủng hoảng đầu ra cho sản phẩm cá Tra và cá
Basa của Việt Nam.
Dĩ nhiên, việc đa dạng hoá thị trường không phải là một công việc đơn giản
mà có thể muốn là muốn được ngay. Để đạt được điều này không chỉ có sự nỗ
lực của các doanh nghiệp trong việc đa dạng hoá sản phẩm để phù hợp với các
đặc điểm của từng thị trường khác nhau, mà còn cần có sự phối hợp nhịp nhàng
với Bộ chủ quản, với các cơ quan chức năng, có như vậy mới mong có được một
hiệu quả như mong muốn.
2.3.2 Xây dựng một thương hiệu riêng
Vấn đề thương hiệu giờ đây đã là một vấn đề chiến lược đối với các doanh
nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm nông nghiệp, vấn đề này
chưa nhận được sự quan tâm đúng mức.
Trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh ra thị trường nước ngoài, thương
hiệu không chỉ có tác dụng làm tăng giá trị của sản phẩm, tạo lòng tin cho người
tiêu dùng mà còn, đối với vấn đề bán phá giá, giảm bớt ảnh hưởng của mức thuế
chống bán phá giá. Cụ thể, khi sản phẩm có một thương hiệu riêng, nó sẽ được
dễ dàng phân biệt với các sản phẩm đồng loại có cùng xuất xứ. Điều đó, sẽ dễ
dàng hơn cho DOC trong việc xác định mức bán phá giá của nhà xuất khẩu đó
và cũng dễ dàng hơn cho USITC trong việc xác định mức độ thiệt hại vật chất
mà nhà xuất khẩu đó gây ra. Và nếu nhà xuất khẩu có thái độ hợp tác với hai cơ
quan trên thì hy vọng nhận được một mức bán phá giá thấp không phải là một
điều xa vời.
2.3.3 Luôn sẵn sàng với nguy cơ bị kiện bán phá giá
Như đã nói ở trên, với tình hình phát triển của việc sử dụng luật chống bán
phá giá hiện nay, thì việc các doanh nghiệp Việt Nam với các lợi thế về chi phí
đầu vào trở thành đối tượng thường xuyên của luật chống bán phá giá sẽ sớm trở
thành hiện thực, đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO. Do đó, việc các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu sẵn sàng chuẩn bị theo
hầu các vụ kiện bán phá giá sẽ không hề thừa chút nào.
Để có thể ở trong tư thế sẵn sàng, các nhà xuất khẩu cần chuẩn bị đầy đủ
các tài liệu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đơn cử như số liệu về
các chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất, các chi
phí về quản lý, chi phí tài chính và các khoản chi phí chung khác, số liệu về giá
cả các yếu tố đầu vào trên thế giới cũng như ở một số quốc gia có khả năng
được sử dụng làm thị trường thay thế cho Việt Nam,….
Việc chuẩn bị sẵn sàng sẽ hạn chế sự bỡ ngỡ cũng như những sai sót không
đáng có như trong vụ kiện cá Tra và cá Basa. Trong vụ kiện này, do không
chuẩn bị sẵn sàng, một số doanh nghiệp như công ty Nam Việt đã luôn chậm trễ
trong việc cung cấp các thông tin mà DOC và USITC yêu cầu, dẫn đến việc luôn
phải xin ra hạn. Hơn thế, các thông tin này là không đầy đủ và luôn phải bổ sung
trong suốt quá trình điều tra (trong trường hợp của công ty Nam Việt, công ty
này đã quên không khai báo một số yếu tố đầu vào như than dùng trong quá
trình chế biến thức ăn, trấu dùng trong quá trình sản xuất sản phẩm phụ,…).
Chính những sai sót này đã khiến bên nguyên đơn có cớ để công kích, tạo sự bất
lợi cho chúng ta.
Do đó, để tránh những bất lợi không đáng có, các doanh nghiệp và các nhà
xuất khẩu cần có sự chuẩn bị sẵn sàng với nguy cơ bị kiện bán phá giá.
KẾT LUẬN
Qua những nét sơ lược về một số khía cạnh liên quan đến bộ luật chống bán
phá giá của Mỹ được trình bày trong ba chương của bản khoá luận này, chúng
ta có thể kết luận rằng :
Luật chống bán phá giá của Mỹ là một bộ luật không hề đơn giản như khái
niệm bán phá giá và chống bán phá giá. Sự không đơn giản không chỉ thể hiện
trong các quy định và quy trình thủ tục xử lý một vụ kiện bán phá giá, mà còn
thể hiện trong bản chất của bộ luật này. Rõ ràng, bộ luật chống bán phá giá của
Mỹ không chỉ đơn thuần là một công cụ loại bỏ những hành vi cạnh tranh
không bình đẳng mà, sâu xa hơn, còn là một công cụ bảo hộ nền sản xuất của
Mỹ.
Đây sẽ là một trở lực lớn cho thương mại thế giới nói chung và đặc biệt là
cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình buôn bán với các bạn hàng Mỹ.
Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam, những doanh nghiệp hướng tới thị trường
ngoại quốc, cần có những đối sách thích hợp để đối phó với bộ luật chống bán
phá giá của Mỹ cũng như bộ luật chống bán phá giá của các quốc gia khác bởi
trong tương lai, khi các hàng rào thương mại cổ điển được dõ bỏ dần theo yêu
cầu của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, luật chống bán phá giá sẽ là một
công cụ đắc lực trong việc đối phó với hàng nhập khẩu, và do vậy, sẽ được sử
dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu.
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT DOC Bộ Thương mại Hoa Kỳ (Department of Commerce)
LTFV Mức giá thấp hơn mức hợp lý (Less than fair value)
NBER Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia
USITC Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ (US International Trade Council)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hướng dẫn về chống bán phá giá - UNCTAD - 4/2001
2. Các qui định về chống bán phá giá của Hoa Kỳ – Hội đồng
Thương mại quốc tế Hoa Kỳ ( USITC ) – 12/2002
1. Luật chống bán phá giá của Mỹ : Bộ lụât thương mại có quyền
lực nhất – Willliam E.Perry, Williams, Mullen, Christian&Dobbins
– 3/2003
2. Luật chống bán phá giá của Mỹ : Đối mặt với thực tế
Brink Lindsey – Trung tâm nghiên cứu chính sách thương mại
thuộc Viện CATO Hoa Kỳ – 1/2000
3. Những thiệt hại mà luật chống bán phá giá dành cho người Mỹ
– Dan Ikenson - Trung tâm nghiên cứu chính sách thương mại
thuộc Viện CATO Hoa Kỳ – 1/2000
4. Chống bán phá giá : Kinh nghiệm của Mỹ – Bài học cho
Indonesia –Gary C.Hufbauer – Viện kinh tế quốc tế – Bộ Công
nghiệp và Thương mại Indonesia
5. Bài học rút ra từ những vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối
với Trung Quốc- William E.Perry
6. Bằng cách nào các công ty Indonesia có thể giành phần thắng
trong các vụ kiện bán phá giá của Mỹ – William E.Perry - 5/2000
7. Những tranh chấp giữa các qui định về chống bán phá giá của
Mỹ với các qui định của WTO – Báo cáo của WTO - 9/2000